BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TRONG SỰ CỐ Y KHOA TẠI CÁC BỆNH VIỆN Ở QUẢNG NINH - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ngành: Luâ ̣t Kinh tế VŨ THẾ ANH Hà Nô ̣i - 2020

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh - Thực trạng và giải pháp Ngành: Luâ ̣t Kinh tế Mã số: 8380107 Họ và tên ho ̣c viên: Vũ Thế Anh Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bình Minh Hà Nô ̣i - 2020

iii

LỜ I CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.

Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả

nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Thế Anh

iv

MỤC LỤC

MỤC LỤC Trang

LỜ I CAM ĐOAN ................................................................................................................ iii

MỤC LỤC ........................................................................................................................... iv

LỜ I CẢ M ƠN ....................................................................................................................... x

DANH MỤC CÁ C CHỮ VIẾ T TẮ T ................................................................................ xi

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH, BẢNG................................................................................ xii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN ..................................................... xiv

LỜI MỞ ĐẦ U ....................................................................................................................... 1

1. Tính cấ p thiết củ a đề tài ............................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứ u ................................................................................... 3

2.1. Tình hình nghiên cứ u trong nước ....................................................... 3

2.2. Tình hình nghiên cứ u ngoài nước ....................................................... 4

3. Mục tiêu nghiên cứ u ..................................................................................... 6

3.1. Mu ̣c đích nghiên cứ u ............................................................................ 6

3.2. Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứ u ............................................................................ 6

4. Đố i tươ ̣ng và phạm vi nghiên cứ u ............................................................... 7

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: ..................................................... 7

4.2. Phạm vi về thời gian: ......................................................................... 7

4.3. Phạm vi về không gian: ..................................................................... 7

5. Tính mới của luận văn ................................................................................. 7

6. Phương phá p nghiên cứ u ............................................................................. 7

7. Kết cấ u củ a Luâ ̣n văn .................................................................................. 8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P PHÁT SINH TRONG

SỰ CỐ Y KHOA .................................................................................................................. 9

v

1.1. Khái niệm chung về sự cố y khoa ........................................................... 9

1.1.1. Khái niệm: .......................................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm: .......................................................................................... 10

1.1.3. Phân loại: .......................................................................................... 11

1.1.4. Nguyên nhân của SCYK: ................................................................ 13

1.1.5. Xác định sai sót trong sự cố y khoa ................................................ 16

1.1.6. Các bên trong sự cố y khoa ............................................................. 19

1.2. Khái niệm chung về tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa............ 19

1.2.1. Khái niệm .......................................................................................... 19

1.2.1.1. Đặc điểm của tranh chấp trong Sự cố y khoa ................... 19

1.2.1.2. Xác định tranh chấp trong Sự cố y khoa ........................... 20

1.2.1.3. Xác định mức bồi thường ................................................... 24

1.2.2. Nguồn luật áp dụng trong tranh chấ p phát sinh do sự cố y

khoa .................................................................................................. 24

1.2.2.1. Các văn bản luật .................................................................. 24

1.2.2.2. Các văn bản hướng dẫn luật .............................................. 26

1.2.3. Các yếu tố tác động trực tiếp đến tranh chấ p trong sự cố y

khoa .................................................................................................. 27

1.2.3.1. Nhóm liên quan đến đối tượng gây ra SCYK: ................... 27

1.2.3.2. Nhóm liên quan đến đối tượng bị tổn hại trong SCYK: .... 28

1.3. Các phương pháp giải quyết tranh chấp ............................................... 28

1.3.1. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng thương lượng ............. 29

1.3.1.1. Khái niệm thương lượng .................................................... 29

1.3.1.2. Đặc điểm của phương pháp thương lượng: ...................... 29

1.3.1.3. Phương thức thực hiện thương lượng ............................... 30

vi

1.3.1.4. Hậu quả pháp lý của phương pháp thương lượng ............ 30

1.3.2. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ....................... 31

