ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------
NGUYỄN THỊ NGA
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa khọc: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
bảo vệ Luận văn.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Nga
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 5
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ,VAI TRÒ CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................... 7
1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý và vị trí, vai trò của trợ giúp viên
pháp lý trong tố tụng hình sự.................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý ......................................................... 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự .............. 9
1.2. Cơ sở, ý nghĩa quy định về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp
lýtrong luật tố tụng hình sự .....................................................................16
1.3. Quyền và nghĩa vụ của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự .22
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .........25
2.1. Pháp luật về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự25
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước 2015.....................................................25
2.1.2. Giai đoạn từ 2015 đến nay ................................................................38
2.2. Thực tiễn về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng
hình sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu..........................................................51
2.2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế, xã hội ở Lai Châu có ảnh hưởng đến hoạt
động trợ giúp pháp lý cũng như vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý ...........51
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm TGPL tỉnh Lai Châu53
2.2.3. Hoạt động trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên pháp lý Trung tâm TGPL
tỉnh Lai Châu trong tố tụng hình sự ............................................................55
2.2.4. Một số hạn chế, tồn tạivà nguyên nhân ..............................................63
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................68
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................................69
3.1. Cơ sở, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về trợ giúp viên pháp lý
trong tố tụng hình sự ...............................................................................69
3.2. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý ..........................................................71
3.3. Hoàn thiện pháp luật .........................................................................71
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TGVPL trong TTHS73
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TGPL Trợ giúp pháp lý
TGVPL Trợ giúp viên pháp lý
TTHS Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Tên bảng Trang Số hiệu bảng
Tình hình TGPL của Trung tâm trợ giúp pháp lý Lai Bảng 1: 56 Châu
Bảng 2: Tình hình tham gia tố tụng hình sự của TGVPL 58
Bảng 3: Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự 60
Tỷ lệ số lượng vụ án có TGVPL từ giai đoạn điều tra, Bảng 4: 62 truy tố và xét xử
Số hiệu biểu đồ Tên bảng Trang
Tình hình tham gia của TGVPL trong tố tụng hình Biểu đồ 1: 58 sự tỉnh Lai Châu
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trợ giúp pháp
lý (TGPL) gắn với quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối
quan hệ xã hội đã giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người
thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo
dục ý thức pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà
nước và xã hội và các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những
hành vi được phép làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt,
thông qua những vụ việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm
bắt được nội dung pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ
thể trong cuộc sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp
luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội.
TGPL còn thể hiện nguyên tắc của Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Trên cơ sở này,
Luật TGPL và Luật TTHS đã khẳng định vị trí, vai trò của TGPL đối với các
đối tượng yếu thế khi tham gia TTHS, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con
sự. Thông qua hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng
chính sách, đối tượng yếu thế khác nâng cao nhận thức vềquyền và các biện
pháp bảo vệ quyền khi tham gia tố tụng, đồng thời cũng giúp họ hiểu biết hơn
về pháp luật, hiểu rõ các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trải qua hơn 20 năm triển khai thực hiện hoạt động TGPL Nhà nước, với
người, quyền và lợi ích hợp pháp của những người yếu thế trong các vụ án hình
sự ra đời của Luật TGPL 2006 và luật trợ giúp 2017 đã đạt được những thành
tượng chính sách và các đối tượng yếu thế trong xã hội đối với các vụ án hình
1
quả đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối
sự, dân sự, hành chính...Trong đó, vị trí, vai trò của Trợ giúp viên pháp lý
(TGVPL) khi tham gia TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối
tượng được trợ giúp trong các vụ án hình sự thể hiện rõ nét nhất quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động truy tố, xét xử của Viện kiểm sát, Tòa án, phục
vụ chiến lược cải cách tư pháp.
Năm 2015, Quốc Hội đã ban hành mới 04 đạo luật tư pháp về hình sự
như Bộ luật hình sự; Bộ Luật TTHS; Luật thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018. Căn cứ vào
vị trí, vai trò của TGVPL theo Luật TGPL năm 2017 và trên cơ sở nhiệm vụ,
quyền hạn của TGVPL được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 cần
phải tiếp tục có những góc nhìn mới, chuyên sâu hơn về chế định này trong
TTHS nhằm bảo vệ được tối đa quyền lợi chính đáng cho nhóm đối tượng yếu
thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần giải quyết vụ án hình sự nhanh
chóng, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, nâng cao vị thế của
TGVPL trong hoạt động TTHS.
Như vậy, với việc ban hành Luật TGPL, Luật TTHS và những văn bản
pháp luật khác đã hình thành khung pháp lý cho hoạt động của TGVPL khi
tham gia TTHS. Trên thực tế, ở Việt Nam, TGPL đã đạt được một số thành
tựu như: góp phần giúp người nghèo, đối tượng chính sách và những đối
dựng lối sống và hình thành lối làm việc theo pháp luật. Đây là hoạt động
mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập quốc tế
của Việt Nam, góp phần bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
vẫn còn một số hạn chế tồn tại trong quá trình TGPL khi áp dụng chế định
TGPL trên thực tiễn. Chẳng hạn như các quy định về quyền hạn, trách nhiệm
tượng có hoàn cảnh đặc biết khác được tiếp cận pháp luật, từ đó góp phần xây
của TGVPL còn chưa đây đủ, rõ ràng dẫn đến khó áp dụng; Số lượng vụ việc
2
yêu cầu TGPL ngày càng tăng, trong khi đó số lượng người thực hiện TGPL
còn thiếu và yếu về kỹ năng, kinh nghiệm tham gia tố tụng, thường xuyên
biến động.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Lai Châu, việc tiếp tục nghiên cứu
các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của TGVPL,
đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
tham gia TTHS của TGVPL có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng. Vì vậy,
Học viên lựa chọn đề tài “Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt
động tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sẽ làm rõ những lý luận về vị trí, vai trò của TGVPL trong tố
tụng hình sự; thông qua việc nghiên cứu thực tế, luận văn đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện pháp luật để khẳng định vị trí, vai trò của TGVPL trong
hoạt động tố tụng hình sự.
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của TGVPL trong
TTHS, như: các khái niệm để làm rõ vị trí, vai trò của TGVPL trong pháp
luật TTHS ...;
- Phân tích, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật về vị trí, vai
trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam;
Châu,qua đó nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, sự cần thiết của
TGVPL trong hoạt động TTHS hiện nay. Từ đó chỉ ra được những nguyên
nhân của thực trạng hoạt động của TGVPL trong TTHS;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của TGVPL trong các vụ án hình sự.
- Làm rõ thực tiễn thực hiện vai trò của TGVPL trên địa bàn tỉnh Lai
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
đến Trợ giúp viên pháp lý trong TTHS như: Bàn về khái niệm trợ giúp pháp
3
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
lý / Tạ Thị Minh Lý // Nhà nước và Pháp luật. Số 10/2005, tr. 77 – 83; Bàn về
phạm vi điều chỉnh của Luật TGPL / Đỗ Xuân Lân // Dân chủ và Pháp luật.
Số 2/2006, tr. 18 – 20; Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
TGPL / Cù Thu Anh // Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề: Bảo đảm quyền
con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp /2014, tr. 92 – 106; Bảo
đảm quyền được TGPL của công dân / Hoàng Văn Nghĩa // Nghiên cứu lập
pháp. Số 15/2009, tr. 5 – 11; Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong
điều kiện đổi mới : luận án tiến sĩ luật học (2008) - Tạ Minh Lý; Người hướng
dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Lộc, PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng; Hoàn thiện
pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam : luận văn thạc sĩ luật học
(2004)/ Vũ Hồng Tuyến; PGS. TS. Hoàng Thế Liên hướng dẫn; Hoàn thiện
pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam hiện
nay: luận văn thạc sĩ luật học (2012) / Nguyễn Thị Hồng Kiên ; PGS. TS.
Nguyễn Minh Đoan hướng dẫn; Pháp luật về TGPL và thực tiễn thi hành tại
tỉnh Bắc Kạn: luận văn thạc sĩ luật học (2017) / Lường Đức Thắng ; TS. Đoàn
Thị Tố Uyên hướng dẫn; và các công trình nghiên cứu khác liên quan đến vị
trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TTHS.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về vị trí, vai
trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam, nhất là các quy định trong
Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017. Các công trình nghiên cứu
trò của TGVPL mà chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và hệ
thống về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TTHS Việt Nam, do đó
mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn không trùng lặp với
các công trình đã công bố.
Trước yêu cầu hoàn thiện các quy định về vị trí, vai trò của TGVPL
trong hoạt động TTHS Việt Nam, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
trên đây chỉ nghiên cứu, đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến vị trí, vai
của Luận văn hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện
4
chế định này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những định hướng
các quy định pháp luật Việt Nam về chế định TGVPL trong hoạt động TTHS,
nhằm mục đích góp phần tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững
công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, hiệu lực. Tác giả hy
vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về lý luận, thực trạng quy định
pháp luật về TGVPL và thực tiễn áp dụng áp dụng quy định về TGVPL trong
hoạt động TTHS.
3. Phạm vi nghiên cứu
TGVPL trong Bộ luật TTHS năm 2015; Luật TGPL năm 2017; đồng thời
Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến Chế định
nghiên cứu thực tiễn hoạt động TGPL đối với các vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Lai Châu (từ năm 2014 đến tháng 6/2019) để phân tích, làm rõ và đạt được
mục đích nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã dựa trên cơ sở phương pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin
với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong mối tương quan với tình
hính kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu, luận văn còn dựa trên cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
nghiên cứu của mình như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp phân
tích để phân tích các quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động
TTHS để chỉ rõ, giải thích về nội dung của các quy định đó. Đồng thời, tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp, kế thừa lại những kết quả
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác để phục vụ việc
của các công trình nghiên cứu liên quan từ trước đến nay trên cơ sở sự kế thừa
trực diện vấn đề về nội dung nghiên cứu theo pháp luật hiện hành.
5
có chọn lọc. Trên cơ sở các phân tích, bình luận để thể hiện góc nhìn mới,
Phương pháp so sánh: Đề tài thực hiện việc so sánh các quy định pháp
luật hiện hành với các quy định từ thời trước đây, đồng thời so sánh các với
quan điểm của một số nhà nghiên cứu nội dung có liên quan để phân tích, đưa
ra quan điểm riêng của tác giả về vấn đề nghiên cứu.
Và các phương pháp khác nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng
hình sự.
- Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp
lý trong tố tụng hình sự.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nâng cao hiệu quả
6
hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ,VAI TRÒ CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý và vị trí, vai trò của trợ giúp viên
pháp lý trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm trợ giúp viên pháp lý
Các quy phạm pháp luật về TGPL xác định 5 lĩnh vực pháp luật được
TGPL bao gồm: Hình sự và TTHS; Dân sự, hôn nhân gia đình và tố tụng;
Hành chính, khiếu nại tố cáo; Lao động, việc làm; Đất đai, nhà ở. Về hình
thức TGPL cũng được quy phạm hóa như: Tư vấn pháp luật; Tham gia tố
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, góp phần đảm
tụng; Đại diện ngoài tố tụng, Hòa giải, kiến nghị và các hình thức TGPL khác
bảo công bằng xã hội.
Để hiểu rõ khái niệm về trợ giúp viên pháp lý, trước hết cần hiểu khái
niệm “trợ giúp pháp lý” là gì?. Theo từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn nhữ học,
NXB Đà Nẵng, “trợ giúp” được hiểu là giúp đỡ, “pháp lý” được hiểu là
“nguyên lý về pháp luật” [36] .
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”.
Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa – Nxb Tư pháp, 2006 cho
luật của một quốc gia, “pháp lý” chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị
pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm
trù, khái niệm lý luận về pháp luật [35]. Như vậy có nhiều cách gọi khác nhau
về thuật ngữ này nhưng cụm từ “trợ giúp” đều có nội dung nói đến sự giúp
đỡ, bảo trợ, hỗ trợ.
rằng pháp lý là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp
kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước từ năm 1995, như Thông báo
7
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được đề cập trong một số văn
số 485/CV-CPTW về ý kiến chỉ đạo Ban Bí thư TW Đảng ngày 31/5/1995
của Văn phòng TW Đảng, lần đầu tiền được ghi nhậnchủ trương của Đảng về
giúp đỡ pháp luật miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách; Quyết
định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
tổ chức TGPL cho người ngèo và đối tượng chính sách.
Luật TGPL năm 2006 đã đưa ra khái niệm trợ giúp pháp lý tại Điều 3
như sau“trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được TGPL theo quy định của Luật ngày, giúp người được TGPL bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật”.
Luật TGPL năm 2017 (có hiệu lực từ 01/01/2018) quy định ngắn gọn
hơn về khái niệm TGPL như sau: “trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định
của Luật này, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp
cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”.
Có thể thấy, Luật TGPL năm 2006 và năm 2017 chỉ đưa ra khái niệm
chung về TGPL. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Liên hợp quốc quy định
“trợ giúp pháp lý bao gồm tư vấn pháp lý, hỗ trợ và đại diện cho người bị
tội và cho các nạn nhân, nhân chứng trong quá trình TTHS, được cung cấp
miễn phí cho những người không có đủ điều kiện hoặc khi lợi ích công lý
đòi hỏi như vậy. Hơn nữa, TGPL cũng có chủ đích bao hàm các khái niệm
về giáo dục pháp luật, tiếp cận thông tin pháp lí và các dịch vụ khác được
cung cấp cho các đối tượng thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp và
tạm giam, bị bắt hoặc bị tù giam, bị tình nghi hay bị cáo buộc, hoặc bị buộc
quá trình tư pháp phục hồi” [27]. Theo đó, khái niệm theo quy định của
mục đích của TGPL trong TTHS.
8
Liên hợp quốc đã chỉ rõ về các hình thức TGPL, đối tượng được TGPL và
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm TGPL,
nhưng nhìn chung, các quan điểm về TGPL đều cho rằng TGPL nhằm giúp
đỡ về mặt pháp lý cho đối tượng được TGPL mà người được trợ giúp
không phải mất chi phí của dịch vụ mà mình thụ hưởng. Tuy nhiên, trên
quan điểm tổng thể thì TGVPL cần được đề cập ở những khía cạnh sau
đây: TGVPL là người thực hiện chức năng TGPL và địa vị pháp lý của
TGVPL được quy định trong văn bản pháp luật của nhà nước; Khi thực
hiện TGPL trong TTHS, TGVPL có quyền và nghĩa vụ như luật sư bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự; Đối tượng của TGVPL hỗ trợ
là những người yếu thế, khó khăn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm “trợ giúp viên pháp lý”
như sau: TGVPL là người thực hiện các công việc pháp lý nhằm giúp đỡ, hỗ
trợ về mặt pháp lý cho người được TGPL nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho người được TGPL, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.1.2. Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Vị trí của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Trong quá trình trợ giúp pháp lý, TGVPL đóng vai trò là người hướng
dẫn pháp luật, đảm bảo cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng
pháp luật miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo
điều kiện để công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ
có vị trí nhất định trong quá trình TTHS. Vị trí của TGVPLlà tổng hợp các
các quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của TGVPL được Nhà nước, pháp
luật trao để thực hiện vai tròTGPL của mình. Chẳng hạn như, TGVPL có
nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và hoạt động nghiệp vụ
TGPL qua tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực
biến, giáo dục pháp luật cho người dân biết. Để thực hiện vai trò đó, TGVPL
hiện các hình thức TGPL khác cho những đối tượng được TGPL (như người
tộc thiểu số, .v.v).
9
nghèo, người có công với cách mạng, người già, người khuyết tật, người dân
Trong quá trình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người được TGPL trong quá trình tố tụng, TGVPL có mối quan hệ khăng
khít với cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ này được thể hiện trách
nhiệm của TGVPL và cơ quan tiến hành tố tụng, như:
Trong giai đoạn trước khi tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có
trách nhiệm giải thích, thông báo, thông tin về TGPL; đăng ký, từ chối, hủy
bỏ việc đăng ký bào chữa; từ chối việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự theo Thực hiện việc thống kê vào Sổ theo dõi vụ việc
TGPL trong hoạt động tố tụng quy định; Niêm yết Bảng thông tin về TGPL,
đặt Hộp tin TGPL; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL; Đề
nghị Trung tâm, Chi nhánh phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông và
hướng dẫn về TGPL. Có thể thấy, giai đoạn này được thực hiện trước khi
TGVPL tham gia tố tụng. Đây cũng là cơ sở để TGVPL có thể thực hiện các
quyền và nghĩa vụ khác trong quá trình tố tụng để thực hiện hoạt động TGPL
của mình.
Trong giai đoạn tham gia tố tụng, nếu phát hiện nếu phát hiện người thực
hiện TGPL có hành vi vi phạm pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo cho tổ chức thực hiện
TGPL để kịp thời xử lý theo thẩm quyền và thay thế người thực hiện TGPL.
Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giao các văn bản tố tụng
định của pháp luật về tố tụng; bảo đảm cho người thực hiện TGPL khi tham
gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL theo quy định
của pháp luật về tố tụng và pháp luật về TGPL. Có thể thấy, ở giai đoạn này,
việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ kịp thời của cơ quan tiến hành tố tụng
có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cũng như chất lượng TGPL của
cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng trong vụ án, vụ việc theo quy
tụng trong vụ án không kịp thời, chậm chễ sẽ rút ngắn thời gian nghiên cứu,
10
TGVPL. Đơn cử như, việc giao các văn bản tố tụng cho TGVPL tham gia tố
tư vấn, hỗ trợ cho người được TGPL của TGVPL dẫn đến ảnh hưởng đến chất
lượng TGPL của vụ việc. Hơn nữa, trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng
không thực hiện việc phối hợp hoặc phối hợp không đầy đủ với TGVPL trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
của TGVPL trong đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
Bên cạnh đó, trong hoạt động tham gia tố tụng, hoạt động TGPL của
TGVPL cần được sự phối hợp của Trại tạm giam, Nhà tạm giữ để tạo điều
kiện trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, cấp giấychứng nhận
người bảo vệ, tạo điều kiện trong việc gặp gỡ, trao đổi với đối tượng, phô tô
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tham gia các hoạt động khác.
trong đó có tham gia tố tụng như luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Như vậy, TGVPL là người có thể thực hiện đầy đủ các hình thức TGPL,
của người được TGPL trong quá trình tố tụng. Do vậy, pháp luật hiện hành
quy định các tiêu chuẩn, điều kiện của TGVPL tương đương như luật sư,
điểm khác biệt là Trợ giúp viên pháp lý chưa có quy định về chế độ tập sự
hành nghề như luật sư, không phải trải qua kỳ thi hết tập sự hành nghề luật sư
và do đó không được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.
