VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THÀNH NHÂN
ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG HÓA CFR
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ HÀNG HÓA TỪ
THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, NĂM 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THÀNH NHÂN
ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG HÓA CFR
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ HÀNG HÓA TỪ
THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ MAI THANH
HÀ NỘI, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thành Nhân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG HÓA “TIỀN HÀNG VÀ CƯỚC PHÍ ” (CFR) TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ HÀNG HÓA ......................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, bản chất và quá trình hình thành CFR ..................................................... 6
1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của CFR ............................................................ 6
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của CFR như tập quán thương mại quốc tế phổ biến và vai trò CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa .......................... 8
1.2. Nội dung của CFR trong giao dịch mua bán quốc tế hàng hóa ............................... 11
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ giao nhận của bên bán theo CFR ........................................ 11
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ giao nhận của bên mua theo CFR ....................................... 14
1.3. Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa và hiệu lực của điều khoản CFR trong hợp đồng ................................................................................................................................. 16
1.3.1. Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ................................................................ 16
1.3.2. Hiệu lực của điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ....... 20
1.3.3. Mối quan hệ giữa điều khoản CFR và các điều khoản khác trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ................................................................................................... 21
1.4. Căn cứ thực hiện điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa và giải quyết tranh chấp liên quan .................................................................................... 22
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................. 31
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG HÓA “TIỀN HÀNG VÀ CƯỚC PHÍ ” TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ HÀNG HÓA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRONG GIAO DỊCH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ..................................................................... 32
2.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua quốc tế hàng hóa ............................................................................................. 32
2.1.1. Thực trạng thực hiện quyền của bên bán theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ........................................................................................... 32
2.1.2. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của bên bán theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ........................................................................................... 36
2.2. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên mua theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ...................................................................................... 42
2.2.1. Thực trạng thực hiện quyền của bên mua theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ........................................................................................... 42
2.2.2. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của bên mua theo điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ........................................................................................... 45
2.3. Giải quyết tranh chấp phát sinh khi thực hiện điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ....................................................................................................... 48
2.3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp ......................................... 48
2.3.2. Thực trạng phương thức giải quyết tranh chấp .................................................. 55
2.4. Nâng cao hiệu quả áp dụng điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam ...................................................................................... 61
2.4.1. Nâng cao hiệu quả thực hiện điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ....................................................................................................................... 61
2.4.2. Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa ................................................................................................... 62
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................. 64
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Association of South East Asian Nations Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á
Cost and Freight Tiền hàng và cước phí CFR:
United Nations Convention on Contracts for the International CISG:
Sale of Goods Công ước Viên về mua bán quốc tế hàng hóa
Free on board Giao hàng lên tàu FOB:
International Chamber of Commerce Phòng thương mại quốc ICC:
tế
INCOTERM: International Commercial Terms Tập quán thương mại quốc tế
UCP: The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits
Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
UNCITRAL: The United Nations Commission on International Trade Law
Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế
UNIDROIT: The International Institute for the Unification of Private Law
Viện quốc tế về nhất thể hóa Pháp luật tư
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình kinh doanh, việc mua bán của các thương nhân giữa các
quốc gia với nhau đóng góp không nhỏ cho quá trình phát triển thương mại
quốc tế. Các tập quán thương mại được hình thành dưới dạng điều kiện
thương mại trong giao dịch mua bán quốc tế được ghi nhận hết sức phổ biến
trong những hợp đồng mua bán quốc tế đó.
Việc thực hiện hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa với các điều kiện
theo Incoterms (các điều kiện thương mại quốc tế trong đó bao gồm điều kiện
" Tiền hàng và cước phí " - CFR) buộc các doanh nghiệp phải hiểu biết về các
điều kiện giao nhận hàng hóa nói chung và điều kiện CFR nói riêng. Khi áp
dụng điều kiện này, các thương nhân có thể ghi nhận trong hợp đồng và bảo
đảm thực hiện hoạt động giao nhận hàng hóa thông qua CFR, một phương
thức giao nhận hàng hóa bằng đường biển và đường thủy nội địa. Việc tìm
hiểu sâu điều kiện CFR theo Incoterms được các thương nhân Việt Nam ghi
nhận trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
là vô cùng cần thiết.
Mặc dù việc nghiên cứu các điều kiện thương mại trong đó có CFR đã
được triển khai theo nhiều cấp độ nhưng các công trình này đề cập đến các
điều kiện giao nhận hàng hóa nói chung mà ít nghiên cứu trực tiếp về điều
kiện CFR...Bên cạnh đó, việc áp dụng điều kiện CFR trong các hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa còn gặp nhiều khó khăn, bất cập; tồn tại những
khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Với mục đích làm rõ những nội dung
pháp lý của tập quán thương mại quốc tế phổ biến được ghi nhận trong các
hợp đồng như điều kiện CFR trong giao dịch mua bán quốc tế hàng hóa, tác
giả chọn đề tài: Điều kiện giao nhận hàng hóa CFR trong hợp đồng mua
1
bán quốc tế hàng hóa từ thực tiễn các doanh nghiệp Việt Nam làm đề tài
luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Incoterms và các điều kiện Incoterms đã được nhiều tác giả trong và
ngoài nước nghiên cứu về cả mặt lý luận và thực tiễn. Tất cả các công trình
này đều mang lại những giá trị nhất định trong tham khảo và áp dụng.
Ở Việt Nam, vấn đề này cũng đã được nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu,
phải kể đến là một số công trình nghiên cứu như: PGS.TS Đoàn Thị Hồng
Vân, Phân tích thực trạng vận dụng các điều kiện thương mại quốc tế
(Incoterms) trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam và những giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng Incoterms, Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh (2002); PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân: Hỏi
đáp về sử dụng Incoterms 1990 và Incoterms 2000; Nxb Thống Kê (2005);
PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân: Những giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng của Incoterms 2000 tại Việt Nam; Nxb Thống kê
(2002); Phạm Thị Mỹ Hiền: Tình hình áp dụng Incoterms ở Việt Nam và đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Incoterms (2012); Nguyễn
Thu Vân, Thực trạng sử dụng Incoterms ở Việt Nam (2013); Ths Nguyễn
Trung Đông, Giới thiệu một số thay đổi chính của Incoterms 2010 so với
Incoterms 2000; Ths Lê Thị Hiền, Thực tiễn áp dụng Incoterms trong hợp
đồng mua bán quốc tế hàng hóa tại Việt Nam – (2014).
Những bài viết, công trình nghiên cứu trên, về cơ bản đã đi sâu phân
tích các điều kiện của Incoterms và thực tiễn áp dụng. Đồng thời đề ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các điều kiện này trong hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa trong thời gian tới. Tuy nhiên, đến nay, chưa có
công trình nghiên cứu nào thực hiện việc nghiên cứu chỉ với riêng điều kiện
tiền hàng và cước phí (CFR) như một tập quán theo Incoterms đã được các
2
bên thỏa thuận ghi nhận trong hợp đồng cũng như thực tiễn áp dụng điều kiện
CFR này trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa. Mà tiền hàng và cước
phí là điều khoản phổ biến trong hợp đồng được các bên luôn quan tâm trong
hợp đồng thương mại quốc tế. Thực tiễn áp dụng điều kiện CFR này trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa cũng nảy sinh những tranh chấp nhất
định; việc giải quyết chúng cũng gặp không ít khó khăn.
Do đó luận văn sẽ kế thừa những nội dung đã nghiên cứu và phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dung về tập quán thương mại này chưa
được nghiên cứu sâu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Luận văn tập trung nghiên cứu về điều kiện CFR theo Incoterms 2010
được ghi nhận trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, thực tiễn áp dụng
của các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nâng
cao khả năng giải quyết tranh chấp điều kiện này trong hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận giải lý luận về điều kiện CFR của Incotersms và Hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa: Khái niệm, bản chất, quá trình hình thành và phát triển
của điều kiện CFR theo Incoterms 2010, nội dung của điều kiện này khi được
ghi nhận trong các hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa và vai trò cũng như
giá trị pháp lý của chúng trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa. Bên cạnh
đó, luận văn phân tích mối quan hệ của điều kiện CFR với các điều khoản
khác trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, căn cứ thực hiện điều khoản
này và cơ chế giải quyết khi có tranh chấp xảy ra đối với điều khoản tiền hàng,
cước phí (CFR).
3
- Thực tiễn áp dụng điều kiện CFR của Incoterms trong hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa tại Việt Nam, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên khi áp dụng điều kiện này và thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan
đến điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa tại Việt Nam.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về điều kiện CFR theo
Incoterms 2010 trong hoạt động mua bán quốc tế hàng hóa của các doanh
nghiệp Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu điều kiện về tiền
hàng và cước phí (CFR) theo Incoterms 2010, trong đó tập trung vào việc sử
dụng điều kiện này như một điều khoản hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa,
xác định rõ quyền và nghĩa vụ của bên bán, bên mua khi thực hiện điều kiện
CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa. Đồng thời, nghiên cứu thực
tiễn áp dụng điều kiện CFR của Incoterms 2010 của các doanh nghiệp Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập
trung phân tích các khía cạnh pháp lý cơ bản nhất về điều kiện CFR dưới
dạng nội dung tập quán thương mại theo phiên bản Incoterms 2010; ghi nhận
CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá; thực trạng sử dụng điều kiện
CFR theo Incoterms 2010 của các doanh nghiệp Việt Nam trong xác lập, thực
hiện hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của luận văn, trong
quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong
luận văn bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm; phương pháp diễn dịch;
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh luật học; phương pháp kết hợp
4
giữa lý luận và thực tiễn. Các phương pháp này được sử dụng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung của đề tài nghiên cứu có những đóng góp nhất định về mặt lý
luận và thực tiễn. Cụ thể:
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về điều kiện về tiền hàng và
cước phí (CFR) theo Incoterms 2010, điểm mới của Incoterms 2010 so với
các phiên bản trước đó ; Cở sở lý luận về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa.
Thực trạng áp dụng điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế
hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của các bên khi
áp dụng điều kiện CFR trong hợp đồng, thực tiễn giải quyết tranh chấp liên
quan đến điều kiện CFR.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng điều kiện
CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa của các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương. Cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều kiện giao nhận hàng hóa
“Tiền hàng và cước phí ” (CFR) trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Chương 2: Thực trạng thực hiện điều kiện giao nhận hàng hóa “Tiền
hàng và cước phí ” (CFR) trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong giao dịch của các doanh nghiệp Việt
Nam
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG
HÓA “TIỀN HÀNG VÀ CƯỚC PHÍ ” (CFR) TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN QUỐC TẾ HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm, bản chất và quá trình hình thành CFR
1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của CFR
CFR (Cost and Freight) nghĩa là tiền hàng và cước phí, là một trong các
điều kiện của Incoterms.
Incoterms là từ viết tắt của cụm từ tiếng Anh là International
Commercial Terms. Đây tập hợp các tập quán thương mại quốc tế được công
nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, quy định về trách nhiệm của các
bên trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa.
Incoterms được các thương nhân áp dụng tại nhiều quốc gia, vùng lãnh
thổ trên thế giới công nhận và sử dụng rộng rãi. Incoterms quy định những
quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên
mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế, bao gồm các điều khoản về
giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các bên như: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ
đảm trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách
nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển…,
thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá. Trong nội dung chính của
các điều khoản này phải kể tới hai điểm quan trọng chính là: Trách nhiệm của
bên mua, bên bán đến đâu; Điểm chuyển giao trách nhiệm, chi phí, rủi ro từ
người bán sang người mua.
Các giao dịch sử dụng Incoterms thực hiện trong phạm vi thương mại
quốc tế, chứ không phải là các giao dịch trong nước. Vì vậy, Incoterms có
những tác động nhất định đến các hoạt động xuất nhập khẩu. Incoterms không
6
phải là các quy pham luật thành văn, chỉ là các tập quán được sử dụng rộng
rãi, được thừa nhận bởi các thương nhân. Đó là những tập quán thương mại
nhiều hơn là những luật lệ buộc phải tuân theo trong mọi trường hợp. Nghĩa
là có thể sử dụng những điều kiện trong Incoterms như là những tập quán
tham chiếu từ các hợp đồng mà các bên thỏa thuận áp dụng trong mua bán
quốc tế.
Chỉ khi bên bán và bên mua đồng ý sử dụng quy tắc nào đó trong
Incoterms và đưa vào trong bản hợp đồng mua bán, lúc đó nội dung của quy
tắc áp dụng mới mang tính ràng buộc. Và một khi đã được thống nhất áp dụng,
các bên giao dịch phải có nghĩa vụ, trách nhiệm với những quy tắc này.
Như vậy CFR có thể được hiểu là một trong các điều kiện theo
Incoterm được các bên thống nhất sử dụng làm điều khoản quy định về tiền
hàng và cước phí trong hợp đồng thương mại quốc tế, áp dụng cho vận tải
biển và thủy nội địa.
Đối với CFR thì người bán phải chịu chi phí chuyên chở đến cảng dỡ
hàng, còn chi phí dỡ hàng do người mua chịu nếu có thỏa thuận. Trên thực tế
CFR còn có thể ký hiệu (CNF – Cost and Freight).
Giá CFR = Giá FOB (Giá giao hàng trên phương tiện vận chuyển) + F
(Cước phí vận chuyển)
Vì Incoterms không phải là luật, những quy tắc đề ra không có tính chất
bắt buộc, mà đó là những tập quán thương mại được các bên thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán quốc tế hoặc có thể được áp dụng bởi cơ quan giải quyết
tranh chấp ngay cả khi các bên không thỏa thuận nếu không có căn cứ nào
khác. Khả năng áp dụng tập quán thương mại quốc tế nói chung cũng như
CFR nói riêng trong giao dịch giữa các thương nhân được pháp luật các quốc
gia, trong đó có pháp luật Việt Nam thừa nhận. Theo quy định của luật Việt
Nam tại Điều 666 Bộ Luật Dân sự 2015 về áp dụng tập quán quốc tế thì đối
7
với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: “Các bên được lựa chọn tập quán
quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này. Nếu
hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của CFR như tập quán thương
mại quốc tế phổ biến và vai trò CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hóa
Để giúp người mua và người bán ở các nước khác nhau có phong tục
tập quán, luật lệ, ngôn ngữ… khác nhau dễ dàng quy định về các quyền lợi và
nghĩa vụ trong quá trình giao dịch mua bán hàng hóa, năm 1936 Phòng
Thương mại quốc tế (Tổ chức Thương mại thế giới) đã ban hành các điều
kiện thương mại quốc tế - Incoterms.
Incoterms là tập hợp các tập quán thương mại quốc tế được công nhận
và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterms hướng dẫn những quy tắc có
liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong
một hoạt động thương mại quốc tế. Incoterms giải thích các điều khoản về
giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm
trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm
về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển…, và
quan trọng nhất là thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá.
Bản chất của Incoterms không phải là văn bản luật mà thực chất là một
văn bản có tính hướng dẫn, giải thích cho người mua và người bán trên thế
giới khi; tuy nhiên tính hữu dụng của nó đã trở nên phổ biến trong thương
mại quốc tế. Một khi bên mua và bán tự nguyện áp dụng, dẫn chiếu vào hợp
đồng thì Incoterms sẽ trở thành văn bản có tính pháp lý buộc các bên phải
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ ghi nhận trong Incoterms. Từ năm 1936 đến
nay, Incoterms đã qua 5 lần sửa đổi: 1953, 1967, 1980, 1990, 2000 và 2010.
8
Tuy nhiên, Incoterms sau không phủ định nội dung của Incoterms trước đó đã
ban hành, tùy theo nhu cầu của bên bán và bên mua mà có thể thỏa thuận áp
dụng Incoterms theo phiên bản năm tương ứng và khi thống nhất áp dụng
Incoterms nào thì cần phải dẫn chiếu vào hợp đồng xuất khẩu
– Incoterms 1980: Gồm 14 điều kiện: Ex Works; Free Carrier; Free on
Rail/Free on Truck; Fob Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost
and Freight; Cost, insurance and freight; Freight Carriage paid to; Freight
Carriage and insurance paid to; Ex Ship; Ex Quay; Delivered at frontier;
Delivered Duty paid.
– Incoterms 1990: Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR;
CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP.
– Incoterms 2000: Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR;
CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP và được chia làm 4 nhóm (E,
F, C, D).