1.3.2.1. Khái niệm hòa giải .............................................................. 31

1.3.2.2. Hòa giải ngoài tòa án .......................................................... 31

1.3.2.3. Hòa giải tại tòa án ............................................................... 32

1.3.2.4. Mô hình tham khảo trên thế giới ....................................... 36

1.3.3. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án ......................... 37

1.3.3.1. Khái niệm ............................................................................ 37

1.3.3.2. Đặc điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa

án ......................................................................................... 38

1.3.3.3. Phương pháp hoạt động của tòa án: .................................. 39

1.3.3.4. Hậu quả pháp lý của phương pháp giải quyết tranh chấp

phát sinh do SCYK bằng toàn án ....................................... 40

1.3.4. Ưu điểm và hạn chế của các phương pháp giải quyết tranh chấp

phát sinh trong SCYK .................................................................... 41

1.3.4.1. Ưu điểm ............................................................................... 41

1.3.4.2. Hạn chế ................................................................................ 42

1.3.5. Những yếu tố tác động đến lựa chọn phương pháp giải quyết

tranh chấp phát sinh trong SCYK................................................. 43

1.3.5.1. Yếu tố nhận thức ................................................................. 43

1.3.5.2. Yếu tố khác .......................................................................... 44

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P PHÁT SINH TRONG

SỰ CỐ Y KHOA TẠI CÁC BỆNH VIỆN Ở QUẢNG NINH ....................................... 45

2.1. Tình hình SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK ...................... 45

vii

2.1.1. Thực trạng về SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK trên

thế giới và tại Việt Nam .................................................................. 45

2.1.1.1. Tình hình ở ngoài nước ...................................................... 45

2.1.1.2. Tình hình tại Việt Nam ....................................................... 47

2.1.2. Thực trạng về SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK tại

các bệnh viện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................................ 51

2.1.2.1. Sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh .................. 51

2.1.2.2. SCYK có phát sinh tranh chấp tại các bệnh viện ở Quảng

Ninh ..................................................................................... 57

2.2. Thực trạng lựa chọn và áp dụng các phương pháp giải quyết tranh

chấp phát sinh trong SCYK tại các bệnh viện ở Quảng Ninh ........... 59

2.2.1. Thực trạng lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp trong

SCYK tại các bệnh viện ở Quảng Ninh ......................................... 59

2.2.2. Việc áp dụng phương pháp thương lượng..................................... 61

2.2.3. Việc áp dụng phương pháp hòa giải .............................................. 63

2.3.2.1. Hòa giải ngoài tòa án: ........................................................ 63

2.3.2.2. Hòa giải tại tòa án: ............................................................. 64

2.2.4. Việc áp dụng phương pháp tòa án ................................................. 64

2.3. Đánh giá chung về việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK

tại các bệnh viện ở Quảng Ninh ........................................................... 68

2.3.1. Thành công ....................................................................................... 68

2.3.2. Nhược điểm và nguyên nhân .......................................................... 70

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P

PHÁT SINH TRONG SỰ CỐ Y KHOA TẠI CÁC BỆNH VIỆN ................................ 72

3.1. Cơ sở, nguyên tắc của đề xuất giải pháp ............................................... 72

viii

3.2. Các giải pháp tăng cường hiê ̣u quả giả i quyết tranh chấ p phát sinh

trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh ........................... 73

3.2.1. Nhóm giải pháp nhằm hạn chế phát sinh sự cố y khoa ............ 73

3.2.1.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các bệnh viện ở

tỉnh Quảng Ninh ................................................................. 73

3.2.1.2. Xem xét thành lập tổ chức An toàn người bệnh ................ 75

3.2.1.3. Thiết lập hệ thống báo cáo và cơ sở dữ liệu sự cố y khoa

quốc gia dùng chung ........................................................... 76

