ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ THỤC CHI

ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM: Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ THỤC CHI

ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM: Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm

bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các

môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định

của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi

có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Thị Thục Chi

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục biểu đồ

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP

LUẬT TIÊU CỰC ....................................................................................... 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ........ 9

1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 9

1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 10

1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực ........................................................ 11

1.1.4. Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 13

1.2. Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực ..................................................... 13

1.2.1. Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật .................................... 13

1.2.2. Thái độ tiêu cực về pháp luật ...................................................................... 14

1.2.3. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật ............................................................ 17

1.3. Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực ................................................. 17

1.3.1. Hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật ................................ 17

1.3.2. Các văn bản quy phạm pháp luật lạc hậu, không khả thi, không công

bằng và khách quan ..................................................................................... 18

1.3.3. Những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch trong

nhận thức về pháp luật................................................................................. 18

1.4. Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật tiêu cực ................................ 19

1.4.1. Các yếu tố vật chất – kinh tế ....................................................................... 19

1.4.2. Yếu tố tư tưởng ........................................................................................... 21

1.4.3. Ý thức đạo đức, tập quán, truyền thống ...................................................... 23

1.4.4. Chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật ................................................ 26

1.4.5. Thông tin pháp luật ..................................................................................... 27

1.4.6. Giáo dục và tuyên truyền pháp luật ............................................................. 29

1.5. Tiêu chí để nhận diện ý thức pháp luật tiêu cực .................................... 30

1.6. Hệ quả của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 36

Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 38

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC Ở

NƢỚC TA. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÓ ..................... 39

2.1. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta .............................. 39

2.1.1. Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ giai đoạn dựng nước đến

trước thời kỳ đổi mới ................................................................................... 39

2.1.2. Thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn từ đổi mới

đến nay ........................................................................................................ 54

2.2. Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta

hiện nay....................................................................................................... 66

2.2.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................................ 67

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................ 71

Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 74

CHƢƠNG 3: NHỮNG YÊU CẦU, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Ý THỨC

PHÁP LUẬT TIÊU CỰC ......................................................................... 75

3.1. Những yêu cầu về việc khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc

ta hiện nay .................................................................................................. 75

3.1.1. Yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế thị trường, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ........ 75

3.1.2. Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân và vì dân ............................................................................ 76

3.1.3. Yêu cầu về xây dựng con người toàn diện .................................................. 79

3.1.4. Yêu cầu về đổi mới hệ thống chính trị ........................................................ 79

3.1.5. Yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế .................................................... 82

3.2. Một số giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam

hiện nay ...................................................................................................... 83

3.2.1. Tạo ra một môi trường pháp lý thích hợp cũng như cơ sở vật chất -

kinh tế cho ý thức pháp luật tích cực phát triển .......................................... 83

3.2.2. Nhận thức lại và thay đổi những tư tưởng, quan điểm pháp luật, đặc

biệt là tư duy pháp lý sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội và điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay ........................................................ 84

3.2.3. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giám sát

việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong đời sống .................................... 85

3.2.4. Có các cơ chế làm tăng hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật ............ 87

3.2.5. Củng cố hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người, bảo đảm

công lý, bình đẳng cho mọi người dân, thực hiện hiệu quả nguyên tắc

dân chủ ........................................................................................................ 90

3.2.6. Tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý

thức pháp luật cho các chủ thể nhận thức trong hoạt động thực tiễn .......... 91

3.2.7. Đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu mỗi cơ quan nhà nước ......... 95

3.2.8. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành văn hóa

liêm chính ................................................................................................... 96

3.2.9. Khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để người dân sử dụng

quyền hợp pháp ........................................................................................... 98

3.2.10. Nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội theo định hướng bảo

đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc ........................................................... 99

Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 101

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 103

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu Tên biểu đồ Trang

Biểu đồ 2.1 Thống kê kết quả điều tra về các chuẩn mực sinh viên căn

cứ để giải quyết mâu thuẫn hoặc xung đột 61

Biểu đồ 2.2 Thống kê điểm CPI về chỉ số cảm nhận mức độ tham

64 nhũng ở Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là

một trong những nhiệm vụ hàng đầu trên con đường đưa đất nước ta vững bước tiến

lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công việc này đòi hỏi sự chung tay của

toàn Đảng, toàn dân cùng đồng lòng, chung sức quyết tâm thực hiện. Nội dung không

thể thiếu của Nhà nước pháp quyền là việc xây dựng một xã hội kỷ cương trong đó

mỗi người dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật, phải có thói quen và lối sống theo

Hiến pháp, pháp luật. Trình độ nhận thức và thực hành các quyền và nghĩa vụ công

dân là điều kiện thiết yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự

hiểu biết đầy đủ và chính xác về pháp luật sẽ làm tăng niềm tin của người dân đối với

pháp luật cũng như nhà nước, góp phần định hướng hành vi đúng đắn của người dân.

Chính vì vậy, quan tâm, lựa chọn những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật

cho nhân dân là một điều vừa cấp thiết, vừa mang tính thường xuyên, liên tục, nhất là

trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế hiện nay.

Thực tế ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, pháp luật chưa thực sự đi vào

đời sống, chưa phải là một công cụ không thể thiếu để điều chỉnh xã hội. Ý thức

pháp luật của người dân còn theo chiều hướng tiêu cực. Các biểu hiện và sản phẩm

của ý thức pháp luật tiêu cực rất đa dạng như tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực;

thiếu hiểu biết pháp luật; không thừa nhận các giá trị của pháp luật hay thực hiện

hành vi trái pháp luật…trở nên khá phổ biến trong đời sống nhân dân; đặc biệt nó

lại trở nên phức tạp và đa dạng hơn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế ngày nay. Nguyên do của vấn đề trên là bởi một mặt, chúng ta chưa có

một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội;

mặt khác, ý thức pháp luật tiêu cực của người dân còn rất phổ biến.

Từ việc nghiên cứu về thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân

Việt Nam từ thực tiễn lịch sử từ thời kỳ lập quốc cho tới hiện nay sẽ cho chúng ta

1

một góc nhìn khách quan, đa chiều và khái quát nhất về vấn đề này, tránh tình trạng

lý giải nguyên nhân và thực trạng một cách không có căn cứ và không nằm trong

mối liên hệ của sự phát triển. Ý thức pháp luật tiêu cực của người dân hình thành và

phát triển đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, truyền thống dân

tộc, văn hóa của các quốc gia, dân tộc đó cùng những quy luật đặc thù do điều kiện

cụ thể đó quy định.

Vì vậy, muốn hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực, xây dựng và nâng cao ý thức

pháp luật tích cực, trước hết chúng ta cần phải nhận thức đúng quy luật hình thành

và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực, những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình

này. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta mới đưa ra được những phương hướng, giải pháp

đúng đắn để nâng cao hiệu quả tác động về mọi mặt nhằm tạo tiền đề cơ bản cho

việc nâng cao ý thức pháp luật của các công dân trong xã hội.

Yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền cùng nền kinh tế thị trường và

hội nhập quốc tế đang đặt ra thách thức đối với công cuộc đổi mới con người toàn

diện – trở thành những công dân có ý thức pháp luật, sống và làm việc theo Hiến

pháp và pháp luật. Đây là lúc chúng ta cần nhìn nhận lại một cách khách quan và

toàn diện về vấn đề ý thức pháp luật tiêu cực – rào cản lớn nhất của công cuộc đổi

mới con người toàn diện ở thời đại mới hiện nay. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý thức

pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại" để nghiên cứu và

trình bày thành công trình khoa học nhằm giành học vị thạc sỹ luật học.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là bước đầu làm rõ các biểu hiện cũng

như quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ

quá khứ cho đến hiện tại; từ đó tìm ra những nguyên nhân của thực trạng này một

cách đa chiều và khách quan nhất; đồng thời đóng góp một số phương hướng và

giải pháp nhằm cải thiện thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực, góp phần nâng cao ý

thức pháp luật trong người dân trong thời kỳ mới.

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Xác định được nội hàm các khái niệm “ý thức pháp luật tiêu cực”; đặc điểm

2

và cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực; chỉ ra được các biểu hiện cũng như các

sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực; các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng tới quá

trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật tiêu cực; cũng như các tiêu chí để hạn

chế ý thức pháp luật tiêu cực.

- Chỉ ra được thực trạng hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu

cực của người dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Khái quát được những nguyên

nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân Việt Nam hiện nay;

- Từ việc làm rõ những vấn đề đang đặt ra, luận văn đề xuất một số giải pháp

cơ bản để giải quyết những vấn đề đó. Từ đó, chúng ta có thể thúc đẩy quá trình

hình thành, phát triển ý thức pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao ý thức pháp luật

của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.

3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

- Luận văn đã trình bày và thể hiện tương đối có hệ thống các yếu tố cơ bản

ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực.Trước

đây, chúng ta chỉ nghiên cứu chung về phương diện ý thức pháp luật nói chung

nhưng chưa có nghiên cứu chuyên sâu về mặt tiêu cực trong ý thức pháp luật. Luận

văn bước đầu có những nghiên cứu về vấn đề này, chỉ ra được những nội hàm cơ

bản của ý thức pháp luật tiêu cực, các biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp

luật tiêu cực, các tiêu chí để hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực.

- Làm rõ và phân tích thực trạng của quá trình hình thành và phát triển ý thức

pháp luật tiêu cực ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đến ngày nay để tìm ra

được nguyên nhân của thực trạng này một cách khách quan và đa chiều nhất.

- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp góp phần hạn chế và cải thiện ý

thức pháp luật tiêu cực, nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ta trong giai

đoạn hiện nay..

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.

- Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam

từ truyền thống cho đến hiện đại.

3

- Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về ý thức pháp luật tiêu cực ở các phương diện như:

khái niệm, các biểu hiện và các sản phẩm, các yếu tố tác động, thực trạng cũng như

nguyên nhân của ý thức pháp luật tiêu cực.

Khi nghiên cứu về ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật tiêu cực

nói riêng, thông thường chúng ta sẽ có cách tiếp cận trên các đối tượng khác nhau

như: ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý

thức pháp luật tiêu cực của toàn xã hội. Tuy nhiên, vì giới hạn dung lượng cũng như

bản thân tác giả luận văn muốn tập trung nghiên cứu chuyên sâu hơn nên luận văn

có giới hạn phạm vi nghiên cứu là ý thức pháp luật của các cá nhân người dân – bộ

phận những người không trực tiếp có quyền lực trong tay. Tuy nhiên, trong quá

trình nghiên cứu, tác giả luận văn vẫn nhìn nhận rằng ý thức pháp luật tiêu cực của

cá nhân, của nhóm hay của xã hội đều có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.

Đặc biệt luận văn nghiên cứu, khai thác vấn đề theo chiều dài của lịch sử

Việt Nam từ thời kỳ lập nước đầu tiên đến thời điểm hiện nay để có góc nhìn đa

chiều, khách quan về vấn đề này. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp phù hợp với

sự phát triển của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực trong thời kỳ lịch sử mới, để

khắc phục thực trạng này, cũng như tạo được những tiền đề cơ bản góp phần xây

dựng và nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay.

5. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những nội dung liên quan đến ý thức pháp luật, thời gian qua đã có nhiều tác

giả quan tâm và nghiên cứu dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Điều đó tùy

thuộc vào mục đích nghiên cứu và các phương pháp sử dụng cụ thể.

5.1. Các công trình, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước

"Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" (Đề tài

KX-07-17, Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật);

"Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng" (Đề tài KHXH 05.05. Chủ nhiệm: GS.TSKH Đào Trí Úc)...

5.2. Luận án tiến sĩ

“Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ

4

của Lê Đình Lập, 1997.

“Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam”,

Luận án Tiến sĩ của Đào Duy Tấn. Luận án đã nghiên cứu và chỉ ra những quy luật

của sự hình thành ý thức pháp luật; những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức

pháp luật ở Việt Nam (có ảnh hưởng của lệ làng; tư tưởng phong kiến Trung Quốc,

thực dân xâm lược; chiến tranh; cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; nền kinh tế thị

trường…); từ đó, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật

của người dân.

5.3. Sách, báo, tạp chí

5.3.1. Sách

Sách chuyên khảo “Xã hội và pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

1994. Các tác giả của cuốn sách đã xem xét vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ

thống các quy tắc xã hội và cho rằng pháp luật là một giá trị xã hội to lớn cần được

duy trì và phát triển. Trong cuốn sách có một số bài trình bày sự ảnh hưởng của các

yếu tố văn hóa làng, cộng đồng truyền thống, chiến tranh, các hệ thống pháp luật

nước ngoài đối với sự hình thành và phát triển của pháp luật và ý thức pháp luật ở

Việt Nam. Các tác giả cũng nhận định rằng, đây là những yếu tố không thể không

tính đến khi xây dựng và ban hành pháp luật ở nước ta.

Sách chuyên khảo “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia, 1995, Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai. Tác giả cuốn sách nghiên cứu vấn

đề bản chất giáo dục pháp luật, quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục tư

tưởng, chính trị, đạo đức; mục đích và vai trò của giáo dục pháp luật; nội dung, hình

thức, phương pháp giáo dục pháp luật.

Sách chuyên khảo “Giáo dục pháp luật và quá trình hình thành nhân cách”,

Nhà xuất bản Pháp lý, 1990, Nguyễn Đình Đăng Lục. Tác giả cuốn sách phân tích

sự hình thành của nhân cách và vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành

nhân cách của người chưa thành niên; pháp luật và đặc điểm của giáo dục pháp luật

đối với người chưa thành niên. Tác giả nhấn mạnh công tác giáo dục cần chú ý tới

5

yếu tố tư tưởng, tình cảm, tâm lý… của độ tuổi chưa thành niên.

5.3.2. Báo, tạp chí

“Bàn về ý thức pháp luật”, Tạp chí Luật học, GS.TS Hoàng Thị Kim Quế,

2003. Bài viết chỉ ra nội hàm của khái niệm ý thức pháp luật. Đồng thời, tác giả bài

viết cũng chia sẻ vấn đề trước đây, mọi người hầu như chỉ đề cập đến tâm lý pháp

luật mà chưa có sự quan tâm thỏa đáng đến hệ tư tưởng pháp luật (quan điểm, lý

luận, tư tưởng, khoa học pháp lý…) Những sản phẩm của ý thức pháp luật: nền

khoa học pháp ý, tư duy pháp lý, hệ thống các văn bản pháp luật, lối sống tuân theo

pháp luật, nhu cầu về thông tin pháp luật.

“Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

Nguyễn Thị Hồi, 2008. Tác giả bài viết đã nhận định hai hiện tượng ý thức pháp

luật và văn hóa pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và có tác động đến suy nghĩ

và nhận thức về hành vi pháp luật của các cá nhân, cũng như có vai trò quan trọng

trong quá trình hoàn thiện pháp luật.

“Yếu tố tâm lý pháp luật trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2004, Nguyễn Minh Đoan. Tác giả bài viết

tập trung phân tích vai trò của tâm lý pháp luật trong việc củng cố và nâng cao ý

thức pháp luật; đồng thời chỉ ra những biểu hiện của ý thức pháp luật tiêu cực để từ

đó đề ra những giải pháp nhằm có những đổi mới tích cực trong ý thức pháp luật ở

Việt Nam hiện nay.

“Ý thức pháp luật và đời sống xã hội”, Tạp chí Luật học, 2006, Nguyễn Minh

Đoan. Tác giả bài viết phân tích mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với việc hoàn

thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật bao gồm tất cả các

khía cạnh của đời sống pháp lý, là hệ thống lý luận thống nhất, nhất quán về pháp

luật. Theo tác giả, ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xây dựng

pháp luật của nhà nước và sự tuân thủ pháp luật hiện hành trên quy mô toàn xã hội.

“Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng

làng xã Việt Nam”, Lê Minh Thông. Tác giả bài viết chỉ ra mối quan hệ có sự tác

động qua lại giữa luật nước với lệ làng – là hai mặt của một thể chế chính trị pháp lý

6

được quy định và chi phối bởi các điều kiện lịch sử cụ thể. Đồng thời, tác giả có

những đề xuất về việc phát huy các tư tưởng tốt đẹp của hương ước nhằm tạo dựng

môi trường pháp lý mới ở nông thôn Việt Nam.

“Những đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của người Việt

Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2018, Phạm Vĩnh Hà. Tác giả bài viết đóng

góp một góc nhìn về mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và tâm sinh lý của người

Việt Nam. Các đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật là cố kết cộng

đồng, tâm lý đám đông, thụ động, coi trọng tình cảm, thờ ơ, vô cảm…

“Xây dựng lối sống theo pháp luật: Nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1993, Vũ Minh Giang. Bài viết đề cập đến việc xây

dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống của nước ta. Vấn

đề này được tác giả trình bày qua ba nội dung chính: vấn đề luật và tục trong lịch sử

Việt Nam; vấn đề ý thức công dân và lối sống theo pháp luật; một số ý kiến của tác

giả nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật dựa trên các yếu tố lịch sử truyền thống

và tình hình thực tế.

Trong các công trình này, các tác giả đã đề cập một số vấn đề rất cơ bản,

như: tổng quan, nội hàm của ý thức pháp luật dưới góc nhìn lý luận và pháp lý; yếu

tố tư tưởng và tâm lý pháp luật; thực trạng hiểu biết pháp luật của người dân; việc

giáo dục pháp luật và những vấn đề đang đặt ra ở thời điểm hiện nay…

Nhìn tổng thể, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công trình được

xuất bản về ý thức pháp luật, nhưng chưa có nhiều các nghiên cứu về sự phát triển

của ý thức pháp luật tiêu cực theo chiều dài của lịch sử cũng như những đòi hỏi đặt

ra của quá trình nâng cao ý thức pháp luật để phù hợp với những điều kiện khách

quan của thời đại ngày nay.

6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa: chủ nghĩa duy vật lịch sử,

chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

- Các phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,

khảo sát, phương pháp logic, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp chứng

7

minh, phương pháp tổng hợp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng

khảo sát, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về ý thức pháp luật tiêu cực.

Chương 2. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta. Nguyên nhân

của thực trạng đó.

8

Chương 3. Những yêu cầu và giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC

1.1. Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực

1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực

Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về ý thức pháp luật tiêu cực. Ý

thức pháp luật tiêu cực là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật. Cũng như ý thức pháp

luật, ý thức pháp luật tiêu cực là một bộ phận của ý thức xã hội ra đời từ thực tiễn

đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật tiêu cực cũng xuất hiện

cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội mà

trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể hiện trong các luật lệ nhà nước. Ý

thức pháp luật tiêu cực xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Nó là sản

phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng,

quan điểm, quan niệm trong xã hội.

Dưới góc độ tiếp cận luật học, có thể quan niệm về ý thức pháp luật tiêu cực

là trình độ hiểu biết hạn chế hoặc không đúng đắn của các tầng lớp nhân dân về

pháp luật..., là thái độ tiêu cực đối với pháp luật, ý thức không tôn trọng hay coi

thường pháp luật, đó là thái độ tiêu cực đối với hành vi phạm pháp luật và phạm tội.

Bên cạnh đó, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất: “Ý thức pháp luật

tiêu cực là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự

đánh giá một cách tiêu cực của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu

chí cơ bản như: không thấy được sự cần thiết của pháp luật; xem nhẹ hoặc phủ

định vai trò, chức năng của pháp luật; cảm nhận tiêu cực về tính công bằng hay

không công bằng của pháp luật, đúng đắn hay không đúng đắn của các quy định

pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có. Suy

nghĩ tiêu cực về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của cá nhân, nhà

nước, các tổ chức xã hội”

9

Quan niệm này theo tác giả là khá đầy đủ, chi tiết, nói lên được các mặt của ý

thức pháp luật tiêu cực (chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, trình độ hiểu biết đối

với pháp luật và thái độ, sự đánh giá, điều chỉnh hành vi con người theo pháp luật)

1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực

Về cơ bản, cũng như ý thức pháp luật mà các nhà nghiên cứu đều thống nhất

với nhau, ý thức pháp luật tiêu cực có đặc trưng như sau:

Thứ nhất, ý thức pháp luật tiêu cực là một hình thái ý thức xã hội có tính độc

lập tương đối. Với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội, ý thức pháp luật tiêu

cực xuất hiện, nảy sinh trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định, cụ thể là nó ra đời,

biến đổi cùng với nhà nước và pháp luật, tức là khi xã hội đã phân chia thành giai

cấp. Ý thức pháp luật tiêu cực bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức

pháp luật tiêu cực cũng có tính độc lập tương đối, được biểu hiện cụ thể như sau:

- Ý thức pháp luật tiêu cực thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.

Mỗi kiểu nhà nước và pháp luật mới ra đời tương ứng với một kiểu phương thức sản

xuất đã không còn, nhưng ý thức pháp luật của nó vẫn có thể tồn tại dai dẳng trong

tồn tại xã hội mới. Những ý thức pháp luật còn tồn tại đó chính là ý thức pháp luật

tiêu cực, đã không còn phù hợp với tồn tại của xã hội mới, là rào chắn của sự phát

triển mặt tích cực của ý thức pháp luật. “Có khi văn bản pháp luật mới đã ra đời

hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều cá nhân chưa nắm bắt

được do nhiều lý do khác nhau. Hoặc có sự chậm trễ trong việc tiếp cận với tư duy

pháp lý mới của thế giới, của nền luật học nước nhà” [25, tr.12].

- Sự tác động ngược lại của ý thức pháp luật tiêu cực đối với tồn tại xã hội và

đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Sự phụ thuộc vào tồn tại xã hội của ý thức

pháp luật tiêu cực cũng chỉ mang tính tương đối, ý thức pháp luật tiêu cực đến lượt

mình có tác động trở lại vô cùng lớn đối với sự tồn tại xã hội, ý thức chính trị, đạo

đức và các yếu tố thượng tầng kiến trúc chính trị - pháp lý như nhà nước và pháp

luật. Những biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực như tư

tưởng, lý thuyết sai lầm, những quan điểm lệch lạc, thái độ coi thường pháp luật,

hành vi vi phạm pháp luật… có tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội, đến

10

môi trường văn hóa pháp lý và văn hóa đạo đức.

Thứ hai, ý thức pháp luật tiêu cực là hiện tượng mang tính giai cấp. Trong xã

hội có sự phân chia giai cấp, các giai cấp khác nhau luôn có những điều kiện kinh

tế, chính trị, xã hội khác nhau, lợi ích khác nhau và do vậy, ý thức pháp luật tiêu cực

của các giai cấp cũng có những nội dung và hình thức phát triển khác nhau.

Giai cấp thống trị, vì muốn củng cố, duy trì, bảo vệ địa vị chính trị và lợi ích

kinh tế của giai cấp mình, nên luôn luôn tìm mọi cách để hợp thức hóa ý chí của giai

cấp mình thành pháp luật thông qua con đường nhà nước. Pháp luật thể hiện ý chí của

giai cấp thống trị. Ý chí đó được nâng lên thành luật, thành các quy tắc ứng xử mang

tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với toàn xã hội. Pháp luật luôn bảo vệ cho giai

cấp thống trị, là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị để chống lại các giai cấp, tầng

lớp xã hội khác và đưa hoạt động quản lý xã hội đi theo quỹ đạo, ý muốn của mình.

Từ đó, ý thức pháp luật tiêu cực của giai cấp thống trị sẽ có môi trường để phát triển

nếu giai cấp thống trị chỉ quan tâm đến mục tiêu bảo vệ vị thế thống trị của mình

trong xã hội và cho ra các điều luật thể hiện sự ít hoặc không quan tâm đến sự công

bằng, sự đúng đắn, quyền và lợi ích chính đáng của các giai cấp khác.

Các giai cấp, tầng lớp xã hội không được nắm quyền thống trị cũng có ý thức

pháp luật tiêu cực của mình xuất phát từ những mâu thuẫn với giai cấp thống trị về

mặt quyền và lợi ích.

1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực

Là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật nên ý thức pháp luật tiêu cực cũng sẽ có

kết cấu của ý thức pháp luật nói chung.

Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, phương thức phản ánh, người ta phân thành

tư tưởng pháp luật tiêu cực và tâm lí pháp luật tiêu cực; Căn cứ vào mức độ khả

năng phản ánh, nhận thức của các chủ thể về đời sống pháp luật xã hội, người ta

chia thành ý thức pháp luật tiêu cực về mặt lí luận và ý thức pháp luật tiêu cực

thông thường; Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật người ta quan niệm có ý

thức pháp luật tiêu cực của xã hội, ý thức pháp luật tiêu cực của bộ phận, nhóm và ý

thức pháp luật tiêu cực cá nhân. Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể xem

11

xét kết cấu ý thức pháp luật gồm những thành tố cơ bản nhất định. Căn cứ vào tính

chất, nội dung của ý thức pháp luật tiêu cực cùng cách tiếp cận của triết học duy vật

lịch sử, phân chia kết cấu ý thức pháp luật tiêu cực thành 2 bộ phận cơ bản, cụ thể:

- Hệ tư tưởng pháp luật tiêu cực

Khi nói đến hệ tư tưởng là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí

của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật là hệ

thống quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật theo

ý chí của một giai cấp nhất định, được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù,

khái niệm, nguyên tắc... Hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực là hệ thống các vấn

đề được khái quát ở tầm lí luận, bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học

thuyết pháp luật; đề cập một cách tiêu cực, không đúng đắn, chủ quan về vai trò,

bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật

với con người, tự do, công bằng, quyền con người, mối quan hệ giữa quyền và

nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về nhận thức

pháp luật và thực hiện pháp luật.

Có thể kể đến các hệ thống pháp luật lạc hậu, phản tiến bộ, phản cách mạng,

không vì con người. Chẳng hạn, chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và các

quan điểm về một nhà nước chuyên chế, mang tính chất quân phiệt, độc tài và toàn

trị, thậm chí thủ tiêu mọi quyền tự do của con người, khủng bố và đàn áp nhân dân.

- Tâm lí pháp luật tiêu cực được hình thành tự phát, dưới dạng tình cảm,

tâm trạng, thái độ, niềm tin, cảm xúc của con người đối với pháp luật và các hiện

tượng pháp lý. Sự tồn tại của tâm lí pháp luật tiêu cực thường gắn với trạng thái tâm

lí của con người, phản ánh trực tiếp những “cung bậc” tình cảm của con người đối

với các hiện tượng pháp lí cụ thể. Đó là sự thiếu niềm tin, sự không tôn trọng, thù

ghét, ác cảm… về pháp luật; sự thờ ơ, không thừa nhận các giá trị của pháp luật.

Thông qua những thái độ trên mà con người thể hiện tình cảm, niềm tin và thực

hiện hành vi ứng xử của mình trước pháp luật.

Tâm lí pháp luật tiêu cực so với hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực thì

nó phong phú hơn, có tính bền vững và ít biến đổi hơn; “hình thành và biến đổi

12

chậm chạp cùng với những truyền thống, thói quen của con người” [22, tr.135].

Giữa tâm lí pháp luật tiêu cực và hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực có mối

quan hệ qua lại, khăng khít với nhau. Tâm lí pháp luật tiêu cực ra đời và phản ánh

thái độ của con người trước pháp luật một cách tự phát, chưa hoàn chỉnh và chịu

sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực. Ngược lại, sự phát triển của

hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực cũng chịu ảnh hưởng của tâm lí pháp luật

tiêu cực. Đây là hai trình độ phản ánh đời sống pháp luật nhưng có mối quan hệ

tác động lẫn nhau trong sự hình thành ý thức pháp luật tiêu cực; sự đan xen và

mức độ tác động qua lại giữa chúng còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,

xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc.

1.1.4. Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực

Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, ý thức pháp luật tiêu cực

được chia thành ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của

nhóm xã hội và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội.

Ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân là những nhận thức, hiểu biết, tình cảm

tiêu cực về pháp luật của mỗi con người cụ thể, phụ thuộc vào trình độ văn hóa, lối

sống, môi trường hoạt động nghề nghiệp của họ…

Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm là quan điểm, nhận thức, tư tưởng, tình

cảm tiêu cực đối với pháp luật của đại đa số cá nhân của nhóm, có những đặc trưng

đại diện cho nhóm. Ví dụ ý thức pháp luật tiêu cực của nông dân, của công nhân, trí

thức, phụ nữ, học sinh, sinh viên…

Ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội được hiểu là ý thức pháp luật tiêu cực

của giai cấp, những tầng lớp nắm quyền lãnh đạo xã hội, đại diện cho xã hội.

Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội

có cơ sở là ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, nhưng không nên hiểu một cách

máy móc là hai dạng ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và của xã hội nêu trên là

tổng thể những ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân.

1.2. Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực

1.2.1. Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật

13

Học thuyết pháp lý không phải là sản phẩm chỉ có ý nghĩa kinh viện, nó có

ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn nhà nước và pháp luật. Giới quyền lực bao giờ cũng

chịu ảnh hưởng của những quan niệm học thuyết pháp lý nhất định và từ đó hình

thành trước những ý niệm về một nhà nước và hệ thống pháp luật cần phải có. Thực

tế cũng đã chứng minh rằng không có hệ thống pháp luật nước nào có thể đầy đủ

hoàn toàn để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội cần được điều chỉnh và học thuyết pháp

lý bổ sung cho sự thiếu hụt đó.

Học thuyết pháp lý tiêu cực dẫn đến việc hình thành một hệ thống pháp luật

thiếu sót về cơ cấu, về mục đích, nguyên tắc, phương thức điều chỉnh...; ngoài ra

còn có tác động tiêu cực đến việc hình thành những hiểu biết chung, những quan

niệm về các giá trị của công bằng, dân chủ, tiến bộ... từ đó dẫn đến các quyết định

lập pháp, những phán quyết của cơ quan nhà nước thiếu tính khoa học, tính khách

quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Học thuyết pháp lí tiêu cực cũng ảnh hưởng

lớn đối với công tác giáo dục ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Các vấn

đề nhà nước và pháp luật được trình bày dưới dạng hệ thống tri thức khoa học nếu

thiếu tính thuyết phục thì qua đó sẽ thấm sâu vào suy nghĩ, biến thành nếp tư duy và

hành động của người dân.

Các tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật như: Tư tưởng phát

xít là tư tưởng có tính phản động và hiếu chiến nhất, có chủ trương thủ tiêu mọi

quyền tự do cơ bản của con người, khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân, gây chiến

tranh xâm lược để thống trị thế giới.

Do ảnh hưởng của nhận thức cứng nhắc đối với quan điểm học thuyết về bản

chất, phương thức tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa theo kiểu “nửa nhà

nước”, trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, hệ thống các cơ quan nhà

nước đã được tổ chức triển khai sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã

hội, thậm chí bao trùm và che lấp hầu hết các thiết chế của đời sống xã hội dân sự.

