ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ PHƢƠNG NGA

Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG

CñA C¸C V¡N PHßNG C¤NG CHøNG

TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ PHƢƠNG NGA

Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG

CñA C¸C V¡N PHßNG C¤NG CHøNG

TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄNTHỊ MINH HÀ

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của

riêng tôi.

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Phƣơng Nga

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục biểu đồ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC,

HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG ..................... 8

1.1. Những điểm chung về công chứng và lịch sử phát triển công

chứng ở Việt Nam ............................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm công chứng ......................................................................... 8

1.1.2. Đặc điểm của công chứng .................................................................. 12

1.1.3. Sự hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam .................. 18

1.2. Khái quát chung về Văn phòng Công chứng ................................. 22

1.2.1. Khái niệm Văn phòng công chứng ..................................................... 22

1.2.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của văn phòng công chứng ........ 25

1.3. Một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động công chứng ..... 27

1.3.1. Hệ thống công chứng Latinh .............................................................. 27

1.3.2. Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ ............................ 28

1.3.3. Hệ thống công chứng Collectiviste .................................................... 28

1.4. Những yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng ....................................................................................... 31

1.4.1. Sự tồn tại hợp pháp của Văn phòng Công chứng .............................. 31

1.4.2. Hoạt động của Văn phòng Công chứng tuân thủ các quy định

của pháp luật ....................................................................................... 35

1.4.3. Đảm bảo sự quả lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của văn

phòng công chứng .............................................................................. 41

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................... 43

2.1. Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cƣ, kinh tế - xã hội của

thành phố Hà Nội ............................................................................. 43

2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư thành phố Hà Nội ............................... 43

2.1.2. Tình hình Kinh tế - Xã hội thành phố Hà Nội ................................... 44

2.2. Những điểm mạnh trong tổ chức và hoạt động của Văn

phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong

thời gian qua .................................................................................... 47

2.2.1. Về mặt tổ chức của Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội ......................................................................................... 47

2.2.2. Về hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội ......................................................................................... 53

2.2.3. Đảm bảo sự quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của

Văn phòng công chứng ...................................................................... 60

2.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua............. 61

2.3.1. Những tồn tại trong tổ chức của Văn phòng Công chứng ................. 61

2.3.2. Những bất cập trong hoạt động của Văn phòng công chứng trên

địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................... 72

2.3.3. Đảm bảo sự quản lý của nhà nước trong tổ chức và hoạt động

của văn phòng công chứng ................................................................. 76

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG

CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................... 79

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Văn

phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................... 79

3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng ............................... 79

3.1.2. Phương hướng về Quy hoạch phát triển Văn phòng Công chứng .......... 81

3.2. Giải pháp nâng cao việc tổ chức và hiệu quả hoạt động của

các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ....... 84

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức

công chứng ......................................................................................... 84

3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác ......................................................................... 88

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP Hà Nội giai đoạn 2008-2013

45

Biểu đồ 2.2. Tăng trưởng GDP Hà Nội quý I từ 2009 - 2014

46

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trước đây, khi nhà nước điều hành, quản lý nền kinh tế và xã hội

theo hướng bao cấp, các giao dịch dân sự còn hạn chế và phát triển một

cách manh mún. Khi có nhu cầu chủ yếu các bên giao dịch thường chỉ thỏa

thuận với nhau dựa trên sự tin tưởng thể hiện bằng lời nói, chữ viết tay, đôi

khi có sự tham gia của bên thứ ba hoặc cơ quan hành chính nhà nước với

vai trò thị thực.

Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển, nền kinh tế đi lên theo

hướng kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập quốc tế đã làm gia tăng nhu cầu

giao dịch dân sự, kinh tế. Các giao dịch này tăng lên cả về số lượng và tính

chất phức tạp đòi hỏi phải những biện pháp hữu hiệu để đáp ứng những nhu

cầu đó, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch,

tạo nên sự phát triển ổn định và lâu dài cho nền kinh tế và toàn xã hội. Sự ra

đời của Phòng Công chứng chưa đủ sức đáp ứng trước nhu cầu giao dịch ngày

càng gia tăng. Chính vì lý do đó, thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa

hoạt động công chứng, các Văn phòng Công chứng ra đời đã giúp khắc phục

được những hạn chế đáng kể và sự quá tải trong hoạt động của các Phòng

Công chứng cũng như việc phân định giữa công chứng và chứng thực … Sự

ra đời của Văn phòng Công chứng đã góp phần chuyên nghiệp hóa và xã hội

hóa hoạt động công chứng được coi là bước đột phá trong cải cách hoạt động

công chứng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc ra đời của Văn phòng Công chứng

bên cạnh Phòng Công chứng cũng đặt ra những vấn đề cấp bách trong quản

lý, mà Luật Công chứng không thể tiên liệu hết được những vướng mắc, khó

khăn khi triển khai thực hiện trên thực tế với rất nhiều biến động.

1

Với vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Văn phòng Công chứng

trong giai đoạn hiện nay cả về mặt lý luận, thực tiễn cần xây dựng các luận cứ

khoa học, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế, vướng

mắc vẫn còn tồn tại trong tổ chức, hoạt động và quản lý một cách hiệu quả

các Văn phòng Công chứng sao cho phù hợp với thực tiễn biến động của lĩnh

vực công chứng tại địa bàn thành phố Hà Nội, một trong những địa bàn phức

tạp nhất toàn quốc. Chính vì lý do trên tác giả chọn đề tài “Tổ chức và hoạt

động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm

đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhận thức được vai trò quan trọng của Văn phòng Công chứng, đã có

rất nhiều hoạt động nghiên của về công chứng nói chung và Văn phòng Công

chứng nói riêng. Cho đến nay, đã có những bài viết, bình luận, luận văn về

Văn phòng Công chứng được công bố như sau:

Trên thế giới, có nhiều mô hình tổ chức của Văn phòng Công chứng và

hoạt động của các tổ chức này cũng được quy định khá rõ ràng và cụ thể trong các

văn bản pháp luật thực định. Ở nước ta, công chứng với tư cách là một hoạt động

bổ trợ tư pháp xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu, tuy nhiên thời gian qua đã có một

số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như sau:

- Đề tài khoa học mang mã số 92-98-244 về “Cơ sở lý luận và thực tiễn

xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam” do Bộ

Tư pháp tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu vào tháng 5 năm 1993;

- Luận án tiến sĩ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định

phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công

chứng ở nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000;

- Luận án tiến sĩ luật học “Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số

nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn

thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, mã số: 62.38.01.01 của

2

tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008;

- Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề công chứng các giao dịch về tài sản

ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” của tác giả Đỗ Xuân Hòa.

- Luận văn thạc sĩ “Công chứng Nhà nước những vấn đề lý luận và

thực tiễn ở nước ta” của tác giả Trần Ngọc Nga.

- Luận văn thạc sĩ “Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số

vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009;

- Luận văn thạc sĩ: “Phân cấp QLNN về công chứng, chứng thực (Qua

thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008;

Ngoài ra, một số nghiên cứu đã đề cập đến hoạt động và tổ chức của

các Văn phòng Công chứng như:

- Luận án tiến sĩ Luật học: “Tổ chức và hoạt động công chứng nhà

nước ở nước ta hiện nay” của tác giả Dương Khánh năm 2002;

- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở

Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Kim Hoa, năm 2003;

- “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công

chứng” của tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp Luật, ngày 18/2/2003;

- “Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và

cải cách tư pháp” của tác giả Trần Thất đăng trên tạp chí Dân chỉ và pháp

luật, số 6/2004;

- “Công chứng, chứng thực ở Việt Nam – Thực trạng và định hướng

phát triển” của tác giả Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

số 7/2002.

Tuy nhiên, các nghiên cứu này đề cập một cách hệ thống về các tổ chức

công chứng nói chung hay Phòng công chứng nhà nước nói riêng trên phạm

vi cả nước chứ chưa một đề tài nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận

về Văn phòng công chứng hay thực tiễn tổ chức hoạt động của các Văn phòng

3

Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt là trong giai đoạn Luật

công chứng năm 2014 mới có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2015 trong đó có

rất nhiều quy định về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng có tác

động tích cực cũng như những hạn chế nhất định tới hoạt động công chứng.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích

Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống các văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công

chứng và thực tiễn áp dụng các văn bản đó trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ

đó luận văn đưa ra được những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp khắc

phục những tồn tại cũng như phát huy những lợi thế đã đạt được trong tổ chức

và hoạt động của các Văn phòng Công chứng ở Việt Nam nói chung và trên

địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.

Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn xác định một số mục

tiêu cụ thể sau:

 Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng tại Việt Nam: Khái niệm, đặc điểm Văn phòng Công chứng; Các

yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng, kinh

nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng.

 Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng ở Việt

Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng; tồn tại, hạn chế;

 Giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt

động của các Văn phòng Công chứng trên cả nước nói chung và tại địa bàn

thành phố Hà Nội nói riêng;

- Nhiệm vụ

Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống hoạt động công chứng và

đánh giá một cách tương đối toàn diện về tổ chức và hoạt động của Văn

4

phòng Công chứng ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà

Nội nói riêng. Một số kết quả dự kiến sẽ đạt được sau khi nghiên cứu, cụ

thể như sau:

 Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng ở Việt Nam;

 Đánh giá được thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng

Công chứng qua các giai đoạn phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội;

những thành tựu đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến

những tồn tại hạn chế;

 Đề xuất giải pháp chung để khắc phục những tồn tại hạn chế đó và

giải pháp cụ thể để khắc phục trên địa bàn thành phố Hà Nội;

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tổng quát các văn bản quy phạm pháp luật điều

chỉnh việc tổ chức và hoạt động và thực tiến hoạt động của các Văn phòng

Công chứng tại Việt Nam nói chung và trên đại bàn thành phố Hà Nội nói

riêng trên các mặt xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về công

chứng, theo dõi thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật về công chứng.

- Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật, thực tiễn tổ

chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà

Nội từ khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực cho phép thành lập Văn phòng

Công chứng đến nay:

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm, đường lối, chủ

trương của Đảng về tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng, cải

cách hành chính, cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

5

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Trên cơ sở đó Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

như: phương pháp thống kê, phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh để nêu

bật tình hình, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Trong đó phương pháp phân tích

được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Luận văn để giải quyết

những vấn đề mang tính lý luận như khái niệm, đặc điểm Văn phòng Công

chứng và phương thức hoạt động của Văn phòng Công chứng. Phương pháp

chứng minh, thống kê được sử dụng thông qua việc đưa ra các thông tin, số liệu

và các ví dụ thực tế có tính chất điển hình để minh chứng cho nhận định, đánh

giá của tác giả. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng ở cả phần lý luận khi

dẫn chiếu các quy định của hệ thống pháp luật và phần thực trạng pháp luật khi

đối chiếu với các quy định của pháp luật về cùng vấn đề ở các văn bản quy

định về công chứng nói chung và Văn phòng Công chứng nói riêng.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Hiện nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu lý luận chung về công chứng

và các Văn phòng công chứng. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu

về mặt lý luận của tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng, do đó

việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng

trên địa bàn thành phố Hà Nội” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ hệ thống hóa, làm

sáng tỏ thêm cơ sở lý luận dựa trên sự nghiên cứu các khái niệm, quan điểm,

đặc điểm về công chứng nói chung và về mặt tổ chức và hoạt động của Văn

phòng Công chứng nói riêng. Đề tài cũng có sự nghiên cứu kinh nghiệm của

các quốc gia khác so sánh với cơ sở lý luận của Việt Nam để thấy được sự

phát triển của công chứng Việt Nam bên cạnh sự phát triển của nghề công

chứng trên thế giới.

Ngoài ra, điểm đóng góp chủ yếu và mới mẻ của đề tài là những nghiên

cứu thực tiễn các quy định pháp luật và thực hiện các quy định pháp luật đó

6

trên địa bàn thành phố Hà Nội, một địa bàn đi đầu cả nước về hoạt động công

chứng với sự phát triển của về số lượng và tính chất phức tạp của các giao

dịch. Qua đó, thấy được những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế để đưa

ra một số đề xuất về quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Công

chứng của Việt Nam nói chung, kiện toàn về mặt tổ chức và hoạt động của

các Văn phòng công chứng tại thành phố Hà Nội nói riêng.

7. Kết cấu Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về công chứng và tổ chức, hoạt động của Văn

phòng Công chứng

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Chương 3: Giải pháp trong việc tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

7

động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG

CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG

1.1. Những điểm chung về công chứng và lịch sử phát triển công

chứng ở Việt Nam

1.1.1. Khái niệm công chứng

Nội hàm của hoạt động công chứng là việc xác định khái niệm công

chứng. Xác định rõ khái niệm công chứng có vai trò lý luận quan trọng cũng

như trong thực tiễn. Căn cứ vào đó chúng ta có thể xác định được phạm vi,

nội hàm của việc công chứng mà đặc biệt nó còn xác định được mô hình tổ

chức, cơ chế hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng, quyền hạn và

nghĩa vụ của những cá nhân, được tổ chức được giao chức năng quản lý nhà

nước về công chứng.

Công chứng ở nước ta được công nhận với tư cách là một thể chế

pháp lý từ rất sớm (năm 1930 dưới thời Pháp thuộc), nhưng mãi đến năm

1987, thuật ngữ “công chứng” mới bắt đầu được sử dụng một cách rộng rãi.

Cho đến nay, thuật ngữ “công chứng” trở thành một thuật ngữ khá phổ biến

không chỉ trong các từ điển, tài liệu luật học mà còn trong các văn bản quy

phạm pháp luật:

Về mặt xã hội, có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về công

chứng được đưa ra. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Công chứng

là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp

đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công

chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Theo quan điểm

của Dương Khánh trong Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài Tổ chức và hoạt

động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay đã đưa ra quan điểm của mình

8

về khái niệm công chứng là:

Hoạt động bổ trợ tư pháp theo nghĩa rộng và cung cấp chứng

cứ cho hoạt động của toàn án theo nghĩa hẹp nhằm góp phần bảo

đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ

chức kinh tế, tổ chức xã hội; có tác dụng góp phần chủ động phòng

ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị

chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp đồng thời góp

phần vào việc duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội [16, tr.25].

Về mặt pháp lý, thuật ngữ “công chứng” lần đầu tiên được giải thích tại

Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công

tác công chứng nhà nước như sau:

Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước, nhằm

giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản sự

kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm

cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động

trên, công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù

hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải

quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa [26].

Đến năm 1991, thuật ngữ “công chứng” được nghiên cứu sửa đổi để

đưa ra một cách ngắn gọn hơn trong Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT ngày

27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định.

Thông tư 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Công chứng ngày 15/06/2015 Quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Công chứng:

9

Công chứng là việc chứng nhận xác thực các hợp đồng và

giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm

pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và

giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ [25].

Kế thừa và phát triển tinh thần của Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT

ngày 27 tháng 2 năm 1991, tại Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996

của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, khái niệm

“Công chứng” đã được bổ sung và làm rõ vai trò của Công chứng nhà nước

bên cạnh chức năng công chứng của Ủy ban nhân dân:

Công chứng là việc chứng nhận xác thực của các hợp đồng

và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ

chức xã hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp phần phòng ngừa

vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp

đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy

ban Nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ,

trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [6].

Cũng chính từ khái niệm này, từ giai đoạn này, các Phòng công chứng

(công chứng nhà nước) được ra đời. Đây được coi là bước tiến quan trọng

trong quá trình triển công chứng Việt Nam theo định hướng xã hội hóa.

Theo thời gian, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, thuật ngữ

“công chứng” cũng không ngừng thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp và

được ghi nhận qua các Nghị định, Nghị quyết khác nhau của chính phủ. Năm

2000, khái niệm công chứng được đưa ra là việc Phòng Công chứng chứng

nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác

10

lập trong quan hệ dân sự, thương mại và quan hệ xã hội khác và thực hiện

các việc khác theo quy định của Nghị định này” [4, Điều 2]. Đáng chú ý, tại

khái niệm này đã có sự phân định rõ khái niệm công chứng và chứng thực,

điều mà các quan điểm, khái niệm trước đây chưa làm rõ được, bản chất của

hành vi công chứng là:“chứng nhận tính xác thực của hợp đồng”, còn hành vi

chứng thực lại chỉ là việc “xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và

chữ ký của cá nhân”. Như vậy, theo khái niệm nêu trên, hành vi công chứng

chính là việc xác lập giá trị pháp lý cho văn bản, hợp đồng; còn hành vi chứng

thực chỉ đơn thuần là việc sao lại các văn bản, hợp đồng mà thôi.

Năm 2006, năm với dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển công

chứng khi Luật Công chứng đầu tiên được thông qua đưa ra khái niệm về

công chứng một cách hoàn chỉnh, Theo đó, công chứng là việc Công chứng

viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác

bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,

tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng [21, Điều 2]. Khái niệm này một lần

nữa được sửa đổi mô tả để phù hợp với những quy định mới về chứng thực

chữ ký và bản dịch tại Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành ngày

01/01/2015 vừa qua:

Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành

nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp

đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp

pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ

tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang

tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật

phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công

chứng [22, Điều 2].

Như vậy, có thể thấy rằng, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của đất

11

nước, khi nền kinh tế, văn hoá và xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu giao

dịch dân sự của người dân ngày càng tăng cả về số lượng và tính phức tạp,

khái niệm công chứng cũng từ đó mà có những thay đổi nhất định. Sự thay

đổi này thể hiện quan điểm của nhà nước ta về công chứng thêm rõ ràng và cụ

thể hơn, nhưng xét về bản chất và mục đích của hành vi thì vẫn không thay

đổi. Nội hàm của khái niệm công chứng là tạo lập nên một loại chứng cứ viết,

có giá trị pháp lý cao, vì các hợp đồng, giấy tờ này được chứng nhận tính xác

thực của nó do những người có thẩm quyền công chứng, chứng nhận nên nó

mang dấu ấn của công quyền và trở thành “công chứng thư”. Về ngoại diên

của khái niệm công chứng bao hàm các loại giấy tờ, hợp đồng mà theo quy

định của pháp luật bắt buộc phải công chứng, hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện

công chứng để những giấy tờ này trở thành một chứng cứ pháp lý. Vì vậy,

dưới góc độ chung nhất chúng ta có thể hiểu công chứng là việc chứng nhận

tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo

quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức có nhu cầu tự

nguyện yêu cầu công chứng do Công chứng viên của một tổ chức hành nghề

công chứng thực hiện.

1.1.2. Đặc điểm của công chứng

Thứ nhất, công chứng là hành vi do Công chứng viên thực hiện.

Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm,

chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của

người yêu cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được

chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn bản của cơ quan công quyền.

Công chứng viên cũng được phân thành hai dạng khác nhau phụ thuộc

vào tổ chức hành nghề công chứng mà công chứng viên đang hàng nghề:

- Công chứng viên Phòng Công chứng là công chức, viên chức nhà

12

nước được hưởng lương từ ngân sách nhà nước;

- Công chứng viên Văn phòng Công chứng không phải là công chức,

viên chức nhà nước, lương và các khoản thu nhập khác được trích từ nguồn

thu phí công chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp khác từ hợp

đồng công chứng.

Đặc điểm này phân biệt với hành vì chứng thực là hành vi không chỉ do

công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng mà còn do người đại diện

của cơ quan hành chính công quyền thực hiện.

Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng

và lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận

các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật.

Có thể nhận thấy từ khái niệm được ghi nhận trong Luật Công chứng

2014 có hai loại Hợp đồng, giao dịch là những Hợp đồng, giao dịch mà pháp

luật bắt buộc phải công chứng và những Hợp đồng, giao dịch mà pháp luật

không bắt buộc phải công chứng nhưng cá nhân, tổ chức giao kết tự nguyện

yêu cầu công chứng khi thấy cần thiết để đảm bảo tính an toàn cho giao dịch:

- Loại Hợp đồng, giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải qua công

chứng là những Hợp đồng, giao dịch trong trường hợp mang tính chất phức

tạp và dễ xảy ra tranh chấp hoặc đối tượng giao dịch nhà nước cần kiểm soát

và quản lý. Quy định này còn được thể hiện trong Bộ luật Dân sự 2005:

“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng

văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định

loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải

được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải

đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về

13

hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [19, Điều 401]

Loại hợp đồng giao dịch này có thể kể đến như:

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu

nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Văn bản chuyển nhượng Hợp

đồng mua bán nhà ở, Văn bản cam kết, phân chia tài sản chung,

riêng của vợ chồng, Hợp đồng tặng cho tài sản, Di chúc của người

bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ, Di chúc

miệng, Di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài, Hợp đồng về việc

mang thai hộ…

- Loại Hợp đồng, giao dịch mà nhà nước không bắt buộc phải công

chứng nhưng vẫn được các cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng để

công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hình thức, nội

dung hợp đồng, giao dịch có vi phạm quy định pháp luật, có trái với đạo đức

xã hội và có bảo đảm cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không.

Ngoài ra, còn để kiểm tra năng lực hành vi, tính tự nguyện, của các chủ thể

tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch và tính chân thật của đối tượng Hợp

đồng, giao dịch. Cụ thể, Luật Nhà ở 2014 quy định các hợp đồng, giao dịch

không cần phải công chứng, chứng thực như:

Văn bản tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; Hợp đồng

mua bán mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán nhà ở xã hội,

nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ

chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở [24].

Ngoài ra, một số giao dịch dân sự khác cũng chỉ công chứng khi các

bên có nhu cầu là: Giấy ủy quyền, Hợp đồng thế chấp quyền tài sản,…

Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với

các hoạt động mang tính chất hành chính khác của các cơ quan công quyền.

