ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ PHƢƠNG NGA
Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG
CñA C¸C V¡N PHßNG C¤NG CHøNG
TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ PHƢƠNG NGA
Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG
CñA C¸C V¡N PHßNG C¤NG CHøNG
TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄNTHỊ MINH HÀ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Phƣơng Nga
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC,
HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG ..................... 8
1.1. Những điểm chung về công chứng và lịch sử phát triển công
chứng ở Việt Nam ............................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm công chứng ......................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của công chứng .................................................................. 12
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam .................. 18
1.2. Khái quát chung về Văn phòng Công chứng ................................. 22
1.2.1. Khái niệm Văn phòng công chứng ..................................................... 22
1.2.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của văn phòng công chứng ........ 25
1.3. Một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động công chứng ..... 27
1.3.1. Hệ thống công chứng Latinh .............................................................. 27
1.3.2. Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ ............................ 28
1.3.3. Hệ thống công chứng Collectiviste .................................................... 28
1.4. Những yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng ....................................................................................... 31
1.4.1. Sự tồn tại hợp pháp của Văn phòng Công chứng .............................. 31
1.4.2. Hoạt động của Văn phòng Công chứng tuân thủ các quy định
của pháp luật ....................................................................................... 35
1.4.3. Đảm bảo sự quả lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của văn
phòng công chứng .............................................................................. 41
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................... 43
2.1. Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cƣ, kinh tế - xã hội của
thành phố Hà Nội ............................................................................. 43
2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư thành phố Hà Nội ............................... 43
2.1.2. Tình hình Kinh tế - Xã hội thành phố Hà Nội ................................... 44
2.2. Những điểm mạnh trong tổ chức và hoạt động của Văn
phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
thời gian qua .................................................................................... 47
2.2.1. Về mặt tổ chức của Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội ......................................................................................... 47
2.2.2. Về hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội ......................................................................................... 53
2.2.3. Đảm bảo sự quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của
Văn phòng công chứng ...................................................................... 60
2.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua............. 61
2.3.1. Những tồn tại trong tổ chức của Văn phòng Công chứng ................. 61
2.3.2. Những bất cập trong hoạt động của Văn phòng công chứng trên
địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................... 72
2.3.3. Đảm bảo sự quản lý của nhà nước trong tổ chức và hoạt động
của văn phòng công chứng ................................................................. 76
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG
CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................... 79
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Văn
phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................... 79
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng ............................... 79
3.1.2. Phương hướng về Quy hoạch phát triển Văn phòng Công chứng .......... 81
3.2. Giải pháp nâng cao việc tổ chức và hiệu quả hoạt động của
các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ....... 84
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
công chứng ......................................................................................... 84
3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác ......................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP Hà Nội giai đoạn 2008-2013
45
Biểu đồ 2.2. Tăng trưởng GDP Hà Nội quý I từ 2009 - 2014
46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trước đây, khi nhà nước điều hành, quản lý nền kinh tế và xã hội
theo hướng bao cấp, các giao dịch dân sự còn hạn chế và phát triển một
cách manh mún. Khi có nhu cầu chủ yếu các bên giao dịch thường chỉ thỏa
thuận với nhau dựa trên sự tin tưởng thể hiện bằng lời nói, chữ viết tay, đôi
khi có sự tham gia của bên thứ ba hoặc cơ quan hành chính nhà nước với
vai trò thị thực.
Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển, nền kinh tế đi lên theo
hướng kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập quốc tế đã làm gia tăng nhu cầu
giao dịch dân sự, kinh tế. Các giao dịch này tăng lên cả về số lượng và tính
chất phức tạp đòi hỏi phải những biện pháp hữu hiệu để đáp ứng những nhu
cầu đó, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch,
tạo nên sự phát triển ổn định và lâu dài cho nền kinh tế và toàn xã hội. Sự ra
đời của Phòng Công chứng chưa đủ sức đáp ứng trước nhu cầu giao dịch ngày
càng gia tăng. Chính vì lý do đó, thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa
hoạt động công chứng, các Văn phòng Công chứng ra đời đã giúp khắc phục
được những hạn chế đáng kể và sự quá tải trong hoạt động của các Phòng
Công chứng cũng như việc phân định giữa công chứng và chứng thực … Sự
ra đời của Văn phòng Công chứng đã góp phần chuyên nghiệp hóa và xã hội
hóa hoạt động công chứng được coi là bước đột phá trong cải cách hoạt động
công chứng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc ra đời của Văn phòng Công chứng
bên cạnh Phòng Công chứng cũng đặt ra những vấn đề cấp bách trong quản
lý, mà Luật Công chứng không thể tiên liệu hết được những vướng mắc, khó
khăn khi triển khai thực hiện trên thực tế với rất nhiều biến động.
1
Với vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Văn phòng Công chứng
trong giai đoạn hiện nay cả về mặt lý luận, thực tiễn cần xây dựng các luận cứ
khoa học, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế, vướng
mắc vẫn còn tồn tại trong tổ chức, hoạt động và quản lý một cách hiệu quả
các Văn phòng Công chứng sao cho phù hợp với thực tiễn biến động của lĩnh
vực công chứng tại địa bàn thành phố Hà Nội, một trong những địa bàn phức
tạp nhất toàn quốc. Chính vì lý do trên tác giả chọn đề tài “Tổ chức và hoạt
động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm
đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức được vai trò quan trọng của Văn phòng Công chứng, đã có
rất nhiều hoạt động nghiên của về công chứng nói chung và Văn phòng Công
chứng nói riêng. Cho đến nay, đã có những bài viết, bình luận, luận văn về
Văn phòng Công chứng được công bố như sau:
Trên thế giới, có nhiều mô hình tổ chức của Văn phòng Công chứng và
hoạt động của các tổ chức này cũng được quy định khá rõ ràng và cụ thể trong các
văn bản pháp luật thực định. Ở nước ta, công chứng với tư cách là một hoạt động
bổ trợ tư pháp xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu, tuy nhiên thời gian qua đã có một
số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như sau:
- Đề tài khoa học mang mã số 92-98-244 về “Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam” do Bộ
Tư pháp tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu vào tháng 5 năm 1993;
- Luận án tiến sĩ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định
phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công
chứng ở nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000;
- Luận án tiến sĩ luật học “Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số
nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, mã số: 62.38.01.01 của
2
tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008;
- Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề công chứng các giao dịch về tài sản
ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” của tác giả Đỗ Xuân Hòa.
- Luận văn thạc sĩ “Công chứng Nhà nước những vấn đề lý luận và
thực tiễn ở nước ta” của tác giả Trần Ngọc Nga.
- Luận văn thạc sĩ “Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009;
- Luận văn thạc sĩ: “Phân cấp QLNN về công chứng, chứng thực (Qua
thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008;
Ngoài ra, một số nghiên cứu đã đề cập đến hoạt động và tổ chức của
các Văn phòng Công chứng như:
- Luận án tiến sĩ Luật học: “Tổ chức và hoạt động công chứng nhà
nước ở nước ta hiện nay” của tác giả Dương Khánh năm 2002;
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Kim Hoa, năm 2003;
- “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công
chứng” của tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp Luật, ngày 18/2/2003;
- “Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và
cải cách tư pháp” của tác giả Trần Thất đăng trên tạp chí Dân chỉ và pháp
luật, số 6/2004;
- “Công chứng, chứng thực ở Việt Nam – Thực trạng và định hướng
phát triển” của tác giả Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số 7/2002.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này đề cập một cách hệ thống về các tổ chức
công chứng nói chung hay Phòng công chứng nhà nước nói riêng trên phạm
vi cả nước chứ chưa một đề tài nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận
về Văn phòng công chứng hay thực tiễn tổ chức hoạt động của các Văn phòng
3
Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt là trong giai đoạn Luật
công chứng năm 2014 mới có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2015 trong đó có
rất nhiều quy định về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng có tác
động tích cực cũng như những hạn chế nhất định tới hoạt động công chứng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công
chứng và thực tiễn áp dụng các văn bản đó trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ
đó luận văn đưa ra được những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp khắc
phục những tồn tại cũng như phát huy những lợi thế đã đạt được trong tổ chức
và hoạt động của các Văn phòng Công chứng ở Việt Nam nói chung và trên
địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn xác định một số mục
tiêu cụ thể sau:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng tại Việt Nam: Khái niệm, đặc điểm Văn phòng Công chứng; Các
yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng, kinh
nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công chứng.
Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng ở Việt
Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng; tồn tại, hạn chế;
Giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt
động của các Văn phòng Công chứng trên cả nước nói chung và tại địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng;
- Nhiệm vụ
Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống hoạt động công chứng và
đánh giá một cách tương đối toàn diện về tổ chức và hoạt động của Văn
4
phòng Công chứng ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà
Nội nói riêng. Một số kết quả dự kiến sẽ đạt được sau khi nghiên cứu, cụ
thể như sau:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng ở Việt Nam;
Đánh giá được thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng
Công chứng qua các giai đoạn phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội;
những thành tựu đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến
những tồn tại hạn chế;
Đề xuất giải pháp chung để khắc phục những tồn tại hạn chế đó và
giải pháp cụ thể để khắc phục trên địa bàn thành phố Hà Nội;
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tổng quát các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh việc tổ chức và hoạt động và thực tiến hoạt động của các Văn phòng
Công chứng tại Việt Nam nói chung và trên đại bàn thành phố Hà Nội nói
riêng trên các mặt xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về công
chứng, theo dõi thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật về công chứng.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật, thực tiễn tổ
chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà
Nội từ khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực cho phép thành lập Văn phòng
Công chứng đến nay:
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng về tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng, cải
cách hành chính, cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
5
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Trên cơ sở đó Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp thống kê, phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh để nêu
bật tình hình, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Trong đó phương pháp phân tích
được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Luận văn để giải quyết
những vấn đề mang tính lý luận như khái niệm, đặc điểm Văn phòng Công
chứng và phương thức hoạt động của Văn phòng Công chứng. Phương pháp
chứng minh, thống kê được sử dụng thông qua việc đưa ra các thông tin, số liệu
và các ví dụ thực tế có tính chất điển hình để minh chứng cho nhận định, đánh
giá của tác giả. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng ở cả phần lý luận khi
dẫn chiếu các quy định của hệ thống pháp luật và phần thực trạng pháp luật khi
đối chiếu với các quy định của pháp luật về cùng vấn đề ở các văn bản quy
định về công chứng nói chung và Văn phòng Công chứng nói riêng.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu lý luận chung về công chứng
và các Văn phòng công chứng. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu
về mặt lý luận của tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng, do đó
việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng
trên địa bàn thành phố Hà Nội” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ hệ thống hóa, làm
sáng tỏ thêm cơ sở lý luận dựa trên sự nghiên cứu các khái niệm, quan điểm,
đặc điểm về công chứng nói chung và về mặt tổ chức và hoạt động của Văn
phòng Công chứng nói riêng. Đề tài cũng có sự nghiên cứu kinh nghiệm của
các quốc gia khác so sánh với cơ sở lý luận của Việt Nam để thấy được sự
phát triển của công chứng Việt Nam bên cạnh sự phát triển của nghề công
chứng trên thế giới.
Ngoài ra, điểm đóng góp chủ yếu và mới mẻ của đề tài là những nghiên
cứu thực tiễn các quy định pháp luật và thực hiện các quy định pháp luật đó
6
trên địa bàn thành phố Hà Nội, một địa bàn đi đầu cả nước về hoạt động công
chứng với sự phát triển của về số lượng và tính chất phức tạp của các giao
dịch. Qua đó, thấy được những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế để đưa
ra một số đề xuất về quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Công
chứng của Việt Nam nói chung, kiện toàn về mặt tổ chức và hoạt động của
các Văn phòng công chứng tại thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công chứng và tổ chức, hoạt động của Văn
phòng Công chứng
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp trong việc tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
7
động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG
CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG
1.1. Những điểm chung về công chứng và lịch sử phát triển công
chứng ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm công chứng
Nội hàm của hoạt động công chứng là việc xác định khái niệm công
chứng. Xác định rõ khái niệm công chứng có vai trò lý luận quan trọng cũng
như trong thực tiễn. Căn cứ vào đó chúng ta có thể xác định được phạm vi,
nội hàm của việc công chứng mà đặc biệt nó còn xác định được mô hình tổ
chức, cơ chế hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng, quyền hạn và
nghĩa vụ của những cá nhân, được tổ chức được giao chức năng quản lý nhà
nước về công chứng.
Công chứng ở nước ta được công nhận với tư cách là một thể chế
pháp lý từ rất sớm (năm 1930 dưới thời Pháp thuộc), nhưng mãi đến năm
1987, thuật ngữ “công chứng” mới bắt đầu được sử dụng một cách rộng rãi.
Cho đến nay, thuật ngữ “công chứng” trở thành một thuật ngữ khá phổ biến
không chỉ trong các từ điển, tài liệu luật học mà còn trong các văn bản quy
phạm pháp luật:
Về mặt xã hội, có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về công
chứng được đưa ra. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Công chứng
là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Theo quan điểm
của Dương Khánh trong Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài Tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay đã đưa ra quan điểm của mình
8
về khái niệm công chứng là:
Hoạt động bổ trợ tư pháp theo nghĩa rộng và cung cấp chứng
cứ cho hoạt động của toàn án theo nghĩa hẹp nhằm góp phần bảo
đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội; có tác dụng góp phần chủ động phòng
ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị
chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp đồng thời góp
phần vào việc duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội [16, tr.25].
Về mặt pháp lý, thuật ngữ “công chứng” lần đầu tiên được giải thích tại
Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công
tác công chứng nhà nước như sau:
Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước, nhằm
giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản sự
kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm
cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động
trên, công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù
hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải
quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa [26].
Đến năm 1991, thuật ngữ “công chứng” được nghiên cứu sửa đổi để
đưa ra một cách ngắn gọn hơn trong Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT ngày
27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định.
Thông tư 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Công chứng ngày 15/06/2015 Quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Công chứng:
9
Công chứng là việc chứng nhận xác thực các hợp đồng và
giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và
giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ [25].
Kế thừa và phát triển tinh thần của Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT
ngày 27 tháng 2 năm 1991, tại Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996
của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, khái niệm
“Công chứng” đã được bổ sung và làm rõ vai trò của Công chứng nhà nước
bên cạnh chức năng công chứng của Ủy ban nhân dân:
Công chứng là việc chứng nhận xác thực của các hợp đồng
và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp phần phòng ngừa
vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp
đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy
ban Nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ,
trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [6].
Cũng chính từ khái niệm này, từ giai đoạn này, các Phòng công chứng
(công chứng nhà nước) được ra đời. Đây được coi là bước tiến quan trọng
trong quá trình triển công chứng Việt Nam theo định hướng xã hội hóa.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, thuật ngữ
“công chứng” cũng không ngừng thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp và
được ghi nhận qua các Nghị định, Nghị quyết khác nhau của chính phủ. Năm
2000, khái niệm công chứng được đưa ra là việc Phòng Công chứng chứng
nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác
10
lập trong quan hệ dân sự, thương mại và quan hệ xã hội khác và thực hiện
các việc khác theo quy định của Nghị định này” [4, Điều 2]. Đáng chú ý, tại
khái niệm này đã có sự phân định rõ khái niệm công chứng và chứng thực,
điều mà các quan điểm, khái niệm trước đây chưa làm rõ được, bản chất của
hành vi công chứng là:“chứng nhận tính xác thực của hợp đồng”, còn hành vi
chứng thực lại chỉ là việc “xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và
chữ ký của cá nhân”. Như vậy, theo khái niệm nêu trên, hành vi công chứng
chính là việc xác lập giá trị pháp lý cho văn bản, hợp đồng; còn hành vi chứng
thực chỉ đơn thuần là việc sao lại các văn bản, hợp đồng mà thôi.
Năm 2006, năm với dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển công
chứng khi Luật Công chứng đầu tiên được thông qua đưa ra khái niệm về
công chứng một cách hoàn chỉnh, Theo đó, công chứng là việc Công chứng
viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,
tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng [21, Điều 2]. Khái niệm này một lần
nữa được sửa đổi mô tả để phù hợp với những quy định mới về chứng thực
chữ ký và bản dịch tại Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2015 vừa qua:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ
tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang
tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công
chứng [22, Điều 2].
Như vậy, có thể thấy rằng, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của đất
11
nước, khi nền kinh tế, văn hoá và xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu giao
dịch dân sự của người dân ngày càng tăng cả về số lượng và tính phức tạp,
khái niệm công chứng cũng từ đó mà có những thay đổi nhất định. Sự thay
đổi này thể hiện quan điểm của nhà nước ta về công chứng thêm rõ ràng và cụ
thể hơn, nhưng xét về bản chất và mục đích của hành vi thì vẫn không thay
đổi. Nội hàm của khái niệm công chứng là tạo lập nên một loại chứng cứ viết,
có giá trị pháp lý cao, vì các hợp đồng, giấy tờ này được chứng nhận tính xác
thực của nó do những người có thẩm quyền công chứng, chứng nhận nên nó
mang dấu ấn của công quyền và trở thành “công chứng thư”. Về ngoại diên
của khái niệm công chứng bao hàm các loại giấy tờ, hợp đồng mà theo quy
định của pháp luật bắt buộc phải công chứng, hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện
công chứng để những giấy tờ này trở thành một chứng cứ pháp lý. Vì vậy,
dưới góc độ chung nhất chúng ta có thể hiểu công chứng là việc chứng nhận
tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức có nhu cầu tự
nguyện yêu cầu công chứng do Công chứng viên của một tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm của công chứng
Thứ nhất, công chứng là hành vi do Công chứng viên thực hiện.
Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm,
chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của
người yêu cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được
chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn bản của cơ quan công quyền.
Công chứng viên cũng được phân thành hai dạng khác nhau phụ thuộc
vào tổ chức hành nghề công chứng mà công chứng viên đang hàng nghề:
- Công chứng viên Phòng Công chứng là công chức, viên chức nhà
12
nước được hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
- Công chứng viên Văn phòng Công chứng không phải là công chức,
viên chức nhà nước, lương và các khoản thu nhập khác được trích từ nguồn
thu phí công chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp khác từ hợp
đồng công chứng.
Đặc điểm này phân biệt với hành vì chứng thực là hành vi không chỉ do
công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng mà còn do người đại diện
của cơ quan hành chính công quyền thực hiện.
Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng
và lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận
các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật.
Có thể nhận thấy từ khái niệm được ghi nhận trong Luật Công chứng
2014 có hai loại Hợp đồng, giao dịch là những Hợp đồng, giao dịch mà pháp
luật bắt buộc phải công chứng và những Hợp đồng, giao dịch mà pháp luật
không bắt buộc phải công chứng nhưng cá nhân, tổ chức giao kết tự nguyện
yêu cầu công chứng khi thấy cần thiết để đảm bảo tính an toàn cho giao dịch:
- Loại Hợp đồng, giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải qua công
chứng là những Hợp đồng, giao dịch trong trường hợp mang tính chất phức
tạp và dễ xảy ra tranh chấp hoặc đối tượng giao dịch nhà nước cần kiểm soát
và quản lý. Quy định này còn được thể hiện trong Bộ luật Dân sự 2005:
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định
loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải
đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về
13
hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [19, Điều 401]
Loại hợp đồng giao dịch này có thể kể đến như:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Văn bản chuyển nhượng Hợp
đồng mua bán nhà ở, Văn bản cam kết, phân chia tài sản chung,
riêng của vợ chồng, Hợp đồng tặng cho tài sản, Di chúc của người
bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ, Di chúc
miệng, Di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài, Hợp đồng về việc
mang thai hộ…
- Loại Hợp đồng, giao dịch mà nhà nước không bắt buộc phải công
chứng nhưng vẫn được các cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng để
công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hình thức, nội
dung hợp đồng, giao dịch có vi phạm quy định pháp luật, có trái với đạo đức
xã hội và có bảo đảm cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không.
Ngoài ra, còn để kiểm tra năng lực hành vi, tính tự nguyện, của các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch và tính chân thật của đối tượng Hợp
đồng, giao dịch. Cụ thể, Luật Nhà ở 2014 quy định các hợp đồng, giao dịch
không cần phải công chứng, chứng thực như:
Văn bản tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; Hợp đồng
mua bán mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán nhà ở xã hội,
nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ
chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở [24].
Ngoài ra, một số giao dịch dân sự khác cũng chỉ công chứng khi các
bên có nhu cầu là: Giấy ủy quyền, Hợp đồng thế chấp quyền tài sản,…
Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với
các hoạt động mang tính chất hành chính khác của các cơ quan công quyền.
Việc lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng và
14
chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật chính là việc
tạo nên các văn bản công chứng. Lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của
người yêu cầu công chứng là việc Công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên
môn của mình giúp người yêu cầu công chứng thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của mình được thỏa thuận bằng văn bản, không vi phạm pháp luật,
không trái đạo đức xã hội; hoặc tư vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng
thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của mình một cách rõ ràng, chính xác
trong các văn bản họ tự lập nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hợp đồng,
giao dịch họ tự lập. Nói cách khác, hành vi của Công chứng viên nhằm xác
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng hoặc các giao dịch. Chứng
nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật là việc Công chứng
viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác nhận tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch. Đây là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng nội dung
(công chứng hệ Latine) và trường phái công chứng hình thức (công chứng hệ
Anglosason). Đặc điểm này của công chứng nước ta đã quy định chức năng
phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch, kể cả những giao dịch
không yêu cầu qua công chứng.