1.2.2. Thái độ tiêu cực về pháp luật

1.2.2.1. Thái độ thờ ơ với pháp luật, không tìm hiểu về pháp luật

Bên cạnh những cá nhân có ý thức pháp luật tốt, một bộ phận nhân dân có

14

thái độ hết sức thờ ơ với pháp luật. Họ không có nhu cầu và mong muốn tìm hiểu về

pháp luật. Tình trạng xuất hiện nhiều “lỗ hổng” về kiến thức pháp luật dẫn đến

nhiều hậu quả như làm giảm khả năng của người dân trong việc tự bảo vệ quyền lợi

của mình khi bị xâm phạm, thậm chí còn dẫn đến hành vi trái pháp luật mà chính

bản thân họ cũng không ý thức được về điều đó.

Kiến thức pháp luật của người dân, nhất là ở những vùng nông thôn, miền

núi còn thiếu sót trầm trọng. Những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi,

phổ biến trong cuộc sống nhưng nhiều người khi tham gia vào các quan hệ pháp

luật lại không nắm rõ. Ví dụ hiện nay, trên địa bàn cả nước, số lượng phương tiện

giao thông đang tăng nhanh, số người tham gia giao thông đường bộ rất nhiều,

nhưng điều đáng buồn là rất nhiều trong số đó không biết luật giao thông đường bộ

quy định bao nhiêu tuổi được phép điều khiển xe máy, khi tham gia giao thông bằng

xe máy phải cần những giấy tờ gì… Nhiều người vi phạm pháp luật mà không nhận

thức được hành vi của mình.

Tác giả luận văn đã từng đọc một bài báo đề cập về việc một lần tuyên

truyền pháp luật ở xã Tân Mỹ, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (một xã

miền núi của tỉnh) khi được hỏi thì người dân nghĩ rằng: “Cứ về ở với nhau có

con là gia đình thôi”…

Hay hành vi bạo lực gia đình, vốn vẫn còn xảy ra khá phổ biến và gây nhức

nhối cho xã hội. Người có hành vi bạo lực gia đình do không hiểu biết về pháp luật

nên dẫn đến hành vi vi phạm luật hôn nhân và gia đình, luật hình sự về tội gây

thương tích cho người khác… Nạn nhân của bạo lực gia đình cũng chính vì không

hiểu biết pháp luật nên cam chịu bị đánh đập, sỉ nhục, bạo lực tình dục… trong thời

gian dài. Còn về phía những người thân, họ hàng cũng không hiểu biết pháp luật

nên xem đấy là việc riêng của gia đình, không có động thái can thiệp, trình báo…

Người tham gia giao thông chính vì không có ý thức tìm hiểu kỹ về pháp luật

an toàn giao thông đường bộ nên khi vi phạm giao thông và bị cảnh sát giao thông

bắt phạt thì họ có hành vi chống đối. Bản thân họ không hiểu mình vi phạm giao

thông như thế nào và hành vi chống đối người thi hành công vụ cũng chính là hành

15

vi vi phạm pháp luật.

Lâu nay, không ít người dân còn xem nhẹ pháp luật, chỉ khi hậu quả xảy ra

người ta mới ngỡ ngàng. Khi xẩy ra việc mất nhà cửa, nhiều người mới giật mình,

hoảng hốt khi bản thân do quá chủ quan nên không biết để thực hiện các quy định

thỏa thuận có giấy tờ, cam kết.

1.2.2.2. Thái độ coi thường pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp luật

Pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật vừa mang tính

khách quan xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội khi xã hội đã phát

triển đến một trình độ nhất định vừa mang tính chủ quan, phụ thuộc ý chí nhà nước.

Pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Bên cạnh việc là công cụ để quản lý

Nhà nước một cách hữu hiệu, pháp luật còn góp phần xây dựng một xã hội có trật

tự, kỷ cương, văn minh. Tuy nhiên, nhiều cá nhân lại có thái độ coi thường, xem

nhẹ pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp luật, xem đó là những quy tắc

không cần phải chấp hành theo. Pháp luật bị xếp sau những quy tắc xử sự khác như

thói quen, tập quán, lệ làng, thậm chí là “luật rừng”…

Một hiện tượng đã trở nên thường xuyên xảy ra và công khai chính là việc

thách thức, nhục mạ, tấn công người thi hành công vụ. Hành động chống người thi

hành công vụ thể hiện ở nhiều cấp độ, từ cãi cọ, chửi bới đến xúc phạm nhân phẩm,

tính mạng của nhà chức trách. Các đối tượng vi phạm không chỉ chống người thi

hành công vụ để ngăn cản việc bị xử lý, chạy trốn khi bị bắt giữ mà còn ngang nhiên

khiêu khích, thách thức, đe dọa và chủ động tấn công người đại diện pháp luật, như:

đấm vào mặt hoặc cho xe lao thẳng vào cảnh sát giao thông, hất cảnh sát lên ca-pô rồi

chạy với tốc độ cao, ngăn trở lực lượng cưỡng chế thu hồi hay phá dỡ nhà...

Thay vì sử dụng các quy định pháp luật, đưa vụ việc ra trước các cơ quan có

chức năng thì từ trước tới nay tại nhiều địa phương vẫn xảy ra hàng loạt vụ dùng

“luật rừng” để giải quyết tranh chấp dân sự gây thiệt hại kinh tế lớn cho doanh

nghiệp và môi trường kinh doanh. Các “quy tắc ngầm” được đặt ra và mọi người

xem đó là quy tắc xử sự cao hơn pháp luật, dù nó có xâm phạm đến quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân hay tổ chức nào đó hay không.

16

Chẳng hạn về vụ việc bảo kê ở chợ Long Biên. Để có thể tồn tại buôn bán,

các tiểu thương tại chợ Long Biên phải đóng tiền bến bãi (tiền bảo kê) với mức tiền

là 200 ngàn, nếu là xe to thì phải đóng 350 ngàn đồng, cá biệt có trường hợp theo

phản ánh của tiểu thương phải đóng 100 triệu đồng/năm tiền bến bãi. Nếu tiểu

thương không đóng tiền sẽ không có chỗ đỗ xe để chuyển hàng, thậm chí còn bị gây

cản trở, phá hoại việc kinh doanh buôn bán một cách trắng trợn.

1.2.3. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật

“Tình cảm pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ tích cực hoặc tiêu cực

của chủ thể đối với pháp luật” [15, tr.24]. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật là trạng

thái tình cảm ghét bỏ đối với pháp luật, mất hoặc không có niềm tin đối với sự công

bằng, sự đúng đắn và công lý của pháp luật. Thực tế chỉ ra rằng, qua những vụ việc

thực tế diễn ra hằng ngày, người dân dễ dàng bị tước bỏ niềm tin bởi những tham

nhũng, nhiêu khê trong bộ máy hành chính; những gian lận trắng trợn trong giáo dục,

những dối trá trong công tác y tế, hay sự thiếu hụt của các chế độ trợ cấp và an sinh

xã hội… Cũng chính do việc định hướng tình cảm pháp luật chưa tốt nên trong xã hội

dễ hình thành tâm lý ác cảm đối với cảnh sát, với người đại diện chính quyền.

1.3. Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực

Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực là sự hành vi hóa của tổng thể những

tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá một cách tiêu cực

của con người về pháp luật. Sản phẩm của ý thức pháp luật chủ yếu tập trung ở hai

dạng hành vi chính như sau:

1.3.1. Hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật

Bên cạnh việc không hiểu biết về pháp luật, một số cá nhân dù có hiểu biết

về pháp luật nhưng vẫn có những hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp

luật: luật buộc phải thực hiện nhưng không thực hiện; cấm không được thực hiện

nhưng lại thực hiện.

Chẳng hạn, người tham gia giao thông mặc dù biết hành vi vượt đèn đỏ là

trái với quy định về an toàn giao thông đường bộ và biết rõ hậu quả của việc chen

lấn, xô đẩy có thể dẫn đến tai nạn giao thông nguy hiểm nhưng vẫn cố tình vượt đèn

17

đỏ. Hành vi cố tình làm trái pháp luật này xuất phát từ ý nghĩ vượt đèn đỏ sẽ tiết

kiệm được thời gian cũng như do tâm lý hơn thua đám đông, thấy người ta đi được

thì mình cũng đi được.

Nhiều doanh nghiệp chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà coi thường mạng sống

của người dân, coi thường pháp luật, thậm chí còn gây ô nhiễm môi trường một

cách nghiêm trọng. Hàng loạt doanh nghiệp như vậy đã bị xử phạt mức tiền tỷ trong

những năm gần đây. Môi trường sống trong sạch là tài sản quý báu của nhân loại,

được cả xã hội quan tâm. Chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn nhất quán trước sau

như một là không đánh đổi môi trường lấy kinh tế dù trong tình thế khó khăn nào.

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp chạy theo đồng tiền mà coi thường mạng sống của

người dân, coi thường pháp luật, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các sự cố môi

trường nghiêm trọng do các công ty Công ty gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà

Tĩnh, công ty Vedan… gây ra, nhức nhối trong dư luận xã hội một thời gian trước.

1.3.2. Các văn bản quy phạm pháp luật lạc hậu, không khả thi, không

công bằng và khách quan

Về nguyên lý xây dựng pháp luật, các quy định được ban hành phải dựa trên

nền tảng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của người dân. Nhưng sự thiếu hiểu

biết một cách chuyên sâu và có tính hệ thống, khái quát, khách quan về các học

thuyết, tư tưởng về pháp luật cũng như việc không nhận thức được tầm quan trọng

của pháp luật với tư cách là một công cụ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mỗi công dân sẽ dễ dàng dẫn tới việc các cơ quan có thẩm quyền ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật vi phạm đến quyền con người, lẽ công bằng. Pháp luật

lúc đó sẽ phản tác dụng, không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích

của công dân, cũng như không còn mang tinh thần công bằng, dân chủ. Các văn bản

quy phạm pháp luật đó có thể hạn chế, phủ nhận thậm chí tước bỏ các quyền cơ bản

của con người như quyền được sở hữu tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, quyền

được lập hội, quyền tự do kinh doanh…

1.3.3. Những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch

trong nhận thức về pháp luật

18

Những bài phát biểu, những bài báo xuất phát từ nhận thức chủ quan của các

tác giả. Trước hết, các bài phát biểu, bài báo là sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu

cực khi các tác giả thể hiện nhận thức tiêu cực, yếu kém cũng như sai lệch về các vấn

đề liên quan đến pháp luật. Ngoài ra, các phát biểu, bài báo này có ảnh hưởng tiêu

cực tới người nghe, người đọc; thậm chí, định hướng tiêu cực cho người tiếp cận.

Những phát biểu của cá nhân trên nghị trường, trong các cuộc họp hay các

cuộc thảo luận thể hiện sự yếu kém trong nhận thức về pháp luật. Chẳng hạn, phát

biểu của một vị đại biểu Quốc Hội đề xuất giải pháp chống ngập nước cho người

dân bằng cách “trang bị mỗi nhà một cái lu” còn gây rất nhiều tranh cãi về tính khả

thi, thay vì dùng các giải pháp pháp luật khác có tính thực tiễn và phù hợp hơn.

Bên cạnh đó, những bài viết, bài báo còn thể hiện sự yếu kém, sai lệch về

kiến thức và nhận thức về pháp luật. Chẳng hạn như, xuyên tạc sự thật lịch sử,

những quan điểm lệch lạc, gieo rắc sự hoài nghi, tâm lý hoài nghi trong quần chúng

đối với pháp luật.

1.4. Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật tiêu cực

1.4.1. Các yếu tố vật chất – kinh tế

Ý thức pháp luật phát triển trên cơ sở của điều kiện kinh tế - xã hội. Nó chính

là sự phản ánh những nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế nói chung, đồng thời

lại là hình thức bảo vệ sự phát triển nền kinh tế đó.

C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế

của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng nên một kiến trúc thượng tầng

pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở

hiện thực đó" [1, tr.154]. Cơ sở kinh tế nào quyết định thượng tầng kiến trúc ấy, nên

nó cũng quyết định hình thái ý thức pháp luật. Trong xã hội có giai cấp đối kháng,

mâu thuẫn giữa giai cấp chiếm hữu tư liệu sản xuất với người lao động dẫn đến

cuộc đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp biểu hiện ra thành đấu tranh chính trị.

Như vậy, khi một giai cấp trở thành giai cấp thống trị, thì đường lối chính trị của

giai cấp ấy thông qua bộ máy nhà nước và hệ chuẩn pháp luật mà chi phối tất cả

hình thái ý thức trong thượng tầng kiến trúc; trong đó, pháp luật thể hiện đường lối

19

chính trị một cách cụ thể nhất, trực tiếp nhất.

Luật pháp còn là sự phản ánh các quy luật khách quan của sự phát triển xã

hội, là biểu hiện các quan hệ lợi ích của các nhóm xã hội, các cộng đồng người

trong những điều kiện lịch sử, cụ thể nhất định. Xã hội nào thì pháp luật ấy. Quá

trình phát triển của xã hội và quá trình phát triển của pháp luật bao giờ cũng gắn

liền với nhau, pháp luật không có lịch sử riêng của mình. Điều đó có nghĩa là: người

ta không thể tìm bản chất của pháp luật, những nguyên nhân phát sinh và phát triển

của nó ở chính bản thân pháp luật, tách rời khỏi đời sống kinh tế và chính trị của xã

hội mà trong đó pháp luật tồn tại và tác động.

Mác đã đưa ra nguyên lý hết sức cơ bản trong tác phẩm "Phê phán kinh tế

chính trị học" là: pháp luật không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát

triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó tạo ra. Như vậy, pháp luật, suy cho

cùng, là sự biểu hiện về mặt hình thức pháp lý những nội dung kinh tế mà thôi.

Pháp luật luôn tồn tại trong khuôn khổ của cơ chế kinh tế và có nhiệm vụ điều chỉnh

các quan hệ kinh tế, phát sinh từ cơ chế kinh tế; đồng thời, đảm bảo sự phát triển

bền vững của cơ chế kinh tế. Do đó, chỉ những luật pháp (những đạo luật) nào phù

hợp với những điều kiện kinh tế của xã hội, với những khả năng thực tế của sự phát

triển xã hội mới thực hiện được vai trò của mình, phát huy được tác dụng, tức là

mới có hiệu quả. Ngược lại, những luật pháp nào do nhà nước ban hành mà không

phù hợp với những yêu cầu của những quy luật kinh tế đang tồn tại (hoặc mâu thuẫn

với chúng) sẽ không thể tồn tại trong đời sống xã hội.

Pháp luật lại có con đường phát triển riêng, có tính độc lập tương đối của

mình, nó không hoàn toàn trùng với sự phát triển của kinh tế. Vì thế, việc phản ánh

yêu cầu của những quy luật xã hội khách quan trong pháp luật cũng rất phức tạp, đa

dạng. Nó liên quan đến rất nhiều yếu tố mà trực tiếp nhất là khả năng nhận thức và

vận dụng các quy luật khách quan của giai cấp thống trị, kẻ nắm nhà nước trong tay

và là người xây dựng ra pháp luật.

Nói cách khác, ý thức pháp luật và pháp luật chỉ thể hiện những yêu cầu

của các quy luật khách quan, những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, khi giai cấp

20

thống trị trong xã hội đã nhận thức ra những yêu cầu của các quy luật đó. Khi giai

cấp thống trị không thấy, không nhận thức được bản chất của những yêu cầu thực

tế, những quy luật tồn tại một cách khách quan trong đời sống xã hội, thì những

luật pháp, những quy định pháp lý mà họ ban hành đương nhiên là duy ý chí, đi

ngược lại với quyền và lợi ích của người dân, xa rời thực tế. Khi pháp luật không

gắn liền với thực tại cuộc sống, không gắn bó thiết thực thậm chí đi ngược lại với

quyền và lợi ích của người dân thì họ sẽ không thừa nhận giá trị của pháp luật,

không tuân thủ pháp luật.

1.4.2. Yếu tố tư tưởng

Hệ tư tưởng, theo quan điểm triết học, "là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội,

là hệ thống những quan điểm, tư tưởng, chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn

giáo...", là "kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội" [18, tr.540].

Như vậy, hệ tư tưởng cũng là một bộ phận của ý thức xã hội, nhưng ở "trình độ cao

của ý thức xã hội". Nó được hình thành một cách tự giác, nghĩa là được tạo ra bởi

các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội. Là một

bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng cũng là sự phản ánh tồn tại xã hội - cái mà pháp

luật cũng phản ánh theo phương thức của mình. Như thế, do có chung một khách

thể phản ánh, lại cùng là các bộ phận trong ý thức xã hội, nên ý thức pháp luật nói

chung và ý thức pháp luật nói riêng không thể không có mối quan hệ, không thể

không bị ảnh hưởng bởi hệ tư tưởng trong xã hội, đặc biệt là hệ tư tưởng chính thống -

hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị có xu hướng

chuyển hóa thành ý thức của toàn xã hội. Trong khi đó, ý thức của toàn xã hội thì lại

có ảnh hưởng quyết định đến ý thức của từng cá nhân trong xã hội.

Trong lịch sử, các học thuyết, các trường phái thuộc lĩnh vực hệ tư tưởng đều

mang tính giai cấp rõ rệt. Mỗi học thuyết, trường phái đó đều là sự phản ánh trong

nó quyền lợi kinh tế, chính trị - xã hội và ý chí của một giai cấp. Chúng nảy sinh,

tồn tại và được phát triển (hoặc bị thủ tiêu) theo những hoàn cảnh lịch sử nhất định.

Vì thế, ở mỗi một giai đoạn, mỗi thời đại, bất kỳ hệ tư tưởng chính thống nào cũng

là một trong những nhân tố có tác động quyết định sự hình thành và phát triển của

21

các tư tưởng cá nhân tồn tại trong xã hội đó, trong đó có ý thức pháp luật tiêu cực.

Chẳng hạn, hệ tư tưởng tư sản có ảnh hưởng quyết định đến ý thức pháp luật

trong xã hội tư bản. Trong thời kỳ chuyển biến từ xã hội phong kiến sang xã hội tư

bản, do có sự thay đổi về hệ tư tưởng nên tính chất và nội dung của ý thức pháp luật

và pháp luật cũng bị thay đổi theo. Vào buổi bình minh của chủ nghĩa tư bản, ý thức

pháp luật và pháp luật tư sản được hình thành trên cơ sở những tư tưởng nhân văn và

tiến bộ thuộc nhiều trường phái tư tưởng của những thế kỷ Trung đại, Ánh sáng...;

điển hình trong giai đoạn này là tư tưởng về thuyết tam quyền phân lập, mà người đại

diện cho nó là nhà xã hội học người Pháp - Montesquieu.

Nhưng khi chủ nghĩa tư bản bước vào thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, hệ tư tưởng

đế quốc, phát xít, quân phiệt hình thành, thì pháp luật và ý thức pháp luật của thời

kỳ đó theo xu hướng phản động, phản dân chủ và chống lại loài người. Người dân

có thái độ chống đối lại với thứ pháp luật này, có sự ác cảm đối với pháp luật, lâu

dần ý thức pháp luật theo đó cũng trở nên tiêu cực hơn.

Ở Á Đông, ý thức pháp luật và pháp luật của Nhật Bản, Trung Quốc, Việt

Nam luôn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo. Có thể dễ dàng tìm thấy

rất nhiều quy định trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam thể hiện những tư

tưởng của Đạo Nho. Ví dụ như quy định về mười tội ác (thập ác) trong Quốc triều

hình luật nhà Lê. Đó đều là những tội ác mà việc vi phạm nó cũng chính là vi phạm

vào đạo, vào lễ giáo phong kiến của nhà Nho, bảo vệ quyền uy tối thượng của vua,

bảo đảm sự bền vững của ngôi vua.

Bên cạnh đó, luật pháp trong thời kỳ phong kiến mà hệ tư tưởng là Nho giáo

ở nước ta còn tồn tại nhiều điều không hợp lý dẫn đến ý thức pháp luật tiêu cực. Có

thể kể đến là tính chất liên lụy, một người gây án cả họ phải chịu tội lây, khiến cho

bao người bị oan uổng, đẩy họ vào chỗ chết hoặc buộc họ phải chống lại. Đó còn là

sự bưng bít, không phổ biến các điều luật cho dân biết, nên khi xét xử chẳng ai biết

đó là đúng luật hay không đúng luật, tất cả đều phụ thuộc vào ý chí của quan tòa, và

cao hơn là Vua….

Những minh chứng trên cho thấy, hệ tư tưởng là một nhân tố rất quan trọng,

22

có ảnh hưởng to lớn đến quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật nói

chung và ý thức pháp luật tiêu cực nói riêng. Những ảnh hưởng này được thể hiện

rõ nét nhất vào thời kỳ của các cuộc đảo lộn xã hội: cách mạng xã hội, cải cách

pháp luật, cải cách thể chế chính trị, kinh tế, xã hội…

1.4.3. Ý thức đạo đức, tập quán, truyền thống

+ Ý thức đạo đức

Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức mặc dù có phạm vi và hình thức tác động

khác nhau, nhưng hai hình thái ý thức này có mối liên hệ rất mật thiết, ảnh hưởng

qua lại lẫn nhau.

Có thể hình dung dưới dạng phổ quát nhất ý thức đạo đức là: "Toàn bộ những

quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về

những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa

các nhân với cá nhân trong xã hội" [18, tr.547].

Các chuẩn mực đạo đức cũng không có tính đồng nhất, có những chuẩn mực

được thừa nhận chung là đạo đức, truyền thống của cả một dân tộc, nó được khẳng

định qua thời gian và giữ nguyên giá trị thực tiễn cho đến sau này. Cũng có những

chuẩn mực riêng cho những tầng lớp và nhóm dân cư nhất định.Tiêu chuẩn đầu tiên

đánh giá hành vi đạo đức là ở tính tự giác của nó và pháp luật nhiều khi không thể

điều chỉnh được mọi quan hệ xã hội. Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh các

quan hệ xã hội một cách nhanh nhạy hơn, rộng khắp hơn, song cũng phức tạp hơn.

Đạo đức không thể thiếu trong đời sống xã hội; không có đạo đức, con người sẽ mất

nhân tính - cái bản chất để được gọi là người; thiếu nó, trật tự kỷ cương xã hội sẽ

nhiễu loạn. Vì thế, pháp luật và đạo đức không thể tách rời nhau.

Như vậy, trong quan hệ với ý thức đạo đức, ý thức pháp luật luôn là sự thể

hiện một chuẩn mực đạo đức nào đó, và như thế, nếu phối hợp được những ưu thế

của ý thức đạo đức và ý thức pháp luật sẽ tạo ra được hiệu quả điều chỉnh rất hữu

hiệu của pháp luật trong đời sống xã hội. Đây cũng là một trong những điều kiện

đảm bảo hiệu quả thực tế của pháp luật. Pháp luật phải phù hợp với đạo đức hoặc ít

nhất thì cũng không được trái với đạo đức. Nếu pháp luật đi ngược lại với các quy

23

chuẩn đạo đức của xã hội sẽ dễ dẫn đến tình trạng các quy định pháp luật thiếu đi

tính thực tế. Pháp luật không còn là công cụ để bảo vệ những giá trị tốt đẹp, nhân

văn của con người, không còn hợp tình và hợp lý dẫn đến tình trạng người dân

không thừa nhận giá trị của pháp luật, hay cố tình làm trái pháp luật… gây nên tiền

đề ý thức pháp luật tiêu cực.

Có những quy chuẩn đạo đức không còn có giá trị với điều kiện thực tế ngày

nay, nhưng nó lại ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân từ đời này sang đời khác khiến

họ có những hành vi trái pháp luật. Chẳng hạn như: tư tưởng đạo đức truyền thống

của cha ông ta là có hiếu với ông bà, cha mẹ, đùm bọc, che chở cho người thân

trong gia đình. Tuy nhiên,theo quy định của pháp luật, trong một số trường hợp,

việc bao che hành vi phạm tội của người thân xuất phát từ tư tưởng đạo đức lại trở

thành hành vi trái pháp luật. Bộ luật Hình sự 2015 quy định về việc không tố giác

tội phạm của bố, mẹ người phạm tội như sau: Người không tố giác là ông, bà, cha,

mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì sẽ không phải

chịu trách nhiệm về việc không tố giác. Tuy nhiên, trong trường hợp không tố giác

các tội liên quan xâm phạm an ninh quốc gia và tội đặc biệt nghiêm trọng khác thì

các đối tượng nêu trên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

+ Tập quán, truyền thống

Nói đến tập quán, truyền thống là nói đến những giá trị nhân tính đã được

đúc kết, chắt lọc và lưu tồn qua các thế hệ, thể hiện thành những thói quen, những

quan niệm, những giá trị tinh thần của xã hội. Tập quán, truyền thống phản ánh cách

ứng xử trong quan hệ của người với người, cá nhân với xã hội, con người với tự

nhiên và trong quan hệ với mình.

Tập quán là một loại quy phạm xã hội tồn tại song hành cùng nhiều loại quy

phạm xã hội khác như pháp luật, đạo đức, tín điều tôn giáo… nhằm điều chỉnh hành

vi ứng xử của con người trong các quan hệ xã hội. Tùy vào điều kiện lịch sử xã hội

riêng mà mỗi dân tộc đều có tập quán, truyền thống riêng. Trong xã hội, pháp luật

chỉ đáp ứng việc điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất, có liên

quan đến lợi ích của toàn bộ quốc gia, còn trên thực tế còn những quan hệ xã hội

24

khác mà pháp luật chưa (hoặc không thể) điều chỉnh tới. Một hệ thống chuẩn mực

khác sẽ làm nhiệm vụ điều tiết các hành vi xã hội, trong đó có tập quán, truyền

thống. Trong "Khế ước xã hội", Rousseau (1712 – 1778) cho rằng phong tục, tập

quán và truyền thống đạo đức, nói chung, dư luận nhân dân là một loại pháp luật

quan trọng hơn cả. Ông viết: “Luật này mỗi ngày lại có thêm sức mới, khi các thứ

luật khác đã già cỗi hoặc tắt ngấm thì luật này thắp cho nó lại sáng lên, hoặc bổ

sung, thay thế nó, duy trì cả dân tộc trong tinh thần thể chế, lẳng lặng đưa sức

mạnh của thói quen thay vào sức mạnh của quyền uy” [19, tr.194].

Tập quán, truyền thống tác động rộng rãi trong xã hội và có ảnh hưởng lên

tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực pháp luật và ý thức pháp luật. Nó có tính

bền vững và ít bị thay đổi. Chức năng của tập quán, truyền thống là để điều chỉnh

các quan hệ xã hội mang tính khu vực, mang tính tộc người. Các thành viên của cộng

đồng thường rất có niềm tin vào tính hợp lý, sự sáng suốt, công bằng của những quy

tắc xử sự chung này. Chúng càng có hiệu lực tuyệt đối nếu như được cụ thể hóa thành

hương ước hoặc lệ làng. Thực tế, các quy tắc này thường ra đời sớm hơn cả luật pháp

và đã trở thành nếp suy nghĩ và hành động bền vững trong nhân dân.

Ví dụ, truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất đấu tranh chống giặc

ngoại xâm là nền tảng làm cho người dân Việt Nam có ý thức chống đối lại nhà

nước và hệ thống pháp luật của giặc ngoại xâm ngay từ buổi đầu bị xâm lược, làm

cho người Việt không bị đồng hóa trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc của phong

kiến phương Bắc. Tuy nhiên, chính yếu tố này lại tạo nên tập quán chống đối lại

pháp luật ở người dân, khiến cho khi đất nước độc lập, tư tưởng này trở thành lối

sống của người dân, tạo nên ý thức pháp luật tiêu cực

Như vậy, trước tiên chúng ta phải nhận thức được rằng, sự tồn tại và vai trò

của yếu tố tập quán, truyền thống là không thể phủ nhận trong việc điều chỉnh các

quan hệ xã hội. Chúng ta không thể loại trừ nó hoàn toàn. Tập quán và truyền thống

sẽ càng được phát huy và không phản tác dụng, khi mà nội dung của nó được lọc bỏ

đi những yếu tố lỗi thời, không tích cực và đưa vào đó những yếu tố mới phù hợp

với trình độ phát triển của thời đại; tránh tình trạng tạo nên ý thức pháp luật tiêu cực

25

trong người dân.

1.4.4. Chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật

Chính sách pháp luật là: "bộ phận trong chính sách đối nội và đối ngoại của nhà

nước. Nó được hiểu là sự thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc sử dụng pháp

luật với tính cách là công cụ quan trọng để quản lý nhà nước, quản lý xã hội; là

những nguyên tắc và khuynh hướng cơ bản mang tính chất chỉ đạo trong việc xây

dựng pháp luật, áp dụng pháp luật; là những phương pháp và biện pháp giúp cho

việc hình thành ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của nhân dân cũng như

các chủ thể khác" [38, tr. 146]. Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của chính

sách pháp luật là tác động lên suy nghĩ và hành vi của con người thông qua lăng

kính pháp luật.

Hệ thống pháp luật là sự biểu hiện và sự phản ánh tập trung nhất của chính

sách pháp luật ở mỗi quốc gia - nó là sự phản ánh những nội dung của chính sách

pháp luật; thậm chí, bản thân nó chính là hình thức thể hiện của chính sách pháp

luật. “Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại

thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành pháp luật, các chế định pháp

luật và được thể hiện trong hệ thống các văn bản quy phạm do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành theo trình tự và hình thức luật định (hình thức bên trong và

bên ngoài của pháp luật)” [38, tr.147]

Từ các khái niệm đã nêu trên có thể hình dung chính sách pháp luật và hệ

thống pháp luật suy cho cùng là nhằm tác động vào ý thức của con người. Ý thức đó

chi phối hành vi của con người, trong đó có hành vi pháp lý - biểu hiện cụ thể là

tuân theo pháp luật hay vi phạm pháp luật. Xuất phát từ những lợi ích và vị trí khác

nhau, mỗi người hay một nhóm người có những yêu cầu và nhu cầu khác nhau đối

với pháp luật. Một chính sách pháp luật và tương ứng với nó, là một hệ thống pháp

luật nếu bỏ qua yếu tố dân trí và "chất lượng" của nền văn minh xã hội thì sẽ không

đảm bảo được lợi ích của người dân, dẫn đến tình trạng họ sẽ không thừa nhận

những giá trị của pháp luật. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, xuất phát từ tình

hình thực tế - mà quan trọng là những biến động về kinh tế, chính sách pháp luật và

hệ thống pháp luật nếu không thay đổi thì sẽ không thích ứng được và không thể

26

phát huy được hiệu quả điều chỉnh của nó.

Xuất phát từ giá trị xã hội của pháp luật phải thấy rằng một chính sách và hệ

thống pháp luật tồn tại để chống lại lợi ích và hạnh phúc của con người, chỉ bảo vệ

lợi ích của một nhóm người hoặc một giai cấp chắc chắn sẽ bị con người căm ghét,

xa lánh, không tôn trọng và luôn tìm cách vi phạm. Một chính sách và hệ thống

pháp luật phản khoa học, đi ngược lại với văn minh nhân loại sẽ dẫn tới hậu quả bất

lợi về ý thức hệ, tạo nên tình trạng tiêu cực trong ý thức pháp luật.