Việc lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng và

14

chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật chính là việc

tạo nên các văn bản công chứng. Lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của

người yêu cầu công chứng là việc Công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên

môn của mình giúp người yêu cầu công chứng thể hiện được ý chí, nguyện

vọng của mình được thỏa thuận bằng văn bản, không vi phạm pháp luật,

không trái đạo đức xã hội; hoặc tư vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng

thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của mình một cách rõ ràng, chính xác

trong các văn bản họ tự lập nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hợp đồng,

giao dịch họ tự lập. Nói cách khác, hành vi của Công chứng viên nhằm xác

nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng hoặc các giao dịch. Chứng

nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật là việc Công chứng

viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác nhận tính hợp pháp của hợp

đồng, giao dịch. Đây là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng nội dung

(công chứng hệ Latine) và trường phái công chứng hình thức (công chứng hệ

Anglosason). Đặc điểm này của công chứng nước ta đã quy định chức năng

phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch, kể cả những giao dịch

không yêu cầu qua công chứng.

Thứ ba, văn bản công chứng có giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.

Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công

chứng viên chứng nhận [22, Điều 4, Khoản 2]. Giá trị pháp lý của văn bản

công chứng bao gồm giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.

Giá trị thi hành của văn bản công chứng được quy định tại Khoản 2,

Điều 5, Luật Công chứng 2014 như sau: Hợp đồng, giao dịch được công

chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có

nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa

án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia

hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.

15

Văn bản công chứng do Công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt

buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng cũng như

năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Văn

bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các bên tham gia

giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là

căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng các cam

kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.

Giá trị chứng cứ là vấn đề mấu chốt, khi thiếu những căn cứ để xác

định quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý, thì cần phải có một bằng chứng

chứng minh sự tồn tại của nó, nếu không quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý

đó sẽ được coi là không tồn tại. Vậy, chứng cứ là gì? Chứng cứ là “những gì

có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án

hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định

mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương

sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần

thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự theo Điều 81 Bộ luật tố tụng

dân sự sửa đổi năm 2011, chứng cứ.

Văn bản công chứng là chứng cứ tin cậy để các chủ thể giao kết chứng

minh trước tòa khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, đồng thời

cũng là chứng cứ để tòa án có thể giải quyết vụ việc tranh chấp một cách

nhanh chóng và chính xác. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp

đồng, giao dịch là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị

chứng cứ. Điều này được quy định cụ thể tại Luật công chứng năm 2014 về

giá trị pháp lý của văn bản công chứng: “Hợp đồng, giao dịch được công

chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch

được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố

là vô hiệu” [22, Điều 5, Khoản 3].

16

Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề

cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là

chứng cứ. Sở dĩ pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là

do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được Công

chứng viên xác nhận. Tính xác thực này được Công chứng viên kiểm chứng

và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết,

sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: Sự

tự nguyện của các bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có Công

chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà án không thể

xác minh được. Công chứng viên dù là công chức nhà nước làm việc tại các

Phòng công chứng hay là công chứng viên làm việc tại các Văn phòng công

chứng đều là một chức danh tư pháp được nhà nước trao quyền thực hiện việc

chứng nhận hợp đồng, giao dịch và chỉ có công chứng viên mới được nhân

danh nhà nước chứng nhận các hợp đồng, giao dịch đó. Từ đó, tính xác thực

do công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng,

giao dịch thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa, còn các hợp đồng, giao dịch

khác không được công chứng thì vẫn phải chứng minh. Tuy nhiên, văn bản

công chứng vẫn có khả năng không có giá trị chứng cứ nếu không thực hiện

đúng thẩm quyền hoặc không tuân thủ theo quy định của pháp luật về công

chứng hoặc bị tuyên vô hiệu trước tòa.

Thứ tư, Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với tổ chức và hoạt động

công chứng

Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công. Công

chứng là một biện pháp phòng ngừa tranh chấp, giúp công dân, tổ chức thực

hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng pháp luật. Hoạt động

công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hợp đồng tư

pháp nhưng hoàn toàn khác với hoạt động của các cơ quan tư pháp.

17

Trước đây, công chứng ở Việt Nam hoàn toàn do các cơ quan nhà nước

thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước. Hiện nay, theo Luật Công chứng

năm 2006 và sau đó là Luật Công chứng năm 2014 tổ chức hành nghề công

chứng gồm Phòng Công chứng (do UBND cấp tỉnh thành lập, trực thuộc Sở

Tư pháp, có trụ sở và con dấu riêng) và Văn phòng Công chứng (do Công

chứng viên thành lập, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Cả 2

loại hình này đều đặt dưới sự quản lý của nhà nước.

1.1.3. Sự hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam

1.1.3.1. Công chứng nước ta trước cách mạng tháng tám 1945

Hoạt động công chứng xuất hiện là do yêu cầu của việc quản lý của nhà

nước đối với các hoạt động giao dịch, yêu cầu cung cấp chứng cứ cho cơ quan

tài phán. Ở nước ta trước thời kì pháp thuộc, chưa thấy xuất hiện thuật ngữ

công chứng. Nhưng nếu xét về lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước phong

kiến ở Việt Nam thì thấy đã có mầm mống về hoạt động công chứng. Dưới thời

Lê, di chúc được làm dưới dạng chúc thư; để có giá trị thì chúc thư phải lập

thành văn bản dưới hình thức nhất định, nếu người làm chúc thư không biết

chữ thì chúc thư phải được xã trưởng viết hộ và chứng thực nhằm ngăn ngừa

việc gian lận đối với chức thư, đồng thời luật cũng quy định việc xử phạt đối

với việc làm giả mạo giấy tờ. Vào thời kì bảo hộ của pháp, công chứng với tư

cách là thể chế bắt đầu xuất hiện và được áp dụng ở Việt Nam cùng với sự

thành lập tổ chức và hoạt động của tòa án Pháp tại Việt Nam và được tổ chức

theo mô hình công chứng của Pháp. Trong giai đoạn này, tổ chức và hoạt động

công chứng được xác lập bằng sắc lệnh ngày 24/8/1931 của Tổng thống Cộng

hòa Pháp về tổ chức công chứng được áp dụng ở Đông Dương.

Tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta chịu sự chi phối bởi pháp

luật công chứng của Pháp. Chưởng ấn Bộ trưởng tư pháp bổ nhiệm công

chứng viên, thành lập văn phòng công chứng, giám sát hoạt động nghề nghiệp

18

của công chứng viên. Hội đồng công chứng tối cao được đặt bên cạnh Bộ tư

pháp chịu trách nhiệm quản lý điều hành hội đồng công chứng các khu vực.

Hội đồng công chứng các khu vực chịu sự giám sát của Tòa thượng thẩm. Mô

hình công chứng được thiết lập theo mô hình công chứng hệ La tinh, công

chứng viên đứng ra tổ chức và điều hành mọi hoạt động của văn phòng công

chứng, chịu trách nhiệm về hành vi công chứng.

1.1.3.2. Công chứng nước ta trong giai đoạn từ 1945 - 1991

Sau cách mang tháng tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ra đời. Ngày 1/10/1945, Bộ trưởng Bộ tư pháp đã ký nghị định bổ nhiệm

ông Vũ Quý Vỹ mang quốc tịch Việt Nam làm công chứng viên tại văn phòng

công chứng ở Hà Nội, nghị định quy định các luật lệ cũ về công chứng vẫn

được thi hành, trừ những điều khoản không phù hợp với nền độc lập và chính

thể dân chủ cộng hòa Việt Nam. Có thể nói đây là tổ chức công chứng đầu

tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tổ chức công chứng mang

đậm dấu ấn của công chứng Pháp.

Ngày 15/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành sắc lệnh 59/SL

ấn định thể lệ về thị thực các giấy tờ. Theo sắc lệnh này, việc thị thực chỉ là

thủ tục hành chính, quyền thị thực các giấy tờ trước đây giao cho lý trưởng

các làng và trưởng phố ở thành thị thì nay giao về ủy ban nhân dân của làng

hoặc ủy ban nhân dân hàng phố. Ủy ban làm nhiệm vụ thị thực phải là ủy

ban nơi trú quán của một hoặc các bên đương sự lập khế ước; đối với bất

động sản phải là ủy ban nơi có bất động sản đó thị thực, nếu có nhiều bất

động sản ở nhiều nơi thì giấy tờ lập ra về những bất động sản ấy phải do ủy

ban mỗi nơi có bất động sản đó thị thực. Các ủy ban thị thực phải chịu trách

nhiệm về việc thị thực, khi xảy ra thiệt hại đến tư nhân vì sự thực không

đúng, công quỹ của làng hay của hàng phố phải bồi thường. Ngày

29/2/1952, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh 85/SL về

19

việc mua bán cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Theo quy định thì ủy ban kháng

chiến hành chính có thẩm quyền nhận thực vào văn tự theo hai nội dung, chữ

ký của các bên mua bán cho đổi, người đứng ra bán, cho đổi là chủ những

nhà cửa ruộng đất đem bán cho hay đổi.

Hai sắc lệnh nói trên là cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động thị thực

của ủy ban hành chính kháng chiến và sau này là ủy ban nhân dân trong gần

nửa thế kỷ. Nguyên nhân của tổ chức và hoạt động công chứng không được

phát triển trong giai đoạn này là do điều kiện kinh tế, xã hội, hoàn cảnh chiến

tranh của nước ta trong thời kì này và việc không chấp nhận chế độ sở hữu

các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Vì thế, tổ chức công

chứng không được thành lập, mọi giao lưu kinh tế dân sự đều dựa trên quan

hệ hành chính, hoạt đông công chứng rất đơn giản.

Từ sau năm 1954 kéo dài đến cuối những năm 70, Nhà nước ta thiết lập

một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bằng cách phát triển và cải tạo

nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế nhiều thành phần

thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, thiếu thủ tục hành chính và

các thủ tục thể hiện vai trò kiểm soát kinh tế có hiệu quả của nhà nước, không

đủ các thủ tục tài phán hành chính để điều hòa mối quan hệ giữa nhà nước và

công dân. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, dẫn đến hoạt động công

chứng không có điều kiện để phát triển.

1.1.3.3. Công chứng nước ta trong giai đoạn từ 1991 đến nay

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII, đặc biệt là cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược kinh tế, xã

hội, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng

xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường đã tạo ra những mối quan hệ mới

trong lĩnh vực phát triển và quản lý nền kinh tế, các giao dịch dân sự, kinh tế,

thương mại phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có thể chế phù hợp phục vụ cho

20

cơ chế kinh tế đó. Trong lĩnh vực công chứng đặt ra nhiệm vụ mới, cần phải

có một tổ chức hoạt động chuyên nghiệp. Trên cơ sở đó, ngày 27/2/1991 Hội

đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động

công chứng nhà nước. Nghị định quy định về tổ chức công chứng nhà nước,

trình tự thủ tục thực hiện các việc công chứng, quản lý tổ chức và hoạt động

công chứng, tiêu chuẩn công chứng viên, giá trị pháp lý của văn bản công

chứng. Nghị định 45/HĐBT ra đời đánh dấu một sự tiến triển mới của mối

liên hệ giữa hoạt động phòng ngừa tranh chấp và hoạt động tài phán, tổ chức

hoạt động công chứng thay thế công việc của ủy ban nhân dân về công chứng,

đối với những nơi chưa thành lập Phòng công chứng thì ủy ban nhân dân

được tiếp tục thực hiện một số việc công chứng. Tuy nhiên, sự phát triển các

quan hệ gia đình với điều kiện nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển dẫn

đến Nghị định 45/HĐBT trở nên không phù hợp. Ngày 18/5/1996, Chính phủ

đã ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước

thay thế cho Nghị định 45/HĐBT. Do nhu cầu phục vụ sự phát triển kinh tế,

xã hội của đất nước, ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định

75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm

vi công chứng, chứng thực, tổ chức Phòng công chứng, nguyên tắc hoạt động,

thủ tục, trình tự thực hiện việc công chứng, chứng thực, công tác chứng thực

của ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ủy ban

nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công

chứng, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công

chứng. Ngày 29/11/2006, Luật Công chứng ra đời đưa ra định hướng đúng

đắn về xã hội hóa hoạt động công chứng. Bên cạnh các phòng công chứng

nhà nước thì các văn phòng công chứng ra đời, đáp ứng tốt hơn nhu cầu

của người dân, tổ chức trong các giao dịch dân sự. tác phong phục vu, lề lối

làm việc cũng tốt hơn, bớt đi tình trạng cửa quyền, khó khăn của các phòng

21

công chứng trước kia.

Xét về cơ cấu của cơ quan thực hiện công chứng hiện nay bao gồm

Phòng công chứng, Văn phòng công chứng, ngoài cơ quan công chứng

chuyên trách thì cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cũng có thẩm

quyền công chứng một số việc theo quy định của Luật Công chứng.

1.2. Khái quát chung về Văn phòng Công chứng

1.2.1. Khái niệm Văn phòng công chứng

Văn phòng Công chứng là một trong hai hình thức tổ chức hành nghề

công chứng được quy định tại Điều 23 của luật công chứng. Mô hình tổ chức

Văn phòng công chứng đã có từ rất lâu trên thế giới, còn ở Việt Nam, văn

phòng công chứng chỉ xuất hiện sau khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu

lực thi hành. Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận một mô hình văn phòng

công chứng, tồn tại song song bên cạnh Phòng Công chứng. Văn phòng Công

chứng được hình thành xuất phát từ những lý do sau đây:

- Thực tiễn hoạt động của công chứng trong thời gian qua cho thấy, nhu

cầu công chứng của tổ chức cá nhân ngày một tăng cao trong khi sự phát triển

của các Phòng công chứng không theo kịp, dẫn đến quá tải. Công chứng viên

là công chức nhà nước nên việc phát triển đội ngũ công chứng viên gặp rất

nhiều khó khăn do thiếu biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất từ đó dẫn đến việc

phát triển các tổ chức hành nghề công chứng không theo kịp sự phát triển về

nhu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, thực hiện chủ trương xã

hội hoá công chứng đã được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của bộ

Chính chị là “xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng

Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi thích hợp để

từng bước xã hội hoá công việc này”.

- Nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang

kinh tế thị trường thì việc phải thay đổi cách làm, cách nghĩ bằng chủ

22

trương xã hội hoá là chủ trương rất lớn mà Đại hội lần thứ X đặt ra và điều

đó là phù hợp. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền Nhà nước không thể

ôm tất cả, cơ quan nhà nước chỉ làm những gì đích thực mình phải làm, còn

lại nhà nước phải trở thành bà đỡ cho các hoạt động khác trên cơ sở ban

hành chính sách pháp luật.

- Việc quy định Văn phòng Công chứng do công chứng viên không

phải là công chức nhà nước thành lập phù hợp với mô hình công chứng Latin,

phù hợp với xu thế phát triển của công chứng nhiều nước trên thế giới; công

chứng viên không phải là công chức nhà nước nhưng do nhà nước bổ nhiệm,

miễn nhiệm. Văn phòng Công chứng không phải là cơ quan hành chính nhà

nước. Một số nước theo mô hình công chứng nhà nước thuần tuý trước đây

cũng dần dần chuyển đổi và tồn tại và cả hai mô hình công chứng nhà nước

và công chứng hành nghề tự do như Trung Quốc, Nga, Ba Lan…

Xuất phát từ những lý do trên, Văn phòng công chứng chính thức

được ra đời dưới cơ sở pháp lý là Luật Công chứng 2006 và hiện nay là

Luật Công chứng 2014.

Về khái niệm văn phòng công chứng được đưa ra lần đầu tiên trong

Luật Công chứng năm 2006:

Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập. Văn

phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ chức

và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng công

chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và

hoạt động theo loại hình công ty hợp danh [21].

Đến Luật Công chứng 2014 quy định rất cụ thể về hình thức tổ chức,

người đại diện theo pháp luật, tên gọi và hoạt động của Văn phòng công

chứng là:

Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy

23

định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên

quan đối với loại hình công ty hợp danh. Văn phòng công chứng

phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công

chứng không có thành viên góp vốn [22, Điều 22].

Qua đây có thể thấy sự chuyển biến trong khái niệm về Văn phòng

công chứng trong hai giai đoạn này. Luật Công chứng 2006 quy định cho

phép có 2 loại hình hoạt động của Văn phòng công chứng là loại hình doanh

nghiệp tư nhân do một công chứng viên thành lập và loại hình doanh nghiệp

công ty hợp danh do hai công chứng viên trở lên thành lập. Điều này dẫn đến

việc đối với Văn phòng công chứng hoạt động dưới hình thức công ty tư nhân

thì hoạt động của Văn phòng chịu phụ thuộc nhiều vào công chứng viên thành

lập dẫn đến việc khó khăn trong chuyển đổi mô hình nếu công chứng viên

muốn rút tên khỏi văn phòng mà chưa có người kế nhiệm. Chính vì lẽ đó,

Luật Công chứng 2014 đã định nghĩa lại khái niệm Văn phòng công chứng

chỉ còn hình thức duy nhất là công ty hợp danh có từ hai công chứng viên trở

lên và không có thành viên góp vốn.

Ngoài ra, một số nguồn khác cũng đưa ra khái niệm về Văn phòng công

chứng như Bách khoa toàn thư mở Wikipedia có định nghĩa:

Văn phòng công chứng tại Việt Nam là loại hình công chứng

mới theo Luật công chứng năm 2006. Trước đây, việc công chứng

do Nhà nước, đại diện là các công chức Nhà nước được bổ nhiệm

chức danh công chứng viên thực hiện. Văn phòng công chứng do

những người không phải là công chức nhà nước đảm nhiệm chức

năng công chứng. Luật Công chứng.

Tuy nhiên, định nghĩa này chưa thật sự đầy đủ và thể hiện đúng tính

chất của văn phòng công chứng sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực

khác với tính chất của Văn phòng công chứng theo Luật Công chứng 2006.

24

Như vậy, tác giả xin phép được tóm lược khái niệm Văn phòng công

chứng theo tinh thần của Luật Công chứng 2014 này như sau: Văn phòng

công chứng là loại hình công chứng có tổ chức và hoạt động theo mô hình

công ty hợp danh có từ hai công chứng viên hợp danh trở nên và không có

thành viên góp vốn. Văn phòng công chứng có con dấu, tài khoản riêng và

hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.

1.2.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của văn phòng công chứng

Có thể nói, sự ra đời của Luật Công chứng 2006, với chủ trương

chuyển giao, sắp xếp lại thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tổ

chức có thẩm quyền công chứng, cũng như việc luật hóa mô hình Văn phòng

công chứng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quản lý nhà nước đối

với hoạt động công chứng ở nước ta, là bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực

công chứng. Hiện nay, qua nhiều năm hoạt động, Luật Công chứng 2014 với

nhiều sửa đổi, bổ sung tiến bộ so với Luật Công chứng 2006 là cơ sở pháp lý

để nhà nước quản lý các giao dịch dân sự và thúc đẩy chủ trương xã hội hóa

hoạt động công chứng.

Tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng là những điều kiện

cần và đủ để thành lập văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật và

cách thức để văn phòng hoạt động đúng pháp luật và hiệu quả.

Về mặt tổ chức, Văn phòng Công chứng ngoài người đại diện theo

pháp luật là Trưởng Văn phòng Công chứng – phải là một công chứng viên

còn có các công chứng viên hợp danh. Văn phòng Công chứng có trụ sở, con

dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng

nguồn thu từ kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao

công chứng và các nguồn thu nhập hợp pháp khác.. Tuy nhiên, cũng có điểm

khác biệt giữa công ty Hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014

và Văn phòng Công chứng đó là Văn phòng Công chứng không có thành viên

25

góp vốn để tránh trường hợp chủ đầu tư làm chủ văn phòng.

Về mặt hoạt động, việc xác định Văn phòng Công chứng hoạt động

theo loại hình Công ty hợp danh nhằm mục đích chính là xác định về thuế,

thuê lao động, kế toán, thống kê… Đây cũng chính là điểm tạo nên sự khác

biệt giữa Văn phòng Công chứng và Phòng công chứng. Phòng công chứng là

do Nhà nước bảo đảm về cơ sở vật chất, biên chế nhân sự, kinh phí, còn Văn

phòng Công chứng là do Công chứng viên tự chủ toàn bộ về cơ sở vật chất,

biên chế nhân sự, kinh phí. Còn về chức năng, nhiệm vụ của Phòng công

chứng và Văn phòng Công chứng theo quy định của Luật công chứng 2014 có

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 thì không có điểm gì khác biệt. Văn

phòng Công chứng và Phòng công chứng trên toàn quốc đều hoạt động theo

Luật Công chứng, đều thực hiện công chứng các Hợp đồng, giao dịch luật quy

định bắt buộc phải công chứng và các Hợp đồng, giao dịch do người yêu cầu

công chứng yêu cầu công chứng. Văn bản công chứng do Công chứng viên

Văn phòng Công chứng chứng nhận và văn bản do Công chứng viên Phòng

công chứng chứng nhận đều có giá trị pháp lý như nhau.

Có thể nói, văn phòng công chứng ra đời đánh dấu một bước phát triển

xã hội hóa, xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong

quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công

chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà

nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước. Vì đây là

mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, nên việc tổ chức thực hiện việc quản

lý không tránh khỏi những bỡ ngỡ. Trong giai đoạn đầu của quá trình cải

cách, song song tồn tại hai hệ thống bên cạnh các Phòng Công chứng nhà

nước đã thành lập, với các Công chứng viên nhà nước và các Văn phòng công

chứng mới thành lập, dần được nhân rộng với các Công chứng viên hành

nghề tự do, đặt dưới sự quản lý bằng pháp luật của nhà nước.

