Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam Nguyễn Trí Chinh
Khoa Luật Luận văn ThS. ngành: Luâ ̣t hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: TS. Phạm Văn Lợi Năm bảo vệ: 2010
Abstract. Giải quyết một số vấn đề lý luận chung đối với tội phạm về môi trường. Phân tích cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường theo luâ ̣t hình sự Viê ̣t Nam. Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường, những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm về môi trường. Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tội phạm về môi trường. Keywords. Luật hình sự; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam; Môi trường
Content MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu được nhiều thành tựu. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh chính trị được giũ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này được thể hiện không chỉ ở việc các lần pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người những thảm hoạ của thiên nhiên có thể xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt... Vỡ vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đó trở nờn vụ cựng cấp thiết được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận là môi trường nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu nhất thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà
các thế hệ người Việt Nam sẽ phải gánh chịu bây giờ và trong tương lai. Đặc biệt trong thời gian gần đây các phương tiện truyền thông đã nêu tên nhiều doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật về môi trường như: Công ty VEĐAN, MIWON... Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã đề ra nhiều giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách để bảo vệ môi trường.
Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường cú biện phỏp hỡnh sự. Bộ luật Hỡnh sự 1999, đó cú riờng Chương XVII quy định Các tội phạm về môi trường. Việc tội phạm hoá những hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm tới mụi trường quy định trong Bộ luật này đó tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đấu tranh phũng, chống cỏc hành vi xõm hại đến lĩnh vực môi trường.
Xuất phỏt từ tỡnh hỡnh nờu trờn, việc nghiờn cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý các vụ phạm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Do đó, học viên đó chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hỡnh sự Việt Nam".
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài Tội phạm về môi trường đó cú nhiều bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: "Lực lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường" của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an (6/2007); "Cụng tỏc phũng, chống tội phạm về mụi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cấp Nhà nước "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phũng, chống" do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân (2006) làm chủ nhiệm; Đề tài Khoa học "Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do TS. Phạm Văn Lợi, phó Viện trưởng Viện Khoa học phỏp lý - Bộ Tư pháp (2003) làm chủ nhiệm; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, Tập 2, NXB Thành phố Hồ Chi Minh, 2002. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về tội phạm môi trường mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể. Hơn nữa, vấn đề về tổ chức, cán bộ theo dừi, phỏt hiện, đấu tranh và xử lý tội phạm về mụi trường cũng như lý luận các tội phạm về môi trường cũn nhiều bất cập; việc phối kết hợp của cỏc cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường cũn chưa chặt chẽ..., trong khi đó, tội phạm môi trường diễn biến dưới nhiều hỡnh thức khỏc nhau, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích của luận văn trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cỏc tội phạm về môi trường trong luật Hỡnh sự Việt Nam là nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự đối với nhóm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định về tội phạm môi trường trong chương XVII "Các tội phạm về môi trường" của Bộ luật hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật hình sự năm 1999.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật hình sự đối với nhóm tội về môi trường và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong đề tài được viện dẫn từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường; báo cáo công tác của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và một số báo cáo chuyên đề về môi trường.
4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về tội phạm, về đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm nói chung và các tội phạm về môi trường nói riêng. Đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết, các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về cỏc tội phạm về mụi trường; các phương pháp mà luận văn đó vận dụng như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh; chuyên gia; thống kờ hỡnh sự...
5. Điểm mới của luận văn Đề tài khoa học làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam. Điểm mới của luận văn gồm: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam; - Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến nhóm các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam; - Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường;
- Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm môi trường, khái niệm tội phạm môi trường, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường, quá trình hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định về tội tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.
1.1. Khái niệm về môi trường Môi trường là một khái niệm có nội hàm rất rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự kiện là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại trong một môi trường. Khái niệm môi trường được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường được định nghĩa như sau: Môi trường la toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó
con người sinh sống bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xó hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xó hội loài người và các thể chế. môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xó hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hỡnh thức sinh tồn của chỳng. Vỡ thế, mụi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác.
Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thỡ khỏi niệm mụi trường được hiểu như sau: Môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật".
1.2. Khái niệm tội phạm về môi trường Bộ luật hình sự không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề của trách nhiệm hỡnh sự trong lĩnh vực bảo vệ mụi trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường là cơ sở phương pháp luận cho quá trỡnh lập phỏp đối với loại tội phạm này. Trong trường hợp không có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng được các hỡnh thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phũng ngừa.
Một số tác giả cho rằng: "Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xó hội, do những người có năng lực trỏch nhiệm hỡnh sự thực hiện, xõm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xó hội phỏt sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ mụi trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái". Trong khái niệm này có hai điểm chưa được rừ ràng:
Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra đặc trưng hết sức quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà luật học công nhận: "tội phạm là hành vi vi phạm phỏp luật hỡnh sự". Cũng chớnh vỡ lý do này nờn khỏi niệm trên chưa hoàn toàn chính xác. Không ai nghi ngờ "Hành vi nguy hiểm cho xó hội" là đặc trưng chung của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật v.v..., vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường.
Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xó hội và lợi ớch xó hội bị xõm hại và được chỉ ra rất rừ ràng trong Điều 1 Bộ luật Hỡnh sự 1999:
Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đó được đưa vào giáo trỡnh giảng dạy. Giỏo trỡnh của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: "Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xó hội vi phạm cỏc quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường". Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng cũn cú vài điểm cần bàn thêm:
- Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường trong giáo trỡnh Luật Hỡnh sự của Trường Đại học Luật Hà Nội chưa tạo ra được sự khác biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường.
- Việc đưa "thiệt hại cho môi trường" vào trong khái niệm tội phạm về môi trường có thể dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố "thiệt hại" trong cấu thành tội phạm chỉ bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu thành hỡnh thức khẳng định việc tội phạm đó được thực hiện (hoàn thành) ngay khi đó thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đó gõy ra thiệt hại hay chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc "gây thiệt hại cho môi trường" trong khái niệm có thể dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: "tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất".
- Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rừ khỏch thể bị xõm hại. Cú thể núi rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể giúp phân biệt với các tội phạm khác.
Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm đối với khái niệm tội phạm về môi trường như sau: "Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xó hội được quy định trong Bộ luật Hỡnh sự Việt Nam, xõm hại tới cỏc quan hệ xó hội về bảo vệ môi trường". 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật hình sự
Thứ nhất. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đó ý thức ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo vệ môi trường và do vậy đó ghi nhận điều đó ở Hiến pháp năm 1992 của nước ta (Điều 29) đó quy định rừ: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xó hội, mọi cỏ nhõn phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyờn thiờn nhiờn và bảo vệ mụi trường.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường". Trên cơ sở quy định hiến định đó, Nhà nước ta đó ban hành nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phũng chống, xử lý triệt để các hành vi xâm hại đến môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp pháp lý hỡnh sự.
Thứ hai, việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự chính là việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường. Phạm vi của việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự và hiệu quả của việc bảo vệ đó ở một mức độ rất lớn tuỳ thuộc vào việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm xâm phạm lĩnh vực nói trên. Do vậy, cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng, đầy đủ các nhân tố quyết định mức độ, tính chất và các phương thức của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xó hội xâm phạm môi trường.
Thứ ba, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường được xác định bởi cả những nhân tố đũi hỏi chớnh trị thuộc cả chớnh sỏch đối nội lẫn chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.
Thứ tư, việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường đó ghi nhận trong Bộ luật hỡnh sự ở một chừng mực rất lớn được quyết định bởi trạng thái và sự phát triển của các ngành pháp luật khác, trước hết là luật hiến pháp và luật môi trường.
Thứ năm, khi tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường, nhà làm luật nước ta đó cân nhắc cả các nhân tố tội phạm học như; thực trạng, cơ cấu và diễn biến của các hành vi xâm hại trong lĩnh vực đó. Việc nghiên cứu thực tiễn cho thấy rằng các hành vi xâm hại môi trường là một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở nước ta hiện nay và các thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Thứ sáu, hiệu quả của việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xâm hại cho môi trường tuỳ thuộc không nhỏ vào trạng thái ý thức pháp luật về lĩnh vực đó. Việc toàn dân thảo luận Hiến pháp năm 1992 trước đây và thảo luận việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 vừa qua, cũng như thảo luận Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến việc bảo vệ môi trường và Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 trong thời gian qua cho thấy phần lớn nhân dân ta đều đỏi hỏi phải tăng cường việc bảo vệ môi trường, trong đó có việc tăng cường bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự.
Thứ bảy, việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường được nhà làm luật nước ta thực hiện đó cõn nhắc cả cỏc quy luật sinh thỏi chẳng hạn quy luật: mụi trường là một hệ thống thống nhất, tất cả các yếu tố của môi trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc xâm phạm đến một trong những yếu tố của môi trường có thể gây tác
hại đến hoạt động của toàn bộ hệ thống,do vậy một mắt xích nào đó của hệ thống đó không được bảo vệ thỡ điều đó có thể đe doạ toàn bộ hệ thống.
Thứ tám, các nhu cầu khách quan của xó hội và cỏc điều kiện của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường đó được nhà làm luật "chuyển tải một cách đúng đắn ngôn ngữ của luật hỡnh sự" để thực hiện được điều đó việc tội phạm hoá đó đáp ứng các đũi hỏi và quy tắc pháp lý nhất định của kỹ thuật lập pháp. Việc tuân thủ các đũi hỏi và quy tắc đó là nhằm khắc phục cả những chỗ hổng lẫn những điều "dư thừa" trong việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự; phõn biệt một cỏch rừ ràng cỏc tội phạm về mụi trường với các vi phạm hành chính và kỷ luật trong lĩnh vực môi trường.