Tuy nhiên, đến lượt mình, ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật sẽ tác

động trở lại đối với quá trình phát triển và hoàn thiện chính sách và hệ thống pháp

luật. Nó sẽ tác động ở hai phương diện: thứ nhất, quá trình xây dựng chính sách và

hệ thống pháp luật; thứ hai, quá trình đưa chính sách và hệ thống pháp luật trở

thành hiện thực.

Như thế, hiệu quả xã hội của mọi chính sách và hệ thống pháp luật đều thể

hiện qua ý thức pháp luật của người dân. Chính sách và hệ thống pháp luật thiếu

khoa học, không phù hợp với thực tiễn đời sống, không bảo đảm được quyền và lợi

ích của người dân sẽ dẫn đến các biểu hiện tiêu cực trong ý thức pháp luật. Mọi hoạt

động thể hiện ý thức pháp luật của con người tích cực hay tiêu cực sẽ là thực tiễn

sinh động nhất để xác định thang giá trị và chất lượng của chính sách cũng như của

hệ thống pháp luật.

1.4.5. Thông tin pháp luật

Trong khoa học pháp lý, người ta định nghĩa về khái niệm "thông tin pháp

luật" như sau:

Thông tin pháp luật theo nghĩa hẹp được hiểu là các tài liệu, văn bản

mang tính quy phạm, từ các đạo luật cho đến quyết định cá nhân; tài liệu,

văn bản đó được gọi một cách chính xác là quỹ thông tin. Ở nghĩa rộng,

khái niệm thông tin pháp luật được hiểu là toàn bộ thông tin quy phạm

hoặc hoạt động pháp lý đang vận hành một cách hiện thực, tác động đến

việc điều chỉnh hành vi của con người, tức là tổng thể tin tức về các quy

phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp luật, về việc áp dụng pháp luật, về

27

lý luận pháp luật quy định hành vi trong pháp luật [38, tr.164].

Như vậy, thông tin pháp luật là thông tin phức tạp, đa dạng với nhiều mức độ

và nhiều nhân tố khác nhau. Ở mỗi con người, nhóm xã hội, tầng lớp dân cư khác

nhau, có những nhu cầu và lợi ích khác nhau, nếu thông tin pháp luật đúng đắn, đầy

đủ và kịp thời sẽ là những yếu tố quan trọng chi phối quá trình hình thành và phát

triển ý thức pháp luật của họ. Ngược lại, nếu thông tin pháp luật sai lệch, thiếu sót

và chậm trễ sẽ tạo nên ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức pháp luật của người dân.

Thông tin pháp luật thiếu sót là thông tin không có sự bao quát, không hàm

chứa đầy đủ các tin tức đa dạng về pháp luật. Thông tin pháp luật sai lệch là thông

tin không phản ánh khách quan, đúng đắn các quá trình, sự kiện xảy ra trong đời

sống pháp lý của xã hội. Thông tin pháp luật chậm trễ là sự phổ biến không kịp thời

các thông báo trong lĩnh vực pháp luật. Nếu thông tin pháp luật thiếu sót, sai lệch

hay chậm trễ thì công dân, những người có chức vụ, quyền hạn sẽ không có được

tin tức khách quan về các sự kiện quan trọng trong đời sống pháp lý, không có được

câu trả lời một cách kịp thời cho vấn đề mới nảy sinh.

Việc thiếu thông tin pháp luật cần thiết dẫn đến tình trạng nhiều người đứng

trước tình huống, sự kiện nhất định không biết giải quyết như thế nào về mặt pháp

luật. Điều đó trong nhiều trường hợp là nguyên nhân của việc gây nên ý thức pháp

luật tiêu cực như hành vi vi phạm pháp luật; của tình trạng, thái độ thờ ơ đối với

các sự kiện pháp lý. Những công dân không được thông tin về pháp luật, không có

hiểu biết về pháp luật sẽ không có khả năng ứng xử và giải quyết đúng các vấn đề

theo pháp luật.

Nếu coi sự hiểu biết về pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng của ý

thức pháp luật, thì có thể thấy, thông tin pháp luật chính là mức độ thứ nhất của sự

hiểu biết về pháp luật. Thực tế phát triển trong xã hội cho thấy việc không hiểu biết

về pháp luật sẽ dẫn tới việc không thể trật tự hóa hoạt động có ý thức của cá nhân

trong lĩnh vực pháp luật. Hoạt động có ý thức của con người liên quan đến lĩnh vực

pháp luật cần phải có sự hiểu biết và nhận thức được cái đòi hỏi mà nhà nước đưa ra

đối với họ với tư cách là thành viên của xã hội. Do đó, các quy tắc hành vi được

28

quyết định trong các quy phạm pháp luật cần được các cá nhân hiểu biết và ý thức

được về chúng. Đó là một trong những điều kiện của sự hình thành tính tích cực về

mặt pháp lý của con người.

Như vậy, có thể coi thông tin pháp luật, một mặt, như là tiền đề của việc có

được hiểu biết pháp luật và, mặt khác, như là kết quả của việc có được hiểu biết

pháp luật. Thông tin pháp luật thiếu sót, sai lệch hay không đầy đủ sẽ dẫn đến tình

trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân. Ngược lại, thông tin pháp luật đầy

đủ, kịp thời, đúng đắn sẽ hạn chế được tính chất tiêu cực trong ý thức pháp luật

của người dân.

1.4.6. Giáo dục và tuyên truyền pháp luật

Ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật tiêu cực nói riêng còn là kết

quả của nhân tố chủ quan, đó là quá trình giáo dục và tuyên truyền pháp luật. Sự hình

thành và phát triển ý thức pháp luật là quá trình thực hiện sự kết hợp điều kiện

khách quan và nhân tố chủ quan. Nếu sự kết hợp đó không có được sự thống nhất

và hài hòa với nhau thì có thể sẽ dẫn tới hệ quả tiêu cực trong ý thức pháp luật.

Nhận thức rằng, đối với quá trình hình thành ý thức pháp luật tiêu cực, chúng ta

không được tách rời các điều kiện khách quan như là cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội của

bản thân hệ thống pháp luật hiện hành (đó là toàn bộ đời sống pháp luật thực tiễn pháp

luật phong phú, đa dạng cũng như không kém phần phức tạp. Nó quy định mục tiêu,

phương hướng, phương thức để có thể tiến hành giáo dục pháp luật, nhằm hạn chế

và đi đến xóa bỏ ý thức pháp luật tiêu cực, nâng cao ý thức pháp luật trong một giai

đoạn lịch sử nhất định; quy định điều kiện vật chất cho chủ thể, khả năng chính cho

chủ thể. Đến lượt mình, nhân tố chủ quan - mà sự tác động giáo dục định hướng có

tổ chức, có chủ định của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội là yếu tố trọng

tâm đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình biến đổi những điều kiện khách

quan, trong quá trình chủ quan hóa hiện thực.

Có thể thấy rằng, không có những điều kiện khách quan cần thiết thì không

có bất kỳ một cố gắng chủ quan nào đạt được kết quả. Nhưng khi đã có điều kiện

khách quan chín muồi, hay ít ra cũng đang hình thành, thì vai trò của nhân tố chủ

29

quan trở thành yếu tố có tính chất quyết định trong việc biến những khả năng đang

có trở thành hiện thực. C. Mác đã khẳng định: “Con người vốn là sản phẩm của

hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người biến đổi là sản phẩm của những hoàn

cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

khẳng định: hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên.

Từ sự phân tích nói trên cho thấy vai trò của nhân tố chủ quan (mà chủ yếu là

hoạt động giáo dục pháp luật) hết sức quan trọng trong quá trình hình thành, phát

triển của ý thức pháp luật cũng như cải tạo ý thức pháp luật tiêu cực. Vai trò đó thể

hiện ở sự tác động định hướng của tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế -

xã hội lên người được giáo dục. Nếu định hướng đó thiếu sự đúng đắn, khoa học và

không phù hợp với điều kiện khách quan thì sẽ dễ dẫn tới việc hình thành tri thức

pháp luật, tình cảm pháp luật theo xu hướng tiêu cực và người dân không có hành vi

phù hợp với pháp luật hiện hành.

Nếu tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội chờ đợi, ỷ lại

vào các điều kiện khách quan mà không có sự nỗ lực chủ quan tiến hành hoạt động

có tổ chức, có định hướng, có ý thức tự giác cao của chủ thể giáo dục thì sẽ rất khó

để hình thành tri thức, tình cảm và thói quen tuân thủ pháp luật ở đối tượng giáo

dục. Chúng ta không thể ỷ lại việc người dân có thể tự tìm hiểu pháp luật, tự tuân

theo pháp luật mà xem nhẹ hoạt động giáo dục, tuyên truyền pháp luật. Đây là cách

thức tác động trực tiếp, nhanh nhất và hiệu quả nhất nhằm cải tạo ý thức pháp luật

tiêu cực, hướng mọi người đến lối sống tuân theo pháp luật

Bên cạnh đó, nếu nội dung và cách thức giáo dục và tuyên truyền pháp luật

chưa đúng đắn, phản khoa học sẽ dẫn đến tình trạng phản tác dụng. Ý thức pháp luật

tiêu cực của người dân không được cải thiện, thậm chí còn nặng nề và phức tạp hơn.

1.5. Tiêu chí để nhận diện ý thức pháp luật tiêu cực

- Ý thức pháp luật tiêu cực đi ngược lại xu thế tiến bộ về yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền

Quản trị xã hội theo mô hình nhà nước pháp quyền chỉ có thể đạt hiệu

quả khi có nền tảng là ý thức pháp luật và môi trường văn hóa pháp lý

30

rất cao. Ý thức pháp luật là tiền đề thiết yếu để xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật, là cơ sở để nhà nước thực thi các hoạt động quản

lý xã hội theo yêu cầu của pháp trị và là nền tảng để nhận thức, tôn

trọng tính tối cao của Hiến pháp, tính nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả

của pháp luật [14, tr.235].

Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền bao gồm các yêu cầu về đảm bảo tính

dân chủ, đảm bảo tính thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ

quyền công dân và quyền con người. Ý thức pháp luật tiêu cực có những biểu hiện đi

ngược lại những yêu cầu để xây dựng một nhà nước pháp quyền. Tính tối thượng, vị

trị vai trò của pháp luật bị xem nhẹ, coi thường, thái độ bất tuân thậm chí thể hiện ra

sản phẩm là những hành vi trái pháp luật. Ngược lại,về phía Nhà nước, việc không

cẩn trọng khi đưa ra bất kỳ một điều luật nào nếu nó giới hạn quyền của con người sẽ

dẫn tới việc mất đi tính chất của pháp luật trong yêu cầu của nhà nước pháp quyền.

“Chỉ được đặt ra một giới hạn quyền nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội dân

chủ và nhằm mục đích thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng hoặc để bảo vệ an

ninh quốc gia, an toàn của cộng đồng, trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng, đạo đức

xã hội; hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” [33, tr.7].

- Ý thức pháp luật tiêu cực đi ngược lại với xu thế tiến bộ về bảo vệ quyền

con người.

Ý thức pháp luật là tiền đề cho việc ghi nhận, thực hiện nguyên tắc dân chủ

và hiện thực hóa nội dung quyền con người trên thực tế. Với ý nghĩa đó, các giá trị

của dân chủ, quyền con người được hiện thực hóa phụ thuộc rất lớn vào nền tảng,

điều kiện ý thức pháp luật của người dân.

Xu thế tiến bộ về bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý sẽ không thể thực

thi và mang lại hiệu quả trên thực tế nếu như ý thức pháp luật tiêu cực vẫn còn tồn

tại một cách phổ biến. Pháp luật chính là công cụ để bảo đảm tính hiện thực của

quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh

giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân

đồng thời hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các

31

quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước. Pháp luật là cơ sở, là

căn cứ để công dân đánh giá, kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phía Nhà nước và các

thành viên trong xã hội, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Tuy nhiên, hạn chế về nhận thức là khó khăn lớn nhất trong thực hiện quyền

con người ở bất kỳ quốc gia nào. Ý thức pháp luật của người dân hạn chế mà cụ thể

là ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức tìm hiểu về pháp luật, sử dụng luật sư hoặc tư

vấn pháp luật trong hoạt động hàng ngày còn chưa được quan tâm dễ dẫn đến tình

trạng người dân không tự ý thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình có bị

xâm phạm hay không. Ý thức pháp luật tiêu cực ở đây biểu hiện ở việc thiếu công

khai minh bạch trong hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động nhà nước, xây dựng

chính phủ liêm chính, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của người dân…

- Ý thức pháp luật tiêu cực đi ngược lại với xu thế tiến bộ về bảo vệ công lý,

công bằng.

Con người sẽ không có niềm tin và pháp luật nếu pháp luật không là hiện

thân của công lý, công bằng. Công lý tựu chung lại có thể hiểu là một giá trị xã hội

với nội dung là sự công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lý, được

xã hội và pháp luật thừa nhận. Công lý có thể hiểu theo nghĩa chủ quan (mỗi người

có thể có những cảm nhận, đánh giá riêng về công lý) hoặc theo nghĩa khách quan

(công lý có thể là những quyền con người được ghi nhận trong các công ước quốc

tế, công lý có thể là pháp luật thực định dạng có hiệu lực hoặc là bản án được Tòa

án tuyên có hiệu lực pháp luật…) [31, tr.48].

Công lý liên hệ với ý thức pháp luật qua các phán xét về tính đúng sai, đánh

giá tính hợp pháp và không hợp pháp. Công lý có mối liên hệ đặc biệt đối với ý thức

pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp lại có một ý thức pháp luật khác

nhau. Để các giai cấp khác có thể chấp nhận, phục tùng theo ý chí của mình, giai cấp

thống trị phải viện dẫn những lý lẽ chung làm bệ đỡ cho các quan điểm, tư tưởng của

mình. “Công lý ở đây không phải là ý chí, lý lẽ của số đông, mà là ý chí, lý lẽ chung,

ở đó phải có sự “gặp gỡ” của các ý chí, ý kiến khác nhau, phải trở thành những ý chí,

lý lẽ chung đúng đắn mà mọi người đều thừa nhận, đó mới là công lý” [5, tr.13]. Nói

32

một cách khác, công lý chính là sự giao thoa của các ý thức pháp luật của các giai

tầng trong xã hội có giai cấp, là “cái chung đúng đắn” trong ý thức pháp luật. Ý

thức pháp luật của các giai tầng trong xã hội nếu mang tính tiêu cực thì sẽ không thể

tìm được ra “cái chung đúng đắn” đó, nghĩa là không thể có được công lý.

Còn về phía công bằng, Con người tin vào tính công bằng của những đòi

hỏi của quy phạm pháp luật thì không cần một sự tác động bổ sung nào

của nhà nước để thực hiện những đòi hỏi ấy. Có được lòng tin vào tính

công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi hợp pháp phù hợp với

các đòi hỏi của quy phạm pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Lòng

tin vào tính công bằng của pháp luật sẽ hướng dẫn hành vi hợp pháp cho

con người [29, tr.57].

- Ý thức pháp luật tiêu cực là đi ngược lại với xu thế và yêu cầu của việc bảo

vệ nhân phẩm của con người. Hiện nay, vấn đề nhân phẩm đang dần được nhiều

quốc gia quan tâm đến. Theo nhà tư tưởng người Đức Immanuel Kant (1724-1804)

cho rằng con người là những thực thể có lý trí, có phẩm giá và xứng đáng được tôn

trọng. Ông còn nhận định rằng: “Hiến pháp công bằng có mục tiêu làm hài hòa hóa

tự do của mỗi cá nhân với tự do của tất cả những người khác và quan trọng nhất là

bảo vệ phẩm giá con người. Mỗi cá nhân có phẩm hạnh toàn diện, có giá trị tuyệt

đối” [29, tr.57]. Bảo vệ nhân phẩm là việc cốt yếu vì chính nhân phẩm hình thành

nên quyền con người. Con người không chỉ có những nhu cầu căn bản mà còn có

nhu cầu được xem trọng và bảo vệ nhân phẩm của bản thân.

Khoản 1 Điều 1 Luật cơ bản của Đức có quy định:

Nhân phẩm con người là bất khả xâm phạm. Đây không phải là một quyền

cơ bản đơn thuần, mà là giá trị khách quan, cao nhất của Hiến pháp, là quy

tắc ràng buộc toàn bộ mục đích, nhiệm vụ và hành vi của công quyền.

Nhân phẩm bị xâm phạm khi cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền

hành xử với con người như một vật thể đơn thuần. Những hành vi của

công quyền như bắt người làm nô lệ, tra tấn, phân biệt đối xử, làm nhục,

từ chối cung cấp những điều kiện sống tối thiểu của một con người là hành

33

vi xâm phạm nhân phẩm và vi hiến [29, tr.59].

Không thể nói đến việc bảo vệ các quyền khác của người dân (như quyền

mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, bình đẳng..) nếu ngay cả nhân phẩm của họ cũng

bị xâm hại. Bởi chính phẩm giá con người là cội nguồn của quyền con người, là giá

trị vĩnh hằng.

Ý thức pháp luật tiêu cực là khi các cá nhân và toàn xã hội không nhận thức

được pháp luật như là một công cụ để bảo vệ phẩm giá của con người. Người dân sẽ

không thể có niềm tin vào công lý, vào pháp luật khi nhân phẩm – thứ cao quý nhất

của một con người lại bị chà đạp, coi thường. Nhà nước vì không có được sự nhìn

nhận con người là giá trị cần phải bảo vệ nên không “ban hành những quy định để

ngăn chặn, can thiệp vào những hành vi quá khích như tự tử, nghiện hút ma túy say

rượu, holigan, sự tha hóa về đạo đức nhằm bảo vệ nhân phẩm con người” [31, tr.52].

Ngay cả khi bị tạm giam, con người cũng có quyền được pháp luật bảo vệ nhân

phẩm của mình không bị nhục mạ, tra tấn… Còn về phía cá nhân người dân, chính

là thái độ thờ ơ, coi thường, bất tuân các quy định pháp luật hiện hành có quy định

đến vấn đề bảo vệ nhân phẩm của người khác cũng như của chính mình.

Ngày nay, vấn đề giới hạn quyền đang là một vấn đề phức tạp, gây nhiều

tranh cãi. Tuy nhiên, chúng ta phải thống nhất rằng, dù trong bất cứ tình huống nào,

giới hạn quyền cũng không được xâm phạm đến phẩm giá của con người.

Trên thực tế, một tác giả đã nhận định rằng:

Ở Việt Nam, vấn đề chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị được Hiến

pháp, Bộ luật hình sự và nhiều văn bản khác thể hiện vai trò quan

trọng hơn việc bảo vệ quyền con người hay phẩm giá con người. Ở

châu Âu, ví dụ Đức, nhân phẩm là một trong những giá trị quan trọng

nhất của Hiến pháp [31, tr.49]

Cho thấy, chúng ta cần nhìn nhận lại một cách cấp thiết hơn vấn đề bảo vệ

nhân phẩm con người.

- Ý thức pháp luật tiêu cực đi ngược lại với văn hóa pháp lý tiến bộ của

nhân loại.

34

Văn hóa pháp lý tiến bộ của nhân loại là những giá trị tích lũy vô giá của

nhân loại, cùng chung mục tiêu hướng đến mục tiêu cao cả nhất là bảo vệ quyền

và phẩm giá của con người, cũng như bắt kịp và phù hợp với những biến đổi của

thời đại. Ý thức pháp luật tiêu cực thể hiện tính chất đi ngược lại với xu thế văn

hóa pháp lý tiến bộ của nhân loại, thể hiện ở một số mặt như sự lạc hậu, thiếu tính

thực tiễn, đi ngược các tư tưởng tiến bộ của nhân loại như bảo vệ phẩm giá con

người, thói quen sử dụng pháp luật như là một công cụ bảo vệ quyền lợi của cá

nhân trong đời sống…

Việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người hiện đã trở thành thước đo căn

bản về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Thúc đẩy, bảo

vệ quyền con người, cả trong pháp luật và thực tiễn, là nghĩa vụ và cần sự đóng góp

của tất cả các tầng lớp xã hội, các dân tộc, trên toàn thế giới. Ở Việt Nam hiện nay,

văn hóa nhân quyền còn là một khái niệm mới, đang từng bước được nhận thức và

áp dụng. Do đó việc nghiên cứu về văn hóa nhân quyền cũng như việc áp dụng vào

thực tiễn pháp luật và đời sống còn khá là mới mẻ, chưa có một cách nhìn nhận có

hệ thống, toàn diện và sâu sắc về vấn đề này. Bên cạnh đó, Việt Nam lại là quốc gia

có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nét

đẹp truyền thống trong sự đa dạng phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Chính sự

khác biệt về văn hóa, sự khác biệt về truyền thống, phong tục, tập quán và lối

sống...dẫn tới những khó khăn trong việc dung hòa nhận thức và áp dụng khác nhau

về các quyền con người, cũng như bắt kịp những giá trị văn minh, tiên tiến của nhân

loại về quyền con người.

Ở nước ta, cho đến ngày nay vẫn chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi xảy

ra các tranh chấp dân sự như một hành vi ứng xử tất yếu và phổ biến như ở các quốc

gia phát triển. Nói cách khác, trong tâm thức người dân hiện nay, pháp luật vẫn

không phải là cách giải quyết được ưu tiên. Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với tinh

thần "thượng tôn pháp luật", một đòi hỏi tất yếu của xã hội hiện đại, của nhà nước

pháp quyền. Đây thực sự đang là một thách đố gay gắt khi nước ta đang bước vào

tiến trình hội nhập quốc tế với các quan hệ giao lưu được mở rộng, trong đó tinh

35

thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những cam kết quốc tế.

- Ý thức pháp luật tiêu cực đi ngược lại với xu thế hòa bình và phát triển bền vững

Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu hơn nữa cho công bằng và phát triển bền

vững; thúc đẩy bình đẳng, hỗ trợ các nhóm yếu thế; bảo vệ tốt môi trường; bảo đảm

quyền cho mọi người dân, đồng thời đề cao tinh thần đối thoại và hợp tác trong vấn

đề quyền con người. Việt Nam cũng đã nỗ lực bảo vệ tốt các di sản văn hóa và thiên

nhiên, gìn giữ bản sắc dân tộc. Nước ta luôn nhất quán trong việc đề cao Hiến

chương Liên Hợp Quốc, các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế trong giải

quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình và bảo đảm an ninh, an toàn

và tự do hàng hải, hàng không.

Nếu như ý thức pháp luật tiêu cực của người dân không được cải thiện và

xóa bỏ thì đất nước ta sẽ rất khó khăn trong quá trình hòa nhập với xu thế hòa bình

và phát triển bền vững của nhân loại.

1.6. Hệ quả của ý thức pháp luật tiêu cực

- Ý thức pháp luật tiêu cực có ảnh hưởng tới tồn tại xã hội.

Ý thức pháp luật tích cực có tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý

thức pháp luật tiêu cực sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội. Chẳng hạn, ý thức

pháp luật tiêu cực xuất phát từ tâm lý tiểu nông: vun vén cá nhân, tư lợi, ý thức kỷ

luật kém, trọng lệ hơn luật, trọng lý hơn tình…sẽ cản trở sự phát triển của xã hội ở

thời đại mới, đặc biệt trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế của nước ta hiện nay.

- Ý thức pháp luật tiêu cực có ảnh hưởng tới ý thức pháp luật tích cực

Giống như hai mặt của một vấn đề, nếu ý thức pháp luật tiêu cực càng ngày

càng phát triển và mở rộng về biểu hiện và sản phẩm thì sẽ gây tác động hạn chế tới

ý thức pháp luật tích cực. Chẳng hạn, người dân tham gia giao thông đường bộ, nếu

càng nhiều cá nhân vượt đèn đỏ, chen lấn lên lề đường thì lâu dần sẽ tạo nên tâm lý

đám đông, những cá nhân tích cực chấp hành luật giao thông đường bộ sẽ ít đi…

- Ý thức pháp luật tiêu cực có ảnh hưởng đến các hình thái ý thức xã hội khác:

+ Ý thức đạo đức

36

Pháp luật định ra các chuẩn mực tối thiểu để bảo vệ đạo đức và các giá trị

cộng đồng. Nếu không có pháp luật bảo vệ hoặc pháp luật không đủ sức mạnh để

bảo vệ thì các giá trị đạo đức sẽ bị xói mòn. Vì vậy, ý thức pháp luật tiêu cực sẽ làm

xói mòn, băng hoại những giá trị tốt đẹp của ý thức đạo đức (những giá trị của đạo

đức hướng tới hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội). Chẳng hạn, dù luật pháp

về hôn nhân và gia đình đã quy định cụ thể tuy nhiên tình trạng bạo hành gia đình

nếu diễn ra thường xuyên sẽ dẫn tới sự xói mòn về giá trị đạo đức của các thành

viên trong gia đình và rộng ra của toàn xã hội…

+ Ý thức tôn giáo

Ý thức pháp luật tiêu cực ảnh hưởng tới ý thức tôn giáo biểu hiện ở sự lệch

lạc trong tư tưởng tôn giáo. Nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng niềm tin tôn giáo để có

những mưu lợi cá nhân như nhằm chống phá chính quyền, kiếm tìm lợi nhuận thông

qua các hành vi biến tướng (ví dụ như vụ việc chùa Ba Vàng,…)

+ Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp luật tiêu cực cản trở quá trình phát triển của ý thức pháp quyền.

Ý thức pháp quyền của giai cấp thống trị có vai trò chỉ đạo quá trình xây dựng pháp

luật, bảo vệ pháp luật ban hành, cũng như chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện pháp

luật. Chẳng hạn, một số cá nhân có thẩm quyền nếu không có ý thức pháp luật tích

cực, trong quá trình xây dựng pháp luật sẽ dễ dàng mắc phải những sai lầm, thiếu

37

sót, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…

Kết luận chƣơng 1

Như vậy, ý thức pháp luật tiêu cực là một mặt trái của ý thức pháp luật. Các

biểu hiện của ý thức pháp luật tiêu cực là tổng thể các tư tưởng, học thuyết, tình

cảm tiêu cực với pháp luật, thái độ tiêu cực: thái độ thờ ơ với pháp luật, không tìm

hiểu về pháp luật; thái độ coi thường pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp

luật. Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực là hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi

phạm pháp luật; các văn bản quy phạm pháp luật xâm phạm tới quyền con người, lẽ

công bằng; các phát biểu, các bài báo còn kém về nhận thức pháp luật... Các yếu tố

có tác động và ảnh hưởng đến ý thức pháp luật tiêu cực là các yếu tố về tư tưởng –

văn hóa; ý thức đạo đức, tập quán truyền thống; chính sách pháp luật và hệ thống

pháp luật; thông tin và giáo dục pháp luật… Từ những phân tích về biểu hiện và sản

phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực cùng các yếu tố tác động đến quá trình hình

thành ý thức pháp luật tiêu cực, các tiêu chí xác định, giới hạn ý thức pháp luật tiêu

cực sẽ cho chúng ta những đánh giá khách quan, công bằng, toàn diện về thực trạng

yếu kém của ý thức pháp luật từ đó mới có thể nhận diện đúng và đề xuất được

những giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật

38

trong toàn xã hội.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC Ở NƢỚC TA.

NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÓ

2.1. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta

2.1.1. Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ giai đoạn dựng nước đến

trước thời kỳ đổi mới

2.1.1.1. Thời kỳ dựng nước đến thế kỷ X

Thứ nhất, vào thời kỳ này, người dân chưa có nhận thức và ý thức về pháp luật

Nhà nước Việt Nam ra đời do những nhu cầu chung của toàn xã hội đòi hỏi.

Đó là các nhu cầu về trị thủy, khắc phục các thiệt hại về thiên nhiên và nhu cầu

đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Vào thời đó, điều kiện kinh tế còn kém phát triển,

thô sơ nên các quan hệ xã hội cũng vì thế mà mang tính chất phác, “Thời cổ làm

việc chỉ có quy chế, không dùng hình luật, vì đời thuần phép giản, có thể châm trước

tùy nghi được” [3, tr.157]. Pháp luật thời này cũng rất đơn giản, người dân chủ yếu

xử sự theo các tập quán, thói quen.

Thông tin pháp luật đến người dân chủ yếu qua hình thức truyền khẩu. Trong

dân gian có những câu: Vua truyền rằng…, vua ban rằng… Những mệnh lệnh đó

được đảm bảo thực hiện bằng cả sự cưỡng chế nên đó là luật pháp. Các phong tục,

tập quán trong cư dân, trong cộng đồng làng xã được thực hiện như những quy định

của pháp luật.Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, có thể nhận định rằng, người dân

nước ta vào thời đó chỉ thực hiện theo các phong tục, tập quán, theo lời Vua…mà

chưa thực sự có một hiểu biết, nhận thức rõ ràng về pháp luật. Đây cũng là một hạn

chế của thời đại.

Thứ hai, các tư tưởng pháp luật, học thuyết pháp lý phát triển từ mặt tiêu

cực của Nho giáo

Có thể nói rằng mục tiêu dùng Nho giáo để đồng hoá người Việt của vương

39

triều phương Bắc tuy không thành công nhưng lại để lại những tiêu cực trong tư

tưởng pháp luật, học thuyết pháp lý. Ví dụ như thuyết tôn quân quyền của Nho giáo

được tầng lớp thống trị lợi dụng để cổ suý cho sự thượng tôn quyền lực của hoàng

đế Trung Hoa, thuyết tôn nam quyền của Hán Nho được tầng lớp thống trị lợi dụng

để loại bỏ một nửa dân số người Việt khỏi đời sống chính trị, văn hoá, đã mâu thuẫn

với nguyên lý mẹ, nguyên lý trọng nữ quyền, của người Việt được tạo dựng từ thời

khởi nguyên dân tộc.

Thứ ba, người dân có tâm lý bất tuân pháp luật, chống đối lại pháp luật của

nhà nước phong kiến đô hộ

Sau khi Nhà nước Âu Lạc bị phong kiến phương Bắc tiêu diệt (năm 179

Tr.cn), thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc đã bắt đầu và kéo dài suốt 10 thế kỷ.

Trong thời kỳ này, hệ thống pháp luật tồn tại ở Việt Nam có hai loại khác nhau:

pháp luật của chính quyền đô hộ và pháp luật của cư dân bản địa (gọi là luật Việt).

Trong chính sách đồng hóa của các triều đại Trung Quốc còn có cả việc bắt

người Việt phải tuân theo tục lệ Hán, phải tuân thủ luật Hán. Đây là một trong

những nghịch lý lớn nhất của lịch sử Việt Nam: luật pháp – một sản phẩm của xã

hội văn minh mà người Việt lần đầu tiên biết đến là một công cụ nô dịch, áp bức và

đồng hóa của ngoại bang. Do đó, ý thức chống đối lại pháp luật xuất hiện ngay

trong những buổi đầu tiên của thời kỳ Bắc thuộc. Trong những cuốn sử biên niên

của các triều đại Trung Quốc ghi chép về cư dân Gia Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam

thường có nhận xét là “hay phản loạn”, “bất tuân” [38, tr.14].