26

Mặc dù còn nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động, song trong giai

đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, văn phòng công

chứng thực sự đã góp phần tạo môi trường pháp lý cho các giao dịch dân sự,

kinh tế, thương mại phát triển, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật,

tạo sự ổn định cho xã hội. Điều quan trọng hơn là sự ra đời của văn phòng

công chứng đã góp phần mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để người dân bước

đầu hình thành ý thức sử dụng các công cụ pháp lý, biện pháp hợp pháp để

bảo vệ mình trong đời sống dân sự; tạo cho người dân ý thức, trách nhiệm tốt

hơn khi tham gia giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.

1.3. Một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động công chứng

Công chứng không còn xa lạ mà đã tồn tại từ rất lâu và ngày càng trở

nên phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Có thể khái quát

công chứng trên thế giới thành ba hệ thống như sau:

1.3.1. Hệ thống công chứng Latinh

Hệ thống công chứng Latinh là hệ thống chịu ảnh hưởng của hệ thống

Luật La Mã và hệ thống pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Hệ

thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch

và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La

tinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu

Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...). Hiện này, hệ thống công chứng Latinh đã hình

thành tổ chức quốc tế của mình đó là Liên đoàn Công chứng quốc tế Latinh

(tên viết tắt là UINL) với thành viên chính thức khoảng hơn 60 quốc gia. Do

đặc điểm của các nước theo hệ thống civil law là trọng vật chứng hơn nhân

chứng. Hệ thống luật latinh có nhưng đặc điểm sau:

- Phạm vi công chứng được pháp luật quy định cụ thể, chặt chẽ việc

nào phải công chứng (bặt buộc), việc nào không phải công chứng nhưng

đương sự yêu cầu công chứng;

27

- Giá trị pháp lý cuả văn bản công chứng rất cao, văn bản có hiệu lực

thi hành đối với các bên đương sự như một phán quyết của tòa án. Ở một số

nước gọi Công chứng viên là “thẩm phán về hợp đồng”;

- Công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm, có thể là công chức hoặc

không, nhưng để hành nghề công chứng họ phải được Nhà nước bổ nhiệm và

hoạt động chuyên trách chứ không kiêm nhiệm về công chứng;

1.3.2. Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ

- Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ (Hay hệ thống công

chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon (Common

Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane),

Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan...

Luật án lệ tương đối linh hoạt, nhân chứng được tôn trọng hơn vật

chứng. Hoạt động công chứng này mang đặc điểm sau:

- Phạm vị công chứng không được quy định rõ ràng; Nội dung hành

vi, hình thức văn bản không được pháp luật quy định chặt chẽ, văn bản

công chứng không có hiệu lực bắt buộc thực hiện với các bên như một

phán quyết của tòa.

Công chứng là một nghề tự do, và luật sư có thể kiêm cả công chứng.

Với những đặc tính này, cho thấy tính chất chuyên môn nghề nghiệp về công

chứng ở quốc gia này không cao.

1.3.3. Hệ thống công chứng Collectiviste

Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các

nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) trước đây và phát triển mạnh vào các năm

70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông

Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam.

Trước đây, công chứng tập thể là công chứng Nhà nước, Công chứng

viên là công chức nhà nước, Phòng Công chứng là cơ quan Nhà nước, Nhà

28

nước lập ra theo đơn vị hành chính. Nhưng nơi chưa có Phòng Công chứng

thì chính quyền thực hiện việc công chứng. Có nơi Phòng Phòng chứng và

chính quyền cùng thực hiện hành vi công chứng: Hành vi công chứng được

xác định một cách rõ ràng bằng cách liệt kê những công việc Công chứng

viên được làm, hình thức của văn bản công chứng không được quy định cụ

thể; đặc biệt rất ít quan tâm đến công tác lưu trữ văn bản, giá trị pháp lý của

văn bản không được coi trọng, vai trò trách nhiệm của Công chứng viên nhất

là trách nhiệm vật chất không được đề cập. Họ chỉ chịu trách nhiệm hành

chính trước cơ quan Nhà nước cấp trên mà không chịu trách nhiệm dân sự

trước đương sự. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, thì hầu

hết các nước này đã chuyển dần sang mô hình công chứng Latinh.

Tóm lại, dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung

quy, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống

công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mô hình công

chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).

Ở mô hình công chứng tự do, các Công chứng viên được nhà nước bổ

nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức

Văn phòng công chứng tư nhân hoặc Văn phòng công chứng tập thể, tự chủ

trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho nhà nước. Công

chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải

bồi thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công

chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba.

Ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế

nhà nước, Công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm,

hưởng lương từ ngân sách nhà nước, Công chứng viên không phải chịu

trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do hành vi công chứng

trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước

29

nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích

lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng. Có

thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà

nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện

vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển ở

đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,

bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân.

Có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với

mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân

của Công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các

Công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động

của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước tinh

giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng

dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết

kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng

thuế của các Công chứng viên. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công

chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu

cầu công chứng của nhân dân.

Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ thống công chứng tập thể,

sau này khi có Luật Công chứng năm 2006 Việt Nam đã có một bước chuyển

mới, song vẫn chịu ảnh hưởng nặng của hệ thống công chứng này. Ngày

9/10/2013, tại Đại hội công chứng quốc tế lần thứ XXVII được tổ chức ở

Thành phố Lima, thủ đô của Pê-ru, Việt Nam chính thức trở thành thành viên

thứ 84 của Liên minh công chứng quốc tế. Sự kiện này đánh dấu sự phát triển

lớn mạnh của ngành công chứng Việt Nam và sự hội nhập sâu rộng của công

chứng Việt Nam với công chứng thế giới. Ngành công chứng Việt Nam có

thêm nhiều cơ hội tốt để học hỏi, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm với công chứng

30

quốc tế, điều này góp phần đưa công chứng Việt nam ngày càng phát triển.

Sau khi ra nhập Liên minh công chứng Quốc tế, công chứng Việt Nam

có những bài học kinh nghiệm đáng kể như chuyển dần sang mô hình công

chứng tự do, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, chuyển

đổi các Phòng công chứng nhà nước sang loại hình Văn phòng công chứng.

Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng nhằm đề cao và phát huy trách

nhiệm cá của công chứng viên để nâng cao tính an toàn pháp lý cho giao dịch,

đồng thời giảm thiểu sự sự bao cấp của nhà nước. Ngoài ra, từ bài học của công

chứng thế giới đối với Việt Nam đó là việc kiểm soát nội bộ thông qua mô hình

hội công chứng – là mô hình tổ chức nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề

công chứng. Nhờ có tổ chức này, hoạt động công chứng tại địa phương hay

trên cả nước được kiểm soát tốt hơn, hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động quản lý nhà

nước về công chứng.

1.4. Những yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng

1.4.1. Sự tồn tại hợp pháp của Văn phòng Công chứng

- Nguyên tắc và thủ tục xin thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng

công chứng

Nguyên tắc thành lập Văn phòng Công chứng phải tuân theo quy định

của Luật Công chứng 2014 và phù hợp vi Quy hoạch tổng thể phát triển tổ

chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt [22, Điều 18].

Quy định này đảm bảo cho việc phân bổ các tổ chức công chứng phù hợp với

nhu cầu giao dịch của từng địa phương như ở nội thành thành phố Hà Nội, tại

các phường, quận trung tâm, đông dân cư, nhu cầu giao dịch của người dân lớn

thì số lượng tổ chức công chứng được thành lập sẽ lớn hơn những huyện ngoại

thành, dân cư tập trung thưa thớt, ít các hoạt động thương mại và dự án đầu tư

lớn. Ngoài ra, việc cho phép thành lập tổ chức công chứng theo quy hoạch này

sẽ tránh tình trạng quá nhiều tổ chức công chứng thành lập trên một địa bàn

31

dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức công chứng.

Thủ tục và quy trình xin thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng

Công chứng quy định cụ thể tại điều 23 Luật Công chứng 2014. Theo đó, khi

xin phép thành lập Văn phòng Công chứng, công chứng viên thành lập Văn

phòng Công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng gửi Uỷ ban nhân

dân cấp tỉnh, hồ sơ gồm có: Đơn đề nghị thành lập Văn phòng Công chứng và

đề án thành lập Văn phòng công chứng. Đề án này cần phải nêu rõ sự cần thiết

thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều

kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện, bản sao quyết định bổ nhiệm

công chứng viên. Văn phòng Công chứng có trụ sở riêng với địa chỉ cụ thể và

phải đáp ứng các yêu cầu như phải đủ diện tích làm việc cho công chứng viên,

nhân viên, tiếp người yêu cầu công chứng và lưu trữ hồ sơ theo quy định của

pháp luật. Mục đích của việc quy định này là để công chứng viên khi chuẩn bị

các thủ tục thành lập Văn phòng Công chứng phải xác định rõ: hoạt động công

chứng phải tương xứng với tính chất là một tổ chức thay mặt Nhà nước thực

hiện dịch vụ công, phải được tổ chức thực hiện một cách quy củ, tránh tình

trạng tạm bợ của hoạt động công chứng hoặc kết hợp thực hiện các dịch vụ

khác không phù hợp với tính nghiêm túc của hoạt động công chứng.

Trong thời hạn luật định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định

cho phép thành lập Văn phòng Công chứng và sau đó Văn phòng Công chứng

phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho

phép thành lập với các nội dung về: Tên gọi của Văn phòng Công chứng, Họ

tên Trưởng Văn phòng Công chứng, Địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công

chứng, Danh sách công chứng viên hợp danh và danh sách công chứng viên

làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng Công chứng.

- Hợp nhất, sát nhập, chuyển nhượng Văn phòng Công chứng

Việc hợp nhất Văn phòng Công chứng là việc hai hoặc một số Văn

32

phòng Công chứng có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp

thành một Văn phòng Công chứng mới, đồng thời chấm dứt hoạt động của

các Văn phòng Công chứng bị hợp nhất.

Việc sáp nhập Văn phòng Công chứng là việc một hoặc một số Văn

phòng Công chứng có thể chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích

hợp pháp sang Văn phòng Công chứng để sáp nhập vào một Văn phòng Công

chứng khác có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

đồng thời chấm dứt hoạt động của Văn phòng Công chứng bị sáp nhập.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép hợp nhất, sáp

nhập Văn phòng Công chứng. Chính phủ quy định chi tiết thủ tục hợp nhất, sáp

nhập Văn phòng Công chứng tại Điều 13 và 14 Nghị định 29/2015/NĐ-CP.

Việc chuyển nhượng Văn phòng công chứng cho các công chứng viên

khác khi đáp ứng các điều kiện quy định của Luật công chứng. Văn phòng

công chứng chỉ được chuyển nhượng khi đã hoạt động công chứng được ít

nhất là 02 năm.

- Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là người

đứng đầu và đại diện cho văn phòng công chứng, thực hiện các quyền và

nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của văn phòng công chứng, đại diện cho văn

phòng công chứng với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan trước Trọng Tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy

định của pháp luật. Theo quy định của Luật Công chứng 2014, người đại diện

theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn

phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng và đã

hành nghề công chứng từ 02 năm trở nên.

- Bổ nhiệm công chứng viên

Công chứng viên là người chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp

33

đồng, giao dịch, bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài

hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt; chứng thực bản sao từ bản chính,

chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Để được bổ nhiệm là công chứng

viên, một người cần đáp ứng các điều kiện sau:

Về tiêu chuẩn công chứng viên công chứng viên được quy định: Công

dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có

phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp luật

từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật, Tốt

nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề

công chứng, đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng và bảo

đảm sức khỏe để hành nghề công chứng thì được xem xét, bổ nhiệm công

chứng viên [22, Điều 8]

Sau khi hoàn thiện hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên theo quy

định tại khoản 2, điều 2 của Luật Công chứng 2014 được gửi đến Sở Tư pháp

nơi người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đã đăng ký tập sự hành nghề

công chứng để xem xét và bổ nhiệm công chứng viên.

- Thu hồi quyết định cho phép thành lập và chấm dứt hoạt động Văn

phòng công chứng

Thu hồi quyết định cho phép thành lập văn phòng công chứng sẽ xẩy ra

khi Văn phòng công chứng không thực hiện đăng ký hoạt động hoặc hết thời

hạn 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động mà Văn phòng

công chứng chưa bắt đầu hoạt động, không hoạt động liên tục từ 03 tháng trở

lên, chỉ còn một công chứng viên hợp danh và không bổ sung được thành viên

hợp danh mới, toàn bộ công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng

bị miễn nhiệm chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, không bảo đảm duy trì

điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm

pháp luật khác có liên quan.

34

Chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng trong các trường hợp tự

chấm dứt hoạt động hoặc bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do Văn phòng công

chứng vi phạm pháp luật hoặc không còn công chứng viên do bị miễn nhiệm.

Trong trường hợp chấm dứt hoạt động tự chấm dứt hoạt động thì Văn

phòng công chứng phải có báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký

hoạt động và phải có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt

hợp đồng lao động đã ký với người lao động, thực hiện các yêu cầu công

chứng đã tiếp nhận và đăng báo trung ương hoặc báo địa phương trong hai số

liên tiếp về thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động.

Trong trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động vì bị

thu hồi giấy đăng ký hoạt động thì Văn phòng công chứng phải có nghĩa vụ

thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký

với người lao động; đối với yêu cầu công chứng đã tiếp nhận mà chưa công

chứng thì phải trả lại hồ sơ yêu cầu công chứng cho người yêu cầu công

chứng và đăng báo trung ương hoặc báo địa phương trong hai số liên tiếp

về việc chấm dứt hoạt động.

Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt

hoạt động Văn phòng công chứng với các cơ quan có liên quan.

1.4.2. Hoạt động của Văn phòng Công chứng tuân thủ các quy định

của pháp luật

1.4.2.1. Hoạt động cung cấp dịch vụ công chứng cho người yêu cầu

công chứng

- Cung cấp dịch vụ công chứng hợp đồng, giao dịch cho người yêu cầu

công chứng là hoạt động chủ yếu của các Văn phòng công chứng. Thủ tục

công chứng hợp đồng, giao dịch được quy định tại Điều 40, 41 của Luật Công

chứng. Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch có hai loại: hợp đồng, giao

dịch do người yêu cầu công chứng tự soạn thảo và hợp đồng, giao dịch do

công chứng viên soạn thảo. Cụ thể thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch có

35

các bước như sau:

Bước 1: Người yêu cầu công chứng lập một bộ hồ sơ, trong đó có dự

thảo hợp đồng, giao dịch cần chứng thực

Bước 2: Công chứng viên kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công

chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định

của pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng.

Bước 3: Công chứng viên ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp

đồng, giao dịch.

Bước 4: Trả kết quả công chứng, thu phí công chứng

Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp: công chứng là

hoạt động gắn liền với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ

chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch; đồng thời hỗ trợ, bổ sung cho

các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên được xếp vào

hoạt động bổ trợ tư pháp.

- Cung cấp dịch vụ sao y, chứng thực chữ ký, chứng thực bản dịch là

hoạt động mới được trao thẩm quyền thực hiện cho Văn phòng công chứng. Ở

Việt Nam, quá trình phát triển của hoạt động chứng thực luôn gắn liền với

quá trình phát triển của hoạt động công chứng. Trong một thời gian dài, hai

hoạt động này luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm

pháp luật. Thực hiện chủ trương tách bạch hoạt động công chứng và hoạt

động chứng thực theo Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; nhằm tạo điều kiện

cho công tác công chứng, chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về chiều rộng

lẫn chiều sâu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của cá nhân, tổ chức, Nghị định số

23/2015/NĐ-CP đã phân biệt rõ rệt sự khác biệt giữa công chứng và chứng

thực hợp đồng, giao dịch. Theo đó “Cấp bản sao từ sổ gốc” là việc cơ quan, tổ

chức đang quản lý sổ gốc, căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao. Bản sao từ sổ

36

gốc có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc. “Chứng

thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy

định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng

với bản chính. “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là

chữ ký của người yêu cầu chứng thực [8, Điều 2, Khoản 1, 2, 3].

1.4.2.2. Hoạt động nội bộ của các văn phòng công chứng

- Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động.

Khi thay đổi một trong các nội dung bao gồm tên gọi của Văn phòng

Công chứng, họ tên Trưởng Văn phòng Công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn

phòng Công chứng, danh sách công chứng viên hợp danh của Văn phòng

Công chứng và danh sách công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng

của Văn phòng Công chứng, Văn phòng Công chứng phải đăng ký nội dung

thay đổi tại Sở Tư pháp nơi Văn phòng Công chứng đã đăng ký hoạt động.

Việc thay đổi trụ sở của Văn phòng Công chứng sang huyện, quận, thị

xã, thành phố khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi

đã ra quyết định cho phép thành lập phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem

xét, quyết định và phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức

hành nghề công chứng.

Văn phòng Công chứng thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn

phòng Công chứng thì được Sở Tư pháp cấp lại giấy đăng ký hoạt động trong

thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị; trường hợp từ

chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do [22, Điều 24].

Chi tiết thủ tục thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng Công

chứng được quy định tại Điều 18 Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015

Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng:

1. Văn phòng Công chứng đề nghị thay đổi nội dung đăng ký

37

hoạt động theo quy định tại Điều 24 của Luật công chứng nộp trực

tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính 01 (một) bộ hồ sơ đến Sở Tư

pháp nơi Văn phòng Công chứng đăng ký hoạt động.

Hồ sơ bao gồm giấy đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt

động của Văn phòng Công chứng, giấy đăng ký hoạt động của Văn

phòng Công chứng (bản chính) và một hoặc một số giấy tờ sau đây

tùy thuộc vào nội dung đăng ký hoạt động được đề nghị thay đổi:

a) Hồ sơ đăng ký hành nghề và cấp Thẻ cho công chứng viên

được bổ sung cho Văn phòng Công chứng theo quy định tại Điều 4

của Thông tư này; văn bản thỏa thuận về việc chấm dứt tư cách

thành viên hợp danh của công chứng viên, văn bản thanh lý hợp

đồng lao động với công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng;

giấy tờ chứng minh công chứng viên của Văn phòng Công chứng bị

chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết trong trường hợp thay đổi

danh sách công chứng viên;

b) Giấy tờ chứng minh công chứng viên dự kiến là Trưởng

Văn phòng đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên trong

trường hợp thay đổi Trưởng Văn phòng Công chứng;

c) Giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp thay đổi trụ

sở của Văn phòng Công chứng; trường hợp thay đổi trụ sở Văn

phòng Công chứng sang địa bàn cấp huyện khác thì phải có văn bản

chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 1

Điều 24 của Luật công chứng;

2. Văn phòng Công chứng nhận sáp nhập quy định tại Điều

14, Văn phòng Công chứng được chuyển nhượng quy định tại Điều

15 của Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

38

công chứng nộp trực tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính 01 (một)

bộ hồ sơ đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động đến Sở Tư

pháp nơi Văn phòng Công chứng đã đăng ký hoạt động.

3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ

quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Sở Tư pháp cấp lại giấy

đăng ký hoạt động cho Văn phòng Công chứng trong trường hợp

thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng Công chứng hoặc

ghi nhận nội dung thay đổi vào giấy đăng ký hoạt động của Văn

phòng Công chứng trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký

hoạt động khác; trường hợp từ chối thì phải thông báo bằng văn bản

và nêu rõ lý do [11].

Sau khi được cấp lại đăng ký hoạt động, trong thời hạn 10 ngày làm

việc kể từ ngày cấp hoặc cấp lại giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng Công

chứng, Sở Tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan

thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng

Công chứng đặt trụ sở [22, Điều 25].

Quy định về việc đăng báo nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng

Công chứng tại Luật Công chứng 2016:

1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký

hoạt động, Văn phòng Công chứng phải đăng báo trung ương hoặc

báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về

những nội dung sau đây:

a) Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công chứng;

b) Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm của công chứng viên hành

nghề tại Văn phòng Công chứng;

c) Số, ngày, tháng, năm cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng

39

ký hoạt động và ngày bắt đầu hoạt động.

2. Trong trường hợp được cấp lại giấy đăng ký hoạt động, Văn

phòng Công chứng phải thực hiện việc đăng báo về nội dung đăng ký

hoạt động theo quy định tại khoản 1 Điều này [21, Điều 26]

- Tài chính của Văn phòng Công chứng

Văn phòng Công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính

bằng nguồn thu kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù

lao công chứng, thù lao chứng thực, dịch thuật và các nguồn thu hợp pháp

khác. Đồng thời, Văn phòng Công chứng tự chịu trách nhiệm về các khoản

chi phục vụ cho hoạt động của Văn phòng mình và đóng thuế thu nhập doanh

nghiệp theo quy định của pháp luật.

- Kinh phí đóng góp của công chứng viên: theo quy định của Luật

Doanh nghiệp về loại hình doanh nghiệp hợp danh:

Thành viên hợp danh phải góp đủ và đúng hạn số vốn như đã

cam kết. Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã

cam kết gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại cho công ty. Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên

được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp [23, Điều 173, Khoản 1,2,4].

- Phí công chứng: Phí công chứng bao gồm phí công chứng hợp đồng,

giao dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản công chứng, phí sao y,

chứng thực hồ sơ, giấy tờ. Mức thu phí công chứng được áp dụng thống nhất đối

với Phòng công chứng và Văn phòng Công chứng. Bộ tài chính chủ trì, phối hợp

với Bộ tư pháp quy định mức thu, chế độ quản lý, sử dụng phí công chứng.

- Phí sao y, chứng thực: Là mức phí mà Văn phòng Công chứng được

thu khi thực hiện các hoạt động sao y, chứng thực và dịch thuật theo quy định

tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 về việc Cấp bản

sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng

40

thực hợp đồng, giao dịch. Nghị định này đã mở ra cho các Văn phòng Công

chứng thêm về quyền hạn và nguồn thu phục vụ cho văn phòng cũng như giải

quyết nhu cầu rất lớn của người dân.