Thứ chín, Cùng với việc mở rộng nhóm các khách thể tự nhiên được bảo vệ bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự và nhúm cỏc hành vi bị truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự, nhà làm luật đó xỏc định rừ cỏc điều kiện,tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá loại hành vi xâm hại đến môi trường.
1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam 1.4.1. Cỏc quy định về tội phạm mụi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985 Để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, trên cơ sở Hiến định, một số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng được coi là tội phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đó được đưa vào trong Bộ luật Hỡnh sự 1985. Một số tội phạm cụ thể về môi trường được ghi nhận trong Bộ luật, tại Chương VII "Các tội phạm về kinh tế" và Chương VIII "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lí hành chính", đó là: Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai; Điều 181. Tội vi phạm và quản lý các quy định về quản lý và bảo vệ rừng; Điều 195. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng; Điều 216. Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng.
1.4.2. Cỏc quy định về tội phạm mụi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1999 Để phù hợp với các quy định về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực chuyên ngành, việc bảo vệ môi trường quy định trong pháp luật hỡnh sự được đặc biệt coi trọng và ghi nhận tại Chương XVII, phần Các tội phạm về môi trường của Bộ luật Hỡnh sự 1999. Bộ Luật này đó thay thế cơ bản các quy định về các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985; đồng thời, bổ sung thêm một số tội danh mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Đây là thể hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà nước ta trước thực trạng môi trường tiếp tục bị suy thoái, ô nhiễm với mức độ cao; thể hiện thái độ kiên quyết, xử lý kịp thời, nghiờm khắc đối với các hành vi làm suy thoái, ô nhiễm môi trường, xâm hại đến các yếu tố của môi trường thiên nhiên. Các tội phạm về môi trường là một chương mới được bổ sung vào Bộ luật Hỡnh sự 1999, chương XVII, chương này gồm 10 Điều, được sắp xếp theo 5 nhóm hành vi xâm hại đến môi trường.
Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XXII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật hình sự năm 1999. 1.5. Những quy định về tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới như Vương quốc Thái Lan, Singapo, Malaixia, Phillipiin cho thấy tội phạm về môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới có những quy định khác nhau.Có nước quy định tại chương (tiết) các tội phạm về môi trường, có nước lại tách ra thành các điều luật cụ thể; có nước quy định hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường phải chịu trách nhiệm pháp lý về mặt hình sự ở các ngành luật cụ thể... Tuy nhiên, dù cách thức quy định khác nhau, nhưng có điểm tương
đồng là các hành vi xâm hại đến môi trường một cách nghiêm trọng đều bị xem là loại tội phạm cần phải trừng phạt nghiêm khắc.
Chương 2 CÁC QUI ĐỊNH TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Trong chương này, tác giả phân tích các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm môi trường và thực tiễn áp dụng, chỉ ra những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường.
2.1. Các qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm về môi trường 2.1.1.1. Khách thể của tội phạm về môi trường Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
Đối với các tội phạm về môi trường khách thể loại của các tội phạm về môi trường là tổng thể những quan hệ xó hội về giữ gỡn mụi trường trong sạch, sử dụng hợp lý những tài nguyờn của nú và đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư.
2.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
Các tội phạm về môi trường có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gỡn và bảo vệ mụi trường. Các hành vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ô nhiễm môi trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không thực hiện quy tắc bảo vệ môi trường, gây dịch bệnh v.v...
2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường Mặt chủ quan của các tội phạm về môi trường được thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Nghĩa là người phạm tội biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ và mục đích của các tội phạm về môi trường rất đa dạng, có thể là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác… nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Trong mặt chủ quan của tội phạm về môi trường, mục đích và động cơ hầu như không có ý nghĩa để định tội.
2.1.1.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường Chủ thể của các tội phạm về môi trường là tất cả những người có năng lực trách nhiệm hỡnh sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên có thể nhận thấy tồn tại vấn đề tuôi chịu trỏch nhiệm hỡnh sự đối với tội phạm cụ thể về môi trường là từ đủ 14 tuổi.
