VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SƠN HÀ
ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN HAI TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT
ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, NĂM 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SƠN HÀ
ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN HAI TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT
ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH
HÀ NỘI, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam” là nghiên cứu của riêng
tôi. Các nội dung kết quả nhiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Các số liệu, ví dụ trích dẫn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau, đảm bảo tính chính xác, trung
thực và tin cậy.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành việc thanh toán các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học Xã hội xem xét để
tôi có thể được bảo vệ Luận văn.
Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2019
Học viên thực hiện
Nguyễn Sơn Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM
HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI
HỒ SƠ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA
THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ .............. 6
1.1. Khái niệm về đấu thầu mua sắm hàng hóa .......................................... 6
1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ .............................................................................. 15
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA
SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN HAI
TÚI HỒ SƠ .................................................................................................... 24
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay. ........................... 24
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu trong mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ......................................... 50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG
THỨC MỘT GIAI ĐOẠN HAI TÚI HỒ SƠ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 62
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ................................... 62
3.2. Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ......................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BDT: Bên dự thầu
BMT: Bên mời thầu
BQLCDA: Ban Quản lý các dự án
CP: Chính phủ
ĐVSD: Đơn vị sử dụng
HSMT: Hồ sơ mời thầu
KH: Kế hoạch
KHLCNT: Kế hoạch lựa chọn nhà thầu
KHMS: Kế hoạch mua sắm
KH-TC: Kế hoạch – Tài chính
LCNT: Lựa chọn nhà thầu
MSHH: Mua sắm hàng hóa
NĐ: Nghị định
NT: Nhà thầu
TT: Thông tư
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu thầu hàng hóa, trong đó có đấu thầu mua sắm hàng hóa có vai trò quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nâng cao sự chủ
động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hoạt động đấu thầu mua sắm
hàng hóa diễn ra trong nhiều lĩnh vực ở các quốc gia trên thế giới. Đấu thầu là một
phương thức mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra sự bình đẳng cạnh tranh lành
mạnh, hạn chế tiêu cực trong hoạt động thương mại. Để điều chỉnh hoạt động đấu
thầu nói chung, trong đó có hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nói riêng, nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, như: Luật Đấu thầu 2013, Luật Cạnh
tranh, Luật Đầu tư công 2014, Bộ Luật Dân sự 2015,… và các văn bản hướng dẫn
thi hành, như: Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ hướng
dẫn chi tiết một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư, Nghị định số
63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư,...Những văn bản pháp luật đã tạo được hành lang pháp lý ổn định, môi
trường đầu tư lành mạnh cho hoạt động của các doanh nghiệp, các chủ thể kinh
doanh, góp phần ổn định trật tự kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều
quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa vẫn bộc lộ những
hạn chế nhất định tên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng. Những bất cập, hạn
chế như hiện tượng thông đồng, cấu kết nhằm trục lợi,…. Đã làm sai lệch bản chất
pháp lý của hoạt động đấu thầu, gây phương hại tới lợi ích của tổ chức, cá nhân và
các doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 thì một
trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật về đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa.
Từ nhận thức đó, tác giả đã chọn đề tài: “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Luận văn phân tích làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản về đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo các phương thức
khác nhau, trong đó tập trung nghiên cứu đấu thầu MSHH theo phương thức một
1
giai đoạn hai túi hồ sơ. Bên cạnh đó, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thực tiễn
áp dụng đối với hoạt động đấu thầu này để xác định những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của nó. Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai
túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đấu thầu, đấu thầu MSHH không phải là một hoạt động mới xuất hiện tại
Việt Nam và quốc tế. Hoạt động đấu thầu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
ổn định, bền vững của nền kinh tế quốc dân, với doanh nghiệp, nhà nước và với các
chủ thể kinh doanh khác. Vì vậy, đấu thầu, đấu thầu MSHH là một vấn đề được
quan tâm nghiên cứu trên các phương diện khác nhau, với góc độ khác nhau. Hiện
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đấu thầu và đấu thầu mua sắm hàng hóa.
- Nguyễn Thị Như Trang (2011): “Pháp luật về đấu thầu mua sắm công
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ, 2011
- Nguyễn Duy Phương (2006): “Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng
hóa”, luận văn thạc sĩ, 2006
- Nguyễn Thị Hiệp (2017): “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức
một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng
thủy văn”, luận văn thạc sĩ HVKHXH, 2017
- Phạm Trung Kiên năm (2014): “Quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu
mua sắm trong khu vực công ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ, 2014
- Lương Thị Thùy Linh (2013): “Pháp luật Việt Nam về đấu thầu mua sắm công -
hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp”, luận văn thạc sĩ, 2013
- Nguyễn Thị Hương Giang (2017): “Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật về đấu thầu từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt
Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ, HVKHXH, 2017
Ngoài các công trình khoa học trên, còn nhiều tài liệu nghiên cứu, đề cập đến
đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa, như: các bài viết đăng tạp chí, các luận văn
thạc sĩ, sách,…Nhìn chung, các công trình khoa học chủ yếu đề cập vấn đề chung
về đấu thầu và đấu thầu mua sắm hàng hóa. Bên cạnh đó cũng có một vài công trình
2
khác nghiên cứu về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn,
một túi hồ sơ hoặc về trình tự, thủ tục về đấu thầu,…. Tuy nhiên, đây là một công
trình nhiên cứu độc lập về vấn đề đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thực
một giai đoạn hai túi hồ sơ ở Việt Nam. Việc tiếp cận, nghiên cứu trên cơ sở kế thừa
những kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây. Đồng thời, luận văn sẽ đi
sâu phân tích, làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu về đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ theo quy định của pháp luật về đấu
thầu trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đấu
thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Từ
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, đúc rút ra nhưng hạn chế, bất cập
và nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ. Từ kết quả nghiên cứu, xác định yêu cầu và các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam.
Nhằm đạt được mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
- Làm rõ vai trò của đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ
- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
- Xác định các yêu cầu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu
thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về đấu thầu, đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ trên phương diện lý
luận và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp luật hiện hành về đấu
thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ,
như: Luật Thương mại 2005, Luật Đầu tư 2014, Luật Cạnh tranh 2004/2018,…trong
đó tập trung nghiên cứu sâu các quy định tại Luật Đấu thầu năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về đấu thầu, đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã kết hợp, sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như sau: Tổng hợp, phân tích, phương pháp so sánh, đánh giá,….để giải
quyết nội dung từng mục, chương trong luận văn. Cụ thể:
- Chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp phân
tích, đánh giá để làm rõ các nội dung
- Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp, như: phân tích, bình luận, tổng
hợp, liệt kê, nhận xét, đánh giá để giải quyết các nội dung đặt ra.
- Chương 3, tác giả sử dụng các phương pháp, như tổng hợp, phân tích,.. để
đạt mục tiêu đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Khái quát hóa và hệ thống hóa các quy định về đấu
thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.
Luận văn phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
- Nhận xét, đánh giá và bình luận các quy định về đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
4
- Chỉ rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các quy định về đấu
thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
- Từ kết quả nghiên cứu, tác giải xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn
hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu trong luận văn có giá trị tham khảo
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục các tài liệu tham
khảo, nội dung chính của đề tài nghiên cứu được chia là 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Những yêu cầu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ trong giai đoạn
hiện nay
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA
THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ
1.1. Khái niệm về đấu thầu mua sắm hàng hóa
1.1.1. Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Mua sắm hàng hóa là các hoạt động mua hàng hóa, có thể thực hiện dưới
hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, ngày nay ngoài các hình thức mua hàng hóa một
cách trực tiếp theo cách thông thường ngoài ra còn có hình thức mua hàng hóa gián
tiếp hoặc mua sắm trực tuyến thông qua internet. Các hoạt động mua sắm đó sẽ
được ghi nhận qua các hình thức khác nhau như: hợp động mua bán, hóa đơn, xác
nhận thanh toán….
Theo Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc
(UNCITRIAL) [26], thì "Procurement" được hiểu là sự giành được hàng hóa, công
trình hay dịch vụ nào đó (Điều 2, khoản a). Theo đó, hàng hóa được hiểu: “tất cả
các vật thể mô tả được bao gồm cả nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết bị, các
vật thể định hình hoặc dưới dạng lỏng, điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa nhưng
có giá trị thấp hơn hàng hóa (bao gồm: các loại hàng hóa khác theo quy định của
từng nước)” (Điều 2, khoản c).
Theo Từ điển tiếng Việt (do Viện Ngôn ngữ biên soạn năm 1998) thì "đấu
thầu" là việc "đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được
giao cho làm hoặc được bán hàng". Còn theo quy định của WB thì các từ "bid" và
"tender" (trong tiếng Anh) đều có nghĩa như nhau là "đấu thầu" [12, tr1].
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng
cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn
nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công
tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế [16]. Đấu thầu bao gồm, đấu thầu trong nước và đấu thầu
6
quốc tế. Đấu thầu quốc tế là đấu thầu mà nhà thầu, nhà đầu tư trong nước, nước
ngoài được tham dự thầu. Đấu thầu trong nước là đấu thầu mà chỉ có nhà thầu, nhà
đầu tư trong nước được tham dự thầu [16].
Đấu thầu hàng hóa cũng được quy định tại LTM 2005, theo đó: “Đấu thầu
hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ
thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân
tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do
bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên
trúng thầu)”. Đấu thầu mua sắm hàng hóa thể hiện là một quan hệ kinh tế và pháp lý
phức tạp [21, tr 202].
Đấu thầu là một hoạt động thương mại khá phổ biến trong đời sống xã hội.
Hoạt động đấu thầu diễn ra ở nhiều phương diện khác nhau, như: mua sắm hàng
hóa, công nghệ thông tin, du lịch, viễn thông, thương mại, đầu tư,…Hoạt động đấu
thầu là một quá trình diễn ra ở nhiều giai đoạn khác nhau, với sự tham gia của nhiều
chủ thể và với mục đích khác nhau. Đấu thầu được thực hiện với những công việc,
lĩnh vực khác nhau, như: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, thiết kế, đấu thầu thi công xây
lắp, đấu thầu mua sắm hàng hóa, đấu thầu thực hiện dịch vụ, đấu thầu chọn đối tác
để thực hiện dự án… Mỗi hoạt động đấu thầu có ý nghĩa, vai trò với những quy
trình, thủ tục khác nhau. Hiện nay có nhiều loại đấu thầu, như: đấu thầu trực tiếp,
đấu thầu qua mạng, đấu thầu quốc tế, đấu thầu trong nước,...Đấu thầu qua mạng là
đấu thầu được thực hiện thông qua việc sử dụng hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Số lượng gói thầu đấu thầu qua mạng có xu hướng tăng, ví dụ, năm 2018 đạt gần
19.000 gói, tăng gấp 2,78 lần so với năm 2017) nhưng tỷ lệ giá trị gói thầu đấu thầu
qua mạng còn thấp (46.840 tỷ đồng chiếm 6% tổng giá trị gói thầu trên cả nước) vì
vậy, thực tế là chưa tận dụng được lợi ích của đấu thầu qua mạng [1]. Đấu thầu
quốc tế là đấu thầu mà nhà thầu, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài được tham dự
thầu. Đấu thầu trong nước là đấu thầu mà chỉ có nhà thầu, nhà đầu tư trong nước
được tham dự thầu [16]. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Thương mại năm 2005,
đấu thầu bao gồm đấu thầu hàng hóa và đấu thầu dịch vụ.
7
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là một trong những loại đấu thầu có đối tượng
đấu thầu cụ thể là hàng hóa. Một trong những cơ sở để phân biệt giữa đấu thầu
MSHH và đấu thầu khác ở đối tượng đấu thầu. Đối tượng đấu thầu MSHH là hàng
hóa đáp ứng và tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Theo đó, hàng hóa gồm
máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng;
thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế [16].
Hiện nay, có nhiều phương thức đấu thầu khác nhau, gồm: Phương thức một
giai đoạn một túi hồ sơ, Phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, Phương thức hai
giai đoạn một túi hồ sơ, Phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ [16].
1.1.2. Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ
1.1.2.1. Khái niệm
Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
được hiểu là một phương thức đấu thầu thực hiện theo các hình thức đấu thầu khác
nhau giữa các chủ thể tham gia đấu thầu. Trong đó quy định về các nguyên tắc đấu
thầu, lựa chọn nhà thầu, ký kết, thực hiện hợp đồng, quyền, nghĩa vụ các bên và giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo quy
định của pháp luật về đấu thầu.
1.1.2.2. Đặc điểm đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ
Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
mang đặc điểm chung của đấu thầu, đồng thời có những đặc điểm riêng. Cụ thể:
Một là, Về phạm vi áp dụng đấu thầu. Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ áp dụng đối với các gói thầu cung cấp dịch
vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp và đấu thầu lựa
chọn nhà đầu tư. Tùy thuộc các lĩnh vực đấu thầu áp dụng các phương thức đấu
thầu khác nhau. Ví dụ: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung
cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp. Đấu
thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các
bên dự thầu. Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một
8
số nhà thầu nhất định dự thầu. Việc chọn hình thức đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu
hạn chế do bên mời thầu quyết định [19]. Như vậy, đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ khác với đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn một túi hồ sơ về phạm vi. Phương thức đấu thầu MSHH một giai đoạn
một túi hồ sơ chủ yếu áp dụng đối với các gói thầu có quy mô nhỏ, có giá trị trong
hạn mức, áp dụng đối với gói thầu MSHH tương tự thuộc cùng một dự án, dự toán
mua sắm và không đòi hỏi chuyên biệt điều kiện kỹ thuật.
Hai là, Về hồ sơ. Hồ sơ mời thầu trong đầu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ phải được lập thành hai túi hồ sơ độc lập,
riêng biệt, bao gồm: túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và túi hồ sơ đề xuất về tài chính.
Hai túi hồ sơ được nộp cùng một thời điểm. Đối với phương thức đấu thầu MSHH
một giai đoạn một túi hồ sơ thì nhà thầu, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề
xuất gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu, hồ sơ yêu cầu (một túi).
Ba là, Việc mở thầu. Mở thầu là việc tổ chức mở hồ sơ dự thầu tại thời điểm
đã được ấn định hoặc trong trường hợp không có thời điểm được ấn định trước thì
thời điểm mở thầu là ngay sau khi đóng thầu [19]. Thời điểm đóng thầu là thời điểm
hết hạn nhận hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất. Việc
mở thầu trong đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ được
tiến hành hai lần theo phương thức: Hồ sơ về kỹ thuật sẽ được mở ngay sau thời
điểm đóng thầu. Nhà thầu, nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật sẽ được mở hồ
sơ đề xuất về tài chính để đánh giá [16]. Đối với đấu thầu theo phương thức một
giai đoạn một túi hồ sơ thì việc mở thầu được tiến hành một lần đối với toàn bộ hồ
sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất [16].
1.1.3. Vai trò của đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ
Trong nền kinh tế thị trường, đấu thầu là một hình thức cạnh tranh cao nhằm
lựa chọn được nhà thầu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về kỹ thuật và yêu cầu về kinh
tế của chủ đầu tư. Hoạt động đấu thầu hướng tới và đảm bảo sự cạnh tranh công
bằng, bình đẳng, lựa chọn người bán phù hợp, góp phần thực hiện hiệu quả dự án
đầu tư.
9
Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu MSHH nói riêng có vai trò quan
trọng đối với các nhà kinh doanh, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chủ thể kinh
doanh khác. Đồng thời, đấu thầu góp phần ổn định sự phát triển nền kinh tế quốc
dân, cụ thể:
Thứ nhất, đối với chủ đầu tư.
-Thông qua hoạt động đấu thầu, các chủ đầu tư bảo đảm sự chủ động trong
việc lựa chọn các nhà thầu uy tín, phù hợp, hạn chế sự phụ thuộc vào một nhà thầu
cụ thể. Điều đó, cho phép chủ đầu tư chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch
một cách hợp lý và hiệu quả.
- Kết quả đấu thầu nhằm nâng cao hiệu quả về chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
tiết kiệm và bảo toàn nguồn vốn đầu tư, chống lãng phí, thất thoát tài sản; đồng thời
đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ.
- Thông qua hoạt động đấu thầu, góp phần tạo một môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và hiệu quả giữa các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh.
Hiệu quả hoạt động đầu tư mua sắm hàng hóa cho phép nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên của các chủ đầu tư.
Thứ hai, đối với các nhà thầu trong hoạt động đấu thầu.
-Thông qua hoạt động đấu thầu buộc các nhà thầu phải đáp ứng tốt các điều
kiện, yêu cầu về năng lực cạnh tranh, nhân lực, vật lực,...để có thể tham gia đấu
thầu và trở thành người thắng thầu.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, trên cơ sở các nguyên tắc công khai,
bình đẳng, cùng cạnh tranh, các nhà thầu đúc rút được các kinh nghiệm trong hoạt
động đấu thầu MSHH, chủ động tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và kí kết
hợp đồng khi trở thành người trúng thầu. Điều đó, góp phần tạo công ăn, việc làm
cho cán bộ, nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua
hoạt động đấu thầu sẽ nâng cao tay nghề cơ hội học hỏi, kinh nghiệm phát triển mở
rộng sản xuất cũng như tạo ra lợi nhuận cho các nhà thầu…
- Đấu thầu tạo điều kiện và cơ hội cho các nhà thầu xác định kế hoạch,
phương án trong việc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với năng lực của
doanh nghiệp về tài chính, công nghệ, kỹ thuật,…Kết quả tham gia các hoạt động
10
đấu thầu, đúc rút những kinh nghiệm quý báu cho các nhà thầu, phát huy thế mạnh,
lợi thế của mình, hạn chế những khiếm khuyết nhằm nâng cao năng lực, vị thế của
nhà thầu trong hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu MSHH nói riêng. Điều đó,
góp phần tạo dựng môi trường đầu thầu lành mạnh, công bằng và hiệu quả.
Thứ ba, Vai trò của đấu thầu mua sắm hàng hóa đối với kinh tế-xã hội.
-Đấu thầu MSHH góp phần và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, hàng
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng doanh nghiệp, trong các lĩnh vực và
của toàn nền kinh tế nói chung.
- Đấu thầu MSHH góp phần duy trì và tạo sự ổn định của kinh tế-xã hội vùng
miền, quốc gia. Hoạt động đấu thầu MSHH đúng pháp luật, hiệu quả hạn chế những
hành vi vi phạm, như: thông thầu, hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh,
lợi ích nhóm,... nâng cao tinh thầm “thượng tôn pháp luật”, nâng cao hiệu quả quản
lý và kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động đấu thầu trong giai đoạn hiện nay.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
Đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, với mức độ và phương diện tác động khác nhau. Các
yếu tố có thể là những yếu tố mang tính chủ quan, có yếu tố mang tính khách quan.
1.1.4.1 Yếu tố mang tính khách quan
- Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa
nói riêng.
Hệ thống pháp luật về đấu thầu và đấu thầu MSHH bao gồm rất nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, từ những văn bản pháp luật mang tính chung đến các văn
bản pháp luật mang tính chuyên ngành. Các văn bản pháp luật, như: BLDS,
BLTTDS, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật
Cạnh tranh, Luật đầu tư công,…đã tạo dựng hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động
đấu thầu, đấu thầu MSHH. Hệ thống các văn bản pháp luật đó đã cụ thể hóa, chi tiết
hóa các chính sách nhằm điều chỉnh hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH với các
phương thức, hình thức đấu thầu khác nhau. Tính minh bạch, thống nhất của hệ
thống pháp luật định hướng cho hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH hiệu quả và có
11
tính khả thi trong thực tiễn. Ngược lại, hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động đấu
thầu, đấu thầu MSHH chồng chéo, xung đột, khó thực hiện sẽ ảnh hưởng và tác
động xấu đến hiệu quả của hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH.
- Cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH. Cơ
chế quản lý của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đấu thầu, đấu thầu
MSHH. Cơ chế quản lý của Nhà nước tốt, minh bạch đảm bảo cho hoạt động đấu
thầu được thực hiện một cách đồng bộ, phát huy được năng lực cạnh tranh của các
chủ thể tham gia đấu thầu. Ngược lại cơ chế quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động đấu thầu, đấu thầu MSHH yếu kém sẽ là nguy cơ dẫn đến các hậu quả của
những hành vi vi phạm pháp luật phát triển, như: thông đồng, tham nhũng, cơ hội,
lợi ích nhóm,…Điều đó làm mất cân bằng và sự ổn định của kinh tế-xã hội, ảnh
hưởng đến lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, doanh nghiệp.
