ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ THƢ
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH - QUA THùC TIÔN
HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ THƢ
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH - QUA THùC TIÔN
HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn “Thực hiện pháp luật về hộ tịch –
Qua thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình
bày trong Luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng dùng
bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận
văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Vì vậy tôi viết Lời cam đoan
này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Thị Thƣ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT HỘ TỊCH ................................................................................ 6
1.1. Một số khái niệm ................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm hộ tịch ................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch ................................................................... 7
1.2. Vị trí, vai trò của đăng ký, quản lý hộ tịch .................................... 12
1.2.1. Những vấn đề cơ bản thực hiện pháp luật hộ tịch .............................. 12
1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan đăng ký hộ tịch chính quyền xã ... 25
1.2.3. Nội dung, trình tự, thẩm quyền đăng ký pháp luật hộ tịch xã ............ 29
1.3. Đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................. 40
1.3.1. Pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới......... 40
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 55
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 57
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬTVỀ HỘ TỊCH
TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH ......................................................................... 58
2.1. Thực trạng pháp luật hộ tịch .......................................................... 58
2.1.1. Ưu điểm của pháp luật hộ tịch ........................................................... 58
2.1.2. Những hạn chế của thực hiện pháp luật về hộ tịch ............................ 63
2.2. Thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh ........................ 70
2.2.1. Vị trí địa lý của huyện Đông Anh ...................................................... 70
2.2.2. Thực trạng pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh ............................. 72
2.2.3. Ưu điểm của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội ............................................................ 77
2.2.4. Những hạn chế của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .................................................. 81
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 86
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH ....... 87
3.1. Yêu cầu đổi mới hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch trong
giai đoạn mới ..................................................................................... 87
3.1.1. Về cải cách thủ tục hành chính .......................................................... 87
3.1.2. Về sự đòi hỏi chủ động sáng tạo của cơ quan đăng lý hộ tịch ........... 87
3.1.3. Về tính chính xác, khách quan, kịp thời ............................................. 88
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao
hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh ...... 89
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch................................ 89
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên địa
bàn huyện Đông Anh .......................................................................... 92
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 103
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
CHDCND: Cộng hoà dân chủ nhân dân
ĐKHT: Đăng ký hộ tịch
ĐKKS: Đăng ký khai sinh
TTHC: Thủ tục hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết; việc đăng ký hộ tịch là việc của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhằm xác định các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con
nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ
tịch; xác định lại dân tộc; xác định lại giới tính. Đồng thời, căn cứ vào quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác
định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân
theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ
tịch của cá nhân đó. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân,
mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ tên, chữ đệm, ngày, tháng,
năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán, quan hệ cha, mẹ, con phải
phù hợp với giấy khai sinh của người đó.
Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền
các cấp nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình. Đồng thời, góp
phần xây dựng chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng, dân số
và kế hoạch hoá gia đình của một quốc gia.
Mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký kịp thời chính xác, mỗi một sự
kiện hộ tịch chỉ được đăng ký ở một nơi theo đúng thẩm quyền quy định. Cơ
quan quản lý hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ tịch cấp dưới, trường hợp phát hiện
1
thấy sai phạm phải chấn chỉnh và xử lý kịp thời.
Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng các sự kiện hộ tịch của người dân
và đồng thời đề xuất một số biện pháp, phương hướng nhằm đổi mới, nâng
cao công tác đăng ký hộ tịch cấp cơ sở, tác giả xin chọn đề tài “Thực hiện
pháp luật về hộ tịch – Qua thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội’’ để
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật hộ tịch, đăng ký hộ tịch ở Việt Nam đã được nhiều
tác giả nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khoa học của các tác giả được
công bố như:
- Bộ tư pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, NXB Tư pháp Hà Nội;
- Bộ tư pháp (2013), “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hộ tịch và chứng
thực cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã”, NXB Hà Nội;
- Phạm Trọng Cường (2004), Về quản lý hộ tịch, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội
- Luật gia Thy Anh, “Hướng dẫn công dân thực hiện các thủ tục về hộ
tịch”, NXB Lao động, năm 2008;
- Nguyễn Thị Nga, “Quản lý nhà nước về hộ tịch tại huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội” (Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công), Học viện
hành chính quốc gia, năm 2014;
- Bài “Thực trạng đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch và yêu cầu
chuẩn hoá” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí dân chủ và pháp luật số
chuyền đề pháp luật hộ tịch năm 2013.
- Chuyên đề “Quản lý hành chính-Tư pháp” trong chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính của Học viện
hành chính.
- Giáo trình “Quản lý hành chính-Tư pháp” của Học viện hành chính,
2
nhà xuất bản Khoa học năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp hành chính)
- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên đề
thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”;
- Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý- Bộ Tư pháp (2000), “Bảo vệ
quyền trẻ em trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam”,
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Các công trình khoa học trên đã đề cập từng khía cạnh quản lý hộ tịch,
và nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác nhau ở những phương diện và
cấp độ khác nhau về pháp luật hộ tịch. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về thực hiện pháp luật hộ tịch qua thực tiễn huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội. Đây cũng là lý do tiếp theo để tác giả lựa chọn nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ việc đổi mới để nâng cao chất
lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn. Trên cơ sở đó nêu những giải pháp chủ yếu, cần thiết, phù hợp nhằm góp
phần cải cách nền hành chính quốc gia, đặc biệt cải cách thủ tục hành chính.
Cải cách TTHC giúp giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh
nghiệp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; góp phần hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, từ đó tạo niêm tin của người dân và doanh nghiệp vào
môi trường kinh doanh của đất nước, lòng tin của người dân đối với bộ máy
Nhà nước “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [18, Điều 2].
Luận văn tập trung nghiên cứu về việc thực hiện pháp luật hộ tịch tại
cấp cơ sở tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội do đó để đạt được mục đích
nghiên cứu luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ vấn đề lí luận pháp luật hộ tịch ở Việt Nam
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hộ tịch và thực hiện pháp luật
hộ tịch tại Huyện Đông Anh
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao
3
hiệu quả công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội
a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa
bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội từ đó giúp cho việc thực hiện đăng
ký và quản lý các sự kiện hộ tịch của cá nhân được đầy đủ, kịp thời, trung
thực, khách quan và chính xác.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ khi Luật hộ tịch có hiệu lực (năm 2014) đến nay.
- Về không gian: thực hiện pháp luật hộ tịch ở huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu những cơ sở lý luận và
thực tiễn về đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã.
Đánh giá thực trạng khó khăn, vướng mắc trong quá trình đổi mới để nâng
cao chất lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã trong giai đoạn hiện nay. Đưa
ra những vấn đề cần làm sáng tỏ trong hoạt động đổi mới để nâng cao chất
lượng công tác đăng ký hộ tịch cấp xã đồng thời đề xuất các giải pháp nâng
cao chất lượng trong việc đổi mới để nâng cao chất lượng công tác đăng ký hộ
tịch cấp cơ sở.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tuân thủ các nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, nguyên tắc xem xét khách quan, toàn diện, lịch sử
cụ thể, phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa, phương pháp phân tích,
4
tổng hợp và so sánh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với tính chất là một công trình nghiên cứu khoa học có sự liên kết giữa
phân tích, đánh giá lí luận với sự tổng hợp kết quả thực tiễn tại địa phương,
luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc đưa ra các kiến
nghị và giải pháp để thực hiện các chủ trương, chính sách về việc thực hiện
pháp luật hộ tịch cũng như việc đăng ký hộ tịch cấp cơ sở.
Với nội dung chuyên sâu và mang tính thực tiễn cao, luận văn này có
thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến hộ tịch cũng nhưng các vấn đề pháp lý khác như hôn nhân
gia đình, quyền khai sinh cho trẻ, quyền được đảm bảo trong thực hiện
pháp luật về giám hộ....
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lí luận về thực hiện pháp luật hộ tịch ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hộ tịch trên
5
địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm hộ tịch
Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử từ lâu đời (thời
nhà Trần). Trải qua các thời kỳ phong kiến, thực dân, hộ tịch luôn gắn với vấn
đề quản lý con người (“đinh”), bên cạnh vấn đề quản lý đất đai (“điền”), là
hai vấn đề đã từng được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống. Sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được Nhà
nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Theo tinh thần Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thể lệ đăng ký hộ tịch đã được quy
định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng ở Nam kỳ, Hoàng Việt hộ luật
được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc kỳ, tiếp tục được áp dụng ở Việt
Nam. Điều đó cho thấy công tác hộ tịch đóng vai trò hết sức quan trọng, luôn
được duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Theo từ điển tiếng Việt, “hộ tịch” là từ loại danh từ, có nghĩa là sổ ghi
bộ dân số. “Hộ tịch” là một trong những khái niệm đặc biệt của hệ thống khái
niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân từ “hộ tịch” là từ ghép gốc Hán và hoàn
toàn không dễ Việt hóa. Tuy nhiên, do khái niệm này được sử dụng từ lâu,
mang tính lịch sử và trở thành ngôn ngữ phổ thông, quen thuộc với nhận thức
của người dân, nên khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về
lĩnh vực này đã áp dụng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật cho phép. Tức là, sử dụng khái niệm “hộ tịch” như một thuật ngữ chuyên
môn đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật ở các thời kỳ trước
đây. Tại Điều 1 Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo Nghị định số
6
764/TTG ngày 08/5/1956 của Thủ tướng Chính phủ quy định “bản điều lệ này
quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa
chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát
giấy chứng nhận các việc ấy”. Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo
Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 của Hội đồng Chính phủ năm 1961 cũng
quy định “đăng ký hộ tịch là ghi vào sổ của Ủy ban hành chính cơ sở những
việc sinh, tử, kết hôn và những việc có liên quan như nuôi con nuôi, nhận con
ngoài giá thú, nhận cha mẹ đẻ, thay đổi quốc tịch, thay đổi họ, tên, chữ đệm,
cải chính ngày, tháng, năm sinh...”. Tiếp đó, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP và
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cũng quy định hộ tịch là những sự kiện cơ bản
xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết; đăng
ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận các sự kiện sinh,
kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha mẹ con, thay đổi, cải chính, bổ
sung, điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc; ghi vào sổ
hộ tịch các việc xác định cha mẹ con, thay đổi quốc tịch, ly hôn, hủy việc kết
hôn trái pháp luật, chấm dứt nuôi con nuôi.
Vậy khái niệm hộ tịch: Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật hộ tịch
năm 2014 quy định Hộ tịch là những sự kiện như khai sinh, kết hôn, giám hộ,
nhận cha mẹ con, thay đổi cải chính, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin
hộ tịch, khai tử, thay đổi quốc tịch, xác định lại giới tính, nuôi con nuôi, chấm
dứt nuôi con nuôi, ghi vào sổ việc thay đổi các sự kiện hộ tịch của các nhân,
xác định và ghi vào sổ các sự kiện khác theo quy định của pháp luật [19].
1.1.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch
a. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận
hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý
để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý
về dân cư.
Đăng ký hộ tịch hay nói gọn là hộ tịch là hoạt động của các cơ quan
7
nhà nước có thẩm quyền (thường là các cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý
hành chính nhà nước) ghi và lưu lại các sự kiện hộ tịch quan trọng của công
dân. Hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân
của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Sự kiện quan trọng thường được
ghi nhận bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn, ly
thân tư pháp, nhận nuôi con nuôi, hợp pháp hoá lãnh sự... Ngoài ra, ở một số
nước, việc nhập cư, di dân, và bất kỳ thay đổi nơi cư trú, chỗ ở có thể bị yêu
cầu phải thông báo đến cơ quan nhà nước.
Việc đăng ký hô tịch tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và
bảo hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân. Đồng thời quản lý hộ
tịch còn góp phần vào các biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học,
phục vụ cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch có
vai trò vô cùng quan trọng.
Thứ nhất, xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn;
khai tử; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch; xác định lại
dân tộc; bổ sung thông tin hộ tịch. Theo đó cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận
bằng cách đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc, đồng thời cấp cho
đương sự giấy chứng nhận về việc đó như Giấy khai sinh; Giấy chứng nhận kết
hôn,.. Hành vi xác nhận của cơ quan hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý
của các sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi được đăng ký, các sự kiện đó mới
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của cá nhân.
Thứ hai, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản
án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:
+ Thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi
con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp
luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên
8
bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết
hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha,mẹ, con; nuôi con nuôi; thay
đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết ở nước ngoài.
Khác với hành vi xác nhận, đối với các việc hộ tịch này, cơ quan đăng
ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ vào các quyết định (bằng văn bản) của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ghi chú việc đó vào sổ hộ tịch. Hành vi này
không làm phát sinh hiệu lực pháp lý mà chỉ là thủ tục hành chính để xác
nhận phạm vi hiệu lực pháp lý của các sự kiện hộ tịch bởi vì bản thân các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đã đem lại hiệu lực
pháp lý của việc đó.
Ngoài ra còn xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác
theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy đăng ký hộ tịch là việc người có quyền và nghĩa
vụ đăng ký hộ tịch yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận các sự
kiện hộ tịch phát sinh trên thực tế theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
hoặc ghi vào sổ hộ tịch các việc có liên quan đến hộ tịch nhằm đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cá nhân có liên quan.
Mục đích chính của đăng ký hộ tịch là để tạo ra hệ thống pháp luật (văn
bản pháp luật thậm chí là văn bản quy phạm pháp luật) được sử dụng để thiết
lập và bảo vệ các quyền dân sự của cá nhân. Mục đích thứ hai là tạo ra một
nguồn dữ liệu cho việc biên soạn các số liệu thống kê quan trọng, phục vụ
cho hoạt động thống kê dân cư của nhà nước.
Mục đích quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về
hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, để từ đó
góp phần tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng
9
và chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình....
b. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà việc Đăng ký hộ tịch có
khác biệt theo đặc thù của từng nước, tuy nhiên một số hoạt động chung có
thể kể đến bao gồm:
Hoạt động xác nhận các sự kiện hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, ly hôn,
khai tử, nuôi con nuôi, giám hộ…
Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về:
ly hôn, thay đổi quốc tịch, xác định cha mẹ con…
Cấp giấy tờ hộ tịch. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp theo thủ tục, trình tự được quy định tại pháp luật mỗi nước và
là bằng chứng, chứng cứ công nhận các sự kiện về hộ tịch, làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.
Đăng ký hộ tịch tại Việt Nam là việc công dân, người nước ngoài làm
các thủ tục về đăng ký hộ tịch tại các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam sẽ xác nhận các sự kiện: sinh, kết hôn,
tử, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính, bổ sung,
điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc. Các cơ quan
này cũng sẽ ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc
tịch, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, chấm dứt nuôi con nuôi….
Việc đăng ký và quản lý hộ tịch được xác định là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm không chỉ theo dõi thực trạng
và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân và gia đình, xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, dân số,
kế hoạch hóa gia đình (các mảng lĩnh vực về dân sự) mà thậm chí còn phục
vụ cho mục đích về an ninh quốc phòng). Chính vì vậy, quy định bắt buộc
những người buộc thực hiện đăng ký hộ tịch phải tự giác đăng ký các sự kiện
10
hộ tịch theo quy định.
c. Thực hiện pháp luật hộ tịch
Các văn bản pháp luật được ban hành cần được thực hiện trong cuộc
sống, mục đích của việc ban hành văn pháp luật chỉ có thể đạt được khi các
quy định pháp luật được xã hội thực hiện một cách chính xác và đầy đủ. Do
vậy vấn đề ở đây không chỉ ban hành nhiều văn bản pháp luật mà điều quan
trọng là phải thực hiện pháp luật nghĩa là làm cho những văn bản pháp luật đó
trở thành hiện thực trong cuộc sống của xã hội.
Việc thực hiện đầy đủ chính xác hay không thì đó không chỉ là mối
quan tâm tâm từ phía Nhà nước mà từ cả phía người dân trong xã hội. Thực
hiện pháp luật là hành vi (có thể là hành động hoặc không hành động) của con
người phù hợp với các quy định của pháp luật, do đó chúng ta hiểu rằng dưới
góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp
Thực hiện pháp luật là hành vi của mỗi cá nhân hoặc của cơ quan tổ
chức, tổ chức kinh tế …..
Theo giáo trình của trường Đại học quốc gia Hà Nội thì thực hiện pháp
luật là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào
cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể.
Căn cứ vào tích chất hoạt động của thực hiện pháp luật thì thực hiện có
các hình thức sau: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật,
áp dụng p pháp luật
Vậy từ đó ta có thể hiểu là thực hiện pháp luật hộ tịch là hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật hộ tịch đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể pháp luật.
* Áp dụng pháp luật hộ tịch là một quá trình phức tạp, để áp dụng pháp
luật hộ tịch chính xác và đạt hiệu quả cao cần tiến hành theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Phân tích đáng giá chính xác mọi tình tiết, hoàn cảnh,
11
điều kiện của các sự việc hộ tịch xảy ra. Xem xét đánh giá các tình tiết thực
tế của vụ việc, đánh giá tầm quan trọng của các sự kiện pháp lý của các sự
kiện hộ tịch
- Giai đoạn 2: Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với các sự kiện hộ
tịch đó, phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa các quy phạm pháp luật để áp
dụng đúng các sự kiện hộ tịch xảy ra. Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật, xác
định quy phạm pháp luật còn hiệu lực. Ở giai đoạn này sự thuận lợi cho cơ
quan áp dụng đó là có rất nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh song khó khăn
đó là cơ quan áp dụng pháp luật phải lựa chọn và vận dụng đúng quy phạm
pháp luật đó. Nếu nhận thức đúng đắn được các quy phạm pháp luật, thì áp
dụng đúng đảm bảo khách quan cho các sự kiện hộ tịch diễn ra, còn ngược lại
áp dụng sai thì sự kiện hộ tịch sẽ bị giải quyết sai và gây hậu quả nghiêm trọng
- Giai đoạn 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật cho các sự kiện đó, đây là
giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật về hộ tịch. Lúc này
quan hệ pháp lý, trách nhiệm pháp lý được xác lập. Các giấy tờ hộ tịch phải
được ban hành đúng về trình tự thủ tục, hình thức nội dung….
Áp dụng pháp luật hộ tịch là quá trình phức tạp, chỉ có ở cơ quan Nhà
nước, tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, có tính sáng tạo, điều
chỉnh quan hệ xã hội đặc biệt.
1.2. Vị trí, vai trò của đăng ký, quản lý hộ tịch
1.2.1. Những vấn đề cơ bản thực hiện pháp luật hộ tịch
Việc đăng ký hộ tịch được thực hiện theo quy định mỗi sự kiện hộ
tịch chỉ được đăng ký tại một nơi. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước
Việt Nam cấp cho cá nhân là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của
cá nhân đó, trong đó Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân.
Ngoài ra, các giấy tờ hộ tịch do Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan
Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài cấp cũng có giá trị như giấy tờ hộ tịch
12
được cấp ở trong nước.
Đối với những Giấy tờ hộ tịch do nước ngoài cấp, khi sử dụng tại Việt
Nam thì bắt buộc phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác riêng đối với Giấy tờ hộ
tịch do Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cấp cho
công dân nước đó để sử dụng tại Việt Nam được miễn hợp pháp hóa lãnh sự
trên cơ sở nguyên tắc có đi, có lại. Đối với những loại giấy tờ hộ tịch bằng
tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được công chứng.
Việc đăng ký hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và bảo
hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân. Đồng thời quản lý hộ tịch còn
góp phần vào các biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ cho
việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh -
quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy việc tìm hiểu về vấn đề đăng ký hộ
tịch là vấn đề vô cùng quan trọng.
Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân
thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên,
quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi
nhận trong Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh đã bảo đảm
quyền được khai sinh, một trong những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em
theo tuyên bố tại Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em: "Trẻ em phải
được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có
họ tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình
là ai và được chính cha mẹ mình chăm sóc" [23]; Tuy nhiên, quyền được khai
sinh không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân
nào; theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch
cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân.
Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thi hành đã có nhiều điểm mới
13
mang tính đột phá, cải cách mạnh mẽ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói
riêng và quản lý dân cư nói chung. Luật quy định việc cấp Số định danh cá
nhân khi đăng ký khai sinh; xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ
thông tin hộ tịch của cá nhân và kết nối, cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của
cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư...
Qua 03 (ba) năm triển khai cho thấy, Luật hộ tịch năm 2014 đã tạo cơ
sở pháp lý để người dân được công nhận các quyền con người, quyền, nghĩa
vụ công dân và để Nhà nước bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có
biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây
dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh
của đất nước.
Khái quát về các quyền nhân thân của cá nhân trong các văn bản pháp
luật có liên quan đến hộ tịch:
Hiến pháp 2013
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Bộ luật dân sự
Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân
thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên,
quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi
nhận trong Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh đã bảo đảm
quyền được khai sinh, một trong những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em
theo tuyên bố tại Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em: "Trẻ em phải
14
được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có họ
tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình là ai
và được chính cha mẹ mình chăm sóc [11]. Tuy nhiên, quyền được khai sinh
không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân nào;
theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch
cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân.
Về quyền nhân thân của cá nhân, hai Luật này đã ghi nhận nhiều quyền
con người và quyền công dân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Trong
đó có một số quyền cần được công nhận, bảo vệ hoặc tổ chức, thực hiện thông
qua thủ tục đăng ký hộ tịch do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
thực hiện, bao gồm:
- Quyền có họ, tên và thay đổi họ, tên [20, Điều 26, 27, 28], được xác
nhận thông qua thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục đăng ký thay đổi, cải
chính hộ tịch;
- Quyền xác định, xác định lại dân tộc [20, Điều 29], được xác nhận
thông qua thủ tục khai sinh hoặc thủ tục xác nhận lại dân tộc;
- Quyền được khai sinh, khai tử [20, Điều 30], được xác nhận thông
qua thủ tục khai sinh; khai tử
- Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình [20, Điều 39], [21, Điều
8, Điều 9], được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký kết hôn;
- Quyền ly hôn [20, Điều 39], [21, Điều 51] được xác nhận thông qua
thủ tục đăng ký ghi vào sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc ly hôn theo
bản án, quyết định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;
- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con [20, Điều 65], được xác nhận
thông qua thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con hoặc thủ tục đăng ký ghi vào sổ
bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc xác định cha, mẹ, con theo bản án, quyết
định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;
- Quyền đối với quốc tịch [20, Điều 31], được xác nhận thông qua thủ
15
tục đăng ký khai sinh;
- Quyền về giám hộ và được giám hộ [20], [21] được xác nhận thông
qua thủ tục đăng ký giám hộ.