- Thù lao công chứng: Là khoản tiền do Văn phòng Công chứng thu từ

việc soạn thảo hợp đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác liên

quan đến công việc công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng.

Mức thù lao đối với từng loại việc do tổ chức hành nghề công chứng xác định.

- Chi phí khác: Là khoản tiền do Văn phòng Công chứng thu từ việc

người yêu cầu công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện công

chứng ngoài trụ sở của Văn phòng Công chứng, thực hiện việc cung cấp dịch

vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để

đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân. Mức chi phí này do người yêu cầu

công chứng và tổ chức hành nghề công chứng thảo thuận.

1.4.3. Đảm bảo sự quả lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của văn

phòng công chứng

Theo quy định của pháp luật ở nước ta về công chứng thì các tổ chứ

hành nghề công chứng là một tổ chức, là một bộ phận thuộc hệ thống hỗ trợ

các cơ quan tư pháp. Văn phòng công chứng có tư cách pháp nhân, có trụ sở

riêng, có tài khoản riêng và có con dấu theo quy định của pháp luật. Văn

phòng công chứng có người đại diện theo pháp luật là trưởng văn phòng, công

chứng viên hợp danh, công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng,

chuyên viên và các nhân viên hành chính khác. Như vậy, văn phòng công

chứng hội đủ các điều kiện là một tổ chức và hoạt động theo quy định về công

ty hợp danh nhưng không có thành viên góp vốn. Văn phòng công chứng hiện

nay có đặc thù riêng, không phải là cơ quan quản lý Nhà nước, không phải là

cơ quan tư pháp mà là được nhà nước trao cho quyền thực hiện các dịch vụ

hành chính công và có quan hệ chặt chẽ với cơ quan tư pháp, là một tổ chức

41

áp dụng luật pháp một cách chuẩn mực, người thực hiện hành vi công chứng

là công chứng viên được Nhà nước đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề

nghiêm ngặt. Mục đích quan trọng mà công chứng viên thực hiện và mong

muốn đạt được là tính khách quan, trung thực, chính xác chứ không phải là

mục đích cạnh tranh hay kinh doanh.

Nguyên tắc nhà nước quản lý là nguyên tắc chung cho tất cả các cơ

quan tổ chức, nhưng đối với Văn phòng công chứng, nguyên tắc này thể hiện

ở chỗ, văn phòng công chứng là doanh nghiệp hoạt động theo quy chế riêng

với mục đích là phục vụ lợi ích công, dịch vụ công, chứ không hoạt động

giống như cơ quan hành chính nhà nước. Theo quy định hiện nay, Sở tư pháp

giúp ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý các văn phòng công

chứng tại địa phương. Chính phủ thống nhất quản lý tổ chức và hoạt động

công chứng. Văn phòng công chứng do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương ra quyết định thành lập. Nguyên tắc này xuất phát từ quan

điểm hoạt động công chứng dù có là doanh nghiệp tư nhân phải thể hiện vai

42

trò của Nhà nước trong việc chứng nhận tính xác thực.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG

CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cư, kinh tế - xã hội của

thành phố Hà Nội

2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư thành phố Hà Nội

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

cũng là kinh đô của rất nhiều vương triều Việt cổ. Do đó, lịch sử Hà Nội gắn

liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các thời kì. Từ lâu Hà Nội đã

được chọn là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa ngay từ buổi đầu dựng

nước, giữ nước. Năm 1010, vị vua đầu tiên quyết định đặt kinh đô tại vùng

đất trù phú này là Lý Công Uẩn với cái tên Thăng Long. Kể từ đó thành

Thăng Long vẫn là trung tâm văn hóa, chính trị, giáo dục, thương mại trong

các triệu đại sau này như Lý, Trần, Lê, Mạc. đến khi nhà Nguyễn lên nắm

quyền, Huế trở thành kinh đô và thành Thăng Long đổi tên Hà Nội. Năm

1902, Hà Nội được xây dựng, quy hoạch lại và trở thành thủ đô của Liên bang

Đông Dương. Qua biết bao nhiêu biến cố, Hà Nội vẫn giữ vai trò là thủ đô và

trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và là niềm tự hào của người dân

Việt Nam cho tới ngày nay.

Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của

Việt Nam. Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2 sau đợt mở rộng hành chính năm 2008 [32, tr.22] đồng thời cũng là địa

phương đứng thứ nhì về dân số với 7.500.000 người (năm 2015) [33, tr. 14].

Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành, tiếp giáp với

các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam,

43

Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía

Tây. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng

bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông

khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc

Oai, Mỹ Đức. Khí hậu Hà Nội chia ra thành 4 mùa: Xuân, hạ, thu, đông, tiêu

biểu cho khí hậu miền Bắc.

2.1.2. Tình hình Kinh tế - Xã hội thành phố Hà Nội

Điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và khí hậu đã tạo cho Hà Nội nhiều

cơ hội phát triển về kinh tế. Năm 2009 Hà Nội đứng đầu cả nước về diện tích,

thứ hai về dân số và tổng sản phẩm quốc nội sau Tp. Hồ Chí Minh. Trong

năm 2015, kinh tế Thủ đô tiếp tục có chuyển biến tích cực, đạt kết quả khá.

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 9,24% - mức tăng cao nhất

trong 4 năm trở lại đây và đạt kế hoạch của năm 2015. Quy mô GRDP đạt

khoảng 27,6 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 3.600 USD - gấp

1,8 lần so với năm 2010. Các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng khá. Giá

trị gia tăng ngành công nghiệp năm 2015 ước tăng 8,05%; ngành xây dựng

tăng 12,4%, cao nhất kể từ năm 2010; ngành dịch vụ ước tăng 9,91%; ngành

nông nghiệp ước tăng 2,47%.

Thị trường cung cầu hàng hóa được ổn định, giá cả được kiểm soát,

không để xảy ra tình trạng khan hàng hoặc tăng giá đột biến. Tổng mức lưu

chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 11,7%. Công tác thu - chi

ngân sách được đảm bảo. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt

146.585 tỷ đồng, đạt 103,5% dự toán HĐND thành phố giao; chi ngân sách

ước thực hiện 69.970 tỷ đồng, đạt 118,5% dự toán (do bổ sung từ nguồn tăng

thu, nguồn thưởng vượt thu và phát hành trái phiếu xây dựng Thủ đô).

Đặc biệt, hoạt động tín dụng chuyển biến tích cực, mặt bằng lãi suất

huy động và cho vay giảm 1,5-2% so với đầu năm; ước tổng vốn huy động

44

trong năm 2015 đạt 1,45 triệu tỷ đồng, tăng 21,85% so với đầu năm; tổng dư

nợ đạt trên 1,21 triệu tỷ đồng, tăng 19,5% so với đầu năm… Tuy nhiên, tình

hình xuất khẩu dù đã phục hồi so với đầu năm nhưng chuyển biến chậm. Kim

ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 11,348 tỷ USD, tăng 2,52% thấp hơn nhiều

kế hoạch đề ra là tăng 8-9%. Nguyên nhân là do hàng xuất khẩu cạnh tranh

kém, một phần do tiền đồng Việt Nam đang mạnh lên trong năm qua, cụ thể

mạnh lên 19,6% so với Euro, 16,2% so với Yên Nhật, 51% so với Rup Nga…

Bên cạnh đó, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó

khăn, số doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng so với năm 2015. Tiến độ một

số công trình trọng điểm còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu; việc phát hiện và

xử lý vi phạm về trật tự xây dựng ở một số địa phương chưa kịp thời…

Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn

2016-2020, Hà Nội đặt mục tiêu tổng quát trong năm 2016 là đẩy mạnh cải

thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phấn đấu tốc độ tăng

trưởng cao hơn năm 2015...

(Nguồn: http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/174-542-ha-noi-tam-voc-thu-do.html)

Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP Hà Nội giai đoạn 2008-2013

Thu nhập và đời sống của ngƣời dân

45

Với những chỉ số tăng trưởng tích cực, có thể thấy kinh tế Hà Nội đã khởi

sắc trở lại sau nhiều năm chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự

nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế của thành phố Hà Nội cũng có chuyển biến tiến

bộ. Hà Nội đã chủ trì và phối hợp tham gia tổ chức thành công các sự kiện, các

hoạt động văn hóa nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc

khánh 2/9. Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp

diễn ra nghiêm túc. Mức tăng trưởng của Thủ đô năm 2015 đạt 9,24%, cao hơn

năm 2014. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm ước tăng 9,23%, gấp

1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước, bình quân thu nhập đầu người

khoảng 3.600 USD, cao gấp 1,8 lần so với năm 2010.

(Nguồn: - Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê 2014)

Biểu đồ 2.2. Tăng trưởng GDP Hà Nội quý I từ 2009 - 2014

Tuy nhiên, Hà Nội đang gặp nhiều vấn đề khó khăn trong việc quản lý

quy hoạch các vùng đang đô thị hóa. Rất nhiều những dự án lớn đang được

xây dựng trên các vùng mở rộng của Hà Nội đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ và sát

sao của các nhà lãnh đạo thành phố tránh sự vướng mắt và đảm bảo sự phát

triển bền vững của thành phố. Ngoài ra, các vấn đề khác như thủ tục hành

chính rườm rà của thủ đô, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, xây dựng

46

nếp sống văn minh, quản lý đất đai, trật tự đô thị cũng đang rất nhức nhối.

Những đặc điểm và kinh tế, xã hội của thủ đô Hà Nội cho thấy sự ảnh

hưởng của những yếu tố này tới hoạt động công chứng trên địa bàn. Vị trí địa

lý rộng với... khiến cho Hà Nội trở thành địa bàn có số lượng tổ chức hành

nghề công chứng lớn nhất trên cả nước hiện nay, quy mô của các tổ chức

hành nghề công chứng lại không đồng đều. Những Văn phòng công chứng

trong nội thành tại các quận trung tâm lớn hơn rất nhiều những tổ chức hành

nghề công chứng tại các quận ngoại thành mới được mở rộng và sát nhập vào

Hà Nội. Ngoài ra, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội là đầu tầu của cả nước

chính vì vậy, số lượng giao dịch qua công chứng rất nhiều, tính chất đa dạng,

phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy, trên thực tế, hoạt động công

chứng của thủ đô đang là điểm nóng trên cả nước, có sức ảnh hưởng tới hoạt

động công chứng của các địa phương khác và được nhà nước quan tâm kiểm

soát và quản lý.

2.2. Những điểm mạnh trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua

2.2.1. Về mặt tổ chức của Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội

2.2.1.1. Thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng

công chứng

Ngay từ khi Luật Công chứng 2006 ra đời và có hiệu lực thi hành ngày

01/7/2007 thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng bằng quy định cho phép

thành lập Văn phòng Công chứng dưới hình thức Công ty tư nhân hoặc công ty

hợp danh, Hà Nội đã chứng tỏ là mảnh đất tốt cho hoạt động của các Văn phòng

Công chứng phát triển. Hà Nội lúc này có dân số trên 4 triệu người nhưng chỉ có

6 phòng công chứng Nhà nước với gần 30 Công chứng viên luôn hoạt động

trong tình trạng quá tải để giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến công

47

chứng, hợp đồng giao dịch, hợp đồng thế chấp bất động sản, di chúc, văn bản

thỏa thuận phân chia di sản, nhận lưu giữ di chúc... Ngày 9/7/2007, ủy ban nhân

dân thành phố Hà Nội đã có quyết định số 2692/QĐ-UBND cho phép thành lập

7 Văn phòng Công chứng. 7 Văn phòng Công chứng này bao gồm: văn phòng

Công chứng Thăng Long (tại 54 phố Trần Nhân Tông, quận Hai Bà Trưng),

Văn phòng Công chứng Hà Nội (ở A38 phố Hoàng Ngân, phường Trung Hòa,

quận Cầu Giấy), Văn phòng Công chứng Ba Đình (tại số 3C Láng Hạ,

phường Thành Công, quận Ba Đình), Văn phòng Công chứng Hoàng Mai (ở

1253 đường Giải Phóng, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai), Văn phòng

Công chứng Việt (tại 219 phố Nguyễn Ngọc Vũ, phường Trung Hòa, quận

Cầu Giấy), Văn phòng Công chứng Đông Anh (ở tổ dân phố số 2, thị trấn

Đông Anh, huyện Đông Anh), Văn phòng Công chứng Đào và đồng nghiệp

(tại số 45, ngõ 90, đường Khuất Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh

Xuân). Các Văn phòng Công chứng ra đời như một làn gió mới giả quyết nhu

cầu rất lớn của người dân lúc bấy giờ và làm thỏa mãn những mong mỏi của

người dân về một môi trường hành chính chuyên nghiệp, chất lượng và phục

vụ nhanh chóng.

Sau tám năm thi hành Luật Công chứng 2006 và một năm thi hành Luật

Công chứng 2014, Theo kết quả sơ kết việc thực hiện Quyết định số

2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy

hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” trên

địa bàn thành phố Hà Nội của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ngày

30/12/2015, số lượng tổ chức hành nghề công chứng tăng qua các năm. Nếu

như năm 2007, khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực mở rộng kế hoạch xã

hội hóa hoạt động công chứng thì đã có 9 tổ chức công chứng trong đó có 6

Phòng và 3 Văn phòng Công chứng mới được thành lập). Chỉ sau 5 năm thi

hành Luật Công chứng đến năm 2012 đã có 96 tổ chức tổ chức hành nghề

công chứng gấp 10 lần so với năm 2007 trong đó có 10 Phòng Công chứng và

48

86 Văn phòng Công chứng. Đến nay, thành phố Hà Nội đã có 110 tổ chức

hành nghề công chứng trong đó có 100 Văn phòng Công chứng và 10 Phòng

Công chứng phủ rộng khắp 30 quận, huyện, thị xã, giải quyết việc làm cho

hơn 1.200 người lao động và đáp ứng nhu cầu công chứng rất lớn của các tổ

chức, cá nhân trên địa bàn thành phố. Số lượng Văn phòng Công chứng trên

địa bàn đã vượt so với quy hoạch là 9 Văn phòng. Việc thành lập các Văn

phòng Công chứng giai đoạn 2011 - 2015 đảm bảo tuân thủ đúng quy định

của pháp luật. Các Văn phòng Công chứng khi mới thành lập có gặp một số

khó khăn về vốn, trụ sở, nhân viên, khách hàng, xây dựng thương hiệu v.v...

không ít Văn phòng công chứng ra đời khi chưa kịp chuẩn bị chu đáo về nhân

sự, về cơ sở vật chất, làm ảnh hưởng chất lượng hoạt động. Vượt qua những

khó khăn, trở ngại ban đầu,đến nay, đa số Văn phòng Công chứng đã dần

khẳng định được vị trí, vai trò của mình, hoạt động theo hướng ngày càng

chuyên nghiệp, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người dân [35].

Các quy định về trình tự thủ tục thành lập văn phòng công chứng nhìn

chung không quá phức tạp, gây khó khăn cho công chứng viên có nhu cầu

thành lập văn phòng. Tuy nhiên, để thành lập văn phòng mới hiện nay tại

nhiều quận nội thành thành phố Hà Nội là rất khó khăn vì chỉ tiêu quy hoạch

tổ chức công chứng trong nội thành gần như đã đáp ứng đủ nhu cầu của người

dân, thậm chí còn phân bố khá gần nhau dẫn đến tình trạng cạnh tranh không

lành mạnh. Còn tại các quận huyện ngoại thành, do nhu cầu giao dịch không

cao, tính chất giao dịch đơn giản và người dân thường có thói quen thực hiện

giao dịch tại phường xã, chính vì vậy, nhu cầu thành lập Văn phòng công

chứng ở tại các địa phương này của công chứng viên không nhiều.

2.2.1.2. Bộ máy nhân sự của Văn phòng Công chứng

Theo quy định của Luật Công chứng, các công chứng viên liên kết với

nhau để tổ chức hoạt động nghề nghiệp của mình theo loại hình công ty hợp

49

danh. Trong Văn phòng Công chứng, công chứng viên được coi là Trưởng

Văn phòng Công chứng có vị trí tương tự như chủ một doanh nghiệp, là người

đại diện theo pháp luật. Khác với Phòng công chứng do nhà nước thành lập

còn phụ thuộc vào biên chế và ngân sách của nhà nước, các Văn phòng Công

chứng thì do các công chứng viên hợp danh và Trưởng Văn phòng Công

chứng có quyền thiết lập, tổ chức bộ máy, bố trí, sắp xếp nhân sự sao cho Văn

phòng Công chứng của mình hoạt động có hiệu quả và ít tốn kém chi phí.

Trong những năm qua, có thể thấy bộ máy của Văn phòng Công chứng

hoạt động thực sự có hiệu quả dưới hình thức doanh nghiệp hợp danh. Đại

diện theo pháp luật của những Văn phòng Công chứng đều là những công

chứng viên hợp danh của Văn phòng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm

trở nên theo quy định của pháp luật.

Từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, cả nước có hơn 1900 công chứng

viên đang hành nghề. Trong đó, thủ đô Hà Nội là địa phương có số lượng

công chứng viên nhiều nhất cả nước với 400 Công chứng viên đang hành

nghề tại các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Đây có thể nói là sự

phát triển vượt bậc, thể hiện vai trò quan trọng của công chứng trong việc

phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô và vai trò của công chứng thủ đô trong sự

phát triển chung của công chứng trên cả nước. Ngoài ra, các Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội đã giải quyết việc làm cho hơn 1.200

người lao động bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như: nhân viên kế toán,

nhân viên lưu trữ, nhân viên hành chính – nhân sự, nhân viên lễ tân, nhân viên

sao y – chứng thực, thư ký nghiệp vụ, nhân viên bảo vệ, lái xe, nhân viên tạp

vụ,…. Không chỉ giải quyết việc làm, các Văn phòng Công chứng còn đảm

bảo cho lao động của mình có mức thu nhập ổn định để trang trải cuộc sống.

Tuy nhiên, về mặt này có sự phân hóa giữa những Văn phòng Công chứng

quy mô lớn trong nội thành với những văn phòng có quy mô nhỏ tại ngoại

50

thành nơi nhu cầu giao dịch của người dân không cao. Những Văn phòng

Công chứng quy mô lớn, trong nội thành, số lượng giao dịch lớn cần số lượng

nhân viên nhiều để đáp ứng được nhu cầu và nguồn thu đến từ hoạt động công

chứng lớn thường yêu cầu cao đối với nhân lực về cả năng lực và hình thức.

Tại đây, mức lương trả cho công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng

rất cao, thường từ mười bốn triệu đồng trở lên và mức lương của thư ký

nghiệp vụ cũng như nhân viên tại cái vị trí chủ chốt khác cũng giao động trên

dưới mười triệu đồng. Tuy nhiên, tại những văn phòng quy mô nhỏ, dưới 10

nhân viên, mức chi trả lương chỉ từ năm triệu đồng. Tuy nhiên, xét về mặt

tổng quan, bộ máy nhân sự của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thủ

đô vẫn đang hoạt động rất hiệu quả, giải quyết việc làm với mức thu nhập hợp

lý cho người lao động và là một trong những ngành tiềm năng cho người lao

động tìm việc làm.

2.2.1.3. Tổ chức nghề nghiệp của Văn phòng Công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

Có thể thấy trong tình hình hiện nay, công tác quản lý trong lĩnh vực

công chứng càng trở nên phức tạp do sự phát triển ồ ạt đặt ra yêu cầu về quản

lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động công chứng. Để vừa đảm bảo vai trò

quản lý, vừa phát huy được tính tự quản đòi hỏi phải có một tổ chức xã hội

nghề nghiệp ra đời là nơi để các công chứng viên tự giám sát lẫn nhau trong

hành nghề. Do vậy, theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,

ngày 22/10/2011 Hội Công chứng thành phố Hà Nội chính thức ra đời. Đây là

Hội công chứng đầu tiên được thành lập trong cả nước là điểm sáng, đánh dấu

bước phát triển mới của lĩnh vực công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

nói riêng và là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển Hội Công chứng ở các

tỉnh, thành khác tiến tới thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc.

Ngày 12/04/2016, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt Điều

51

lệ Hội Công chứng viên thành phố Hà Nội và ban hành Quyết định số

1615/QĐ-UBND về việc cho phép đổi tên từ Hội Công chứng thành phố Hà

Nội thành Hội Công chức viên thành phố Hà Nội.

Theo quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hội Công

chứng viên thành phố Hà Nội có trụ sở tại Phòng Công chứng số 1 (ở số 310

phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Đây là tổ chức xã hội nghề

nghiệp của các công chứng viên đang hành nghề tại thành phố Hà Nội, có tư

cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Hội hoạt động trên cơ sở tự

nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động, chịu sự quản lý Nhà nước

của Sở Tư pháp và các sở ban, ngành có liên quan, đảm bảo tuân thủ Hiến

pháp, pháp luật, Luật Công chứng và Điều lệ Hội. Hội Công chứng Hà Nội là

thành viên của Hiệp hội công chứng Việt Nam, có quan hệ công tác với các tổ

chức xã hội khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Ban chấp hành Hội

công chứng viên thành phố Hà Nội có 15 người nhiệm kỳ 2015-2018. Đồng

thời, Hội cũng bầu ra Ban kiểm tra, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Hội.