- Quy luật kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Sự tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và sự điều tiết của các quy luật nền kinh tế thị trường có ảnh
hưởng hưởng mạnh đến hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH trong giai đoạn hiện
nay. Trong cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các chủ thể trong đấu thầu phải tích
cực nâng cao năng lực, cải tiến kỹ thuật,…đảm bảo tính quy chuẩn, tính chính xác
và tính khoa học trong hoạt động đấu thầu. Sự điều chỉnh của các quy luật kinh tế
thị trường tác động không nhỏ tới hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH. Điều đó,
buộc các chủ thể phải nắm bắt được các quy luật, vận dụng linh hoạt và có hiệu quả
trong đấu thầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Khi Việt Nam đã trở thành
viên chính thức của WTO vào năm 2007 đã đặt ra những cơ hội và thách thức đối
với hoạt động thương mại, đầu tư, đấu thầu của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
Hoạt động đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH không chỉ tuân thủ các quy định
của pháp luật quốc gia mà phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ các nguyên
tắc, các luật lệ của quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn gần đây khi Việt Nam tham gia
đàm phán và trở thành thành viên của hơn 10 hiệp định thương mại tự do, thành
viên thứ 84 (tháng 11/2015) của Công ước Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán
12
hàng hóa quốc tế (CISG) đòi hỏi các quy định về đấu thầu, trong đó có đấu thầu
MSHH phù hợp và có tính khả thi trong thực tiễn.
1.1.4.2. Các yếu tố mang tính chủ quan
Các yếu tố mang tính chủ quan ảnh hưởng lớn tới hoạt động đấu thầu, trong
đó có đấu thầu MSHH. Các yếu tố cơ bản gồm:
- Năng lực của các chủ thể. Năng lực của các chủ thể, như chủ đầu tư, bên
mời thầu, bên dự thầu là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động
đấu thầu. Nếu các chủ thể tham gia có đầy đủ năng lực về tư cách pháp lý, về nguồn
lực, nhân lực,…góp phần đảm bảo cho hoạt động đấu thầu được hiệu quả, đạt mục
đích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên. Tuy nhiên, nếu năng lực của các
chủ thể không đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chí, điều kiện sẽ ảnh hưởng xấu tới
hoạt động đấu thầu, không đạt được mục đích và kết quả đấu thầu.
- Sự chủ động của các chủ thể tham gia đấu thầu. Các chủ thể tham gia đấu
thầu cần phải xác định được mục tiêu, xây dựng và thực hiện hiệu quả các công việc
từ chuẩn bị đến triển khai quy trình, thủ tục trong hoạt động đấu thầu, đấu thầu
MSHH. Điều đó giúp các nhà thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu chủ động khi hoạch
định các kế hoạch, triển khai quá trình đấu thầu được thông suốt, đúng pháp luật và
hiệu quả. Việc nắm rõ mục tiêu, nội dung, kế hoạch, trình tự cụ thể và chi tiết của
thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa sẽ tạo ra sự thuận lợi trong triển khai trình tự
thủ tục mua sắm hàng hóa, nếu không sẽ có thể dẫn đến không hoàn thành được yêu
cầu đề ra.
- Năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động
đấu thầu MSHH
Hoạt động đấu thầu MSHH không thể có hiệu quả nếu không có đội ngũ cán
bộ, nhân viên đáp ứng tốt các yêu cầu, điều kiện năng lực, trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm. Đối với người quản lý hoạt động đấu thầu MSHH nói chung, hoạt
động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ nói riêng phải
là người có trình độ quản lý, tinh thông nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trong tổ
chức, điều hành hoạt động đấu thầu. Đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên trực tiếp
tham gia vào các khâu trong hoạt động đấu thầu MSHH, ngoài trình độ chuyên
13
môn, nghiệp vụ thì phải là người am hiểu quy định pháp luật và trách nhiệm cao. Để
đảm bảo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ tham gia hoạt động đấu thầu
MSHH cần thiết và thường xuyên có chính sách, chương trình đào tạo đội ngũ cán
bộ nhân viên; đồng thời thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của
pháp luật về đấu thầu MSHH. Bên cạnh đó, cần áp dụng tốt chế độ, chính sách đãi
ngộ đối với đội ngũ nhân sự tham gia hoạt động đấu thầu. Việc thực hiện tốt chính
sách đãi ngộ góp phần nâng cao tinh thần, trách nhiệm và sự tận tụy của cán bộ,
nhân viên trong hoạt động đấu thầu, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật.
-Năng lực cạnh tranh và kinh nghiệm của các nhà thầu. Bản chất pháp lý của
đấu thầu là tìm được người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ với giá rẻ nhất trong
cùng một điều kiện. Vì vậy, năng lực cạnh tranh và kinh nghiệm của các nhà thầu
tham gia vào hoạt động đấu thầu MSHH có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn và
trúng thầu cũng như quá trình triển khai các dự án sau này. Năng lực cạnh tranh và
kinh nghiệm là hai vấn đề song hành đối với các nhà thầu. Nếu thiếu một trong hai
vấn đề đó sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh và khả năng trúng thầu của nhà thầu. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay không chỉ có sự tham gia của các nhà thầu trong nước
mà còn có sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài, các tập đoàn, công ty lớn thì
việc đòi hỏi đáp ứng năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm của nhà thầu là vấn đề hết
sức cần thiết.
- Vấn đề thông tin, bảo mật thông tin trong hoạt động đấu thầu MSHH. Đây
là một nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động đấu thầu nói chung, đấu
thầu MSHH nói riêng. Đấu thầu được áp dụng với nhiều phương thức, hình thức
khác nhau. Mỗi một phương thức, hình thức đấu thầu với từng loại tài sản, hàng hóa
có quy trình bảo mật, kiểm soát thông tin khác nhau. Nếu thông tin cần được bảo
mật mà không được thực hiện một cách nghiêm ngặt sẽ là nguy cơ ảnh hưởng
xấu đến quá trình đấu thầu MSHH cũng như làm sai lệch kết quả của hoạt động
đấu thầu MSHH, ảnh hưởng lợi ích của doanh nghiệp và mất đi trật tự của nền
kinh tế. Ví dụ, lộ các thông tin về việc bỏ giá thầu của các nhà thầu trong hoạt
động đấu thầu MSHH thì làm sai lệch về kết quả trúng thầu, mất đi tính nghiêm
minh của pháp luật.
14
1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ
1.2.1. Nguyên tắc của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Đấu thầu nói chung, đấu thầu MSHH nói riêng phải tuân thủ các nguyên tắc
trong đấu thầu. Nguyên tắc là những điều cơ bản do tổ chức đặt ra dựa trên những
quan điểm tư tưởng nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo [29].
Nguyên tắc trong đấu thầu là những tư tưởng chỉ đạo được rút ra từ những quy định
của pháp luật về đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành, có ý nghĩa bắt buộc
các bên tham gia trong quan hệ đấu thầu phải tuân theo [28,tr6]. Về cơ bản, mọi
hoạt động đấu thầu nói chung trong đó có đấu thầu mua sắm hàng hóa phải được
thực hiện dựa vào một số nguyên tắc sau đây [21, tr211]:
- Nguyên tắc coi trọng tính hiệu quả
Tính hiệu quả luôn được coi là mục tiêu hàng đầu khi thực hiện đấu thầu nói
chung cũng như đấu thầu mua sắm hàng hóa nói riêng. Nguyên tắc này thể hiện ở
hai nội dung:
+ Bên mời thầu chỉ nên tổ chức việc đấu thầu khi nhận thấy và minh chứng
được việc áp dụng đấu thầu sẽ giúp đạt hiệu quả cao hơn những hình thức mua sắm
hàng hóa khác. Không được lợi dụng việc tổ chức đấu thầu để thu lợi bất chính
riêng cho bất kỳ ai.
+ Khi tổ chức đấu thầu cũng phải xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu cụ thể của
từng gói thầu để lựa chọn hình thức và phương thức đấu thầu sao cho có hiệu quả nhất.
- Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Đây là một nguyên tắc được coi là quan trọng của hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hóa. Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
+ Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đưa ra các cơ hội là ngang nhau cho
tất cả các nhà thầu có mong muốn cũng như điệu kiện tham gia.
+ Nội dung của nguyên tắc này là yêu cầu mỗi gói thầu phải có sự tham gia
của một số lượng nhà thầu nhất định có đủ năng lực, khả năng nhằm đảm bảo sự
cạnh tranh giữa các nhà thầu tham dự.
15
+ Những điều kiện mà bên mời thầu đưa ra, các thông tin được cung cấp cho
các nhà thầu phải ngang bằng nhau, tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi nhà thầu.
Hồ sơ mời thầu không được đưa ra yêu cầu mang tính định hướng trước như về:
xuất xứ, nguồn gốc hàng hóa, về thương hiệu cụ thể nhằm ngăn cản sự tham gia của
các nhà thầu khác nhau.
+ Bên mời thầu không được có sự phân biệt đối xử trong việc xem xét, đánh
giá hồ sơ dự thầu giữa những người dự thầu đã có hồ sơ hợp lệ.
Tuy nhiên trong pháp luật của hầu hết các quốc gia vẫn có những quy định
ưu đãi đối với nhà thầu trong nước. sự ưu đãi này không phải là sự phân biệt đối xử
mà chính là để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng với các nhà thầu nước ngoài có
kinh nghiệm và năng lực lớn hơn cũng là góp phần cho sự hoàn thiện, phát triển của
các nhà đầu tư trong nước.
- Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai:
Xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh lành mạnh mà hoạt động đấu thầu mua sắm
hàng hóa cần phải đảm bảo nguyên tắc công khai và thông tinh đầy đủ.
+ Ngay từ bắt đầu giai đoạn mời thầu, các dữ liệu, tài liệu liên quan đến gói
thầu phải được bên mời thầu cung cấp với các thông tin một cách chi tiết, rõ ràng về
quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng (bổ
sung khác nếu có) để các nhà thầu xem xét khả năng đáp ứng của mình ngay từ thời
điểm ban đầu đây là một hoạt động mang tính nguyên tắc.
+ Thông báo mời thầu phải được đăng tải công khai trên các phương tiện
thông tinh đại chúng đối với đấu thầu rộng rãi và công khai đối với các nhà thầu
tham gia đối với đấu thầu hạn chế.
+ Việc mở thầu phải thực hiện một cách công khai, các nhà thầu đã tham gia
đấu thầu phải được thông báo và mời tới dự.
+ Những nội dung cơ bản của từng hồ sơ dự thầu phải được công bố công
khai ngay khi mở thầu và được ghi rõ ràng vào biên bản mở thầu. Kết quả đấu thầu
cũng phải được công bố công khai, bên dự thầu nào thua cuộc cũng phải có văn bản
giải thích rõ ràng. Có thể thấy nguyên tắc này được tiến hành xuyên suốt trong quá
16
trình đấu thầu. Việc tiến hành nghiêm túc nguyên tắc này sẽ góp phần tạo nên sự
thành công cho mỗi gói thầu được tổ chức.
- Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu:
Tính chất sự cạnh tranh gay gắt giữa các bên tham gia với mục đích nhằm
trúng thầu để cung cấp hàng hóa cho bên mời thầu làm cho việc bảo mật thông tin
đấu thầu được coi là một nguyên tắc bất khả xâm phạm.
+ Bên mời thầu phải bảo mật hồ sơ dự thầu các tổ chức, cá nhân liên quan
đến việc tổ chức đấu thầu và xét chọn nhà thầu phải giữ bí mật mọi thông tin liên
quan đến gói thầu.
+ Tất cả những hành vi làm tiết lộ thông tin đấu thầu đều phải bị xử lý theo
những quy định của pháp luật.
- Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng:
Đây là một nguyên tắc quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng hóa giúp hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa có tính hiệu quả:
+ Việc các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều phải được xem xét kỹ càng, đánh giá
một cách khách quan, công bằng với cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi cùng một
hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và tư cách.
+ Những tiêu chí đánh giá hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công bố trước
trong hồ sơ mời thầu và bên mời thầu không được tự ý thay đổi trong quá trình xét thầu.
+ Việc bảo mật các thông tin liên quan đến đấu thầu cũng có thể giúp cho
việc đánh giá hồ sơ dự thầu khách quan, công bằng hơn, về việc hồ sơ dự thầu được
chọn hay bị loại đều phải được giải thích rõ và thông báo cho các nhà thầu khi có
yêu cầu.
- Nguyên tắc bảo đảm dự thầu hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng:
Theo nguyên tắc này, các bên khi tham dự đấu thấu một gói thầu cụ thể thì
phải nộp một khoản tiền nhất định bảo đảm dự thầu kèm theo hồ sơ mời thầu.
+ Khoản tiền này sẽ được trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu sau
một thời gian nhất định sau khi đấu thầu kết thúc. Còn đối với các nhà thầu trúng
thầu thì khoản tiền này sẽ được trả sau khi nhà thầu nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp
đồng. Tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng sẽ được trả lại sau khi thanh lý hợp đồng.
17
+ Mục đích nguyên tắc này là nhằm tránh tình trạng các nhà thầu tự ý thay
đổi ý định sau khi đã dự thầu hoặc đã ký kết hợp đồng, loại bỏ được những nhà thầu
thiếu sự nghiêm túc, bảo đảm được lợi ích cho bên mời thầu. Mặt khác, nó có tác
dụng kích thích nỗ lực của các nhà thầu khi tham gia đấu thầu, thúc đẩy sự hợp tác
giữa các bên nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tài chính, tiến độ
thực hiện hợp đồng…
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên đây, việc đấu thầu trong những gói thầu
mua sắm hàng hóa có sử dụng vốn vay của các tổ chức còn có thể phải tuân theo
một số nguyên tắc riêng của các tổ chức cho vay vốn đó.
1.2.2 Nội dung của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Hoạt động đấu thầu xuất hiện sớm với các hình thức khác nhau, tuy nhiên
các thiết chế pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu lại ra đời muộn hơn. Các Biểu
mẫu liên quan đến đấu thầu do Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDIC) xây dựng,
xuất bản là một trong những cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu thầu. Đồng
thời nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã tiếp tục xây dựng các quy định, thể lệ,
quy chế về hoạt động đấu thầu.
Ở Việt Nam hình thức đấu thầu đã bắt đầu xuất hiện từ thời kỳ Pháp thuộc, ở
miền Bắc sau năm 1954 khi hòa bình lặp lại để khôi phục phát triển kinh tế bằng
hình thức đàm phán trực tiếp với các cấp vốn, tài trợ để mua sắm nhiều máy móc,
thiết bị nhà xưởng. Sau khi thống nhất giải phóng miền Nam, nhà nước ta đã tổ
chức đấu thầu xây dựng công trình thủy lợi Dầu Tiếng vào năm 1979. Từ thời điểm
đó đến nay chúng ta đã tiến hành rất nhiều các cuộc đấu thầu với quy mô lớn nhỏ
khác nhau và các lĩnh vực khác nhau trên khắp cả nước tiết kiệm được nguồn vốn
đầu tư không hề nhỏ cho nền kinh tế nước nhà. Trước khi văn bản có tính pháp lý
điều chỉnh trực tiếp hoạt động đấu thầu chính thức ra đời là Luật Đấu thầu số
61/2005/QH/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, hoạt động đấu thầu mua sắm hàng
hóa được điều chỉnh bởi một số văn bản liên quan như: Luật thương mại và một số
Nghị định của Chính phủ, một số thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư… mà chưa
có Luật điều chỉnh trực tiếp cho hoạt động này.
18
Đến nay sau khi Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26 tháng 11 năm
2013 ra đời thay thế cho Luật đấu thầu số 61/2005/QH/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005, thì đấu thầu hàng hóa nói chung và đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ được điều chỉnh bởi nhiều văn bản, như: Luật Đầu tư 2014
(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015), Luật Thương mại ngày 14/6/2005 (Điều
214 đến Điều 232), - Nghị định của Chính phủ số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, Luật
Doanh nghiệp 2014 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015), Luật Đầu tư công số
49/2014/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2014,….
Hệ thống các văn bản pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý
cho hoạt động đấu thầu. Những quy định của pháp luật đã góp phần tạo ra sự môi
trường đấu thầu bình đẳng, lành mạnh nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể, các
nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều văn bản có giá trị luật,
các văn bản giá trị dưới luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu nói chung, đấu thầu
MSHH nói riêng nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trên phương diện lý luận
và thực tiễn thi hành. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của các hoạt
động đấu thầu nói chung, đấu thầu MSHH nói riêng, tác động xấu trong việc bảo vệ
lợi ích của các chủ thể tham gia.
Hiện nay, việc điều chỉnh hoạt động đấu thầu nói chung, đấu thầu MSHH nói
riêng bởi các nguồn luật khác nhau, như: Hệ thống pháp luật quốc tế, Hệ thống pháp
luật quốc gia. Những thói quen, tập quán trong đấu thầu quốc tế.
Tất cả các loại nguồn của pháp luật điều chỉnh về đấu thầu mua sắm hàng
hóa nêu trên là các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để
xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để tiến hành áp dụng vào việc
giải quyết các vụ việc pháp lý cụ thể xảy ra trong thực tế thi hành, áp dụng pháp
luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa và trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa
nói riêng. Tuy nhiên, việc áp dụng nguồn luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu, đấu
thầu MSHH phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. Sự áp dụng đầy đủ, chính
xác các nguyên tắc trong hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH góp phần nâng cao
19
hiệu quả trong đấu thầu cũng như trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoạt động đấu thầu.
Pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH là hệ thống các quy phạm pháp luật
do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về tổ chức hoạt động đấu
thầu, trong đó có các quan hệ xã hội về đấu thầu theo phương thức một giai đoạn
hai túi hồ sơ. Các quan hệ xã hội về hoạt động đấu thầu phát sinh trực tiếp từ quá
trình tạo lập, duy trì, thay đổi và kết thúc hoạt động đấu thầu (mời thầu, hình thức,
phương thức đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng,…).
Trong đó, pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH là bộ phận cấu thành quan trọng
của hệ thống pháp luật về thương mại, đầu tư.
Pháp luật về đấu thầu MSHH là các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh về tổ chức, hoạt động đấu thầu
của các chủ thể có thẩm quyền, trong đó có hoạt động đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.
Pháp luật về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
được hiểu là: tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý, thực
hiện và áp dụng các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác.
Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ. Bao gồm:
- Quy định về các nguyên tắc đấu thầu mua sắm hàng hóa. Nguyên tắc là
những tư tưởng chỉ đạo đối với hoạt động đấu thầu. Nguyên tắc là những kim chỉ
nam cho hoạt động đấu thầu nhằm đảm bảo cho hoạt động đấu thầu, đấu thầu
MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ đúng pháp luật và hiệu quả.
Trong quá trình hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ, các bên phải tuân thủ đầy đủ và nghiêm chỉnh các nguyên tắc,
như: Nguyên tắc coi trọng tính hiệu quả, Nguyên tắc cạnh tranh trong điều kiện
20
ngang nhau, Nguyên tắc bảo mật thông tin, Nguyên tắc bảo đảm dự thầu hoặc bảo
đảm thực hiện hợp đồng,…
- Quy định về chủ thể trong đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ. Hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, như: Chủ đầu
tư, Bên mời thầu, nhà thầu. Mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác
nhau trong đấu thầu.
- Các quy định về phương thức đấu thầu. Đấu thầu MSHH theo phương thức
một giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng nhiều phương thức đấu thầu, như: đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế. Theo đó, mỗi một hình thức lựa chọn nhà thầu theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng đối với từng loại gói thầu cụ
thể. Ví dụ, phương thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung
cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp [16].
- Quy định về trình tự, thủ tục đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ. Đấu thầu nói chung và đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ nói riêng đã trở thành một hoạt động rất phổ biến trên nền
kinh tế thị trường hiện nay. Vấn đề trình tự, thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa cơ
bản được quy định trong Luật Đấu thầu năm 2013, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu và
các văn bản liên quan. Quy trình thủ tục đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ gồm nhiều giai đoạn khác nhau, như: chuẩn bị lựa chọn nhà thầu,
tổ chức lựa chọn nhà thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu,….
- Các quy định về hợp đồng đấu thầu và bảo đảm thực hiện hợp đồng với nhà
đầu tư trúng thầu được lựa chọn trong các nhà thầu. Sau khi được xem xét, đề nghị
trúng thầu, các bên phải tiến hành thương thảo và ký hợp đồng nhằm thực hiện gói
thầu theo quy định của pháp luật và sự thỏa thuận, thống nhất giữa các bên.
- Quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các bên đấu thầu
MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ. Các bên tham gia quan hệ đầu
thầu phải có trách nhiệm trong việc tôn trọng quy định của pháp luật và sự thỏa
thuận về các vấn đề liên quan đến hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một
21
giai đoạn hai túi hồ sơ. Việc thống nhất và tuân thủ pháp luật về đấu thầu nhằm
hướng tới và bảo đảm hoạt động đấu thầu minh bạch, hiệu quả. Ví dụ, trong quá trình
đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, nghiêm cấm các bên
không được thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, như: hối lộ, thông thầu,....
- Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh trong đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ. Quá trình đấu thầu có thể xuất phát do
nhiều lý do mà tranh chấp có thể sẽ phát sinh. Các tranh chấp phát sinh có thể diễn
ra trong từng khâu, giai đoạn và với mức độ tranh chấp khác nhau trong hoạt động
đấu thầu. Tranh chấp phát sinh, các bên có thể thương lược, hòa giải tìm ra phương
án giải quyết tranh chấp tốt nhất. Trong trường hợp thương lượng, hòa giải không
thành công, các bên có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp, như tòa án, trọng tài để bảo vệ lợi ích chính đáng cho từng bên và cả hai bên
tranh chấp.
22
Tiểu kết chương 1
Đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai
túi hồ sơ có vai vò và ý nghĩa đối với các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nền kinh
tế quốc dân. Vì vậy, vấn đề đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức
một giai đoạn hai túi hồ sơ luôn được sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân và các nhà khoa học. Các công trình khoa học tiếp cận về đấu thầu,
đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ trên các phương diện
khác nhau và ở góc độ khác nhau.
Chương 1 của luận văn, trên cơ sở kế thừa một số kết quả nghiên cứu từ các
công trình khoa học, tác giả tập trung phân tích và làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ
sơ. Những nội dung về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của hoạt động đấu thầu,
trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ cũng như
những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ được tác giả phân tích cụ thể, chi tiết.
Hệ thống pháp luật về hoạt động đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ đã tạo hành lang pháp lý và môi trường
lành mạnh cho hoạt động đấu thầu. Các văn bản pháp luật về đấu thầu, như Luật
Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh,...đã quy định các nội
dung điều chỉnh về đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ, như: nguyên tắc đấu thầu, chủ thể tham gia đấu thầu, quy
trình, thủ tục đấu thầu, quyền, nghĩa vụ các bên,…Những quy định này là cơ sở
pháp lý đảm bảo cho hoạt động đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ minh bạch và hiệu quả.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA
THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN HAI TÚI HỒ SƠ
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay.
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
pháp lý của người có thẩm quyền, chủ đầu tư, Bên mời thầu, nhà thầu trong đấu
thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
2.1.1.1 Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của người có thẩm quyền
Người có thẩm quyền là người quyết định phê duyệt dự án hoặc người quyết
định mua sắm theo quy định của pháp luật. Trường hợp lựa chọn nhà đầu tư, người
có thẩm quyền là người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật [16].
Người có thẩm quyền có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý sau:
- Phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, trừ trường hợp quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 74 của Luật Đấu thầu 2013;
- Giải quyết kiến nghị trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư;
- Xử lý vi phạm về đấu thầu theo quy định của Luật này và quy định khác
của pháp luật có liên quan;
- Hủy thầu theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 17 của Luật Đấu thầu
2013;
- Đình chỉ cuộc thầu, không công nhận kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
hoặc tuyên bố vô hiệu đối với các quyết định của chủ đầu tư, bên mời thầu khi phát
hiện có hành vi vi phạm về đấu thầu hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Tổ chức kiểm tra, giám sát, theo dõi công tác đấu thầu, thực hiện hợp đồng
Đối với lựa chọn nhà thầu, ngoài quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6
Điều 73 Luật Đấu thầu 2013, người có thẩm quyền còn có trách nhiệm sau đây:
- Điều chỉnh nhiệm vụ và thẩm quyền của chủ đầu tư trong trường hợp không
đáp ứng quy định của pháp luật về đấu thầu và các yêu cầu của dự án, gói thầu;
24
- Yêu cầu chủ đầu tư, bên mời thầu cung cấp hồ sơ, tài liệu để phục vụ công
tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, giải quyết kiến nghị, xử lý vi phạm về đấu thầu và
công việc quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 73 Luật Đấu thầu;
- Có ý kiến đối với việc xử lý tình huống trong trường hợp phức tạp theo đề
nghị của chủ đầu tư quy định tại điểm a khoản 2 Điều 86 của Luật Đấu thầu.
Đối với lựa chọn nhà đầu tư, ngoài quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6
Điều 73 Luật Đấu thầu, người có thẩm quyền còn có trách nhiệm sau đây:
- Quyết định lựa chọn bên mời thầu;
- Phê duyệt hồ sơ mời sơ tuyển, kết quả sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu
cầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư;
- Quyết định xử lý tình huống;
- Ký kết và quản lý việc thực hiện hợp đồng;
- Hủy thầu theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Đấu thầu;
- Yêu cầu bên mời thầu cung cấp hồ sơ, tài liệu để phục vụ công tác kiểm tra,
giám sát, theo dõi, giải quyết kiến nghị, xử lý vi phạm về đấu thầu và công việc quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 73 Luật Đấu thầu.
Quyết định thành lập bên mời thầu với nhân sự đáp ứng các điều kiện theo
quy định của Luật này đối với lựa chọn nhà đầu tư, mua sắm thường xuyên. Trường
hợp nhân sự không đáp ứng, phải tiến hành lựa chọn một tổ chức đấu thầu chuyên
nghiệp để làm bên mời thầu hoặc thực hiện một số nhiệm vụ của bên mời thầu.
Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan nếu
thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra.
Giải trình việc thực hiện các quy định tại Điều này theo yêu cầu của cơ quan cấp
trên, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu.
Bên cạnh đó, người có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm khác theo quy định
tại Luật Đấu thầu [16, Đ73].
2.1.1.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của Bên mời thầu
Bên mời thầu là cơ quan, tổ chức đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật
về đấu thầu. Các cá nhân không phải là chủ thể với tư cách là bên mời thầu. Các cơ
quan, tổ chức là bên mời thầu phải có chuyên môn và năng lực để thực hiện các
25
hoạt động đấu thầu, bao gồm: Chủ đầu tư hoặc tổ chức do chủ đầu tư quyết định
thành lập hoặc lựa chọn; Đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng nguồn vốn mua sắm
thường xuyên; Đơn vị mua sắm tập trung; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ
chức trực thuộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn [16].
Bên mời thầu có các trách nhiệm sau:
* Đối với lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu thuộc dự án:
- Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu, đánh giá hồ sơ quan
tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất;
- Quyết định thành lập tổ chuyên gia;
- Yêu cầu nhà thầu làm rõ hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu,
hồ sơ đề xuất trong quá trình đánh giá hồ sơ;
- Trình duyệt kết quả lựa chọn danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu;
- Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng với nhà thầu;
- Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan nếu
thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra;
- Bảo mật các tài liệu trong quá trình lựa chọn nhà thầu;
- Bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng trong quá trình lựa chọn nhà thầu;
- Cung cấp các thông tin cho Báo đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc
gia; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy định
tại khoản này theo yêu cầu của người có thẩm quyền, chủ đầu tư, cơ quan thanh tra,
kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về quá trình lựa chọn nhà
thầu [16].
* Đối với lựa chọn nhà thầu trong mua sắm thường xuyên, Bên mời thầu có
trách nhiệm, như: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu, đánh giá
hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; Quyết định thành
lập tổ chuyên gia; Yêu cầu nhà thầu làm rõ hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ
sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trong quá trình đánh giá hồ sơ; Trình duyệt kết quả lựa
chọn danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu; Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng
với nhà thầu; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan
26
nếu thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra; Bảo mật các tài liệu trong quá trình lựa chọn
nhà thầu; Bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng trong quá trình lựa chọn nhà
thầu; Cung cấp các thông tin cho Báo đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;
cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy định tại
khoản này theo yêu cầu của người có thẩm quyền, chủ đầu tư, cơ quan thanh tra,
kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu.
Đồng thời bên mời thầu phải thực hiện trách nhiệm sau:
- Phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu;
- Phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu;
- Ký kết và quản lý việc thực hiện hợp đồng với nhà thầu;
- Quyết định xử lý tình huống;
- Giải quyết kiến nghị trong quá trình lựa chọn nhà thầu;
- Hủy thầu theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Đấu thầu;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người có thẩm quyền về quá trình lựa
chọn nhà thầu;
- Lưu trữ các thông tin liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo quy
định của pháp luật về lưu trữ và quy định của Chính phủ;
- Cung cấp các thông tin cho Báo đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc
gia; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy định
tại khoản này theo yêu cầu của người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu;
- Báo cáo công tác đấu thầu hàng năm [16].
* Đối với lựa chọn nhà đầu tư, bên mời thầu có trách nhiệm:
- Chuẩn bị lựa chọn nhà đầu tư; tổ chức lựa chọn nhà đầu tư; tổ chức đánh giá hồ
sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất theo quy định của Luật Đấu thầu;
- Quyết định thành lập tổ chuyên gia;
- Yêu cầu nhà đầu tư làm rõ hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất
trong quá trình đánh giá hồ sơ;
- Trình duyệt hồ sơ mời sơ tuyển, kết quả sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu
cầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư;
27
- Đàm phán hợp đồng với nhà đầu tư;
- Bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình
gây ra theo quy định của pháp luật;
- Bảo mật các tài liệu trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư;
- Lưu trữ các thông tin liên quan trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư theo
quy định của pháp luật về lưu trữ và quy định của Chính phủ;
- Giải quyết kiến nghị trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư;
- Bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng trong quá trình lựa chọn nhà
đầu tư;
- Cung cấp các thông tin cho Báo đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc
gia; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy định
tại khoản này theo yêu cầu của người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu [16].
Bên cạnh đó, bên mời thầu phải thực hiện các trách nhiệm khác theo quy
định của Luật Đấu thầu [16].
2.1.1.3. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ đầu tư
Chủ đầu tư là tổ chức sở hữu vốn hoặc tổ chức được giao thay mặt chủ sở
hữu vốn, tổ chức vay vốn trực tiếp quản lý quá trình thực hiện dự án [16].
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là cơ quan ký kết hợp đồng với nhà đầu
tư. Hợp đồng là văn bản thỏa thuận giữa chủ đầu tư với nhà thầu được lựa chọn
trong thực hiện gói thầu thuộc dự án; giữa bên mời thầu với nhà thầu được lựa chọn
trong mua sắm thường xuyên; giữa đơn vị mua sắm tập trung hoặc giữa đơn vị có
nhu cầu mua sắm với nhà thầu được lựa chọn trong mua sắm tập trung; giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư được lựa chọn hoặc giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với nhà đầu tư được lựa chọn và doanh nghiệp dự án trong lựa
chọn nhà đầu tư [16].
Chủ đầu tư có các trách nhiệm sau:
* Phê duyệt các nội dung trong quá trình lựa chọn nhà thầu, bao gồm: Kế
hoạch lựa chọn nhà thầu trong trường hợp gói thầu được thực hiện trước khi có
quyết định phê duyệt dự án; Hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, danh sách
28
ngắn; Hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; Danh sách xếp hạng nhà thầu; Kết quả lựa
chọn nhà thầu [16].
* Ký kết hoặc ủy quyền ký kết và quản lý việc thực hiện hợp đồng với nhà thầu.
* Quyết định thành lập bên mời thầu với nhân sự đáp ứng các điều kiện theo
quy định của Luật này. Trường hợp nhân sự không đáp ứng, phải tiến hành lựa chọn
một tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp để làm bên mời thầu hoặc thực hiện một số
nhiệm vụ của bên mời thầu.
* Quyết định xử lý tình huống.
* Giải quyết kiến nghị trong quá trình lựa chọn nhà thầu.
* Bảo mật các tài liệu liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu.
* Lưu trữ các thông tin liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo quy
định của pháp luật về lưu trữ và quy định của Chính phủ.
* Báo cáo công tác đấu thầu hàng năm.
* Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan nếu
thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra.
* Hủy thầu theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Đấu thầu.
* Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người có thẩm quyền về quá trình lựa
chọn nhà thầu.
* Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy
định tại Điều này theo yêu cầu của người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm
tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu.
* Trường hợp chủ đầu tư đồng thời là bên mời thầu thì còn phải thực hiện
các trách nhiệm quy định tại Điều 75 của Luật Đấu thầu [16].
Đồng thời, chủ đầu tư phải thực hiện các trách nhiệm khác theo quy định của
Luật Đấu thầu 2013.
2.1.1.4. Trách nhiệm pháp lý của nhà thầu
Bên dự thầu bao gồm các nhà thầu là các tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều
kiện về kỹ thuật, về kinh tế tham gia dự thầu, như: nhà thầu chính, nhà thầu phụ.
Các nhà thầu tham gia trong hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ có địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nhà thầu bao
29
gồm, nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước. Nhà thầu nước ngoài là tổ chức
được thành lập theo pháp luật nước ngoài hoặc cá nhân mang quốc tịch nước ngoài
tham dự thầu tại Việt Nam. Nhà thầu trong nước là tổ chức được thành lập theo
pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân mang quốc tịch Việt Nam tham dự thầu.
Trong hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ
sơ có thể có sự tham gia của nhà thầu chính và các nhà thầu phụ. Nhà thầu chính là
nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện
hợp đồng nếu được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành
viên của nhà thầu liên danh [16].
Nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu theo hợp đồng được ký
với nhà thầu chính. Nhà thầu phụ đặc biệt là nhà thầu phụ thực hiện công việc quan
trọng của gói thầu do nhà thầu chính đề xuất trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trên
cơ sở yêu cầu ghi trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu [16].
Ngoài Bên mời thầu và Bên dự thầu, trong hoạt động đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ còn có sự tham gia của một số chủ thể
khác, như: các cá nhân có năng lực, kinh nghiệm hoặc các đơn vị tư vấn đấu thầu để
đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất và thực
hiện các nhiệm vụ khác trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư. Dịch vụ tư
vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng
sơ đồ phát triển, kiến trúc; khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo
nghiên cứu khả thi, báo cáo đánh giá tác động môi trường; khảo sát, lập thiết kế, dự
toán; lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu;
đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm tra,
thẩm định; giám sát; quản lý dự án; thu xếp tài chính; kiểm toán, đào tạo, chuyển
giao công nghệ; các dịch vụ tư vấn khác [16]. Dịch vụ phi tư vấn là một hoặc một
số hoạt động bao gồm: logistics, bảo hiểm, quảng cáo, lắp đặt không bao gồm xây
lắp (gồm những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt công trình, hạng mục
công trình), nghiệm thu chạy thử, tổ chức đào tạo, bảo trì, bảo dưỡng, vẽ bản đồ và
hoạt động khác không phải là dịch vụ tư vấn quy định tại khoản 8 Điều 4 Luật Đấu
thầu 2013 [16].
30
Các nhà thầu khi tham gia hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm sau:
- Phê duyệt các nội dung trong quá trình lựa chọn nhà thầu, bao gồm: Kế
hoạch lựa chọn nhà thầu trong trường hợp gói thầu được thực hiện trước khi có
quyết định phê duyệt dự án; Hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, danh sách
ngắn; Hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; Danh sách xếp hạng nhà thầu; Kết quả lựa
chọn nhà thầu [16].
- Ký kết hoặc ủy quyền ký kết và quản lý việc thực hiện hợp đồng với nhà thầu.
- Quyết định thành lập bên mời thầu với nhân sự đáp ứng các điều kiện theo
quy định của Luật này. Trường hợp nhân sự không đáp ứng, phải tiến hành lựa chọn
một tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp để làm bên mời thầu hoặc thực hiện một số
nhiệm vụ của bên mời thầu.
- Quyết định xử lý tình huống.
- Giải quyết kiến nghị trong quá trình lựa chọn nhà thầu.
- Bảo mật các tài liệu liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu.
- Lưu trữ các thông tin liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo quy
định của pháp luật về lưu trữ và quy định của Chính phủ.
- Báo cáo công tác đấu thầu hàng năm.
- Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan nếu
thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra.
- Hủy thầu theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Đấu thầu.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người có thẩm quyền về quá trình lựa
chọn nhà thầu.
- Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải trình việc thực hiện các quy
định tại Điều 74 theo yêu cầu của người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra,
cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu.
- Trường hợp chủ đầu tư đồng thời là bên mời thầu thì còn phải thực hiện
các trách nhiệm quy định tại Điều 75 của Luật Đấu thầu.
- Người có thẩm quyền ngoài các trách nhiệm trên phải thực hiện các trách
nhiệm khác theo quy định của Luật Đấu thầu [16].
31
Trong hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ
sơ, ngoài các chủ thể, như: Bên mời thầu, bên dự thầu, chủ đầu tư,…thì có sự tham
gia của Tổ chuyên gia. Tổ chuyên gia thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
sau: Trung thực, khách quan, công bằng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; Đánh
giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất theo đúng yêu
cầu; Báo cáo bên mời thầu về kết quả đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển,
hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất và danh sách xếp hạng nhà thầu, nhà đầu tư; Bảo mật
các tài liệu liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; Bảo lưu ý kiến
của mình; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan
nếu thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra; Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và giải
trình việc thực hiện các quy định tại Điều này theo yêu cầu của người có thẩm
quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà
nước về hoạt động đấu thầu; Thực hiện các trách nhiệm khác theo quy định của
Luật Đấu thầu [16].
2.1.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về hình thức đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ
được thực hiện theo nhiều hình thức đấu thầu khác nhau, bao gồm: đấu thầu rộng rãi
và đấu thầu hạn chế.
2.1.2.1. Hình thức đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là một trong các hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
khá phổ biến. Hình thức đấu thầu rộng rãi (không hạn chế về sự tham gia của nhà
thầu và được áp dụng cho các gói thầu, dự án. Tuy nhiên, một số trường hợp không
được áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, như: (i) đấu thầu hạn chế; (ii) chỉ định
thầu; (iii) chào hàng cạnh tranh; (iv) mua sắm trực tiếp; (v) tự thực hiện; (vi) lựa
chon nhà thầu theo các trường hợp đặc biệt và (vii) trường hợp có sự tham gia của
cộng đồng [16].
Đấu thầu rộng rãi mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi
hồ sơ được áp dụng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn,
mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp; áp dụng trong việc lựa chọn nhà đầu tư [16].
32
Luật Đấu thầu năm 2013 có quy định về việc lựa chọn nhà thầu trong trường
hợp đặc biệt hoặc sự tham gia của công đồng dân cư, tổ chức,…Trong trường hợp
gói thầu, dự án xuất hiện các điều kiện đặc thù, riêng biệt mà không thể áp dụng các
hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh,
mua sắm trực tiếp, tự thực hiện trong việc lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư thì người
có thẩm quyền trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định phương án lựa chọn
nhà thầu, nhà đầu tư. Đối với cộng đồng dân cư, tổ chức, tổ, nhóm thợ tại địa
phương nơi có gói thầu được giao thực hiện toàn bộ hoặc một phần gói thầu đó
trong các trường hợp: Gói thầu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho các huyện, xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo,
vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Gói thầu quy mô nhỏ mà cộng đồng dân cư,
tổ chức, tổ, nhóm thợ tại địa phương có thể đảm nhiệm [16].
Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu mang tính cạnh tranh cao, vì
có sự tham gia của nhiều nhà thầu với các lợi thế khác nhau. Tuy nhiên, khi áp dụng
hình thức đấu thầu rộng rãi trong mua sắm hàng hóa sẽ dẫn đến một số hạn chế,
nhất là bên mời thầu, như: công tác quản lý hồ sơ với số lượng lớn, chi phí đấu thầu,
thời gian thực hiện. Bên cạnh đó, hình thức đấu thầu rộng rãi có thể dẫn đến nguy
cơ thông đồng giữa các nhà thầu trong việc bỏ giá trúng thầu. Trong năm 2018, hình
thức lựa chọn nhà đầu tư, theo thống kê, trong số 70 dự án PPP đã xác định được
hình thức lựa chọn nhà đầu tư, có 22 dự án áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi
(chiếm 31%), có 48 dự án áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư (chiếm 69%).
Riêng đối với hình thức chỉ định nhà đầu tư, có 44/48 dự án chỉ định thầu thuộc
trường hợp chỉ có 01 nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu sơ tuyển [1].