3.2.1.4. Cải thiện môi trường làm việc và văn hóa an toàn người

bệnh ..................................................................................... 78

3.2.1.5. Tăng cường công tác quản lý chất lượng hoạt động khám,

chữa bệnh tại bệnh viện ...................................................... 80

3.2.1.6. Các giải pháp khác .............................................................. 81

3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện tỉnh Quảng

Ninh .................................................................................................. 82

3.2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên y tế chủ động phòng

tránh các rủi ro pháp lý. ..................................................... 82

3.2.2.2. Xây dựng quy trình xử lý và giải quyết tranh chấp sự cố y

khoa ..................................................................................... 83

3.2.2.3. Triển khai bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc trong khám

bệnh, chữa bệnh .................................................................. 88

3.3. Một số kiến nghị tới cơ quan quản lý nhà nước về y tế ....................... 88

3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến SCYK trong

hoạt động khám bệnh, chữa bệnh.................................................. 88

3.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ................... 90

ix

3.3.2.1. Đối với phương pháp thương lượng .................................. 90

3.3.2.2. Đối với phương pháp hòa giải ............................................ 91

3.3.2.3. Đối với phương pháp tòa án ............................................... 92

KẾ T LUẬN ......................................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢ O .......................................................................... 96

x

LỜ I CẢ M ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn, giúp

đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của Tiến sĩ Nguyễn Bình Minh, Trường

Đại học Ngoại thương Hà Nội.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể

cán bộ, giảng viên khoa Luật, khoa Sau đại học; tập thể Thầy, Cô giáo Trường Đại

học Ngoại thương đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt khoá

học và thời gian nghiên cứu luận văn./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Thế Anh

xi

DANH MỤC CÁ C CHỮ VIẾ T TẮ T

Tác dụng không mong muốn của thuốc ADR

Biến cố bất lợi của các thử nghiệm lâm sàng AE

Bệnh nhân BN

Bác sĩ BS

Bồi thường thiệt hại BTTH

Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Bệnh viện) BV

Bộ Y tế BYT

Công cụ dụng cụ y tế CCDC

Khám bệnh, chữa bệnh KBCN

Hội đồng chuyên môn HĐCM

Hồ sơ bệnh án HSBA

Sự cố do lỗi thuốc ME

Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố (Rui ro) NM

Nhân viên y tế NVYT

Quảng Ninh QN

Nguyên nhân gốc rễ RCA

Sự cố y khoa SCYK

Sở Y tế SYT

Tòa án nhân dân TAND

Thiết bị y tế TBYT

Trung tâm y tế TTYT

Vụ án dân sự VADS

Tổ chức Y tế thế giới WHO

xii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH, BẢNG

Tên sơ đồ, hình, bảng Trang TT

Hình 1. 14 Mô hình các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa theo Reason J. Carthey

Sơ đồ 1. Sơ đồ mô tả các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa 16

Sơ đồ 2. Sơ đồ Quy trình hướng dẫn nhanh công tác báo cáo SCYK 77

Bảng 1. 46 Thống kê phỏng vấn quan điểm của BV và TTYT được hỏi về việc lựa chọn phương pháp ưu tiên khi giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK

Bảng 2. 47 Tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp từ SCYK bằng phương pháp thương lượng tại một số bệnh viện trong giai đoạn từ 2016 - 2018

Bảng 3. 53 Bảng tổng hợp số liệu Sự cố y khoa tại Mỹ và các nước phát triển

Bảng 4. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện Việt Nam 55

Bảng 5. 57 Bảng tổng hợp số liệu SCYK 6 tháng đầu năm 2019 và SCYK nghiêm trọng đến hết tháng 10 năm 2019 tại Quảng Ninh

Bảng 6. 58 Các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng đầu năm 2019 tại Quảng Ninh

Bảng 7. 59 Thống kê SCYK phát sinh tranh chấp tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV tư nhân đóng trên địa bàn TP. Hạ Long, Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