– Incoterms 2010: Incoterms 2010 là phiên bản thứ 8 đưa vào áp dụng
các thông lệ mới nhất trong thương mại, cập nhật và tổng hợp một số các quy
tắc cũ. Hệ thống phân loại mới của Incoterms 2010 phân chia quy tắc của 11
thông lệ thương mại thành hai nhóm riêng biệt gồm:
- Nhóm các quy tắc áp dụng cho tất cả các hình thức vận tải.
- Nhóm các quy tắc áp dụng cho vận tải đường thủy. Số điều kiện trong
Incoterms 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều này là nhờ việc thay
thế bốn điều kiện cũ của Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai
điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT – Giao
hàng tại bến và DAP – Giao tại nơi đến.
Hiện nay, Incoterms 2010 được sử dụng phổ biến nhất vì đây là lần sửa
đổi gần nhất, được ban hành dựa trên kinh nghiệm, tập quán buôn bán giữa
thương nhân các nước và khắc phục được các nhược điểm của Incoterms đã
9
ban hành trước đó. Incoterms 2010 gồm có 11 điều kiện và được chia thành 4
nhóm E, F, C, D, trong đó, CFR thuộc nội dung nhóm C: gồm CRF (Cost and
Freight), CIF (Cost Insurance and Freight), CPT (Carriage Paid To), CIP
(Cost Insurance Paid to).
Thực tế cho thấy, các thương nhân Việt nam có thói quen sử dụng các
điều kiện FOB (khi họ là bên bán) và điều kiện CIF (khi họ là bên mua) trong
giao dịch mua bán quốc tế hàng hóa. Tuy nhiên, trong số các điều kiện theo
Incoterms 2010 kể trên, điều kiện CFR có vai trò không kém tiện dụng cho
các bên trong giao dịch.
CFR là điều kiện giao hàng tại cảng bốc xếp (cảng gửi hàng). Theo đó,
người bán chịu trách nhiệm, bằng chi phí của mình, đưa hàng tới cảng bốc
xếp chỉ định và hoàn thành việc giao hàng khi hàng đã đặt lên tàu tại cảng bốc
xếp. Mọi rủi ro về mất mát, hư hại đối với hàng hóa cũng như mọi chi phí
phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau thời điểm giao hàng được chuyển
từ người bán cho người mua khi hàng đặt lên tàu.
Tuy nhiên, bên bán chịu trách nhiệm, dùng chi phí của mình thuê tàu để
chuyên chở hàng hóa từ cảng bốc xếp đến cảng đích. Nếu các bên không có
thỏa thuận khác thì hợp đồng vận tải sẽ được ký kết với điều kiện thông
thường, với tuyến đường thông thường bằng tàu thuê là tàu đi biển hoặc tàu
chạy đường thủy nội địa (tùy từng trường hợp) loại thường dùng để chuyên
chở hàng hóa của hợp đồng. Bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm vận
chuyển hàng hóa từ cảng bốc xếp đến cảng đích.
Điều kiện CFR được các bên sử dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế
hàng hóa và các bên tự mình ràng buộc phải chịu trách nhiệm thực hiện như
các điều khoản thỏa thuận cụ thể khác. Điều kiện này được sử dụng khá phổ
biến trong hoạt động mua bán quốc tế hàng hóa, áp dụng cho vận tải đường
biển và đường thủy nội địa.
10
1.2. Nội dung của CFR trong giao dịch mua bán quốc tế hàng hóa
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ giao nhận của bên bán theo CFR
Trong một giao dịch CFR, người bán phải: Ký kết hợp đồng chuyên
chở đường biển và trả cước phí để chuyển hàng hóa đến cảng đích; Làm thủ
tục, lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu; Giao hàng lên tàu;
Cung cấp cho bên mua hoá đơn và vận đơn đường biển hoàn hảo; Trả tiền chi
phí bốc hàng lên tàu; Trả tiền chi phí dỡ hàng nếu chi phí này được tính vào
cước trong hợp đồng vận tải; Thông báo cho người mua chi tiết về chuyến tàu
chở hàng; Chuyển giao hóa đơn thương mại, chứng từ vận tải và các chứng từ
khác liên quan. Cụ thể là:
Người bán phải cung cấp hàng hóa và hóa đơn thương mại phù hợp với
hợp đồng mua bán và cung cấp tất cả bằng chứng phù hợp mà hợp đồng có
thể đòi hỏi, đây là nghĩa vụ chung của người bán.
Người bán khi cần phải chịu rủi ro và chi phí để lấy bất kì giấy phép
xuất khẩu hoặc giấy phép chính thức nào khác và phải thực hiện mọi thủ tục
hải quan cần thiết để xuất khẩu hàng hóa.
Người bán phải kí hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ địa điểm giao
hàng đã thỏa thuận nếu có, tại nơi giao hàng đến cảng đến đã được chỉ định
hoặc bất cứ địa điểm nào tại cảng đến. Hợp đồng vận tải phải được kí với điều
kiện thông thường với chi phí do người bán chịu và phải vận chuyển hàng hóa
theo tuyến đường thông thường bằng một con tàu thuộc loại thường sử dụng
để vận chuyển hàng hóa đó.
Người bán không có nghĩa vụ đối với người mua về kí hợp đồng bảo
hiểm nhưng người bán phải cung cấp cho người mua những thông tin người
mua cần để mua bảo hiểm, nếu người mua yêu cầu và chịu rủi ro và chi phí,
nếu có.
11
Người bán phải giao hàng bằng cách hoặc đặt hàng lên tàu hoặc mua
hàng đã giao như vậy. Trong cả hai trường hợp, người bán phải giao hàng vào
ngày đã thỏa thuận hoặc trong khoảng thời gian đã thỏa thuận, theo cách thức
thông thường tại cảng.
Người bán phải chịu mọi rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa
cho đến khi hàng hóa được giao lên tàu hoặc mua hàng để giao hàng lên tàu
trừ những mất mát hư hỏng do người mua không thông báo hoặc thông báo
không đầy đủ về thời gian gửi hàng hoặc địa điểm nhận hàng cho người bán
[17,tr.96,100].
Người bán phải thông báo cho người mua biết những thông tin cần thiết
để người mua có thể áp dụng những biện pháp thông thường cần thiết để nhận
hàng.
Người bán phải trả tất cả các chi phí liên quan đến hàng hóa cho tới khi
hàng được giao bằng cách hoặc đặt hàng lên tàu hoặc mua hàng đã giao như
vậy. Cước phí vận chuyển và tất cả chi phí phát sinh, kể cả các chi phí xếp
hàng lên tàu và bất kì lệ phí nào để dỡ hàng tại cảng dỡ đã thỏa thuận mà
người bán phải chịu theo hợp đồng vận tải và chi phí thủ tục hải quan cần
thiết để xuất khẩu nếu có cũng như tất cả các thứ thuế, chi phí, lệ phí khác có
thể phái trả khi xuất khẩu và chi phí vận tải qua các nước mà người bán phải
chịu theo hợp đồng vận tải.
Như vậy, trong CFR khi hàng hóa đã được giao lên tàu thì rủi ro về mất
mát hay hư hỏng của hàng hóa di chuyển sang cho người mua. Người bán
phải ký hợp đồng vận chuyển và trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa
hàng hóa đến cảng đến quy định.
Khi sử dụng các điều kiện CFR người bán hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng khi người bán giao hàng cho người chuyên chở theo cách thức được quy
12
định cụ thể trong điều kiện của CFR như ở trên, chứ không phải hoàn thành
nghĩa vụ khi hàng tới nơi đến.
CFR đòi hỏi người bán thông quan xuất khẩu cho hàng hóa (nếu có).
Tuy vậy, người bán không có nghĩa vụ thông quan khi nhập khẩu, trả bất kỳ
loại thuế nhập khẩu nào hay tiến hành bất kỳ một thủ tục hải quan nhập khẩu
nào.
Người bán phải bằng chi phí của mình, cung cấp cho người mua không
chậm trễ chứng từ vận tải thường lệ đến cảng đến đã thỏa thuận. Chứng từ
vận tải này phải thể hiện là hàng của hợp đồng, phải ghi ngày tháng trong thời
hạn giao hàng đã thỏa thuận, giúp cho người mua có thể nhận hàng từ người
chuyên chở và cho phép người mua có thể bán hàng trong quá trình vận
chuyển bằng cách chuyển nhượng chứng từ vận tải cho người mua tiếp theo
hoặc bằng cách thông báo cho người chuyên chở, trừ khi có thỏa thuận khác.
Khi chứng từ vận tải được phát hành dưới dạng có thể chuyển nhượng
được và gồm nhiều bản gốc, thì một bộ đầy đủ các bản gốc phải được xuất
trình cho người mua.
Người bán phải trả các chi phí về việc kiểm tra như kiểm tra chất
lượng, cân, đo, đong, đếm..cần thiết để giao hàng theo quy định, kể cả các phí
tổn cho bất kì việc kiểm tra nào trước khi gửi hàng theo yêu cầu của các cơ
quan có thẩm quyền ở nước xuất khẩu.
Người bán phải bằng chi phí của mình, đóng gói hàng hóa, trừ khi
thông lệ của ngành hàng quy định cụ thể hàng hóa được gửi đi không cần
đóng gói. Người bán có thể đóng gói hàng phù hợp với phương thức vận tải,
trừ khi người mua thông báo cho người bán yêu cầu cụ thể về đóng gói trước
khi kí kết hợp đồng. Bao bì phải được ghi kí mã hiệu thích hợp.
Nếu có quy định thì người bán theo yêu cầu của người mua phải giúp
đỡ người mua lấy các chứng từ và thông tin kể cả thông tin an ninh mà người
13
mua cần để nhập khẩu, do vì người mua phải chịu rủi ro và phí tổn.
Người bán phải hoàn trả cho người mua tất cả chi phí, lệ phí phát sinh
trong trường hợp người mua đã chi để lấy được những chứng từ và thông tin
an ninh phục vụ cho việc nhập khẩu hàng hóa của người mua.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ giao nhận của bên mua theo CFR
Đối với giao dịch mua bán hàng hóa, quyền của bên bán là nghĩa vụ
của bên mua và ngược lại. Khi các bên thỏa thuận trong hợp đồng và thực
hiện điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên mua có các quyền
và nghĩa vụ cụ thể sau: Nhận hàng khi hoá đơn và vận đơn được giao cho
mình; Trả tiền chi phí dỡ nếu chi phí chưa nằm trong cước; Chịu mọi rủi ro và
tổn thất về hàng kể từ khi hàng được đặt lên tàu ở cảng bốc. Cụ thể là:
Người mua phải thanh toán như quy định trong hợp đồng mua bán hàng
hóa. Đây là nghĩa vụ chung mà người mua phải thực hiện.
Nếu có quy định, người mua phải tự chịu rủi ro và phí tổn để lấy được
giấy phép nhập khẩu hoặc các giấy phép chính thức nào khác và làm thủ tục
hải quan để nhập khẩu hàng hóa và vận tải qua nước khác [17,tr.97].
Người mua không có nghĩa vụ đối với người bán về ký hợp đồng vận
tải. Người mua cũng không có nghĩa vụ đối với người bán về kí hợp đồng bảo
hiểm. Tuy vậy, người mua phải cung cấp cho người bán tất cả những thông
tin cần thiết cho việc mua bảo hiểm nếu người bán có yêu cầu.
Người mua phải nhận hàng khi hàng hóa đã được giao theo đúng quy
định và nhận hàng từ người chuyên chở tại cảng đến đã được chỉ định.
Người mua chịu mọi rủi ro về mất mát, hư hỏng của hàng hóa kể từ khi
hàng đã được bên ban giao theo đúng quy định của CFR. Nếu người mua
không thông báo đúng, đầy đủ về thời gian, địa điểm giao nhận hàng thì
người mua phải chịu mọi rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa kể từ
ngày thỏa thuận giao hàng hoặc kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thỏa thuận
14
giao hàng với điều kiện hàng đã được phân biệt rõ ràng là hàng của hợp đồng
[17,tr.99].
Người mua phải trả tất cả các chi phí liên quan đến hàng hóa kể từ khi
hàng hóa đã được giao theo quy định, trừ các chi phí làm thủ tục hải quan
(nếu có) cho việc xuất khẩu, cũng như tất cả các loại, thuế, chi phí, lệ phí
khác khi xuất khẩu; Phải trả tất cả các chi phí, lệ phí liên quan đến hàng hóa
khi quá cảnh cho đến khi hàng đến cảng đến, trừ các phí, lệ phí mà người bán
phải chịu theo hợp đồng vận tải; Chi phí dỡ hàng kể cả phí lõng hàng và phí
cầu bến trừ các phí, lệ phí mà người bán phải chịu theo hợp đồng vận tải; Các
chi phí phát sinh nếu người mua không thông báo đúng, đầy đủ về thời gian,
địa điểm giao nhận hàng theo quy định kể từ ngày thỏa thuận giao hàng hoặc
kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thỏa thuận giao hàng với điều kiện hàng đã
được phân biệt rõ ràng là hàng của hợp đồng; Và tất cả các loại thuế, phí, lệ
phí và chi phí khác (nếu có) cũng như các chi phí làm thủ tục hải quan để
nhập khẩu, chi phí để vận tải hàng hóa qua bất kì nước nào trừ khi đã bao
gồm trong chi phí của hợp đồng vận tải [17,tr.99].
Người mua khi xác định được thời gian và địa điểm giao nhận hàng thì
phải thông báo đúng, đầy đủ cho người bán.
Người mua phải chấp nhận chứng từ vận tải theo quy định nếu chứng
từ đó phù hợp với hợp đồng. Và phải trả các khoản chi phí kiểm tra bắt buộc
trước khi gửi hàng, ngoại trừ việc kiểm tra theo yêu cầu của các cơ quan có
thẩm quyền ở nước xuất khẩu.
Người mua phải thông báo cho người bán một cách kịp thời về các
thông tin an ninh để người bán có thể thực hiện. Người mua phải hoàn trả cho
người bán tất cả chi phí và lệ phí mà người bán đã chi để lấy được những
chứng từ và thông tin phục vụ cho việc nhập khẩu hàng hóa của người mua,
hoặc vận tải đến địa điểm cuối cùng. Nếu có quy định, người bán phải tự chịu
15
rủi ro và phí tổn để lấy được chứng từ, thông tin kể cả thông tin an ninh mà
người bán cần để làm thủ tục vận tải, xuất khẩu hoặc quá cảnh qua nước khác
thì người mua phải giúp đỡ người bán một cách kịp thời, do vì người bán phải
chịu rủi ro, phí tổn [17,tr.99].
Với điều kiện này, có thể thấy, rủi ro di chuyển và chi phí được phân
chia ở các địa điểm khác nhau, đó là ở cảng gửi hàng và cảng đích (cảng nơi
đến trong hợp đồng). Khi người mua và người bán thiết lập hợp đồng thì
thường trong hợp đồng luôn chỉ rõ cảng đến (cảng đích) nhưng có thể lại
không chỉ rõ cảng xếp hàng – là nơi mà rủi ro di chuyển sang người mua. Nếu
cảng gửi hàng có ý nghĩa đặc biệt đối với người mua, thì các bên quy định
trong hợp đồng càng cụ thể càng tốt.
Như vậy, các bên xác định càng cụ thể địa điểm đến đã thỏa thuận thì
càng tốt, vì các chi phí cho đến địa điểm đó do người bán chịu. Người bán nên
ký các hợp đồng vận tải đến đúng địa điểm này. Nếu theo hợp đồng chuyên
chở, người bán phải trả các chi phí liên quan đến việc dỡ hàng tại địa điểm chỉ
định ở cảng đến, thì người bán không có quyền đòi lại chi phí đó từ người
mua trừ phi hai bên có thỏa thuận khác.
CFR không phù hợp khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở
trước khi hàng được giao lên tàu, ví dụ hàng đóng trong container, mà thường
là giao hàng tại bến, bãi.