Có thể nói, nếu người Việt nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp của các chính

quyền đô hộ Trung Hoa thì đó sẽ là con đường dẫn tới sự diệt vong của dân tộc.

Cho nên, tìm mọi cách để chống lại pháp luật đô hộ đã trở thành một phản ứng hết

sức tự nhiên của người Việt. Do lòng yêu nước, tính tự cường của dân tộc mà người

Việt đã tìm mọi cách chống lại pháp luật của chính quyền đô hộ và đó là một thứ vũ

khí hiệu quả giúp nhân dân ta chống lại sự đồng hóa của phong kiến Trung Quốc.

Vì thế, những hành động đối lập, đả kích, tẩy chay pháp luật của chính quyền đô hộ

40

được dư luận đồng tình, cổ vũ.

Thứ tư, người dân có tư tưởng pháp luật xem trọng tục lệ làng xã hơn pháp

luật của nhà nước

Để khẳng định sự khác biệt về lối sống, nhằm thể hiện chủ quyền độc lập,

người Việt đã lấy tục lệ làng xã làm chế định riêng của mình. Nếu như trên bình

diện văn hóa – chính trị, Bắc thuộc là thời kỳ làng đối lập với nước (với ý nghĩa là

Nhà nước cai trị ngoại bang), thì trên bình diện chế định, đây là thời kỳ luật đối lập

với tục lệ.

Sau khi thôn tính được Âu Lạc, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp

nhau đô hộ nước ta: Triệu, Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy,

Đường... Mọi chính sách của chúng đều nhằm thủ tiêu chủ quyền quốc gia, xóa bỏ

lãnh thổ Âu Lạc, đồng hóa dân tộc ta thành một bộ phận cư dân Hán.Tuy nhà Hán đã

áp đặt được một bộ máy đô hộ cấp châu, cấp quận, song chính giới thống trị Hán tộc

cũng phải thừa nhận rằng chúng chỉ có thể dùng tục cũ để cai trị; chúng không nắm

được các huyện vì ở huyện vẫn phải theo chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của

người Việt. Điều đó có nghĩa là đẳng cấp quý tộc Việt cổ truyền vẫn giữ được thế

mạnh và quyền uy để cai quản dân Việt [21, tr.150]. Qua đó cho thấy, dân Lạc Việt

đã chống lại một cách có hiệu quả chính sách đồng hóa của phong kiến Trung Quốc.

Mặt khác, trong quá trình đô hộ của mình, chính quyền đô hộ ngoại bang do

áp lực từ phía giai cấp bị thống trị phải liên tục thay đổi phương thức cai trị để thích

nghi và tồn tại lâu dài. Điều này đã dẫn đến kết quả là, cùng với thời gian, người

Việt chẳng những không bị đồng hóa bởi văn hóa Trung Hoa, mà sức ly tâm chính

trị của các chính quyền đô hộ với triều đình Trung ương ở Trung Nguyên ngày càng

lớn. "Cố kết cộng đồng làng xã, nhân dân Âu Lạc vừa giữ gìn bản sắc dân tộc mình,

vừa đấu tranh lật đổ chính quyền đô hộ phương Bắc, xây dựng chính quyền tự chủ.

Do đó, trong hơn mười thế kỷ, sự tồn tại của chính quyền đô hộ xen lẫn với sự tồn

tại của chính quyền tự chủ" [21, tr.235].

Dưới thời Hán thuộc, nhất là từ sau Công nguyên cho đến thời nhà Đường,

chính sách pháp luật có mềm dẻo hơn, có chú ý đến tục lệ của dân địa phương. Sử

41

sách Trung Quốc còn ghi lại việc Dân Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam họ hay nổi

loạn... nên Mã Viện lại có điều trần tấu lên vua Hán rằng: luật của người Việt khác so

với luật nhà Hán hơn mười điều và Mã Viện xin vua Hán áp dụng luật Hán có chiếu

cố tập quán pháp của người Việt để xoa dịu phần nào sự phản kháng của dân Âu

Lạc [7, tr.146]. Chính vì được sự hậu thuẫn như thế làng, xã vẫn độc lập và luôn

luôn có xu hướng chống lại pháp luật của ngoại bang, sống theo phong tục và các

quy ước làng xã. Điều đó giải thích vì sao dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa

của mình trước sự đồng hóa của kẻ thù suốt 10 thế kỷ.

Thời kỳ lịch sử đặc biệt như vậy kéo dài tới hơn một nghìn năm, đó là

khoảng thời gian đủ dài để truyền thống có thể hình thành. "Đó là truyền thống coi

tục là luật, coi luật pháp của nhà nước là cái đối lập với mình, tìm mọi cách lẩn trốn

hoặc chống đối lại" [38, tr.15]. Cho nên có thể nói thời kỳ Bắc thuộc với những

hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo và khắc nghiệt đã tạo nên trong người Việt một lối

sống không theo pháp luật. Chính ý thức, lối sống này đã "góp phần giữ gìn bản sắc

dân tộc, nhờ đó người Việt trải qua được thử thách cực kỳ nguy hiểm, dân tộc tránh

được họa diệt vong" [38, tr.15]. Nhưng, khi điều kiện lịch sử thay đổi thì những hệ

quả của truyền thống này còn tồn tại rất dai dẳng trong lịch sử gây ra những hạn chế

khi điều kiện xã hội mới đòi hỏi phải xây dựng ý thức, lối sống theo pháp luật.

Như vậy, có thể nói những tư tưởng về pháp luật của người Việt Nam đã có

từ thời nhà nước sơ khai; nhưng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế chưa phát triển nên

nó mới chỉ dừng ở sự nhận thức về việc phải có những quy định chung để điều tiết

các quan hệ trong xã hội. Những nhận thức, hiểu biết về pháp luật chính thức ra đời

vào thời kỳ đất nước bị giai cấp phong kiến Trung Quốc xâm lược đô hộ. Điều này

làm hình thành nên ý thức pháp luật tiêu cực: tư tưởng chống đối lại pháp luật của

nhà nước. Đề cao luật tục địa phương và chống đối quyết liệt luật pháp của nhà

nước đô hộ chính là con đường phát triển tất yếu của ý thức pháp luật Việt Nam

trong giai đoạn này nhưng cũng manh nha hình thành nên ý thức pháp luật tiêu cực

trong người dân khi nó trở thành thói quen và truyền thống nhất là trong điều kiện

42

xã hội mới đòi hỏi phải xây dựng ý thức, lối sống theo pháp luật.

2.1.1.2. Thời kỳ từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX

Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 là cột mốc ghi nhận sự độc

lập của nhà nước phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều đại Đinh - Tiền Lê - Lý -

Trần - Hậu Lê - Quang Trung, Nguyễn, đặc biệt là sau đời Lý, công việc xây dựng

đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự

phát triển của quốc gia phong kiến độc lập. Con đường vận động của ý thức pháp

luật nói chung và ý thức pháp luật tiêu cực nói riêng của Việt Nam ở giai đoạn này

được thể hiện như sau:

Thứ nhất, người dân thời kỳ này vẫn tồn tại tư tưởng pháp luật tiêu cực, chỉ

đề cao luật tục địa phương mà xem nhẹ, coi thường pháp luật, nếu ở giai đoạn

trước, việc đề cao, tuân thủ tích cực luật tục của địa phương là một hành động ngăn

chặn một cách có hiệu quả sự tác động của luật nước vào các đơn vị tự trị là làng -

xã thì đến giai đoạn này, đặc điểm đó lại phát triển một cách cực đoan, tạo ra những

điểm hạn chế trong quá trình phát triển của ý thức pháp luật.

Nhà nước thời Lý Trần coi trọng phong tục làng xã và giành cho làng xã một

quyền tự trị rất lớn. Nhiều chuẩn mực của làng được chính quyền nâng thành chuẩn

mực của nước. Xuất phát từ đặc điểm của hệ thống pháp luật thời Lý - Trần như vậy

nên trên thực tế các chế định quan phương thời kỳ này không khác các tục lệ làng

xã ở nhiều điểm. Chẳng quan đó là những phong tục chung cho nhiều làng xã mà

thôi. Lối sống theo tập tục địa phương chính vì vậy mà tiếp tục được củng cố. Sự

can thiệp quá sâu vào làng xã dẫn đến một cơ cấu quyền lực kép ở từng làng bắt đầu

hình thành. Một mặt, làng vẫn tiếp nhận bộ máy hành chính của nhà nước (lý

trưởng và các lý dịch) điều hành làng xã theo phép vua (luật nước). Bộ máy tự trị

làng xã không mất đi, mà biến tướng thành một Hội đồng (quan viên, hương lão).

Đây mới là bộ máy thực sự điều hành mọi công việc trong làng xã. Sức mạnh của

nó là tục lệ làng và cơ sở kinh tế của nó là sự hậu thuẫn của các thế lực địa chủ,

cường hào trong làng [28, tr.124]. Cơ cấu quyền lực kép đó một mặt vừa phản ánh

sức sống dai dẳng của quan hệ làng xã, mặt khác, vừa là sự phát triển tiếp theo của

43

đặc điểm ý thức coi trọng luật tục của địa phương hơn luật pháp nhà nước đã từng

được hình thành ở giai đoạn trước. Phương châm xử thế của người nông dân làng xã

thời bấy giờ là "phép Vua thua lệ làng".

Thứ hai, người dân có những suy nghĩ tiêu cực về mặt tư tưởng, nhận thức

về pháp luật. Nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ, lạc hậu, manh mún đã làm cho tư

duy của những người dân mang đậm màu sắc của kiểu tư duy trực giác, hình thức,

thiển cận. Hệ quả của phương thức tư duy này là người dân chỉ quan tâm chủ yếu đến

những lợi ích trước mắt, trực tiếp, có thể nhìn thấy hoặc hình dung được, mà ít thấy

được những lợi ích to lớn, chung, mang tính cộng đồng, xã hội. Mà lệ làng, như trên

đã phân tích, là những quy định liên quan trực tiếp, cụ thể, thiết thực hàng ngày đến

nhu cầu,lợi ích của người dân cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần. “Rõ ràng

hương ước đã hàm chứa lợi ích thiết thân, cả về vật chất và danh dự trong suốt chu

trình tồn vong của từng con người...” [12, tr.67].

Trong điều kiện ấy, bằng sự quan sát và cảm nhận của mình, người dân chủ

yếu chỉ thấy sự tác động của lệ làng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội của họ

mà ít thấy và cũng không cần thấy vai trò của luật nước trong xã hội, phải chăng đó

cũng là lý do làm cho người dân chủ yếu chỉ quan tâm biết và thực hiện theo lệ làng

mà ít quan tâm đến phép nước, coi trọng lệ làng hơn phép nước. Điều đó chứng tỏ ý

thức pháp luật của người dân còn ở trình độ thấp.

Thứ ba, người dân có những tình cảm tiêu cực đối với pháp luật. Những

biểu hiện của ý thức tuân thủ pháp luật đã xuất hiện nhưng đó còn là do người dân

quá sợ hãi trước những hình phạt của pháp luật. Tư tưởng phong kiến bảo vệ một

cách triệt để chế độ đẳng cấp đặc quyền phong kiến với những hình phạt tàn bạo đối

với hành vi xâm phạm trật tự xã hội. Dưới thời kỳ nhà Nguyễn, tư tưởng bảo vệ

phong kiến ngày càng chặt chẽ hơn, do bản chất của pháp luật luôn chống đối lại đại

đa số lợi ích của người nông dân. Sự phản ứng, chống đối của nông dân ngày một

dâng cao, hàng loạt cuộc nổi dậy ở khắp nơi. Đa số nông dân – những người thuộc

tầng lớp dưới của xã hội vừa chấp nhận, vừa có động thái chống đối một cách quyết

liệt ý thức hệ phong kiến, pháp luật phong kiến. Tình cảm của người dân đối với

44

nhà Nguyễn bây giờ là sợ hãi, thiếu niềm tin. Càng về sau, pháp luật nhà Nguyễn lại

càng mang tính phản động, hà khắc, dã man, mở rộng hình sự và hình phạt, thi hành

pháp luật một cách tùy tiện.

Đặc điểm chung của các hình phạt thời kỳ này là quy định cho các tội phạm

thường rất hà khắc, dã man, tàn khốc (như: voi giày, ngựa xéo, chu di tam tộc, ném

vạc dầu, xử trảm, thích chữ vào mặt...). Chính sự quá tàn khốc về hình phạt này làm

xuất hiện trong người dân tâm lý, ý thức sợ hãi pháp luật, né tránh sự vi phạm pháp

luật một cách thụ động, miễn cưỡng. Họ hình dung pháp luật chính là những hình

phạt, khi mà mình phạm tội. Vì thế, họ sợ hãi và xa lánh pháp luật, cố gắng không

vi phạm pháp luật.

Tâm lý sợ hãi pháp luật thực ra là một thứ tình cảm không ổn định. Người

dân sợ hãi pháp luật nên không vi phạm pháp luật, còn thực chất họ không ý thức

được quyền và nghĩa vụ trong việc tuân thủ pháp luật. Vì thế, sau này, khi pháp luật

không còn gây cho họ sự sợ hãi (khi những hình phạt dã man không còn tồn tại), họ

lại chuyển sang thái cực sẵn sàng coi thường, vi phạm pháp luật.

Như vậy, có thể thấy, tư tưởng pháp luật phong kiến Trung Quốc gây ảnh

hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành ý thức pháp luật cũng như tình cảm đối với

pháp luật của nhân dân ta ở một vài khía cạnh nhất định. Đó là việc coi trọng “hình”

mà coi nhẹ “luật”, hình sự hóa tất cả mọi lĩnh vực. Không quan tâm tới việc giáo dục

qua hình phạt mà chỉ dùng hình phạt hà khắc, tàn bạo để răn đe, xử án hết sức tùy tiện,

không theo luật, đôi khi chỉ là theo thị hiếu. Chính vì đặc điểm này của ý thức pháp luật

mà trong giai đoạn hiện nay, nó đang trở thành một trong những mặt hạn chế rất khó

khắc phục, khi chúng ta tiến hành xây dựng ý thức, lối sống theo pháp luật.

Tóm lại, do những điều kiện khách quan và chủ quan mà ý thức coi trọng

luật tục địa phương hơn pháp luật nhà nước vẫn còn tồn tại, nên ở giai đoạn này,

đặc điểm nêu trên vẫn tiếp tục phát triển; thêm vào đó là thái độ tình cảm tiêu cực

của người dân đối với hệ thống pháp luật phong kiến hà khắc là những điều kiện

làm cho ý thức không coi trọng pháp luật nhà nước không những không mất đi, mà

45

vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển tạo nên ý thức pháp luật tiêu cực.

2.1.1.3. Thời kỳ Pháp thuộc (Từ 1858 đến 1945)

Tiếng súng của thực dân Pháp tấn công hải cảng Đà Nẵng năm 1858 đã cắt

đứt quá trình phát triển tự thân của lịch sử Việt Nam. Hệ thống pháp luật mà thực

dân Pháp áp dụng ở Việt Nam trong gần một thế kỷ chiếm đóng lại thực tế lại là

một thứ công cụ phục vụ cho việc đô hộ của chúng. Truyền thống bất tuân pháp luật

một lần nữa sống dậy.

Với chính sách cai trị bằng thủ đoạn “chia để trị”, thời kỳ đầu chúng áp dụng

cả hai hệ thống pháp luật: pháp luật nhà nước phong kiến Việt Nam (của nhà

Nguyễn) và pháp luật của thực dân Pháp áp đặt, cả hai đều giống nhau về bản chất,

đều là công cụ để nô dịch và bóc lột người dân Việt Nam. Nhưng trên thực tế (chỉ

sau một khoảng thời gian đến năm 1887) thì pháp luật nhà Nguyễn không còn hiệu

lực trên đất nước Việt Nam, chỉ còn pháp luật của thực dân Pháp. Lúc này “lệ làng”

tuy vẫn tồn tại nhưng đã bị thực dân Pháp sửa đổi theo ý chí của chúng.

Thứ nhất, người dân tiếp tục có thái độ bất tuân, chống đối với pháp luật;

tâm lý căm ghét pháp luật. Bởi, pháp luật của thực dân Pháp áp đặt ở Việt Nam

không phải là ý chí của người dân mà là của bọn xâm lược. Nó là công cụ nhằm

củng cố nền thống trị của thực dân Pháp và là công cụ để đàn áp, đô hộ nhân dân

Việt Nam, bảo đảm quyền lợi của các tập đoàn tư bản thực dân và bọn phong kiến.

Đó không phải là công cụ để bảo vệ và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Việt

Nam. Mục tiêu của tư bản Pháp là biến gấp Việt Nam thành một thuộc địa bậc nhất,

đảm bảo siêu lợi nhuận tối đa cho chúng.

Chế độ pháp luật hà khắc mà thực dân Pháp áp đặt vào Việt Nam thuộc địa

đã đi ngược lại các giá trị dân chủ phương Tây như: thể hiện tư duy tôn trọng tính

tối cao của pháp luật, bảo vệ tự do, bình đẳng cho con người, công dân, bảo vệ nền

dân chủ tư sản. Ý thức phản kháng của nhân dân ta chống lại ách áp bức của thực

dân và chế độ nô dịch tàn bạo, lòng yêu nước và các giá trị truyền thống của dân tộc

Việt Nam lại được tăng cường khi gặp gỡ các giá trị dân chủ tiến bộ phương Tây.

Các tư tưởng về nhân quyền, dân quyền với khẩu hiệu "Tự do bình đẳng, bác ái"

46

được các nhà yêu nước Việt Nam tiếp thu và truyền bá trong nhân dân tạo nên những

phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Hòa với truyền thống yêu nước của

dân tộc làm cho tâm lý pháp luật thời kỳ này cũng biến chuyển quan trọng, người dân

có ý thức chống lại pháp luật, không tuân thủ pháp luật của thực dân Pháp.

Ảnh hưởng của tư tưởng pháp luật của thực dân đối với sự hình thành ý thức

pháp luật ở Việt Nam, tuy có những mặt tích cực và tiêu cực nhưng có thể nói mặt

tiêu cực là nặng nề hơn. Đó chính là nó đã góp phần hình thành thói quen, lối sống

và làm việc không theo pháp luật mà thường có thái độ thờ ơ, căm ghét pháp luật,

xuất phát từ việc xem thường pháp luật ngoại bang và chính quyền tay sai.

Thứ hai, một số tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật xuất hiện.

Chẳng hạn, ngoài các chí sĩ yêu nước ở thời kỳ này, một số người thân Pháp như

Phạm Quỳnh cùng nhóm Nam phong; Bùi Quang Chiêu cùng Đảng lập hiến ở Nam

Kỳ cũng chủ trương thiết lập chính quyền hợp hiến ở Việt Nam nhưng lại dựa vào

Pháp để lập chính quyền hợp hiến đó. Nhìn chung, lập trường của Phạm Quỳnh và

nhóm Nam phong, Bùi Quang Chiêu và Đảng lập hiến là lập trường cải lương.

Những nhóm này tiếp thu chủ nghĩa hợp hiến nhưng khi đề nghị ứng dụng vào Việt

Nam, do lập trường cải lương, nên đã bóp méo chủ nghĩa hợp hiến. Bản chất của

chủ nghĩa hợp hiến là giới hạn chính quyền bằng hiến pháp nhưng các nhóm này lại

chủ trương dựa vào ngoại bang để lập hiến. Sẽ không thể có một chính quyền hợp

hiến nếu hiến pháp của chính quyền đó do một quốc gia xâm lược ban hành. Trong

một đất nước, chính quyền chỉ bị giới hạn bởi hiến pháp khi hiến pháp đó do chính

nhân dân của đất nước đó đặt ra.

Thứ ba, người dân vẫn xem trọng và ưu tiên sử dụng hương ước, lệ làng hơn

pháp luật. Bởi thực dân Pháp tuy đã có những nỗ lực nhất định trong cuộc “cải

lương hương chính” ở Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên nó lại có những tác dụng

ngược lại, càng củng cố thêm thói quen sử dụng hương ước, lệ làng, bất chấp luật

nước. Tuy thực dân Pháp có thể ban hành các hương ước theo ý chí của họ nhưng

lại không thể quản lý được những gì tồn tại dưới dạng “bất thành văn” được lưu

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác của người Việt. “Họ có thể quản lý trên giấy

47

tờ, văn bản nhưng họ không thể quản được cách nghĩ, cũng như những tập quán lâu

đời của người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hay nói cách khác, người Pháp

có thể đưa ra hương ước mẫu, phê duyệt Hương ước, nhưng đa phần người dân Việt

lại không tuân theo “hương ước trên giấy tờ đó, mà theo lối sống, tập quán riêng

của người Việt” [30, tr.188].

Tóm lại, dưới thời Pháp thuộc, còn tồn tại phổ biến trong xã hội, ý thức

chống đối lại pháp luật thực dân. Mặc dù các nội dung của các tư tưởng tư sản về

nhân quyền tiến bộ, song do mục đích khai thác và bóc lột của thực dân Pháp đối

với dân ta, nên các tư tưởng này đã không được áp dụng một cách triệt để hoặc rất

hình thức, do đó đã dẫn tới việc trên vai người dân Việt Nam lúc bấy giờ, quyền lợi

chẳng có là bao, nhưng nghĩa vụ thì một lúc gánh cả nghĩa vụ thần dân của một

nước phong kiến lẫn công dân của một nước nô lệ và thuộc địa. Nên nhân dân ta

thời kỳ này không có ý thức tôn trọng pháp luật của nhà nước phong kiến. Bên cạnh

đó, sự du nhập của các học thuyết pháp lý, tư tưởng pháp luật tiêu cực; thói quen và

lối sống chỉ tuân theo hương ước, lệ làng mà bài trừ các quy định pháp luật chung

của thời đó càng được củng cố bởi điều kiện lịch sự. Nó là rào cản lớn trong việc

xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật trong thời đại mới.

2.1.1.4. Giai đoạn từ năm 1945-1975

Sau sự kiện cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh dấu sự ra đời

của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã đập tan bộ máy thống trị của thực

dân Pháp trên đất nước ta, lật đổ chế độ phong kiến và thiết lập nên một nhà nước

kiểu mới. Có thể khẳng định rằng, Việt Nam thời kỳ này nhờ những thay đổi về

nhận thức đã tạo nên sự thay đổi một cách rõ rệt trong lĩnh vực ý thức pháp luật của

người dân nhờ vào yêu cầu của tình thế cấp bách “thù trong giặc ngoài” của một

nhà nước còn non trẻ.

Tuy nhiên, giai đoạn này ý thức pháp luật tiêu cực vẫn phát triển trong người

dân,cũng chính do điều kiện kinh tế - xã hội của thời kỳ đất nước phân chia hai

miền với hai chế độ chính trị khác nhau.

Thứ nhất, những tư tưởng pháp luật tiêu cực mới được hình thành. Nhằm

48

duy trì sự thống trị của mình, bộ máy thực thi pháp luật của chính quyền Sài Gòn

được cải cách mạnh. Người dân dù bị cưỡng bức hay tự giác, đều tiếp cận với pháp

luật ở những mức độ khác nhau và đều bị chi phối bởi ý thức pháp luật tư sản đang

thống trị. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam là chính quyền tay sai với

mục tiêu "chống cộng" được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, các quan điểm tiến bộ được

thể hiện trong pháp luật bị làm cho lệch lạc, nặng về tính hình thức. Bản chất của

pháp luật đó là nhằm đàn áp, chống phá phong trào cách mạng để thực hiện ý đồ

của Mỹ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Thứ hai, tuy ý thức về về pháp luật được nâng lên, nhưng tình cảm và thái

độ đối với pháp luật thì phát triển theo chiều ngược lại. Điều này tạo nên đặc trưng

của ý thức pháp luật của người Việt Nam thời kỳ này ở vùng Mỹ - Ngụy kiểm soát.

Tình cảm căm ghét, thái độ chống đối với pháp luật của chính quyền Sài Gòn diễn

ra phổ biến trong người dân.

Thứ ba, hành vi vi phạm pháp luật phổ biến, biểu hiện ở tình hình tội phạm

hết sức phức tạp. Sau giải phóng, ở miền Bắc, tội phạm hình sự, nhất là các đối tượng

giết người, cướp giật, trộm cắp có tính chất chuyên nghiệp tăng. Chỉ tính bình quân

trong 2 năm 1955 – 1956, toàn miền Bắc xảy ra 23.200 vụ vi phạm pháp luật hình sự.

Bên cạnh đó là nạn tham ô, đầu cơ, tích trữ các mặt hàng khan hiếm, cất giấu, phân

tán tài liệu sản xuất… cũng gia tăng, gây thất thoát rất lớn tài sản của Nhà nước. Khi

đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân cũng

như tung mật thám ra miền Bắc, đã khiến cho tình hình tội phạm càng phức tạp. Chủ

yếu ở thời kỳ này là tội phạm trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Tình trạng in phiếu

tem giả tràn lan để rút hàng hóa Nhà nước; tham ô diễn ra trên từng hoạt động phân

phối, vận chuyển hàng hóa (lương thực, thực phẩm, sắt thép, xăng dầu…)

Ở miền Nam, dưới thời kỳ chế độ Sài Gòn cũ, tình trạng tội phạm diễn ra hết

sức trắng trợn theo kiểu “xã hội đen”, giang hồ như Năm Căn,.... Các băng đảng với

những chiến tích bất hảo là đâm chém nhau để tranh giành việc quản lý các khu

vực, các lĩnh vực nhà hàng, cờ bạc, ma túy, mại dâm… Trộm cắp diễn ra hết sức

phổ biến, chủ yếu tập trung ở những khu vực có tài sản, nơi tập trung nhiều quân

49

đội và các căn cứ hậu cần của quân đội Mỹ.

Thứ tư, những truyền thống như: không tuân thủ pháp luật, coi trọng luật

tục địa phương hơn pháp luật nhà nước... ở giai đoạn này tuy có lắng xuống,

nhường chỗ cho những lợi ích cấp bách của dân tộc. Nhưng nó vẫn dai dẳng và

phát triển trong một bộ phận người dân và khi có những điều kiện xã hội thuận lợi,

nó sẽ lại lại bùng phát và thể hiện ảnh hưởng của mình trong đời sống xã hội

2.1.1.5. Giai đoạn từ 1976 đến trước thời kỳ đổi mới (1986)

Đây là giai đoạn đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước cùng bắt tay vào

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đây lại là thời kỳ mà đời sống xã hội có

nhiều diễn biến phức tạp với vô vàn khó khăn mà sự tháo gỡ chúng không thể thực

hiện trong một sớm, một chiều. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình

phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam.

Thứ nhất, những tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật xuất

hiện, biểu hiện trong cách quản lý, điều hành bộ máy nhà nước

Đảng ta khi nhìn nhận lại sự hạn chế của tư tưởng lúc bấy giờ cũng đã nhận

định: "Đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt

động trong thời kỳ quá độ, đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện

nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở

chặng đường đầu tiên" [8, tr.27].

Có thể thấy những di chứng của thời chiến tranh thể hiện một cách rõ ràng nhất

ở những người quản lý nhà nước. Điều kiện chiến tranh đòi hỏi sự ứng phó linh hoạt,

chủ động, kịp thời, tính quyết đoán của người chỉ huy trong chiến đấu, từ đó dẫn đến ý

thức, tâm lý, thói quen quản lý xã hội bằng mệnh lệnh, duy ý chí, nặng về biện pháp

hành chính, mang tính cưỡng chế, một chiều từ trên xuống, thể hiện một sự chắp vá,

thiếu đồng bộ, phiến diện trong nhận thức. Cái gì cần cho thời chiến thì tập trung xây

dựng trước, “vừa làm vừa rút kinh nghiệm" và "sai đâu sửa đấy". Từ đó, dẫn đến hệ

quả quản lý độc đoán, vi phạm dân chủ trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Các

cuộc chiến tranh lại kéo dài, nối tiếp nhau, tàn dư của cuộc chiến này chưa được khắc

phục thì cuộc chiến mới lại tiếp diễn [38, tr.256]. Với thời gian, hệ quả đó dần trở thành

50

thói quen, tạo nên ý thức của cả chủ thể và khách thể quản lý nhà nước.

Mặt khác, cách thức tư duy cứng nhắc, quan liêu - sản phẩm của nền kinh tế

tiểu nông - đã làm cho những chủ thể quyền lực độc đoán, quan liêu, coi thường

pháp luật, tùy tiện trong thi hành pháp luật. Vào thời kỳ đất nước có chiến tranh thì

thiết chế chính trị này phần nào đáp ứng được yêu cầu quản lý xã hội trong thời

chiến: sự ứng phó kịp thời, chủ động, tính quyết đoán của người chỉ huy, kỷ luật

nghiêm trong thời chiến... Nhưng điều đó cũng làm tư tưởng coi thường pháp luật

có đất phát triển.

Trong tổ chức quản lý nền kinh tế thời kì này, với ảnh hưởng của thuyết

“quản lí theo chức năng” (tức là nền kinh tế càng được phân chia theo nhiều

ngành thì số cơ quan nhà nước cũng phải phình to ra, nếu không thì quản lý

không xuể) [24, tr.17]. Bộ máy nhà nước cũng được tổ chức một cách cồng kềnh,

nhiều tầng nấc trung gian. “Đối với hệ thống pháp luật, do ảnh hưởng của quan

điểm học thuyết pháp lí của các nước xã hội chủ nghĩa nên hệ thống pháp luật Việt

Nam cũng mang những điểm riêng. Chẳng hạn, sự không tồn tại của Luật Lao động

với tư cách là ngành luật độc lập (thực chất là một bộ phận trong ngành luật hành

chính) do không tồn tại các quan hệ trao đổi hàng hóa sức lao động” [6, tr.22] …

Thứ hai, người dân có tâm lý thờ ơ, thiếu tôn trọng và niềm tin đối với pháp

luật, không xem pháp luật như một công cụ để điều chỉnh xã hội

Do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, với tất cả những nhược điểm của cơ

chế ấy, một mặt, làm nảy sinh ý thức bất chấp, coi thường pháp luật của những

người quản lý, mặt khác, là ý thức thụ động, không tin tưởng vào hiệu quả của pháp

luật đối với đông đảo quần chúng nhân dân gia tăng.