Luật hôn nhân và gia đình
Luật Hộ tịch trong mối quan hệ với Luật Hôn nhân – Gia đình được thể
hiện thông qua phạm vi điều chỉnh. Ngoài ra, mối quan hệ còn thể hiện qua
nội dung: Luật Hộ tịch là luật hình thức, đồng thời cũng là luật riêng của luật
nội dung. Luật Hôn nhân - Gia đình quy định về các quyền, nghĩa vụ về hôn
nhân và gia đình; Luật Hộ tịch quy định thủ tục đăng ký hộ tịch nhằm tôn
trọng và bảo đảm các quyền, nghĩa vụ đó. Chẳng hạn như qua việc kết hôn và
đăng ký kết hôn; Quyền nhận cha mẹ con.
Kết hôn và đăng ký kết hôn
Luật Hộ tịch về cơ bản đã đưa ra được cơ chế để xác định sự tuân thủ
điều kiện kết hôn của người có yêu cầu kết hôn khi quy định: về thẩm quyền
đăng ký kết hôn và nội dung Giấy chứng nhận kết hôn; Thủ tục đăng ký kết
hôn, kết hôn trong nước, kết hôn có yếu tố nước ngoài; thủ tục ghi vào Sổ hộ
tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài.
Quyền nhận cha mẹ con
- Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa
án xác định người đó là con mình.
- Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác
định người đó không phải là con mình.
- Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ
đã chết.
- Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ;
nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.
16
- Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
- Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận
con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Luật Hộ tịch quy định về đăng ký nhận cha, mẹ, con: cụ thể là quy định
về điều kiện đăng ký nhận cha, mẹ, con; thẩm quyền; trình tự, thủ tục đăng
ký; thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Luật Quốc tịch
Tương tự như những Luật trên, Luật Hộ tịch cũng có mối quan hệ với
Luật Quốc tịch, chẳng hạn thông qua nội dung như:
Quyền đối với quốc tịch: Luật Quốc tịch quy định:
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có
quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch
Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này…. mọi
thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch
Việt Nam [16, Điều 2].
Luật Quốc tịch quy định một trong những căn cứ xác định có quốc tịch
Việt Nam là Giấy khai sinh. Do vậy, để đảm bảo quyền có quốc tịch và ghi
nhận quyền có quốc tịch của cá nhân, Luật Hộ tịch quy định về nội dung đăng
ký khai sinh như: "Thông tin của người được đăng ký khai sinh:… quốc
tịch; Thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và
tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú" [19].
- Đối với Thủ tục đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài Luật Hộ tịch
quy định:
…Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là người nước ngoài
thì phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ về việc chọn quốc tịch
17
cho con. Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con
thì văn bản thỏa thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của nước ngoài mà người đó là công dân [19, Điều 36]
Luật Nuôi con nuôi
Đăng ký nuôi con nuôi cũng là một loại việc hộ tịch, tuy nhiên, do tính
chất đặc thù nên việc nuôi con nuôi được điều chỉnh bởi Luật Nuôi con nuôi
và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này với những quy định khá
khác biệt về trình tự, thủ tục đăng ký. Mặc dù, việc nuôi con nuôi được đăng
ký theo trình tự, thủ tục riêng, tuy nhiên, quá trình giải quyết thủ tục đăng ký
nuôi con nuôi cũng như giải quyết yêu cầu thay đổi thông tin trong giấy tờ hộ
tịch của trẻ em được nhận làm con nuôi có sự liên hệ chặt chẽ với nhau thông
qua thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong trường hợp con nuôi là trẻ em bị bỏ
rơi mà phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh
đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân cấp xã còn để trống; thủ tục thay đổi thông
tin về cha mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi; Ghi chú việc nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài;…
* Thực tiễn thi hành pháp luật hộ tịch với việc bảo đảm/bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân
Những khó khăn, vướng mắc
a. Những quy định của BLDS với Luật Hộ tịch:
- Về việc đặt tên, khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy
định: Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc
khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là
chữ [20, Điều 26]. Như vậy, trường hợp trẻ em có một bên cha hoặc mẹ là
công dân Việt Nam, bên còn lại là người nước ngoài, nếu cha mẹ thỏa thuận
18
lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con thì khi đăng ký khai sinh, tên của trẻ
cũng phải là tên gọi Việt Nam. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là tên bằng
"tiếng Việt" hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam thì chưa có quy định
hướng dẫn trong văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn cho cả công chức
làm công tác hộ tịch và người dân đến đăng ký.
- Đăng ký giám sát giám hộ: Hiện tại, Luật Hộ tịch chưa quy định thủ
tục đăng ký giám sát việc giám hộ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
- Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành chưa có hướng
dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử trong trường hợp
trẻ em sinh ra sống được trong vòng 24 giờ rồi chết.
b. Những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với Luật Hộ tịch:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong
thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra
trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được
coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra
trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung
của vợ chồng [21, Điều 88].
Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và
phải được Tòa án xác định. Về nguyên tắc, trẻ em được sinh ra trong thời kỳ
hôn nhân được xác định là con chung của vợ chồng, kể cả trong trường hợp
03 bên vợ, chồng và người thứ 3 thống nhất không thừa nhận đứa trẻ đó là
con của cặp vợ chồng, mà là con của người vợ và người thứ 3; do đó, khi
ĐKKS, phần thông tin về cha, mẹ vẫn phải ghi thông tin của người mẹ và
người chồng (pháp lý) của người mẹ.
Trong trường hợp người chồng của mẹ không thừa nhận trẻ em đó là
19
con của mình hoặc người mẹ không thừa nhận người chồng là cha của đứa trẻ
thì cần yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha - con theo
thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời gian qua, yêu cầu xác định cha cho con
trong trường hợp này thường bị Tòa án từ chối giải quyết hoặc có tòa thụ lý,
có tòa không thụ lý với lý do không có tranh chấp, khiến người dân phải đi lại
nhiều lần giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và cơ quan Tòa án.
c. Quy định của Luật Nuôi con nuôi với Luật Hộ tịch
- Tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật nuôi con nuôi:
Trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự
đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về
cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi;
thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng
ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ; tại cột ghi
chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi [5, Điều 10].
Tuy nhiên, tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP:
Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016
nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được
đăng ký lại [6].
Do đó, việc thu hồi hủy bỏ để đăng ký lại nhằm mục đích thay đổi phần
khai về cha, mẹ ruột sang cha, mẹ nuôi là không thể thực hiện được theo Luật
Hộ tịch (vì Sổ và bản chính Giấy khai sinh vẫn còn).
- Việc thay đổi thông tin về cha mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi:
Theo quy định tại Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi thì việc
thay đổi phần khai về cha mẹ trong giấy khai sinh và sổ ĐKKS của con nuôi,
20
trước đây, được thực hiện nếu có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 09 tuổi trở lên thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
đã ĐKKS cho trẻ em thu hồi giấy khai sinh và thực hiện ĐKKS lại với các
thông tin mới cho trẻ em; tại cột ghi chú của sổ ĐKKS phải ghi rõ là cha mẹ
nuôi. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật hộ tịch không quy định việc thu hồi lại
giấy khai sinh cũ và thực hiện việc ĐKKS lại với sự thay đổi phần khai về
cha, mẹ của trẻ em (theo cha, mẹ nuôi). Trường hợp cha mẹ nuôi có yêu cầu
thay đổi phần khai về cha mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký thì thực
hiện theo trình tự, thủ tục thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật hộ tịch.
Sau khi thực hiện thủ tục thay đổi hộ tịch và được cấp trích lục thay đổi hộ
tịch, cơ quan ĐKHT sẽ ghi những nội dung thay đổi vào mặt sau giấy khai
sinh. Việc thực hiện quy định này có bất lợi là không bảo đảm giữ bí mật
thông tin đối với trẻ em được nhận làm con nuôi, khi sử dụng bản chính giấy
khai sinh với những thông tin về cha mẹ đẻ ghi ở mặt trước, thông tin về cha
mẹ nuôi ghi ở mặt sau dễ dẫn đến tâm lý mặc cảm, tự ti của trẻ mặc dù pháp
luật hộ tịch có quy định, sau khi thực hiện việc thay đổi, ghi thông tin thay đổi
vào sổ ĐKKS, trẻ sẽ được cấp trích lục khai sinh với các thông tin đã được
thay đổi, việc sử dụng trích lục khai sinh này sẽ đáp ứng được nguyện vọng
giữ bí mật thông tin về quan hệ nuôi con nuôi.
d. Luật Quốc tịch với Luật Hộ tịch
Luật Quốc tịch chưa có quy định về hình thức có quốc tịch Việt Nam
đối với trường hợp trẻ em có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam, được sinh
ra ở nước ngoài. Đã có quốc tịch nước ngoài theo nơi sinh
Theo quy định tại Điều 15 Luật Quốc tịch quy định: "Quốc tịch của trẻ em
khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam" [16].
Tuy nhiên, việc trẻ có quốc tịch Việt Nam thông qua hình thức nào thì pháp
luật chưa có quy định cụ thể, dẫn đến cơ quan đăng ký hộ tịch còn lúng túng
21
khi giải quyết yêu cầu của công dân. Ví dụ: Đối với trường hợp trẻ em sinh ra
tại Hoa Kỳ (quốc gia xác định nơi sinh theo nguyên tắc lãnh thổ), có cả cha và
mẹ là công dân Việt Nam khi đứa trẻ này được đăng ký khai sinh tại Hoa Kỳ,
trong Giấy khai sinh, ghi quốc tịch Hoa Kỳ. Trong khi đó, theo Luật Quốc
tịch Việt Nam áp dụng nguyên tắc xác định quốc tịch Việt Nam theo huyết
thống. Vì vậy, cha mẹ trẻ đã đến cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu đăng ký
khai sinh cho trẻ trong đó ghi quốc tịch của trẻ em là quốc tịch Việt Nam.
Trong trường hợp này, trẻ em đương nhiên có quốc tịch Việt Nam theo cha
mẹ, việc có quốc tịch Hoa Kỳ (theo nơi sinh) không làm mất đi quyền có quốc
tịch Việt Nam của trẻ. Tuy nhiên, do pháp luật quốc tịch, hộ tịch chưa có quy
định cụ thể đối với trường hợp này này nên trong thực tế, các cơ quan đăng ký
hộ tịch còn lúng túng, việc giải quyết còn chưa có sự thống nhất (đăng ký khai
sinh, ghi quốc tịch Việt Nam cho trẻ vận dụng ghi vào sổ hộ tịch việc khai
sinh của trẻ, mục quốc tịch ghi quốc tịch Việt Nam.
* Vai trò của đăng ký khai sinh đối với việc quản lý nhà nước và đối
với công dân
Đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mọi công dân, là một trong
những nguyên tắc chung xét ở gốc độ pháp lý về mặt quyền thì đăng ký hộ
tịch là việc thể hiện quyền dân sự của công dân; về mặt nghĩa vụ công dân
phải có trách nhiệm thực hiện đăng ký hộ tịch. Đối với Nhà nước thông qua
việc đăng ký này đảm bảo được quyền của công dân. Do vậy, đăng ký hộ tịch
là quyền và nghĩa vụ của mỗi người, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định.
Đăng ký khai sinh là một loại sự kiện đăng ký hộ tịch, là sự kiện đăng
ký đầu tiên có liên quan đến nhân thân của một người từ khi mới sinh ra.Từ
khái niệm đăng ký hộ tịch nêu ra ở trên chúng ta suy ra khái niệm đăng ký
khai sinh là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào Sổ
22
đăng ký khai sinh sự kiện được sinh ra của một cá nhân. Nội dung đăng ký là
việc xác định những thông tin về bản thân người được đăng ký khai sinh như
họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh và thông
tin về cha, mẹ của người được đăng ký khai sinh… sau khi được đăng ký khai
sinh cá nhân được cơ quan đăng ký cấp cho Giấy khai sinh có ghi nhận đầy
đủ các thông tin liên quan đến nhân thân của cá nhân như nội dung mà cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã ghi nhận. Hiện nay, thực hiện Luật căn cước
thì sau khi nhập thông tin khai sinh của trẻ vào hệ thống đăng ký khai sinh điện
tử của Bộ tư pháp, thông tin khai sinh của trẻ được nhập chính xác, khi hoàn
thiện xong trẻ sẽ được cấp số định danh cá nhân là số căn cước công dân.
Ở mỗi thời kỳ, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước, tùy
thuộc vào mong muốn của nhà quản lý, việc đăng ký khai sinh có một ý nghĩa
nhất định.Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay việc đăng ký khai
sinh được hoàn thiện dần cùng với công tác đăng ký hộ tịch qua các văn bản
về hộ tịch mà Nhà nước đã ban hành. Đăng ký khai sinh là một lĩnh vực trong
công tác đăng ký hộ tịch, đăng ký khai sinh có vai trò ý nghĩa rất quan trọng
đối với công dân và đối với Nhà nước, đăng ký khai sinh tạo mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân.
Thứ nhất, vai trò của đăng ký khai sinh đối với việc quản lý nhà nước:
Nhà nước đăng ký khai sinh cho công dân là để Nhà nước quản lý về mặt
pháp lý từng người dân, qua đó quản lý toàn bộ dân cư trong cả nước, nắm bắt
được biến động tự nhiên về dân cư. Nhà nước quản lý con người, thống kê
được dân số, tình hình tăng dân số giúp Nhà nước có cơ sở hoạch định chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Qua đó, Nhà nước có cơ sở khoa học để
hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và
trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, công tác đăng ký khai sinh - một yêu cầu
không thể thiếu trong quản lý nhà nước về hộ tịch, là ghi nhận về mặt pháp lý
23
sự tồn tại của một cá nhân, là cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa Nhà nước và
công dân, từ đó phát sinh trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời
sống người dân, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Hơn
thế nữa, đối với Nhà nước thông qua việc đăng ký này đảm bảo được quyền
của công dân, quyền được khai sinh mà pháp luật đã quy định. Đặc biệt đối
với trẻ em đối tượng Nhà nước quan tâm bảo vệ, thì đăng ký khai sinh cho trẻ
em là nghĩa vụ phải làm của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ
em, đối tượng được quan tâm hàng đầu trong mọi xã hội.
Khi đăng ký khai sinh Nhà nước cấp cho người dân chứng thư pháp lý
là Giấy khai sinh. Giấy khai sinh góp phần hỗ trợ hoạt động các cơ quan nhà
nước trong việc xác định nhân thân của một người như độ tuổi, giới tính, cha
mẹ…., phục vụ cho các quan hệ khác. Ví dụ: Giấy khai sinh dùng để xác định
cha và mẹ đẻ của một cá nhân, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết việc phân chia di sản thừa kế trong trường hợp người chết không để lại
di chúc, phân chia tài sản theo pháp luật, hay Giấy khai sinh dùng để hỗ trợ
cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của một người để áp
dụng chính sách trong tố tụng cho phù hợp…
Thứ hai, vai trò của đăng ký khai sinh đối với công dân: Đăng ký khai
sinh là quyền của mỗi người được pháp luật quốc tế ghi nhận, đồng thời cũng
được ghi nhận trong pháp luật của quốc gia. Đăng ký khai sinh có vai trò, ý
nghĩa là sự ghi nhận về mặt pháp lý tình trạng nhân thân của một người được
sinh ra, thông qua đăng ký khai sinh, cá nhân được cấp Giấy khai sinh, là cơ
sở xác định nguồn gốc các mối quan hệ nhân thân, quan hệ gia đình; là một
trong những chứng cứ pháp lý tạo ra sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa Nhà
nước và công dân và có giá trị chứng minh đối với các mối quan hệ khác
trong xã hội ví dụ như truy nhận cha, mẹ con, thừa kế di sản, học tập…Đăng
ký khai sinh cho một cá nhân là cơ sở đầu tiên để cá nhân đó trở thành công
24
dân một quốc gia, làm phát sinh quyền của mình, công dân thực hiện được
các quyền của mình được Nhà nước ghi nhận và là cơ sở để được Nhà nước
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Nếu cá nhân không đăng ký
khai sinh, cá nhân sẽ không hưởng được các quyền dành cho công dân mà
Nhà nước quy định, cũng như công dân sẽ không được bảo vệ khi quyền và
lợi ích bị xâm hại. Nếu không có khai sinh thì không có cơ sở chắc chắn để
phân biệt cá nhân này với cá nhân khác thông qua các yếu tố cơ bản như: họ
tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, nơi sinh, thông tin về cha mẹ…
Trong cuộc sống, Đăng ký khai sinh có vai trò và ý nghĩa quan trọng
đối với người dân, tuy nhiên nếu không thực hiện đúng quy định pháp luật thì
sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đăng ký khai
sinh đòi hỏi phải được đăng ký chính xác tuyệt đối các thông tin liên quan đến
nhân thân của một cá nhân. Nếu trong việc đăng ký khai sinh có sự không
chính xác trong việc ghi nhận các thông tin đã đăng ký thì hệ lụy này do
người dân gánh chịu.
1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan đăng ký hộ tịch chính quyền xã
1.2.2.1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm về công tác
đăng ký, quản lý hộ tịch và những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý
hộ tịch do buông lỏng quản lý. Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản
lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây
(Phòng Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định)
Thực hiện đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật hộ tịch; Chỉ đạo, kiểm
tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã; Tổ chức tuyên
truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch; Quản lý, sử dụng Sổ hộ
tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định; Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân cấp
25
tỉnh, bố trí công chức làm công tác hộ tịch; Quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở
dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản sao trích lục hộ tịch theo quy định; Thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hộ tịch theo
thẩm quyền; Thu hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp
trái quy định của Luật này, trừ trường hợp kết hôn trái pháp luật; Tổng hợp tình
hình và thống kê hộ tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của
Chính phủ; Lưu trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch.
1.2.2.2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa
phương và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thực hiện đăng ký hộ tịch theo
quy định của Luật này; Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân cấp trên, bố trí
công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch; Tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về hộ tịch; Quản lý, sử dụng Sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo
quy định; Quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp
bản sao trích lục hộ tịch theo quy định; Tổng hợp tình hình và thống kê hộ
tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định của Chính phủ; Lưu
trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm về hộ tịch theo thẩm quyền.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc
khai sinh, khai tử; chịu trách nhiệm về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và
những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch do buông lỏng quản lý.
Công chức tư pháp - hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định.
1.2.2.3. Công chức làm công tác hộ tịch
Công chức làm công tác hộ tịch bao gồm công chức tư pháp - hộ tịch
ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại
26
Cơ quan đại diện.
Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có các tiêu chuẩn sau đây:
- Có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ
hộ tịch;
- Có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.
- Căn cứ điều kiện thực tế về diện tích, dân số, khối lượng công việc tư
pháp, hộ tịch của địa phương, Chính phủ quy định việc bố trí công chức tư
pháp - hộ tịch đảm nhiệm công tác hộ tịch chuyên trách.
Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử
nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.
Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện
đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của công chức làm công tác hộ tịch
Trong lĩnh vực hộ tịch, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
- Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan về hộ tịch;
- Chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp xã và pháp luật về việc
đăng ký hộ tịch;
- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định
của pháp luật về hộ tịch;
- Giúp Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký hộ tịch kịp thời, chính xác,
khách quan, trung thực; cập nhật đầy đủ các sự kiện hộ tịch đã được đăng ký
vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;
- Chủ động kiểm tra, rà soát để đăng ký kịp thời việc sinh, tử phát sinh
trên địa bàn.
- Đối với địa bàn dân cư không tập trung, điều kiện đi lại khó khăn,
27
cách xa trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo
Ủy ban nhân dân cấp xã cho tổ chức đăng ký lưu động đối với việc khai sinh,
kết hôn, khai tử;
- Thường xuyên trau dồi kiến thức pháp luật để nâng cao năng lực và
nghiệp vụ đăng ký hộ tịch; tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
do Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan tư pháp cấp trên tổ chức;
- Chủ động báo cáo, đề xuất Ủy ban nhân dân cùng cấp phối hợp với cơ
quan, tổ chức kiểm tra, xác minh về thông tin hộ tịch; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp thông tin để xác minh khi đăng ký hộ tịch; phối hợp
với cơ quan Công an cùng cấp cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân
cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Những quy định này cũng được áp dụng đối với công chức làm công
tác hộ tịch của Phòng Tư pháp, viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ
tịch tại Cơ quan đại diện theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Những việc công chức làm công tác hộ tịch không được làm
- Cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì hoãn, gây khó khăn, phiền hà,
nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý hộ tịch.
- Thu lệ phí hộ tịch cao hơn mức quy định hoặc đặt ra các khoản thu
khi đăng ký hộ tịch.
- Đặt ra thủ tục, giấy tờ, cố ý kéo dài thời hạn giải quyết đăng ký hộ
tịch trái quy định của Luật này.
- Tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung thông tin trong Cơ sở dữ liệu
hộ tịch.
- Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái quy định của Luật này.
- Tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật cá nhân mà biết được qua đăng
ký hộ tịch.
- Công chức làm công tác hộ tịch vi phạm các quy định tại Điều này thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
28
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Nội dung, trình tự, thẩm quyền đăng ký pháp luật hộ tịch xã
1.2.3.1. Đăng ký hộ tịch tại UBND cấp xã
* Đăng ký khai sinh
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách
nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai
sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ
chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng
ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần
thiết thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.
* Đăng ký kết hôn
Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ
quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.
Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu
thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công
chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ
ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn;
công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức
trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.
Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì
thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc.
* Đăng ký giám hộ
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ hoặc người
giám hộ thực hiện đăng ký giám hộ.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký giám hộ thực hiện đăng ký
29
chấm dứt giám hộ.
Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu
quy định và văn bản cử người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự cho
cơ quan đăng ký hộ tịch.Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ
giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện theo quy
định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch và cùng
người đi đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
- Đăng ký giám hộ đương nhiên
Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu
quy định và giấy tờ chứng minh điều kiện giám hộ đương nhiên theo quy định
của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp có nhiều người
cùng đủ điều kiện làm giám hộ đương nhiên thì nộp thêm văn bản thỏa thuận
về việc cử một người làm giám hộ đương nhiên.
- Đăng ký chấm dứt giám hộ
Người yêu cầu đăng ký chấm dứt giám hộ nộp tờ khai đăng ký chấm
dứt giám hộ theo mẫu quy định và giấy tờ làm căn cứ chấm dứt giám hộ theo
quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy,
nếu thấy việc chấm dứt giám hộ đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật dân
sự, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc chấm dứt giám hộ vào Sổ hộ tịch,
cùng người đi đăng ký chấm dứt giám hộ ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
- Đăng ký thay đổi giám hộ
Trường hợp yêu cầu thay đổi người giám hộ theo quy định của Bộ luật
dân sự và có người khác đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ
tục đăng ký chấm dứt giám hộ trước đó và đăng ký giám hộ mới theo quy
30
định tại Mục này.