1.3. Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa và hiệu lực của điều khoản
CFR trong hợp đồng
1.3.1. Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện bằng nhiều loại hợp đồng khác
nhau. Hiện nay, mặc dù có nhiều hình thức thương mại mới, nhưng trao đổi
hàng hóa vẫn chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động thương mại quốc tế, đặc
biệt là ở Việt Nam. Các hình thức hoạt động thương mại khác được hình
16
thành sau này có vai trò hỗ trợ cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa. Chính vì
vậy mà trước đây cũng như hiện nay, hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
đóng vai trò chủ đạo, chính vì có vai trò quan trọng nên hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hóa được nhiều tổ chức thương mại quốc tế, nhiều quốc gia dành
sự chú ý và quan tâm đáng kể khi tiến hành hoạt động hệ thống hóa, pháp
điển hóa các quy phạm pháp luật trong thương mại quốc tế. Kết quả là các
quy phạm dùng để điều chỉnh hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa cũng được
ghi nhận trong các văn bản pháp lý của Luật thương mại, Bộ Luật Dân sự
điều chỉnh giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài, xây dựng khái niệm
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, căn cứ điều chỉnh chúng trong đó có tập
quán thương mại quốc tế. Có thể hiểu Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
(còn được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc hợp đồng xuất nhập
khẩu) là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế (có yếu tố nước
ngoài). Tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá được hiểu
không giống nhau tuỳ theo quan điểm của luật pháp từng nước.
Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản
hữu hình thì tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có
trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng,
được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp
đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 của Công ước).
Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú
thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong
việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua
bán Hàng hoá Quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên năm 1980) thì tính chất quốc
tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp
đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (điều 1 Công ước Viên
17
năm 1980). Và, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước này cũng
không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Công ước Viên năm 1980 không
đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác
định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Đối với Pháp, khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo các
tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển
qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác,
hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu chuẩn pháp
lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các quy
phạm pháp lý của nhiều quốc gia gắn với quốc tịch, nơi cư trú của các bên,
nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán…[14]
Đối với Việt Nam, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra
tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán quốc tế hàng hóa. Điều 27
Luật Thương mại 2005 nêu rõ mua bán quốc tế được thực hiện dưới các hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển
khẩu.
Luật Thương mại năm 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động
sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên
giới của một nước (vùng lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực
hải quan riêng... để xem xét tính quốc tế của hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hóa.
Theo Bộ luật dân sự 2015, yếu tố nước ngoài có thể gắn với 3 khía
cạnh pháp lý khác nhau của một giao dịch.
Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa có một số đặc trưng cơ bản sau:
18
Thứ nhất, hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa là hợp đồng thương mại
có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên,
người bán và người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là động sản,
tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một nước.
Thứ tư, tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ hoặc có thể là ngoại
tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam
và người mua Hà Lan, hai bên thoả thuận sử dụng đồng euro làm đồng tiền
thanh toán. Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía người bán Việt Nam
nhưng lại là nội tệ đối với người mua Hà Lan. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
đồng tiền thanh toán đều là nội tệ của cả hai bên, như trường hợp các doanh
nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng châu Âu sử dụng đồng euro làm đồng
tiền chung.
Thứ năm, Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa thường được ký kết
bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh.
Thứ sáu, tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa có thể là toà án hoặc trọng tài nước ngoài.
Thứ bảy, luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang
tính chất đa dạng và phức tạp. Điều này có nghĩa là hợp đồng mua bán quốc
tế hàng hóa có thể phải chịu sự điều chỉnh không phải chỉ của luật pháp nước
đó mà cả của luật nước ngoài (luật nước người bán, luật nước người mua hoặc
luật của bất kỳ một nước thứ ba nào), thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của
điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế (Incoterms) để điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên 1980 thì hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
không nhất thiết phải được ký kết bằng văn bản, tuy nhiên pháp luật Việt
19
Nam cũng như hầu hết của các quốc gia trên thế giới đều bắt buộc loại hợp
đồng này phải được ký kết bằng văn bản. Việc ký kết hợp đồng mua bán hàng
hóa bằng văn bản sẽ giúp các bên có được bằng chứng đầy đủ khi phải ra
tranh tụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, ký hợp đồng
bằng văn bản cũng tỏ rõ nhiều ưu thế hơn so với hình thức phi văn bản
Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa bao gồm
Luật quốc gia - pháp luật thương mại Việt Nam, pháp luật thương mại các
nước liên quan, các điều ước quốc tế về thương mại ví dụ Công ước Viên năm
1980, Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài, các tập quán thương mại quốc tế như Incoterms, Bản
quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 600). Tuy nhiên,
việc áp dụng luật quốc gia nào, hay Điều ước quốc tế, hay tập quán thương
mại quốc tế trước hết dựa trên việc các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nếu
không có thỏa thuận thì sẽ áp dụng các căn cứ điều chỉnh tương ứng trong
nguồn pháp luật thương mại quốc tế.
Đặc biệt, hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa bao gồm các điều khoản
trong đó có thể có điều kiện CFR do chính các bên thỏa thuận trong hợp
đồng; các bên cũng có thể thỏa thuận trong hợp đồng về luật áp dụng và cơ
quan giải quyết tranh chấp.
1.3.2. Hiệu lực của điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế
hàng hóa
Như chúng ta biết, Incoterms không phải là luật, nên những quy tắc đề
ra không có tính chất bắt buộc với bất kì bên nào. Đó là những tập quán
thương mại nhiều hơn là những luật lệ buộc phải tuân theo trong mọi trường
hợp. Như vậy quy tắc, điều kiện CFR trong Incoterms chỉ là quy tắc tham
khảo cho việc mua bán quốc tế.
20
Chỉ khi bên bán và bên mua đồng ý sử dụng quy tắc CFR trong
Incoterms và đưa vào trong bản hợp đồng mua bán, lúc đó nội dung của quy
tắc được coi như một điều khoản hợp đồng và có hiệu lực như các điều khoản
khác mang tính ràng buộc. Nếu các bên đã đồng ý áp dụng điều khoản CFR
theo Incoterms 2010, thì phải tuân thủ theo cách giải thích CFR của Incoterms
2010. Nếu một bên không thực hiện sẽ coi như vi phạm hợp đồng, và xử lý
theo điều khoản vi phạm của hợp đồng mua bán mà hai bên đã thỏa thuận.
Một khi đã được thống nhất áp dụng, các bên giao dịch phải có nghĩa
vụ thực hiện điều kiện CFR với nội dung được giải thích theo Incoterms đối
với quy tắc này. Mặt khác, khi đã sử dụng điều kiện CFR của Incoterms, hai
bên cũng hoàn toàn có thể thỏa thuận thêm những nội dung khác đi kèm với
nó.
Các điều kiện của Incoterms nói chung, điều kiện CFR nói riêng khi
được sử dụng làm điều khoản trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa cũng
phụ thuộc vào tập quán thương mại giao nhận tại từng quốc gia nên phải thỏa
thuận cụ thể về CFR (được hiểu theo Incoterms năm nào và tại cảng nào)
cũng như cần linh hoạt trong việc áp dụng. Do đó, các bên cần nghiên cứu
tập quán địa phương trong quá trình thương thảo và thực hiện hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa bởi khi tranh chấp xảy ra sẽ được giải thích như tập
quán mà các bên có ý định hướng tới áp dụng.
1.3.3. Mối quan hệ giữa điều khoản CFR và các điều khoản khác trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Các quy tắc trong Incoterms chủ yếu hướng đến những vấn đề chung có
liên quan đến việc giao hàng, chỉ được dùng để xác định thời điểm chuyển
giao rủi ro, trách nhiệm, chi phí từ người mua đến người bán, và CFR chỉ là
một trong các điều kiện về tiền hàng và cước phí. Khi sử dụng CFR như một
điều khoản trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa thì CFR có mối liên hệ
21
mật thiết với các điều khoản khác trong hợp đồng. Điều khoản CFR góp phần
làm rõ thời điểm chuyển giao rủi ro để xác định trách nhiệm của các bên trong
hợp đồng. Việc xác định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi khi giải quyết tranh
chấp nếu có vi phạm xảy ra.
Tuy nhiên, những vấn đề khác như giá cả hàng hóa, phương thức thanh
toán, các yêu cầu về bốc dỡ hàng hóa, lưu kho… thì hoàn toàn không quy
định quá rõ ràng, những nội dung khác về thời điểm chuyển quyền sở hữu
hàng hóa, hay những hậu quả có thể có khi vi phạm hợp đồng đều không được
đề cập đến, nghĩa là chưa được bao gồm trong Incoterms. Những vấn đề này
được thỏa thuận trong các điều khoản khác của hợp đồng và để tránh tranh
chấp xảy ra với nội dung khác đó, các bên cần thỏa thuận rõ ràng hợp đồng
cũng như luật áp dụng.
Như trên đã phân tích, đối với điều kiện CFR của Incoterms, khi làm
hợp đồng, cần ghi rõ: Tên điều kiện (CFR) – phiên bản Incoterms (2010) –
địa điểm giao hàng.
1.4. Căn cứ thực hiện điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc
tế hàng hóa và giải quyết tranh chấp liên quan
1.4.1 Căn cứ thực hiện điều khoản CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế
hàng hóa
Căn cứ để thực hiện các điều khoản nói chung và điều khoản CFR nói
riêng trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa phụ thuộc vào các thảo thuận
giữa các bên trong hợp đồng, và giá trị pháp lý của hợp đồng. Hợp đồng có
hiệu lực và giá trị pháp lý khi đáp ứng yêu cầu về mặt nội dung và hình thức.
Cụ thể:
Khi ký kết hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, cần thiết phải làm rõ
thẩm quyền ký kết của cách bên. Nếu một bên không có khả năng ký thì hợp
đồng có thể sẽ bị vô hiệu. Mà hợp đồng vô hiệu thì sẽ không có căn cứ để
22
thực hiện các điều khoản trong hợp đồng, trong đó có điều khoản CFR. Chủ
thể ký kết một hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa có thể là một cá nhân
hoặc một pháp nhân. Năng lực pháp luật của các đối tượng này sẽ không tuân
theo luật điều chỉnh hợp đồng, mà tuân theo luật của nước mà pháp nhân
mang quốc tịch. Một chủ thể mang quốc tịch một quốc gia, trước hết phải
tuân thủ pháp luật nước mình về tư cách chủ thể. Pháp luật một quốc gia khác
không thể điều chỉnh tư cách chủ thể của cá nhân hoặc pháp nhân mang quốc
tịch nước khác.
Một cá nhân có thể tự mình hoặc ủy quyền hợp pháp cho cá nhân khác
giao kết hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa. Một pháp nhân thì phải thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó thực hiện hành vi ký kết.
Để hợp đồng không bị vô hiệu là xác định cá nhân đó có thẩm quyền ký kết
hợp đồng hay không. Về vấn đề này, pháp luật mỗi quốc gia có sự quy định
khác nhau. Ví dụ như như Luật Anh thì theo hệ thống thông luật, nên không
có quy định cụ thể về ủy quyền. Tuy nhiên, các án lệ tại Anh công nhận sự ủy
quyền mặc nhiên, tức là một Giám đốc điều hành khi thực hiện nhiệm vụ điều
hành công ty thì có quyền thực hiện những hành vi mà một giám đốc điều
hành thông thường cần làm, nên có thể không cần giấy ủy quyền, còn theo
pháp luật Việt Nam, người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp
đồng hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện hành vi này thông qua giấy ủy
quyền hoặc Điều lệ công ty. Vì vậy, để tránh việc hợp đồng vô hiệu do chủ
thể ký kết không đúng thẩm quyền thì khi giao kết hợp đồng mua bán quốc tế
hàng hóa, các bên nên tìm hiểu các quy định về thẩm quyền và ủy quyền của
quốc gia đối tác hoặc yêu cầu bên kia cung cấp các giấy tờ để chứng minh
hoặc cam kết mình có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Theo quy định tại Điều
676 Bộ Luật Dân sự 2015 thì Thẩm quyền ký kết trong hợp đồng đối với
thương nhân xác định theo pháp luật nước nơi nước mà pháp nhân có quốc
23
tịch..
Về hình thức hợp đồng: Hình thức của hợp đồng cũng là một điều cần
lưu ý. Theo Điều 27.2 Luật Thương mại Việt Nam 2005 thì hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa phải được ký kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương. Theo Bộ luật dân sự 2015 tại Khoản 7 Điều 683
cũng quy định về hình thức hợp đồng như sau: “Hình thức của hợp đồng được
xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp hình thức
của hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật
của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp
đồng đó được công nhận tại Việt Nam”. Theo các quy định trên thì hình thức
Hợp đồng mua bán quốc tế thàng hóa theo luật Việt Nam phải được ký kết
bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, tuy nhiên
trong trường hợp pháp luật áp dụng đối với Hợp đồng đó là luật nước ngoài
thì hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật nước ngoài.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tuyên bố bảo lưu Điều 11 của Công ước
Viên 1980 nên nhất thiết các hợp đồng được ký kết phải được thực hiện dưới
hình thức văn bản. Nếu có sai phạm về hình thức, Tòa án Việt Nam hoặc
Trọng tài tại Việt Nam có thể tuyên hợp đồng vô hiệu. Phương án tốt nhất khi
giao kết hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa là nên soạn thảo hợp đồng bằng
văn bản vì các nội dung sẽ được thể hiện rõ ràng, tiện lợi cho việc giải quyết
tranh chấp sau này.
Các bên luôn cần thỏa thuận về luật áp dụng chung cho hợp đồng; tuy
nhiên luật áp dụng sẽ không làm rõ nội dung tập quán CFR mà chỉ điều chỉnh
chung hợp đồng, thừa nhận giá trị pháp lý của nôi dung hợp đồng. Vậy điều
khoản CFR cũng có thể xảy ra tranh chấp khi các bên không xác định cụ thể
Incoterms năm nào hoặc ghi sai tên cảng. Thực tiễn khi tranh chấp, cơ quan
24
giải quyết thường chọn Incoterms năm gần nhất nếu các bên không ghi rõ
trong hợp đồng. Bên cạnh đó, mỗi điều kiện Incoterms đi kèm cảng đến hay
cảng đi khác nhau nên trong hợp đồng cần ghi chính xác.
Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa thường được ký kết giữa các bên
tới từ các quốc gia khác nhau với ngôn ngữ khác nhau. Mỗi ngôn ngữ có thể
dẫn đến cách hiểu khác nhau hoặc hiểu sai, nên tốt nhất các bên có thể sử
dụng chung một ngôn ngữ. Nếu không muốn sử dụng chung một ngôn ngữ,
hai bên cần ghi nhận thêm điều khoản số lượng các bản hợp đồng và giá trị
pháp lý của các phiên bản.
Việc ký kết hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa đòi hỏi nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực này. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn
vì hệ thống pháp luật khác nhau và không hề dễ dàng tìm hiểu các quy định
cụ thể trong các hệ thống pháp luật này. Nên khi ký kết hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hóa, các điều khoản cần được quy định một cách minh thị, cụ
thể và rõ ràng.
Ngoài nội dung Hợp đồng trong đó bao gồm điều khoản thỏa thuận áp
dụng CFR, luật áp dụng do các bên thỏa thuận, nguồn pháp luật điều chỉnh
hợp đồng còn bao gồm điều ước quốc tế liên quan, pháp luật quốc gia liên
quan nhất với giao dịch, tập quán thương mại quốc tế.
Điều ước quốc tế bao gồm các quy phạm trực tiếp điều chỉnh đến các
vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong
ký kết và thực hiện hợp đồng. Loại điều ước này điển hình có Công ước
Hamburg 1978 về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển, Công ước Viên
1980 về mua bán hàng hoá quốc tế. Điều ước quốc tế cũng có thể chỉ ra hệ
thống pháp luật liên quan gắn bó nhất điều chỉnh hợp đồng như Hiệp định
tương trợ tư pháp về dân sự.
25
Luật quốc gia cũng đóng một vai trò khá quan trọng và trong nhiều
trường hợp là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Luật đó có thể do
các bên lựa chọn (lựa chọn luật áp dụng) hoặc do quy phạm xung đột chỉ dẫn
đến.
Luật quốc gia được xem như một nguồn luật của thương mại quốc tế
không có nghĩa là tất cả các luật đều được áp dụng mà chỉ có một số luật, văn
bản pháp luật có liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế tương ứng được
áp dụng.
Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường
là luật của nước nào có quan hệ gần nhất với hợp đồng, thường là luật của
nước bên bán, luật của nước nơi hợp đồng được ký kết, nhưng cũng có thể là
luật của bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa
vụ của hợp đồng được thực hiện…
Tập quán thương mại là những quy tắc xử sự, những thói quen thương
mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời
gian dài và phải có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định được quyền và
nghĩa vụ đối với nhau. Các tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý
và có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể ký kết khi nó được quy định hoặc
dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 21 quy tắc phòng thương mại quốc tế (ICC) về
nguyên tắc trọng tài quy định "Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng
mà có thể dùng tới các điều khoản trong hợp đồng và những "Tập quán
thương mại" thích hợp để giải quyết vụ việc. Tập quán thương mại quốc tế
thông dụng được ICC soạn thảo và ban hành đó là Incoterms về điều kiện cơ
sở giao hàng; quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ (UCP) nhằm
hướng dẫn chuẩn mực quốc tế thống nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên.
Tóm lại, ngoài các điều khoản các bên thỏa thuận trong hợp đồng, giao
dịch thương mại có yếu tố nước ngoài mà thương nhân Việt Nam tiến hành có
26
thể áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn, Công ước Viên 1980, các Hiệp
định tương trợ tư pháp (có thể dẫn chiếu đến pháp luật quốc gia gắn bó nhất),
các tập quán thương mại quốc tế liên quan. Nếu pháp luật Việt Nam là pháp
luật quốc gia điều chỉnh hợp đồng thì căn cứ sẽ là Luật thương mại 2005 (điều
chỉnh trực tiếp giao dịch này) và Bộ luật dân sự 2015 (phần thứ 5 - quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài).
1.4.2 Giải quyết tranh chấp giữa các bên khi thực hiện hợp dồng
Trong việc thực hiện hợp đồng, tranh chấp xảy ra là điều không tránh
khỏi, chỉ cần một bên vi phạm điều khoản hợp đồng thì sẽ phát sinh tranh
chấp, buộc các bên phải cùng nhau giải quyết.
Để giải quyết tranh chấp nói chung, hay giải quyết tranh chấp liên quan
đến điều khoản CFR nói riêng dựa trên thỏa thuận về giải quyết tranh chấp
trong hợp đồng hoặc áp dụng theo quy định pháp luật liên quan. Về lý thuyết,
phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên bao gồm các phương thức
sau: phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Mỗi một
phương thức đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Cụ thể:
Đối với phương thức thương lượng: Thương lượng là phương thức giải
quyết đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp, thể hiện ở việc các bên
trong tranh chấp chủ động gặp gỡ nhau, bàn bạc, thỏa thuận về quyền lợi cũng
như nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng cũng như điều khoản CFR.
Pháp luật không có quy định bắt buộc các bên phải tiến hành thương lượng.
Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt của các bên, quyền lợi cũng
như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương lượng phụ thuộc vào thiện chí
tự giải quyết của các bên.
Nếu thương lượng được tiến hành trong khuôn khổ tố tụng trọng tài hay
tố tụng tư pháp thì khi đó trọng tài viên, thẩm phán, theo yêu cầu của các bên
có thế ra một văn bản công nhận thương lượng.
27
Phương thức thương lượng rất được các chủ thể ưu tiên lựa chọn ngay
khi xảy ra tranh chấp, bởi phương thức này không chịu sự điều chỉnh của
pháp luật, không bị gò bó bởi các quy định chặt chẽ về quy trình tổ chức
thương lượng, thành phần tham gia, thời gian thực hiện, cũng như không tốn
kém tiền bạc. Do sự tự giải quyết với nhau, nên tranh chấp không bị làm lớn,
không ảnh hưởng đến uy tín của các bên. Cũng bởi không có sự điều chỉnh
của quy phạm pháp luật nên không có sự cưỡng chế thi hành đối với kết quả
thương lượng.
Đối với phương thức hòa giải: Hòa giải các tranh chấp trong thương
mại quốc tế nói chung, tranh chấp trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
nói riêng là đưa các bên tới người thứ ba được chính các bên lựa chọn để giải
quyết tranh chấp. Các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với
sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải
không được bắt buộc thi hành. Hiệu lực cao nhất của thỏa thuận giải quyết
bằng hòa giải chỉ giống như một điều khoản hợp đồng ràng buộc các bên.
Phương thức hòa giải cũng được thực hiện hoàn toàn dựa trên thiện chí
của các bên.Tuy nhiên kết quả hòa giải cũng không được pháp luật bảo đảm
thi hành, hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên.
Đối với phương thức trọng tài: Trọng tài là quá trình giải quyết tranh
chấp do các bên tự nguyện lựa chọn trong hợp đồng và áp dụng cho tranh
chấp liên quan đén thực hiện hợp đồng, bao gồm cả thực hiện CFR, trong đó
bên thứ ba trung lập (trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra một
quyết định có tính bắt buộc với các bên tranh chấp.
Như vậy, phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa
thuận lựa chọn, nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình pháp luật quy định.
Điều khoản trọng tài được coi là độc lập với các điều khoản khác của hợp
đồng chính nên khi hợp đồng chính đã kết thúc hoặc bị vô hiệu thì cũng
28
không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu một cách tương ứng.
Phán quyết trong tài có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Các quyết
định và phán quyết của trọng tài nước ngoài có thể được tòa án công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam thông qua thủ tục tư pháp. Việt Nam là thành viên
của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài, theo đó thì mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận các
quyết định trọng tài có giá trị ràng buộc và thi hành chúng theo quy tắc về thủ
tục của lãnh thổ nơi quyết định sẽ được thi hành. Do đó, phán quyết
của trọng tài có tính bắt buộc thi hành với các bên, khi đã hết thời hạn tự
nguyện thi hành nhưng có một trong các bên không thực hiện, bên còn lại có
quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành phán
quyết của trọng tài.
Tuy nhiên giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương
đối cao, vụ việc kéo dài thì chi phí trọng tài cũng cao. Việc thi hành phán
quyết của trọng tài đôi khi cũng gặp nhiều khó khăn trong thực tế do bên phải
thi hành có thể viện dẫn các quy định nhằm ngăn chặn việc thi hành phán
quyết .
Đối với lựa chọn giải quyết bằng con đường Tòa án: Tòa án là phương
thức giải quyết tranh chấp truyền thống nhất và cũng hiệu quả nhất.
Đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của đại diện quyền lực
nhà nước là Tòa án nhân dân. Vì vậy quy trình giải quyết tranh chấp phải tuân
thủ quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án, quyết định của
Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành án của nhà
nước.
Tuy nhiên, phương án giải quyết bằng Tòa án cũng có nhiều nhược
điểm, bởi phán quyết của tòa nước ngoài sẽ khó thi hành tại một nước khác vì
hệ thống luật khác nhau, đồng thời sẽ áp dụng nguyên tắc có đi có lại khi xem
29
xét yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án quyết định của Tòa án nước
ngoài tại Việt Nam hoặc theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Do
đó có ít trường hợp bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài được xem xét
và công nhận tại Việt Nam.
30
Tiểu kết Chương 1
Trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, các bên có thể thỏa thuận,
xây dựng các điều khoản phù hợp. Trong đó điều kiện CFR theo Incoterms
được các bên thống nhất sử dụng làm điều khoản quy định về tiền hàng và
cước phí trong hợp đồng thương mại quốc tế, áp dụng cho vận tải biển và
thủy nội địa, được các doanh nghiệp lựa chọn làm điều khoản trong hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa, quy định các điều khoản về giao nhận hàng hoá,
trách nhiệm của các bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về
thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và
rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển…, thời điểm chuyển giao
trách nhiệm về hàng hoá.
Với điều khoản CFR của Incoterms, Chương 1 tập trung nghiên cứu về
nội dung của điều kiện CFR, quyền và nghĩa vụ của các bên khi điều kiện
CFR được quy định trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, bản chất, mối
quan hệ của điều khoản CFR với các điều khoản khác trong hợp đồng. Hiệu
lực và căn cứ để thực hiện điều khoản CFR, cơ chế giải quyết tranh chấp khi
có sự vi phạm điều khoản CFR.
Nội dung nghiên cứu của Chương 1 chính là cơ sở lý luận, là tiền đề
giúp nghiên cứu thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán theo điều
kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, thực tiễn giải quyết tranh
chấp phát sinh khi thực hiện điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hóa, để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng điều kiện
CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN ĐIỀU KIỆN GIAO NHẬN HÀNG HÓA
“TIỀN HÀNG VÀ CƯỚC PHÍ ” TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN
QUỐC TẾ HÀNG HÓA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG TRONG GIAO DỊCH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán theo điều kiện
CFR trong hợp đồng mua quốc tế hàng hóa
2.1.1. Thực trạng thực hiện quyền của bên bán theo điều kiện CFR trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Trong quá trình thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, các bên
trong đó có doanh nghiệp Việt Nam hay sử dụng các bộ điều kiện, các quy
tắc mang tính quốc tế được thừa nhận rộng rãi để trở thành một điều khoản
trong hợp đồng. Đặc biệt được sử dụng nhiều là các điều kiện trong bộ
Incoterms, trong đó có điều kiện CFR. Các quy tắc thương mại quốc tế trong
Incoterms quy định trách nhiệm các bên trong việc vận tải, chi phí hải quan,
bảo hiểm, hay trách nhiệm về tổn thất phát sinh trong quá trình vận
chuyển…Điều kiện CFR của Incoterms là điều kiện về tiền hàng và cước phí
chỉ áp dụng đối với hình thức vận tải đường thủy. Khi trong hợp đồng có điều
khoản quy định sử dụng điều kiện này thì bên bán không có nghĩa vụ phải
mua bảo hiểm cho hàng hóa, không phải làm thủ tục và trả các chi phí về
thông quan và thuế nhập khẩu, không phải trả chi phí dỡ hàng nếu chi phí này
không bao gồm trong hợp đồng vận tải, không phải thu xếp và trả phí bảo
hiểm hàng hóa, không có nghĩa vụ thông quan nhập khẩu, trả bất kỳ loại thuế
nhập khẩu nào hay tiến hành bất kỳ một thủ tục hải quan nhập khẩu nào và
không phải chịu mọi rủi ro sau khi hàng hóa đã đặt lên tàu ở cảng bốc (cảng
xuất khẩu), lúc này, rủi ro sẽ do người mua phải chịu.
32
Thực tiễn, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa cho thấy đây là điều
khoản rất có lợi cho người bán, người bán chỉ phải chịu chi phí cho đến khi
hàng hóa nhập cảng theo chỉ định. Còn vấn đề rủi ro xảy ra đối với hàng hóa
người bán chỉ phải chịu đến khi hàng được đặt lên tàu, còn những rủi ro xảy
ra trên đường vận chuyển bằng đường thủy cho đến cảng đích mà người mua
quy định thì người bán không có trách nhiệm phải chịu. Thực tế, nhiều vụ
việc tranh chấp xảy ra do thiệt hại rủi ro về hàng hóa xảy ra trên đường vận
chuyển bằng đường thủy, do chính phương tiện vận chuyển gây ra mà lỗi một
phần là do người bán vì tiết kiệm chi phí đã thuê phương tiện vận chuyển
không đảm bảo về chất lượng, hoặc trên đường vận chuyển bằng đường thủy,
phương tiện gặp phải những sự việc khiến hàng hóa không cập bến đích do
bên mua chỉ định theo đúng thời hạn. Bên mua vì không hiểu rõ về điều
khoản CFR, hoặc vì nghĩ rằng với điều khoản này mình sẽ không tốn khoản
chi phí vận chuyển, nhưng thực chất, với điều khoản này, bên mua sẽ mất
nhiều hơn được khi có tranh chấp xảy ra do thiệt hại đối với hàng hóa trên
đường vận chuyển. Có thể thấy rõ điều nay qua ví dụ cụ thể sau:
Cuối năm 2006, doanh nghiệp VFD ở Hà Nội chung vốn với một vài
doanh nghiệp khác ở TP Hồ Chí Minh nhập một lô hàng thức ăn chăn nuôi
trị giá 1.400.000 USD từ công ty TFR ở Singapore theo điều kiện CFR-
Incoterms 2000, cảng TP Hồ Chí Minh và Hải phòng. TFR đã mua hàng
này của nhà sản xuất ở Ấn Độ để giao cho người mua.
Người bán đã không ít lần xuất loại hàng này sang thị trường Viêt
Nam nên hai bên đã nhanh chóng giao kết hợp đồng mua bán theo các điều
kiện thông thường. Trong các điều khoản về vận tải hợp đồng chỉ quy định
tốc độ dỡ hàng, mức thưởng phạt, tuổi tàu, cỡ tàu cùng một số điều kiện kỹ
thuật khác của con tàu, không có điều nào quy định về tình trạng pháp lý
của con tàu cũng như chủ tàu trong quá trình thực thi hợp đồng. Thực hiện
33
nghĩa vụ của người bán CFR theo Incoterms, TFR đã thuê tàu PLJ của chủ
tàu BJS ở Hongkong để chở lô hàng về Việt Nam. Sau khi tàu PLJ rời cảng
xếp hàng, TFR nhanh chóng chuyển vận đơn (Bills of Lading) cùng bộ
chứng từ cho người mua và nhận đủ tiền hàng theo phương thức thanh toán
bằng L/C. Bốn ngày trước khi tàu PLJ cập cảng Việt Nam, khi đang đi qua
eo biển Malaysia thì tàu bị Cơ quan phòng chống lừa đảo hàng hải quốc tế
IMB (International Maritime Bureau) thông báo cho cảnh sát Malaysia yêu
cầu bắt giữ vì có bằng chứng đây là con tàu (trước đây mang tên NTR) của
một chủ tàu Indonesia bị hải tặc cưỡng đoạt 4 năm về trước, sau đó tên tàu
cùng giấy tờ đăng ký và các thông số liên quan đã bị thay đổi và bán lại cho
Cty BJS ở Hongkong. Cảnh sát Malaysia hạ lệnh cho tàu dừng lại nhưng
thuyền trưởng từ chối và tiếp tục cho tàu chạy. Sau hơn 16 giờ rượt đuổi,
cuối cùng lực lượng biệt kích Malaysia, với sự hỗ trợ của máy bay trực
thăng, nhảy trực tiếp xuống boong tàu mới bắt giữ được tàu đưa về cảng
Johore cầm giữ theo lệnh cuả tòa án.
Nhận được thông tin nói trên, ngay lập tức TFR thông báo cho người
mua biết vụ việc. Họ giải thích rằng họ đã nhận đủ tiền bán hàng và phía
người mua cũng đã nhận đủ bộ chứng từ hợp lệ trong đó có vận đơn sạch
(Clean B/L), điều này cũng đồng nghĩa là họ đã hoàn thành mọi nghĩa vụ
giao hàng như quy định của hợp đồng mua bán và thông lệ quốc tế. Người
bán cũng khẳng định, về mặt pháp lý, họ không chịu trách nhiệm về hậu quả
xảy ra vì theo Incoterms, rủi ro về hư hỏng mất mát hàng hóa đã chuyển từ
người bán sang người mua kể từ khi hàng qua lan can tàu ở cảng xếp hàng.