Nếu xét từ góc độ ảnh hưởng của điều kiện lịch sử - xã hội, chúng ta thấy

rằng do chiến tranh liên miên ở giai đoạn trước, nên ở giai đoạn này chúng ta phải

gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, đặc biệt là trong lĩnh vực ý

thức pháp luật. Do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, lợi ích dân tộc luôn được đặt lên

hàng đầu, nên trong chiến tranh và sau khi chiến tranh kết thúc, lợi ích cá nhân chưa

được quan tâm đúng mức. Làm cho người dân nhận thấy pháp luật không mấy tác

51

động thiết thực trong cuộc sống thường nhật của họ. Từ đó, bắt đầu hình thành

trong nhân dân ý thức tâm lý thờ ơ với pháp luật, không tôn trọng pháp luật.Cũng vì

chiến tranh, nền kinh tế chỉ tập trung phục vụ cho cuộc kháng chiến nên hầu như

không có điều kiện để phát triển. Vì thế, các quan hệ trong xã hội cũng không mấy

đa dạng và phức tạp, dẫn đến việc người ta không có nhu cầu phải điều chỉnh bằng

pháp luật trong các quan hệ xã hội thường ngày.

Thứ ba, hành vi cố ý làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật diễn ra phổ biến,

tình hình tội phạm diễn ra hết sức phức tạp, dần có tính chuyên nghiệp và có tổ chức

Thời kỳ này, hành vi phạm tội tăng về cả số vụ lẫn tính chất nghiêm trọng và

có xu hướng tăng, thể hiện tính xuyên quốc gia. Cả nước xuất hiện những tổ chức

tội phạm mới như các băng, nhóm cướp giật, cướp ngân hàng, giết người phi

tang…. như băng cướp do Võ Tùng Hội cầm đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh, băng

cướp do Phạm Văn Động cầm đầu ở Quảng Ninh…

Hoạt động của tội phạm kinh tế cũng hết sức phức tạp. Các tội phạm phổ

biến như buôn bán ngoại tệ, thuốc phiện, vàng… . Tội phạm tham ô, trộm cắp tài

sản Nhà nước cũng rất phổ biến với hình thức mắc ngoặc với các cơ quan, xí nghiệp

để tuồn lương- thực phẩm, hàng hóa của Nhà nước ra cho các tư thương. Lợi dụng

cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, một số đối tượng còn có những thủ đoạn

làm ăn phi pháp như đầu cơ, tích trữ lương thực, thực phẩm thuộc hàng hiếm để có

thời cơ sẽ bán ra với giá cắt cổ; đút lót với các cán bộ có nhiệm vụ phân phối hàng

hóa để tuồn hàng của Nhà nước ra bên ngoài…

Thứ tư, sản phẩm ý thức pháp luật tiêu cực thời kỳ này là các văn bản pháp

luật vi phạm quyền con người, lẽ công bằng, thiếu tính hợp lý và thực tiễn

Những nhận thức của chúng ta về nội dung và vai trò của pháp luật trong xã

hội thời kỳ này chưa có sự thay đổi thích ứng. Hệ thống pháp luật được chúng ta áp

dụng trong thời kỳ này lại là hệ thống pháp luật của thời bao cấp. Điều đó dẫn đến

tình trạng thiếu hụt các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu của các quan hệ kinh

tế mới, nhất là các quan hệ kinh tế ngoài quốc doanh, làm cho các hoạt động kinh

tế, hoạt động đầu tư ngưng trệ, kém phát triển, dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả

52

của các thành phần kinh tế; hậu quả tất yếu là một nền kinh tế kém phát triển. Thực

tiễn này chứng tỏ ý thức nói chung (trong đó bao gồm cả ý thức pháp luật) ở thời kỳ

này đã không theo kịp với sự phát triển của tồn tại xã hội, đã gây ra những hạn chế

và cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.

Chúng ta đã mắc phải sai lầm khi xem pháp luật hiện thời của chúng ta đã

thuộc vào kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa kể cả từ hình thức đến nội dung, để rồi

"đem áp dụng chúng trên một thực tế xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu với nhiều quan

hệ xã hội thuộc nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau và chủ nghĩa xã hội chưa

đạt được địa vị thống trị trong đời sống xã hội” [27, tr.35].

Trong thực tế, quyền làm chủ của người dân bị vi phạm ở nhiều nơi. Pháp

luật thời kỳ này hạn chế một cách thiếu căn cứ, có quá nhiều điều cấm dẫn đến việc

hạn chế, thui chột sự năng động, sáng tạo của người lao động, hạn chế quyền công

dân. Người dân theo nguyên tắc chỉ được làm những gì mà Nhà nước cho phép, chứ

không được làm những gì mà Nhà nước không cấm. Điều này gây hệ quả là làm

mất niềm tin của người dân đối với pháp luật. Người dân chỉ có thể có ý thức tự

giác tuân thủ pháp luật, khi bản thân họ thấy rằng nền pháp luật đó thiết thực và nó

bảo vệ lợi ích chính đáng của chính họ, của các cá nhân trong xã hội.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam trong thời kỳ này thể hiện tư tưởng nóng

vội, chủ quan, duy ý chí trong quá trình nhận thức hiện thực. Điều đó dẫn đến rất

nhiều quy định của pháp luật trong thời kỳ này mang tính ảo tưởng, xa rời thực tiễn

và hầu như không có tính khả thi. Ví dụ, Hiến pháp năm 1980 quy định mọi người

đều phải có việc làm (Điều 58), có nhà ở (Điều 62), có quyền được bảo vệ sức khỏe,

khám chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), có quyền được đi học và không phải

đóng học phí (Điều 60)… [26]. Trên thực tế, nhiều quyền cơ bản của công dân

không có được các điều kiện bảo đảm thực tế để thực hiện. Chẳng hạn, quyền học

tập, chữa bệnh không mất tiền đã vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách nhà

nước vào thời điểm đó [27, tr.35].

Chính sách, chế độ ưu tiên, ưu đãi lại tạo ra sự bất bình đẳng về địa vị xã

hội của từng nhóm người trong xã hội khác nhau. Chế độ ưu tiên, ưu đãi

53

bất hợp lý đã tạo ra lớp người đặc quyền, đặc lợi. Chế độ biên chế đã tạo

ra sự phân biệt lao động trong và ngoài biên chế. Tình trạng này làm

phân hóa lực lượng xã hội, tạo nên tâm lý phân biệt đối xử, thiếu bình

đẳng trong đời sống xã hội [27, tr.34].

Như vậy, thái độ thờ ơ, xem thường, bất chấp pháp luật thời kỳ này ngoài

những nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội, bản thân pháp luật, nó còn là hệ quả

của cuộc chiến tranh để lại. Thời kỳ này sự thiếu tin tưởng vào pháp luật có chiều

hướng gia tăng, sự thờ ơ đối với pháp luật, không tôn trọng pháp luật có xu hướng

phát triển. Cuộc sống sau chiến tranh đối mặt với rất nhiều thiếu thốn, khó khăn, ý

chí chủ quan áp đặt lên hiện thức khách quan ở thời điểm này là không hợp lý, làm

cho pháp luật xa rời thực tế cuộc sống và không có tính khả thi. Người dân thờ ơ, xa

rời, thiếu tin tưởng pháp luật. Bởi vì pháp luật thời kỳ này không gắn liền với cuộc

sống của bản thân họ, ý thức tuân thủ pháp luật giai đoạn này có bước thụt lùi, dẫn

đến tình trạng coi thường pháp luật. Nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp là môi

trường thuận lợi cho ý thức pháp luật yếu kém tồn tại và phát triển, bao gồm các

biểu hiện: thờ ơ đối với pháp luật, không coi trọng việc thực thi pháp luật.

2.1.2. Thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn từ đổi

mới đến nay

Xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), những

thay đổi to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, khoa học - kỹ

thuật.. đã và đang tạo ra những ảnh hưởng quan trọng, làm thay đổi ý thức pháp luật

tiêu cực của người dân.

Vấn đề cấp bách là việc tiến hành việc cải cách luật pháp đồng thời với các

cuộc cải cách khác, đặc biệt là cải cách kinh tế. Pháp luật mà chúng ta thực hiện

những năm đầu đổi mới thực chất vẫn là pháp luật của cơ chế tập trung quan liêu,

bao cấp. Nhận thức được điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, trong điều

kiện hiện nay, điều quan trọng là phải kiên quyết "xóa bỏ tập trung quan liêu bao

cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển

của nền kinh tế" [9].

54

Khi khởi xướng công cuộc đổi mới về kinh tế, pháp luật về quản lý kinh tế của

cơ chế mới – một bộ phận cấu thành của bất kỳ một cơ chế kinh tế nào, chưa được

chuẩn bị chu đáo. Khi được tuyên truyền về sự cởi mở, cởi trói và tự do hóa các hoạt

động kinh doanh, do thiếu ngay từ đầu một hệ thống pháp luật cần thiết nên nhiều

người dân đã lầm tưởng rằng, sắp tới sẽ là một thiên đường của thị trường vô pháp

luật. Các biểu hiện và sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực ở thời kỳ này như sau:

Biểu hiện của ý thức pháp luật tiêu cực

Thứ nhất, các tàn dư của những tư tưởng pháp luật tiêu cực, tư tưởng cũ, tư

duy bảo thủ, trì trệ, thiếu công bằng không phải ngay một lúc đã được cải thiện hay

xóa bỏ hoàn toàn. Những tư tưởng, cách thức này trong điều kiện hoàn cảnh mới lại

xuất hiện dưới những hình thức mới.

Chẳng hạn như tư tưởng "phép vua thua lệ làng" đến giai đoạn này đã phát

triển dưới hình thức mới. Người dân đề cao lệ làng không hẳn vì nó cụ thể và thiết

thực hơn so với luật nước, mà vì nó bảo vệ và duy trì lợi ích của của từng làng, từng

địa phương (có tính cục bộ cao) hơn là bảo vệ lợi ích của xã hội, của đất nước. Tư

tưởng cục bộ ăn sâu đến mức có một số đại biểu Quốc hội, khi góp ý xây dựng các

bộ luật của nhà nước, của quốc gia, nhưng vẫn xuất phát từ thực tiễn của địa

phương mình. Điều này cho thấy tư tưởng cục bộ, địa phương không những không

bị đẩy lùi, mà đang có nguy cơ ngày càng phát triển.

Những tư tưởng pháp luật còn mang ảnh hưởng của khuôn mẫu giới hoặc

định kiến giới. Luật Phòng chống bạo lực gia đình và Luật Bình đẳng giới đều chưa

đưa ra được một định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới. Vì vậy, chúng ta chưa thực

sự hiểu được nội hàm của khái niệm đó, dẫn đến tình trạng áp dụng luật theo hướng

định kiến giới. Ví dụ, quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành không áp dụng án

phạt tử hình đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nhưng lại không tính

đến trường hợp đàn ông nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Ở một góc độ nào đó, quy

định như vậy có gián tiếp mặc định nghĩa vụ nuôi con là của phụ nữ hay không.

Hay, với quy định về các tội xâm hại tình dục, Bộ luật Hình sự cũng chưa thể hiện

và phân định được rõ vấn đề xâm hại tình dục trong quan hệ hôn nhân.

55

Ngoài ra, trong các vụ việc tiếp nhận và giải quyết các tố cáo về xâm hại tình

dục hoặc bạo lực gia đình, nhiều cán bộ tư pháp còn có những tư tưởng pháp luật

tiêu cực thể hiện ở việc xem các vấn đề này là vấn đề của cá nhân, gia đình, “vợ

chồng đóng cửa bảo nhau” hay thậm chí còn có suy nghĩ người phụ nữ đáng bị đối

xử như vậy. Tư tưởng pháp luật tiêu cực, cổ hủ, thiếu công bằng và mang nặng định

kiến xã hội là một cản trở lớn đối với các cá nhân, đặc biệt là phụ nữ trong việc tiếp

cận công lý và việc sử dụng pháp luật như một công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của chính bản thân họ.

Thứ hai, người dân có thái độ thờ ơ với pháp luật, chưa có ý thức nâng cao

kiến thức pháp luật, còn xem nhẹ việc tìm hiểu các quy định của pháp luật để có các

hành vi đúng đắn trong cuộc sống cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

mình. Không xem pháp luật như là hiện thân của công lý, lẽ công bằng.

TS Đặng Thanh Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội đã thực hiện một cuộc

khảo sát đối với 100 người chưa thành niên phạm tội. Kết quả cuộc khảo sát cho

thấy mức độ hiểu biết pháp luật của nhóm người này là rất thấp.Do hiểu không

đúng, hay hiểu một cách mơ hồ về pháp luật nên phần lớn các em được hỏi cho

rằng, pháp luật là những quy định có tính cấm đoán (78%) và mang tính hình thức

(66%). Có đến 70% số em cảm nhận rằng làm theo pháp luật bao giờ cũng mang lại

sự thiệt thòi cho bản thân mình. Thậm chí, 54% số em được hỏi khẳng định, sống và

làm việc theo pháp luật có nghĩa là đã bị hạn chế tự do, hạn chế những sở thích cá

nhân. Chính vì lẽ đó mà có đến 77% số em được hỏi cho rằng mình chấp hành pháp

luật trước hết là do sợ hãi sự lên án của xã hội và sự trừng trị của pháp luật chứ

không phải chấp hành một cách tự giác. Với câu hỏi "Em có thể cho biết pháp luật

là gì", 23% số em trả lời là không biết, 7% trả lời tương đối chính xác, phần lớn số

còn lại hiểu một cách mơ hồ [23].

Ví dụ, trường hợp một cậu thanh niên tên (15 tuổi) bị tuyên án tù vì tội mua

bán trái phép chất ma túy. Khi lực lượng công an đến đọc lệnh bắt thì H vẫn còn rất

mơ hồ và ngơ ngác, không hiểu mình đã phạm tội gì. Khi biết mình bị bắt vì tội

mua bán trái phép chất ma túy H còn cãi lại rằng mình chỉ làm thế để kiếm tiền

56

thêm để chi tiêu. Khi đó, H không hề biết hành động này của mình là phạm pháp.

Sự hiểu biết và ý thức pháp luật của các doanh nghiệp, nhất là pháp luật về

cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, hội nhập quốc tế còn thấp. Nguyên nhân là do

hiệu quả tuyên truyền pháp luật chưa cao và doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng

việc tìm hiểu pháp luật.

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc khảo sát tại các doanh nghiệp FDI trên

địa bàn Hà Nội năm trong vòng 5- 6 năm gần đây. Kết quả cuộc khảo sát cho

thấy rằng người lao động còn thiếu tri thức về pháp luật và chưa có ý thức sử

dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khoảng 22% người

lao động được khảo sát khẳng định họ chưa được phổ biến về những luật cơ bản

liên quan đến quyền và lợi ích của họ; chỉ có 2,34% số người lao động biết dùng

tri thức pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích của mình khi xảy ra tranh chấp với

người sử dụng lao động [37].

Về phía bộ phận người dân ở vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số do điều kiện

khó khăn về địa lý cũng như trình độ dân trí thấp, dẫn đến tình trạng ý thức pháp

luật tiêu cực. Theo lãnh đạo Tòa án nhân dân huyện Quế Phong (Tỉnh Nghệ An),

trung bình mỗi năm, đơn vị đưa ra xét xử khoảng 500 vụ án. Trong đó, chuyện dùng

súng tự chế đi cướp 200 nghìn đồng, xét nghiệm ADN cho bò, hay những trường

hợp bị bắt do liên quan đến ma túy còn xin về để chữa bệnh… không phải là ít. Qua

đó cho thấy, trình độ hiểu biết pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn

nhiều hạn chế, nhiều phong tục, tập quán lạc hậu vẫn chưa được cải tiến [2].

Thứ ba, thái độ coi thường pháp luật trong người dân diễn biến hết sức phức

tạp. Một số người bất chấp những quy định của pháp luật vẫn ngang nhiên thực hiện

những hành vi trái pháp luật, chưa kể còn gây hậu quả hết sức nghiêm trọng tới

quyền lợi, sức khỏe, thậm chí tính mạng của người khác.

Báo cáo công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2019 do

Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an trình bày cho thấy,“Tính từ

01/10/2018 đến 31/7/2019, toàn quốc xảy ra 39.776 vụ phạm pháp hình sự. Đáng

57

lưu ý, xảy ra nhiều vụ giết người với hành vi dã man, tàn bạo, nhiều vụ giết người,

cố ý gây thương tích do đối tượng bị bệnh tâm thần hoặc bị ảo giác do sử dụng ma

túy tổng hợp gây ra, gây lo lắng trong nhân dân. Tình trạng bạo hành, xâm hại trẻ

em xảy ra nhiều; xuất hiện thủ đoạn mới của tội phạm mua bán người dưới hình

thức mang thai hộ, mua bán bào thai. Tội phạm có tổ chức vẫn tiềm ẩn phức tạp,

nhất là hoạt động núp bóng doanh nghiệp, bảo kê bến bãi, tín dụng đen, cầm đồ, siết

nợ, đòi nợ thuê” [36].

Trong thời gian qua, tình trạng người dân tự ý hành xử “thay pháp luật” đang

có chiều hướng gia tăng ở các tỉnh, thành trên cả nước. Việc hành xử trên không chỉ

xuất phát từ sự manh động, bột phát của một cá nhân, mà còn có sự tham gia của rất

nhiều người dân. Trong đám đông đó, có không ít người biết rằng, việc tự ý đánh

đập, hành hung, gây thương tích cho người khác là hành vi trái pháp luật, nhưng họ

vẫn không ngần ngại hay do dự “ra tay”. Không dừng lại ở đó, nhiều người còn có

hành vi chống đối các cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi bất hợp pháp của

mình. Chẳng hạn, vụ việc người dân đánh chết trộm chó tại huyện Thủy Nguyên,

Hải Phòng (2018)là minh chứng cho việc người dân xem thường pháp luật, thay vì

để cho cơ quan Công an thực hiện đúng chức trách, họ lại có hành vi trái pháp luật,

xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe của người khác.

Thứ tư, hiện tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi cho bản thân

diễn ra một cách phổ biến

Lách luật xảy ra rất nhiều trong hoạt động giao thông hiện nay. Hàng ngày,

chúng ta không thấy hiếm các trường hợp một số người chấp hành đội mũ bảo

hiểm chỉ khi nhìn thấy cảnh sát giao thông hoặc quay đầu xe đi vào đường khác để

tránh bị cảnh sát giao thông xử phạt khi biết mình đã vi phạm luật giao thông

đường bộ. Ý thức chấp hành pháp luật ở đây tiêu cực ở chỗ họ chỉ “đồng ý” chấp

hành các quy định pháp luật khi có nguy cơ đối diện với việc bị xử lý bởi các chế

tài chứ chưa thực sự có ý thức tuân thủ pháp luật với ý nghĩa là xem các quy định

đó như là một biện pháp để bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho chính bản thân mình

và những người xung quanh.

58

Tình trạng lách luật cũng đang diễn ra dưới nhiều cách thức và thủ đoạn ngày

càng tinh vi. Lợi dụng những sơ hở của pháp luật, “những lỗ hổng”, những vấn đề

mà pháp luật chưa điều chỉnh đến để làm lợi cho bản thân, né tránh những bất lợi về

mặt pháp lý cho bản thân mình. Điều đáng nói là “lách luật” hay “né luật” mặc

nhiên được xem là những hành động tiêu cực, thậm chí là vi phạm; trong khi lại có

ý kiến cho rằng nó chỉ là cách thức hành xử khôn ngoan, hợp pháp của người dân

hoặc doanh nghiệp để tránh bớt khó khăn, thiệt hại cho mình. Tuy nhiên, lợi dụng

việc đó theo hướng có lợi cho bản thân nhưng lại gây ảnh hưởng cho người khác thì

lại là vấn đề tiêu cực.

Chẳng hạn, chính sách pháp luật hình sự của nước ta quy định: không áp

dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai hoặc

phụ nữ có thai nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Đây là

quy định thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự nước ta nhưng trên thực tế

đã có rất nhiều vụ việc nữ tử tù cố tình có thai để thoát án tử hình.

Thực trạng nhiều doanh nghiệp hiện nay bóc lột sức lao động của công

nhân, “lách luật” về giờ làm việc tối thiểu, ký các hợp đồng không cần đóng bảo

hiểm xã hội như hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, hợp đồng thử việc… để thu lợi

cho doanh nghiệp.

Khi nhà nước đưa ra quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng, thì chỉ sau một

thời gian ngắn đã có rất nhiều cá nhân, tổ chức gian dối, lợi dụng để chiếm đoạt bất

hợp pháp tiền bạc của nhà nước; thời kỳ nhà nước nghiêm cấm mua bán đất thì

người ta nghĩ ngay đến việc che dấu mua bán đất dưới hình thức như mua bán nhà

ở, cây lâu năm…; khi các trạm kiểm soát của cảnh sát giao thông hoạt động đặt ở

các đoạn đường thì các lái xe đã liên kết với nhau, tìm cách thông báo để đi qua

đoạn đường đó đúng quy định pháp luật nhưng sau đó thì họ tìm mọi cách vi phạm

như chạy quá tốc độ, chở quá quy định… Cũng cần phải thừa nhận một thực tế là có

những trường hợp chủ thể lách luật không nhằm mục đích vụ lợi mà chỉ nhằm để

thỏa mãn trạng thái tâm lý là “không ai làm gì được mình”, thậm chí chỉ lè để “thể

hiện bản thân” trước những người xung quanh.

59

Hiện nay, còn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp vì lợi ích của cá nhân, đồng thời

không muốn chịu phí tổn trong việc xử lý chất thải trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh của doanh nghiệp mình mà tìm các cách để qua mặt các cơ quan quản lý về

môi trường, lách luật môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng. Các thủ thuật được các

doanh nghiệp sử dụng để không bị phát hiện như: cho thấm vào đất, bay hơi tư nhiên,

pha loãng nước thải, … Có thể kể đến như việc xả chất thải ra biển của công ty

Formosa tại Vũng Áng, xả nước thải “chui” ra sông Thị Vải của công ty Vedan,…

Thứ năm, người dân có tình cảm tiêu cực đối với pháp luật, mất niềm tin

vào pháp luật. Người dân chưa tạo cho mình một thói quen giải quyết tranh chấp

mâu thuẫn bằng con đường pháp luật và tư pháp. Họ vẫn có thái độ e ngại, không

tin tưởng vào sự công minh trong việc xét xử của tòa án.Pháp luật không phải là

biện pháp xử lý tranh chấp ưu tiên trong quan niệm của người dân.

Hiện nay, tình trạng người dân không nhờ đến các cá nhân, hoặc tổ chức am

hiểu về pháp luật để tư vấn cho các giao dịch dân sự hay giải quyết các tranh chấp

diễn ra hết sức phổ biến. Người dân chủ yếu dựa vào cảm tính, hiểu biết của bản

thân, sao chép các nguồn… dẫn đến tình trạng hợp đồng bị vô hiệu, hay bị lừa đảo

rất nhiều. Kể cả khi có xảy ra tranh chấp, thì nhiều bộ phận người dân cũng không

sử dụng đến pháp luật mà tự xử sự trên những nguyên tắc, suy nghĩ của riêng mình

dẫn tới hệ quả quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân bị xâm phạm mà cũng không

hay biết gì.

Một ví dụ cụ thể, ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian gần đây xuất hiện

nhiều trường hợp mua bán, chuyển nhượng nhà đất bằng giấy tay thông qua hình

thức lập vi bằng tại các văn phòng Thừa phát lại. Thông qua việc mua bán, chuyển

nhượng nhà đất với hình thức vi bằng, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người mua,

các đối tượng lừa đảo, đầu nậu đất đai đã thu gom đất xây nhà, rao bán bằng thừa

phát lại để trục lợi. Với những căn nhà không có giấy chứng nhận được mua bán

bằng giấy tay, để tăng sự tin tưởng, các đối tượng này nhờ các văn phòng Thừa phát

lại lập vi bằng. Thậm chí nhiều căn nhà chung một giấy chứng nhận cũng được bán

bằng hình thức đồng sở hữu, lập vi bằng. Nhiều nạn nhân “dính” vào nhà đất tranh

60

chấp, cầm cố ngân hàng, xây dựng trái phép khiến cuộc sống khó khăn.Trong khi

đó, theo quy định của Luật Đất đai và Luật Nhà ở thì hợp đồng chuyển nhượng,

tặng cho, thế chấp, góp vốn, thế chấp bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với

đất (trong đó có nhà ở, nhà ở thương mại) phải được công chứng, chứng thực theo

quy định. Và vi bằng do Thừa phát lại lập theo trình tự, thủ tục được quy định tại

khoản 1 Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP chỉ có giá trị ghi nhận sự kiện, hành

vi dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp luật khác mà thôi.

Tác giả đã thực hiện một cuộc khảo sát với một nhóm các em sinh viên tại

một trường đại học về các chuẩn mực mà các em sinh viên lựa chọn để làm cơ sở

giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp.

Biểu đồ 2.1. Thống kê kết quả điều tra về các chuẩn mực sinh viên căn cứ để giải

quyết mâu thuẫn hoặc xung đột

Qua cuộc khảo sát cho thấy khi cần giải quyết xung đột, tranh chấp thì sinh viên

chủ yếu dựa vào các chuẩn mực đạo đức (62%) chứ không phải theo chuẩn mực pháp

luật (17%). Thậm chí có một số em còn giải quyết theo cách riêng của mình (16%).

Thứ sáu, người dân còn có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm khi đối diện với

những hành vi trái pháp luật trong đời sống hiện nay, có xu hướng “đèn nhà ai nhà

61

đấy rạng”

Khi phát hiện những vụ đua xe, đánh đập tấn công của những đối tượng

trong cuộc, một số bộ phận người dân vẫn thể hiện thái độ bình thản thay vì có hành

động can ngăn hay tố giác. Họ không nhận thức được những hành vi đang diễn ra

trước mắt mình là những hành vi vi phạm pháp luật hoặc có nhận thức được nhưng

lại có suy nghĩ cổ xúy cho việc làm trái pháp luật. Thậm chí, không ít người còn

đứng cổ vũ, quay clip livestream trên các mạng xã hội với sự thích thú… Điều này

cho thấy phần nào ý thức pháp luật tiêu cực, sự thiếu hiểu biết về pháp luật đi theo

đó là sự vô cảm của một số người dân.

Thứ bảy, người dân còn rất e dè hoặc tham gia một cách hình thức trong các

hoạt động nhằm thể hiện tính dân chủ, thể hiện quyền làm chủ của bản thân, hay

thờ ơ với những quyền và lợi ích của chính bản thân mình

Quyền bầu cử được quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm

pháp luật nhưng trên thực tế thực hiện còn mang tính hình thức và một số bộ phận

người dân thực sự thờ ơ với quyền lợi của chính bản thân mình. Mỗi mùa bầu cử,

đặc biệt là bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, thì tình trạng người dân vì một số lí

do mà không thực hiện việc bỏ phiếu dẫn đến nhiều khó khăn cho hoạt động bầu

cử.Một trong các tình huống thực tế thường xuyên xảy ra nhất là các hộ gia đình

cố tình không tham gia bầu với nhiều lý do. Mặc dù tổ bầu cử đã sử dụng nhiều

hình thức vận động đến tận nhà, mang hòm phiếu di động đến tận nơi nhưng họ

trốn tránh, do đó mà số phiếu của các cử tri chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri

ghi trong danh sách cử tri.

Hay mỗi lần mở các cuộc góp ý bổ sung sửa đổi cho các dự thảo luật, người

dân cũng không thực sự tích cực đóng góp ý kiến của bản thân. Họ không nhận thức

được rằng chính các quy định pháp luật này sau này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới

quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc bầu cử, góp ý dự thảo luật hay các hình thức

thể hiện tính dân chủ khác đối với một số bộ phận của người dân như là “việc của

người khác”. Họ thực sự xem không xem pháp luật như là một công cụ để bảo vệ

62

quyền con người, lẽ công bằng, công lý

Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực

Thứ nhất, người dân có những hành vi làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật.

Chẳng hạn, tình hình vi phạm pháp luật môi trường trong lĩnh vực khoáng

sản ngày càng phổ biến, nghiêm trọng và được thực hiện một cách tinh vi. Hiện cả

nước có trên 1500 tổ chức tham gia hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản nhưng

phần lớn đều không chấp hành một cách nghiêm túc các quy định của pháp luật về

bảo vệ môi trường. Các hành vi vi phạm pháp luật phổ biến là không thực hiện hoặc

thực hiện không đầy đủ cam kết bảo vệ môi trường, báo cáo sai lệch về công tác

đánh giá tác động môi trường trong quá trình khai thác, chế biến, sản xuất; không

thực hiện việc xây dựng chương trình xử lý chất thải, không phục hồi hay hoàn

nguyên môi trường sau khai thác.

Hay hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, làm nhái thương hiệu vẫn diễn

ra hết sức phổ biến. Người dân biết hành vi của mình đã vi phạm tới quyền sở hữu

trí tuệ nhưng vì lợi ích cá nhân nên họ vẫn thực hiện hành vi nhằm “ăn theo” hay

tạo ra sự hiểu nhầm. Trên thị trường, nhiều khách hàng từng bị nhầm lẫn giữa hai

nhãn hiệu LaVie với TaVie do tên gọi có vẻ na ná như nhau. Hay vụ kiện dân sự

của Công ty Cổ phần Vincom đối với Cổ phần Tài chính và bất động sản Vincon

vào cuối năm 2010 vì vi phạm quyền sở hữu trí tuệ với nhãn hiệu, tên thương hiệu

là một ví dụ điển hình.

Sự phát triển về kinh tế làm cho phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân

cư ngày càng đậm nét. Vì lợi nhuận các cá nhân này sẵn sàng bất chấp pháp luật,

sẵn sàng vi phạm pháp luật. Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường cũng sẽ tạo ra tâm

lý sùng bái đồng tiền, coi tiền là tất cả, vì tiền mà có những người có thể bất chấp và

dẫm đạp lên các giá trị đạo đức, pháp luật; đồng thời sẽ tạo ra những quan niệm,

hành vi sai lệch trong thực hiện pháp luật, lấy đồng tiền làm thước đo để đánh giá

các quan hệ giữa người với người, tham nhũng trở thành một quốc nạn.

Ngày 29 tháng 1 năm 2019, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố Chỉ số

cảm nhận tham nhũng (CPI) trong năm 2018 (Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI)

63

năm 2018, xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các

doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công). Năm 2018, Việt

Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu, giảm nhẹ 2 điểm so với năm

2017. Điểm số CPI 2018 của Việt Nam được tính dựa trên cơ sở 8 nguồn dữ liệu là

những khảo sát quốc tế độc lập. Về mặt thống kê, việc giảm điểm này được xem là

không đáng kể. Xét trên thang điểm từ 0 – 100 của CPI, trong đó 0 là rất tham

nhũng và 100 là rất trong sạch, tham nhũng trong khu vực công ở Việt Nam vẫn

được cho là rất nghiêm trọng.