Thứ ba, văn bản công chứng có giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.
Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công
chứng viên chứng nhận [22, Điều 4, Khoản 2]. Giá trị pháp lý của văn bản
công chứng bao gồm giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.
Giá trị thi hành của văn bản công chứng được quy định tại Khoản 2,
Điều 5, Luật Công chứng 2014 như sau: Hợp đồng, giao dịch được công
chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia
hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
15
Văn bản công chứng do Công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt
buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng cũng như
năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Văn
bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các bên tham gia
giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là
căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng các cam
kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.
Giá trị chứng cứ là vấn đề mấu chốt, khi thiếu những căn cứ để xác
định quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý, thì cần phải có một bằng chứng
chứng minh sự tồn tại của nó, nếu không quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý
đó sẽ được coi là không tồn tại. Vậy, chứng cứ là gì? Chứng cứ là “những gì
có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án
hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương
sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự theo Điều 81 Bộ luật tố tụng
dân sự sửa đổi năm 2011, chứng cứ.
Văn bản công chứng là chứng cứ tin cậy để các chủ thể giao kết chứng
minh trước tòa khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, đồng thời
cũng là chứng cứ để tòa án có thể giải quyết vụ việc tranh chấp một cách
nhanh chóng và chính xác. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp
đồng, giao dịch là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị
chứng cứ. Điều này được quy định cụ thể tại Luật công chứng năm 2014 về
giá trị pháp lý của văn bản công chứng: “Hợp đồng, giao dịch được công
chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch
được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố
là vô hiệu” [22, Điều 5, Khoản 3].
16
Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề
cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là
chứng cứ. Sở dĩ pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là
do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được Công
chứng viên xác nhận. Tính xác thực này được Công chứng viên kiểm chứng
và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết,
sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: Sự
tự nguyện của các bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có Công
chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà án không thể
xác minh được. Công chứng viên dù là công chức nhà nước làm việc tại các
Phòng công chứng hay là công chứng viên làm việc tại các Văn phòng công
chứng đều là một chức danh tư pháp được nhà nước trao quyền thực hiện việc
chứng nhận hợp đồng, giao dịch và chỉ có công chứng viên mới được nhân
danh nhà nước chứng nhận các hợp đồng, giao dịch đó. Từ đó, tính xác thực
do công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng,
giao dịch thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa, còn các hợp đồng, giao dịch
khác không được công chứng thì vẫn phải chứng minh. Tuy nhiên, văn bản
công chứng vẫn có khả năng không có giá trị chứng cứ nếu không thực hiện
đúng thẩm quyền hoặc không tuân thủ theo quy định của pháp luật về công
chứng hoặc bị tuyên vô hiệu trước tòa.
Thứ tư, Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với tổ chức và hoạt động
công chứng
Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công. Công
chứng là một biện pháp phòng ngừa tranh chấp, giúp công dân, tổ chức thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng pháp luật. Hoạt động
công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hợp đồng tư
pháp nhưng hoàn toàn khác với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
17
Trước đây, công chứng ở Việt Nam hoàn toàn do các cơ quan nhà nước
thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước. Hiện nay, theo Luật Công chứng
năm 2006 và sau đó là Luật Công chứng năm 2014 tổ chức hành nghề công
chứng gồm Phòng Công chứng (do UBND cấp tỉnh thành lập, trực thuộc Sở
Tư pháp, có trụ sở và con dấu riêng) và Văn phòng Công chứng (do Công
chứng viên thành lập, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Cả 2
loại hình này đều đặt dưới sự quản lý của nhà nước.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam
1.1.3.1. Công chứng nước ta trước cách mạng tháng tám 1945
Hoạt động công chứng xuất hiện là do yêu cầu của việc quản lý của nhà
nước đối với các hoạt động giao dịch, yêu cầu cung cấp chứng cứ cho cơ quan
tài phán. Ở nước ta trước thời kì pháp thuộc, chưa thấy xuất hiện thuật ngữ
công chứng. Nhưng nếu xét về lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước phong
kiến ở Việt Nam thì thấy đã có mầm mống về hoạt động công chứng. Dưới thời
Lê, di chúc được làm dưới dạng chúc thư; để có giá trị thì chúc thư phải lập
thành văn bản dưới hình thức nhất định, nếu người làm chúc thư không biết
chữ thì chúc thư phải được xã trưởng viết hộ và chứng thực nhằm ngăn ngừa
việc gian lận đối với chức thư, đồng thời luật cũng quy định việc xử phạt đối
với việc làm giả mạo giấy tờ. Vào thời kì bảo hộ của pháp, công chứng với tư
cách là thể chế bắt đầu xuất hiện và được áp dụng ở Việt Nam cùng với sự
thành lập tổ chức và hoạt động của tòa án Pháp tại Việt Nam và được tổ chức
theo mô hình công chứng của Pháp. Trong giai đoạn này, tổ chức và hoạt động
công chứng được xác lập bằng sắc lệnh ngày 24/8/1931 của Tổng thống Cộng
hòa Pháp về tổ chức công chứng được áp dụng ở Đông Dương.
Tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta chịu sự chi phối bởi pháp
luật công chứng của Pháp. Chưởng ấn Bộ trưởng tư pháp bổ nhiệm công
chứng viên, thành lập văn phòng công chứng, giám sát hoạt động nghề nghiệp
18
của công chứng viên. Hội đồng công chứng tối cao được đặt bên cạnh Bộ tư
pháp chịu trách nhiệm quản lý điều hành hội đồng công chứng các khu vực.
Hội đồng công chứng các khu vực chịu sự giám sát của Tòa thượng thẩm. Mô
hình công chứng được thiết lập theo mô hình công chứng hệ La tinh, công
chứng viên đứng ra tổ chức và điều hành mọi hoạt động của văn phòng công
chứng, chịu trách nhiệm về hành vi công chứng.
1.1.3.2. Công chứng nước ta trong giai đoạn từ 1945 - 1991
Sau cách mang tháng tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Ngày 1/10/1945, Bộ trưởng Bộ tư pháp đã ký nghị định bổ nhiệm
ông Vũ Quý Vỹ mang quốc tịch Việt Nam làm công chứng viên tại văn phòng
công chứng ở Hà Nội, nghị định quy định các luật lệ cũ về công chứng vẫn
được thi hành, trừ những điều khoản không phù hợp với nền độc lập và chính
thể dân chủ cộng hòa Việt Nam. Có thể nói đây là tổ chức công chứng đầu
tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tổ chức công chứng mang
đậm dấu ấn của công chứng Pháp.
Ngày 15/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành sắc lệnh 59/SL
ấn định thể lệ về thị thực các giấy tờ. Theo sắc lệnh này, việc thị thực chỉ là
thủ tục hành chính, quyền thị thực các giấy tờ trước đây giao cho lý trưởng
các làng và trưởng phố ở thành thị thì nay giao về ủy ban nhân dân của làng
hoặc ủy ban nhân dân hàng phố. Ủy ban làm nhiệm vụ thị thực phải là ủy
ban nơi trú quán của một hoặc các bên đương sự lập khế ước; đối với bất
động sản phải là ủy ban nơi có bất động sản đó thị thực, nếu có nhiều bất
động sản ở nhiều nơi thì giấy tờ lập ra về những bất động sản ấy phải do ủy
ban mỗi nơi có bất động sản đó thị thực. Các ủy ban thị thực phải chịu trách
nhiệm về việc thị thực, khi xảy ra thiệt hại đến tư nhân vì sự thực không
đúng, công quỹ của làng hay của hàng phố phải bồi thường. Ngày
29/2/1952, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh 85/SL về
19
việc mua bán cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Theo quy định thì ủy ban kháng
chiến hành chính có thẩm quyền nhận thực vào văn tự theo hai nội dung, chữ
ký của các bên mua bán cho đổi, người đứng ra bán, cho đổi là chủ những
nhà cửa ruộng đất đem bán cho hay đổi.
Hai sắc lệnh nói trên là cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động thị thực
của ủy ban hành chính kháng chiến và sau này là ủy ban nhân dân trong gần
nửa thế kỷ. Nguyên nhân của tổ chức và hoạt động công chứng không được
phát triển trong giai đoạn này là do điều kiện kinh tế, xã hội, hoàn cảnh chiến
tranh của nước ta trong thời kì này và việc không chấp nhận chế độ sở hữu
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Vì thế, tổ chức công
chứng không được thành lập, mọi giao lưu kinh tế dân sự đều dựa trên quan
hệ hành chính, hoạt đông công chứng rất đơn giản.
Từ sau năm 1954 kéo dài đến cuối những năm 70, Nhà nước ta thiết lập
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bằng cách phát triển và cải tạo
nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế nhiều thành phần
thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, thiếu thủ tục hành chính và
các thủ tục thể hiện vai trò kiểm soát kinh tế có hiệu quả của nhà nước, không
đủ các thủ tục tài phán hành chính để điều hòa mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, dẫn đến hoạt động công
chứng không có điều kiện để phát triển.
1.1.3.3. Công chứng nước ta trong giai đoạn từ 1991 đến nay
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII, đặc biệt là cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược kinh tế, xã
hội, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường đã tạo ra những mối quan hệ mới
trong lĩnh vực phát triển và quản lý nền kinh tế, các giao dịch dân sự, kinh tế,
thương mại phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có thể chế phù hợp phục vụ cho
20
cơ chế kinh tế đó. Trong lĩnh vực công chứng đặt ra nhiệm vụ mới, cần phải
có một tổ chức hoạt động chuyên nghiệp. Trên cơ sở đó, ngày 27/2/1991 Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước. Nghị định quy định về tổ chức công chứng nhà nước,
trình tự thủ tục thực hiện các việc công chứng, quản lý tổ chức và hoạt động
công chứng, tiêu chuẩn công chứng viên, giá trị pháp lý của văn bản công
chứng. Nghị định 45/HĐBT ra đời đánh dấu một sự tiến triển mới của mối
liên hệ giữa hoạt động phòng ngừa tranh chấp và hoạt động tài phán, tổ chức
hoạt động công chứng thay thế công việc của ủy ban nhân dân về công chứng,
đối với những nơi chưa thành lập Phòng công chứng thì ủy ban nhân dân
được tiếp tục thực hiện một số việc công chứng. Tuy nhiên, sự phát triển các
quan hệ gia đình với điều kiện nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển dẫn
đến Nghị định 45/HĐBT trở nên không phù hợp. Ngày 18/5/1996, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước
thay thế cho Nghị định 45/HĐBT. Do nhu cầu phục vụ sự phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước, ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định
75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm
vi công chứng, chứng thực, tổ chức Phòng công chứng, nguyên tắc hoạt động,
thủ tục, trình tự thực hiện việc công chứng, chứng thực, công tác chứng thực
của ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ủy ban
nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công
chứng, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công
chứng. Ngày 29/11/2006, Luật Công chứng ra đời đưa ra định hướng đúng
đắn về xã hội hóa hoạt động công chứng. Bên cạnh các phòng công chứng
nhà nước thì các văn phòng công chứng ra đời, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của người dân, tổ chức trong các giao dịch dân sự. tác phong phục vu, lề lối
làm việc cũng tốt hơn, bớt đi tình trạng cửa quyền, khó khăn của các phòng
21
công chứng trước kia.
Xét về cơ cấu của cơ quan thực hiện công chứng hiện nay bao gồm
Phòng công chứng, Văn phòng công chứng, ngoài cơ quan công chứng
chuyên trách thì cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cũng có thẩm
quyền công chứng một số việc theo quy định của Luật Công chứng.
1.2. Khái quát chung về Văn phòng Công chứng
1.2.1. Khái niệm Văn phòng công chứng
Văn phòng Công chứng là một trong hai hình thức tổ chức hành nghề
công chứng được quy định tại Điều 23 của luật công chứng. Mô hình tổ chức
Văn phòng công chứng đã có từ rất lâu trên thế giới, còn ở Việt Nam, văn
phòng công chứng chỉ xuất hiện sau khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu
lực thi hành. Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận một mô hình văn phòng
công chứng, tồn tại song song bên cạnh Phòng Công chứng. Văn phòng Công
chứng được hình thành xuất phát từ những lý do sau đây:
- Thực tiễn hoạt động của công chứng trong thời gian qua cho thấy, nhu
cầu công chứng của tổ chức cá nhân ngày một tăng cao trong khi sự phát triển
của các Phòng công chứng không theo kịp, dẫn đến quá tải. Công chứng viên
là công chức nhà nước nên việc phát triển đội ngũ công chứng viên gặp rất
nhiều khó khăn do thiếu biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất từ đó dẫn đến việc
phát triển các tổ chức hành nghề công chứng không theo kịp sự phát triển về
nhu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, thực hiện chủ trương xã
hội hoá công chứng đã được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của bộ
Chính chị là “xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng
Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi thích hợp để
từng bước xã hội hoá công việc này”.
- Nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang
kinh tế thị trường thì việc phải thay đổi cách làm, cách nghĩ bằng chủ
22
trương xã hội hoá là chủ trương rất lớn mà Đại hội lần thứ X đặt ra và điều
đó là phù hợp. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền Nhà nước không thể
ôm tất cả, cơ quan nhà nước chỉ làm những gì đích thực mình phải làm, còn
lại nhà nước phải trở thành bà đỡ cho các hoạt động khác trên cơ sở ban
hành chính sách pháp luật.
- Việc quy định Văn phòng Công chứng do công chứng viên không
phải là công chức nhà nước thành lập phù hợp với mô hình công chứng Latin,
phù hợp với xu thế phát triển của công chứng nhiều nước trên thế giới; công
chứng viên không phải là công chức nhà nước nhưng do nhà nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm. Văn phòng Công chứng không phải là cơ quan hành chính nhà
nước. Một số nước theo mô hình công chứng nhà nước thuần tuý trước đây
cũng dần dần chuyển đổi và tồn tại và cả hai mô hình công chứng nhà nước
và công chứng hành nghề tự do như Trung Quốc, Nga, Ba Lan…
Xuất phát từ những lý do trên, Văn phòng công chứng chính thức
được ra đời dưới cơ sở pháp lý là Luật Công chứng 2006 và hiện nay là
Luật Công chứng 2014.
Về khái niệm văn phòng công chứng được đưa ra lần đầu tiên trong
Luật Công chứng năm 2006:
Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập. Văn
phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ chức
và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng công
chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và
hoạt động theo loại hình công ty hợp danh [21].
Đến Luật Công chứng 2014 quy định rất cụ thể về hình thức tổ chức,
người đại diện theo pháp luật, tên gọi và hoạt động của Văn phòng công
chứng là:
Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy
23
định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan đối với loại hình công ty hợp danh. Văn phòng công chứng
phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công
chứng không có thành viên góp vốn [22, Điều 22].
Qua đây có thể thấy sự chuyển biến trong khái niệm về Văn phòng
công chứng trong hai giai đoạn này. Luật Công chứng 2006 quy định cho
phép có 2 loại hình hoạt động của Văn phòng công chứng là loại hình doanh
nghiệp tư nhân do một công chứng viên thành lập và loại hình doanh nghiệp
công ty hợp danh do hai công chứng viên trở lên thành lập. Điều này dẫn đến
việc đối với Văn phòng công chứng hoạt động dưới hình thức công ty tư nhân
thì hoạt động của Văn phòng chịu phụ thuộc nhiều vào công chứng viên thành
lập dẫn đến việc khó khăn trong chuyển đổi mô hình nếu công chứng viên
muốn rút tên khỏi văn phòng mà chưa có người kế nhiệm. Chính vì lẽ đó,
Luật Công chứng 2014 đã định nghĩa lại khái niệm Văn phòng công chứng
chỉ còn hình thức duy nhất là công ty hợp danh có từ hai công chứng viên trở
lên và không có thành viên góp vốn.
Ngoài ra, một số nguồn khác cũng đưa ra khái niệm về Văn phòng công
chứng như Bách khoa toàn thư mở Wikipedia có định nghĩa:
Văn phòng công chứng tại Việt Nam là loại hình công chứng
mới theo Luật công chứng năm 2006. Trước đây, việc công chứng
do Nhà nước, đại diện là các công chức Nhà nước được bổ nhiệm
chức danh công chứng viên thực hiện. Văn phòng công chứng do
những người không phải là công chức nhà nước đảm nhiệm chức
năng công chứng. Luật Công chứng.
Tuy nhiên, định nghĩa này chưa thật sự đầy đủ và thể hiện đúng tính
chất của văn phòng công chứng sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực
khác với tính chất của Văn phòng công chứng theo Luật Công chứng 2006.
24
Như vậy, tác giả xin phép được tóm lược khái niệm Văn phòng công
chứng theo tinh thần của Luật Công chứng 2014 này như sau: Văn phòng
công chứng là loại hình công chứng có tổ chức và hoạt động theo mô hình
công ty hợp danh có từ hai công chứng viên hợp danh trở nên và không có
thành viên góp vốn. Văn phòng công chứng có con dấu, tài khoản riêng và
hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
1.2.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của văn phòng công chứng
Có thể nói, sự ra đời của Luật Công chứng 2006, với chủ trương
chuyển giao, sắp xếp lại thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tổ
chức có thẩm quyền công chứng, cũng như việc luật hóa mô hình Văn phòng
công chứng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động công chứng ở nước ta, là bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực
công chứng. Hiện nay, qua nhiều năm hoạt động, Luật Công chứng 2014 với
nhiều sửa đổi, bổ sung tiến bộ so với Luật Công chứng 2006 là cơ sở pháp lý
để nhà nước quản lý các giao dịch dân sự và thúc đẩy chủ trương xã hội hóa
hoạt động công chứng.
Tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng là những điều kiện
cần và đủ để thành lập văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật và
cách thức để văn phòng hoạt động đúng pháp luật và hiệu quả.
Về mặt tổ chức, Văn phòng Công chứng ngoài người đại diện theo
pháp luật là Trưởng Văn phòng Công chứng – phải là một công chứng viên
còn có các công chứng viên hợp danh. Văn phòng Công chứng có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng
nguồn thu từ kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao
công chứng và các nguồn thu nhập hợp pháp khác.. Tuy nhiên, cũng có điểm
khác biệt giữa công ty Hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014
và Văn phòng Công chứng đó là Văn phòng Công chứng không có thành viên
25
góp vốn để tránh trường hợp chủ đầu tư làm chủ văn phòng.
Về mặt hoạt động, việc xác định Văn phòng Công chứng hoạt động
theo loại hình Công ty hợp danh nhằm mục đích chính là xác định về thuế,
thuê lao động, kế toán, thống kê… Đây cũng chính là điểm tạo nên sự khác
biệt giữa Văn phòng Công chứng và Phòng công chứng. Phòng công chứng là
do Nhà nước bảo đảm về cơ sở vật chất, biên chế nhân sự, kinh phí, còn Văn
phòng Công chứng là do Công chứng viên tự chủ toàn bộ về cơ sở vật chất,
biên chế nhân sự, kinh phí. Còn về chức năng, nhiệm vụ của Phòng công
chứng và Văn phòng Công chứng theo quy định của Luật công chứng 2014 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 thì không có điểm gì khác biệt. Văn
phòng Công chứng và Phòng công chứng trên toàn quốc đều hoạt động theo
Luật Công chứng, đều thực hiện công chứng các Hợp đồng, giao dịch luật quy
định bắt buộc phải công chứng và các Hợp đồng, giao dịch do người yêu cầu
công chứng yêu cầu công chứng. Văn bản công chứng do Công chứng viên
Văn phòng Công chứng chứng nhận và văn bản do Công chứng viên Phòng
công chứng chứng nhận đều có giá trị pháp lý như nhau.
Có thể nói, văn phòng công chứng ra đời đánh dấu một bước phát triển
xã hội hóa, xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong
quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công
chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà
nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước. Vì đây là
mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, nên việc tổ chức thực hiện việc quản
lý không tránh khỏi những bỡ ngỡ. Trong giai đoạn đầu của quá trình cải
cách, song song tồn tại hai hệ thống bên cạnh các Phòng Công chứng nhà
nước đã thành lập, với các Công chứng viên nhà nước và các Văn phòng công
chứng mới thành lập, dần được nhân rộng với các Công chứng viên hành
nghề tự do, đặt dưới sự quản lý bằng pháp luật của nhà nước.