Tuy vậy, họ cho biết, bằng chi phí của mình, sẽ phối hợp và cộng tác chặt
chẽ với người mua để giải quyết hậu quả trên cơ sở thiện chí và hợp tác, nếu
phía người mua ủy thác cho họ. Phía người mua ngay lập tức phản đối lập
luận của TFR và yêu cầu người bán phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ
34
thiệt hại xảy ra. Tuy vậy, hợp đồng mua bán không có quy định nào buộc
người bán phải bồi thường trong trường hợp này. Cũng có ý kiến cho rằng
cần làm việc với hãng bảo hiểm để đòi bồi thường (lô hàng được mua bảo
hiểm của BMI và BVI ở Việt Nam), tuy nhiên phía bảo hiểm khẳng định
theo điều kiện bảo hiểm ICC 1982 (Institute Cargo Clauses 1982, Mục 6.2,
Điều khoản miễn trừ) phía bảo hiểm được miễn trừ trách nhiệm trong
trường hợp hàng hóa bị hư hỏng, mất mát khi tàu bị bắt giữ. Một số ý kiến
khác lại cho rằng cần nhanh chóng khởi kiện hãng tàu để đòi bồi thường,
tuy vậy theo Bộ luật hàng hải Việt Nam (Điều 78, Khoản 2, Mục g) cũng
như thông lệ quốc tế (Công ước Hague-Visby Rules, Quy tắc IV, Khoản 2,
Mục g) người vận chuyển cũng được thoát trách nhiệm đối với tổn thất
hàng hóa xảy ra trong trường hợp tàu bị bắt giữ. Một điều cũng đáng lưu ý
là bản thân hãng tàu BJS cũng chỉ sở hữu duy nhất một con tàu này, nếu
thắng kiện thì chủ hàng Việt Nam cũng chỉ có được trong tay một bản án
đẹp. Không còn lựa chọn nào khác, phía người mua Việt Nam đành trao hết
mọi giấy tờ có liên quan và ủy quyền cho TFR thay mặt mình làm việc với
các cơ quan hữu quan cuả Malaysia để nhanh chóng thuê một con tàu khác
dến cảng Johore, nơi tàu bị cầm giữ, lấy hàng về. Phía người bán đã khẩn
trương tích cực tìm mọi biện pháp tiếp cận với các cơ quan hữu quan của
Malaysia để cho phép người mua đưa một con tàu khác đến cảng nói trên
chuyển tải hàng về Việt Nam dù biết rằng rủi ro và chi phí bỏ ra để làm việc
này không phải là ít. Tuy vậy trong thời gian tàu bị bắt giữ tại cảng Johore
liên tiếp xảy ra các sự kiện khác làm cho vụ việc vốn đã phức tạp lại càng
phức tạp thêm . Tàu này lại bị một tàu chở dầu đâm phải làm nảy sinh nhiều
vấn đề pháp lý khác khá phức tạp liên quan tới yếu tố lỗi (both to blame
collision). Chưa kể cùng một con tàu nhưng có 2 lệnh bắt giữ của 2 tòa án:
tòa thứ nhất bắt giữ tàu theo yêu cầu của chủ tàu cũ Indonesia, tòa thứ hai
35
lại lật ngược trát của tòa án trước và ra lệnh bắt giữ theo yêu cầu của Công
ty vận tải biển BJS ở Hongkong. Cuối cùng vụ việc lại rơi vào tình trạng bế
tắc khi chính quyền cảng sở tại yêu cầu nếu chủ hàng Việt Nam muốn đưa
tàu khác đến chuyển tải hàng về thì phải đặt cọc bảo lãnh chống ô nhiễm
môi trường với trị giá 20 triệu USD [23]. Rõ ràng đây hoàn toàn là một
thách đố mà cả người bán lẫn người mua không thể vượt qua nổi, do vậy cả
TFR và phía người mua Việt Nam sau gần một năm vật lộn để giải quyết vụ
việc cuối cùng đành bó tay bỏ cuộc vì tới thời điểm này sau một thời gian
dài giãi dầu mưa nắng toàn bộ lô hàng cũng đã bị hư hỏng gần hết. Phía
TFR cuối cùng cũng chỉ có thể chia sẻ một phần tổn thất của người mua
Việt Nam như là một cử chỉ mang tính hữu nghị thông cảm chứ không phải
là một sự bồi thường theo trách nhiệm pháp lý.
Như vậy, trong trường hợp này, với điều khoản CFR, bên bán đã thực
hiện được quyền của mình, đó là quyền không phải chịu rủi ro xảy ra trong
giai đoạn hàng hóa đã ra khỏi cảng xuất và được chuyển lên phương tiện
vận tải đường thủy. Việc rủi ro xảy ra trên đường tàu thủy vận chuyển phải
do người mua chịu. Người bán đã làm hết trách nhiệm của mình.
Ví dụ trên cho thấy, đối với điều khoản CFR thì bên bán sẽ chịu chi
phí vận chuyển hàng tới cảng đến theo quy định của hợp đồng, tuy nhiên rủi
ro lại chuyển cho bên mua khi hàng được đặt lên tàu, do đó thông thường
bên bán sẽ thuê những con tàu nhiều tuổi với giá cước thấp để nâng cao lợi
nhuận nên bên mua sẽ không kiểm soát được rủi ro này, dẫn đến nhiều
trường hợp bị thiệt hại mà không được bồi thường do chưa hiểu rõ cơ chế
của điều khoản CFR.
2.1.2. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của bên bán theo điều kiện CFR
trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, quyền của mỗi bên phải
36
song hành với nghĩa vụ thực hiện. Căn cứ vào cách giải thích theo Incoterms
2010, với điều kiện CFR trong hợp đồng, bên bán phải cung cấp hàng hóa và
hóa đơn thương mại phù hợp với hợp đồng mua bán và cung cấp tất cả bằng
chứng phù hợp mà hợp đồng có thể đòi hỏi, đây là nghĩa vụ chung của người
bán. Họ phải chịu rủi ro và chi phí để lấy bất kì giấy phép xuất khẩu hoặc giấy
phép chính thức nào khác và phải thực hiện mọi thủ tục hải quan cần thiết để
xuất khẩu hàng hóa. Tại thời điểm này, trách nhiệm của người bán đối với
hàng hóa là tuyệt đối, do đó thực tế người bán luôn thực hiện nghĩa vụ này để
xuất khẩu hàng hóa. Người bán chủ động tìm kiếm phương tiện đường thủy
để kí hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ địa điểm giao hàng đã thỏa thuận, tại
nơi giao hàng đến cảng đến đã được chỉ định hoặc bất cứ địa điểm nào tại
cảng đến. Họ phải cung cấp cho người mua những thông tin người mua cần
để mua bảo hiểm, nếu người mua yêu cầu và chịu rủi ro và chi phí, nếu có.
Thực tế, trách nhiệm thuê tàu biển của người bán trong điều kiện CFR
trong Incoterms 2010 có sự khác biệt so với điều kiện CFR của Incoterms
2000 trước đó. Đó là, trước năm 2010, người bán dành quyền thuê tàu, theo
nguyên tắc trách nhiệm tối thiểu của người bán, người bán chỉ cần thuê “con
tàu đi biển – Seagoing vessel”. Chính vì vậy đã đặt người mua trong tình
trạng không yên tâm về trách nhiệm thuê tàu của người bán cũng như những
rủi ro có thể xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển, nhiều tranh
chấp đã phát sinh xung quanh vấn đề này do người mua không nắm kỹ và
hiểu rõ bản chất của nghĩa vụ này hoặc người mua không nắm vững kiến thức
liên quan đến vận tải biển. Trong điều kiện CFR của Incoterms 2010, người
bán phải có trách nhiệm thuê một con tàu thuộc loại thường sử dụng để vận
chuyển mặt hàng đó, tức là phù hợp với đặc tính và phẩm chất của hàng hóa.
Người bán phải chịu mọi rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa
cho đến khi hàng hóa được giao lên tàu hoặc mua hàng để giao hàng lên tàu
37
trừ những mất mát hư hỏng do người mua không thông báo hoặc thông báo
không đầy đủ về địa điểm giao hàng cho người bán. Người bán phải thông
báo cho người mua biết những thông tin cần thiết để người mua có thể áp
dụng những biện pháp thông thường cần thiết để nhận hàng.
Người bán phải trả tất cả các chi phí liên quan đến hàng hóa cho tới khi
hàng được giao bằng cách hoặc đặt hàng lên tàu hoặc mua hàng đã giao như
vậy, cung cấp cho người mua không chậm trễ chứng từ vận tải thường lệ theo
cảng đến đã thỏa thuận. Chứng từ vận tải này phải thể hiện là hàng của hợp
đồng, phải ghi ngày tháng trong thời hạn giao hàng đã thỏa thuận, giúp cho
người mua có thể nhận hàng từ người chuyên chở và cho phép người mua có
thể bán hàng trong quá trình vận chuyển bằng cách chuyển nhượng chứng từ
vận tải cho người mua tiếp theo hoặc bằng cách thông báo cho người chuyên
chở, trừ khi có thỏa thuận khác.
Người bán phải trả các chi phí về việc kiểm tra như kiểm tra chất
lượng, cân, đo, đong, đếm..cần thiết để giao hàng theo quy định, kể cả các phí
tổn cho bất kì việc kiểm tra nào trước khi gửi hàng theo yêu cầu của các cơ
quan có thẩm quyền ở nước xuất khẩu.
Người bán phải bằng chi phí của mình, đóng gói hàng hóa, trừ khi
thông lệ của ngành hàng quy định cụ thể hàng hóa được gửi đi không cần
đóng gói, có thể đóng gói hàng phù hợp với phương thức vận tải, trừ khi
người mua thông báo cho người bán yêu cầu cụ thể về đóng gói trước khi kí
kết hợp đồng. Nếu có quy định thì người bán theo yêu cầu của người mua
phải giúp đỡ người mua lấy các chứng từ và thông tin kể cả thông tin an ninh
mà người mua cần để nhập khẩu, do vì người mua phải chịu rủi ro và phí tổn.
Và phải hoàn trả cho người mua tất cả chi phí, lệ phí phát sinh trong trường
hợp người mua đã chi để lấy được những chứng từ và thông tin an ninh phục
vụ cho việc nhập khẩu hàng hóa của người mua.
38
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các nghĩa vụ này của người bán vẫn
chưa được đảm bảo, dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Có thể thấy rõ điều đó qua
ví dụ sau:
Cuối năm 2012, doanh nghiệp G.T ở Hà Nội nhập khẩu từ thương nhân
AS&AHK ở Singapore một lô sắt vụn vài ngàn tấn (loại Shredded Steel
Scrap). Hàng được đóng trong khoảng 200 container 40 feet, giao làm một số
đợt cách nhau vài ba tháng. Từ trước đến nay, thị trường sắt vụn Việt Nam chỉ
quen tiêu thụ mặt hàng sắt vụn theo phẩm cấp quy định trong ISRI (chuẩn
mực sắt vụn của Mỹ) và sắt vụn mang tên Shredded Steel Scrap nằm trong
phạm vi quy định ở mục 210-211 của ISRI.
Về giá hàng, hai bên thống nhất là 410 đô la Mỹ/tấn theo điều kiện
CFR Incoterms 2010 cảng Hải Phòng. Hợp đồng mua bán quy định tỷ lệ tạp
chất (impurity) không được vượt quá 0,5% và các loại vỏ đồ hộp (steel can or
tin can) cũng được coi là tạp chất. Nếu tỷ lệ này vượt quá quy định của hợp
đồng thì người bán sẽ bị phạt 50 đô la Mỹ/tấn.
Về điều khoản giám định hàng ở cảng đích, do biết chắc thế nào người
mua cũng sẽ khiếu nại về phẩm chất hàng không phù hợp với hợp đồng nên
người bán quy định khắt khe là “trong vòng một tuần sau khi dỡ hàng, việc
giám định toàn bộ lô hàng phải hoàn tất, trên cơ sở đó người mua mới có
quyền khiếu nại”. Rất tiếc là người mua đã không phát hiện ra “quy định khác
thường” này trong quá trình đàm phán thương thảo hợp đồng.
Sau khi chuyến hàng đầu tiên về đến nơi, G.T đã lựa chọn ngẫu nhiên
một vài container để giám định chất lượng thì thấy tỷ lệ tạp chất lên đến 37-
38%, thậm chí có những container tỷ lệ này lên đến hơn 40%. Do chất lượng
hàng quá kém, phải mất gần bốn tháng, công ty giám định do G.T chỉ định
mới kết thúc việc giám định ngẫu nhiên một số container hàng. Ngay lập tức,
G.T thông báo cho người bán biết tình trạng hàng hóa và đề nghị họ cử ngay
39
đại diện sang Việt Nam để cùng xem xét, giải quyết và đình chỉ giao những lô
hàng tiếp theo nếu phẩm chất hàng tương tự.
Tuy nhiên, những đề nghị này của G.T bị rơi vào im lặng. Sau nhiều
ngày liên tiếp bị thúc giục, người bán thừa nhận đây là lô hàng họ mua của
chủ bãi sắt phế thải ở châu Âu để bán lại cho G.T. Họ đề nghị G.T ủy quyền
cho họ khiếu nại chủ bãi sắt phế thải ở châu Âu. Tất nhiên, G.T không chấp
nhận đề nghị kỳ quặc này vì hợp đồng quy định rõ AS&AHK là người bán.
G.T là người mua và G.T không quan tâm tới bên thứ ba nào cả.
Không còn lựa chọn nào khác, G.T thông báo nếu người bán không giải
quyết khiếu nại thì họ sẽ khởi kiện ra trọng tài thương mại mà hai bên đã lựa
chọn trong hợp đồng để đòi bồi thường thiệt hại khoảng hơn một triệu đô la
Mỹ cộng với gần 20 tỉ đồng Việt Nam các chi phí liên quan. Mặt khác, G.T
cũng đã yêu cầu tòa án Việt Nam ra lệnh cho ngân hàng mở L/C(2) ở Hà Nội
phong tỏa, đình chỉ thanh toán toàn bộ lô hàng này.
Trước khi khởi kiện người bán ra trọng tài, G.T đã phải chi tiêu khá tốn
kém để giám định hàng dù tỷ lệ hàng được giám định chỉ dừng lại ở mức
khoảng 18%. Điều đáng lưu ý là do tỷ lệ tạp chất trong lô hàng này quá cao,
việc giám định chỉ có thể tiến hành bằng phương pháp thủ công. Với phương
pháp như vậy, không thể giám định 100% lô hàng vì phải mất… trên 2 năm!
Trải qua bốn phiên tranh tụng căng thẳng kéo dài trước trọng tài, phía
người bán vẫn cố bám vào lập luận người mua đã không tuân thủ quy định kết
thúc việc giám định toàn bộ lô hàng trong vòng một tuần kể từ khi dỡ hàng để
phủi bỏ trách nhiệm.
Ở phiên tranh tụng cuối cùng, phía G.T sau khi liên hệ với chủ bãi sắt
phế thải ở châu Âu đã bất ngờ xuất trình bằng chứng là hợp đồng và các
chứng từ liên quan chứng minh hàng mà AS&AHK mua từ chủ bãi sắt ở châu
Âu không phải là Shredded Steel Scrap theo phẩm cấp 210-211 của ISRI, mà
40
là Shredded Incinerated Steel Scrap theo phẩm cấp E46. (E46 là phẩm cấp
theo tiêu chuẩn châu Âu, chất lượng thấp hơn hẳn so với sắt vụn phẩm cấp
210-211 theo tiêu chuẩn ISRI). Thực tế là người bán đã mua hàng với giá 310
đô la Mỹ/tấn và bán lại cho G.T với giá 410 đô la Mỹ/tấn mặc dù chất lượng
hàng rất kém so với quy định trong hợp đồng. Phía chủ bãi sắt phế thải châu
Âu cũng cho biết AS&AHK chưa từng cử đại diện sang châu Âu để kiểm tra
và khiếu nại phẩm chất hàng.
Có thể thấy trong phi vụ này, người bán đã lừa G.T bằng một động tác
rất giản đơn và phổ biến trong thương mại quốc tế, đó là sau khi hàng đã xếp
lên tàu ở cảng xếp hàng châu Âu, AS&AHK đã đề nghị người vận chuyển
thay đổi tên gọi hàng hóa trong vận đơn từ Shredded Incinerated Steel Scrap
thành Shredded Steel Scrap mà họ đã cam kết với G.T, và đổi tên người gửi
hàng (shipper) từ chủ bãi sắt phế thải châu Âu thành AS&AHK. Mọi thông
tin khác như tên tàu, số lượng, trọng lượng, khối lượng hàng, số vận đơn,
ngày cấp vận đơn và số container vẫn giữ nguyên như bộ chứng từ mà họ
nhận từ chủ bãi sắt phế thải châu Âu.
Trong thương mại và hàng hải quốc tế, việc thay đổi vận đơn như vậy
là thường tình và nghiệp vụ này được gọi là “Switch Bill of Lading” chỉ với
vài dòng e-mail trao đổi thương thảo với người vận chuyển, miễn là chủ hàng
(shipper) có yêu cầu thay đổi như vậy phải cam kết tự mình chịu trách nhiệm
về hậu quả của những thay đổi đó. Thông thường trên vận đơn, bao giờ người
vận chuyển cũng in sẵn dòng chữ: “Mọi chi tiết về hàng hóa do chủ hàng
cung cấp, người vận chuyển không kiểm tra và không chịu trách nhiệm
(particulars furnished by the shipper-not checked by carrier-carrier not
responsible)”. Điều này cũng đồng nghĩa là người vận chuyển không chịu
trách nhiệm về những sự thay đổi nói trên theo yêu cầu của chủ hàng.