2.1.1.5. Hình phạt đối với các tội phạm môi trường Nếu như BLHS năm 1985 coi tội phạm về môi trường là tội phạm ớt nghiờm trọng với mức cao nhất của khung hỡnh phạt là 2 năm, thỡ Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 đánh giá 6/10 tội là rất nghiêm trọng, trong đó cá biệt có khung hỡnh phạt cao nhất đến 15 năm. Số tội phạm về môi trường cũn lại đều được đưa vào danh mục các tội phạm nghiêm trọng. Ngoài ra, hầu như tất cả các tội phạm về môi trường cũn quy định hỡnh phạt bổ sung.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hỡnh sự số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009, tại Chương XVII của Bộ luật Hỡnh sự đã cụ thể hóa, bổ sung và nõng mức hỡnh phạt của tất cả các điều luật: Về hình phạt tù: hầu hết các tội danh của chương này đều qui định mức phạt tù từ 6 tháng đến 10 năm, cá biệt có thể lên tới 15 năm. Về hình phạt tiền (với tư cách là hình phạt chính): Đối với các tội phạm về môi trường, các nhà làm luật đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Mức phạt tiền được qui định trong phần lớn các điều luật của chương này là từ 10 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cá biệt có thể lên đến 01 tỷ đồng. Về hình phạt cải tạo không giam giữ được qui định với tư cách là hình phạt chính ở 10 trong số 11 điều luật. Ngoài các hình phạt chính, thì tất cả các điều luật trong chương này đều qui định hai hình phạt bổ sung là:
- Hỡnh phạt tiền với tư cách là hỡnh phạt bổ sung trong trường hợp xét thấy hỡnh phạt tự vẫn chưa thỏa đáng thỡ điều luật cho phép áp dụng thêm hỡnh phạt tiền với tư cách là hỡnh phạt bổ sung.
- Hỡnh phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp xét thấy nếu họ giữ chức vụ, hành nghề, hoặc làm các công việc liên quan thỡ cú nguy cơ là họ sẽ tiếp tục gây nguy hại cho môi trường.
* Các tội phạm cụ thể: Trong phần này tác giả trình bày khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng, hình phạt của các tội phạm về môi trường theo pháp luật hình sự Việt Nam. 2.2. tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường
2.2.1. Thực trạng, nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường Trong phần này tác giả trình bày thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực sau: Trong hoạt động của làng nghề, sản xuất nông nghiệp; trong quản lý và xử lý chất thải nguy hại; trong quản lý, xử lý chất thải công nghiệp nguy hại, rác thải sinh hoạt; trong vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh; trong bảo vệ rừng, động - thực vật hoang dó; trong khai thác khoáng sản đây là những lĩnh vực vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng tăng lên. Đồng thời trong phần này tác giả cũng nêu lên một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỡnh hỡnh vi phạm phỏp luật về bảo vệ mụi trường.
2.2.2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về môi trường * Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của cơ quan tài nguyên, môi trường đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Từ năm 2005, thanh tra chuyên ngành môi trường phối hợp với các đơn vị quản lý nhà nước bắt đầu triển khai thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính tại các địa phương. Năm 2005, cả nước đã thanh, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính 172 tổ chức với số tiền 1.565.000.000 đồng; năm 2006, xử phạt vi phạm hành chính 344 tổ chức với tổng số tiền 4.110.000.000 đồng; năm 2007, xử phạt 861 tổ chức và 02 cá nhân với tổng số tiền 8.736.000.000 đồng; năm 2008, xử phạt 1.776 tổ chức và 09 cá nhân với tổng số tiền là 19.300.000.000 đồng, truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trốn nộp trên 127 tỷ đồng.
* Công tác điều tra, xử lý các tội phạm về môi trường của lực lượng Cảnh sát nhân dân Cho đến nay, Bộ luật Hỡnh sự đó cú hiệu lực và thực thi trờn thực tế 10 năm, nhưng thực tế là mặc dù tỡnh trạng vi phạm phỏp luật về mụi trường có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, số vụ việc vi phạm bị phát hiện tăng lên không ngừng nhưng số lượng vụ việc bị xử lý hỡnh sự lại rất hạn chế (khoảng 1,1% tổng số vụ vi phạm pháp luật về môi trường). Ví dụ, trong năm 2008, thông qua hoạt động của Cục Cảnh sát môi trường thỡ đó điều tra phát hiện trên
700 vụ vi phạm pháp luật về môi trường, làm rừ hơn 380 đối tượng (tổ chức và cá nhân) nhưng lại chỉ chuyển cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố được 8/700 vụ, với 13/380 đối tượng. Theo số liệu thống kê tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi truờng của Cục cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường thì từ ngày 01 tháng 12 năm 2009 đến ngày 31 tháng 5 năm 2010, lực lượng Cảnh sát môi trường các cấp đã điều tra khám phá 3.012 vụ, 1.034 tổ chức, 2.096 cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, xử phạt vi phạm hành chính trên 17 tỷ đồng, đề nghị khởi tố 72 vụ, 101 đối tượng.
* Công tác truy tố các vụ án về tội phạm môi trường của Viện kiểm sát nhân dân các cấp Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê tội phạm - Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì năm 2007, Viện kiểm sát các cấp truy tố 145 vụ án trên tổng số 263 bị can; năm 2008, truy tố 126 vụ án trên tổng số 231 bị can; năm 2009, truy tố 118 vụ án trên tổng số 271 bị can; 6 tháng đầu năm 2010, truy tố 52 vụ trên tổng số 113 bị can.
