intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

46
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật học "Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam" trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về lễ hội; Thực trạng của quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến nay; Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG XUÂN CẢNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG XUÂN CẢNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN QUÂN HÀ NỘI, năm 2021
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn này được thực hiện tại Học viện Khoa học Xã hội Thành phố Đà Nẵng. Để hoàn thành Luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của quý thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và các tập thể trên địa bàn Thành phố Hội An. Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến các thầy cô, những người đã trực tiếp giảng dạy, đem lại cho tôi những kiến thức hữu ích trong những năm học qua. Xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội và Cơ sở Học viện Khoa học tại Thành phố Đà Nẵng đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình khóa học. Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Phòng Văn hóa thông tin, Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Thành phố Hội An đã nhiệt tình giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm, tạo điều kiện để tôi có được những thông tin, tài liệu quan trọng trong quá trình hoàn thành luận văn này. Cuối cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian tham gia học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Trân trọng cảm ơn!
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là bản luận văn Thạc sỹ “Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học, dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế và các tài liệu tham khảo đã công bố. Đề tài và các tư liệu được sử dụng trong Luận văn là không trung lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã được công bố
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI ............................................................ 9 1.1. Khái niệm, vai trò và nội dung của quản lý nhà nước về lễ hội ................ 9 1.2. Nội dung của quản lý nhà nước về lễ hội................................................. 14 1.3. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về lễ hội ......................................... 19 1.4. Các điều kiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội.... 20 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM ........... 23 2.1. Những yếu tố đặc thù của Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam tác động ảnh hưởng đến quá trình quản lý nhà nước về lễ hội ............................. 23 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến nay ........................................................... 27 2.3. Đánh giá chung hoạt động quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam .............................................................. 35 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY ................................................................................................................ 53 3.1. Bối cảnh mới tác động đối với quản lý nhà nước về lễ hội ở Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................................................................................ 53 3.2. Một số định hướng để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay ............................ 55
  6. 3.3. Một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay ................................................................................................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lễ hội là nét đẹp văn hóa lâu đời của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử, là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể. Cùng với các hoạt động văn hóa, Lễ hội còn là yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nó chính là phương tiện để quảng bá, giới thiệu văn hóa, con người, vùng đất với bè bạn trong nước và quốc tế. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, cùng với việc giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, công tác quản lý, tổ chức lễ hội đã có nhiều chuyển biến tích cực trong tư duy, nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội. Việc ban hành các chủ trương, chính sách quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội thường xuyên đã góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống, nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân. Ngày nay, quản lý Nhà nước về di sản văn hoá nói chung và đối với văn hóa lễ hội nói riêng có mối quan hệ thúc đẩy sự phát triển du lịch bền vững – nếu mô hình quản lý ấy đem lại hiệu quả. Theo đó, giá trị văn hóa lễ hội có thể được xem là sản phẩm du lịch đặc thù; và đây cũng là một trong những nhiệm vụ đặt ra trong đối với quản lý nhà nước nhằm vừa bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa lễ hội, vừa góp phần thúc đẩy du lịch phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Trong kho tàng hệ thống lễ hội truyền thống ở mọi vùng miền của nước ta, trên thực tế chỉ có một tỷ lệ không lớn là có thương hiệu và trở nên nổi tiếng, có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước; sự góp mặt của nó dưới sự quản lý hiệu quả của Nhà nước thì không những phát huy được tiềm năng của lễ hội ở địa phương sở tại, mà nó còn đóng góp quan trọng đem lại nhiều nguồn lực cho địa phương đó, đem lại lợi ích nhiều mặt cho cộng 1
  8. đồng và người dân (cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần)… Mặc dù quản lý về lễ hội gắn với du lịch hiện đang là xu hướng về nhu cầu tất yếu ở rất nhiều cộng đồng (ngoại trừ một số rất ít có các đặc trưng riêng/ có thể là cấm kỵ trong quan niệm/ tập quán tâm linh). Song với phần lớn các lễ hội của rất nhiều địa phương, trong đó có thành phố Hội An (Quảng Nam) hiện vẫn đang lúng túng trong quản lý và tổ chức các lễ hội, nhất là vẫn đang thiếu sự đầu tư trong nghiên cứu, định hướng, phát huy một số lễ hội dân gian truyền thống. Hơn nữa, trong thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa lễ hội trên địa bàn Hội An vẫn chưa giải quyết hài hòa, thỏa đáng đối với lợi ích của cộng đồng có văn hóa lễ hội; nói cách khác, là vẫn chưa xem văn hóa lễ hội (với tư cách là tiềm năng phát triển sản phẩm du lịch) là tiền đề và mục tiêu trong phát triển du lịch. Biểu hiện cụ thể là, nhiều cộng đồng ở địa phương không được hưởng lợi từ các sản phẩm du lịch mà Nhà nước và các doanh nghiệp đã khai thác từ nguồn vốn văn hóa phi vật thể (lễ hội) của họ. Không ít sản phẩm du lịch/ tổ chức sự kiện quảng bá du lịch mới chỉ tập trung mang lại lợi ích cho nhà doanh nghiệp kinh doanh du lịch, còn phía người dân (chủ thể trung tâm của văn hóa lễ hội) thì rất ít được hưởng lợi thỏa đáng để duy trì, phục hồi và bảo tồn bản sắc văn hóa lễ hội. Mặt khác, dưới áp lực của cơ chế thị trường khi có khuynh hướng thương mại hóa chỉ đơn thuần coi lễ hội truyền thống là cơ hội phát triển kinh tế, nhất là kinh doanh du lịch cũng đặt ra thách thức lớn về nguy cơ làm biến dạng bản sắc văn hóa truyền thống... Với hiện trạng của một số vấn đề đặt ra đó, vô hình chung gây tác động ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình bảo tồn di sản văn hóa lễ hội. Xuất phát từ lý do khách quan nêu trên cùng với lợi thế so sánh của thành phố Hội An, bản thân tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với mong 2
  9. muốn qua nghiên cứu này để có cách nhìn, nhận định rõ hơn những giá trị văn hóa lễ hội và các vấn đề còn bất cập ở địa bàn Thành phố Hội An, đồng thời vận dụng những kiến thức từ bản thân và các văn bản pháp luật để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với loại hình di sản này. Đó là yêu cầu cấp thiết đối với Thành phố Hội An hiện nay, nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong cộng đồng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với những sản phẩm lễ hội đặc sắc phục vụ du lịch, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lễ hội và các giá trị văn hóa của lễ hội từ lâu đã được rất nhiều nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu, lý giải cơ bản qua nhiều bài viết trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và nhiều công trình nghiên cứu văn hóa đã được xuất bản. Các tác giả đã mô tả chi tiết nội dung, hình thức tổ chức các lễ hội tiêu biểu trong cả nước; luận giải về nguồn gốc, lịch sử hình thành, mục đích, ý nghĩa, vai trò của lễ hội trong cuộc sống cộng đồng; nêu lên những quan niệm, khái niệm, phân tích cấu trúc của lễ hội và phân loại lễ hội theo từng đặc điểm, tính chất đối tượng của người nghiên cứu; giải mã hệ thống các biểu tượng của lễ hội và những biến đổi, phát sinh trong lễ hội qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử v.v.. Các vấn đề về sinh hoạt lễ hội cũng đã được nghiên cứu trao đổi, thảo luận trong nhiều cuộc hội thảo, hội nghị khoa học cấp quốc gia, quốc tế. a. Các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về lễ hội - Nguyễn Thị Hương Giang (2015), Những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước, Nxb Lý luận chính trị, 2015. - Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 3