26
Mặc dù còn nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động, song trong giai
đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, văn phòng công
chứng thực sự đã góp phần tạo môi trường pháp lý cho các giao dịch dân sự,
kinh tế, thương mại phát triển, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật,
tạo sự ổn định cho xã hội. Điều quan trọng hơn là sự ra đời của văn phòng
công chứng đã góp phần mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để người dân bước
đầu hình thành ý thức sử dụng các công cụ pháp lý, biện pháp hợp pháp để
bảo vệ mình trong đời sống dân sự; tạo cho người dân ý thức, trách nhiệm tốt
hơn khi tham gia giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
1.3. Một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động công chứng
Công chứng không còn xa lạ mà đã tồn tại từ rất lâu và ngày càng trở
nên phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Có thể khái quát
công chứng trên thế giới thành ba hệ thống như sau:
1.3.1. Hệ thống công chứng Latinh
Hệ thống công chứng Latinh là hệ thống chịu ảnh hưởng của hệ thống
Luật La Mã và hệ thống pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Hệ
thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch
và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La
tinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu
Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...). Hiện này, hệ thống công chứng Latinh đã hình
thành tổ chức quốc tế của mình đó là Liên đoàn Công chứng quốc tế Latinh
(tên viết tắt là UINL) với thành viên chính thức khoảng hơn 60 quốc gia. Do
đặc điểm của các nước theo hệ thống civil law là trọng vật chứng hơn nhân
chứng. Hệ thống luật latinh có nhưng đặc điểm sau:
- Phạm vi công chứng được pháp luật quy định cụ thể, chặt chẽ việc
nào phải công chứng (bặt buộc), việc nào không phải công chứng nhưng
đương sự yêu cầu công chứng;
27
- Giá trị pháp lý cuả văn bản công chứng rất cao, văn bản có hiệu lực
thi hành đối với các bên đương sự như một phán quyết của tòa án. Ở một số
nước gọi Công chứng viên là “thẩm phán về hợp đồng”;
- Công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm, có thể là công chức hoặc
không, nhưng để hành nghề công chứng họ phải được Nhà nước bổ nhiệm và
hoạt động chuyên trách chứ không kiêm nhiệm về công chứng;
1.3.2. Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ
- Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ (Hay hệ thống công
chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon (Common
Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane),
Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan...
Luật án lệ tương đối linh hoạt, nhân chứng được tôn trọng hơn vật
chứng. Hoạt động công chứng này mang đặc điểm sau:
- Phạm vị công chứng không được quy định rõ ràng; Nội dung hành
vi, hình thức văn bản không được pháp luật quy định chặt chẽ, văn bản
công chứng không có hiệu lực bắt buộc thực hiện với các bên như một
phán quyết của tòa.
Công chứng là một nghề tự do, và luật sư có thể kiêm cả công chứng.
Với những đặc tính này, cho thấy tính chất chuyên môn nghề nghiệp về công
chứng ở quốc gia này không cao.
1.3.3. Hệ thống công chứng Collectiviste
Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các
nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) trước đây và phát triển mạnh vào các năm
70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông
Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam.
Trước đây, công chứng tập thể là công chứng Nhà nước, Công chứng
viên là công chức nhà nước, Phòng Công chứng là cơ quan Nhà nước, Nhà
28
nước lập ra theo đơn vị hành chính. Nhưng nơi chưa có Phòng Công chứng
thì chính quyền thực hiện việc công chứng. Có nơi Phòng Phòng chứng và
chính quyền cùng thực hiện hành vi công chứng: Hành vi công chứng được
xác định một cách rõ ràng bằng cách liệt kê những công việc Công chứng
viên được làm, hình thức của văn bản công chứng không được quy định cụ
thể; đặc biệt rất ít quan tâm đến công tác lưu trữ văn bản, giá trị pháp lý của
văn bản không được coi trọng, vai trò trách nhiệm của Công chứng viên nhất
là trách nhiệm vật chất không được đề cập. Họ chỉ chịu trách nhiệm hành
chính trước cơ quan Nhà nước cấp trên mà không chịu trách nhiệm dân sự
trước đương sự. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, thì hầu
hết các nước này đã chuyển dần sang mô hình công chứng Latinh.
Tóm lại, dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung
quy, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống
công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mô hình công
chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).
Ở mô hình công chứng tự do, các Công chứng viên được nhà nước bổ
nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức
Văn phòng công chứng tư nhân hoặc Văn phòng công chứng tập thể, tự chủ
trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho nhà nước. Công
chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải
bồi thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công
chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba.
Ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế
nhà nước, Công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, Công chứng viên không phải chịu
trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do hành vi công chứng
trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước
29
nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích
lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng. Có
thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà
nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện
vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển ở
đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân.
Có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với
mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân
của Công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các
Công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động
của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước tinh
giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết
kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng
thuế của các Công chứng viên. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công
chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu
cầu công chứng của nhân dân.
Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ thống công chứng tập thể,
sau này khi có Luật Công chứng năm 2006 Việt Nam đã có một bước chuyển
mới, song vẫn chịu ảnh hưởng nặng của hệ thống công chứng này. Ngày
9/10/2013, tại Đại hội công chứng quốc tế lần thứ XXVII được tổ chức ở
Thành phố Lima, thủ đô của Pê-ru, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 84 của Liên minh công chứng quốc tế. Sự kiện này đánh dấu sự phát triển
lớn mạnh của ngành công chứng Việt Nam và sự hội nhập sâu rộng của công
chứng Việt Nam với công chứng thế giới. Ngành công chứng Việt Nam có
thêm nhiều cơ hội tốt để học hỏi, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm với công chứng
30
quốc tế, điều này góp phần đưa công chứng Việt nam ngày càng phát triển.
Sau khi ra nhập Liên minh công chứng Quốc tế, công chứng Việt Nam
có những bài học kinh nghiệm đáng kể như chuyển dần sang mô hình công
chứng tự do, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, chuyển
đổi các Phòng công chứng nhà nước sang loại hình Văn phòng công chứng.
Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng nhằm đề cao và phát huy trách
nhiệm cá của công chứng viên để nâng cao tính an toàn pháp lý cho giao dịch,
đồng thời giảm thiểu sự sự bao cấp của nhà nước. Ngoài ra, từ bài học của công
chứng thế giới đối với Việt Nam đó là việc kiểm soát nội bộ thông qua mô hình
hội công chứng – là mô hình tổ chức nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề
công chứng. Nhờ có tổ chức này, hoạt động công chứng tại địa phương hay
trên cả nước được kiểm soát tốt hơn, hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động quản lý nhà
nước về công chứng.
1.4. Những yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng
1.4.1. Sự tồn tại hợp pháp của Văn phòng Công chứng
- Nguyên tắc và thủ tục xin thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng
công chứng
Nguyên tắc thành lập Văn phòng Công chứng phải tuân theo quy định
của Luật Công chứng 2014 và phù hợp vi Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt [22, Điều 18].
Quy định này đảm bảo cho việc phân bổ các tổ chức công chứng phù hợp với
nhu cầu giao dịch của từng địa phương như ở nội thành thành phố Hà Nội, tại
các phường, quận trung tâm, đông dân cư, nhu cầu giao dịch của người dân lớn
thì số lượng tổ chức công chứng được thành lập sẽ lớn hơn những huyện ngoại
thành, dân cư tập trung thưa thớt, ít các hoạt động thương mại và dự án đầu tư
lớn. Ngoài ra, việc cho phép thành lập tổ chức công chứng theo quy hoạch này
sẽ tránh tình trạng quá nhiều tổ chức công chứng thành lập trên một địa bàn
31
dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức công chứng.
Thủ tục và quy trình xin thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng
Công chứng quy định cụ thể tại điều 23 Luật Công chứng 2014. Theo đó, khi
xin phép thành lập Văn phòng Công chứng, công chứng viên thành lập Văn
phòng Công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng gửi Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh, hồ sơ gồm có: Đơn đề nghị thành lập Văn phòng Công chứng và
đề án thành lập Văn phòng công chứng. Đề án này cần phải nêu rõ sự cần thiết
thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều
kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện, bản sao quyết định bổ nhiệm
công chứng viên. Văn phòng Công chứng có trụ sở riêng với địa chỉ cụ thể và
phải đáp ứng các yêu cầu như phải đủ diện tích làm việc cho công chứng viên,
nhân viên, tiếp người yêu cầu công chứng và lưu trữ hồ sơ theo quy định của
pháp luật. Mục đích của việc quy định này là để công chứng viên khi chuẩn bị
các thủ tục thành lập Văn phòng Công chứng phải xác định rõ: hoạt động công
chứng phải tương xứng với tính chất là một tổ chức thay mặt Nhà nước thực
hiện dịch vụ công, phải được tổ chức thực hiện một cách quy củ, tránh tình
trạng tạm bợ của hoạt động công chứng hoặc kết hợp thực hiện các dịch vụ
khác không phù hợp với tính nghiêm túc của hoạt động công chứng.
Trong thời hạn luật định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định
cho phép thành lập Văn phòng Công chứng và sau đó Văn phòng Công chứng
phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho
phép thành lập với các nội dung về: Tên gọi của Văn phòng Công chứng, Họ
tên Trưởng Văn phòng Công chứng, Địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công
chứng, Danh sách công chứng viên hợp danh và danh sách công chứng viên
làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng Công chứng.
- Hợp nhất, sát nhập, chuyển nhượng Văn phòng Công chứng
Việc hợp nhất Văn phòng Công chứng là việc hai hoặc một số Văn
32
phòng Công chứng có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp
thành một Văn phòng Công chứng mới, đồng thời chấm dứt hoạt động của
các Văn phòng Công chứng bị hợp nhất.
Việc sáp nhập Văn phòng Công chứng là việc một hoặc một số Văn
phòng Công chứng có thể chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp sang Văn phòng Công chứng để sáp nhập vào một Văn phòng Công
chứng khác có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
đồng thời chấm dứt hoạt động của Văn phòng Công chứng bị sáp nhập.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép hợp nhất, sáp
nhập Văn phòng Công chứng. Chính phủ quy định chi tiết thủ tục hợp nhất, sáp
nhập Văn phòng Công chứng tại Điều 13 và 14 Nghị định 29/2015/NĐ-CP.
Việc chuyển nhượng Văn phòng công chứng cho các công chứng viên
khác khi đáp ứng các điều kiện quy định của Luật công chứng. Văn phòng
công chứng chỉ được chuyển nhượng khi đã hoạt động công chứng được ít
nhất là 02 năm.
- Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là người
đứng đầu và đại diện cho văn phòng công chứng, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của văn phòng công chứng, đại diện cho văn
phòng công chứng với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trước Trọng Tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật. Theo quy định của Luật Công chứng 2014, người đại diện
theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn
phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng và đã
hành nghề công chứng từ 02 năm trở nên.
- Bổ nhiệm công chứng viên
Công chứng viên là người chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp
33
đồng, giao dịch, bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài
hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt; chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Để được bổ nhiệm là công chứng
viên, một người cần đáp ứng các điều kiện sau:
Về tiêu chuẩn công chứng viên công chứng viên được quy định: Công
dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp luật
từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật, Tốt
nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề
công chứng, đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng và bảo
đảm sức khỏe để hành nghề công chứng thì được xem xét, bổ nhiệm công
chứng viên [22, Điều 8]
Sau khi hoàn thiện hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên theo quy
định tại khoản 2, điều 2 của Luật Công chứng 2014 được gửi đến Sở Tư pháp
nơi người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đã đăng ký tập sự hành nghề
công chứng để xem xét và bổ nhiệm công chứng viên.
- Thu hồi quyết định cho phép thành lập và chấm dứt hoạt động Văn
phòng công chứng
Thu hồi quyết định cho phép thành lập văn phòng công chứng sẽ xẩy ra
khi Văn phòng công chứng không thực hiện đăng ký hoạt động hoặc hết thời
hạn 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động mà Văn phòng
công chứng chưa bắt đầu hoạt động, không hoạt động liên tục từ 03 tháng trở
lên, chỉ còn một công chứng viên hợp danh và không bổ sung được thành viên
hợp danh mới, toàn bộ công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng
bị miễn nhiệm chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, không bảo đảm duy trì
điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan.
34
Chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng trong các trường hợp tự
chấm dứt hoạt động hoặc bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do Văn phòng công
chứng vi phạm pháp luật hoặc không còn công chứng viên do bị miễn nhiệm.
Trong trường hợp chấm dứt hoạt động tự chấm dứt hoạt động thì Văn
phòng công chứng phải có báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký
hoạt động và phải có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt
hợp đồng lao động đã ký với người lao động, thực hiện các yêu cầu công
chứng đã tiếp nhận và đăng báo trung ương hoặc báo địa phương trong hai số
liên tiếp về thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động.
Trong trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động vì bị
thu hồi giấy đăng ký hoạt động thì Văn phòng công chứng phải có nghĩa vụ
thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký
với người lao động; đối với yêu cầu công chứng đã tiếp nhận mà chưa công
chứng thì phải trả lại hồ sơ yêu cầu công chứng cho người yêu cầu công
chứng và đăng báo trung ương hoặc báo địa phương trong hai số liên tiếp
về việc chấm dứt hoạt động.
Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt
hoạt động Văn phòng công chứng với các cơ quan có liên quan.
1.4.2. Hoạt động của Văn phòng Công chứng tuân thủ các quy định
của pháp luật
1.4.2.1. Hoạt động cung cấp dịch vụ công chứng cho người yêu cầu
công chứng
- Cung cấp dịch vụ công chứng hợp đồng, giao dịch cho người yêu cầu
công chứng là hoạt động chủ yếu của các Văn phòng công chứng. Thủ tục
công chứng hợp đồng, giao dịch được quy định tại Điều 40, 41 của Luật Công
chứng. Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch có hai loại: hợp đồng, giao
dịch do người yêu cầu công chứng tự soạn thảo và hợp đồng, giao dịch do
công chứng viên soạn thảo. Cụ thể thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch có
35
các bước như sau:
Bước 1: Người yêu cầu công chứng lập một bộ hồ sơ, trong đó có dự
thảo hợp đồng, giao dịch cần chứng thực
Bước 2: Công chứng viên kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công
chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định
của pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng.
Bước 3: Công chứng viên ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp
đồng, giao dịch.
Bước 4: Trả kết quả công chứng, thu phí công chứng
Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp: công chứng là
hoạt động gắn liền với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch; đồng thời hỗ trợ, bổ sung cho
các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên được xếp vào
hoạt động bổ trợ tư pháp.
- Cung cấp dịch vụ sao y, chứng thực chữ ký, chứng thực bản dịch là
hoạt động mới được trao thẩm quyền thực hiện cho Văn phòng công chứng. Ở
Việt Nam, quá trình phát triển của hoạt động chứng thực luôn gắn liền với
quá trình phát triển của hoạt động công chứng. Trong một thời gian dài, hai
hoạt động này luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm
pháp luật. Thực hiện chủ trương tách bạch hoạt động công chứng và hoạt
động chứng thực theo Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; nhằm tạo điều kiện
cho công tác công chứng, chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của cá nhân, tổ chức, Nghị định số
23/2015/NĐ-CP đã phân biệt rõ rệt sự khác biệt giữa công chứng và chứng
thực hợp đồng, giao dịch. Theo đó “Cấp bản sao từ sổ gốc” là việc cơ quan, tổ
chức đang quản lý sổ gốc, căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao. Bản sao từ sổ
36
gốc có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc. “Chứng
thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy
định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng
với bản chính. “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là
chữ ký của người yêu cầu chứng thực [8, Điều 2, Khoản 1, 2, 3].
1.4.2.2. Hoạt động nội bộ của các văn phòng công chứng
- Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động.
Khi thay đổi một trong các nội dung bao gồm tên gọi của Văn phòng
Công chứng, họ tên Trưởng Văn phòng Công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn
phòng Công chứng, danh sách công chứng viên hợp danh của Văn phòng
Công chứng và danh sách công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng
của Văn phòng Công chứng, Văn phòng Công chứng phải đăng ký nội dung
thay đổi tại Sở Tư pháp nơi Văn phòng Công chứng đã đăng ký hoạt động.
Việc thay đổi trụ sở của Văn phòng Công chứng sang huyện, quận, thị
xã, thành phố khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi
đã ra quyết định cho phép thành lập phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem
xét, quyết định và phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
hành nghề công chứng.
Văn phòng Công chứng thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn
phòng Công chứng thì được Sở Tư pháp cấp lại giấy đăng ký hoạt động trong
thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị; trường hợp từ
chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do [22, Điều 24].
Chi tiết thủ tục thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng Công
chứng được quy định tại Điều 18 Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng:
1. Văn phòng Công chứng đề nghị thay đổi nội dung đăng ký
37
hoạt động theo quy định tại Điều 24 của Luật công chứng nộp trực
tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính 01 (một) bộ hồ sơ đến Sở Tư
pháp nơi Văn phòng Công chứng đăng ký hoạt động.
Hồ sơ bao gồm giấy đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt
động của Văn phòng Công chứng, giấy đăng ký hoạt động của Văn
phòng Công chứng (bản chính) và một hoặc một số giấy tờ sau đây
tùy thuộc vào nội dung đăng ký hoạt động được đề nghị thay đổi:
a) Hồ sơ đăng ký hành nghề và cấp Thẻ cho công chứng viên
được bổ sung cho Văn phòng Công chứng theo quy định tại Điều 4
của Thông tư này; văn bản thỏa thuận về việc chấm dứt tư cách
thành viên hợp danh của công chứng viên, văn bản thanh lý hợp
đồng lao động với công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng;
giấy tờ chứng minh công chứng viên của Văn phòng Công chứng bị
chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết trong trường hợp thay đổi
danh sách công chứng viên;
b) Giấy tờ chứng minh công chứng viên dự kiến là Trưởng
Văn phòng đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên trong
trường hợp thay đổi Trưởng Văn phòng Công chứng;
c) Giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp thay đổi trụ
sở của Văn phòng Công chứng; trường hợp thay đổi trụ sở Văn
phòng Công chứng sang địa bàn cấp huyện khác thì phải có văn bản
chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 1
Điều 24 của Luật công chứng;
2. Văn phòng Công chứng nhận sáp nhập quy định tại Điều
14, Văn phòng Công chứng được chuyển nhượng quy định tại Điều
15 của Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
38
công chứng nộp trực tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính 01 (một)
bộ hồ sơ đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động đến Sở Tư
pháp nơi Văn phòng Công chứng đã đăng ký hoạt động.
3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Sở Tư pháp cấp lại giấy
đăng ký hoạt động cho Văn phòng Công chứng trong trường hợp
thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng Công chứng hoặc
ghi nhận nội dung thay đổi vào giấy đăng ký hoạt động của Văn
phòng Công chứng trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký
hoạt động khác; trường hợp từ chối thì phải thông báo bằng văn bản
và nêu rõ lý do [11].
Sau khi được cấp lại đăng ký hoạt động, trong thời hạn 10 ngày làm
việc kể từ ngày cấp hoặc cấp lại giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng Công
chứng, Sở Tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan
thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng
Công chứng đặt trụ sở [22, Điều 25].
Quy định về việc đăng báo nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng
Công chứng tại Luật Công chứng 2016:
1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký
hoạt động, Văn phòng Công chứng phải đăng báo trung ương hoặc
báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về
những nội dung sau đây:
a) Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công chứng;
b) Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm của công chứng viên hành
nghề tại Văn phòng Công chứng;
c) Số, ngày, tháng, năm cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng
39
ký hoạt động và ngày bắt đầu hoạt động.
2. Trong trường hợp được cấp lại giấy đăng ký hoạt động, Văn
phòng Công chứng phải thực hiện việc đăng báo về nội dung đăng ký
hoạt động theo quy định tại khoản 1 Điều này [21, Điều 26]
- Tài chính của Văn phòng Công chứng
Văn phòng Công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính
bằng nguồn thu kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù
lao công chứng, thù lao chứng thực, dịch thuật và các nguồn thu hợp pháp
khác. Đồng thời, Văn phòng Công chứng tự chịu trách nhiệm về các khoản
chi phục vụ cho hoạt động của Văn phòng mình và đóng thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Kinh phí đóng góp của công chứng viên: theo quy định của Luật
Doanh nghiệp về loại hình doanh nghiệp hợp danh:
Thành viên hợp danh phải góp đủ và đúng hạn số vốn như đã
cam kết. Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã
cam kết gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho công ty. Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên
được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp [23, Điều 173, Khoản 1,2,4].
- Phí công chứng: Phí công chứng bao gồm phí công chứng hợp đồng,
giao dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản công chứng, phí sao y,
chứng thực hồ sơ, giấy tờ. Mức thu phí công chứng được áp dụng thống nhất đối
với Phòng công chứng và Văn phòng Công chứng. Bộ tài chính chủ trì, phối hợp
với Bộ tư pháp quy định mức thu, chế độ quản lý, sử dụng phí công chứng.
- Phí sao y, chứng thực: Là mức phí mà Văn phòng Công chứng được
thu khi thực hiện các hoạt động sao y, chứng thực và dịch thuật theo quy định
tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 về việc Cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng
40
thực hợp đồng, giao dịch. Nghị định này đã mở ra cho các Văn phòng Công
chứng thêm về quyền hạn và nguồn thu phục vụ cho văn phòng cũng như giải
quyết nhu cầu rất lớn của người dân.
- Thù lao công chứng: Là khoản tiền do Văn phòng Công chứng thu từ
việc soạn thảo hợp đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác liên
quan đến công việc công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng.
Mức thù lao đối với từng loại việc do tổ chức hành nghề công chứng xác định.
- Chi phí khác: Là khoản tiền do Văn phòng Công chứng thu từ việc
người yêu cầu công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện công
chứng ngoài trụ sở của Văn phòng Công chứng, thực hiện việc cung cấp dịch
vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để
đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân. Mức chi phí này do người yêu cầu
công chứng và tổ chức hành nghề công chứng thảo thuận.