Tính đến tháng 5/2015, mặc dù còn rất non trẻ song Hội Công chứng

viên Hà Nội đã đạt được những thành quả rất đáng ghi nhận. Bộ máy tổ chức

Hội đã đi vào hoạt động một cách ổn định và nề nếp. Các văn kiện pháp lý

đảm bảo cho hoạt động của Hội đã được xây dựng và triển khai thực hiện đầy

đủ và hiệu quả. Thực hiện tốt các kế hoạch về đối nội và đối ngoại; Hàng

năm, Hội phối hợp cùng với Sở Tư pháp thành phố Hà Nội tổ chức các lớp

tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho công chứng viên, nhân viên

nghiệp vụ. Ngoài ra, Hội cũng có tiếng nói nhất định trong việc bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của công chứng viên là thành viên của Hội khi có mâu

thuẫn, tranh chấp xảy ra. Đặc biệt, Hội đã tham gia tích cực trong việc xây

dựng nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, trong đó có Luật

52

Công chứng sửa đổi 2014.

2.2.2. Về hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

2.2.2.1. Hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch của Văn phòng

công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Luật Công chứng 2014 ra đời không thay đổi nhiều trình tự và thủ tục

công chứng. Từ những quy định của Luật công chứng về hoạt động công

chứng hợp đồng giao dịch cho chúng ta nhìn nhận một cách khách quan hơn

về trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công chứng hợp đồng, giao

dịch. Bởi vì, công chứng viên là người kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ, xem xét

hồ sơ nếu thấy đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì mới thụ lý.

Những hồ sơ có vấn đề chưa rõ, hoặc thấy việc giao kết hợp đồng, giao dịch

có dấu hiệu bị đe doạ, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về hành vi dân sự của người

yêu cầu công chứng, nghi ngờ vê đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không

có thật thì công chứng viên phải đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ

hoặc công chứng viên phải xác minh hoặc yêu cầu giám định... Khi quy định

cho công chứng viên được soạn thảo hợp đồng theo đề nghị của người yêu

cầu công chứng hoặc do người yêu cầu công chứng soạn thảo sẵn đưa đến thì

công chứng viên vẫn phải chấp hành các thủ tục, trình tự chặt chẽ theo các

quy định của Luật và phải được sự chấp thuận đồng ý của các bên tham gia

hợp đồng, giao dịch.

Cần phải nói thêm rằng, trách nhiệm của công chứng viên đối với hợp

đồng giao dịch không chỉ có những điểm đã nêu trên mà còn liên quan đến

nhiều vấn đề khác như: nếu văn bản công chứng có lỗi về kỹ thuật như sai sót

do đánh máy, do ghi chép, do in ấn mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của

người tham gia hợp đồng, giao dịch thì công chứng viên là người thực hiện

việc sửa lỗi kỹ thuật đó. Việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã

53

có sự thoả thuận, cam kết của tất cả những người tham gia hợp đồng, giao

dịch thì phải được công chứng. Người thực hiện việc công chứng sửa đổi, bổ

sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch phải là công chứng viên.

Đối với việc công chứng di chúc nếu công chứng viên phát hiện thấy

việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc nghi ngờ người

lập di chúc bị bệnh tâm thần hay bị bệnh khác mà không thể làm chủ được

hành vi của mình thì công chứng viên có quyền từ chối hoặc theo đề nghị của

người lập di chúc tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Trách nhiệm

của công chứng viên trong việc công chứng văn bản thoả thuận phân chia di

sản là phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là

người được hưởng di sản. Trong khi kiểm tra thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho

rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì phải từ

chối công chứng hoặc phải tiến hành xác minh.

Ngoài ra, để phòng tránh sự lạm dụng quyền hạn của công chứng viên

làm ảnh hưởng đến sự công bằng và sai phạm khi thực hiện nhiệm vụ công

chứng, Luật công chứng đã có quy định nghiêm cấm một số hành vi đối với

công chứng viên như: không được tiết lộ thông tin về nội dung công chứng

mà mình biết được khi hành nghề, không được sử dụng thông tin đó để xâm

hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không được nhận hoặc đòi hỏi

bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngoài phí công chứng, thù lao công

chứng khi đã được thoả thuận; không được thực hiện công chứng khi mục

đích và nội dung hợp đồng, giao dịch trái với đạo đức xã hội, vi phạm pháp

luật. Công chứng viên không được công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan

đến tài sản, lợi ích của bản thân và gia đình...

Trong những năm trở lại đây, hoạt động công chứng phát triển mạnh

mẽ, số lượng hợp đồng giao dịch ngày càng tăng cùng với tính chất phức tạp

54

của nó. Sở Tư pháp Hà Nội phối hợp với Học viện Tư pháp cùng với các tổ

chức công chứng uy tín tại Hà Nội lên tục tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo

phổ biến những quy định pháp luật mới cũng như chia sẻ kinh nghiệm liên

quan đến hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch trên địa bàn thành phố.

Nhờ vậy đã nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công chứng cũng như đảm

bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch.

2.2.2.2. Hoạt động chứng thực của Văn phòng công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

So với Luật Công chứng 2006, Luật Công chứng 2014 có nhiều điểm

mới, góp phần tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập về thể chế, nâng cao

chất lượng hoạt động công chứng, công chứng viên, tổ chức hành nghề công

chứng nhằm phục vụ tốt và hiệu quả hơn nhu cầu công chứng của người dân.

Chẳng hạn, mở rộng phạm vi công việc mà công chứng viên được thực hiện, bổ

sung các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động công chứng, sửa đổi bổ sung

quy định về tiêu chuẩn chuẩn công chứng viên, tập sự hành nghề công chứng, bổ

nhiệm lại công chứng viên, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng

viên, bồi thường và bồi hoàn trong hoạt động công chứng, mức trần thù lao công

chứng... Trong đó, điểm nổi bật là việc mở rộng phạm vi công việc mà công

chứng viên được thực hiện. Cụ thể, bên cạnh nhiệm vụ chứng nhận tính xác

thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, Luật Công chứng 2014 còn giao

cho công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng quyền công chứng, phải

chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bản dịch giấy tờ, văn bản từ

tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại [22, Điều 61, Khoản 3]. Quy định

này đã khắc phục được hạn chế của Luật Công chứng 2006 khi giao cho

phòng tư pháp cấp huyện thực hiện chứng thực chữ ký của người dịch, dẫn

đến chất lượng bản dịch còn hạn chế, trong khi trách nhiệm của người chứng

thực và người dịch không rõ ràng, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi người dân.

55

Bên cạnh đó, công chứng viên còn được giao nhiệm vụ chứng thực

bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Việc chứng

thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được

thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực [22]. Trước đây, khi

người dân đến yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận hợp

đồng, giao dịch như thuê nhà, chuyển quyền sở hữu nhà, chuyển quyền sử

dụng đất mà có nhu cầu chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ tài liệu

liên quan để đăng ký sang tên hoặc nộp thuế thì tổ chức công chứng không

làm được, phải hướng dẫn người dân đến Uỷ ban nhân dân phường, xã để

sao y, đến phòng tư pháp thực hiện bản dịch. Như vậy gây bất tiện, phiền hà

cho người dân. Có thể nói Luật Công chứng sửa đổi kỳ này đã tạo thuận lợi

rất lớn cho người dân khi có yêu cầu công chứng giấy tờ, bản dịch; đồng

thời giảm bớt sự quá tải của phòng tư pháp cấp huyện và Uỷ ban nhân dân

cấp xã trong việc chứng thực.

2.2.2.3. Thay đổi đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng

Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng

theo Luật Công chứng hiện hành sẽ phải thực hiện khi thay đổi những nội

dung về tên gọi của Văn phòng công chứng, họ tên Trưởng Văn phòng

công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng công chứng, danh sách công

chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và danh sách công chứng

viên làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng công chứng. Văn

phòng công chứng phải đăng ký nội dung thay đổi tại Sở Tư pháp nơi Văn

phòng công chứng đã đăng ký hoạt động.

Khi thay đổi nội dung hoạt động, Văn phòng Công chứng phải cung

cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng,

Sở Tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan thống

kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng công

56

chứng đặt trụ sở.

Ngoài ra, Luật Công chứng 2014 cũng quy định:

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký

hoạt động, Văn phòng công chứng phải đăng báo trung ương hoặc

báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về

những nội dung sau đây: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Văn phòng

công chứng; Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm của công chứng viên

hành nghề tại Văn phòng công chứng; Số, ngày, tháng, năm cấp

giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và ngày bắt đầu

hoạt động. Trong trường hợp được cấp lại giấy đăng ký hoạt động,

Văn phòng công chứng phải thực hiện việc đăng báo về nội dung

đăng ký hoạt động [22, Điều 26].

Hiện nay, sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành đến nay,

việc đăng ký lại hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành

phố rất phổ biến. Do tính chất là địa bàn đi đầu cả nước về hoạt động công

chứng, nên không chỉ nhiều về số lượng và tính chất phức tạp của Hợp đồng

giao dịch mà cả về số lượng và quy mô của các văn phòng công chứng, số

lượng công chứng viên dẫn đến việc thay đổi trụ sở Văn phòng, Trưởng văn

phòng hay đặc biệt là công chứng viên hợp danh diễn ra thường xuyên để

phục vụ cho hoạt động của văn phòng một cách hiệu quả cũng nhu nhu cầu cá

nhân của các công chứng viên. Các thủ tục hành chính để thực hiện việc này

đang được Sở Tư pháp thành phố Hà nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hà

Nội thực hiện nhanh chóng, không gây sự cồng kềnh, tốn nhiều thời gian và

không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các văn phòng công chứng.

2.2.2.4. Chế độ tài chính của Văn phòng Công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

Về nguồn thu của Văn phòng Công chứng

57

Hiện tại, phí công chứng đang được áp dụng thống nhất giữa các tổ

chức hành nghề công chứng và theo quy định tại thông tư liên tịch số

08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp

hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng.

Cùng với Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015, các tổ

chức hành nghề công chứng cũng thực hiện việc thu lệ phí chứng thực bản sao từ

bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực Hợp đồng, giao dịch theo Thông tư

liên tịch số 158/2015/TTLT-BTC-BTP. Ngày 31/3, Phó Chủ tịch UBND thành

phố Hà Nội Ngô Văn Quý ký quyết định số 10/2016/QĐ-UBND ban hành mức

trần thù lao công chứng, dịch thuật tại các tổ chức hành nghề công chứng trên

địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó, thù lao soạn thảo hợp đồng, giao dịch đối

với các loại hình như chuyển dịch nhà đất; hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh,

góp vốn; hợp đồng thuê, mượn nhà, đất, hợp đồng mua bán, tặng cho ô tô, xe

máy; văn bản phân chia tài sản; soạn thảo di chúc… mức trần thù lao là 1 triệu

đồng. Đối với thù lao soạn thảo văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản

khai nhận di sản thừa kế, mức trần thù lao là 1,2 triệu đồng. Về thù lao dịch

thuật, dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt Nam đối với các tiếng Anh, Nga,

Pháp, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, mức thù lao là 120 ngàn

đồng/trang. Dịch từ tiếng Việt Nam sang các tiếng trên, mức thù lao là 150 ngàn

đồng/trang. Các thứ tiếng nước ngoài khác thì mức thù lao cao nhất không quá

30% so với các thứ tiếng kể trên.

Sau nhiều năm phát triển, các Văn phòng Công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội gặt hát được nhiều thành công đáng kể. Đặc biệt trong hai

năm năm phát triển “nóng” của thị trường bất động sản (các năm 2010 và

2011), các giao dịch chuyển nhượng, thế chấp, mua bán... diễn ra liên tục,

tổng số việc đã công chứng tại Phòng công chứng và Văn phòng Công chứng

trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 2 năm nay tăng vọt lên 216 nghìn việc và

58

220 nghìn việc, thu về cho ngân sách nhà nước 76 tỷ đồng. Đây có thể coi là

thời điểm vàng của lĩnh vực công chứng nói chung và các Văn phòng Công

chứng nói riêng khi mà số lượng hợp đồng giao dịch nhiều, nguồn thu lớn

nhiều văn phòng còn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và dịch vụ rất tốt cho

người dân đến giao dịch như trà, café miễn phí. Đến thời điểm nền kinh tế thế

giới suy thoái năm 2012, ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế Việt Nam, số

lượng Hợp đồng giao dịch công chứng cũng giảm đáng kể, tính đến hết tháng

7/2012, số việc đã công chứng tại địa bàn thành phố Hà Nội là 92 nghìn việc.

Đồng thời, theo Báo cáo kết quả công tác Bổ trợ tư pháp năm 2012 và nhiệm

vụ công tác năm 2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, dù kinh tế có

nhiều khó khăn, thị trường bất động sản trầm lắng, hoạt động giao dịch hạn

chế song hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng tiếp tục phát huy

hiệu quả. Với 100 tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện hơn 200.000 hợp

đồng, giao dịch, thu phí hơn 100 tỷ đồng, thu thù lao công chứng hơn 20 tỷ

đồng và nộp ngân sách hơn 25 tỷ đồng, hoạt động công chứng trên địa bàn

Thủ đô đã góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch,

phục vụ kịp thời nhu cầu hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân…[26].

Từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, các tổ chức hành nghề công chứng trên

địa bàn Thành phố đã công chứng được hơn 800.000 giao dịch, thu gần 450 tỷ

đồng, nộp ngân sách gần 80 tỷ đồng [35].

Nội dung chi của Văn phòng Công chứng

- Chi trả lương cho công chứng viên, nhân viên của Văn phòng Công

chứng hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Mức chi

trả cho quỹ lương của Văn phòng Công chứng phụ thuộc vào quy mô Văn

phòng, số lượng nhân viên, lượng công việc và nguồn thu của Văn phòng.

Các Văn phòng Công chứng ở các quận, huyện ngoại thành, lượng công việc

không nhiều, các giao dịch giá trị nhỏ, quy mô văn phòng nhỏ, số lượng nhân

59

viên ít, mức lương chi trả cho nhân viên cũng không cao vì vậy quỹ lương sẽ

nhỏ hơn rất nhiều những văn phòng lớn và có tên tuổi trong nội thành như

Văn phòng Công chứng Đông Đô, Văn phòng Công chứng Thăng Long, Văn

phòng Công chứng Miền Bắc... Những Văn phòng này có lượng việc cao,

nhiều đối tác lớn, nhân viên nhiều và mức lương cao trên mười triệu đồng thì

quỹ lương rất lớn. Ngoài ra, còn những khoản chi hỗ trợ lương khác như

thưởng và các chi phí hỗ trợ đi lại, ăn nghỉ của nhân viên khác. Nhưng mặt

bằng chung, quỹ lương của Văn phòng Công chứng đã giúp giải quyết được

lượng lớn lao động và giúp cho các lao động này có nguồn thu nhập ổn định

thậm chí là nguồn thu nhập cao để nâng cao chất lượng cuộc sống.

- Thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định tại thông tư liên tịch số

08/2012/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 19 tháng 01

năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí

công chứng thì từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, các Văn phòng Công

chứng trên địa bàn Thành phố đã công chứng được hơn 800.000 giao dịch,

thu gần 450 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 80 tỷ đồng. Đây là một con số cho

thấy hoạt động mạnh mẽ và có hiệu quả của các Văn phòng Công chứng trên

địa bàn và vai trò của các Văn phòng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế -

xã hội của thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.

- Chi văn phòng phẩm và các khoản chi khác như chi cho việc đóng

bảo hiểm xã hội nghề nghiệp, quỹ hội công chứng.

2.2.3. Đảm bảo sự quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của

Văn phòng công chứng

Tính đến nay trên cả nước đã có có 724 Văn phòng Công chứng được

thành lập tại hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 1327

công chứng viên được bổ nhiệm hoạt động tại các Văn phòng công chứng.

Cùng với 156 Phòng Công chứng với hơn 458 công chứng viên, các Văn

60

phòng Công chứng và các công chứng viên hoạt động tại đây đã dần tạo thành

một mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng ngày càng được mở rộng

và phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu công chứng của nhân dân.

Bên cạnh các Phòng Công chứng vốn đã là truyền thống và có “uy tín”, nhiều

Văn phòng Công chứng cũng đã khẳng định được niềm tin và thu hút được

một số lượng khách hàng khá đông đảo. Sự cạnh tranh lành mạnh buộc tất cả

các tổ chức hành nghề công chứng nếu muốn củng cố và phát triển phải cải

tiến, đổi mới, vươn lên khẳng định vị trí, thương hiệu của mình trong xã hội.

Sự hài lòng của người dân và độ an toàn trong giao dịch chính là thước đo chủ

trương xã hội hóa hoạt động công chứng.

Cùng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, việc “công

chứng hóa” hoạt động chứng nhận các giao dịch, hợp đồng nhằm tăng cường

bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của người dân cũng

được quan tâm đặc biệt. Thực hiện Luật Công chứng, Nghị định 04/2013/NĐ-

CP, nhiều Sở Tư pháp đã chủ động xây dựng, tham mưu cho Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh ban hành Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa

phương, tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ vào tình hình phát

triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn, đã và đang bước chuyển

giao việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ ban nhân dân sang cho tổ

chức hành nghề công chứng thực hiện. Đến nay, hầu hết các địa phương trên

cả nước thực hiện việc chuyển giao và một số địa phương khác cũng đang

trong quá trình thực hiện việc chuyển giao. Công tác thanh tra, kiểm tra,

hướng dẫn hoạt động đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn

cũng được nhiều địa phương quan tâm và dần đi vào nền nếp.

2.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua

2.3.1. Những tồn tại trong tổ chức của Văn phòng Công chứng

61

Như vậy, hiện nay, so với Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công

chứng trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015 thì Hà Nội thành

lập vượt 9 Văn phòng Công chứng; trong 8 Văn phòng Công chứng được

thành lập tại các quận nội thành: Đống Đa, Cầu Giấy và Hai Bà Trưng (ở thời

điểm trước khi có Quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ, tức là trước ngày

29/12/2012). Một số tồn tại hạn chế trong việc thực hiện quy hoạch của thành

phố như việc sắp xếp lại các tổ chức hành nghề công chứng tại các địa bàn

vượt Quy hoạch gặp nhiều khó khăn; Hoạt động của một số tổ chức hành

nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự ổn định, bền vững; có sự

cạnh tranh không lành mạnh, trình độ quản lý còn bất cập. Hiện tượng không

tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn

xảy ra; việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ

UBND một số xã, phường, thị trấn sang tổ chức hành nghề công chứng vẫn

gặp một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai.

2.3.1.1. Việc quy hoạch Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố

Hà Nội

Xã hội hóa hoạt động công chứng mở ra hướng phát triển tươi sáng

cho các Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, tại Hà Nội việc xã hội hóa hoạt

động công chứng này đang diễn ra một cách ồ ạt, khó kiểm soát. Hiện nay,

Hà Nội có hơn 100 tổ chức hành nghề công chứng so với thành phố Hồ Chí

Minh chi có 50 Văn phòng Công chứng trong khi nhu cầu giao dịch ở thành

phố Hồ Chí Minh lại nhiều hơn do ý thức pháp luật của người dân thành phố

Hồ Chí Minh tốt hơn ngay cả khi những giao dịch giá trị nhỏ và pháp luật

không bắt buộc phải công chứng, ví dụ như việc sang tên đổi chủ đối với xe

máy được thực hiện rất nghiêm túc. Trái ngược với Hà Nội, tại thời điểm

vàng của lĩnh vực công chứng, trước khi có quyết định quy hoạch tổng thể

của chính phủ, hoạt động công chứng sôi nổi, đem lại lợi nhuận cao, thì các

62

Văn phòng Công chứng thời điểm đó ra đời chàn lan, ồ ạt, không có sự phân

bố hợp lý. Hậu quả bây giờ là số lượng Văn phòng Công chứng lớn hơn so

với nhu cầu của người dân, người dân có quá nhiều sự lựa chọn dịch vụ công

chứng, dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, làm xấu đi hình ảnh của

một tổ chức hành chính công.

Ngoài ra theo quy định của Luật Công chứng 2014, việc thành lập

Văn phòng Công chứng phải có trụ sở đáp ứng điều kiện do chính phủ quy

định và phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề

công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nhưng trong quy định nên

trên và trong quy hoạch tổng thể của chính phủ cũng không có nên rõ trụ sở

của các Văn phòng Công chứng phải cách nhau bao nhiêu xa. Đây là một bất

cập trong quy định của Luật vì mặc dù về mặt số lượng Văn phòng Công

chứng trên một đơn vị quận, huyện vẫn đáp ứng được yêu cầu của quy hoạch

nhưng Văn phòng Công chứng nào cũng đều muốn trụ sở được đặt tại vị trí

đẹp, trên con phố lớn để thu hút được khách hàng. Điều này tất yếu sẽ dẫn

đến tình trạng trụ sở các Văn phòng Công chứng quá gần nhau gây ra sự

cạnh tranh không lành mạnh.

2.3.1.2. Tên gọi của Văn phòng Công chứng

Tên gọi của Văn phòng Công chứng phải”

Bao gồm cụm từ “Văn phòng Công chứng” kèm theo họ tên của

Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh

khác của Văn phòng Công chứng do các công chứng viên hợp danh

thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức

hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử,

văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc [22, Khoản 3].

Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2, Điều 79, Luật Công chứng 2014

quy định về các điều khoản chuyển tiếp cũng nêu rõ, trong trường trường hợp

63

Văn phòng Công chứng thay đổi một trong các nội dung quy định tại khoản 2

Điều 24 Luật Công chứng 2014 như: tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng

Công chứng kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/01/2015) thì phải

thay đổi tên gọi của Văn phòng Công chứng phù hợp với quy định nêu trên.

Còn lại các Văn phòng Công chứng được thành lập trước ngày 01/01/2015 –

ngày Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành thì vẫn được giữ nguyên tên

gọi đã đăng ký.