Như vậy, về cơ bản, hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp
lý gần giống như của luật sư, tuy nhiên, có một số điểm khác nhau cơ bản
sau: Thứ nhất, luật sư thực hiện hoạt động tố tụng cho nhiều đối tượng, trong
khi đó, đối tượng của Trợ giúp viên pháp lý thu hẹp chỉ những người thuộc
này. Thứ hai, luật sư thực hiện hoạt động tố tụng ở tất cả các lĩnh vực, còn
Trợ giúp viên pháp lý thực hiện hoạt động tố tụng ở các lĩnh vực, trừ lĩnh vực
kinh doanh, thương mại. Thứ ba, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư là
hoạt động có thu phí, còn hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp
lý là hoạt động miễn phí.
diện được TGPL theo pháp luật TGPL mới được hưởng dịch vụ pháp lý
Tuy nhiên sự khác nhau này là do quy định của pháp luật và xuất phát từ
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý.
11
tính chất miễn phí, bản chất nhân đạo của hoạt động TGPL chứ không phải do
1.1.2.2. Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Vai trò của TGVPL trong TTHS được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
28/11/2013, được xem là một bản Hiến pháp tiến bộ với nhiều sửa đổi, bổ
sung, ghi nhận về chế định quyền con người. Chẳng hạn Điều 13, 14 Hiến
pháp ghi nhận cả 3 nghĩa vụ của nhà nước theo Luật nhân quyền quốc tế, bao
gồm các nghĩa vụ “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm” quyền con người, quyền
công dân [31]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước phải
thực hiện đầy đủ và nghiêm túc nghĩa vụ bảo vệ quyền con người.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ghi nhận “Mọi người
đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài phán và có quyền được hưởng
một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào chữa, ngay cả khi họ không có
điều kiện chi trả”[22].
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch
hành động, các tuyên bố quốc tế nhằm ghi nhận việc đảm bảo quyền con
người. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, Việt Nam tham gia với vai trò là
thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người[16]. Do vậy, yêu
cầu Nhà nước có vai trò bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người,
quyền công dân cho người ngheo, nhóm người yếu thế, có hoàn cảnh đặc biệt,
khác trong đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước cần có trách nhiệm cung
ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yêu cho nhóm người này, đồng thời kiểm soát
hoạt động này nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác
trong quản lý xã hội.
Vì vậy, việc TGVPL tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
được TGPL đã góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức,
dễ tổn thương trong xã hội để những người này bình đẳng với các chủ thể
quyền tự do, dân chủ của người nghèo, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không
12
bất công, tôn trọng nhân quyền. Đây là một chính sách góp phần bảo đảm các
chỉ thực hiện trên thực tế quyền con người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ
trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp; coi con người là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển. Bởi vì họ là đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện
nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn
ai hết, người nghèo, những người yếu thế, khó khăn trong xã hội phải được
quan tâm, giúp đỡ. Sự hỗ trợ những đối tượng này góp phần tạo sự công bằng
trong tiếp cận công lý.
Thứ hai, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án khách quan, công bằng
Trong hoạt động TGPL, TGVPL đóng vai trò là người hướng dẫn pháp
miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện
luật, bảo đảm cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng pháp luật
để công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân biết quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp
luật TGPL... bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, mà
trước hết là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua
hoạt động TGPL. Người tham gia tố tụng được pháp luật ghi nhận cho rất
nhiều quyền như quyên bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, quyền tranh luận. Đây là những quyền con người đã được nâng lên
thành các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Quyền được xét xử công bằng là
một trong số các quyền rất quan trọng, được ghi nhận trong pháp luật nhân
1966. Theo đó, quyền được xét xử công bằng là một trong những yếu tố then
chốt bảo vệ quyền con người và là một phương tiện tố tụng để đảm bảo pháp
chế. Để thực hiện tốt quyền này, đòi hỏi các bên tham gia tranh tụng, đặc biệt
là bên bị buộc tội, phải được tạo những điều kiện và cơ hội như nhau trong
việc thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ để tranh tụng tại phiên tòa. Và
quyền quốc tế và Công ước quốc tết về các quyền dân sự và chính trị năm
với sự hỗ trợ, tư vấn của người thực hiện TGPL, những hoạt động này sẽ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL[34].
13
được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn khi tham gia TTHS cũng như bảo vệ
Bên cạnh đó, trong hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL còn góp phần
xác định sự thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác, tránh
làm oan người vô tội, để lọt tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết công việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện cải
cách tư pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trước toà,
bảo đảm cho người nghèo, đối tượng chính sách, người già cô đơn, trẻ em
không nơi nương tựa, dân tộc thiểu số,... không có điều kiện thuê luật sư cũng
được TGVPL bảo vệ, bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ
trước các cơ quan tố tụng.
Thứ ba, thực hiện chức năng của nhà nước
TGVPL có thể thực hiện TGPL bằng nhiều hình thức khác nhau, như: Tư
vấn pháp luật; Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của
đương sự trong vụ án hình sự; thực hiện các hình thức TGPL khác.
Trong quá trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tố tụng, TGVPL tham
gia với tư cách đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người được TGPL là người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hình sự, góp phần đảm bảo xây dựng thủ tục TTHS công bằng, khách
quan. Theo đó, những người tham gia tố tụng với cùng một tư cách được
hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ như nhau. Tuy nhiên, có nhiều lí do
thể chất và nhận tức nên không thể tự mình thực hiện các quyền tố tụng hoặc
nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với những
người này, sự tham gia của TGVPL là bắt buộc trong hoạt động TTHS. Điều
này, thể hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo sự công bằng và
thể hiện tính nhân văn của pháp luật TTHS, góp phần nâng cao công tác quản
như sự khó khăn về tài chính, đặc tính dễ bị tổn thương, sự khiếm khuyết về
lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực văn hóa – xã hội.
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, góp phần tạo điều kiện
14
Ngoài ra, TGVPL đóng vai trò là người hướng dẫn pháp luật, nhằm bảo
để công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người dân biết quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật
TGPL, bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, mà trước
hết là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua hoạt
động TGPL. Bên cạnh đó, hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL còn góp
phần xác định sự thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác,
tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết công việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện
cải cách tư pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trước
toà, bảo đảm cho người nghèo, đối tượng chính sách, và những người yếu thế
khác không có điều kiện thuê luật sư cũng được TGVPL bảo vệ, bào chữa
quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ trước các cơ quan tố tụng.
Như vậy, hoạt động TGPL góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực
hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa
hình sự. Hơn nữa, góp phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức
tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác
nhau dẫn đến giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối
tượng chính sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp.
phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ
động, nâng cao ý thức thực hiện trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất
là của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong việc TGPL cho
người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Đồng thời, công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi
Bên cạnh đó, việc quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS và
tụng. Qua thực tế có thể nhận thấy, trước khi Luật TGPL ra đời năm 1997,
15
trong luật TGPL nhằm khẳng định sự hiện hữu của TGVPL trong quá trình tố
trong các quá trình bào chữa, người thực hiện TGPL là luật sư hoặc luật gia
mới được thực hiện bào chữa, còn chuyên viên TGPL theo quy định của
Nhà nước thì chỉ tham gia TGPL dưới hình thức tư vấn, kiến nghị là chủ
yếu. Tuy nhiên, kể từ khi Luật TGPL năm 2006 ra đời, chức danh người
thực hiện TGPL đã được thể chế hóa chính thức với chức danh mới là
TGVPL.Như vậy việc quy định chính thức trong luật về vị trí, vai trò của
TGVPL trong Luật là căn cứ để TGVPL thực hiện vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, góp
phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.2. Cơ sở, ý nghĩa quy định về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp
lýtrong luật tố tụng hình sự
Một là, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
Những năm gần đây, tỷ lệ TGVPL tham gia tố tụng để đại diện, bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL ngày càng
tăng. Đội ngũ TGVPL ngày càng trưởng thành và khẳng định được vai trò của
mình trong việc thực hiện TGPL, nhất là tham gia tố tụng, một số nơi TGVPL
thực hiện 90 - 95% vụ việc tham gia tố tụng(theo báo cáo hoạt động TGPL
trong tố tụng năm 2013 có một số địa phương đạt tỷ lệ trên như: Lai Châu
(TGVPL thực hiện 128 vụ, chiếm 80,5% tổng số vụ việc tố tụng cho đối
tượng TGPL trên địa bàn); Hải Phòng (TGVPL thực hiện 97 vụ, chiếm 94,2%
thực hiện 120 vụ, chiếm 99,2% tổng số vụ việc tố tụng cho đối tượng TGPL
trên địa bàn)). Tại một số tỉnh miền núi, địa bàn khó khăn, đội ngũ TGVPL
đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng trong
những vụ việc bắt buộc phải có sự tham gia của luật sư theo quy định khoản 2
Điều 57 Bộ luật TTHS (đối với những bị can, bị cáo về tội theo khung hình
tổng số vụ việc tố tụng cho đối tượng TGPL trên địa bàn); Lào Cai (TGVPL
phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự; bị can, bị
chất), khắc phục tình trạng thiếu luật sư trong thời điểm hiện nay [33].
16
cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
Trong gần 04 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 10 (từ năm 2007 đến
hết năm 2011), các Trung tâm trên cả nước đã thực hiện được 34.308 vụ việc
tham gia tố tụng, trong đó, TGVPL thực hiện 3.846 vụ (chiếm 15%) tăng
đáng kể so với giai đoạn trước khi thực hiện Thông tư liên tịch số 10. Số liệu
trong 02 năm thực hiện Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến 2030, từ tháng 6/2012 – 6/2013 cho thấy, trung bình
các Trung tâm TGPL nhà nước trong toàn quốc thực hiện 115.915 vụ
việc/năm (trong đó tham gia tố tụng chiếm 5,8%), vụ việc do TGVPL thực
hiện chiếm 53%, cộng tác viên TGPL đạt 47% (trong đó cộng tác viên là luật
sư thực hiện 10% vụ việc, cộng tác viên khác 37%). Tổng số vụ việc TGPL
do TGVPL thực hiện là 122.566 vụ việc, trong đó số vụ việc tham gia tố tụng
là 4.576 vụ việc (chiếm 3,7% tổng số vụ việc do TGVPL thực hiện).
Tại nhiều tỉnh, thành phố số lượng vụ việc do các cơ quan tố tụng giới
thiệu và đề nghị Trung tâm cử người thực hiện TGPL thực hiện chiếm tỷ lệ
lớn so với số lượng vụ việc do đối tượng tự tìm đến Trung tâm. Các vụ việc
TGPL sau khi hoàn thành đều được Trung tâm tổ chức kiểm tra, đánh giá chất
lượng vụ việc theo Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL. Ngoài
ra, cơ quan tiến hành tố tụng đã tham gia kiểm tra, đánh giá chất lượng tham
gia tố tụng của TGVPL; thường xuyên phản ánh, thông tin cho Trung tâm
TGPL về chất lượng tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL để kịp thời
Nhìn chung, trong những năm vừa qua, việc tham gia của TGVPL trong
quá trình tố tụng đã góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách
quan của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử ban hành những bản án nghiêm
minh, công bằng, dân chủ và đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp cho công dân. Đội ngũ TGVPL đã có nhiều cố gắng trong việc chủ
có giải pháp khắc phục.
động tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ, kỹ năng TGPL. Theo
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị bài bào chữa chu đáo và tranh luận sôi
17
đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiều TGVPL đã đầu tư thời gian,
nổi tại phiên tòa. Bởi vậy, các vụ việc tham gia tố tụng của TGVPL trong thời
gian qua đều đã có sự đầu tư thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra căn cứ
pháp lý trong luận cứ “có tình, có lý”, lập luận chặt chẽ mang tính thuyết
phục, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được bào chữa, đảm bảo
đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Ngoài việc am hiểu kiến thức pháp luật
và sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đội ngũ TGVPL khi thực hiện hoạt
động TGPL cần phải thực sự tận tâm, nhiệt tình với công việc mang đậm tính
chất nhân văn này.
Hai là, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và yêu cầu
cải cách tư pháp
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước có trách nhiệm
quan tâm đến người nghèo, người dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội thông qua việc xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật
và các giải pháp nhằm hỗ trợ, giúp đỡ đối với những đối tượng này. Vì vậy,
người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã
hội có được chính sách pháp luật bình đẳng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ,
giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Từ đó, đặt ra yêu cầu TGPL phải
giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong
xã hội nâng cao năng lực, tự mình tham gia quyết định các công việc chung;
chính Nhà nước phải là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm cho
kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hiệu quả,
18
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thông qua việc xây dựng chế định về vị trí, vai trò của TGVPL trong
TTHS, Nhà nước đã thể hiện trách nhiệm giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong các mối quna hệ xã hội, giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người
nghèo, người dân tộc thiểu số, người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội.
Như vậy, hoạt động TGPL ra đời là một tất yêu khách quan, thể hiện khá
rõ nét chức năng xã hội ở nước ta. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục thực
hiện hoạt động này là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động TGPL thì phải hoàn thiện thể chế, hoàn thiện
pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS.
Bên cạnh đó, qua quá trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động TGPL cũng
sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự. Hơn nữa, góp
phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt
cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính
sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Đồng thời, công cuộc cải
cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp
trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất là của đội ngũ luật sư và các
tổ chức hành nghề luật sư trong việc TGPL cho người nghèo và các đối tượng
chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Ba là, thực trạng về đội ngũ TGVPL
Nhìn chung, trong những năm vừa qua, việc tham gia của TGVPL trong
công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ động, nâng cao ý thức thực hiện
quá trình tố tụng đã góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách
minh, công bằng, dân chủ và đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích
19
quan của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử ban hành những bản án nghiêm
hợp pháp cho công dân. Đội ngũ TGVPL đã có nhiều cố gắng trong việc chủ
động tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ, kỹ năng TGPL.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cho thấy thực trạng số lượng vụ việc tham gia tố
tụng của TGVPL trong thời gian qua còn thấp so với nhu cầu TGPL của người
dân và số lượng án có liên quan đến người được TGPL phải giải quyết hàng năm
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng do Trợ giúp
viên còn chưa cao trong tổng số các vụ việc TGPL do TGVPL thực hiện; Chất
lượng vụ việc TGPL trong tố tụng chưa đồng đều, số lượng vụ việc có chất
lượng cao, giải quyết các vấn đề phức tạp, điển hình còn ít. Ở một số địa
phươngđội ngũ TGVPL đa phần còn trẻ, tuy có năng lực, trình độ song kinh
nghiệm TGPL và thực tiễn hành nghề chưa nhiều, chưa có sự tự tin hoặc bị chi
phối nhiều bởi các công việc hành chính của Trung tâm, do đó, số lượng TGVPL
tuy có tăng nhưng lại thường xuyên biến động do luân chuyển hoặc nghỉ việc,
trong đó có nhiều TGVPL có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiều kinh
nghiệm. Đặc biệt, các địa phương ở miền núi vẫn còn tình trạng thiếu nguồn cán
bộ có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để tạo nguồn TGVPL [33].
Theo thông tin được đưa ra tại Hội thảo góp ý Bộ Công cụ đánh giá nhu
cầu năng lực của đội ngũ TGVPL, hiện nay có tới 45 - 50% dân số của Việt
Nam thuộc đối tượng TGPL. Đến nay, sau hơn 1 năm thực hiện Luật TGPL,
số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác TGPL được nâng lên; số người
TGPL cũng ngày càng nhiều hơn; một số vụ việc nhờ có TGVPL mà sau khi
ra tòa thì đã thay đổi được tội danh khi có cáo trạng của viện kiểm sát, nhiều
vụ việc TGVPL bào chữa đã chuyển được khung hình phạt cho đối tượng
được TGPL, v.v. Tuy nhiên, thực tế việc tiếp cận dịch vụ TGPL của người
dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều hạn
dân, nhất là người dân nghèo, phụ nữ, những đối tượng yếu thế được tiếp cận
chế do một số nguyên nhân như trình độ dân trí thấp, không ít đồng bào ở khu
việc tiếp cận TGPL gặp nhiều khó khăn; phương thức truyền thông về TGPL
20
vực miền núi không biết đọc, nghe, viết tiếng phổ thông nên khi xảy ra sự vụ,
còn có chỗ chưa phù hợp nên người dân chưa biết đến TGPL; trình độ năng
lực, kỹ năng thực hiện TGPL của một số người thực hiện TGPL trong một số
lĩnh vực còn hạn chế, v.v..[25].
Như vậy, thực tế về đội ngũ TGVPL (về số lượng, chất lượng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ .v.v) là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng,
hoàn thiện quy định về vị trí, vai trò của đội ngũ làm công tác TGPL này trong
tố tụng hình sự, góp phần nâng cao, đảm bảo các quyền của TGVPL trong quá
trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
Bốn là, nhu cầu hội nhập quốc tế
Hoạt động TGPL đã được hình thành từ khá lâu ở các nước trên thế giới.
Ở Đan Mạch và Na Uy, hệ thống TGPL được hình thành từ thế kỷ XVII, đến
cuối thế kỷ XIX hình thành ở Pháp, Mỹ, ở Anh năm 1993, Hà Lan năm 1970,
Hàn Quốc năm 1972, Trung Quốc năm 1996. Ở Úc và các nước trong khu
vực như Singapore, Malayxia và một số quốc gia khác, TGPL xuất hiện muộn
hơn vào đầu thế kỷ XX, v,v. Nhiều nước trên thế giới coi TGPL là một trong
các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người. Hiến pháp nhiều nước quy định quyền được TGPL trong tư pháp hình
sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công
lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình
sự. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
Xuất phát từ việc hội nhập thế giới mang tính toàn diện, chế định TGPL
nói chung và việc hoàn thiện chế định về vị trí, vai trò của TGVPL nói riêng
là rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho người nghèo và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội, bắt kịp được chính sách của các nước tiên tiến trên thế giới.