41
Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp này thấy rằng những hành
vi lừa đảo của AS&AHK mà G.T đã tố cáo nằm ngoài phạm vi thẩm quyền
xem xét của mình. Do vậy, dựa trên cơ sở hợp đồng, họ chỉ có thể xem xét
yêu cầu người bán bồi thường ở phần hàng hóa thiệt hại (khoảng 18% được
giám định) cùng một vài chi phí hợp lý khác [22].
2.2. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên mua theo điều kiện
CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
2.2.1. Thực trạng thực hiện quyền của bên mua theo điều kiện CFR trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa có điều kiện CFR, theo
hưuongs dẫn của Incoterms 2010, thì người mua được hưởng các quyền như
không phải thu xếp và trả cước phí chuyển hàng hóa tới cảng đích. Người
mua không phải làm thủ tục và trả phí thông quan và thuế xuất khẩu.Và được
quyền biết chi tiết về chuyến tàu chở hàng do người bán thông báo cho người
mua, được quyền nhận hóa đơn thương mại, chứng từ vận tải và các chứng từ
khác liên quan do người bán chuyển giao.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam, có một hạn chế lớn xảy ra, đó là việc các nhà xuất nhập khẩu
trong nước không đặt niềm tin vào các hãng cung cấp dịch vụ vận tải trong
nước. Tức là dù có dành được quyền vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm thì
cũng ít khi chọn các hãng kinh doanh dịch vụ này của nước mình. Điều này
có thể xuất phát từ tâm lý e sợ trình độ cũng như cơ sở vật chất còn non kém
ở trong nước, không tạo được sự tin tưởng ở khách hàng, đôi khi ở Việt Nam
không có các loại phương tiện có trọng tải phù hợp với yêu cầu của hàng hóa.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đang vận dụng Incoterms một cách
thụ động và theo thói quen. Chính vì thiếu hiểu biết thị trường nước ngoài,
cho nên mặc nhiên, các doanh nghiệp chỉ sử dụng các điều kiện vốn trước giờ
42
vẫn hay dùng như xuất FOB nhập CIF, thậm chí hầu như chưa có doanh
nghiệp nào sử dụng các điều kiện nhóm D và EXW và cho rằng ở trong
trường hợp đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình là ít nhất. Doanh nghiệp sử
dụng Incoterms đa số đều thiếu tính chủ động, khi mà chúng ta giao hết quyền
vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm cho đối tác.
Trong Incoterms 2010, nhiều nghĩa vụ về chi phí được sửa đổi. Vì đây
là một trong những nghĩa vụ mới của Incoterms 2010 nên các doanh nghiệp
thường không chú ý đến vấn đề này, vì vậy tạo ra những thiệt thòi không đáng
có.
Nhiều doanh nghiệp đang sử dụng các điều kiện của Incoterms trong
đó có điều kiện CFR hay CIF (Cost Insurance and Freight: giá thành, bảo
hiểm và cước) cho phương thức vận tải không phải là đường biển mà lẽ ra
những phương thức này chỉ sử dụng trong việc vận tải hàng hóa bằng đường
biển.
Nhiều lô hàng nhập khẩu từ nước ngoài về được chuyên chở bằng máy
bay, các hợp đồng của doanh nghiệp vẫn ghi là CFR Tân Sơn Nhất hoặc CFR
Nội Bài. Điều này xảy ra là do thói quen của doanh nghiệp, việc áp dụng các
điều kiện thương mại không theo phương thức vận tải bằng đường biển, đã
gây ra nhiều rủi ro và thiệt hại cho doanh nghiệp.
Ví dụ như, khi hàng hóa chứa trong container được chuyên chở bằng
các phương thức vận chuyển không phải là đường biển, địa điểm giao hàng
không còn là trên tàu tại cảng bốc hàng mà đã chuyển sang địa điểm của
người chuyên chở (hoặc đại lý của người chuyên chở). Và người chuyên chở
phải chịu trách nhiệm về hàng hóa. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu trong nước
sử dụng các điều kiện FOB, CFR hay CIF, doanh nghiệp vẫn phải chịu rủi ro
khi hàng hóa đã giao cho người chuyên chở tại các bãi, trạm container cho
đến khi hàng hóa được bốc lên phương tiện vận chuyển biển. Nếu hàng hóa
43
bị mất mát hay hư hỏng xảy ra sau khi hàng hóa được giao cho người chuyên
chở, doanh nghiệp cũng khó xác định được rủi ro này xảy ra trước hay sau
khi hàng hóa được xếp lên phương tiện vận chuyển cuối cùng. Trong trường
hợp, hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển từ bãi, trạm container,
doanh nghiệp xuất khẩu vẫn bị quy trách nhiệm là chưa giao hàng và phải
giao hàng khác thay thế, hoặc phải bồi thường hay nộp phạt cho việc không
giao hàng.
Đặc biệt, người mua cần chú ý kỹ đến những điều khoản trong hợp
đồng để tránh những rủi ro phát sinh ngoài dự đoán mà nhiều công ty ở Việt
Nam đã gặp phải. Thông thường người bán muốn tìm thuê những con tàu đã
sử dụng lâu năm, chất lượng không cao để chuyên chở hàng hóa với giá cước
rẻ hơn những con tàu mới, nhằm tiết kiệm chi phí. Điều này đồng nghĩa với
việc, hàng hóa vận chuyển trên con tàu này sẽ gánh chịu những rủi ro cao.
Khi người mua mua hàng theo điều kiện CFR, người mua sẽ gánh chịu
mọi rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa. Nếu phải mua bảo hiểm cho
lô hàng, người mua phải chịu chi phí cao do tuổi “già” của tàu. Hoặc là, tình
trạng pháp lý của những con tàu được thuê vận chuyển cũng rất quan trọng,
đòi hỏi người mua phải lưu ý, bởi khi vận chuyển trên những con tàu “có lý
lịch xấu” này thì hàng hóa vận chuyển có thể dễ bị bắt giữ theo tàu ở các
cảng quốc tế. Ví dụ tại mục 2.1.1 ở trên cho thấy lý lịch con tàu của Hong
Kong chuyên chở đã gây thiệt hại cho toàn bộ lô hàng của bên mua mặc dù
bên bán đã thực hiện nghĩa vụ của mình theo CFR.
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường
chọn sử dụng các điều kiện nhóm F như FCA, FOB cho các hợp đồng xuất
khẩu và các điều kiện nhóm C cho các hợp đồng nhập khẩu. Nghĩa là doanh
nghiệp đang chọn các điều kiện cơ sở giao hàng mà theo đó giao quyền ký
hợp đồng thuê phương tiện vận tải và hợp đồng mua bảo hiểm hàng hóa cho
44
đối tác nước ngoài. Đây là thực trạng khá phổ biến của các doanh nghiệp
Việt Nam từ khi chúng ta tham gia buôn bán trên thị trường thế giới mà
nguyên nhân của thực trạng này chính là vấn đề lợi nhuận của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp khi cân nhắc về vấn đề lợi nhuận giữa việc mình là người
giành được quyền vận tải và mua bảo hiểm với việc để cho đối tác làm việc
này thì nhận thấy lợi nhuận thu được trong hai trường hợp trên là tương
đương nhau nên các doanh nghiệp Việt Nam (người mua) chưa có sự quan
tâm đúng mức tới lợi ích của việc giành được quyền vận tải và ký hợp đồng
mua bảo hiểm cho hàng hóa. Nếu giành được quyền thuê tàu, doanh nghiệp
sẽ chủ động về thời gian. Đối với người bán thì có thể chủ động tập kết hàng
tại cảng giao đúng thời hạn, với người mua thì có thể tới nhận hàng kịp, tránh
trường hợp hàng đã tới mà ta vẫn chưa ra nhận hàng và có thể bị coi là hàng
đã giao cho dù người mua chưa chính thức nhận được hàng.
Điều này sẽ giúp cho các quyền của người mua được đảm bảo, hạn chế
được các rủi ro, tranh chấp giữa bên bán và bên mua trong việc thực hiện hợp
đồng mua bán quốc tế hàng hóa theo điều kiện CFR của Incoterms 2010.
2.2.2. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của bên mua theo điều kiện CFR
trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Bên cạnh những quyền người mua được hưởng trong hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa theo điều kiện CFR, theo Incoterms 2010, người mua
cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Người mua phải thanh toán
đúng như quy định trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Đây là nghĩa vụ chung
mà người mua phải thực hiện.
Ngoài ra, nếu có quy định, người mua phải tự chịu rủi ro và phí tổn để
lấy được giấy phép nhập khẩu hoặc các giấy phép chính thức nào khác và làm
thủ tục hải quan để nhập khẩu hàng hóa và vận tải qua nước khác. Tuy người
mua không có nghĩa vụ đối với người bán về ký hợp đồng vận tải. Người mua
45
cũng không có nghĩa vụ đối với người bán về kí hợp đồng bảo hiểm. Tuy vậy,
người mua phải cung cấp cho người bán tất cả những thông tin cần thiết cho
việc mua bảo hiểm nếu người bán có yêu cầu.
Người mua phải nhận hàng khi hàng hóa đã được giao theo đúng quy
định và nhận hàng từ người chuyên chở tại cảng đến đã được chỉ định.
Người mua chịu mọi rủi ro về mất mát, hư hỏng của hàng hóa kể từ khi
hàng đã được bên bán giao theo đúng quy định của CFR. Nếu người mua
không thông báo đúng, đầy đủ về thời gian, địa điểm giao nhận hàng thì
người mua phải chịu mọi rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa kể từ
ngày thỏa thuận giao hàng hoặc kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thỏa thuận
giao hàng với điều kiện hàng đã được phân biệt rõ ràng là hàng của hợp đồng.
Người mua phải trả tất cả các chi phí liên quan đến hàng hóa kể từ khi
hàng hóa đã được giao theo quy định, trừ các chi phí làm thủ tục hải quan
(nếu có) cho việc xuất khẩu, cũng như tất cả các loại, thuế, chi phí, lệ phí
khác khi xuất khẩu; Phải trả tất cả các chi phí, lệ phí liên quan đến hàng hóa
khi quá cảnh cho đến khi hàng đến cảng đến, trừ các phí, lệ phí mà người bán
phải chịu theo hợp đồng vận tải; Chi phí dỡ hàng kể cả phí lõng hàng và phí
cầu bến trừ các phí, lệ phí mà người bán phải chịu theo hợp đồng vận tải; Các
chi phí phát sinh nếu người mua không thông báo đúng, đầy đủ về thời gian,
địa điểm giao nhận hàng theo quy định kể từ ngày thỏa thuận giao hàng hoặc
kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thỏa thuận giao hàng với điều kiện hàng đã
được phân biệt rõ ràng là hàng của hợp đồng; Và tất cả các loại thuế, phí, lệ
phí và chi phí khác (nếu có) cũng như các chi phí làm thủ tục hải quan để
nhập khẩu, chi phí để vận tải hàng hóa qua bất kì nước nào trừ khi đã bao
gồm trong chi phí của hợp đồng vận tải. Người mua thường cho rằng việc họ
chấp nhận giao hàng tại một điểm trong nội địa có thể đưa đến cho họ một
nghĩa vụ nhiều hơn so với việc giao hàng qua lan can tàu, như phải trả thêm
46
chi phí trả cho các phương tiện bốc hàng cho cảng hay cho người vận tải. Tuy
nhiên, điều này có thể dễ dàng được khắc phục bằng một thoả thuận giữa các
bên hoặc là chia sẻ chi phí hay người bán trả hoàn toàn chi phí.
Có trường hợp các bên không để ý rằng những điều kiện vận tải bằng
đường biển đòi hỏi những chứng từ cụ thể - như là vận đơn có thể chuyển
nhượng được hay còn gọi là giấy gửi hàng đường biển - thường hoàn toàn
không thích hợp khi sử dụng loại hình vận tải khác. Vận đơn có thể giao dịch
không được sử dụng cho các phương thức vận tải khác bởi vì việc mua bán
hàng hóa khi hàng đang trên đường vận chuyển - thông thường đòi hỏi có một
vận đơn mà quyền sở hữu của hàng hóa có thể chuyển được cho người mua
kế tiếp - không xảy ra khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường bộ, đường
sắt hay hàng không.
Người mua khi xác định được thời gian và địa điểm giao nhận hàng thì
phải thông báo đúng, đầy đủ cho người bán, nếu không thông báo đầy đủ, thì
trách nhiệm khi có rủi ro xảy ra sẽ thuộc về người mua. Trong quá trình vận
tải, người mua phải chấp nhận chứng từ vận tải theo quy định nếu chứng từ đó
phù hợp với hợp đồng. Và phải trả các khoản chi phí kiểm tra bắt buộc trước
khi gửi hàng, ngoại trừ việc kiểm tra theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm
quyền ở nước xuất khẩu.
Nhằm phục vụ cho hoạt động nhập khẩu của mình, người mua phải
thông báo cho người bán một cách kịp thời về các thông tin an ninh để người
bán có thể thực hiện, và hoàn trả cho người bán tất cả chi phí và lệ phí mà
người bán đã chi để lấy được những chứng từ và thông tin phục vụ cho việc
nhập khẩu hàng hóa của người mua, hoặc vận tải đến địa điểm cuối cùng. Nếu
có quy định, người bán phải tự chịu rủi ro và phí tổn để lấy được chứng từ,
thông tin kể cả thông tin an ninh mà người bán cần để làm thủ tục vận tải,
xuất khẩu hoặc quá cảnh qua nước khác thì người mua phải giúp đỡ người
47
bán một cách kịp thời, do vì người bán phải chịu rủi ro, phí tổn.
Thực tế, khi thực hiện những nghĩa vụ này, người mua cũng không
tránh khỏi có sự sai sót. Sai sót có thể do nguyên nhân khách quan, cũng có
thể là do ý chí chủ quan của người mua. Nhưng hậu quả là tranh chấp phát
sinh, buộc phải giải quyết. Vì vậy, khi thực hiện những nghĩa vụ trên, người
mua cần chú ý thực hiện đúng và đầy đủ những gì đã thỏa thuận nhằm giảm
thiểu rủi ro cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết khi có tranh
chấp xảy ra.
2.3. Giải quyết tranh chấp phát sinh khi thực hiện điều kiện CFR trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
2.3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
Thời gian qua, kể từ khi có hiệu lực đến nay, các doanh nghiệp nói
chung, doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu Việt Nam đã và đang làm quen với các điều kiện thương mại mới
cũng như những đổi mới của Incoterms 2010 so với Incoterms 2000. Tuy
nhiên, càng phát triển và càng hoạt động sâu trong hoạt động giao thương
quốc tế thì càng nảy sinh nhiều vấn đề vướng mắc, tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc am hiểu và sử dụng hiệu quả các điều khoản
thương mại quốc tế Incoterms 2010 sẽ thuận lợi nhiều cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Bởi khi Incoterms 2010 có hiệu lực thì các đối tác của doanh
nghiệp Việt Nam sẽ áp dụng bộ quy tắc này. Và bộ quy tắc này được sửa đổi,
cập nhập các quy tắc, tập quán mới trong thương mại quốc tế, mà khi áp dụng
sẽ trở thành những kỹ năng cần thiết, không thể thiếu của các nhà xuất nhập
khẩu, người làm thương mại, giao nhận vận tải, bộ phận tín dụng thu hồi nợ
trong các ngân hàng, các chuyên gia tài chính và luật sư...
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thời gian qua, tình hình tranh chấp về hợp
đồng mua bán quốc tế hàng hóa liên quan đến các điều kiện của Incoterms là
48
điều khoản trong hợp đồng diễn ra ngày càng nhiều, đa dạng, chủ yếu là tranh
chấp do vi phạm các điều khoản trong hợp đồng, như tranh chấp do vi phạm
điều khoản giao nhận hàng, do vi phạm điều khoản chất lượng và giá cả hàng
hóa, vi phạm về điều khoản, phương thức thanh toán....Vi phạm điều khoản
CFR là một loại trong dạng tranh chấp do vi phạm điều khoản phương thức
giao nhận hàng.