* Công tác xét xử các vụ án về tội phạm môi trường của Toà án nhân dân các cấp Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, kể từ năm 2001 đến ngày 31 tháng 7 năm 2010, ngành Toà án nhân dân đó xột xử 1.098 vụ án các loại về tội phạm môi trường với 1.913 bị cáo. Trong đó tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183) tổng số đó thụ lý 18 vụ với 25 bị cáo, đó xột xử 17 vụ với 24 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184) tổng số đó thụ lý 01 vụ với 01 bị cáo, đó xột xử 01 vụ với 01bị cỏo và hoàn lại Viện kiển sỏt khụng; Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường (Điều 185) tổng số đó thụ lý 02 vụ với 04 bị cỏo, đó xột xử 02 vụ với 04 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát không; Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186) tổng số đó thụ lý 11 vụ với 17 bị cáo, đó xột xử 10 vụ với 16 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187) tổng số đó thụ lý 04 vụ với 11bị cỏo, đó xột xử 02 vụ với 05 bị cỏo và hoàn lại Viện kiển sỏt 02 vụ với 06 bị cỏo; Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 188) tổng số đó thụ lý 24 vụ với 17 bị cỏo, đó xột xử 23 vụ với 56 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội huỷ hoại rừng (Điều 189) tổng số đó thụ lý 747 vụ với 1.671 bị cỏo, đó xột xử 514 vụ với 990 bị cáo, đỡnh chỉ xột xử 17 vụ với 19 bị cỏo, chuyển hồ sơ vụ án 08 vụ với 36 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 115 vụ với 315 bị cáo; Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dó quý hiếm (Điều 190) tổng số đó thụ lý 619 vụ với 1.005 bị cỏo, đó xột xử 526 vụ với 844 bị cỏo, đỡnh chỉ xột xử 10 vụ với 16 bị cỏo, hoàn lại Viện kiểm sỏt 40 vụ với 71bị cỏo; Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đỗi với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191) tổng số đó thụ lý 05 vụ với 05 bị cỏo, đó xột xử 04 vụ với 04 bị cỏo, hoàn lại Viện kiểm sỏt 01 vụ với 01 bị cỏo; ngành Toà án chưa xét xử vụ án nào về tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182). Nguyờn nhõn của tỡnh hỡnh tội phạm về mụi trường và những hạn chế của công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về môi trường.
Thứ nhất, chưa có sự hướng dẫn kịp thời về Chương - Các tội phạm môi trường trong Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hỡnh sự 2009. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn việc áp dụng các điều luật về tội phạm môi trường, cấu thành cơ bản của các tội quy định trong Chương này cũng có những nét đặc thù, nhiều tỡnh tiết định lượng, định tính chưa được cụ thể hoá đũi hỏi phải được nghiên cứu, hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong thực tiễn đấu tranh phũng, chống loại tội phạm này.
Thứ hai, công tác phối hợp giữa các lực lượng liên quan đến điều tra các vụ án về môi trường chưa được chặt chẽ và hiệu quả. Đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân và thanh tra chuyên ngành về điều tra tội phạm môi trường.
Thứ ba, cụng tỏc tổ chức phũng ngừa và đấu tranh phũng chống tội phạm mụi trường chưa được tiến hành một cách đồng bộ, chưa xây dựng được kế hoạch hợp lý, cụ thể nhằm phối hợp các hoạt động của các bộ, ngành có liên quan để thực hiện chiến lược về bảo vệ môi trường của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, việc nhận diện được một hành vi vi phạm môi trường là rất khó, đũi hỏi phải cú sự trợ giỳp của cỏc phương tiện khoa học kỹ thuật, phải có sự đánh giá của các cơ quan chuyên ngành, phải định tính, định lượng cụ thể mới có thể xác định đó là một hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
Thứ năm, về quan niệm và nhận thức, trong một thời gian dài, vấn đề bảo vệ môi trường cũn bị xem nhẹ, chưa coi vấn đề môi trường là cấp thiết cần ưu tiên giải quyết, ý thức phỏp luật, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận nhân dõn cũn nhiều hạn chế, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh và bộ phận dân cư miền núi, vùng sâu vùng xa... nhiều người cũn chưa hiểu được thế nào là môi trường trong lành; như thế nào là gây ô nhiễm môi trường; tội phạm về môi trường...