1.4.3. Đảm bảo sự quả lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của văn
phòng công chứng
Theo quy định của pháp luật ở nước ta về công chứng thì các tổ chứ
hành nghề công chứng là một tổ chức, là một bộ phận thuộc hệ thống hỗ trợ
các cơ quan tư pháp. Văn phòng công chứng có tư cách pháp nhân, có trụ sở
riêng, có tài khoản riêng và có con dấu theo quy định của pháp luật. Văn
phòng công chứng có người đại diện theo pháp luật là trưởng văn phòng, công
chứng viên hợp danh, công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng,
chuyên viên và các nhân viên hành chính khác. Như vậy, văn phòng công
chứng hội đủ các điều kiện là một tổ chức và hoạt động theo quy định về công
ty hợp danh nhưng không có thành viên góp vốn. Văn phòng công chứng hiện
nay có đặc thù riêng, không phải là cơ quan quản lý Nhà nước, không phải là
cơ quan tư pháp mà là được nhà nước trao cho quyền thực hiện các dịch vụ
hành chính công và có quan hệ chặt chẽ với cơ quan tư pháp, là một tổ chức
41
áp dụng luật pháp một cách chuẩn mực, người thực hiện hành vi công chứng
là công chứng viên được Nhà nước đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề
nghiêm ngặt. Mục đích quan trọng mà công chứng viên thực hiện và mong
muốn đạt được là tính khách quan, trung thực, chính xác chứ không phải là
mục đích cạnh tranh hay kinh doanh.
Nguyên tắc nhà nước quản lý là nguyên tắc chung cho tất cả các cơ
quan tổ chức, nhưng đối với Văn phòng công chứng, nguyên tắc này thể hiện
ở chỗ, văn phòng công chứng là doanh nghiệp hoạt động theo quy chế riêng
với mục đích là phục vụ lợi ích công, dịch vụ công, chứ không hoạt động
giống như cơ quan hành chính nhà nước. Theo quy định hiện nay, Sở tư pháp
giúp ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý các văn phòng công
chứng tại địa phương. Chính phủ thống nhất quản lý tổ chức và hoạt động
công chứng. Văn phòng công chứng do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương ra quyết định thành lập. Nguyên tắc này xuất phát từ quan
điểm hoạt động công chứng dù có là doanh nghiệp tư nhân phải thể hiện vai
42
trò của Nhà nước trong việc chứng nhận tính xác thực.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG
CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cư, kinh tế - xã hội của
thành phố Hà Nội
2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
cũng là kinh đô của rất nhiều vương triều Việt cổ. Do đó, lịch sử Hà Nội gắn
liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các thời kì. Từ lâu Hà Nội đã
được chọn là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa ngay từ buổi đầu dựng
nước, giữ nước. Năm 1010, vị vua đầu tiên quyết định đặt kinh đô tại vùng
đất trù phú này là Lý Công Uẩn với cái tên Thăng Long. Kể từ đó thành
Thăng Long vẫn là trung tâm văn hóa, chính trị, giáo dục, thương mại trong
các triệu đại sau này như Lý, Trần, Lê, Mạc. đến khi nhà Nguyễn lên nắm
quyền, Huế trở thành kinh đô và thành Thăng Long đổi tên Hà Nội. Năm
1902, Hà Nội được xây dựng, quy hoạch lại và trở thành thủ đô của Liên bang
Đông Dương. Qua biết bao nhiêu biến cố, Hà Nội vẫn giữ vai trò là thủ đô và
trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và là niềm tự hào của người dân
Việt Nam cho tới ngày nay.
Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của
Việt Nam. Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2 sau đợt mở rộng hành chính năm 2008 [32, tr.22] đồng thời cũng là địa
phương đứng thứ nhì về dân số với 7.500.000 người (năm 2015) [33, tr. 14].
Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành, tiếp giáp với
các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam,
43
Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía
Tây. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng
bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông
khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc
Oai, Mỹ Đức. Khí hậu Hà Nội chia ra thành 4 mùa: Xuân, hạ, thu, đông, tiêu
biểu cho khí hậu miền Bắc.
2.1.2. Tình hình Kinh tế - Xã hội thành phố Hà Nội
Điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và khí hậu đã tạo cho Hà Nội nhiều
cơ hội phát triển về kinh tế. Năm 2009 Hà Nội đứng đầu cả nước về diện tích,
thứ hai về dân số và tổng sản phẩm quốc nội sau Tp. Hồ Chí Minh. Trong
năm 2015, kinh tế Thủ đô tiếp tục có chuyển biến tích cực, đạt kết quả khá.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 9,24% - mức tăng cao nhất
trong 4 năm trở lại đây và đạt kế hoạch của năm 2015. Quy mô GRDP đạt
khoảng 27,6 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 3.600 USD - gấp
1,8 lần so với năm 2010. Các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng khá. Giá
trị gia tăng ngành công nghiệp năm 2015 ước tăng 8,05%; ngành xây dựng
tăng 12,4%, cao nhất kể từ năm 2010; ngành dịch vụ ước tăng 9,91%; ngành
nông nghiệp ước tăng 2,47%.
Thị trường cung cầu hàng hóa được ổn định, giá cả được kiểm soát,
không để xảy ra tình trạng khan hàng hoặc tăng giá đột biến. Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 11,7%. Công tác thu - chi
ngân sách được đảm bảo. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt
146.585 tỷ đồng, đạt 103,5% dự toán HĐND thành phố giao; chi ngân sách
ước thực hiện 69.970 tỷ đồng, đạt 118,5% dự toán (do bổ sung từ nguồn tăng
thu, nguồn thưởng vượt thu và phát hành trái phiếu xây dựng Thủ đô).
Đặc biệt, hoạt động tín dụng chuyển biến tích cực, mặt bằng lãi suất
huy động và cho vay giảm 1,5-2% so với đầu năm; ước tổng vốn huy động
44
trong năm 2015 đạt 1,45 triệu tỷ đồng, tăng 21,85% so với đầu năm; tổng dư
nợ đạt trên 1,21 triệu tỷ đồng, tăng 19,5% so với đầu năm… Tuy nhiên, tình
hình xuất khẩu dù đã phục hồi so với đầu năm nhưng chuyển biến chậm. Kim
ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 11,348 tỷ USD, tăng 2,52% thấp hơn nhiều
kế hoạch đề ra là tăng 8-9%. Nguyên nhân là do hàng xuất khẩu cạnh tranh
kém, một phần do tiền đồng Việt Nam đang mạnh lên trong năm qua, cụ thể
mạnh lên 19,6% so với Euro, 16,2% so với Yên Nhật, 51% so với Rup Nga…
Bên cạnh đó, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó
khăn, số doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng so với năm 2015. Tiến độ một
số công trình trọng điểm còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu; việc phát hiện và
xử lý vi phạm về trật tự xây dựng ở một số địa phương chưa kịp thời…
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn
2016-2020, Hà Nội đặt mục tiêu tổng quát trong năm 2016 là đẩy mạnh cải
thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phấn đấu tốc độ tăng
trưởng cao hơn năm 2015...
(Nguồn: http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/174-542-ha-noi-tam-voc-thu-do.html)
Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP Hà Nội giai đoạn 2008-2013
Thu nhập và đời sống của ngƣời dân
45
Với những chỉ số tăng trưởng tích cực, có thể thấy kinh tế Hà Nội đã khởi
sắc trở lại sau nhiều năm chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự
nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế của thành phố Hà Nội cũng có chuyển biến tiến
bộ. Hà Nội đã chủ trì và phối hợp tham gia tổ chức thành công các sự kiện, các
hoạt động văn hóa nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc
khánh 2/9. Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp
diễn ra nghiêm túc. Mức tăng trưởng của Thủ đô năm 2015 đạt 9,24%, cao hơn
năm 2014. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm ước tăng 9,23%, gấp
1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước, bình quân thu nhập đầu người
khoảng 3.600 USD, cao gấp 1,8 lần so với năm 2010.
(Nguồn: - Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê 2014)
Biểu đồ 2.2. Tăng trưởng GDP Hà Nội quý I từ 2009 - 2014
Tuy nhiên, Hà Nội đang gặp nhiều vấn đề khó khăn trong việc quản lý
quy hoạch các vùng đang đô thị hóa. Rất nhiều những dự án lớn đang được
xây dựng trên các vùng mở rộng của Hà Nội đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ và sát
sao của các nhà lãnh đạo thành phố tránh sự vướng mắt và đảm bảo sự phát
triển bền vững của thành phố. Ngoài ra, các vấn đề khác như thủ tục hành
chính rườm rà của thủ đô, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, xây dựng
46
nếp sống văn minh, quản lý đất đai, trật tự đô thị cũng đang rất nhức nhối.
Những đặc điểm và kinh tế, xã hội của thủ đô Hà Nội cho thấy sự ảnh
hưởng của những yếu tố này tới hoạt động công chứng trên địa bàn. Vị trí địa
lý rộng với... khiến cho Hà Nội trở thành địa bàn có số lượng tổ chức hành
nghề công chứng lớn nhất trên cả nước hiện nay, quy mô của các tổ chức
hành nghề công chứng lại không đồng đều. Những Văn phòng công chứng
trong nội thành tại các quận trung tâm lớn hơn rất nhiều những tổ chức hành
nghề công chứng tại các quận ngoại thành mới được mở rộng và sát nhập vào
Hà Nội. Ngoài ra, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội là đầu tầu của cả nước
chính vì vậy, số lượng giao dịch qua công chứng rất nhiều, tính chất đa dạng,
phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy, trên thực tế, hoạt động công
chứng của thủ đô đang là điểm nóng trên cả nước, có sức ảnh hưởng tới hoạt
động công chứng của các địa phương khác và được nhà nước quan tâm kiểm
soát và quản lý.
2.2. Những điểm mạnh trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua
2.2.1. Về mặt tổ chức của Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội
2.2.1.1. Thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng
công chứng
Ngay từ khi Luật Công chứng 2006 ra đời và có hiệu lực thi hành ngày
01/7/2007 thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng bằng quy định cho phép
thành lập Văn phòng Công chứng dưới hình thức Công ty tư nhân hoặc công ty
hợp danh, Hà Nội đã chứng tỏ là mảnh đất tốt cho hoạt động của các Văn phòng
Công chứng phát triển. Hà Nội lúc này có dân số trên 4 triệu người nhưng chỉ có
6 phòng công chứng Nhà nước với gần 30 Công chứng viên luôn hoạt động
trong tình trạng quá tải để giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến công
47
chứng, hợp đồng giao dịch, hợp đồng thế chấp bất động sản, di chúc, văn bản
thỏa thuận phân chia di sản, nhận lưu giữ di chúc... Ngày 9/7/2007, ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội đã có quyết định số 2692/QĐ-UBND cho phép thành lập
7 Văn phòng Công chứng. 7 Văn phòng Công chứng này bao gồm: văn phòng
Công chứng Thăng Long (tại 54 phố Trần Nhân Tông, quận Hai Bà Trưng),
Văn phòng Công chứng Hà Nội (ở A38 phố Hoàng Ngân, phường Trung Hòa,
quận Cầu Giấy), Văn phòng Công chứng Ba Đình (tại số 3C Láng Hạ,
phường Thành Công, quận Ba Đình), Văn phòng Công chứng Hoàng Mai (ở
1253 đường Giải Phóng, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai), Văn phòng
Công chứng Việt (tại 219 phố Nguyễn Ngọc Vũ, phường Trung Hòa, quận
Cầu Giấy), Văn phòng Công chứng Đông Anh (ở tổ dân phố số 2, thị trấn
Đông Anh, huyện Đông Anh), Văn phòng Công chứng Đào và đồng nghiệp
(tại số 45, ngõ 90, đường Khuất Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân). Các Văn phòng Công chứng ra đời như một làn gió mới giả quyết nhu
cầu rất lớn của người dân lúc bấy giờ và làm thỏa mãn những mong mỏi của
người dân về một môi trường hành chính chuyên nghiệp, chất lượng và phục
vụ nhanh chóng.
Sau tám năm thi hành Luật Công chứng 2006 và một năm thi hành Luật
Công chứng 2014, Theo kết quả sơ kết việc thực hiện Quyết định số
2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy
hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” trên
địa bàn thành phố Hà Nội của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ngày
30/12/2015, số lượng tổ chức hành nghề công chứng tăng qua các năm. Nếu
như năm 2007, khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực mở rộng kế hoạch xã
hội hóa hoạt động công chứng thì đã có 9 tổ chức công chứng trong đó có 6
Phòng và 3 Văn phòng Công chứng mới được thành lập). Chỉ sau 5 năm thi
hành Luật Công chứng đến năm 2012 đã có 96 tổ chức tổ chức hành nghề
công chứng gấp 10 lần so với năm 2007 trong đó có 10 Phòng Công chứng và
48
86 Văn phòng Công chứng. Đến nay, thành phố Hà Nội đã có 110 tổ chức
hành nghề công chứng trong đó có 100 Văn phòng Công chứng và 10 Phòng
Công chứng phủ rộng khắp 30 quận, huyện, thị xã, giải quyết việc làm cho
hơn 1.200 người lao động và đáp ứng nhu cầu công chứng rất lớn của các tổ
chức, cá nhân trên địa bàn thành phố. Số lượng Văn phòng Công chứng trên
địa bàn đã vượt so với quy hoạch là 9 Văn phòng. Việc thành lập các Văn
phòng Công chứng giai đoạn 2011 - 2015 đảm bảo tuân thủ đúng quy định
của pháp luật. Các Văn phòng Công chứng khi mới thành lập có gặp một số
khó khăn về vốn, trụ sở, nhân viên, khách hàng, xây dựng thương hiệu v.v...
không ít Văn phòng công chứng ra đời khi chưa kịp chuẩn bị chu đáo về nhân
sự, về cơ sở vật chất, làm ảnh hưởng chất lượng hoạt động. Vượt qua những
khó khăn, trở ngại ban đầu,đến nay, đa số Văn phòng Công chứng đã dần
khẳng định được vị trí, vai trò của mình, hoạt động theo hướng ngày càng
chuyên nghiệp, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người dân [35].
Các quy định về trình tự thủ tục thành lập văn phòng công chứng nhìn
chung không quá phức tạp, gây khó khăn cho công chứng viên có nhu cầu
thành lập văn phòng. Tuy nhiên, để thành lập văn phòng mới hiện nay tại
nhiều quận nội thành thành phố Hà Nội là rất khó khăn vì chỉ tiêu quy hoạch
tổ chức công chứng trong nội thành gần như đã đáp ứng đủ nhu cầu của người
dân, thậm chí còn phân bố khá gần nhau dẫn đến tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh. Còn tại các quận huyện ngoại thành, do nhu cầu giao dịch không
cao, tính chất giao dịch đơn giản và người dân thường có thói quen thực hiện
giao dịch tại phường xã, chính vì vậy, nhu cầu thành lập Văn phòng công
chứng ở tại các địa phương này của công chứng viên không nhiều.
2.2.1.2. Bộ máy nhân sự của Văn phòng Công chứng
Theo quy định của Luật Công chứng, các công chứng viên liên kết với
nhau để tổ chức hoạt động nghề nghiệp của mình theo loại hình công ty hợp
49
danh. Trong Văn phòng Công chứng, công chứng viên được coi là Trưởng
Văn phòng Công chứng có vị trí tương tự như chủ một doanh nghiệp, là người
đại diện theo pháp luật. Khác với Phòng công chứng do nhà nước thành lập
còn phụ thuộc vào biên chế và ngân sách của nhà nước, các Văn phòng Công
chứng thì do các công chứng viên hợp danh và Trưởng Văn phòng Công
chứng có quyền thiết lập, tổ chức bộ máy, bố trí, sắp xếp nhân sự sao cho Văn
phòng Công chứng của mình hoạt động có hiệu quả và ít tốn kém chi phí.
Trong những năm qua, có thể thấy bộ máy của Văn phòng Công chứng
hoạt động thực sự có hiệu quả dưới hình thức doanh nghiệp hợp danh. Đại
diện theo pháp luật của những Văn phòng Công chứng đều là những công
chứng viên hợp danh của Văn phòng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm
trở nên theo quy định của pháp luật.
Từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, cả nước có hơn 1900 công chứng
viên đang hành nghề. Trong đó, thủ đô Hà Nội là địa phương có số lượng
công chứng viên nhiều nhất cả nước với 400 Công chứng viên đang hành
nghề tại các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Đây có thể nói là sự
phát triển vượt bậc, thể hiện vai trò quan trọng của công chứng trong việc
phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô và vai trò của công chứng thủ đô trong sự
phát triển chung của công chứng trên cả nước. Ngoài ra, các Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội đã giải quyết việc làm cho hơn 1.200
người lao động bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như: nhân viên kế toán,
nhân viên lưu trữ, nhân viên hành chính – nhân sự, nhân viên lễ tân, nhân viên
sao y – chứng thực, thư ký nghiệp vụ, nhân viên bảo vệ, lái xe, nhân viên tạp
vụ,…. Không chỉ giải quyết việc làm, các Văn phòng Công chứng còn đảm
bảo cho lao động của mình có mức thu nhập ổn định để trang trải cuộc sống.
Tuy nhiên, về mặt này có sự phân hóa giữa những Văn phòng Công chứng
quy mô lớn trong nội thành với những văn phòng có quy mô nhỏ tại ngoại
50
thành nơi nhu cầu giao dịch của người dân không cao. Những Văn phòng
Công chứng quy mô lớn, trong nội thành, số lượng giao dịch lớn cần số lượng
nhân viên nhiều để đáp ứng được nhu cầu và nguồn thu đến từ hoạt động công
chứng lớn thường yêu cầu cao đối với nhân lực về cả năng lực và hình thức.
Tại đây, mức lương trả cho công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng
rất cao, thường từ mười bốn triệu đồng trở lên và mức lương của thư ký
nghiệp vụ cũng như nhân viên tại cái vị trí chủ chốt khác cũng giao động trên
dưới mười triệu đồng. Tuy nhiên, tại những văn phòng quy mô nhỏ, dưới 10
nhân viên, mức chi trả lương chỉ từ năm triệu đồng. Tuy nhiên, xét về mặt
tổng quan, bộ máy nhân sự của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thủ
đô vẫn đang hoạt động rất hiệu quả, giải quyết việc làm với mức thu nhập hợp
lý cho người lao động và là một trong những ngành tiềm năng cho người lao
động tìm việc làm.
2.2.1.3. Tổ chức nghề nghiệp của Văn phòng Công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Có thể thấy trong tình hình hiện nay, công tác quản lý trong lĩnh vực
công chứng càng trở nên phức tạp do sự phát triển ồ ạt đặt ra yêu cầu về quản
lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động công chứng. Để vừa đảm bảo vai trò
quản lý, vừa phát huy được tính tự quản đòi hỏi phải có một tổ chức xã hội
nghề nghiệp ra đời là nơi để các công chứng viên tự giám sát lẫn nhau trong
hành nghề. Do vậy, theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,
ngày 22/10/2011 Hội Công chứng thành phố Hà Nội chính thức ra đời. Đây là
Hội công chứng đầu tiên được thành lập trong cả nước là điểm sáng, đánh dấu
bước phát triển mới của lĩnh vực công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng và là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển Hội Công chứng ở các
tỉnh, thành khác tiến tới thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc.
Ngày 12/04/2016, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt Điều
51
lệ Hội Công chứng viên thành phố Hà Nội và ban hành Quyết định số
1615/QĐ-UBND về việc cho phép đổi tên từ Hội Công chứng thành phố Hà
Nội thành Hội Công chức viên thành phố Hà Nội.
Theo quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hội Công
chứng viên thành phố Hà Nội có trụ sở tại Phòng Công chứng số 1 (ở số 310
phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Đây là tổ chức xã hội nghề
nghiệp của các công chứng viên đang hành nghề tại thành phố Hà Nội, có tư
cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Hội hoạt động trên cơ sở tự
nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động, chịu sự quản lý Nhà nước
của Sở Tư pháp và các sở ban, ngành có liên quan, đảm bảo tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật, Luật Công chứng và Điều lệ Hội. Hội Công chứng Hà Nội là
thành viên của Hiệp hội công chứng Việt Nam, có quan hệ công tác với các tổ
chức xã hội khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Ban chấp hành Hội
công chứng viên thành phố Hà Nội có 15 người nhiệm kỳ 2015-2018. Đồng
thời, Hội cũng bầu ra Ban kiểm tra, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Hội.
Tính đến tháng 5/2015, mặc dù còn rất non trẻ song Hội Công chứng
viên Hà Nội đã đạt được những thành quả rất đáng ghi nhận. Bộ máy tổ chức
Hội đã đi vào hoạt động một cách ổn định và nề nếp. Các văn kiện pháp lý
đảm bảo cho hoạt động của Hội đã được xây dựng và triển khai thực hiện đầy
đủ và hiệu quả. Thực hiện tốt các kế hoạch về đối nội và đối ngoại; Hàng
năm, Hội phối hợp cùng với Sở Tư pháp thành phố Hà Nội tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho công chứng viên, nhân viên
nghiệp vụ. Ngoài ra, Hội cũng có tiếng nói nhất định trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công chứng viên là thành viên của Hội khi có mâu
thuẫn, tranh chấp xảy ra. Đặc biệt, Hội đã tham gia tích cực trong việc xây
dựng nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, trong đó có Luật
52
Công chứng sửa đổi 2014.