Có thể kể đến một vài vụ việc vi phạm hợp đồng có sử dụng điều kiện
CFR của Incoterms trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa như:
Theo bản án của ICC số 7645 tháng 03 năm 1995 giữa Nguyên đơn là người
bán tại Hàn Quốc và bị đơn là người mua tại Cộng hòa Czechoslovakia thì
theo Hợp đồng đã ký kết giữa các bên thì người bán sẽ bán kim loại thô cho
người mua, thanh toán bằng hình thức L/C vào ngày 30/9/1991 và ngày cuối
cùng chuyển hàng là vào ngày 20/10/1991. Hợp đồng quy định biện pháp bảo
đảm cho việc phạt vi phạm đối với việc giao hàng chậm trễ là 3%. Ngày giao
hàng và L/C được chuyển thành ngày 15/10/1991 và ngày 31/10/1991 và
ngày hết hạn thanh toán bằng L/C lại được dời tới ngày 15/11/1991 nhưng
không thay đổi ngày giao hàng là 15/10/1991. Hàng được giao lên tàu vào
ngày 20/10/1991, sau đó tàu chuyên chở bị đâm va và không thể chuyển hàng.
Người mua yêu cầu hủy hợp đồng vào tháng 01/1992, nhưng bên bán vẫn yêu
cầu bên mua trả tiền cho hàng hóa. Trong Hợp đồng các bên quy định điều
khoản giao hàng là “CNF FO [port, country] (Incoterms 1990)”, tuy nhiên,
trong Incoterms 1990 không có điều kiện này. Hộ đồng trọng tài đã dựa vào
mục đích của các bên khi giao kết để giải thích điều kiện giao hàng này và
được các bên xác định điều kiện giao hàng là CFR. Trong quá trình giải quyết
vụ án, các bên thống nhất luật áp dụng là Công ước Viên về mua bán quốc tế
hàng hóa (CISG) và áp dụng Incoterms 1990 với điều kiện giao hàng là CFR.
49
Theo quy định Điều 58, 74 Công ước Viên về mua bán quốc tế hàng
hóa, Hội đồng trọng tài xác định rằng việc người bán giao hàng trễ (5 ngày
sau hạn giao hàng cuối cùng) đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, vì vậy người
bán đồng thời vi phạm nghĩa vụ thông báo về việc đặt hàng lên tàu và chuyển
tài liệu cho người mua theo quy định của Hợp đồng. Do vậy việc vi phạm này
Hội đồng trọng tài xác định bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và người bán
không có quyền yêu cầu bên mua trả tiền hàng. Người bán phải trả 96% chi
phí trọng tài và bồi thường cho người mua chi phí thiệt hại.
Qua ví dụ trên cho thấy, pháp luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp liên quan
đến điều kiện CFR trong hợp đồng được sử dụng thống nhất theo cách hiểu
của các bên và giải thích Incoterms với phiên bản cụ thể do các bên thỏa
thuận. Trong trường hợp không rõ, thì Hội đồng trọng tài sẽ xác định ý chí
của các bên bằng phương pháp tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc
đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong mối quan hệ tương hỗ của họ,
các tập quán và mọi hành vi sau đó của hai bên (Điều 8 Công ước Viên về
mua bán quốc tế hàng hóa)
Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá, dù được giao kết hoàn chỉnh, chi
tiết đến đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng tất cả những vấn
đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung
cho hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách
lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Vì hợp đồng mua bán có tính chất
quốc tế nên luật điều chỉnh hợp đồng này cũng có thể là luật người người bán,
cũng có khi là luật nước người mua... Nếu luật áp dụng là luật nước người
mua thì luật này là luật nước ngoài đối với người bán. Người bán phải có sự
hiểu biết về nó, trong đó ít ra người bán phải hiểu rõ được luật này có bảo vệ
quyền lợi cho người bán hay không. Và ngược lại, đối với người mua cũng
vậy. Như vậy, không chỉ người bán và người mua cần có sự hiểu biết để lựa
50
chọn, để tuân thủ luật áp dụng mà ngay cả cơ quan giải quyết tranh chấp (tòa
án hoặc trọng tài) cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng đó
thì mới có thể làm tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, trong mua bán quốc tế
hàng hóa, các bên có quyền tự do thoả thuận chọn nguồn luật áp dụng cho
quan hệ hợp đồng của mình. Đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế về
thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế và thậm chí cả các án lệ (tiền lệ
xét xử). Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là nên chọn nguồn luật nào, làm thế
nào để chọn được nguồn luật thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi
của mình? Để chọn được luật áp dụng phù hợp, cần phải nắm được một số
nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, Lựa chọn luật quốc gia. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng
cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Khi hợp đồng quy định thì thường có hai cách quy định. Cách thứ nhất
là các bên quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết hợp
đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ được
áp dụng cho hợp đồng. Trường hợp này gọi là các bên đã quy định trong hợp
đồng điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng. Ví dụ:“Mọi vấn đề không được
quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết
theo luật Việt Nam” Hoặc:“Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp
đồng này được giải quyết theo luật nước người bán”. Trong trường hợp các
bên không muốn áp dụng Công ước Viên về mua bán quốc tế hàng hóa thì các
bên có thể loại bỏ việc áp dụng công ước này theo thỏa thuận trong Hợp
đồng. Khi tranh chấp phát sinh, các bên và tòa án có thể dựa vào luật nước
người mua hoặc luật nước người bán để giải quyết.
Cách thứ hai là các bên thoả thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp
dụng cho hợp đồng sau khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát
51
sinh. Cách này được các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế mà các bên đã ký trước đó không có điều khoản về luật áp dụng.
Trong thực tế, cách này là rất khó áp dụng vì các bên khó có thể đạt được một
sự nhất trí về việc chọn luật áp dụng khi mà tranh chấp đã phát sinh: người
bán thì chỉ muốn áp dụng luật của nước nào bảo vệ được quyền lợi cho mình
trong khi đó người mua cũng chỉ muốn áp dụng luật của nước bảo vệ được
quyền lợi cho mình.
Trong trường hợp này, hai bên chỉ đạt được sự thống nhất khi luật được
lựa chọn là luật không nghiêng quá về bảo vệ quyền lợi cho bên nào. Thường
thì Công ước Viên năm 1980 là giải pháp tối ưu được các bên lựa chọn cho
mình trong trường hợp này.
Hoặc trọng tài hoặc Tòa án giải quyết vụ việc sẽ căn cứ Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010 để quyết định chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế khi phát sinh tranh chấp nếu như các bên không thoả
thuận được luật áp dụng.
Như vậy, luật quốc gia của một nước có thể tác động đến mối quan hệ
của các bên trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa thông qua những cách
thức nêu trên. Mà những cách thức này đôi khi lại không được các bên chú ý.
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nghiên cứu vấn đề
này, để không rơi vào thế bị động khi kí kết hợp đồng, đặc biệt là khi có tranh
chấp xảy ra và trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp
Thứ hai, Lựa chọn tập quán quốc tế về thương mại. Tập quán quốc tế
về thương mại có thể áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tập quán thương mại có thể là các tập quán thương mại được công nhận và
được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới như CFR theo
Incoterms năm 2000 , UCP 500/600 do ICC ban hành đưa ra các quy tắc để
thực hành thống nhất về thư tín dụng cũng được nhiều quốc gia trên thế giới
52
áp dụng vào hoạt động thanh toán quốc tế. Những tập quán này có thể được
cụ thể hóa tại các khu vực khác nhau với sự giải thích khác nhau. Tập quán
quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế khi: Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa quy định; Các điều ước quốc tế
liên quan quy định; Luật do các bên lựa chọn, luật điều chỉnh hợp đồng
không có hoặc có nhưng không đầy đủ.
Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng.
Vì vậy, những vấn đề gì hợp đồng đã quy định thì tập quán quốc tế không có
giá trị, hay nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị pháp lý cao
hơn so với tập quán thương mại quốc tế. Khi áp dụng, nếu hợp đồng ghi nhận
tập quán thì nôi dung này như một điều khoản hợp đồng ràng buộc các bên;
các bên cần thỏa thuận cụ thể về tập quán đó trong hợp đồng. Ví dụ như,
trong hợp đồng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp chỉ quy định điều khoản về giá
trong hợp đồng là 250USD/MT CFR Haiphong mà không ghi cụ thể
Incoterms 2010 vì cho rằng sẽ đương nhiên áp dụng bản Incoterms mới nhất.
Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp. Nếu đối tác hiểu và áp
dụng theo Incoterms 2000, trong đó chỉ quy định rằng bên bán chỉ phải cung
cấp một con tàu đi biển để chở hàng hóa, thì có thể gây ra thiệt hại lớn cho
người mua. Việc cung cấp một con tàu đi biển không phù hợp với đặc tính
của hàng hóa sẽ gây ra thiệt hại lớn cho bên mua vì hàng hóa đã được chuyển
giao rủi ro từ người bán sang người mua khi hàng được đưa lên tàu, mọi thiệt
hại hoặc hư hỏng của hàng hóa sẽ cho người mua chịu. Trong khi đó, trong
Incoterms 2010 đã quy định rất cụ thể rằng, người bán phải cung cấp con tàu
thuộc loại thường sử dụng để chở mặt hàng đó.
Khi áp dụng tập quán quốc tế về thương mại, các bên cần phải chứng
minh nội dung của tập quán đó. Nếu các bên biết trước những thông tin về tập
quán thương mại quốc tế đó trước khi bước vào đàm phán sẽ rất thuận lợi.
53
Các thông tin đó các bên có thể tìm hiểu thông qua sách báo, tài liệu hoặc ở
các văn bản của các Phòng Thương mại (Phòng Thương mại và Công
nghiệp), ở các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài…
Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, cần phải tiến hành phân loại
tập quán quốc tế. Nếu có tập quán chung và tập quán riêng thì tập quán riêng
có giá trị trội hơn. Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn chưa từng thấy
để doanh nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hoá
được bán ra ở nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại đa
dạng hơn. Khi khối lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, và
nếu hợp đồng mua bán hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì
khả năng dẫn đến sự hiểu nhầm và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên.
Incoterms®, quy tắc chính thức của ICC về việc sử dụng các điều kiện
thương mại trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát
triển. Việc dẫn chiếu Incoterm® 2010 trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ
phân định rõ ràng nghĩa vụ tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ rắc
rối về mặt pháp lý. Muốn áp dụng các quy tắc Incoterms® 2010 vào hợp đồng
mua bán hàng hóa thì phải làm rõ điều đó trong hợp đồng bằng cách dùng các
từ ngữ, như: "[Điều kiện được chọn, tên địa điểm, Incoterms® 2010]".
Hướng dẫn sử dụng trong từng điều kiện Incoterms nói chung, điều
kiện CFR nói riêng cung cấp những thông tin đặc biệt hữu ích cho việc lựa
chọn các điều kiện. Dù chọn điều kiện Incoterms nào, các bên vẫn cần biết
rằng việc giải thích hợp đồng còn chi phối mạnh mẽ hơn tập quán riêng của
từng cảng hoặc từng địa phương có liên quan. Incoterms đã chỉ rõ bên nào
trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải hoặc mua bảo
hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và chi phí nào mỗi bên
phải chịu. Song, Incoterms không nói gì tới mức giá phải trả hay phương thức
thanh toán. Đồng thời, Incoterms cũng không đề cập tới sự chuyển giao quyền
54
sở hữu về hàng hóa và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này
thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong
luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên nên biết rằng luật áp dụng có thể làm mất
hiệu lực bất kỳ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được
chọn.
Đặc biệt là yêu cầu của việc giải thích các “từ ngữ quan trọng” trong
Incoterms: Những từ viết tắt như FCA, FOB, CIF và CFR có thể được xem
như là những “từ ngữ quan trọng” trong Incoterms. Những từ này, khi được
sử dụng, đã xác lập một số quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nhưng những từ
ngữ quan trọng này không thể bị hiểu lầm trừ phi chúng được tuân theo cách
giải thích không thể thiếu được theo Incoterms. Trong trường hợp thiếu sự
giải thích xác đáng, các thương gia có thể gặp sự hiểu lầm lớn. Việc những từ
ngữ quan trọng giải thich theo Incoterms có thể loại bỏ sự tranh cãi. Có một
vài ví dụ: điều kiện CFR thường xuất hiện trong các trường hợp đồng mua
bán là C&F. Trong một số trường hợp, CFR được ghi thành C+F. Nhưng tốt
hơn, vì mục đích rõ ràng, khi sử dụng điều kiện này nên viết theo các văn bản
chính thức.
2.3.2. Thực trạng phương thức giải quyết tranh chấp
Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa giữa các bên khi phát sinh tranh
chấp, có thể thông qua rất nhiều phương thức để giải quyết, miễn sao các
phương thức đó không trái đạo đức và quy định. Trong thực tiễn, các bên có
thể sử dụng các phương thức như thương lượng, hòa giải và khởi kiện.
Việc sử dụng các phương thức để giải quyết tranh chấp là không bắt
buộc phải theo trình tự, các bên có thể sử dụng một trong các phương thức
nếu trong hợp đồng có quy định điều khoản phương thức giải quyết tranh
chấp khi có tranh chấp xảy ra. Nếu trong hợp đồng không có điều khoản
quy định cho vấn đề này, thì các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết
55
theo thỏa thuận mà các bên cho là phù hợp.
Thứ nhất, thông thường, tranh chấp phát sinh, các bên đều nhanh
chóng lựa chọn phương thức thương lượng. Thông báo báo cho nhau những
mâu thuẫn phát sinh, bàn bạc, nếu ý kiến của mình về hướng giải quyết, sau
đó thỏa thuận với nhau để đi đến thống nhất thực hiện. Thực tế, đây là
phương thức được lựa chọn đầu tiên trong hầu hết các tranh chấp cần giải
quyết. Thực tiễn cho thấy, có nhiều vụ việc được giải quyết có hiệu quả
thông qua phương thức này.
Ví dụ như vụ tranh chấp được đăng tải trên website của Học viện tư
pháp thì: Người mua Việt Nam ký hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm
1995 mua của người bán (Ấn Độ) 20.000 MT ± 4% Xi măng Kumgang với
giá 55USD/MT CFR cảng Nha Trang, giao hàng vào tháng 12 năm 1995,
thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, trả tiền ngay, L/C phải được mở trước
ngày 30 tháng 9 năm 1995. Hợp đồng qui định “Nếu bất kỳ bên nào không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng vì các trường hợp
bất khả kháng như bão, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, núi lửa phun, chiến tranh,
đình công, bạo động của quần chúng, lệnh cấm của chính phủ, nhà máy sản
xuất bị đóng cửa thì được miễn trách” (Điều 14).Theo Điều 15 Hợp đồng,
“Nếu chậm giao hàng do những nguyên nhân khác với Điều 14 thì 10 ngày
chậm đầu tiên không phải nộp phạt. Sau đó phạt 0,7% trị giá lô hàng cho mỗi
tuần chậm trễ cho đến khi đạt tới tối đa là 3% trị giá lô hàng giao chậm.”
Trên thực tế, Người mua đã mở L/C vào ngày 25 tháng 9 năm 1995 cho
Người bán hưởng lợi. Ngày 29 tháng 9 năm 1995 Người mua đã ký hợp đồng
bán lại lô xi măng cho người mua nội địa. Cuối tháng 11 và cả tháng 12 năm
1995, Người mua nhiều lần giục người bán giao hàng, người bán vài lần điện
cam kết sẽ giao hàng nhưng rồi vẫn chưa giao. Ngày 20 tháng 12 năm 1995,
Người mua nhận được từ người bángiấy chứng nhận bất khả kháng do bộ
56
phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại thủ đô
Ấn Độ cấp ngày 25 tháng 11 năm 1995 cho người bán theo Hợp đồng mua
bán số 02/95 được ký kết giữa người bán và người cung cấp. Hợp đồng số
02/95 này được ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 với số lượng 60.000 MT xi
măng Kumgang .Nguời mua không thừa nhận người bán gặp bất khả kháng,
tiếp tục yêu cầu người bán giao hàng, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1996
người bán vẫn không giao hàng. Ngày 20 tháng 6 năm 1996, người bán gửi
cho Người mua hai bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận
thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại nước sở tại
cấp ngày 21 tháng 1 năm 1996 cho người bán và một bản photo giấy chứng
nhận bất khả kháng của Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người
cung cấp đề ngày 5 tháng 5 năm 1996. Cả ba giấy chứng nhận này do nước
người cung cấp gửi cho người bán, người bán photo gửi cho Người mua.
Trong các bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng đó đều ghi: ở nước
người cung cấp bị mưa lớn và lũ lụt, đường sá bị sụt lún nặng, không chở
nguyên liệu vào nhà máy được, nhà máy bị hư hỏng nặng phải ngừng sản xuất.