Thứ sáu, cụng tỏc giỏo dục ý thức bảo vệ môi trường đối với các tầng lớp dân cư trong xó hội cũn nhiều hạn chế. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường nói chung cũn mang tớnh hỡnh thức, khuếch trương phong trào mà chưa tiến hành một cách thường xuyên, sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Chương 3 NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG Chương này, tác giả đưa ra hệ thống những kiến nghị nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự về các tội phạm về môi trường. 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường
Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới thì cũng nảy sinh nhiều vấn đề thách thức, trong đó có vấn đề bảo vệ môi trường. Tình hình tội phạm về môi trường và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam gia tăng một cách nhanh chóng trong những năm qua. Trong thời gian tới, tình hình tội phạm về môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ vi phạm. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với các tội phạm về môi trường còn xuất phát trên những cơ sở sau:
Thứ nhất: Về yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp. Thứ hai, Về yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm về môi trường nói riêng. Thứ ba, Về yêu cầu phải khắc phục những yếu kém của việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm môi trường. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường 3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường
Trên cơ sở phân tích những quy định về các tội phạm môi trường, những vướng mắc mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này đặt ra cho khoa học pháp lý hình sự phải nghiên cứu giải quyết như:
- Trong cấu thành tội phạm về môi trường (trước khi sửa đổi) phần lớn đũi hỏi phải cú đồng thời ba yếu tố mới xử lý hỡnh sự được: (1) thải chất gây ô nhiễm môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép; (2) hành vi thải chất gây ô nhiễm môi trường trước đó phải bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng cố tỡnh khụng thực hiện cỏc biện phỏp khắc phục; (3) gõy hậu quả nghiờm trọng. Quy định này hạn chế khả năng truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự đối với các tội phạm này, bởi lẽ, việc chờ hội tụ đủ cả 3 yếu tố nói trên là rất khó khăn, nhất là trong việc xác định hậu quả về môi trường.
- Trong cấu thành của các điều luật, các khái niệm định tính, định lượng "ô nhiễm nghiêm trọng", "mức độ nghiêm trọng", "gây hậu quả nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng", "đặc biệt nghiêm trọng", "đặc biệt nghiêm trọng khác", "số lượng lớn", "số lượng rất lớn", "đặc biệt lớn" "…về hành vi này mà cũn vi phạm" v.v.. chưa có hướng dẫn tiêu chí đánh giá cụ thể.
- Trong thực tiễn đó nảy sinh một số loại vi phạm cỏc quy định về bảo vệ môi trường theo Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có khả năng gây hậu quả lớn cho sức khoẻ con người, nhưng hiện tại vẫn chưa được quy định trong luật hỡnh sự.
- Một số tội phạm đó được quy định tại các chương khác của Bộ luật Hỡnh sự 1999 nhưng có liên quan trực tiếp đến môi trường. Do vậy, cũng cần thiết phải nghiên cứu để điều chỉnh, đưa một số điều thuộc các chương khỏc của Bộ luật hỡnh sự về chương tội phạm môi trường cho phù hợp với yêu cầu phũng ngừa, đấu tranh chống tội phạm môi trường.
- Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân vi phạm pháp luật hình sự mà chưa quy định đối với pháp nhân.
Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế như đó nờu trờn, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các tội phạm về môi trường như sau:
Một là, sửa đổi cấu thành một số tội phạm về môi trường theo hướng Định lượng hoá một số dấu hiệu của các tội phạm môi trường, chỉ rừ những dấu hiệu đặc trưng chủ yếu và điển hỡnh về hậu quả do tội phạm mụi trường gây ra.
Hai là, Tội phạm hoá và xử lý về hình sự hành vi xâm pham môi trường phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong tình hình hiện nay có tính đến xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế.
Ba là, tăng nặng trỏch nhiệm hỡnh sự đối với một số tội phạm về môi trường, mở rộng phạm vi ỏp dụng hỡnh phạt tiền là hỡnh phạt chớnh, đồng thời nâng mức tối đa và tối thiểu đối với hỡnh phạt tiền cho tương ứng với mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường theo quy định mới.
Bốn là, Quy định thêm điều luật khái niệm các tội phạm về môi trường trong Bộ luật hình sự. Trên cơ sở xác định cụ thể khách thể của các tội phạm về môi trường và mở rộng phạm vi chủ thể không chỉ là cá nhân mà cả đối với pháp nhân
Năm là, cần xây dựng cơ chế xử lý hỡnh sự đối với vi phạm của pháp nhân. Pháp nhân là chủ thể chiếm đa số tuyệt đối trong vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như trong xử lý vi phạm hành chớnh về bảo vệ mụi trường. Nếu xét về mức độ, tính chất và hậu quả thỡ vi phạm phỏp luật về bảo vệ mụi trường của pháp nhân so với cá nhân là phức tạp và nghiêm trọng hơn rất nhiều. 3.2.2. Hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm môi trường Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan đến bảo vệ môi trường. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước chuyên ngành về bảo vệ môi trường. Thứ ba, bổ sung các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan khi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. 3.2.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật
3.2.3.1. Đối với Cơ quan điều tra Thứ nhất, đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Thứ hai, phòng, chống tội phạm về môi trường là lĩnh vực nghiệp vụ mới của lực lượng Công an nhân dân cần phải nâng cao năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ điều tra.