2.2.2. Về hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch của Văn phòng
công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luật Công chứng 2014 ra đời không thay đổi nhiều trình tự và thủ tục
công chứng. Từ những quy định của Luật công chứng về hoạt động công
chứng hợp đồng giao dịch cho chúng ta nhìn nhận một cách khách quan hơn
về trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công chứng hợp đồng, giao
dịch. Bởi vì, công chứng viên là người kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ, xem xét
hồ sơ nếu thấy đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì mới thụ lý.
Những hồ sơ có vấn đề chưa rõ, hoặc thấy việc giao kết hợp đồng, giao dịch
có dấu hiệu bị đe doạ, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về hành vi dân sự của người
yêu cầu công chứng, nghi ngờ vê đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không
có thật thì công chứng viên phải đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ
hoặc công chứng viên phải xác minh hoặc yêu cầu giám định... Khi quy định
cho công chứng viên được soạn thảo hợp đồng theo đề nghị của người yêu
cầu công chứng hoặc do người yêu cầu công chứng soạn thảo sẵn đưa đến thì
công chứng viên vẫn phải chấp hành các thủ tục, trình tự chặt chẽ theo các
quy định của Luật và phải được sự chấp thuận đồng ý của các bên tham gia
hợp đồng, giao dịch.
Cần phải nói thêm rằng, trách nhiệm của công chứng viên đối với hợp
đồng giao dịch không chỉ có những điểm đã nêu trên mà còn liên quan đến
nhiều vấn đề khác như: nếu văn bản công chứng có lỗi về kỹ thuật như sai sót
do đánh máy, do ghi chép, do in ấn mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của
người tham gia hợp đồng, giao dịch thì công chứng viên là người thực hiện
việc sửa lỗi kỹ thuật đó. Việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã
53
có sự thoả thuận, cam kết của tất cả những người tham gia hợp đồng, giao
dịch thì phải được công chứng. Người thực hiện việc công chứng sửa đổi, bổ
sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch phải là công chứng viên.
Đối với việc công chứng di chúc nếu công chứng viên phát hiện thấy
việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc nghi ngờ người
lập di chúc bị bệnh tâm thần hay bị bệnh khác mà không thể làm chủ được
hành vi của mình thì công chứng viên có quyền từ chối hoặc theo đề nghị của
người lập di chúc tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Trách nhiệm
của công chứng viên trong việc công chứng văn bản thoả thuận phân chia di
sản là phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là
người được hưởng di sản. Trong khi kiểm tra thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho
rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì phải từ
chối công chứng hoặc phải tiến hành xác minh.
Ngoài ra, để phòng tránh sự lạm dụng quyền hạn của công chứng viên
làm ảnh hưởng đến sự công bằng và sai phạm khi thực hiện nhiệm vụ công
chứng, Luật công chứng đã có quy định nghiêm cấm một số hành vi đối với
công chứng viên như: không được tiết lộ thông tin về nội dung công chứng
mà mình biết được khi hành nghề, không được sử dụng thông tin đó để xâm
hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không được nhận hoặc đòi hỏi
bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngoài phí công chứng, thù lao công
chứng khi đã được thoả thuận; không được thực hiện công chứng khi mục
đích và nội dung hợp đồng, giao dịch trái với đạo đức xã hội, vi phạm pháp
luật. Công chứng viên không được công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan
đến tài sản, lợi ích của bản thân và gia đình...
Trong những năm trở lại đây, hoạt động công chứng phát triển mạnh
mẽ, số lượng hợp đồng giao dịch ngày càng tăng cùng với tính chất phức tạp
54
của nó. Sở Tư pháp Hà Nội phối hợp với Học viện Tư pháp cùng với các tổ
chức công chứng uy tín tại Hà Nội lên tục tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo
phổ biến những quy định pháp luật mới cũng như chia sẻ kinh nghiệm liên
quan đến hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch trên địa bàn thành phố.
Nhờ vậy đã nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công chứng cũng như đảm
bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch.
2.2.2.2. Hoạt động chứng thực của Văn phòng công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội
So với Luật Công chứng 2006, Luật Công chứng 2014 có nhiều điểm
mới, góp phần tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập về thể chế, nâng cao
chất lượng hoạt động công chứng, công chứng viên, tổ chức hành nghề công
chứng nhằm phục vụ tốt và hiệu quả hơn nhu cầu công chứng của người dân.
Chẳng hạn, mở rộng phạm vi công việc mà công chứng viên được thực hiện, bổ
sung các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động công chứng, sửa đổi bổ sung
quy định về tiêu chuẩn chuẩn công chứng viên, tập sự hành nghề công chứng, bổ
nhiệm lại công chứng viên, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên, bồi thường và bồi hoàn trong hoạt động công chứng, mức trần thù lao công
chứng... Trong đó, điểm nổi bật là việc mở rộng phạm vi công việc mà công
chứng viên được thực hiện. Cụ thể, bên cạnh nhiệm vụ chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, Luật Công chứng 2014 còn giao
cho công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng quyền công chứng, phải
chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bản dịch giấy tờ, văn bản từ
tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại [22, Điều 61, Khoản 3]. Quy định
này đã khắc phục được hạn chế của Luật Công chứng 2006 khi giao cho
phòng tư pháp cấp huyện thực hiện chứng thực chữ ký của người dịch, dẫn
đến chất lượng bản dịch còn hạn chế, trong khi trách nhiệm của người chứng
thực và người dịch không rõ ràng, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi người dân.
55
Bên cạnh đó, công chứng viên còn được giao nhiệm vụ chứng thực
bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Việc chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được
thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực [22]. Trước đây, khi
người dân đến yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận hợp
đồng, giao dịch như thuê nhà, chuyển quyền sở hữu nhà, chuyển quyền sử
dụng đất mà có nhu cầu chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ tài liệu
liên quan để đăng ký sang tên hoặc nộp thuế thì tổ chức công chứng không
làm được, phải hướng dẫn người dân đến Uỷ ban nhân dân phường, xã để
sao y, đến phòng tư pháp thực hiện bản dịch. Như vậy gây bất tiện, phiền hà
cho người dân. Có thể nói Luật Công chứng sửa đổi kỳ này đã tạo thuận lợi
rất lớn cho người dân khi có yêu cầu công chứng giấy tờ, bản dịch; đồng
thời giảm bớt sự quá tải của phòng tư pháp cấp huyện và Uỷ ban nhân dân
cấp xã trong việc chứng thực.
2.2.2.3. Thay đổi đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng
Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng
theo Luật Công chứng hiện hành sẽ phải thực hiện khi thay đổi những nội
dung về tên gọi của Văn phòng công chứng, họ tên Trưởng Văn phòng
công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng công chứng, danh sách công
chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và danh sách công chứng
viên làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng công chứng. Văn
phòng công chứng phải đăng ký nội dung thay đổi tại Sở Tư pháp nơi Văn
phòng công chứng đã đăng ký hoạt động.
Khi thay đổi nội dung hoạt động, Văn phòng Công chứng phải cung
cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng,
Sở Tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan thống
kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng công
56
chứng đặt trụ sở.
Ngoài ra, Luật Công chứng 2014 cũng quy định:
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký
hoạt động, Văn phòng công chứng phải đăng báo trung ương hoặc
báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về
những nội dung sau đây: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Văn phòng
công chứng; Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm của công chứng viên
hành nghề tại Văn phòng công chứng; Số, ngày, tháng, năm cấp
giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và ngày bắt đầu
hoạt động. Trong trường hợp được cấp lại giấy đăng ký hoạt động,
Văn phòng công chứng phải thực hiện việc đăng báo về nội dung
đăng ký hoạt động [22, Điều 26].
Hiện nay, sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành đến nay,
việc đăng ký lại hoạt động của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành
phố rất phổ biến. Do tính chất là địa bàn đi đầu cả nước về hoạt động công
chứng, nên không chỉ nhiều về số lượng và tính chất phức tạp của Hợp đồng
giao dịch mà cả về số lượng và quy mô của các văn phòng công chứng, số
lượng công chứng viên dẫn đến việc thay đổi trụ sở Văn phòng, Trưởng văn
phòng hay đặc biệt là công chứng viên hợp danh diễn ra thường xuyên để
phục vụ cho hoạt động của văn phòng một cách hiệu quả cũng nhu nhu cầu cá
nhân của các công chứng viên. Các thủ tục hành chính để thực hiện việc này
đang được Sở Tư pháp thành phố Hà nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội thực hiện nhanh chóng, không gây sự cồng kềnh, tốn nhiều thời gian và
không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các văn phòng công chứng.
2.2.2.4. Chế độ tài chính của Văn phòng Công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Về nguồn thu của Văn phòng Công chứng
57
Hiện tại, phí công chứng đang được áp dụng thống nhất giữa các tổ
chức hành nghề công chứng và theo quy định tại thông tư liên tịch số
08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp
hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng.
Cùng với Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015, các tổ
chức hành nghề công chứng cũng thực hiện việc thu lệ phí chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực Hợp đồng, giao dịch theo Thông tư
liên tịch số 158/2015/TTLT-BTC-BTP. Ngày 31/3, Phó Chủ tịch UBND thành
phố Hà Nội Ngô Văn Quý ký quyết định số 10/2016/QĐ-UBND ban hành mức
trần thù lao công chứng, dịch thuật tại các tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó, thù lao soạn thảo hợp đồng, giao dịch đối
với các loại hình như chuyển dịch nhà đất; hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh,
góp vốn; hợp đồng thuê, mượn nhà, đất, hợp đồng mua bán, tặng cho ô tô, xe
máy; văn bản phân chia tài sản; soạn thảo di chúc… mức trần thù lao là 1 triệu
đồng. Đối với thù lao soạn thảo văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản
khai nhận di sản thừa kế, mức trần thù lao là 1,2 triệu đồng. Về thù lao dịch
thuật, dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt Nam đối với các tiếng Anh, Nga,
Pháp, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, mức thù lao là 120 ngàn
đồng/trang. Dịch từ tiếng Việt Nam sang các tiếng trên, mức thù lao là 150 ngàn
đồng/trang. Các thứ tiếng nước ngoài khác thì mức thù lao cao nhất không quá
30% so với các thứ tiếng kể trên.
Sau nhiều năm phát triển, các Văn phòng Công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội gặt hát được nhiều thành công đáng kể. Đặc biệt trong hai
năm năm phát triển “nóng” của thị trường bất động sản (các năm 2010 và
2011), các giao dịch chuyển nhượng, thế chấp, mua bán... diễn ra liên tục,
tổng số việc đã công chứng tại Phòng công chứng và Văn phòng Công chứng
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 2 năm nay tăng vọt lên 216 nghìn việc và
58
220 nghìn việc, thu về cho ngân sách nhà nước 76 tỷ đồng. Đây có thể coi là
thời điểm vàng của lĩnh vực công chứng nói chung và các Văn phòng Công
chứng nói riêng khi mà số lượng hợp đồng giao dịch nhiều, nguồn thu lớn
nhiều văn phòng còn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và dịch vụ rất tốt cho
người dân đến giao dịch như trà, café miễn phí. Đến thời điểm nền kinh tế thế
giới suy thoái năm 2012, ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế Việt Nam, số
lượng Hợp đồng giao dịch công chứng cũng giảm đáng kể, tính đến hết tháng
7/2012, số việc đã công chứng tại địa bàn thành phố Hà Nội là 92 nghìn việc.
Đồng thời, theo Báo cáo kết quả công tác Bổ trợ tư pháp năm 2012 và nhiệm
vụ công tác năm 2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, dù kinh tế có
nhiều khó khăn, thị trường bất động sản trầm lắng, hoạt động giao dịch hạn
chế song hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng tiếp tục phát huy
hiệu quả. Với 100 tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện hơn 200.000 hợp
đồng, giao dịch, thu phí hơn 100 tỷ đồng, thu thù lao công chứng hơn 20 tỷ
đồng và nộp ngân sách hơn 25 tỷ đồng, hoạt động công chứng trên địa bàn
Thủ đô đã góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch,
phục vụ kịp thời nhu cầu hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân…[26].
Từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, các tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn Thành phố đã công chứng được hơn 800.000 giao dịch, thu gần 450 tỷ
đồng, nộp ngân sách gần 80 tỷ đồng [35].
Nội dung chi của Văn phòng Công chứng
- Chi trả lương cho công chứng viên, nhân viên của Văn phòng Công
chứng hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Mức chi
trả cho quỹ lương của Văn phòng Công chứng phụ thuộc vào quy mô Văn
phòng, số lượng nhân viên, lượng công việc và nguồn thu của Văn phòng.
Các Văn phòng Công chứng ở các quận, huyện ngoại thành, lượng công việc
không nhiều, các giao dịch giá trị nhỏ, quy mô văn phòng nhỏ, số lượng nhân
59
viên ít, mức lương chi trả cho nhân viên cũng không cao vì vậy quỹ lương sẽ
nhỏ hơn rất nhiều những văn phòng lớn và có tên tuổi trong nội thành như
Văn phòng Công chứng Đông Đô, Văn phòng Công chứng Thăng Long, Văn
phòng Công chứng Miền Bắc... Những Văn phòng này có lượng việc cao,
nhiều đối tác lớn, nhân viên nhiều và mức lương cao trên mười triệu đồng thì
quỹ lương rất lớn. Ngoài ra, còn những khoản chi hỗ trợ lương khác như
thưởng và các chi phí hỗ trợ đi lại, ăn nghỉ của nhân viên khác. Nhưng mặt
bằng chung, quỹ lương của Văn phòng Công chứng đã giúp giải quyết được
lượng lớn lao động và giúp cho các lao động này có nguồn thu nhập ổn định
thậm chí là nguồn thu nhập cao để nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định tại thông tư liên tịch số
08/2012/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 19 tháng 01
năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
công chứng thì từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, các Văn phòng Công
chứng trên địa bàn Thành phố đã công chứng được hơn 800.000 giao dịch,
thu gần 450 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 80 tỷ đồng. Đây là một con số cho
thấy hoạt động mạnh mẽ và có hiệu quả của các Văn phòng Công chứng trên
địa bàn và vai trò của các Văn phòng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội của thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
- Chi văn phòng phẩm và các khoản chi khác như chi cho việc đóng
bảo hiểm xã hội nghề nghiệp, quỹ hội công chứng.
2.2.3. Đảm bảo sự quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của
Văn phòng công chứng
Tính đến nay trên cả nước đã có có 724 Văn phòng Công chứng được
thành lập tại hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 1327
công chứng viên được bổ nhiệm hoạt động tại các Văn phòng công chứng.
Cùng với 156 Phòng Công chứng với hơn 458 công chứng viên, các Văn
60
phòng Công chứng và các công chứng viên hoạt động tại đây đã dần tạo thành
một mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng ngày càng được mở rộng
và phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu công chứng của nhân dân.
Bên cạnh các Phòng Công chứng vốn đã là truyền thống và có “uy tín”, nhiều
Văn phòng Công chứng cũng đã khẳng định được niềm tin và thu hút được
một số lượng khách hàng khá đông đảo. Sự cạnh tranh lành mạnh buộc tất cả
các tổ chức hành nghề công chứng nếu muốn củng cố và phát triển phải cải
tiến, đổi mới, vươn lên khẳng định vị trí, thương hiệu của mình trong xã hội.
Sự hài lòng của người dân và độ an toàn trong giao dịch chính là thước đo chủ
trương xã hội hóa hoạt động công chứng.
Cùng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, việc “công
chứng hóa” hoạt động chứng nhận các giao dịch, hợp đồng nhằm tăng cường
bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của người dân cũng
được quan tâm đặc biệt. Thực hiện Luật Công chứng, Nghị định 04/2013/NĐ-
CP, nhiều Sở Tư pháp đã chủ động xây dựng, tham mưu cho Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh ban hành Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa
phương, tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ vào tình hình phát
triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn, đã và đang bước chuyển
giao việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ ban nhân dân sang cho tổ
chức hành nghề công chứng thực hiện. Đến nay, hầu hết các địa phương trên
cả nước thực hiện việc chuyển giao và một số địa phương khác cũng đang
trong quá trình thực hiện việc chuyển giao. Công tác thanh tra, kiểm tra,
hướng dẫn hoạt động đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn
cũng được nhiều địa phương quan tâm và dần đi vào nền nếp.
2.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua
2.3.1. Những tồn tại trong tổ chức của Văn phòng Công chứng
61
Như vậy, hiện nay, so với Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015 thì Hà Nội thành
lập vượt 9 Văn phòng Công chứng; trong 8 Văn phòng Công chứng được
thành lập tại các quận nội thành: Đống Đa, Cầu Giấy và Hai Bà Trưng (ở thời
điểm trước khi có Quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ, tức là trước ngày
29/12/2012). Một số tồn tại hạn chế trong việc thực hiện quy hoạch của thành
phố như việc sắp xếp lại các tổ chức hành nghề công chứng tại các địa bàn
vượt Quy hoạch gặp nhiều khó khăn; Hoạt động của một số tổ chức hành
nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự ổn định, bền vững; có sự
cạnh tranh không lành mạnh, trình độ quản lý còn bất cập. Hiện tượng không
tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn
xảy ra; việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ
UBND một số xã, phường, thị trấn sang tổ chức hành nghề công chứng vẫn
gặp một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai.
2.3.1.1. Việc quy hoạch Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố
Hà Nội
Xã hội hóa hoạt động công chứng mở ra hướng phát triển tươi sáng
cho các Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, tại Hà Nội việc xã hội hóa hoạt
động công chứng này đang diễn ra một cách ồ ạt, khó kiểm soát. Hiện nay,
Hà Nội có hơn 100 tổ chức hành nghề công chứng so với thành phố Hồ Chí
Minh chi có 50 Văn phòng Công chứng trong khi nhu cầu giao dịch ở thành
phố Hồ Chí Minh lại nhiều hơn do ý thức pháp luật của người dân thành phố
Hồ Chí Minh tốt hơn ngay cả khi những giao dịch giá trị nhỏ và pháp luật
không bắt buộc phải công chứng, ví dụ như việc sang tên đổi chủ đối với xe
máy được thực hiện rất nghiêm túc. Trái ngược với Hà Nội, tại thời điểm
vàng của lĩnh vực công chứng, trước khi có quyết định quy hoạch tổng thể
của chính phủ, hoạt động công chứng sôi nổi, đem lại lợi nhuận cao, thì các
62
Văn phòng Công chứng thời điểm đó ra đời chàn lan, ồ ạt, không có sự phân
bố hợp lý. Hậu quả bây giờ là số lượng Văn phòng Công chứng lớn hơn so
với nhu cầu của người dân, người dân có quá nhiều sự lựa chọn dịch vụ công
chứng, dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, làm xấu đi hình ảnh của
một tổ chức hành chính công.
Ngoài ra theo quy định của Luật Công chứng 2014, việc thành lập
Văn phòng Công chứng phải có trụ sở đáp ứng điều kiện do chính phủ quy
định và phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nhưng trong quy định nên
trên và trong quy hoạch tổng thể của chính phủ cũng không có nên rõ trụ sở
của các Văn phòng Công chứng phải cách nhau bao nhiêu xa. Đây là một bất
cập trong quy định của Luật vì mặc dù về mặt số lượng Văn phòng Công
chứng trên một đơn vị quận, huyện vẫn đáp ứng được yêu cầu của quy hoạch
nhưng Văn phòng Công chứng nào cũng đều muốn trụ sở được đặt tại vị trí
đẹp, trên con phố lớn để thu hút được khách hàng. Điều này tất yếu sẽ dẫn
đến tình trạng trụ sở các Văn phòng Công chứng quá gần nhau gây ra sự
cạnh tranh không lành mạnh.
2.3.1.2. Tên gọi của Văn phòng Công chứng
Tên gọi của Văn phòng Công chứng phải”
Bao gồm cụm từ “Văn phòng Công chứng” kèm theo họ tên của
Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh
khác của Văn phòng Công chứng do các công chứng viên hợp danh
thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức
hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử,
văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc [22, Khoản 3].
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2, Điều 79, Luật Công chứng 2014
quy định về các điều khoản chuyển tiếp cũng nêu rõ, trong trường trường hợp
63
Văn phòng Công chứng thay đổi một trong các nội dung quy định tại khoản 2
Điều 24 Luật Công chứng 2014 như: tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng
Công chứng kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/01/2015) thì phải
thay đổi tên gọi của Văn phòng Công chứng phù hợp với quy định nêu trên.
Còn lại các Văn phòng Công chứng được thành lập trước ngày 01/01/2015 –
ngày Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành thì vẫn được giữ nguyên tên
gọi đã đăng ký.