Hiện tượng này được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục
hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ
thể.Nguyên mua không chấp nhận lý do mà người bán đưa ra là bất khả kháng
đối với người bán và đòi người bán bồi thường thiệt hại do không giao hàng.
Sau nhiều lần thương lượng, thỏa thuận về việc bồi thường mà không được,
Người mua đã kiện người bán ra trọng tài đòi bồi thường 199.100 USD, gồm
các khoản:70.000 USD tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa; 56.700
USD lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mở L/C từ ngày 20 tháng 9 năm 1995 đến
ngày 20 tháng 6 năm 1996 (300.000 USD x 2,1%/tháng x 9 tháng); Phạt do
chậm giao hàng theo Điều 15 Hợp đồng là 1.080.000 USD x 3% = 32.400
USD; Lãi không thu được 2 USD/1MT là 2 USD x 20.000 MT = 40.000 USD
57
Tuy nhiên, nhược điểm của phương thức này là quyết định mà các
bên thống nhất thực hiện sau khi thỏa thuận được là không có tính bắt buộc
chung nên dễ bị vi phạm, dễ khiến cho các bên không thực hiện đúng như
thỏa thuận về việc giải quyết. Đây cũng là nguyên nhân của việc phát sinh
phương thức khởi kiện về sau.
Thứ hai, các bên có thể lựa chọn cho mình phương thức giải quyết
tranh chấp thông qua hòa giải thương mại. Theo quy định tại Nghị định
22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 thì hòa giải thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và
được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết
tranh chấp theo quy định. Theo đó thỏa thuận hòa giải được xác lập dưới
hình thức điều khoản hòa giải trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận
riêng. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy
tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của
việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn
phụ thuộc các bên tranh chấp.
Phương thức hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp. Các bên
có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải
cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Hình thức giải quyết này được phân
tích tại mục 1.4 và đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp kinh
doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính,… ). Vì rằng,
các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc tìm
kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp. Một
điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh cũng rất quan tâm là khi giải
quyết bằng con đường này các bên kiểm soát được các tài liệu chứng cứ có
liên quan (những bí mật kinh doanh) trong khi giải quyết tại tòa án thì các yêu
cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công
58
khai.
Tuy nhiên, hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất
trí của các bên. Người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoãn
việc thực hiện nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền
lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn
khởi kiện. Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với
nhau.
Vì vậy, thực tiễn các vụ tranh chấp hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
nói chung, tranh chấp về các điều khoản là điều kiện của của Incoterms trong
đó có điều kiện CFR, các bên ít khi lựa chọn hòa giải để giải quyết tranh
chấp, nếu có thì kết quả cũng không được như mong muốn. Rất ít trường hợp
có thể hòa giải thành. Nên thường thì các bên trong tranh chấp tiến tới lựa
chọn phương thức khởi kiện để giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, các bên có thể yêu cầu giải quyết bằng phương thức trọng tài
hoặc khởi kiện ra Tòa án như các tình huống đã phân tích trong luận văn.
Đối với phương thức trọng tài hay khởi kiện ra Tòa án thì đều có những ưu
và nhược điểm riêng. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy,
rất nhiều doanh nghiệp sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh
chấp, bởi những ưu và nhược điểm mà phương thức này thể hiện. Đây là
phương thức giải quyết tranh chấp mà kết quả trọng tài có tính bắt buộc
thực hiện đối với các bên trong tranh chấp.
Việc sử dụng phương thực trọng tài để giải quyết tranh chấp trong
thực tiễn cho thấy, trong một số tranh chấp hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hóa, điều khoản về trọng tài được lựa chọn là phương thức giải quyết tranh
chấp, tuy nhiên lại nảy sinh tranh chấp liên quan đến hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn
59
giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng; có hiệu
lực độc lập với hợp đồng. Điều khoản trọng tài xác định thẩm quyền giải
quyết, thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát
sinh giữa các bên còn Hợp đồng chính quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các
bên. Điều khoản này không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng
chính. Nói một cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh
hưởng tới tiến trình tố tụng bằng trọng tài. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là hợp đồng chính không có ảnh hưởng gì tới điều khoản trọng tài. Có
những lý do vô hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm
nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc bên ký kết không có thẩm quyền, không
có năng lực trong ký kết hợp đồng.
Đối với phương thức khởi kiện ra Tòa án, các bên đều có thể lựa chọn
phương thức này để giải quyết tranh chấp trong bất kì giai đoạn nào, chỉ cần
có tranh chấp xảy ra là có thể lựa chọn việc khởi kiện mà không cần phải giải
quyết thông qua các phương thức khác. Tuy nhiên, phương thức giải quyết
tranh chấp này, bên cạnh những ưu điểm thì cũng tồn tại những nhược điểm
nhất định, nên thông thường các bên sẽ lựa chọn nó là phương thức giải quyết
cuối cùng, khi mà các bên đã sử dụng các phương thức khác nhưng không đạt
được sự thỏa thuận, kết quả như mong muốn. Việc giải quyết tranh chấp bằng
phương thức này đem lại cho doanh nghiệp kết quả giải quyết triệt để, quyết
định giải quyết tranh chấp trong khởi kiện ra Tòa án là phán quyết có tính bắt
buộc phải thi hành đối với các bên trong tranh chấp.
Tóm lại, mỗi một phương thức giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua
bán hàng hóa nói chung, tranh chấp về điều khoản CRF của Incoterms nói
riêng trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa đều có những ưu điểm và
nhược điểm nhất định. Tùy theo mục đích và mong muốn của các bên mà lựa
chọn phương thức giải quyết phù hợp, đạt hiệu quả. Việc sử dụng nhiều
60
phương thức chắc chắn sẽ mất nhiều kinh phí, tốn kém vả về vật chất lẫn tinh
thần. Nên doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp cần thống nhất phương thức
giải quyết tranh chấp tối ưu nhất, nhằm đảm bảo quan hệ hợp tác giữa các
bên, đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
tranh chấp.
2.4. Nâng cao hiệu quả áp dụng điều kiện CFR trong hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam
2.4.1. Nâng cao hiệu quả thực hiện điều kiện CFR trong hợp đồng mua
bán quốc tế hàng hóa
Để nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng nói chung, điều khoản CFR
trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa nói riêng, các doanh nghiệp Việt
Nam cần phải:
Thứ nhất, trước khi thiết lập hợp đồng, cần nghiên cứu thật kĩ về điều
kiện CFR, nội dung, bản chất của điều kiện này, mối quan hệ của nó với các
điều khoản khác trong hợp đồng. Xem xét việc lựa chọn điều kiện CFR có
phù hợp với hoàn cảnh và mục đích giao kết của mình hay không để lựa chọn
phù hợp, giảm thiểu sự giải thích và áp dụng không thống nhất, phát sinh
tranh chấp không cần thiết.
Thứ hai, Các doanh nghiệp khi đã thống nhất lựa chọn điều kiện CFR
thì phải ghi rõ điều kiện CFR là hiểu theo Incoterms năm nào. Trong hợp
đồng hãy ghi rõ: “CFR” Incoterms năm …”. Nhất thiết phải ghi chữ
INCOTERMS: bao hàm ý là doanh nghiệp chiểu theo phiên bản Incoterms
của Phòng Thương mại quốc tế ICC. Nếu sơ suất không ghi Incoterms, chỉ
ghi CFR có thể hiểu là tập quán thương mại quốc té chung và có thể được giải
thích khác đi. Bên cạnh đó, các bên cũng phải thỏa thuận về CFR tại cảng nào
để thống nhất áp dụng theo tập quán CFR tương ứng. Một khi đã lựa chọn áp
61
dụng điều kiện CFR thì bên bán và bên mua phải thống nhất thực hiện tốt các
quyền cũng như nghĩa vụ của mình.
Thứ ba, khi phát sinh tranh chấp, các doanh nghiệp cần hiểu rõ luật của
quốc gia mình kí kết, cũng như luật của Việt Nam, phương thức giải quyết
tranh chấp tối ưu mang lại hiệu quả trong giải quyết tranh chấp để có sự chủ
động khi tham gia giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, thông qua thực tiễn áp dụng các điều kiện của Incoterms, điều
kiện CFR trong thực tiễn thời gian qua, doanh nghiệp Việt Nam cần đúc rút ra
được những vướng mắc, khó khăn thường gặp phải, hoặc tham khảo kinh
nghiệm của các doanh nghiệp khác trong việc áp dụng các điều kiện này để
học hỏi, vận dụng sao cho phù hợp với nhu cầu của mình.
2.4.2. Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về điều kiện CFR trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa
Để nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hóa nói chung, tranh chấp về điều kiện CFR nói riêng trong hợp
đồng mua bán quốc tế hàng hóa thì cần phải:
Một là, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, pháp luật về kinh
doanh thương mại và các văn bản luật liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý khi
luật Việt Nam được chọn là luật áp dụng giải quyết tranh chấp. Đồng thời
phải chủ động xây dựng luật chơi chung trong thương mại quốc tế bằng cách
tham gia xây dựng, gia nhập các điều ước quốc tế liên quan; tổng hợp và
hướng dẫn về các bộ quy tắc, tập quán thương mại quốc tế trong mua bán
quốc tế hàng hóa với nôi dung các tập quán được liên tục bổ sung và hướng
dẫn kịp thời....
Hai là, cần mở các lớp đào tạo đội ngũ Thẩm phán, luật sư giỏi, trọng
tài viên, thẩm định viên... có năng lực giải quyết các tranh chấp thương mại,
62
thương mại quốc tế nói chung và giải quyết các vấn đề tranh chấp về cách
giải thích và áp dụng tập quán thương mại như CFR theo Incoterms.
Ba là, cần nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về CFR, các điều
kiện của Incoterms, các tập quán thương mại quốc tế khác cũng như các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như các quy định của pháp luật
Việt Nam liên quan thông qua các hình thức truyền tải thông tin đa dạng (đào
tạo online hay xây dựng các video ngắn...), phong phú, qua diễn đàn các hiệp
hội doanh nghiệp xuất nhập khẩu Đồng thời cần phải giáo dục về đạo đuewcs
kinh doanh, tinh thần thiện chí, tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện
trong giao kết hợp đồng và thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng
cũng như khi giải quyết tranh chấp.
Bốn là, xây dựng các dịch vụ chuẩn trong tư vấn thiết lập hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa, đặc biệt là có sử dụng điều kiện CFR cũng như các
điều kiện khác của Incoterms trong hợp đồng. Hoạt động hỗ trợ pháp lý phải
đảm bảo được thực hiện bởi đội ngũ nhân lực có kiến thức pháp luật sâu
rộng, đa dạng, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất đạo đức tốt. Có thể tổ
chức các hội nghị, diễn đàn trao đổi kiến thức, kinh nghiệp của luật sư, cán bộ
trợ giúp pháp lý có hiểu biết sâu rộng về hội nhập quốc tế nhằm hỗ trợ tư vấn
đúng và đầy đủ cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thương trường quốc
tế..
63
Tiểu kết Chương 2
Thông qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng điều kiện CFR trong hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hóa, Chương 2 phân tích cách hiểu và áp dụng điều
kiện CFR trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa giữa bên bán và bên
mua, áp dụng phương thức giải quyết khi có tranh chấp xảy ra đối với điều
kiện CFR trong thực tiễn thực hiện hợp đồng.
Trên cơ sở những phân tích đó, Chương 2 đã nhận định những giải
pháp nhằm tận dụng ưu thế của điều kiện CFR trong thực tiễn giao dịch mua
bán quốc tế hàng hóa và ngăn ngừa, giải quyết những tranh chấp xảy ra giữa
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
64
KẾT LUẬN
Để tránh được hoặc ít nhất giảm được đáng kể sự không chắc chắn do
cách giải thích khác nhau về những nội dung quyền nghĩa vụ giữa bên bán và
bên mua,các bên ký kết hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa có thể thỏa thuận
áp dụng tập quán thương mại quốc tế ngay trong hợp đồng mua bán đó.
Incoterms chính là phiên bản được ICC đưa ra với những lần sửa đổi khác
nhau nhằm giải thích và hướng dẫn áp dụng các tập quán, điều kiện thương
mại quốc tế trong các giao dích mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài.
CFR - Tiền hàng và cước phí là một trong những điều kiện của
Incoterms. Với điều kiện này người bán phải giao hàng, đã thông quan xuất
khẩu, lên tàu ; ký hợp đồng và trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa
hàng hóa đến cảng đến quy định. Địa điểm chuyển giao rủi ro hàng hóa từ
người bán sang người mua là tại cảng xếp hàng trong khi chi phí lại được
phân chia tại cảng đến. Quyền và nghĩa vụ của người mua và người bán đối
với điều kiện CFR được giải thích rõ trong Incoterms và các bên tuân thủ thực
hiện khi họ chọn điều kiện CFR là điều khoản trong hợp đồng. Tuy nhiên,
không phải bên bán hay bên mua nào cũng hiểu rõ, cẩn trọng và thực hiện tốt
điều điều kiện này trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa, dẫn đến những
tranh chấp không cần thiết. Đây là điều mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
gặp phải.
Luận văn phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng điều kiện CFR trong
hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa nhằm làm rõ bản chất, hiệu lực của thỏa
thuận về CFR; hiểu và áp dụng điều kiện này theo phiên bản Incotrerms gần
nhất (năm 2010); nâng cao hiệu quả áp dụng tập quán này trong thực tiễn.
65
1. Chính phủ (2013), Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt
động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài, ban
hành ngày 20 tháng 11 năm 2013, Hà Nội;
2. Chính phủ (2017), Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh
dịch vụ logistics, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2017, Hà Nội;
3. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh. Nxb Lao
động Xã hội, Hà Nội
4. Hoàng Văn Châu, Tô Bình Minh (2008), Các điều kiện thương mại quốc
tế (Incoterms 2000) Giải thích và hướng dẫn sử dụng, Nxb Khoa học và
Kỹ thuật.
5. Nguyễn Xuân Công (2009) “Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội
dung doanh nghiệp cần quan tâm”,
doi.aspx?ItemID=1251>, (16/1/2019); 6. Nguyễn Hồng Đàm (2005), Giáo trình Vận tải và giao nhận trong Ngoại thương, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội 7. Nguyễn Lệ Hằng (2003), Thực trạng và các giải pháp phát triển vận tải hàng không quốc gia, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Ngoại thương. 8. Nguyễn Văn Hồng (2010) “Những điểm mới của Incoterms 2010”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 45 tháng 12/2010. 9. Liên hợp quốc (1958), Công ước New York về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, New York, Mỹ; 10. Liên Hợp quốc (1980), Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế, Viên, Áo; 11. Phạm Duy Liên (2012), Giáo trình Giao dịch thương mại Quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 12. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải (2007), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội 13. Tô Bình Minh (2001), Sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Đại học Ngoại Thương; 14. Nguyễn Trung Nam (2019)“Thời điểm chuyển giao rủi ro” (16/1/2019); 15. Phòng thương mại quốc tế (ICC) (2007), Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, UCP 600; 16. Phòng thương mại quốc tế (ICC) (2010) Incoterms 2010, bản song ngữ Việt – Anh, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội; 17. Quốc hội (2005), Luật thương mại số 36/2005/QH11, ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2005, Hà Nội; 18. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13, ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội; 19. Bá Tú (2010) “Incoterms 2010 : Lợi thế của người biết luật”, 65055.html>, (18/1/2019); 20. Võ Nhật Thăng (2006) “Dòng chữ đắt giá trong một hợp đồng nhập khẩu” khau>, (16/1/2019); 21. Võ Nhật Thăng (2014) “Bài học đắt giá về thương thảo hợp đồng”, hop-dong.html> , (16/1/2019); 22. Võ Nhật Thăng (2016), “FOB hay CIF - Bài học từ một hợp đồng nhập khẩu”, < http://viac.vn/fob-hay-cif-bai-hoc-tu-mot-hop-dong-nhap-khau- a544.html>, (16/1/2019); 23. Võ Thanh Thu (2002), Incoterms 2000 và hỏi đáp về Incoterms, Nxb Thống kê, Hà Nội; 24. Vũ Hữu Tửu (2009), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nxb Giáo dục, Hà Nội; 25. Đoàn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Đạt (2011), “Quản trị xuất nhập khẩu”, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.