  10. - Bùi Quang Thanh ( năm 2016), bài viết “Quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ởViệt Nam hiện nay”, đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15 tháng 3 năm 2016. - Bùi Hoài Sơn (năm 2007), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội. - Đoàn Thị Minh Tuyết, Học viện hành chính (2010), Bảo tồn lễ hội truyền thống – nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước. - Hoàng Nam (2005), Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. - Từ Thị Loan (2012), Bài viết “Một số mô hình quản lý, tổ chức lễ hội cổ truyển”, đăng trên Tạp chí Văn học Nghệ thuật số 340, tháng 10-2012. - Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (năm 2008), Kỷ yếu Hội thảo về chủ đề Quản lý di sản văn hóa thế giới và phát triển du lịch, Thành phố Hội An. b. Các công trình nghiên cứu về di sản văn hóa và về lễ hội - GS. Hoàng Vinh (năm 1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - GS. Trần Quốc Vượng (1986), bài viết “Lễ hội một cái nhìn tổng thể”, đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian, số 01 năm 1986. - GS. Ngô Đức Thịnh (năm 1993), bài viết “Những giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội hiện đại”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, Số 01. - GS. Ngô Đức Thịnh và PGS. Lê Hồng Lý (năm 1997), bài viết “Về tín ngưỡng lễ hội và sự phát triển hiện nay”, đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 11/199. - Dương Văn Sáu (năm 2006), bài viết “Khai thác lễ hội du lịch ở Việt 4
  11. Nam”, đăng trên Tạp chí Du Lịch Việt Nam, Số 01. - Mai Linh (năm 2003), bài viết “Kinh nghiệm tổ chức lễ hội và các sự kiện du lịch”, đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam, Số 08. - Bùi Hoài Sơn, Phạm Lan Oanh, Lê Hồng Phúc, Minh Anh, (2014), Xây dựng nếp sống văn minh tại điểm di tích và lễ hội, Nxb Văn hóa Dân tộc. - Bùi Hoài Sơn, Viện Văn hóa Thông tin, Lễ hội cổ truyền trong việc phát triển du lịch ở các làng ngoại thị Hội An. - Phùng Tấn Đông, (2004), Lễ hội cổ truyền ở Hội An và việc kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Hà Nội. - Nguyễn Chí Trung, (2005), Cư dân Faifo- Hội An, Trung tâm QLBTDT Hội An. - Trần Văn An, (2005), Di sản văn hóa, văn nghệ dân gian Hội An, Trung tâm QLBTDT Hội An. - Trung tâm QLBTDT Hội An, (2008), Một số lễ hội, lễ lệ ở Hội An. - Trung tâm QLBTDT Hội An, (2008), Nghề truyền thống Hội An. - Phòng VH&TT, (2007), Chuyên đề Lễ hội ở Hội An, tập san Văn hóa Hội An, số Xuân Đinh Hợi. Phần lớn các công trình nêu trên đã nghiên cứu khá chuyên sâu, mang lại những thông tin khoa học, đánh giá, phân tích một số lễ hội cổ truyền tiêu biểu và đề xuất các quan điểm bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội. Đây là những tư liệu, những cơ sở khoa học quý báu để tham khảo, kế thừa thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, dưới góc nhìn quản lý nhà nước thì đang còn nhiều vấn đề liên quan đến nội dung, hình thức, vai trò, chủ thể và đặc thù về lễ hội ở các địa phương cụ thể (trong đó có Thành phố Hội An) chưa được triển khai nghiên cứu toàn diện. Để bổ sung và khắc phục các thiếu sót đó trong hoạt động nghiên cứu cũng chính là lý do thôi thúc học viên lựa chọn thực hiện đề tài luận văn của mình. 5
  12. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiêncứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn, đó là: Cung cấp một số luận cứ khoa học của quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An; qua đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An (Quảng Nam) hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày làm rõ một số cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về lễ hội. - Phân tích làm rõ thực trạng công tác quản lý Nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đó là quản lý nhà nước về lễ hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. -Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 2008 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Phương pháp luận nghiên cứu được đề tài luận văn tiếp cận đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý nhà nước đối với lễ hội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu, đó là: 6
  13. - Phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu thứ cấp, khảo sát thực địa, thống kê so sánh, hệ thống hóa các lễ hội đang được tổ chức, các lễ hội đang bị thất truyền, mai một trên địa bàn Hội An, sử dụng phương pháp phân tích logic tổng hợp... - Phương pháp phân tích văn bản quy phạm pháp luật hiện hành trong quá trình quản lý nhà nước về lễ hội. - Phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc, tiếp cận phương pháp liên ngành khoa học xã hội nhân văn để nghiên cứu nhằm vận dụng những tri thức liên ngành khoa học quản lý, luật học, văn hóa học, du lịch học, nhân học... để phát hiện các vấn đề cơ bản có tính nguyên nhân của thực trạng; cũng như cung cấp luận cứ khoa học nhằm đề xuất