Đây là quy định bất cập hiện nay gây nhiều tranh cãi. Việc quy định về
việc đổi tên gọi như vậy nhằm tạo ra sự ổn định trong tổ chức và hoạt động
của các Văn phòng Công chứng. Các Văn phòng Công chứng hiện nay mặc
dù theo quy định của pháp luật do hai công chứng viên hợp danh thành lập ra,
nhưng thực tế tại nhiều Văn phòng Công chứng các công chứng viên chỉ đứng
tên trên đăng ký, còn sau lưng có chủ đầu tư là người chủ thực sự đầu tư vốn
và trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Văn phòng Công chứng. Điều này
dẫn đến tình trạng các Văn phòng Công chứng sẽ có rất nhiều thay đổi về mặt
nhân sự đặc biệt là trưởng Văn phòng. Ngoài ra, quy định này cũng nhằm hạn
chế việc các tổ chức công chứng vì mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động có
nhu cầu thay đổi trụ sở tới những nơi đông dân cư, số lượng giao dịch nhiều
để tăng số lượng đầu việc của văn phòng dẫn đến việc trên một địa bàn có quá
nhiều tổ chức công chứng hoạt động gây ảnh hưởng tới việc quy hoạch tổng
thể phát triển Văn phòng Công chứng tại địa phương. Tuy nhiên, quy định
này chưa đạt được mục đích mà các nhà làm luật mong muốn thậm chí, nó
đang gây ra rất nhiều khó khăn, bất cập cho các Văn phòng Công chứng.
Tên gọi không chỉ đơn thuần là danh từ đại diện cho một tổ chức mà nó
còn là thương hiệu, là uy tín liền phải dày công gây dựng của mọi tổ chức nói
chung và Văn phòng Công chứng nói riêng. Những Văn phòng Công chứng
ra đời đầu tiên trên địa bàn thành phố Hà Nội - thành lập từ những năm 2008
64
đã tạo được thương hiệu rất uy tín qua thời gian phát triển lâu dài và điều đó
thể hiện qua tên gọi của Văn phòng gắn liền với địa bàn đặt trụ sở như: Văn
phòng Công chứng Đống Đa trụ sở trên đường Đê Là Thành, quận Đống Đa;
Văn phòng Công chứng Hoàn Kiếm trụ sở trên đường Nguyễn Hữu Huân,
quận Hoàn Kiếm; Văn phòng Công chứng Cầu Giấy trụ sở trên đường Trần
Đăng Ninh, quận Cầu Giấy; Văn phòng Công chứng Long Biên trụ sở tại Ngô
Gia Tự, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Những cái tên này mang tính
thương hiệu rất cao vì nó gắn với tên phường, quận đặt địa điểm, một cái tên
mà chỉ những Văn phòng Công chứng thành lập trong giai đoạn đầu mới có
được, nó còn tạo cảm giác gần gũi, tin cậy, dễ nhớ, dễ đọc đối với người dân.
Ngoài ra, theo quy đinh của Luật Công chứng 2014 các Văn phòng
Công chứng phải đổi tên phù hợp với quy định về tên gọi mới khi đổi địa
điểm đặt trụ sở. Quy định này cũng gây nhiều tranh cãi và sự phản đối của các
Văn phòng Công chứng. Bở lẽ, Văn phòng Công chứng là tổ chức độc lập
hoàn toàn về tài chính vì vậy, không giống như các Phòng công chứng nhà
nước, họ phải chịu rất nhiều sức ép, trong đó có sức ép về trụ sở đặt Văn
phòng. Trụ sở đặt Văn phòng phải được đặt tại nơi mặt phố lớn để thu hút
khách hàng, diện tích Văn phòng phải đủ rộng cho cả diện tích tiếp dân, ký
kết giao dịch, phòng làm việc cho công chứng viên, kho lưu trữ,… Như vậy,
có thể thấy rất ít công chứng viên có thể sở hữu một trụ sở với đầy đủ những
điều kiện như vậy mà chủ yếu là đi thuê địa điểm để đặt trụ sở. Đồng nghĩa
với việc đó là Văn phòng Công chứng phải chịu sức ép về tiền thuê mặt bằng
và sự ổn định khi đi thuê. Trường hợp việc giao kết giữa bên cho thuê và Văn
phòng Công chứng không còn đồng thuận, Văn phòng Công chứng phải
chuyển trụ sở tới một địa điểm khác và phải đổi tên để gọi theo quy định của
Luật Công chứng 2014.
Trên thực tế, việc mất đi tên gọi, mất đi thương hiệu đã gây dựng bao
năm đã tạo ra nhiều tranh chấp không đáng, gây ra nhiều sự ồn ảo và phiền
65
não đối với những người liên quan.
Điển hình như Văn phòng Công chứng Đống Đa và nay là
Văn phòng Công chứng Lê Dung, khi trưởng Văn phòng đã cao
tuổi và muốn nghỉ ngơi và rút tên khỏi đăng ký hoạt động của Văn
phòng Công chứng. Tuy nhiên, chủ đầu tư vì không muốn mất đi
tên gọi của Văn phòng đã tạo ra rất nhiều khó khăn trong việc làm
thủ tục rút tên của Công chứng viên là trưởng Văn phòng. Khi nhận
đơn kiến nghị của Công chứng viên là trưởng Văn Phòng tới Sở Tư
pháp thành phố Hà Nội và Hội Công chứng thành phố Hà Nội, Văn
phòng Công chứng đã nhận Công văn của Sở Tư pháp về việc đình
chỉ hoạt động của Văn phòng Công chứng nếu không hoàn thành
thủ tục Đăng ký lại đăng ký hoạt động của Văn phòng trong đó có
thay đổi Trưởng văn phòng và đổi tên Văn phòng. Sự việc này kéo
dài hơn nửa năm khiến cho hoạt động của Văn phòng Công chứng
gián đoạn rất nhiều.
Mặt khác, Luật Công chứng 2014 quy định: “Tên gọi của Văn phòng
Công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng Công chứng” kèm theo họ tên
của trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác
của Văn phòng Công chứng…” [22, Điều 22, Khoản 3]. Theo đó, “họ tên” ở
đây có thể hiểu là bao gồm họ, tên đệm, tên hay chỉ bao gồm họ, tên và bỏ qua
tên đệm của người được sử dụng làm tên của Văn phòng Công chứng. Quy định
này còn chưa rõ dàng, gây khó hiểu và khó khăn trong việc thi hành.
Tóm lại, mặc dù tên gọi chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ các quy định
về lĩnh vực công chứng và thương hiệu của Văn phòng Công chứng không chỉ
thể hiện ở tên gọi mà nó còn là thái độ phục vụ, chuyên môn nghiệp vụ, mức
thu phí, địa điểm trụ sở hay cơ sở vật chất của Văn phòng,… nhưng ít nhiều
quy định mới về tên gọi của Văn phòng Công chứng tại Luật Công chứng
66
2014 đã, đang và sẽ gây ra nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc, tranh chấp
cho tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung.
2.3.1.3. Tổ chức bộ máy nhân sự của Văn phòng Công chứng trên địa
bàn thành phố Hà Nội
Về chủ đầu tư của Văn phòng Công chứng, thực tế hiện nay, một số
lượng không nhỏ các Văn phòng Công chứng có nguồn vốn không phải của
Trưởng văn phòng hay công chứng viên hợp danh mà là của chủ đầu tư. Chủ
đầu tư là người có số vốn lớn đầu tư và trực tiếp thực hiện các thủ tục để tiến
hành thành lập Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, những người này lại là
những người phải là công chứng viên hoặc không đủ điều kiện để trở thành
Trưởng Văn phòng Công chứng. Chính vì vậy, những chủ đầu tư này sẽ mời
những người đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để đứng tên làm
Trưởng văn phòng và công chứng viên hợp danh trên đăng ký hoạt động của
Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, những Trưởng văn phòng, hay công
chứng viên hợp danh này chỉ có tên trên danh nghĩa mà không hề có quyền
quyết định hay điều hành về nhân sự, tài chính cũng như mọi vấn đề khác của
văn phòng. Khái niệm “chủ đầu tư” không hề được quy định trong mọi văn
bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực công chứng. Nhưng trên thực tế, mô hình
Văn phòng Công chứng có chủ đầu tư đã tồn tại từ rất lâu và ngày càng trở
nên phổ biến. Một chủ đầu tư có thể sở hữu cùng một lúc năm, sáu Văn phòng
Công chứng. Mọi hoạt động của Văn phòng Công chứng đều phụ thuộc vào
chủ đầu tư gây ra rất nhiều bất cập, vướng mắc. Văn phòng Công chứng hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Hơn nữa trên địa bàn thành phố Hà
Nội, trong điều kiện cung lớn hơn cầu thì diễn ra sự cạnh tranh giữa các Văn
phòng Công chứng. Điều này đặt ra áp lực rất lớn đối với chủ đầu tư, người
trực tiếp chịu trách nhiệm về mọi vấn đề tài chính của văn phòng. Dưới sức
67
ép tài chính cộng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ công chứng có hạn do
không phải là người có đủ điều kiện trở thành Trưởng văn phòng và không
phải là người trực tiếp ký vào các hợp đồng giao dịch hay là người chịu trách
nhiệm pháp lý khi có tranh chấp xảy ra nên những ông chủ đầu tư thường có
những chiêu thức để thu hút khách hàng, giữ nguồn khách hàng tạo thu nhập
ổn định cho Văn phòng, tránh trường hợp phải bù lỗ. Những chiêu thức hay
sử dụng như những hợp đồng thiếu điều kiện pháp lý theo quy định của pháp
luật vẫn bắt công chứng viên chứng nhận hay thiết lập quy trình công chứng
ngoài trụ sở chỉ cử thư ký nghiệp vụ đi mà không đi kèm công chứng viên để
giảm bớt nhân lực dẫn đến việc công chứng viên viên không được trực tiếp
chứng kiến việc ký kết, quá trình ký kết có sai phạm công chứng viên cũng
không biết,... Ngoài ra, những công chứng viên làm việc tại các Văn phòng
Công chứng có chủ đầu tư sẽ không thể độc lập, khách quan khi thực hiện
việc chứng nhận một giao dịch, luôn có sức ép khiến cho họ luôn lo sợ khi từ
chối những giao dịch không đủ điều kiện công chứng. Đây là một hạn chế rất
lớn của thực trạng hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện tại. Dù thực trạng này diễn ra một cách công khai
nhưng vẫn chưa có chế tài nào được thiết lập để xử lý.
Về Công chứng viên làm việc tại Văn phòng Công chứng, từ khi xã hội
hoá đến nay, nhất là trong giai đoạn đầu do chưa có quy hoạch tổng thể của
Chính phủ, số lượng các Văn phòng Công chứng tăng mạnh và phân bổ
không đều. Số lượng công chứng viên cũng tăng lên rất nhanh và được bổ
nhiệm khá dễ dàng. Nhưng thực tế năng lực và đạo đức nghề nghiệp của rất
nhiều công chứng viên trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế
nhất định. Luật Công chứng năm 2014 quy định khá đầy đủ về mặt hình thức
đối với điều kiện, tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng công chứng viên hợp lý
và cũng khá tương đồng với tiêu chuẩn đối với một số chức danh tư pháp
68
khác. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, vẫn còn tồn tại rất nhiều sai phạm xuất phát
từ cả năng lực lẫn đạo đức hành nghề của công chứng viên. Thậm chí, những
sai phạm này càng có dấu hiệu tinh vi hơn và rất khó phân biệt giữa sai phạm
về năng lực hay về đạo đức hành nghề do vô ý hay cố ý của công chứng viên.
Nguyên nhân có thể kể đến từ những quy định vẫn còn chưa chi tiết và phù
hợp về tiêu chuẩn công chứng viên được đặt ra trong Luật Công chứng 2014.
Có thể thấy rằng, hoạt động công chứng rất đặc thù do công chứng viên là
một cá nhân tiếp nhận, tự xử lý và quyết định từ đầu đến cuối trong suốt quá
trình thực hiện. Quan trọng nhất, Công chứng viên là người tự “chịu trách
nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng"
(khoản 4, Điều 4). Như vậy, từ sức ép công việc đặt ra yêu cầu rất cao cho
công chứng viên về kiến thức pháp luật, về kinh nghiệm áp dụng pháp luật,
kinh nghiệm nghề nghiệp, đôi khi cả tâm lý vững. Thêm vào đó, khi lĩnh vực
công chứng được xã hội hóa dẫn đến sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành
nghề đòi hỏi công chứng viên thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng cộng với sự
khống chế thời hạn phải thực hiện việc công chứng theo quy định của Luật
Công chứng. Từ những sức ép về thời gian, chất lượng văn bản công chứng
thì những quy chuẩn của công chứng viên như vậy còn sơ sài, khó đáp ứng
được với những diễn biến vô cùng phức tạp trong thực tiễn xã hội. Đặc biệt
với những công chứng viên trẻ mới vào nghề hay những công chứng viên
được miễn đào tạo nghề công chứng, thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh nghề
nghiệp dễ mắc phải những sai phạm đáng tiếc. Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy định "Quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng" ngày 30/12/2012 quy định khá đầy đủ về quy tắc đạo đức hành nghề
của riêng công chứng viên. Tuy nhiên, vì là một bộ quy tắc đạo đức áp dụng
để hành nghề, nên các quy định trong bộ quy tắc này dường như thiếu đi
những quy định đòi hỏi sự chi tiết. Cụ thể như:
69
- Thông tư đã có quy định về việc Công chứng viên thực hiện không
đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ luật theo Điều lệ của tổ
chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng chưa có quy
định cụ thể về hình thức xử phạt hay mức độ xử phạt là bao nhiêu và việc phải
thành lập đoàn hay hội đồng xử lý vi phạm như thế nào.
- Quy định về việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi
phạm cần đảm bảo được tính khách quan, chuẩn mực và chính xác. Nhưng
những quy định này vẫn còn rất chung chung, chưa đề ra được lịch trình, tiêu
chí và thành phần những người tham gia vào đoàn thanh tra, kiểm tra, giám
sát, khen thưởng, xử lý vi phạm [27, tr. 24 - 25].
Ngoài ra, việc các công chứng viên liên tục thay đổi Văn phòng Công
chứng là nơi làm việc đang trở thành bất cập trong tổ chức của các Văn phòng
Công chứng. Khác với Phòng công chứng, các công chứng viên là viên chức
nằm trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Các công chứng
viên tại các Văn phòng Công chứng hưởng lương từ chính nguồn tài chính
của Văn phòng nên dễ có chuyện từ Văn phòng Công chứng này chuyển sang
Văn phòng Công chứng khác có chế độ đã ngộ tốt. Hiện tượng này xả ra
thường xuyên khiến cho các Văn phòng Công chứng gặp không ít khó khăn
về mặt tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng khó khăn trong việc
kiểm soát và quản lý hoạt động của các công chứng viên.
Về tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bên cạnh những
thành tích đạt được, Hội công chứng viên Hà Nội cũng còn nhiều mặt hạn chế
cần khắc phục để nâng cao vai trò đầu tầu của Hội trong hoạt động công
chứng phát triển bền vững. Về công tác sinh hoạt thường kỳ của Hội. Ngoài
ra, nhiều hội viên của Hội công chứng viên Hà Nội chưa chấp hành đúng nội
70
quy, quy chế của hội, không tham gia các buổi bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên
môn do hội tổ chức. Hiện tượng này là do ý thức chung của các thành viên
trong hội tuy nhiên cũng phải kể đến trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến nội
quy, quy chế cũng như chế tài xử lý vi phạm, kỷ luật của hội chưa mang tính
dăn đe cho hội viên trong hội.
Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đã xây dựng xong cổng thông
tin điện tử của hội, tuy nhiên, mọi văn bản điều hành, thông tin về hoạt động
công chứng trên địa bàn thành phố, thông tin về các buổi tập huân nâng cao
nghiệp vụ,… chưa được cập nhập một cách thường xuyên liên tục. Những
thông tin trên trang điện tử của hội còn hết sức sơ sài, hầu như không có
thông tin gì đáng kể và rất hay gặp vấn đề không tuy cập được. Điều này sẽ
gây khó khăn để các tổ chức hành nghề công chứng nắm bắt thông tin kịp
thời, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian hơn đường bưu điện.
Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đã tổ chức các buổi tập huấn,
trao đổi, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các công chứng viên trên địa bàn thành phố
Hà Nội và đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, số lượng các buổi
tập huấn này không nhiều và mức độ thường xuyên không cao trong khi số
lượng công chứng viên ngày càng tăng nhanh và tính chất giao dịch ngày
càng phức tạp, những vấn đề nghiệp vụ vướng mắc nảy sinh trong quá trình
hành nghề ngày càng đa dạng và phức tạp cần có sự nghiên cứu sâu và trao
đổi kỹ lưỡng. Nhiều quy định của pháp luật chưa rõ rang dẫn đến việc áp
dụng pháp luật của công chứng viên trong sử lý hồ sơ còn chưa thống nhất.
Các công chứng viên khi gặp vướng mắc thường chỉ trao đổi trong nội bộ văn
phòng, chưa có sự tổng hợp các trường hợp diễn ra trên thực tế tại các văn
phòng để giải quyết và thống nhất phương thức xử lý tại các buổi tập huấn
này. Thường trong các buổi tập huấn là các công chứng viên dày dặn kinh
nghiệm chia sẻ về những trường hợp mình trực tiếp làm hay biết được. Tuy
nhiên những trường hợp này chỉ là một phần rất nhỏ trong cuộc sống đa dạng,
71
muôn màu đang diễn ra.
Những buổi tập huấn dành dù ít, dù nhiều cũng rất quý báu đối với mỗi
công chứng viên khi hành nghề. Tuy nhiên, hoạt động của mỗi Văn phòng
Công chứng không chỉ cần công chứng viên là đủ mà còn có sự tham gia của
rất nhiều nhân sự khác, trong đó có các nhân sự mang tính chất chủ chốt, trực
tiếp tham gia và ảnh hưởng một phần không nhỏ đến chất lượng hoạt động
công chứng như thư ký nghiệp vụ. Đối với nhiều Văn phòng Công chứng, thư
ký nghiệp vụ làm việc độc lập và có vai trò ngang ngửa công chứng viên. Mặc
dù chưa được cấp chứng chỉ hành nghề những những thư ký nghiệp vụ làm
việc lâu năm được tin tưởng và giao cho vai trò trực tiếp sử lý hồ sơ như công
chứng viên. Nhưng, Hội công chứng viên thành phố Hà Nội mới chỉ tổ chức
tập huấn cho công chứng viên mà chưa có lớp tập huấn cho vị trí này. Có thể
bào chữa rằng Hội công chứng viên chỉ tập huấn cho các công chứng viên là
thành viên của Hội, nhưng thực tế cho thấy nếu lơ là việc bồi dưỡng cho thư
ký nghiệp vụ cũng chính là chưa bảo vệ được quyền lợi ích của công chứng
viên một cách toàn diện, rất nhiều công chứng viên sẽ phải chịu hậu quả pháp
lý do ký những hợp đồng, giao dịch do những thư ký nghiệp vụ kém chuyên
môn thực hiện. Mặt khác, một vị trí khác cũng đang bị bỏ lơ đó là nhân viên
lưu trữ. Đối với hoạt động công chứng thì việc lưu trữ hồ sơ là yếu tố rất quan
trọng, vì hồ sơ chính là bằng chứng về quy trình công chứng khi có tranh chấp
xảy ra. Tuy vậy, việc bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ này vẫn còn bị bỏ ngỏ.
2.3.2. Những bất cập trong hoạt động của Văn phòng công chứng
trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.3.2.1. Hoạt động cung cấp dịch vụ công chứng cho người yêu cầu
công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luật Công chứng 2006 và sau này là Luật Công chứng 2014 đã quy
định rõ ràng về trình tự và thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch. Tuy
72
nhiên, trong thực tiễn hoạt động của các văn phòng công chứng tại địa bàn
thành phố Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc và có những trường hợp gây ra
hậu quả nghiêm trọng.
Vụ án nghiêm trọng năm 2011 do Công chứng viên bỏ qua một số
nguyên tắc quan trọng của Luật Công chứng khi lập hợp đồng ủy quyền như
nhận CMND photo, không xác định nhân thân đúng thực tế… Việc làm tắc
trách của công chứng viên đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khi kẻ lừa đảo sử
dụng các bản hợp đồng ủy quyền có tính pháp lý thực hiện hành vi phạm tội,
ngang nhiên bán sổ đỏ của người dân chiếm đoạt hàng tỉ đồng… Hai trường
hợp bị lừa đảo, sử dụng hợp đồng ủy quyền để bán nhà, đều có liên quan đến
trách nhiệm của ông Hoàng Văn Sự, khi đó là công chứng viên của Phòng công
chứng số 5 Hà Nội. Do đó, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Hoàng Văn Sự với
mức án 42 tháng tù giam. Hình phạt này là sự trả giá quá đắt đối với ông
Hoàng Văn Sự, đồng thời cũng là bài học nhắc nhở những người hành nghề
công chứng, cần thực hiện đúng quy định và công tâm trong nghề nghiệp.
Ngoài ra, việc chứng thực chữ ký, bản dịch, sao y mới được giao quyền
hạn cho Văn phòng công chứng từ đầu năm đến nay, tuy nhiên việc thực hiện
vẫn còn nhiều bất cập. Luật Công chứng cũng như Nghị định số:
23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch chưa có quy định cụ
thể về trình tự việc thực hiện cũng như thời hạn lưu hồ sơ sao y hay chứng
thực, việc quản lý số chứng thực nên các Văn phòng công chứng hiện nay vẫn
còn quản lý lỏng lẻo. Việc sao y với số lượng lớn đã gây ra những khó khăn
nhất định cho các văn phòng công chứng trong việc lưu trữ hồ sơ nên nhiều
văn phòng công chứng đã bỏ qua bước này. Tình trạng này dẫn đến tình trạng
kém an toàn phát lý cho các văn bản giấy tờ sao y vì chúng có giá trị sử dụng
thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ
73
trường hợp pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, việc sao y bản chính một
cách tràn lan và nhanh chóng như các văn phòng công chứng đang thực hiện
sẽ rất khó có nhiều thời gian để xem xét và phát hiện ra giấy tờ giả.
