ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THƢ

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH - QUA THùC TIÔN

HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THƢ

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH - QUA THùC TIÔN

HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan Luận văn “Thực hiện pháp luật về hộ tịch –

Qua thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” là công

trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình

bày trong Luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng dùng

bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận

văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Vì vậy tôi viết Lời cam đoan

này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Thị Thƣ

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT HỘ TỊCH ................................................................................ 6

1.1. Một số khái niệm ................................................................................ 6

1.1.1. Khái niệm hộ tịch ................................................................................. 6

1.1.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch ................................................................... 7

1.2. Vị trí, vai trò của đăng ký, quản lý hộ tịch .................................... 12

1.2.1. Những vấn đề cơ bản thực hiện pháp luật hộ tịch .............................. 12

1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan đăng ký hộ tịch chính quyền xã ... 25

1.2.3. Nội dung, trình tự, thẩm quyền đăng ký pháp luật hộ tịch xã ............ 29

1.3. Đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................. 40

1.3.1. Pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới......... 40

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 55

Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 57

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬTVỀ HỘ TỊCH

TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH ......................................................................... 58

2.1. Thực trạng pháp luật hộ tịch .......................................................... 58

2.1.1. Ưu điểm của pháp luật hộ tịch ........................................................... 58

2.1.2. Những hạn chế của thực hiện pháp luật về hộ tịch ............................ 63

2.2. Thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh ........................ 70

2.2.1. Vị trí địa lý của huyện Đông Anh ...................................................... 70

2.2.2. Thực trạng pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh ............................. 72

2.2.3. Ưu điểm của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn huyện

Đông Anh, thành phố Hà Nội ............................................................ 77

2.2.4. Những hạn chế của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn

huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .................................................. 81

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 86

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH ....... 87

3.1. Yêu cầu đổi mới hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch trong

giai đoạn mới ..................................................................................... 87

3.1.1. Về cải cách thủ tục hành chính .......................................................... 87

3.1.2. Về sự đòi hỏi chủ động sáng tạo của cơ quan đăng lý hộ tịch ........... 87

3.1.3. Về tính chính xác, khách quan, kịp thời ............................................. 88

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao

hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh ...... 89

3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch................................ 89

3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên địa

bàn huyện Đông Anh .......................................................................... 92

Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 103

KẾT LUẬN .................................................................................................. 104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật dân sự

CHDCND: Cộng hoà dân chủ nhân dân

ĐKHT: Đăng ký hộ tịch

ĐKKS: Đăng ký khai sinh

TTHC: Thủ tục hành chính

UBND: Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một

người từ khi sinh ra đến khi chết; việc đăng ký hộ tịch là việc của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền nhằm xác định các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con

nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ

tịch; xác định lại dân tộc; xác định lại giới tính. Đồng thời, căn cứ vào quyết

định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác

định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật;

chấm dứt việc nuôi con nuôi.

Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân

theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ

tịch của cá nhân đó. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân,

mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ tên, chữ đệm, ngày, tháng,

năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán, quan hệ cha, mẹ, con phải

phù hợp với giấy khai sinh của người đó.

Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền

các cấp nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó

bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình. Đồng thời, góp

phần xây dựng chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng, dân số

và kế hoạch hoá gia đình của một quốc gia.

Mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký kịp thời chính xác, mỗi một sự

kiện hộ tịch chỉ được đăng ký ở một nơi theo đúng thẩm quyền quy định. Cơ

quan quản lý hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng

dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ tịch cấp dưới, trường hợp phát hiện

1

thấy sai phạm phải chấn chỉnh và xử lý kịp thời.

Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng các sự kiện hộ tịch của người dân

và đồng thời đề xuất một số biện pháp, phương hướng nhằm đổi mới, nâng

cao công tác đăng ký hộ tịch cấp cơ sở, tác giả xin chọn đề tài “Thực hiện

pháp luật về hộ tịch – Qua thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội’’ ‎‎để

làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thực hiện pháp luật hộ tịch, đăng ký hộ tịch ở Việt Nam đã được nhiều

tác giả nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khoa học của các tác giả được

công bố như:

- Bộ tư pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, NXB Tư pháp Hà Nội;

- Bộ tư pháp (2013), “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hộ tịch và chứng

thực cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã”, NXB Hà Nội;

- Phạm Trọng Cường (2004), Về quản lý hộ tịch, NXB Chính trị quốc

gia Hà Nội

- Luật gia Thy Anh, “Hướng dẫn công dân thực hiện các thủ tục về hộ

tịch”, NXB Lao động, năm 2008;

- Nguyễn Thị Nga, “Quản lý nhà nước về hộ tịch tại huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội” (Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công), Học viện

hành chính quốc gia, năm 2014;

- Bài “Thực trạng đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch và yêu cầu

chuẩn hoá” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí dân chủ và pháp luật số

chuyền đề pháp luật hộ tịch năm 2013.

- Chuyên đề “Quản lý hành chính-Tư pháp” trong chương trình bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính của Học viện

hành chính.

- Giáo trình “Quản lý hành chính-Tư pháp” của Học viện hành chính,

2

nhà xuất bản Khoa học năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp hành chính)

- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên đề

thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”;

- Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý- Bộ Tư pháp (2000), “Bảo vệ

quyền trẻ em trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam”,

NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội;

Các công trình khoa học trên đã đề cập từng khía cạnh quản lý hộ tịch,

và nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác nhau ở những phương diện và

cấp độ khác nhau về pháp luật hộ tịch. Tuy nhiên, chưa có công trình nào

nghiên cứu về thực hiện pháp luật hộ tịch qua thực tiễn huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội. Đây cũng là lý do tiếp theo để tác giả lựa chọn nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ việc đổi mới để nâng cao chất

lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã trên cả phương diện lý luận và thực

tiễn. Trên cơ sở đó nêu những giải pháp chủ yếu, cần thiết, phù hợp nhằm góp

phần cải cách nền hành chính quốc gia, đặc biệt cải cách thủ tục hành chính.

Cải cách TTHC giúp giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh

nghiệp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; góp phần hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường, từ đó tạo niêm tin của người dân và doanh nghiệp vào

môi trường kinh doanh của đất nước, lòng tin của người dân đối với bộ máy

Nhà nước “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [18, Điều 2].

Luận văn tập trung nghiên cứu về việc thực hiện pháp luật hộ tịch tại

cấp cơ sở tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội do đó để đạt được mục đích

nghiên cứu luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ như sau:

- Làm rõ vấn đề lí luận pháp luật hộ tịch ở Việt Nam

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hộ tịch và thực hiện pháp luật

hộ tịch tại Huyện Đông Anh

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao

3

hiệu quả công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Hoạt động thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh, thành phố

Hà Nội

a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn

đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa

bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội từ đó giúp cho việc thực hiện đăng

ký và quản lý các sự kiện hộ tịch của cá nhân được đầy đủ, kịp thời, trung

thực, khách quan và chính xác.

b. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: từ khi Luật hộ tịch có hiệu lực (năm 2014) đến nay.

- Về không gian: thực hiện pháp luật hộ tịch ở huyện Đông Anh, thành

phố Hà Nội

- Về nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu những cơ sở lý luận và

thực tiễn về đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã.

Đánh giá thực trạng khó khăn, vướng mắc trong quá trình đổi mới để nâng

cao chất lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã trong giai đoạn hiện nay. Đưa

ra những vấn đề cần làm sáng tỏ trong hoạt động đổi mới để nâng cao chất

lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã đồng thời đề xuất các giải pháp nâng

cao chất lượng trong việc đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký hộ

tịch cấp cơ sở.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tuân thủ các nguyên tắc thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn, nguyên tắc xem xét khách quan, toàn diện, lịch sử

cụ thể, phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa, phương pháp phân tích,

4

tổng hợp và so sánh.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Với tính chất là một công trình nghiên cứu khoa học có sự liên kết giữa

phân tích, đánh giá lí luận với sự tổng hợp kết quả thực tiễn tại địa phương,

luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc đưa ra các kiến

nghị và giải pháp để thực hiện các chủ trương, chính sách về việc thực hiện

pháp luật hộ tịch cũng như việc đăng ký hộ tịch cấp cơ sở.

Với nội dung chuyên sâu và mang tính thực tiễn cao, luận văn này có

thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học

liên quan đến hộ tịch cũng nhưng các vấn đề pháp lý khác như hôn nhân

gia đình, quyền khai sinh cho trẻ, quyền được đảm bảo trong thực hiện

pháp luật về giám hộ....

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu theo 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lí luận về thực hiện pháp luật hộ tịch ở Việt Nam.

Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội.

Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hộ tịch trên

5

địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Khái niệm hộ tịch

Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử từ lâu đời (thời

nhà Trần). Trải qua các thời kỳ phong kiến, thực dân, hộ tịch luôn gắn với vấn

đề quản lý con người (“đinh”), bên cạnh vấn đề quản lý đất đai (“điền”), là

hai vấn đề đã từng được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống. Sau Cách

mạng Tháng Tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được Nhà

nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Theo tinh thần Sắc lệnh số 47/SL ngày

10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thể lệ đăng ký hộ tịch đã được quy

định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng ở Nam kỳ, Hoàng Việt hộ luật

được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc kỳ, tiếp tục được áp dụng ở Việt

Nam. Điều đó cho thấy công tác hộ tịch đóng vai trò hết sức quan trọng, luôn

được duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Theo từ điển tiếng Việt, “hộ tịch” là từ loại danh từ, có nghĩa là sổ ghi

bộ dân số. “Hộ tịch” là một trong những khái niệm đặc biệt của hệ thống khái

niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân từ “hộ tịch” là từ ghép gốc Hán và hoàn

toàn không dễ Việt hóa. Tuy nhiên, do khái niệm này được sử dụng từ lâu,

mang tính lịch sử và trở thành ngôn ngữ phổ thông, quen thuộc với nhận thức

của người dân, nên khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về

lĩnh vực này đã áp dụng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp

luật cho phép. Tức là, sử dụng khái niệm “hộ tịch” như một thuật ngữ chuyên

môn đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật ở các thời kỳ trước

đây. Tại Điều 1 Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo Nghị định số

6

764/TTG ngày 08/5/1956 của Thủ tướng Chính phủ quy định “bản điều lệ này

quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa

chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát

giấy chứng nhận các việc ấy”. Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo

Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 của Hội đồng Chính phủ năm 1961 cũng

quy định “đăng ký hộ tịch là ghi vào sổ của Ủy ban hành chính cơ sở những

việc sinh, tử, kết hôn và những việc có liên quan như nuôi con nuôi, nhận con

ngoài giá thú, nhận cha mẹ đẻ, thay đổi quốc tịch, thay đổi họ, tên, chữ đệm,

cải chính ngày, tháng, năm sinh...”. Tiếp đó, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP và

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cũng quy định hộ tịch là những sự kiện cơ bản

xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết; đăng

ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận các sự kiện sinh,

kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha mẹ con, thay đổi, cải chính, bổ

sung, điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc; ghi vào sổ

hộ tịch các việc xác định cha mẹ con, thay đổi quốc tịch, ly hôn, hủy việc kết

hôn trái pháp luật, chấm dứt nuôi con nuôi.

Vậy khái niệm hộ tịch: Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật hộ tịch

năm 2014 quy định Hộ tịch là những sự kiện như khai sinh, kết hôn, giám hộ,

nhận cha mẹ con, thay đổi cải chính, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin

hộ tịch, khai tử, thay đổi quốc tịch, xác định lại giới tính, nuôi con nuôi, chấm

dứt nuôi con nuôi, ghi vào sổ việc thay đổi các sự kiện hộ tịch của các nhân,

xác định và ghi vào sổ các sự kiện khác theo quy định của pháp luật [19].

1.1.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch

a. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận

hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý

để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý

về dân cư.

Đăng ký hộ tịch hay nói gọn là hộ tịch là hoạt động của các cơ quan

7

nhà nước có thẩm quyền (thường là các cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý

hành chính nhà nước) ghi và lưu lại các sự kiện hộ tịch quan trọng của công

dân. Hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân

của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Sự kiện quan trọng thường được

ghi nhận bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn, ly

thân tư pháp, nhận nuôi con nuôi, hợp pháp hoá lãnh sự... Ngoài ra, ở một số

nước, việc nhập cư, di dân, và bất kỳ thay đổi nơi cư trú, chỗ ở có thể bị yêu

cầu phải thông báo đến cơ quan nhà nước.

Việc đăng ký hô tịch tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và

bảo hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân. Đồng thời quản lý hộ

tịch còn góp phần vào các biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học,

phục vụ cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã

hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch có

vai trò vô cùng quan trọng.

Thứ nhất, xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn;

khai tử; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch; xác định lại

dân tộc; bổ sung thông tin hộ tịch. Theo đó cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận

bằng cách đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc, đồng thời cấp cho

đương sự giấy chứng nhận về việc đó như Giấy khai sinh; Giấy chứng nhận kết

hôn,.. Hành vi xác nhận của cơ quan hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý

của các sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi được đăng ký, các sự kiện đó mới

làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của cá nhân.

Thứ hai, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản

án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:

+ Thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi

con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp

luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên

8

bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

+ Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết

hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha,mẹ, con; nuôi con nuôi; thay

đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết ở nước ngoài.

Khác với hành vi xác nhận, đối với các việc hộ tịch này, cơ quan đăng

ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ vào các quyết định (bằng văn bản) của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ghi chú việc đó vào sổ hộ tịch. Hành vi này

không làm phát sinh hiệu lực pháp lý mà chỉ là thủ tục hành chính để xác

nhận phạm vi hiệu lực pháp lý của các sự kiện hộ tịch bởi vì bản thân các

quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đã đem lại hiệu lực

pháp lý của việc đó.

Ngoài ra còn xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác

theo quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể thấy đăng ký hộ tịch là việc người có quyền và nghĩa

vụ đăng ký hộ tịch yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận các sự

kiện hộ tịch phát sinh trên thực tế theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định

hoặc ghi vào sổ hộ tịch các việc có liên quan đến hộ tịch nhằm đảm bảo các

quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cá nhân có liên quan.

Mục đích chính của đăng ký hộ tịch là để tạo ra hệ thống pháp luật (văn

bản pháp luật thậm chí là văn bản quy phạm pháp luật) được sử dụng để thiết

lập và bảo vệ các quyền dân sự của cá nhân. Mục đích thứ hai là tạo ra một

nguồn dữ liệu cho việc biên soạn các số liệu thống kê quan trọng, phục vụ

cho hoạt động thống kê dân cư của nhà nước.

Mục đích quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về

hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, để từ đó

góp phần tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng

9

và chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình....

b. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà việc Đăng ký hộ tịch có

khác biệt theo đặc thù của từng nước, tuy nhiên một số hoạt động chung có

thể kể đến bao gồm:

Hoạt động xác nhận các sự kiện hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, ly hôn,

khai tử, nuôi con nuôi, giám hộ…

Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào quyết định của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về:

ly hôn, thay đổi quốc tịch, xác định cha mẹ con…

Cấp giấy tờ hộ tịch. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cấp theo thủ tục, trình tự được quy định tại pháp luật mỗi nước và

là bằng chứng, chứng cứ công nhận các sự kiện về hộ tịch, làm phát sinh, thay

đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.

Đăng ký hộ tịch tại Việt Nam là việc công dân, người nước ngoài làm

các thủ tục về đăng ký hộ tịch tại các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Cơ quan

nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam sẽ xác nhận các sự kiện: sinh, kết hôn,

tử, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính, bổ sung,

điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc. Các cơ quan

này cũng sẽ ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc

tịch, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, chấm dứt nuôi con nuôi….

Việc đăng ký và quản lý hộ tịch được xác định là nhiệm vụ quan trọng,

thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm không chỉ theo dõi thực trạng

và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân và gia đình, xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, dân số,

kế hoạch hóa gia đình (các mảng lĩnh vực về dân sự) mà thậm chí còn phục

vụ cho mục đích về an ninh quốc phòng). Chính vì vậy, quy định bắt buộc

những người buộc thực hiện đăng ký hộ tịch phải tự giác đăng ký các sự kiện

10

hộ tịch theo quy định.

c. Thực hiện pháp luật hộ tịch

Các văn bản pháp luật được ban hành cần được thực hiện trong cuộc

sống, mục đích của việc ban hành văn pháp luật chỉ có thể đạt được khi các

quy định pháp luật được xã hội thực hiện một cách chính xác và đầy đủ. Do

vậy vấn đề ở đây không chỉ ban hành nhiều văn bản pháp luật mà điều quan

trọng là phải thực hiện pháp luật nghĩa là làm cho những văn bản pháp luật đó

trở thành hiện thực trong cuộc sống của xã hội.

Việc thực hiện đầy đủ chính xác hay không thì đó không chỉ là mối

quan tâm tâm từ phía Nhà nước mà từ cả phía người dân trong xã hội. Thực

hiện pháp luật là hành vi (có thể là hành động hoặc không hành động) của con

người phù hợp với các quy định của pháp luật, do đó chúng ta hiểu rằng dưới

góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp

Thực hiện pháp luật là hành vi của mỗi cá nhân hoặc của cơ quan tổ

chức, tổ chức kinh tế …..

Theo giáo trình của trường Đại học quốc gia Hà Nội thì thực hiện pháp

luật là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào

cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể.

Căn cứ vào tích chất hoạt động của thực hiện pháp luật thì thực hiện có

các hình thức sau: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật,

áp dụng p pháp luật

Vậy từ đó ta có thể hiểu là thực hiện pháp luật hộ tịch là hoạt động có

mục đích làm cho những quy định của pháp luật hộ tịch đi vào cuộc sống, trở

thành những hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể pháp luật.

* Áp dụng pháp luật hộ tịch là một quá trình phức tạp, để áp dụng pháp

luật hộ tịch chính xác và đạt hiệu quả cao cần tiến hành theo các giai đoạn sau:

- Giai đoạn 1: Phân tích đáng giá chính xác mọi tình tiết, hoàn cảnh,

11

điều kiện của các sự việc hộ tịch xảy ra. Xem xét đánh giá các tình tiết thực

tế của vụ việc, đánh giá tầm quan trọng của các sự kiện pháp lý của các sự

kiện hộ tịch

- Giai đoạn 2: Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với các sự kiện hộ

tịch đó, phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa các quy phạm pháp luật để áp

dụng đúng các sự kiện hộ tịch xảy ra. Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật, xác

định quy phạm pháp luật còn hiệu lực. Ở giai đoạn này sự thuận lợi cho cơ

quan áp dụng đó là có rất nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh song khó khăn

đó là cơ quan áp dụng pháp luật phải lựa chọn và vận dụng đúng quy phạm

pháp luật đó. Nếu nhận thức đúng đắn được các quy phạm pháp luật, thì áp

dụng đúng đảm bảo khách quan cho các sự kiện hộ tịch diễn ra, còn ngược lại

áp dụng sai thì sự kiện hộ tịch sẽ bị giải quyết sai và gây hậu quả nghiêm trọng

- Giai đoạn 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật cho các sự kiện đó, đây là

giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật về hộ tịch. Lúc này

quan hệ pháp lý, trách nhiệm pháp lý được xác lập. Các giấy tờ hộ tịch phải

được ban hành đúng về trình tự thủ tục, hình thức nội dung….

Áp dụng pháp luật hộ tịch là quá trình phức tạp, chỉ có ở cơ quan Nhà

nước, tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, có tính sáng tạo, điều

chỉnh quan hệ xã hội đặc biệt.

1.2. Vị trí, vai trò của đăng ký, quản lý hộ tịch

1.2.1. Những vấn đề cơ bản thực hiện pháp luật hộ tịch

Việc đăng ký hộ tịch được thực hiện theo quy định mỗi sự kiện hộ

tịch chỉ được đăng ký tại một nơi. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước

Việt Nam cấp cho cá nhân là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của

cá nhân đó, trong đó Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân.

Ngoài ra, các giấy tờ hộ tịch do Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan

Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài cấp cũng có giá trị như giấy tờ hộ tịch

12

được cấp ở trong nước.

Đối với những Giấy tờ hộ tịch do nước ngoài cấp, khi sử dụng tại Việt

Nam thì bắt buộc phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác riêng đối với Giấy tờ hộ

tịch do Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cấp cho

công dân nước đó để sử dụng tại Việt Nam được miễn hợp pháp hóa lãnh sự

trên cơ sở nguyên tắc có đi, có lại. Đối với những loại giấy tờ hộ tịch bằng

tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được công chứng.

Việc đăng ký hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và bảo

hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân. Đồng thời quản lý hộ tịch còn

góp phần vào các biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ cho

việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh -

quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy việc tìm hiểu về vấn đề đăng ký hộ

tịch là vấn đề vô cùng quan trọng.

Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân

thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên,

quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi

nhận trong Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh đã bảo đảm

quyền được khai sinh, một trong những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em

theo tuyên bố tại Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em: "Trẻ em phải

được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có

họ tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình

là ai và được chính cha mẹ mình chăm sóc" [23]; Tuy nhiên, quyền được khai

sinh không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân

nào; theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch

cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân.

Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thi hành đã có nhiều điểm mới

13

mang tính đột phá, cải cách mạnh mẽ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói

riêng và quản lý dân cư nói chung. Luật quy định việc cấp Số định danh cá

nhân khi đăng ký khai sinh; xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ

thông tin hộ tịch của cá nhân và kết nối, cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của

cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư...

Qua 03 (ba) năm triển khai cho thấy, Luật hộ tịch năm 2014 đã tạo cơ

sở pháp lý để người dân được công nhận các quyền con người, quyền, nghĩa

vụ công dân và để Nhà nước bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có

biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây

dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh

của đất nước.

Khái quát về các quyền nhân thân của cá nhân trong các văn bản pháp

luật có liên quan đến hộ tịch:

Hiến pháp 2013

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,

quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,

tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định

của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật

tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Bộ luật dân sự

Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân

thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên,

quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi

nhận trong Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh đã bảo đảm

quyền được khai sinh, một trong những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em

theo tuyên bố tại Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em: "Trẻ em phải

14

được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có họ

tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình là ai

và được chính cha mẹ mình chăm sóc [11]. Tuy nhiên, quyền được khai sinh

không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân nào;

theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch

cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân.