2.1.2.2. Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là một hình thức đấu thầu được áp dụng đối với gói thầu có
yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp
ứng yêu cầu của gói thầu. Như vậy khác với đấu thầu rộng rãi có sự tham gia của
nhiều nhà thầu và được áp dụng cho mọi trường hợp, trừ một số lĩnh vực mang tính
đặc thù, đấu thầu hạn bị giới hạn đòi hỏi về kỹ thuật và số nhà thầu. Cụ thể, đối với
hình thức đấu thầu hạn chế trong mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
33
đoạn hai túi hồ sơ thì chỉ được áp dụng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn,
dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp [16].
Đấu thầu hạn chế có nhiều ưu điểm, nhất là đối với bên mời thầu. Bên mời
thầu sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí trong hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, do
sự lựa chọn ít nên trong nhiều trường hợp bên mời thầu chưa chắc đã lựa chọn được
nhà thầu phù hợp nhất. Hình thức này hiện nay không tạo ra được môi trường cạnh
tranh lớn nhất giữa các nhà thầu, vì thế có thể giảm hiệu quả của hoạt động đấu
thầu. Điều kiện áp dụng hình thức này chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng
yêu cầu gói thầu, do yêu cầu của nguồn vốn sử dụng và do tình hình cụ thể của gói
thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
2.1.3 Thực trạng các quy định pháp luật về kế hoạch và quy trình lựa chọn
nhà thầu trong đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ
2.1.3.1. Nguyên tắc lực chọn nhà thầu
Việc lựa chọn nhà thầu được tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định, theo
toàn bộ dự án hoặc phân chia dự án.
- Kế hoạch lựa chọn nhà thầu được lập cho toàn bộ dự án, dự toán mua sắm.
Trường hợp chưa đủ điều kiện lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho toàn bộ dự án, dự
toán mua sắm thì lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho một hoặc một số gói thầu để
thực hiện trước.
- Trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải ghi rõ số lượng gói thầu và nội dung
của từng gói thầu.
- Việc phân chia dự án, dự toán mua sắm thành các gói thầu phải căn cứ theo
tính chất kỹ thuật, trình tự thực hiện; bảo đảm tính đồng bộ của dự án, dự toán mua
sắm và quy mô gói thầu hợp lý [16].
2.1.3.2. Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu
Kế hoạch lựa chọn nhà thầu được thực hiện trên cơ sở các căn cứ đối với các
gói thầu và theo từng giai đoạn cụ thể.
Thứ nhất, căn cứ lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu.
* Căn cứ lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu đối với dự án, gồm các căn cứ sau:
34
- Quyết định phê duyệt dự án hoặc Giấy chứng nhận đầu tư và các tài liệu có
liên quan. Đối với gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt dự án
thì căn cứ theo quyết định của người đứng đầu chủ đầu tư hoặc người đứng đầu đơn vị
được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án trong trường hợp chưa xác định được chủ đầu tư;
- Nguồn vốn cho dự án;
- Điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế đối với các dự án sử dụng vốn hỗ trợ
phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi;
- Các văn bản pháp lý liên quan.
* Căn cứ lựa chọn nhà thầu đối với mua sắm thường xuyên, gồm:
- Tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị, phương tiện làm việc của cơ quan, tổ
chức, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức; trang thiết bị, phương tiện làm việc
hiện có cần thay thế, mua bổ sung, mua sắm mới phục vụ cho công việc;
- Quyết định mua sắm được phê duyệt;
- Nguồn vốn, dự toán mua sắm thường xuyên được phê duyệt;
- Đề án mua sắm trang bị cho toàn ngành được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt (nếu có);
- Kết quả thẩm định giá của cơ quan, tổ chức có chức năng cung cấp dịch vụ
thẩm định giá hoặc báo giá (nếu có) [16].
Thứ hai, Quyết định phê duyệt dự án, dự toán mua sắm là căn cứ để lập kế
hoạch lựa chọn nhà thầu. Theo đó, kế hoạch lựa chọn nhà thầu được lập sau khi có
quyết định phê duyệt dự án, dự toán mua sắm hoặc đồng thời với quá trình lập dự
án, dự toán mua sắm hoặc trước khi có quyết định phê duyệt dự án đối với gói thầu
cần thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt dự án.
2.1.3.3. Nội dung kế hoạch lựa chọn nhà thầu
Tùy thuộc vào từng gói thầu, việc lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu có các nội
dung phù hợp, với các tiêu chí, điều kiện, hình thức và phương thức khác nhau. Nội
dung kế hoạch lựa chọn nhà thầu gồm các vấn đề chính sau:
Một là, Tên gói thầu.
Tên gói thầu thể hiện tính chất, nội dung và phạm vi công việc của gói thầu, phù
hợp với nội dung nêu trong dự án, dự toán mua sắm. Trường hợp gói thầu gồm
35
nhiều phần riêng biệt, trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu cần nêu tên thể hiện nội
dung cơ bản của từng phần [16].
Hai là, Giá gói thầu.
- Giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc dự toán (nếu có)
đối với dự án; dự toán mua sắm đối với mua sắm thường xuyên. Giá gói thầu được
tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, phí,
lệ phí và thuế. Giá gói thầu được cập nhật trong thời hạn 28 ngày trước ngày mở
thầu nếu cần thiết;
- Đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi,
báo cáo nghiên cứu khả thi, giá gói thầu được xác định trên cơ sở các thông tin về
giá trung bình theo thống kê của các dự án đã thực hiện trong khoảng thời gian xác
định; ước tính tổng mức đầu tư theo định mức suất đầu tư; sơ bộ tổng mức đầu tư;
- Trường hợp gói thầu gồm nhiều phần riêng biệt thì ghi rõ giá ước tính cho từng
phần trong giá gói thầu.
Ba là, Nguồn vốn. Đối với mỗi gói thầu phải nêu rõ nguồn vốn hoặc phương
thức thu xếp vốn, thời gian cấp vốn để thanh toán cho nhà thầu; trường hợp sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi thì phải ghi rõ tên nhà tài trợ và cơ
cấu nguồn vốn, bao gồm vốn tài trợ, vốn đối ứng trong nước.
Bốn là, Hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu.
Việc lựa chọn hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu được áp dụng cho
từng gói thầu. Vì vậy, trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải xác định rõ hình thức
và phương thức lựa chọn nhà thầu, nhà thầu trong nước hay nhà thầu quốc tế. Mỗi
một nhà thầu có năng lực và các lợi thế khác nhau.
Năm là, Xác định thời gian bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu.
Thời gian bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu được tính từ khi phát hành hồ sơ
mời thầu, hồ sơ yêu cầu, được ghi rõ theo tháng hoặc quý trong năm. Trường hợp
đấu thầu rộng rãi có áp dụng thủ tục lựa chọn danh sách ngắn, thời gian bắt đầu tổ
chức lựa chọn nhà thầu được tính từ khi phát hành hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời
sơ tuyển.
Sáu là, Xác định loại hợp đồng
36
Việc xác định loại hợp đồng trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu có ý nghĩa quan
trọng. Xuất phát từng gói thầu khác nhau, có sự tham gia của các nhà thầu khác
nhau,…vì vậy, việc xác định loại hợp đồng với các nội dung khác nhau căn cứ lập
hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, ký kết hợp đồng.
Bảy là, Xác định thời gian thực hiện hợp đồng.
Quy định thời gian thực hiện hợp đồng đảm bảo việc tuân thủ quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm của các bên cũng như việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện.
Thời gian thực hiện hợp đồng là số ngày tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực đến
ngày các bên hoàn thành nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng, trừ thời gian thực
hiện nghĩa vụ bảo hành (nếu có).
2.1.3.4 Trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
* Trách nhiệm trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu:
- Chủ đầu tư đối với dự án, bên mời thầu đối với mua sắm thường xuyên có trách
nhiệm trình kế hoạch lựa chọn nhà thầu lên người có thẩm quyền xem xét, phê duyệt;
- Đối với gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt dự án, trường
hợp xác định được chủ đầu tư thì đơn vị thuộc chủ đầu tư có trách nhiệm trình kế
hoạch lựa chọn nhà thầu lên người đứng đầu chủ đầu tư để xem xét, phê duyệt.
Trường hợp chưa xác định được chủ đầu tư thì đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị
dự án có trách nhiệm trình kế hoạch lựa chọn nhà thầu lên người đứng đầu đơn vị
mình để xem xét, phê duyệt.
* Văn bản trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu bao gồm những nội dung sau đây:
- Phần công việc đã thực hiện, bao gồm nội dung công việc liên quan đến chuẩn bị
dự án, các gói thầu thực hiện trước với giá trị tương ứng và căn cứ pháp lý để thực hiện;
- Phần công việc không áp dụng được một trong các hình thức lựa chọn nhà
thầu, bao gồm: hoạt động của ban quản lý dự án, tổ chức đền bù giải phóng mặt
bằng, khởi công, khánh thành, trả lãi vay và các công việc khác không áp dụng
được các hình thức lựa chọn nhà thầu;
- Phần công việc thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu, bao gồm nội dung công việc
và giá trị tương ứng hình thành các gói thầu được thực hiện theo một trong các hình
37
thức lựa chọn nhà thầu quy định tại các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 và 27 của
Luật Đấu thầu.
Cần lưu ý, trong nội dung này cần phải xác định cụ thể cơ sở của việc chia dự
án, dự toán MSHH thành các gói thầu. Đối với từng gói thầu, phải bảo đảm có đầy
đủ các nội dung quy định tại Điều 35 Luật Đấu thầu. Đối với gói thầu không áp
dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, trong văn bản trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà
thầu phải nêu rõ lý do áp dụng hình thức lựa chọn khác;
- Phần công việc chưa đủ điều kiện lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu (nếu có),
trong đó nêu rõ nội dung và giá trị của phần công việc này;
- Phần tổng hợp giá trị của các phần công việc quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 2 Điều 36 Luật Đấu thầu. Tổng giá trị của phần này không được vượt tổng
mức đầu tư của dự án hoặc dự toán mua sắm được phê duyệt.
* Tài liệu kèm theo văn bản trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu. Trình duyệt
kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải gửi kèm theo bản chụp các tài liệu làm căn cứ lập
kế hoạch lựa chọn nhà thầu theo quy định tại Điều 34 của Luật Đấu thầu [16].
2.1.3.5 Thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
Thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu là việc tiến hành kiểm tra, đánh giá các
nội dung theo quy định của pháp luật. Thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu đúng
đảm bảo việc thực hiện đấu thầu đúng tiến độ, đúng pháp luật và bảo vệ được quyền
lợi của ác nhà đầu tư.
Việc thẩm định lựa chọn nhà thầu được thực hiện bởi một tổ chức có thẩm
quyền. Tổ chức thẩm định phải lập báo cáo thẩm định trình người đứng đầu chủ đầu
tư hoặc người đứng đầu đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị phê duyệt kế hoạch lựa
chọn nhà thầu với trường hợp trước khi có quyết định phê duyệt.
Việc phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu cần căn cứ vào báo cáo thẩm định
của tổ chức thẩm định. Sự phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu bằng văn bản do
người có thẩm quyền phê duyệt. Việc phê chuẩn kế hoạch lựa chọn nhà thầu là cơ
sở sau khi dự án, dự toán mua sắm được phê duyệt hoặc đồng thời với quyết định
phê duyệt dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp đủ điều kiện [16].
Căn cứ vào báo cáo thẩm định, người đứng đầu chủ đầu tư hoặc người đứng đầu
đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
38
đối với gói thầu cần được thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt dự án của
người có thẩm quyền.
Lựa chọn nhà thầu được tiến hành theo một quy trình nhất định. Quy trình được
áp dụng đối với các gói thầu đấu thầu hạn chế, đấu thầu rộng rãi có những điểm
khác với chỉ định thầu và tuân theo trình tự các bước khác nhau:
* Đối với lựa chọn nhà thầu với đấu thầu hạn chế, đấu thầu rộng rãi, gồm:
- Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu;
- Tổ chức lựa chọn nhà thầu
- Đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng
- Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu
- Hoàn thiện, ký kết hợp đồng [16]
* Lựa chọn nhà thầu trong chỉ định thầu được áp dụng trong hai trường hợp,
theo quy trình thông trình thông thường hoặc rút gọn.
- Đối với chỉ định thầu theo quy trình thông thường bao gồm các bước cơ bản
như: chuẩn bị, tổ chức lựa chọn nhà thầu, đánh giá hồ sơ đề xuất và thương thảo về
các đề xuất của nhà thầu,…
- Đối với chỉ định thầu theo quy trình rút gọn bao gồm các bước như: chuẩn bị
và gửi dự thảo hợp đồng cho nhà thầu, thương thảo, hoàn thiện hợp đồng, trình, phê
duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng.
Cũng cần lưu ý rằng, đối với quy trình lựa chọn nhà thầu đối với chào hàng cạnh
tranh hoặc lựa chọn nhà thầu đối với mua sắm trực tiếp, lựa chọn nhà thầu tư vấn
được thực hiện theo các bước khác nhau, phụ thuộc các gói thầu và bản chất pháp lý
của các hình thức đấu thầu.
2.1.4. Thực trạng các quy định pháp luật về phương pháp đánh giá hồ sơ
dự thầu, hồ sơ yêu cầu trong đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ
Điều 39, khoản 2, Luật đấu thầu 2013 quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu
(HSDT) và hồ sơ yêu cầu (HSYC) căn cứ vào các tiêu chuẩn, như: tiêu chuẩn đánh
giá về năng lực, kinh nghiệm, tiêu chuẩn về kỹ thuật.
Thứ nhất, tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm
39
Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm theo hai tiêu chí: đạt và
không đạt. Lưu ý, trong đó phải quy định mức yêu cầu tối thiểu để đánh giá là đạt
đối với từng nội dung về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu. Cụ thể như sau:
- Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu tương tự; kinh nghiệm hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính có liên quan đến việc thực hiện gói thầu;
- Năng lực sản xuất và kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ cán bộ
chuyên môn có liên quan đến việc thực hiện gói thầu;
- Năng lực tài chính: Tổng tài sản, tổng nợ phải trả, tài sản ngắn hạn, nợ ngắn
hạn, doanh thu, lợi nhuận, giá trị hợp đồng đang thực hiện dở dang và các chỉ tiêu
cần thiết khác để đánh giá năng lực về tài chính của nhà thầu.
Việc xác định mức độ yêu cầu cụ thể đối với từng tiêu chuẩn cần căn cứ theo
yêu cầu của từng gói thầu cụ thể. Nhà thầu đáp ứng yêu cầu về năng lực và kinh
nghiệm khi đạt tất cả nội dung theo quy định về tiêu chuẩn đánh giá.
Thứ hai, tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật
Tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật sử dụng theo tiêu chí đạt hoặc chấm điểm.
Thang điểm chấm là 100 hoặc 1.000 để xây dựng tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật,
trong đó phải quy định mức điểm tối thiểu và mức điểm tối đa đạt được đối với từng
tiêu chuẩn tổng quát, tiêu chuẩn chi tiết khi sử dụng phương pháp chấm điểm. Việc
xây dựng tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật dựa trên các yếu tố về khả năng đáp ứng
các yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời hạn giao hàng, vận chuyển, lắp đặt, bảo
hành, uy tín của nhà thầu thông qua việc thực hiện các hợp đồng tương tự trước đó
và các yêu cầu khác nêu trong hồ sơ mời thầu.
Căn cứ vào từng gói thầu cụ thể, khi lập hồ sơ mời thầu:
Thứ nhất, phải cụ thể hóa các tiêu chí làm cơ sở để đánh giá về kỹ thuật bao gồm:
-Đặc tính, thông số kỹ thuật của hàng hóa, tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn chế
tạo và công nghệ;
- Tính hợp lý và hiệu quả kinh tế của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức
cung cấp, lắp đặt hàng hóa;
- Mức độ đáp ứng các yêu cầu về bảo hành, bảo trì;
- Khả năng thích ứng về mặt địa lý, môi trường;
40
- Tác động đối với môi trường và biện pháp giải quyết;
- Khả năng cung cấp tài chính (nếu có yêu cầu);
- Các yếu tố về điều kiện thương mại, thời gian thực hiện, đào tạo chuyển giao
công nghệ;
- Tiến độ cung cấp hàng hóa;
- Uy tín của nhà thầu thông qua việc thực hiện các hợp đồng tương tự trước đó;
- Các yếu tố cần thiết khác.
- Xác định giá thấp nhất (đối với trường hợp áp dụng phương pháp giá thấp
nhất):
- Xác định giá dự thầu;
- Sửa lỗi;
- Hiệu chỉnh sai lệch;
- Trừ giá trị giảm giá (nếu có);
- Chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung (nếu có);
- Xác định giá trị ưu đãi (nếu có);
- So sánh giữa các hồ sơ dự thầu để xác định giá thấp nhất.
- Tiêu chuẩn xác định giá đánh giá (đối với trường hợp áp dụng phương pháp
giá đánh giá):
Công thức xác định giá đánh giá: GĐG = G ± ∆G + ∆ƯĐ, trong đó:
- G = (giá dự thầu ± giá trị sửa lỗi ± giá trị hiệu chỉnh sai lệch) - giá trị giảm
giá (nếu có);
- ∆G là giá trị các yếu tố được quy về một mặt bằng cho cả vòng đời sử dụng
của hàng hóa bao gồm: Chi phí vận hành, bảo dưỡng; + Chi phí lãi vay (nếu có);
Tiến độ; Chất lượng (hiệu suất, công suất); Xuất xứ; Các yếu tố khác (nếu có).
- ∆ƯĐ là giá trị phải cộng thêm đối với đối tượng không được hưởng ưu đãi
theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 5 của Nghị định 63/2014/NĐ-CP [25].
Việc đánh giá HSDT, HSYC phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định để
đảm bảo việc đánh giá hồ sơ khách quan, trung thực và hiệu quả. Ví dụ, việc đánh
giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT, các yêu cầu, các tài
liệu, tính thống nhất giữa bản gốc và bản chụp của tài liệu, các giải pháp,….Cũng
41
cần lưu ý, trong trường hợp có sự sai khác giữa bản gốc và bản chụp dẫn đến kết
quả đánh giá trên bản gốc khác kết quả đánh giá trên bản chụp, làm thay đổi thứ tự
xếp hạng nhà thầu thì hồ sơ dự thầu của nhà thầu bị loại [25].
Thứ hai, làm rõ hồ sơ dự thầu, hồ sơ yêu cầu
Sau khi mở thầu, trách nhiệm làm rõ hồ sơ thuộc nhà thầu trên cơ sở yêu cầu
bên mời thầu. Trường hợp hồ sơ bị thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng
lực và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để
chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất
về kỹ thuật, tài chính nêu trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo
đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp,
không thay đổi giá dự thầu.
- Trường hợp sau khi đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện hồ sơ dự thầu thiếu
các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu được
phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm của mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của
nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp lệ, năng
lực và kinh nghiệm được coi như một phần của hồ sơ dự thầu.
Việc làm rõ hồ sơ dự thầu chỉ được thực hiện giữa bên mời thầu và nhà thầu có
hồ sơ dự thầu cần phải làm rõ và phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi bản
chất của nhà thầu tham dự thầu. Nội dung làm rõ hồ sơ dự thầu phải thể hiện bằng
văn bản và được bên mời thầu bảo quản như một phần của hồ sơ dự thầu [16].
Bên cạnh đó, trong trường hợp phát hiện thấy có lỗi về số học hoặc các lỗi khác
trong hồ sơ thì cần phải được sửa lỗi. Việc sửa lỗi tuân theo các nguyên tắc, như:
- Lỗi số học bao gồm những lỗi do thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân,
chia không chính xác khi tính toán giá dự thầu. Trường hợp hồ sơ mời thầu có yêu
cầu phải phân tích đơn giá chi tiết thì phải lấy số liệu trong bảng phân tích đơn giá
dự thầu chi tiết làm cơ sở cho việc sửa lỗi số học. Trường hợp không nhất quán giữa
đơn giá và thành tiền thì lấy đơn giá làm cơ sở cho việc sửa lỗi; nếu phát hiện đơn
giá có sự sai khác bất thường do lỗi hệ thập phân (10 lần, 100 lần, 1.000 lần) thì
thành tiền là cơ sở cho việc sửa lỗi;
42
- Các lỗi khác: tại cột thành tiền đã được điền đầy đủ giá trị nhưng không có
đơn giá tương ứng thi đơn giá được xác định bổ sung bằng cách chia thành tiền cho
số lượng; khi có đơn giá nhưng cột thành tiền bỏ trống thì giá trị cột thành tiền sẽ
được xác định bổ sung bằng cách nhân số lượng với đơn giá; nếu một nội dung nào
đó có điền đơn giá và giá trị tại cột thành tiền nhưng bỏ trống số lượng thì số lượng
bỏ trống được xác định bổ sung bằng cách chia giá trị tại cột thành tiền cho đơn giá
của nội dung đó. Trường hợp số lượng được xác định bổ sung nêu trên khác với số
lượng nêu trong hồ sơ mời thầu thì giá trị sai khác đó là sai lệch về phạm vi cung
cấp và được hiệu chỉnh theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Nghị định số
63/2014/NĐ-CP [25].