giải pháp khả thi trong quản lý nhà nước về lễ hội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp vào việc hệ thống hóa khung lý luận tạo lập một số cơ sở khoa học trong việc tiếp cận quản lý lễ hội; và hệ thống hóa cơ sở chính sách pháp lý hiện hành trong công tác quản lý nhà nước về lễ hội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An những năm qua, xác định các nguyên nhân chủ yếu để cung cấp luận cứ thực tiễn nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An giai đoạn hiện nay. Đồng thời, kết quả luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý ở các cấp chính quyền địa phương về lễ hội. Ngoài ra, kết quả công trình này còn góp phần tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho các tầng lớp nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội; góp phần đẩy 7
  14. mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động lễ hội, nâng cao tính gắn kết cộng đồng; đồng thời tạo nên sản phẩm du lịch văn hóa, du lịch lễ hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 7. Kết cấu của luận văn Bên cạnh phần mở đầu, phần kết luận cũng như danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu bởi 3 chương, cụ thể là: Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về lễ hội Chương 2. Thực trạng của quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến nay Chương 3. Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội từ thực tiễn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay. 8
  15. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LỄ HỘI 1.1. Khái niệm, vai trò và nội dung của quản lý nhà nước về lễ hội 1.1.1. Khái niệm lễ hội Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng, được cấu thành bởi hai phần lễ và hội. “Lễ” là phần nghi thức, liên quan đến tín ngưỡng dân gian và tôn giáo chính thống, được tiến hành trong không gian thiêng và thường là với số người hạn chế (trước bàn thờ, khu vực sân đình, khu vực dâng cúng...). Lễ thiêng về mối quan hệ giữa người với giới siêu thực, giới tự nhiên, là động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, tưởng nhớ một sự kiện tôn giáo, với các hoạt động, ẩm thực và nghi lễ đặc sắc riêng, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là phần phát triển, nối tiếp với lễ liên quan đến sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Hội thiêng về mối quan hệ giữa người với người hơn, không gian mở rộng “trần tục” hơn (sân đình, bãi ruộng, đường làng...). Phần vui chơi hay trò diễn được thể hiện bằng nghệ thuật biểu diễn (ca múa, âm nhạc, động tác, ngôn từ biểu cảm...), bằng nghệ thuật tạo hình (màu sắc, hình khối, đường nét, trang phục, đạo cụ...của các nhân vật hội...). Tất cả trò diễn, trò chơi, đám rước...được hiểu là nằm trong hệ thống hội. Tuy mỗi phần lễ và hội có nội dung và ý nghĩa khác nhau nhưng đều có đặc trưng chung là sinh hoạt tập thể của cộng đồng người, lễ và hội là thực thể thống nhất không thể chia tách; “lễ và hội hòa quyện xoắn xít với nhau để cùng nhau biểu thị một giá trị nào đó của một cộng đồng. Trong lễ cũng có hội và trong hội đã có lễ” (Trần Bình Minh, Những tương đồng giữa các lễ 9
  16. hội cổ truyền ở Đông Nam Á, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 2000, Tr 120). Các loại hình lễ hội ở Việt Nam được hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư 15/2015/TT-BVHTTDL quy định về tổ chức lễ hội do Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ban hành. Theo đó, các loại hình lễ hội bao gồm: 1. Lễ hội dân gian là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh người có công với nước với cộng đồng; thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Quy định về tổ chức lễ hội do Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch ban hành. 2. Lễ hội lịch sử, cách mạng là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những danh nhân, sự kiện lịch sử, cách mạng. 3. Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch là lễ hội được tổ chức để quảng bá về văn hóa thể thao, du lịch bao gồm: festival, liên hoan văn hóa, thể thao, du lịch; tuần văn hóa, thể thao, du lịch; tuần văn hóa - du lịch; tháng văn hóa - du lịch; năm văn hóa - du lịch và các lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch khác. 4. Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức tại Việt Nam là lễ hội do tổ chức của Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam tổ chức nhằm giới thiệu giá trị văn hóa tốt đẹp của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Như vậy, lễ hội là một hiện tượng văn hóa được hình thành và phát triển trong những điều kiện địa lý, lịch sử, văn hóa và kinh tế nhất định, gắn với những đặc điểm văn hóa cộng đồng. Bên cạnh việc bảo lưu, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội đã và đang tạo nên những thói quen mới, lối sống mới, cách hành xử mới trước các sự kiện, dấu ấn lịch sử đương đại. Các loại hình lễ hội có yêu cầu về không gian, thời gian, lễ thức riêng. Lễ hội là di 10