Về quyền nhân thân của cá nhân, hai Luật này đã ghi nhận nhiều quyền

con người và quyền công dân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Trong

đó có một số quyền cần được công nhận, bảo vệ hoặc tổ chức, thực hiện thông

qua thủ tục đăng ký hộ tịch do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

thực hiện, bao gồm:

- Quyền có họ, tên và thay đổi họ, tên [20, Điều 26, 27, 28], được xác

nhận thông qua thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục đăng ký thay đổi, cải

chính hộ tịch;

- Quyền xác định, xác định lại dân tộc [20, Điều 29], được xác nhận

thông qua thủ tục khai sinh hoặc thủ tục xác nhận lại dân tộc;

- Quyền được khai sinh, khai tử [20, Điều 30], được xác nhận thông

qua thủ tục khai sinh; khai tử

- Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình [20, Điều 39], [21, Điều

8, Điều 9], được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký kết hôn;

- Quyền ly hôn [20, Điều 39], [21, Điều 51] được xác nhận thông qua

thủ tục đăng ký ghi vào sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc ly hôn theo

bản án, quyết định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;

- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con [20, Điều 65], được xác nhận

thông qua thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con hoặc thủ tục đăng ký ghi vào sổ

bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc xác định cha, mẹ, con theo bản án, quyết

định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;

- Quyền đối với quốc tịch [20, Điều 31], được xác nhận thông qua thủ

15

tục đăng ký khai sinh;

- Quyền về giám hộ và được giám hộ [20], [21] được xác nhận thông

qua thủ tục đăng ký giám hộ.

Luật hôn nhân và gia đình

Luật Hộ tịch trong mối quan hệ với Luật Hôn nhân – Gia đình được thể

hiện thông qua phạm vi điều chỉnh. Ngoài ra, mối quan hệ còn thể hiện qua

nội dung: Luật Hộ tịch là luật hình thức, đồng thời cũng là luật riêng của luật

nội dung. Luật Hôn nhân - Gia đình quy định về các quyền, nghĩa vụ về hôn

nhân và gia đình; Luật Hộ tịch quy định thủ tục đăng ký hộ tịch nhằm tôn

trọng và bảo đảm các quyền, nghĩa vụ đó. Chẳng hạn như qua việc kết hôn và

đăng ký kết hôn; Quyền nhận cha mẹ con.

Kết hôn và đăng ký kết hôn

Luật Hộ tịch về cơ bản đã đưa ra được cơ chế để xác định sự tuân thủ

điều kiện kết hôn của người có yêu cầu kết hôn khi quy định: về thẩm quyền

đăng ký kết hôn và nội dung Giấy chứng nhận kết hôn; Thủ tục đăng ký kết

hôn, kết hôn trong nước, kết hôn có yếu tố nước ngoài; thủ tục ghi vào Sổ hộ

tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài.

Quyền nhận cha mẹ con

- Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa

án xác định người đó là con mình.

- Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác

định người đó không phải là con mình.

- Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ

đã chết.

- Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ;

nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.

16

- Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.

- Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận

con không cần phải có sự đồng ý của người kia.

Luật Hộ tịch quy định về đăng ký nhận cha, mẹ, con: cụ thể là quy định

về điều kiện đăng ký nhận cha, mẹ, con; thẩm quyền; trình tự, thủ tục đăng

ký; thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được

giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

Luật Quốc tịch

Tương tự như những Luật trên, Luật Hộ tịch cũng có mối quan hệ với

Luật Quốc tịch, chẳng hạn thông qua nội dung như:

Quyền đối với quốc tịch: Luật Quốc tịch quy định:

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có

quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch

Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này…. mọi

thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch

Việt Nam [16, Điều 2].

Luật Quốc tịch quy định một trong những căn cứ xác định có quốc tịch

Việt Nam là Giấy khai sinh. Do vậy, để đảm bảo quyền có quốc tịch và ghi

nhận quyền có quốc tịch của cá nhân, Luật Hộ tịch quy định về nội dung đăng

ký khai sinh như: "Thông tin của người được đăng ký khai sinh:… quốc

tịch; Thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và

tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú" [19].

- Đối với Thủ tục đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài Luật Hộ tịch

quy định:

…Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là người nước ngoài

thì phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ về việc chọn quốc tịch

17

cho con. Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con

thì văn bản thỏa thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền của nước ngoài mà người đó là công dân [19, Điều 36]

Luật Nuôi con nuôi

Đăng ký nuôi con nuôi cũng là một loại việc hộ tịch, tuy nhiên, do tính

chất đặc thù nên việc nuôi con nuôi được điều chỉnh bởi Luật Nuôi con nuôi

và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này với những quy định khá

khác biệt về trình tự, thủ tục đăng ký. Mặc dù, việc nuôi con nuôi được đăng

ký theo trình tự, thủ tục riêng, tuy nhiên, quá trình giải quyết thủ tục đăng ký

nuôi con nuôi cũng như giải quyết yêu cầu thay đổi thông tin trong giấy tờ hộ

tịch của trẻ em được nhận làm con nuôi có sự liên hệ chặt chẽ với nhau thông

qua thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong trường hợp con nuôi là trẻ em bị bỏ

rơi mà phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh

đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân cấp xã còn để trống; thủ tục thay đổi thông

tin về cha mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi; Ghi chú việc nuôi con nuôi

có yếu tố nước ngoài;…

* Thực tiễn thi hành pháp luật hộ tịch với việc bảo đảm/bảo vệ quyền

nhân thân của cá nhân

Những khó khăn, vướng mắc

a. Những quy định của BLDS với Luật Hộ tịch:

- Về việc đặt tên, khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy

định: Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích

hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật

dân sự. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc

khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là

chữ [20, Điều 26]. Như vậy, trường hợp trẻ em có một bên cha hoặc mẹ là

công dân Việt Nam, bên còn lại là người nước ngoài, nếu cha mẹ thỏa thuận

18

lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con thì khi đăng ký khai sinh, tên của trẻ

cũng phải là tên gọi Việt Nam. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là tên bằng

"tiếng Việt" hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam thì chưa có quy định

hướng dẫn trong văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn cho cả công chức

làm công tác hộ tịch và người dân đến đăng ký.

- Đăng ký giám sát giám hộ: Hiện tại, Luật Hộ tịch chưa quy định thủ

tục đăng ký giám sát việc giám hộ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Dân sự

năm 2015.

- Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành chưa có hướng

dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử trong trường hợp

trẻ em sinh ra sống được trong vòng 24 giờ rồi chết.

b. Những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với Luật Hộ tịch:

- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong

thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra

trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được

coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra

trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung

của vợ chồng [21, Điều 88].

Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và

phải được Tòa án xác định. Về nguyên tắc, trẻ em được sinh ra trong thời kỳ

hôn nhân được xác định là con chung của vợ chồng, kể cả trong trường hợp

03 bên vợ, chồng và người thứ 3 thống nhất không thừa nhận đứa trẻ đó là

con của cặp vợ chồng, mà là con của người vợ và người thứ 3; do đó, khi

ĐKKS, phần thông tin về cha, mẹ vẫn phải ghi thông tin của người mẹ và

người chồng (pháp lý) của người mẹ.

Trong trường hợp người chồng của mẹ không thừa nhận trẻ em đó là

19

con của mình hoặc người mẹ không thừa nhận người chồng là cha của đứa trẻ

thì cần yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha - con theo

thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời gian qua, yêu cầu xác định cha cho con

trong trường hợp này thường bị Tòa án từ chối giải quyết hoặc có tòa thụ lý,

có tòa không thụ lý với lý do không có tranh chấp, khiến người dân phải đi lại

nhiều lần giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và cơ quan Tòa án.

c. Quy định của Luật Nuôi con nuôi với Luật Hộ tịch

- Tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật nuôi con nuôi:

Trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự

đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về

cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi;

thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng

ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ; tại cột ghi

chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi [5, Điều 10].

Tuy nhiên, tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP:

Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có

thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016

nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được

đăng ký lại [6].

Do đó, việc thu hồi hủy bỏ để đăng ký lại nhằm mục đích thay đổi phần

khai về cha, mẹ ruột sang cha, mẹ nuôi là không thể thực hiện được theo Luật

Hộ tịch (vì Sổ và bản chính Giấy khai sinh vẫn còn).

- Việc thay đổi thông tin về cha mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi:

Theo quy định tại Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi thì việc

thay đổi phần khai về cha mẹ trong giấy khai sinh và sổ ĐKKS của con nuôi,

20

trước đây, được thực hiện nếu có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ

nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 09 tuổi trở lên thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi

đã ĐKKS cho trẻ em thu hồi giấy khai sinh và thực hiện ĐKKS lại với các

thông tin mới cho trẻ em; tại cột ghi chú của sổ ĐKKS phải ghi rõ là cha mẹ

nuôi. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật hộ tịch không quy định việc thu hồi lại

giấy khai sinh cũ và thực hiện việc ĐKKS lại với sự thay đổi phần khai về

cha, mẹ của trẻ em (theo cha, mẹ nuôi). Trường hợp cha mẹ nuôi có yêu cầu

thay đổi phần khai về cha mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký thì thực

hiện theo trình tự, thủ tục thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật hộ tịch.

Sau khi thực hiện thủ tục thay đổi hộ tịch và được cấp trích lục thay đổi hộ

tịch, cơ quan ĐKHT sẽ ghi những nội dung thay đổi vào mặt sau giấy khai

sinh. Việc thực hiện quy định này có bất lợi là không bảo đảm giữ bí mật

thông tin đối với trẻ em được nhận làm con nuôi, khi sử dụng bản chính giấy

khai sinh với những thông tin về cha mẹ đẻ ghi ở mặt trước, thông tin về cha

mẹ nuôi ghi ở mặt sau dễ dẫn đến tâm lý mặc cảm, tự ti của trẻ mặc dù pháp

luật hộ tịch có quy định, sau khi thực hiện việc thay đổi, ghi thông tin thay đổi

vào sổ ĐKKS, trẻ sẽ được cấp trích lục khai sinh với các thông tin đã được

thay đổi, việc sử dụng trích lục khai sinh này sẽ đáp ứng được nguyện vọng

giữ bí mật thông tin về quan hệ nuôi con nuôi.

d. Luật Quốc tịch với Luật Hộ tịch

Luật Quốc tịch chưa có quy định về hình thức có quốc tịch Việt Nam

đối với trường hợp trẻ em có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam, được sinh

ra ở nước ngoài. Đã có quốc tịch nước ngoài theo nơi sinh

Theo quy định tại Điều 15 Luật Quốc tịch quy định: "Quốc tịch của trẻ em

khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam" [16].

Tuy nhiên, việc trẻ có quốc tịch Việt Nam thông qua hình thức nào thì pháp

luật chưa có quy định cụ thể, dẫn đến cơ quan đăng ký hộ tịch còn lúng túng

21

khi giải quyết yêu cầu của công dân. Ví dụ: Đối với trường hợp trẻ em sinh ra

tại Hoa Kỳ (quốc gia xác định nơi sinh theo nguyên tắc lãnh thổ), có cả cha và

mẹ là công dân Việt Nam khi đứa trẻ này được đăng ký khai sinh tại Hoa Kỳ,

trong Giấy khai sinh, ghi quốc tịch Hoa Kỳ. Trong khi đó, theo Luật Quốc

tịch Việt Nam áp dụng nguyên tắc xác định quốc tịch Việt Nam theo huyết

thống. Vì vậy, cha mẹ trẻ đã đến cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu đăng ký

khai sinh cho trẻ trong đó ghi quốc tịch của trẻ em là quốc tịch Việt Nam.

Trong trường hợp này, trẻ em đương nhiên có quốc tịch Việt Nam theo cha

mẹ, việc có quốc tịch Hoa Kỳ (theo nơi sinh) không làm mất đi quyền có quốc

tịch Việt Nam của trẻ. Tuy nhiên, do pháp luật quốc tịch, hộ tịch chưa có quy

định cụ thể đối với trường hợp này này nên trong thực tế, các cơ quan đăng ký

hộ tịch còn lúng túng, việc giải quyết còn chưa có sự thống nhất (đăng ký khai

sinh, ghi quốc tịch Việt Nam cho trẻ vận dụng ghi vào sổ hộ tịch việc khai

sinh của trẻ, mục quốc tịch ghi quốc tịch Việt Nam.

* Vai trò của đăng ký khai sinh đối với việc quản lý nhà nước và đối

với công dân

Đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mọi công dân, là một trong

những nguyên tắc chung xét ở gốc độ pháp lý về mặt quyền thì đăng ký hộ

tịch là việc thể hiện quyền dân sự của công dân; về mặt nghĩa vụ công dân

phải có trách nhiệm thực hiện đăng ký hộ tịch. Đối với Nhà nước thông qua

việc đăng ký này đảm bảo được quyền của công dân. Do vậy, đăng ký hộ tịch

là quyền và nghĩa vụ của mỗi người, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định.

Đăng ký khai sinh là một loại sự kiện đăng ký hộ tịch, là sự kiện đăng

ký đầu tiên có liên quan đến nhân thân của một người từ khi mới sinh ra.Từ

khái niệm đăng ký hộ tịch nêu ra ở trên chúng ta suy ra khái niệm đăng ký

khai sinh là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào Sổ

22

đăng ký khai sinh sự kiện được sinh ra của một cá nhân. Nội dung đăng ký là

việc xác định những thông tin về bản thân người được đăng ký khai sinh như

họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh và thông

tin về cha, mẹ của người được đăng ký khai sinh… sau khi được đăng ký khai

sinh cá nhân được cơ quan đăng ký cấp cho Giấy khai sinh có ghi nhận đầy

đủ các thông tin liên quan đến nhân thân của cá nhân như nội dung mà cơ

quan nhà nước có thẩm quyền đã ghi nhận. Hiện nay, thực hiện Luật căn cước

thì sau khi nhập thông tin khai sinh của trẻ vào hệ thống đăng ký khai sinh điện

tử của Bộ tư pháp, thông tin khai sinh của trẻ được nhập chính xác, khi hoàn

thiện xong trẻ sẽ được cấp số định danh cá nhân là số căn cước công dân.

Ở mỗi thời kỳ, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước, tùy

thuộc vào mong muốn của nhà quản lý, việc đăng ký khai sinh có một ý nghĩa

nhất định.Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay việc đăng ký khai

sinh được hoàn thiện dần cùng với công tác đăng ký hộ tịch qua các văn bản

về hộ tịch mà Nhà nước đã ban hành. Đăng ký khai sinh là một lĩnh vực trong

công tác đăng ký hộ tịch, đăng ký khai sinh có vai trò ý nghĩa rất quan trọng

đối với công dân và đối với Nhà nước, đăng ký khai sinh tạo mối quan hệ

giữa Nhà nước và công dân.

Thứ nhất, vai trò của đăng ký khai sinh đối với việc quản lý nhà nước:

Nhà nước đăng ký khai sinh cho công dân là để Nhà nước quản lý về mặt

pháp lý từng người dân, qua đó quản lý toàn bộ dân cư trong cả nước, nắm bắt

được biến động tự nhiên về dân cư. Nhà nước quản lý con người, thống kê

được dân số, tình hình tăng dân số giúp Nhà nước có cơ sở hoạch định chính

sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Qua đó, Nhà nước có cơ sở khoa học để

hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và

trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, công tác đăng ký khai sinh - một yêu cầu

không thể thiếu trong quản lý nhà nước về hộ tịch, là ghi nhận về mặt pháp lý

23

sự tồn tại của một cá nhân, là cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa Nhà nước và

công dân, từ đó phát sinh trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời

sống người dân, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Hơn

thế nữa, đối với Nhà nước thông qua việc đăng ký này đảm bảo được quyền

của công dân, quyền được khai sinh mà pháp luật đã quy định. Đặc biệt đối

với trẻ em đối tượng Nhà nước quan tâm bảo vệ, thì đăng ký khai sinh cho trẻ

em là nghĩa vụ phải làm của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ

em, đối tượng được quan tâm hàng đầu trong mọi xã hội.

Khi đăng ký khai sinh Nhà nước cấp cho người dân chứng thư pháp lý

là Giấy khai sinh. Giấy khai sinh góp phần hỗ trợ hoạt động các cơ quan nhà

nước trong việc xác định nhân thân của một người như độ tuổi, giới tính, cha

mẹ…., phục vụ cho các quan hệ khác. Ví dụ: Giấy khai sinh dùng để xác định

cha và mẹ đẻ của một cá nhân, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải

quyết việc phân chia di sản thừa kế trong trường hợp người chết không để lại

di chúc, phân chia tài sản theo pháp luật, hay Giấy khai sinh dùng để hỗ trợ

cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của một người để áp

dụng chính sách trong tố tụng cho phù hợp…

Thứ hai, vai trò của đăng ký khai sinh đối với công dân: Đăng ký khai

sinh là quyền của mỗi người được pháp luật quốc tế ghi nhận, đồng thời cũng

được ghi nhận trong pháp luật của quốc gia. Đăng ký khai sinh có vai trò, ý

nghĩa là sự ghi nhận về mặt pháp lý tình trạng nhân thân của một người được

sinh ra, thông qua đăng ký khai sinh, cá nhân được cấp Giấy khai sinh, là cơ

sở xác định nguồn gốc các mối quan hệ nhân thân, quan hệ gia đình; là một

trong những chứng cứ pháp lý tạo ra sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa Nhà

nước và công dân và có giá trị chứng minh đối với các mối quan hệ khác

trong xã hội ví dụ như truy nhận cha, mẹ con, thừa kế di sản, học tập…Đăng

ký khai sinh cho một cá nhân là cơ sở đầu tiên để cá nhân đó trở thành công

24

dân một quốc gia, làm phát sinh quyền của mình, công dân thực hiện được

các quyền của mình được Nhà nước ghi nhận và là cơ sở để được Nhà nước

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Nếu cá nhân không đăng ký

khai sinh, cá nhân sẽ không hưởng được các quyền dành cho công dân mà

Nhà nước quy định, cũng như công dân sẽ không được bảo vệ khi quyền và

lợi ích bị xâm hại. Nếu không có khai sinh thì không có cơ sở chắc chắn để

phân biệt cá nhân này với cá nhân khác thông qua các yếu tố cơ bản như: họ

tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, nơi sinh, thông tin về cha mẹ…

Trong cuộc sống, Đăng ký khai sinh có vai trò và ý nghĩa quan trọng

đối với người dân, tuy nhiên nếu không thực hiện đúng quy định pháp luật thì

sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đăng ký khai

sinh đòi hỏi phải được đăng ký chính xác tuyệt đối các thông tin liên quan đến

nhân thân của một cá nhân. Nếu trong việc đăng ký khai sinh có sự không

chính xác trong việc ghi nhận các thông tin đã đăng ký thì hệ lụy này do

người dân gánh chịu.

1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan đăng ký hộ tịch chính quyền xã

1.2.2.1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm về công tác

đăng ký, quản lý hộ tịch và những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý

hộ tịch do buông lỏng quản lý. Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản

lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây

(Phòng Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định)

Thực hiện đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật hộ tịch; Chỉ đạo, kiểm

tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã; Tổ chức tuyên

truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch; Quản lý, sử dụng Sổ hộ

tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định; Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân cấp

25

tỉnh, bố trí công chức làm công tác hộ tịch; Quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở

dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản sao trích lục hộ tịch theo quy định; Thanh tra,

kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hộ tịch theo

thẩm quyền; Thu hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp

trái quy định của Luật này, trừ trường hợp kết hôn trái pháp luật; Tổng hợp tình

hình và thống kê hộ tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của

Chính phủ; Lưu trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch.

1.2.2.2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã

Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa

phương và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thực hiện đăng ký hộ tịch theo

quy định của Luật này; Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân cấp trên, bố trí

công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch; Tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về hộ tịch; Quản lý, sử dụng Sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo

quy định; Quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp

bản sao trích lục hộ tịch theo quy định; Tổng hợp tình hình và thống kê hộ

tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định của Chính phủ; Lưu

trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm về hộ tịch theo thẩm quyền.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc

khai sinh, khai tử; chịu trách nhiệm về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và

những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch do buông lỏng quản lý.

Công chức tư pháp - hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định.

1.2.2.3. Công chức làm công tác hộ tịch

Công chức làm công tác hộ tịch bao gồm công chức tư pháp - hộ tịch

ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban

nhân dân cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại

26

Cơ quan đại diện.

Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có các tiêu chuẩn sau đây:

- Có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ

hộ tịch;

- Có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.

- Căn cứ điều kiện thực tế về diện tích, dân số, khối lượng công việc tư

pháp, hộ tịch của địa phương, Chính phủ quy định việc bố trí công chức tư

pháp - hộ tịch đảm nhiệm công tác hộ tịch chuyên trách.

Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử

nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.

Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện

đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.

* Nhiệm vụ, quyền hạn của công chức làm công tác hộ tịch

Trong lĩnh vực hộ tịch, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ,

quyền hạn sau đây:

- Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật

có liên quan về hộ tịch;

- Chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp xã và pháp luật về việc

đăng ký hộ tịch;

- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định

của pháp luật về hộ tịch;

- Giúp Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký hộ tịch kịp thời, chính xác,

khách quan, trung thực; cập nhật đầy đủ các sự kiện hộ tịch đã được đăng ký

vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;

- Chủ động kiểm tra, rà soát để đăng ký kịp thời việc sinh, tử phát sinh

trên địa bàn.

- Đối với địa bàn dân cư không tập trung, điều kiện đi lại khó khăn,

27

cách xa trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo

Ủy ban nhân dân cấp xã cho tổ chức đăng ký lưu động đối với việc khai sinh,

kết hôn, khai tử;

- Thường xuyên trau dồi kiến thức pháp luật để nâng cao năng lực và

nghiệp vụ đăng ký hộ tịch; tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

do Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan tư pháp cấp trên tổ chức;

- Chủ động báo cáo, đề xuất Ủy ban nhân dân cùng cấp phối hợp với cơ

quan, tổ chức kiểm tra, xác minh về thông tin hộ tịch; yêu cầu cơ quan, tổ

chức, cá nhân cung cấp thông tin để xác minh khi đăng ký hộ tịch; phối hợp

với cơ quan Công an cùng cấp cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân

cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Những quy định này cũng được áp dụng đối với công chức làm công

tác hộ tịch của Phòng Tư pháp, viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ

tịch tại Cơ quan đại diện theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Những việc công chức làm công tác hộ tịch không được làm

- Cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì hoãn, gây khó khăn, phiền hà,

nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý hộ tịch.

- Thu lệ phí hộ tịch cao hơn mức quy định hoặc đặt ra các khoản thu

khi đăng ký hộ tịch.

- Đặt ra thủ tục, giấy tờ, cố ý kéo dài thời hạn giải quyết đăng ký hộ

tịch trái quy định của Luật này.

- Tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung thông tin trong Cơ sở dữ liệu

hộ tịch.

- Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái quy định của Luật này.

- Tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật cá nhân mà biết được qua đăng

ký hộ tịch.

- Công chức làm công tác hộ tịch vi phạm các quy định tại Điều này thì

tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách

28

nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

1.2.3. Nội dung, trình tự, thẩm quyền đăng ký pháp luật hộ tịch xã

1.2.3.1. Đăng ký hộ tịch tại UBND cấp xã

* Đăng ký khai sinh

Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách

nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai

sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ

chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng

ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần

thiết thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.

* Đăng ký kết hôn

Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ

quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu

thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công

chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ

ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn;

công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức

trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.

Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì

thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc.

* Đăng ký giám hộ

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ hoặc người

giám hộ thực hiện đăng ký giám hộ.

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký giám hộ thực hiện đăng ký

29

chấm dứt giám hộ.

Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu

quy định và văn bản cử người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự cho

cơ quan đăng ký hộ tịch.Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ

giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện theo quy

định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch và cùng

người đi đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.

- Đăng ký giám hộ đương nhiên

Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu

quy định và giấy tờ chứng minh điều kiện giám hộ đương nhiên theo quy định

của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp có nhiều người

cùng đủ điều kiện làm giám hộ đương nhiên thì nộp thêm văn bản thỏa thuận

về việc cử một người làm giám hộ đương nhiên.

- Đăng ký chấm dứt giám hộ

Người yêu cầu đăng ký chấm dứt giám hộ nộp tờ khai đăng ký chấm

dứt giám hộ theo mẫu quy định và giấy tờ làm căn cứ chấm dứt giám hộ theo

quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy,

nếu thấy việc chấm dứt giám hộ đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật dân

sự, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc chấm dứt giám hộ vào Sổ hộ tịch,

cùng người đi đăng ký chấm dứt giám hộ ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.

- Đăng ký thay đổi giám hộ

Trường hợp yêu cầu thay đổi người giám hộ theo quy định của Bộ luật

dân sự và có người khác đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ

tục đăng ký chấm dứt giám hộ trước đó và đăng ký giám hộ mới theo quy

30

định tại Mục này.

* Đăng ký nhận cha, mẹ, con

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được

nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con.

Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy

định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng

ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.Trong thời hạn

03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều

này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công

chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ,

con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích

lục cho người yêu cầu.

Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không

quá 05 ngày làm việc.

* Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

Thay đổi họ, chữ đệm và tên của cá nhân trong nội dung khai sinh đã

đăng ký khi có căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.

Thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau

khi được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi.

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú

của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người

chưa đủ 14 tuổi; bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.

Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu

quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ

sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công

31

chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay

đổi, cải chính hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.

Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh,

Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay

đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.

Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không

quá 03 ngày làm việc.

Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi đăng

ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản

kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch

trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.

Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy

ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục

hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.

Người yêu cầu bổ sung hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy

tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu

thấy yêu cầu bổ sung hộ tịch là đúng, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội

dung bổ sung vào mục tương ứng trong Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu ký tên

vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho

người yêu cầu.

Trường hợp bổ sung hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết

hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục tương ứng

và đóng dấu vào nội dung bổ sung.

* Đăng ký khai tử

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện

32

việc đăng ký khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng

của người chết thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi phát

hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc

con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi

đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện

của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.

Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc khai

tử cho người chết; trường hợp không xác định được người có trách nhiệm đi

khai tử thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký khai tử.

Người có trách nhiệm đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định

và Giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Ngay sau khi nhận giấy tờ theo quy định, nếu thấy việc khai tử đúng thì

công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai tử vào Sổ hộ tịch, cùng người

đi khai tử ký tên vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

cấp trích lục cho người đi khai tử.

Công chức tư pháp - hộ tịch khóa thông tin hộ tịch của người chết trong

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

* Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp Tờ khai theo mẫu quy

định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết

hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của

Luật Hôn nhân và gia đình.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc

chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình

hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh; nếu thuộc trường hợp quy định tại

Khoản 2 Điều 37 của Nghị định này thì nộp bản sao trích lục hộ tịch tương ứng.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,

33

công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người

có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình

trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch

trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn

nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải

ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy

xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng

ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh

về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh

được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký

thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề

nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và

trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn

nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.

Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban

nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu

theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã

hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải

nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.

* Đăng ký lại khai sinh, khai tử, kết hôn

Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm

quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016 nhưng Sổ hộ tịch và

bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại.Người yêu cầu đăng

34

ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử có trách nhiệm nộp đầy đủ bản sao giấy tờ,

tài liệu có nội dung liên quan đến việc đăng ký lại.Việc đăng ký lại khai sinh,

kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm

tiếp nhận hồ sơ.

1.2.3.2. Đăng ký hộ tịch tại UBND cấp huyện

* Đăng ký khai sinh

Người đi đăng ký khai sinh nộp giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều

16 của Luật này cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc

cả cha và mẹ là người nước ngoài thì phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ

về việc chọn quốc tịch cho con.Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước

ngoài cho con thì văn bản thỏa thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền của nước ngoài mà người đó là công dân. Ngay sau khi nhận

đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh

đầy đủ và phù hợp, công chức làm công tác hộ tịch ghi nội dung khai sinh

theo quy định tại Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; trường hợp trẻ em có

quốc tịch nước ngoài thì không ghi nội dung quy định tại điểm c khoản 1

Điều 14 của Luật Hộ tịch.Công chức làm công tác hộ tịch, người đi đăng ký

khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.

Chính phủ quy định thủ tục đăng ký khai sinh đối với các trường hợp quy

định tại khoản 2 Điều 35 của Luật này.

* Đăng ký kết hôn

Hai bên nam, nữ nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy xác nhận của tổ

chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó

không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức,

làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Người nước ngoài, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài phải nộp

thêm giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân, bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ

35

có giá trị thay hộ chiếu.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại

khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch có trách nhiệm xác minh,

nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật thì Phòng Tư pháp

báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết.

Khi đăng ký kết hôn cả hai bên nam, nữ phải có mặt tại trụ sở Ủy ban

nhân dân, công chức làm công tác hộ tịch hỏi ý kiến hai bên nam, nữ, nếu

các bên tự nguyện kết hôn thì ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên

nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng

nhận kết hôn.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trao Giấy chứng nhận kết hôn cho

hai bên nam, nữ.

Chính phủ quy định bổ sung giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, việc

phỏng vấn, xác minh mục đích kết hôn khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết

hôn; thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam để

kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở

nước ngoài nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.

* Đăng ký giám hộ

- Đăng ký giám hộ cử

Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai theo mẫu quy định và văn

bản cử người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký

hộ tịch.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định tại khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch xác minh, nếu thấy

đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi

đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

36

- Đăng ký giám hộ đương nhiên

Thủ tục đăng ký giám hộ đương nhiên giữa công dân Việt Nam và người

nước ngoài cùng cư trú ở Việt Nam được áp dụng theo quy định tại Điều 21

của Luật này.

- Đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ

Thủ tục đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ giữa công dân Việt Nam

và người nước ngoài được áp dụng theo quy định tại Điều 22 và Điều 23

của Luật này.

* Đăng ký nhận cha, mẹ con

Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy

định và giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha

con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp đăng ký nhận cha,

mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước

ngoài với nhau thì người nước ngoài phải nộp thêm bản sao hộ chiếu hoặc

giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để chứng minh về nhân thân.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại

khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch xác minh, niêm yết việc

nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thời gian 07

ngày liên tục, đồng thời gửi văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi

thường trú của người được nhận là cha, mẹ, con niêm yết trong thời gian 07

ngày liên tục tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã.

Phòng Tư pháp báo cáo và đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

huyện quyết định việc đăng ký nhận cha, mẹ, con, nếu thấy đủ điều kiện thì

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết.

Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt; công chức làm

công tác hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng các bên ký vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch

37

Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho các bên.

* Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung, xác định lại dân tộc

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc

nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ

tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác

định lại dân tộc.

* Ghi vào sổ của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam ghi vào

Sổ hộ tịch việc khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha,

mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cá nhân đã đăng ký kết hôn hoặc ghi

chú việc kết hôn trước đây ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn

của cá nhân đã thực hiện ở nước ngoài.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người có trách nhiệm khai tử

theo quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật này ghi vào Sổ hộ tịch việc khai

tử đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

* Thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha, mẹ,

con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử

Người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha,

mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử nộp tờ

khai theo mẫu quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh các

việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho cơ

quan đăng ký hộ tịch.

Sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, công chức

làm công tác hộ tịch kiểm tra, nếu thấy yêu cầu là phù hợp thì ghi vào Sổ hộ

tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích

38

lục cho người yêu cầu.

Trong trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 03

ngày làm việc.

* Thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn

Người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn

nộp tờ khai theo mẫu quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh

các việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định

và đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, công chức làm công tác hộ tịch

ghi vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục và thời gian phối hợp

giữa các cơ quan thực hiện Điều này.

* Đăng ký khai tử

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú cuối cùng của người chết thực

hiện việc đăng ký khai tử cho người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam định

cư ở nước ngoài chết tại Việt Nam.

Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người chết

theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi người

đó chết hoặc nơi phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.

Người đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và Giấy báo tử

hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu

thấy việc khai tử đúng thì công chức làm công tác hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch

và cùng người đi khai tử ký vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch

Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục hộ tịch cho người đi khai tử.

Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 03 ngày

39

làm việc.

Sau khi đăng ký khai tử, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo

bằng văn bản kèm theo trích lục hộ tịch cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho

cơ quan có thẩm quyền của nước mà người chết là công dân.

Trường hợp người chết là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thì

công chức làm công tác hộ tịch khóa thông tin của người chết trong Cơ sở dữ

liệu hộ tịch điện tử.

1.3. Đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam

1.3.1. Pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới

a. Pháp luật Cộng hoà Pháp quy định về hộ tịch tương đối rộng và cụ

thể, thể hiện được các sự kiện cơ bản trong cuộc đời mỗi con người đồng

thời qua đó thấy rõ được quá trình đăng ký hộ tịch tại cơ quan có thẩm

quyền của Pháp. Hộ tịch được thể hiện trong sổ thuyền bộ bao gồm các

chứng thư hộ tịch. Các chứng thư hộ tịch phải ghi rõ năm, tháng, ngày, giờ

lập chứng thư, tên, họ của viên chức hộ tịch, tên, họ, nghề nghiệp và nơi cư

trú của tất cả những người có tên ghi trong chứng thư. Cụ thể như ngày sinh

và nơi sinh của cha và mẹ trong Chứng thư khai sinh và Chứng thư công

nhận con, của đứa trẻ trong Chứng thư công nhận con; của vợ hoặc chồng

trong Chứng thư kết hôn, của người chết trong các giấy khai tử (Điều 34 và

Điều 59 Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp).

b. Ở Đức, pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức quy định về vấn đề hộ

tịch tương đối toàn diện và khoa học, hộ tịch là tổng thể các quan hệ về nhân

thân của một cá nhân mà sự bảo đảm những quan hệ đó có ý nghĩa quan

trọng đối với từng cá nhân với toàn thể nhân dân, đặc biệt là những sự kiện

sinh, tử, kết hôn. Do vậy việc đăng ký hộ tịch thể hiện tính chặt chẽ, là vấn

đề pháp lý không thể thiếu trong đời sống con người nói riêng cũng như sự

40

tồn tại, phát triển của xã hội nói chung.

c. Ở Áo, các việc về hộ tịch được ghi vào sổ và có ngân hàng dữ liệu

là cơ sở để thực hiện các việc hộ tịch cũng như các thủ tục hành chính khác

có liên quan đến con người. Hộ tịch bao gồm các việc: đăng ký khai sinh,

đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký thay đổi hộ tịch, đăng ký thay đổi giới tính,

đăng ký khai tử, đăng ký nhận con.

Nếu như ở Pháp, hộ tịch là các chứng thư hộ tịch thì ở Nhật Bản, Hộ

tịch là sổ nối hộ tịch. Luật Hộ tịch Nhật Bản điều chỉnh các lĩnh vực như

đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, đăng ký thừa nhận con thông qua

việc tuyên bố ý chí, nhận nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố mất tích, chấm

dứt việc nuôi con nuôi, thông báo tình trạng hôn nhân, thay đổi hộ tịch.

d. Tại Hàn Quốc, nếu như trước đây sử dụng khái niệm “đăng ký hộ

tịch” thì hiện nay sử dụng khái niệm “đăng ký quan hệ gia đình”. Mọi thông

tin về hộ tịch của mỗi công dân Hàn Quốc đều được đặt trong mối quan hệ

với gia đình. Cũng giống như Nhật Bản, pháp luật Hàn Quốc quy định các

sự kiện hộ tịch bao gồm đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, nhận

nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố mất tích, chấm dứt việc nuôi con nuôi,

thông báo tình trạng hôn nhân, thay đổi hộ tịch…

e. Ở Đài Loan và Lào thì khái niệm hộ tịch rộng hơn, có điểm mới so

với hộ tịch của một số nước.

Luật Hộ tịch Đài Loan xác định hộ tịch theo hộ gia đình “một gia đình

hoặc những người cùng một chủ quản, hoặc những người cùng kinh doanh

một nghề là một hộ, đứng đầu gia đình hoặc người chủ quản là chủ hộ,

người sống độc thân là một hộ và làm chủ hộ”, “Một người không được có

hai hộ tịch cùng một lúc”.

Luật Hộ tịch Lào định nghĩa “đăng ký hộ tịch” là việc ghi chép hoặc

41

lập sổ về công tác đăng ký hộ tịch.

* Phương thức đăng ký hộ tịch

Hộ tịch theo quy định của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới

chứa đựng những thông tin rất quan trọng về cá nhân nên việc cân nhắc lựa

chọn phương thức đăng ký hộ tịch là rất cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi

trong việc quản lý hộ tịch cũng như đăng ký hộ tịch của công dân.

Ở Pháp, các việc về hộ tịch được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự Cộng

hoà Pháp. Theo Luật này, các sự kiện hộ tịch phải được đăng ký vào chứng

thư hộ tịch cụ thể. Các chứng thư này sẽ được ghi tiếp vào sổ thuyền bộ.

Đối với việc khai sinh, Bộ luật dân sự Cộng hoà Pháp quy định:

Nếu như pháp luật của Cộng hoà Pháp quy định các sự kiện hộ tịch

phải được đăng ký vào chứng thư hộ tịch cụ thể, sau đó các chứng thư này sẽ

được ghi tiếp vào sổ thuyền bộ thì pháp luật hộ tịch Đức quy định mỗi gia

đình có một quyển sổ gia đình trong đó ghi nhận các mối quan hệ giữa các

thành viên trong gia đình. Khi có sự thay đổi về các vấn đề về hộ tịch như

sinh, tử, ly hôn, kết hôn đều được ghi chú vào sổ như sổ đăng ký khai sinh,

sổ đăng ký khai tử, kết hôn, ly hôn… Sau đó tất cả những sự kiện đăng ký sẽ

được ghi vào sổ hộ tịch.Nếu có sự thay đổi về chỗ ở thì cơ quan nhà nước có

thẩm quyền sẽ làm thủ tục chuyển sổ hộ tịch đến địa chỉ mới.

Pháp luật hộ tịch Đức còn quy định các giấy tờ hộ tịch. Các giấy tờ hộ

tịch là bản trích lục có chứng thực hoặc bản sao có chứng thực được trích từ

sổ đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Như vậy, nếu như pháp luật

hộ tịch một số quốc gia quy định bản chính giấy tờ hộ tịch là bản gốc thì

pháp luật Đức quy định giấy tờ hộ tịch chỉ là bản sao, chỉ có sổ đăng ký hộ

tịch là bản gốc.

Việc đăng ký khai sinh: Trẻ mới sinh phải được khai báo với cơ quan

hộ tịch có thẩm quyền trong một thời hạn nhất định, tuỳ theo quy định của

mỗi bang, có bang quy định thời gian đăng ký khai sinh là trong vòng 14

42

ngày, kể từ ngày sinh.

Cơ sở để đăng ký khai sinh là giấy chứng sinh của nhà hộ sinh hoặc

người đỡ đẻ lập. Ngoài ra phải đính kèm giấy tờ trích lục từ sổ gia đình

(ví dụ như Giấy chứng nhận kết hôn) nếu một cơ quan hộ tịch khác quản

lý sổ này.

Thủ tục đăng ký khai sinh được quy định cụ thể như sau:

Trong trường hợp cha mẹ kết hôn với nhau, thì người đi đăng ký khai

sinh phải mang theo Giấy chứng nhận kết hôn hoặc trích sao từ sổ gia đình;

ảnh của bố mẹ; giấy đồng ý của bố mẹ về việc đồng ý ghi tên mình vào Giấy

khai sinh của con.

Đối với những người góa hoặc ly hôn, phải xuất trình bản sao mới

nhất từ sổ gia đình hoặc Giấy chứng nhận kết hôn có ghi chú thích hợp (ghi

chú việc ly hôn hoặc ghi chú việc chết của người kia).

Đối với công dân nước ngoài, thì phải xuất trình hộ chiếu hoặc giấy tờ

tùy thân khác để chứng minh về quốc tịch.

Pháp luật quy định cụ thể rõ tên họ của đứa trẻ khi khai sinh. Đứa trẻ

sinh ra có quyền nhận họ của bố mẹ; trường hợp vợ chồng mang họ khác nhau,

thì họ của con là cha mẹ cùng lựa chọn và phải ghi rõ bằng văn bản để trình

công chức hộ tịch và tuyên bố này có giá trị ràng buộc đối với tất cả các con

khác được sinh ra từ cuộc hôn nhân của cặp vợ chồng này (có nghĩa là những

đứa con tiếp theo của họ cũng sẽ phải lựa chọn theo họ của đứa con đầu).

Trong trường hợp người mẹ độc thân (con ngoài giá thú), thì con sẽ

theo họ của mẹ. Người con chỉ được mang họ cha khi người cha nhận con và

cam kết cấp dưỡng nuôi con.

Đứa trẻ sinh ra từ ngân hàng trứng, ngân hàng tinh trùng, thì tên của

cha mẹ sẽ được ghi theo tên của cha mẹ nuôi. Đứa trẻ sinh ra do mang thai

hộ, khi khai sinh người có trứng được khai là mẹ đẻ.

Trong trường hợp trẻ được nhận làm con nuôi, thì tên của cha mẹ đẻ

43

vẫn được ghi trong Giấy khai sinh của con nuôi trừ trường hợp muốn bảo lưu.

Trường hợp không có tên của cha mẹ đẻ thì được ghi tên của cha mẹ

nuôi và cán bộ hộ tịch sẽ kẹp giấy ghi không rõ cha mẹ đẻ vào hồ sơ nuôi

con nuôi. Người con nuôi có quyền kiện đòi xác định cha mẹ đẻ (hiện nay

Tòa án Đức vẫn chưa có có sự giải quyết thỏa đáng nào để bảo đảm quyền

tối cao của nhân thân đã được ghi nhận trong Hiến pháp đối với cả người

cho tinh trùng và đứa trẻ).

Trong trường hợp trẻ sinh ra rồi sau đó chết thì việc khai sinh sẽ được

thực hiện đồng thời với việc khai tử. Nếu trẻ sinh ra có biểu hiện chết thì xác

đứa trẻ nặng ít nhất là 0,5 kg thì bắt buộc phải đăng ký khai sinh và ghi sinh

ra đã chết. Trường hợp sảy thai hoặc khi sinh ra đã chết mà trẻ đó nặng dưới

0,5 kg thì không có nghĩa vụ khai để đăng ký khai sinh.

Việc đăng ký kết hôn

Từ năm 2001, pháp luật Đức cho phép kết hôn giữa hai người đồng

giới. Việc kết hôn giữa hai người đồng giới được ghi vào một sổ riêng (Sổ

đăng ký các cặp đồng giới). Điều kiện kết hôn giữa hai người đồng tính phải

là người đã thành niên, có năng lực pháp luật: có khả năng thực hiện những

nghĩa vụ và hưởng những quyền lợi, phải không có cản trở liên quan đến

việc kết hôn giữa hai người (như hiện tại không kết hôn với ai; nếu đã kết

hôn thì phải ly hôn theo pháp luật).

Những cặp này cũng có những quyền lợi và nghĩa vụ như những cặp

kết hôn khác giới, cũng như có quyền nuôi con nuôi và hai người sẽ quyết

định cho người con nuôi được mang họ của một trong hai người hoặc cả hai

họ liền nhau.

Khi hai người đồng giới đã kết hôn với nhau, thì họ không được

quyền kết hôn với người khác (muốn kết hôn với người khác họ phải đến

Tòa án để làm thủ tục kết thúc việc sống chung như vợ chồng).

Việc nhận cha, mẹ, con

44

Việc nhận cha, mẹ, con được thực hiện tại một trong ba nơi: công

chứng viên, cơ quan thanh thiếu niên hoặc công chức hộ tịch. Người cha chỉ

cần tuyên bố mình là cha đứa trẻ, tuyên bố đó được người mẹ chấp nhận thì

sẽ ghi vào sổ đăng ký khai sinh nội dung khai về người cha.

Việc đăng ký khai tử

Việc đăng ký khai tử (ghi vào Sổ đăng ký khai tử) ở Đức nhằm chống

sự khai man, làm giả giấy tờ. Qua thông tin ghi trong Sổ đăng ký khai tử sẽ

xác định được ai là người có quyền thừa kế. Việc đăng ký khai tử được thực

hiện theo địa hạt.

Phương thức đăng ký hộ tịch tại Ai Len được quy định cụ thể trong

Luật đăng ký hộ tịch năm 2004. Mỗi cá nhân làm thủ tục đăng ký hộ tịch

tại Văn phòng Đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử, nơi mà sự kiện sinh

đó diễn ra.

Đăng ký khai sinh không muộn hơn 03 tháng kể từ khi đứa trẻ sinh ra.

Mẫu đăng ký khai sinh được nhân viên bệnh viện phát cho các bà mẹ khi

sinh con. Việc đăng ký khai sinh sẽ được đăng ký viên vào Sổ đăng ký khai

sinh. Khi đăng ký khai sinh, đứa trẻ sẽ được cấp Số dịch vụ công cộng cá

nhân (PPSN).

Đăng ký kết hôn trong vòng 01 tháng kể từ ngày kết hôn.

Đăng ký thay đổi họ tên đứa trẻ sẽ được ghi vào sổ đăng ký khai sinh.

Theo pháp luật Ai Len, khai tử là một yêu cầu pháp lý của Nhà nước

Ai-Len tại Văn phòng Đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử. Đây là văn phòng

đăng ký chung các sự kiện về hộ tịch.

Đăng ký khai tử không phân biệt nơi nó xảy ra. Trường hợp tử vong

phải được đăng ký càng sớm càng tốt và không muộn hơn 03 tháng. Đăng ký

khai tử sẽ được đăng ký viên ghi vào Sổ đăng ký khai tử.

Việc đăng ký khai sinh được tiến hành tại văn phòng đăng ký huyện

nơi đứa trẻ sinh ra. Nếu không thể đăng ký khai sinh ở Văn phòng quận

45

huyện thì có thể đến văn phòng khác để đăng ký, sau đó văn phòng này sẽ

gửi thong tin chi tiết của đứa trẻ đến văn phòng quận huyện nơi đứa trẻ sinh

ra. Việc đăng ký khai sinh phải được tiến hành trong vòng 42 tiếng đồng hồ

kể từ lúc đứa trẻ sinh ra. Giấy khai sinh được cấp ngay sau khi đăng ký.

Đăng ký kết hôn, ly hôn phải được thực hiện tại Văn phòng đăng ký

cấp quận huyện nơi diễn ra sự kiện kết hôn, ly hôn.