2.3.2.2. Thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng Công chứng
Theo quy định của Luật Công chứng 2014, khi thay đổi một trong
những nội dung: Tên gọi của Văn phòng Công chứng, họ tên Trưởng Văn
phòng Công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng Công chứng, danh sách
công chứng viên hợp danh và danh sách công chứng viên làm việc theo chế
độ hợp đồng thì phải đăng ký lại hoạt động tại Sở Tư pháp nơi Văn phòng
Công chứng đã đăng ký hoạt động. Quy định này đề ra nhằm hướng tới sự ổn
định trong hoạt động của các Văn phòng Công chứng. Tuy nhiên, trên thực tế,
quy định này đang phần nào gây ra những khó khăn cho các Văn phòng Công
chứng. Các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội thay đổi
liên tục nội dung đăng ký hoạt động liên tục vì có sự phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như Trưởng Văn phòng hay sức ép từ nơi thuê làm trụ sở, công chứng viên
hợp danh và đặc biệt là công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng thay
đổi liên tục. Các công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng tuyển mới
và nghỉ việc rất nhiều, hay một chủ đầu tư sở hữu cùng lúc nhiều Văn phòng
Công chứng nên sẽ có sự điều động các công chứng viên từ Văn phòng này
qua Văn phòng khác để phục vụ cho công việc dẫn đến tình trạng các Văn
2.3.2.3. Nguồn tài chính của Văn phòng Công chứng
phòng Công chứng liên tục phải làm thủ tục cấp lại đăng ký hoạt động.
Một trong những vấn đề vướng mắc trong nguồn tài chính của các
Văn phòng Công chứng tại Hà Nội hiện nay là hiện tượng trốn thuế đang
diễn ra một cách phổ biến. Hầu hết tại các Văn phòng Công chứng, sau khi
trả tiền làm dịch vụ công chứng, khách hàng chỉ được cung cấp phiếu thu
tự lập, tự in và phát hành của Văn phòng Công chứng chứ không hề cấp
74
hóa đơn đỏ. Điều này thể hiện có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Luật
Quản lý thuế, vi phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp trong ngành
công chứng. Việc cung cấp dịch vụ thu phí không xuất hóa đơn là vi phạm
luật thuế, có thể gọi là hành vi trốn thuế.
Ngoài ra, rất nhiều Văn phòng Công chứng trên địa bàn chấp hành chưa
tốt quy định của pháp luật về thu, chi, quản lý và sử dụng phí công chứng và
thù lao công chứng. Điển hình như việc áp dụng mức thu phí công chứng
không đúng với quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT- BTP-BTC
của liên Bộ Tư pháp - Tài chính hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp quản lý
và xử dụng phí công chứng và Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT- BTP-
BTC sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/20127/TTLT- BTP-BTC. Ngoài ra,
không tiến hành mở sổ sách và hạch toán kế toán theo quy định như: Sổ quỹ
tiền mặt, sổ tiền gửi được lập hết sức sơ sài, không đóng dấu giáp lai, không
có chữ ký của chủ tài khoản cũng là những sai phạm đã xảy ra trong thời gian
qua của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Một ví dụ điển hình khác trong những sai phạm về tài chính là Văn
phòng Công chứng Thăng Long, thành phố Hà Nội đã chi tiền hoa hồng soạn
thảo văn bản, phôtô tài liệu, thu thập tài liệu cho Ngân hàng Techcombank và
Habubank theo tỷ lệ % trên doanh thu thực hiện và hạch toán khoản chi này
vào chi phí. Theo Đoàn Thanh tra, cách chi này là chưa hợp lý và vô hình
chung đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các Tổ chức hành nghề
công chứng. Đoàn Thanh tra không chấp nhận việc Văn phòng Công chứng
Thăng Long cho rằng theo quy định của pháp luật, Văn phòng Công chứng
được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nên việc chi thù
lao công chứng cho ngân hàng là hợp lý và phù hợp với mô hình quản lý tài
chính của Văn phòng Công chứng, do vậy đã yêu cầu Văn phòng Công chứng
Thăng long phải chấm dứt ngay các khoản chi trên [38]. Hiện tượng này
không chỉ xảy ra ở Văn phòng Công chứng Thăng Long mà nó còn trở nên
75
phổ biến ở rất nhiều Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố.
Về các khoản chi của Văn phòng Công chứng cũng chưa được thực
hiện nghiêm túc. Phải kể đến đó là việc đóng bảo hiểm cho người lao động
làm việc tại các Văn phòng Công chứng chưa được thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật về lao động. Để cắt giảm nguồn chi cho văn phòng, ngoài
các công chứng viên, rất nhiều người lao động làm việc theo các vị trí khác
nhau như thư ký nghiệp vụ, kế toán, văn thư, lưu trữ, bảo vệ,… không có hợp
đồng lao động và không được các văn phòng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Đây là điều rất nhức nhối đối và thiệt thòi đối với người lao động. Dù góp
phần giải quyết số lượng việc làm đáng kể cho người lao động tại thủ đô
nhưng chế độ đãi ngộ không tốt, thậm chí là quyền lợi hợp pháp chinh đáng
người lao động cũng không được hưởng khiến cho cuộc sống của người lao
động tại các văn phòng này bất bênh, không ổn định. Họ không được ký kết
hợp đồng lao động với văn phòng đồng nghĩa với việc họ phải đối diện với
nguy cơ thất nghiệp bất cứ lúc nào với những lý do chủ quan từ phía người sử
dụng lao động mà không được pháp luật về lao động bảo vệ hay bồi thường
thiệt hại. Ngoài ra những chính sách về thai sản, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất
nghiệp cũng không được hưởng một cách đầy đủ. Điều này đã làm xấu đi
hình ảnh của nơi yêu cầu sự chuẩn mực hóa trong lĩnh vực hoạt động nghiêm
túc, yêu cầu “thượng tôn pháp luật” cao như Văn phòng Công chứng.
2.3.3. Đảm bảo sự quản lý của nhà nước trong tổ chức và hoạt động
của văn phòng công chứng
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng cần phải thừa nhận rằng:
một trong những yếu kém cần khắc phục trong công tác công chứng là hoạt
động quản lý nhà nước đối với công tác này ở nhiều địa phương còn mờ nhạt,
chưa đi vào chiều sâu:
- Ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp còn lúng túng trong việc thực hiện
76
vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn. Thậm chí có nơi băn khoăn không biết
mình quản lý nhà nước đối với Văn phòng Công chứng như thế nào, đối với
công chứng viên hoạt động tại Văn phòng công chứng ra sao; nhiều nơi chỉ
tập trung chỉ đạo đối với hoạt động của Phòng Công chứng... Vai trò quản lý
nhà nước không được phát huy dẫn đến việc các tổ chức hành nghề công
chứng trên một số địa bàn chưa lấy cơ quan tư pháp làm chỗ dựa khi có
những vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động hành nghề mà
thường gửi thẳng các kiến nghị, thắc mắc lên Bộ Tư pháp, không qua Sở Tư
pháp là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác
tư pháp, trong đó có hoạt động công chứng ở địa phương, dẫn đến tình trạng
địa phương thì không nắm được tình hình, còn Bộ lại quá tải, phải giải quyết
cả các hoạt động đơn lẻ, sự vụ.
- Việc xã hội hóa công chứng: bên cạnh những kết quả, cũng đã bắt đầu
xuất hiện những dấu hiệu tiêu cực như sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các tổ chức hành nghề công chứng với nhau(Phòng Công chứng, Văn phòng
công chứng). Thậm chí, tuy chưa phải là phổ biến, nhưng đã có hiện tượng
“công chứng dạo” như phản ánh của một số địa phương (tức là tình trạng
công chứng viên bỏ dấu vào túi đi đến các cơ quan, tổ chức để thực hiện công
chứng)… trong khi Luật công chứng đã quy định rõ việc công chứng phải
được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ một số
trường hợp đặc biệt. Hoặc đã có tình trạng cá nhân góp vốn vào Văn phòng
công chứng yêu cầu được tham gia “quản lý”, “điều hành” Văn phòng công
chứng dẫn đến xung đột, Văn phòng công chứng phải tạm dừng hoạt động
như báo chí phản ánh, trong khi Luật Công chứng đã quy định rõ Văn phòng
công chứng do công chứng viên thành lập và người đại diện theo pháp luật
của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng công chứng, Luật không
quy định việc các cá nhân “góp vốn” vào các Văn phòng công chứng. Điều đó
77
cho thấy, vai trò quản lý nhà nước rõ ràng đã bị buông lỏng, lúng túng hoặc
chưa theo kịp với tình hình. Cần quán triệt một cách rõ ràng rằng, chủ trương
xã hội hóa phải đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước, xã hội hóa càng
mạnh, quản lý nhà nước càng phải tăng cường.
- Các Sở Tư pháp vẫn chưa rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành những
quy định hướng dẫn các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo thẩm
quyền, dẫn đến hoạt động công chứng trên địa bàn gặp nhiều khó khăn cũng
như khó khăn cho việc quản lý chặt chẽ hoạt động này và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người dân. Đặc biệt, cần quan tâm đến việc tham mưu cho
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Đề án phát triển tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn để có cơ sở thành lập và phát triển các tổ chức hành nghề
công chứng theo một quy hoạch hợp lý. Hiện nay, tuy đã có rất nhiều địa
phương ban hành Đề án, tuy nhiên, nhiều Đề án còn chung chung, chưa rõ
được chủ trương phát triển và chưa vẽ được bản đồ phát triển tổ chức hành
nghề công chứng ở địa phương, cũng cần phải được rà soát, điều chỉnh cho
phù hợp. Bên cạnh đó, để tăng cường bảo đảm an toàn cho các hợp đồng, giao
dịch của người dân, đồng thời để Phòng tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã tập
trung thực hiện tốt công tác chứng thực, các Sở Tư pháp cũng cần sớm tham
mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ vào tình hình phát triển tổ chức
hành nghề công chứng ở địa phương để hoàn tất từng việc chuyển giao thẩm
quyền chứng nhận các giao dịch, hợp đồng sang cho tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện. Mặc dù Bộ Tư pháp đã có chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này,
tuy nhiên, quá trình thực hiện chuyển giao theo điểm 8 Thông tư 03 ở các địa
phương, bên cạnh nhiều thuận lợi, cũng vẫn còn gặp khó khăn ở một số nơi,
78
do chưa thống nhất nhận thức về vấn đề này.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng
Pháp luật về công chứng ở Việt Nam đóng vai trò rất lớn trong quá
trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tuy nhiên, trải qua qua nhiều lần sửa
đổi, bổ sung pháp luật về công chứng vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Vì
vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện pháp luật về công chứng đảm
bảo những yêu cầu sau:
Một là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công chứng đảm bảo thể hiện
rõ tính chất của nhà nước, thể hiện rõ quan điểm, phát triển đúng theo đường
lối, chính sách mà đảng và nhà nước đã đặt ra. Pháp luật công chứng dù có
được làm mới, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm của các nước khác như thế nào
cũng phải phù hợp với các quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, lấy Hiến pháp là đạo luật hàng đầu và không được trái
với Hiến pháp.
Hai là, xây dựng, đổi mới hệ thống pháp luật về công chứng dựa trên sự
sự gắn kết chặt giữa chính sách phát triển hoạt động công chứng với chính
sách trong các lĩnh vực có liên quan khác cũng như: chính sách tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của quốc gia và phù hợp với xu
hướng phát triển chung trên toàn thế giới.
Ba là, hoàn thiện pháp luật công chứng một cách kỹ lưỡng, cụ thể bằng
79
việc đúc kết kinh nghiệm áp dụng pháp luật để chỉ ra những điểm còn hạn chế
kết hợp với việc tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của của các quốc gia có
sự tương đồng về mô hình tổ chức, hoạt động để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
những quy định thực sự cấp bách và cần thiết mà chưa được Luật công chứng
hiện nay quy định hoặc quy định mà không còn phù hợp, đáp ứng nhu cầu
phát triển nhanh chóng của xã hội.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật công chứng theo hướng đẩy mạnh hoạt
động xã hội hóa hoạt động công chứng. phát triển mạng lưới Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối
và phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển chung của thành phố với
chất lượng dịch vụ công chứng, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư
pháp, phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập quốc tế.
Năm là, cần nâng cao hơn nữa vai trò của quản lý Nhà nước về công
chứng bằng việc xây dựng các quy định phân cấp hợp lý trong quản lý nhà
nước, bảo đảm sự điều hành thông suốt từ trung ương đến địa phương, xây
dựng các quy định về cơ chế liên thông, tăng cường sự phối hợp giữa Văn
phòng Công chứng với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công
chứng viên – Hội công chứng viên Hà Nội nói riêng và phối với tổ chức nghề
nghiệp của các địa phương khác nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, phối
hợp để xây dựng Hiệp hội công chứng của cả nước để chia sẻ gánh nặng quản
lý đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực công chứng.
Bẩy là phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những phương hướng
quan trọng. Cần nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành, các tổ
chức, cá nhân có liên quan và toàn xã hội về vị trí, vai trò của hoạt động công
chứng nói chung và vai trò của Văn phòng Công chứng nói riêng trong việc
cải cách tư pháp, hành chính, sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội… Các
80
Văn phòng Công chứng phát triển được chỉ khi nhu cầu công chứng tăng lên,
đủ việc để các Văn phòng Công chứng tồn tại và hoạt động một cách hiệu
quả. Chính vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng ý thức
pháp luật cho người dân về tính pháp lý của văn bản công chứng trong giao
dịch dân sự, về vị trí và vai trò của công chứng trong toàn xã hội để dịch vụ
công chứng trở thành nhu cầu tự nguyện và người dân có thái độ và cái nhìn
tích cực về công chứng nói chung và Văn phòng Công chứng nói riêng.
3.1.2. Phương hướng về Quy hoạch phát triển Văn phòng Công chứng
Để quy hoạch các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà
Nội một cách khoa học, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các văn phòng diễn ra cần nghiên cứu xây dựng kế hoạch quy
hoạch tổng thể một cách lâu dài và cụ thể để đảm bảo xã hội hóa công chứng
một cách bền vững, không ồn ạt. Để đạt được kế hoạch quy hoạch nghề công
chứng theo yêu cầu chỉ khi đạt được đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng
và cao về chất lượng. Vì thế, cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt
động công chứng, xây dựng đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng, chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng, chắc chắn, đạo đức và uy tín nghề nghiệp tốt, quy
định chặt chẽ tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên không để tình trạng bổ
nhiệm công chứng viên bừa bãi, cách thức tổ chức của tổ chức và hoạt động
của Văn phòng Công chứng trong điều kiện tiếp tục thực hiện chủ trương xã
hội hoá hoạt động công chứng quy hoạch phát triển đội ngũ công chứng viên
đến năm 2020 gắn liền và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
hành nghề công chứng đến năm 2020, cần xây dựng cơ chế, chính sách thu
hút các nguồn lực chất lượng tham gia vào hoạt động hành nghề công chứng.
Bên cạnh đó, chú trọng tới chất lượng của nguồn nhân lực.
Cụ thể, Quyết định số 240/QĐ-TT ngày 17 tháng 02 năm 2011 của Thủ
tướng chính phủ ban hành tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề
công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 đã đưa ra 4 tiêu chí cơ bản để quy
81
hoạch mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 bao gồm:
- Đơn vị quy hoạch: Lấy đơn vị hành chính quận, huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) làm đơn vị quy hoạch
các tổ chức hành nghề công chứng.
- Diện tích, điều kiện địa lý, số lượng dân cư và sự phân bố dân cư: Căn
cứ vào diện tích, điều kiện địa lý, hệ thống hạ tầng giao thông, số lượng dân
cư và sự phân bố dân cư trên địa bàn cấp huyện để quy hoạch vị trí các tổ
chức hành nghề theo các nguyên tắc sau:
a) Hình thành mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng phân bố hợp lý
gắn với số lượng dân cư và địa bàn dân cư.
b) Không tập trung nhiều tổ chức hành nghề công chứng tại một khu
vực trên một đơn vị quy hoạch.
c) Đáp ứng thuận lợi các yêu cầu về dịch vụ công chứng của nhân dân.
- Sự tác động chính sách và pháp luật đến hoạt động công chứng: Căn
cứ vào sự thay đổi, cải cách các chính sách và pháp luật có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động công chứng (như chính sách về chuyển giao
việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp
xã sang cho tổ chức hành nghề công chứng; chính sách về quy hoạch và phát
triển đô thị; chính sách phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng
điểm; các dự báo về chính sách như chuyển việc công chứng từ hình thức
bắt buộc sang tự nguyện đối với một số loại hợp đồng, giao dịch …) mà kết
quả sẽ làm tăng hoặc giảm số lượng hợp đồng, giao dịch cần công chứng để
tính toán xác định, điều chỉnh số lượng phát triển tổ chức hành nghề công
chứng cho phù hợp.
- Nhu cầu công chứng của xã hội: Nhu cầu công chứng của xã hội
được biểu hiện qua số lượng hợp đồng, giao dịch có nhu cầu công chứng,
phản ánh sự tổng hòa của mức độ phát triển kinh tế - xã hội, quá trình và
82
tốc độ đô thị hóa, sự phát triển của thị trường bất động sản, thị trường vốn,
tài chính, ngân hàng, nhận thức pháp luật của xã hội và các vấn đề có liên
quan. Nhu cầu công chứng là tiêu chí chủ yếu để quy hoạch số lượng các tổ
chức hành nghề công chứng.
Việc xác định số lượng các tổ chức hành nghề công chứng quy hoạch
trên một địa bàn cấp huyện từ nay đến năm 2020 phải căn cứ vào nguyên
tắc sau đây:
a) Quy hoạch ít nhất 01 tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn
cấp huyện.
b) Quy hoạch tối đa không quá 2 tổ chức hành nghề công chứng đối với
những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng trung bình (dưới 6.000 hợp
đồng, giao dịch/năm).
c) Quy hoạch tối đa không quá 4 tổ chức hành nghề công chứng đối với
những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng cao (từ 6.000 hợp đồng, giao
dịch đến dưới 12.000 hợp đồng, giao dịch/năm)
d) Quy hoạch tối đa không quá 5 tổ chức hành nghề công chứng đối với
những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng rất cao (trên 12.000 hợp
đồng, giao dịch/năm).
đ) Bảo đảm tính phát triển bền vững, hiệu quả và bình đẳng trong hoạt
động công chứng; tránh xu hướng phát triển lệch lạc, cạnh tranh không lành
mạnh. Kết hợp việc quy hoạch số lượng tổ chức hành nghề công chứng với
phát triển quy mô, chất lượng tổ chức hành nghề công chứng và phát triển số
lượng công chứng viên để đáp ứng đầy đủ yêu cầu công chứng trên địa bàn.
e) Trong những trường hợp đặc biệt cần phát triển thêm tổ chức hành
nghề công chứng so với mức tối đa đã quy định, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cần giải trình rõ về căn cứ trong đề xuất
Quy hoạch gửi về Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp xem xét, trình Thủ tướng Chính
83
phủ quyết định trong Quy hoạch tổng thể.
Với các tiêu chí nêu trên, việc quy hoạch mạng lưới Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức, hoạt động của các Văn phòng Công
chứng, sự phân bố mạng lưới các Văn phòng Công chứng trên địa bàn, số
lượng, năng lực của các Văn phòng Công chứng, nhu cầu công chứng hiện tại
và dự báo nhu cầu công chứng các giai đoạn tiếp theo ở Hà Nội.
- Bám sát, kết hợp hài hòa, hợp lý và đầy đủ các tiêu chí Quy hoạch của
Chính phủ để vận dụng cụ thể vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thành phố Hà
Nội khi xây dựng nội dung quy hoạch, phát triển các Văn phòng Công chứng.
- Xây dựng bản đồ mạng lưới tổ chức công chứng trên địa bàn một
cách chi tiết về số lượng quy hoạch, vị trí quy hoạch gắn với lộ trình phát
triển cụ thể, tránh việc phát triển "nóng" cũng như kìm hãm sự phát triển hợp
lý của các Văn phòng Công chứng; phát triển đồng bộ về số lượng và chất
lượng dịch vụ của các Văn phòng Công chứng.
- Quy hoạch Văn phòng Công chứng phù hợp với chủ trương và định
hướng xã hội hóa hoạt động công chứng; những nơi khó khăn chưa có điều
kiện xã hội hóa hoạt động công chứng có thể thành lập phòng công chứng để
đáp ứng yêu cầu công chứng của nhân dân, có tính đến lộ trình chuyển đổi các
phòng công chứng sang hoạt động theo cơ chế tự chủ hoàn toàn hoặc một
phần về tài chính.
3.2. Giải pháp nâng cao việc tổ chức và hiệu quả hoạt động của các
Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
công chứng
Luật công chứng 2014 ra đời là điểm sáng với nhiều quy định mới mang
tính tích cực trong việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng và siết chặt
84
quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại
những điểm còn bất cập, chưa hợp lý cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và tiếp
tục sửa đổi bổ sung để hoàn thiện hơn pháp luật về chuyên ngành này.