* Đăng ký nhận cha, mẹ, con
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được
nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy
định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng
ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.Trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều
này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công
chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ,
con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích
lục cho người yêu cầu.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không
quá 05 ngày làm việc.
* Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch
Thay đổi họ, chữ đệm và tên của cá nhân trong nội dung khai sinh đã
đăng ký khi có căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.
Thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau
khi được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú
của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người
chưa đủ 14 tuổi; bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.
Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu
quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy
định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ
sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công
31
chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay
đổi, cải chính hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh,
Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay
đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không
quá 03 ngày làm việc.
Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi đăng
ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản
kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch
trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.
Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy
ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục
hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.
Người yêu cầu bổ sung hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy
tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu
thấy yêu cầu bổ sung hộ tịch là đúng, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội
dung bổ sung vào mục tương ứng trong Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu ký tên
vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho
người yêu cầu.
Trường hợp bổ sung hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết
hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục tương ứng
và đóng dấu vào nội dung bổ sung.
* Đăng ký khai tử
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện
32
việc đăng ký khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng
của người chết thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi phát
hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc
con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi
đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện
của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.
Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc khai
tử cho người chết; trường hợp không xác định được người có trách nhiệm đi
khai tử thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký khai tử.
Người có trách nhiệm đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định
và Giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Ngay sau khi nhận giấy tờ theo quy định, nếu thấy việc khai tử đúng thì
công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai tử vào Sổ hộ tịch, cùng người
đi khai tử ký tên vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
cấp trích lục cho người đi khai tử.
Công chức tư pháp - hộ tịch khóa thông tin hộ tịch của người chết trong
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
* Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp Tờ khai theo mẫu quy
định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết
hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình.
Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc
chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình
hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh; nếu thuộc trường hợp quy định tại
Khoản 2 Điều 37 của Nghị định này thì nộp bản sao trích lục hộ tịch tương ứng.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,
33
công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người
có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch
trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải
ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy
xác nhận tình trạng hôn nhân.
Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng
ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh
về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh
được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký
thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề
nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và
trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn
nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.
Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban
nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu
theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã
hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải
nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.
* Đăng ký lại khai sinh, khai tử, kết hôn
Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016 nhưng Sổ hộ tịch và
bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại.Người yêu cầu đăng
34
ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử có trách nhiệm nộp đầy đủ bản sao giấy tờ,
tài liệu có nội dung liên quan đến việc đăng ký lại.Việc đăng ký lại khai sinh,
kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm
tiếp nhận hồ sơ.
1.2.3.2. Đăng ký hộ tịch tại UBND cấp huyện
* Đăng ký khai sinh
Người đi đăng ký khai sinh nộp giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều
16 của Luật này cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc
cả cha và mẹ là người nước ngoài thì phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ
về việc chọn quốc tịch cho con.Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước
ngoài cho con thì văn bản thỏa thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền của nước ngoài mà người đó là công dân. Ngay sau khi nhận
đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh
đầy đủ và phù hợp, công chức làm công tác hộ tịch ghi nội dung khai sinh
theo quy định tại Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; trường hợp trẻ em có
quốc tịch nước ngoài thì không ghi nội dung quy định tại điểm c khoản 1
Điều 14 của Luật Hộ tịch.Công chức làm công tác hộ tịch, người đi đăng ký
khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.
Chính phủ quy định thủ tục đăng ký khai sinh đối với các trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 35 của Luật này.
* Đăng ký kết hôn
Hai bên nam, nữ nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó
không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Người nước ngoài, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài phải nộp
thêm giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân, bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ
35
có giá trị thay hộ chiếu.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại
khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch có trách nhiệm xác minh,
nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật thì Phòng Tư pháp
báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết.
Khi đăng ký kết hôn cả hai bên nam, nữ phải có mặt tại trụ sở Ủy ban
nhân dân, công chức làm công tác hộ tịch hỏi ý kiến hai bên nam, nữ, nếu
các bên tự nguyện kết hôn thì ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên
nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng
nhận kết hôn.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trao Giấy chứng nhận kết hôn cho
hai bên nam, nữ.
Chính phủ quy định bổ sung giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, việc
phỏng vấn, xác minh mục đích kết hôn khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết
hôn; thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam để
kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở
nước ngoài nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
* Đăng ký giám hộ
- Đăng ký giám hộ cử
Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai theo mẫu quy định và văn
bản cử người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký
hộ tịch.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy
định tại khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch xác minh, nếu thấy
đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi
đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.
36
- Đăng ký giám hộ đương nhiên
Thủ tục đăng ký giám hộ đương nhiên giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài cùng cư trú ở Việt Nam được áp dụng theo quy định tại Điều 21
của Luật này.
- Đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ
Thủ tục đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài được áp dụng theo quy định tại Điều 22 và Điều 23
của Luật này.
* Đăng ký nhận cha, mẹ con
Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy
định và giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha
con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp đăng ký nhận cha,
mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước
ngoài với nhau thì người nước ngoài phải nộp thêm bản sao hộ chiếu hoặc
giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để chứng minh về nhân thân.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại
khoản 1 Điều này, công chức làm công tác hộ tịch xác minh, niêm yết việc
nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thời gian 07
ngày liên tục, đồng thời gửi văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
thường trú của người được nhận là cha, mẹ, con niêm yết trong thời gian 07
ngày liên tục tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã.
Phòng Tư pháp báo cáo và đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện quyết định việc đăng ký nhận cha, mẹ, con, nếu thấy đủ điều kiện thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết.
Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt; công chức làm
công tác hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng các bên ký vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch
37
Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho các bên.
* Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung, xác định lại dân tộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc
nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ
tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác
định lại dân tộc.
* Ghi vào sổ của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam ghi vào
Sổ hộ tịch việc khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha,
mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch đã được giải quyết tại cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài.
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cá nhân đã đăng ký kết hôn hoặc ghi
chú việc kết hôn trước đây ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn
của cá nhân đã thực hiện ở nước ngoài.
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người có trách nhiệm khai tử
theo quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật này ghi vào Sổ hộ tịch việc khai
tử đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
* Thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử
Người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha,
mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử nộp tờ
khai theo mẫu quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh các
việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho cơ
quan đăng ký hộ tịch.
Sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, công chức
làm công tác hộ tịch kiểm tra, nếu thấy yêu cầu là phù hợp thì ghi vào Sổ hộ
tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích
38
lục cho người yêu cầu.
Trong trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 03
ngày làm việc.
* Thủ tục ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn
Người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn
nộp tờ khai theo mẫu quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh
các việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định
và đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, công chức làm công tác hộ tịch
ghi vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.
Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục và thời gian phối hợp
giữa các cơ quan thực hiện Điều này.
* Đăng ký khai tử
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú cuối cùng của người chết thực
hiện việc đăng ký khai tử cho người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam định
cư ở nước ngoài chết tại Việt Nam.
Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người chết
theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi người
đó chết hoặc nơi phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
Người đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và Giấy báo tử
hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu
thấy việc khai tử đúng thì công chức làm công tác hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch
và cùng người đi khai tử ký vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục hộ tịch cho người đi khai tử.
Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 03 ngày
39
làm việc.
Sau khi đăng ký khai tử, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo
bằng văn bản kèm theo trích lục hộ tịch cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho
cơ quan có thẩm quyền của nước mà người chết là công dân.
Trường hợp người chết là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thì
công chức làm công tác hộ tịch khóa thông tin của người chết trong Cơ sở dữ
liệu hộ tịch điện tử.
1.3. Đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.1. Pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới
a. Pháp luật Cộng hoà Pháp quy định về hộ tịch tương đối rộng và cụ
thể, thể hiện được các sự kiện cơ bản trong cuộc đời mỗi con người đồng
thời qua đó thấy rõ được quá trình đăng ký hộ tịch tại cơ quan có thẩm
quyền của Pháp. Hộ tịch được thể hiện trong sổ thuyền bộ bao gồm các
chứng thư hộ tịch. Các chứng thư hộ tịch phải ghi rõ năm, tháng, ngày, giờ
lập chứng thư, tên, họ của viên chức hộ tịch, tên, họ, nghề nghiệp và nơi cư
trú của tất cả những người có tên ghi trong chứng thư. Cụ thể như ngày sinh
và nơi sinh của cha và mẹ trong Chứng thư khai sinh và Chứng thư công
nhận con, của đứa trẻ trong Chứng thư công nhận con; của vợ hoặc chồng
trong Chứng thư kết hôn, của người chết trong các giấy khai tử (Điều 34 và
Điều 59 Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp).
b. Ở Đức, pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức quy định về vấn đề hộ
tịch tương đối toàn diện và khoa học, hộ tịch là tổng thể các quan hệ về nhân
thân của một cá nhân mà sự bảo đảm những quan hệ đó có ý nghĩa quan
trọng đối với từng cá nhân với toàn thể nhân dân, đặc biệt là những sự kiện
sinh, tử, kết hôn. Do vậy việc đăng ký hộ tịch thể hiện tính chặt chẽ, là vấn
đề pháp lý không thể thiếu trong đời sống con người nói riêng cũng như sự
40
tồn tại, phát triển của xã hội nói chung.
c. Ở Áo, các việc về hộ tịch được ghi vào sổ và có ngân hàng dữ liệu
là cơ sở để thực hiện các việc hộ tịch cũng như các thủ tục hành chính khác
có liên quan đến con người. Hộ tịch bao gồm các việc: đăng ký khai sinh,
đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký thay đổi hộ tịch, đăng ký thay đổi giới tính,
đăng ký khai tử, đăng ký nhận con.
Nếu như ở Pháp, hộ tịch là các chứng thư hộ tịch thì ở Nhật Bản, Hộ
tịch là sổ nối hộ tịch. Luật Hộ tịch Nhật Bản điều chỉnh các lĩnh vực như
đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, đăng ký thừa nhận con thông qua
việc tuyên bố ý chí, nhận nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố mất tích, chấm
dứt việc nuôi con nuôi, thông báo tình trạng hôn nhân, thay đổi hộ tịch.
d. Tại Hàn Quốc, nếu như trước đây sử dụng khái niệm “đăng ký hộ
tịch” thì hiện nay sử dụng khái niệm “đăng ký quan hệ gia đình”. Mọi thông
tin về hộ tịch của mỗi công dân Hàn Quốc đều được đặt trong mối quan hệ
với gia đình. Cũng giống như Nhật Bản, pháp luật Hàn Quốc quy định các
sự kiện hộ tịch bao gồm đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, nhận
nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố mất tích, chấm dứt việc nuôi con nuôi,
thông báo tình trạng hôn nhân, thay đổi hộ tịch…
e. Ở Đài Loan và Lào thì khái niệm hộ tịch rộng hơn, có điểm mới so
với hộ tịch của một số nước.
Luật Hộ tịch Đài Loan xác định hộ tịch theo hộ gia đình “một gia đình
hoặc những người cùng một chủ quản, hoặc những người cùng kinh doanh
một nghề là một hộ, đứng đầu gia đình hoặc người chủ quản là chủ hộ,
người sống độc thân là một hộ và làm chủ hộ”, “Một người không được có
hai hộ tịch cùng một lúc”.
Luật Hộ tịch Lào định nghĩa “đăng ký hộ tịch” là việc ghi chép hoặc
41
lập sổ về công tác đăng ký hộ tịch.
* Phương thức đăng ký hộ tịch
Hộ tịch theo quy định của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới
chứa đựng những thông tin rất quan trọng về cá nhân nên việc cân nhắc lựa
chọn phương thức đăng ký hộ tịch là rất cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi
trong việc quản lý hộ tịch cũng như đăng ký hộ tịch của công dân.
Ở Pháp, các việc về hộ tịch được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự Cộng
hoà Pháp. Theo Luật này, các sự kiện hộ tịch phải được đăng ký vào chứng
thư hộ tịch cụ thể. Các chứng thư này sẽ được ghi tiếp vào sổ thuyền bộ.
Đối với việc khai sinh, Bộ luật dân sự Cộng hoà Pháp quy định:
Nếu như pháp luật của Cộng hoà Pháp quy định các sự kiện hộ tịch
phải được đăng ký vào chứng thư hộ tịch cụ thể, sau đó các chứng thư này sẽ
được ghi tiếp vào sổ thuyền bộ thì pháp luật hộ tịch Đức quy định mỗi gia
đình có một quyển sổ gia đình trong đó ghi nhận các mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình. Khi có sự thay đổi về các vấn đề về hộ tịch như
sinh, tử, ly hôn, kết hôn đều được ghi chú vào sổ như sổ đăng ký khai sinh,
sổ đăng ký khai tử, kết hôn, ly hôn… Sau đó tất cả những sự kiện đăng ký sẽ
được ghi vào sổ hộ tịch.Nếu có sự thay đổi về chỗ ở thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ làm thủ tục chuyển sổ hộ tịch đến địa chỉ mới.
Pháp luật hộ tịch Đức còn quy định các giấy tờ hộ tịch. Các giấy tờ hộ
tịch là bản trích lục có chứng thực hoặc bản sao có chứng thực được trích từ
sổ đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Như vậy, nếu như pháp luật
hộ tịch một số quốc gia quy định bản chính giấy tờ hộ tịch là bản gốc thì
pháp luật Đức quy định giấy tờ hộ tịch chỉ là bản sao, chỉ có sổ đăng ký hộ
tịch là bản gốc.
Việc đăng ký khai sinh: Trẻ mới sinh phải được khai báo với cơ quan
hộ tịch có thẩm quyền trong một thời hạn nhất định, tuỳ theo quy định của
mỗi bang, có bang quy định thời gian đăng ký khai sinh là trong vòng 14
42
ngày, kể từ ngày sinh.
Cơ sở để đăng ký khai sinh là giấy chứng sinh của nhà hộ sinh hoặc
người đỡ đẻ lập. Ngoài ra phải đính kèm giấy tờ trích lục từ sổ gia đình
(ví dụ như Giấy chứng nhận kết hôn) nếu một cơ quan hộ tịch khác quản
lý sổ này.
Thủ tục đăng ký khai sinh được quy định cụ thể như sau:
Trong trường hợp cha mẹ kết hôn với nhau, thì người đi đăng ký khai
sinh phải mang theo Giấy chứng nhận kết hôn hoặc trích sao từ sổ gia đình;
ảnh của bố mẹ; giấy đồng ý của bố mẹ về việc đồng ý ghi tên mình vào Giấy
khai sinh của con.
Đối với những người góa hoặc ly hôn, phải xuất trình bản sao mới
nhất từ sổ gia đình hoặc Giấy chứng nhận kết hôn có ghi chú thích hợp (ghi
chú việc ly hôn hoặc ghi chú việc chết của người kia).
Đối với công dân nước ngoài, thì phải xuất trình hộ chiếu hoặc giấy tờ
tùy thân khác để chứng minh về quốc tịch.
Pháp luật quy định cụ thể rõ tên họ của đứa trẻ khi khai sinh. Đứa trẻ
sinh ra có quyền nhận họ của bố mẹ; trường hợp vợ chồng mang họ khác nhau,
thì họ của con là cha mẹ cùng lựa chọn và phải ghi rõ bằng văn bản để trình
công chức hộ tịch và tuyên bố này có giá trị ràng buộc đối với tất cả các con
khác được sinh ra từ cuộc hôn nhân của cặp vợ chồng này (có nghĩa là những
đứa con tiếp theo của họ cũng sẽ phải lựa chọn theo họ của đứa con đầu).
Trong trường hợp người mẹ độc thân (con ngoài giá thú), thì con sẽ
theo họ của mẹ. Người con chỉ được mang họ cha khi người cha nhận con và
cam kết cấp dưỡng nuôi con.
Đứa trẻ sinh ra từ ngân hàng trứng, ngân hàng tinh trùng, thì tên của
cha mẹ sẽ được ghi theo tên của cha mẹ nuôi. Đứa trẻ sinh ra do mang thai
hộ, khi khai sinh người có trứng được khai là mẹ đẻ.
Trong trường hợp trẻ được nhận làm con nuôi, thì tên của cha mẹ đẻ
43
vẫn được ghi trong Giấy khai sinh của con nuôi trừ trường hợp muốn bảo lưu.
Trường hợp không có tên của cha mẹ đẻ thì được ghi tên của cha mẹ
nuôi và cán bộ hộ tịch sẽ kẹp giấy ghi không rõ cha mẹ đẻ vào hồ sơ nuôi
con nuôi. Người con nuôi có quyền kiện đòi xác định cha mẹ đẻ (hiện nay
Tòa án Đức vẫn chưa có có sự giải quyết thỏa đáng nào để bảo đảm quyền
tối cao của nhân thân đã được ghi nhận trong Hiến pháp đối với cả người
cho tinh trùng và đứa trẻ).
Trong trường hợp trẻ sinh ra rồi sau đó chết thì việc khai sinh sẽ được
thực hiện đồng thời với việc khai tử. Nếu trẻ sinh ra có biểu hiện chết thì xác
đứa trẻ nặng ít nhất là 0,5 kg thì bắt buộc phải đăng ký khai sinh và ghi sinh
ra đã chết. Trường hợp sảy thai hoặc khi sinh ra đã chết mà trẻ đó nặng dưới
0,5 kg thì không có nghĩa vụ khai để đăng ký khai sinh.
Việc đăng ký kết hôn
Từ năm 2001, pháp luật Đức cho phép kết hôn giữa hai người đồng
giới. Việc kết hôn giữa hai người đồng giới được ghi vào một sổ riêng (Sổ
đăng ký các cặp đồng giới). Điều kiện kết hôn giữa hai người đồng tính phải
là người đã thành niên, có năng lực pháp luật: có khả năng thực hiện những
nghĩa vụ và hưởng những quyền lợi, phải không có cản trở liên quan đến
việc kết hôn giữa hai người (như hiện tại không kết hôn với ai; nếu đã kết
hôn thì phải ly hôn theo pháp luật).
Những cặp này cũng có những quyền lợi và nghĩa vụ như những cặp
kết hôn khác giới, cũng như có quyền nuôi con nuôi và hai người sẽ quyết
định cho người con nuôi được mang họ của một trong hai người hoặc cả hai
họ liền nhau.
Khi hai người đồng giới đã kết hôn với nhau, thì họ không được
quyền kết hôn với người khác (muốn kết hôn với người khác họ phải đến
Tòa án để làm thủ tục kết thúc việc sống chung như vợ chồng).
Việc nhận cha, mẹ, con
44
Việc nhận cha, mẹ, con được thực hiện tại một trong ba nơi: công
chứng viên, cơ quan thanh thiếu niên hoặc công chức hộ tịch. Người cha chỉ
cần tuyên bố mình là cha đứa trẻ, tuyên bố đó được người mẹ chấp nhận thì
sẽ ghi vào sổ đăng ký khai sinh nội dung khai về người cha.
Việc đăng ký khai tử
Việc đăng ký khai tử (ghi vào Sổ đăng ký khai tử) ở Đức nhằm chống
sự khai man, làm giả giấy tờ. Qua thông tin ghi trong Sổ đăng ký khai tử sẽ
xác định được ai là người có quyền thừa kế. Việc đăng ký khai tử được thực
hiện theo địa hạt.
Phương thức đăng ký hộ tịch tại Ai Len được quy định cụ thể trong
Luật đăng ký hộ tịch năm 2004. Mỗi cá nhân làm thủ tục đăng ký hộ tịch
tại Văn phòng Đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử, nơi mà sự kiện sinh
đó diễn ra.
Đăng ký khai sinh không muộn hơn 03 tháng kể từ khi đứa trẻ sinh ra.
Mẫu đăng ký khai sinh được nhân viên bệnh viện phát cho các bà mẹ khi
sinh con. Việc đăng ký khai sinh sẽ được đăng ký viên vào Sổ đăng ký khai
sinh. Khi đăng ký khai sinh, đứa trẻ sẽ được cấp Số dịch vụ công cộng cá
nhân (PPSN).
Đăng ký kết hôn trong vòng 01 tháng kể từ ngày kết hôn.
Đăng ký thay đổi họ tên đứa trẻ sẽ được ghi vào sổ đăng ký khai sinh.
Theo pháp luật Ai Len, khai tử là một yêu cầu pháp lý của Nhà nước
Ai-Len tại Văn phòng Đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử. Đây là văn phòng
đăng ký chung các sự kiện về hộ tịch.
Đăng ký khai tử không phân biệt nơi nó xảy ra. Trường hợp tử vong
phải được đăng ký càng sớm càng tốt và không muộn hơn 03 tháng. Đăng ký
khai tử sẽ được đăng ký viên ghi vào Sổ đăng ký khai tử.
Việc đăng ký khai sinh được tiến hành tại văn phòng đăng ký huyện
nơi đứa trẻ sinh ra. Nếu không thể đăng ký khai sinh ở Văn phòng quận
45
huyện thì có thể đến văn phòng khác để đăng ký, sau đó văn phòng này sẽ
gửi thong tin chi tiết của đứa trẻ đến văn phòng quận huyện nơi đứa trẻ sinh
ra. Việc đăng ký khai sinh phải được tiến hành trong vòng 42 tiếng đồng hồ
kể từ lúc đứa trẻ sinh ra. Giấy khai sinh được cấp ngay sau khi đăng ký.
Đăng ký kết hôn, ly hôn phải được thực hiện tại Văn phòng đăng ký
cấp quận huyện nơi diễn ra sự kiện kết hôn, ly hôn.
Đăng ký khai tử trong vòng 05 ngày tại văn phòng đăng ký trong khu
vực nơi người chết. Những người có thể đăng ký khai tử: một người thân, ai
đó có mặt tại cái chết, người cư ngụ trong nhà, một quan chức bệnh viện,
người thực hiện các thỏa thuận với các giám đốc tang lễ. Trường hợp thai
chết lưu phải được đăng ký trong vòng 42 ngày và chậm nhất trong vòng ba
tháng. Trong nhiều trường hợp điều này có thể được thực hiện tại bệnh viện
hoặc tại văn phòng đăng ký địa phương.