Thứ ba, Đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ yêu cầu
Việc đánh giá HSDT, HSYC cần phải tuân thủ các nội dung sau:
- Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ. Vấn đề kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ gồm
một số nội dung, như: Kiểm tra số lượng bản gốc, bản chụp hồ sơ dự thầu; Kiểm tra
các thành phần của hồ sơ dự thầu, Kiểm tra sự thống nhất nội dung giữa bản gốc và
bản chụp để phục vụ quá trình đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu [25],.. Đánh giá hồ sơ
có hợp lệ hay không thì hồ sơ phải đáp ứng đầy đủ các nội dung, như: Có bản gốc
hồ sơ dự thầu; Có đơn dự thầu được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký tên, đóng
dấu (nếu có) theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu; thời gian thực hiện gói thầu nêu trong
đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật; giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu
phải cụ thể, cố định bằng số, bằng chữ và phải phù hợp, logic với tổng giá dự thầu
ghi trong biểu giá tổng hợp, không đề xuất các giá dự thầu khác nhau hoặc có kèm
theo điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu. Đối với nhà thầu liên danh,
đơn dự thầu phải do đại diện hợp pháp của từng thành viên liên danh ký tên, đóng
dấu (nếu có) hoặc thành viên đứng đầu liên danh thay mặt liên danh ký đơn dự thầu
theo phân công trách nhiệm trong văn bản thỏa thuận liên danh; Hiệu lực của hồ sơ
dự thầu đáp ứng yêu cầu theo quy định trong hồ sơ mời thầu;….[25].
43
2.1.5. Thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng với nhà thầu trong
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Hợp đồng là văn bản thỏa thuận giữa chủ đầu tư với nhà thầu được lựa chọn
trong thực hiện gói thầu thuộc dự án; giữa bên mời thầu với nhà thầu được lựa chọn
trong mua sắm thường xuyên; giữa đơn vị mua sắm tập trung hoặc giữa đơn vị có
nhu cầu mua sắm với nhà thầu được lựa chọn trong mua sắm tập trung; giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư được lựa chọn hoặc giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với nhà đầu tư được lựa chọn và doanh nghiệp dự án trong lựa
chọn nhà đầu tư [16].
Hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu phải tuân thủ theo Mẫu hợp
đồng quy định trong Hồ sơ mời thầu, Hồ sơ yêu cầu. Chủ đầu tư căn cứ quy mô,
tính chất của gói thầu có thể bổ sung các điều, khoản liên quan trong hợp đồng theo
quy định của pháp luật chuyên ngành nhưng phải đảm bảo tính logic, thống nhất và
chặt chẽ của toàn bộ hợp đồng, tránh làm hạn chế quyền nhà thầu.
Về điều kiện giao kết hợp đồng, Điều 64, Luật đấu thầu 2013 có quy định:
- Tại thời điểm ký kết, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất của nhà thầu được lựa
chọn còn hiệu lực.
- Tại thời điểm ký kết, nhà thầu được lựa chọn phải bảo đảm đáp ứng yêu cầu
về năng lực kỹ thuật, tài chính để thực hiện gói thầu. Trường hợp cần thiết, chủ đầu
tư đối với dự án, bên mời thầu đối với mua sắm thường xuyên, đơn vị mua sắm tập
trung hoặc đơn vị có nhu cầu mua sắm đối với mua sắm tập trung tiến hành xác
minh thông tin về năng lực của nhà thầu, nếu vẫn đáp ứng yêu cầu thực hiện gói
thầu thì mới tiến hành ký kết hợp đồng.
Về nguyên tắc, chủ đầu tư và nhà thầu có thể lựa chọn các loại hợp đồng cụ
thể sau: (i) trọn gói; (ii) theo đơn giá cố định; (iii) theo đơn giá điều chỉnh (khoản 1,
2 và 3 Điều 62 Luật đấu thầu 2013).
Điểu 65 Luật đấu thầu 2013 có quy định các yêu cầu về trình tự, thủ tục, nội
dung và hình thức của hợp đồng với nhà thầu như sau:
-Sau khi lựa chọn được nhà thầu, chủ đầu tư đối với dự án, bên mời thầu đối
với mua sắm thường xuyên, đơn vị mua sắm tập trung hoặc đơn vị có nhu cầu mua
44
sắm đối với mua sắm tập trung và nhà thầu được lựa chọn phải tiến hành ký kết hợp
đồng thực hiện gói thầu. Đối với nhà thầu liên danh, tất cả thành viên tham gia liên
danh phải trực tiếp ký, đóng dấu (nếu có) vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng ký kết
giữa các bên phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan;
- Một gói thầu có thể được thực hiện theo một hoặc nhiều hợp đồng; trong
một hợp đồng có thể áp dụng một hoặc nhiều loại hợp đồng quy định tại Điều 62
của Luật đấu thầu 2013. Trường hợp áp dụng nhiều loại hợp đồng thì phải quy định
rõ loại hợp đồng tương ứng với từng nội dung công việc cụ thể;
- Hợp đồng được ký kết giữa các bên phải phù hợp với nội dung trong hồ sơ
mời thầu, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, kết quả thương thảo hợp
đồng, quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu;
- Giá hợp đồng không được vượt giá trúng thầu. Trường hợp bổ sung khối
lượng công việc ngoài hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu dẫn đến giá hợp đồng vượt giá
trúng thầu thì phải bảo đảm giá hợp đồng không được vượt giá gói thầu hoặc dự
toán được phê duyệt; nếu dự án, dự toán mua sắm gồm nhiều gói thầu, tổng giá hợp
đồng phải bảo đảm không vượt tổng mức đầu tư, dự toán mua sắm được phê duyệt.
- Theo Điều 63 của Luật đấu thầu 2013, hồ sơ hợp đồng bao gồm nhưng
không hạn chế bởi các văn bản sau đây: (i) Văn bản hợp đồng; (ii) Phụ lục hợp
đồng gồm danh mục chi tiết về phạm vi công việc, biểu giá, tiến độ thực hiện (nếu
có); (iii) Quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.Tùy theo quy mô, tính
chất của gói thầu, hồ sơ hợp đồng có thể bao gồm một hoặc một số tài liệu sau đây:
- Biên bản hoàn thiện hợp đồng; (ii) Văn bản thỏa thuận của các bên về điều
kiện của hợp đồng, bao gồm điều kiện chung, điều kiện cụ thể; (iii) Hồ sơ dự thầu,
hồ sơ đề xuất và các tài liệu làm rõ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất của nhà thầu được
lựa chọn; (iv) Hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và các tài liệu sửa đổi, bổ sung hồ sơ
mời thầu, hồ sơ yêu cầu; (v) Các tài liệu có liên quan (nếu có) [11, tr 37].
Để tăng cường sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong năm
2015, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khởi động
thực hiện sáng kiến công khai hóa các hợp đồng đấu thầu, đồng thời với việc nghiên
45
cứu, xây dựng hệ thống giám sát, đánh giá về đấu thầu. Trên những kết quả nhất
định đã đạt được trong việc thực thi Luật đấu thầu mới trong thời gian vừa qua bằng
những chủ trương đường lối chính sách cụ thể và các văn bản pháp luật hiện hành
hoạt động đấu thầu sẽ ngày càng được thực hiện minh bạch, cạnh tranh và đem lại
hiệu quả cao hơn cho nền kinh tế.
2.1.6. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm, kiến nghị và
giải quyết tranh chấp trong đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ
2.1.6.1. Quy định của pháp luật về hành vi bị cấm, kiến nghị và giải quyết
kiến nghị
Thứ nhất, các hành vi bị cấm trong đấu thầu.
- Đưa, nhận, môi giới hối lộ.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn để can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động đấu thầu.
- Thông thầu, bao gồm các hành vi, như: Thỏa thuận về việc rút khỏi việc dự
thầu hoặc rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên tham gia thỏa
thuận thắng thầu; Thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các
bên tham dự thầu để một bên thắng thầu; Thỏa thuận về việc từ chối cung cấp hàng
hóa, không ký hợp đồng thầu phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác cho các
bên không tham gia thỏa thuận.
- Gian lận, bao gồm các hành vi, như: trình bày sai một cách cố ý hoặc làm
sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu của một bên trong đấu thầu nhằm thu được lợi ích
tài chính hoặc lợi ích khác hoặc nhằm trốn tránh bất kỳ một nghĩa vụ nào; cá nhân
trực tiếp đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất,
thẩm định kết quả lựa chọn danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
cố ý báo cáo sai hoặc cung cấp thông tin không trung thực làm sai lệch kết quả lựa
chọn nhà thầu, nhà đầu tư; Nhà thầu, nhà đầu tư cố ý cung cấp các thông tin không
trung thực trong hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất
làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
- Cản trở, bao gồm các hành vi, gồm: Hủy hoại, lừa dối, thay đổi, che giấu
chứng cứ hoặc báo cáo sai sự thật; đe dọa, quấy rối hoặc gợi ý đối với bất kỳ bên
46
nào nhằm ngăn chặn việc làm rõ hành vi đưa, nhận, môi giới hối lộ, gian lận hoặc
thông đồng đối với cơ quan có chức năng, thẩm quyền về giám sát, kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán; Các hành vi cản trở đối với nhà thầu, nhà đầu tư, cơ quan có thẩm
quyền về giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
- Không bảo đảm công bằng, minh bạch, bao gồm các hành vi, như: Tham dự
thầu với tư cách là nhà thầu, nhà đầu tư đối với gói thầu, dự án do mình làm bên
mời thầu, chủ đầu tư hoặc thực hiện các nhiệm vụ của bên mời thầu, chủ đầu tư;
Tham gia lập, đồng thời tham gia thẩm định hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ
tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu đối với cùng một gói thầu, dự án; Tham gia
đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất đồng thời tham gia thẩm định kết quả lựa
chọn nhà thầu, nhà đầu tư đối với cùng một gói thầu, dự án; Là cá nhân thuộc bên
mời thầu, chủ đầu tư nhưng trực tiếp tham gia quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu
tư hoặc tham gia tổ chuyên gia, tổ thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
hoặc là người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu
đối với các gói thầu, dự án do cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, vợ hoặc
chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em một đứng tên dự thầu hoặc là
người đại diện theo pháp luật của nhà thầu, nhà đầu tư tham dự thầu; Nhà thầu tham
dự thầu gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp do mình cung cấp dịch vụ tư vấn trước
đó; Đứng tên tham dự thầu gói thầu thuộc dự án do chủ đầu tư, bên mời thầu là cơ
quan, tổ chức nơi mình đã công tác trong thời hạn 12 tháng, kể từ khi thôi việc tại
cơ quan, tổ chức đó;,…..
- Tiết lộ, tiếp nhận những tài liệu, thông tin về quá trình lựa chọn nhà thầu,
nhà đầu tư (trừ trường hợp, như: Nội dung hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển,
hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu trước thời điểm phát hành theo quy định; Nội dung
hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, sổ tay ghi chép,
biên bản cuộc họp xét thầu, các ý kiến nhận xét, đánh giá đối với từng hồ sơ quan
tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trước khi công khai danh sách
ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư;,….
- Chuyển nhượng thầu, bao gồm các hành vi sau: Nhà thầu chuyển nhượng
cho nhà thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới
47
10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà
thầu phụ) tính trên giá hợp đồng đã ký kết; Chủ đầu tư, tư vấn giám sát chấp thuận
để nhà thầu chuyển nhượng công việc thuộc trách nhiệm thực hiện của nhà thầu, trừ
phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê khai trong hợp đồng.
- Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định
dẫn tới tình trạng nợ đọng vốn của nhà thầu [16].
Thứ hai, Kiến nghị, giải quyết kiến nghị.
Khi phát hiện thấy các hành vi vi phạm trong hoạt động đấu thầu, đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, các nhà thầu, các
nhà đầu tư thực hiện quyền kiến nghị của mình lên người có thẩm quyền giải quyết.
Việc kiến nghị nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia đấu thầu và
đảm bảo hoạt động đấu thầu khách quan, hiệu quả và đúng pháp luật. Kiến nghị là
việc nhà thầu, nhà đầu tư tham dự thầu đề nghị xem xét lại kết quả lựa chọn nhà
thầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư và những vấn đề liên quan đến quá trình lựa chọn
nhà thầu, nhà đầu tư khi thấy quyền, lợi ích của mình bị ảnh hưởng [16].
Việc kiến nghị của các nhà thầu, nhà đầu tư được thực hiện theo các nội dung sau:
- Kiến nghị với bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền về các vấn đề
trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; về kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu
tư theo quy trình giải quyết kiến nghị quy định tại Điều 92 của Luật Đấu thầu;
- Khởi kiện ra Tòa án vào bất kỳ thời gian nào, kể cả đang trong quá trình
giải quyết kiến nghị hoặc sau khi đã có kết quả giải quyết kiến nghị.
Cần lưu ý rằng: Nhà thầu, nhà đầu tư đã khởi kiện ra Tòa án thì không gửi
kiến nghị đến bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền. Trường hợp đang
trong quá trình giải quyết kiến nghị mà nhà thầu, nhà đầu tư khởi kiện ra Tòa án thì
việc giải quyết kiến nghị được chấm dứt ngay [16].
Khi nhận được các kiến nghị, tùy thuộc vào nội dung kiến nghị, việc giải
quyết các kiến nghị tuân thủ theo những trình tự nhất định. Ví dụ: việc giải quyết
kiến nghị về kết quả lựa chọn nhà đầu tư thực hiện như sau:
- Nhà đầu tư gửi văn bản kiến nghị đến bên mời thầu từ khi xảy ra sự việc
đến trước khi có thông báo kết quả lựa chọn nhà đầu tư;
48
- Bên mời thầu phải có văn bản giải quyết kiến nghị gửi đến nhà đầu tư trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của nhà đầu tư;
- Trường hợp bên mời thầu không có văn bản giải quyết kiến nghị hoặc nhà
đầu tư không đồng ý với kết quả giải quyết kiến nghị thì nhà đầu tư có quyền gửi văn
bản kiến nghị đến người có thẩm quyền trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết
hạn trả lời hoặc ngày nhận được văn bản giải quyết kiến nghị của bên mời thầu;
- Người có thẩm quyền phải có văn bản giải quyết kiến nghị gửi đến nhà đầu
tư trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của nhà
đầu tư [16].
2.1.6.2. Xử lý vi phạm trong đấu thầu
Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về đấu thầu và quy định khác của pháp
luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp hành vi vi phạm
pháp luật về đấu thầu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Ngoài việc bị xử lý theo quy định tại khoản 1 của Điều 90 Luật Đấu thầu
2013, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về
đấu thầu còn bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu và đưa vào danh sách các nhà thầu
vi phạm trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia [16].
Thẩm quyền cấm tham gia hoạt động đấu thầu được quy định như sau:
- Người có thẩm quyền ban hành quyết định cấm tham gia hoạt động đấu
thầu đối với các dự án, dự toán mua sắm trong phạm vi quản lý của mình; trường
hợp vi phạm nghiêm trọng thì đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành quyết
định cấm tham gia hoạt động đấu thầu trong phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa
phương hoặc đề nghị Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành quyết định cấm
tham gia hoạt động đấu thầu trên phạm vi cả nước;
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ban hành quyết định cấm tham gia hoạt động đấu
thầu trong phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương mình đối với những trường
hợp do người có thẩm quyền đề nghị theo quy định tại điểm a khoản này;
49
- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành quyết định cấm tham gia hoạt
động đấu thầu trên phạm vi cả nước đối với những trường hợp do người có thẩm
quyền đề nghị theo quy định tại điểm a khoản này.
Việc xử lý vi phạm được thực hiện công khai, gồm:
- Quyết định xử lý vi phạm phải được gửi cho tổ chức, cá nhân bị xử lý và
các cơ quan, tổ chức liên quan, đồng thời phải được gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư
để theo dõi, tổng hợp;
- Quyết định xử lý vi phạm phải được đăng tải trên Báo đấu thầu, hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia [16].
2.1.6.3. Giải quyết tranh chấp trong đấu thầu
Việc giải quyết tranh chấp trong đấu thầu tại Tòa án được thực hiện theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự. Khi khởi kiện, các bên có quyền yêu cầu Tòa
án tạm dừng ngay việc đóng thầu; phê duyệt danh sách ngắn; phê duyệt kết quả lựa
chọn nhà thầu, nhà đầu tư; ký kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng và các biện pháp
khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của pháp luật [16].
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu trong mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
2.2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, về lựa chọn nhà thầu
Kết quả lựa chọn nhà thầu năm 2017 và 2018 (triệu đồng)
683.599.878
Tổng giá gói thầu
559,156,753
Tổng giá trúng thầu
Chênh lệch
647.676.143
520,119,942
35.923.735
39,036,811
Năm 2017
Năm 2018
50
Năm 2018, cả nước có tổng số 249.622 gói thực hiện theo Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13 (sau đây gọi là Luật Đấu thầu) (tăng 1,13% so với năm 2017), với
tổng giá gói thầu là 683.599,878 tỷ đồng (tăng 1,22% so với năm 2017) và tổng giá
trúng thầu là 647.676,143 tỷ đồng (tăng 1,28% so với năm 2017), chênh lệch giữa
tổng giá gói thầu và tổng giá trúng thầu (giá trị tiết kiệm) là 35.923,735 tỷ đồng, tỷ
lệ tiết kiệm là 5,26% thấp hơn so với tỷ lệ tiết kiệm năm 2017 (6,98%) [1].
Năm 2018 có 180.142 gói thầu sử dụng vốn nhà nước cho mục tiêu đầu tư
phát triển (chưa bao gồm các gói thầu sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của
nhà tài trợ) được thực hiện, tổng giá gói thầu là 369.413,577 tỷ động (chiếm tỷ lệ
54,04% về giá trị của tất cả các lĩnh vực) và tổng giá trúng thầu là 354.491,515 tỷ
đồng, tỷ lệ tiết kiệm đạt 4,04%, thấp hơn so với năm 2017 (5,14%), trong đó, lĩnh
vực hàng hóa (13.307 gói thầu) đứng thứ 2 về tổng giá gói thầu (65.636,033 tỷ
đồng, chiếm 17,76%) và tổng giá trúng thầu (60.822,078 tỷ đồng, chiếm 17,15%)
đồng thời có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất (7,33%, tương đương 4.813,955 tỷ đồng).
Giảm cả về số lượng gói thầu, tổng giá gói thầu và tỷ lệ tiết kiệm so với năm 2017
(14.939 gói thầu, 82.130,634 tỷ đồng, tỷ lệ tiết kiệm 9,75%) [1].
Đối với hình thức lựa chọn nhà thầu (không bao gồm các gói thầu sử dụng
nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ), Đấu thầu rộng rãi có 38.193 gói
thầu (chiếm 15,3%) là hình thức lựa chọn nhà thầu có tổng giá gói thầu
(563.345,446 tỷ đồng, chiếm 82,4%) và tổng giá trúng thầu (531.360,603 tỷ đồng,
chiếm 82,04%) cao nhất, tỷ lệ tiết kiệm đạt 31.984,843 tỷ đồng tương đương 5,68%.
Trong khi đó, chào hàng cạnh tranh đứng thứ 3 cả về tổng số gói thầu (24.517 gói
thầu, chiếm 9,82%), tổng giá gói thầu (29.455,912 tỷ đồng, chiếm 4,3%) và tổng giá
trúng thầu (28.447,866 tỷ đồng, chiếm 4,39%), tỷ lệ tiết kiệm (3,42%) tăng nhẹ so
với năm 2017 (3,36%). Tự thực hiện có tổng giá gói thầu (4.199,521 tỷ đồng, chiếm
0,61%) và tổng giá trúng thầu (3.954,399 tỷ đồng, chiếm 0,61%) thấp nhất nhưng có tỷ
lệ tiết kiệm cao nhất (5,84%, tương đương 245,122 tỷ đồng), và tăng so với năm 2017
(4,68%).