Năm là, bảo đảm, bảo vệ quyền con người
mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật.
Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người,
quyền đó, hạn chế giàu nghèo. Nhà nước phải thể hiện vai trò của mình trong
21
đặt ra yêu cầu Nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm thực thi trên thực tế các
bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người
nghèo và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình đẳng
với các chủ thể khác trong tham gia đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước phải
có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhóm người này,
đồng thời kiểm soát được chất lượng các dịch vụ này bảo đảm công bằng, bình
đẳng với các đối tượng khác trong xã hội. Do vậy, chế định về TGPL cũng như
các quy định về vị trí, vai trò của TGVPL được hình thành và phát triển nhằm
góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức, bất công, tôn trọng
nhân quyền. Giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, khơi dậy và phát
huy tiềm năng con người, coi con người là động lực vừa là mục tiêu của sự phát
triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Vị trí, vai trò của TGVPL được thể hiện thông qua việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Cụ thể như sau:
TGVPL tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị cáo buộc phạm tội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác.
Trong quá trình TTHS, TGVPL là đảm bảo cho người TGPL được tiếp
cận, sử dụng pháp luật miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật;
góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, giải quyết các vướng mắc,
hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của TGVPL tương tự như quyền và nghĩa vụ của luật
sư khi khi tham gia tố tụng hình sự.
Để thực hiện chức năng TGPL của mình, TGVPL được Nhà nước trao
cho các quyền hạn nhằm đảm bảo cho việc TGPL được thực hiện hiệu quả,
tranh chấp pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa,
một số quyền hạn như: Được bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe
tục thực hiện TGPL trong các trường hợp quy định; Được bồi dưỡng, tập
22
dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc can thiệp trái pháp luật; Từ chối hoặc không tiếp
huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ TGPL; Bảo đảm chất lượng vụ việc
TGPL; Tuân thủ nguyên tắc hoạt động TGPL; Nghiêm chỉnh chấp hành nội
quy nơi thực hiện TGPL; Bồi thường hoặc hoàn trả một khoản tiền cho tổ
chức thực hiện TGPL đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi
thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật.
Khi tham gia giải quyết vụ án hình sự nói riêng và trong TTHS nói chung,
TGVPL có tư cách tham gia là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự trong vụ án hình sự; người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự trong vụ việc dân sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án hành chính, người thực hiện TGPL phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật về TGPL”. Tuy
nhiên, không phải mọi trường hợp, TGVPL đều phải tham gia tố tụng, nhằm đảm
bảo tính khách quan, công bằng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, pháp luật
quy định một số trường hợp TGVPL phải từ chối tham gia tố tụng như: Đã là
người tiến hành tố tụng trong vụ án đó;Là người thân thích của người đã hoặc
đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;Đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người
đại diện hợp pháp, người thân thích của người đó hoặc của bị can, bị cáo; Đã tham
gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
TGPL theo phân công của Giám đốc Trung tâm, của Trưởng Chi nhánh. TGVPL
chịu trách nhiệm trước Giám đốc Trung tâm và trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong trường hợp làm việc tại Chi nhánh của
Trung tâm thì còn phải chịu trách nhiệm trước Trưởng Chi nhánh.
Ngoài ra,trong trường hợp TGVPL thực hiện TGPL mà gây thiệt hại thì
Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ nêu trên, TGVPL có trách nhiệm thực hiện
Trung tâm nơi người đó công tác phải có trách nhiệm bồi thường. TGVPL đã
luật về cán bộ, công chức.
23
gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Trung tâm theo quy định của pháp
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của TGVPL trong
TTHS, tác giả đã làm rõ khái niệm về TGVPL. Trên cơ sở nghiên cứu một số
khái niệm về TGVPL và thực tiễn thực hiện, tác giả đã đưa quan điểm riêng
của mình về khái niệm TGVPL, cụ thể “Trợ giúp viên pháp lý là người thực
hiện các công việc pháp lý nhằm giúp đỡ, hỗ trợ về mặt pháp lý cho người
được TGPL nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được
TGPL, góp phần đảm bảo công bằng xã hội”.
Tại Chương này, tác giả đã nêu và phân tích về vị trí, vai trò của
TGVPL trong TTHS, phân tích về cơ sở, ý nghĩa quy định về vị trí, vai trò
và các quyền và nghĩa vụ của TGVPL trong TTHS để bạn đọc có thể hiểu
một cách rõ ràng nhất về TGPL nói chung và vị trí, vai trò của TGVPL nói
riêng trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự. Chẳng hạn như, vai
trò của TGVPL trong việc đảm bảo quyền con người; giải quyết vụ án khách
quan, công bằng; thực hiện chức năng của nhà nước, góp phần tích cực thực
hiện cải cách tư pháp.
Những vấn đề lý luận được trình bày tại Chương 1 là cơ sở để tác giả
24
phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động của TGVPL tại tỉnh Lai Châu.
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Pháp luật về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự
Trợ giúp viên pháp lý có trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định, nhằm giúp họ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng
xã hội; phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Qua các thời
kỳ, vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS dần thay đổi và hoàn thiện hơn
trong TTHS nói chung.
nhằm nâng cao vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động tố tụng nói riêng và
Các quy định pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL được hoàn thiện đã
tạo nên khuôn khổ pháp lý cần thiết và quan trọng đối với người thực hiện
hoạt động TGPL trong TTHS. Ngoài việc tuân thủ theo những quy định của
pháp luật về TGPL nói chung thì TGVPL trong TTHS còn tuân thủ theo quy
phạm pháp luật riêng mà Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Việc tìm hiểu các quy định về TGVPL trong TTHS giúp chúng ta có thể hiểu
rõ hơn về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS để có thể tuyên truyền, áp
dụng trong thực tiễn, từ đó giúp người đọc có thể đánh giá, nhận xét, đưa ra
kiến nghị, đề xuất, góp phần hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL
trong TTHS.
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước 2015
Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (2/9/2915), Nhà
nước ta đã chú trọng đến việc xây dựng hệ thống pháp luật để nhằm quản lý,
duy trì trật tự xã hội, bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ. Cùng với việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta đã có những chính
“hũ gạo tiết kiệm”. Bên cạnh đó, các thể chế pháp luật “mang tính TGPL” đã
25
sách thể hiện sự quan tâm đối với các tầng lớp người nghèo, như phong trào
mặc nhiên được thực hiện. Qua tìm hiểu, nghiên cứu cho thấy đến trước năm
1986, ở nước ta chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào ghi nhận chế
định pháp luật về TGPL cũng như TGVPL trong TTHS.
Trong giai đoạn từ 1986 – 1996, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Pháp
lệnh tổ chứcluật sư năm 1987 và Nghị định số 15-HĐBT ngày 21/2/1989 về
Quy chế Đoàn luật sư đã xác định một số vụ việc luật sư giúp đỡ cho đối
tượng mà không được thu phí, gồm: Một là, nguyên đơn ở Tòa án các cấp
trong các vụ việc: về đòi tiền cấp dưỡng nuôi con; về đòi bồi thường thiệt hại
do tai nạn lao động; về bồi thường thiệt hại do tai nạn làm chết người trụ cột
của gia đình; Khiếu nại về việc bầu cử Hội đồng Nhân dân theo quy định của
hoặc loại 2/4); Ba là, Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp khi nhờ Luật sư giải
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Hai là, thương binh nặng (loại 1/4
thích pháp luật để giải thích, hướng dẫn cho cử tri; Bốn là, thành viên của các
tổ chức hòa giải khi nhờ Luật sư giải thích pháp luật về những vấn đề có liên
quan đến hoạt động xã hội của họ. Ngoài các trường hợp trên, Ban Chủ nhiệm
Đoàn Luật sư có thể xét miễn hoặc giảm thù lao cho những công dân có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn hoặc các trường hợp đặc biệt khác khi có đơn đề nghị
của đương sự [29].Ngoài ra, hoạt động giúp đỡ pháp lý, trong đó có việc giúp
đỡ pháp luật miễn phí còn được đề cập tại Thông tư 1119/QLTPPL năm 1987
và Công văn số 870 năm 1989 [23]. Các văn bản này đã đề cập đến dịch vụ
pháp lý và cho phép các Hội Luật gia và các Đoàn Luật sư được mở Văn
một số vụ việc người thực hiện giúp đỡ cho đối tượng mà không thu phí.
Tại thời điểm này, Bộ luật TTHS 2003 ra đời chưa có quy định về
TGPL, vị trí, vai trò của TGVPL mà chỉ quy định người bào chữa có thể là:
luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân. Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích
phòng tư vấn pháp luật nhằm giúp đỡ pháp luật cho các đối tượng, trong đó có
làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh
can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết [20].
26
về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị
Như vậy, Bộ luật TTHS 2003 chưa ghi nhận tư cách cũng như quyền
hạn, trách nhiệm bào chữa và quyền hạn, trách nhiệm khi bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người tham gia tố tụng khác của TGVPL. Do vậy, chưa tạo
sự thống nhất trong quá trình thực hiện về hoạt động TGPL trong TTHS;chưa
tạo cơ chế hữu hiệu để đảm bảo quyền được TGPL của người thuộc đối
tượngTGPL, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền bào chữa được Hiến
pháp ghi nhận.
Mặc dù vậy, các hoạt động mang tính TGPL do các Luật sư, Bào chữa viên
thực hiện bào chữa cho bị cáo trong các vụ án hình sự theo chỉ định của Tòa án.
Cụ thể đã có những những hoạt động gắn với hoạt động của Tòa án, Luật sư,
Bào chữa viên nhân dân, do đội ngũ Luật sư, Bào chữa viên nhân dân và một số
đối tượng khác thực hiện việc giúp đỡ pháp lý miễn phí cho nhân dân.
Do chưa có một hệ thống văn bản quy định điều chỉnh về về vị trí, vai
trò của TGVPL trong TTHS trong giai đoạn này, cho nên hoạt động TGPL
của TGVPLhay của những người thực hiện trợ giúp, hỗ trợ pháp lýtrong Hội
Luật gia, các Đoàn Luật sư chưa phải là hoạt động TGPL chính chức. Vì vậy,
phải khẳng định rằng, giai đoạn này, vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS
chưa thực sự được Nhà nước quan tâm đúng mức, những người làm công tác
thực hiện TGPLchưa có cơ sở pháp lý, chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện
trong thực tế. Hoạt động TGPL của cơ quan nhà nước chỉ mang tính trợ giúp
nhân đạo.
Giai đoạn từ 1997 đến trước năm 2015: Tiếp tục thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII, chế định về TGPL đã nhận được sự quan
tâm, lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, đầu tư của Nhà nước, sự tham gia và ủng
để phục vụ nhiệm vụ chính trị - xã hội hoặc mang tính tự nguyện, từ thiện và
hộ của xã hội. Năm 1997, theo Quyết định số 734/TTgngày 06/9/1997, Cục
được Thủ tướng Chính phủ thành lập.
27
TGPL thuộc Bộ Tư pháp và 63 Trung tâm TGPL nhà nước thuộc Sở Tư pháp
Như vậy, theo Quyết định 734/TTg nêu trên, các tổ chức TGPL thuộc Bộ
Tư pháp và các Trung tâm TGPL thuộc Sở Tư pháp đồng thời quy định rõ vị
trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức TGPL. Cụ thể
hóa Điều 6 Quyết định 734/TTg, ngày 14/01/1998 Liên Bộ Tư pháp, Tài
chính, Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ); Lao động thương binh
xã hội đã phối hợp ban hành Thông tư liên tích số 52/TTLT/TP-TC-TTCP-
LĐTBXH hướng dẫn thi hành Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách. Điều đáng chú ý là Thông tư đã quy định cụ thể các chức danh quản lý
trong các tổ chức TGPL của Nhà nước và người thực hiện TGPL.
nước, đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng tăng của nhân dân, ngày 3/6/1998 Bộ
Nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ cộng tác viên rộng khắp trong cả
trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế cộng tác viên của tổ chức TGPL kèm
theo Quyết định số 459/1998/QĐ- Bộ Tư pháp (được sửa đổi, bổ sung theo
Quyết định số 358/2003/QĐ-BTP ngày 15/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp). Quy chế gồm 3 Chương, 12 Điều được xây dựng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người nghèo, đối tượng chính sách và góp phần phổ
biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng này. Tại điều 1 của Quy chế nêu rõ
cộng tác viên của Cục TGPL và trung tâm TGPL của Nhà nước tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là tổ chức TGPL) là người
được tổ chức TGPL công nhận, ký hợp đồng cộng tác theo quy định tại Quy
tư pháp, tổ chức pháp chế ngành và các ban, ngành hữu quan; luật sư, luật gia
công tác tại các tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật; cán bộ pháp lý nghỉ hưu,
sinh viên luật tình nguyện làm cộng tác viên cho tổ chức TGPL được hoan
ngênh, động viên và tạo điều kiện thuận lợi tham gia làm cộng tác viên.Các
tiêu chuẩn công tác viên, thủ tục công nhận và cấp thẻ, quyền và nghĩa vụ của
chế này. Bên cạnh đó, các chuyên viên chuyên viên pháp lý của các cơ quan
công tác viên, hình thức công tác viên được quy định cụ thể tại Chương 2 của
công tác viên TGPL thực hiện, áp dụng trong quá trình thực hiện TGPL.
28
Quy chế này, góp phần làm cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước cũng như
Trong thời gian này, thông qua hoạt động TGPL, nhận thức của các cơ
quan, tổ chức và người dân về mục tiêu, vị trí, vai trò, ý nghĩa của pháp luật
càng ngày được nâng lên. Mọi vấn đề, vụ việc có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của công dân phải được giải quyết trên cơ sở pháp luật và theo quy
định của pháp luật. TGPLcũng như người thực hiện TGPL đã trở thành địa
chỉ tin cậy để người dân tìm đến, tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi có vướng mắc hoặc muốn tìm hiểu về pháp
luật; là chỗ dựa về mặt pháp lý cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên
quan khi giải quyết vụ việc của công dân. TGPL đã và đang có tác động tích
cực đến chất lượng thực thi công vụ, hoàn thiện hệ thống pháp luật, áp dụng
pháp luật, góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành
chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân [21].
Năm 2006, Luật TGPL năm 2006 ra đời đã đặt bước tiến lịch sử trong
hoạt động lập pháp trong lĩnh vực TGPL cũng như ghi nhận vị trí, vai trò của
TGVPL trong TTHS. Sự ra đời của Đạo luật này đã thể hiện nhất quán chính
sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp
lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là đối tượng yếu
thế trong xã hội. Đó là mốc son rực rỡ đánh dấu bước chuyển về chất, đưa
công tác TGPL lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực
gia vào hoạt động TTHS để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL tại Luật
TGPL năm 2006 chính là tiền đề, cơ sở, căn cứ để TGVPL khẳng định được
vị trí, vai trò của mình trong quá trình thực hiện TGPL, góp phần đảo bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
tiễn đất nước và xu thế thời đại. Việc đưa quy định cụ thể về TGVPL tham
Tại Khoản 1 Điều 29, luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định TGVPL
can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại,
29
tham gia TTHS để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hình sự. Như vậy, điều này khẳng định TGVPL đã được ghi nhận với
vai trò, vị trí là người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đối
tượng được TGPL trong vụ án hình sự.
Để TGVPL có cơ sở thực hiện các chức năng của mình nêu trên, Nhà
nước đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-
BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy
định về TGPL trong hoạt hoạt động tố tụng. Theo đó, trong hoạt động tố tụng,
TGVPL có trách nhiệm:
a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý
khi tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật về TGPL;
b) Khi tham gia tố tụng, TGVPL và Luật sư cộng tác viên có các quyền
và nghĩa vụ như của người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền
lợi hợp pháp theo quy định của pháp luật tố tụng;
c) TGVPL, Luật sư cộng tác viên phải từ chối tham gia tố tụng trong các
trường hợp: nếu thuộc một trong các trường hợp đã tiến hành tố tụng trong vụ
án đó; là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ
án đó; đã tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám
định hoặc người phiên dịch hoặc thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 45 Luật TGPL;
phát hiện người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật hoặc gây
phiền hà, cản trở họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng thì có quyền khiếu
nại theo quy định của pháp luật tố tụng và đồng thời báo cáo về Trung tâm,
Chi nhánh.
Như vậy, trong giai đoạn này, vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS đã
được Luật TGPL 2006 ghi nhận ngang bằng với Luật sư cộng tác viên, cũng
d) Trong quá trình tham gia tố tụng, TGVPL, Luật sư cộng tác viên nếu
quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL trong quá trình tham gia
30
là căn cứ để TGVPL thực hiện chức năng bào chữa và chức năng bảo vệ
TTHS để bào chữa cho người được trợ giúp pháp thuộc các đối tượng: người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hình sự. Đặc biệt, quyền khiếu nại của TGVPL đã được ghi nhận tương
đương với Luật sư công tác viên đã đánh dấu một trong những điểm nhấn cho
việc hoàn thiện thể chế về vị trí, vai trò của TGVPL sau này.
Tuy nhiên, về vị trí pháp lý của TGVPL trong Bộ luật TTHS 2003 chưa
quy định, ghi nhận TGVPL với tư cách là người bào chữa. Theo đó, Bộ luật
TTHS 2003 quy định “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào
chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Bộ luật TTHS 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ xác định TGVPL
Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình (Khoản 1 Điều 59). Có thể thấy,
là một trong những người tham gia tố tụng bên cạnh luật sư và những người
khác theo quy định của pháp luật TTHS. Nếu có sự vi phạm trong việc đảm
bảo cho TGVPL thực hiện các quyền của mình trong khi tham gia tố tụng đều
là sự vi phạm về tố tụng.
Bên cạnh việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật TGPL, TGVPL có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giống như
những người tham gia tố tụng khác với tư cách là người bào chữa, hay người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định khi tham gia
TTHS. Chẳng hạn như quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ,
bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa; Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; Thu thập tài
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can,
khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ,
bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhà nước, bí mật công tác, v.v.