Biểu đồ 2.2. Thống kê điểm CPI về chỉ số cảm nhận mức độ tham nhũng

ở Việt Nam

(Nguồn: Tổ chức Minh bạch Quốc tế (2018))

Bên cạnh đó, tình trạng đáng báo động hiện nay, tội phạm đang có xu hướng

ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh, thiếu niên phạm tội ngày càng tăng. Đặc biệt, tại kỳ

họp lần thứ 3, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XI, nhiệm kỳ 2016-2021, đại biểu Vũ

Văn Lâu - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Lai Châu đánh

giá về vấn đề đáng lo ngại là đối tượng gây án trong lứa tuổi thanh - thiếu niên chiếm

tỷ lệ cao và ngày càng trẻ hóa (chiếm 64,21%, tăng 1,66 % so với cùng kỳ năm

2016). Trong số 922 đối tượng liên quan ma túy thì đã có đến 623 đối tượng trong độ

64

tuổi thanh thiếu niên, chiếm 67,57%, tăng 2,36% so với cuối năm 2016. Người

nghiện và đối tượng nghi vấn vận chuyển, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy

trong độ tuổi thanh thiếu niên chiếm tỷ lệ cao (từ 16 đến 30 tuổi chiếm 67,57%) [4]

Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều lạc hậu, không khả thi,

không công bằng và khách quan

Tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật bộc lộ nhiều yếu điểm như thiếu

tính khả thi trên thực tiễn vẫn diễn ra hết sức phổ biến. Chẳng hạn, quy định xử phạt

người đi xe máy khi đội mũ bảo hiểm kém chất lượng được đưa ra trên thực tế mũ

bảo hiểm kém chất lượng được bày bán tràn lan trên thị trường và các cơ quan quản

lý thị trường chưa có cơ chế quản lý được việc sản xuất loại mũ bảo hiểm đó. Thêm

vào đó, bên cạnh yêu cầu mũ bảo hiểm phải có tem bảo đảm, nhưng trên thực tế

việc sản xuất tem giả rất dễ dàng và ngay cả lực lượng chức năng cũng không thể

phân biệt được hoàn toàn bằng mắt thường tính thật hay giả của loại tem đó. Hay

Nghị định 155/2016 được ban hành ra và chỉ để đó bởi thực tế không thực thi được

(quy định xử phạt lên tới 7 triệu đồng đối với hành vi vứt bỏ tàn thuốc lá, xả

rác…không đúng nơi quy định). Thông tư quy định ưu tiên tuyển sinh đối với bà mẹ

Việt Nam anh hùng, người hoạt động cách mạng trước năm 1945 tuy không sai

nhưng rất thiếu tính thực tế.

Có những quy định thậm chí gây hoang mang, bất bình đối với người dân cũng

như các đối tượng chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật đó như quy định đóng tài

chính cho công đoàn bằng 2% quỹ lương (Nghị định 191/2013/NĐ-CP); quy định về

bắt buộc phải trang bị bình chữa cháy trên xe ôtô (Thông tư 57/2015/TT-BCA)…

Thứ ba, những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch

trong nhận thức về pháp luật tồn tại rất phổ biến

Khi tổng kết về vụ người dân Đồng Tâm, Mỹ Đức bắt giữ công an làm con tin

sau một vụ tranh chấp đất đai vào tháng 5 năm 2017, một cán bộ có phát biểu rằng:

“Nếu ta sai, ta sẽ xin lỗi dân. Nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật”. Dư luận xã hội vào thời điểm đó ngạc nhiên về phát biểu này, bởi phát biểu

không thể hiện sự công bằng, mà nó còn thể hiện sự coi thường vai trò của pháp luật

65

trong việc quản lý nhà nước. Việc xin lỗi từ phía nhà nước không phải là biện pháp

duy nhất khi xử lý những sai phạm từ phía nhà nước mà còn phải có sự chịu trách

nhiệm trước pháp luật. Có như vậy, pháp luật mới thể hiện tinh thần “toàn bộ quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân” được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

Hoặc những phát biểu của một số đại biểu quốc hội gây tranh cãi, thể hiện sự

thiếu sót trong nhận thức về pháp luật như: “Cứ chọn mùa hè tăng giá điện rồi đổ

cho thời tiết là hợp lý nhất” khi người dân phản ánh bức xúc về giá điện tăng quá

cao; hay khi góp ý dự thảo Luật Xuất nhập cảnh, có đại biểu đề nghị “Nên chăng

thu phí chia tay 3-5 USD/người khi xuất nhập cảnh”; …

Tóm lại, đây là giai đoạn ý thức pháp luật Việt Nam có những bước phát

triển mới. Ý thức tuân thủ pháp luật có những điều kiện thuận lợi để phát triển nên

đã có sự chuyển đổi về chất. Tuy nhiên, ở giai đoạn này do tính chất phức tạp của

các quan hệ kinh tế, do sự tồn tại xen kẽ của hai cơ chế, đặc biệt là dấu ấn của

những phong tục, tập quán, truyền thống lạc hậu, nên mặt trái của ý thức pháp luật

cũng có điều kiện để phát triển. Ý thức thờ ơ với pháp luật, thiếu tin tưởng vào pháp

luật ở giai đoạn trước thì đến giai đoạn này đã chuyển thành ý thức coi thường,

khinh nhờn pháp luật. Sự vi phạm pháp luật thời kỳ này thể hiện ở hai thái cực rất

rõ: hoặc là người ta vi phạm pháp luật do thiếu những hiểu biết một cách đầy đủ, một

cách chính xác về pháp luật; hoặc là trên cơ sở những hiểu biết đầy đủ về pháp luật,

người ta tìm ra những kẽ hở của pháp luật để "lách luật". Sự vi phạm ở khía cạnh thứ

hai này đang ngày càng trở nên phổ biến trong đời sống xã hội, nó chứng tỏ ý thức

coi thường pháp luật đang mở rộng phạm vi phát triển của mình. Truyền thống không

tuân thủ pháp luật ở các giai đoạn trước đến giai đoạn này đã trở thành thói quen, tạo

ra những hành vi ứng xử rất tự phát, trở thành một lực cản to lớn khi chúng ta muốn

thực hiện phương châm: "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".

2.2. Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta hiện nay

Việc phân tích, đánh giá về tình trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta

trong suốt chiều dài lịch sử sẽ giúp chúng ta có góc nhìn khách quan, khái quát và

thấy rõ được mối liên hệ, logic khách quan của quá trình hình thành nên ý thức pháp

66

luật tiêu cực. Đó là cả một quá trình hình thành và phát triển theo chiều dài biến

động của lịch sử. Nguyên nhân của việc hình thành ý thức pháp luật tiêu cực ở nước

ta hiện nay cần được nhìn nhận một cách toàn diện, có tính logic và hệ quả.

2.2.1. Nguyên nhân khách quan

Ý thức pháp luật tiêu cực của người dân hiện nay bị tác động bởi những

nguyên nhân khách quan về kinh tế - xã hội đương thời cũng như những nguyên

nhân chủ quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó, sau khi phân tích và tìm hiểu thực trạng ý

thức pháp luật tiêu cực ở nước ta trong suốt chiều dài của lịch sử, có thể nhận thấy

rằng quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam là

sự phản ánh tồn tại xã hội Việt Nam từ góc nhìn pháp luật. Vì thế, quá trình hình

thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam bị quy định trước hết

bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, tư tưởng của xã hội Việt Nam trong từng

giai đoạn lịch sử cụ thể.

Thứ nhất, thông thường sự ra đời của nhà nước sẽ kéo theo nó sự xuất hiện

của pháp luật và ý thức pháp luật với tư cách là những công cụ để duy trì và bảo vệ

thể chế này. Nhưng ở Việt Nam ý thức pháp luật tiêu cực xuất hiện vào giai đoạn đất

nước bị giặc ngoại xâm đô hộ chứ không phải vào thời điểm nhà nước sơ khai được

hình thành. Điều này đã làm nên nét riêng biệt, có tính chất đặc thù của ý thức pháp

luật Việt Nam - đó là truyền thống bất tuân pháp luật đã được hình thành sớm nhất

trên hành trình phát triển của ý thức pháp luật. Một nghịch lý là, ngay từ khi có khái

niệm, nhận thức sơ khai về ý thức pháp luật thì người Việt Nam chúng ta đã có ý thức

chống lại pháp luật. Đơn giản bởi thứ pháp luật đó là pháp luật của ngoại bang. Đặc

điểm về ý thức pháp luật tiêu cực này hiện diện trong cả quá trình phát triển của ý

thức pháp luật Việt Nam. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử, nó lại tồn tại ở dưới những nội

dung và hình thức mới, nhưng dấu ấn của nó vẫn còn dai dẳng đến tận bây giờ.

Thứ hai, sự hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam

không chỉ thuần túy bị quy định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn luôn nằm

trong mối quan hệ với các phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc và, đặc biệt, là

ảnh hưởng của những tư tưởng pháp luật thống trị ngoại bang đối với quá trình này.

Ở giai đoạn hiện nay, bên cạnh hai nguyên nhân trên, ý thức pháp luật tiêu cực

67

của người dân hiện nay còn bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội đương thời.

Thứ nhất, kinh tế thị trường gây ra hàng loạt những hiện tượng tiêu cực ảnh

hưởng không nhỏ đến ý thức pháp luật của người dân. Sự phân hoá giàu nghèo làm

sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, tội

phạm, bạo lực; kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy

theo đồng tiền bất chấp đạo lý. Đối với những nước mới bước vào kinh tế thị trường

như nước ta, sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức truyền thống

của dân tộc trở thành vấn đề nan giải.

Thứ hai, ý thức pháp luật tiêu cực này lại được sự hậu thuẫn của một cơ chế

lỏng lẻo, hệ thống pháp luật không đồng bộ, còn có nhiều khoảng trống, kẽ hở,

cùng với việc thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế. Bởi thực tế chỉ ra, chuyển từ kế

hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, những khuyết tật của

Nhà nước lại càng lộ rõ, nhất là khi hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường chưa

được hình thành đồng bộ, hoàn chỉnh, công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập.

Pháp luật không thể trở thành biện pháp xử lý tranh chấp ưu tiên trong quan niệm

của người dân.

Tồn tại những xung đột và lỗ hổng trong hệ thống pháp luật là do trong điều

kiện phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cùng với việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rất nhiều các quan hệ xã hội mới nảy sinh

cần được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, nhưng pháp luật hiện hành

không theo kịp các quan hệ mới đó, nhiều quy phạm trở nên lỗi thời. Hoặc các văn

bản quy phạm pháp luật mới được ban hành để điều chỉnh lại chưa đồng bộ, ổn định

bởi nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Nhiều vấn

đề lý luận và thực tiễn mới về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và

vì nhân dân chưa được tổ chức nghiên cứu, tổng kết một cách cơ bản, có hệ thống,

kịp thời nên nội dung của pháp luật chưa theo kịp, thậm chí còn lạc hậu hơn nhiều

so với thực tiễn. Điều đó dẫn đến sự xung đột trong quá trình áp dụng luật, cũng

như xuất hiện những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật.

68

Chẳng hạn, ở nước ta, dựa trên Báo cáo cuộc bình chọn các quy định pháp

luật năm 2016 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố có

rất nhiều quy định pháp luật thiếu hợp lý; thiếu tính thống nhất; tính khả thi; tính

minh bạch; cản trở tới quyền tự do kinh doanh; thúc đẩy cạnh tranh. Một số quy

định về điều kiện kinh doanh mang tính chất áp đặt đến quy mô của doanh nghiệp,

can thiệp quá sâu vào quyền tự quyết của chủ thể kinh doanh, ví dụ như: Doanh

nghiệp kinh doanh taxi, vận tải theo hợp đồng phải đạt số lượng xe tối thiểu trong

phương án kinh doanh được Sở Giao thông Vận tải phê duyệt mới có thể hoạt động.

Quy định này, vô hình chung đã trực tiếp loại bỏ đa số doanh nghiệp vận tải nhỏ và

vừa, tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn chiếm giữ thị trường, làm giảm cơ hội

lựa chọn dịch vụ của khách hàng.

Từ trước đến nay, thủ tục hành chính luôn là khâu gây ra nhiều sự phiền hà

cho các công dân, tổ chức. Chúng ta có quá nhiều thủ tục hành chính và sự thực

hiện những thủ tục này lại hết sức tùy tiện, nên nhiều khi gây cản trở, ách tắc công

việc. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho tệ hối lộ,

cửa quyền, tham nhũng có đất tồn tại và phát triển. Một số tác giả nước ngoài đánh

giá rằng do những thủ tục phiền hà mà bộ máy hành chính gây ra nên làm mỗi ngày,

xã hội cũng như các công dân mất nhiều tỷ đồng và nhiều triệu giờ cho việc chạy

chọt để thực hiện một quyền thông thường nhất.

Thứ ba, pháp luật chưa thực sự là công cụ để bảo vệ quyền con người, phẩm

giá con người, chưa thực sự là hiện thân của công lý, công bằng. Chính vì vậy,

người dân không thừa nhận giá trị thực tiễn của pháp luật, không xem pháp luật như

một công cụ hữu hiệu để bảo vệ bản thân.

Pháp luật được xem xét không chỉ với tư cách là công cụ, phương tiện của

Nhà nước mà còn là công cụ, vũ khí của mọi người trong xã hội để thực hiện, bảo

vệ quyền con người. Bởi vì pháp luật là đại lượng mang giá trị phổ biến, là chuẩn

mực của sự công bằng, do đó có thể đo được hành vi của mọi người, kể cả các cơ

quan tổ chức, công chức Nhà nước. Tuy nhiên thực tế hiện nay, nước ta chưa có

một cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả. Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một

69

cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy

chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền. Quyền được tiếp

cận thông tin hay quyền làm chủ của nhân dân trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã

hội, còn bị vi phạm; việc thực hiện dân chủ còn bị hạn chế hoặc mang tính hình

thức; thậm chí có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội

bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Nhìn nhận một cách khách quan, hiện vẫn còn một số cán bộ, công chức,

viên chức trong bộ máy Nhà nước chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng

xã hội của mình, về quyền con người, nên có hành vi gây phiền hà, sách nhiễu làm

ảnh hưởng tới uy tín của chính quyền. Ngược lại, một số người lợi dụng quyền công

dân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Như đã phân tích ở phần trên của luận văn, pháp luật sẽ không thể là hiện

thân của công lý và lẽ công bằng nếu nó không phải là ý chí, lý lẽ chung mà ở đó

phải có sự “gặp gỡ” của các ý chí, ý kiến khác nhau, phải trở thành những ý chí, lý

lẽ chung đúng đắn mà mọi người đều thừa nhận, đó mới là công lý. Tuy nhiên, pháp

luật hiện nay chưa thực sự cân bằng được các nhóm lợi ích khác nhau. Một số bộ

phận nhóm người vẫn bị “bỏ lại phía sau”. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là vị

trí địa lý, hạn chế về cơ cấu, các định kiến xã hội về trao quyền, cơ hội và khả năng

tiếp cận dịch vụ công.Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ cơ cấu thể chế và các phương

án chính sách.

Thứ tư, công tác giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của người

dân còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết dẫn đến hiệu quả giáo dục chưa được cao, còn

mang tính hình thức và chưa đáp ứng được yêu cầu tăng cường hiệu lực pháp luật

trong đời sống xã hội. Sự hiểu biết về pháp luật của người dân còn rất mơ hồ và hạn

chế. Hệ quả là các cá nhân không nắm rõ được quyền và lợi ích của mình, cũng như

biết những biện pháp để bảo vệ nhân phẩm, phẩm giá của bản thân. Niềm tin của

người dân đối với pháp luật chưa thực sự rõ nét.

Trong quan niệm của nhiều người, tòa án và pháp luật chỉ là chỗ cho những

người giàu có và quan hệ rộng.Nếu muốn người dân cần đến pháp luật, tức là có

70

nhu cầu đối với pháp luật thì trong tâm thức người dân, pháp luật phải là cách giải

quyết được ưu tiên, phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, tiếp đến phải làm sao để

người dân biết đến pháp luật đó, ở đâu lúc nào, luật nào dùng cho mục đích gì và sẽ

được sử dụng như thế nào trên thực tế.

Sự hạn chế này xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết là do sự nhận thức của

các cấp ngành về vị trí cũng như vai trò của công tác giáo dục pháp luật chưa được

cao, chưa đầy đủ, thiếu sự sát sao, quan tâm và phối hợp. Tiếp đến là do đặc điểm

riêng biệt của đối tượng giáo dục pháp luật ở nước ta (gần 70% dân số nước ta vẫn

sống ở nông thôn, kinh tế khó khăn và dân trí tương đối thấp, ít sự quan tâm tới

pháp luật). Nhiều địa phương vẫn còn tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu, tư

tưởng tiểu nông, khép kín, ngại thay đổi… khiến cho việc phổ biến pháp luật bị hạn

chế và kém hiệu quả. Hình thức giáo dục còn rất đơn điệu, không thu hút. Người

dân chỉ được phổ biến pháp luật qua những hình thức như truyền miệng, phương

tiện thông tin đại chúng, tủ sách pháp luật… Khi đưa vào thực hiện các hình thức

này đạt hiệu quả giáo dục pháp luật không thực sự cao. Trong một cuộc khảo sát

học sinh về nội dung môn Giáo dục công dân cho thấy hơn 51% các em học sinh

đánh giá là có nhiều nội dung trừu tượng, khó hiểu. Trong khi đó những hình thức

thật sự mang lại hiệu quả như hòa giải tại cơ sở, câu lạc bộ, hội thi tìm hiểu pháp

luật… lại chưa có điều kiện để tổ chức nhiều.

Thứ năm, trình độ chuyên môn và thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ công

chức nhà nước còn hạn chế

Thực trạng đặt ra hiện nay là việc thiếu trách nhiệm cá nhân của người đứng

đầu, nói phải đi đôi với làm; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực; thái độ, trách nhiệm

và văn hóa ứng xử chưa chuẩn mực của cán bộ, công chức, viên chức tạo nên ác

cảm cũng như rào cản cho người dân trong việc giải quyết các công việc bằng pháp

luật cũng như tiếp cận công lý, lẽ công bằng.

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Chúng ta nhận thức được rằng ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội hay của

các nhóm xã hội đều có mối quan hệ khăng khít với ý thức pháp luật tiêu cực của cá

71

nhân. Vì vậy, ngoài các điều kiện khách quan đã phân tích ở trên thì các điều kiện

thuộc về chủ quan cá nhân là một trong những nguyên nhân tác động tới các biểu

hiện của ý thức pháp luật tiêu cực và sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực. Cụ

thể, đó là các điều kiện, hoàn cảnh riêng của từng người (môi trường giáo dục,hoàn

cảnh gia đình, nhu cầu và lợi ích cá nhân, tâm sinh lý, sức khỏe, trình độ học vấn,

hiểu biết xã hội...).

Thứ nhất, môi trường giáo dục, hoàn cảnh gia đình: Môi trường giáo dục,

hoàn cảnh gia đình tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật tiêu cực. Sống trong một

môi trường mà mỗi cá nhân không được giáo dục một cách đúng đắn, đầy đủ về ý

thức tuân thủ pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp luật từ trong phạm vi gia

đình cho đến xã hội sẽ dẫn đến những tiêu cực trong ý thức pháp luật. Bố mẹ không

có ý thức tuân thủ và coi trọng pháp luật hoặc không giáo dục, chỉ bảo con cái mình

về điều đó thì dần dần sẽ hình thành ý thức pháp luật tiêu cực.

Chẳng hạn, hành động của bố mẹ hay các thành viên trong gia đình có ảnh

hưởng rất lớn đối với ý thức pháp luật của con cái. Chẳng hạn, bố mẹ không chấp

hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật như đi về bên phải, không vượt đèn

đỏ, ngồi trên xe máy phải đội mũ bảo hiểm, không được phóng nhanh, vượt ẩu quá

tốc độ cho phép… thì con cái sẽ học theo, làm theo. Từ đó, dần dần tạo nên ý thức

pháp luật tiêu cực của cá nhân và rộng ra là của cả xã hội.

Thứ hai, nhu cầu và lợi ích cá nhân: Mỗi người đều có những nhu cầu và lợi

ích riêng của cá nhân mình. Tuy nhiên, những nhu cầu và lợi ích có tính chất tiêu

cực của cá nhân là nguyên nhân tạo ra những sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu

cực. Trong thực tế, hành vi phạm tội – một trong những sản phẩm của ý thức pháp

tiêu cực - diễn ra rất đa dạng và phức tạp. Và khi thực hiện hành vi phạm tội thì bao

giờ cũng có sự tham gia của nhận thức, cảm xúc, ý chí và nhu cầu của người phạm

tội. Chẳng hạn như động cơ của tội phạm tham nhũng có thể bao gồm những nét

tiêu cực trong nhu cầu của người phạm tội như lòng tham muốn vật chất, ham địa

vị, quyền lực cao, hoặc thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí dẫn đến sự không chấp nhận mất

cân đối giữa tiền lương với địa vị công việc… Những yếu tố này khi đã trở thành

72

những giá trị thường xuyên liên tục trong cá nhân thì khi gặp đối tượng, hoàn cảnh

điều kiện thuận lợi tác động sẽ trở thành động cơ thúc đẩy, lựa chọn mục đích và

thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ ba, trình độ học vấn, hiểu biết xã hội: Trình độ học vấn hạn chế, non

kém cùng với sự hiểu biết xã hội một cách không khách quan, lệch lạc sẽ dẫn đến

những biểu hiện và sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực.

Chẳng hạn, sự ra đời của một bộ luật với rất nhiều điểm hạn chế, lỗ hổng và

các quy định lạc hậu, thiếu tính thực tiễn áp dụng trên thực tế là sản phẩm của ý

thức pháp luật tiêu cực xuất phát từ nhận thức còn non kém, kiến thức chuyên môn

về pháp luật còn hạn hẹp của những cán bộ xây dựng pháp luật.

Thứ tư, tâm sinh lý của mỗi cá nhân: Cá nhân ở mỗi lứa tuổi, mỗi giới tính

khác nhau sẽ có những tâm sinh lý khác nhau và đây là một trong những nguyên

nhân tác động đến biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực. Cụ

thể, thanh thiếu niên là thời điểm mà các cá nhân tràn đầy xúc cảm, dễ xúc động,

khó kiềm chế xúc cảm bộc phát, dễ bị tổn thương, trạng thái tình cảm của các em rất

thất thường, không ổn định, dễ bị kích động (dễ nổi nóng, dễ chán nản, tủi thân).

Đây là những biểu hiện tâm sinh lý rất bình thường nhưng trong những thời điểm và

hoàn cảnh nhất định sẽ dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, hành vi

đánh người gây thương tích của thanh thiếu niên chỉ vì “một lời nói đểu” của bạn

xuất phát từ tâm lý dễ nổi nóng, dễ bị kích động và không kiềm chế được cảm xúc

73

của bản thân.

Kết luận chƣơng 2

Từ những sự phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đây

về sự phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta hiện nay trong suốt chiều

dài lịch sử:

Một là, quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở

Việt Nam bị quy định trước hết bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, tư tưởng

của xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Phân tích quá trình hình thành và

phát triển ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam có thể thấy, ở mỗi một giai đoạn

lịch sử, ý thức pháp luật tiêu cực lại được biểu hiện dưới những hình thức khác

nhau, xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Nó sẽ có tác động tích cực hoặc

tiêu cực đến sự phát triển của tồn tại xã hội, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển

của tồn tại xã hội.

Hai là, quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực Việt

Nam không chỉ tuân theo quy luật phổ biến, mà còn được thể hiện trong sự vận

động nội tại tất yếu của riêng nó rất đặc thù. Nó cho thấy sự hình thành và phát triển

của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam không chỉ thuần túy bị quy định bởi các

điều kiện kinh tế - xã hội, các yếu tố chủ quan cá nhân, mà còn luôn nằm trong mối

quan hệ với các phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc và, đặc biệt, là ảnh hưởng

của những tư tưởng pháp luật thống trị ngoại bang đối với quá trình này.

Ba là, từ việc phân tích quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật

tiêu cực ở Việt Nam giúp chúng ta bước đầu có được cách nhìn tương đối chính xác

và toàn diện về nó. Đó là cơ sở để có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu, có tác

động tích cực thúc đẩy sự hình thành ý thức pháp luật tích cực trong người dân theo

con đường phát triển khách quan, đồng thời hạn dần những biểu hiện tiêu cực trong

74

ý thức pháp luật của người dân.

Chƣơng 3

NHỮNG YÊU CẦU, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Ý THỨC

PHÁP LUẬT TIÊU CỰC

3.1. Những yêu cầu về việc khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc

ta hiện nay

Thực tế chỉ ra rằng, quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật

tiêu cực ở nước ta hiện nay chịu ảnh hưởng của các yếu tố về kinh tế, xã hội, chính

trị, tư tưởng, tập quán, truyền thống, đạo đức… Đứng trước những yêu cầu và thay

đổi khách quan của các yếu tố trên, ý thức pháp luật tiêu cực cũng có những chuyển

biến nhất định. Vấn đề cần đặt ra là việc phải nhận thức đúng và có các giải pháp

thích hợp để khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực sao cho phù hợp với yêu cầu của

thực tế, nhằm thúc đẩy sự phát triển vững chắc của ý thức pháp luật tích cực trong

mỗi người dân.

3.1.1. Yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế thị trường,

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII có ghi nhận về yêu cầu hoàn thiện nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Nhà nước bảo vệ

quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh của người dân,

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; tạo môi trường đầu tư, kinh

doanh bình đẳng, an toàn, thuận lợi; kiểm soát tốt độc quyền kinh doanh,

thực thi hiệu lực, hiệu quả các chính sách cạnh tranh lành mạnh [11].

Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời

giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế cũng là yêu cầu phát triển

trong thời đại mới.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, xã hội ta đã phải kế thừa một di sản

bất lợi về nhân cách pháp lý của con người. Nhân cách đó cần phải được đổi mới

sao cho phù hợp với những điều kiện khách quan của kinh tế, chính trị và xã hội.

75

Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay với những

mặt tích cực của nó sẽ tạo ra tư duy năng động, sang tạo, coi trọng uy tín, chất

lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế; từ đó sẽ tác động tích cực hơn tới ý thức

pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thế trong các hoạt động sản

xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng.

Kinh tế thị trường còn là môi trường sàng lọc tự nhiên đối với con người. Nó

buộc mọi cá nhân và xã hội phải quan tâm đến tính trung thực, tôn trọng trong các

quan hệ kinh tế. Chẳng hạn đối với các doanh nghiệp, cần phải có sự tôn trọng đối

tác, tôn trọng khách hàng, quan tâm đến hiệu quả công việc và chất lượng sản

phẩm, thực hiện đúng các quy định của pháp luật về sản xuất và kinh doanh. Có như

vậy doanh nghiệp mới tồn tại, mới chiếm được lòng tin từ khách hàng và có chỗ

đứng thực sự trên thương trường. Đó cũng chính là những đòi hỏi phải thay đổi ý

thức pháp luật tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.

Với sự vận hành theo pháp luật và những định chế tài chính nghiêm ngặt,

kinh tế thị trường đòi hỏi sự tôn trọng pháp luật và kỷ luật cao độ, do đó, mọi người

dần hình thành tác phong: “sống và làm việc theo pháp luật”, từ bỏ thói tùy tiện, vô

tổ chức đã tồn tại lâu nay, rèn luyện tính kỷ luật trong lao động cho phù hợp với

điều kiện sản xuất, kinh doanh công nghiệp hiện đại. Đây là môi trường thuận lợi

cũng như là đòi hỏi khách quan của việc giáo dục ý thức đạo đức mới, giáo dục tác

phong công nghiệp cũng như giáo dục ý thức pháp luật tích cực cho nhân dân.

3.1.2. Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân và vì dân

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong thời kỳ qua, đặt ra một yêu cầu khách

quan là phải thực hiện cải cách một cách căn bản bộ máy nhà nước theo hướng xây

dựng nhà nước pháp quyền. Đó là nhiệm vụ trung tâm của việc đổi mới hệ thống

chính trị ở nước ta.

Xây dựng nhà nước pháp quyền là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống

chính trị nhằm làm cho hệ thống đó phù hợp và tác động tích cực tới sự phát triển của

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động

76

lành mạnh, tuân thủ pháp luật, duy trì trật tự, kỷ cương, phải được xây dựng trên ý

thức tuân thủ pháp luật ngày càng cao của mọi người. Giáo dục mọi thành viên và các

cộng đồng trong xã hội thói quen và nếp sống tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Đó

chính là nội dung không thể thiếu của nhà nước pháp quyền [34, tr.89 – 91]. Ý thức

pháp luật tiêu cực được xem như một rào cản trên con đường xây dựng nhà nước

pháp quyền. Đứng trước đòi hỏi xây dựng một nhà nước thượng tôn pháp luật, vấn đề

ý thức pháp luật tiêu cực cần phải có những động thái biến chuyển, giải pháp hạn chế.

Đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền là pháp luật

đóng một vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh toàn bộ xã hội. Nhà nước pháp

quyền thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi người, không ngoại trừ ai

(từ các cơ quan nhà nước, công nhân viên chức, các tổ chức xã hội và mọi công

dân) đều có nghĩa vụ bắt buộc tuân thủ pháp luật. Ý thức pháp luật đóng vai trò

quan trọng trong việc giúp người dân biết cách vận dụng một cách đúng đắn, sáng

tạo phương tiện pháp luật vào các hoạt đồng thường ngày của mình.

Về cơ bản, nhà nước pháp quyền không chỉ đơn thuần là một nhà nước mà

trong đó mọi công dân đều tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Điều cốt yếu nhất là

nhà nước đó phải thực sự của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện quyền lực, ý

chí tự do của nhân dân. Bản chất đó của nhà nước chỉ được giữ vững và không bị tha

hóa chỉ khi mỗi công dân nêu cao ý thức pháp luật trong xã hội, hạn chế các biểu hiện

của ý thức pháp luật tiêu cực, phải biết tạo ra một công luận tôn trọng pháp luật “Nếu

không có ý thức pháp luật ở một trình độ cao thì xã hội công dân không có khả năng

buộc bộ máy nhà nước phải tuân thủ ý chí của mình” [22, tr.135]

Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải đạt đến trình độ cao về chất

lượng, gắn bó và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; quan trọng

nhất là thể hiện được ý chí chung của nhân dân. Cội nguồn của pháp luật là xã hội

công dân, thể hiện quyền lực của nhân dân. Cần phải xây dựng một cơ chế đúng đắn

để pháp luật có thể đạt được đến chất lượng cao như thế. Cơ chế bao giờ cũng phải

thông qua con người. Vậy nên, để tạo ra một cơ chế hoàn chỉnh, đồng bộ nhằm đưa

pháp luật vào cuộc sống một cách có hiệu quả, chúng ta rất cần nâng cao ý thức

77

pháp luật của người dân trong xã hội.

Bước vào thời kỳ lịch sử mới, việc tạo cho nhân dân thói quen tuân thủ pháp

luật là rất khó khăn bởi những tàn dư chiến tranh triền miên và cơ chế tập trung

quan liêu, bao cấp trong một thời kỳ dài nên nhà nước ta chỉ quen điều chỉnh các

quan hệ xã hội bằng mệnh lệnh, hành chính. Nhìn vào con đường hình thành và phát

triển của ý thức pháp luật Việt Nam có thể thấy rằng, ý thức tuân thủ pháp luật tuy

đã được hình thành nhưng lại có rất ít những điều kiện thuận lợi để phát triển, dẫn

đến tình trạng ý thức pháp luật tiêu cực vẫn còn phổ biến trong đời sống.