Khác với Ai Len, Anh và xứ Wales, ở Nhật Bản, Luật Hộ tịch Nhật
Bản quy định hộ tịch được lập thành bản chính và bản phụ. Bản chính được
lưu giữ tại Uỷ ban hành chính thành phố hoặc Uỷ ban hành chính làng,
huyện. Bản phụ được gửi cho Cục Tư pháp quản hạt hoặc Sở Tư pháp địa
phương hoặc các Chi cục trực thuộc lưu trữ.Cá nhân cũng có thể yêu cầu
được giao cho giấy chứng nhận liên quan đến các mục ghi chép trong bản
sao hoặc bản trích lục hộ tịch hoặc bản hộ tịch đó trừ trường hợp không có
mục đích chính đáng.
Cán bộ thực hiện đăng ký hộ tịch sẽ ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch.
Vấn đề đăng ký hộ tịch được Luật Hộ tịch Nhật Bản xác định là nghĩa
vụ của công dân.Vì vậy, khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng sẽ
bị áp dụng chế tài. Luật Hộ tịch Nhật Bản quy định phạm vi điều chỉnh
tương đối rộng, bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, đăng ký thừa nhận
con thông qua việc tuyên bố ý chí, nhận nuôi con nuôi, thông báo tuyên bố
mất tích, chấm dứt việc nuôi con nuôi, thông báo về tình trạng hôn nhân…
46
việc thông báo này được coi là nghĩa vụ.
Theo pháp luật đăng ký hộ tịch của Nhật Bản, trong trường hợp thông
báo sai và dẫn đến việc ghi vào sổ đăng ký hộ tịch không đúng sự thật thì
người thông báo sai sẽ bị phạt tù có thời hạn không quá 5 năm hoặc bị phạt
tiền. Khi kê khai sai trong hộ tịch có thể sửa thông qua thủ tục pháp lý. Như
vậy, pháp luật về đăng ký hộ tịch Nhật Bản đề cập đến việc “sửa” các vấn đề
liên quan đến hộ tịch. Thuật ngữ này tương tự như thuật ngữ “cải chính”
trong pháp luật hộ tịch Việt Nam.
Đối với việc đăng ký khai sinh phải được thực hiện trong vòng 14
ngày (đối với trường hợp sinh ở ngoài Nhật Bản thì là trong vòng 3 tháng).
Trường hợp bác sỹ, hộ sinh hoặc người khác chứng kiến việc sinh đẻ thì nộp
đơn đăng ký kèm với giấy chứng sinh do một trong các người đó lập theo
thứ tự bác sỹ, hộ sinh, người khác theo qui định của Thông tư Bộ Tư pháp,
Thông Tư Bộ Y tế lao động, trừ trường hợp có lý do không tránh khỏi.
Trường hợp sinh đẻ trên tầu hỏa hoặc các phương tiên vận tải khác (trừ tầu
thủy, áp dụng tương tự với các qui định dưới đây) thì có quyền đăng ký khai
sinh tại địa điểm mà người mẹ rời khỏi phương tiện vận chuyển đó, nếu là
sinh trên tầu thủy không có nhật ký tầu thì là nơi đầu tiên tầu đó ghé vào.
Khi tầu cập cảng nước ngoài, thuyền trưởng phải nhanh chóng gửi cho đại
sứ, công sứ hoặc lãnh sự Nhật Bản tại nước đó bản sao nhật ký hàng hải có
liên quan đến việc sinh đẻ đó, và đại sứ, công sứ hoặc lãnh sự Nhật Bản phải
nhanh chóng thông qua Bộ trưởng ngoại giao gửi cho chủ tịch xã phường thị
trấn nơi có hộ tịch bản sao đó.
Việc đăng ký khai sinh cho trẻ trong giá thú phải do bố hoặc mẹ thực
hiện, nếu bố mẹ ly hôn trước khi sinh trẻ thì phải do mẹ thực hiện.
Trường hợp người phải đăng ký theo qui đinh không thể đăng ký được
thì người đại diện theo pháp luật của người đó có quyền đăng ký.
47
Trường hợp sinh tại bệnh viện, nhà tù hoặc các trại công cộng, nếu cả
bố và mẹ đều không thể đăng ký khai sinh được thì giám đốc hoặc người
quản lý của các trại công cộng đó phải đăng ký.
Đối với việc công nhận cha mẹ con: người định công nhận quan hệ
cha con ghi vào đơn đăng ký các nội dung dưới đây và phải đăng ký các nội
dung đó; trường hợp bố công nhận thì ghi họ tên và nơi đăng ký hộ tịch của
mẹ; nếu công nhận con đã tử vong thì ghi ngày tháng năm tử vong và họ tên
của ông bà bố mẹ, trực hệ, ngày tháng năm sinh và nơi đăng ký hộ tịch.
Trường hợp công nhận con đang là thai nhi thì ghi nội dung đó, họ tên và
nơi đăng ký hộ tịch của mẹ vào đơn đăng ký và phải đăng ký tại nơi đăng ký
hộ tịch của mẹ.
Luật Hộ tịch của Đài Loan quy định rất rộng những vấn đề liên quan
đến cá nhân mỗi người, bao gồm việc lập hộ, việc sinh, tử, đăng ký thừa
nhận, nhận nuôi con nuôi, đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký giám hộ, tuyên
bố chết, đăng ký di dời (chuyển đến, chuyển đi, thay đổi địa chỉ nơi ở).
Pháp luật hộ tịch của Đài Loan cho phép uỷ thác đăng ký hộ tịch dưới
hình thức bằng văn bản.Mở rộng diện những người được xin đăng ký sau khi
phát sinh hoặc xác định việc đăng ký hộ tịch mà không có người xin đăng
ký.Người có quyền lợi liên quan có thể là người xin đăng ký.Ngoài ra, Luật
Hộ tịch Đài Loan còn quy định vấn đề thay đổi, cải chính và huỷ, xoá và sửa
việc đăng ký hộ tịch.
Ở Hàn Quốc, việc thực hiện đăng ký hộ tịch bằng điện tử, người dân
có thể đến đăng ký hộ tịch tại bất kỳ cơ quan đăng ký hộ tịch (cấp quận hoặc
cấp phường).
Đối với việc đăng ký khai sinh: pháp luật Hàn Quốc quy định thời hạn
đăng ký khai sinh trong vòng một tháng kể từ ngày sinh. Đăng ký trong thời
hạn quy định sẽ được miễn phí; nếu đăng ký quá hạn thì người đi đăng ký
48
khai sinh sẽ phải nộp tiền phạt, tuỳ theo thời hạn mà mức nộp phạt sẽ khác
nhau. Cha, mẹ phải có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh cho con, trường hợp
cha mẹ không đi được thì có thể viết giấy uỷ quyền nhưng phải trực tiếp
khai và ký vào hồ sơ, nếu không có giấy uỷ quyền thì không được đăng ký
khai sinh. Người đi đăng ký khai sinh đến đăng ký trực tiếp hoặc gửi qua
đường bưu điện đến Uỷ ban nhân dân phường nơi người đó sinh sống hoặc
Uỷ ban nhân dân quận. Nếu đăng ký ở quận thì phường sẽ nhận thông tin
qua mạng để cấp Giấy khai sinh.
Trường hợp trẻ em chết ngay sau khi sinh: vừa làm thủ tục đăng ký
khai sinh, vừa đăng ký khai tử cùng lúc.
Đối với việc đăng ký kết hôn: Ở Hàn Quốc, khi hai công dân Hàn
Quốc đăng ký kết hôn, chỉ cần làm Giấy đăng ký sau đó đến đăng ký tại cơ
quan hộ tịch là được công nhận mà không cần phải nộp thêm bất cứ một loại
giấy tờ nào khác. Cơ quan hộ tịch có trách nhiệm tìm kiếm thông tin trên
mạng để xác định về tình trạng hôn nhận của mỗi bên kết hôn.Trường hợp
kết hôn có yếu tố nước ngoài thì phái người nước ngoài có trách nhiệm phải
tự chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình.
Pháp luật Ấn Độ quy định việc đăng ký khai sinh và khai tử phải
được thực hiện tại Phòng đăng ký cấp quận, huyện. Mỗi quận, huyện có 01
phòng đăng ký. Sau khi đăng ký, các thông tin về việc sinh, tử sẽ được ghi
vào Sổ đăng ký.
Luật Hộ tịch Lào điều chỉnh các việc về hộ tịch
Đối với việc đăng ký khai sinh: Luật Hộ tịch Lào quy định sau khi
nhận được Giấy chứng sinh từ trưởng bản, người làm đơn phải đi đăng ký
khai sinh ở cơ đăng ký hộ tịch của chính quyền huyện, thị trấn nơi mình cư
trú trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được Giấy chứng sinh. Bộ phận
đăng ký hộ tịch tại Sứ quán hoặc Lãnh sự quán nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào tại nước ngoài, sau khi nhận được thông báo có trẻ mới sinh cũng
49
phải đăng ký khai sinh trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận được thông tin.
Đối với việc đăng ký kết hôn, ly hôn: Đăng ký kết hôn, ly hôn được
tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ tịch của chính quyền huyện, thị xã nơi cả
hai cư trú hoặc nơi ở của một trong hai người hoặc nơi ở của bố mẹ của một
hoặc cả hai người. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và cấp Giấy chứng
nhận kết hôn, ly hôn trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận được đơn.
Việc đăng ký kết hôn, ly hôn giữa công dân Lào và công dân nước
ngoài thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch của chính quyền tỉnh, thành phố.
Việc đăng ký kết hôn của công dân Lào tại nước ngoài thực hiện tại
Phòng đăng ký hộ tịch tại Sứ quán hoặc Lãnh sự quán nước CHDCND Lào
tại nước đó.
Đối với việc đăng ký nhận cha:Nếu như Luật Hộ tịch Ai-len và một số
nước không quy định cụ thể vấn đề nhận cha thì Luật Hộ tịch Lào quy định
rõ về thủ tục này. Đăng ký nhận cha được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ
tịch của cơ quan tư pháp nơi tòa án có quyết định về việc nhận cha.
Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và cấp Giấy chứng nhận nhận
cha trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định của tòa án có hiệu lực.
Việc đăng ký nhận cha được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ tịch của cơ
quan tư pháp người giám hộ cư trú. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải đăng ký và
cấp Giấy chứng nhận giám hộ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày trưởng bản
xác định người giám hộ.
Đối với việc đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch: Việc thay đổi họ và
tên của cá nhân tới tuổi vị thành niên được tiến hành tại cơ quan đăng ký hộ
khẩu của Cơ quan công an nơi người đăng ký thường trú. Trong trường hợp
việc thay đổi họ hoặc tên là trẻ em chưa tới tuổi vị thành niên được tiến hành
tại cơ quan đăng ký hộ khẩu nơi bố mẹ hoặc người giám hộ thường trú.
Cơ quan đăng ký hộ khẩu của Cơ quan công an nói trên cần phải đăng
ký và cấp giấy chứng nhận việc thay đổi họ hoặc tên trong vòng 5 ngày làm
50
việc hành chính tình từ ngày nhận được đơn đăng ký.
Đối với việc đăng ký khai tử: Nếu một cá nhân trong gia đình chết thì
đại diện gia đình phải thông báo cho Trưởng bản. Khi nhận được tin có
người chết, trưởng bản hoặc cán bộ công an phải cấp giấy chứng tử trong
thời hạn 05 ngày để làm bằng chứng. Trường hợp chết mà không rõ nguyên
nhân hoặc chết vì dịch bệnh nguy hiểm thì phải khẩn trương thông báo cho
cán bộ công an hoặc cán bộ y tế và tạm hoãn cấp Giấy chứng tử đến khi
nhận được chỉ đạo từ các cơ quan hữu quan. Cá nhân nào chữa trị cho bệnh
nhân hoặc trong quá trình đỡ đẻ theo chuyên môn của mình mà người bệnh
hoặc trẻ sơ sinh bị chết thì cá nhân đó phải cấp Giấy chứng tử ngay lập tức.
Ở Việt Nam về hình thức đăng ký hộ tịch thì pháp luật quy định rất cụ
thể từng loại việc người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải đến đăng ký trực tiếp
không được uỷ quyền, loại việc được uỷ quyền, thời hạn đăng ký các việc hộ
tịch ví dụ như: 60 ngày kể từ ngày sinh thì cha mẹ của trẻ phải có trách
nhiệm đi đăng ký khai sinh hoặc 15 ngày kể từ ngày chết người thân thích
của người chết phải có trách nhiệm đi đăng ký khai tử… . Tại thành phố Hà
Nội, chính phủ đang xây dựng và phát triển chính phủ điện tử cho phép các
việc đăng ký hộ tịch người dân được nộp hồ sơ trực tuyến và đến hẹn thực
nhận kết quả tại cơ quan đăng ký hộ tịch – dịch vụ công trực tuyến mức độ 3
lĩnh vực tư pháp hộ tịch trên toàn thành phố.
Nhìn chung, mỗi quốc gia đều có những quy định riêng về phương
thức đăng ký hộ tịch cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cũng
như phong tục tập quán của họ; đồng thời đảm bảo thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về hộ tịch một cách có hiệu quả nhất.
* Mã số cá nhân
Mã số cá nhân có nghĩa tiếng Anh là “personal identification number”,
viết tắt là ID. Bản chất của mã số cá nhân là dùng để nhận dạng cá nhân.Mã
51
số cá nhân cho phép tìm thấy giấy tờ hộ tịch và trong cuộc sống hàng ngày,
các cá nhân có thể chứng minh danh tính của mình thông qua số cá nhân chứ
không chỉ thông qua họ tên, ngày tháng năm sinh.Mã số cá nhân hiện nay
đang được áp dụng ở một số nước tiên tiến trên thế giới.
Theo quan điểm của các nhà lập pháp của Cộng hoà Pháp thì mã số cá
nhân là một vấn đề nhạy cảm, không muốn quy công dân thành những con
số. Tại Pháp, mỗi người có một số bảo hiểm xã hội, số bảo hiểm xã hội cho
phép tiến hành một số thủ tục nhưng không được phép sử dụng để chứng
minh danh tính và không được nêu trong giấy tờ hộ tịch.
Pháp luật cộng hoà Liên bang Đức quy định mỗi cá nhân có một số
riêng ghi tại Sổ đăng ký hộ tịch. Trước năm 2007, Cộng hoà liên bang đức
không có hệ thống mã số định danh quốc gia mà chỉ có hệ thống mã số căn
cước. Ở giai đoạn này, các cơ sở dữ liệu không tập trung được xây dựng bởi
các công ty bảo hiểm xã hội, Trên thực tế, hệ thống mã số này được xem là
gần với hệ thống mã số cá nhân.Từ năm 2008, một hệ thống mã số thuế cá
nhân toàn liên bang mới được giới thiệu. Theo đó, ngay từ khi sinh ra, công
dân Đức cũng như công dân nước ngoài làm thủ tục đăng ký khai sinh tại
Đức hoặc cư trú dài hạn tại Cộng hoà liên bang Đức sẽ được cấp mã số thuế
áp dụng thống nhất trên toàn liên bang. Nhà nước Đức quản lý công dân
bằng cả hai phương thức là quản lý dữ liệu dân sự công dân như sinh tử, kết
hôn, ly hôn… và bằng mã số định danh.
Ở Hoa Kỳ, việc quản lý công dân chủ yếu được tiến hành qua việc
quản lý số định danh công dân. Mỗi công dân đều có thẻ an sinh xã hội, lưu
trữ đầy đủ thông tin về nhân thân của mỗi cá nhân. Hệ mã số an sinh xã hội
(SSN-Social Security Number) gồm 9 chữ số được cấp cho các công dân
Hoa Kỳ, người cư trú dài hạn, người cư trú (làm việc tạm thời). Ban đầu, mã
số được hình thành nhằm mục đích phân phối an sinh xã hội, nhang ngày
52
nay nó còn được sử dụng cho mục đích thuế. Luật pháp không có quy định
nào bắt buộc mọi người phải có mã số an sinh xã hội nếu như họ không có
hoạt động nào liên quan đến an sinh xã hội hay thuế. Tuy nhiên, trong thực
tế, khi mở tài khoản ngân hàng hoặc xin giấy phép lái xe, các cơ quan có
thẩm quyền đều yêu cầu xuất trình mã số an sinh xã hội, dẫn đến việc tất cả
công dân Hoa Kỳ đều có mã số an sinh xã hội. Trong những năm gần đây,
mã số an sinh xã hội trở thành mã số định danh quốc gia.
Tại Áo, khi đăng ký khai sinh, mỗi công dân có một số, không có sự
trùng lặp. Mã số công dân là hình thức định danh điện tử dùng cho Internet.
Mọi người có thể sử dụng mã số công dân để xác định bản thân thông qua
các phương tiện kỹ thuật số trước cơ quan công quyền hoặc để nhận dạng và
chứng thực duy nhất. Luật Chính phủ điện tử quy định mã số công dân phải
chứa chữ ký điện tử đủ tiêu chuẩn, đảm bảo các tính năng của mã số, và khi
đó, chữ ký điện tử được coi là có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký viết
tay, được sử dụng không hạn chế trong các giao dịch thương mại và quốc tế.
Bên cạnh chữ ký điện tử, mã số công dân phải bao gồm một đường dẫn định
dạng có chứa dữ liệu an ninh và chức năng tương ứng và đồng thời cũng
thay thế cho vô số các kết hợp tên và mật khẩu. Mã số công dân có nhiều
hình thức khác nhau, không phụ thuộc vào một loại công nghệ cụ thể nào, có
thể là thẻ, chữ ký điện thoại di động, thẻ chip… Để nhận diện một người
đang tham gia thủ tục điện tử, cần có một thuộc tính riêng biệt để định danh
họ. Nếu chỉ có tên thôi chưa đủ để định danh duy nhất một người, do đó mỗi
người đều được cấp một mã số định danh riêng. So sánh với các hệ thống
khác, mã số công dân có nhiều thế mạnh. Từ “mã số công dân” dung để mô
tả một khái niệm về quản lý nhận dạng, cho phép cơ quan nhà nước và
khách hàng của mình sử dụng dịch vụ điện tử một cách đơn giản và đảm
bảo. Như một dạng nhận dạng điện tử trên internet, mã số công dân cung cấp
nhận dạng người dung duy nhất và chứng thực nhận dạng đó, điều rất cần
53
thiết để đưa thủ tục điện tử vào sử dụng.
Sử dụng mã số công dân nghĩa là chứng minh nhận dạng của ai đó
một cách an toàn bằng phương thức điện tử giúp người đó không phải đến
trụ sở cơ quan nhà nước để làm thủ tục; đồng thời, với sự trợ giúp của chữ
ký điện tử, người dung có thể nộp một văn bản tuyên bố ý định một cách dễ
dàng, văn bản này có thể được kiểm tra dễ dàng để chắc chắn về tính xác
thực của nó.
Theo pháp luật Thuỵ Điển thì số định danh cá nhân là số định danh
công dân Thuỵ Điển (Swedishnational identification number).Số định danh
cá nhân bao gồm 10 số và một dấu gạch nối. Số định danh cá nhân có từ khi
cha mẹ thông báo đứa trẻ sinh ra. Trong trường hợp được chấp nhận thì số
định danh cá nhân có thể được thay đổi trong trường hợp đăng ký khai sinh
nhầm ngày sinh hay giới tính.
Cũng giống như pháp luật Cộng hoà Áo và Thuỵ Điển, pháp luật Nhật
Bản quy định cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản sẽ cung cấp cho công
dân của họ một số đăng ký và thẻ công dân.
Theo pháp luật Hàn Quốc, khi đăng ký khai sinh, mỗi công dân Hàn
Quốc đều được cấp một số công dân. Số này sẽ theo suốt cuộc đời của mỗi
người. Việc đăng ký công dân được thực hiện từ năm 1962 và từng bước
được điện tử hóa từ năm 1994.Người dân chỉ phải thực hiện đăng ký để cấp
mã số công dân một lần, sau đó có thể xin xác nhận về mã số công dân tại
bất kỳ cơ quan hành chính nào trên cả nước. Mã số công dân gồm 13 chữ số,
trong đó 6 chữ số đầu tiên thể hiện ngày tháng năm sinh của công dân, chữ
số thứ 7 thể hiện giới tính (số 1 là giới tính Nam và số 2 là giới tính nữ), chữ
số thứ 8 đến thứ 11 là mã số vùng (cấp xã); chữ số thứ 12 là số thứ tự đăng
ký công dân tại cơ quan đăng ký trong ngày (cấp xã); chữ số cuối cùng là số
kiểm chứng được tự động cài đặt trong phần mềm máy tính để đảm bảo mã
54
số công dân không bị trùng nhau. Cơ quan nhà nước sử dụng mã số công
dân để quản lý công dân trong các lĩnh vực như giáo dục, quân sự, bầu cử,
giao dịch ngân hàng, mua bán tài sản… Công dân Hàn Quốc từ đủ 17 tuổi sẽ
được cấp Thẻ công dân trong đó chưa đựng thông tin về họ tên, địa chỉ
thường trú, dẫu vân tay, mã số công dân…
Tại Bosnia và Herzegovina, để quản lý công dân, cơ quan lập pháp
Bosnia và Herzegovina đã ban hành Luật số định danh cá nhân. Luật này
quy định cách thức, vị trí, việc đăng ký, lưu trữ và sử dụng số định danh cá
nhân của công dân Bosnia và Herzegovina và người nước ngoài sống trên
lãnh thổ Bosnia và Herzegovina.
Số định danh cá nhân (personal identification number) sẽ được thể
hiện trong chứng minh nhân dân, giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn và
đăng ký khai tử, hồ sơ tuyển dụng, thẻ bảo hiểm y tế, giấy tờ đi lại, bằng lái
xe, giấy phép bắn súng, các giấy tờ công dân hoặc một số giấy tờ, tài liệu
khác trong trường hợp luật định (Điều 18 Luật số định danh cá nhân). Số
định danh cá nhân sẽ được cấp tại nơi sinh nơi công dân đăng ký khai sinh
(Điều 8 Luật số định danh cá nhân).