31
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật
Hơn nữa, theo quy định tại Khoản 2, Điều 45, Luật TGPL 2006, TGVPL
phải từ chối hoặc không được tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Đã hoặc đang thực hiện TGPL cho người được TGPL là một bên có
quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ việc, trừ trường hợp hoà giải, giải
đáp pháp luật;
b) Có quyền, lợi ích hợp pháp hoặc có người thân thích liên quan đến vụ
việc TGPL;
c) Người thực hiện TGPL đã từng là người giải quyết vụ việc đó;
d) Có căn cứ khác cho rằng người thực hiện TGPL có thể không khách
quan trong thực hiện TGPL.
Trong trường hợpTGVPL phải từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện
TGPL, tổ chức thực hiện TGPL cử người khác thực hiện TGPL hoặc TGVPL
hướng dẫn, giới thiệu người được TGPL đến người thực hiện TGPL khác để
được TGPL. Ngoài ra, trong trường hợp từ chối hoặc không tiếp tục từ chối
thực hiện TGPL, TGVPL phải thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người
được TGPL.
Khi tham gia tố tụng hình sự, TGVPL có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự theo
quy định tại Điều 58, Điều 59 của Bộ Luật TTHS 2003. Cụ thể:
bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào
chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ
bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện
kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều
tra.TGVPL có quyền và nghĩa vụ sau đây:
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và
những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự
32
nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong
tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình
bào chữa;
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung
bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này;
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
- Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Khi tham gia với tư cách người bào chữa, TGVPL có các quyền và nghĩa
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những
tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra,
vụ sau:
Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào
Điều 95 của Bộ luật TTHS 2003;
33
chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà
mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc
xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện
việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ
của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
TGVPL làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
- Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên
nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp
nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.
khởi tố bị can.
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra theo quy
định của pháp luật; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi
tiến hành tố tụng.
34
tòa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định.
Đối với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ
quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo
phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
người mà mình bảo vệ.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện
pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; Giúp đương
Theo quy định của pháp luật, TGVPL tham gia tố tụng hình sự theo giấy
sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
chứng nhận tham gia TTHS do cơ quan tiến hành tố tụng cấp. TGVPL tham
gia tố tụng từ giai đoạn nào thì giấy chứng nhận tham gia tố tụng do cơ quan
tiến hành tố tụng của giai đoạn đó cấp và có hiệu lực từ khi cấp cho đến khi
kết thúc vụ án, kể cả trường hợp vụ án cần điều tra bổ sung, trừ trường hợp
giấy chứng nhận tham gia tố tụng bị thu hồi.
Theo Điều 58 Bộ luật TTHS 2003 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều
82 của Bộ luật TTHS 2003 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ. Như vậy, TGVPL được tham gia TTHS từ khi khởi tố bị
tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì TGVPLđược tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ.
Để hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò của TGVPL quyền hạn trong TTHS, tác
giảphân tích, đánh giá về quyền hạn, trách nhiệm của TGVPL trong quá trình
bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng khác:
can. Trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc bắt người phạm
- Hoạt động của TGVPL trong giai đoạn điều tra, truy tố:
thời gian, địa điểm xét hỏi bị can, bị cáo hoặc người bị tạm giữ cho TGVPL
35
Trong giai đoạn này, TGVPL được cơ quan tiến hành tố tụng thông báo
tham dự, có mặt để lấy lời khai của người bị tạm giữ. Khi hỏi cung bị can, nếu
điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong
những hoạt động điều tra khác.
TGVPL được nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn này, gặp người bị
tạm giữ; gặp bị can, bị cáo (cả trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm
giam) để tìm hiểu, bổ sung, xác nhận thêm các tình tiết liên quan đến vụ án;
tiến hành thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết khác liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo
quy định.
Ở giai đoạn này, TGVPL có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ
án như quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng đảm bảo các quyền của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
- Hoạt động của TGVPL trong giai đoạn xét xử
TGVPL được Tòa án thông báo lịch xét xử bằng văn bản ít nhất 10 ngày
trước ngày xét xử. Đối với vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, Tòa án thông
báo lịch xét xử cho TGVPL bằng văn bản ít nhất 7 ngày trước ngày xét xử.
TGVPL phải tham gia phiên tòa, nếu người bào chữa vằng mặt Tòa án
chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS 2003 mà người
bào chữa là TGVPL vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
Như vậy có thể thấy, TGVPL có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc
tham gia phiên tòa. Việc không tham dự phiên Tòa có thể dẫn đến việc
hoãn phiên tòa theo quy định.
Tại phần xét hỏi, TGVPL có quyền trình bày những nhận xét của mình
vẫn mở phiên tòa xét xử. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào
thấy cần thiết phải xem xét tại chỗ địa điểm liên quan đến vụ án. TGVPL
36
về vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên tòa. Khi Hội đồng xét xử xét
được cùng đến xem xét nơi đó; có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi
đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Khi Hội
đồng xét xử hỏi người giám định, TGVPL có quyền nhận xét về kết luận giám
định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận
giám định.
Khi kết thúc phần xét hỏi, ngoài việc hỏi kiểm sát viên, bị cáo xem họ có
yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không thì Chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi
TGVPL xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu có yêu cầu và
xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc
xét hỏi. Hơn nữa, TGVPL có quyền trình bày ý kiến về luận tội của kiểm sát
viên và đưa ra đề nghị của mình; kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của
mình đối với từng ý kiến. Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên
quan đến vụ án của TGVPL mà những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên
tranh luận theo đề nghị của Chủ tọa phiên tòa.
- Hoạt động của TGVPL trong giai đoạn phúc thẩm
TGVPL có quyền thay mặt cho người được trợ giúp pháp lý kháng cáo
theo quy định pháp luật TTHS trong các trường hợp sau: i) Để bảo vệ lợi ích
của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất mà mình đã bào chữa; ii) Có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định
của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người chưa thành niên
Tại phiên tòa phúc thẩm, trường hợp TGVPL bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự hoặc thực hiện kháng cáo vắng mặt thì phải hoãn
phiên tòa (trừ trường hợp có lý do chính đáng).
Trước khi xét xử phúc thẩm hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, TGVPL
có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật liên quan đến việc xét xử; được tham gia xét
hoặc người có nhược điểm về thâm thần hoặc thể chất mà mình bảo vệ.
tham gia tranh luận làm sáng tỏ vụ án.
37
hỏi, trình bày luận chứng bào chữa, ý kiến bảo vệ quyền lợi cho đương sự;
Ngày 04/7/2013, Hội đồng phối hợp liên ngành đã ban hành Thông tư
liên tịch số 11/2013/TTL-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về TGPL trong hoạt động
tố tụng thay thế Thông tư liên tịch số 10 nêu trên. Theo đó, Thông tư liên tịch
số 11 đã quy định trách nhiệm của TGVPL khi tham gia TTHS với tư cách là
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự,
người thực hiện TGPL phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình
theo quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật về TGPL.
2.1.2. Giai đoạn từ 2015 đến nay
Luật TGPL năm 2017 ra đời, đánh dấu mốc quan trọng về vị trí, vai trò
của TGVPL nói chung và trong TTHS nói riêng. Theo đó,các quyền hạn,
trách nhiệm của TGVPL trong quá trình tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người được TGPL đã thay đổi theo hướng tích cực, dần nâng cao vị
trí, vai trò trên thực tiễn. Cụ thể:
Ngày 27/11/2015, Bộ luật TTHS (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 10 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016. Chế định
về TGPL nói chung và TGVPL nói riêng là một trong những điểm mới trong
Bộ luật TTHS năm 2015 so với Bộ luật TTHS năm 2003. Theo đó, Bộ Luật
TTHS 2015 có một số thay đổi liên quan về chế định TGVPL như sau:
Thứ nhất, bổ sung tư cách của TGVPL là một trong những người tham
đương sự trong vụ án hình sự ngang bằng với luật sư, bào chữa viên nhân
dân,..., theo đó Bộ luật TTHS ghi nhận TGVPL là người bào chữa (điểm d
khoản 2 Điều 72). TGVPL tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những
tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt
gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại,
pháp lý cần thiết. Theo đó, với tư cách là người bào chữa, TGVPL có đầy đủ
chữa như: Gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị
38
các quyền hạn của người bào chữa trong quá trình thực hiện chức năng bào
bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy
lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người
bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Có mặt trong hoạt
động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo
quy định của Bộ luật này; Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo
trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến
hành hoạt động điều tra khác theo quy định; Xem biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa; Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Đề nghị
tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập
người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra,
đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám
định lại, định giá lại tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ
sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra; Tham gia hỏi,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất theo quy định.
Bên cạnh các quyền hạn trong quá trình tố tụng nêu trên, TGVPL còn có
các nghĩa vụ giống các nghĩa vụ của người bào chữa, chẳng hạn như: Sử dụng
tranh luận tại phiên tòa;Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
can, bị cáo; Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
39
người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
ích hợp pháp của họ;Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà
mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không
phải do trở ngại khách quan;Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng
ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;Có
mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo
quy định; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào
chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án
vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Không được tiết lộ thông tin về
vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người
này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Có thể thấy, với việc bổ sung tư cách là người bào chữa của TGVPL
trong TTHS, bên cạnh việc được giao nhiều quyền hạn trong quá trình thực
hiện TGPL thì những nghĩa vụ và trách nhiệm cũng tăng lên. Điều đó phản
ánh vị trí, vai trò của TGVPL đã ngày được quan tâm, chú trọng trong giai
đoạn này bằng việc trao cho TGVPL những quyền hạn, trách nhiệm và kèm
theo những nghĩa vụ khi thực hiện chức năng bào chữa của mình.
Thứ hai, TGVPL là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
ngang hàng với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác,
bị kiến nghị khởi tố góp phần nâng cao quyền hạn, nghĩa vụ của TGVPL
trong TTHS. Theo đó, trong quá trình thực hiện chức năng của mình, TGVPL
có các quyền: Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;Kiểm tra, đánh giá và
trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
tố giác, bị kiến nghị khởi tố (điểm d khoản 2 Điều 83). Việc ghi nhận TGVPL
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Có mặt khi lấy lời khai
Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
40
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc
tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Có mặt khi đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Bên cạnh đó, TGVPL cũng có các nghĩa vụ như người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, như: Sử
dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách
quan của vụ án;Giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ ba, TGVPL là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự (điểm d khoản 2 Điều 84). Điều này khẳng định, trong quá trình tố
tụng, TGVPL có vị trí, vai trò như người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự. Theo đó TGVPL cũng có đầy đủ các quyền hạn, nghĩa vụ
giống như người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, cụ thể:
TGVPL có các quyền hạn: Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu
cầu;Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Yêu cầu giám định, định giá tài sản; Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến
mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều
tra;Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa; Khiếu nại
quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Kháng cáo
41
phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
Bên cạnh các quyền hạn nêu trên, TGVPL có các nghĩa vụ: Sử dụng các
biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ
án;Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Hơn nữa, pháp luật TTHS 2015 còn bổ sung trách nhiệm cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo, giải thích quyền được TGPL. Bộ
luật TTHS quy định trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện
quyền được TGPL: trong trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc
diện được TGPL thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm giải thích cho họ quyền được TGPL; nếu họ đề nghị được TGPL thì cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm TGPL
nhà nước. Việc thông báo, giải thích phải được ghi vào biên bản (Điều 71 của
Bộ luật); Bổ sung cơ chế bảo đảm quyền được TGPL trong trường hợp chỉ
định người bào chữa; Bộ luật TTHS cũng chia sẻ trách nhiệm thực hiện bào
chữa theo án chỉ định cho Trung tâm TGPL nhà nước. Theo đó, đối với người
thuộc diện được TGPL là: bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người
bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có
người bào chữa cho họ theo chỉ định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng (Điều 76 của Bộ luật).Để thực hiện quyền bào chữa của mình, TGVPL
cần xuất trình văn bản cử người thực hiện TGPL của Trung tâm TGPL và Thẻ
TGVPL kèm theo bản sao có chứng thực theo quy định[17].
Trường hợp TGVPL cần gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
nhược điểm về tâm thần hoặc là người chưa thành niên thì Trung tâm phải cử
cáo đang bị tạm giam để thu thập, trao đổi, nắm bắt thêm thông tin liên quan
TGVPL hoặc chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Ngoài ra,
42
đến vụ án, TGVPL phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ
khi gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam,
TGVPL cần chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ.
Trường hợp người bào chữa vi phạm quy định về việc gặp, cơ quan quản lý
người bị bắt, người tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam có thể dừng ngay
việc gặp và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật.
Bên cạnh đó, tại Điều 77 của Bộ luật đã ghi nhận việc từ chối người bào
chữa như sau: trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn
điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì
Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối.Điều 73 Bộ luật TTHS 2015 cho phép
người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; thu thập,
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý
kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (các điểm đ, h, i khoản 1). Tuy nhiên, luật
cũng quy định “những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ
tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng
làm căn cứ để giải quyết vụ án” (khoản 2 Điều 87).
Như vậy, để khắc phục những hạn chế của Bộ luật TTHS 2003, Bộ luật
TGVPL trong quá trình tố tụng, đảm bảo quyền được TGPL của người dân.
Việc ghi nhận vị trí, vai trò của TGVPL ngang với người bào chữa, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự đồng nghĩa
với việc trao các quyền hạn kèm theo cac nghĩa vụ và trách nhiệm của những
TTHS năm 2015 đã ghi nhận, bổ sung những quy định mới nêu trên về
người trên cho TGVPL trong quá trình thực hiện các chức năng TGPL của
ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
43
mình. Điều này góp phần bảo đảm quyền được TGPL được các luật về tố tụng
Bên cạnh các quy định cụ thể trong việc bổ sung tư cách của TGVPL
trong bộ luật TTHS 2015 nêu trên, trong giai đoạn này, Nhà nước cũng đã ban
hành một số văn bản nhằm bổ sung những quy định mới cho phù hợp với Bộ
luật TTHS 2015 và tình hình thực tiễn như: Thông tư liên tịch số
10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018
của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy
định của pháp luật về TGPL trong hoạt động tố tụng đã góp phần bảo đảm
tính minh bạch, khách quan khi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thể hiện
nguyện vọng đồng ý hoặc từ chối người bào chữa (trước đây chưa được quy
định).Thông tư mới ban hành đã bổ sung nhiều nội dung quan trọng nhằm
đảm bảo quyền của người được TGPL trong TTHS, chẳng hạn như:
- Tại Điều 7,Thông tư liên tịch số 10/2018 quy định về giải thích, thông
báo, thông tin về TGPL. Cụ thể:
+ Nội dung quy định về việc giải thích quyền được TGPL
Tại thời điểm bắt, tạm giữ người, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời
khai của người bị hại, lấy lời khai của đương sự, đương sự nộp đơn trực tiếp
tại Tòa án hoặc tại thời điểm gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo thụ lý đơn
yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
chuyển cho họ đọc Bản thông tin về người được TGPL theo quy định. Trường
có trách nhiệm thông báo cho họ biết.
Trường hợp họ tự nhận mình là người được TGPL thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích về quyền được TGPL
theo quy định của pháp luật về TGPL và pháp luật về tố tụng. Việc giải thích
được thực hiện kịp thời, đầy đủ, bằng ngôn ngữ dễ hiểu để họ hiểu rõ về
hợp họ không tự đọc được thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
quyền được TGPL miễn phí;
nhiệm đọc, hướng dẫn cụ thể nội dung và điền thông tin vào Biên bản giải
44
Trong TTHS, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
thích về quyền được TGPL miễn phí của người bị buộc tội, người bị hại,
đương sự thuộc diện được TGPL theo quy định. Biên bản giải thích được lưu
tại hồ sơ vụ án;
Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, người tiến hành tố tụng giải
thích cho đương sự về quyền được TGPL;
Việc khiếu nại liên quan đến giải thích quyền được TGPL được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng.
+ Nội dung quy định về việcthông báo, thông tin về TGPL
Trong TTHS, việc thông báo, thông tin về TGPL được thực hiện như sau:
Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là
người được TGPL theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này và có yêu cầu
TGPL thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông
báo cho Trung tâm, Chi nhánh để thực hiện các quy định tại khoản 4 Điều 3
của Thông tư liên tịch này. Việc thông báo được thực hiện theo quy định.
Đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, ngoài việc thông báo bằng văn
bản thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo ngay bằng
điện thoại cho Trung tâm, Chi nhánh.
Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là
người được TGPL và chưa có yêu cầu TGPL thì cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông tin cho Trung tâm, Chi nhánh
Việc thông tin được thực hiện theo quy định.
Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, việc thông báo, thông tin về
TGPL được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, trừ trường
hợp việc thông báo về TGPL không phải ghi vào biên bản tố tụng.
+ Trong trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội thuộc
biết để thực hiện các quy định tại khoản 4 Điều 3 của Thông tư liên tịch này.
diện được TGPL theo quy định của Bộ luật TTHS, nếu người bị buộc tội,
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị Trung tâm, Chi nhánh cử ngay
45
người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ
người thực hiện TGPL bào chữa cho họ. Việc đề nghị được thực hiện bằng
văn bản thông báo theo quy định. Đây là điểm mới của Thông tư liên tịch số
10/2018 so với Thông tư liên tịch số 11/2013 trước đây, ghi nhận vị trí của
TGVPL trong việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội là người
thuộc diện được TGPL. Điều này, thể hiện quan điểm rõ ràng của Đảng và
Nhà nước nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng
yếu thế trong xã hội.
Ngoài ra, Quy chế phối hợp năm 2018 có quy định về kinh phí phối hợp
thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng. Quy chế quy định cụ thể về kinh phí
phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng. Theo đó, kinh phí phối hợp
thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng bao gồm:
- Kinh phí sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá, sao chụp tài liệu phối hợp
về TGPL trong hoạt động tố tụng ở Trung ương và địa phương;
- Kinh phí đặt Bảng thông tin, Tờ thông tin về TGPL, Hộp tin TGPL, tờ
gấp pháp luật và các tài liệu khác có liên quan; cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi
âm hoặc USB có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh (MP3,
WMA hoặc WMV);
- Kinh phí in ấn Sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng và
các mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này;
- Kinh phí tổ chức tập huấn cho thành viên Hội đồng phối hợp liên
hiện TGPL; người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Kinh phí chi khen thưởng cho thành viên Hội đồng phối hợp liên ngành
Trung ương, địa phương và thành viên Tổ giúp việc cho Hội đồng thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng;
- Kinh phí bồi dưỡng cho thành viên Hội đồng phối hợp liên ngành ở
ngành Trung ương, địa phương và Tổ giúp việc cho Hội đồng; người thực
Trung ương, địa phương và Tổ giúp việc cho Hội đồng theo quy định tại
46
khoản 3 Điều này;
- Kinh phí chi cho các hoạt động khác để tăng cường hiệu quả phối hợp
TGPL trong hoạt động tố tụng.