Đối với Dự án sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ cho
mục tiêu đầu tư phát triển, trong năm 2018 có 13.108 gói thầu sử dụng nguồn vốn
51
ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ cho mục tiêu đầu tư phát triển được thực hiện
(tổng giá trị gói thầu là 45.741,274 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,69% về giá trị trên tất cả
các lĩnh vực đấu thầu) Các gói thầu này có tỷ lệ tiết kiệm khá cao (12,59%) so với
mặt bằng chung và số lượng gói thầu tăng gấp 4 lần so với năm 2017 (3.167 gói
thầu), trong đó, lĩnh vực hàng hóa có 2.453 gói thầu tăng gần 5 lần so với năm 2017
(490 gói thầu), chiếm 18,71% nhưng đứng thứ 2 về tổng giá gói thầu (13.789,924 tỷ
đồng, chiếm 30,14%) và tổng giá trúng thầu (12.430,831 tỷ đồng, chiếm 31,09%)
và có tỷ lệ tiết kiệm đạt 9,86% [1].
Thứ hai, về lựa chọn nhà đầu tư
Năm 2018, trên cả nước có tổng số 434 dự án (90 dự án PPP và 344 dự án
đầu tư có sử dụng đất). Việc thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất được triển khai
khá phổ biến trên phạm vi cả nước. Trong năm 2018, có 27 địa phương thực hiện
344 dự án đầu tư có sử dụng đất, trong đó tập trung chủ yếu ở các địa phương như
Quảng Ninh (48 dự án), Hải Dương (39 dự án), Thanh Hóa (33 dự án), Bắc Ninh
(30 dự án), Hà Nam (30 dự án).
Đối với dự án PPP, số lượng dự án được triển khai thực hiện tăng 37 dự án
so với năm 2017, số địa phương triển khai thực hiện dự án PPP cũng tăng từ 15 đơn
vị (năm 2017) lên 24 đơn vị (năm 2018). Số lượng dự án PPP được triển khai thực
hiện chủ yếu tập trung ở các tỉnh như Quảng Ninh (11 dự án), Bắc Ninh (9 dự án),
Nghệ An (8 dự án), An Giang (7 dự án), Bắc Giang (7 dự án), Thanh Hóa (7 dự án).
Theo tiến độ thực hiện dự án: Trong tổng số 90 dự án thực hiện năm 2018, số dự án
đã ký kết hợp đồng là 34 dự án, số dự án đã lựa chọn được nhà đầu tư là 23 dự án,
số dự án đang trong giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư là 24 dự án và 9 dự án đã công
bố danh mục dự án (chưa tiến hành đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư). Theo lĩnh vực
đầu tư, trong số 90 dự án PPP nêu trên, có 44 dự án thuộc lĩnh vực giao thông
(chiếm 49%), 7 dự án thuộc lĩnh vực cung cấp nước sạch (chiếm 8%), 5 dự án thuộc
lĩnh vực hạ tầng đô thị (chiếm 5%), 5 dự án thuộc lĩnh vực giáo dục (chiếm 5%),
còn lại là lĩnh vực khác (văn hóa, y tế, du lịch…) [1].
Để có được những kết quả trên là do tác động của nhiều yếu tố. Có những
yếu tố mang tính chủ quan, có yếu tố mang tính khách quan. Đặc biệt, công tác phổ
52
biến, quán triệt việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư tiếp tục được tăng cường. Ngày 03/01/2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
trình Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 30/2015/NĐ-CP (tại tờ
trình số 52/TTr-BKHĐT). Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 30/2015/NĐ-
CP được 26/26 thành viên Chính phủ thống nhất ban hành, được các Bộ thảo luận
tại 06 cuộc họp do Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng chủ trì (30/6/2017,
15/11/2017, 14/3/2018, 24/5/2018, 13/6/2018, 09/8/2018). Gần đây nhất, dự thảo
Nghị định trên đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện và trình ban hành tại văn
bản số 2683/BKHĐT-QLĐT ngày 25/4/2019 [1]. Ngoài ra, trong năm 2018, thực
hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành nghiên cứu xây dựng
dự thảo Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư, trong đó bao gồm các quy định
về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư các dự án đối tác công tư. Bên cạnh đó, công tác
phổ biến văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, một số địa phương đã tích
cực, chủ động thực hiện công tác phổ biến, quán triệt việc thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Việc phổ biến, quán triệt thực hiện
pháp luật về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện thông qua các cuộc hội
nghị, hội thảo phổ biến và góp ý văn bản quy phạm pháp luật, các khóa đào tạo về
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Một số đơn vị chưa có điều kiện tổ chức hội nghị, hội
thảo đã lồng ghép nội dung này vào các cuộc họp giao ban, cuộc họp về đầu tư xây
dựng hay các buổi hội nghị trực tuyến ở địa phương như tỉnh Sơn La, Kon Tum...
Ngoài ra, các địa phương cũng tích cực cử các cán bộ tham gia các khóa đào tạo về
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu nhằm tăng cường năng lực
và kiến thức về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cho cán bộ.
2.2.2. Những hạn chế, bất cập
Thứ nhất, Sự thiếu đồng bộ, thống nhất giữa chính sách của một số ngành,
lĩnh vực với pháp luật đấu thầu
Đến nay vẫn còn một số ngành, lĩnh vực còn có quy định chồng chéo, chưa
thống nhất với pháp luật về đấu thầu. Cụ thể như: trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây
dựng, Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ vẫn còn quy
53
định về việc giao thầu trong khi Luật Đấu thầu đã quy định chỉ có 08 hình thức lựa
chọn nhà thầu, trong đó không có hình thức lựa chọn nhà thầu nêu trên; Hoặc Luật
quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 và Nghị định số 37/2010/NĐ-CP ngày
07/4/2010 quy định việc lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị thông qua
hình thức chỉ định thầu hoặc Quyết định số 73/2010/QĐ-TTg ngày 16/11/2010 có
quy định về một số các công trình, hạng mục công trình lâm sinh được áp dụng hình
thức chỉ định thầu là chưa phù hợp với các trường hợp được chỉ định thầu quy định
tại khoản 1 Điều 22 của Luật Đấu thầu và Điều 54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP
của Chính phủ.
Thứ hai, xung đột pháp luật giữa luật Đấu thầu và các văn bản pháp luật
liên quan.
Hiện nay, những vướng mắc giữa pháp luật đấu thầu và xây dựng đã ảnh
hưởng tới hoạt động đấu thầu. Theo quy định của pháp luật về đấu thầu, hồ sơ thiết
kế kỹ thuật được chủ đầu tư phê duyệt là một trong các cơ sở quan trọng để xây
dựng HSMT. Tuy nhiên, trên thực tế hồ sơ thiết kế các hệ thống thiết bị được xây
dựng trên cơ sở chủng loại, đặc tính kỹ thuật của mã hiệu sản phẩm cụ thể. Vì vậy,
hồ sơ thiết kế sau khi đã được chủ đầu tư phê duyệt thì việc lập HSMT nếu đưa cụ
thể các yêu cầu kỹ thuật nêu trên có thể làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu;
trường hợp không đưa các yêu cầu kỹ thuật đã được phê duyệt thì không tuân thủ
đầy đủ pháp luật về đấu thầu; Về hợp đồng, các gói thầu xây lắp và tư vấn khi lập
HSMT đều theo mẫu quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó có mẫu hợp
đồng. Khi nhà thầu trúng thầu, các bên tiến hành kí hợp đồng phải theo mẫu đã
được duyệt tại HSMT. Tuy nhiên, trong hoạt động xây dựng, khi ký hợp đồng cũng
phải tuân thủ theo quy định tại Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng nên có sự khó
khăn trong việc áp dụng các loại mẫu hợp đồng chưa thống nhất.
Thứ ba, việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, điều hành công tác đấu
thầu còn yếu, chưa hiệu quả.
Hiện nay, việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, điều hành về công tác
đấu thầu tại nhiều Bộ, ngành, địa phương vẫn chỉ mang tính chất thông báo về việc
mới ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, chưa có những hướng
54
dẫn cụ thể, phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương mình. Điều này dẫn tới
tình trạng nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu vẫn chưa nắm chắc các quy định hoặc có
cách hiểu, áp dụng quy định pháp luật về đấu thầu chưa được rõ ràng, một số tình
huống phát sinh trong quá trình triển khai đấu thầu vẫn có những cách hiểu và áp
dụng khác nhau. Ví dụ như: Việc tính doanh thu của các đơn vị mới thành lập được
01 năm trong trường hợp HSMT yêu cầu doanh thu trung bình trong 03 năm; Việc
cộng dồn các hợp đồng tương tự có phải là quy định bắt buộc khi yêu cầu nhà thầu
có kinh nghiệm từ 02 hợp đồng trở lên... dẫn đến việc xây dựng hồ sơ mời thầu,
đánh giá lựa chọn nhà thầu chưa theo đúng quy định hiện hành [1].
Thứ tư, việc cung cấp thông tin và minh bạch hóa thông tin trong đấu thầu
mua sắm hàng hóa còn nhiều bất cập.
Trách nhiệm cung cấp thông tin cũng như cách thức thực hiện được quy định
rõ trong Thông tư số 06/2017/TT-BKHĐT ngày 05/12/2017 của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu, báo cáo tình hình hoạt
động đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên, qua quá trình triển khai vẫn còn
những tồn tại, hạn chế làm giảm tính cạnh tranh, minh bạch trong đấu thầu. Nhiều
chủ đầu tư/bên mời đăng tải chưa đúng loại gói thầu theo danh mục phân loại trên
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia làm hạn chế, gây khó khăn cho nhà thầu trong
việc tìm kiếm thông tin. Các gói thầu được phân loại theo lĩnh vực mua sắm hàng
hóa, xây lắp, tư vấn, hỗn hợp, dịch vụ phi tư vấn dựa trên tính chất công việc của
gói thầu. Tuy nhiên, bên mời thầu cố tình hoặc chưa hiểu đúng tính chất công việc
của gói thầu, dẫn đến đăng tải sai loại gói thầu như gói thầu tư vấn đăng vào danh
mục gói thầu dịch vụ phi tư vấn, gói thầu xây lắp đăng vào danh mục gói thầu mua
sắm hàng hóa… trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Thứ năm. Về công tác tổng hợp, báo cáo hoạt động đấu thầu.
Việc tổng hợp, báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu theo quy định
tại Thông tư số 06/2017/TT-BKHĐT. Theo quy định tại khoản 8 Điều 74, điểm k
khoản 2 Điều 75 và khoản 2 Điều 84 Luật Đấu thầu và khoản 13 Điều 129 Nghị
định số 63/2014/NĐ-CP, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải
có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu hàng năm. Tuy
55
nhiên, qua nhiều năm, việc thực hiện công tác báo cáo này vẫn chưa được đảm bảo.
Ví dụ, về tiến độ báo cáo, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 Thông tư số
06/2017/TT-BKHĐT, định kỳ hàng năm các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tập đoàn kinh tế
nhà nước, Tổng công ty 91 phải gửi báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu
đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 01/02 năm tiếp theo (báo cáo trực tiếp bằng
văn bản và thông qua Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia). Tuy nhiên, đến hạn
01/02/2019 chỉ có 19/120 đơn vị gửi báo cáo theo đúng yêu cầu và 61/120 đơn vị
đăng tải báo cáo trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Đến ngày 02/4/2019 sau 02
tháng kể từ ngày hết hạn báo cáo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới nhận được đầy đủ
báo cáo của các cơ quan [1].
Thứ sáu, Công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết kiến nghị, xử lý vi phạm
còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Nhìn chung, công tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư hầu
như chưa được thực hiện ở các Bộ, ngành, địa phương nên trong báo cáo của các
đơn vị đều không phản ánh nội dung này. Một phần nguyên nhân là công tác lựa
chọn nhà đầu tư tại các Bộ, ngành, địa phương chưa được triển khai rộng rãi hoặc
các cuộc thanh tra, kiểm tra về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được lồng ghép trong
các cuộc thanh tra, kiểm tra về quản lý thực hiện dự án đầu tư.
Thực tế cho thấy, hoạt động giải quyết kiến nghị và xử lý vi phạm chưa đạt
được kết quả mong muốn. Ví dụ, trong năm 2018, mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư
nhận được văn bản kiến nghị về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư của một số địa
phương nhưng theo tổng hợp thông tin trong báo cáo các đơn vị gửi về, chỉ có tỉnh
Lạng Sơn đã thực hiện xử lý 01 kiến nghị đối với kết quả sơ tuyển dự án Khu đô thị
mới Mai Pha. Do đó, việc kê khai thông tin về giải quyết kiến nghị và xử lý vi phạm
về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư vẫn chưa được thực hiện công khai, nghiêm túc.
2.2.3. Nguyên nhân của sự hạn chế, bất cập trong đấu thầu mua sắm hàng
hóa một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Những hạn chế, bất cập trong đấu thầu nói chung, đấu thầu mua sắm hàng
hóa một giai đoạn, hai túi hồ sơ nói riêng do nhiều nguyên nhân.
56
Một là, Ý thức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong hoạt
động đấu thầu.
Pháp luật về đấu thầu đã quy định cụ thể về việc phân cấp trách nhiệm trong
đấu thầu. Theo đó, lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương phải thực hiện đúng vai trò
của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động đấu thầu của cơ quan,
đơn vị do mình phụ trách. Mặc dù được giao thẩm quyền mạnh mẽ, song các cơ
quan quản lý nhà nước, đặc biệt là người có thẩm quyền chưa đảm bảo thực hiện
đầy đủ trách nhiệm tương xứng với thẩm quyền được giao. Việc buông lỏng quản
lý, thiếu quyết liệt trong kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm chính là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tồn tại của những tiêu cực và vi phạm trong
công tác đấu thầu.
Thực tế cho thấy mức độ diễn ra các hành vi tiêu cực nêu trên (đặc biệt là
tình trạng thông đồng trong đấu thầu) tại các Bộ, ngành, địa phương phụ thuộc vào
tính nghiêm túc, trách nhiệm trong thực thi pháp luật của người đứng đầu. Đối với
các cơ quan, đơn vị có sự chỉ đạo, lãnh đạo nghiêm túc trong công tác đấu thầu của
người đứng đầu thì hầu hết các hành vi tiêu cực được ngăn ngừa, hạn chế, các chủ
đầu tư, bên mời thầu đều chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thể
hiện ở: tiến độ, chất lượng báo cáo tình hình hoạt động đấu thầu, tỷ lệ gói thầu áp
dụng đấu thầu qua mạng cao và đặc biệt tỷ lệ tiết kiệm trong đấu thầu cao. Ngược
lại, tại một số Bộ, ngành, địa phương thiếu sự quản lý chặt chẽ, buông lỏng kiểm
soát, lãnh đạo thiếu quan tâm và trách nhiệm, hiệu quả công tác đấu thầu rất hạn
chế, xuất hiện nhiều tồn tại, tiêu cực, vi phạm.
Hai là, Năng lực, trình độ của chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu chưa
đáp ứng yêu cầu.
Đấu thầu là lĩnh vực chuyên môn sâu đòi hỏi người thực hiện bên cạnh năng
lực, trình độ, cần phải có đạo đức nghề nghiệp của chủ đầu tư, bên mời thầu và tư
vấn đấu thầu. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh đấu thầu qua mạng
đòi hỏi cán bộ làm công tác đấu thầu phải được đào tạo, nâng cao năng lực, kỹ năng
để vừa hiểu chuyên môn vừa có thể tiếp cận với khoa học công nghệ mới. Tuy
nhiên, năng lực của nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu chưa đáp ứng yêu cầu, số lượng
57
cán bộ làm công tác đấu thầu còn thiếu nhưng lại phải làm kiêm nhiệm. Nhiều cán
bộ chưa từng được đào tạo về đấu thầu cũng như đấu thầu qua mạng, nên khi triển
khai gặp nhiều khó khăn, kéo theo đó là tâm lý ngại thay đổi, ngại tiếp cận với hình
thức đấu thầu mới. Mặt khác, nhiều chủ đầu tư tuy được cử đi đào tạo, được cấp
chứng chỉ đào tạo về đấu thầu nhưng việc đào tạo chỉ là hình thức dẫn đến chưa
nắm vững quy trình, thủ tục trong công tác đấu thầu, khi có tình huống xảy ra thì
lúng túng, không biết cách xử lý.
Bên cạnh đó, một số chủ đầu tư chưa làm hết trách nhiệm mà thường giao
phó cho ban quản lý dự án hoặc tư vấn đấu thầu. Trong khi đó, đội ngũ chuyên gia
về đấu thầu của rất nhiều đơn vị tư vấn chưa thực sự có đủ năng lực chuyên môn,
chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như còn nhiều vấn đề về đạo đức hành nghề trong
quá trình lựa chọn nhà thầu do vậy chất lượng một số cuộc thầu không bảo đảm.
Ba là, Xử phạt về đấu thầu chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe đối với
những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu.
Hiện nay, việc xử phạt vi phạm pháp luật về đấu thầu của cơ quan có thẩm
quyền chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe đối với những nhà thầu có hành vi vi
phạm như nhà thầu làm “quân xanh, quân đỏ”; nhà thầu thông đồng, dàn xếp để sắp
đặt kết quả trúng thầu, lợi dụng kiến nghị trong đấu thầu để gây cản trở, khó khăn
cho chủ đầu tư. Đối với những nhà thầu vi phạm như trên, chủ đầu tư/bên mời thầu
tuy có phát hiện các sai phạm của nhà thầu nhưng chưa có biện pháp xử lý kịp thời
hoặc chưa quyết liệt xử phạt nhà thầu làm ảnh hướng đến kết quả nhà thầu cũng như
hiệu quả đầu tư. Với nhà thầu cố tình vi phạm, các chủ đầu tư còn chưa mạnh dạn
công khai hoặc chậm công khai theo quy định để góp phần hạn chế các nhà thầu có
hành vi thiếu lành mạnh trong đấu thầu.
Bốn là, chế độ báo cáo tình hình hoạt động đấu thầu chưa nghiêm minh.
Thực tế, cho thấy công tác báo cáo tình hình hoạt động của nhiều đơn vị
không đầy đủ và nghiêm túc. Không ít đơn vị chuẩn bị báo cáo mang tính hình thức,
số liệu cập nhật không chính xác (Tỉnh Bình Định không thực hiện việc báo cáo số
liệu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, số liệu báo cáo tại văn bản không chính
xác), số liệu tổng hợp từ báo cáo bằng văn bản và số liệu tổng hợp trên Hệ thống
58
mạng đấu thầu quốc gia còn có sự chênh lệch... ở một số địa phương, các đơn vị
hoặc chủ đầu tư không thực hiện việc báo cáo hoặc báo cáo không bảo đảm về mặt
thời gian như yêu cầu khiến số liệu tổng hợp thường không kịp thời, đầy đủ và
chính xác (tỉnh Điện Biên có 29/86 đơn vị, Trà Vinh có 11/36 đơn vị, Vĩnh Long có
13/39 đơn vị và Sơn La có 5/34 đơn vị không báo cáo hoặc bảo đảm không bảo đảm
về mặt thời gian, nội dung). Đặc biệt, Ủy ban dân tộc không thực hiện báo cáo trên
cả 2 hình thức bằng văn bản và trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia [1].
Như vậy, việc không báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu hoặc có
báo cáo nhưng nội dung không đầy đủ, chất lượng chưa đảm bảo tại một số Bộ,
ngành địa phương đã làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác theo dõi và quản lý
đấu thầu cũng như việc thực thi các chính sách về đấu thầu phục vụ công tác thực
hiện pháp luật về đấu thầu trong tương lai.
Năm là, Công tác giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo còn yếu và chưa triệt để.
Bên cạnh các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt việc kiểm tra công tác đấu thầu
vẫn còn một số Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự coi trọng công tác này. Qua rà
soát các báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu năm 2018 được gửi về Bộ
Kế hoạch và Đầu tư cho thấy nhiều Bộ, ngành, địa phương trong năm qua thực hiện
rất ít cuộc kiểm tra về đấu thầu hoặc chỉ thực hiện kiểm tra khi xảy ra kiến nghị,
khiếu nại về các vi phạm pháp luật đấu thầu tại dự án, gói thầu. Một số cơ quan,
đơn vị trong năm 2018 không thực hiện cuộc kiểm tra nào về đấu thầu như: Tòa án
nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chính phủ, Thông tấn xã Việt
Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tổng công
ty xi măng Việt Nam, Tổng công ty đường sắt Việt Nam, Ủy ban nhân dân thành
phố Hải phòng, Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng [1].