Ở Việt Nam, khi luật Hộ tịch ra đời đã quy định rất rõ Số định danh cá
nhân của người được đăng ký khai sinh (Điều 14) – là một trong những nội
dung quan trọng trong đăng ký khai sinh. Số định danh cá nhân của người
được đăng ký khai sinh được cấp khi đăng ký khai sinh. Thủ tục cấp số định
danh được thực hiện theo Luật căn cước công dân và Nghị định quy định chi
tiết thi hành Luật căn cước công dân, trên cơ sở bảo đảm đồng bộ với Luật
hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Xét từ phương diện khoa học quản lý nhà nước thì quản lý hộ tịch có vị
trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Đây là lĩnh vực trọng yếu của nền
55
hành chính mà mọi quốc gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và
trình độ phát triển, đều phải quan tâm. Sự vững mạnh của một quốc gia liên
quan mật thiết với hiệu quả của hoạt động quản lý dân cư nói chung và quản
lý hộ tịch nói riêng. Có thể khẳng định rằng, các vấn đề pháp lý về quản lý hộ
tịch có tầm quan trọng tương tự như các vấn đề pháp lý về quốc tịch, về biên
giới quốc gia, về tổ chức bộ máy nhà nước… Vì vậy, quản lý hộ tịch phải
được điều chỉnh bằng một đạo luật do Quốc hội ban hành. Trên thế giới,
nhiều nước như Đức, Nhật Bản, Đài Loan… đều điều chỉnh vấn đề quản lý hộ
tịch bằng văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành. Nhìn chung, mỗi
nước có một mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch phù hợp với đặc thù văn hoá,
kinh tế, xã hội của nước đó, nhằm đảm bảo quản lý nhà nước về hộ tịch đạt
hiệu quả cao nhất.
Qua phần nghiên cứu về pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, so
sánh đánh giá với các quy định pháp luật hộ tịch của Việt Nam đã cho chúng
ta thấy có nhiều nét tương đồng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về mặt khái niệm, trong khoa học pháp lý của các nước khác
và ở Việt Nam đều ghi nhận hộ tịch và đăng ký hộ tịch là việc ghi nhận các sự
kiện như sinh, kết hôn, tử … đó là quyền và trách nhiệm giữa hai chủ thể là cá
nhân và nhà nước. Như vậy mặt ngôn ngữ thì từ Hộ tịch đang được ghi nhận
trong Luật hộ tịch của chúng ta có sự tương đồng về mặt ngữ nghĩa với các
khái niệm của pháp luật hộ tịch trên thế giới. Với tính cách là một hình thức
chức đựng những thông tin rất quan trong về cá nhân thì pháp luật hộ tịch
Việt Nam và pháp luật hộ tịch các quốc gia khác đều cân nhắc và lựa chọn
phương thức đăng ký hộ tịch để tạo sự thuận lợi cho công dân và sự quản lý
của Nhà nước.
Thứ hai, đều có các quy định về trách nhiệm của người đi đăng ký các
các sự kiện hộ tịch (quy định rõ đối tượng có trách nhiệm, đối tượng có liên
56
quan đến sự kiện hộ tịch phải đi đăng ký hộ tịch);
Thứ ba, pháp luật các nước trong đó có Việt Nam quy định rõ thời hạn đi
đăng ký các sự kiện hộ tịch, quy định rõ thời hạn giải quyết các sự kiện hộ tịch
Thứ tư, các sự kiện hộ tịch của cá nhân khi đăng ký đều được ghi vào
sổ lưu, các sổ này phải được lưu giữ vĩnh viễn để phục vụ cho việc quản lý
của một quốc gia.Hiện nay, một số quốc gia trong đó có Việt Nam thì việc lưu
dữ các sự kiện hộ tịch thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Nhưng việc lưu giữ các sổ hộ tịch ở các nước khác nhau là khác nhau, ở Việt
Nam thì quy định từng loại sổ riêng biệt cho từng sự kiện hộ tịch cụ thể như:
sổ đăng ký kết hôn, sổ đăng ký khai sinh, sổ đăng ký khai tử, sổ nhận cha mẹ
con, sổ đăng ký giám hộ…. Bên cạnh đó một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài
Loan, Nhật Bản quy định việc đăng ký khai
Kết luận chƣơng 1
Tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hộ
tịch, khái niệm hộ tịch, khái niệm đăng ký hộ tịch, vị trí vai trò của đăng ký,
quản lý hộ tịch; pháp luật về đăng ký hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, qua việc nghiên cứu và phân tích các
quy định pháp luật hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới để chúng ta thấy
được những điểm tương đồng của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc
tế.Đây là phần lí luận quan trọng làm cơ sở tiếp tục cho việc nghiên cứu phần
thực trạng pháp luật hộ tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông
57
Anh, thành phố Hà Nội.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬTVỀ HỘ TỊCH
TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH
2.1. Thực trạng pháp luật hộ tịch
2.1.1. Ưu điểm của pháp luật hộ tịch
Sau khi giành được chính quyền vào tháng 8/1945, Nhà nước ta luôn
quan tâm đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động đăng ký, quản lý hộ tịch, các văn bản này thường xuyên được điều
chỉnh, sửa đổi, bảo đảm phù hợp với thực tế. Đầu tiên là Sắc lệnh số 47/SL
ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến Bản Điều lệ hộ tịch năm
1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính
phủ; tiếp theo đó là Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 ban hành kèm theo
Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961. Giai đoạn gần đây có các văn bản như
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ
tịch; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định
chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội
về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP
ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-
CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước
ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 158/2005/NĐ-
CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định
số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; Nghị định
58
số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài.
Đến kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch ngày
20/11/2014. Đây là lần đầu tiên có văn bản Luật quy định riêng về lĩnh vực
đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện các văn bản dưới luật. Luật
có nhiều quy định mới mang tính đột phá, “cách mạng” về: thẩm quyền đăng
ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách mạnh thủ tục hành
chính. Để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; liên Bộ Ngoại giao - Tư pháp đã ban hành
Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30/6/2016 hướng dẫn
việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện
lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, bảo đảm hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch được đồng bộ, thống nhất.
Trên cơ sở các văn bản pháp lý trên, với sự nỗ lực của các cơ quan
quản lý nhà nước về hộ tịch đã tôn trọng quyền nhân thân của các cá nhân
thực hiện việc đăng ký hộ tịch
Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của
công tác hộ tịch. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản
lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Điểm mới cơ bản của Luật Hộ tịch như sau:
Thứ nhất, Luật Hộ tịch năm 2014, đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn
các nội dung đăng ký hộ tịch; đã phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ
hộ tịch, sự kiện nào là Ghi vào Sổ hộ tịch. Theo đó:
59
- Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai
sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác
định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.
- Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của
cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao
gồm: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi
con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp
luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên
bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết
hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay
đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài.
- Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định của Luật hộ tịch thì cá nhân có quyền lựa chọn
cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình tại nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang
sinh sống mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây.
Cụ thể tại khoản 4 Điều 5 của Luật “cá nhân có thể được đăng ký hộ
tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh
sống. Trường hợp cá nhân không đăng ký tại nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân
cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho
cá nhân có trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi cá nhân đó thường trú”.
Thứ ba, Luật phân định rõ thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban
nhân dân cấp xã, cấp huyện, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
Theo đó, ngoài việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên
60
cư trú trong nước, xác định lại dân tộc thì Ủy ban nhân dân cấp huyện được
giao thêm thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho giải quyết toàn bộ các việc đăng
ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài (trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra
tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực
biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu
vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt
Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường
trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn
định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam).
Thứ tư, Luật quy định khi thực hiện đăng ký hộ tịch thì cá nhân có
quyền lựa chọn 01 trong 03 phương thức đăng ký hộ tịch như sau:
- Nộp hồ sơ trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch;
- Thông qua hệ thống bưu chính;
- Thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến khi điều kiện cho phép.
Đây là điểm mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch,
hiện đại nhằm bảo đảm lợi ích của người dân.
Thứ năm, Luật quy định miễn lệ phí đăng ký hộ tịch cho các trường hợp sau:
- Người thuộc gia đình có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo;
người khuyết tật;
- Đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân
Việt Nam cư trú trong nước.
Luật quy định thời hạn đăng ký khai sinh là trong vòng 60 ngày kể từ
ngày sinh con; thời hạn đăng ký khai tử là trong vòng 15 ngày kể từ ngày có
người chết.
Như vậy, nếu Cá nhân yêu cầu đăng ký sự kiện hộ tịch khác ngoài quy
định nêu trên, yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch thì phải nộp lệ phí.
61
Thứ sáu, Luật quy định nội dung đăng ký khai sinh gồm: Thông tin của
người được đăng ký khai sinh; thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai
sinh và số định danh cá nhân của người được đăng ký khai sinh. Như vậy, khi
đăng ký khai sinh, người được đăng ký khai sinh sẽ được cấp 01 mã số định
danh cá nhân được ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số thẻ căn cước
công dân của người đó khi đủ tuổi được cấp Thẻ căn cước công dân.
Đây là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản
lý dân cư, là tiền đề quan trọng tiến tới việc cắt giảm nhiều loại giấy tờ, tạo thuận
lợi cho người dân khi tham gia giao dịch, thực hiện các thủ tục hành chính.
Thứ bảy, Luật quy định khi đăng ký hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ
cấp 01 bản chính trích lục hộ tịch cho người yêu cầu đăng ký hộ tịch, trừ việc
đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn.
Như vậy, theo quy định của Luật Hộ tịch thì cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ
cấp bản chính Giấy khai sinh, bản chính Giấy chứng nhận kết hôn và bản
chính trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của người yêu cầu đăng ký.
Bên cạnh đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu
cấp bản sao, Luật cũng quy định “cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có
quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ
tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký”.
Thứ tám, Luật quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở
dữ liệu ngành, được lập trên cơ sở tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch để lưu
giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (cùng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để cung
cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Theo đó, các sự kiện hộ tịch của cá nhân ngay sau khi đăng ký vào Sổ
hộ tịch đều phải được cập nhật kịp thời, đầy đủ, chính xác vào Cơ sở dữ liệu
hộ tịch điện tử; các Bộ, ngành, địa phương sử dụng thông tin công dân từ Cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa
phương mình, cũng như giải quyết thủ tục hành chính cho người dân.
62
Tuy nhiên Luật cũng quy định rõ trong trường hợp thông tin trong Cơ sở
dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khác với thông tin
trong Sổ hộ tịch thì phải điều chỉnh cho phù hợp với Sổ hộ tịch; đồng thời “Cơ
sở dữ liệu hộ tịch được quản lý, bảo mật, bảo đảm an toàn; chỉ những cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới được tiếp cận và khai thác theo quy định
của pháp luật”.
Thứ chín, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác hộ tịch,
tăng cường trách nhiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót, vi phạm trong
công tác đăng ký, quản lý hộ tịch, Luật quy định rõ tiêu chuẩn, trình độ,
nhiệm vụ, quyền hạn của công chức làm công tác hộ tịch, kể cả những việc
công chức làm công tác hộ tịch không được làm.
2.1.2. Những hạn chế của thực hiện pháp luật về hộ tịch
Luật Hộ tịch đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua và hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.
Luật ra đời đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác đăng ký, quản
lý hộ tịch từng bước ổn định và đi vào nề nếp, cơ sở vật chất từng bước
được cải thiện.
Các cơ quan thực hiện việc đăng ký hộ tịch đã ý thức được trách nhiệm
của mình, người dân đã nhận thức tầm quan trọng của giấy tờ hộ tịch nên
không tùy tiện sửa chữa, thêm, bớt; tự giác thực hiện đi đăng ký các sự kiện
hộ tịch theo đúng thời gian quy định của pháp luật. Công chức Tư pháp - hộ
tịch cấp xã đã xác định được tầm quan trọng của công tác này nên đã tuân thủ
trình tự, thủ tục của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; thường
xuyên tham gia tập huấn, tự nghiên cứu, học hỏi để nâng cao kỹ năng giải
quyết công việc với từng tình huống cụ thể, tuân thủ đúng quy định của pháp
luật về hộ tịch góp phần làm giảm đáng kể các vụ việc khiếu nại, tố cáo về hộ
tịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đăng ký hộ tịch ở
63
địa phương gặp những khó khăn, vướng mắc như sau:
- Thứ nhất, về thẩm quyền đăng ký hộ tịch: Luật Hộ tịch chưa quy định
cụ thể như thế nào là “định cư ở nước ngoài” nên đã gây khó khăn trong việc
phân định thẩm quyền giữa UBND cấp xã và cấp huyện. Cụ thể, Luật Hộ tịch
quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn của UBND huyện như sau:
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực
hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân
Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở
nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc
tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.
và theo Khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định
"Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc
Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài". Vậy thế nào là “sinh sống
lâu dài ở nước ngoài”, hiện nay Luật Quốc tịch, Luật Hộ tịch và các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
- Thứ hai, về đăng ký khai sinh: Luật Hộ tịch không quy định công dân
được cấp lại bản chính giấy khai sinh. Qua thực tế, quy định này gây khó
khăn cho công dân, bởi vì, một số cơ quan, đơn vị vẫn yêu cầu có bản chính
để đối chiếu. Mặt khác tâm lý của người dân luôn muốn có bản chính giấy
khai sinh, do đó nhu cầu cấp lại bản chính giấy khai sinh của người dân là rất
cần thiết. Đề nghị nên sửa đổi Luật Hộ tịch cho phép UBND cấp huyện được
cấp lại bản chính giấy khai sinh như quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-
CP trước đây.
+ Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BTP về
việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có cha hoặc mẹ là
Công dân Việt Nam hoặc cha và mẹ đều là công dân Việt Nam, chưa được
64
đăng ký khai sinh ở nước ngoài, về cư trú tại Việt Nam thì phải nộp các giấy
tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam (như: Hộ chiếu, giấy
tờ có giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý
xuất, nhập cảnh và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về
việc trẻ em đang cư trú tại Việt Nam). Tuy nhiên, có một số trường hợp trẻ em
sinh ra ở nước ngoài tại các nước láng giềng như Lào khi đưa con về cư trú tại
Việt Nam thường không thực hiện các nguyên tắc, thủ tục theo quy định về
xuất nhập cảnh để xin hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế mà đưa con
về cư trú tại Việt Nam theo đường dân sinh, do đó khi đăng ký khai sinh cho
con không có các giấy tờ chứng minh trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam.
- Thứ ba, về đăng ký lại khai sinh: Tại Điểm c Khoản 1 Điều 26 Nghị
định 123/2015/NĐ-CP quy định:
Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh là cán bộ, công
chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì
ngoài các giấy tờ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này
phải có văn bản xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị về việc
những nội dung khai sinh của người đó gồm họ, chữ đệm, tên;
giới tính; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán;
quan hệ cha - con, mẹ - con phù hợp với hồ sơ do cơ quan, đơn vị
đang quản lý.
Quy định như trên chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức,
người đang công tác trong lực lượng vũ trang, còn một số đối tượng khác như
hưu trí, thương binh hay những người làm việc trong các Công ty, Tổng Công
ty thì không được áp dụng quy định nêu trên. Trong khi họ cũng cần thống
nhất giữa giấy tờ tùy thân và hồ sơ do cơ quan, đơn vị đang quản lý.
+ Tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định việc đăng ký lại
khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của
65
Việt Nam trước ngày 01/01/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ
tịch đều bị mất thì được đăng ký lại. Tuy nhiên, Nghị định chưa quy định về
điều kiện bản chính vẫn còn nhưng bị hư hỏng, rách nát thì có được đăng ký
lại hay không.
+ Theo quy định của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì Giấy Đăng ký khai sinh lại được xem như Giấy Đăng ký khai sinh gốc.
Nhưng trên thực tế không có Điều, Khoản nào quy định nội dung này nên
trong quá trình thực hiện cơ quan Công an không căn cứ vào Giấy Đăng ký
khai sinh lại để thay đổi chứng minh nhân dân. Điều này đã gây khó khăn cho
các cơ quan đăng ký hộ tịch trong việc giải quyết, hướng dẫn cho người dân
thống nhất các nội dung liên quan đến vấn đề nhân thân của bản thân.
+ Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 123/2015/NĐ-
CP thì hồ sơ đăng ký lại khai sinh gồm “Tờ khai theo mẫu quy định, trong đó
có cam đoan của người yêu cầu về việc đã đăng ký khai sinh nhưng người đó
không lưu giữ được bản chính Giấy khai sinh” nhưng nội dung cam đoan này
không có trong mẫu Tờ khai. Việc cam đoan này được thực hiện như thế nào,
hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
- Thứ tư, về đăng ký khai tử: Khoản 1 Điều 34 Luật Hộ tịch quy định:
“Người có trách nhiệm đi đăng ký khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và
giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay thế giấy báo tử cho cơ quan đăng ký hộ
tịch”. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì
Bộ Y tế hướng dẫn các cơ sở y tế thực hiện việc cấp giấy chứng sinh, giấy
báo tử. Tuy nhiên, hiện tại chưa có văn bản quy định cụ thể về mẫu giấy báo
tử nên gây lúng túng cho UBND cấp xã trong việc thực hiện cấp giấy báo tử
cho người chết trên địa bàn, cũng như trong việc thực hiện đăng ký khai tử.
+ Điều 32 Luật Hộ tịch quy định:
UBND cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc
66
đăng ký khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối
cùng của người chết thì UBND cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi
phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
Điểm đ Khoản 2 Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định như sau:
Đối với người chết không thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các Điểm a, b, c và d của Khoản này thì UBND cấp xã nơi người
đó chết có trách nhiệm cấp Giấy báo tử.
Quy định cấp Giấy báo tử như vậy chỉ phù hợp với trường hợp người
chết nằm ngoài địa bàn cư trú, còn trường hợp người chết tại nơi cư trú là
không phù hợp vì UBND xã nơi cư trú của người chết vừa cấp giấy báo tử
vừa đăng ký khai tử làm tăng thêm thủ tục không cần thiết.
- Thứ năm, về đăng ký nhận cha, mẹ, con: Theo quy định tại Khoản 2
Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định về chứng cứ chứng minh quan
hệ cha, mẹ, con gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác
có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha
con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì
phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng
minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan
của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất
hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng [3, Điều 15].
Thực tế có trường hợp vì khó khăn về kinh tế, cá nhân có yêu cầu
không thể liên hệ cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền để xác nhận quan hệ cha con, mẹ con hoặc họ cũng không còn người
thân thích để làm chứng. Do đó, quá trình tiếp nhận, giải quyết yêu cầu trong
trường hợp này, cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu công dân cung cấp chứng cứ
67
theo quy định tại Khoản 2 nêu trên, tuy nhiên cơ quan đăng ký gặp lúng túng
khi xác định giá trị của thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng chứng
minh mối quan hệ cha con, mẹ con hoặc trường hợp công dân không thể cung
cấp được chứng cứ này.
- Thứ sáu, về cải chính hộ tịch: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 28
Luật Hộ tịch “Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai
theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch”. Vậy
việc thực hiện cải chính Giấy Chứng nhận kết hôn thì cả vợ và chồng đều làm
Tờ khai hay chỉ người yêu cầu cải chính làm Tờ khai.
+ Tại mặt sau của Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn, “phần
ghi chú những thông tin thay đổi sau này”, có quy định đóng dấu vào nội
dung thay đổi, cải chính; đối với trường hợp thẩm quyền thay đổi, cải chính
hộ tịch của UBND cấp huyện thì công chức phòng Tư pháp thực hiện ghi chú.
Tuy nhiên, chưa có văn bản nào quy định rõ đóng dấu của UBND cấp huyện
hay dấu của phòng Tư pháp.
+ Trường hợp có sự sai lệch thông tin giữa Giấy khai sinh và Sổ hộ tịch
thì căn cứ vào loại giấy tờ nào để thực hiện việc cải chính. Hiện chưa có văn
bản nào quy định về vấn đề này nên gây khó khăn cho công chức Tư pháp -
hộ tịch trong quá trình giải quyết.
+ Đối với “quê quán” của công dân, pháp luật về hộ tịch chỉ quy định
thực hiện cải chính trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch nhưng
không quy định được thay đổi từ quê quán của bố sang quê quán của mẹ và
ngược lại. Điều này đã gây khó khăn, vướng mắc cho người dân trong việc
thông nhất các thông tin nhân thân trong các loại giấy tờ của bản thân.
- Thứ bảy, về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân: Tại Khoản 1
Điều 21 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định “Ủy ban nhân dân cấp xã,
nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình
68
trạng hôn nhân”. Trường hợp cấp Giấy Xác nhận tình trạng hôn nhân cho cán
bộ chiến sỹ lực lượng công an, bộ đội không đăng ký hộ khẩu thường trú tại
địa phương nhưng có hộ khẩu tập thể của đơn vị đóng quân được thực hiện
như thế nào thì Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể.
- Thứ tám, về xác minh trong đăng ký hộ tịch: Theo quy định của Luật
Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì hầu hết các sự kiện hộ tịch đều
quy định trường hợp hồ sơ không rõ ràng thì công chức Tư pháp - hộ tịch
tham mưu cho UBND các cấp thực hiện xác minh. Tuy nhiên, hiện tại Luật
Hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác minh ở các cơ quan có thẩm quyền ở
nước ngoài như thế nào vì trong thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp đăng ký
hộ tịch có yếu tố nước ngoài cần được xác minh.
- Thứ chín, quy định về thu hồi hủy bỏ giấy tờ hộ tịch: Tại Điểm h
Khoản 1 Điều 70 quy định trách nhiệm của UBND cấp huyện là thu hồi, hủy
bỏ giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp trái quy định của Luật Hộ tịch nhưng
Luật không quy định trình tự, thủ tục về thu hồi hủy bỏ gây khó khăn trong
quá trình áp dụng.
Quản lý và đăng ký hộ tịch là một nhiệm vụ quan trọng và thường
xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Thông qua hoạt động đăng ký hộ
tịch, nhà nước xác nhận các sự kiện hộ tịch phát sinh và có trách nhiệm bảo
hộ quyền nhân thân của cá nhân gắn liền với các sự kiện đó. Mặt khác, những
thông tin thu được từ việc quản lý hộ tịch là căn cứ quan trọng để các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thống kê và phân tích dân cư, nghiên cứu khoa học,
hoạch định các chính sách về an ninh quốc phòng, dân số - kế hoạch hoá gia
đình, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch
không chỉ là quyền mà đồng thời là nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động quản lý và đăng ký hộ
69
tịch, nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm
tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Nhìn
chung, hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch hiện
hành đã quy định một cách tương đối đầy đủ, rõ ràng cả về thẩm quyền
trình tự và thủ tục đăng ký hộ tịch, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan
hệ đăng ký và quản lý hộ tịch, … làm cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt
động quản lý nhà nước về hộ tịch.
2.2. Thực hiện pháp luật hộ tịch tại Huyện Đông Anh
2.2.1. Vị trí địa lý của huyện Đông Anh
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, huyện có diện tích 18.213,9ha (182,139 km2) gồm 01 Thị trấn Đông Anh và 23 xã. Đông Anh có
ranh giới tự nhiên giáp với nhiều quận, huyện khác của Hà Nội bởi các dòng
sông: sông Hồng, sông Đuống, là ranh giới phía Nam của Đông Anh với quận
Bắc Từ Liêm, quận Tây Hồ và quận Long Biên, Hà Nội; sông Cà Lồ là ranh
giới phía Bắc với huyện Sóc Sơn. Về phía Đông- Đông bắc, Đông Anh giáp
huyện Yên Phong và Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, phía Tây giáp huyện Mê Linh, Hà
Nội. Đông Anh có diện tích thuộc loại lớn trong các huyện ngoại thành Hà Nội.