- Thành viên Hội đồng phối hợp liên ngành ở Trung ương, địa phương
và thành viên Tổ giúp việc cho Hội đồng được hưởng bồi dưỡng là 0,3 mức
lương cơ sở/người/tháng.
Bên cạnh đó, Quy chế phối hợp đã quy định cụ thể về trách nhiệm lập dự
toán kinh phí theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước của Cơ quan
thường trực Hội đồng phối hợp liên ngành Trung ương và địa phương, Bộ Tư
pháp (Cục trợ giúp pháp lý) và các cơ quan khác.
Có thể thấy, đây là quy định rất quan trọng, kịp thời nhằm khắc phục
Quy chế trước đây, nhằm đảm bảo điều kiện, chế độ hoạt động cho TGVPL
thực hiện nhiệm vụ TGPL của mình, góp phần khuyến khích, động viên
TGVPL thực hiện nhiệm vụ và là cơ sở để các bộ phận liên quan làm căn cứ
chi trả thù lao thực hiện vụ việc TGPL và trong phối hợp thực hiện hoạt động
tố tụng.
- Điều 8, Điều 9, Thông tư liên tịch 10/2018 đã quy định về trách nhiệm
giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp theo nội dung quy định nêu
trên. Theo đó, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải, thông tin, thông báo
về TGPL theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 7 của Thông tư liên tịch
này, gồm: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; người có thẩm quyền
cụ thể về việc thực hiện thống kê vào Sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt
động tố tụng nhằm thuận tiện trong tra cứu hồ sơ, dữ liệu; góp phần đảm bảo
việc thực hiện nghiêm túc và phục vụ công tác kiểm tra hoạt động này của cấp
có thẩm quyền.
Để thực hiện việc bào chữa, TGVPLphải xuất trình Thẻ TGVPL kèm
tiến hành tố tụng; cơ sở giam giữ; trại giam. Đặc biệt, Thông tư đã quy định
theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện TGPL của Trung
theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này, cơ quan có thẩm
47
tâm hoặc Chi nhánh TGPL. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ, nếu thấy không thuộc
trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi
ngay văn bản thông báo người bào chữa cho tổ chức thực hiện TGPL, người
thực hiện TGPL và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ
vụ án; nếu thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa.
Nhằm giúp TGVPL thực hiện tốt công việc TGPL của mình và phục vụ
công tác quản lý, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày
28/8/2018 hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất
lượng vụ việc TGPL. Thông tư quy định cụ thể một số hoạt động nghiệp vụ
TGPL như: Thụ lý vụ việc TGPL; Thụ lý ngay vụ việc TGPL; Theo dõi vụ
việc TGPL và công tác báo cáo; Thực hiện TGPL; Yêu cầu thay đổi người
thực hiện TGPL, rút yêu cầu TGPLcủa người được TGPL; Xác định vụ việc
TGPL kết thúc và Hồ sơ vụ việc TGPL kèm theo các biểu mẫu hoạt động
trong nghiệp vụ TGPL để TGVPL có cơ sở và thuận tiện trong quá trình thực
hiện trong thực tế.
Khi thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL cần bám sát yêu cầu TGPL,
tuân thủ các nguyên tắc hoạt động TGPL và sử dụng các biện pháp hợp pháp
để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người được TGPL.
Việc hướng dẫn, giải đáp, cung cấp thông tin pháp luật trong trường hợp
yêu cầu TGPL là vướng mắc pháp luật đơn giản quy định tại khoản 2 Điều 32
được TGPL, không lập thành hồ sơ và được thống kê thành việc TGPL trong
Sổ thực hiện việc TGPL.
Tổ chức thực hiện TGPL tổ chức lấy ý kiến của người được TGPL hoặc
người thân thích của họ về thái độ, trách nhiệm, chuyên môn của người thực
hiện TGPL và mức độ hài lòng đối với vụ việc tham gia tố tụng và vụ việc đại
của Luật TGPL do người tiếp nhận yêu cầu TGPL thực hiện ngay cho người
diện ngoài tố tụng theo Mẫu số 11 ban hành kèm theo Thông tư này.
TGPL, rút yêu cầu TGPL trong trường hợp:
48
Ngoài ra, người được TGPL có quyền yêu cầu thay đổi người thực hiện
Người được TGPL có căn cứ cho rằng người thực hiện TGPL thuộc một
trong các trường hợp không được tiếp tục thực hiện hoặc phải từ chối thực
hiện TGPL theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật TGPL thì
làm đơn đề nghị thay đổi người thực hiện TGPL theo quy định và gửi tổ chức
thực hiện TGPL, Chi nhánh. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đơn đề nghị thay đổi người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL,
Chi nhánh có trách nhiệm trả lời người được TGPL theo quy định tại khoản 3
Điều 25 của Luật TGPL.
Người được TGPL có nguyện vọng rút yêu cầu TGPL theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 37 của Luật TGPL thì làm đơn rút yêu cầu TGPL theo
quy định và gửi tổ chức thực hiện TGPL hoặc Chi nhánh hoặc người thực
hiện TGPL. Khi nhận được đơn rút yêu cầu TGPL, tổ chức thực hiện TGPL
hoặc Chi nhánh hoặc người thực hiện TGPL trả lời ngay bằng văn bản về việc
không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL.
Ngoài ra, việc xây dựng các văn bản, đề án về TGPL trong giai đoạn này
đã góp phần vào việc hoàn thiện thể chế về TGVPL nói chung và vị trí, vai trò
của TGVPL trong TTHS nói riêng. Chẳng hạn như:
Nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là tập trung vào
vụ việc tham gia tố tụng, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL
được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, chất lượng. Đề án đổi mới công tác
TGVPL” và cũng là cơ sở để nghiên cứu, xây dựng cơ chế chuyển đổi các
TGVPL đã tham gia tố tụng đạt chỉ tiêu vụ việc được giao hàng năm thành
luật sư (nếu có nguyện vọng) theo định hướng xây dựng Luật TGPL (sửa
đổi). Cục TGPL đã nghiên cứu, tham mưu Bộ xây dựng,ban hành Công văn
về chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho TGVPL, đây là cơ sở để hàng năm Bộ
TGPL đưa ra giải pháp “Ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho
Tư pháp giao chỉ tiêu thực hiện vụ việc tố tụng của TGVPL phù hợp với trình
49
độ phát triển của đội ngũ TGVPL và yêu cầu công việc.
Ngoài các văn bản nêu trên, một số văn bản khác liên quan đến TGPL, vị
trí vai trò của TGVPL trong TTHSđã được ban hành như: Văn bản số
713/BTP-TGPL ngày 08/3/2017 ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng
cho TGVPL năm 2017; (2) Thông tư số 05/2017/TT-BTP ngày 20/4/2017 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 18/2013/TT-
BTP ngày 20/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thời gian và thủ
tục thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL; (3) Quyết định số 328/QĐ-
BTP ngày 17/3/2017 ban hành Kế hoạch năm 2017 triển khai thực hiện chính
sách TGPL cho người khuyết tật; (4) Quyết định số 390/QĐ-HĐPH ngày
22/3/2017 ban hành Kế hoạch hoạt động của Hội đồng phối hợp liên ngành về
TGPL trong hoạt động tố tụng năm 2017; (5) Văn bản hợp nhất số
1134/VBHN-BTP ngày 7/6/2017 hợp nhất Thông tư số 18/2013/TT-BTP
ngày 20/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thông tư số 05/2017/TT-BTP
ngày 20/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; (6) Đề án đổi mới công tác TGPL
và Kế hoạch số 1543/QĐ-BTP ngày 24/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
(7) Nghị định số 144/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/12/2017 quy định
chi tiết một số điều của Luật TGPL, trong năm 2018 .v.v.
Tóm lại, trong thời gian qua thể chế về TGPL nói chung và TGVPL
trong TTHS nói riêng đã được Nhà nước ngày càng quan tâm; các quy định
về TGVPL trong hoạt động tố tụng đã được bổ sung, hoàn thiện hơn, góp
hiệu quả và hiệu lực trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp thông qua các quy định của pháp luật trong cả quá trình tố tụng giải
quyết vụ án, từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử, thi hành án .v.v. Theo
đó, một hệ thống văn bản pháp luật đã cụ thể hóa, bổ sung đầy đủ, thể hiện
rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; hoạt động bổ trợ
phần nâng cao vai trò, vị trí của TGVPL trong TTHS, đặc biệt nâng cao
tư pháp cũng từng bước được xã hội hóa mạnh mẽ với sự ra đời của Luật
50
Luật sư, Luật TGPL.
Điều đó cho thấy rằng Nhà nước đã đề cao và bảo vệ quyền con người
trong hoạt động tố tụng bằng cách đặt vị thế quan trọng của TGVPL, luật sư
để thực hiện chức năng gỡ tội trong mối quan hệ biện chứng với các chủ thể
thực hiện chức năng buộc tội và chức năng xét xử.Đồng thời, cũng cần khẳng
định sự tham gia của TGVPL, luật sư là cộng tác viên trong quá trình giải
quyết vụ án đã góp phần bảo đảm cho các nguyên tắc cơ bản của Luật
TTHSđược thực hiện nghiêm túc, góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của người được TGPL.
2.2. Thực tiễn về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng
hình sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu
2.2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế, xã hội ở Lai Châu có ảnh hưởng
đến hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như vị trí, vai trò của trợ giúp viên
pháp lý
Theo cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu thì dân số toàn tỉnh có 403,20
người, gồm 20 dân tộc cùng sinh sống trong đó dân tộc Thái 131.822 người,
chiếm 34%; dân tộc Mông 86.467 người, chiếm 22,30%; dân tộc Kinh 54.027
người, chiếm 13,94%; dân tộc Dao 51.995 người, chiếm 13,41%; dân tộc Hà
Nhì 14.658 người, chiếm 3,78%; dân tộc Giáy 12.443 người, chiếm 3,21%;
dân tộc Khơ Mú 7.464 người, chiếm 1,93%; dân tộc La Hủ 10.141 người,
chiếm 2,62%; dân tộc Lự 6.074 người, chiếm 1,57%; dân tộc Lào 6.020
1.256 người, chiếm 0,32%; dân tộc Hoa 588 người, chiếm 0,15%; dân tộc Si
La 546 người, chiếm 0,14%; dân tộc Kháng 161 người, chiếm 0,04%; dân tộc
Tày 295 người, chiếm 0,08%; dân tộc Mường 116 người, chiếm 0,03%; dân
tộc Nùng 180 người, chiếm 0,05%; dân tộc Phù Lá 27 người, chiếm 0,01%;
các dân tộc khác 458 người, chiếm 0,12% (tính đến ngày 31/12/2011) [47].
người, chiếm 1,55%; dân tộc Mảng 2.995 người, chiếm 0,77%; dân tộc Cống
Giao thông: chủ yếu là đường bộ. Tỉnh có quốc lộ 12 chạy qua nối từ
quốc lộ 4D chạy tới thị trấn Sa Pa (Lào Cai). Là cầu nối quan trọng giữa
51
Thành phố Điện Biên Phủ tới Trung Quốc (qua cửa khẩu Ma Lù Thàng), có
vùng lục địa rộng lớn phía Tây Nam Trung Quốc với vùng tam giác tăng
trưởng kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh qua các tuyến quốc lộ 4D, 70,
32 và đường thuỷ sông Đà. Trong định hướng phát triển kinh tế-xã hội giai
đoạn 2006-2020, tỉnh đề ra mục tiêu: khảo sát xây dựng sân bay cỡ nhỏ,
nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt: Yên Bái - Văn Chấn - Mù Căng Chải
- Than Uyên - Tam Đường góp phần cải thiện điều kiện giao thông giữa địa
phương và các tỉnh, thành khác trong nước.
Tiềm năng kinh tế: Do điều kiện địa hình phức tạp và bị chia cắt mạnh
cùng với diện tích tự nhiên lớn, mật độ dân cư thấp và phân bố không đều, tập
trung chủ yếu ở các thị trấn, thị xã và các vùng chuyên canh sản xuất lương
tỉnh với các địa phương khác của cả nước gặp rất nhiều khó khăn. Điều đó
thực tập trung nên việc đi lại giao lưu hàng hoá giữa các vùng trong tỉnh, giữa
cũng là trở ngại lớn trong việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
do đơn giá quá cao, suất đầu tư lớn, khả năng huy động và sự đóng góp của
nhân dân hạn chế.
Bên cạnh những khó khăn, hạn chế trên, điều kiện tự nhiên của tỉnh cũng
có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, nhất là phát triển nông - lâm nghiệp
và thương mại - dịch vụ - du lịch với các ưu thế nổi bật như: có diện tích đất
đai chưa được khai thác rất rộng lớn; có hai khu kinh tế cửa khẩu với Trung
Quốc và Lào; có nhiều danh lam thắng cảnh với bản sắc văn hoá dân tộc
phong phú.
cầu TGPL cũng rất cao); đối tượng là người nghèo, người dân tộc thiểu số
chiếm trên 80% dân số. Đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa do trình
độ dân trí thấp, không kịp thời tiếp cận với tình hình kinh tế - xã hội ngày
càng phát triển. Tình hình trật tự an toàn xã hội còn phức tạp và có chiều
hướng gia tăng về tính chất, mức độ nghiêm trọng, như tệ nạn ma túy, mại
Như vậy, có thể thấy Lai Châu là tỉnh có đối tượng TGPL là rất lớn (nhu
dâm,v.v. Tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật ngày càng đa dạng, tình trạng
em bị buôn bán xảy ra ngày càng nhiều.
52
khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp dân sự đất đai,v.v, nạn nhân là phụ nữ, trẻ
Do đó, việc làm tốt công tác TGPL là góp phần thực hiện tốt chủ trương
của Đảng và Nhà nước về chính sách nhân đạo, xóa đói, giảm nghèo, đến ơn,
đáp nghĩa, thực sự là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đảm bảo
công bằng xã hội với mọi công dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội.
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm TGPL tỉnh
Lai Châu
Thực hiện Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập tổ chức Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và
đối tượng chính sách và thông tư liên tịch số 52/TTLT-BTP-BTC-TTCP-
LĐTBXH ngày 14/01/1998 của Bộ tư pháp, bộ Tài chính, Ban tổ chức cán
bộ Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và xã hội hướng dẫn thi hành.
Theo đó, các Trung tâm TGPL của nhà nước (nay đổi tên là Trung tâm
TGPL nhà nước) được thành lập trong toàn quốc, trong đó có tỉnh Lai Châu
cũ. Tháng 01 năm 2004 tỉnh Lai Châu được chia thách thành hai tỉnh Điện
Biên và tỉnh Lai Châu.
Trung tâm TGPL thuộc Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu được thành lập theo
Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 27/5/2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh Lai Châu. Theo đó, Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Lai Châu (sau đây
gọi là Trung tâm) là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp
nước của Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu và sự quản lý, hướng
dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư
pháp theo quy định của pháp luật.
Trung tâm có chức năng TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách,
tham gia phổ biến giáo dục pháp luật cho các đối tượng này. Nhiệm vụ cụ thể
nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Trung tâm chịu sự quản lý nhà
của Trung tâm TGPL bao gồm: Tư vấn, đại diện, bào chữa miễn phí cho
về hình sự, TTHS, dân sự, hôn nhân – gia đình và tố tụng hành chính, khiếu
53
người nghèo, đối tượng chính sách trong các vụ việc liên quan đến pháp luật
nại, tố cáo, lao động việc làm, đất đai, nhà ở và các lĩnh vực pháp luật liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân không thuộc lĩnh
vực kinh doanh thương mại.
Từ năm 2005, Trung tâm có 04 biên chế (01 Giám đốc do đồng chí Phó
Giám đốc Sở Tư pháp kiêm nhiệm, 02 chuyên viên và 01 kế toán ), đến nay
Trung tâm đã có 07 biên chế được giao với 01 Giám đốc, 01 Phó Giám đốc,
01 TGVPL; 01 kế toán và 03 chuyên viên [18].
Ngày 28/12/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu đã ban hành Quyết
định số 44/2011/QĐ-UBND (Quyết định 44) về việc ban hành quy chế tổ
chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Lai Châu.Theo đó, tại
Điều 3 của Quyết định 44 nêu trên quy định: Trung tâm TGPL có nhiệm vụ:
- Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quy tắc
nghề nghiệp TGPL cho TGVPL;
- Tổ chức nghiên cứu, khảo sát nhu cầu TGPL, tổ chức hội thảo, tọa đàm
và trao đổi kinh nghiệm liên quan đến hoạt động TGPL cho TGVPL, Chuyên
viên, Cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh;
- Quản lý, theo dõi, kiểm tra hoạt động TGPL của TGVPL, Cộng tác
viên và các cán bộ khác của Trung tâm và Chi nhánh theo thẩm quyền; thực
hiện chế độ bồi dưỡng đối với cộng tác viên tham gia TGPL;
Trung tâm TGPL sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
Quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Lai
Châu (ban hành theo Quyết định 44 nêu trên) đã dành trọn vẹn Điều 11 quy
định về TGVPL. TGVPL là viên chức chuyên môn nghiệp vụ, có trách nhiệm
chủ động nghiên cứu, tham mưu đề xuất, báo cáo Giám đốc Trung tâm,
Trưởng phòng hoặc Trưởng Chi nhánh về việc thực hiện TGPL trong phạm vi
TGPL của TGVPL, cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh.
lĩnh vực chuyên môn được phân công; trực tiếp thực hiện TGPL và thực hiện
nhánh giao.
54
các công việc khác được lãnh đạo Trung tâm, Trưởng phòng hoặc Trưởng Chi
TGVPL có nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Điều 24 Nghị định số
07/2007/NĐ-CP và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp
luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Khi thực hiện TGPL, TGVPL có trách nhiệm lập hồ sơ vụ việc và quản
lý trong suốt quá trình thực hiện.