Để đánh bật ý thức pháp luật tiêu cực thì công cụ quan trọng nhất là giáo dục

pháp luật. Trong các hoạt động tổ chức, thực hiện pháp luật thì giáo dục pháp luật là

một dạng hoạt động đặc biệt. Thực tế chỉ ra rằng, việc xây dựng và ban hành pháp

luật không đi đôi với việc tuyên truyền, phổ biến và giải thích pháp luật. Có một sự

mâu thuẫn và bất cập lớn giữa tốc độ ban hành, tăng trưởng của các văn bản pháp

luật với trình độ hiểu biết pháp luật hạn hẹp, lạc hậu của quần chúng nhân dân. Mâu

thuẫn này là một trong những cản trở lớn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền, tạo nên những khó khăn trong việc hoàn thành mục tiêu này. Thực tiễn đó

đòi hỏi, chúng ta phải kịp thời tìm ra những biện pháp hữu hiệu để xây dựng và

nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội.

Đa số các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các đồng bào dân tộc thiểu số,

vùng sâu vùng xa thì tỷ lệ được phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật còn

thấp. Các kiến thức pháp luật phổ thông nhất cũng chỉ được đưa vào môn học

Giáo dục công dân nhưng phần đa đều rất hình thức và nội dung thì không lôi

cuốn, hấp dẫn. Giáo viên giảng dạy môn học này ở nhiều nơi còn là kiêm nhiệm,

chưa được đào tạo hoặc bồi dưỡng về kiến thức pháp luật cũng như phương pháp

giảng dạy đặc thù của bộ môn.

Thực tế này cho thấy sự phát triển của ý thức pháp luật không tương ứng với

sự phát triển và những đòi hỏi của tồn tại xã hội, làm nảy sinh những mâu thuẫn về

sự phát triển ngày một đa dạng, phong phú của tồn tại xã hội và sự lạc hậu, bảo thủ,

kém phát triển của ý thức pháp luật. Điều đó làm cản trở quá trình xây dựng nhà

78

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3.1.3. Yêu cầu về xây dựng con người toàn diện

Văn kiện Đại hội X có ghi nhận:

Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ

và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

hội nhập kinh tế - quốc tế… Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh

niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực, trí tuệ, đạo

đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam [10, Mục XII]

Quan điểm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay khẳng định con

người phải được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công và làm chủ đất nước,

xã hội, sống trong tự do và được phát triển toàn diện.

Như vậy để thể chế hóa và ghi nhận vào trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ

của cá nhân – công dân thành hệ thống các quy phạm pháp luật thì cần thống nhất

tinh thần pháp luật vì con người, phục vụ con người, đảm bảo sự an toàn của con

người, thể hiện nguyên tắc “không phải con người tồn tại vì pháp luật mà pháp luật

tồn tại vì con người” [1, tr.350]. Để thực hiện được các nguyên tắc đó thì vai trò trong

việc nâng cao ý thức pháp luật, hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực là vô cùng quan

trọng, góp phần nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho mọi công dân, là nhu cầu cấp

bách trong việc nâng cao tính tích cực pháp lý công dân trong mối quan hệ với pháp

luật và nhà nước. Nâng cao ý thức pháp luật, tránh các biểu hiện tiêu cực trong ý thứ

pháp luật là công việc cần được coi trọng bởi ý thức pháp luật là biểu hiện của văn

minh, của sự phát triển. Tôn trọng pháp luật là văn hóa, văn minh, tôn trọng con

người đồng thời tự tạo dựng được cái đẹp và cái hay trong cuộc sống thường ngày.

3.1.4. Yêu cầu về đổi mới hệ thống chính trị

- Yêu cầu về cải cách hoạt động lập pháp

Hệ thống luật, pháp lệnh hiện hành còn tồn tại những bất ổn lớn là: chưa

đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, tồn tại nhiều

quy định khung, nhiều quy định thiếu cụ thể, thiếu minh bạch về quyền và nghĩa vụ

của các bên tham gia quan hệ xã hội, khả năng phản ứng với những thay đổi của

79

thực tiễn còn chậm chạp, việc giải thích luật, pháp lệnh hầu như không được tiến

hành, tỷ lệ văn bản pháp lệnh trong hệ thống còn quá lớn, tỷ lệ văn bản hướng dẫn

quá nhiều, ban hành chậm, thâm chí còn trái với luật, Hiến pháp... Những điểm tồn

tại, cùng với xu hướng ban hành luật với các quy định cụ thể, giảm dần việc ban

hành pháp lệnh, tỷ lệ luật sửa đổi bổ sung một số điều ngày càng nhiều, các luật về

lĩnh vực kinh tế, dân sự chiêm vị trong tâm... Chính vì vậy, đây là vấn đề đặt ra cho

công tác lập pháp ở những nhiệm kỳ tới.

- Yêu cầu của cải cách hành chính

Nền hành chính nước ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ qua từng giai đoạn lịch

sử. Tuy nhiên, khi bước vào thời kỳ mới, cùng với sự thay đổi của các điều kiện

khách quan và chủ quan của thời đại, nền hành chính nước ta bắt đầu bộc lộ rõ

những nhược điểm như: cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, chưa xác định rõ được sự lãnh

đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước; hệ thống pháp luật chưa

đồng bộ, vừa có những mặt lạc hậu lại không đáp ứng kịp thời những nhu cầu của

nền kinh tế thị trường; bộ máy tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc, rối rắm gây khó

khăn, phức tạp trong hoạt động; đội ngũ công chức quá đông và chưa thực sự có

năng lực cao. Chính những thiếu sót, yếu kém này lại dẫn đến tình trạng quan liêu,

cửa quyền, tham nhũng, lãng phí của công, xa rời nhân dân.

Người dân là người tuân thủ các quy định của nhà nước trong quản lý hành

chính, là người thụ hưởng các dịch vụ hành chính công do nhà nước cung ứng. Nên

nếu quản lý hành chính lạc hậu, yếu kém, gây khó khăn cho người dân sẽ dẫn tới hệ

quả mất lòng tin của người dân. Từ đó tạo nên thái độ, ý thức pháp luật tiêu cực đối

với pháp luật của nhà nước. Họ tự cảm thấy những quy định, cách thức khi tham gia

các hoạt động liên quan đến quản lý nhà nước về hành chính là rườm rà, phức tạp

thậm chí hách dịch dẫn đến việc “ngại” tiếp xúc, từ đó, họ không thể nhận thức được

quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Thậm chí, còn có thái độ vi phạm hoặc “lách luật”.

Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu cải cách trong công tác hành chính. Mục tiêu

cuối cùng của cải cách hành chính là sự phục vụ ngày càng hiệu quả hơn cho người

dân, làm cho họ cảm thấy hài lòng và tin tưởng vào sự quản lý của nhà nước. Cải

80

cách hành chính tốt sẽ hạn chế được tính chất tiêu cực trong ý thức pháp luật của

người dân. Nhưng bản thân người dân cũng cần phải nỗ lực hợp tác bởi bộ máy

hành chính nhà nước thiết lập ra, các quy định thể chế, cụ thể là các thủ tục hành

chính do nhà nước đề ra trên cơ sở khoa học cùng đội ngũ cán bộ công chức tinh

nhuệ, có năng lực… sẽ không thể vận hành hiệu quả nền hành chính công tốt nếu

không có sự đóng góp, hợp tác, tính tích cực trong ý thức pháp luật của người dân.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cũng đã ghi nhận nhiệm vụ: “Xây dựng

nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả,

lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp là tiêu chí

đánh giá. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình” [11].

- Yêu cầu của cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp là một bộ phận quan trọng trong cải cách bộ máy Nhà nước,

có quan hệ mật thiết với cải cách hành chính và không thể tách rời với công cuộc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cải cách Tư pháp không thể tách

rời với quá trình xây dựng một Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “quyền lực Nhà nước là thống nhất,

có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực

hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”

Mục tiêu của cải cách tư pháp là đổi mới mạnh mẽ về cơ chế tố tụng, về trình

độ nghiệp vụ của cán bộ để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của công dân và xã hội

về một nền tư pháp hiệu quả trong việc đấu tranh chống lại các tội phạm và thực sự

là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người; bảo

đảm việc tiếp cận công lý một cách dễ dàng nhất; bảo đảm sự công khai, minh bạch,

dân chủ, giản tiện trong việc tiếp cận việc xử lý vụ án của người dân.

Công cuộc cải cách tư pháp có tác động trực tiếp tới ý thức pháp luật của

người dân. Nó đã hạn chế được phần nào ý thức pháp luật tiêu cực khi làm việc với

các cơ quan tư pháp của người dân; đấu tranh đẩy lùi các loại tội phạm và hành vi vi

phạm pháp luật, dần dần tạo dựng được niềm tin vào pháp luật và công lý.

Ngày nay không thiếu các trường hợp người dân có ý thức pháp luật tiêu cực

81

khi tiếp xúc với các cơ quan tư pháp. Chẳng hạn, khi tòa gọi, đương sự không xuất

hiện bởi họ quan niệm “vô phúc đáo tụng đình” bởi “chờ được vạ thì má đã sưng”.

Chúng ta cảm thấy chia sẻ khi có một ý kiến mong rằng ngành tòa án sẽ có “những

đương sự tốt, những bị cáo tốt”. Có nghĩa là người dân thay vì chống đối hãy thực

sự xem tòa án là người bảo vệ công lý, đem đến sự an toàn pháp lý cho xã hội và

bảo vệ con người.

3.1.5. Yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế

Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng đầy đủ vào các sân chơi chung của

quốc tế như: WTO, APEC, ASEAN,… Đây là một xu thế chung của toàn cầu. Công

dân toàn cầu không còn là khái niệm xa lạ đối với người dân. Các quan hệ pháp lý,

giao dịch dân sự có yếu tố nước ngoài… trở nên đa dạng và phổ biến trong cuộc

sống. Ý thức pháp luật của người dân cũng vì vậy mà có những chuyển biến. Ý thức

pháp luật tiêu cực của người dân như thói quen tùy tiện trong giao dịch, sự thờ ơ,

thiếu hiểu biết về pháp luật… cũng đã có những thay đổi trước đòi hỏi của tình hình

thực tế. Bởi các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam tự nhận

thấy cần phải có được những hiểu biết và kỹ năng cần thiết để chủ động thực hiện

đúng đắn các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm đạt được những lợi ích chính đáng

trong sân chơi chung của khu vực và thế giới.

Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam thời gian qua gắn liền với quá trình

hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta. Kết quả tích cực của quá trình này đã được

thể hiện qua việc rà soát tổng thể tính tương thích của hệ thống pháp luật Việt Nam

khi ký kết, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các đối tác lớn

cũng như việc gia nhập Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015. Sự tương thích

giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đã tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi

cho người dân. Pháp luật trở nên gắn bó thiết thực với cuộc sống và xác lập được rõ

ràng những chế tài khi có tranh chấp. Người dân vì vậy mà cảm thấy bản thân được

đảm bảo tốt hơn các yêu cầu về quyền con người, quyền công dân, hạn chế tính

trạng tiêu cực trong ý thức pháp luật.

Tóm lại, xuất phát từ các yêu cầu của cải cách bộ máy nhà nước theo hướng

82

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một nhà nước mà pháp luật đóng

vai trò chủ đạo và pháp luật ấy phải thể hiện ý chí của nhân dân, cùng quá trình hội

nhập quốc tế với nhiều thời cơ và thách thức, người dân cũng cần phải có những

thay đổi tích cực trong ý thức pháp luật. Nhận thức đúng về ý thức pháp luật tiêu

cực cũng như các điều kiện thực tế là việc rất quan trọng để từ đó có các giải pháp

thích hợp để khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát triển vững chắc của ý thức pháp luật

tích cực trong người dân.

3.2. Một số giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam

hiện nay

3.2.1. Tạo ra một môi trường pháp lý thích hợp cũng như cơ sở vật chất -

kinh tế cho ý thức pháp luật tích cực phát triển

Như đã phân tích ở chương I, mục 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến ý thức

pháp luật tiêu cực, trong đó có yếu tố vật chất – kinh tế. Ý thức pháp luật là do tồn

tại xã hội quy định, do đó, để nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay, trước

hết phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh

công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo ra những điều kiện vật chất -

kinh tế cho việc nâng cao ý thức pháp luật. Bởi vì, sự phát triển nền kinh tế đó sẽ

nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần tuân thủ pháp luật. Khi đời sống pháp luật

phát triển thì trên nền tảng kinh tế đó, ý thức pháp luật của toàn xã hội và của các cá

nhân mới có điều kiện không ngừng vươn lên. Đến lượt mình, ý thức pháp luật lại

tạo ra những chính sách pháp luật phù hợp làm tiền đề và cơ sở cho các quan hệ

kinh tế phát triển.

Để làm được điều này, trước hết cần thực hiện cải cách, đổi mới toàn diện

về mặt nhà nước, sao cho nó phù hợp với những yêu cầu của cơ chế kinh tế mới:

cải cách hành chính. Nền hành chính phải trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng

đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để thực hiện tốt đường lối, chính sách

của Đảng, quản lý có hiệu lực và hiệu quả cao công việc của nhà nước, phục vụ

đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống lành mạnh theo pháp luật trong xã

hội, thúc đẩy tiến trình đổi mới phát triển, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội

83

công bằng, văn minh.

Đồng thời với việc cải cách hành chính, thì các biện pháp khác cũng phải

được tiến hành đồng bộ - như tiếp tục thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nhằm đạt được mục đích đã đặt ra; phát huy sức mạnh của các thành phần

kinh tế bằng cách đảm bảo thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước

pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các thành phần kinh tế cạnh

tranh lành mạnh và cùng phát triển.

3.2.2. Nhận thức lại và thay đổi những tư tưởng, quan điểm pháp luật, đặc

biệt là tư duy pháp lý sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội và điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể của nước ta hiện nay

Việc xây dựng và phát triển khoa học tư duy pháp lý sẽ góp phần thu hẹp

khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Khoa học tư duy pháp lý sẽ tạo lập nền tảng

vững chắc về mặt lý thuyết cho các nhà thực tiễn áp dụng. Những nhà khoa học

cũng phải liên tục cập nhật kiến thức, tìm hiểu thực tiễn để bổ sung thêm những

kiến thức mới, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các vấn đề lý thuyết, phục vụ cho

cuộc sống, xã hội. Nhận định việc xác định đúng, đầy đủ các quan điểm tiếp tục đổi

mới tư duy pháp lý có ý nghĩa tư tưởng, nhận thức rất quan trọng đối với tiếp tục

đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam. Các quan điểm đó tạo ra các định hướng tư

tưởng cho tư duy và tư duy lại về lĩnh vực pháp lý.

Việc tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam cần được thực hiện với các

quan điểm: Đổi mới toàn diện, hệ thống, bao trùm tư duy pháp lý; đổi mới một cách

triệt để, sâu sắc tư duy pháp lý, tiếp tục phát triển lý luận về tư duy pháp lý; kế thừa

tư duy pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của đổi mới tư duy pháp lý

trong quá trình đổi mới đất nước; đổi mới tư duy pháp lý là một bộ phận cấu thành

quan trọng, không thể thiếu của tư duy đổi mới sáng tạo phát triển đất nước; tăng

cường đưa tư duy pháp lý, quan điểm pháp lý, nội dung pháp lý vào cương lĩnh xây

dựng và phát triển đất nước, chiến lược tổng thể phát triển đất nước... Các nội dung

chính trong tư duy pháp lý cần có sự nhìn nhận lại và đổi mới là tư duy pháp lý về

xã hội, về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, về Đảng, về quyền con người,

quyền công dân, về nhà nước pháp quyền Việt Nam, về pháp luật, pháp quyền, về

84

dân chủ, dân chủ hóa.

Đặc biệt trong bối cảnh xã hội công nghệ thông tin, công nghệ số, ứng dụng

Internet vào cuộc sống, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0..., Nhà nước, với vai trò

kiến tạo và phát triển, cần phải đảm bảo và thúc đẩy để người dân được tự do, an

toàn, phát huy được tiềm năng của mình trong điều kiện xã hội công nghệ thông tin.

Điều này đặt ra hướng đổi mới cách tư duy trong xây dựng chính sách, pháp luật;

cách thức quản lý, điều hành xã hội so với quan niệm truyền thống trước đây.

3.2.3. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giám

sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong đời sống

Mục tiêu, phương hướng cho công tác xây dựng pháp luật để nhà nước thể

chế hóa thành các quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý nhà nước

bằng pháp luật. Đặc biệt, phải quan tâm chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật.

Trên đây ở chương 2, mục 2.2.1: Nguyên nhân khách quan của thực trạng ý

thức pháp luật tiêu cực ở nước ta đã làm rõ mặt hạn chế của hệ thống pháp luật

trước những nhu cầu khách quan đang đặt ra của thực tiễn. Một trong những giải

pháp để giải quyết hạn chế đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật, sao cho nó phù hợp

với sự phát triển của đời sống xã hội. Bởi vì, sự phù hợp của hệ thống pháp luật với

các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện quan trọng

bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật càng có

hiệu quả điều chỉnh cao bao nhiêu thì ý thức pháp luật của người dân trong xã hội

càng được nâng cao bấy nhiêu. Chẳng hạn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường,

chúng ta cần hình thành cơ sở pháp lý cần thiết để tổ chức, vận hành, quản lý nền

kinh tế thị trường với hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu, về quyền tự do

kinh doanh, về cạnh tranh và chống độc quyền, về các loại thị trường, về bình đẳng

giữa các doanh nghiệp,…

Sự tìm kiếm độ cân bằng cần có giữa lập pháp thực tiễn chính trị và nhu cầu

xã hội là nhiệm vụ không hề đơn giản trong bất kỳ xã hội nào, nhất là ở những nước

như Việt Nam. Thực tiễn thường tồn tại những điểm “chênh” về việc đáp ứng các

85

nhu cầu xã hội với việc giải quyết những vấn đề khác. Kết quả là pháp luật tách rời

khỏi xã hội. Nếu người dân thấy không cần đến đạo luật nào đó, hoặc tìm thấy

những giải pháp khác, thì luật hoàn toàn nằm chết, nó không gây hại, nhưng cũng

không đáp ứng được đòi hỏi được đặt ra cho nó.

Những năm gần đây, do yêu cầu của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật,

Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nhiều bộ luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật đã được ban hành, sửa đổi để phù

hợp với tình hình mới của đất nước. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta còn chú ý

đến việc rà soát để bổ sung hoặc sửa đổi những văn bản pháp luật không còn phù

hợp. Tuy nhiên, hoạt động lập pháp là một hoạt động phức tạp, nó cần nhiều yếu tố.

Vì vậy, giải pháp đặt ra là:

Một là, tăng cường vai trò của cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng

văn bản pháp luật. Những đạo luật có chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của sự

nghiệp đổi mới và theo kịp những biến chuyển hàng ngày của đời sống chỉ được tạo

ra bởi một cơ quan lập pháp có cơ cấu và hoạt động chuyên nghiệp. Vì vậy, yêu cầu

đặt ra là sự cải cách một cách toàn diện và hệ thống về cơ cấu và hoạt động của cơ

quan lập pháp (Quốc hội).

Hai là, bảo đảm tính dân chủ của nhân dân trong hoạt động lập pháp. Nhân

dân bầu ra Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí

cũng như nguyện vọng của nhân dân. Chính vì vậy, trong quá trình lập pháp, Quốc

hội phải tạo mọi điều kiện để tạo ra môi trường dân chủ cho nhân dân, biến ý chí

chung của nhân dân thành ý chí chung của đất nước và thể hiện nó bằng những quy

định pháp luật. Tuy nhiên những năm gần đây, người dân còn thể hiện thái độ thờ ơ,

kém nhiệt tình và trách nhiệm khi tham gia vào công việc. Lý do xuất phát từ việc

môi trường dân chủ ở nước ta còn mang nặng tính hình thức và những tâm tư,

nguyện vọng của nhân dân nhiều khi bị bỏ ngỏ hoặc không được quan tâm, giải

quyết một cách thích đáng. Như vậy, chúng ta cần có một cơ chế để xây dựng pháp

luật hướng đến thực chất của sự dân chủ, công khai, tạo cơ hội và thu hút sự tham

gia thảo luận, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp. Các văn bản pháp

86

luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương cần được đăng tải thường

xuyên trong Công báo của trung ương và địa phương. Các quyết định giám đốc

thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần được công bố công khai.

Các luật về thủ tục hành chính, thủ tục pháp lý và thủ tục tố tụng cần được ban hành

và thường xuyên sửa đổi, bổ sung hơn cho phù hợp với thực tiễn, tạo cơ sở cho sự

phát triển của hệ thống tài phán ở nước ta.

Bên cạnh đó, để pháp luật có thể phát huy hết được hiệu lực của mình trong

đời sống thực tiễn thì chúng ta cần chú ý tới sự giám sát việc triển khai tổ chức thực

hiện Hiến pháp, pháp luật. “Bất kỳ hoạt động nào cũng có nội dung kiểm tra như là

một khâu không thể thiếu được hợp thành quá trình quản lý. Nhà nước ta quản lý xã

hội bằng pháp luật, cho nên, Nhà nước không những ban hành Hiến pháp và pháp

luật mà còn kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật” [35].

Làm ra luật là một việc khó nhưng để áp dụng nó vào thực tiễn một cách

đúng đắn lại càng khó hơn. Áp dụng sai sẽ dẫn tới những suy nghĩ tiêu cực về pháp

luật. Có tác giả đã nhận định:

Nếu toà án - nơi người dân dùng pháp luật để giải quyết tranh chấp bảo vệ

quyền lợi của mình - lại áp dụng pháp luật không đúng với yêu cầu, thì nhu

cầu đối với pháp luật cũng có nguy cơ bị triệt tiêu. Bởi lẽ nếu toà án áp

dụng pháp luật không được công minh, thiên lệch và xử kiện kéo dài, chờ

được được vạ thì má đã sưng, việc thi hành án, nhất là án dân sự không

được thực hiện tốt thì dù cho thế nào chăng nữa, xã hội vẫn có thể quay lại

với tâm lý chán pháp luật không tin tưởng vào chốn pháp đình [20, tr.23].

Chúng ta cần có một cơ chế thống nhất để bảo đảm cho việc giám sát việc thực

hiện Hiến pháp và pháp luật trong đời sống. Cụ thể, bên cạnh quyền giám sát tối cao

của Quốc hội, còn có sự giám sát, kiểm tra của Chủ tịch nước, của các tòa án thông qua

hoạt động xét xử và quan trọng hơn là sự giám sát của người dân. Các bộ phận, các cơ

quan trên cần có sự phối hợp, phân công rõ ràng nhiệm vụ giám sát, kiểm tra.

3.2.4. Có các cơ chế làm tăng hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà

87

nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức

trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền,nhằm cá biệt hóa các

quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân tổ chức cụ thể.

Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật nhằm tác động vào và điều chỉnh

các quan hệ xã hội. Sự tác động đó chỉ thực sự có hiệu quả cao khi tất cả các

nguyên tắc , quy định của pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ chính xác và

triệt để. Tuy nhiên, nếu nhà nước chỉ trông chờ vào các hình thức tuân theo pháp

luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật thì sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật

không được thực hiện. Nguyên nhân có thể là do các chủ thể không muốn thực hiện

hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Đặc biệt, khi các hành vi vi phạm phạm pháp luật, tội phạm xảy ra,

xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, của các nhóm xã hội và của công dân, đòi hỏi

có các chế tài, biện pháp sử lí thích đáng từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đây là lúc cần đến biện pháp thực hiện pháp luật đặc biệt hơn – áp dụng pháp luật.

Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật có thể

kể đến như:

- Tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho đội ngũ

cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.

Việc tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ cho đội

ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là một biện pháp

hết sức quan trọng bởi chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của đội

ngũ này phụ thuộc phần lớn vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kĩ năng

nghiệp vụ của họ. Giải pháp này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có

trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn cụ thể.

Chúng ta phải xác định đây là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông

qua các phương pháp đặc thù và bằng các hình thức chủ yếu là đào tạo, tập huấn,

bồi dưỡng pháp luật, hướng tới cung cấp đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có

thẩm quyền áp dụng pháp luật những tri thức hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói

chung, những pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nói riêng,

88

trang bị cho họ những kĩ năng áp dụng pháp luật. Mục đích cuối cùng là hình thành

ở đội ngũ này tri thức pháp luật, tình cảm pháp chế và hành vi áp dụng pháp luật

phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

tổ chức, công dân.

- Thông báo công khai kết quả áp dụng pháp luật trên các phương tiện thông

tin đại chúng.

Xuất phát từ bản chất nhà nước ta là nhà nước dân chủ vì vậy việc công

khai là một yêu cầu thiết yếu cũng như là một biểu hiện quan trọng của nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa. Có công khai thì mới có dân chủ, vì công khai là điều kiện

để thực hiện quyền làm chủ của người dân. Trong tiến trình dân chủ hóa các lĩnh

vực đời sống xã hội của nước ta hiện nay, việc công khai thông báo kết quả áp

dụng pháp luật là việc không thể thiếu. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp

dụng pháp luật pháp luật phải thông báo đầy đủ, chính xác, cụ thể và rộng rãi cho

các tầng lớp nhân dân về các vụ việc vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, các hành

vi phạm pháp, phạm tội cũng như kết quả áp dụng pháp luật mà các cơ quan này

đã thực hiện đối với các loại vi phạm đó. Các phương tiện thông tin đại chúng với

các đặc tính như tính cập nhật, tính phổ biến một cách nhanh chóng, rộng rãi

thông tin với xã hội, đóng vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề này. Các cơ

quan nhà nước cần thông báo công khai qua các phương tiện đại chúng các kết quả

đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật cũng như kết quả của hoạt động áp

dụng áp dụng pháp luật của mình.

Tác dụng của việc công khai thông tin áp dụng pháp luật là rất lớn, có thể kể

đến như: Thứ nhất, tác dụng trấn an dư luận xã hội, dẹp tan mọi băn khoăn, hoài

nghi, thắc mắc trong dư luận quần chúng nhân dân về tính công bằng, nghiêm minh

của pháp luật và về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền áp

dụng pháp luật. Nếu ai đó còn hoài nghi về việc các hành vi phạm pháp, phạm tội

được bao che, dung túng bởi các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật thì việc

thông báo công khai về kết quả xử lí các sự việc, sự kiện pháp luật trên các phương

tiện thông tin đại chúng sẽ giúp họ giải tỏa sự hoài nghi đó, tránh được sự lan truyền

89

những tin đồn thất thiệt.

Thứ hai, việc thông báo công khai thông tin về kết quả áp dụng pháp luật

trên các phương tiện thông tin đại chúng có tác dụng khích lệ, cổ vũ các chủ thể

pháp luật tích cực hơn nữa trong việc phát hiện các hành vi phạm pháp, phạm tội vì

nó mang lại những kết quả cụ thể thiết thực. Nó cũng có tác dụng củng cố niềm tin

của các tầng lớp nhân dân vào hiệu lực của bộ máy nhà nước và hiệu quả của các cơ

quan thực thi, bảo vệ pháp luật, góp phần gia tăng niềm tin của nhân dân đối với

pháp luật nói chung.

3.2.5. Củng cố hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người, bảo đảm

công lý, bình đẳng cho mọi người dân, thực hiện hiệu quả nguyên tắc dân chủ

Như đã phân tích ở chương 2, mục 2.2.1: Nguyên nhân khách quan của thực

trạng ý thức pháp luật tiêu cực là vì pháp luật chưa thực sự là công cụ để bảo vệ quyền

con người, phẩm giá con người, chưa thực sự là hiện thân của công lý, công bằng.

Ý thức pháp luật là tiền đề cho việc hiện thực hóa nội dung quyền con

người trên thực tế. Cá nhân chỉ thấy được giá trị của pháp luật và tuân theo pháp

luật một cách tự nguyện, không cảm thấy bị cưỡng chế, ép buộc nếu pháp luật đó

là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích của họ, pháp luật đó là hiện thân

của công lý, lẽ công bằng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực điều tra, cần hiện thực hóa

và lồng ghép các tiêu chí sau đây vào các quy định pháp luật để bảo vệ quyền con

người, quyền công dân một cách hiệu quả: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản

của công dân; Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; Bất cứ

người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm

về thân thể của công dân (không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ, việc tước đi tự

do của một người phải có lý do và theo đúng những thủ tục luật pháp, đồng thời

nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình); Quyền được coi là vô tội đến khi

tội phạm được chứng minh theo pháp luật; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo; Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt

động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tiếp đến, cần có những biện pháp thể hiện tinh thần dân chủ nhằm đảm bảo

90

việc người dân nhìn nhận pháp luật là hiện thân của công lý, lẽ công bằng. Chúng ta

cần “thay đổi tư duy về dân chủ. Dân chủ không chỉ là quyền lực thuộc về đa số hay số

đông, mà còn phải bảo vệ thiểu số, tôn trọng sự khác biệt trong đa dạng” [32, tr.15].

Phụ nữ và trẻ em gái, người dân nông thôn, người bản địa, người dân tộc thiểu số,

người khuyết tật, người di cư và người tị nạn, và cộng đồng người đồng tính, song tính,

chuyển giới và liên giới tính (LGBT) thuộc những nhóm đối tượng phải đối mặt với

các rào cản mang tính hệ thống, không đơn thuần về mặt kinh tế, mà cả về mặt tiếp cận

thông tin, cũng như bị giới hạn một số quyền thể hiện nguyên tắc dân chủ.

PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: “Dân chủ là quá trình hướng đến sự

đồng thuận mà thiểu số phải phục tùng đa số và đa số phải bảo vệ quyền lợi của thiểu

số, theo đó tất cả cùng hướng đến mục tiêu tìm ra tính đúng đắn của vấn đề, cũng như

một giải pháp không khéo đem lại lợi ích đa phương và cho toàn xã hội” [32, tr.13].

Nhấn mạnh sự cần thiết của dân chủ là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là bảo vệ

các điều kiện, hoàn cảnh để đảm bảo phạm vi, tầm với của tiến trình dân chủ.