Với diện tích tự nhiên khá rộng lại nằm hoàn toàn ở phía Bắc của sông
Hồng và tiếp giáp với nội thành nên Đông Anh có vai trò vị trí chiến lược quan
trọng trong định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội hiện tại và tương lai.
2.2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội
Trong quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2020 - 2030
và tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định Đông Anh là đô thị lõi, có vị trí quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Những năm qua, Đông
Anh đã từng bước cụ thể bằng đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, thu hút nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước,
70
giải quyết việc làm cho lao động địa phương và của vùng.
Đặc biệt, cuối năm 2014, cầu Nhật Tân - cây cầu dây văng dài nhất
Việt Nam và duy nhất Hà Nội hoàn thành, nối đôi bờ sông Hồng qua huyện
Đông Anh đã tiếp thêm lợi thế để huyện hoàn thành các mục tiêu. Nhờ tuyến
giao thông này, khoảng cách từ Đông Anh vào trung tâm thành phố đã giảm
xuống còn 9km, trở thành tuyến giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh phía
bắc với những đầu mối giao thông như: Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào
Cai, đường QL 18…
Theo đó, trong những năm tới, Đông Anh sẽ tập trung phát triển các
trung tâm đô thị, trục không gian chính Nhật Tân - Nội Bài. Hiện nay, thành
phố Hà Nội đã lập quy hoạch chung hai bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài
và triển khai đầu tư xây dựng: Trung tâm Tài chính Thương mại Quốc tế
ASEAN; các đô thị, dịch vụ vui chơi giải trí đa năng nhiều nơi trong huyện.
Trên địa bàn huyện đang triển khai xây dựng: Trung tâm triển lãm quốc gia;
Công viên Kim Qui; khu đô thị xanh, khu đô thị sinh thái sông Cà Lồ; các
phân khu đô thị N5, N7, N8… với quy mô hàng nghìn ha. Các dự án này, có
vị trí hết sức thuận lợi, khi hoàn thành sẽ đáp ứng tối đa nhu cầu dịch vụ,
thương mại và nhà ở trên địa bàn.
Từ nay đến năm 2020, Đông Anh được kỳ vọng sẽ trở thành trung tâm
thương mại, tài chính, du lịch, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía bắc
thủ đô, là một “thành phố mới”, một phần năng động của thành phố. Để thực
hiện điều này, huyện tiếp tục phát triển thương mại, dịch vụ theo hướng đa
dạng hóa, nâng cao sản phẩm dịch vụ; Phát triển thị trường hàng hóa có tính
cạnh tranh cao, hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Bên cạnh đó, việc
chỉnh trang đô thị, đặc biệt là thị trấn Đông Anh; Xây dựng các siêu thị mua
sắm, các khu vui chơi giải trí,… cũng phải được đẩy mạnh, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng.
71
Đặc biệt, việc quan tâm đầu tư xây dựng, tôn tạo và nâng cao giá trị của
khu di tích lịch sử Cổ Loa - Công trình văn hóa, lịch sử tiêu biểu của Đông
Anh sẽ là động lực đẩy mạnh thương mại, dịch vụ, du lịch của huyện phát
triển. Từ những nỗ lực đó, năm 2012, thành Cổ Loa đã được công nhận và cấp
Bằng di tích Quốc gia đặc biệt. Đây là một thuận lợi lớn trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị của khu di tích thành cổ có niên đại sớm nhất, quy mô lớn
nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, khu di tích Cổ Loa nằm
trong cụm du lịch trọng điểm Vân Trì - Cổ Loa, với các sản phẩm chủ yếu là
du lịch thể thao, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần.
Trong những năm tới, đây chính là điểm nhấn trong lĩnh vực văn hóa - du lịch
và dịch vụ ở Đông Anh, tạo đà cho sự phát triển của những sản phẩm dịch vụ
trọng điểm khác của huyện.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Đông Anh đang ra sức cụ thể
mục tiêu: “Xây dựng Đông Anh trở thành huyện phát triển nhanh, bền vững
và ngày càng văn minh, giàu đẹp”. Với sự hội tụ ba yếu tố cả về “Thiên thời,
địa lợi và nhân hòa”, đặc biệt là khai thác đúng tiềm năng, “Thế và lực” của
Đông Anh sẽ được bộc lộ, mở ra chặng đường phát triển kinh tế - xã hội to
lớn hơn. Qua sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ, chính quyền, nhất là đã khơi
dậy truyền thống và vun bồi khát vọng cống hiến, xây dựng quê hương cho
mỗi người dân Đông Anh, tương lai không xa, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của huyện nhà sẽ còn thu được những thành công rực rỡ hơn.
2.2.2. Thực trạng pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh
2.2.2.1. Đội ngũ công chức tư pháp hộ tịch
Trong giai đoạn đất nước phát triển như hiện nay, thì yêu cầu cải cách
hành chính đã và đang là xu hướng hội nhập quốc tế đặc biệt là nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức. Trong tiến trình phát triển chung đó thì đội
ngũ công chức tư pháp hộ tịch cấp xã phường cũng đã không ngừng được
72
nâng cao về chất lượng, phát triển mạnh về số lượng. Đội ngũ công chức này
chính là bộ phận quan trọng trong việc đưa các chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước vào cuộc sống và kiểm chứng tính đúng đắn của các chủ
trương, chính sách và pháp luật đó.
Theo số liệu thống kê của Sở tư pháp thành phố, tính đến ngày
14/8/2018 trên địa bàn huyện Đông Anh có 100% các xã và thị trấn đã bố trí
công chức tư pháp hộ tịch với 47 người làm việc tại 23 xã và 01 thị trấn; hầu
hết các xã đều bố trí 01 tư pháp phụ trách đăng ký hộ tịch, 01 tư pháp làm
công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư. Những năm trở lại đây chất lượng đội
ngũ công chức tư pháp đã có sự thay đổi rõ, trình độ chuyên môn, thái độ
phục vụ, tinh thần phục vụ được nâng cao hơn.
Về số lượng, Huyện Đông Anh có tại 23 xã và 01 thị trấn tổng số lượng
công chức tư pháp hộ tịch là 47 người, có 01 xã là có 01 công chức tư pháp
hộ tịch, còn lại là có 22 xã và thị trấn có 02 tư pháp hộ tịch
Về chất lượng, Trình độ văn hoá của toàn bộ công chức tư pháp đều đã
tốt nghiệp phổ thông trung học, trình độ chuyên môn có 05 người là Thạc sỹ,
và 42 đồng chí là cử nhân luật. Tất cả đội ngũ công chức tư pháp huyện Đông
Anh đã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng được yêu
cầu công việc,
2.2.2.2. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn cấp xã Huyện Đông Anh
* Kết quả đạt được
Qua gần 03 năm triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản quy
định chi tiết thi hành, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch tại Huyện Đông
Anh đã đạt được những kết quả quan trọng, như:
Kết quả giải quyết các công việc về hộ tịch năm 2018 như sau:
- Thẩm quyền cấp huyện: Đăng ký khai sinh: 10 trường hợp,Đăng ký
kết hôn: 26 đôi, Đăng ký khai tử: 0
73
- Thẩm quyền của UBND xã, thị trấn:
+ Thị trấn Đông Anh: Khai sinh: 395 trường hợp; Khai tử: 66 trường
hợp; Kết hôn: 148 cặp.
+ Xã Kim Nỗ: Khai sinh: 225 trường hợp; Khai tử: 44 trường hợp; Kết
hôn: 73 cặp.
+ Xã Cổ Loa: Khai sinh: 263 trường hợp; Khai tử: 89 trường hợp; Kết
hôn: 116 cặp.
+ Xã Dục Tú: Khai sinh: 232 trường hợp; Khai tử: 223 trường hợp; Kết
hôn: 84 cặp.
+ Xã Tiên Dương: Khai sinh: 151 trường hợp; Khai tử: 341 trường hợp;
Kết hôn: 49 cặp.
+ Xã Mai Lâm: Khai sinh: 171 trường hợp; Khai tử: 265 trường hợp;
Kết hôn: 69 cặp.
+ Xã Vĩnh Ngọc: Khai sinh: 241 trường hợp; Khai tử: 55 trường hợp;
Kết hôn: 71 cặp.
+ Xã Xuân Canh: Khai sinh: 168 trường hợp; Khai tử: 52 trường hợp;
Kết hôn: 66 cặp.
+ Xã Thụy Lâm: Khai sinh: 277 trường hợp; Khai tử: 105 trường hợp;
Kết hôn: 83 cặp.
+ Xã Liên Hà: Khai sinh: 249 trường hợp; Khai tử: 83 trường hợp; Kết
hôn: 80 cặp.
+ Xã Tàm Xá: Khai sinh: 63 trường hợp; Khai tử: 20 trường hợp; Kết
hôn: 26 cặp.
+ Xã Vân Hà: Khai sinh: 69 trường hợp; Khai tử: 21 trường hợp; Kết
hôn: 36 cặp.
+ Xã Nam Hồng: Khai sinh: 201 trường hợp; Khai tử: 78 trường hợp;
Kết hôn: 65 cặp.
+ Xã Việt Hùng: Khai sinh: 199 trường hợp; Khai tử: 84 trường hợp;
74
Kết hôn: 65 cặp.
+ Xã Uy Nỗ: Khai sinh: 217 trường hợp; Khai tử: 97 trường hợp; Kết
hôn: 83 cặp.
+ Xã Đông Hội: Khai sinh: 150 trường hợp; Khai tử: 86 trường hợp;
Kết hôn: 64 cặp.
+ Xã Võng La: Khai sinh: 134 trường hợp; Khai tử: 30 trường hợp; Kết
hôn: 50 cặp.
+ Xã Vân Nội: Khai sinh: 167 trường hợp; Khai tử: 63 trường hợp; Kết
hôn: 43 cặp.
+ Xã Nguyên Khê: Khai sinh: 169 trường hợp; Khai tử: 89 trường hợp;
Kết hôn: 79 cặp.
+ Xã Bắc Hồng: Khai sinh: 223 trường hợp; Khai tử: 286 trường hợp;
Kết hôn: 76 cặp.
+ Xã Hải Bối: Khai sinh: 229 trường hợp; Khai tử: 69 trường hợp; Kết
hôn: 65 cặp.
+ Xã Kim Chung: Khai sinh: 196 trường hợp; Khai tử: 59 trường hợp;
Kết hôn: 72 cặp.
+ Xã Đại Mạch: Khai sinh: 153 trường hợp; Khai tử: 57 trường hợp;
Kết hôn: 64 cặp.
+ Xã Xuân Nộn: Khai sinh: 194 trường hợp; Khai tử: 80 trường hợp;
Kết hôn: 51 cặp.
Tổng số kết quả công tác hộ tịch thuộc thẩm quyền cấp xã:
+ Đăng ký khai sinh: 3416 trường hợp
+ Đăng ký kết hôn: 1138 đôi;
+ Đăng ký khai tử: 1118 trường hợp.
Thực hiện sự chỉ đạo của UBND Thành phố Hà Nội phòng Tư pháp đã
tham mưu cho UBND Huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn tiếp tục triển
75
khai đồng bộ hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư pháp,
đảm bảo thực hiện đúng theo hướng dẫn của UBND Thành phố đạt kết quả
100%. Thực hiện nghiêm chế độ thông tin báo cáo theo quy định…
Tính từ đầu năm 2016 đến tháng 30/6-2018, UBND huyện Đông Anh
đã, ghi vào sổ hộ tịch các việc đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở
nước ngoài là: khai sinh cho 2 trường hợp; đăng ký kết hôn 19 trường hợp;
Toàn huyện đăng ký thay đổi hộ tịch cho 273 trường hợp, cải chính hộ tịch
cho 116 trường hợp, bổ sung hộ tịch 141 trường hợp, Nhận cha mẹ con là 98
trường hợp, Đăng ký giám hộ là 21 trường hợp, Cấp giấy xác nhận tình trạng
hôn nhân là 6507 trường hợp,đăng ký khai sinh là 14896 trường hợp, khai tử
là 4883 trường hợp, đăng ký kết hôn là 5131 cặp. Nhìn chung việc quản lý hộ
tịch được ghi chép, đăng ký vào sổ, lưu trữ hồ sơ và thực hiện báo cáo đầy đủ,
đúng quy định. Người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của các giấy tờ
hộ tịch và tự giác thực hiện đi đăng ký hộ tịch, góp phần bảo vệ quyền và
nghĩa vụ của công dân, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.
Đến nay, tất cả 24 xã, thị trấn trong huyện đã được trang bị máy tính làm
việc, phần mềm quản lý phục vụ công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; đây có
thể xem là sự đổi mới quan trọng trong công tác hộ tịch, tiến tới thực hiện quản
lý hộ tịch bằng dữ liệu điện tử, giúp cơ quan Nhà nước đưa ra những chính
sách hợp lý, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và dịch vụ công.
Đã triển khai thí điểm phần mềm đăng ký khai sinh điện tử có kết nối
với hệ thống cấp số định danh cá nhân để cấp số định danh cá nhân cho trẻ em
ngay khi được ĐKK; Thực hiện tốt quy định cá nhân có quyền lựa chọn cơ
quan đăng ký hộ tịch cho mình không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú như trước đây, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong
việc lựa chọn cơ quan đăng ký sự kiện hộ tịch của mình;
Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, đội ngũ công chức làm
76
công tác hộ tịch ở cơ sở được củng cố, kiện toàn, có kế hoạch đào tạo bảo
đảm tiêu chuẩn chuyên môn luật, công chức làm công tác hộ tịch được bồi
dưỡng, cấp chứng chỉ theo chương trình bồi dưỡng chính thức đã được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt;
Yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân cơ bản được giải quyết kịp thời;
Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch được cải cách mạnh mẽ, đơn giản hóa và cắt
giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân;
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch đã được quan
tâm triển khai ở nhiều địa phương, cơ sở dữ liệu hộ tịch được hình thành với
hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử kết hợp với sổ đăng ký hộ tịch được lưu
trữ, thống kê thường xuyên; Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch ngày
càng được coi trọng, nhận thức của người dân về vai trò, ý nghĩa của công tác
đăng ký hộ tịch được nâng cao.
2.2.3. Ưu điểm của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Hộ tịch. Luật có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/01/2016.
Luật Hộ tịch năm 2014, với nhiều chế định mới, phân cấp mới, thủ tục
mới đã thổi một luồng sinh khí mới cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
và đích đến là gần gũi hơn với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của
người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thứ nhất, quy định về các nội dung đăng ký hộ tịch Luật Hộ tịch năm
2014, đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các nội dung đăng ký hộ tịch; đã
phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ hộ tịch, sự kiện nào là Ghi vào
Sổ hộ tịch. Theo đó:
1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai
sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con;Thay đổi, cải chính hộ
77
tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.
2. Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch
của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm: Thay đổi quốc tịch;Xác định cha, mẹ, con; Xác
định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly
hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công
nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã
chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc
kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi
con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền đăng ký hộ tịch
Với quan điểm thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền cơ sở, kể từ
ngày 01/01/2016, thẩm quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch được thực hiện ở
02 cấp (cấp huyện và cấp xã), cụ thể:
1. Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký các trường hợp
hộ tịch sau
a) Đăng ký Khai sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Khai
tử; Thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung
thông tin hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước;
b) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay
đổi quốc tịch;Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi
con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn
78
trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên
bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
c) Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy
định của pháp luật.
d) Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ
là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia
là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với
Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường
trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở
khu vực biên giới với Việt Nam; khai tử cho người nước ngoài cư trú
ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký các trường
hợp hộ tịch sau:
a) Đăng ký các sự kiện hộ tịch: khai sinh, kết hôn, giám hộ, nhận
cha, mẹ, con, khai tử, bổ sung thông tin hộ tịch có yếu tố nước ngoài;
b) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay
đổi quốc tịch, xác định cha, mẹ, con, xác định lại giới tính, nuôi con
nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi,ly hôn, hủy việc kết hôn trái
pháp luật, công nhận việc kết hôn, công nhận giám hộ; tuyên bố
hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế
năng lực hành vi dân sự có yếu tố nước ngoài;
c) Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ
14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc;
d) Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc
kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi
con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được
79
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Thứ ba, thủ tục đăng ký hộ tịch đơn giản, cắt giảm tối đa các giấy tờ
không cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền lựa chọn nơi
đăng ký và phương thức đăng ký các sự kiện hộ tịch:
Theo đó, Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và
Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ
tục đăng ký người yêu cầu đăng ký hộ tịch được cấp Trích lục hộ tịch tương
ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch được
chứng thực bản sao.
Cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà
không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây. Theo quy định của Luật,
cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường
trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống và có quyền lựa chọn phương thức đăng
ký như nộp hồ sơ trực tiếp, qua bưu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký
trực tuyến trong điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho phép.
Thứ tư, quy định việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh:
Số định danh cá nhân là số được cấp cho mỗi công dân Việt Nam khi
đăng ký khai sinh không lặp lại ở người khác và đây cũng là một trong những
nội dung cơ bản trong Giấy khai sinh, Sổ đăng ký khai sinh, cơ sở dữ liệu hộ
điện tử hộ tịch và Cơ sở dữ liệu về dân cư. Số này cũng chính là số thẻ căn
cước công dân được cấp khi đủ 14 tuổi.
Thứ năm, quy định rõ việc miễn phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc
gia đình có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật;
đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam
cư trú trong nước.
Thứ sáu, quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện
tử: đây là một bước đột phá của Luật Hộ tịch để hướng đến Chính phủ điện
80
tử. Theo đó, Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản quốc gia, lưu giữ toàn bộ thông
tin hộ tịch của mọi cá nhân đã đăng ký, làm cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, phục vụ yêu cầu tra cứu thông tin, quản lý, hoạch định
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Cơ sở dữ liệu hộ tịch bao
gồm Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là căn cứ để cấp bản sao trích
lục hộ tịch.
Hệ thống cấp định danh được thực hiện trên phần mềm của Bộ tư pháp.
Sau khi công dân nộp hồ sơ, cán bộ cập nhật vào Cơ sở dữ liệu, đây là thông
tin đầu vào của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Việc thực hiện nhập hồ sơ vào hệ thống điện tử của Bộ tư pháp, đã cho
phép việc in cấp trích lục khai sinh, thống kê số liệu hộ tịch nhanh gọn, tiết
kiệm chi phí tiền bạc cho người dân và cơ quan quản lý hộ tịch.
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở dữ liệu ngành, được lập trên cơ sở
tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để
lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký
hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản
của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của
công tác hộ tịch. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản
lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
2.2.4. Những hạn chế của việc thực hiện pháp luật hộ tịch trên địa
bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
* Hạn chế trong đăng ký hộ tịch
Mặc dù Luật Hộ tịch đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng đồng bộ,
thống nhất trên cả nước và thực tế tại Huyện Đông Anh cũng đã đạt được
những kết quả tích cực, nhưng thực tiễn giải quyết cho thấy, các việc hộ tịch
81
luôn phát sinh hết sức đa dạng, phức tạp, nhiều trường hợp tuy là các sự kiện
hộ tịch thường xuyên xảy ra như việc sinh, việc xác nhận tình trạng hôn nhân,
việc tử, việc thay đổi họ, tên… nhưng lại có nhiều tình tiết phức tạp mà Luật
Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành chưa dự liệu được; đơn cử:
Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hộ tịch năm 2014 thì nội dung khai sinh
gồm: thông tin của người được ĐKKS (họ, chữ đệm và tên; giới tính; ngày,
tháng, năm sinh; nơi sinh; quê quán; dân tộc; quốc tịch); thông tin của cha, mẹ
người được ĐKKS (họ, chữ đệm và tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư
trú); số định danh cá nhân. Liên quan đến việc xác định họ, tên cho con, điểm
a khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy
định: Họ, chữ đệm, tên và dân tộc của trẻ em được xác định theo thỏa thuận
của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong tờ khai
ĐKKS; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được,
thì xác định theo tập quán. Tuy nhiên, theo quy định này, một số cơ quan
đăng ký hộ tịch (ĐKHT), người dân lại hiểu rằng, việc xác định họ cho con
theo phong tục tập quán tức là phong tục tập quán như thế nào thì xác định
đúng theo như thế mà không phải tuân thủ nguyên tắc nào khác, dẫn đến xác
định họ của con có thể không theo họ của mẹ, cũng không theo họ của cha,
thậm chí không có họ, chỉ có tên. Thực tế trên địa bàn Huyện Đông Anh, vẫn
tồn tại tình trạng ĐKKS cho con không mang họ cha, cũng không mang họ
mẹ, hoặc ĐKKS cho con “ngoài giá thú” nhưng không mang họ của mẹ.
Trường hợp công chức làm công tác hộ tịch từ chối giải quyết yêu cầu ĐKKS
thì người dân phản ứng, bức xúc hoặc phản đối bằng việc không tiếp tục thực
hiện ĐKKS cho con.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền ĐKHT, bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và
82
Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cho phép kết hợp thủ tục nhận cha,
mẹ, con và ĐKKS. Tuy nhiên, hiện tại có tình trạng nhiều phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài nhưng cuộc sống chung không hạnh phúc nên
bỏ về Việt Nam, cũng có trường hợp không được cơ quan có thẩm quyền
nước ngoài cho phép sang nước ngoài định cư nên hôn nhân không duy trì
được, thực tế quan hệ vợ chồng đã chấm dứt nhưng chưa làm thủ tục ly hôn
mà đã lại có quan hệ chung sống với người đàn ông khác và sinh con. Do con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân vẫn còn tồn tại, nên theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình, phải được xác định là con chung của hai vợ chồng
(mặc dù người chồng không phải là người cha trên thực tế của đứa trẻ) [18],
người mẹ có yêu cầu đăng ký việc nhận cha (người cha trên thực tế) của trẻ
em kết hợp với thủ tục ĐKKS để khai sinh theo đúng thông tin về cha mẹ
hoặc ĐKKS theo diện con chưa xác định được cha thì cơ quan ĐKHT không
giải quyết được.