Như vậy, có thể thấy việc quy định cụ thể về TGVPL, cũng như nhiệm vụ,
quyền hạn của TGVPL là căn cứ, cơ sở để các TGVPL thực hiện nhiệm vụ trợ
giúp của mình trong thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi hơn, từ đó, góp phần vào
việc khẳng định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TGPL nói chung
cũng như trong hoạt động TTHS tại địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng.
Ngày 13/01/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu đã ban hành Quy chế hoạt
động của Hội đồng hối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng tỉnh Lai
Châu (ban hành kèm theo Quyết định số 02/QĐ-TGPL ngày 13/01/2014. Theo
các báo cáo kết quả công tác phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố
tụng từ năm 2014 đến năm 2017 đã nếu những điểm thuận lợi như:
- Hoạt động TGPL nói chung, tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa cho
các đối tượng được TGPL nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của các cấp
ủy đảng, chính quyền; sự quan tâm của Sở Tư pháp, của các cơ quan tố tụng;
- Các cơ quan tố tụng đã đánh giá cao vai trò của TGVPL khi thực hiện
việc đại diện, bào chữa cho người được TGPL;
quan tố tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ tạo điều kiện trong việc cấp giấy
chứng nhận người bào chữa, cấp giấy chứng nhận người bảo vệ, tạo điều kiện
trong việc gặp gỡ, trao đổi với đối tượng, phô tô tài liệu có trong hồ sơ vụ án
và tham gia các hoạt động khác.
- Hoạt động tham gia TGPL của TGVPL nhìn chung đã được các cơ
2.2.3. Hoạt động trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên pháp lý Trung
tâm TGPL tỉnh Lai Châu trong tố tụng hình sự
tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
55
Từ khi ngành tố tụng cũng có văn bản chỉ đạo về việc quán triệt Thông
ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về TGPL
trong hoạt động tố tụng đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế bằng Thông tư liên
tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày
29/6/2018 quy định về việc phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng,
hoạt động TGPL nói chung, tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa cho các
đối tượng được TGPL nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Sở Tư pháp,
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL đã
được các cơ quan tố tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ tạo điều kiện trong
việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, cấp giấy chứng nhận người bảo vệ,
tạo điều kiện trong việc gặp gỡ, trao đổi với đối tượng, phô tô tài liệu có trong
hồ sơ vụ án và tham gia các hoạt động khác.
Hàng năm, Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố
tụng tỉnh Lai Châu tổ chức công tác phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt
động tố tụng.
Theo báo cáo kết quả công tác phối hợp liên ngành về TGPL trong
hoạt động tố tụng và báo cáo các năm của Trung tâm TGPL tỉnh Lai Châu
trong 5 năm(từ năm 2014 đến tháng 6/2019) [18], tình hình TGPL của
Trung tâm như sau:
Bảng 1: Tình hình TGPL của Trung tâm trợ giúp pháp lý Lai Châu
Số lượng Tình hình trợ giúp pháp lý
Số lượng vụ trợ giúp hình sự Tổng số Tổng số
1/(2+3)
TGVPL
Tham gia
Tư vấn (2)
tố tụng (3)
(1)
Năm
4
2014
36
143
4/179
4
2015
20
105
4/125
4
2016
02
149
4/151
4
2017
12
198
4/210
3
6/2019
0
68
3 2018 2 114 3/116
3/68
56
Qua thực tiễn tình hình TGPL của Trung tâm TGPL Lai Châu từ năm
2014 đến 6/2019, nhận thấy: từ năm 2014 đến năm 2017 số lượng vụ trợ giúp
hình sự tăng từ 179 lên 210 vụ (tăng 31 vụ), trong khi đó tổng số TGVPL tại
Trung tâm TGPL không đổi (4 người). Như vậy, trong thời gian này, trung
bình mỗi năm một TGVPL tham gia từ 44 – 52 vụ trợ giúp hình sự (chưa kể
các vụ việc TGPL dân sự khác). Đặc biệt số lượng TGVPL năm 2018 đến nay
còn 3 người (giảm 01 TGVPL), trong khi tổng số vụ trợ giúp hình sự ngày
càng tăng. Trên thực trạng đó, nhận thấy, mỗi TGVPL phải xử lý số lượng vụ
việc trợ giúp hình sự có xu hướng ngày càng tăng và qua thực tiễn công tác có
độ phức tạp của các vụ việc ngày càng nhiều, gây không ít khó khăn trong
việc thực hiện TGPL cho đối tượng được TGPL tại địa bàn tỉnh Lai Châu dẫn
đến chất lượng và hiệu quả của TGPL có thể chưa được đảm bảo tốt nhất.
Thực hiện Thông tư liên tịch số 11//2013, Trung tâm TGPL nhà nước
tỉnh Lai Châu đã cử TGVPL tham gia tố tụng, đã ban hành các Quyết định cử
TGVPL để thực hiện bào chữa, bảo vệ cho các đối tượng được TGPL.
Số lượng các vụ án hình sự có sự tham gia của TGVPL tại tỉnh Lai Châu
hàng năm cao, một phần là do số lượng người được TGPL là người dân tộc
thiểu số, người nghèo lớn (dân số chiếm trên 80% như đã nêu ở trên). Do đó,
TGVPL phải tham gia rất nhiều vụ án hình sự để TGPL theo quy định của
pháp luật. Do đó, vị trí, vai trò của TGVPL tại tỉnh Lai Châu nói riêng cũng
công bằng xã hội, thực hiện các chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo,
người dân tộc theo đúng chủ trưởng của Đảng và Nhà nước đề ra.
Để hiểu rõ hơn về tình hình tham gia TTHS của TGVPL trong thời gian
từ 2014 đến tháng 6/2019, tác giảđã xây dựng biểu đồ vàbảng cụ thể:
57
như các tỉnh miền núi nói chung là rất quan trọng và cần thiết, nhằm đảm bảo
Biểu đồ 1: Tình hình tham gia của TGVP
250
198
200
149
143
150
114
105
Số vụ
100
68
50
0
2014
2015
2016
2017
2018
6/2019
trong tố tụng hình sự tỉnh Lai Châu
Bảng 2: Tình hình tham gia TTHS của TGVPL
Loại tội
Loại tội
Tội phạm về ma túy
Xâm phạm sở hữu
Tội phạm về môi trường
Tội xâm phạm an toàn giao thông
Tội xâm phạm trật tự, quản lý hành chính
Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người
Tổng số vụ việc tham gia tố tụng hình sự
SL SL SL SL SL SL Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
143 47 33% 73 51% 19 13% 02 1% 2 1% 0 0%
Năm 2014
2015 105 26 25% 62 59% 13 12% 3 3% 1 1% 0 0%
2017
198
56 28% 97 49% 38 19% 0 0% 7 4% 0 0%
2018
114
19 17% 76 67% 17 15% 1 1% 1 1% 0 0%
6/2019
68
15 22% 39 57% 11 16% 2 3% 0 0% 1 1%
2016 149 21 14% 71 48% 51 34% 3 2% 3 2% 0 0%
418
14
01
Tổng 777 184
149
11
TGVPL tham gia TTHS là 777 vụ, trong đó: Tội xâm phạm tính mạng, sức
58
Như vậy, trong thời gian từ năm 2014 đến tháng 6/2019, tổng số vụ có
khỏe, nhân phẩm danh dự của con người (184 vụ); Tội phạm về ma túy (418
vụ); Tội xâm phạm sở hữu (149 vụ); Tội xâm phạm an toàn giao thông (11
vụ); Tội xâm phạm trật tự, quản lý hành chính (14 vụ); Tội phạm về môi
trường (01 vụ). Có thể thấy, tại địa bàn tỉnh Lai Châu, tội phạm về ma túy
luôn dẫn đầu trong tổng số các vụ có sự tham gia của TGVPL, thấp nhất là
năm 2015 (62 vụ) và cao nhất năm 2017 (97 vụ). Trong khi đó, loại tội có sự
tham gia của TGVPL ít nhất là tội phạm về môi trường (từ năm 2014 đến
6/2019 có duy nhất 01 vụ có sự tham gia tranh tụng của TGVPL) [18].
Như vậy, tổng số vụ án tham gia TTHS của TGVPL từ năm 2014 đến
tháng 6/2019 trung bình từ 194-259 vụ. Có thể thấy, số lượng vụ tham gia tố
phức tạp, hiểm trợ, dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình thu thập thông tin,
tụng của TGVPL quá nhiều, số lượng vụ án phức tạp lớn, trong khi địa bàn
tài liệu, đi cơ sở, địa bàn khó khăn mất thời gian. Đây là nguyên nhân không
nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động TGPL tại địa bàn
tỉnh Lai Châu trong những năm qua.
Qua thời gian thực hiện TGPL tại tỉnh Lai Châu, nhận thấy: Hoạt động
TGPL đã làm thay đổi cách nhìn của các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng đối với vai trò của người bào chữa công. Bởi trước đó, khi
chưa có TGVPL, chưa có quy định về việc phối hợp thực hiện TGPL trong
hoạt động tố tụng, đa số các công tác viên tham gia tố tụng vì trách nhiệm nên
chưa thật sự nhiệt tình, nhiệt huyết tham gia vì quyền, lợi ích hợp pháp của
Hoạt động tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa cho các đối tượng
được TGPL trong năm qua có nhiều chuyển biến tích cực.Bằng các hoạt động
của mình trong quá trình giải quyết vụ án cùng với sự tận tâm, nhiệt huyết,
trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, TGVPL, luật sư là cộng tác viên đã bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng, góp phần nâng cao trách
đối tượng được TGPL. Do đó, hiệu quả TGPL còn rất hạn chế.
nhiệm và chất lượng giải quyết vụ án của các cơ quan tố tụng các cấp, hạn chế
hoạt động tố tụng, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự, góp phần bảo vệ
59
đến mức thấp nhất các trường hợp oan sai, không vô tư, khách quan trọng
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người được TGPL, giáo dục, cải
tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm .v.v. Điển hình, có những vụ việc nhờ có
sự tham gia của TGVPL, mà quyền lợi của người được trợ giúp được bảo vệ,
bảo đảm kịp thời, ngay cả khi cáo trạng của viện kiểm sát và bản kết luận của
cơ quan cảnh sát điều tra đều cho rằng bị can phạm tội, như: vụ Vàng A Dén,
sinh năm 1983 tại Nậm Hăn, Sìn Hồ, Lai Châu bị Viện Kiểm sát nhân dân
huyện Sìn Hồ truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”, theo khoản 2 Điều 104
Bộ luật hình sự theo bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 09/3/2017.
Tại Phiên họp sơ thẩm ngày 04/8/2017, TGVPL đã tham gia và đưa ra
các câu hỏi để làm rõ nội dung vụ án và nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã ra Quyết định đình chỉ vụ án với tội “cố ý gây
của bị cáo Vàng A Dén. Trên cơ sở đó, ngày 22/9/2019, Viện kiểm sát huyện
thương tích”; Hủy bỏ Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi
nơi cư trú cho Vàng A Dén; Đình chỉ mọi hoạt động tố tụng với tội danh và bị
can Vàng A Dén nêu trên (Quyết định số 04/QĐ ngày 22/9/2017 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ).
Dưới dây, là tổng hợp số liệu thể hiện tác động của TGVPL trong TTHS
tại địa bàn tỉnh Lai Châu trong thời gian từ 2014 đến tháng 6/2019 [18]:
Bảng 3: Vai Trò của trợ giúp viên pháp lý trong TTHS
Bản án tuyên có trợ giúp viên pháp lý tham gia Vai trò
Ghi chú
Năm
2014 2015
143 105
118 85
23 18
Như luận tội của VKS Tổng số vụ tham gia trợ giúp pháp lý Chấp nhận đề nghị của TGVPL
2016
149
125
21
2
2017 2018 6/2019
198 114 68
157 98 58
35 13 5
6 3 5
01 vụ vô tội 8 vụ vô tội
60
Cao hơn luận tội và đề nghị của TGVPL 4 2
Qua bảng thống kê về sự tác động của TGVPL trong TTHS từ năm 2014
đến tháng 6/2019 nêu trên, nhận thấy: Tổng số 777 vụ mà TGVPL tham gia
TTHS, có 115 bản án (chiếm 15% tổng số bản án) đã tuyên chấp nhận đề nghị
của TGVPL. Đặc biệt, trong đó, có 9 vụ nhờ có sự tham gia của TGVPL đã
được Tòa án tuyên vô tội (trong đó, năm 2016 có 01 vụ, năm 2018 có 8 vụ).
Như vậy, nhận thấy, vai trò của TGVPL trong TTHS tại địa bàn tỉnh Lai
Châu là rất quan trọng và hiệu quả. Số lượng 15% tổng số bản án đã tuyên
chấp nhận đề nghị của TGVPL cho thấy năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của
TGVPL tại địa bàn tỉnh Lai Châu rất tốt và mức độ hiểu biết pháp luật cao. Số
lượng vụ án được tuyên vô tội năm 2016 là 01 vụ, đến năm 2018 (là 08 vụ)
cho thấy số lượng vụ án xử sai đã tăng, năng lực nghiệp vụ của cơ quan tiến
hành tố tụng còn hạn chế, đồng thời kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của
TGVPL được nâng cao qua từng năm.
Bên cạnh đó, các ngành Tố tụng đã có chỉ đạo về việc quán triệt Thông
tư liên tịch số 11/2013/TTLT đối với ngành mình; cán bộ của các cơ quan Tố
tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ khi thực hiện nhiệm vụ đã giải thích cho
các đối tượng (bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ) hiểu về quyền được
TGPL miễn phí, khi đối tượng có yêu cầu thì cung cấp mẫu đơn và địa chỉ của
Trung tâm TGPL nhà nước để giúp họ thực hiện quyền được TGPL;
Công tác kiểm tra của Hội đồng phối hợp liên ngành đã được triển khai
cáo đánh giá sát với thực tiễn của cơ sở cũng như các kiến nghị để thực hiện
tốt hơn trong thời gian tiếp theo.
61
đạt hiệu quả, đúng thời gian theo kế hoạch đề ra, các đoàn kiểm tra đều có báo
Bảng 4: Tỷ lệ số lượng vụ án có TGVPL từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử
SL trợ giúp/vụ Số vụ Tỷ lệ
Năm
Tổng án hình sự thụ lý từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử
2014 591 143 24%
2015 502 105 21%
2016 704 149 21%
2017 588 198 34%
2018 599 114 19%
6/2019 266 68 26%
Qua thực tế tình hình TGVPL tham gia các vụ án hình sự từ giai đoạn
điều tra, truy tố và xét xử, nhận thấy: Tổng số vụ có sự tham gia của TGVPL
từ năm 2014 đến tháng 6/2019 là 777 vụ/tổng số 3250 vụ (chiếm 24%), trong
đó, tỷ lệ số vụ có sự tham gia của TGVPL cao nhất trong các năm (chiếm
34% - năm 2017), thấp nhất (19% - năm 2018). Đặc biệt trong 6 tháng đầu
năm 2019, tỷ lệ này chiếm 26% tổng số vụ án. Như vậy, có thể thấy số lượng
các vụ án có sự tham gia của TGVPL từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử
chiếm khá cao tại địa bàn tỉnh Lai Châu. Điều này, lý giải một phần do đặc
thù tại địa bàn tỉnh lai Châu có số lượng người dân tộc thiểu số khá lớn
phải có TGVPL tham gia từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn truy tố và xét xử.
Với sự tham gia của TGVPL đã phần nào thể hiện được chủ trương của Đảng,
Nhà nước, góp phần đảm bảo công bằng, bình đẳng pháp luật. Bên cạnh đó,
qua công tác TGPL, những người dân (đặc biệt là đối tượng dân tộc thiểu số)
được tăng cương hiểu biết pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước đối
(chiếm trên 80%). Đây cũng chính là những đối tượng chính trong các vụ án
với mình.
thể về TGPL, TGVPL đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số bảo vệ được quyền 62
Tóm lại, trong thời gian vừa qua, thông qua việc thực hiện các vụ việc cụ
và lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, trên cơ
sở đó để họ ứng xử phù hợp với pháp luật, tôn trọng và chấp hành pháp luật,
góp phần bảo đảm công lý, thực hiện công bằng xã hội, giữ gìn trật tự an toàn
xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật. Qua công tác quản lý nhà nước chuyên
ngành về chất lượng vụ việc TGPL, cho đến nay chưa có vụ việc nào có khiếu
nại, kiến nghị về chất lượng vụ việc và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2.2.4. Một số hạn chế, tồn tạivà nguyên nhân
* Hạn chế, tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò, vị trí của TGVPL nói riêng
và hoạt động TGPL trong TTHS nói chung vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại
như sau:
- Một là, địa bàn của tỉnh Lai Châu rộng, giao thông đi lại khó khăn,
nhiều dân tộc thiểu số, cư trú không tập trung, quá xa Trung tâm, khi xẩy ra
vụ việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, họ khó có
điều kiện tiếp cận với dịch vụ TGPL miễn phí do Trung tâm TGPL thực hiện.
Với việc đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, đi lại khó
khăn nên ít được tiếp cận với các thông tin về TGPL nên nhiều người chưa
biết được quyền được TGPL của mình phần nào ảnh hưởng đến việc triển
khai hoạt động, sự tiếp cận của người dân với dịch vụ TGPL miễn phí của
Nhà nước.
thực hiện TGPL còn thiếu và thường xuyên biến động. Số lượng cán bộ của
cơ quan tố tụng tham gia làm cộng tác viên của Trung tâm TGPL chưa nhiều
và chỉ có ở cấp tỉnh.
- Ba là, kinh phí đặc thù cho hoạt động tham gia tố tụng và truyền thông
về TGPL cấp cho Trung tâm hàng năm còn hạn chế chưa đảm bảo cho hoạt
- Hai là, số lượng vụ việc yêu cầu ngày càng tăng, trong khi đó người
động TGPL nói chung và hoạt động tham gia tố tụng nói riêng.