Bảng 8. 61 Tỷ lệ phát sinh tranh chấp trên tổng số SCYK ghi nhận được trong 6 tháng đầu năm 2019 tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV tư nhân tại Quảng Ninh

Bảng 9. 62 Thống kê các phương pháp giải quyết tranh chấp trong SCYK phát sinh tại một số BV trên địa bàn Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

Biểu đồ 1. 54 Số lượng SCYK 6 tháng đầu năm 2019 và SCYK nghiêm trọng đến hết tháng 10 năm 2019 tại Quảng Ninh

xiii

TT Tên sơ đồ, hình, bảng Trang

Biểu đồ 2. 55 Tỷ lệ các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng đầu năm 2019 tại Quảng Ninh

Biểu đồ 3. 56 Tỷ lệ các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng đầu năm 2019 theo các tuyến bệnh viện trên địa bàn Quảng Ninh

Biểu đồ 4. 56 Tỷ lệ hài lòng của người dân với ngành y tế năm 2018 thông qua khảo sát tại các bệnh viện trên toàn quốc

Biểu đồ 5. 60 Biểu đồ tỷ lệ các phương pháp giải quyết tranh chấp trong SCYK phát sinh tại một số BV trên địa bàn Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

Biểu đồ 6. 62 Tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp từ SCYK bằng phương pháp thương lượng tại một số bệnh viện trong giai đoạn từ 2016 - 2018

Lưu đồ 1. Quy trình xử lý và giải quyết tranh chấp sự cố y khoa 84

xiv

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Tên luận văn thạc sĩ: Giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại

các bệnh viện ở Quảng Ninh - thực trạng và giải pháp.

1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm qua, sự cố y khoa đã đang là

vấn đề nóng được cả xã hội quan tâm. Sự cố y khoa là điều tất cả mọi người không

mong muốn xảy ra, vì nó có thể để lại những hậu quả hết sức nặng nề đối với cả bệnh

nhân và các bệnh viện. Điều này đã thú c đẩy tác giả lựa chọn chủ đề “Giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa” làm đề tài luâ ̣n văn tha ̣c sỹ củ a mình. Đây là mô ̣t đề tài phù hơ ̣p vớ i chương trình đào ta ̣o tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c chuyên ngành Luâ ̣t kinh tế ta ̣i Trườ ng Đa ̣i ho ̣c Ngoa ̣i thương.

2. Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứ u:

Thứ nhất, nghiên cứu về cơ sở lý luận liên quan đến giải quyết tranh chấp phát

sinh trong SCYK.

Thứ hai, phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố khoa

tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, từ đó chỉ ra những thành công đạt được, hạn chế

và nguyên nhân.

Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp trong SCYK tại

Quảng Ninh, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết tranh chấp

phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh.

3. Luận văn đã đạt được những kết quả chính như sau:

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn đã khái quát các vấn đề chung

về sự cố y khoa và giải quyết tranh chấp sự cố y khoa. Tác giải đã phân tích rõ khái

niệm, đặc điểm, nguyên nhân gây ra sự cố y khoa và trách nhiệm của các bên. Hiện

nay có 3 phương pháp thường được sử dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh trong

sự cố y khoa tại các bệnh viện, đó là: Thương lượng, hòa giải, và tòa án.

Trên cơ sở hệ thống lại các lý luận, Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực trạng

sự cố y khoa tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, cả về số lượng và mức độ nghiêm

trọng của sự cố. Từ đó tác giả cũng đã phân tích cách thức giải quyết tranh chấp phát

xv

sinh trong sự cố y khoa tại một số bệnh viện trên địa bàn. Thực tế cho thấy, hầu hết

các tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa đều được giải quyết bằng phương pháp

thương lượng, một số ít tranh chấp sử dụng phương pháp hòa giải và tòa án. Tác giả

cũng đã đi sâu tìm hiểu những thành công, hạn chế, phân tích nguyên nhân của hạn

chế trong việc giải quyết tranh chấp sự cố y khoa tại các bệnh viện ở tỉnh Quảng Ninh.