Bên cạnh đó, chất lượng các cuộc kiểm tra còn chưa đảm bảo yêu cầu, kiểm
tra còn mang tính hình thức, không phát hiện được các vi phạm hoặc có phát hiện vi
phạm nhưng không xử lý nghiêm minh. Tại một số địa phương, khi kiểm tra không
59
phát hiện vi phạm, tuy nhiên khi đoàn kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra
trực tiếp một số gói thầu đã phát hiện không ít tồn tại, vi phạm.
Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, trong năm 2018, nội dung kiểm
tra đấu thầu tiếp tục được triển khai độc lập, chuyên sâu tại một số bộ, ngành, địa
phương. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì số lượng các cuộc kiểm tra về đấu thầu
chưa nhiều, chưa được coi trọng đúng mức, nội dung kiểm tra đấu thầu vẫn chủ yếu
được lồng ghép trong hoạt động giám sát, thanh tra tổng thể đầu tư hoặc kiểm tra,
thanh tra về đầu tư xây dựng cơ bản. Đồng thời, các cuộc thanh tra, kiểm tra còn
hạn chế về thời gian, nhân lực. Do đó, hiệu quả mà hoạt động thanh, kiểm tra mang
lại chưa cao, ở nhiều địa phương, việc phát hiện và xử lý sai phạm trong công tác
đấu thầu vẫn còn chưa triệt để.
Ngoài ra, công tác hậu kiểm sau thanh tra, kiểm tra cũng chưa được quan
tâm, chú trọng. Sau quá trình thanh tra, kiểm tra, các đơn vị được thanh tra, kiểm tra
đều báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, việc báo cáo
còn chung chung, giải pháp đưa ra chưa cụ thể, công tác hậu kiểm sau kiểm tra chưa
được thực hiện dẫn đến việc các vi phạm tiếp tục tài diễn. Việc quản lý, giám sát
quá trình thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra chủ yếu thông qua việc báo cáo của
đơn vị được kiểm tra, thanh tra nên chưa đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện
công khai kết luận thanh tra [1].
60
Tiểu kết chương 2
Đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ được thực
hiện theo nhiều hình thức khác nhau với nội dung khá phức tạp và liên quan đến sự
tham gia của các chủ thể khác nhau, như: nhà thầu, nhà đầu tư,…Để điều chỉnh hoạt
động đấu thầu nói chung, trong đó có hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nói
riêng, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, như: Luật Đấu thầu 2014,
Luật Thương mại 2005, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư công 2014, Bộ Luật Dân sự
2015,… và các văn bản hướng dẫn thi hành, như: Nghị định số 30/2015/NĐ-CP
ngày 17/3/2015 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Đấu thầu về
lựa chọn nhà đầu tư, Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 của Chính phủ
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư,...Những văn bản pháp luật đã tạo được
hành lang pháp lý ổn định, môi trường đầu tư lành mạnh cho hoạt động của các
doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh, góp phần ổn định trật tự kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều quy định của pháp luật đấu thầu về đấu
thầu nói chung, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ nói
riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập đó có thể do nhiều
nguyên nhân, có nguyên nhân mang tính chủ quan và có nguyên nhân mang tính
khách quan. Điều đó đã làm ảnh hưởng và tác động xấu đến quá trình thi hành pháp
luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ trên
thực tế. Xuất phát từ những kết quả cũng như những hạn chế, bất cập trong hoạt
động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ đặt ra trong
giai đoạn tới cần phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung những quy định không còn phù
hợp. Vì vậy, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần phải sớm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn,
hai túi hồ sơ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu cũng như bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
61
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU
THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN
HAI TÚI HỒ SƠ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Một trong những điểm nổi bật trong Luật Đấu thầu 2013 là nhằm tạo ra sự
minh bạch trong đấu thầu, cho phép áp dụng phương thức đấu thầu một giai đoạn
hai túi hồ sơ, nghĩa là túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được đánh giá trước và nhà
thầu nào đáp ứng về kinh nghiệm, năng lực kỹ thuật chất lượng thì mới được bóc túi
hồ sơ về tài chính ra để cùng so sánh. Trước đây, chúng ta mở cùng lúc túi về tài
chính cũng như túi về kỹ thuật. Trong trường hợp thì nhà thầu yếu nhưng họ chào
với giá thấp thì tổ chuyên gia lúng túng. Còn lần này, không bóc túi tài chính nên
không biết giá chào thầu cao hay thấp, tổ chuyên gia sẽ làm việc khách quan [37].
Bên cạnh đó, Luật Đấu thầu năm 2013 đã tạo sân chơi bình đẳng cho các DN
trong nước. Cụ thể, sau khi xong công trình nếu như chủ đầu tư không thanh toán
tiền có thể kiện và đòi lãi suất từ số tiền còn nợ của chủ đầu tư. Đây là một điểm rất
mới và tiến bộ, có lợi hơn cho DN. Đặc biệt, Luật Đấu thầu 2013 được các DN đánh
giá cao do không ràng buộc về giá.Trước đây, các trường hợp nhà thầu bỏ giá thấp
nhất đều trúng thầu thì Luật mới không bắt buộc lấy tiêu chí giá thấp nhất mà thay
vào đó sử dụng tiêu chí xác định toàn diện, cả về kỹ thuật và năng lực tổ chức thi
công. Nếu DN bỏ giá thứ 2 nhưng đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về kỹ thuật thì vẫn
trúng thầu.
Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ nói riêng chính luôn hướng tới nâng cao hiệu quả kinh tế của các
dự án đầu tư, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho nhà thầu, nhà đầu tư nói riêng và
cho cả nền kinh tế. Từ ưu điểm của đấu thầu là tìm ra được đối tác có khả năng
cung cấp hàng hóa một cách phù hợp nhất, tối ưu nhất cả về chất lượng và giá cả
mà chúng ta cần hoàn thiện những điểm chưa hợp lý sao cho đấu thầu, đấu thầu
62
MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ sẽ đem lại được hiệu quả kinh
tế cao hơn nữa.
Khi áp dụng đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
giúp cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, đơn vị nâng cao được sự quản lý
nguồn vốn trong từng gói thầu và trong từng bước của quy trình thực hiện để có sự
điều chỉnh và quản lý sao cho hiệu quả nhất, nguồn vốn đầu tư cho các dự án đều
rất lớn và phục vụ cho phát triển đời sống kinh tế và xã hội, văn hóa giáo dục…của
quốc gia, hiệu quả đem lại là trực tiếp phục vụ cho đời sống người dân vì vậy luôn
cần quản lý sao cho hiệu quả không lãng phí thất thoát và phải hướng đến đạt hiệu
quả tối ưu nhất nên rất cần phải hoàn thiện hơn nữa đấu thầu, đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ là một yêu cầu cấp thiết.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ cần đặt trong xu hướng hội nhập, thời kỳ cách
mạng công nghiệp 4.0
Nền kinh tế thế giới đang phát triển nhanh chóng, trình độ khoa học kỹ thuật
ngày càng tiên tiến hiện đại, bối cảnh hội nhập toàn cầu đặt ra với mỗi quốc gia,
chúng ta không thể đứng ngoài những xu thế chung xu thế mới của thế giới vì vậy
bắt buộc phải chúng ta phải hoàn thiện mọi mặt, nắm bắt học hỏi kinh nghiệm để rút
ngắn hơn khoảng cách. Trong xu thế hội nhập cùng phát triển hiện nay Việt Nam đã
tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, thành viên
của nhiều công ước quốc tế, ký kết nhiều hiệp định đa phương, song phương, đặc
biệt là là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới… thuộc các lĩnh vực đời sống
xã hội. Đứng trước những cơ hội và thách thức như vậy yêu cầu đặt ra là chúng ta
phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó có hệ thống pháp
luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Việc hoàn thiện pháp luật về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ đấu thầu, trong đó có đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ đáp ứng sự tương thích và phù hợp hơn nữa với những quy định pháp luật
quốc tế, thông lệ quốc tế. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đấu
thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ là cơ sở pháp
63
lý vững chắc, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế và phát triển
bền vững và mạnh mẽ hơn nền kinh tế quốc gia.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ hướng tới sự đồng bộ, hài hóa pháp luật kinh tế
nói chung
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Việt Nam đang tập trung phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước tham gia quản lý mọi mặt đời sống xã hội đất nước theo các đường lối
chính sách đã đề ra, cụ thể như trong quá trình chuẩn bị sản xuất, kinh doanh thông
qua thực hiện các dự án đầu tư là cơ sở quan trọng quyết định kết quả đạt được của
quá trình đầu tư, nhà nước thông qua các quy định, hệ thống pháp luật để quản lý
kiểm tra giám sát, vì vậy hệ thống pháp luật càng thống nhất, đồng bộ, càng hoàn
thiện đáp ứng được yêu cầu tinh thần đổi mới phát triển đất nước thì sẽ giúp nhà
nước sẽ càng dễ dàng trong vận hành, trong quản lý, giám sát hiệu quả bấy nhiêu.
Bên cạnh đó cũng phải tạo ra sự thống nhất tạo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật
trong nước đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại, đấu thầu….và pháp luật
kinh tế nói chung. Khi đảm bảo và tạo ra được một môi trường pháp lý hoàn thiện,
đồng bộ nhất quán sẽ đảm bảo được tối đa quyền lợi và nghĩa vụ, đảm bảo quyền tự
chủ và tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh lành mạnh bình đẳng của các chủ thể
tham gia vào hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn,
hai túi hồ sơ - đó chính là đảm bảo cho tính minh bạch và hiệu quả của công tác đấu
thầu được phát huy.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ đảm bảo minh bạch và hiệu quả
Trong thời gian tới đấu thầu mua sắm hàng hóa trong nước và cả đấu thầu
quốc tế mua sắm hàng hóa cần phải thành lập các hiệp hội các nhà tư vấn Việt Nam
một cách chuyên nghiệp, các công ty tư vấn đủ năng lực trong mọi lĩnh vực. Khi
cần phải sử dụng nhà tư vấn nước ngoài thì bên chủ đầu tư, bên mời thầu cần hết
64
sức lưu ý và chặt chẽ hơn trong tất cả các điều khoản để tránh những vướng mắc
tranh chấp, cũng nên lựa chọn những đơn vị tư vấn có uy tín để hợp tác. Do trình độ
chuyên môn kỹ thuật còn thấp, những cơ sở đảm bảo cho việc lập dự toán là chưa
hoàn thiện nên khi thực hiện đàm phán chúng ta sẽ bỏ sót hoặc do trình độ kỹ năng
đàm phán chưa cao gây ra những thiệt hại trong đấu thầu mua sắm hàng hóa.
Việc soạn thảo các văn bản hướng dẫn, các văn bản pháp luật điều chỉnh quy
trình đấu thầu mua sắm hàng hóa phải đảm bào tính nghiêm minh của pháp luật,
vừa phải hết sức chặt chẽ, ngắn gọn nhưng không làm giảm đi nguyên tắc tự do
cạnh tranh, công khai, khách quan, công bằng trong đấu thầu mua sắm hàng hóa. Để
tránh tình trạng chào giá thầu thấp nhà nước cần có quy định cụ thể về chống phá
giá trong đấu thầu mua sắm hàng hóa. Có chăng nên xem xét đến việc có nên áp
dụng hình thức đấu thầu hạn chế trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, mà chỉ nên áp
dụng hình thức đấu thầu rộng rãi trong mua sắm hàng hóa để đảm bảo được tính
cạnh tranh công bằng và công khai được phát huy cao trong mua sắm hàng hóa tại
các đơn vị sự nghiệp công lập. Vấn đề xử phạt trong đấu thầu phải rõ ràng cụ thể
hơn và phải được nghiêm túc chấp hành, mức phạt phải vừa có tính giáo dục nhưng
cũng phải mang tính răn đe, không nên quá nhẹ để chỉ trở thành hình thức.
Với mỗi loại đối tượng trong đấu thầu phải xây dựng những quy trình riêng
đạt chuẩn để trên cơ sở đó mà tùy vào hình thức lựa chọn nhà thầu, phương thức
đấu thầu mà áp dụng cho phù hợp nhất. Đồng thời với các nguồn tài trợ của các tổ
chức quốc tế như WB, ADB, JBIC…khi thực hiện mua sắm bằng các nguồn vốn
này việc tổ chức hoạt động đấu thầu vẫn phải thực hiện dưới sự kiểm soát của nhà
tài trợ nên quy trình đấu thầu của Việt Nam phải hoàn thiện và tương đồng với các
quy trình đã được các tổ chức này đề ra.
Các nội dung của quy chế đấu thầu nhìn chung đã có rất nhiều tiến bộ, các
quy định cơ bản đã đề cập được đến tất cả các yêu cầu của hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hóa, song trên thực tế đời sống kinh tế xã hội là vô cùng phong phú, thay
đổi từng ngày đòi hỏi bắt buộc phải điều chỉnh, cải tiến và hoàn thiện mang tính
tổng thể và cụ thể cho từng ngành. Do đặc điểm mua sắm hàng hóa là rất khác nhau
giữa các Bộ, ngành và địa phương, các đơn vị sự nghiệp công lập nên khó có thể có
65
cùng một quy chế hướng dẫn chung phù hợp cho tất cả các trường hợp. Vấn đề đặt
ra là phải có sự đầu tư nghiên cứu chi tiết của các cơ quan bộ ngành, địa phương
khác nhau để hình thành ra các quy định để vận hành áp dụng sao cho phù hợp linh
hoạt, gọn nhẹ không chồng chéo mà vẫn đảm đảo được các yêu cầu mục đích của
quy chế đấu thầu nói chung. Công tác đấu thầu mua sắm hàng hóa muốn thực sự đi
vào nề nếp, trở thành một công cụ đắc lực không thể thiếu tại các đơn vị, tổ chức và
góp phần vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cần sự thống nhất thực
hiện và chung tay của mọi cơ quan và chủ thể thực hiện. Thực hiện được mục tiêu
đó, đòi hỏi hệ thống pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH cần đảm bảo sự minh
bạch, đồng bộ.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua săm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ đã rất phổ biến tại tất cả các bộ ngành, các đơn vị,
các địa phương, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, các
doanh nghiệp trong và ngoài nước có nhiều cơ hội để tham gia vào hoạt động đấu
thầu mua sắm hàng hóa. Các quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ hiện nay vẫn còn bộc lộ những hạn
chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập đó thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, từ
lý luận đến thực tiễn thi hành. Điều đó đã tác động không nhỏ đến hoạt động đấu
thầu, đấu thầu mua săm hàng hóa. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay việc rà
soát, đánh giá, bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đấu thầu
MSHH là hết sức cần thiết. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ tạo môi trường lành mạnh, nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong đời
sống thực tiễn. Các doanh nghiệp cần cập nhật thường xuyên quy định pháp luật về
đấu thầu, thu thập thông tin về các gói thầu nếu muốn tham gia hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng hóa một cách công bằng, hiệu quả. Ngoài việc nắm bắt các quy định
của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa thì điều quan trọng là phải nắm bắt thu
66
thập thông tin về các dự án, nguồn vốn thực hiện các dự án này, thông qua các kênh
thông tin như: báo, đài, các trang web về đầu tư, đấu thầu. Thông tin từ các kênh
này sẽ tạo sự chủ động cần thiết để doanh nghiệp từng bước tham gia vào công tác
đấu thầu mua sắm hàng hóa.
Thông qua việc hoàn thiện pháp luật về trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm
hàng hóa sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng hơn giữa các
nhà thầu và cũng là chủ thể kinh tế khác nhau góp phần tạo nên môi trường kinh
doanh lành mạnh, bình đẳng cho nền kinh tế nước nhà. Với sự phức tạp của nền
kinh tế thị trường cùng với những biến đổi tiến bộ nhanh chóng của kinh tế, khoa
học kỹ thuật trên thế giới thì việc tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh bình
đẳng càng phải được quan tâm và thúc đẩy hơn nữa vai trò, trách nhiệm cũng như
năng lực của các chủ thể tham gia tham gia vào trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm
hàng hàng hóa.
3.2. Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi
hồ sơ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện, bảo đảm hài hòa hóa và thống nhất giữa các quy định
pháp luật đấu thầu và luật chuyên ngành đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Hiện nay, hệ thống chính sách của một số ngành, lĩnh vực còn có quy định
chồng chéo, chưa thống nhất với pháp luật về đấu thầu. Ví dụ, một số nội dung quy
định tại Nghị định số 30/2015/NĐ-CP chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác như
Luật Đầu tư, Luật Đất đai; nên trong quá trình triển khai thực hiện còn những khó
khăn, bất cập, cần có biện pháp tháo gỡ. Đối với dự án đầu tư có sử dụng đất, Luật
Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn chưa phân định rõ
trường hợp giao đất, cho thuê đất theo một trong ba hình thức bao gồm: (1) Đấu
thầu; (2) Quyết định chủ trương đầu tư; (3) Đấu giá quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy hiện nay vẫn còn một số ngành, lĩnh vực còn
có quy định chồng chéo, chưa thống nhất với pháp luật về đấu thầu. Cụ thể như:
trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng, Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày
67
18/6/2015 của Chính phủ vẫn còn quy định về việc giao thầu trong khi Luật Đấu
thầu đã quy định chỉ có 08 hình thức lựa chọn nhà thầu, trong đó không có hình
thức lựa chọn nhà thầu nêu trên; Hoặc Luật quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 và
Nghị định số 37/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 quy định việc lựa chọn tổ chức tư
vấn lập quy hoạch đô thị thông qua hình thức chỉ định thầu hoặc Quyết định số
73/2010/QĐ-TTg ngày 16/11/2010 có quy định về một số các công trình, hạng mục
công trình lâm sinh được áp dụng hình thức chỉ định thầu là chưa phù hợp với các
trường hợp được chỉ định thầu quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật Đấu thầu và
Điều 54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.
Xuất phát từ việc phân tích trên, để khẳng định được tầm quan trọng vai trò
của đấu thầu mua sắm hàng hóa cũng như đấu thầu nói chung trong nền kinh tế, đòi
hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, theo đúng chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước và đồng thời đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình
hình kinh tế xã hội là nhu cầu cấp thiết đặt ra. Đồng thời, trong xu hướng hội nhập
toàn cầu, hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về đấu thầu cần phải hoàn thiện hệ
thống pháp của mình để phù hợp hội nhập về tất cả các lĩnh vực thế giới trong đó có
lĩnh vực đấu thầu mua sắm hàng hóa. Để đưa pháp luật đấu thầu của chúng ta dần
tương thích với hệ thống thông lệ quốc tế thì chúng ta trước tiên cần tuân thủ và dựa
trên các quy định, hướng dẫn cụ thể của các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực liên
quan để tìm ra được nội dung phù hợp với tình hình trong nước mà vẫn đảm bảo
tuân thủ pháp luật quốc tế. Có như vậy những quy định về đấu thầu nói chung và
đấu thầu mua sắm hàng hóa nói riêng mới bền vững, phát triển và là công cụ hiệu
quả của quản lý kinh tế xã hội, cụ thể là sẽ có những văn bản pháp luật, nghị định
hướng dẫn thi hành tạo ra môi trường pháp lý ổn định hơn cụ thể hơn, đảm bảo mua
trúng, mua đúng, mua đủ. Đồng thời cần phải đảm bảo được tính đồng bộ với các
quy định của pháp luật liên quan như pháp luật về đầu tư, pháp luật kinh tế, thương
mại…Vì vậy, để tránh tình trạng mâu thuẫn chồng chéo, không đúng thẩm quyền,
cần sớm hài hòa, thống nhất giữa các pháp luật chuyên ngành liên quan và các quy
định pháp luật về đấu thầu, trong đó có các quy định về đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
68
3.2.2. Xây dựng hệ thống thông tin cung cấp thông tin đấu thầu, trung tâm
đào tạo cán bộ làm công tác đấu thầu chất lượng cao
Trong hoạt động đấu thầu cũng như đấu thầu MSHH theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ, vấn đề thông tin, xử lý thông tin là rất quan trọng nó ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thành công hay thất bại của đấu thầu. Các thông tin được
cung cấp một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác và bảo mật góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Một vấn đề liên quan đến thông tin trong đấu thầu mua sắm hàng hóa là hệ
thống tin về các nhà thầu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi muốn thực hiện tra cứu
thông tin đấu thầu, thông tin nhà thầu hoặc khi tiến hành đấu thầu quốc tế các nhà
thầu nước ngoài gặp không ít khó khăn. Do đó, hệ thống thông tin này phải nhanh
chóng được xây dựng trong tương lai gần nhằm đáp ứng yêu cầu tính công khai
trong đấu thầu, yêu cầu về số hóa, phát triển công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực
đời sống.