  17. sản văn hóa quý của quốc gia, dân tộc. 1.1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về lễ hội Theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, cơ quan trong hệ thống chính quyền có trách nhiệm quản lý tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó có cả hoạt động lễ hội. Vì vậy, quản lý nhà nước về lễ hội là quá trình xây dựng đường lối, chính sách, định hướng, huy động, tổ chức, điều hành các nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra và các công việc liên quan đến lễ hội, đảm bảo hài hòa giữa các giá trị truyền thống với sự sáng tạo những giá trị mới và đáp ứng các mục tiêu về phát triển kinh tế, xã hội. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội bao gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp ngoài ra có các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý như Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường, Ban Tôn giáo Chính phủ... Theo Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 hiện nay quy định thì chủ thể tham gia quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hiện nay bao gồm: Cơ quan/ chủ thể Cơ quan/ chủ thể Cấp hành chính trực tiếp quản lý trực tiếp thực hiện Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Trung ương Chính phủ Chính phủ) UBND Tỉnh (Phó Chủ tịch Sơ Nội vụ Cấp Tỉnh phụ trách văn - xã) (Ban Tôn giáo) Phòng Nội vụ (Phó Trưởng UBND Huyện Cấp Huyện phòng phụ trách) hoặc (Chủ tịch UBND Huyện) phòng ban lễ hội, tôn giáo UBND Xã Công chức văn hóa – Xã Cấp Xã (Chủ tịch UBND Xã) hội 11
  18. Đối tượng của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội bao gồm: Các hoạt động lễ hội, mọi công dân tham gia hoạt động lễ hội và những phương tiện, cơ sở vật chất, tinh thần phục vụ cho hoạt động lễ hội truyền thống. 1.1.2. Một số đặc điểm của lễ hội * Tính thiêng Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính "thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân. Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm nghề, sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống. Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến. * Tính "cộng đồng" Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. 12
  19. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước. * Tính địa phương Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng... * Tính cung đình Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người dân. * Tính đương đại Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý... 13
  20. 1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về lễ hội Vai trò của quản lý nhà nước đối với lễ hội là định hướng, điều chỉnh lễ hội theo mục tiêu “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Với tính chất đặc thù, lễ hội mang trong mình rất nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể. Nó đóng vai trò hết sức cần thiết vì nó dẫn dắt và định hướng hoạt động lễ hội theo hướng tích cực, phát huy đồng thời khắc phục, sửa chữa những hạn chế phát sinh cũng như những hệ lụy mà hoạt động lễ hội gây ra. Chính vì vậy, công tác quản lý nhà nước về lễ hội đóng vai trò rất quan trọng, thể hiện ở những điểm sau: Quản lý nhà nước đối với lễ hội nhằm tạo điều kiện cũng như tạo một môi trường thuận lợi cho các lễ hội được diễn ra theo đúng mục đích và đúng bản chất. Bên cạnh đó, còn giúp cho lễ hội phát triển thông qua các chính sách bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, quyền về văn hóa – xã hội của con người. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến văn hóa, mà hoạt động lễ hội là một lĩnh vực trong đó. Quản lý nhà nước đối với lễ vội vừa có vai trò phát huy, bảo tồn, gìn giữ các tinh hoa văn hóa của lễ hội và vừa có vai trò bảo vệ hoạt động lễ hội, giúp lễ hội được diễn ra đúng với tinh thần vốn có của lễ hội đem đến giá trị tinh thần hết sức to lớn cho quần chúng nhân dân. 1.2. Nội dung của quản lý nhà nước về lễ hội 1.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách Để bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa lễ hội, việc xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch tổ chức lễ hội cụ thể là việc làm cần thiết và cấp bách. Công tác nghiên cứu phải có sự hiểu biết đầy đủ về các giá trị văn hóa của lễ hội, tính đặc trưng của mỗi lễ hội, từ đó tìm ra những phương thức, biện pháp quản lý hiệu quả nhất, vừa bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, vừa loại bỏ các yếu tố lạc hậu, chắc lọc những tinh hoa văn hóa 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2