Đăng ký khai tử trong vòng 05 ngày tại văn phòng đăng ký trong khu

vực nơi người chết. Những người có thể đăng ký khai tử: một người thân, ai

đó có mặt tại cái chết, người cư ngụ trong nhà, một quan chức bệnh viện,

người thực hiện các thỏa thuận với các giám đốc tang lễ. Trường hợp thai

chết lưu phải được đăng ký trong vòng 42 ngày và chậm nhất trong vòng ba

tháng. Trong nhiều trường hợp điều này có thể được thực hiện tại bệnh viện

hoặc tại văn phòng đăng ký địa phương.

Khác với Ai Len, Anh và xứ Wales, ở Nhật Bản, Luật Hộ tịch Nhật

Bản quy định hộ tịch được lập thành bản chính và bản phụ. Bản chính được

lưu giữ tại Uỷ ban hành chính thành phố hoặc Uỷ ban hành chính làng,

huyện. Bản phụ được gửi cho Cục Tư pháp quản hạt hoặc Sở Tư pháp địa

phương hoặc các Chi cục trực thuộc lưu trữ.Cá nhân cũng có thể yêu cầu

được giao cho giấy chứng nhận liên quan đến các mục ghi chép trong bản

sao hoặc bản trích lục hộ tịch hoặc bản hộ tịch đó trừ trường hợp không có

mục đích chính đáng.

Cán bộ thực hiện đăng ký hộ tịch sẽ ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch.

Vấn đề đăng ký hộ tịch được Luật Hộ tịch Nhật Bản xác định là nghĩa

vụ của công dân.Vì vậy, khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng sẽ

bị áp dụng chế tài. Luật Hộ tịch Nhật Bản quy định phạm vi điều chỉnh

tương đối rộng, bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, đăng ký thừa nhận

con thông qua việc tuyên bố ý chí, nhận nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố

mất tích, chấm dứt việc nuôi con nuôi, thông báo về tình trạng hôn nhân…

46

việc thông báo này được coi là nghĩa vụ.

Theo pháp luật đăng ký hộ tịch của Nhật Bản, trong trường hợp thông

báo sai và dẫn đến việc ghi vào sổ đăng ký hộ tịch không đúng sự thật thì

người thông báo sai sẽ bị phạt tù có thời hạn không quá 5 năm hoặc bị phạt

tiền. Khi kê khai sai trong hộ tịch có thể sửa thông qua thủ tục pháp lý. Như

vậy, pháp luật về đăng ký hộ tịch Nhật Bản đề cập đến việc “sửa” các vấn đề

liên quan đến hộ tịch. Thuật ngữ này tương tự như thuật ngữ “cải chính”

trong pháp luật hộ tịch Việt Nam.

Đối với việc đăng ký khai sinh phải được thực hiện trong vòng 14

ngày (đối với trường hợp sinh ở ngoài Nhật Bản thì là trong vòng 3 tháng).

Trường hợp bác sỹ, hộ sinh hoặc người khác chứng kiến việc sinh đẻ thì nộp

đơn đăng ký kèm với giấy chứng sinh do một trong các người đó lập theo

thứ tự bác sỹ, hộ sinh, người khác theo qui định của Thông tư Bộ Tư pháp,

Thông Tư Bộ Y tế lao động, trừ trường hợp có lý do không tránh khỏi.

Trường hợp sinh đẻ trên tầu hỏa hoặc các phương tiên vận tải khác (trừ tầu

thủy, áp dụng tương tự với các qui định dưới đây) thì có quyền đăng ký khai

sinh tại địa điểm mà người mẹ rời khỏi phương tiện vận chuyển đó, nếu là

sinh trên tầu thủy không có nhật ký tầu thì là nơi đầu tiên tầu đó ghé vào.

Khi tầu cập cảng nước ngoài, thuyền trưởng phải nhanh chóng gửi cho đại

sứ, công sứ hoặc lãnh sự Nhật Bản tại nước đó bản sao nhật ký hàng hải có

liên quan đến việc sinh đẻ đó, và đại sứ, công sứ hoặc lãnh sự Nhật Bản phải

nhanh chóng thông qua Bộ trưởng ngoại giao gửi cho chủ tịch xã phường thị

trấn nơi có hộ tịch bản sao đó.

Việc đăng ký khai sinh cho trẻ trong giá thú phải do bố hoặc mẹ thực

hiện, nếu bố mẹ ly hôn trước khi sinh trẻ thì phải do mẹ thực hiện.

Trường hợp người phải đăng ký theo qui đinh không thể đăng ký được

thì người đại diện theo pháp luật của người đó có quyền đăng ký.

47

Trường hợp sinh tại bệnh viện, nhà tù hoặc các trại công cộng, nếu cả

bố và mẹ đều không thể đăng ký khai sinh được thì giám đốc hoặc người

quản lý của các trại công cộng đó phải đăng ký.

Đối với việc công nhận cha mẹ con: người định công nhận quan hệ

cha con ghi vào đơn đăng ký các nội dung dưới đây và phải đăng ký các nội

dung đó; trường hợp bố công nhận thì ghi họ tên và nơi đăng ký hộ tịch của

mẹ; nếu công nhận con đã tử vong thì ghi ngày tháng năm tử vong và họ tên

của ông bà bố mẹ, trực hệ, ngày tháng năm sinh và nơi đăng ký hộ tịch.

Trường hợp công nhận con đang là thai nhi thì ghi nội dung đó, họ tên và

nơi đăng ký hộ tịch của mẹ vào đơn đăng ký và phải đăng ký tại nơi đăng ký

hộ tịch của mẹ.

Luật Hộ tịch của Đài Loan quy định rất rộng những vấn đề liên quan

đến cá nhân mỗi người, bao gồm việc lập hộ, việc sinh, tử, đăng ký thừa

nhận, nhận nuôi con nuôi, đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký giám hộ, tuyên

bố chết, đăng ký di dời (chuyển đến, chuyển đi, thay đổi địa chỉ nơi ở).

Pháp luật hộ tịch của Đài Loan cho phép uỷ thác đăng ký hộ tịch dưới

hình thức bằng văn bản.Mở rộng diện những người được xin đăng ký sau khi

phát sinh hoặc xác định việc đăng ký hộ tịch mà không có người xin đăng

ký.Người có quyền lợi liên quan có thể là người xin đăng ký.Ngoài ra, Luật

Hộ tịch Đài Loan còn quy định vấn đề thay đổi, cải chính và huỷ, xoá và sửa

việc đăng ký hộ tịch.

Ở Hàn Quốc, việc thực hiện đăng ký hộ tịch bằng điện tử, người dân

có thể đến đăng ký hộ tịch tại bất kỳ cơ quan đăng ký hộ tịch (cấp quận hoặc

cấp phường).

Đối với việc đăng ký khai sinh: pháp luật Hàn Quốc quy định thời hạn

đăng ký khai sinh trong vòng một tháng kể từ ngày sinh. Đăng ký trong thời

hạn quy định sẽ được miễn phí; nếu đăng ký quá hạn thì người đi đăng ký

48

khai sinh sẽ phải nộp tiền phạt, tuỳ theo thời hạn mà mức nộp phạt sẽ khác

nhau. Cha, mẹ phải có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh cho con, trường hợp

cha mẹ không đi được thì có thể viết giấy uỷ quyền nhưng phải trực tiếp

khai và ký vào hồ sơ, nếu không có giấy uỷ quyền thì không được đăng ký

khai sinh. Người đi đăng ký khai sinh đến đăng ký trực tiếp hoặc gửi qua

đường bưu điện đến Uỷ ban nhân dân phường nơi người đó sinh sống hoặc

Uỷ ban nhân dân quận. Nếu đăng ký ở quận thì phường sẽ nhận thông tin

qua mạng để cấp Giấy khai sinh.

Trường hợp trẻ em chết ngay sau khi sinh: vừa làm thủ tục đăng ký

khai sinh, vừa đăng ký khai tử cùng lúc.

Đối với việc đăng ký kết hôn: Ở Hàn Quốc, khi hai công dân Hàn

Quốc đăng ký kết hôn, chỉ cần làm Giấy đăng ký sau đó đến đăng ký tại cơ

quan hộ tịch là được công nhận mà không cần phải nộp thêm bất cứ một loại

giấy tờ nào khác. Cơ quan hộ tịch có trách nhiệm tìm kiếm thông tin trên

mạng để xác định về tình trạng hôn nhận của mỗi bên kết hôn.Trường hợp

kết hôn có yếu tố nước ngoài thì phái người nước ngoài có trách nhiệm phải

tự chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình.

Pháp luật Ấn Độ quy định việc đăng ký khai sinh và khai tử phải

được thực hiện tại Phòng đăng ký cấp quận, huyện. Mỗi quận, huyện có 01

phòng đăng ký. Sau khi đăng ký, các thông tin về việc sinh, tử sẽ được ghi

vào Sổ đăng ký.

Luật Hộ tịch Lào điều chỉnh các việc về hộ tịch

Đối với việc đăng ký khai sinh: Luật Hộ tịch Lào quy định sau khi

nhận được Giấy chứng sinh từ trưởng bản, người làm đơn phải đi đăng ký

khai sinh ở cơ đăng ký hộ tịch của chính quyền huyện, thị trấn nơi mình cư

trú trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được Giấy chứng sinh. Bộ phận

đăng ký hộ tịch tại Sứ quán hoặc Lãnh sự quán nước Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào tại nước ngoài, sau khi nhận được thông báo có trẻ mới sinh cũng

49

phải đăng ký khai sinh trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận được thông tin.

Đối với việc đăng ký kết hôn, ly hôn: Đăng ký kết hôn, ly hôn được

tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ tịch của chính quyền huyện, thị xã nơi cả

hai cư trú hoặc nơi ở của một trong hai người hoặc nơi ở của bố mẹ của một

hoặc cả hai người. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và cấp Giấy chứng

nhận kết hôn, ly hôn trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận được đơn.

Việc đăng ký kết hôn, ly hôn giữa công dân Lào và công dân nước

ngoài thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch của chính quyền tỉnh, thành phố.

Việc đăng ký kết hôn của công dân Lào tại nước ngoài thực hiện tại

Phòng đăng ký hộ tịch tại Sứ quán hoặc Lãnh sự quán nước CHDCND Lào

tại nước đó.

Đối với việc đăng ký nhận cha:Nếu như Luật Hộ tịch Ai-len và một số

nước không quy định cụ thể vấn đề nhận cha thì Luật Hộ tịch Lào quy định

rõ về thủ tục này. Đăng ký nhận cha được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ

tịch của cơ quan tư pháp nơi tòa án có quyết định về việc nhận cha.

Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và cấp Giấy chứng nhận nhận

cha trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định của tòa án có hiệu lực.

Việc đăng ký nhận cha được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ tịch của cơ

quan tư pháp người giám hộ cư trú. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và

cấp Giấy chứng nhận giám hộ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày trưởng bản

xác định người giám hộ.

Đối với việc đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch: Việc thay đổi họ và

tên của cá nhân tới tuổi vị thành niên được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ

khẩu của Cơ quan công an nơi người đăng ký thường trú. Trong trường hợp

việc thay đổi họ hoặc tên là trẻ em chưa tới tuổi vị thành niên được tiến hành

tại cơ quan đăng ký hộ khẩu nơi bố mẹ hoặc người giám hộ thường trú.

Cơ quan đăng ký hộ khẩu của Cơ quan công an nói trên cần phải đăng

ký và cấp giấy chứng nhận việc thay đổi họ hoặc tên trong vòng 5 ngày làm

50

việc hành chính tình từ ngày nhận được đơn đăng ký.

Đối với việc đăng ký khai tử: Nếu một cá nhân trong gia đình chết thì

đại diện gia đình phải thông báo cho Trưởng bản. Khi nhận được tin có

người chết, trưởng bản hoặc cán bộ công an phải cấp giấy chứng tử trong

thời hạn 05 ngày để làm bằng chứng. Trường hợp chết mà không rõ nguyên

nhân hoặc chết vì dịch bệnh nguy hiểm thì phải khẩn trương thông báo cho

cán bộ công an hoặc cán bộ y tế và tạm hoãn cấp Giấy chứng tử đến khi

nhận được chỉ đạo từ các cơ quan hữu quan. Cá nhân nào chữa trị cho bệnh

nhân hoặc trong quá trình đỡ đẻ theo chuyên môn của mình mà người bệnh

hoặc trẻ sơ sinh bị chết thì cá nhân đó phải cấp Giấy chứng tử ngay lập tức.

Ở Việt Nam về hình thức đăng ký hộ tịch thì pháp luật quy định rất cụ

thể từng loại việc người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải đến đăng ký trực tiếp

không được uỷ quyền, loại việc được uỷ quyền, thời hạn đăng ký các việc hộ

tịch ví dụ như: 60 ngày kể từ ngày sinh thì cha mẹ của trẻ phải có trách

nhiệm đi đăng ký khai sinh hoặc 15 ngày kể từ ngày chết người thân thích

của người chết phải có trách nhiệm đi đăng ký khai tử… . Tại thành phố Hà

Nội, chính phủ đang xây dựng và phát triển chính phủ điện tử cho phép các

việc đăng ký hộ tịch người dân được nộp hồ sơ trực tuyến và đến hẹn thực

nhận kết quả tại cơ quan đăng ký hộ tịch – dịch vụ công trực tuyến mức độ 3

lĩnh vực tư pháp hộ tịch trên toàn thành phố.

Nhìn chung, mỗi quốc gia đều có những quy định riêng về phương

thức đăng ký hộ tịch cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cũng

như phong tục tập quán của họ; đồng thời đảm bảo thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về hộ tịch một cách có hiệu quả nhất.

* Mã số cá nhân

Mã số cá nhân có nghĩa tiếng Anh là “personal identification number”,

viết tắt là ID. Bản chất của mã số cá nhân là dùng để nhận dạng cá nhân.Mã

51

số cá nhân cho phép tìm thấy giấy tờ hộ tịch và trong cuộc sống hàng ngày,

các cá nhân có thể chứng minh danh tính của mình thông qua số cá nhân chứ

không chỉ thông qua họ tên, ngày tháng năm sinh.Mã số cá nhân hiện nay

đang được áp dụng ở một số nước tiên tiến trên thế giới.

Theo quan điểm của các nhà lập pháp của Cộng hoà Pháp thì mã số cá

nhân là một vấn đề nhạy cảm, không muốn quy công dân thành những con

số. Tại Pháp, mỗi người có một số bảo hiểm xã hội, số bảo hiểm xã hội cho

phép tiến hành một số thủ tục nhưng không được phép sử dụng để chứng

minh danh tính và không được nêu trong giấy tờ hộ tịch.

Pháp luật cộng hoà Liên bang Đức quy định mỗi cá nhân có một số

riêng ghi tại Sổ đăng ký hộ tịch. Trước năm 2007, Cộng hoà liên bang đức

không có hệ thống mã số định danh quốc gia mà chỉ có hệ thống mã số căn

cước. Ở giai đoạn này, các cơ sở dữ liệu không tập trung được xây dựng bởi

các công ty bảo hiểm xã hội, Trên thực tế, hệ thống mã số này được xem là

gần với hệ thống mã số cá nhân.Từ năm 2008, một hệ thống mã số thuế cá

nhân toàn liên bang mới được giới thiệu. Theo đó, ngay từ khi sinh ra, công

dân Đức cũng như công dân nước ngoài làm thủ tục đăng ký khai sinh tại

Đức hoặc cư trú dài hạn tại Cộng hoà liên bang Đức sẽ được cấp mã số thuế

áp dụng thống nhất trên toàn liên bang. Nhà nước Đức quản lý công dân

bằng cả hai phương thức là quản lý dữ liệu dân sự công dân như sinh tử, kết

hôn, ly hôn… và bằng mã số định danh.

Ở Hoa Kỳ, việc quản lý công dân chủ yếu được tiến hành qua việc

quản lý số định danh công dân. Mỗi công dân đều có thẻ an sinh xã hội, lưu

trữ đầy đủ thông tin về nhân thân của mỗi cá nhân. Hệ mã số an sinh xã hội

(SSN-Social Security Number) gồm 9 chữ số được cấp cho các công dân

Hoa Kỳ, người cư trú dài hạn, người cư trú (làm việc tạm thời). Ban đầu, mã

số được hình thành nhằm mục đích phân phối an sinh xã hội, nhang ngày

52

nay nó còn được sử dụng cho mục đích thuế. Luật pháp không có quy định

nào bắt buộc mọi người phải có mã số an sinh xã hội nếu như họ không có

hoạt động nào liên quan đến an sinh xã hội hay thuế. Tuy nhiên, trong thực

tế, khi mở tài khoản ngân hàng hoặc xin giấy phép lái xe, các cơ quan có

thẩm quyền đều yêu cầu xuất trình mã số an sinh xã hội, dẫn đến việc tất cả

công dân Hoa Kỳ đều có mã số an sinh xã hội. Trong những năm gần đây,

mã số an sinh xã hội trở thành mã số định danh quốc gia.

Tại Áo, khi đăng ký khai sinh, mỗi công dân có một số, không có sự

trùng lặp. Mã số công dân là hình thức định danh điện tử dùng cho Internet.

Mọi người có thể sử dụng mã số công dân để xác định bản thân thông qua

các phương tiện kỹ thuật số trước cơ quan công quyền hoặc để nhận dạng và

chứng thực duy nhất. Luật Chính phủ điện tử quy định mã số công dân phải

chứa chữ ký điện tử đủ tiêu chuẩn, đảm bảo các tính năng của mã số, và khi

đó, chữ ký điện tử được coi là có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký viết

tay, được sử dụng không hạn chế trong các giao dịch thương mại và quốc tế.

Bên cạnh chữ ký điện tử, mã số công dân phải bao gồm một đường dẫn định

dạng có chứa dữ liệu an ninh và chức năng tương ứng và đồng thời cũng

thay thế cho vô số các kết hợp tên và mật khẩu. Mã số công dân có nhiều

hình thức khác nhau, không phụ thuộc vào một loại công nghệ cụ thể nào, có

thể là thẻ, chữ ký điện thoại di động, thẻ chip… Để nhận diện một người

đang tham gia thủ tục điện tử, cần có một thuộc tính riêng biệt để định danh

họ. Nếu chỉ có tên thôi chưa đủ để định danh duy nhất một người, do đó mỗi

người đều được cấp một mã số định danh riêng. So sánh với các hệ thống

khác, mã số công dân có nhiều thế mạnh. Từ “mã số công dân” dung để mô

tả một khái niệm về quản lý nhận dạng, cho phép cơ quan nhà nước và

khách hàng của mình sử dụng dịch vụ điện tử một cách đơn giản và đảm

bảo. Như một dạng nhận dạng điện tử trên internet, mã số công dân cung cấp

nhận dạng người dung duy nhất và chứng thực nhận dạng đó, điều rất cần

53

thiết để đưa thủ tục điện tử vào sử dụng.

Sử dụng mã số công dân nghĩa là chứng minh nhận dạng của ai đó

một cách an toàn bằng phương thức điện tử giúp người đó không phải đến

trụ sở cơ quan nhà nước để làm thủ tục; đồng thời, với sự trợ giúp của chữ

ký điện tử, người dung có thể nộp một văn bản tuyên bố ý định một cách dễ

dàng, văn bản này có thể được kiểm tra dễ dàng để chắc chắn về tính xác

thực của nó.

Theo pháp luật Thuỵ Điển thì số định danh cá nhân là số định danh

công dân Thuỵ Điển (Swedishnational identification number).Số định danh

cá nhân bao gồm 10 số và một dấu gạch nối. Số định danh cá nhân có từ khi

cha mẹ thông báo đứa trẻ sinh ra. Trong trường hợp được chấp nhận thì số

định danh cá nhân có thể được thay đổi trong trường hợp đăng ký khai sinh

nhầm ngày sinh hay giới tính.

Cũng giống như pháp luật Cộng hoà Áo và Thuỵ Điển, pháp luật Nhật

Bản quy định cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản sẽ cung cấp cho công

dân của họ một số đăng ký và thẻ công dân.

Theo pháp luật Hàn Quốc, khi đăng ký khai sinh, mỗi công dân Hàn

Quốc đều được cấp một số công dân. Số này sẽ theo suốt cuộc đời của mỗi

người. Việc đăng ký công dân được thực hiện từ năm 1962 và từng bước

được điện tử hóa từ năm 1994.Người dân chỉ phải thực hiện đăng ký để cấp

mã số công dân một lần, sau đó có thể xin xác nhận về mã số công dân tại

bất kỳ cơ quan hành chính nào trên cả nước. Mã số công dân gồm 13 chữ số,

trong đó 6 chữ số đầu tiên thể hiện ngày tháng năm sinh của công dân, chữ

số thứ 7 thể hiện giới tính (số 1 là giới tính Nam và số 2 là giới tính nữ), chữ

số thứ 8 đến thứ 11 là mã số vùng (cấp xã); chữ số thứ 12 là số thứ tự đăng

ký công dân tại cơ quan đăng ký trong ngày (cấp xã); chữ số cuối cùng là số

kiểm chứng được tự động cài đặt trong phần mềm máy tính để đảm bảo mã

54

số công dân không bị trùng nhau. Cơ quan nhà nước sử dụng mã số công

dân để quản lý công dân trong các lĩnh vực như giáo dục, quân sự, bầu cử,

giao dịch ngân hàng, mua bán tài sản… Công dân Hàn Quốc từ đủ 17 tuổi sẽ

được cấp Thẻ công dân trong đó chưa đựng thông tin về họ tên, địa chỉ

thường trú, dẫu vân tay, mã số công dân…

Tại Bosnia và Herzegovina, để quản lý công dân, cơ quan lập pháp

Bosnia và Herzegovina đã ban hành Luật số định danh cá nhân. Luật này

quy định cách thức, vị trí, việc đăng ký, lưu trữ và sử dụng số định danh cá

nhân của công dân Bosnia và Herzegovina và người nước ngoài sống trên

lãnh thổ Bosnia và Herzegovina.

Số định danh cá nhân (personal identification number) sẽ được thể

hiện trong chứng minh nhân dân, giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn và

đăng ký khai tử, hồ sơ tuyển dụng, thẻ bảo hiểm y tế, giấy tờ đi lại, bằng lái

xe, giấy phép bắn súng, các giấy tờ công dân hoặc một số giấy tờ, tài liệu

khác trong trường hợp luật định (Điều 18 Luật số định danh cá nhân). Số

định danh cá nhân sẽ được cấp tại nơi sinh nơi công dân đăng ký khai sinh

(Điều 8 Luật số định danh cá nhân).