Do khoản 2 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Trong
trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được
tòa án xác định”; khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng quy định:
“Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu tòa án xác
định người đó là con mình”, nên yêu cầu xác định cha cho con của người mẹ
trong trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân, không
thuộc thẩm quyền của cơ quan ĐKHT. Nhưng thực tế, đa phần người dân
phản ánh tòa án có thẩm quyền không thụ lý giải quyết hoặc có tiếp nhận,
nhưng sau đó đình chỉ việc giải quyết vì cho rằng không có “tranh chấp”, dẫn
đến việc trẻ em không được ĐKKS kịp thời hoặc ĐKKS nhưng với thông tin
về người cha không đúng thực tế, vì vậy, cần thiết phải có quy định hướng
dẫn xác định thẩm quyền giải quyết để bảo đảm quyền lợi của trẻ em.
Mặc dù Luật hộ tịch đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng đồng bộ,
83
thống nhất trên cả nước và thực tế đã đạt được những kế quả tích cực. Tuy
nhiên qua thực tiễn cho thấy, các việc hộ tịch luôn phát sinh những tình huống
hết sức đa dạng phức tạp, nhiều trường hợp tuy các sự kiện xảy ra như việc
sinh tử, thay đổi họ tên, việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân…
nhưng lại xuất hiện nhiều tình tiết mới phức tạp mà Luật hộ tịch và các văn
bản hướng dẫn thi hành chưa dự liệu và chưa có quy định điều chỉnh, dẫn đến
yêu cầu đăng ký hộ tịch vẫn phát sinh những khó khăn, vướng mắc cần có văn
bản hướng dẫn kịp thời.
Do các quy định về hộ tịch trước đây không chặt chẽ, việc quản lý của
chính quyền địa phương lỏng lẻo, công chức thực hiện đăng ký hộ tịch không
có trình độ chuyên môn do đó dẫn đến việc đăng ký các sự kiện hộ tịch trước
đây có nhiều sai xót: đăng ký khai sinh khai thêm tuổi mụ, đăng ký kết hôn
khai thêm chữ đệm để tên thường gọi được hay hơn, việc cấp quản lý bản sao
các giấy tờ hộ tịch đơn giản… dẫn đến hiện nay khi pháp luật hộ tịch dần được
hoàn thiện, nhiều nội dung quy định chặt chẽ, thì nảy sinh nhiều sai sót của các
thời kỳ trước đây. Vì vậy dẫn đến tình trạng hồ sơ cải chính ngày càng nhiều
Các quy định của pháp luật thường xuyên thay đổi và nằm rải rá cở
nhiều văn bản khác nhau dẫn đến khó khăn cho việc tiếp cận và tìm hiểu.
Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện TTHC chưa nhịp
nhàng thống nhất.
Việc triển khai cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, số hóa dữ liệu còn chậm.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch còn chưa đồng bộ,
thống nhất.
Cơ sở vật chất như phòng làm việc nhỏ, đường truyền internet chậm,
nhiều nơi thiếu máy tính hoặc có nhưng tốc độ chậm.
Hiện nay công chức tư pháp hộ tịch vẫn còn phải đảm nhiệm nhiều nhiệm
vụ khác nhau, do đó ít có thời gian cho việc tìm hiểu và nâng cao chuyên môn
84
nghiệp vụ.
Công chức làm tư pháp hộ tịch hay có sự biến động do luân chuyển,
điều động theo yêu cầu nhiệm vụ. Do vậy công chức mới đảm nhận nhiệm vụ
chưa có kinh nghiệm nên có nhiều sai xót trong quá trình làm việc đặc biệt là
những hồ sơ khó, phức tạp.
Kinh nghiệm của một số công chức trong việc tiếp công dân và giải
quyết các TTHC còn hạn chế
Một số công chức tư pháp - hộ tịch còn thực hiện nhiệm vụ theo lối
mòn nhất là công chức có độ tuổi cao; chưa có sự thay đổi tư duy, ngại nghiên
cứu, tiếp cận các văn bản pháp luật mới, bên cạnh đó việc sử dụng máy tính
để thực hiện các nhiệm vụ trên phần mềm điện tử của công chức cao tuổi
cũng gặp nhiều khó khăn hạn chế.
* Để góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước, cũng như hoàn
thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực đăng ký hộ tịch, xin có một số kiến
nghị như sau:
Một là, tổng kết những vấn đề vướng mắc phát sinh từ thực tế trong
thực hiện đăng ký hộ tịch nhằm kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để có
sự điều chỉnh bổ sung hoặc hướng dẫn thực hiện thống nhất. Sửa đổi, bổ sung
các quy định còn bất cấp của luật hộ tịch, và các văn bản hướng dẫn nhằm
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hộ tịch trong thời gian tới.
Hai là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ công
chức làm công tác hộ tịch đáp ứng yêu cầu thực tế.
Ba là, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch. Cho pháp
cơ quan đăng ký hộ tịch in sổ hộ tịch từ hệ thống phần mềm đăng ký hộ tịch
để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hộ tịch, giảm bớt
phần nào công việc cho cán bộ hộ tịch và đồng thời cũng hạn chế khi cán bộ
chép sổ hộ tịch
85
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà
nước về hộ tịch được thực hiện một cách chính xác, khoa học, chất lượng và
thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Qua đó sẽ giảm bớt sức lao động thủ
công, góp phần tăng năng suất lao động, tạo sự kết nối dữ liệu, nâng tầm quản
lý giữa các cơ quan thực hiện đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch.
Bốn là, đa dạng hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch,
hướng tới hoạt động đăng ký hộ tịch đạt hiệu quả.
Năm là, tăng cường việc trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm trong việc
thực hiện đăng ký hộ tịch giữa các tỉnh, thành phố để đảm bảo tính thống
nhất, hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật liên quan.
Sáu là, khen thưởng, động viên khuyến khích những sáng kiến cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực hành chính - tư pháp, đặc biệt là trong công
tác hộ tịch.
Kết luận chƣơng 2
Tác giả đã nêu được thực trạng pháp luật về hộ tịch cũng như thực
trạng thực hiện pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại
chương 2, tác giải đã phân tích đánh giá và tìm ra được những ưu điểm, hạn
chế, những bất cấp, khó khăn vướng mắc về pháp luật hộ tịch cũng như việc
thực hiện pháp luật hộ tịch, xác định được nguyên nhân tồn tại của luật hộ
tịch. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục xem xét nghiên cứu đề xuất
86
các giải pháp hoàn thiện ở chương 3 của luận văn.
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỘ
TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH
3.1. Yêu cầu đổi mới hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai
đoạn mới
3.1.1. Về cải cách thủ tục hành chính
+ Công bố, công khai các thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm
quyền giải quyết của các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh tại Cơ sở dữ
liệu quốc gia về TTHC, tại bộ phận “một cửa”, trên Trang Thông tin kinh tế -
xã hội của UBND cấp huyện.
+ Tổ chức vận hành có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong giải quyết các TTHC về lĩnh vực tư pháp, đầu tư, kinh doanh, đất đai,
xây dựng…
+ Thường xuyên rà soát và đơn giản hóa đối với TTHC tại huyện Đông
Anh, UBND Huyện Đông Anh đã đơn giản hóa giảm được 73 thủ tục trong số
157 thủ tục hành
+ Thí điểm triển khai việc xác định chỉ số hài lòng của người dân, tổ
chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước trên một số lĩnh
vực với các tiêu chí: tiếp cận dịch vụ, quy định về TTHC, thái độ phục vụ của
công chức, kết quả giải quyết TTHC.
3.1.2. Về sự đòi hỏi chủ động sáng tạo của cơ quan đăng lý hộ tịch
Cơ quan đăng ký hộ tịch và công chức làm nhiệm đăng ký các sự kiện
hộ tịch cho cá nhân cần nhận thức rõ đó là nhiệm vụ quan trọng của chính
quyền địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội, công chức hộ tịch
cần phải thường xuyên nắm rõ tình hình đăng ký hộ tịch, sự biến động của
các sự kiện hộ tịch để kịp thời báo cáo cấp trên để có những biện pháp quản
lý hiệu quả trong công tác đăng ký hộ tịch cũng như trong nhiệm vụ phát
87
triển kinh tế - xã hội.
Cần tiếp tục thực hiện một số phúc lợi cho đối tượng chính sách như
việc miễn giảm một số khoản phải nộp cho người dân. Đối với những địa bàn
có trình độ dân trí thấp, việc chấp hành các quy định về đăng ký hộ tịch còn
chưa đúng pháp luật thì công chức làm nhiệm vụ đăng ký hộ tịch cần tham
mưu UBND cấp có thẩm quyền có giải pháp để người dân chấp hành quy
định như định kỳ xuống cơ sở để đăng ký hộ tịch cho người dân, có chế độ
khuyến khích cho công dân khi đăng ký hộ tịch theo quy định.
Đối với Công chức tư pháp hộ tịch tính chủ động sáng tạo chính là tính
chịu trách nhiệm trong các hoạt động tác nghiệp khi tiếp nhận và giải quyết
các hồ sơ hộ tịch của công dân.
Cơ qua đăng ký hộ tịch cấp trên cần có các biên pháp để hướng dẫn
tháo gỡ khó khăn một cách kịp thời, thường xuyên tổ chức kiểm tra định kỳ
việc đăng ký các sự kiện hộ tịch cho cá nhân để phát hiện những sai xót và có
biện pháp khắc phụ,
3.1.3. Về tính chính xác, khách quan, kịp thời
Tại điều 5 Luật hộ tịch đã quy định rất rõ về tính chính xác khách quan
và kịp thời như sau: Tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân mọi
sự kiện hộ tịch của người dân phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực
khách quan và chính xác, nếu hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan
đăng ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Khi đăng ký hộ tịch, công chức tư pháp cần hạn chế tối đa để xảy ra sai
xót do lỗi vô ý, cẩu thả của công chức tư pháp hoặc người đi đăng ký hộ tịch
để đảm bảo đúng quyền lợi cho người dân.
Cá nhân có thể đăng ký sự kiện hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi
thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi đang sinh sống, mọi sự kiện hộ tịch sau khi
được đăng ký phải được cập nhập kịp thời vào cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;
88
bảo đảm công khai minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch
Việc đăng ký các sự kiên hộ tịch cũng cần phải đảm bảo mọi sự kiện hộ
tịch của cá nhân phải đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực khách quan và
chính xác, đúng thẩm quyền, đúng trình tự do pháp luật quy định. Các biểu
mẫu và sổ hộ tịch, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử phải được sử dụng, khai thác
và bảo quản đúng quy định của pháp luật. Song việc tuân thủ tính pháp chế ở
đây chúng ta cần phải nhận thức rõ và đầy đủ là trong việc giải quyết các sự
kiện cho người dân cần có sự chủ động sáng tạo, linh hoạt từ phía cơ quan
đăng ký hộ tịch từ đó tạo sự thuận lợi cho người dân.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và nâng cao hiệu
quả việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Anh
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch
Luật hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hộ tịch
là cơ sở pháp lý quan trọng trong đăng ký và quản lý hộ tịch. Song trên thực
thế, pháp luật về hộ tịch đã bộc lộc những mặt hạn chế nhất định cần phải
hoàn thiện để việc đăng ky và quản lý hộ tịch đạt hiệu quả cao hơn.
a. Cần quy định thẩm quyền bổ sung thông tin hộ tịch cho Ủy ban nhân
dân cấp huyện trong luật Hộ tịch
Để tạo điều kiện cho người dân khi đăng ký hộ tịch, đặc biệt đối với
những công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên vừa có nhu cầu thay đổi, cải
chính hộ tịch vừa có nhu cầu bổ sung thông tin hộ tịch tại UBND cấp huyện,
Luật hộ tịch cần quy định thẩm quyền thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch cho
công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, còn UBND cấp xã có thẩm quyền
thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam dưới 14.
b. Cần quy định cụ thể thời hạn, thủ tục thông báo việc đăng ký hộ tịch
đến UBND xã cá nhân được đăng ký hộ tịch thường trú
Nhằm đảm bảo mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan
đăng ký hộ tịch có thẩm quyền, pháp luật hộ tịch cần quy định cụ thể thời hạn,
89
thủ tục, sổ sách ghi chép theo dõi việc thông báo về việc đăng ký hộ tịch đến
UBND xã nơi cá nhân được đăng ký hộ có hộ khẩu thường trú. Luật hộ tịch
cũng cần có quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của cơ quan đăng ký hộ tịch
- nơi đã đăng ký các sự kiện hộ tịch cho cá nhân nếu như cơ quan này không
thông báo việc đăng ký hộ tịch đến UBND cấp xã nơi cá nhân đó thường trú.
c.Cần xác định rõ trách nhiệm đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử,
Để xác định rõ trách nhiệm đăng ký khai sinh, khai tử, pháp luật hộ tịch
cần quy đinh cụ thể các nội dung sau đây:
- Nêu cụ thể “những người thân thích khác” có trách nhiệm đăng ký
khai sinh và khai tử
- Quy định rõ trách nhiệm chính trong việc đi đăng ký khai tử thuộc về
vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ của người chết. Trong những trường hợp nào
những người này không thể đi đăng ký khai tử được thì những người thân
thích khác mới được đi đăng ký khai tử.
- Cần xác định trách nhiệm pháp lý cụ thể đối với những người không
chịu thực hiện trách nhiệm đăng ký khai sinh, khai tử. Nên quy định trách
nhiệm pháp lý đối với cha mẹ trong trường hợp không đi đăng ký khai sinh
hoặc khai sinh quá hạn; vợ chồng hoặc con, cha, mẹ của người chết không đi
đăng ký khai tử hoặc đăng ký khai tử quá hạn
d. Cần đảm bảo tính thống nhất trong việc quy định đăng ký khai sinh
cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có tên hoặc mẹ công dân Việt Nam thường trú
tại khu vực biên giới là công dân của nước lá nhiều thường trú tại khu vực
biên giới với Việt Nam
Phân tích đoạn 11.2 quy định tại khoản 1 điều 17 nghị định số 123 CP
của chính phủ trái với quy định tại điểm Đ khoản 1 điều 7 Luật Hộ tịch quyền
đăng ký khai sinh của Ủy ban nhân dân xã ở biên giới gây khó khăn cho việc
đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân
90
Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là công dân của
nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam.Do đó cần bãi
bỏ hoặc sửa đổi khoản 1 điều 17 nghị định số 123/2015/ND- CP cho phù hợp
với quy định điểm đ khoản 1 điều 7 Luật Hộ tịch nhằm đảm bảo tính thống
nhất trong việc đăng ký sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha mẹ hoặc
mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là
công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam
e. Cần có quy định việc thực hiện đăng ký giám sát việc giám hộ tại Ủy
ban nhân dân cấp xã
Do pháp luật hộ tịch chưa có quy định việc thực hiện đăng ký giám sát
việc giám hộ nên Uỷ ban nhân dân cấp xã gặp nhiều khó khăn trong việc
thực hiện đăng ký giám sát giám hộ. Vì vậy trong thời gian tới pháp luật hộ
tịch cụ thể về việc đăng ký giám sát giám hộ, hồ sơ đăng ký giám sát giám
hộ, trình tự thủ tục, chủ thể thực hiện là ai…. Có như vậy mới đảm bảo tính
thống nhất của pháp luật, phù hợp với yêu cầu của bộ luật dân sự năm 2015
về việc thực hiện đăng ký giám sát giám hộ tại UBND cấp xã nơi cư trú của
người được giám hộ.
g. Cần bổ sung thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan
đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc đăng ký hộ tịch cho công dân Việt
Nam cư trú ở nước ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài
Để giải quyết sự bất hợp lý trong việc phân định thẩm quyền đăng ký
các hiệp hội thực sự UBND cấp huyện và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài cần bổ sung thẩm quyền của UBND cấp huyện và cơ quan đại diện.
Theo đó cơ quan này được có thẩm quyền đăng ký vào các nhiệm vụ trong
công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân Việt Nam cư trú của
nước ngoài.Có như vậy mới thực sự tạo điều kiện cho cả hai đối tượng nêu
trên trong việc đăng ký hộ tịch theo đó khi ở nước ngoài công dân Việt Nam ở
91
nước ngoài và công nhân Việt Nam cư trú nước ngoài đều được đăng ký tại
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, khi ở Việt Nam họ đều được đăng
ký hộ tịch tại UBND cấp huyện.
h. Cần làm rõ sự khác nhau giữa “trẻ bị bỏ rơi” và “trẻ không thuộc
diện bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ”
Để tạo thuận lợi cho cơ quan đăng ký hộ tịch khi khai sinh cho “trẻ bị
bỏ rơi” và“trẻ không thuộc diện bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ”, pháp
luật hộ tịch cần làm rõ hai khai niệm này. Như vậy mới tránh được sự nhầm
lẫn và sự tuỳ tiện của cơ quan đăng ký hộ tịch cho hai trường hợp trên.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả việc đăng ký hộ tịch trên
địa bàn huyện Đông Anh
Công tác tiếp nhận và xử lý hồ sơ của người dân luôn được thực hiện
đúng chức năng, thẩm quyền, đảm bảo giải quyết kịp thời, chính xác cho nhân
dân. Để đạt được kết quả đó, hàng năm UBND xã đều xây dựng kế hoạch
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với tuyên truyền các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ chính trị ở địa phương thông qua nhiều hình thức để người dân nắm
bắt thực hiện. Vì vậy, người dân đến trụ sở UBND xã làm các thủ tục liên
quan đến lĩnh vực hộ tịch rất đúng hạn.
Để có được kết quả đó, với chức năng tham mưu giúp UBND huyện
quản lý Nhà nước về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, Phòng Tư pháp đã
tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên truyền, phổ
biến pháp luật, đặc biệt là các văn bản liên quan đến công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch; tham mưu cho UBND huyện thực hiện việc đăng ký các sự kiện hộ
tịch có yếu tố nước ngoài, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bảo
đảm đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch trên địa bàn huyện vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Nhận thức
92
của một bộ phận nhân dân về vấn đề hộ tịch chưa đầy đủ, chưa thực hiện bảo
đảm thời gian, nhất là khai sinh, khai tử; sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng trong việc xác minh, giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá
nhân có lúc chưa kịp thời...
Bên cạnh đó, huyện chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm
việc cần thiết phục vụ công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; bố trí cán bộ có đủ
năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Áp dụng có hiệu quả phần
mềm quản lý hộ tịch, thực hiện việc đăng ký vào sổ hộ tịch và lưu trữ hồ sơ
theo quy định. Hàng năm, huyện thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi
dưỡng kỹ năng phần mềm quản lý hộ tịch cho công chức tư pháp - hộ tịch
huyện, xã, thị trấn; phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức hội nghị tập huấn chuyên
sâu về pháp luật hộ tịch, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ về đăng ký, quản lý hộ
tịch cho lãnh đạo UBND, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, thị trấn.
Công tác kiểm tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch cũng được thực hiện
định kỳ hằng năm.
Qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện, xử lý những tồn tại, hạn chế, tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác đăng ký và quản lý hộ
tịch.Việc tiếp nhận, giải quyết những kiến nghị, thắc mắc, phản ánh của công
dân về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch được quan tâm ngay từ cơ sở. UBND
các xã, thị trấn niêm yết công khai mức thu phí và lịch tiếp dân của lãnh đạo
UBND. Những vấn đề công dân chưa hiểu, chưa rõ được cán bộ chuyên môn
hướng dẫn, giải thích rõ ràng. Từ huyện xuống cơ sở, tất cả các công việc liên
quan đến đăng ký hộ tịch đều được thực hiện thông qua bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả theo cơ chế một cửa, đúng trình tự, thời gian quy định. Thông qua
đó, các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch được giải quyết nhanh gọn,
không gây phiền hà cho người dân, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính,
khẳng định vai trò trong quản lý Nhà nước và bảo đảm quyền của công dân...
93
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, thời
gian tới Phòng Tư pháp huyện tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến quán triệt Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; thường xuyên
hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp -
hộ tịch ở cơ sở; tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực
hiện Luật Hộ tịch tại cấp xã, cấp huyện để đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tế; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, đăng ký hộ tịch bảo
đảm theo đúng quy định của pháp luật; tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở cấp huyện và cấp xã..., góp phần
đưa công tác đăng ký quản lý hộ tịch vào nền nếp và thực hiện nghiêm túc, để
công dân ngày càng có ý thức hơn với những sự kiện hộ tịch liên quan đến cá
nhân trước Nhà nước.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và phương thức quản lý nhà nước về hộ tịch
Về thể chế: trung ương cần tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa các quy định
của pháp luật hộ tịch, đảm bảo cho hoạt động quản lý hộ tịch tại biên giới
diễn ra thuận tiện, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của địa phương.
Kịp thời xem xét báo cáo đề xuất, kiến nghị của cấp dưới về hộ tịch, để có
hướng thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Đối với thực hiện
Luật Hộ tịch với nội dung cấp số định danh cá nhân trong giấy khai sinh, cần
được đẩy nhanh và khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi đăng ký khai
sinh, vì hiện nay việc chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ cho nội
dung này do đặc điểm và các điều kiện đảm bảo, sẽ không thể diễn ra đồng bộ
và liên tục được nếu như không có sự quan tâm kịp thời.
Về cải cách thủ tục hành chính: tiếp tục hoàn thiện thể chế cải cách thủ
tục hành chính trong đăng ký hộ tịch, mục tiêu vừa là phải thuận tiện cho dân,
vừa theo quy định của pháp luật, vừa bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước,
94
cũng qua đó không để xảy ra tình trạng dễ dãi, dẫn đến buông lỏng quản lý,
hoặc kiểm soát quá chặt chẽ, cứng nhắc, sẽ dẫn đến không hiệu quả. Bên cạnh
đó cần phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực hộ tịch, tránh chồng chéo về thẩm quyền hoặc phân định thẩm quyền
quá phức tạp.