Thứ ba, cần tổ chức nghiên cứu các đề tài khoa học, các chuyên đề về đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức đấu tranh phòng, chống tội phạm môi trường cho đội ngũ cán bộ điều tra.
Thứ tư, cần phải khẩn trương tiến hành xây dựng Trung tâm Kiểm định tiêu chuẩn môi trường đủ điều kiện đảm bảo quan trắc và phân tích môi trường, có hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ làm căn cứ cho việc điều. Thứ năm, cần phải trang bị, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại trong cụng tỏc phũng ngừa, phỏt hiện và xử lý vi phạm phỏp luật về bảo vệ môi trường. Thứ sáu, cần phối hợp với Tòa án, Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về các tội phạm về môi trường.
3.2.3.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân Thứ nhất, Viện kiểm sát phải kịp thời phát hiện những sơ hở của pháp luật hoặc trong việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp trong hoạt động khởi tố, điều tra, bắt, giam, giữ, xét xử, thi hành án. Thứ hai, cần phải nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố tại phiên toà các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án về tội phạm về môi trường. Thứ ba, Trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa kiểm sát viên phải nắm chắc hồ sơ vụ án, nắm được luận cứ của luật sư trình bày tại phiên toà.
Thứ năm, cần được tăng cường bổ sung thêm lực lượng cán bộ, Kiểm sát viên phục vụ cho lộ trình tăng thẩm quyền, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho Kiểm sát viên
3.2.3.3. Đối với Tòa án nhân dân Để thực hiện tốt công tác xét xử các vụ án về tội phạm về môi trường, ngành Tòa án cần: Thứ nhất, cần thực hiện việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xét xử các tội phạm về môi trường, trên cơ sở đó hưỡng dẫn thi hành và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong quá trình xét xử. Thứ hai, trong quá trình xét xử các vụ án về tội phạm về môi trường, phải bảo đảm sự công minh, tính công bằng của pháp luật trong việc áp dụng các quy định của pháp luật. Thứ ba, tổ chức xét xử kịp thời những vụ án điểm phục vụ công tác chính trị địa phương; đưa các vụ án về tội phạm về môi trường đi xét xử lưu động. Thứ tư, cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an, Viện kiểm sát làm tốt công tác thi hành án phạt tù, đảm bảo mọi bản án có hiệu lực đều được thi hành kịp thời. 3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm về môi trường 3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật về tội phạm môi trường
Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, trang bị những tri thức cần thiết về môi trường, sinh thái cho quần chúng nhân dân qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, phát thanh, truyền hình… 3.3.2. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực tội phạm về môi trường
Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị ra nhập, tham gia ký kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống các tội phạm về môi trường; đồng thời nội luật hoá các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, tăng cường hợp tác, giao lưu về pháp luật, và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế. 3.3.3. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường
Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường. Cụ thể như: tham gia các diễn đàn, hội thảo, hội nghị, tận dụng các nguồn tài trợ quốc tế, đào tạo cán bộ…
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, bảo vệ môi trường luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước. Với nhiều cố gắng nỗ lực, công tác bảo vệ môi trường đó đạt được nhiều kết quả quan trọng mà biểu hiện rừ nột nhất là hệ thống pháp luật đó ngày càng hoàn thiện và ý thức trỏch nhiệm của người dân cũng như của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền bảo vệ môi trường đó ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó đó gúp phần quan trọng vào việc nõng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xó hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trỡnh phỏt triển kinh tế xó hội cũng tạo ra nhiều ỏp lực lên môi trường. Hiện trạng môi trường vẫn đang diễn biến phức tạp. Tuy đó đạt được một số kết quả như trên, nhưng chất lượng môi trường hiện nay vẫn đang bị suy thoái ở nhiều nơi, đặc biệt ở các độ thị, vùng ven biển và các lưu vực sông, làng nghề. Tỡnh hỡnh vi phạm phỏp luật về mụi trường nói chung và tội phạm môi trường nói riêng cũng ngày càng gia tăng về cả số lượng và với diễn biến phức tạp, tinh vi. Điều này làm cho công tác đấu tranh phũng, chống cỏc vi phạm phỏp luật về mụi trường, đặc biệt là tội phạm môi trường ngày càng khó khăn và phức tạp; đũi hỏi phải cú sự nỗ lực cao của cỏc cấp, cỏc ngành và của từng người dân. Nhưng dù nỗ lực đến đâu chăng nữa thỡ hoạt động này cũng sẽ kém hiệu quả, nếu hệ thống các quy định của pháp luật về môi trường, về xử lý cỏc vi phạm và tội phạm mụi trường thiếu và không khả thi. Chính vỡ vậy, việc hoàn thiện cỏc quy định của pháp luật về môi trường nói chung và về pháp luật hỡnh sự núi riờng để phù hợp với diễn biễn vi phạm pháp luật về môi trường là một nhiệm vụ phải được coi trọng và thực hiện thường xuyên. Có như vậy, hoạt động đấu tranh phũng, chống tội phạm mụi trường mới có hiệu lực, hiệu quả, góp phần khống chế và tiến tới giảm dần các vi phạm pháp luật về môi trường. Trước tỡnh hỡnh đó, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn của việc điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, xử lý cỏc tội phạm về mụi trường là một yêu cầu khách quan.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn đấu tranh phũng, chống vi phạm phỏp luật về mụi trường của các cơ quan thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan tiến hành tố tụng, đề tài tập trung làm rừ những nội dung cỏc quy định của Bộ luật hỡnh sự về cỏc tội phạm về mụi trường; đánh giá thực trạng môi trường và tội phạm môi trường trong thời gian qua, để tỡm ra nguyờn nhõn điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm môi trường; dự báo tỡnh hỡnh mụi trường và diễn biến của tội phạm môi trường để đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh, xử lý cú hiệu quả tội phạm mụi trường, để từng bước duy trỡ và nõng cao chất lượng môi trường sống của chúng ta ngày càng tốt hơn cùng với sự phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước.