- Về thành lập, đăng ký hoạt động và chấm dứt hoạt động của
Văn phòng Công chứng, cần nghiên cứu sửa đổi những quy định còn bất
cập trong pháp luật về công chứng như: bãi bỏ quy định về việc thay đổi
tên gọi của các Văn phòng Công chứng và việc thay đổi đăng ký hoạt động
của Văn phòng Công chứng. Đây được coi là một trong những bất cập lớn
nhất trong những quy định mới của Luật Công chứng 2014 vừa có hiệu lực
thi hành hồi đầu năm. Quy định này gây ra nhiều rắc rối không đáng có cho
các Văn phòng Công chứng và vẫn không có hiệu quả quản lý vì các Văn
phòng Công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội có tính chất bất ổn định
do nhiều sức ép dẫn đến có nhiều sự thay đổi về công chứng viên, trưởng
văn phòng, trụ sở văn phòng,...
- Về quy hoạch Văn phòng Công chứng. Quy định pháp luật hiện
hành và tổng thể quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ đang rất chung chung
theo hướng số lượng Văn phòng Công chứng trên một quận/ huyện. Tuy
nhiên, sự cạnh tranh không lành mạnh vẫn sẽ xẩy ra nếu tất cả số lượng Văn
phòng Công chứng cho phép thành lập đều tập trung trên một tuyến phố trung
tâm của quận/ huyện. Chính vì vậy, cần xây dựng những quy định chi tiết hơn
nữa về khoảng cách giữa các Văn phòng Công chứng trong quận/ huyện, sự
phân bố ở trung tâm và ở ngoài vùng trung tâm để có sự trải đều các Văn
phòng Công chứng, đáp ứng nhu cầu của người dân. Sở Tư pháp cần tham
mưu cho thành phố thiết lập mạng lưới công chứng thuận tiện nhất cho người
dân, tránh trường hợp chỗ đậm đặc các Văn phòng Công chứng, chỗ thì
không có. Cần phải đánh giá tốc độ phát triển kinh tế, giao dịch trên từng địa
bàn để đề ra quy hoạch phù hợp. Để tháo gỡ, UBND TP đề nghị Bộ Tư pháp
85
trình Chính phủ bổ sung vào Quy hoạch số lượng tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn các quận: Cầu Giấy, Đống Đa và Hai Bà Trưng (đã có
trước khi Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến
năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ được phê duyệt).
Cụ thể hơn theo tình hình thực tế, do huyện Từ Liêm tách thành 2 quận
mới là Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm nên bổ sung thêm 3 Văn phòng Công
chứng vào quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng giai đoạn
2016 - 2020 (ngoài số lượng đã được duyệt trong giai đoạn này cho huyện Từ
Liêm cũ) để đảm bảo số lượng các tổ chức hành nghề công chứng được Quy
hoạch tại quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm mỗi quận là 4 Văn phòng.
- Về công chứng viên, siết chặt hơn điều kiện được miễn đào tạo nghề
công chứng. Luật Công chứng 2014 đã xác định rõ hơn tư cách pháp lý của
công chứng viên như “công lại” của Nhà nước, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp
bổ nhiệm để hành nghề công chứng, chịu sự quản lý đồng thời của Nhà nước
và của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Tuy nhiên, hành
nghề tư pháp không có nghĩa là nắm rõ và chuyên sâu về nghiệp vụ công
chứng, ngành hoạt động đòi hỏi độ chính xác cao và bản lĩnh nghề nghiệp. Vì
vậy cần quy định kéo dài hơn nữa thời gian công tác (từ 5 năm trở lên) của
các nhóm đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng. Ngoài ra, cần quy
định gắt sao hơn về cả khóa đào tạo nghề công chứng, khóa bồi bồi dưỡng kỹ
năng hành nghề công chứng cho những người được miễn đào tạo nghề công
chứng như: điều kiện trở thành giảng viên, chất lượng đào tạo, nội dung đào
tạo, trách nhiệm của tổ chức đào tạo đối với việc cấp chứng chỉ hoàn thành
khóa đào tạo… tránh tình trạng học cho có, nhất là đối với khóa bồi dưỡng kỹ
năng hành nghề công chứng ngắn ngày. Quan trọng hàng đầu là quy định về
việc bổ nhiệm công chứng viên cần thắt chặt hơn nữa, tránh tình trạng bổ
nhiệm ồ ạt dẫn đến chất lượng đội ngũ công chứng viên kém, ảnh hưởng rất
lớn đến an toàn giao dịch và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên
86
địa bàn thành phố.
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công
chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Thời gian bồi dưỡng
nghề công chứng là 3 tháng.
Về tài chính của Văn phòng Công chứng, xây dựng các chế tài nhằm
thắt chặt hơn nữa việc đóng thuế của các Văn phòng Công chứng và việc thu
phí công chứng.
Về Hội công chứng thành phố Hà Nội, tiếp tục nghiên cứu xây dựng
những văn bản quy phạm dưới luật quy định chi tiết và cụ thể hơn về tổ chức
và hoạt động của hội này. Xây dựng và phát triển hội này trên cơ sở tổ chức
nghề nghiệp của các tổ chức công chứng trên địa bàn cả nước chứ không phải
chỉ ở Hà Nội như hiện nay. Hội này cần được xây dựng những quy chế cụ thể
về cách thức hoạt động, điều kiện tham gia thành viên, quyền và nghĩa vụ của
hội, quyền và nghĩa vụ của hội viên, quy chế giám sát, chế tài sử phạt và sự
quản lý của nhà nước đối với hội. Đặc biệt, Nhà nước nên trao cho Hội có
quyền kiểm soát nội bộ. Việc kiểm soát này bắt đầu từ sự kiểm soát nội bộ
trong Hội có phạm vi tỉnh, thành phố đến sự kiểm soát tập trung của hội trên
phạm vi cả nước. Nếu làm được như vậy, sẽ có sự giám sát và kiểm tra chặt
chẽ hoạt động công chứng trên từng địa bàn để dễ dàng phát hiện những vi
phạm, xây dựng chế tài nghiêm khắc, đồng thời thường niên tổ chức những
buổi trao đổi, rút kinh nghiệm để công chứng tại từng địa phương hay trên cả
nước phát triển đồng đều và đảm bảo tính an toàn pháp lý. Hoạt động của Hội
công chứng nếu phát triển mạnh thành tổ chức hoạt động trên cả nước và có
tiếng nói cũng như chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể sẽ hỗ trợ rất nhiều cho
các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động công chứng, đồng thời
kiểm tra sát sao và thường xuyên hơn hoạt động công chứng đảm bảo tính an
87
toàn phát lý cho giao dịch, phát triển kinh tế và an toàn xã hội.
3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực
Để nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của các Văn phòng Công
chứng trên địa bàn thành phố cần tăng cường đội ngũ nhân lực chất lượng tốt
bằng cách củng cố, kiện toàn tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ. Sở tư pháp cần đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức hơn nữa các lớp
tập huấn, tọa đàm, đối thoại để không những các công chứng viên của các tổ
chức hành nghề công chứng được học hỏi, truyền đạt kinh nghiệm trong quá
trình hành nghề lẫn nhau mà còn là điều kiện để công chứng viên và các cán
bộ, công chức ngành Tư pháp có cơ hội giao lưu nhằm tăng sự kết nối giữa bộ
phận tư pháp và bổ trợ tư pháp, nâng cao chức năng quản lý nhà nước về công
chứng. Tại đây, cũng có thể mời các công chứng viên của các tỉnh, thành phố
khác để bồi dưỡng thêm trình độ, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm trong triển
khai thi hành Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với
các công chứng viên của các tỉnh thành mà hoạt động công chứng còn nhỏ lẻ,
chưa sôi động, thì đây là cơ hội rất quý báu để học hỏi kinh nghiệm thực tiễn
của các công chứng viên đầu ngành ở Hà Nội.
Xây dựng chính sách nâng cao đội ngũ nhân lực chất lượng bằng cách
hỗ trợ kinh phí khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật tiếp tục
học nghiệp vụ công chứng và tập sự hành nghề công chứng vừa để giải quyết
việc làm vừa đảm bảo phát triển đội ngũ công chứng đáp ứng theo lộ trình và
theo địa bàn quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã phê
duyệt. Công tác đào tạo nghiệp vụ công chứng ở Học viện tư pháp cũng cần
được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa của Bộ tư pháp. Học viện Tư
pháp là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động công chứng. Ngoài việc
nâng cao thời gian đào tạo từ sáu tháng tới mười hai tháng như hiện nay thì
88
không thể quên việc nâng cao chất lượng dậy và học, đánh giá trình độ học
viên qua các kỳ thi nghiêm túc. Bên cạnh đó là tập trung tuyên truyền nâng
cao ý thức đạo đức nghề nghiệp của các công chứng viên tương lai. Đây là
yếu tố rất quan trọng nhằm tạo ra một đội ngũ công chứng viên vừa có có
trình độ chuyên môn cao và tư cách đạo đức nghề tốt.
- Nâng cao hiệu quả tổ chức Văn phòng Công chứng về bộ máy
nhân sự, tài chính
Hiện nay, công cuộc xã hội hóa hoạt động công chứng đang dựa vào
chính nguồn kinh phí đầu tư của các công chứng viên. Vì vậy, đây là nguồn
kinh phí hạn hẹp. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng và Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố khác nói chung cần sắp xếp, phân bổ những
nguồn tài chính cần thiết để tạo điều kiện thúc đẩy mạnh quá trình xã hội hóa
hoạt động công chứng cũng như việc thi hành Luật Công chứng trên địa bàn.
Ngoài việc thu hút nguồn kinh phí thì việc sử dụng, tận dụng và kết hợp giữa
nguồn tài chính công và tài chính tư như thế nào cũng là vấn đề rất đáng lưu
tâm. Đồng thời, tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ công chứng viên có năng
lực, đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng và hành nghề công chứng trên địa
bàn thành phố.
Đồng thời, cần bàn Quy chế phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp với Sở
Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các quận, huyện để kịp thời tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng trên địa bàn
thành phố. Thiết lập cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan có liên quan
tới hoạt động công chứng với nhau như cơ quan đăng ký quản lý bất động
sản, đăng ký hộ tịch...
Trong thời gian tới, sau khi đã áp dụng hiệu quả Chương trình quản lý
thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng giao dịch đã công chứng ở trên
89
địa bàn thành phố Hà Nội, Bộ Tư pháp cần chỉ đạo áp dụng Chương trình trên
quy mô cả nước. Ủy ban nhân tỉnh các tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Thông tin Truyền
thông, Sở Tài chính, Ủy ban nhân các quận, huyện, thị xã duy trì, mở rộng
hoạt động, phát huy hiệu quả của Chương trình quản lý thông tin, đẩy mạnh
việc chia sẻ thông tin giữa tổ chức hành nghề công chứng và các Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất để để đảm bảo an toàn cho các hợp đồng, giao
dịch công chứng.
- Công tác kiểm tra, giám sát
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban nhân dân thành phố,
Sở Tư pháp và Hội công chứng viên thành phố Hà Nội đối với hoạt động của
các Văn phòng Công chứng trên địa bàn. Tăng cường kiểm tra giám sát chặt
chẽ hơn theo hàng quý, hàng năm, thời gian kiểm tra nên dài hơn và số lượng
đầu việc, hợp đồng nhiều hơn để kiểm soát và rút kinh nghiệm những sai
phạm có thể xảy ra. Đồng thời, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với công chứng
viên, cán bộ có hành vi vi phạm. Việc vi phạm ngoài việc xử phạt theo quy
định của pháp luật thì cần phải đưa lên mạng quản lý hệ thống công chứng
Uchi, ghi rõ tên Văn phòng Công chứng, công chứng viên vi phạm, lỗi vi
phạm và hình thức xử lý vi phạm để có tính chất răn đe các Văn phòng Công
chứng khác. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng ngừa vi
phạm để các công chứng viên thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp
thiết của công tác phòng chống vi phạm.
- Hợp tác, giao lƣu để học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực công chứng
Bộ Tư pháp cùng Sở Tư pháp các tỉnh cần thúc đẩy sự hợp tác, giao lưu
giữa các tổ chức hành nghề công chứng Việt Nam với tổ chức hành nghề công
chứng của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước theo mô hình công
chứng tự do như Pháp, Hy Lạp, Bồ Đào Nha… và các nước trong khu vực có
90
công chứng phát triển. Hoạt động này nhằm trao đổi, học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm của các nước trong việc quản lý hoạt động công chứng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật công chứng góp phần cho hoạt động công chứng của nước ta
ngày một phát triển.
- Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng, chứng
thực để nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ, công chức, viên chức và các
tầng lớp nhân dân về tính chất, vị trí, vai trò, lợi ích thiết thực của hoạt động
công chứng. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật dân sự làm sao cho người
dân thủ đô có ý thức pháp luật tự giác như thành phố Hồ Chí Minh.
- Sở Tư pháp tăng cường thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm; các Văn
91
phòng công chứng cũng phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
KẾT LUẬN
Văn phòng Công chứng ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng của
mình đối với sự tăng trưởng, phát triển và ổn định của mọi nền kinh tế. Tuy
nhiên, trong môi trường xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá các
dịch vụ công chứng nói riêng đang còn rất mới mẻ ở Việt Nam, sự phát
triển nóng của các Văn phòng Công chứng và việc tổ chức, hoạt động còn
non nớt dẫn đến những hạn chế, tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng hoạt
động của các tổ chức này.
Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương
thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công
chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu
quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Như vậy, xã hội hoá công chứng chính là sự xoá bỏ độc quyền của nhà nước
trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc
trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ
thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực
hiện quản lý nhà nước.. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây
dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng.
Mô hình Văn phòng Công chứng ra đời đã tạo điều kiện để mọi người
dân, với mọi địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp
cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với
công chứng. Có thể nói Văn phòng Công chứng ra đời được coi là cuộc cách
mạng đối với lĩnh vực công chứng. Đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử
phát triển và hình thành công chứng của Việt Nam. Mô hình Văn phòng Công
92
chứng được hầu hết các nước có nền kinh tề chuyển đổi đang đi theo hướng
này đó là chuyển từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng
tư do như với Trung Quốc, Liên Bang Nga, Cu Ba,... Còn với các nước trên
thế giới thì mô hình này đã phát triển từ rất lâu đời. Cũng bắt đầu từ khi có
Luật Công chứng năm 2006 rồi Luật Công chứng sửa đổi, bổ sung 2014
chúng ta mới triển khai thực hiện, thừa nhận song song tồn tại hai hệ thống:
bên cạnh các Phòng Công chứng nhà nước đã thành lập, với các công chứng
viên nhà nước là các Văn phòng Công chứng mới thành lập, dần được nhân
rộng với các công chứng viên hành nghề tự do, đặt trước sự quản lý bằng
pháp luật của nhà nước.
Bằng những phương pháp nghiên cứu đúng đắn, dựa trên cơ sở những
căn cứ khoa học và thực tiến của hoạt động công chứng nước ta trong những
năm qua, tham khảo những quy định, mô hình tổ chức và hoạt động công
chứng của một số nước trên thế giới, luận văn đã làm sáng tỏ những vẫn đề
còn hạn chế trong quy định của pháp luật cụ thể là Luật Công chứng 2014,
thực tiễn tại địa bàn thành phố Hà Nội đưa đến cho những người quan tâm
đến lĩnh vực công chứng nói chung và quan tâm đến mô hình Văn phòng
Công chứng nói riêng. Đến nay một mạng lưới các tổ chức hành nghề công
chứng đã được hình thành và triển khai rộng khắp trên toàn quốc, đáp ứng
được phần lớn các yêu cầu về chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá
nhân, tổ chức. Hoạt động Văn phòng Công chứng từng bước được chuyên
nghiệp hóa, người dân tiếp cận dịch vụ công chứng ngày càng thuận tiện,
nhanh chóng, số sai phạm trong hoạt động công chứng dẫn đến tranh chấp
không nhiều, đặc biệt bước đầu Văn phòng Công chứng đã trở thành địa chỉ
tin cậy của nhiều người dân. Điều đó, chứng tỏ công tác quản lý của nhà nước
đối với công chứng, Văn phòng Công chứng đã thực hiện tốt chủ trương, theo
kịp sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nếu so với công chứng của các
93
nước đã có hàng trăm năm phát triển thì ngành công chứng, mô hình Văn
phòng Công chứng còn quá non trẻ, phải tích cực quan tâm nghiên cứu hoàn
thiện để kịp thời với sự vận động của thực tiễn Việt Nam, đồng thời trình độ
phát triển của công chứng không thể tách rời với trình độ phát triển của xã hội
hiện tại. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn “Tổ
chức và hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố
Hà Nội” sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện đối với tổ chức và
hoạt động của mô hình Văn phòng Công chứng. Đồng thời đặt cơ sở về mặt lý
luận cho các bước nghiên cứu chuyên sâu và mở rộng về lĩnh vực công chứng
và góp phần hoàn thiện thể chế công chứng của Việt Nam trong gia đoạn mới,
94
giai đoạn then chốt của Việt Nam trên chính trường quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1.
Nguyễn Ngọc Bích (2008), “Xã hội hoá hoạt động công chứng và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về công chứng” Tạp chí Dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp, (6), tr. 5 – 8.
2.
Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 hướng dẫn công tác công chứng nhà nước, Hà Nội.
3.
Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định, Hà Nội.
4.
Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực, Hà Nội.
5.
Chính phủ (2004), Nghị định số 110/2004/NĐ-CP về công tác văn thư. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Hà Nội.
6.
Chính phủ (2007), Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Thông tư liên tịch số 04/2006 TTLT/BTP-BTNMT hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất, Hà Nội.
7.
Chính phủ (2015), Nghị đinh 29/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.
8.
Chính phủ (2015), Nghị định Số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, Hà Nội.
9.
95
Lê Thị Bích Hạnh (2010), Cần có quy định và hướng dẫn cụ thể một số thủ tục công chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 23 - 25, 32
10. Nguyễn Thị Hạnh (1998), Công chứng hợp đồng kinh tế và các thoả thuận biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế - thực trạng và giải pháp, Luận án thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
11. Hội đồng Bộ trưởng (2015), Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định. Thông tư 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng ngày 15/06/2015 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.
12. Lê Quốc Hùng (2009), “Luật công chứng và vấn đề xã hội hoá hoạt
động công chứng”, Phòng quốc hội, (21), tr.52 – 55.
13. Trịnh Duy Hưng (2010), Một số ý kiến về việc thực hiện yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 30 – 32.
14. Chu Văn Khanh (2009), Quyết định chuyển đổi mô hình hoạt động của văn phòng sang loại hình công ty hợp danh theo Quyết định số 1488/QĐ-UBND ngày 31/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội và Giấy đăng ký hoạt động số 09/TP-ĐKHĐ ngày 8/4/2009 của Sở Tư pháp thành phố, Hà Nội.
15. Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án TS Luật học.
16. Dương Khánh (2002), Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở
nước ta hiện nay, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật.
17. Nguyễn Quang Minh (2009), Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án thạc sĩ luật học.
18. Phạm Xuân Phương (2010), “Hà Nội với việc thực hiện xã hội hoá công chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 13 -15
96
19. Quốc hội (2005), Luật Dân sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2006), Luật công chứng năm 2006 và văn bản hướng dẫn thi
hành, Nxb Chính trị quốc gia.
21. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
24. Quốc hội (2014), Luật nhà ở, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Luật Công chứng, Hà Nội.
26. Sở Tư pháp - Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Ngành Tư pháp Thủ đô với nhiều hoạt động mừng ngày truyền thống, http://www.sotuphap.hanoi.gov.vn/Portalview/trangchitiet.aspx?idmen u=95&idtin=256
27. Chu Hồng Sơn (2016), “Đôi điều về năng lực và đạo đức nghề nghiệp
của công chứng viên”, Tạp chí dân chủ và pháp luật.
28. Dương Đình Thành (1995), “Công chứng Nhà nước - công cụ hưu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức”, Tạp chí Pháp luật, (chuyên đề).
29. Tuấn Đạo Thanh (2008), Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
30. Trần Thất, Đặng Văn Khanh (1998), “Một số nhận xét về pháp luật hiện hành về công chứng Nhà nước và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (4).
31. Thu Hằng (2016), Đề nghị bổ sung số lượng tổ chức hành nghề công tư pháp – Bộ Tư pháp trợ
chứng vào Quy hoạch, Bổ http://bttp.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-cong- chung.aspx?ItemID=293
32. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011), Diện tích, dân số và mật độ dân
97
số năm 2011 phân theo địa phương.
33. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2014), Niên giám thống kê, Truy cập 1 tháng
34. Trần Anh Tuấn (1995), “Công chứng Nhà nước thành phố Hà Nội,
những vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí QLNN, (11).
35. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo tình hình thực hiện pháp luật về công chứng, chứng thực trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
36. Bùi Đăng Vương (2010), “Công chứng quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình để vay vốn không?”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (2), tr. 42 - 43, 47.
37. Đỗ Hoàng Yến (2010), “Kết quả hai năm thực hiện Luật công chứng và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, (chuyên đề), tr. 2 – 7.
II. Tài liệu trang Web
38.
98
http://www.baomoi.com/phat-hien-nhieu-sai-pham-tai-cac-van-phong- cong-chung/c/5256107.epi