Từ thực trạng nêu trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm

nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện

ở tỉnh Quảng Ninh. Đối với các bệnh viện, trước hết cần phải hạn chế tối đa việc phát

sinh sự cố y khoa bằng cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện môi trường

làm việc cho các NVYT, công khai thông tin về SCYK, tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra giám sát chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh... Ngoài ra, để giải

quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa có hiệu quả, các bệnh viện cần xây

dựng quy trình xử lý tranh chấp, thực hiện chế độ bảo hiểm nghề nghiệp và nâng cao

hiểu biết của các NVYT về quy định pháp luật. Về phía cơ quan quản lý nhà nước

cần phải nghiên cứu sửa đổi một số quy định còn bất cập về sự cố y khoa trong hoạt

động khám bệnh, chữa bệnh; cần làm rõ hơn nội dung các quy định về phương pháp

giải quyết các tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa.

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ ngành Luật Kinh tế, giới hạn về thời

gian và năng lực của tác giả nên luận văn mới chỉ tập trung vào ba nội dung chính,

trong đó đi sâu vào phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp sự cố y khoa tại các

bệnh viện ở tỉnh Quảng Ninh, để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả giải quyết tranh chấp. Vẫn còn một số vấn đề có sự bất cập về chính sách, quy

định pháp luật Việt Nam liên quan trách nhiệm của bệnh viện, trách nhiệm của các

đơn vị sản xuất và cung ứng thuốc, thiết bị y tế, vật tư y tế… trong việc xảy ra và giải

quyết tranh chấp sự cố y khoa... cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong các công

trình nghiên cứu sau này.

1

LỜI MỞ ĐẦ U

1. Tính cấ p thiết củ a đề tài

Nguyên tắc hàng đầu của nghề y theo Lời thề Hippocrate là “Điều đầu tiên

không gây tổn hại cho người bệnh - First Do No Harm to patient” vẫn còn nguyên

tính thời sự suốt từ thế kỷ thứ tư trước Công nguyên đến ngày hôm nay. Đã có

những sự kiện y tế gây tâm lý bất an cho cả người dân và toàn ngành y tế.

Bằng chứng nghiên cứu đa quốc gia của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khẳng

định: Cứ 10 bệnh nhân (BN) nhập viện thì có 01 BN gặp phải SCYK; 4/10 BN gặp

SCYK trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và điều trị ngoại trú. Mỗi năm có khoảng

2,6 triệu người bệnh tử vong trên 134 triệu SCYK xảy ra tại các cơ sở khám bệnh,

chữa bệnh (sau đây gọi chung là Bệnh viện, viết tắt là BV) ở các nước thu nhập thấp

và trung bình; SCYK trở thành 1 trong 10 nguyên nhân gây tử vong và tổn thương

hàng đầu thế giới. So sánh với rủi ro từ tử vong do tai nạn máy bay thì tỉ lệ chỉ là

1÷10.000, vì vậy BN nhập viện phải chấp nhận rủi ro cao hơn 10.000 lần so với đi

lại bằng đường hàng không; Có thể nói “Nằm viện nguy hiểm hơn nhiều so với đi

máy bay” (WHO 2019, 10 facts on patient safety, tr 1-4).

Bên cạnh đó, SCYK gây tốn kém hàng tỷ đô la Mỹ mỗi năm; chiếm tới 14,3%

chi phí tại BV. Trên toàn cầu, tiêu tốn chi phí liên quan đến sự cố do lỗi thuốc ước

tính là 42 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm. Chưa tính đến tiền lương, năng suất lao động giảm

hoặc chi phí cho chăm sóc sức khỏe do tai biến; Chi phí này chiếm gần 1% chi tiêu

toàn cầu cho y tế (WHO, 10 facts on patient safety, Hà Nội 2019, tr 5, 7).