Ở Việt Nam, khi luật Hộ tịch ra đời đã quy định rất rõ Số định danh cá

nhân của người được đăng ký khai sinh (Điều 14) – là một trong những nội

dung quan trọng trong đăng ký khai sinh. Số định danh cá nhân của người

được đăng ký khai sinh được cấp khi đăng ký khai sinh. Thủ tục cấp số định

danh được thực hiện theo Luật căn cước công dân và Nghị định quy định chi

tiết thi hành Luật căn cước công dân, trên cơ sở bảo đảm đồng bộ với Luật

hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Xét từ phương diện khoa học quản lý nhà nước thì quản lý hộ tịch có vị

trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Đây là lĩnh vực trọng yếu của nền

55

hành chính mà mọi quốc gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và

trình độ phát triển, đều phải quan tâm. Sự vững mạnh của một quốc gia liên

quan mật thiết với hiệu quả của hoạt động quản lý dân cư nói chung và quản

lý hộ tịch nói riêng. Có thể khẳng định rằng, các vấn đề pháp lý về quản lý hộ

tịch có tầm quan trọng tương tự như các vấn đề pháp lý về quốc tịch, về biên

giới quốc gia, về tổ chức bộ máy nhà nước… Vì vậy, quản lý hộ tịch phải

được điều chỉnh bằng một đạo luật do Quốc hội ban hành. Trên thế giới,

nhiều nước như Đức, Nhật Bản, Đài Loan… đều điều chỉnh vấn đề quản lý hộ

tịch bằng văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành. Nhìn chung, mỗi

nước có một mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch phù hợp với đặc thù văn hoá,

kinh tế, xã hội của nước đó, nhằm đảm bảo quản lý nhà nước về hộ tịch đạt

hiệu quả cao nhất.

Qua phần nghiên cứu về pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, so

sánh đánh giá với các quy định pháp luật hộ tịch của Việt Nam đã cho chúng

ta thấy có nhiều nét tương đồng. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về mặt khái niệm, trong khoa học pháp lý của các nước khác

và ở Việt Nam đều ghi nhận hộ tịch và đăng ký hộ tịch là việc ghi nhận các sự

kiện như sinh, kết hôn, tử … đó là quyền và trách nhiệm giữa hai chủ thể là cá

nhân và nhà nước. Như vậy mặt ngôn ngữ thì từ Hộ tịch đang được ghi nhận

trong Luật hộ tịch của chúng ta có sự tương đồng về mặt ngữ nghĩa với các

khái niệm của pháp luật hộ tịch trên thế giới. Với tính cách là một hình thức

chức đựng những thông tin rất quan trong về cá nhân thì pháp luật hộ tịch

Việt Nam và pháp luật hộ tịch các quốc gia khác đều cân nhắc và lựa chọn

phương thức đăng ký hộ tịch để tạo sự thuận lợi cho công dân và sự quản lý

của Nhà nước.

Thứ hai, đều có các quy định về trách nhiệm của người đi đăng ký các

các sự kiện hộ tịch (quy định rõ đối tượng có trách nhiệm, đối tượng có liên

56

quan đến sự kiện hộ tịch phải đi đăng ký hộ tịch);

Thứ ba, pháp luật các nước trong đó có Việt Nam quy định rõ thời hạn đi

đăng ký các sự kiện hộ tịch, quy định rõ thời hạn giải quyết các sự kiện hộ tịch

Thứ tư, các sự kiện hộ tịch của cá nhân khi đăng ký đều được ghi vào

sổ lưu, các sổ này phải được lưu giữ vĩnh viễn để phục vụ cho việc quản lý

của một quốc gia.Hiện nay, một số quốc gia trong đó có Việt Nam thì việc lưu

dữ các sự kiện hộ tịch thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Nhưng việc lưu giữ các sổ hộ tịch ở các nước khác nhau là khác nhau, ở Việt

Nam thì quy định từng loại sổ riêng biệt cho từng sự kiện hộ tịch cụ thể như:

sổ đăng ký kết hôn, sổ đăng ký khai sinh, sổ đăng ký khai tử, sổ nhận cha mẹ

con, sổ đăng ký giám hộ…. Bên cạnh đó một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài

Loan, Nhật Bản quy định việc đăng ký khai

Kết luận chƣơng 1

Tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hộ

tịch, khái niệm hộ tịch, khái niệm đăng ký hộ tịch, vị trí vai trò của đăng ký,

quản lý hộ tịch; pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới

và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, qua việc nghiên cứu và phân tích các

quy định pháp luật hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới để chúng ta thấy

được những điểm tương đồng của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc

tế.Đây là phần lí luận quan trọng làm cơ sở tiếp tục cho việc nghiên cứu phần

thực trạng pháp luật hộ tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông

57

Anh, thành phố Hà Nội.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬTVỀ HỘ TỊCH

TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH

2.1. Thực trạng pháp luật hộ tịch

2.1.1. Ưu điểm của pháp luật hộ tịch

Sau khi giành được chính quyền vào tháng 8/1945, Nhà nước ta luôn

quan tâm đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt

động đăng ký, quản lý hộ tịch, các văn bản này thường xuyên được điều

chỉnh, sửa đổi, bảo đảm phù hợp với thực tế. Đầu tiên là Sắc lệnh số 47/SL

ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến Bản Điều lệ hộ tịch năm

1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính

phủ; tiếp theo đó là Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 ban hành kèm theo

Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961. Giai đoạn gần đây có các văn bản như

Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ

tịch; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định

chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội

về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP

ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-

CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước

ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 158/2005/NĐ-

CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định

số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; Nghị định

58

số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình

có yếu tố nước ngoài.

Đến kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch ngày

20/11/2014. Đây là lần đầu tiên có văn bản Luật quy định riêng về lĩnh vực

đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện các văn bản dưới luật. Luật

có nhiều quy định mới mang tính đột phá, “cách mạng” về: thẩm quyền đăng

ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách mạnh thủ tục hành

chính. Để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch, Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Bộ Tư pháp đã ban hành

Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết một số điều và

biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; liên Bộ Ngoại giao - Tư pháp đã ban hành

Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30/6/2016 hướng dẫn

việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện

lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, bảo đảm hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật điều chỉnh hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch được đồng bộ, thống nhất.

Trên cơ sở các văn bản pháp lý trên, với sự nỗ lực của các cơ quan

quản lý nhà nước về hộ tịch đã tôn trọng quyền nhân thân của các cá nhân

thực hiện việc đăng ký hộ tịch

Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của

công tác hộ tịch. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký

và quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản

lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

Điểm mới cơ bản của Luật Hộ tịch như sau:

Thứ nhất, Luật Hộ tịch năm 2014, đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn

các nội dung đăng ký hộ tịch; đã phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ

hộ tịch, sự kiện nào là Ghi vào Sổ hộ tịch. Theo đó:

59

- Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai

sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác

định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.

- Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của

cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao

gồm: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi

con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp

luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên

bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

- Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết

hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay

đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài.

- Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định

của pháp luật.

Thứ hai, theo quy định của Luật hộ tịch thì cá nhân có quyền lựa chọn

cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình tại nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang

sinh sống mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây.

Cụ thể tại khoản 4 Điều 5 của Luật “cá nhân có thể được đăng ký hộ

tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh

sống. Trường hợp cá nhân không đăng ký tại nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân

cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho

cá nhân có trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp

xã nơi cá nhân đó thường trú”.

Thứ ba, Luật phân định rõ thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban

nhân dân cấp xã, cấp huyện, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.

Theo đó, ngoài việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên

60

cư trú trong nước, xác định lại dân tộc thì Ủy ban nhân dân cấp huyện được

giao thêm thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho giải quyết toàn bộ các việc đăng

ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài (trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra

tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực

biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu

vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt

Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường

trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn

định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam).

Thứ tư, Luật quy định khi thực hiện đăng ký hộ tịch thì cá nhân có

quyền lựa chọn 01 trong 03 phương thức đăng ký hộ tịch như sau:

- Nộp hồ sơ trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch;

- Thông qua hệ thống bưu chính;

- Thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến khi điều kiện cho phép.

Đây là điểm mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch,

hiện đại nhằm bảo đảm lợi ích của người dân.

Thứ năm, Luật quy định miễn lệ phí đăng ký hộ tịch cho các trường hợp sau:

- Người thuộc gia đình có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo;

người khuyết tật;

- Đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân

Việt Nam cư trú trong nước.

Luật quy định thời hạn đăng ký khai sinh là trong vòng 60 ngày kể từ

ngày sinh con; thời hạn đăng ký khai tử là trong vòng 15 ngày kể từ ngày có

người chết.

Như vậy, nếu Cá nhân yêu cầu đăng ký sự kiện hộ tịch khác ngoài quy

định nêu trên, yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch thì phải nộp lệ phí.

61

Thứ sáu, Luật quy định nội dung đăng ký khai sinh gồm: Thông tin của

người được đăng ký khai sinh; thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai

sinh và số định danh cá nhân của người được đăng ký khai sinh. Như vậy, khi

đăng ký khai sinh, người được đăng ký khai sinh sẽ được cấp 01 mã số định

danh cá nhân được ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số thẻ căn cước

công dân của người đó khi đủ tuổi được cấp Thẻ căn cước công dân.

Đây là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản

lý dân cư, là tiền đề quan trọng tiến tới việc cắt giảm nhiều loại giấy tờ, tạo thuận

lợi cho người dân khi tham gia giao dịch, thực hiện các thủ tục hành chính.

Thứ bảy, Luật quy định khi đăng ký hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ

cấp 01 bản chính trích lục hộ tịch cho người yêu cầu đăng ký hộ tịch, trừ việc

đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn.

Như vậy, theo quy định của Luật Hộ tịch thì cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ

cấp bản chính Giấy khai sinh, bản chính Giấy chứng nhận kết hôn và bản

chính trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của người yêu cầu đăng ký.

Bên cạnh đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu

cấp bản sao, Luật cũng quy định “cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có

quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ

tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký”.

Thứ tám, Luật quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở

dữ liệu ngành, được lập trên cơ sở tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch để lưu

giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (cùng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để cung

cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Theo đó, các sự kiện hộ tịch của cá nhân ngay sau khi đăng ký vào Sổ

hộ tịch đều phải được cập nhật kịp thời, đầy đủ, chính xác vào Cơ sở dữ liệu

hộ tịch điện tử; các Bộ, ngành, địa phương sử dụng thông tin công dân từ Cơ

sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa

phương mình, cũng như giải quyết thủ tục hành chính cho người dân.

62

Tuy nhiên Luật cũng quy định rõ trong trường hợp thông tin trong Cơ sở

dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khác với thông tin

trong Sổ hộ tịch thì phải điều chỉnh cho phù hợp với Sổ hộ tịch; đồng thời “Cơ

sở dữ liệu hộ tịch được quản lý, bảo mật, bảo đảm an toàn; chỉ những cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới được tiếp cận và khai thác theo quy định

của pháp luật”.

Thứ chín, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác hộ tịch,

tăng cường trách nhiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót, vi phạm trong

công tác đăng ký, quản lý hộ tịch, Luật quy định rõ tiêu chuẩn, trình độ,

nhiệm vụ, quyền hạn của công chức làm công tác hộ tịch, kể cả những việc

công chức làm công tác hộ tịch không được làm.

2.1.2. Những hạn chế của thực hiện pháp luật về hộ tịch

Luật Hộ tịch đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua và hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.

Luật ra đời đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác đăng ký, quản

lý hộ tịch từng bước ổn định và đi vào nề nếp, cơ sở vật chất từng bước

được cải thiện.

Các cơ quan thực hiện việc đăng ký hộ tịch đã ý thức được trách nhiệm

của mình, người dân đã nhận thức tầm quan trọng của giấy tờ hộ tịch nên

không tùy tiện sửa chữa, thêm, bớt; tự giác thực hiện đi đăng ký các sự kiện

hộ tịch theo đúng thời gian quy định của pháp luật. Công chức Tư pháp - hộ

tịch cấp xã đã xác định được tầm quan trọng của công tác này nên đã tuân thủ

trình tự, thủ tục của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; thường

xuyên tham gia tập huấn, tự nghiên cứu, học hỏi để nâng cao kỹ năng giải

quyết công việc với từng tình huống cụ thể, tuân thủ đúng quy định của pháp

luật về hộ tịch góp phần làm giảm đáng kể các vụ việc khiếu nại, tố cáo về hộ

tịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đăng ký hộ tịch ở

63

địa phương gặp những khó khăn, vướng mắc như sau:

- Thứ nhất, về thẩm quyền đăng ký hộ tịch: Luật Hộ tịch chưa quy định

cụ thể như thế nào là “định cư ở nước ngoài” nên đã gây khó khăn trong việc

phân định thẩm quyền giữa UBND cấp xã và cấp huyện. Cụ thể, Luật Hộ tịch

quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn của UBND huyện như sau:

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực

hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước

ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân

Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở

nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc

tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.

và theo Khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định

"Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc

Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài". Vậy thế nào là “sinh sống

lâu dài ở nước ngoài”, hiện nay Luật Quốc tịch, Luật Hộ tịch và các văn bản

hướng dẫn thi hành chưa hướng dẫn cụ thể vấn đề này.

- Thứ hai, về đăng ký khai sinh: Luật Hộ tịch không quy định công dân

được cấp lại bản chính giấy khai sinh. Qua thực tế, quy định này gây khó

khăn cho công dân, bởi vì, một số cơ quan, đơn vị vẫn yêu cầu có bản chính

để đối chiếu. Mặt khác tâm lý của người dân luôn muốn có bản chính giấy

khai sinh, do đó nhu cầu cấp lại bản chính giấy khai sinh của người dân là rất

cần thiết. Đề nghị nên sửa đổi Luật Hộ tịch cho phép UBND cấp huyện được

cấp lại bản chính giấy khai sinh như quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-

CP trước đây.

+ Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BTP về

việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có cha hoặc mẹ là

Công dân Việt Nam hoặc cha và mẹ đều là công dân Việt Nam, chưa được

64

đăng ký khai sinh ở nước ngoài, về cư trú tại Việt Nam thì phải nộp các giấy

tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam (như: Hộ chiếu, giấy

tờ có giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý

xuất, nhập cảnh và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về

việc trẻ em đang cư trú tại Việt Nam). Tuy nhiên, có một số trường hợp trẻ em

sinh ra ở nước ngoài tại các nước láng giềng như Lào khi đưa con về cư trú tại

Việt Nam thường không thực hiện các nguyên tắc, thủ tục theo quy định về

xuất nhập cảnh để xin hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế mà đưa con

về cư trú tại Việt Nam theo đường dân sinh, do đó khi đăng ký khai sinh cho

con không có các giấy tờ chứng minh trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam.

- Thứ ba, về đăng ký lại khai sinh: Tại Điểm c Khoản 1 Điều 26 Nghị

định 123/2015/NĐ-CP quy định:

Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh là cán bộ, công

chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì

ngoài các giấy tờ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này

phải có văn bản xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị về việc

những nội dung khai sinh của người đó gồm họ, chữ đệm, tên;

giới tính; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán;

quan hệ cha - con, mẹ - con phù hợp với hồ sơ do cơ quan, đơn vị

đang quản lý.

Quy định như trên chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức,

người đang công tác trong lực lượng vũ trang, còn một số đối tượng khác như

hưu trí, thương binh hay những người làm việc trong các Công ty, Tổng Công

ty thì không được áp dụng quy định nêu trên. Trong khi họ cũng cần thống

nhất giữa giấy tờ tùy thân và hồ sơ do cơ quan, đơn vị đang quản lý.

+ Tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định việc đăng ký lại

khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của

65

Việt Nam trước ngày 01/01/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ

tịch đều bị mất thì được đăng ký lại. Tuy nhiên, Nghị định chưa quy định về

điều kiện bản chính vẫn còn nhưng bị hư hỏng, rách nát thì có được đăng ký

lại hay không.

+ Theo quy định của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành

thì Giấy Đăng ký khai sinh lại được xem như Giấy Đăng ký khai sinh gốc.

Nhưng trên thực tế không có Điều, Khoản nào quy định nội dung này nên

trong quá trình thực hiện cơ quan Công an không căn cứ vào Giấy Đăng ký

khai sinh lại để thay đổi chứng minh nhân dân. Điều này đã gây khó khăn cho

các cơ quan đăng ký hộ tịch trong việc giải quyết, hướng dẫn cho người dân

thống nhất các nội dung liên quan đến vấn đề nhân thân của bản thân.

+ Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 123/2015/NĐ-

CP thì hồ sơ đăng ký lại khai sinh gồm “Tờ khai theo mẫu quy định, trong đó

có cam đoan của người yêu cầu về việc đã đăng ký khai sinh nhưng người đó

không lưu giữ được bản chính Giấy khai sinh” nhưng nội dung cam đoan này

không có trong mẫu Tờ khai. Việc cam đoan này được thực hiện như thế nào,

hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.

- Thứ tư, về đăng ký khai tử: Khoản 1 Điều 34 Luật Hộ tịch quy định:

“Người có trách nhiệm đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và

giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay thế giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ

tịch”. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì

Bộ Y tế hướng dẫn các cơ sở y tế thực hiện việc cấp giấy chứng sinh, giấy

báo tử. Tuy nhiên, hiện tại chưa có văn bản quy định cụ thể về mẫu giấy báo

tử nên gây lúng túng cho UBND cấp xã trong việc thực hiện cấp giấy báo tử

cho người chết trên địa bàn, cũng như trong việc thực hiện đăng ký khai tử.

+ Điều 32 Luật Hộ tịch quy định:

UBND cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc

66

đăng ký khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối

cùng của người chết thì UBND cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi

phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.

Điểm đ Khoản 2 Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định như sau:

Đối với người chết không thuộc một trong các trường hợp quy định

tại các Điểm a, b, c và d của Khoản này thì UBND cấp xã nơi người

đó chết có trách nhiệm cấp Giấy báo tử.

Quy định cấp Giấy báo tử như vậy chỉ phù hợp với trường hợp người

chết nằm ngoài địa bàn cư trú, còn trường hợp người chết tại nơi cư trú là

không phù hợp vì UBND xã nơi cư trú của người chết vừa cấp giấy báo tử

vừa đăng ký khai tử làm tăng thêm thủ tục không cần thiết.

- Thứ năm, về đăng ký nhận cha, mẹ, con: Theo quy định tại Khoản 2

Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định về chứng cứ chứng minh quan

hệ cha, mẹ, con gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác

có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha

con, quan hệ mẹ con.

2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì

phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng

minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan

của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất

hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng [3, Điều 15].

Thực tế có trường hợp vì khó khăn về kinh tế, cá nhân có yêu cầu

không thể liên hệ cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm

quyền để xác nhận quan hệ cha con, mẹ con hoặc họ cũng không còn người

thân thích để làm chứng. Do đó, quá trình tiếp nhận, giải quyết yêu cầu trong

trường hợp này, cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu công dân cung cấp chứng cứ

67

theo quy định tại Khoản 2 nêu trên, tuy nhiên cơ quan đăng ký gặp lúng túng

khi xác định giá trị của thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng chứng

minh mối quan hệ cha con, mẹ con hoặc trường hợp công dân không thể cung

cấp được chứng cứ này.

- Thứ sáu, về cải chính hộ tịch: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 28

Luật Hộ tịch “Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai

theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch”. Vậy

việc thực hiện cải chính Giấy Chứng nhận kết hôn thì cả vợ và chồng đều làm

Tờ khai hay chỉ người yêu cầu cải chính làm Tờ khai.

+ Tại mặt sau của Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn, “phần

ghi chú những thông tin thay đổi sau này”, có quy định đóng dấu vào nội

dung thay đổi, cải chính; đối với trường hợp thẩm quyền thay đổi, cải chính

hộ tịch của UBND cấp huyện thì công chức phòng Tư pháp thực hiện ghi chú.

Tuy nhiên, chưa có văn bản nào quy định rõ đóng dấu của UBND cấp huyện

hay dấu của phòng Tư pháp.

+ Trường hợp có sự sai lệch thông tin giữa Giấy khai sinh và Sổ hộ tịch

thì căn cứ vào loại giấy tờ nào để thực hiện việc cải chính. Hiện chưa có văn

bản nào quy định về vấn đề này nên gây khó khăn cho công chức Tư pháp -

hộ tịch trong quá trình giải quyết.

+ Đối với “quê quán” của công dân, pháp luật về hộ tịch chỉ quy định

thực hiện cải chính trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch nhưng

không quy định được thay đổi từ quê quán của bố sang quê quán của mẹ và

ngược lại. Điều này đã gây khó khăn, vướng mắc cho người dân trong việc

thông nhất các thông tin nhân thân trong các loại giấy tờ của bản thân.

- Thứ bảy, về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân: Tại Khoản 1

Điều 21 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định “Ủy ban nhân dân cấp xã,

nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình

68

trạng hôn nhân”. Trường hợp cấp Giấy Xác nhận tình trạng hôn nhân cho cán

bộ chiến sỹ lực lượng công an, bộ đội không đăng ký hộ khẩu thường trú tại

địa phương nhưng có hộ khẩu tập thể của đơn vị đóng quân được thực hiện

như thế nào thì Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể.

- Thứ tám, về xác minh trong đăng ký hộ tịch: Theo quy định của Luật

Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì hầu hết các sự kiện hộ tịch đều

quy định trường hợp hồ sơ không rõ ràng thì công chức Tư pháp - hộ tịch

tham mưu cho UBND các cấp thực hiện xác minh. Tuy nhiên, hiện tại Luật

Hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa

quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác minh ở các cơ quan có thẩm quyền ở

nước ngoài như thế nào vì trong thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp đăng ký

hộ tịch có yếu tố nước ngoài cần được xác minh.

- Thứ chín, quy định về thu hồi hủy bỏ giấy tờ hộ tịch: Tại Điểm h

Khoản 1 Điều 70 quy định trách nhiệm của UBND cấp huyện là thu hồi, hủy

bỏ giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp trái quy định của Luật Hộ tịch nhưng

Luật không quy định trình tự, thủ tục về thu hồi hủy bỏ gây khó khăn trong

quá trình áp dụng.

Quản lý và đăng ký hộ tịch là một nhiệm vụ quan trọng và thường

xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Thông qua hoạt động đăng ký hộ

tịch, nhà nước xác nhận các sự kiện hộ tịch phát sinh và có trách nhiệm bảo

hộ quyền nhân thân của cá nhân gắn liền với các sự kiện đó. Mặt khác, những

thông tin thu được từ việc quản lý hộ tịch là căn cứ quan trọng để các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền thống kê và phân tích dân cư, nghiên cứu khoa học,

hoạch định các chính sách về an ninh quốc phòng, dân số - kế hoạch hoá gia

đình, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch

không chỉ là quyền mà đồng thời là nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.

Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động quản lý và đăng ký hộ

69

tịch, nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm

tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Nhìn

chung, hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch hiện

hành đã quy định một cách tương đối đầy đủ, rõ ràng cả về thẩm quyền

trình tự và thủ tục đăng ký hộ tịch, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan

hệ đăng ký và quản lý hộ tịch, … làm cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt

động quản lý nhà nước về hộ tịch.