Đây là quy định bất cập hiện nay gây nhiều tranh cãi. Việc quy định về

việc đổi tên gọi như vậy nhằm tạo ra sự ổn định trong tổ chức và hoạt động

của các Văn phòng Công chứng. Các Văn phòng Công chứng hiện nay mặc

dù theo quy định của pháp luật do hai công chứng viên hợp danh thành lập ra,

nhưng thực tế tại nhiều Văn phòng Công chứng các công chứng viên chỉ đứng

tên trên đăng ký, còn sau lưng có chủ đầu tư là người chủ thực sự đầu tư vốn

và trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Văn phòng Công chứng. Điều này

dẫn đến tình trạng các Văn phòng Công chứng sẽ có rất nhiều thay đổi về mặt

nhân sự đặc biệt là trưởng Văn phòng. Ngoài ra, quy định này cũng nhằm hạn

chế việc các tổ chức công chứng vì mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động có

nhu cầu thay đổi trụ sở tới những nơi đông dân cư, số lượng giao dịch nhiều

để tăng số lượng đầu việc của văn phòng dẫn đến việc trên một địa bàn có quá

nhiều tổ chức công chứng hoạt động gây ảnh hưởng tới việc quy hoạch tổng

thể phát triển Văn phòng Công chứng tại địa phương. Tuy nhiên, quy định

này chưa đạt được mục đích mà các nhà làm luật mong muốn thậm chí, nó

đang gây ra rất nhiều khó khăn, bất cập cho các Văn phòng Công chứng.

Tên gọi không chỉ đơn thuần là danh từ đại diện cho một tổ chức mà nó

còn là thương hiệu, là uy tín liền phải dày công gây dựng của mọi tổ chức nói

chung và Văn phòng Công chứng nói riêng. Những Văn phòng Công chứng

ra đời đầu tiên trên địa bàn thành phố Hà Nội - thành lập từ những năm 2008

64

đã tạo được thương hiệu rất uy tín qua thời gian phát triển lâu dài và điều đó

thể hiện qua tên gọi của Văn phòng gắn liền với địa bàn đặt trụ sở như: Văn

phòng Công chứng Đống Đa trụ sở trên đường Đê Là Thành, quận Đống Đa;

Văn phòng Công chứng Hoàn Kiếm trụ sở trên đường Nguyễn Hữu Huân,

quận Hoàn Kiếm; Văn phòng Công chứng Cầu Giấy trụ sở trên đường Trần

Đăng Ninh, quận Cầu Giấy; Văn phòng Công chứng Long Biên trụ sở tại Ngô

Gia Tự, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Những cái tên này mang tính

thương hiệu rất cao vì nó gắn với tên phường, quận đặt địa điểm, một cái tên

mà chỉ những Văn phòng Công chứng thành lập trong giai đoạn đầu mới có

được, nó còn tạo cảm giác gần gũi, tin cậy, dễ nhớ, dễ đọc đối với người dân.

Ngoài ra, theo quy đinh của Luật Công chứng 2014 các Văn phòng

Công chứng phải đổi tên phù hợp với quy định về tên gọi mới khi đổi địa

điểm đặt trụ sở. Quy định này cũng gây nhiều tranh cãi và sự phản đối của các

Văn phòng Công chứng. Bở lẽ, Văn phòng Công chứng là tổ chức độc lập

hoàn toàn về tài chính vì vậy, không giống như các Phòng công chứng nhà

nước, họ phải chịu rất nhiều sức ép, trong đó có sức ép về trụ sở đặt Văn

phòng. Trụ sở đặt Văn phòng phải được đặt tại nơi mặt phố lớn để thu hút

khách hàng, diện tích Văn phòng phải đủ rộng cho cả diện tích tiếp dân, ký

kết giao dịch, phòng làm việc cho công chứng viên, kho lưu trữ,… Như vậy,

có thể thấy rất ít công chứng viên có thể sở hữu một trụ sở với đầy đủ những

điều kiện như vậy mà chủ yếu là đi thuê địa điểm để đặt trụ sở. Đồng nghĩa

với việc đó là Văn phòng Công chứng phải chịu sức ép về tiền thuê mặt bằng

và sự ổn định khi đi thuê. Trường hợp việc giao kết giữa bên cho thuê và Văn

phòng Công chứng không còn đồng thuận, Văn phòng Công chứng phải

chuyển trụ sở tới một địa điểm khác và phải đổi tên để gọi theo quy định của

Luật Công chứng 2014.

Trên thực tế, việc mất đi tên gọi, mất đi thương hiệu đã gây dựng bao

năm đã tạo ra nhiều tranh chấp không đáng, gây ra nhiều sự ồn ảo và phiền

65

não đối với những người liên quan.

Điển hình như Văn phòng Công chứng Đống Đa và nay là

Văn phòng Công chứng Lê Dung, khi trưởng Văn phòng đã cao

tuổi và muốn nghỉ ngơi và rút tên khỏi đăng ký hoạt động của Văn

phòng Công chứng. Tuy nhiên, chủ đầu tư vì không muốn mất đi

tên gọi của Văn phòng đã tạo ra rất nhiều khó khăn trong việc làm

thủ tục rút tên của Công chứng viên là trưởng Văn phòng. Khi nhận

đơn kiến nghị của Công chứng viên là trưởng Văn Phòng tới Sở Tư

pháp thành phố Hà Nội và Hội Công chứng thành phố Hà Nội, Văn

phòng Công chứng đã nhận Công văn của Sở Tư pháp về việc đình

chỉ hoạt động của Văn phòng Công chứng nếu không hoàn thành

thủ tục Đăng ký lại đăng ký hoạt động của Văn phòng trong đó có

thay đổi Trưởng văn phòng và đổi tên Văn phòng. Sự việc này kéo

dài hơn nửa năm khiến cho hoạt động của Văn phòng Công chứng

gián đoạn rất nhiều.

Mặt khác, Luật Công chứng 2014 quy định: “Tên gọi của Văn phòng

Công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng Công chứng” kèm theo họ tên

của trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác

của Văn phòng Công chứng…” [22, Điều 22, Khoản 3]. Theo đó, “họ tên” ở

đây có thể hiểu là bao gồm họ, tên đệm, tên hay chỉ bao gồm họ, tên và bỏ qua

tên đệm của người được sử dụng làm tên của Văn phòng Công chứng. Quy định

này còn chưa rõ dàng, gây khó hiểu và khó khăn trong việc thi hành.

Tóm lại, mặc dù tên gọi chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ các quy định

về lĩnh vực công chứng và thương hiệu của Văn phòng Công chứng không chỉ

thể hiện ở tên gọi mà nó còn là thái độ phục vụ, chuyên môn nghiệp vụ, mức

thu phí, địa điểm trụ sở hay cơ sở vật chất của Văn phòng,… nhưng ít nhiều

quy định mới về tên gọi của Văn phòng Công chứng tại Luật Công chứng

66

2014 đã, đang và sẽ gây ra nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc, tranh chấp

cho tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung.

2.3.1.3. Tổ chức bộ máy nhân sự của Văn phòng Công chứng trên địa

bàn thành phố Hà Nội

Về chủ đầu tư của Văn phòng Công chứng, thực tế hiện nay, một số

lượng không nhỏ các Văn phòng Công chứng có nguồn vốn không phải của

Trưởng văn phòng hay công chứng viên hợp danh mà là của chủ đầu tư. Chủ

đầu tư là người có số vốn lớn đầu tư và trực tiếp thực hiện các thủ tục để tiến

hành thành lập Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, những người này lại là

những người phải là công chứng viên hoặc không đủ điều kiện để trở thành

Trưởng Văn phòng Công chứng. Chính vì vậy, những chủ đầu tư này sẽ mời

những người đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để đứng tên làm

Trưởng văn phòng và công chứng viên hợp danh trên đăng ký hoạt động của

Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, những Trưởng văn phòng, hay công

chứng viên hợp danh này chỉ có tên trên danh nghĩa mà không hề có quyền

quyết định hay điều hành về nhân sự, tài chính cũng như mọi vấn đề khác của

văn phòng. Khái niệm “chủ đầu tư” không hề được quy định trong mọi văn

bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực công chứng. Nhưng trên thực tế, mô hình

Văn phòng Công chứng có chủ đầu tư đã tồn tại từ rất lâu và ngày càng trở

nên phổ biến. Một chủ đầu tư có thể sở hữu cùng một lúc năm, sáu Văn phòng

Công chứng. Mọi hoạt động của Văn phòng Công chứng đều phụ thuộc vào

chủ đầu tư gây ra rất nhiều bất cập, vướng mắc. Văn phòng Công chứng hoạt

động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Hơn nữa trên địa bàn thành phố Hà

Nội, trong điều kiện cung lớn hơn cầu thì diễn ra sự cạnh tranh giữa các Văn

phòng Công chứng. Điều này đặt ra áp lực rất lớn đối với chủ đầu tư, người

trực tiếp chịu trách nhiệm về mọi vấn đề tài chính của văn phòng. Dưới sức

67

ép tài chính cộng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ công chứng có hạn do

không phải là người có đủ điều kiện trở thành Trưởng văn phòng và không

phải là người trực tiếp ký vào các hợp đồng giao dịch hay là người chịu trách

nhiệm pháp lý khi có tranh chấp xảy ra nên những ông chủ đầu tư thường có

những chiêu thức để thu hút khách hàng, giữ nguồn khách hàng tạo thu nhập

ổn định cho Văn phòng, tránh trường hợp phải bù lỗ. Những chiêu thức hay

sử dụng như những hợp đồng thiếu điều kiện pháp lý theo quy định của pháp

luật vẫn bắt công chứng viên chứng nhận hay thiết lập quy trình công chứng

ngoài trụ sở chỉ cử thư ký nghiệp vụ đi mà không đi kèm công chứng viên để

giảm bớt nhân lực dẫn đến việc công chứng viên viên không được trực tiếp

chứng kiến việc ký kết, quá trình ký kết có sai phạm công chứng viên cũng

không biết,... Ngoài ra, những công chứng viên làm việc tại các Văn phòng

Công chứng có chủ đầu tư sẽ không thể độc lập, khách quan khi thực hiện

việc chứng nhận một giao dịch, luôn có sức ép khiến cho họ luôn lo sợ khi từ

chối những giao dịch không đủ điều kiện công chứng. Đây là một hạn chế rất

lớn của thực trạng hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội hiện tại. Dù thực trạng này diễn ra một cách công khai

nhưng vẫn chưa có chế tài nào được thiết lập để xử lý.

Về Công chứng viên làm việc tại Văn phòng Công chứng, từ khi xã hội

hoá đến nay, nhất là trong giai đoạn đầu do chưa có quy hoạch tổng thể của

Chính phủ, số lượng các Văn phòng Công chứng tăng mạnh và phân bổ

không đều. Số lượng công chứng viên cũng tăng lên rất nhanh và được bổ

nhiệm khá dễ dàng. Nhưng thực tế năng lực và đạo đức nghề nghiệp của rất

nhiều công chứng viên trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế

nhất định. Luật Công chứng năm 2014 quy định khá đầy đủ về mặt hình thức

đối với điều kiện, tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng công chứng viên hợp lý

và cũng khá tương đồng với tiêu chuẩn đối với một số chức danh tư pháp

68

khác. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, vẫn còn tồn tại rất nhiều sai phạm xuất phát

từ cả năng lực lẫn đạo đức hành nghề của công chứng viên. Thậm chí, những

sai phạm này càng có dấu hiệu tinh vi hơn và rất khó phân biệt giữa sai phạm

về năng lực hay về đạo đức hành nghề do vô ý hay cố ý của công chứng viên.

Nguyên nhân có thể kể đến từ những quy định vẫn còn chưa chi tiết và phù

hợp về tiêu chuẩn công chứng viên được đặt ra trong Luật Công chứng 2014.

Có thể thấy rằng, hoạt động công chứng rất đặc thù do công chứng viên là

một cá nhân tiếp nhận, tự xử lý và quyết định từ đầu đến cuối trong suốt quá

trình thực hiện. Quan trọng nhất, Công chứng viên là người tự “chịu trách

nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng"

(khoản 4, Điều 4). Như vậy, từ sức ép công việc đặt ra yêu cầu rất cao cho

công chứng viên về kiến thức pháp luật, về kinh nghiệm áp dụng pháp luật,

kinh nghiệm nghề nghiệp, đôi khi cả tâm lý vững. Thêm vào đó, khi lĩnh vực

công chứng được xã hội hóa dẫn đến sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành

nghề đòi hỏi công chứng viên thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng cộng với sự

khống chế thời hạn phải thực hiện việc công chứng theo quy định của Luật

Công chứng. Từ những sức ép về thời gian, chất lượng văn bản công chứng

thì những quy chuẩn của công chứng viên như vậy còn sơ sài, khó đáp ứng

được với những diễn biến vô cùng phức tạp trong thực tiễn xã hội. Đặc biệt

với những công chứng viên trẻ mới vào nghề hay những công chứng viên

được miễn đào tạo nghề công chứng, thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh nghề

nghiệp dễ mắc phải những sai phạm đáng tiếc. Bộ Tư pháp đã ban hành

Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy định "Quy tắc đạo đức hành nghề công

chứng" ngày 30/12/2012 quy định khá đầy đủ về quy tắc đạo đức hành nghề

của riêng công chứng viên. Tuy nhiên, vì là một bộ quy tắc đạo đức áp dụng

để hành nghề, nên các quy định trong bộ quy tắc này dường như thiếu đi

những quy định đòi hỏi sự chi tiết. Cụ thể như:

69

- Thông tư đã có quy định về việc Công chứng viên thực hiện không

đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ luật theo Điều lệ của tổ

chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành chính hoặc

truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng chưa có quy

định cụ thể về hình thức xử phạt hay mức độ xử phạt là bao nhiêu và việc phải

thành lập đoàn hay hội đồng xử lý vi phạm như thế nào.

- Quy định về việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi

phạm cần đảm bảo được tính khách quan, chuẩn mực và chính xác. Nhưng

những quy định này vẫn còn rất chung chung, chưa đề ra được lịch trình, tiêu

chí và thành phần những người tham gia vào đoàn thanh tra, kiểm tra, giám

sát, khen thưởng, xử lý vi phạm [27, tr. 24 - 25].

Ngoài ra, việc các công chứng viên liên tục thay đổi Văn phòng Công

chứng là nơi làm việc đang trở thành bất cập trong tổ chức của các Văn phòng

Công chứng. Khác với Phòng công chứng, các công chứng viên là viên chức

nằm trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Các công chứng

viên tại các Văn phòng Công chứng hưởng lương từ chính nguồn tài chính

của Văn phòng nên dễ có chuyện từ Văn phòng Công chứng này chuyển sang

Văn phòng Công chứng khác có chế độ đã ngộ tốt. Hiện tượng này xả ra

thường xuyên khiến cho các Văn phòng Công chứng gặp không ít khó khăn

về mặt tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng khó khăn trong việc

kiểm soát và quản lý hoạt động của các công chứng viên.

Về tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bên cạnh những

thành tích đạt được, Hội công chứng viên Hà Nội cũng còn nhiều mặt hạn chế

cần khắc phục để nâng cao vai trò đầu tầu của Hội trong hoạt động công

chứng phát triển bền vững. Về công tác sinh hoạt thường kỳ của Hội. Ngoài

ra, nhiều hội viên của Hội công chứng viên Hà Nội chưa chấp hành đúng nội

70

quy, quy chế của hội, không tham gia các buổi bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên

môn do hội tổ chức. Hiện tượng này là do ý thức chung của các thành viên

trong hội tuy nhiên cũng phải kể đến trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến nội

quy, quy chế cũng như chế tài xử lý vi phạm, kỷ luật của hội chưa mang tính

dăn đe cho hội viên trong hội.

Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đã xây dựng xong cổng thông

tin điện tử của hội, tuy nhiên, mọi văn bản điều hành, thông tin về hoạt động

công chứng trên địa bàn thành phố, thông tin về các buổi tập huân nâng cao

nghiệp vụ,… chưa được cập nhập một cách thường xuyên liên tục. Những

thông tin trên trang điện tử của hội còn hết sức sơ sài, hầu như không có

thông tin gì đáng kể và rất hay gặp vấn đề không tuy cập được. Điều này sẽ

gây khó khăn để các tổ chức hành nghề công chứng nắm bắt thông tin kịp

thời, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian hơn đường bưu điện.

Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đã tổ chức các buổi tập huấn,

trao đổi, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các công chứng viên trên địa bàn thành phố

Hà Nội và đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, số lượng các buổi

tập huấn này không nhiều và mức độ thường xuyên không cao trong khi số

lượng công chứng viên ngày càng tăng nhanh và tính chất giao dịch ngày

càng phức tạp, những vấn đề nghiệp vụ vướng mắc nảy sinh trong quá trình

hành nghề ngày càng đa dạng và phức tạp cần có sự nghiên cứu sâu và trao

đổi kỹ lưỡng. Nhiều quy định của pháp luật chưa rõ rang dẫn đến việc áp

dụng pháp luật của công chứng viên trong sử lý hồ sơ còn chưa thống nhất.

Các công chứng viên khi gặp vướng mắc thường chỉ trao đổi trong nội bộ văn

phòng, chưa có sự tổng hợp các trường hợp diễn ra trên thực tế tại các văn

phòng để giải quyết và thống nhất phương thức xử lý tại các buổi tập huấn

này. Thường trong các buổi tập huấn là các công chứng viên dày dặn kinh

nghiệm chia sẻ về những trường hợp mình trực tiếp làm hay biết được. Tuy

nhiên những trường hợp này chỉ là một phần rất nhỏ trong cuộc sống đa dạng,

71

muôn màu đang diễn ra.

Những buổi tập huấn dành dù ít, dù nhiều cũng rất quý báu đối với mỗi

công chứng viên khi hành nghề. Tuy nhiên, hoạt động của mỗi Văn phòng

Công chứng không chỉ cần công chứng viên là đủ mà còn có sự tham gia của

rất nhiều nhân sự khác, trong đó có các nhân sự mang tính chất chủ chốt, trực

tiếp tham gia và ảnh hưởng một phần không nhỏ đến chất lượng hoạt động

công chứng như thư ký nghiệp vụ. Đối với nhiều Văn phòng Công chứng, thư

ký nghiệp vụ làm việc độc lập và có vai trò ngang ngửa công chứng viên. Mặc

dù chưa được cấp chứng chỉ hành nghề những những thư ký nghiệp vụ làm

việc lâu năm được tin tưởng và giao cho vai trò trực tiếp sử lý hồ sơ như công

chứng viên. Nhưng, Hội công chứng viên thành phố Hà Nội mới chỉ tổ chức

tập huấn cho công chứng viên mà chưa có lớp tập huấn cho vị trí này. Có thể

bào chữa rằng Hội công chứng viên chỉ tập huấn cho các công chứng viên là

thành viên của Hội, nhưng thực tế cho thấy nếu lơ là việc bồi dưỡng cho thư

ký nghiệp vụ cũng chính là chưa bảo vệ được quyền lợi ích của công chứng

viên một cách toàn diện, rất nhiều công chứng viên sẽ phải chịu hậu quả pháp

lý do ký những hợp đồng, giao dịch do những thư ký nghiệp vụ kém chuyên

môn thực hiện. Mặt khác, một vị trí khác cũng đang bị bỏ lơ đó là nhân viên

lưu trữ. Đối với hoạt động công chứng thì việc lưu trữ hồ sơ là yếu tố rất quan

trọng, vì hồ sơ chính là bằng chứng về quy trình công chứng khi có tranh chấp

xảy ra. Tuy vậy, việc bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ này vẫn còn bị bỏ ngỏ.

2.3.2. Những bất cập trong hoạt động của Văn phòng công chứng

trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.3.2.1. Hoạt động cung cấp dịch vụ công chứng cho người yêu cầu

công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Luật Công chứng 2006 và sau này là Luật Công chứng 2014 đã quy

định rõ ràng về trình tự và thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch. Tuy

72

nhiên, trong thực tiễn hoạt động của các văn phòng công chứng tại địa bàn

thành phố Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc và có những trường hợp gây ra

hậu quả nghiêm trọng.

Vụ án nghiêm trọng năm 2011 do Công chứng viên bỏ qua một số

nguyên tắc quan trọng của Luật Công chứng khi lập hợp đồng ủy quyền như

nhận CMND photo, không xác định nhân thân đúng thực tế… Việc làm tắc

trách của công chứng viên đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khi kẻ lừa đảo sử

dụng các bản hợp đồng ủy quyền có tính pháp lý thực hiện hành vi phạm tội,

ngang nhiên bán sổ đỏ của người dân chiếm đoạt hàng tỉ đồng… Hai trường

hợp bị lừa đảo, sử dụng hợp đồng ủy quyền để bán nhà, đều có liên quan đến

trách nhiệm của ông Hoàng Văn Sự, khi đó là công chứng viên của Phòng công

chứng số 5 Hà Nội. Do đó, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Hoàng Văn Sự với

mức án 42 tháng tù giam. Hình phạt này là sự trả giá quá đắt đối với ông

Hoàng Văn Sự, đồng thời cũng là bài học nhắc nhở những người hành nghề

công chứng, cần thực hiện đúng quy định và công tâm trong nghề nghiệp.

Ngoài ra, việc chứng thực chữ ký, bản dịch, sao y mới được giao quyền

hạn cho Văn phòng công chứng từ đầu năm đến nay, tuy nhiên việc thực hiện

vẫn còn nhiều bất cập. Luật Công chứng cũng như Nghị định số:

23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,

chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch chưa có quy định cụ

thể về trình tự việc thực hiện cũng như thời hạn lưu hồ sơ sao y hay chứng

thực, việc quản lý số chứng thực nên các Văn phòng công chứng hiện nay vẫn

còn quản lý lỏng lẻo. Việc sao y với số lượng lớn đã gây ra những khó khăn

nhất định cho các văn phòng công chứng trong việc lưu trữ hồ sơ nên nhiều

văn phòng công chứng đã bỏ qua bước này. Tình trạng này dẫn đến tình trạng

kém an toàn phát lý cho các văn bản giấy tờ sao y vì chúng có giá trị sử dụng

thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ

73

trường hợp pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, việc sao y bản chính một

cách tràn lan và nhanh chóng như các văn phòng công chứng đang thực hiện

sẽ rất khó có nhiều thời gian để xem xét và phát hiện ra giấy tờ giả.