Trung tâm cần tiếp tục được trua dồi hơn nữa nhằm đáp ứng được yêu cầu
63
- Bốn là, về kỹ năng, kinh nghiệm tham gia tố tụng của TGVPL tại
nhiệm vụ được Nhà nước giao; Năng lực tổ chức bộ máy cán bộ để triển khai
thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế do số lượng người
thực hiện TGPL biết tiếng dân tộc còn ít nên một số trường hợp thực hiện
TGPL phải thông qua lực lượng cán bộ tại chỗ phần nào cũng ảnh hưởng đến
kết quả TGPL cho người dân do không kiểm soát được việc truyền đạt thông
tin pháp luật; TGVPL cònbị chi phối nhiều bởi các công việc hành chính của
Trung tâm, do đó, chưa tạo nên uy tín, “thương hiệu” của TGPL để người dân
tin cậy tìm đến tổ chức TGPL.
- Năm là, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong quá trình
thực hiện chính sách TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa đồng bộ, dẫn
đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách TGPL chưa cao, trong thời gian
qua, số vụ án hình sự có TGVPL tham gia còn thấp. Chẳng hạn như: Năm
2017,huyện Than Uyên chỉ có 08 vụ/09 đối tượng được TGPL so với 128
vụ/173 bị cáo chỉ đạt 6,3% số vụ và 5,2% số bị cáo; Sìn Hồ đạt 16,83%...),
mới chỉ tham gia TTHS mà chưa TGPL trong các lĩnh vực khác.
- Sáu là, nhận thức về TGPL của một số cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng chưa được coi trọng đúng mức, chỉ chú trọng đến đối tượng
bắt buộc có người bào chữa theo khoản 2 điều 57 BLTTHS mà chưa chú
trọng đến nhóm người được TGPL theo điều 10 Luật TGPL.
Ngoài ra, việc tuyên truyền pháp luật về TGPL còn chưa đồng bộ và
bị can, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự ở các giai đoạn thực hiện chưa thường xuyên, việc
tuyên truyền giải thích còn chung chung; việc tham gia TGPL chủ yếu ở giai
đoạn xét xử của vụ án, chưa có sự chủ động, chưa kịp thời trong việc phối kết
hợp do đó chất lượng bào chữa, bảo vệ cũng còn hạn chế nhất định; số lượng
thống nhất, việc giải thích quyền được TGPL cho người bị tạm giữ, tạm giam,
vụ việc có yêu cầu TGPL ngày càng cao, nhưng sự tham gia của Trung tâm
phương có nhiều dân tộc thiểu số .v.v.
64
còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu cảu Đảng, nhà nước về TGPL ở địa
* Nguyên nhân:
- Hội đồng phối hợp liên ngành Trung ương đã ban hành kế hoạch hoạt
động, tuy nhiên các ngành thành viên của Hội đồng PHLN Trung ương chưa
có văn bản chỉ đạo của ngành quản lý dẫn đến công tác phối hợp của địa
phương còn những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến quyền được TGPL của
người dân. Mối quan hệ phối hợp trong công tác TGPL, đặc biệt là mối quan
hệ phối hợp giữa Trung tâm TGPL với các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức
chưa nhận thức đầy đủ về chính sách TGPL miễn phí, về quyền của công dân
nên chưa tích cực trong công tác truyền thông, hướng dẫn người dân tiếp cận
với dịch vụ pháp lý miễn phí. Vì vậy, khi triển khai các dự án phát triển kinh
tế tại địa phương, người dân không nắm được các quy định pháp luật dẫn đến
quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng. Công tác tham mưu của Tổ giúp việc
cho thành viên Hội đồng của từng ngành còn chậm nên công tác chỉ đạo phối
hợp còn hạn chế nhất định.
- Xuất phát từ thực tiễn ở tỉnh Lai Châu nhiều người được TGPL không
biết chữ, không biết tiếng phổ thông, nhận thức còn hạn chế và do chưa được
giải thích, hướng dẫn tận tình nên nhiều bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, tạm
giam chưa biết đến quyền được TGPL của mình. Do đó, nếu không có sự giải
thích cặn kẽ, rõ ràng từ các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
được TGPL thì Trung tâm TGPL của tỉnh không có căn cứ để cử TGVPL
tham gia vụ án hình sự để bào chữa hay bảo vệ quyền lợi ích người đối tượng
được TGPL.
- Đối tượng được TGPL rất lớn, chiếm gần 80% dân số của cả tỉnh, trong
khi đó đội ngũ TGVPL của Trung tâm còn thiếu, Trung tâm TGPL nhà nước
thì họ không có yêu cầu được TGPL. Mà thực tế nếu không có đơn yêu cầu
chưa thường xuyên liên hệ, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng cấp
còn có phần hạn chế.
65
tỉnh, huyện; các Đồn Biên phòng nên việc cung cấp thông tin yêu cầu TGPL
- Nhận thức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của công tác TGPL và yêu cầu
đặt ra trong điều kiện mới về cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công
dân theo tinh thần Hiến pháp 2013 còn hạn chế. Đồng thời, Lai Châu có địa
hình rừng núi, giao thông gặp nhiều khó khăn, địa bàn rộng, chia cắt; Chi
nhánh TGPL ít nên chưa kịp thời đáp ứng nhu cầu của người dân cũng nhữ
bảo đảm yêu cầu về thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Việc xây dựng đội ngũ TGVPL bảo đảm về chất lượng, bản lĩnh, đạo
đức nghề nghiệp; chú trọng và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về
kiến thức pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng mềm, nhất là kỹ
năng làm việc với các đối tượng đặc thù còn chưa được quan tâm.
- Việc đầu tư nguồn lực kinh phí, con người cho hoạt động TGPL nói
chung, cho vụ việc TGPL nói riêng và đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng còn
thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, chế độ chính sách
đối với TGVPL còn hạn chế, chế độ bồi dưỡng vụ việc khi tham gia tố tụng
còn thấp (20% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên).Kinh phí đảm
bảo cho hoạt động nghiệp vụ TGPL trên địa bàn tỉnh Điện Biên chủ yếu vẫn
dựa vào kinh phí của các Chương trình mục tiêu quốc gia. Tuy nhiên, nguồn
kinh phí này thường chỉ có thời hạn và bố trí cũng chưa hoàn toàn phù hợp
điều kiện của tỉnh. Ví dụ, kinh phí cho hoạt động truyền thông về TGPL theo
ban hành chính sách TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại
các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 -
2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình
là 2.000.000 đồng/xã- không phù hợp với địa hình vùng sâu, vùng xa như các
tỉnh miền núi Tây Bắc. Các chương trình này mang tính giai đoạn nên khi kết
Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ
thúc Chương trình sẽ khó khăn cho việc bố trí kinh phí để tiếp tục triển khai
66
các vụ việc TGPL.
Hơn nữa, hiện nay, chưa có quy định ràng buộc TGVPL tham gia tố
tụng. Một số nơi, các Trung tâm TGPL chưa chú trọng đến việc cung cấp vụ
việc TGPL nói chung và vụ việc tham gia tố tụng nói riêng mà mới tập trung
vào công tác truyền thông, chạy theo số lượng đợt TGPL lưu động và sinh
hoạt Câu lạc bộ TGPL.
Ngoài ra, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và Trung
tâm TGPL của tỉnh Lai Châu còn hạn chế, một số cơ quan tiến hành tố tụng
chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình theo Thông tư 11/1013/TTLT,
như các cơ quan tố tụng chưa tích cực giới thiệu người thuộc diện TGPL đến
Trung tâm TGPL; việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, bảo vệ chưa
theo đúng quy định pháp luật; gửi các bản án sau khi xét xử tới người thực
hiện TGPL còn chậm; việc gặp bị can để thu thập thông tin trong các giai
đoạn tố tụng còn chưa thuận lợi; bản án có khi không ghi chức danh, ý kiến,
quan điểm của TGVPL khi tham gia tố tụng.
Mặt khác, nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm
trong thời gian qua còn một số bất cập ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
bào chữa, bảo vệ của người tham gia tố tụng nói chung và đội ngũ TGVPL
67
nói riêng.
Tiểu kết chương 2
Trong Chương 2, tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích về pháp luật
về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS Việt Nam trong giai đoạn từ 1945
đến trước 2015 và giai đoạn từ 2015 đến nay để bạn đọc có thể nhìn thấy một
“bức tranh” tổng quát nhất về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS, từ đó
phần nào hiểu được các nguồn gốc các quy định và các nội dung chính của
quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho đương sự trong vụ án hình sự.
Để hiểu rõ hơn về việc ứng dụng các quy định về vị trí, vai trò của
Trung tâm TGPL tỉnh Lai Châu, tác giả đã nêu ra về quá trình hình thành và
TGVPL trong TTHS; trên cơ sở thực tiễn hoạt động TGPL của mình và của
chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm TGPL tỉnh Lai Châu. Đồng thời, đi sâu
vào phân tích những kết quả đã được trong công tác TGPL tại tỉnh Lai Châu
từ năm 2014 đến tháng 6/2019.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tác giả đã chỉ ra những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc trong quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của TGVPL
trong TTHS tại tỉnh Lai Châu. Từ thực trạng pháp luật về thực tiễn áp dụng
quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động TTHS, cho thấy cần
tăng cường, nâng cao hơn nữa hoạt động TGPL cho đương sự trong vụ án
hình sự; nâng cao chất lượng và số lượng để đảm bảo vị trí, vai trò của đội
phần nào đáp ứng thực hiện vai trò, chức năng của TGVPL.
68
ngũ TGVPL trong hoạt động TTHS tại tỉnh Lai Châu trong thời gian tớiđể
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. Cơ sở, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về trợ giúp viên pháp lý
trong tố tụng hình sự
Chính sách về TGPL miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách
nói chung và TGPL trong TTHS nói riêng là chủ trương đúng đắn và có từ rất
sớm của nhà nước ta. Các tổ chức TGPL đã đóng vai trò quan trọng trong việc
đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của người nghèo, đối tượng chính sách và
Thực tiễn, trong những năm qua đã khẳng định được vị trí, vai trò của
đồng bào dân tộc thiểu số.
hoạt động TGPL cũng như của TGVPL trong TTHS đối với đông đảo người
nghèo, các đối tượng chính sách và một số đối tượng khác, đồng thời trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội, góp
phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan nhà nước khác giải quyết các vụ việc một cách khách quan, công bằng,
chính xác, đúng pháp luật, giải tỏa những vướng mắc pháp luật của nhân dân,
góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Có thể
khẳng định, việc hình thành và phát triển hoạt động này ở nước ta là một
giúp đỡ pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu
biết và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.
Trong những năm qua, vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS tuy đã phát
triển tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
hướng đi đúng đắn, kịp thời, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, tạo cơ chế
nữa, hiện nay các văn bản pháp luật quy định về vị trí, pháp lý của trợ giúp
69
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL như đã nêu ở trên. Hơn
viên trong TTHS có hiệu lực pháp lý chưa cao, còn nhiều nội dung còn mang
tính nguyên tắc; cơ chế phối hợp giữa tổ chức TGPL với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác trong hoạt động TGPL còn hạn chế; việc quán triệt,
nhận thức về hoạt động ày của các cán bộ, cơ quan, ban ngành, các cấp chính
quyền chưa đồng bộ, thường xuyên, các tổ chức TGPL chưa nhận được sự
quan tâm, đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, kinh phí, cán bộ.v.v. Những hạn
chế này đã và đang cản trở làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động TGPL
nói chung cũng như chưa nâng cao được vai trò, vị trí của TGVPL trong
TTHS nói riêng.
Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển như hiện nay,
số lượng các vụ án hình sự cả nước nói chung và ở tỉnh Lai Châu nói riêng
ngày càng ra tăng về mức độ, tính chất phức tạp và phạm vi hoạt động. Đặc
biệt, với dân số trên 80% là người dân tộc thiểu số (tức là đối tượng của
TGPL) tại Lai Châu đòi hỏi hoạt động TGPL cần ngày càng được quan tâm
hơn nữa về vật chất và tinh thần. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định cũng như
đưa ra các giải pháp để nâng cao vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS là cơ
sở để TGVPL thực hiện nhiệm vụ TGPL một cách tốt nhất, góp phần đạt
được mục tiêu của Đảng và Nhà nước.
Thực tiễn, đối với tỉnh Lai Châu, TGPL trong TTHS có ý nghĩa, vai trò
hết sức quan trọng. Hiện tại, với lực lượng đội ngũ TGVPL của Trung tâm
của các đối tượng nghèo và chính sách. Nguyên nhân một phần do điều kiện
kinh tế xã hội của tỉnh Lai Châu còn khó khăn, quan hệ kinh tế xã hội không
phát triển mạng như các khu đồng bằng, khu đô thị lớn, hay các trung tâm
kinh tế. Mặc khác, trình độ dân trí cũng như trình độ hiểu biết về pháp luật
còn hạn chế nên việc sử dụng dịch vụ luật sư với tư cách cố vấn pháp luật
TGPL tỉnh Lai Châu còn rất mỏng, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu
trong sản xuất, kinh doanh ở Lai Châu không phát triển. Các tổ chức, cá nhân
xã hội của mình hay trong sản xuất, kinh doanh; và do điều kiện kinh tế của
70
sử dụng dịch vụ luật sư chủ yếu khi gặp tranh chấp, kiện tụng trong đời sống
người dân còn hạn chế nên cũng ít người sử dụng dịch vụ luật sư. Do vậy,
việc phát triển đội ngũ TGVPL và việc hoàn thiện vị trí, vai trò của TGVPL
trong TTHS là cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các đối
tượng được TGPL.
3.2. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý
Tỉnh Lai Châu là một tỉnh biên giới thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, phía
bắc giáp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phía tây và phía tây nam giáp
tỉnh Điện Biên, phía đông giáp tỉnh Lào Cai, phía đông nam giáp tỉnh Yên
Bái, và phía nam giáp tỉnh Sơn La. Đây là tỉnh có diện tích lớn thứ 10/63 Tỉnh
thành Việt Nam.Tỉnh Lai Châu có 8 đơn vị hành chính cấp huyện và tương
đương gồm 1 thành phố (Lai Châu) và 7 huyện (Mường Tè, Sìn Hồ, Nậm
Nhùn, Tam Đường, Phong Thổ, Tân Uyên, Than Uyên).
Tỉnh Lai Châu có 9.068,78 km2 diện tích tự nhiên.Địa hình được tạo
bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có nhiều đỉnh
núi cao như đỉnh Pu Sa Leng cao 3.096 m. Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều
thung lũng sâu và hẹp, phía Đông là dãy núi Hoàng Liên Sơn, phía Tây là
dãy núi Sông Mã, giữa hai dãy núi trên là phần đất thuộc vùng núi thấp
tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà với nhiều cao nguyên đá vôi dài
400 km chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Quan Sơn, Quan
Hóa…(Thanh Hoá). Có nhiều cao nguyên, sông suối, sông có nhiều thác
265,095 km đường biên giới giáp với Trung Quốc, là tỉnh có vị trí quan
trọng về địa lý và an ninh quốc phòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
gềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên có tiềm năng thuỷ điện rất lớn. Có
3.3. Hoàn thiện pháp luật
Qua nhiên cứu những vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật về vị trí, vai
trò của TGVPL trong TTHS và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Lai Châu trong thời
Vì vậy việc hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS là
71
gian qua, có thể nhận thấy còn nhiều những hạn chế, tồn tại như đã nêu ở trên.
rất cần thiết. Trên cơ sở những hạn chế, tồn tại từ thực tiễn nêu ở Chương 2,
để góp phần hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS,
tôi mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường sự tham gia của TGVPL trong quá trình TTHS,
đặc biệt ở quá trình “tiền khởi tố”
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho người được TGPL. Khi thực hiện quyền được TGPL, TGVPL cần
được thông báo về yêu cầu TGPL một cách nhanh chóng và phù hợp, có thể
qua điện thoại, fax hoặc một số phương tiện thông tin liên lạc khác. Bởi, khi
đó, người được quyền TGPL, người bị tình nghi sẽ không biết và thông
thường sẽ không được cảnh sát điều tra thông báo về điều gì đã xảy ra đối với
yêu cầu đó[32]. Việc chậm trễ thông báo sẽ làm người đó dễ bị tổn thương
(đặc biệt đối tượng bị tình nghi là trẻ em). Người bị tình nghi thường không
biết hoặc không chắc chắn rằng mình sẽ nhận được TGPL. Do vậy, việc thông
báo qua điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp một cách nhanh chóng người được
TGPL của TGVPL là rất cần thiết, góp phần động viên tinh thần người được
TGPL, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
Thứ hai, bổ sung quy định về vai trò và trách nhiệm của các cơ quan
điều tra khác
Cảnh sát điều tra và nhân viên của các cơ sở tạm giam đóng một vai trò
Người bị tình nghi hoặc người bị tố cáo đang bị họ tạm giữ và phụ thuộc về
việc được thông báo về quyền tiếp cận TGPL sớm, để có thể đưa ra quyết
định có căn cứ và độc lập về việc có nên thực hiện quyền đó hay không và có
thể liên lạc được với người thực hiện TGPL thích hợp. Việc cung cấp thông
tin kịp thời và chính xác về căn cứ bắt giữ và lý do giam giữ của cảnh sách
quan trọng trong việc bảo đảm tính hiệu quả của quyền tiếp cận sớm TGPL.
cho TGVPL là một trong những nhân tố quan trọng đối với trọ giúp viên pháp
quyền được cung cấp, tiếp cận sớm TGPL của đối người tình nghi nhằm bảo
72
lý. Do vậy, thiết nghĩ pháp luật về TGPL cần bổ sung quy định cụ thể về
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nội dung về quyền này cần được quy
định chi tiết (có thể gồm một số nội dung chính như: thời điểm đưa ra thông
báo; người có thẩm quyền đưa ra thông báo; người tiếp nhận thông báo; cách
thức đưa thông báo ...). Bên cạnh việc thông báo quyền tiếp cận sớm TGPL
có thể đưa vào trong thông báo về các quyền khác, chẳng hạn như quyền được
im lặng và quyền được thông báo cho một người khác về việc bị bắt giữ hoặc
giam giữ.
Thứ ba, cần bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng chi tiết hơn về quyền và
nghĩa vụ của TGVPL trong TTHS, bổ sung quy định khác đảm bảo hoạt động
của TGVPL như mối quan hệ giữa TGVPL với người tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng .v.v..
Thứ tư, cần xây dựng quy trình thực hiện công tác TGPL trong TTHS.
Trong đó, cần có quy đinh về sự có mặt bắt buộc của TGVPL tại các buổi
lấy lời khai và một số hoạt động tố tụng khác áp dụng đối với các đối
tượng TGPL.