3.2.6. Tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý

thức pháp luật cho các chủ thể nhận thức trong hoạt động thực tiễn

Xuất phát từ việc nhận thức giáo dục và tuyên truyền pháp luật là một trong

những yếu tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật tiêu cực đã được phân tích ở mục

1.4.6 ở chương I; cũng như thực trạng thiếu hiểu biết của người dân về pháp luật đã

được chỉ ra ở mục 2.1.2 (chương 2) Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu

cực do sự yếu kém trong công tác giáo dục pháp luật. Vì vậy, chúng ta cần có các giải

pháp nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Tri thức pháp luật đầy đủ

mới có những tình cảm đúng đắn và niềm tin đối với pháp luật. Nói cách khác, sự

hiểu biết về pháp luật là tiền đề quan trọng cho việc hình thành tình cảm, thái độ,

hành vi tích cực trong việc tuân thủ pháp luật cũng như loại trừ tính tiêu cực trong ý

thức pháp luật. "Bản chất của giáo dục pháp luật đó là hoạt động định hướng có tổ

chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục

đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của

hệ thống pháp luật hiện hành” [17, tr.156]. Như vậy, giáo dục pháp luật là một

91

phương thức để hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở các cá nhân. Nếu coi quá

trình nâng cao ý thức pháp luật là sự kết hợp của các điều kiện khách quan và nhân tố

chủ quan, thì giáo dục pháp luật chính là nhân tố chủ quan của quá trình này và trong

điều kiện hiện nay, khi "tri thức, tình cảm và thói quen xử sự theo pháp luật chưa có

điều kiện về mặt khách quan đầy đủ và thuận lợi thì vai trò của nhân tố chủ quan hết

sức quan trọng" [16, tr.26], thì giáo dục pháp luật càng trở thành vấn đề cấp thiết.

Trong điều kiện và hoàn cảnh của nước ta, công tác giáo dục pháp luật không

phải là một công việc đơn giản. Xuất phát điểm từ một nước có nền sản xuất nhỏ lẻ

đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt ra cho chúng ta vô vàn khó khăn như: cơ sở

kinh tế còn nghèo nàn, không chỉ hạn chế về mặt kinh tế mà ngay cả về mặt nhận

thức, những tàn tích của những tập tục lạc hậu còn tồn tại dai dẳng đồng thời là sự

xuất hiện của những điều kiện mới, những thay đổi mới khiến cho công tác giáo dục

pháp luật vừa là nhu cầu cấp thiết vừa là bài toán khó khăn trong việc triển khai như

thế nào để mang lại hiệu quả trên thực tế.

Nâng cao phương pháp giáo dục pháp luật. Việc giáo dục pháp luật cần

chú trọng đến phương pháp giáo dục, tuyên truyền cho từng đối tượng riêng lẻ với

những nội dung và phương pháp riêng ở những thời điểm nhất định. Cụ thể:

- Xác định loại tri thức pháp luật phù hợp với từng loại đối tượng (theo độ

tuổi, nghề nghiệp và lãnh thổ, văn hóa…) Tương xứng với từng đối tượng sẽ là

những nội dung pháp lý phù hợp.Nếu chúng ta truyền thụ tất cả mọi kiến thức pháp

luật thì sẽ làm giảm bớt tính thiết thực, tính khả thi của pháp luật.

- Xác định lượng tri thức pháp luật cơ bản nào đó có tính bắt buộc (ví dụ như

mọi người đều cần phải biết các kiến thức pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản

của công dân, những điều cấm đoán trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính,

các thủ tục pháp lý cơ bản...).

Nâng cao và củng cố lòng tin của người dân đối với pháp luật

Trong quá trình hình thành ý thức pháp luật, lòng tin đóng một vai trò quan

trọng. Bởi vì, có tri thức pháp luật mà thiếu tình cảm tôn trọng đối với pháp luật thì

hành vi của các cá nhân rất dễ lệch ra khỏi các chuẩn mực xã hội.Thực tiễn thực

92

hiện pháp luật đã khẳng định tính đúng đắn của luận điểm này. Nếu một người nào

đó thiếu lòng tin đối với pháp luật thì thông thường người đó có hành vi lệch khỏi

chuẩn mực pháp luật. Điều đó chứng tỏ, lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở

hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.

Một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho ý thức pháp luật của người

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có một đặc điểm là thờ ơ, coi thường pháp luật

là vì họ không có lòng tin vào hiệu quả của pháp luật hiện hành. Trong khi đó, lòng

tin là thứ không phải ngay một lúc mà có được, nó phải được hình thành từ từ, qua

nhiều tác động, nhưng quan trọng nhất là cái thực tế mà người ta được chứng kiến

hàng ngày. Chính vì thế, hoạt động xét xử công khai của tòa án nhân dân các cấp

cũng trở thành một kênh tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Sự xét xử công minh

của tòa án là sự cổ vũ, khích lệ những hành vi tích cực, hành vi tuân thủ pháp luật;

đồng thời, là sự giáo dục, răn đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật.

Để công việc giáo dục pháp luật mang lại hiệu quả thiết thực, nhất thiết phải

thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao ý thức pháp luật thông qua việc phổ biến, giải thích,

giải đáp pháp luật qua các phương tiện thông tin tuyên truyền. Như trên đã phân

tích, dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội là không đều nhau; và để truyền tải

những lượng thông tin có tính chất phổ biến và phổ thông nhất đến tất cả mọi người

một cách có hiệu quả thì công cụ hữu hiệu nhất chính là các phương tiện thông tin

tuyên truyền. Các phương tiện này có tác dụng rất lớn trong việc phổ biến, giải

thích, cổ vũ, động viên, tập hợp các lực lượng quần chúng và định hướng dư luận xã

hội. Thông qua hoạt động này mà đa số người dân trong xã hội có thể nắm được

đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước, nắm được những tri thức pháp luật

cần thiết trong các quan hệ xã hội mà mình ứng xử hàng ngày. Nhất là trong điều

kiện đổi mới của xã hội ta hiện nay, người dân rất cần nắm pháp luật để sản xuất,

kinh doanh, hoạt động theo đúng pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ giám sát

hoạt động của các cơ quan, của các công dân khác và để đấu tranh chống những

hành vi vi phạm pháp luật.

93

Nhưng cũng cần lưu ý đến chất lượng thông tin pháp luật hiện nay. Có thể

nói rằng thông tin pháp luật hiện nay ở nước ta vừa thừa lại vừa thiếu. Đối với

người dân ở vùng xa, nông thôn, miền núi, hiện tượng "mù" pháp luật còn rất phổ

biến. Một nhu cầu đồng thời cũng là một quyền lợi chính đáng đang được đặt ra và

đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng là mọi công dân cần được tạo điều kiện để

tiếp xúc với những tri thức pháp luật một cách đầy đủ, có chất lượng.

Mặt khác, cũng cần nhận thức được rằng con đường cơ bản để nhân dân

nắm vững chính sách, pháp luật không phải là con đường tuyên truyền, phổ biến

"suông", mà đó phải là sự vận động của tri thức thông qua hoạt động thực tiễn của

con người. Khi đó, kiến thức pháp luật mới thực sự là kiến thức pháp luật trong

hành động. Bầu cử vào cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia các hình thức kiểm

tra và giám sát tự nguyện, tham gia xét xử với tư cách là thành viên các tổ hòa giải,

các hội thẩm nhân dân. Chính sự tham gia thực tế của các công dân vào việc thực

hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể mới thực sự là thước đo về hiệu quả của quy

phạm pháp luật, về tính tích cực pháp luật của công dân. Cũng cần nhấn mạnh rằng

việc tạo ra các điều kiện tham gia thực tiễn của các công dân vào các quan hệ pháp

luật, để họ trở thành chủ thể thực tế của pháp luật vừa là thước đo, vừa là tiền đề để

nâng cao dân trí (trong đó có tri thức pháp luật) của người dân, khắc phục tính thụ

động và dè dặt đối với các quy định của pháp luật.

Thứ hai, đưa việc giáo dục pháp luật vào một số loại hình trường học. Trường

học là nơi có các điều kiện tốt nhất cho việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh thiếu

niên – lứa tuổi cần phải có được sự định hướng đúng đắn nhất để hạn chế việc hình

thành ý thức pháp luật tiêu cực. Để biện pháp này thực sự hữu hiệu, cần phải thực

hiện được đồng bộ các yêu cầu như: chương trình, giáo trình cụ thể, phù hợp với

từng loại đối tượng theo các cấp học khác nhau; đội ngũ các thầy, cô giáo có kiến

thức chuyên môn về lĩnh vực này trực tiếp giảng dạy; các biện pháp giảng dạy hiện

đại, thu hút và tạo sự hấp dẫn của môn học với các chủ thể tiếp nhận.Chỉ như thế

mới có thể đẩy mạnh một bước những nhận thức về pháp luật của tầng lớp công dân

94

tương lai rất đông đảo của đất nước là học sinh, sinh viên.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ pháp luật

Trong thời gian tới, để biện pháp này được thực hiện một cách có hiệu quả góp

phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân nói chung và những cán bộ công tác

trong ngành luật nói riêng, nhất thiết chúng ta phải khắc phục được tình trạng thiếu đội

ngũ cán bộ pháp luật có chất lượng cao. Việc đào tạo các cán bộ pháp luật chuyên

ngành phải được tổ chức một cách có hệ thống, có tổ chức và đảm bảo chất lượng.

3.2.7. Đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu mỗi cơ quan nhà nước

Như đã phân tích ở chương 2. Thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta

qua các thời kì cho thấy do truyền thống, tính tự trị phản ánh tính độc lập của làng

xã này với làng xã khác cũng như làng xã với trung ương; Tính cộng đồng bị hạn

chế nên tính cá nhân đôi khi không được coi trọng, bị tính cộng đồng lấn át. Chính

vì vậy, ở Việt Nam hiện nay đang thể hiện rất rõ vấn đề trách nhiệm cá nhân bị lẩn

tránh vào yếu tố cộng đồng, trách nhiệm cộng đồng. Từ trước tới nay vấn đề trách

nhiệm cá nhân của người đứng đầu mỗi cơ quan vẫn bị bỏ ngỏ và chưa được quan

tâm một cách thích đáng. Dẫn tới tình trạng trì trệ, vô cảm, vô trách nhiệm, lảng

tránh trách nhiệm, hay “hòa cả làng” (nhất là khi để xảy ra tình trạng lãng phí thất

thoát tài sản, tiền bạc, sức lực của nhân dân).

Thông qua những cách nghĩ, cách làm của nhiều cán bộ, công chức cho

chúng ta thấy tâm lý “trừ mình ra”, “mình phải hơn người khác” hơn ở đây là về

mặt lợi ích được hưởng nhiều hơn, còn về nghĩa vụ, trách nhiệm, thì chỉ phải thực

hiện ít hơn hoặc không phải thực hiện, “mình được quyền như thế” đã ăn sâu bám rễ

vào nhiều thế hệ cán bộ, công chức của chúng ta do ảnh hưởng của chế độ quan lại

thời kỳ phong kiến trước kia. “Ngành nào, lĩnh vực nào cũng tự đặt ra cho mình

những đặc quyền, đặc lợi mà họ cho rằng mình xứng đáng hoặc đương nhiên phải

được hưởng. Điều này đã làm mất đi yếu tố tự đánh giá cá nhân là một trong những

yếu tố đặc biệt quan trọng của tâm lý pháp luật, thể hiện thái độ của mỗi người đối

với hành vi của mình. Do thiếu đi sự tự đánh giá cá nhân cần thiết nên trong nhiều

cán bộ, công chức những cảm xúc như tự hào, buồn lo, xấu hổ... gần như cũng

95

không có. Họ không hề thấy xấu hổ đối với những hành vi cửa quyền, nhận hối lộ,

tham nhũng của mình. Đây là một hiện tượng vô cùng nguy hại cho các hoạt động

của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” [13, tr.32].

Có thực hiện “chế độ chịu trách nhiệm cá nhân” mới tạo nên sự công bằng và

động lực, lòng tin của người dân vào bộ máy công quyền và hạn chế những biểu

hiện và sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực của các cá nhân đứng đầu các cơ

quan nhà nước – những người hằng ngày tiếp xúc với pháp luật.

Thực tế không ít nơi chỉ chú ý “trách nhiệm tập thể”, chung chung, còn trách

nhiệm cá nhân thì mờ nhạt, thiếu cơ chế, chế tài “chịu trách nhiệm”. Khái niệm “chế

độ trách nhiệm” là đúng nhưng chưa được cụ thể hóa.“Chịu trách nhiệm” chứ

không phải “nhận trách nhiệm”, như vẫn thường nghe thấy ở các cán bộ chủ chốt

nói ra, khi có vấn đề khuyết điểm, sai trái. Chịu trách nhiệm, hơn nữa là chịu trách

nhiệm cá nhân khi bị khuyết điểm nặng, sai trái, phải được xử lý nghiêm theo quy

chế nội bộ hay pháp luật. Còn nhận trách nhiệm chỉ là thừa nhận, khuyết điểm, sai

trái, tức không có vấn đề chế tài, không phải chịu xử lý.

Với tinh thần đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cần cổ vũ sự

dám nghĩ, dám làm (và phải biết làm!), dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu

các cấp. Về đổi mới nội dung và phương thức, phong cách lãnh đạo, cầm quyền của

Đảng, quản lý của Nhà nước, cần chế độ hóa rõ ràng hơn và thực thi đúng hơn,

cương quyết hơn nhất là về quyền hạn và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong

chế độ công tác/hoạt động của mình. Khi giao nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

cần phải cụ thể, rõ ràng, tương thích, minh bạch. Cần có cơ chế giám sát việc thực

hiện nhiệm vụ, sử dụng quyền hạn và trách nhiệm cá nhân. Phải cụ thể, minh bạch,

vấn đề nào thuộc thành tích, trách nhiệm tập thể; vấn đề nào thuộc thành tích, trách

nhiệm cá nhân, không nên làm mờ vai trò cá nhân cả trong xem xét công lao cũng

như truy cứu trách nhiệm.

3.2.8. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành văn hóa

liêm chính

Tham nhũng, đưa hối lộ, lãng phí là những hành vi phản văn hóa, mỗi người

96

trong chúng ta đều không ai cổ xúy cho hành vi này. Hệ quả của nó tác động tiêu

cực đến ý thức pháp luật của cán bộ lẫn người dân. Các cá nhân có thể sẵn sàng làm

trái, vi phạm các quy định pháp luật để những lợi ích vật chất rơi vào một số ít

người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất chính của những người có chức vụ, quyền

hạn hoặc những người có quan hệ thân quen với người có chức vụ, quyền hạn. Đây

chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn. Một xã hội trong sạch, không tham

nhũng, hối lộ, hay lợi dụng chức vụ gây lãng phí, thất thoát của công mới có thể tạo

được niềm tin đối với pháp luật của người dân. Đấu tranh phòng, chống tham

nhũng, lãng phí là một công việc cần sự góp sức và hành động của toàn thể các

thành viên trong xã hội.

Các giải pháp để phòng, chống tham nhũng, lãng phí có thể kể đến như:

Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Xây dựng và

thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý liên quan đến

việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước; Minh bạch tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức; Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn

vị khi để xảy ra tham nhũng; Các chế tài xử lý người có hành vi tham nhũng và tài

sản tham nhũng; Tổ chức, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

trong phòng, chống tham nhũng…

Văn hóa liêm chính là một nét văn hóa rất đẹp, mỗi công dân và toàn xã hội

đều thấy rõ là cần tôn vinh những người như vậy, đúng như người xưa có câu “Đói

cho sạch, rách cho thơm”. “Văn hóa thực dụng” xuất hiện, dẫn tới nhiều cái xấu độc

cũng bị ngộ nhận trở thành văn hóa. Đồng tiền chi phối cuộc sống khiến cho nhiều

quan niệm văn hóa bị méo mó, lệch lạc. Ví dụ những người cán bộ liêm chính mà lối

sống quá giản dị thì thường bị mọi người chê là nghèo, cổ hủ, lạc hậu. Hay những cá

nhân đứng lên đấu tranh chống tham nhũng thì lại bị người thân dè bỉu. Đó là những

vấn đề khiến cho văn hóa liêm chính chưa lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.

Vì vậy, chúng ta cần phải coi trọng công tác giáo dục, truyền thông, vận

động cho văn hóa liêm chính nổi bật lên trong đời sống tinh thần xã hội. Ví như các

cơ quan truyền thông đại chúng chú trọng tuyên truyền văn hóa liêm chính; sáng tạo

97

những tác phẩm tôn vinh văn hóa liêm chính trong văn học - nghệ thuật; nhà trường

đẩy mạnh giáo dục văn hóa liêm chính cho học sinh, sinh viên; các cơ quan công

quyền đề cao văn hóa liêm chính; toàn hệ thống chính trị mà đặc biệt là Quốc hội,

Hội đồng nhân dân các cấp cũng như Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp quan

tâm, giám sát, phản biện để nâng cao sức sống cho văn hóa liêm chính.

Đồng thời, Nhà nước phải có chế độ đãi ngộ phù hợp để đội ngũ cán bộ,

công chức có được mức sống trung bình khá so với mặt bằng xã hội trở lên; cùng

với đó là các cơ chế thúc đẩy dân chủ, công khai, minh bạch thì người cán bộ, công

chức “không muốn, không cần, không thể” tham nhũng nữa. Đó là lúc văn hóa liêm

chính sẽ phát triển, lan tỏa rộng rãi.

3.2.9. Khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để người dân sử dụng

quyền hợp pháp

Chúng ta cần tạo môi trường và khuyến khích người dân sử dụng quyền hợp

pháp của mình. Nếu không, mọi quy định pháp luật đều không có tính thực tiễn, chỉ

là hô hào, sáo rỗng. Môi trường và điều kiện ở đây chính là hệ thống các chính sách,

quy định pháp luật cũng như các điều kiện kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước

cần có những biện pháp khuyến khích, cổ vũ, tạo điều kiện cho người dân sử dụng

các quyền hợp pháp của mình. Như vậy, một hành lang pháp lý chặt chẽ, hậu thuẫn

về các điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, cùng sự giúp đỡ, tạo điều kiện từ phía các

cơ quan nhà nước là các yếu tố quan trọng để người dân vững tâm sử dụng các

quyền hợp pháp của mình. Có như vậy, pháp luật mới trở thành một công cụ hữu

hiệu, thiết thân với người dân.

Chẳng hạn, chúng ta muốn người dân sử dụng quyền bầu cử thì phải tạo ra

môi trường bầu cử dân chủ, văn minh, khách quan và phổ cập thông tin về bầu cử

đến từng người dân; muốn phát huy ý thức tôn trọng pháp luật giao thông đường bộ,

không chen lấn, xô đẩy thì Nhà nước cần có những chính sách, hành động cải thiện

cơ sở hạ tầng đường bộ; muốn người dân thực hiện được quyền làm việc đã được

ghi nhận trong Hiến pháp thì bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, Nhà

nước còn cần xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình kinh tế – xã

98

hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào việc mở mang, phát

triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh nghiệp, mở rộng hợp tác

quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…

3.2.10. Nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội theo định hướng

bảo đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc

Như đã phân tích ở chương II về thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt

Nam qua các thời kỳ lịch sử, cho thấy các vấn đề về hương ước, lệ làng đã trở thành

một truyền thống gắn bó thiết thân đối với người dân; bên cạnh đó, nguyên nhân

gây nên ý thức pháp luật tiêu cực còn do những tàn dư phong tục, tập quán, lối sống

cũ, lạc hậu. Cũng theo đó, như phần 3.1.5, tác giả luận văn đã phân tích yêu cầu

thay đổi ý thức pháp luật tiêu cực xuất phát từ công cuộc hội nhập quốc tế. Vì vậy ở

nước ta, việc củng cố và nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội cần định

hướng và bảo đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc - đó là hai tính chất đặc trưng cơ

bản của nền văn hóa Việt Nam.

Tính tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam có

nguồn gốc từ những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo của

nhân loại và của lý tưởng xã hội chủ nghĩa kết hợp với những truyền thống của dân

tộc Việt từ ngàn đời nay. Đó là sự coi trọng và giữ gìn bản sắc dân tộc; sống có

chuẩn mực, tôn ti, trật tự trên dưới từ trong gia đình đến ngoài xã hội; yêu chuộng

công lý, tôn trọng chính nghĩa, đạo lý.

Xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật là phải dựa trên việc thừa kế những

giá trị tốt đẹp trong truyền thống của dân tộc. Chúng ta cần xem đó làm điểm tựa để

có những chính sách nâng cao ý thức pháp luật phù hợp. Ở nước ta hiện nay trong

việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như trong công tác nâng cao ý thức pháp

luật cần chú ý đến vai trò của hệ thống phi quan phương (luật tục, hương ước, lệ

làng…) vì nó có khả năng bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động trên.

Theo tác giả luận văn, để có thể khai thác các khía cạnh tích cực, phù hợp,

hạn chế những khía cạnh không phù hợp của các định chế truyền thống phi chính

thức cần lưu ý đến những vấn đề sau. Trước hết, để có thể khai thác những khía

cạnh tích cực (phù hợp với đời sống đương đại) của các định chế truyền thống (phi

99

chính thức), những người làm công tác xây dựng các chính sách liên quan đến hoạt

động văn hoá cũng như việc quản lý các hoạt động văn hoá phải am hiểu các định

chế truyền thống phi chính thức đang vận hành trong đời sống xã hội của các cộng

đồng dân cư. Thứ hai, chúng ta phải phân tích và đánh giá một cách khoa học về

những định chế truyền thống phi chính thức, sẽ lồng ghép trong quá trình thực hiện các

định chế chính thức. Hiện nay, có nhiều địa phương xây dựng hương ước mới hay phát

huy truyền thống của các dòng họ hiếu học đặc biệt trong bối cảnh cả nước đang thực

hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Thứ ba, cần làm cho các thành viên trong

cộng đồng có một thái độ đúng đối với các định chế truyền thống đã từng vận hành

trong cộng đồng và giờ đây những định chế đó vẫn còn có vai trò nhất định trong đời

sống của cộng đồng. “Triết lý nằm ở chỗ, mọi thứ tồn tại đều có lý do, đều có tính hợp

lý của nó. Hãy loại bỏ trở ngại từ mặt trái tự thân của làng xã, ta sẽ thấy vấn đề tự quản

của làng xã theo hướng tiên tiến vẫn còn nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp” [30, tr.191].

Như vậy, từ việc nhìn nhận được những mặt ưu điểm và hạn chế của các chế

định phi quan phương sẽ giúp chúng ta có sự nhìn nhận khách quan hơn về lý do

tồn tại của những tàn dư đó để từ đó có những biện pháp khắc phục hợp lý trong

điều kiện hiện tại của đất nước.

Ngoài ra, để hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực trong người dân, chúng ta cần

phải biết khai thác những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo

của nhân loại và của lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là pháp luật dân chủ, nhân đạo,

đề cao con người, vì con người. Việc đề cao yếu tố con người trong pháp luật còn

bao hàm cả việc giải phóng con người khỏi mọi sự phân biệt, đối xử không bình

đẳng; thực hiện nhất quán nguyên tắc: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Có

như vậy, luật pháp mới thể hiện được bản chất dân chủ và nhân đạo của mình. Điều

đó càng quan trọng, khi chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Do vậy, pháp luật phải tạo ra những khung pháp lý cho tự do và dân chủ

và sự giải phóng các năng lực xã hội để phát triển mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cũng

như toàn xã hội. Điều này có nghĩa là, pháp luật phải thể chế hóa được các giá trị

của tự do và dân chủ để đảm bảo an toàn và trật tự xã hội, đồng thời, là căn cứ để

đấu tranh không khoan nhượng đối với mọi ý đồ lợi dụng tự do, dân chủ để trục lợi

100

bất chính, xâm hại đến lợi ích an ninh của nhà nước, xã hội và các công dân.

Kết luận chƣơng 3

Thực tế chỉ ra rằng, quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật

tiêu cực ở nước ta hiện nay chịu ảnh hưởng của các yếu tố về kinh tế, xã hội, chính

trị, tư tưởng, tập quán, truyền thống, đạo đức... Đó là hệ quả của cả một quá trình

lịch sử với nhiều biến động. Đứng trước những yêu cầu và thay đổi khách quan của

các yếu tố trên, ý thức pháp luật tiêu cực cũng có những chuyển biến nhất định. Vấn

đề cần đặt ra là việc phải nhận thức đúng và có các giải pháp thích hợp để khắc

phục ý thức pháp luật tiêu cực sao cho phù hợp với yêu cầu của thực tế, nhằm thúc

đẩy sự phát triển vững chắc của ý thức pháp luật tích cực trong mỗi người dân.

Những biện pháp kịp thời và thiết thực, có tính khả thi và phải thực hiện một cách

đồng bộ. Đó là: tạo ra môi trường pháp lý thích hợp, ý thức pháp luật mới ra đời và

phát triển; xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giám sát

việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong đời sống; củng cố hành lang pháp lý

nhằm bảo vệ quyền con người, bảo đảm công lý, bình đẳng cho mọi người dân, thực

hiện hiệu quả nguyên tắc dân chủ; tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật

nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể nhận thức trong hoạt động thực

tiễn; đề cao trách nhiệm của cá nhân, và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu

mỗi cơ quan nhà nước; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành văn hóa

liêm chính; khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để người dân sử dụng quyền

hợp pháp; nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội theo định hướng bảo

đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc.

Những giải pháp này tạo những tiền đề cơ bản cho quá trình nâng cao ý

thức pháp luật ở Việt Nam, khắc phục dần ý thức pháp luật tiêu cực, tạo ra ý thức

và lối sống theo pháp luật trên phạm vi toàn xã hội, tạo ra những động lực quan

trọng làm cho quá trình phát triển tiếp theo của ý thức pháp luật Việt Nam theo

đúng quy luật, phát huy được những đặc điểm tích cực của ý thức pháp luật Việt

Nam, góp phần quan trọng cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền

101

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu về ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền

thống đến hiện đại, luận văn đã đề cập đến một số vấn đề như sau:

Thứ nhất: Luận văn đã nêu được khái quát những vấn đề lý luận về ý tức

pháp luật tiêu cực;

Thứ hai: Luận văn đã liệt kê, phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực

trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam theo chiều dài lịch sử. Qua đó chỉ ra

những nguyên nhân của thực trạng hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức pháp

luật tiêu cực ở nước ta;

Thứ ba: Luận văn đã đưa ra những giải pháp pháp lý nhằm hạn chế ý thức

pháp luật tiêu cực, cũng như phát triển các mặt tích cực trong ý thức pháp luật ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Ý thức pháp luật tiêu cực là một rào chắn không nhỏ trong quá trình phát

triển và hội nhập của đất nước. Việc nghiên cứu về ý thức pháp luật tiêu cực từ

truyền thống đến hiện đại của người dân cho chúng ta cái nhìn khái quát và khách

quan nhất về quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực; đồng

thời nhìn nhận ra sự tồn tại của nó phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - chính trị

- văn hóa – xã hội của từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Từ đó, chúng ta có những phương

hướng, giải pháp hiệu quả và có tính thực tiễn nhằm hạn chế ý thức pháp luật tiêu

cực. Như vậy, mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền mới có thể đạt được, đồng

thời bảo vệ một cách hiệu quả hơn quyền con người, nhân phẩm con người. Người

dân thực sự xem pháp luật là lựa chọn ưu tiên, là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền

và lợi ích của chính mình. Bước vào thời đại mới, nhất là trong công cuộc hội nhập

thế giới, ý thức pháp luật tích cực của người dân mới là bảo đảm hữu hiệu nhất để

102

vừa phát triển đất nước vừa đảm bảo được quyền công dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

C. Mác và Ph. Ăngghen (2002), Toàn tập, (1), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

2.

Thành Châu (2019), “Nghệ An đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số”, Nhân dân điện tử, 2/9/2019.

3.

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Minh Dung (2017), Báo động tình trạng vi phạm pháp luật trong độ tuổi thanh - thiếu niên, Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu, 12/07/2017.

5.

Trần Trung Dũng (2019), “Một số vấn đề lý luận cơ bản về công lý”, Tạp chí Công thương, Hà Nội.

6.

Trần Thái Dương (2006), “Suy nghĩ về học thuyết pháp lý và vai trò của nó ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (3).

7. Đại học Pháp lý (1996), Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Hà Nội.

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

9.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X của Đảng, mục XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

13. Nguyễn Minh Đoan (2004), “Yếu tố tâm lý pháp luật trong quá trình nâng

cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu pháp lý, (4).

14. Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2016), Giáo trình Lý luận chung về nhà

nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

15. Nguyễn Minh Đoan (2006), "Ý thức pháp luật và đời sống xã hội, Tạp chí

103

Luật học, (1).

16. Trương Thanh Đức (1999), "Những bất cập trong việc xây dựng và ban hành

văn bản quy phạm pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (2).

17. Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Giáo trình triết học Mác-Lênin (2009), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

19. Jean Jacques Rousseau (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị.

20. Nguyễn Đức Lam (2006), “Vì sao người dân thờ ơ với pháp luật”, Tia sáng, (79).

21. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử

Việt Nam, (1), Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Đình Đăng Lục (1990), Giáo dục pháp luật và quá trình hình thành

nhân cách, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

23. Đặng Thanh Nga (2018), “Người chưa thành niên phạm tội - nhìn từ góc độ

phương pháp giáo dục của gia đình”, Tham luận tại Hội thảo Tâm lý học khu

vực Đông Nam Á.

24. Phạm Duy Nghĩa (2005), “Từ nhà nước toàn trị tới thời đại dân doanh”, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, (8).

25. Hoàng Thị Kim Quế (2003), “Bàn về ý thức pháp luật”, Tạp chí Luật học, (1).

26. Quốc hội (2018), Hiến pháp Việt Nam năm 1980, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

27. Lê Minh Thông (1996), "Mấy vấn đề lý luận chung về pháp luật trong thời

kỳ quá độ ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (4).

28. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Nhà nước và Pháp

luật (1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế

kỷ XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Minh Tuấn (2015), “Giới hạn các quyền cơ bản ở CHLB Đức và bài

học kinh nghiệm”, Nghiên cứu lập pháp, (14).

30. Nguyễn Minh Tuấn (2016), “Cải lương hương chính thời thuộc địa Pháp ở

Việt Nam”, Bài viết tham gia Hội thảo quốc tế "Ảnh hưởng của truyền thống

104

pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam".

31. Nguyễn Minh Tuấn (2018), Ba hướng tiếp cận điển hình về vấn đề công lý trong lịch sử, Sách Công lý và Quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận

- thực tiễn, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

32. Nguyễn Minh Tuấn (2019), “Giải pháp hoàn thiện các điều kiện thực hiện

dân chủ đại diện ở Việt Nam”, Nhà nước và pháp luật, (11).

33. Nguyễn Minh Tuấn (2019), “Những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ về giới hạn quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam”, Nhà nước và pháp luật, (7).

34. Phùng Văn Tửu (1999), Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và Pháp luật của

dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Ủy ban Tư pháp (2019), Báo cáo về công tác phòng, chống tội phạm và vi

phạm pháp luật năm 2019, Phiên họp toàn thể lần thứ 13, Hà Nội.

37. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2018), “Công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động - Từ tư tưởng của Rosa Luxemburg đến kinh

nghiệm của Đức và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”, Báo cáo tóm tắt kết quả

nghiên cứu, Kỷ yếu Hội thảo – Seminar, Hà Nội.

38. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX. 07, đề

105

tài: KX-07-17, tr. 146, Hà Nội.