Bên cạnh đó, từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường, trong giai đoạn hiện nay
cần xây dựng các trung tâm đào tạo cán bộ làm công tác đấu thầu chất lượng cao,
các trung tâm đào tạo tạo chất lượng cao này ngoài nhiệm vụ đào tạo đấu thầu cơ
bản ra phải thực hiện được những mục tiêu như trang bị được các kiến thức liên
quan đến tổ chức đấu thầu trên thế giới và ở Việt Nam trong các lĩnh vực, tổng kết
được, đúc rút được các kinh nghiệm đấu thầu trên thế giới cũng như tình hình đấu
thầu thực tế ở Việt Nam có vậy mới tạo ra được đội ngũ cán bộ làm công tác đấu
thầu vững về chuyên môn nghiệp vụ và có được kinh nghiệm thực tế để khi thực tế
áp dụng vào trong công tác đấu thầu tại các đơn vị mới đạt được thành công cao.
Trách nhiệm xây dựng hệ thống thông tin và các trung tâm cho hoạt động đấu thầu
nên giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các chuyên gia có uy tín trong và ngoài
nước tham gia triển khai xây dựng để đạt được hiệu quả như mong đợi.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định dự án và quản lý
công tác đấu thầu
Để nâng cao được chất lượng công tác lập dự án chủ đầu tư phải tiến hành
lựa chọn đơn vị tư vấn có đủ năng lực,các chuyên gia lập dự án, cán bộ lập dự án có
69
trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong việc lập dự án, hồ sơ lập dự án phải
có số liệu thông tin đầy đủ, có các căn cứ, có sự khảo sát so sánh điều tra nghiêm
túc cụ thể về nhu cầu đánh giá thực trạng trên cơ sở khoa học thì mới phản ánh hết
được nhu cầu của người sử dụng và dự án mới đem lại hiệu quả thực sự cho người
sử dụng. Quá trình thẩm định dự án cần phải nâng cao vì sản phẩm của quá trình
này là yếu tố quyết định đến sự thực thi được hay không của toàn dự án. Thực hiện
tốt những công tác này là tiền đề cho phê duyệt triển khai dự án được tiến hành và
cụ thể công tác đấu thầu được diễn ra đảm bảo được mục tiêu mà dự án hướng đến.
Nâng cao chất lượng quản lý công tác đấu thầu mua sắm hàng hóa và lựa
chọn nhà thầu, trong đó cụ thể phải lập được kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho toàn
dự án, lập kế hoạch LCNT tổng thể trên cơ sở yêu cầu, mục tiêu đối tượng cũng như
tiến độ của dự án. Việc lập được kế hoạch LCNT tổng thể giúp chủ đầu tư có được
một cái nhìn tổng thể cho toàn bộ dự án, nhận thấy được đối tượng, tiến độ các hạng
mục, hạng mục nào trước hạng mục nào sau, thời gian tiến hành cũng như có được
sự chuẩn bị kế hoạch vốn thực hiện cho từng giai đoạn. Lập kế hoạch LCNT cho
toàn dự án càng chi tiết bao nhiêu càng thuận lợi cho chủ đầu tư kiểm soát dự án và
tiết kiệm được thời gian và chi phí cũng như sớm tiên đoán được những khó khăn
trong quá trình thực hiện để có kế hoạch điều chính trước để thuận lợi tiến hành.
3.2.4. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đấu thầu và đẩy
mạnh công tác truyền thông về đấu thầu, đấu thầu mua sắm hàng hóa một giai
đoạn, hai túi hồ sơ
Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đấu
thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ, tiếp tục cải
thiện chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo. Tăng cường tổ chức các lớp đào
tạo, bồi dưỡng pháp luật về đấu thầu tại các tỉnh vùng sâu vùng xa, các đơn vị cấp
huyện, xã. Tổ chức hội nghị đối tượng là các cơ sở đào tạo về đấu thầu, các giảng
viên về đấu thầu phổ biến về: Các chương trình, nội dung đào tạo mới về đấu thầu;
kỹ năng giảng dạy; phương pháp giảng dạy chuyên nghiệp; tiếp thu các phương
pháp đào tạo tiên tiến của quốc tế;….
70
Hiện nay, dữ liệu đầu vào cho hệ thống giám sát, đánh giá công tác đấu thầu,
đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ đã được chuẩn hóa
thông qua Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Theo đó, các thông tin từ kế hoạch lựa
chọn nhà thầu, thông báo mời thầu cũng như kết quả lựa chọn nhà thầu phải được
đồng bộ, thống nhất và liên kết chặt chẽ. Tuy nhiên, để thuận tiện và hiệu quả hơn
trong việc chủ đầu tư, bên mời thầu tự đăng tải các thông tin trong quá trình lựa
chọn nhà thầu từ kế hoạch lựa chọn nhà thầu, thông báo mời thầu… cho đến kết quả
lựa chọn nhà thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia cần tuyên truyền, phổ biến
các tính năng mới của Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia đến chủ đầu tư, bên mời
thầu cũng như tiếp tục nâng cấp hệ thống để tạo sự đồng thuận, thống nhất, thuận
tiện trong việc triển khai, thực hiện.
Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao nhận thức, đào tạo tuyên truyền về đấu thầu
qua mạng đặc biệt là đối với các đối tượng là nhà thầu. Kiên trì, đôn đốc triển khai
đấu thầu qua mạng, đặc biệt đẩy mạnh truyền thông về đấu thầu qua mạng đến các
bên liên quan, các doanh nghiệp, tăng cường cung cấp thông tin về các gói thầu đấu
thầu qua mạng đến các doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp biết, tham gia, từ đó
tạo sự cạnh tranh và hiệu quả tối đa cho các gói thầu đấu thầu qua mạng. Bên cạnh
đó, cần xác định, xây dựng lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai đoạn 2019 –
2025 một cách phù hợp, thiết thực để bảo đảm tính khả thi [1].
3.2.5. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đồng thời
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác đấu thầu
Gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với hiệu quả thực hiện
công tác đấu thầu, đồng thời có chế tài xử lý nghiêm đối với những trường hợp dung
túng, buông lỏng quản lý của người đứng đầu và các cơ quan chức năng. Đồng thời,
yêu cầu người đứng đầu, chủ đầu tư, bên mời thầu chịu trách nhiệm đăng tải thông tin
theo quy định. Thường xuyên kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm những trường hợp
không thực hiện đăng tải các thông tin, đặc biệt là thông báo mời thầu và kết quả lựa
chọn nhà thầu đặc biệt có chế tài xử lý đối với lãnh đạo các chủ đầu tư, bên mời thầu
nếu để xảy ra vi phạm. Khuyến khích các cơ quan thực hiện đăng tải hồ sơ mời thầu
trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và website của đơn vị mình.
71
Nhằm phát huy vai trò hậu kiểm trong đấu thầu, các cơ quan thanh tra, kiểm
tra trong đấu thầu tại các Bộ, ngành, địa phương cần tăng cường việc thanh tra,
kiểm tra thường xuyên trong lĩnh vực đấu thầu nhằm ngăn ngừa và phát hiện sớm
các hành vi tiêu cực, sai phạm trong đấu thầu. Khi nhận được những kiến nghị, phản
ánh của nhà thầu về tính không minh bạch, lành mạnh của cuộc thầu cần xác minh,
kiểm tra các thông tin được cung cấp. Trường hợp những phản ánh, kiến nghị được
xác minh là chính xác, cần đưa ra các biện pháp xử lý thích đáng.
Tăng cường vai trò của giám sát cộng đồng, thường xuyên đánh giá chất
lượng các cuộc kiểm tra và có biện pháp xử lý nghiêm đối với những cán bộ có biểu
hiện buông lỏng, thiếu trách nhiệm, kiểm tra mang tính hình thức.
Đồng thời, tuân thủ nghiêm túc, triệt để Chỉ thị số 47/CT-TTg ngày
27/12/2017 và Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 04/4/2017. Tiếp tục tăng cường công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các chủ đầu tư, bên mời thầu trong việc thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị số 47/CT-TTg ngày 27/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
việc chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua
sắm thường xuyên sử dụng vốn nhà nước và Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 04/4/2017
của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong
nước trong công tác đấu thầu các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm
thường xuyên sử dụng vốn nhà nước [1].
3.2.6. Công khai, minh bạch thông tin dự án, tăng cường sự tiếp cận thông
tin của nhà đầu tư
- Chỉnh sửa Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo hướng chuẩn hóa để các
thông tin từ danh mục dự án, quá trình sơ tuyển (thông báo mời sơ tuyển, kết quả sơ
tuyển), kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư, quá trình đấu thầu (thông báo mời thầu, kết quả
đấu thầu), kết quả lựa chọn nhà đầu tư được đồng bộ, thống nhất và liên kết chặt chẽ.
- Phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp cố tình đăng tải sai thông tin lên
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
- Để đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch, nhà đầu tư phải nộp hồ sơ dự sơ
tuyển (đối với dự án PPP), hồ sơ đăng ký thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất phải
72
được nộp trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (lộ trình theo hướng dẫn của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư).
3.2.7. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ cần nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo cơ quan các
Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố, Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước:.
Theo đó, yêu cầu hàng năm kiểm điểm về trách nhiệm quản lý công tác đấu thầu tại
cơ quan, đơn vị mình theo quy định phân cấp của pháp luật về đấu thầu gửi (cùng
với báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu hàng năm) đến Bộ Kế hoạch và
Đầu tư tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, các cơ quan này cần phải tổng hợp, báo cáo công tác đấu thầu
hàng năm, đảm bảo yêu cầu về nội dung, chất lượng báo cáo, tiến độ thời gian và
nghiêm túc thực hiện báo cáo theo đúng yêu cầu về nội dung và lộ trình áp dụng
quy định tại Thông tư số 06/2017/TT-BKHĐT ngày 05/12/2017 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu, báo cáo tình hình
thực hiện hoạt động đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. Có biện pháp xử lý nghiêm đối
với các cơ quan, đơn vị báo cáo kém chất lượng, không đảm bảo tiến độ.
3.2.8. Kiên quyết giải quyết triệt để những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp
luật về đầu tư
Yếu tố con người thực thi rất cần coi trọng, có tuyên truyền phổ biến pháp
luật, có chế tài xử phạt chặt chẽ nghiêm minh thì các chủ thể khi tham gia đấu thầu
mới nghiêm túc thực hiện quy định. Vì vậy, cần phải có các quy định chế tài cụ thể
và nghiêm minh hơn nữa cho những vi phạm của các chủ thể trong đấu thầu, chấm
dứt hẳn những hiện tượng xấu trong đấu thầu như “quân xanh quân đỏ” hay hiện
tượng “thông thầu” nhằm giữ được sự nghiêm minh trong pháp luật và tạo ra môi
trường cạnh tranh thực sự lành mạnh cho các nhà thầu, nhà đầu tư. Đối với cán bộ
làm công tác đấu thầu nói chung cũng phải luôn tuyên truyền phổ biến pháp luật,
phổ biến các chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi mới hiện nay để
họ có kiến thức pháp luật đầy đủ cũng như nắm bắt được đường lối chính sách phát
73
triển của đất nước, cũng như có được lập trường tư tưởng vững vàng. Nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đấu thầu, hạn chế, tiến tới đẩy lùi, giải quyết tận gốc
những tiêu cực, vi phạm pháp luật về đấu thầu, trên cơ sở những giải pháp đề xuất nêu
trên, trong quá trình thực thi pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức
một giai đoạn, hai túi hồ sơ cần rà soát, chấn chỉnh hoạt động đấu thầu trong lĩnh
vực, ngành; tăng cường chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu, kịp thời
phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi tiêu cực thuộc thẩm quyền quản lý của
mình. Thực hiện nghiêm túc việc báo cáo thông tin xử lý nhà thầu vi phạm pháp
luật trong hoạt động đấu thầu đến cơ quan có thẩm quyền theo quy định.
Tăng cường đào tạo, phổ biến và cập nhật các quy định pháp luật về đấu thầu
(lựa chọn nhà thầu, lựa chọn nhà đầu tư và đấu thầu qua mạng) cho cán bộ thuộc
chủ đầu tư, bên mời thầu, tổ chuyên gia. Tạo điều kiện để nâng cao năng lực chuẩn
hóa chất lượng cán bộ làm công tác đấu thầu, đảm bảo có đủ trình độ, kinh nghiệm
phải có chứng chỉ hành nghề đối với những đối tượng bắt buộc theo quy định tại
Điều 12 Thông tư số 03/2016/TT-BKHĐT ngày 05/5/2016 quy định chi tiết đối với
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu.
74
Tiểu kết Chương 3
Quá trình thực thi pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức
một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay gặp những khó khăn, bất cập.
Chính vì vậy việc xác định phương hướng và xây dựng các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về đấu thầu nói chung, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn,
hai túi hồ sơ nói riêng là một yêu cầu cần thiết. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ cần đặt trên cơ sở
hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung, đảm bảo sợ hài hòa, thống nhất giữa pháp
luật về đấu thầu và luật chuyên ngành. Việc hoàn thiện pháp luật về đấu thầu nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của nhà đầu tư trong thời kỳ cách
mạng công nghệ 4.0,….Trên cơ sở xác định phương hướng hoàn thiện pháp luật về
đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ đặt ra yêu cầu cần
phải đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Những
giải pháp đó phải mang tình đồng bộ, thống nhất hơn nữa trên cả góc độ pháp luật
điểu chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi
hồ sơ là những nội dung cụ thể nhằm giải quyết những nội dung còn chưa phù hợp,
còn hạn chế, bất cập. Những giải pháp đó vừa mang tính chất chung, vừa mang tính
cụ thể. Có những giải pháp hoàn thiện mang tính lập pháp và có những giải pháp
mang tính cụ thể. Tất cả các giải pháp đó góp phần nâng cao minh bạch và hiệu quả
trong hoạt động đấu thầu nói chung, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
75
KẾT LUẬN
Đấu thầu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động của nền kinh
tế từ đấu thầu để lựa chọn nhà thầu xây lắp đến lựa chọn nhà thầu tư vấn, cung cấp
dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực mua sắm hàng hóa. Đất nước càng phát triển thì
hoạt động đấu thầu diễn ra càng sôi nổi, càng cạnh tranh. Để hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng hóa dù bằng phương thức nào, một túi hồ sơ hay hai túi hồ sơ, một
hay hai giai đoạn thì vấn đề quan trọng nhất là đạt hiệu quả phù hợp với đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước thì cần phải tăng cường quản lý nhà
nước về đấu thầu mua sắm hàng hóa. Đấu thầu và đấu thầu MSHH có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đây là một vấn đề được quan tâm nghiên
cứu trên các phương diện khác nhau.
Kết quả nghiên cứu trong Luận văn đã góp phần:
- Tổng hợp và đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên
quan đến đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Từ kết quả nghiên cứu nghiên cứu của các công trình khoa học đó, tác giả xác định
được những vấn đề cần tiếp tục làm rõ hơn trong luận văn.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đấu thầu, như: nhận diện đấu thầu, bản chất
pháp lý của đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt
Nam. Luận văn phân tích và làm rõ các nguyên tắc trong đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
- Luận văn đã phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về đấu thầu
MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ, như: nhà thầu, nhà đầu tư,
các hình thức đấu thầu, lựa chọn nhà thầu,….
- Luận văn đã đánh giá cụ thể về thực tiễn thi hành pháp luật đấu thầu
MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Luận văn đã chỉ rõ nhưng kết
quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về đấu thầu MSHH theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Đồng thời, luận văn cũng đã chỉ rõ những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế về đấu thầu MSHH theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Những nguyên nhân đó có thể xuất phát
76
từ các quy định của pháp luật, từ sự xung đột pháp luật, chồng chéo giữa pháp luật
đấu thầu và các luật chuyên ngành về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ, bất cập do ý thức và trách nhiệm của những người tham gia
trong quá trình đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ,…
- Từ kết quả nghiên cứu, luận văn xác định những phương hướng hoàn thiện
pháp luật về đấu thầu, đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ
sơ. Trên cơ sớ đó, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về đấu thầu MSHH theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
trong giai đoạn hiện nay.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Báo cáo tổng kết công tác đấu thầu năm 2018
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu năm
2018” trình Thủ tướng Chính phủ
3. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2015), Thông tư 19/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết
lập báo cáo thẩm định trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, 2015
4. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2015), Thông tư 11/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết
lập hồ sơ yêu cầu đối với chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015 5.
6. Chính phủ (2015), Nghị định 30/2015/NĐ-CP, Nghị định quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư, 2015
7. Phan Huy Đường (2010), Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
8. Lê Tiền Hải (2000), Khai thác hiệu quả nguồn vốn ODA, Thời báo Kinh Tế
Việt Nam, tr 43-44
9. Ngô Vinh Hải, Quản lý Đấu thầu – Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm
quốc tế, NXB Giao thông vân tải, Hà nội
10. Hiệp hội Tư vấn xây dựng Việt Nam (2001), Điều kiện hợp đồng - FIDIC,
Nxb Xây dựng, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Hiệp (2017): “ Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức
một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí
tượng thủy văn”, luận văn thạc sĩ HVKHXH, 2017
12. Ngân hàng Thế giới (2004), Hướng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD và tín
dụng IDA, Hà Nội, tr1
13. Ngân hàng phát triển Châu Á, Quy định đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế.
14. Lương Thị Thùy Linh (2013): “Pháp luật Việt Nam về đấu thầu mua sắm công -
hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp”, luận văn thạc sĩ, 2013
15. Luật Đầu tư (2014)
78
16. Luật Đấu thầu (2013)
17. Luật Đầu tư công (2014)
18. Luật Doanh nghiệp (2014)
19. Luật Thương mại (2005)
20. Nguyễn Thị Như Trang (2011): “Pháp luật về đấu thầu mua sắm công những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ , 20111
21. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại, NXB Công an
nhân dân, tr 202
22. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật cạnh tranh
số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004.
23. Nguyễn Hồng Sơn, Phan Huy Đường (2013), Khoa học quản lý, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
24. Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ hướng dẫn chi
tiết một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư.
25. Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 của Chính phủ về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư
26. UNCTRIAL, Quy định mẫu về mua sắm đấu thầu hàng hoá.
27. Nguyễn Duy Phương (2006): “Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng
hóa” , luận văn thạc sĩ, 2006
28. Nguyễn Thị Hương Giang (2017): “Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật về đấu thầu từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập ở
Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ, HVKHXH, 2017
II. TRANG WEB
29. http://www.mangphapluat.com/nguyen-tac-la-gi.html, truy cập ngày
10/5/2019
30. http://www.adb.org/ (trang web giới thiệu về ADB).
31. http://www.worldbank.org/ (trang web giới thiệu về WorldBank).
32. http://www.uncitral.org/uncitral/uncitral_texts/procurement_infrastructure.htm
l ( Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc)
79
33. http://www.uscourts.gov/rules-policies/judiciary-policies/procurement-policies
(Quy chế đấu thầu Hoa Kỳ - Toà án Hoa Kỳ)
34. http://ec.europa.eu/growth/single-market/public-
procurement/international/index_en.htm (Mua sắm công quốc tế - Liên minh
Châu Âu)
35. http://www.adb.org/documents/users-guide-procurement-works-small-
contracts (Hợp đồng mua sắm hàng hoá loại nhỏ - ADB)
36. http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/PROJECTS/PROCUREMEN
T/0,,contentMDK:50002392~menuPK:93977~pagePK:84269~piPK:600015
58 ~theSitePK:84266,00.html (Chính sách và thủ tục đấu thầu - WB)
37. Hướng Dương: “Phương thức 'hai túi hồ sơ' của Luật đấu thầu mới sẽ cứu
doanh nghiệp nội?”, http://cafebiz.vn/thi-truong/phuong-thuc-hai-tui-ho-so-
cua-luat-dau-thau-moi-se-cuu-doanh-nghiep-noi-2014072508204536718.chn