Bảo vệ môi trường và đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường đó và đang đặt ra những yêu cầu vô cùng cấp thiết. Bên cạnh những kết quả đó đạt được thỡ cụng tỏc này cũng cũn nhiều bất cập, đây là thực tiễn đang đũi hỏi cỏc cơ quan bảo vệ pháp luật về lĩnh vực môi trường cần sớm đưa ra chính sách, tổ chức, thể chế và quản lý phự hợp để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác đấu tranh, xử lý cỏc tội phạm về môi trường nói riêng góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xó hội của đất nước. Do giới hạn của việc nghiên cứu luận văn thạc sỹ, cùng với những hạn chế nhất định về kiến thức môi trường và pháp luật về môi trường. Mặc dù, bản thân đó cú nhiều cố gắng, song khụng thể trỏnh khỏi những khiếm khuyết trong quỏ trỡnh nghiờn cứu. Do vậy, rất mong
muốn được các thầy, cô, các chuyên gia và cán bộ thực tiễn góp ý để đề tài được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn.
References 1. Dương Thanh An (2008), "Các yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường theo Bộ luật Hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 52-55.
2. Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư liên tịch số 02/2009/TTLT- BCA-BTNMT ngày 6/02 hướng dẫn quan hệ công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, Hà Nội.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Quyết định số 26/2008/QĐ-BTNMT 31/12 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành quy chuẩn quốc gia về môi trường, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Báo cáo kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành bảo vệ môi trường từ năm 2004 đến năm 2009, Hà Nội. 5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư số 16/2009/TT-BTNMT ngày 7/10 quy định chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội. 6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư 25/2009/TT-BTNMT ngày 16/11 về quy định tiêu chuẩn quốc gia về môi trường, Hà Nội.
8. 7. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT-BNN&PTNT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số tội phạm về môi trường, Hà Nội. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 9. Chính phủ (2004), Nghị định 150/NĐ-CP ngày 29/7 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản, Hà Nội. 10. Chính phủ (2005), Nghị định 34/NĐ-CP ngày 17/3 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước, Hà Nội. 11. Chính phủ (2007), Nghị định 159/NĐ-CP ngày 30/10 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, Hà Nội. 12. Chính phủ (2009), Nghị định 105/NĐ-CP ngày 11/11 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, Hà Nội. 13. Chính phủ (2009), Nghị định 117/NĐ-CP ngày 31/12 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội. 14. Chính phủ (2010), Nghị định 31/NĐ-CP ngày 29/3 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Hà Nội. 15. Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (2010), Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2010 về tội phạm môi trường, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 11/5 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 20. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2008), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Trần Lê Hồng (2001), "Nhận thức chung đối với tội phạm vê môi trường và một số vấn đề liên quan", Khoa học pháp lý, (4), tr. 12-19. 22. Phạm Văn Lợi (2004), Tội phạm về môi trường một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Phạm Văn Lợi (2009), "Tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước Đông Nam Á", Môi trường, (8), tr. 48-52. 24. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 25. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần các tội phạm), Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội. 27. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 28. Quốc hội (1998), Luật Tài nguyên nước, Hà Nội. 29. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội. 30. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội. 31. Quốc hội (2003), Luật Thủy sản, Hà Nội. 32. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ phát triển rừng, Hà Nội. 33. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Hà Nội. 34. Quốc hội (2008), Luật Đa dạng sinh học, Hà Nội. 35. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 36. Quốc hội (2010), Luật An toàn thực phẩm, Hà Nội. 37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội. 38. Viện Nghiên cứu lập pháp (2009), Hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường: thực trạng và một số kiến nghị, Báo cáo chuyên đề tháng 4, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh (2002), "Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 3-14.