Thứ năm, xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp cho phù hợp với thực tiễn, nhằm đảm bảo tính
răn đe cho những tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm túc trong quá
trình thực hiện TGPL.
Từ thực tiễn hoạt động TGPL và định hướng của Đảng, Nhà nước, để
nâng cao vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS nói riêng, trong hoạt động
TGPL nói chung, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần xây dựng văn bản quy định cụ thể về trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phối hợp với TGVPL trong hoạt
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TGVPL trong TTHS
động TTHS để TGVPL có căn cứ thực hiện trên thực tế một cách hiệu quả
73
hơn nữa.
Hội đồng phối hợp liên ngành trung ương có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo
trực tiếp công tác phối hợp của ngành về TGPL; thống nhất về biểu mẫu
thống kê toàn quốc về Hội đồng liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác thống kê, báo cáo hàng năm. Các thành viên của Hội đồng có văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp đối với cơ quan tố tụng cấp huyện thuộc nghành
quản lý, tạo sự phối hợp có hiệu quả trong TGPL;
Thứ hai,tăng cường công tác thông tin, truyền thông về TGPL nói chung
và quyền được TGPL của người dân nói riêng.
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 đã dành riêng một điều quy
định về việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu
số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến việc phổ biến, tuyên truyền thông qua truyền thông về TGPL, tư
vấn pháp luật.
Tăng cường công tác truyền thông TGPL về cơ sở, đây là điều kiện
thuận lợi để người dân được tiếp cận và nghe tuyên truyền, phổ biến những
đạo luật liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Tuy nhiên, đối với các đối
tượng có tính chất đặc thù thì cũng cần phải có giải pháp đặc thù, bảo đảm
truyền tải chính sách, pháp luật đến với họ. Vì vậy, cùng với việc tăng cường
các đợt truyền thông TGPL về cơ sở thì cần phải xây dựng nội dung và trực
dân tộc thiểu số để người dân tiếp cận pháp luật được tốt hơn.
Đa dạng hóa các phương thức truyền thông về TGPL (qua báo, đài phát
thanh, truyền hình, internet,...) phù hợp với từng đặc thù địa bàn, trình độ dân
trí của người dân, đặc biệt là phù hợp với nhóm người dân tộc thiểu số, chẳng
hạn xây dựng video, kịch bản liên quan đến câu chuyện pháp luật; đối với các
tiếp tuyên truyền pháp luật bằng cả hai thứ tiếng: Tiếng phổ thông và tiếng
dân tộc có chữ viết thì biên soạn tài liệu bằng tiếng dân tộc, có sự phối hợp
74
giữa tổ chức thực hiện TGPL với các cơ quan thông tin, đại chúng.
Bên cạnh đó, cần cung cấp đầy đủ bảng tin, hộp tin TGPL đặt tại các cơ
quan tiến hành tố tụng, Tại tạm giam, nhà tạm giữ; Dịch tờ gấp pháp luật, các
luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người dân sang tiếng dân
tộc thiểu số (đối với những nơi người dân tộc thiểu số có chữ viết và biết
đọc); Vẽ tranh/diễn kịch giới thiệu về TGPL; Xây dựng các bảng thông tin về
TGPL đặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nhà sinh hoạt thôn; Cử người thực hiện
TGPL trực tại một số cơ quan tiến hành tố tụng, Ủy ban nhân dân xã để tiếp
nhận và thực hiện TGPL cho người dân; Thực hiện phóng sự truyền thông về
các vụ việc thành công phát trên các phương tiện thông tin ở Trung ương và
tại các địa phương có vụ việc[26].
Thứ ba,tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
cử Luật sư hoặc TGVPL tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc đại diện ngoài tố tụng cho người
được TGPL; chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân các cấp địa phương và
các đơn vị hữu quan tổ chức hòa giải các vụ việc ở cơ sở.
Các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ, Đồn biên
phòng tạo điều kiện hơn nữa cho Trợ giúp viên, Luật sư thực hiện TGPL
trong việc gặp gỡ, trao đổi với người được TGPL đang bị tạm giữ, tạm giam
và trong các hoạt động khác. Thiết lập mạng lưới tại cơ sở: các thiết chế có
thể giúp người dân tiếp cận TGPL: UBND cấp xã; công chức tư pháp, hộ tịch;
hội nông dân; hợp tác xã .v.v..
Bên cạnh đó, cần tăng cường việc trao đổi, phản ánh giữa các cơ quan
Tố tụng với Trung tâm TGPL nhà nước về chất lượng vụ việc đại diện, bào
chữa đã thực hiện của TGVPL, chú trọng việc kiểm tra, giám sát, đánh giá
chất lượng thực hiện công việc được giao của người thực hiện TGPL và người
tổ hòa giải; già làng, trưởng bản, người có uy tín; cán bộ phụ nữ; công an xã;
tiến hành tố tụng; cử cán bộ, viên chức tham dự lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư
gian tới.
75
do Học viện Tư pháp tổ chức làm cơ sở bổ sung nguồn TGVPL trong thời
Tạo điều kiện cử người trong các cơ quan tố tụng tham gia làm Cộng
tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước để kịp thời tư vấn cho các đối
tượng khi có yêu cầu. Các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại tạm giam, Nhà
tạm giữ tạo điều kiện hơn cho TGVPL, Luật sư cộng tác viên trong việc
gặp gỡ, trao đổi với người được TGPL đang bị tạm giữ, tạm giam và trong
các hoạt động khác.
Công tác kiểm tra của các thành viên đã thực hiện phải được Trung tâm
tổng hợp và gửi cho các thành viên Hội đồng; việc nghiên cứu hồ sơ của trợ
giúp viên còn ít thời gian, dẫn đến việc tham gia tố tụng hiệu quả còn hạn chế
nhất định, đề nghị phải thực hiện nghiêm túc việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, vì
mục tiêu chung là bảo vệ pháp chế, nên không có lý do gì để gây khó khăn
khi thực hiện nhiệm vụ.
Thứ tư,hoàn thiện thể chế để kiểm soát chất lượng vụ việc TGPL. Hiện
nay, việc kiểm soát chất lượng vụ việc mới chỉ tập trung ở đầu ra của vụ việc
mà chưa chú trọng đến toàn bộ quá trình thực hiện TGPL nên Trung tâm
TGPL rất khó có giải pháp khắc phục hậu quả những vụ việc kém chất lượng
do không còn điều kiện để TGPL tiếp. Vì vậy, bên cạnh việc kiểm tra, thanh
tra định kỳ của các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, cần xây dựng quy
trình giám sát chất lượng vụ việc TGPL trong tất cả các khâu của quá trình
thực hiện TGPL ngay từ khi thụ lý đơn yêu cầu cho đến khi kết thúc vụ việc.
TGPL) gắn kết, có sự tham gia của bên thứ ba là các luật sư có uy tín, kinh
nghiệm trong hoạt động TGPL. Từ kết quả kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ
việc TGPL, hàng năm, Cục TGPL phải công bố các trung tâm, các tổ chức
tham gia TGPL đạt chuẩn về chất lượng dịch vụ, qua đó, một mặt tạo ra
thương hiệu cho TGPL, mặt khác giúp cho người dân có cơ sở để lựa chọn tổ
Xây dựng mô hình giám sát, đánh giá của các chủ thể quản lý (chủ yếu là Cục
chức có uy tín để họ gửi niềm tin và đồng thời tạo căn cứ để các trung tâm
76
đánh giá, xếp hạng TGVPL, thúc đẩy họ nâng cao tinh thần trách nhiệm.
Thứ năm,cần quan tâm cấp kinh phí đặc thù như kinh phí thù lao cho
Luật sư tham gia tố tụng, kinh phí đặt biển thông tin, hộp tin về TGPL; các
ngành thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành dự toán kinh phí cần thiết
để triển khai thực hiện công tác phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng
của ngành trong dự toán kinh phí hàng năm.
Đồng thời, tiếp tục hỗ trợ tài chính thông qua các Dự án Quốc tế,
Chương trình quốc gia để đẩy mạnh hoạt động TGPL cho đồng bào dân tộc
thiểu số. Cần có quy định về cơ chế phối hợp thực hiện các Đề án kết hợp
lồng ghép các Chương trình, mục tiêu quốc gia, qua đó huy động tối đa các
nguồn lực, sự hỗ trợ của cơ quan, ban ngành, các tổ chức có liên quan ở địa
phương. Đề nghị chuyển giao nguồn kinh phí thuộc lĩnh vực TGPL trong các
Chương trình về Bộ Tư pháp quản lý. Cần tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở
vật chất, thiết bị văn phòng, phương tiện cho Trung tâm TGPL vì hiện nay
nguồn kinh phí, phương tiện phục vụ cho công tác TGPL từ ngân sách tỉnh
nhà còn rất hạn hẹp.
Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa công tác kiểm tra sát sao việc thực hiện
Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành; kiểm tra về tình hình tổ chức
và hoạt động TGPL tại địa phương; kiểm tra việc thực hiện Luật TGPL năm
2017, Nghị định số 144/NĐ-CP; Thông tư số 08/2017/TT-BTP; kiểm tra việc
thực hiện Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg; Nghị định số 80/2015/NĐ-CP
tổ chức thực hiện TGPL; kiểm tra việc thực hiện chính sách TGPL cho người
khuyết tật; kiểm tra việc thực hiện pháp luật về TGPL của các tổ chức chính
trị - xã hội; tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội - nghề
nghiệp v.v .. Kiên quyết có ý kiến đề xuất Lãnh đạo Bộ để xử lý Lãnh đạo các
Trung tâm TGPL không chủ động áp dụng các văn bản mới.
77
ngày 17/9/2015; kiểm tra công tác đánh giá chất lượng vụ việc TGPL của các
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS
và thực trạng áp dụng tại địa bàn tỉnh Lai Châu tại Chương 2, tại Chương này,
tác giả đã đưa ra cơ sở, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò
của TGVPL trong TTHS.
Căn cứ vào những hạn chế, tồn tại và khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện TGPL của mình, đồng thời qua công tác tổng kết, đánh giá về
công tác TGPL hàng năm tại địa bàn tỉnh Lai Châu và một số hoạt động liên
quan, tác giả đã mạnh dạn đưa ra quan điểm cá nhân về việc hoàn thiện pháp
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL nói chung và vị trí, vai trò của
luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS, đồng thời đề xuất những giải
TGVPL trong TTHS nói riêng, góp phần đảm bảo việc áp dụng quy định trên
thực tế đạt hiệu quả và nâng cao chất lượng TGPL.
Các đề xuất, kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật và giải pháp khắc
phục những hạn chế, tồn tại nêu trên là cơ sở, căn cứ để các nhà làm luật và
lãnh đạo địa phương xem xét, quan tâm, tạo điều kiện sửa đổi, bổ sung quy
định về TGPL cũng như quy định về TGVPL để công tác TGPL cho người
nghèo, người dân tộc, người có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác
theo quy định được tiếp cận dịch vụ TGPL, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong TTHS; bổ sung nhân lực, nâng cao hơn nữa năng lực,
78
nghiệp vụ của TGVPL trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Có thể nói trong thời gian qua, Luật TGPL đã đưa công tác TGPL
(TGPL) trở thành cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, thực hiện tốt chính sách
nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nước, đồng thời nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân, phát huy dân chủ ở cơ sở, tích cực tham gia xoá đói,
giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Luật TGPL đã có tác động tích cực
trong việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, nhất là đối với
người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn, góp phần đáng kể vào sự ổn
cũng góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc
định, phát triển nhiều mặt của đời sống xã hội. Đồng thời, công tác TGPL
bảo vệ quyền con người, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới.
Mặt khác, TGPL đã được khẳng định là một chính sách “giảm nghèo về
pháp luật” trong tổng thể các chính sách về giảm nghèo của Đảng và Nhà
nước, cụ thể là Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 -
2010, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình
135 giai đoạn II), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của
Chính phủ và định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm
Qua tìm hiểu về vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS, chúng ta có
thể phần nào hiểu được một số nội dung về khái niệm TGPL, vai trò, vị trí
của TGPL qua các thời kỳ; và hơn hết, từ việc nghiên cứu pháp luật và thực
tiễn áp dụng quy định pháp luật tại địa bàn tỉnh Lai Châu, người đọc có thể
thấy được một “bức tranh” bao quát và đặc thù nhất về vị trí, vai trò của
2020 theo Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ.
hạn chế, tồn tại còn gặp phải trong quá trình thực hiện nhiệm vụ TGPL của
79
TGVPL trong TTHS. Qua đó, thấy được những kết quả đạt được và những
TGVPL, để đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao vị trí, vai trò của TGVPL trong TTHS nói chung và trên địa bàn
tỉnh Lai Châu nói riêng.
Hy vọng rằng, trong thời gian tới pháp luật về vị trí, vai trò của trợ giúp
viên pháp lý trong tố tụng hình sự sẽ ngày càng hoàn thiện hơn nữa để làm cơ
sở, căn cứ cho các Trung tâm trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý thực hiện
80
chính sách trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế trong xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật trợ giúp pháp lý năm 2017
2. Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc triển khai thi hành Luật trợ giúp pháp lý
3. Luật trợ giúp pháp lý năm 2006
4. Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2017 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý
5. Quyết định số 03/2007/QĐ-BTP ngày 01/6/2007 của Bộ trưởng Bộ tư pháp
6. Quyết định số 08/2006/QĐ-BTP ngày 15/11/2006 của Bộ trưởng Bộ tư
về việc ban hành một số biểu mẫu dùng trong hoạt động trợ giúp pháp lý
pháp ban hành Kế hoạch của ngành Tư pháp thực hiện Chỉ thị số
35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủvề việc triển
khai thi hành Luật trợ giúp pháp lý
7. Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 của Bộ trưởng Bộ tư
pháp ban hành Quy chế mấu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước
8. Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý
nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng
9. Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày 23/9/2008 của Bộ tư pháp hướng dẫn
về nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
10. Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của các Nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ
giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật
đến năm 2015”
11. Thông tư liên tịch số 01/2012/TTPT-BTP-UBDT ngày 17/01/2012 của Bộ
người dân tộc thiểu số
81
tư pháp và Ủy ban dân tộc hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý đối với
12. Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày 31/3/2011 của Bộ tư pháp hướng dẫn
bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý
13. Thông tư 07/2012/TT-BTP ngày 30/7/2012 của Bộ tư pháp hướng dẫn về
cộng tác viên trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
II. Sách, công trình nghiên cứu
14. Bàn về khái niệm trợ giúp pháp lý / Tạ Thị Minh Lý // Nhà nước và Pháp
luật. Số 10/2005, tr. 77 – 83.
15. Bàn về phạm vi điều chỉnh của Luật trợ giúp pháp lý / Đỗ Xuân Lân //
Dân chủ và Pháp luật. Số 2/2006, tr. 18 – 20.
16. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong trợ giúp pháp lý / Cù
Thu Anh // Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề: Bảo đảm quyền con
người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp /2014, tr. 92 – 106.
17. Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của công dân / Hoàng Văn Nghĩa //
Nghiên cứu lập pháp. Số 15/2009, tr. 5 – 11.
18. Báo cáo kết quả công tác phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt
động tố tụng các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 của Hội đồng phối hợp
liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng tỉnh Lai Châu.
19. Báo cáo số 158/BC-BTP tổng kết 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý
ngày 30/6/2016 của Bộ Tư pháp.
20. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb
Tư pháp, Hà Nội 2011.
hướng đến năm 2030 ban hành kèo theo Quyết định số 678/QĐ-TTg
ngày 10 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ.
22. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị gồm 6 phần, 53 điều
có hiệu lực ngày 23 tháng 03 năm 1976 - Phần III.
23. Đề tài khoa học cấp Bộ “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng pháp
21. Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định
lệnh trợ giúp pháp lý, Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, năm 2004.
mới, luận án tiến sĩ luật học (2008), Tạ Minh Lý.
82
24. Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi
25.“Gần 50% dân số Việt Nam thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý”, Bảo Hân
Chuyên mục Pháp luật, Báo điện tử đại biểu nhân dân.
26. “Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người
dân tộc thiểu số, Trần Nguyên Tú, Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp.
27. Pháp luật Việt nam về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự, Lê Huỳnh
Tấn Duy, Táp chí Luật học số 11/2018.
28. Pháp luật về trợ giúp pháp lý và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Kạn, luận
văn thạc sĩ luật học (2017), Lường Đức Thắng.
29. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987.
30. Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 02/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh
pháp lý trong hoạt động tố tụng tỉnh Lai Châu.
Lai Châu về việc thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp
31. Sách tham khảo Thực hiện các quyền pháp định trong Hiến pháp năm
2013,tr776.
32. Tiếp cần sớm trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho
các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực hiện, Tuyển tập ấn phẩm
về tư pháp hình sự, Liên hợp quốc, năm 2014.
33. Thanh Trịnh, “Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng”,
website: trogiupphaply.gov.vn.
34. “Trợ giúp pháp lý và việc bảo đảm hoạt động trợ giúp pháp lý cho đối
tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Nguyễn Thị Lan, Trung
35. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ
điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
36. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý, ĐHQGHN.
III. Website
37. http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/vai-tro-cua-tro-giup-vien-
phap-ly-trong-hoat-dong-to-tung
phap-ly-351360.html
83
38. http://baophapluat.vn/tu-phap/lang-tham-cong-viec-cua-tro-giup-vien-
39. http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/gioi-thieu-huong-dan-
cua-lien-hop-quoc-ve-tiep-can-tro-giup-phap-ly-trong-tu
40. http://trogiupphaply.gov.vn/lich-su-phat-trien
41. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2023
42. http://lsvn.vn/tro-giup-phap-ly/hoat-dong-tro-giup/luat-tro-giup-phap-ly-
gop-phan-dam-bao-quyen-cong-dan-24933.html
43.https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/tim-kiem/?type=bai-viet-hoc-
thuat&kw=tr%E1%BB%A3+gi%C3%BAp+vi%C3%AAn+ph%C3%A1
p+l%C3%BD&pid=2&psize=10
44. https://lic.vnu.edu.vn/vi
45. http://thuvien.hlu.edu.vn/
46. https://thegioiluat.vn/
84
47.http://www.laichau.gov.vn/Channer/tong-quan-lai-chau/1021?mid=4