Chính phủ cần ban hành chính sách đặc thù về đăng ký hộ tịch tại các
địa phương, trong đó công việc cần thiết cụ thể là: Rà soát, thống kê danh
mục các phong tục, tập quán lạc hậu cần xóa bỏ, ban hành và khuyến khích
các phong tục tập quán tích cực được áp dụng; nghiên cứu ban hành thể chế
riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký hộ tịch. Hồ sơ thực hiện việc
đăng ký không cần người dân nhất thiết hay bắt buộc cung cấp đủ các loại
giấy tờ liên quan, mà tăng cường trách nhiệm thẩm tra, xác minh hồ sơ của
công chức tư pháp- hộ tịch; có cơ chế kinh phí phù hợp cho công chức tư
pháp hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch lưu động, xác minh sự kiện hộ
tịch. Ban hành các đề án đẩy nhanh việc cải thiện quản lý hộ tịch và nâng cao
nhận thức pháp luật đối với người dân: như đề án xóa đói giảm nghèo, phổ
biến giáo dục pháp luật, xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi về
mọi mặt cho dân cư ở nông thôn.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà
nước về hộ tịch được thực hiện một cách chính xác, khoa học, chất lượng và
thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Dưới góc nhìn tổ chức, ứng dụng công
nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch, được coi là một
giải pháp để kiện toàn tổ chức bộ máy, phương thức làm việc, qua đó sẽ giảm
bớt sức lao động thủ công, góp phần tăng năng suất lao động, tạo sự kết nối
dữ liệu, nâng tầm quản lý giữa các cơ quan thực hiện đăng ký, quản lý nhà
nước về hộ tịch. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ thông tin, được thực hiện
95
trên cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đòi hỏi lãnh đạo các cấp phải hết sức quan
tâm, bố trí nguồn nhân lực và có sự đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ, mà cơ bản
nhất là bảo đảm các điều kiện cho sử dụng phần mềm hộ tịch dùng chung. Tại
cấp huyện, cấp xã cần tăng cường bồi dưỡng cho đội ngũ công chức tư pháp-
hộ tịch về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng sử dụng máy móc. Bên cạnh đó thì
việc đầu tư cơ sở hạ tầng đảm bảo cho tuyến huyện, xã, về hệ thống giao
thông, điện lưới, đường truyền là rất cần thiết, để có thể duy trì và thực hiện.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện đội ngũ làm công chức tư pháp-hộ tịch
Về nguồn nhân lực, Bên cạnh đó bên chế tại Phòng Tư pháp cũng phải
đảm bảo để duy trì các hoạt động hộ tịch tại cấp huyện và giúp cấp xã thực
hiện Đối với cấp tỉnh, hiện nay theo Luật Hộ tịch, Sở Tư pháp đã chuyển giao
các nhiệm vụ đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cho cấp huyện. Phòng Tư
pháp cấp huyện ngoài các nhiệm vụ đang phải thực hiện cơ bản theo Nghị
định 158/2005/NĐ-CP trước đây, phải đảm nhiệm sự chuyển giao từ cấp tỉnh.
Tại cấp huyện, bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
công chức thực hiện công việc hộ tịch tại Phòng Tư pháp, thì đối với các
huyện phát sinh việc hộ tịch nhiều và công chức phòng còn yếu kém về
chuyên môn, cần thiết trong khoảng thời gian trước mắt có thể thực hiện việc
luân chuyển công chức từ Sở Tư pháp về tăng cường cho huyện để đảm bảo
có người thực hiện ngay được các công việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Đối
với cấp huyện, ủy ban cấp huyện chỉ đạo Phòng Tư pháp thực hiện việc bố trí
lãnh đạo và công chức chuyên về công tác hộ tịch để bảo đảm giải quyết kịp
thời các công việc phát sinh. Đối với cấp xã, tùy theo điều kiện thực tế của địa
phương, cấp tỉnh, cấp huyện trước mắt để bảo đảm triển khai thực hiện hiệu
quả Luật Hộ tịch, cần bố trí đủ hai công chức làm công tác hộ tịch, và tùy
theo tình hình thực hiện sẽ điều chỉnh giữa các địa phương sao cho phù hợp.
Về bộ máy thực hiện, để bảo đảm bộ máy thực hiện và quản lý nhà
nước về hộ tịch luôn đáp ứng được yêu cầu công việc, cơ quan quản lý cấp
96
trên cần nghiêm túc trong việc tuyển dụng công chức tư pháp- hộ tịch cũng
như các công chức cấp xã khác. Phải đảm bảo công chức được tuyển dụng có
trình độ, có chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm để có thể đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Đối với những người đang trong biên chế, đang làm việc,
nhưng năng lực ý thức trách nhiệm yếu, thì có thể xem xét loại ra khỏi biên
chế hoặc chuyển công việc khác phù hợp.
Về năng lực thực thi công vụ của công chức tư pháp- hộ tịch. Năng lực
thực thi công vụ chính là điều kiện để công chức tư pháp-hộ tịch có thể hoàn
thành tốt chức trách được giao, có khả năng tham mưu và đáp ứng được công
việc. Đội ngũ công chức tư pháp-hộ tịch có năng lực tốt, có thể giúp Ủy ban,
Phòng Tư pháp giải quyết các hạn chế, vướng mắc của công tác hộ tịch một
cách hiệu quả. Đội ngũ công chức tư pháp- hộ tịch nếu như được tuyển dụng
theo năng lực, được thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, được bố trí sắp xếp
công việc và trao cho họ những điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo, thì việc
phát huy năng lực, khả năng hoàn thành sẽ cao. Ngược lại nhóm công chức tư
pháp- hộ tịch còn yếu về nghiệp vụ chuyên môn, là do trong quá trình tuyển
dụng công chức, cơ quan tuyển dụng chưa thực hiện đúng quy định, hơn nữa
công tác bố trí chưa hợp lý, không thường xuyên được tập huấn và một phần
do tố chất bản thân nội tại của công chức đó.
Như vậy việc bố trí đội ngũ công chức hiệu quả, phát huy được năng
lực, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ thì Huyện Đông Anh cần tập trung
giải quyết những tồn tại trên với các giải pháp, cụ thể là: Xem xét quy hoạch
lại đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở các xã của huyện Đông Anh.
Theo Luật Hộ tịch 2014 thì cấp tỉnh không còn thực hiện các công việc hộ
tịch mà chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch. Công việc hộ
tịch được tập trung thực hiện tại cấp huyện, cấp xã. Với thực trạng công chức
làm công tác hộ tịch thiếu và yếu ở hai cấp này thì việc rà soát quy hoạch lại
97
đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch để có kế hoạch thực hiện việc bồi
dưỡng, đào tạo, cũng như xác định số lượng công chức để thực hiện việc đào
tạo, tuyển dụng phù hợp với yêu cầu công việc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch, nhằm
mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ này theo hướng tất cả công chức tư pháp-hộ tịch
đều phải bảo đảm có chuyên môn ngành luật và được bồi dưỡng tập huấn
nghiệp vụ theo quy định của Luật Hộ tịch.
Tại cấp huyện, nhằm đáp ứng được yêu cầu của công tác hộ tịch có yếu
tố nước ngoài theo quy định của Luật Hộ tịch, công tác này được đánh giá là
phức tạp về chuyên môn. Nên công chức thực hiện phải có trình độ cử nhân
luật và được bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ. Theo yêu cầu này, UBND
huyện Đông Anh cần có kế hoạch đào tạo hợp lý, trước hết cần ưu tiên đào
tạo với những người tuổi đời còn trẻ, để có thể phục vụ và sử dụng ổn định
được lâu dài. Đối với công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã cần phải được chuẩn
hóa theo quy định của Luật Hộ tịch, và để bảo đảm ít nhất có trình độ từ trung
cấp luật trở lên, được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Hiện tại và trong
thời gian tới, đứng trước các yêu cầu thực hiện hộ tịch, trong đó là thực hiện
phần mềm quản lý hộ tịch dùng chung, công chức tư pháp-hộ tịch đang làm
công tác hộ tịch phải được tập huấn chuyên sâu về Luật Hộ tịch và các Nghị
định, Thông tư…. để các xã, phường, thị trấn có thể đáp ứng nhiệm vụ. Tổ
chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch theo Luật được ngay. Bên cạnh đó,
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cần được thực hiện thường
xuyên để công chức tư pháp-hộ tịch có thể đáp ứng được yêu cầu công việc.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật nhằm thay đổi nhận thức của cá nhân về vai trò, tầm quan trọng và
lợi ích của đăng ký, quản lý hộ tịch
Mục tiêu là trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân
về pháp luật hộ tịch, ý nghĩa của đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch, thì bên
98
cạnh những giải pháp tổng thể được triển khai thực hiện trong phạm vi cả
nước thì UBND huyện Đông Anh cần quan tâm thực hiện những giải pháp
sau: Để duy trì thường xuyên công tác phổ biến pháp luật về hộ tịch, cần biên
tập, soạn các tờ rơi với nội dung đơn giản tập trung vào những quy định cụ
thể của pháp luật hộ tịch. Tuy nhiên, để tránh việc phát tờ rơi tràn lan vừa
không đúng đối tượng, vừa lãng phí tốn kém. Việc biên soạn tờ rơi tuyên
truyền phải đơn giản, dễ hiểu, tiếp cận và phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Tuyên truyền bằng hình thức tờ rơi cần đi cùng với việc hướng dẫn, giải thích
từng nội dung cụ thể tránh đưa phát tờ rơi cho đối tượng tiếp nhận mà không
bảo đảm việc họ có hiểu thông tin trong tờ rơi đó. Tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về hộ tịch cần được thực hiện kết hợp với tuyên truyền về dân số,
với các nội dung pháp luật khác như dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai…
Bên cạnh đó trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch phải có sự kết
hợp giữa cơ quan tư pháp với các cơ quan, tổ chức liên quan như cộng tác
viên dân số, các cơ quan, đoàn thể huyện, xã … để thực hiện có hiệu quả công
tác tuyên truyền..
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất đối với quản lý hộ tịch. Việc sử dụng
máy vi tính, mạng internet cũng như phần mềm hộ tịch. Vì vậy, giải pháp
được đề cập là các tỉnh cần chỉ đạo và hỗ trợ việc trang bị phương tiện, máy
móc, lắp đặt phần mềm điện tử về hộ tịch, tổ chức tập huấn đào tạo sử dụng.
Bố trí kinh phí cho quản lý, đăng ký hộ tịch, đầu tư các chương trình, dự án
về hộ tịch nhất là các xã, thị trấn, phường. Song hành với việc đầu tư cơ sở
vật chất, kinh phí cho lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, thì việc đầu tư
phát triển hệ thống giao thông đi lại, công trình điện lưới quốc gia và các
chương trình, đề án bổ trợ, phối hợp khác, cũng cần phải hết sức chú trọng,
nhằm đảm bảo cho các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng- an
ninh diễn ra đồng bộ với hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch.
99
Thứ sáu, tổ chức các hoạt kiểm tra, thanh tra, giám sát quản lý hộ tịch
Các hoạt kiểm tra, thanh tra, giám sát quản lý nhà nước về hộ tịch cần
được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính quyền địa
phương, không phải là công tác của riêng ngành tư pháp. Tại các tỉnh thành
phố Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cần xác định vai trò nòng cốt của mình, chủ
động tích cực tham mưu đề xuất với ủy ban nhân dân cấp mình, đồng thời có
sự phối hợp với các sở, ngành trong quá trình tổ chức thực hiện, có giải pháp
cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương để khắc phục tình trạng
buông lỏng quản lý hoặc hạn chế yếu kém trong công tác quản lý hộ tịch, tăng
cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với cấp huyện, cấp xã, kịp thời
uốn nắn các sai sót, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động đăng ký và quản lý hộ tịch.
Để thực hiện tốt công tác này, cấp tỉnh, huyện xây dựng kế hoạch hằng
năm thực hiện kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những
sai sót, vi phạm có thể xảy ra. Đối với những đơn vị đã kiểm tra, thanh tra thì
không thực hiện kiểm tra tiếp để tránh chồng chéo trùng lắp, và chỉ xây dựng
kế hoạch kiểm tra đối với những những đơn vị chưa kiểm tra và có thể kiểm
tra lại đối với những đơn vị yếu nhiều năm.
Các biện pháp chấn chỉnh những sai phạm qua kết luận kiểm tra cũng
phải được thực hiện nghiêm túc, tránh việc kiểm tra chỉ mang tính hình thức,
nể nang vì sẽ không đạt được mục đích, yêu cầu trong công tác thanh tra,
kiểm tra và giám sát và vì thế sẽ không đáp ứng được yêu cầu cải cách hành
chính tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, quản lý nhà nước về hộ tịch tại cấp cơ sở có một nhiệm vụ
hết sức quan trọng. Quản lý hộ tịch tại đây có sự gắn kết với quản lý về dân
cư, xã hội, về những nội dung có liên quan đến quốc tế và an ninh quốc gia.
Từ những thực tiễn về quản lý hộ tịch huyện Đông ANh, với những quan
100
điểm, giải pháp, mong rằng trong thời gian tới, công tác đăng ký hộ tịch tại
huyện Đông Anh, sẽ được trung ương và chính quyền địa phương quan tâm,
đồng thời có những giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý
nhà nước không chỉ trong lĩnh vực hộ tịch.
Tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nhận thức cho đội ngũ công
chức tư pháp cấp huyện và nhất là cấp xã. Bên cạnh các biện pháp mang tính
chế tài xử lý thì biện pháp khuyến khích hiệu quả công việc cũng đặc biệt
được chú ý. Rà soát, tổng hợp, thống kê những bất cập liên quan đến văn bản
Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến lĩnh vực hộ tịch. Kịp
thời kiến nghị với Bộ Tư pháp xem xét điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi hoàn
thiện các quy định của pháp luật cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần
tạo hành lang pháp lý cho quản lý nhà nước về hộ tịch, tránh chồng chéo,
trùng lắp, hiệu quả thấp. Chỉnh đốn lề lối làm việc công sở, đổi mới phương
thức làm việc hiệu quả, từng bước kiện toàn, thay thế đội ngũ công chức tư
pháp-hộ tịch làm việc kém hiệu quả. Bên cạnh đó là nâng cao chất lượng đào
tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực cung cấp cho cấp huyện, xã, đầu tư kinh phí,
đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Song song với việc cải cách TTHC, tỉnh cũng đã đẩy mạnh cải cách chế
độ công vụ, công chức vì xác định yếu tố con người quyết định chất lượng,
hiệu quả giải quyết công việc cho doanh nghiệp. Nhiều giải pháp được triển
khai như: tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, văn
hóa ứng xử cho công chức phụ trách bộ phận một cửa và công chức chuyên
môn giải quyết TTHC; kiểm soát chặt chẽ việc giải quyết TTHC tại các bộ
phận tham gia giải quyết TTHC; thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra
công vụ để kịp thời chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi
công vụ, giờ giấc làm việc và văn hóa ứng xử nơi công sở.
Thường xuyên rà soát, đánh giá các quy định hành chính, TTHC để
101
kiến nghị đơn giản hóa hoặc loại bỏ những TTHC rườm rà, không cần thiết;
giảm chi phí, rút ngắn thời gian giải quyết, bảo đảm công khai, minh bạch và
nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước.
- Định kỳ tổ chức thực hiện khảo sát để đánh giá mức độ hài lòng của
doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước các cấp
trên các lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký kinh doanh, đầu tư để có giải
pháp chấn chỉnh kịp thời.
- Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" và các
quy chế, quy định phối hợp; thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động
của cơ quan hành chính các cấp, phổ biến rộng rãi và niêm yết công khai tại
công sở các quy chế, quy trình và các thủ tục hành chính... để doanh nghiệp
biết, thực hiện và giám sát; đồng thời phải cập nhật kịp thời khi có thay đổi.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ,
tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, sự năng động, trung thực, kỷ cương, gương
mẫu, tận tâm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội trong giải quyết công việc của
cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận một cửa.
- Tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính: nâng cấp và tăng cường số dịch
vụ công trực tuyến lên mức độ 3 và 4; duy trì và áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2015 vào hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của các cơ quan hành chính.
Để duy trì và nâng chỉ số năng lực cạnh tranh của cấp Huyện, cần sự
chung tay của cả hệ thống chính trị vào công tác cải cách hành chính vì các
giải pháp trên được triển khai đạt hiệu quả khi có sự quan tâm, quyết liệt chỉ
đạo của người đứng đầu, sự cộng đồng trách nhiệm, sự nỗ lực của các cơ quan
hành chính, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và sự đồng thuận của cộng
102
đồng doanh nghiệp và nhân dân./.
Kết luận chƣơng 3
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, ưu điểm, tồn tại, khó khăn vướng
mắc từ thực tiễn thi hành của pháp luật hộ tịch tại Việt Nam và thực hiện pháp
luật hộ tịch ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; đánh giá pháp luật hiện
hành và việc thực hiện đăng ký hộ tịch tại địa bàn huyện Đông Anh ở Chương
2. Trong chương này của luận văn đã đưa ra hai nhóm giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật hộ tịch và nâng cao hiệu quả công tác đăng ký hộ tịch trên địa
bàn huyện Đông Anh
Để đảm bảo nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch và
công tác đăng ký hộ tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng
cần phải thực hiện các giải pháp như: cần hoàn thiện pháp luật hộ tịch, ứng
dụng công nghệ, thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; cần đổi mới hoạt
động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai đoạn mới, cải cách TTHC, sự chủ
động sang tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch, yêu cầu về tính chính xác, khách
quan, kịp thời; Những giải pháp mà tác giả đề xuất có ý nghĩa khoa học, thực
tiễn, có tính khả thi cao.
Luận văn đã dành chương cuối để nghiên cứu nội dung quan trọng đó
là đưa ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị để thực tiễn đăng ký hộ tịch trên
địa bàn huyện Đông Anh được nâng cao hơn nữa về chất lượng của các các sự
kiện hộ tịch được đăng ký và đảm bảo hiệu quả áp dụng của các quy định về
103
pháp luật hộ tịch.
KẾT LUẬN
Luận văn đã nghiên cứu về cơ sở lý luận của pháp luật hộ tịch, khái
niệm hộ tịch, khái niệm đăng ký hộ tịch, vai trò đăng ký hộ tịch, việc đăng ký
các sự kiện hộ tịch của một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở lý luận, thực trạng về thực hiện pháp luật
hộ tịch đã làm rõ qua thực tiễn công tác đăng ký hộ tịch và việc thực hiện
pháp luật hộ tịch tại huyện Đông Anh, thanh phố Hà Nội, với những đánh giá
chung, thực tiễn thực hiện các quy định của luật Hộ tịch đã có những ưu điểm,
hạn chế, những kết quả đã đạt đước. Từ trạng của việc thực hiện pháp luật hộ
tịch và thực trạng thực hiện các quy định của luật hộ tịch trên địa bàn huyện
Đông Anh, luận văn đã đưa ra một số nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật hộ
tịch và nâng cao hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn
huyện Đông Anh
Để đảm bảo nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch và
công tác đăng ký hộ tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng
cần phải thực hiện các giải pháp như: cần hoàn thiện pháp luật hộ tịch, ứng
dụng công nghệ, thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; cần đổi mới hoạt
động đăng ký, quản lý hộ tịch trong giai đoạn mới, cải cách TTHC, sự chủ
động sang tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch, yêu cầu về tính chính xác, khách
quan, kịp thời. Đối với Công chức tư pháp hộ tịch tính chủ động sáng tạo
chính là tính chịu trách nhiệm trong các hoạt động tác nghiệp khi tiếp nhận và
giải quyết các hồ sơ hộ tịch của công dân. Đối với Cơ qua đăng ký hộ tịch cấp
trên cần có các biên pháp để hướng dẫn tháo gỡ khó khăn một cách kịp thời,
thường xuyên tổ chức kiểm tra định kỳ việc đăng ký các sự kiện hộ tịch cho
cá nhân để phát hiện những sai xót và có biện pháp khắc phụ,
Những giải pháp mà tác giả đề xuất có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, có
104
tính khả thi cao. Với tính chất là hoạt động thể hiện rất sâu sắc chức năng xã
hội của nhà nước – chức năng rất quan trọng thì hoạt động đăng ký hộ tịch
hay còn gọi là thực hiện pháp luật hộ tịch có vai trò và tác động rất lớn đến
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.
Việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch – qua thực
tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” sẽ là cơ sở để ngành tư pháp
thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung tích cực tham gia giúp
đất nước hoàn thiện thể chế, và công tác đăng ký quản lý hộ tịch có hiệu
105
quả hơn trong thời gian tới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Vân Anh (2017), “Ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác đăng ký, quản lý hộ tịch”, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp,
(Chuyên đề), tr. 22-25
2. Bộ ngoại giao - Bộ tư pháp (2006), Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-
BNG-BTP ngày 30/6/2006 hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch
tại cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan đại diện lãnh sự của Việt
Nam ở nước ngoài, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP 16/11/2015 hướng
dẫn một số điều của Nghị định Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15
tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.
4. Vũ Chất (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
5. Chính phủ (2011), Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.
6. Chính phủ (2015), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11
năm 2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ
tịch, Hà Nội.
7. Nguyễn Phương Dung (2017), Một số khó khăn vướng mắc trong thực
tiễn thi hành Luật hộ tịch ở các địa phương, Hà Nội.
8. Đinh Ngọc Giang (2015), “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện”,
Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, (228), tr. 52 – 56.
9. Tô Thị Thu Hà (2015), “Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
đưa các quy định của Luật Hộ tịch đi vào đời sống”, Dân chủ & Pháp
106
luật, Bộ Tư pháp, (Chuyên đề 4), tr. 23 – 28.
10. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình lý luận chung
Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.
12. Trần Văn Luyện (2017), “Một số vấn đề về hộ tịch, hộ khẩu liên quan
đến lý lịch tư pháp”, Nghề luật, Học viện Tư pháp, (1), tr. 20-22.
13. Nhà xuất bản Tư pháp (2007), Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
14. Quốc hội (2013), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
15. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật cư trú, Hà Nội.
16. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2007), Luật Quốc tịch, Hà Nội.
17. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2010), Luật nuôi con nuôi, Hà Nội.
18. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
19. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội.
20. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
21. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Luật Hôn nhân và gia
đình, Hà Nội.
22. Sở tư pháp (2018), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thực hiện luật hộ
tịch, Hà Nội.
23. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2018), Báo cáo kết quả công
tác tư pháp năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Hà Nội.
24. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2018), Thông báo về việc
giảm thời gian giải quyết 73 thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của UBND các xã trên địa bàn Huyện, Hà Nội.
25. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2019), Báo cáo tình hình
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh 6 tháng đầu năm; nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019, Hà Nội
26. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội (2019), Kế hoạch về việc tổ
chức thực hiện chủ đề công tác năm 2019 “Năm nâng cao hiệu lực hiệu
107
quả của hoạt động hệ thống chính trị”, Hà Nội
Tài liệu Website
27. http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU_COBAN/
Attachments/1115/tonghopkinhnghiemnuocngoai.doc
https://motcua.hanoi.gov.vn 28.
https://motcua.hanoi.gov.vn/Process 29.
http://www.sotuphap.hanoi.gov.vn/Portalview/trangchu.aspx 30.
https://moj.gov.vn/Pages/home.aspx 31.
http://qtht.moj.gov.vn/Pages/trang-chu.aspx 32.
https://hanoi.gov.vn/ 33.
https://donganh.hanoi.gov.vn/ 34.
108
https://thuvienphapluat.vn/ 35.