2.3.2.2. Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng Công chứng

Theo quy định của Luật Công chứng 2014, khi thay đổi một trong

những nội dung: Tên gọi của Văn phòng Công chứng, họ tên Trưởng Văn

phòng Công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công chứng, danh sách

công chứng viên hợp danh và danh sách công chứng viên làm việc theo chế

độ hợp đồng thì phải đăng ký lại hoạt động tại Sở Tư pháp nơi Văn phòng

Công chứng đã đăng ký hoạt động. Quy định này đề ra nhằm hướng tới sự ổn

định trong hoạt động của các Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, trên thực tế,

quy định này đang phần nào gây ra những khó khăn cho các Văn phòng Công

chứng. Các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội thay đổi

liên tục nội dung đăng ký hoạt động liên tục vì có sự phụ thuộc vào nhiều yếu

tố như Trưởng Văn phòng hay sức ép từ nơi thuê làm trụ sở, công chứng viên

hợp danh và đặc biệt là công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng thay

đổi liên tục. Các công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng tuyển mới

và nghỉ việc rất nhiều, hay một chủ đầu tư sở hữu cùng lúc nhiều Văn phòng

Công chứng nên sẽ có sự điều động các công chứng viên từ Văn phòng này

qua Văn phòng khác để phục vụ cho công việc dẫn đến tình trạng các Văn

2.3.2.3. Nguồn tài chính của Văn phòng Công chứng

phòng Công chứng liên tục phải làm thủ tục cấp lại đăng ký hoạt động.

Một trong những vấn đề vướng mắc trong nguồn tài chính của các

Văn phòng Công chứng tại Hà Nội hiện nay là hiện tượng trốn thuế đang

diễn ra một cách phổ biến. Hầu hết tại các Văn phòng Công chứng, sau khi

trả tiền làm dịch vụ công chứng, khách hàng chỉ được cung cấp phiếu thu

tự lập, tự in và phát hành của Văn phòng Công chứng chứ không hề cấp

74

hóa đơn đỏ. Điều này thể hiện có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Luật

Quản lý thuế, vi phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp trong ngành

công chứng. Việc cung cấp dịch vụ thu phí không xuất hóa đơn là vi phạm

luật thuế, có thể gọi là hành vi trốn thuế.

Ngoài ra, rất nhiều Văn phòng Công chứng trên địa bàn chấp hành chưa

tốt quy định của pháp luật về thu, chi, quản lý và sử dụng phí công chứng và

thù lao công chứng. Điển hình như việc áp dụng mức thu phí công chứng

không đúng với quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT- BTP-BTC

của liên Bộ Tư pháp - Tài chính hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp quản lý

và xử dụng phí công chứng và Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT- BTP-

BTC sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/20127/TTLT- BTP-BTC. Ngoài ra,

không tiến hành mở sổ sách và hạch toán kế toán theo quy định như: Sổ quỹ

tiền mặt, sổ tiền gửi được lập hết sức sơ sài, không đóng dấu giáp lai, không

có chữ ký của chủ tài khoản cũng là những sai phạm đã xảy ra trong thời gian

qua của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội;

Một ví dụ điển hình khác trong những sai phạm về tài chính là Văn

phòng Công chứng Thăng Long, thành phố Hà Nội đã chi tiền hoa hồng soạn

thảo văn bản, phôtô tài liệu, thu thập tài liệu cho Ngân hàng Techcombank và

Habubank theo tỷ lệ % trên doanh thu thực hiện và hạch toán khoản chi này

vào chi phí. Theo Đoàn Thanh tra, cách chi này là chưa hợp lý và vô hình

chung đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các Tổ chức hành nghề

công chứng. Đoàn Thanh tra không chấp nhận việc Văn phòng Công chứng

Thăng Long cho rằng theo quy định của pháp luật, Văn phòng Công chứng

được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nên việc chi thù

lao công chứng cho ngân hàng là hợp lý và phù hợp với mô hình quản lý tài

chính của Văn phòng Công chứng, do vậy đã yêu cầu Văn phòng Công chứng

Thăng long phải chấm dứt ngay các khoản chi trên [38]. Hiện tượng này

không chỉ xảy ra ở Văn phòng Công chứng Thăng Long mà nó còn trở nên

75

phổ biến ở rất nhiều Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố.

Về các khoản chi của Văn phòng Công chứng cũng chưa được thực

hiện nghiêm túc. Phải kể đến đó là việc đóng bảo hiểm cho người lao động

làm việc tại các Văn phòng Công chứng chưa được thực hiện đúng theo quy

định của pháp luật về lao động. Để cắt giảm nguồn chi cho văn phòng, ngoài

các công chứng viên, rất nhiều người lao động làm việc theo các vị trí khác

nhau như thư ký nghiệp vụ, kế toán, văn thư, lưu trữ, bảo vệ,… không có hợp

đồng lao động và không được các văn phòng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Đây là điều rất nhức nhối đối và thiệt thòi đối với người lao động. Dù góp

phần giải quyết số lượng việc làm đáng kể cho người lao động tại thủ đô

nhưng chế độ đãi ngộ không tốt, thậm chí là quyền lợi hợp pháp chinh đáng

người lao động cũng không được hưởng khiến cho cuộc sống của người lao

động tại các văn phòng này bất bênh, không ổn định. Họ không được ký kết

hợp đồng lao động với văn phòng đồng nghĩa với việc họ phải đối diện với

nguy cơ thất nghiệp bất cứ lúc nào với những lý do chủ quan từ phía người sử

dụng lao động mà không được pháp luật về lao động bảo vệ hay bồi thường

thiệt hại. Ngoài ra những chính sách về thai sản, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất

nghiệp cũng không được hưởng một cách đầy đủ. Điều này đã làm xấu đi

hình ảnh của nơi yêu cầu sự chuẩn mực hóa trong lĩnh vực hoạt động nghiêm

túc, yêu cầu “thượng tôn pháp luật” cao như Văn phòng Công chứng.

2.3.3. Đảm bảo sự quản lý của nhà nước trong tổ chức và hoạt động

của văn phòng công chứng

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng cần phải thừa nhận rằng:

một trong những yếu kém cần khắc phục trong công tác công chứng là hoạt

động quản lý nhà nước đối với công tác này ở nhiều địa phương còn mờ nhạt,

chưa đi vào chiều sâu:

- Ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp còn lúng túng trong việc thực hiện

76

vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn. Thậm chí có nơi băn khoăn không biết

mình quản lý nhà nước đối với Văn phòng Công chứng như thế nào, đối với

công chứng viên hoạt động tại Văn phòng công chứng ra sao; nhiều nơi chỉ

tập trung chỉ đạo đối với hoạt động của Phòng Công chứng... Vai trò quản lý

nhà nước không được phát huy dẫn đến việc các tổ chức hành nghề công

chứng trên một số địa bàn chưa lấy cơ quan tư pháp làm chỗ dựa khi có

những vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động hành nghề mà

thường gửi thẳng các kiến nghị, thắc mắc lên Bộ Tư pháp, không qua Sở Tư

pháp là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác

tư pháp, trong đó có hoạt động công chứng ở địa phương, dẫn đến tình trạng

địa phương thì không nắm được tình hình, còn Bộ lại quá tải, phải giải quyết

cả các hoạt động đơn lẻ, sự vụ.

- Việc xã hội hóa công chứng: bên cạnh những kết quả, cũng đã bắt đầu

xuất hiện những dấu hiệu tiêu cực như sự cạnh tranh không lành mạnh giữa

các tổ chức hành nghề công chứng với nhau(Phòng Công chứng, Văn phòng

công chứng). Thậm chí, tuy chưa phải là phổ biến, nhưng đã có hiện tượng

“công chứng dạo” như phản ánh của một số địa phương (tức là tình trạng

công chứng viên bỏ dấu vào túi đi đến các cơ quan, tổ chức để thực hiện công

chứng)… trong khi Luật công chứng đã quy định rõ việc công chứng phải

được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ một số

trường hợp đặc biệt. Hoặc đã có tình trạng cá nhân góp vốn vào Văn phòng

công chứng yêu cầu được tham gia “quản lý”, “điều hành” Văn phòng công

chứng dẫn đến xung đột, Văn phòng công chứng phải tạm dừng hoạt động

như báo chí phản ánh, trong khi Luật Công chứng đã quy định rõ Văn phòng

công chứng do công chứng viên thành lập và người đại diện theo pháp luật

của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng công chứng, Luật không

quy định việc các cá nhân “góp vốn” vào các Văn phòng công chứng. Điều đó

77

cho thấy, vai trò quản lý nhà nước rõ ràng đã bị buông lỏng, lúng túng hoặc

chưa theo kịp với tình hình. Cần quán triệt một cách rõ ràng rằng, chủ trương

xã hội hóa phải đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước, xã hội hóa càng

mạnh, quản lý nhà nước càng phải tăng cường.

- Các Sở Tư pháp vẫn chưa rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành những

quy định hướng dẫn các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo thẩm

quyền, dẫn đến hoạt động công chứng trên địa bàn gặp nhiều khó khăn cũng

như khó khăn cho việc quản lý chặt chẽ hoạt động này và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của người dân. Đặc biệt, cần quan tâm đến việc tham mưu cho

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Đề án phát triển tổ chức hành nghề công

chứng trên địa bàn để có cơ sở thành lập và phát triển các tổ chức hành nghề

công chứng theo một quy hoạch hợp lý. Hiện nay, tuy đã có rất nhiều địa

phương ban hành Đề án, tuy nhiên, nhiều Đề án còn chung chung, chưa rõ

được chủ trương phát triển và chưa vẽ được bản đồ phát triển tổ chức hành

nghề công chứng ở địa phương, cũng cần phải được rà soát, điều chỉnh cho

phù hợp. Bên cạnh đó, để tăng cường bảo đảm an toàn cho các hợp đồng, giao

dịch của người dân, đồng thời để Phòng tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã tập

trung thực hiện tốt công tác chứng thực, các Sở Tư pháp cũng cần sớm tham

mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ vào tình hình phát triển tổ chức

hành nghề công chứng ở địa phương để hoàn tất từng việc chuyển giao thẩm

quyền chứng nhận các giao dịch, hợp đồng sang cho tổ chức hành nghề công

chứng thực hiện. Mặc dù Bộ Tư pháp đã có chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này,

tuy nhiên, quá trình thực hiện chuyển giao theo điểm 8 Thông tư 03 ở các địa

phương, bên cạnh nhiều thuận lợi, cũng vẫn còn gặp khó khăn ở một số nơi,

78

do chưa thống nhất nhận thức về vấn đề này.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Văn phòng

Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng

Pháp luật về công chứng ở Việt Nam đóng vai trò rất lớn trong quá

trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tuy nhiên, trải qua qua nhiều lần sửa

đổi, bổ sung pháp luật về công chứng vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Vì

vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện pháp luật về công chứng đảm

bảo những yêu cầu sau:

Một là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công chứng đảm bảo thể hiện

rõ tính chất của nhà nước, thể hiện rõ quan điểm, phát triển đúng theo đường

lối, chính sách mà đảng và nhà nước đã đặt ra. Pháp luật công chứng dù có

được làm mới, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm của các nước khác như thế nào

cũng phải phù hợp với các quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, lấy Hiến pháp là đạo luật hàng đầu và không được trái

với Hiến pháp.

Hai là, xây dựng, đổi mới hệ thống pháp luật về công chứng dựa trên sự

sự gắn kết chặt giữa chính sách phát triển hoạt động công chứng với chính

sách trong các lĩnh vực có liên quan khác cũng như: chính sách tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của quốc gia và phù hợp với xu

hướng phát triển chung trên toàn thế giới.

Ba là, hoàn thiện pháp luật công chứng một cách kỹ lưỡng, cụ thể bằng

79

việc đúc kết kinh nghiệm áp dụng pháp luật để chỉ ra những điểm còn hạn chế

kết hợp với việc tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của của các quốc gia có

sự tương đồng về mô hình tổ chức, hoạt động để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung

những quy định thực sự cấp bách và cần thiết mà chưa được Luật công chứng

hiện nay quy định hoặc quy định mà không còn phù hợp, đáp ứng nhu cầu

phát triển nhanh chóng của xã hội.

Bốn là, hoàn thiện pháp luật công chứng theo hướng đẩy mạnh hoạt

động xã hội hóa hoạt động công chứng. phát triển mạng lưới Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối

và phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển chung của thành phố với

chất lượng dịch vụ công chứng, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư

pháp, phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập quốc tế.

Năm là, cần nâng cao hơn nữa vai trò của quản lý Nhà nước về công

chứng bằng việc xây dựng các quy định phân cấp hợp lý trong quản lý nhà

nước, bảo đảm sự điều hành thông suốt từ trung ương đến địa phương, xây

dựng các quy định về cơ chế liên thông, tăng cường sự phối hợp giữa Văn

phòng Công chứng với các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Sáu là, đẩy mạnh hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công

chứng viên – Hội công chứng viên Hà Nội nói riêng và phối với tổ chức nghề

nghiệp của các địa phương khác nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, phối

hợp để xây dựng Hiệp hội công chứng của cả nước để chia sẻ gánh nặng quản

lý đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực công chứng.

Bẩy là phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những phương hướng

quan trọng. Cần nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành, các tổ

chức, cá nhân có liên quan và toàn xã hội về vị trí, vai trò của hoạt động công

chứng nói chung và vai trò của Văn phòng Công chứng nói riêng trong việc

cải cách tư pháp, hành chính, sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội… Các

80

Văn phòng Công chứng phát triển được chỉ khi nhu cầu công chứng tăng lên,

đủ việc để các Văn phòng Công chứng tồn tại và hoạt động một cách hiệu

quả. Chính vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng ý thức

pháp luật cho người dân về tính pháp lý của văn bản công chứng trong giao

dịch dân sự, về vị trí và vai trò của công chứng trong toàn xã hội để dịch vụ

công chứng trở thành nhu cầu tự nguyện và người dân có thái độ và cái nhìn

tích cực về công chứng nói chung và Văn phòng Công chứng nói riêng.

3.1.2. Phương hướng về Quy hoạch phát triển Văn phòng Công chứng

Để quy hoạch các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà

Nội một cách khoa học, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong

hoạt động của các văn phòng diễn ra cần nghiên cứu xây dựng kế hoạch quy

hoạch tổng thể một cách lâu dài và cụ thể để đảm bảo xã hội hóa công chứng

một cách bền vững, không ồn ạt. Để đạt được kế hoạch quy hoạch nghề công

chứng theo yêu cầu chỉ khi đạt được đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng

và cao về chất lượng. Vì thế, cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt

động công chứng, xây dựng đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng, chuyên

môn nghiệp vụ vững vàng, chắc chắn, đạo đức và uy tín nghề nghiệp tốt, quy

định chặt chẽ tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên không để tình trạng bổ

nhiệm công chứng viên bừa bãi, cách thức tổ chức của tổ chức và hoạt động

của Văn phòng Công chứng trong điều kiện tiếp tục thực hiện chủ trương xã

hội hoá hoạt động công chứng quy hoạch phát triển đội ngũ công chứng viên

đến năm 2020 gắn liền và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức

hành nghề công chứng đến năm 2020, cần xây dựng cơ chế, chính sách thu

hút các nguồn lực chất lượng tham gia vào hoạt động hành nghề công chứng.

Bên cạnh đó, chú trọng tới chất lượng của nguồn nhân lực.

Cụ thể, Quyết định số 240/QĐ-TT ngày 17 tháng 02 năm 2011 của Thủ

tướng chính phủ ban hành tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề

công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 đã đưa ra 4 tiêu chí cơ bản để quy

81

hoạch mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 bao gồm:

- Đơn vị quy hoạch: Lấy đơn vị hành chính quận, huyện, thị xã, thành

phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) làm đơn vị quy hoạch

các tổ chức hành nghề công chứng.

- Diện tích, điều kiện địa lý, số lượng dân cư và sự phân bố dân cư: Căn

cứ vào diện tích, điều kiện địa lý, hệ thống hạ tầng giao thông, số lượng dân

cư và sự phân bố dân cư trên địa bàn cấp huyện để quy hoạch vị trí các tổ

chức hành nghề theo các nguyên tắc sau:

a) Hình thành mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng phân bố hợp lý

gắn với số lượng dân cư và địa bàn dân cư.

b) Không tập trung nhiều tổ chức hành nghề công chứng tại một khu

vực trên một đơn vị quy hoạch.

c) Đáp ứng thuận lợi các yêu cầu về dịch vụ công chứng của nhân dân.

- Sự tác động chính sách và pháp luật đến hoạt động công chứng: Căn

cứ vào sự thay đổi, cải cách các chính sách và pháp luật có tác động trực tiếp

hoặc gián tiếp đến hoạt động công chứng (như chính sách về chuyển giao

việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp

xã sang cho tổ chức hành nghề công chứng; chính sách về quy hoạch và phát

triển đô thị; chính sách phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng

điểm; các dự báo về chính sách như chuyển việc công chứng từ hình thức

bắt buộc sang tự nguyện đối với một số loại hợp đồng, giao dịch …) mà kết

quả sẽ làm tăng hoặc giảm số lượng hợp đồng, giao dịch cần công chứng để

tính toán xác định, điều chỉnh số lượng phát triển tổ chức hành nghề công

chứng cho phù hợp.

- Nhu cầu công chứng của xã hội: Nhu cầu công chứng của xã hội

được biểu hiện qua số lượng hợp đồng, giao dịch có nhu cầu công chứng,

phản ánh sự tổng hòa của mức độ phát triển kinh tế - xã hội, quá trình và

82

tốc độ đô thị hóa, sự phát triển của thị trường bất động sản, thị trường vốn,

tài chính, ngân hàng, nhận thức pháp luật của xã hội và các vấn đề có liên

quan. Nhu cầu công chứng là tiêu chí chủ yếu để quy hoạch số lượng các tổ

chức hành nghề công chứng.

Việc xác định số lượng các tổ chức hành nghề công chứng quy hoạch

trên một địa bàn cấp huyện từ nay đến năm 2020 phải căn cứ vào nguyên

tắc sau đây:

a) Quy hoạch ít nhất 01 tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn

cấp huyện.

b) Quy hoạch tối đa không quá 2 tổ chức hành nghề công chứng đối với

những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng trung bình (dưới 6.000 hợp

đồng, giao dịch/năm).

c) Quy hoạch tối đa không quá 4 tổ chức hành nghề công chứng đối với

những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng cao (từ 6.000 hợp đồng, giao

dịch đến dưới 12.000 hợp đồng, giao dịch/năm)

d) Quy hoạch tối đa không quá 5 tổ chức hành nghề công chứng đối với

những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng rất cao (trên 12.000 hợp

đồng, giao dịch/năm).

đ) Bảo đảm tính phát triển bền vững, hiệu quả và bình đẳng trong hoạt

động công chứng; tránh xu hướng phát triển lệch lạc, cạnh tranh không lành

mạnh. Kết hợp việc quy hoạch số lượng tổ chức hành nghề công chứng với

phát triển quy mô, chất lượng tổ chức hành nghề công chứng và phát triển số

lượng công chứng viên để đáp ứng đầy đủ yêu cầu công chứng trên địa bàn.

e) Trong những trường hợp đặc biệt cần phát triển thêm tổ chức hành

nghề công chứng so với mức tối đa đã quy định, Ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương cần giải trình rõ về căn cứ trong đề xuất

Quy hoạch gửi về Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp xem xét, trình Thủ tướng Chính

83

phủ quyết định trong Quy hoạch tổng thể.

Với các tiêu chí nêu trên, việc quy hoạch mạng lưới Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức, hoạt động của các Văn phòng Công

chứng, sự phân bố mạng lưới các Văn phòng Công chứng trên địa bàn, số

lượng, năng lực của các Văn phòng Công chứng, nhu cầu công chứng hiện tại

và dự báo nhu cầu công chứng các giai đoạn tiếp theo ở Hà Nội.

- Bám sát, kết hợp hài hòa, hợp lý và đầy đủ các tiêu chí Quy hoạch của

Chính phủ để vận dụng cụ thể vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thành phố Hà

Nội khi xây dựng nội dung quy hoạch, phát triển các Văn phòng Công chứng.

- Xây dựng bản đồ mạng lưới tổ chức công chứng trên địa bàn một

cách chi tiết về số lượng quy hoạch, vị trí quy hoạch gắn với lộ trình phát

triển cụ thể, tránh việc phát triển "nóng" cũng như kìm hãm sự phát triển hợp

lý của các Văn phòng Công chứng; phát triển đồng bộ về số lượng và chất

lượng dịch vụ của các Văn phòng Công chứng.

- Quy hoạch Văn phòng Công chứng phù hợp với chủ trương và định

hướng xã hội hóa hoạt động công chứng; những nơi khó khăn chưa có điều

kiện xã hội hóa hoạt động công chứng có thể thành lập phòng công chứng để

đáp ứng yêu cầu công chứng của nhân dân, có tính đến lộ trình chuyển đổi các

phòng công chứng sang hoạt động theo cơ chế tự chủ hoàn toàn hoặc một

phần về tài chính.