2.2. Thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh

2.2.1. Vị trí địa lý của huyện Đông Anh

2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, huyện có diện tích 18.213,9ha (182,139 km2) gồm 01 Thị trấn Đông Anh và 23 xã. Đông Anh có

ranh giới tự nhiên giáp với nhiều quận, huyện khác của Hà Nội bởi các dòng

sông: sông Hồng, sông Đuống, là ranh giới phía Nam của Đông Anh với quận

Bắc Từ Liêm, quận Tây Hồ và quận Long Biên, Hà Nội; sông Cà Lồ là ranh

giới phía Bắc với huyện Sóc Sơn. Về phía Đông- Đông bắc, Đông Anh giáp

huyện Yên Phong và Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, phía Tây giáp huyện Mê Linh, Hà

Nội. Đông Anh có diện tích thuộc loại lớn trong các huyện ngoại thành Hà Nội.

Với diện tích tự nhiên khá rộng lại nằm hoàn toàn ở phía Bắc của sông

Hồng và tiếp giáp với nội thành nên Đông Anh có vai trò vị trí chiến lược quan

trọng trong định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội hiện tại và tương lai.

2.2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội

Trong quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2020 - 2030

và tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định Đông Anh là đô thị lõi, có vị trí quan

trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Những năm qua, Đông

Anh đã từng bước cụ thể bằng đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp, thu hút nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước,

70

giải quyết việc làm cho lao động địa phương và của vùng.

Đặc biệt, cuối năm 2014, cầu Nhật Tân - cây cầu dây văng dài nhất

Việt Nam và duy nhất Hà Nội hoàn thành, nối đôi bờ sông Hồng qua huyện

Đông Anh đã tiếp thêm lợi thế để huyện hoàn thành các mục tiêu. Nhờ tuyến

giao thông này, khoảng cách từ Đông Anh vào trung tâm thành phố đã giảm

xuống còn 9km, trở thành tuyến giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh phía

bắc với những đầu mối giao thông như: Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào

Cai, đường QL 18…

Theo đó, trong những năm tới, Đông Anh sẽ tập trung phát triển các

trung tâm đô thị, trục không gian chính Nhật Tân - Nội Bài. Hiện nay, thành

phố Hà Nội đã lập quy hoạch chung hai bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài

và triển khai đầu tư xây dựng: Trung tâm Tài chính Thương mại Quốc tế

ASEAN; các đô thị, dịch vụ vui chơi giải trí đa năng nhiều nơi trong huyện.

Trên địa bàn huyện đang triển khai xây dựng: Trung tâm triển lãm quốc gia;

Công viên Kim Qui; khu đô thị xanh, khu đô thị sinh thái sông Cà Lồ; các

phân khu đô thị N5, N7, N8… với quy mô hàng nghìn ha. Các dự án này, có

vị trí hết sức thuận lợi, khi hoàn thành sẽ đáp ứng tối đa nhu cầu dịch vụ,

thương mại và nhà ở trên địa bàn.

Từ nay đến năm 2020, Đông Anh được kỳ vọng sẽ trở thành trung tâm

thương mại, tài chính, du lịch, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía bắc

thủ đô, là một “thành phố mới”, một phần năng động của thành phố. Để thực

hiện điều này, huyện tiếp tục phát triển thương mại, dịch vụ theo hướng đa

dạng hóa, nâng cao sản phẩm dịch vụ; Phát triển thị trường hàng hóa có tính

cạnh tranh cao, hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Bên cạnh đó, việc

chỉnh trang đô thị, đặc biệt là thị trấn Đông Anh; Xây dựng các siêu thị mua

sắm, các khu vui chơi giải trí,… cũng phải được đẩy mạnh, đáp ứng nhu cầu

ngày càng tăng.

71

Đặc biệt, việc quan tâm đầu tư xây dựng, tôn tạo và nâng cao giá trị của

khu di tích lịch sử Cổ Loa - Công trình văn hóa, lịch sử tiêu biểu của Đông

Anh sẽ là động lực đẩy mạnh thương mại, dịch vụ, du lịch của huyện phát

triển. Từ những nỗ lực đó, năm 2012, thành Cổ Loa đã được công nhận và cấp

Bằng di tích Quốc gia đặc biệt. Đây là một thuận lợi lớn trong việc bảo tồn và

phát huy giá trị của khu di tích thành cổ có niên đại sớm nhất, quy mô lớn

nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, khu di tích Cổ Loa nằm

trong cụm du lịch trọng điểm Vân Trì - Cổ Loa, với các sản phẩm chủ yếu là

du lịch thể thao, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần.

Trong những năm tới, đây chính là điểm nhấn trong lĩnh vực văn hóa - du lịch

và dịch vụ ở Đông Anh, tạo đà cho sự phát triển của những sản phẩm dịch vụ

trọng điểm khác của huyện.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Đông Anh đang ra sức cụ thể

mục tiêu: “Xây dựng Đông Anh trở thành huyện phát triển nhanh, bền vững

và ngày càng văn minh, giàu đẹp”. Với sự hội tụ ba yếu tố cả về “Thiên thời,

địa lợi và nhân hòa”, đặc biệt là khai thác đúng tiềm năng, “Thế và lực” của

Đông Anh sẽ được bộc lộ, mở ra chặng đường phát triển kinh tế - xã hội to

lớn hơn. Qua sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ, chính quyền, nhất là đã khơi

dậy truyền thống và vun bồi khát vọng cống hiến, xây dựng quê hương cho

mỗi người dân Đông Anh, tương lai không xa, sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của huyện nhà sẽ còn thu được những thành công rực rỡ hơn.

2.2.2. Thực trạng pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh

2.2.2.1. Đội ngũ công chức tư pháp hộ tịch

Trong giai đoạn đất nước phát triển như hiện nay, thì yêu cầu cải cách

hành chính đã và đang là xu hướng hội nhập quốc tế đặc biệt là nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ công chức. Trong tiến trình phát triển chung đó thì đội

ngũ công chức tư pháp hộ tịch cấp xã phường cũng đã không ngừng được

72

nâng cao về chất lượng, phát triển mạnh về số lượng. Đội ngũ công chức này

chính là bộ phận quan trọng trong việc đưa các chủ trương của Đảng, pháp

luật của Nhà nước vào cuộc sống và kiểm chứng tính đúng đắn của các chủ

trương, chính sách và pháp luật đó.

Theo số liệu thống kê của Sở tư pháp thành phố, tính đến ngày

14/8/2018 trên địa bàn huyện Đông Anh có 100% các xã và thị trấn đã bố trí

công chức tư pháp hộ tịch với 47 người làm việc tại 23 xã và 01 thị trấn; hầu

hết các xã đều bố trí 01 tư pháp phụ trách đăng ký hộ tịch, 01 tư pháp làm

công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư. Những năm trở lại đây chất lượng đội

ngũ công chức tư pháp đã có sự thay đổi rõ, trình độ chuyên môn, thái độ

phục vụ, tinh thần phục vụ được nâng cao hơn.

Về số lượng, Huyện Đông Anh có tại 23 xã và 01 thị trấn tổng số lượng

công chức tư pháp hộ tịch là 47 người, có 01 xã là có 01 công chức tư pháp

hộ tịch, còn lại là có 22 xã và thị trấn có 02 tư pháp hộ tịch

Về chất lượng, Trình độ văn hoá của toàn bộ công chức tư pháp đều đã

tốt nghiệp phổ thông trung học, trình độ chuyên môn có 05 người là Thạc sỹ,

và 42 đồng chí là cử nhân luật. Tất cả đội ngũ công chức tư pháp huyện Đông

Anh đã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng được yêu

cầu công việc,

2.2.2.2. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn cấp xã Huyện Đông Anh

* Kết quả đạt được

Qua gần 03 năm triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản quy

định chi tiết thi hành, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch tại Huyện Đông

Anh đã đạt được những kết quả quan trọng, như:

Kết quả giải quyết các công việc về hộ tịch năm 2018 như sau:

- Thẩm quyền cấp huyện: Đăng ký khai sinh: 10 trường hợp,Đăng ký

kết hôn: 26 đôi, Đăng ký khai tử: 0

73

- Thẩm quyền của UBND xã, thị trấn:

+ Thị trấn Đông Anh: Khai sinh: 395 trường hợp; Khai tử: 66 trường

hợp; Kết hôn: 148 cặp.

+ Xã Kim Nỗ: Khai sinh: 225 trường hợp; Khai tử: 44 trường hợp; Kết

hôn: 73 cặp.

+ Xã Cổ Loa: Khai sinh: 263 trường hợp; Khai tử: 89 trường hợp; Kết

hôn: 116 cặp.

+ Xã Dục Tú: Khai sinh: 232 trường hợp; Khai tử: 223 trường hợp; Kết

hôn: 84 cặp.

+ Xã Tiên Dương: Khai sinh: 151 trường hợp; Khai tử: 341 trường hợp;

Kết hôn: 49 cặp.

+ Xã Mai Lâm: Khai sinh: 171 trường hợp; Khai tử: 265 trường hợp;

Kết hôn: 69 cặp.

+ Xã Vĩnh Ngọc: Khai sinh: 241 trường hợp; Khai tử: 55 trường hợp;

Kết hôn: 71 cặp.

+ Xã Xuân Canh: Khai sinh: 168 trường hợp; Khai tử: 52 trường hợp;

Kết hôn: 66 cặp.

+ Xã Thụy Lâm: Khai sinh: 277 trường hợp; Khai tử: 105 trường hợp;

Kết hôn: 83 cặp.

+ Xã Liên Hà: Khai sinh: 249 trường hợp; Khai tử: 83 trường hợp; Kết

hôn: 80 cặp.

+ Xã Tàm Xá: Khai sinh: 63 trường hợp; Khai tử: 20 trường hợp; Kết

hôn: 26 cặp.

+ Xã Vân Hà: Khai sinh: 69 trường hợp; Khai tử: 21 trường hợp; Kết

hôn: 36 cặp.

+ Xã Nam Hồng: Khai sinh: 201 trường hợp; Khai tử: 78 trường hợp;

Kết hôn: 65 cặp.

+ Xã Việt Hùng: Khai sinh: 199 trường hợp; Khai tử: 84 trường hợp;

74

Kết hôn: 65 cặp.

+ Xã Uy Nỗ: Khai sinh: 217 trường hợp; Khai tử: 97 trường hợp; Kết

hôn: 83 cặp.

+ Xã Đông Hội: Khai sinh: 150 trường hợp; Khai tử: 86 trường hợp;

Kết hôn: 64 cặp.

+ Xã Võng La: Khai sinh: 134 trường hợp; Khai tử: 30 trường hợp; Kết

hôn: 50 cặp.

+ Xã Vân Nội: Khai sinh: 167 trường hợp; Khai tử: 63 trường hợp; Kết

hôn: 43 cặp.

+ Xã Nguyên Khê: Khai sinh: 169 trường hợp; Khai tử: 89 trường hợp;

Kết hôn: 79 cặp.

+ Xã Bắc Hồng: Khai sinh: 223 trường hợp; Khai tử: 286 trường hợp;

Kết hôn: 76 cặp.

+ Xã Hải Bối: Khai sinh: 229 trường hợp; Khai tử: 69 trường hợp; Kết

hôn: 65 cặp.

+ Xã Kim Chung: Khai sinh: 196 trường hợp; Khai tử: 59 trường hợp;

Kết hôn: 72 cặp.

+ Xã Đại Mạch: Khai sinh: 153 trường hợp; Khai tử: 57 trường hợp;

Kết hôn: 64 cặp.

+ Xã Xuân Nộn: Khai sinh: 194 trường hợp; Khai tử: 80 trường hợp;

Kết hôn: 51 cặp.

Tổng số kết quả công tác hộ tịch thuộc thẩm quyền cấp xã:

+ Đăng ký khai sinh: 3416 trường hợp

+ Đăng ký kết hôn: 1138 đôi;

+ Đăng ký khai tử: 1118 trường hợp.

Thực hiện sự chỉ đạo của UBND Thành phố Hà Nội phòng Tư pháp đã

tham mưu cho UBND Huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn tiếp tục triển

75

khai đồng bộ hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư pháp,

đảm bảo thực hiện đúng theo hướng dẫn của UBND Thành phố đạt kết quả

100%. Thực hiện nghiêm chế độ thông tin báo cáo theo quy định…

Tính từ đầu năm 2016 đến tháng 30/6-2018, UBND huyện Đông Anh

đã, ghi vào sổ hộ tịch các việc đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở

nước ngoài là: khai sinh cho 2 trường hợp; đăng ký kết hôn 19 trường hợp;

Toàn huyện đăng ký thay đổi hộ tịch cho 273 trường hợp, cải chính hộ tịch

cho 116 trường hợp, bổ sung hộ tịch 141 trường hợp, Nhận cha mẹ con là 98

trường hợp, Đăng ký giám hộ là 21 trường hợp, Cấp giấy xác nhận tình trạng

hôn nhân là 6507 trường hợp,đăng ký khai sinh là 14896 trường hợp, khai tử

là 4883 trường hợp, đăng ký kết hôn là 5131 cặp. Nhìn chung việc quản lý hộ

tịch được ghi chép, đăng ký vào sổ, lưu trữ hồ sơ và thực hiện báo cáo đầy đủ,

đúng quy định. Người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của các giấy tờ

hộ tịch và tự giác thực hiện đi đăng ký hộ tịch, góp phần bảo vệ quyền và

nghĩa vụ của công dân, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.

Đến nay, tất cả 24 xã, thị trấn trong huyện đã được trang bị máy tính làm

việc, phần mềm quản lý phục vụ công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; đây có

thể xem là sự đổi mới quan trọng trong công tác hộ tịch, tiến tới thực hiện quản

lý hộ tịch bằng dữ liệu điện tử, giúp cơ quan Nhà nước đưa ra những chính

sách hợp lý, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và dịch vụ công.

Đã triển khai thí điểm phần mềm đăng ký khai sinh điện tử có kết nối

với hệ thống cấp số định danh cá nhân để cấp số định danh cá nhân cho trẻ em

ngay khi được ĐKK; Thực hiện tốt quy định cá nhân có quyền lựa chọn cơ

quan đăng ký hộ tịch cho mình không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu

thường trú như trước đây, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong

việc lựa chọn cơ quan đăng ký sự kiện hộ tịch của mình;

Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, đội ngũ công chức làm

76

công tác hộ tịch ở cơ sở được củng cố, kiện toàn, có kế hoạch đào tạo bảo

đảm tiêu chuẩn chuyên môn luật, công chức làm công tác hộ tịch được bồi

dưỡng, cấp chứng chỉ theo chương trình bồi dưỡng chính thức đã được Bộ

trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt;

Yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân cơ bản được giải quyết kịp thời;

Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch được cải cách mạnh mẽ, đơn giản hóa và cắt

giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân;

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch đã được quan

tâm triển khai ở nhiều địa phương, cơ sở dữ liệu hộ tịch được hình thành với

hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử kết hợp với sổ đăng ký hộ tịch được lưu

trữ, thống kê thường xuyên; Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch ngày

càng được coi trọng, nhận thức của người dân về vai trò, ý nghĩa của công tác

đăng ký hộ tịch được nâng cao.

2.2.3. Ưu điểm của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn

huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Hộ tịch. Luật có hiệu lực thi hành

kể từ ngày 01/01/2016.

Luật Hộ tịch năm 2014, với nhiều chế định mới, phân cấp mới, thủ tục

mới đã thổi một luồng sinh khí mới cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

và đích đến là gần gũi hơn với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của

người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Thứ nhất, quy định về các nội dung đăng ký hộ tịch Luật Hộ tịch năm

2014, đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các nội dung đăng ký hộ tịch; đã

phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ hộ tịch, sự kiện nào là Ghi vào

Sổ hộ tịch. Theo đó:

1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai

sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con;Thay đổi, cải chính hộ

77

tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.

2. Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch

của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, bao gồm: Thay đổi quốc tịch;Xác định cha, mẹ, con; Xác

định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly

hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công

nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã

chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc

kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi

con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được

giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy

định của pháp luật.

Thứ hai, quy định về thẩm quyền đăng ký hộ tịch

Với quan điểm thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền cơ sở, kể từ

ngày 01/01/2016, thẩm quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch được thực hiện ở

02 cấp (cấp huyện và cấp xã), cụ thể:

1. Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký các trường hợp

hộ tịch sau

a) Đăng ký Khai sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Khai

tử; Thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung

thông tin hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước;

b) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,

quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay

đổi quốc tịch;Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi

con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn

78

trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên

bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn

chế năng lực hành vi dân sự.

c) Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy

định của pháp luật.

d) Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ

là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia

là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với

Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường

trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở

khu vực biên giới với Việt Nam; khai tử cho người nước ngoài cư trú

ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký các trường

hợp hộ tịch sau:

a) Đăng ký các sự kiện hộ tịch: khai sinh, kết hôn, giám hộ, nhận

cha, mẹ, con, khai tử, bổ sung thông tin hộ tịch có yếu tố nước ngoài;

b) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,

quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay

đổi quốc tịch, xác định cha, mẹ, con, xác định lại giới tính, nuôi con

nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi,ly hôn, hủy việc kết hôn trái

pháp luật, công nhận việc kết hôn, công nhận giám hộ; tuyên bố

hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế

năng lực hành vi dân sự có yếu tố nước ngoài;

c) Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ

14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc;

d) Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc

kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi

con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được

79

giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

Thứ ba, thủ tục đăng ký hộ tịch đơn giản, cắt giảm tối đa các giấy tờ

không cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền lựa chọn nơi

đăng ký và phương thức đăng ký các sự kiện hộ tịch:

Theo đó, Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và

Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ

tục đăng ký người yêu cầu đăng ký hộ tịch được cấp Trích lục hộ tịch tương

ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch được

chứng thực bản sao.

Cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà

không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây. Theo quy định của Luật,

cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường

trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống và có quyền lựa chọn phương thức đăng

ký như nộp hồ sơ trực tiếp, qua bưu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký

trực tuyến trong điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho phép.

Thứ tư, quy định việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh:

Số định danh cá nhân là số được cấp cho mỗi công dân Việt Nam khi

đăng ký khai sinh không lặp lại ở người khác và đây cũng là một trong những

nội dung cơ bản trong Giấy khai sinh, Sổ đăng ký khai sinh, cơ sở dữ liệu hộ

điện tử hộ tịch và Cơ sở dữ liệu về dân cư. Số này cũng chính là số thẻ căn

cước công dân được cấp khi đủ 14 tuổi.

Thứ năm, quy định rõ việc miễn phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc

gia đình có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật;

đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam

cư trú trong nước.

Thứ sáu, quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện

tử: đây là một bước đột phá của Luật Hộ tịch để hướng đến Chính phủ điện

80

tử. Theo đó, Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản quốc gia, lưu giữ toàn bộ thông

tin hộ tịch của mọi cá nhân đã đăng ký, làm cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, phục vụ yêu cầu tra cứu thông tin, quản lý, hoạch định

chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Cơ sở dữ liệu hộ tịch bao

gồm Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là căn cứ để cấp bản sao trích

lục hộ tịch.

Hệ thống cấp định danh được thực hiện trên phần mềm của Bộ tư pháp.

Sau khi công dân nộp hồ sơ, cán bộ cập nhật vào Cơ sở dữ liệu, đây là thông

tin đầu vào của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Việc thực hiện nhập hồ sơ vào hệ thống điện tử của Bộ tư pháp, đã cho

phép việc in cấp trích lục khai sinh, thống kê số liệu hộ tịch nhanh gọn, tiết

kiệm chi phí tiền bạc cho người dân và cơ quan quản lý hộ tịch.

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở dữ liệu ngành, được lập trên cơ sở

tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để

lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký

hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản

của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của

công tác hộ tịch. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký

và quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản

lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

2.2.4. Những hạn chế của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa

bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

* Hạn chế trong đăng ký hộ tịch

Mặc dù Luật Hộ tịch đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng đồng bộ,

thống nhất trên cả nước và thực tế tại Huyện Đông Anh cũng đã đạt được

những kết quả tích cực, nhưng thực tiễn giải quyết cho thấy, các việc hộ tịch

81

luôn phát sinh hết sức đa dạng, phức tạp, nhiều trường hợp tuy là các sự kiện

hộ tịch thường xuyên xảy ra như việc sinh, việc xác nhận tình trạng hôn nhân,

việc tử, việc thay đổi họ, tên… nhưng lại có nhiều tình tiết phức tạp mà Luật

Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành chưa dự liệu được; đơn cử:

Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hộ tịch năm 2014 thì nội dung khai sinh

gồm: thông tin của người được ĐKKS (họ, chữ đệm và tên; giới tính; ngày,

tháng, năm sinh; nơi sinh; quê quán; dân tộc; quốc tịch); thông tin của cha, mẹ

người được ĐKKS (họ, chữ đệm và tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư

trú); số định danh cá nhân. Liên quan đến việc xác định họ, tên cho con, điểm

a khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy

định: Họ, chữ đệm, tên và dân tộc của trẻ em được xác định theo thỏa thuận

của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong tờ khai

ĐKKS; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được,

thì xác định theo tập quán. Tuy nhiên, theo quy định này, một số cơ quan

đăng ký hộ tịch (ĐKHT), người dân lại hiểu rằng, việc xác định họ cho con

theo phong tục tập quán tức là phong tục tập quán như thế nào thì xác định

đúng theo như thế mà không phải tuân thủ nguyên tắc nào khác, dẫn đến xác

định họ của con có thể không theo họ của mẹ, cũng không theo họ của cha,

thậm chí không có họ, chỉ có tên. Thực tế trên địa bàn Huyện Đông Anh, vẫn

tồn tại tình trạng ĐKKS cho con không mang họ cha, cũng không mang họ

mẹ, hoặc ĐKKS cho con “ngoài giá thú” nhưng không mang họ của mẹ.

Trường hợp công chức làm công tác hộ tịch từ chối giải quyết yêu cầu ĐKKS

thì người dân phản ứng, bức xúc hoặc phản đối bằng việc không tiếp tục thực

hiện ĐKKS cho con.

Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền ĐKHT, bảo

đảm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và

82

Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cho phép kết hợp thủ tục nhận cha,

mẹ, con và ĐKKS. Tuy nhiên, hiện tại có tình trạng nhiều phụ nữ Việt Nam

kết hôn với người nước ngoài nhưng cuộc sống chung không hạnh phúc nên

bỏ về Việt Nam, cũng có trường hợp không được cơ quan có thẩm quyền

nước ngoài cho phép sang nước ngoài định cư nên hôn nhân không duy trì

được, thực tế quan hệ vợ chồng đã chấm dứt nhưng chưa làm thủ tục ly hôn

mà đã lại có quan hệ chung sống với người đàn ông khác và sinh con. Do con

sinh ra trong thời kỳ hôn nhân vẫn còn tồn tại, nên theo quy định của Luật

Hôn nhân và gia đình, phải được xác định là con chung của hai vợ chồng

(mặc dù người chồng không phải là người cha trên thực tế của đứa trẻ) [18],

người mẹ có yêu cầu đăng ký việc nhận cha (người cha trên thực tế) của trẻ

em kết hợp với thủ tục ĐKKS để khai sinh theo đúng thông tin về cha mẹ

hoặc ĐKKS theo diện con chưa xác định được cha thì cơ quan ĐKHT không

giải quyết được.