3.2. Giải pháp nâng cao việc tổ chức và hiệu quả hoạt động của các

Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức

công chứng

Luật công chứng 2014 ra đời là điểm sáng với nhiều quy định mới mang

tính tích cực trong việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng và siết chặt

84

quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại

những điểm còn bất cập, chưa hợp lý cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và tiếp

tục sửa đổi bổ sung để hoàn thiện hơn pháp luật về chuyên ngành này.

- Về thành lập, đăng ký hoạt động và chấm dứt hoạt động của

Văn phòng Công chứng, cần nghiên cứu sửa đổi những quy định còn bất

cập trong pháp luật về công chứng như: bãi bỏ quy định về việc thay đổi

tên gọi của các Văn phòng Công chứng và việc thay đổi đăng ký hoạt động

của Văn phòng Công chứng. Đây được coi là một trong những bất cập lớn

nhất trong những quy định mới của Luật Công chứng 2014 vừa có hiệu lực

thi hành hồi đầu năm. Quy định này gây ra nhiều rắc rối không đáng có cho

các Văn phòng Công chứng và vẫn không có hiệu quả quản lý vì các Văn

phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội có tính chất bất ổn định

do nhiều sức ép dẫn đến có nhiều sự thay đổi về công chứng viên, trưởng

văn phòng, trụ sở văn phòng,...

- Về quy hoạch Văn phòng Công chứng. Quy định pháp luật hiện

hành và tổng thể quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ đang rất chung chung

theo hướng số lượng Văn phòng Công chứng trên một quận/ huyện. Tuy

nhiên, sự cạnh tranh không lành mạnh vẫn sẽ xẩy ra nếu tất cả số lượng Văn

phòng Công chứng cho phép thành lập đều tập trung trên một tuyến phố trung

tâm của quận/ huyện. Chính vì vậy, cần xây dựng những quy định chi tiết hơn

nữa về khoảng cách giữa các Văn phòng Công chứng trong quận/ huyện, sự

phân bố ở trung tâm và ở ngoài vùng trung tâm để có sự trải đều các Văn

phòng Công chứng, đáp ứng nhu cầu của người dân. Sở Tư pháp cần tham

mưu cho thành phố thiết lập mạng lưới công chứng thuận tiện nhất cho người

dân, tránh trường hợp chỗ đậm đặc các Văn phòng Công chứng, chỗ thì

không có. Cần phải đánh giá tốc độ phát triển kinh tế, giao dịch trên từng địa

bàn để đề ra quy hoạch phù hợp. Để tháo gỡ, UBND TP đề nghị Bộ Tư pháp

85

trình Chính phủ bổ sung vào Quy hoạch số lượng tổ chức hành nghề công

chứng trên địa bàn các quận: Cầu Giấy, Đống Đa và Hai Bà Trưng (đã có

trước khi Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến

năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ được phê duyệt).

Cụ thể hơn theo tình hình thực tế, do huyện Từ Liêm tách thành 2 quận

mới là Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm nên bổ sung thêm 3 Văn phòng Công

chứng vào quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng giai đoạn

2016 - 2020 (ngoài số lượng đã được duyệt trong giai đoạn này cho huyện Từ

Liêm cũ) để đảm bảo số lượng các tổ chức hành nghề công chứng được Quy

hoạch tại quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm mỗi quận là 4 Văn phòng.

- Về công chứng viên, siết chặt hơn điều kiện được miễn đào tạo nghề

công chứng. Luật Công chứng 2014 đã xác định rõ hơn tư cách pháp lý của

công chứng viên như “công lại” của Nhà nước, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp

bổ nhiệm để hành nghề công chứng, chịu sự quản lý đồng thời của Nhà nước

và của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Tuy nhiên, hành

nghề tư pháp không có nghĩa là nắm rõ và chuyên sâu về nghiệp vụ công

chứng, ngành hoạt động đòi hỏi độ chính xác cao và bản lĩnh nghề nghiệp. Vì

vậy cần quy định kéo dài hơn nữa thời gian công tác (từ 5 năm trở lên) của

các nhóm đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng. Ngoài ra, cần quy

định gắt sao hơn về cả khóa đào tạo nghề công chứng, khóa bồi bồi dưỡng kỹ

năng hành nghề công chứng cho những người được miễn đào tạo nghề công

chứng như: điều kiện trở thành giảng viên, chất lượng đào tạo, nội dung đào

tạo, trách nhiệm của tổ chức đào tạo đối với việc cấp chứng chỉ hoàn thành

khóa đào tạo… tránh tình trạng học cho có, nhất là đối với khóa bồi dưỡng kỹ

năng hành nghề công chứng ngắn ngày. Quan trọng hàng đầu là quy định về

việc bổ nhiệm công chứng viên cần thắt chặt hơn nữa, tránh tình trạng bổ

nhiệm ồ ạt dẫn đến chất lượng đội ngũ công chứng viên kém, ảnh hưởng rất

lớn đến an toàn giao dịch và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên

86

địa bàn thành phố.

Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công

chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Thời gian bồi dưỡng

nghề công chứng là 3 tháng.

Về tài chính của Văn phòng Công chứng, xây dựng các chế tài nhằm

thắt chặt hơn nữa việc đóng thuế của các Văn phòng Công chứng và việc thu

phí công chứng.

Về Hội công chứng thành phố Hà Nội, tiếp tục nghiên cứu xây dựng

những văn bản quy phạm dưới luật quy định chi tiết và cụ thể hơn về tổ chức

và hoạt động của hội này. Xây dựng và phát triển hội này trên cơ sở tổ chức

nghề nghiệp của các tổ chức công chứng trên địa bàn cả nước chứ không phải

chỉ ở Hà Nội như hiện nay. Hội này cần được xây dựng những quy chế cụ thể

về cách thức hoạt động, điều kiện tham gia thành viên, quyền và nghĩa vụ của

hội, quyền và nghĩa vụ của hội viên, quy chế giám sát, chế tài sử phạt và sự

quản lý của nhà nước đối với hội. Đặc biệt, Nhà nước nên trao cho Hội có

quyền kiểm soát nội bộ. Việc kiểm soát này bắt đầu từ sự kiểm soát nội bộ

trong Hội có phạm vi tỉnh, thành phố đến sự kiểm soát tập trung của hội trên

phạm vi cả nước. Nếu làm được như vậy, sẽ có sự giám sát và kiểm tra chặt

chẽ hoạt động công chứng trên từng địa bàn để dễ dàng phát hiện những vi

phạm, xây dựng chế tài nghiêm khắc, đồng thời thường niên tổ chức những

buổi trao đổi, rút kinh nghiệm để công chứng tại từng địa phương hay trên cả

nước phát triển đồng đều và đảm bảo tính an toàn pháp lý. Hoạt động của Hội

công chứng nếu phát triển mạnh thành tổ chức hoạt động trên cả nước và có

tiếng nói cũng như chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể sẽ hỗ trợ rất nhiều cho

các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động công chứng, đồng thời

kiểm tra sát sao và thường xuyên hơn hoạt động công chứng đảm bảo tính an

87

toàn phát lý cho giao dịch, phát triển kinh tế và an toàn xã hội.

3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác

- Công tác đào tạo nguồn nhân lực

Để nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công

chứng trên địa bàn thành phố cần tăng cường đội ngũ nhân lực chất lượng tốt

bằng cách củng cố, kiện toàn tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp

vụ. Sở tư pháp cần đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức hơn nữa các lớp

tập huấn, tọa đàm, đối thoại để không những các công chứng viên của các tổ

chức hành nghề công chứng được học hỏi, truyền đạt kinh nghiệm trong quá

trình hành nghề lẫn nhau mà còn là điều kiện để công chứng viên và các cán

bộ, công chức ngành Tư pháp có cơ hội giao lưu nhằm tăng sự kết nối giữa bộ

phận tư pháp và bổ trợ tư pháp, nâng cao chức năng quản lý nhà nước về công

chứng. Tại đây, cũng có thể mời các công chứng viên của các tỉnh, thành phố

khác để bồi dưỡng thêm trình độ, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm trong triển

khai thi hành Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với

các công chứng viên của các tỉnh thành mà hoạt động công chứng còn nhỏ lẻ,

chưa sôi động, thì đây là cơ hội rất quý báu để học hỏi kinh nghiệm thực tiễn

của các công chứng viên đầu ngành ở Hà Nội.

Xây dựng chính sách nâng cao đội ngũ nhân lực chất lượng bằng cách

hỗ trợ kinh phí khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật tiếp tục

học nghiệp vụ công chứng và tập sự hành nghề công chứng vừa để giải quyết

việc làm vừa đảm bảo phát triển đội ngũ công chứng đáp ứng theo lộ trình và

theo địa bàn quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã phê

duyệt. Công tác đào tạo nghiệp vụ công chứng ở Học viện tư pháp cũng cần

được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa của Bộ tư pháp. Học viện Tư

pháp là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động công chứng. Ngoài việc

nâng cao thời gian đào tạo từ sáu tháng tới mười hai tháng như hiện nay thì

88

không thể quên việc nâng cao chất lượng dậy và học, đánh giá trình độ học

viên qua các kỳ thi nghiêm túc. Bên cạnh đó là tập trung tuyên truyền nâng

cao ý thức đạo đức nghề nghiệp của các công chứng viên tương lai. Đây là

yếu tố rất quan trọng nhằm tạo ra một đội ngũ công chứng viên vừa có có

trình độ chuyên môn cao và tư cách đạo đức nghề tốt.

- Nâng cao hiệu quả tổ chức Văn phòng Công chứng về bộ máy

nhân sự, tài chính

Hiện nay, công cuộc xã hội hóa hoạt động công chứng đang dựa vào

chính nguồn kinh phí đầu tư của các công chứng viên. Vì vậy, đây là nguồn

kinh phí hạn hẹp. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng và Ủy ban

nhân dân các tỉnh, thành phố khác nói chung cần sắp xếp, phân bổ những

nguồn tài chính cần thiết để tạo điều kiện thúc đẩy mạnh quá trình xã hội hóa

hoạt động công chứng cũng như việc thi hành Luật Công chứng trên địa bàn.

Ngoài việc thu hút nguồn kinh phí thì việc sử dụng, tận dụng và kết hợp giữa

nguồn tài chính công và tài chính tư như thế nào cũng là vấn đề rất đáng lưu

tâm. Đồng thời, tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ công chứng viên có năng

lực, đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng và hành nghề công chứng trên địa

bàn thành phố.

Đồng thời, cần bàn Quy chế phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp với Sở

Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các quận, huyện để kịp thời tháo

gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng trên địa bàn

thành phố. Thiết lập cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan có liên quan

tới hoạt động công chứng với nhau như cơ quan đăng ký quản lý bất động

sản, đăng ký hộ tịch...

Trong thời gian tới, sau khi đã áp dụng hiệu quả Chương trình quản lý

thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng giao dịch đã công chứng ở trên

89

địa bàn thành phố Hà Nội, Bộ Tư pháp cần chỉ đạo áp dụng Chương trình trên

quy mô cả nước. Ủy ban nhân tỉnh các tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Thông tin Truyền

thông, Sở Tài chính, Ủy ban nhân các quận, huyện, thị xã duy trì, mở rộng

hoạt động, phát huy hiệu quả của Chương trình quản lý thông tin, đẩy mạnh

việc chia sẻ thông tin giữa tổ chức hành nghề công chứng và các Văn phòng

đăng ký quyền sử dụng đất để để đảm bảo an toàn cho các hợp đồng, giao

dịch công chứng.

- Công tác kiểm tra, giám sát

Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban nhân dân thành phố,

Sở Tư pháp và Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đối với hoạt động của

các Văn phòng Công chứng trên địa bàn. Tăng cường kiểm tra giám sát chặt

chẽ hơn theo hàng quý, hàng năm, thời gian kiểm tra nên dài hơn và số lượng

đầu việc, hợp đồng nhiều hơn để kiểm soát và rút kinh nghiệm những sai

phạm có thể xảy ra. Đồng thời, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với công chứng

viên, cán bộ có hành vi vi phạm. Việc vi phạm ngoài việc xử phạt theo quy

định của pháp luật thì cần phải đưa lên mạng quản lý hệ thống công chứng

Uchi, ghi rõ tên Văn phòng Công chứng, công chứng viên vi phạm, lỗi vi

phạm và hình thức xử lý vi phạm để có tính chất răn đe các Văn phòng Công

chứng khác. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng ngừa vi

phạm để các công chứng viên thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp

thiết của công tác phòng chống vi phạm.

- Hợp tác, giao lƣu để học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực công chứng

Bộ Tư pháp cùng Sở Tư pháp các tỉnh cần thúc đẩy sự hợp tác, giao lưu

giữa các tổ chức hành nghề công chứng Việt Nam với tổ chức hành nghề công

chứng của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước theo mô hình công

chứng tự do như Pháp, Hy Lạp, Bồ Đào Nha… và các nước trong khu vực có

90

công chứng phát triển. Hoạt động này nhằm trao đổi, học hỏi, tiếp thu kinh

nghiệm của các nước trong việc quản lý hoạt động công chứng, hoàn thiện hệ

thống pháp luật công chứng góp phần cho hoạt động công chứng của nước ta

ngày một phát triển.

- Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng, chứng

thực để nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ, công chức, viên chức và các

tầng lớp nhân dân về tính chất, vị trí, vai trò, lợi ích thiết thực của hoạt động

công chứng. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật dân sự làm sao cho người

dân thủ đô có ý thức pháp luật tự giác như thành phố Hồ Chí Minh.

- Sở Tư pháp tăng cường thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm; các Văn

91

phòng công chứng cũng phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương.

KẾT LUẬN

Văn phòng Công chứng ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng của

mình đối với sự tăng trưởng, phát triển và ổn định của mọi nền kinh tế. Tuy

nhiên, trong môi trường xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá các

dịch vụ công chứng nói riêng đang còn rất mới mẻ ở Việt Nam, sự phát

triển nóng của các Văn phòng Công chứng và việc tổ chức, hoạt động còn

non nớt dẫn đến những hạn chế, tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng hoạt

động của các tổ chức này.

Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương

thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công

chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu

quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Như vậy, xã hội hoá công chứng chính là sự xoá bỏ độc quyền của nhà nước

trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc

trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ

thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực

hiện quản lý nhà nước.. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây

dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo

môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng.

Mô hình Văn phòng Công chứng ra đời đã tạo điều kiện để mọi người

dân, với mọi địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp

cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với

công chứng. Có thể nói Văn phòng Công chứng ra đời được coi là cuộc cách

mạng đối với lĩnh vực công chứng. Đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử

phát triển và hình thành công chứng của Việt Nam. Mô hình Văn phòng Công

92

chứng được hầu hết các nước có nền kinh tề chuyển đổi đang đi theo hướng

này đó là chuyển từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng

tư do như với Trung Quốc, Liên Bang Nga, Cu Ba,... Còn với các nước trên

thế giới thì mô hình này đã phát triển từ rất lâu đời. Cũng bắt đầu từ khi có

Luật Công chứng năm 2006 rồi Luật Công chứng sửa đổi, bổ sung 2014

chúng ta mới triển khai thực hiện, thừa nhận song song tồn tại hai hệ thống:

bên cạnh các Phòng Công chứng nhà nước đã thành lập, với các công chứng

viên nhà nước là các Văn phòng Công chứng mới thành lập, dần được nhân

rộng với các công chứng viên hành nghề tự do, đặt trước sự quản lý bằng

pháp luật của nhà nước.

Bằng những phương pháp nghiên cứu đúng đắn, dựa trên cơ sở những

căn cứ khoa học và thực tiến của hoạt động công chứng nước ta trong những

năm qua, tham khảo những quy định, mô hình tổ chức và hoạt động công

chứng của một số nước trên thế giới, luận văn đã làm sáng tỏ những vẫn đề

còn hạn chế trong quy định của pháp luật cụ thể là Luật Công chứng 2014,

thực tiễn tại địa bàn thành phố Hà Nội đưa đến cho những người quan tâm

đến lĩnh vực công chứng nói chung và quan tâm đến mô hình Văn phòng

Công chứng nói riêng. Đến nay một mạng lưới các tổ chức hành nghề công

chứng đã được hình thành và triển khai rộng khắp trên toàn quốc, đáp ứng

được phần lớn các yêu cầu về chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá

nhân, tổ chức. Hoạt động Văn phòng Công chứng từng bước được chuyên

nghiệp hóa, người dân tiếp cận dịch vụ công chứng ngày càng thuận tiện,

nhanh chóng, số sai phạm trong hoạt động công chứng dẫn đến tranh chấp

không nhiều, đặc biệt bước đầu Văn phòng Công chứng đã trở thành địa chỉ

tin cậy của nhiều người dân. Điều đó, chứng tỏ công tác quản lý của nhà nước

đối với công chứng, Văn phòng Công chứng đã thực hiện tốt chủ trương, theo

kịp sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nếu so với công chứng của các

93

nước đã có hàng trăm năm phát triển thì ngành công chứng, mô hình Văn

phòng Công chứng còn quá non trẻ, phải tích cực quan tâm nghiên cứu hoàn

thiện để kịp thời với sự vận động của thực tiễn Việt Nam, đồng thời trình độ

phát triển của công chứng không thể tách rời với trình độ phát triển của xã hội

hiện tại. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn “Tổ

chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố

Hà Nội” sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện đối với tổ chức và

hoạt động của mô hình Văn phòng Công chứng. Đồng thời đặt cơ sở về mặt lý

luận cho các bước nghiên cứu chuyên sâu và mở rộng về lĩnh vực công chứng

và góp phần hoàn thiện thể chế công chứng của Việt Nam trong gia đoạn mới,

94

giai đoạn then chốt của Việt Nam trên chính trường quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1.

Nguyễn Ngọc Bích (2008), “Xã hội hoá hoạt động công chứng và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về công chứng” Tạp chí Dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp, (6), tr. 5 – 8.

2.

Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 hướng dẫn công tác công chứng nhà nước, Hà Nội.

3.

Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định, Hà Nội.

4.

Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực, Hà Nội.

5.

Chính phủ (2004), Nghị định số 110/2004/NĐ-CP về công tác văn thư. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Hà Nội.

6.

Chính phủ (2007), Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Thông tư liên tịch số 04/2006 TTLT/BTP-BTNMT hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất, Hà Nội.

7.

Chính phủ (2015), Nghị đinh 29/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.

8.

Chính phủ (2015), Nghị định Số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, Hà Nội.

9.

95

Lê Thị Bích Hạnh (2010), Cần có quy định và hướng dẫn cụ thể một số thủ tục công chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 23 - 25, 32

10. Nguyễn Thị Hạnh (1998), Công chứng hợp đồng kinh tế và các thoả thuận biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế - thực trạng và giải pháp, Luận án thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

11. Hội đồng Bộ trưởng (2015), Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định. Thông tư 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng ngày 15/06/2015 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.

12. Lê Quốc Hùng (2009), “Luật công chứng và vấn đề xã hội hoá hoạt

động công chứng”, Phòng quốc hội, (21), tr.52 – 55.

13. Trịnh Duy Hưng (2010), Một số ý kiến về việc thực hiện yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 30 – 32.

14. Chu Văn Khanh (2009), Quyết định chuyển đổi mô hình hoạt động của văn phòng sang loại hình công ty hợp danh theo Quyết định số 1488/QĐ-UBND ngày 31/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội và Giấy đăng ký hoạt động số 09/TP-ĐKHĐ ngày 8/4/2009 của Sở Tư pháp thành phố, Hà Nội.

15. Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án TS Luật học.

16. Dương Khánh (2002), Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở

nước ta hiện nay, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật.

17. Nguyễn Quang Minh (2009), Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án thạc sĩ luật học.

18. Phạm Xuân Phương (2010), “Hà Nội với việc thực hiện xã hội hoá công chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 13 -15

96

19. Quốc hội (2005), Luật Dân sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (2006), Luật công chứng năm 2006 và văn bản hướng dẫn thi

hành, Nxb Chính trị quốc gia.

21. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.

22. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

24. Quốc hội (2014), Luật nhà ở, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Luật Công chứng, Hà Nội.

26. Sở Tư pháp - Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Ngành Tư pháp Thủ đô với nhiều hoạt động mừng ngày truyền thống, http://www.sotuphap.hanoi.gov.vn/Portalview/trangchitiet.aspx?idmen u=95&idtin=256

27. Chu Hồng Sơn (2016), “Đôi điều về năng lực và đạo đức nghề nghiệp

của công chứng viên”, Tạp chí dân chủ và pháp luật.

28. Dương Đình Thành (1995), “Công chứng Nhà nước - công cụ hưu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức”, Tạp chí Pháp luật, (chuyên đề).

29. Tuấn Đạo Thanh (2008), Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

30. Trần Thất, Đặng Văn Khanh (1998), “Một số nhận xét về pháp luật hiện hành về công chứng Nhà nước và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (4).

31. Thu Hằng (2016), Đề nghị bổ sung số lượng tổ chức hành nghề công tư pháp – Bộ Tư pháp trợ

chứng vào Quy hoạch, Bổ http://bttp.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-cong- chung.aspx?ItemID=293

32. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011), Diện tích, dân số và mật độ dân

97

số năm 2011 phân theo địa phương.

33. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2014), Niên giám thống kê, Truy cập 1 tháng

34. Trần Anh Tuấn (1995), “Công chứng Nhà nước thành phố Hà Nội,

những vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí QLNN, (11).

35. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo tình hình thực hiện pháp luật về công chứng, chứng thực trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

36. Bùi Đăng Vương (2010), “Công chứng quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình để vay vốn không?”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (2), tr. 42 - 43, 47.

37. Đỗ Hoàng Yến (2010), “Kết quả hai năm thực hiện Luật công chứng và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 2 – 7.

II. Tài liệu trang Web

38.

98

http://www.baomoi.com/phat-hien-nhieu-sai-pham-tai-cac-van-phong- cong-chung/c/5256107.epi