Do khoản 2 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Trong

trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được

tòa án xác định”; khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng quy định:

“Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu tòa án xác

định người đó là con mình”, nên yêu cầu xác định cha cho con của người mẹ

trong trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân, không

thuộc thẩm quyền của cơ quan ĐKHT. Nhưng thực tế, đa phần người dân

phản ánh tòa án có thẩm quyền không thụ lý giải quyết hoặc có tiếp nhận,

nhưng sau đó đình chỉ việc giải quyết vì cho rằng không có “tranh chấp”, dẫn

đến việc trẻ em không được ĐKKS kịp thời hoặc ĐKKS nhưng với thông tin

về người cha không đúng thực tế, vì vậy, cần thiết phải có quy định hướng

dẫn xác định thẩm quyền giải quyết để bảo đảm quyền lợi của trẻ em.

Mặc dù Luật hộ tịch đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng đồng bộ,

83

thống nhất trên cả nước và thực tế đã đạt được những kế quả tích cực. Tuy

nhiên qua thực tiễn cho thấy, các việc hộ tịch luôn phát sinh những tình huống

hết sức đa dạng phức tạp, nhiều trường hợp tuy các sự kiện xảy ra như việc

sinh tử, thay đổi họ tên, việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân…

nhưng lại xuất hiện nhiều tình tiết mới phức tạp mà Luật hộ tịch và các văn

bản hướng dẫn thi hành chưa dự liệu và chưa có quy định điều chỉnh, dẫn đến

yêu cầu đăng ký hộ tịch vẫn phát sinh những khó khăn, vướng mắc cần có văn

bản hướng dẫn kịp thời.

Do các quy định về hộ tịch trước đây không chặt chẽ, việc quản lý của

chính quyền địa phương lỏng lẻo, công chức thực hiện đăng ký hộ tịch không

có trình độ chuyên môn do đó dẫn đến việc đăng ký các sự kiện hộ tịch trước

đây có nhiều sai xót: đăng ký khai sinh khai thêm tuổi mụ, đăng ký kết hôn

khai thêm chữ đệm để tên thường gọi được hay hơn, việc cấp quản lý bản sao

các giấy tờ hộ tịch đơn giản… dẫn đến hiện nay khi pháp luật hộ tịch dần được

hoàn thiện, nhiều nội dung quy định chặt chẽ, thì nảy sinh nhiều sai sót của các

thời kỳ trước đây. Vì vậy dẫn đến tình trạng hồ sơ cải chính ngày càng nhiều

Các quy định của pháp luật thường xuyên thay đổi và nằm rải rá cở

nhiều văn bản khác nhau dẫn đến khó khăn cho việc tiếp cận và tìm hiểu.

Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện TTHC chưa nhịp

nhàng thống nhất.

Việc triển khai cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, số hóa dữ liệu còn chậm.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch còn chưa đồng bộ,

thống nhất.

Cơ sở vật chất như phòng làm việc nhỏ, đường truyền internet chậm,

nhiều nơi thiếu máy tính hoặc có nhưng tốc độ chậm.

Hiện nay công chức tư pháp hộ tịch vẫn còn phải đảm nhiệm nhiều nhiệm

vụ khác nhau, do đó ít có thời gian cho việc tìm hiểu và nâng cao chuyên môn

84

nghiệp vụ.

Công chức làm tư pháp hộ tịch hay có sự biến động do luân chuyển,

điều động theo yêu cầu nhiệm vụ. Do vậy công chức mới đảm nhận nhiệm vụ

chưa có kinh nghiệm nên có nhiều sai xót trong quá trình làm việc đặc biệt là

những hồ sơ khó, phức tạp.

Kinh nghiệm của một số công chức trong việc tiếp công dân và giải

quyết các TTHC còn hạn chế

Một số công chức tư pháp - hộ tịch còn thực hiện nhiệm vụ theo lối

mòn nhất là công chức có độ tuổi cao; chưa có sự thay đổi tư duy, ngại nghiên

cứu, tiếp cận các văn bản pháp luật mới, bên cạnh đó việc sử dụng máy tính

để thực hiện các nhiệm vụ trên phần mềm điện tử của công chức cao tuổi

cũng gặp nhiều khó khăn hạn chế.

* Để góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước, cũng như hoàn

thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực đăng ký hộ tịch, xin có một số kiến

nghị như sau:

Một là, tổng kết những vấn đề vướng mắc phát sinh từ thực tế trong

thực hiện đăng ký hộ tịch nhằm kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để có

sự điều chỉnh bổ sung hoặc hướng dẫn thực hiện thống nhất. Sửa đổi, bổ sung

các quy định còn bất cấp của luật hộ tịch, và các văn bản hướng dẫn nhằm

nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hộ tịch trong thời gian tới.

Hai là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ công

chức làm công tác hộ tịch đáp ứng yêu cầu thực tế.

Ba là, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch. Cho pháp

cơ quan đăng ký hộ tịch in sổ hộ tịch từ hệ thống phần mềm đăng ký hộ tịch

để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hộ tịch, giảm bớt

phần nào công việc cho cán bộ hộ tịch và đồng thời cũng hạn chế khi cán bộ

chép sổ hộ tịch

85

Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà

nước về hộ tịch được thực hiện một cách chính xác, khoa học, chất lượng và

thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Qua đó sẽ giảm bớt sức lao động thủ

công, góp phần tăng năng suất lao động, tạo sự kết nối dữ liệu, nâng tầm quản

lý giữa các cơ quan thực hiện đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch.

Bốn là, đa dạng hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch,

hướng tới hoạt động đăng ký hộ tịch đạt hiệu quả.

Năm là, tăng cường việc trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm trong việc

thực hiện đăng ký hộ tịch giữa các tỉnh, thành phố để đảm bảo tính thống

nhất, hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật liên quan.

Sáu là, khen thưởng, động viên khuyến khích những sáng kiến cải cách

thủ tục hành chính trong lĩnh vực hành chính - tư pháp, đặc biệt là trong công

tác hộ tịch.

Kết luận chƣơng 2

Tác giả đã nêu được thực trạng pháp luật về hộ tịch cũng như thực

trạng thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại

chương 2, tác giải đã phân tích đánh giá và tìm ra được những ưu điểm, hạn

chế, những bất cấp, khó khăn vướng mắc về pháp luật hộ tịch cũng như việc

thực hiện pháp luật hộ tịch, xác định được nguyên nhân tồn tại của luật hộ

tịch. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục xem xét nghiên cứu đề xuất

86

các giải pháp hoàn thiện ở chương 3 của luận văn.

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỘ

TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH

3.1. Yêu cầu đổi mới hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai

đoạn mới

3.1.1. Về cải cách thủ tục hành chính

+ Công bố, công khai các thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm

quyền giải quyết của các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh tại Cơ sở dữ

liệu quốc gia về TTHC, tại bộ phận “một cửa”, trên Trang Thông tin kinh tế -

xã hội của UBND cấp huyện.

+ Tổ chức vận hành có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông

trong giải quyết các TTHC về lĩnh vực tư pháp, đầu tư, kinh doanh, đất đai,

xây dựng…

+ Thường xuyên rà soát và đơn giản hóa đối với TTHC tại huyện Đông

Anh, UBND Huyện Đông Anh đã đơn giản hóa giảm được 73 thủ tục trong số

157 thủ tục hành

+ Thí điểm triển khai việc xác định chỉ số hài lòng của người dân, tổ

chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước trên một số lĩnh

vực với các tiêu chí: tiếp cận dịch vụ, quy định về TTHC, thái độ phục vụ của

công chức, kết quả giải quyết TTHC.

3.1.2. Về sự đòi hỏi chủ động sáng tạo của cơ quan đăng lý hộ tịch

Cơ quan đăng ký hộ tịch và công chức làm nhiệm đăng ký các sự kiện

hộ tịch cho cá nhân cần nhận thức rõ đó là nhiệm vụ quan trọng của chính

quyền địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội, công chức hộ tịch

cần phải thường xuyên nắm rõ tình hình đăng ký hộ tịch, sự biến động của

các sự kiện hộ tịch để kịp thời báo cáo cấp trên để có những biện pháp quản

lý hiệu quả trong công tác đăng ký hộ tịch cũng như trong nhiệm vụ phát

87

triển kinh tế - xã hội.

Cần tiếp tục thực hiện một số phúc lợi cho đối tượng chính sách như

việc miễn giảm một số khoản phải nộp cho người dân. Đối với những địa bàn

có trình độ dân trí thấp, việc chấp hành các quy định về đăng ký hộ tịch còn

chưa đúng pháp luật thì công chức làm nhiệm vụ đăng ký hộ tịch cần tham

mưu UBND cấp có thẩm quyền có giải pháp để người dân chấp hành quy

định như định kỳ xuống cơ sở để đăng ký hộ tịch cho người dân, có chế độ

khuyến khích cho công dân khi đăng ký hộ tịch theo quy định.

Đối với Công chức tư pháp hộ tịch tính chủ động sáng tạo chính là tính

chịu trách nhiệm trong các hoạt động tác nghiệp khi tiếp nhận và giải quyết

các hồ sơ hộ tịch của công dân.

Cơ qua đăng ký hộ tịch cấp trên cần có các biên pháp để hướng dẫn

tháo gỡ khó khăn một cách kịp thời, thường xuyên tổ chức kiểm tra định kỳ

việc đăng ký các sự kiện hộ tịch cho cá nhân để phát hiện những sai xót và có

biện pháp khắc phụ,

3.1.3. Về tính chính xác, khách quan, kịp thời

Tại điều 5 Luật hộ tịch đã quy định rất rõ về tính chính xác khách quan

và kịp thời như sau: Tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân mọi

sự kiện hộ tịch của người dân phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực

khách quan và chính xác, nếu hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan

đăng ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Khi đăng ký hộ tịch, công chức tư pháp cần hạn chế tối đa để xảy ra sai

xót do lỗi vô ý, cẩu thả của công chức tư pháp hoặc người đi đăng ký hộ tịch

để đảm bảo đúng quyền lợi cho người dân.

Cá nhân có thể đăng ký sự kiện hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi

thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi đang sinh sống, mọi sự kiện hộ tịch sau khi

được đăng ký phải được cập nhập kịp thời vào cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;

88

bảo đảm công khai minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch

Việc đăng ký các sự kiên hộ tịch cũng cần phải đảm bảo mọi sự kiện hộ

tịch của cá nhân phải đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực khách quan và

chính xác, đúng thẩm quyền, đúng trình tự do pháp luật quy định. Các biểu

mẫu và sổ hộ tịch, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử phải được sử dụng, khai thác

và bảo quản đúng quy định của pháp luật. Song việc tuân thủ tính pháp chế ở

đây chúng ta cần phải nhận thức rõ và đầy đủ là trong việc giải quyết các sự

kiện cho người dân cần có sự chủ động sáng tạo, linh hoạt từ phía cơ quan

đăng ký hộ tịch từ đó tạo sự thuận lợi cho người dân.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao hiệu

quả việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh

3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch

Luật hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hộ tịch

là cơ sở pháp lý quan trọng trong đăng ký và quản lý hộ tịch. Song trên thực

thế, pháp luật về hộ tịch đã bộc lộc những mặt hạn chế nhất định cần phải

hoàn thiện để việc đăng ky và quản lý hộ tịch đạt hiệu quả cao hơn.

a. Cần quy định thẩm quyền bổ sung thông tin hộ tịch cho Ủy ban nhân

dân cấp huyện trong luật Hộ tịch

Để tạo điều kiện cho người dân khi đăng ký hộ tịch, đặc biệt đối với

những công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên vừa có nhu cầu thay đổi, cải

chính hộ tịch vừa có nhu cầu bổ sung thông tin hộ tịch tại UBND cấp huyện,

Luật hộ tịch cần quy định thẩm quyền thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch cho

công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, còn UBND cấp xã có thẩm quyền

thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam dưới 14.

b. Cần quy định cụ thể thời hạn, thủ tục thông báo việc đăng ký hộ tịch

đến UBND xã cá nhân được đăng ký hộ tịch thường trú

Nhằm đảm bảo mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan

đăng ký hộ tịch có thẩm quyền, pháp luật hộ tịch cần quy định cụ thể thời hạn,

89

thủ tục, sổ sách ghi chép theo dõi việc thông báo về việc đăng ký hộ tịch đến

UBND xã nơi cá nhân được đăng ký hộ có hộ khẩu thường trú. Luật hộ tịch

cũng cần có quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của cơ quan đăng ký hộ tịch

- nơi đã đăng ký các sự kiện hộ tịch cho cá nhân nếu như cơ quan này không

thông báo việc đăng ký hộ tịch đến UBND cấp xã nơi cá nhân đó thường trú.

c.Cần xác định rõ trách nhiệm đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử,

Để xác định rõ trách nhiệm đăng ký khai sinh, khai tử, pháp luật hộ tịch

cần quy đinh cụ thể các nội dung sau đây:

- Nêu cụ thể “những người thân thích khác” có trách nhiệm đăng ký

khai sinh và khai tử

- Quy định rõ trách nhiệm chính trong việc đi đăng ký khai tử thuộc về

vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ của người chết. Trong những trường hợp nào

những người này không thể đi đăng ký khai tử được thì những người thân

thích khác mới được đi đăng ký khai tử.

- Cần xác định trách nhiệm pháp lý cụ thể đối với những người không

chịu thực hiện trách nhiệm đăng ký khai sinh, khai tử. Nên quy định trách

nhiệm pháp lý đối với cha mẹ trong trường hợp không đi đăng ký khai sinh

hoặc khai sinh quá hạn; vợ chồng hoặc con, cha, mẹ của người chết không đi

đăng ký khai tử hoặc đăng ký khai tử quá hạn

d. Cần đảm bảo tính thống nhất trong việc quy định đăng ký khai sinh

cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có tên hoặc mẹ công dân Việt Nam thường trú

tại khu vực biên giới là công dân của nước lá nhiều thường trú tại khu vực

biên giới với Việt Nam

Phân tích đoạn 11.2 quy định tại khoản 1 điều 17 nghị định số 123 CP

của chính phủ trái với quy định tại điểm Đ khoản 1 điều 7 Luật Hộ tịch quyền

đăng ký khai sinh của Ủy ban nhân dân xã ở biên giới gây khó khăn cho việc

đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân

90

Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là công dân của

nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam.Do đó cần bãi

bỏ hoặc sửa đổi khoản 1 điều 17 nghị định số 123/2015/ND- CP cho phù hợp

với quy định điểm đ khoản 1 điều 7 Luật Hộ tịch nhằm đảm bảo tính thống

nhất trong việc đăng ký sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha mẹ hoặc

mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là

công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam

e. Cần có quy định việc thực hiện đăng ký giám sát việc giám hộ tại Ủy

ban nhân dân cấp xã

Do pháp luật hộ tịch chưa có quy định việc thực hiện đăng ký giám sát

việc giám hộ nên Uỷ ban nhân dân cấp xã gặp nhiều khó khăn trong việc

thực hiện đăng ký giám sát giám hộ. Vì vậy trong thời gian tới pháp luật hộ

tịch cụ thể về việc đăng ký giám sát giám hộ, hồ sơ đăng ký giám sát giám

hộ, trình tự thủ tục, chủ thể thực hiện là ai…. Có như vậy mới đảm bảo tính

thống nhất của pháp luật, phù hợp với yêu cầu của bộ luật dân sự năm 2015

về việc thực hiện đăng ký giám sát giám hộ tại UBND cấp xã nơi cư trú của

người được giám hộ.

g. Cần bổ sung thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan

đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc đăng ký hộ tịch cho công dân Việt

Nam cư trú ở nước ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

Để giải quyết sự bất hợp lý trong việc phân định thẩm quyền đăng ký

các hiệp hội thực sự UBND cấp huyện và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước

ngoài cần bổ sung thẩm quyền của UBND cấp huyện và cơ quan đại diện.

Theo đó cơ quan này được có thẩm quyền đăng ký vào các nhiệm vụ trong

công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân Việt Nam cư trú của

nước ngoài.Có như vậy mới thực sự tạo điều kiện cho cả hai đối tượng nêu

trên trong việc đăng ký hộ tịch theo đó khi ở nước ngoài công dân Việt Nam ở

91

nước ngoài và công nhân Việt Nam cư trú nước ngoài đều được đăng ký tại

cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, khi ở Việt Nam họ đều được đăng

ký hộ tịch tại UBND cấp huyện.

h. Cần làm rõ sự khác nhau giữa “trẻ bị bỏ rơi” và “trẻ không thuộc

diện bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ”

Để tạo thuận lợi cho cơ quan đăng ký hộ tịch khi khai sinh cho “trẻ bị

bỏ rơi” và“trẻ không thuộc diện bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ”, pháp

luật hộ tịch cần làm rõ hai khai niệm này. Như vậy mới tránh được sự nhầm

lẫn và sự tuỳ tiện của cơ quan đăng ký hộ tịch cho hai trường hợp trên.

3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên

địa bàn huyện Đông Anh

Công tác tiếp nhận và xử lý hồ sơ của người dân luôn được thực hiện

đúng chức năng, thẩm quyền, đảm bảo giải quyết kịp thời, chính xác cho nhân

dân. Để đạt được kết quả đó, hàng năm UBND xã đều xây dựng kế hoạch

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với tuyên truyền các chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các

nhiệm vụ chính trị ở địa phương thông qua nhiều hình thức để người dân nắm

bắt thực hiện. Vì vậy, người dân đến trụ sở UBND xã làm các thủ tục liên

quan đến lĩnh vực hộ tịch rất đúng hạn.

Để có được kết quả đó, với chức năng tham mưu giúp UBND huyện

quản lý Nhà nước về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, Phòng Tư pháp đã

tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên truyền, phổ

biến pháp luật, đặc biệt là các văn bản liên quan đến công tác đăng ký và quản

lý hộ tịch; tham mưu cho UBND huyện thực hiện việc đăng ký các sự kiện hộ

tịch có yếu tố nước ngoài, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bảo

đảm đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đăng ký và quản

lý hộ tịch trên địa bàn huyện vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Nhận thức

92

của một bộ phận nhân dân về vấn đề hộ tịch chưa đầy đủ, chưa thực hiện bảo

đảm thời gian, nhất là khai sinh, khai tử; sự phối hợp giữa các cơ quan chức

năng trong việc xác minh, giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá

nhân có lúc chưa kịp thời...

Bên cạnh đó, huyện chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm

việc cần thiết phục vụ công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; bố trí cán bộ có đủ

năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Áp dụng có hiệu quả phần

mềm quản lý hộ tịch, thực hiện việc đăng ký vào sổ hộ tịch và lưu trữ hồ sơ

theo quy định. Hàng năm, huyện thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi

dưỡng kỹ năng phần mềm quản lý hộ tịch cho công chức tư pháp - hộ tịch

huyện, xã, thị trấn; phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức hội nghị tập huấn chuyên

sâu về pháp luật hộ tịch, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ về đăng ký, quản lý hộ

tịch cho lãnh đạo UBND, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, thị trấn.

Công tác kiểm tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch cũng được thực hiện

định kỳ hằng năm.

Qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện, xử lý những tồn tại, hạn chế, tháo

gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác đăng ký và quản lý hộ

tịch.Việc tiếp nhận, giải quyết những kiến nghị, thắc mắc, phản ánh của công

dân về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch được quan tâm ngay từ cơ sở. UBND

các xã, thị trấn niêm yết công khai mức thu phí và lịch tiếp dân của lãnh đạo

UBND. Những vấn đề công dân chưa hiểu, chưa rõ được cán bộ chuyên môn

hướng dẫn, giải thích rõ ràng. Từ huyện xuống cơ sở, tất cả các công việc liên

quan đến đăng ký hộ tịch đều được thực hiện thông qua bộ phận tiếp nhận và

trả kết quả theo cơ chế một cửa, đúng trình tự, thời gian quy định. Thông qua

đó, các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch được giải quyết nhanh gọn,

không gây phiền hà cho người dân, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính,

khẳng định vai trò trong quản lý Nhà nước và bảo đảm quyền của công dân...

93

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, thời

gian tới Phòng Tư pháp huyện tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến quán triệt Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; thường xuyên

hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp -

hộ tịch ở cơ sở; tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực

hiện Luật Hộ tịch tại cấp xã, cấp huyện để đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi,

bổ sung cho phù hợp với thực tế; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

quan chức năng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, đăng ký hộ tịch bảo

đảm theo đúng quy định của pháp luật; tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng

đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở cấp huyện và cấp xã..., góp phần

đưa công tác đăng ký quản lý hộ tịch vào nền nếp và thực hiện nghiêm túc, để

công dân ngày càng có ý thức hơn với những sự kiện hộ tịch liên quan đến cá

nhân trước Nhà nước.

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và phương thức quản lý nhà nước về hộ tịch

Về thể chế: trung ương cần tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa các quy định

của pháp luật hộ tịch, đảm bảo cho hoạt động quản lý hộ tịch tại biên giới

diễn ra thuận tiện, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của địa phương.

Kịp thời xem xét báo cáo đề xuất, kiến nghị của cấp dưới về hộ tịch, để có

hướng thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Đối với thực hiện

Luật Hộ tịch với nội dung cấp số định danh cá nhân trong giấy khai sinh, cần

được đẩy nhanh và khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi đăng ký khai

sinh, vì hiện nay việc chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ cho nội

dung này do đặc điểm và các điều kiện đảm bảo, sẽ không thể diễn ra đồng bộ

và liên tục được nếu như không có sự quan tâm kịp thời.

Về cải cách thủ tục hành chính: tiếp tục hoàn thiện thể chế cải cách thủ

tục hành chính trong đăng ký hộ tịch, mục tiêu vừa là phải thuận tiện cho dân,

vừa theo quy định của pháp luật, vừa bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước,

94

cũng qua đó không để xảy ra tình trạng dễ dãi, dẫn đến buông lỏng quản lý,

hoặc kiểm soát quá chặt chẽ, cứng nhắc, sẽ dẫn đến không hiệu quả. Bên cạnh

đó cần phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong

lĩnh vực hộ tịch, tránh chồng chéo về thẩm quyền hoặc phân định thẩm quyền

quá phức tạp.

Chính phủ cần ban hành chính sách đặc thù về đăng ký hộ tịch tại các

địa phương, trong đó công việc cần thiết cụ thể là: Rà soát, thống kê danh

mục các phong tục, tập quán lạc hậu cần xóa bỏ, ban hành và khuyến khích

các phong tục tập quán tích cực được áp dụng; nghiên cứu ban hành thể chế

riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký hộ tịch. Hồ sơ thực hiện việc

đăng ký không cần người dân nhất thiết hay bắt buộc cung cấp đủ các loại

giấy tờ liên quan, mà tăng cường trách nhiệm thẩm tra, xác minh hồ sơ của

công chức tư pháp- hộ tịch; có cơ chế kinh phí phù hợp cho công chức tư

pháp hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch lưu động, xác minh sự kiện hộ

tịch. Ban hành các đề án đẩy nhanh việc cải thiện quản lý hộ tịch và nâng cao

nhận thức pháp luật đối với người dân: như đề án xóa đói giảm nghèo, phổ

biến giáo dục pháp luật, xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi về

mọi mặt cho dân cư ở nông thôn.

Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch

Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà

nước về hộ tịch được thực hiện một cách chính xác, khoa học, chất lượng và

thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Dưới góc nhìn tổ chức, ứng dụng công

nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch, được coi là một

giải pháp để kiện toàn tổ chức bộ máy, phương thức làm việc, qua đó sẽ giảm

bớt sức lao động thủ công, góp phần tăng năng suất lao động, tạo sự kết nối

dữ liệu, nâng tầm quản lý giữa các cơ quan thực hiện đăng ký, quản lý nhà

nước về hộ tịch. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ thông tin, được thực hiện

95

trên cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đòi hỏi lãnh đạo các cấp phải hết sức quan

tâm, bố trí nguồn nhân lực và có sự đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ, mà cơ bản

nhất là bảo đảm các điều kiện cho sử dụng phần mềm hộ tịch dùng chung. Tại

cấp huyện, cấp xã cần tăng cường bồi dưỡng cho đội ngũ công chức tư pháp-

hộ tịch về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng sử dụng máy móc. Bên cạnh đó thì

việc đầu tư cơ sở hạ tầng đảm bảo cho tuyến huyện, xã, về hệ thống giao

thông, điện lưới, đường truyền là rất cần thiết, để có thể duy trì và thực hiện.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện đội ngũ làm công chức tư pháp-hộ tịch

Về nguồn nhân lực, Bên cạnh đó bên chế tại Phòng Tư pháp cũng phải

đảm bảo để duy trì các hoạt động hộ tịch tại cấp huyện và giúp cấp xã thực

hiện Đối với cấp tỉnh, hiện nay theo Luật Hộ tịch, Sở Tư pháp đã chuyển giao

các nhiệm vụ đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cho cấp huyện. Phòng Tư

pháp cấp huyện ngoài các nhiệm vụ đang phải thực hiện cơ bản theo Nghị

định 158/2005/NĐ-CP trước đây, phải đảm nhiệm sự chuyển giao từ cấp tỉnh.

Tại cấp huyện, bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho

công chức thực hiện công việc hộ tịch tại Phòng Tư pháp, thì đối với các

huyện phát sinh việc hộ tịch nhiều và công chức phòng còn yếu kém về

chuyên môn, cần thiết trong khoảng thời gian trước mắt có thể thực hiện việc

luân chuyển công chức từ Sở Tư pháp về tăng cường cho huyện để đảm bảo

có người thực hiện ngay được các công việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Đối

với cấp huyện, ủy ban cấp huyện chỉ đạo Phòng Tư pháp thực hiện việc bố trí

lãnh đạo và công chức chuyên về công tác hộ tịch để bảo đảm giải quyết kịp

thời các công việc phát sinh. Đối với cấp xã, tùy theo điều kiện thực tế của địa

phương, cấp tỉnh, cấp huyện trước mắt để bảo đảm triển khai thực hiện hiệu

quả Luật Hộ tịch, cần bố trí đủ hai công chức làm công tác hộ tịch, và tùy

theo tình hình thực hiện sẽ điều chỉnh giữa các địa phương sao cho phù hợp.

Về bộ máy thực hiện, để bảo đảm bộ máy thực hiện và quản lý nhà

nước về hộ tịch luôn đáp ứng được yêu cầu công việc, cơ quan quản lý cấp

96

trên cần nghiêm túc trong việc tuyển dụng công chức tư pháp- hộ tịch cũng

như các công chức cấp xã khác. Phải đảm bảo công chức được tuyển dụng có

trình độ, có chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm để có thể đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ. Đối với những người đang trong biên chế, đang làm việc,

nhưng năng lực ý thức trách nhiệm yếu, thì có thể xem xét loại ra khỏi biên

chế hoặc chuyển công việc khác phù hợp.

Về năng lực thực thi công vụ của công chức tư pháp- hộ tịch. Năng lực

thực thi công vụ chính là điều kiện để công chức tư pháp-hộ tịch có thể hoàn

thành tốt chức trách được giao, có khả năng tham mưu và đáp ứng được công

việc. Đội ngũ công chức tư pháp-hộ tịch có năng lực tốt, có thể giúp Ủy ban,

Phòng Tư pháp giải quyết các hạn chế, vướng mắc của công tác hộ tịch một

cách hiệu quả. Đội ngũ công chức tư pháp- hộ tịch nếu như được tuyển dụng

theo năng lực, được thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, được bố trí sắp xếp

công việc và trao cho họ những điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo, thì việc

phát huy năng lực, khả năng hoàn thành sẽ cao. Ngược lại nhóm công chức tư

pháp- hộ tịch còn yếu về nghiệp vụ chuyên môn, là do trong quá trình tuyển

dụng công chức, cơ quan tuyển dụng chưa thực hiện đúng quy định, hơn nữa

công tác bố trí chưa hợp lý, không thường xuyên được tập huấn và một phần

do tố chất bản thân nội tại của công chức đó.

Như vậy việc bố trí đội ngũ công chức hiệu quả, phát huy được năng

lực, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ thì Huyện Đông Anh cần tập trung

giải quyết những tồn tại trên với các giải pháp, cụ thể là: Xem xét quy hoạch

lại đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở các xã của huyện Đông Anh.

Theo Luật Hộ tịch 2014 thì cấp tỉnh không còn thực hiện các công việc hộ

tịch mà chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch. Công việc hộ

tịch được tập trung thực hiện tại cấp huyện, cấp xã. Với thực trạng công chức

làm công tác hộ tịch thiếu và yếu ở hai cấp này thì việc rà soát quy hoạch lại

97

đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch để có kế hoạch thực hiện việc bồi

dưỡng, đào tạo, cũng như xác định số lượng công chức để thực hiện việc đào

tạo, tuyển dụng phù hợp với yêu cầu công việc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch, nhằm

mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ này theo hướng tất cả công chức tư pháp-hộ tịch

đều phải bảo đảm có chuyên môn ngành luật và được bồi dưỡng tập huấn

nghiệp vụ theo quy định của Luật Hộ tịch.

Tại cấp huyện, nhằm đáp ứng được yêu cầu của công tác hộ tịch có yếu

tố nước ngoài theo quy định của Luật Hộ tịch, công tác này được đánh giá là

phức tạp về chuyên môn. Nên công chức thực hiện phải có trình độ cử nhân

luật và được bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ. Theo yêu cầu này, UBND

huyện Đông Anh cần có kế hoạch đào tạo hợp lý, trước hết cần ưu tiên đào

tạo với những người tuổi đời còn trẻ, để có thể phục vụ và sử dụng ổn định

được lâu dài. Đối với công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã cần phải được chuẩn

hóa theo quy định của Luật Hộ tịch, và để bảo đảm ít nhất có trình độ từ trung

cấp luật trở lên, được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Hiện tại và trong

thời gian tới, đứng trước các yêu cầu thực hiện hộ tịch, trong đó là thực hiện

phần mềm quản lý hộ tịch dùng chung, công chức tư pháp-hộ tịch đang làm

công tác hộ tịch phải được tập huấn chuyên sâu về Luật Hộ tịch và các Nghị

định, Thông tư…. để các xã, phường, thị trấn có thể đáp ứng nhiệm vụ. Tổ

chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch theo Luật được ngay. Bên cạnh đó,

công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cần được thực hiện thường

xuyên để công chức tư pháp-hộ tịch có thể đáp ứng được yêu cầu công việc.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật nhằm thay đổi nhận thức của cá nhân về vai trò, tầm quan trọng và

lợi ích của đăng ký, quản lý hộ tịch

Mục tiêu là trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân

về pháp luật hộ tịch, ý nghĩa của đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch, thì bên

98

cạnh những giải pháp tổng thể được triển khai thực hiện trong phạm vi cả

nước thì UBND huyện Đông Anh cần quan tâm thực hiện những giải pháp

sau: Để duy trì thường xuyên công tác phổ biến pháp luật về hộ tịch, cần biên

tập, soạn các tờ rơi với nội dung đơn giản tập trung vào những quy định cụ

thể của pháp luật hộ tịch. Tuy nhiên, để tránh việc phát tờ rơi tràn lan vừa

không đúng đối tượng, vừa lãng phí tốn kém. Việc biên soạn tờ rơi tuyên

truyền phải đơn giản, dễ hiểu, tiếp cận và phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Tuyên truyền bằng hình thức tờ rơi cần đi cùng với việc hướng dẫn, giải thích

từng nội dung cụ thể tránh đưa phát tờ rơi cho đối tượng tiếp nhận mà không

bảo đảm việc họ có hiểu thông tin trong tờ rơi đó. Tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về hộ tịch cần được thực hiện kết hợp với tuyên truyền về dân số,

với các nội dung pháp luật khác như dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai…

Bên cạnh đó trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch phải có sự kết

hợp giữa cơ quan tư pháp với các cơ quan, tổ chức liên quan như cộng tác

viên dân số, các cơ quan, đoàn thể huyện, xã … để thực hiện có hiệu quả công

tác tuyên truyền..

Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất đối với quản lý hộ tịch. Việc sử dụng

máy vi tính, mạng internet cũng như phần mềm hộ tịch. Vì vậy, giải pháp

được đề cập là các tỉnh cần chỉ đạo và hỗ trợ việc trang bị phương tiện, máy

móc, lắp đặt phần mềm điện tử về hộ tịch, tổ chức tập huấn đào tạo sử dụng.

Bố trí kinh phí cho quản lý, đăng ký hộ tịch, đầu tư các chương trình, dự án

về hộ tịch nhất là các xã, thị trấn, phường. Song hành với việc đầu tư cơ sở

vật chất, kinh phí cho lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, thì việc đầu tư

phát triển hệ thống giao thông đi lại, công trình điện lưới quốc gia và các

chương trình, đề án bổ trợ, phối hợp khác, cũng cần phải hết sức chú trọng,

nhằm đảm bảo cho các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng- an

ninh diễn ra đồng bộ với hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch.

99

Thứ sáu, tổ chức các hoạt kiểm tra, thanh tra, giám sát quản lý hộ tịch

Các hoạt kiểm tra, thanh tra, giám sát quản lý nhà nước về hộ tịch cần

được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính quyền địa

phương, không phải là công tác của riêng ngành tư pháp. Tại các tỉnh thành

phố Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cần xác định vai trò nòng cốt của mình, chủ

động tích cực tham mưu đề xuất với ủy ban nhân dân cấp mình, đồng thời có

sự phối hợp với các sở, ngành trong quá trình tổ chức thực hiện, có giải pháp

cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương để khắc phục tình trạng

buông lỏng quản lý hoặc hạn chế yếu kém trong công tác quản lý hộ tịch, tăng

cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với cấp huyện, cấp xã, kịp thời

uốn nắn các sai sót, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt

động đăng ký và quản lý hộ tịch.

Để thực hiện tốt công tác này, cấp tỉnh, huyện xây dựng kế hoạch hằng

năm thực hiện kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những

sai sót, vi phạm có thể xảy ra. Đối với những đơn vị đã kiểm tra, thanh tra thì

không thực hiện kiểm tra tiếp để tránh chồng chéo trùng lắp, và chỉ xây dựng

kế hoạch kiểm tra đối với những những đơn vị chưa kiểm tra và có thể kiểm

tra lại đối với những đơn vị yếu nhiều năm.

Các biện pháp chấn chỉnh những sai phạm qua kết luận kiểm tra cũng

phải được thực hiện nghiêm túc, tránh việc kiểm tra chỉ mang tính hình thức,

nể nang vì sẽ không đạt được mục đích, yêu cầu trong công tác thanh tra,

kiểm tra và giám sát và vì thế sẽ không đáp ứng được yêu cầu cải cách hành

chính tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Như vậy, quản lý nhà nước về hộ tịch tại cấp cơ sở có một nhiệm vụ

hết sức quan trọng. Quản lý hộ tịch tại đây có sự gắn kết với quản lý về dân

cư, xã hội, về những nội dung có liên quan đến quốc tế và an ninh quốc gia.

Từ những thực tiễn về quản lý hộ tịch huyện Đông ANh, với những quan

100

điểm, giải pháp, mong rằng trong thời gian tới, công tác đăng ký hộ tịch tại

huyện Đông Anh, sẽ được trung ương và chính quyền địa phương quan tâm,

đồng thời có những giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý

nhà nước không chỉ trong lĩnh vực hộ tịch.

Tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nhận thức cho đội ngũ công

chức tư pháp cấp huyện và nhất là cấp xã. Bên cạnh các biện pháp mang tính

chế tài xử lý thì biện pháp khuyến khích hiệu quả công việc cũng đặc biệt

được chú ý. Rà soát, tổng hợp, thống kê những bất cập liên quan đến văn bản

Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến lĩnh vực hộ tịch. Kịp

thời kiến nghị với Bộ Tư pháp xem xét điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi hoàn

thiện các quy định của pháp luật cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần

tạo hành lang pháp lý cho quản lý nhà nước về hộ tịch, tránh chồng chéo,

trùng lắp, hiệu quả thấp. Chỉnh đốn lề lối làm việc công sở, đổi mới phương

thức làm việc hiệu quả, từng bước kiện toàn, thay thế đội ngũ công chức tư

pháp-hộ tịch làm việc kém hiệu quả. Bên cạnh đó là nâng cao chất lượng đào

tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực cung cấp cho cấp huyện, xã, đầu tư kinh phí,

đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Song song với việc cải cách TTHC, tỉnh cũng đã đẩy mạnh cải cách chế

độ công vụ, công chức vì xác định yếu tố con người quyết định chất lượng,

hiệu quả giải quyết công việc cho doanh nghiệp. Nhiều giải pháp được triển

khai như: tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, văn

hóa ứng xử cho công chức phụ trách bộ phận một cửa và công chức chuyên

môn giải quyết TTHC; kiểm soát chặt chẽ việc giải quyết TTHC tại các bộ

phận tham gia giải quyết TTHC; thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra

công vụ để kịp thời chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi

công vụ, giờ giấc làm việc và văn hóa ứng xử nơi công sở.

Thường xuyên rà soát, đánh giá các quy định hành chính, TTHC để

101

kiến nghị đơn giản hóa hoặc loại bỏ những TTHC rườm rà, không cần thiết;

giảm chi phí, rút ngắn thời gian giải quyết, bảo đảm công khai, minh bạch và

nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước.

- Định kỳ tổ chức thực hiện khảo sát để đánh giá mức độ hài lòng của

doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước các cấp

trên các lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký kinh doanh, đầu tư để có giải

pháp chấn chỉnh kịp thời.

- Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" và các

quy chế, quy định phối hợp; thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động

của cơ quan hành chính các cấp, phổ biến rộng rãi và niêm yết công khai tại

công sở các quy chế, quy trình và các thủ tục hành chính... để doanh nghiệp

biết, thực hiện và giám sát; đồng thời phải cập nhật kịp thời khi có thay đổi.

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ,

tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, sự năng động, trung thực, kỷ cương, gương

mẫu, tận tâm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội trong giải quyết công việc của

cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận một cửa.

- Tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính: nâng cấp và tăng cường số dịch

vụ công trực tuyến lên mức độ 3 và 4; duy trì và áp dụng hệ thống quản lý

chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2015 vào hoạt động của các cơ

quan hành chính nhà nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong

hoạt động của các cơ quan hành chính.

Để duy trì và nâng chỉ số năng lực cạnh tranh của cấp Huyện, cần sự

chung tay của cả hệ thống chính trị vào công tác cải cách hành chính vì các

giải pháp trên được triển khai đạt hiệu quả khi có sự quan tâm, quyết liệt chỉ

đạo của người đứng đầu, sự cộng đồng trách nhiệm, sự nỗ lực của các cơ quan

hành chính, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và sự đồng thuận của cộng

102

đồng doanh nghiệp và nhân dân./.

Kết luận chƣơng 3

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, ưu điểm, tồn tại, khó khăn vướng

mắc từ thực tiễn thi hành của pháp luật hộ tịch tại Việt Nam và thực hiện pháp

luật hộ tịch ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; đánh giá pháp luật hiện

hành và việc thực hiện đăng ký hộ tịch tại địa bàn huyện Đông Anh ở Chương

2. Trong chương này của luận văn đã đưa ra hai nhóm giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật hộ tịch và nâng cao hiệu quả công tác đăng ký hộ tịch trên địa

bàn huyện Đông Anh

Để đảm bảo nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch và

công tác đăng ký hộ tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng

cần phải thực hiện các giải pháp như: cần hoàn thiện pháp luật hộ tịch, ứng

dụng công nghệ, thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; cần đổi mới hoạt

động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai đoạn mới, cải cách TTHC, sự chủ

động sang tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch, yêu cầu về tính chính xác, khách

quan, kịp thời; Những giải pháp mà tác giả đề xuất có ý nghĩa khoa học, thực

tiễn, có tính khả thi cao.

Luận văn đã dành chương cuối để nghiên cứu nội dung quan trọng đó

là đưa ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị để thực tiễn đăng ký hộ tịch trên

địa bàn huyện Đông Anh được nâng cao hơn nữa về chất lượng của các các sự

kiện hộ tịch được đăng ký và đảm bảo hiệu quả áp dụng của các quy định về

103

pháp luật hộ tịch.

KẾT LUẬN

Luận văn đã nghiên cứu về cơ sở lý luận của pháp luật hộ tịch, khái

niệm hộ tịch, khái niệm đăng ký hộ tịch, vai trò đăng ký hộ tịch, việc đăng ký

các sự kiện hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở lý luận, thực trạng về thực hiện pháp luật

hộ tịch đã làm rõ qua thực tiễn công tác đăng ký hộ tịch và việc thực hiện

pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh, thanh phố Hà Nội, với những đánh giá

chung, thực tiễn thực hiện các quy định của luật Hộ tịch đã có những ưu điểm,

hạn chế, những kết quả đã đạt đước. Từ trạng của việc thực hiện pháp luật hộ

tịch và thực trạng thực hiện các quy định của luật hộ tịch trên địa bàn huyện

Đông Anh, luận văn đã đưa ra một số nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật hộ

tịch và nâng cao hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn

huyện Đông Anh

Để đảm bảo nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch và

công tác đăng ký hộ tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng

cần phải thực hiện các giải pháp như: cần hoàn thiện pháp luật hộ tịch, ứng

dụng công nghệ, thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; cần đổi mới hoạt

động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai đoạn mới, cải cách TTHC, sự chủ

động sang tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch, yêu cầu về tính chính xác, khách

quan, kịp thời. Đối với Công chức tư pháp hộ tịch tính chủ động sáng tạo

chính là tính chịu trách nhiệm trong các hoạt động tác nghiệp khi tiếp nhận và

giải quyết các hồ sơ hộ tịch của công dân. Đối với Cơ qua đăng ký hộ tịch cấp

trên cần có các biên pháp để hướng dẫn tháo gỡ khó khăn một cách kịp thời,

thường xuyên tổ chức kiểm tra định kỳ việc đăng ký các sự kiện hộ tịch cho

cá nhân để phát hiện những sai xót và có biện pháp khắc phụ,

Những giải pháp mà tác giả đề xuất có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, có

104

tính khả thi cao. Với tính chất là hoạt động thể hiện rất sâu sắc chức năng xã

hội của nhà nước – chức năng rất quan trọng thì hoạt động đăng ký hộ tịch

hay còn gọi là thực hiện pháp luật hộ tịch có vai trò và tác động rất lớn đến

quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

Việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch – qua thực

tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” sẽ là cơ sở để ngành tư pháp

thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung tích cực tham gia giúp

đất nước hoàn thiện thể chế, và công tác đăng ký quản lý hộ tịch có hiệu

105

quả hơn trong thời gian tới./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Vân Anh (2017), “Ứng dụng công nghệ thông tin trong

công tác đăng ký, quản lý hộ tịch”, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp,

(Chuyên đề), tr. 22-25

2. Bộ ngoại giao - Bộ tư pháp (2006), Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-

BNG-BTP ngày 30/6/2006 hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch

tại cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan đại diện lãnh sự của Việt

Nam ở nước ngoài, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP 16/11/2015 hướng

dẫn một số điều của Nghị định Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15

tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện

pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.

4. Vũ Chất (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.

5. Chính phủ (2011), Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.

6. Chính phủ (2015), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11

năm 2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ

tịch, Hà Nội.

7. Nguyễn Phương Dung (2017), Một số khó khăn vướng mắc trong thực

tiễn thi hành Luật hộ tịch ở các địa phương, Hà Nội.

8. Đinh Ngọc Giang (2015), “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện”,

Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, (228), tr. 52 – 56.

9. Tô Thị Thu Hà (2015), “Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến,

đưa các quy định của Luật Hộ tịch đi vào đời sống”, Dân chủ & Pháp

106

luật, Bộ Tư pháp, (Chuyên đề 4), tr. 23 – 28.

10. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình lý luận chung

Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.

12. Trần Văn Luyện (2017), “Một số vấn đề về hộ tịch, hộ khẩu liên quan

đến lý lịch tư pháp”, Nghề luật, Học viện Tư pháp, (1), tr. 20-22.

13. Nhà xuất bản Tư pháp (2007), Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

14. Quốc hội (2013), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.

15. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật cư trú, Hà Nội.

16. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2007), Luật Quốc tịch, Hà Nội.

17. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2010), Luật nuôi con nuôi, Hà Nội.

18. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

19. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội.

20. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

21. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Luật Hôn nhân và gia

đình, Hà Nội.

22. Sở tư pháp (2018), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thực hiện luật hộ

tịch, Hà Nội.

23. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2018), Báo cáo kết quả công

tác tư pháp năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Hà Nội.

24. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2018), Thông báo về việc

giảm thời gian giải quyết 73 thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải

quyết của UBND các xã trên địa bàn Huyện, Hà Nội.

25. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2019), Báo cáo tình hình

kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh 6 tháng đầu năm; nhiệm vụ, giải

pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019, Hà Nội

26. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2019), Kế hoạch về việc tổ

chức thực hiện chủ đề công tác năm 2019 “Năm nâng cao hiệu lực hiệu

107

quả của hoạt động hệ thống chính trị”, Hà Nội

Tài liệu Website

27. http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU_COBAN/

Attachments/1115/tonghopkinhnghiemnuocngoai.doc

https://motcua.hanoi.gov.vn 28.

https://motcua.hanoi.gov.vn/Process 29.

http://www.sotuphap.hanoi.gov.vn/Portalview/trangchu.aspx 30.

https://moj.gov.vn/Pages/home.aspx 31.

http://qtht.moj.gov.vn/Pages/trang-chu.aspx 32.

https://hanoi.gov.vn/ 33.

https://donganh.hanoi.gov.vn/ 34.

108

https://thuvienphapluat.vn/ 35.