Hiện nay, SCYK là một thực trạng đáng lo ngại trên thế giới; trong 3 năm

liên tục từ 2016-2018 tại Hội nghị Thượng đỉnh cấp Bộ trưởng Y tế toàn cầu, an

toàn người bệnh luôn là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Đại

hội đồng y tế Thế giới tổ chức vào tháng 5/2017 tại Geneva, Vương Quốc Anh đã

đệ trình sáng kiến và được thông qua chính thức lấy ngày 17/9 hàng năm là ngày

“An toàn người bệnh Thế giới” bắt đầu từ năm 2019.

Tại Việt nam, SCYK nổi cộm còn xảy ra khá phổ biến; được truyền thông

đưa tin liên tục trong nhiều năm qua như các vụ: Hỏng một quả thận “lỡ tay” cắt

2

cả hai; ba cháu bé sơ sinh tử vong sau tiêm vắc xin viêm gan B; mổ chân trái nhầm

sang chân phải; mổ tay phải nhầm sang tay trái; trao nhầm trẻ sơ sinh; quên 01

chiếc panh trong bụng 18 năm; sử dụng nhầm kaliclorid 10% đường uống sang

tiêm tĩnh mạch gây tử vong 1 bệnh nhi; nhân viên y tế xâm hại tình dục bệnh nhi

13 tuổi; gãy đốt sống ngực nhưng bị khoan nhầm cẳng chân; hai người chết sau

khi tiêm thuốc gây mê; một em bé chiếu đèn điều trị vàng da tử vong vì bị bỏng

nặng; BN tử vong ngay trên bàn mổ do phẫu thuật viên cắt vào động mạch.

Phía sau của những SCYK trên là chặng đường gian nan đòi bồi thường, đòi bù

đắp của BN và gia đình họ. Nhìn lại một số vụ việc để thể thấy phần nào thực trạng

về giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK hiện nay ở nước ta: Toàn án quận

Ninh Kiều đã tuyên án sơ thẩm buộc BV Đa khoa thành phố Cần Thơ bồi thường một

lần 302,4 triệu đồng và chi hằng tháng 5,8 triệu đồng cho bà Tú. Sau đó, BV kháng

cáo; vậy là hơn 6 năm sau khi bị cắt nhầm 2 quả thận, việc bồi thường vẫn chưa ngã

ngũ. Trước đó, một BN 55 tuổi, mổ tại BV Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh

và bị tai biến. Gia đình ông khởi kiện BV đòi bồi thường 33 tỉ đồng. Tuy nhiên, rất

khó khăn trong việc tìm được bằng chứng và yêu cầu BV bồi thường.

SCYK nghiêm trọng nhất, lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử y tế Việt Nam - mười

tám bệnh nhân chạy thận nhân tạo sốc phản vệ, trong đó chín người tử vong tại bệnh

viện đa khoa tỉnh Hòa Bình. Cho đến hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về trách nhiệm

hình sự của các cá nhân có liên quan. Nhưng có một vấn đề khác trong vụ việc ít được

quan tâm đến, đó là: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho 09 BN còn sống bị sốc

phản vệ và gia đình của 09 BN đã tử vong thuộc về ai? Bồi thường bao nhiêu? Cơ

chế nào? Phương pháp nào phù hợp để giải quyết những SCYK tương tự?

Những câu hỏ i trên đã thú c đẩy tác giả lựa chọn chủ đề “Giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh - thực trạng

và giải pháp” làm đề tài luâ ̣n văn tha ̣c sỹ củ a mình. Đây là mô ̣t đề tài phù hơ ̣p vớ i chương trình đào ta ̣o tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c chuyên ngành Luâ ̣t kinh tế ta ̣i Trườ ng Đa ̣i ho ̣c Ngoa ̣i thương.

3

2. Tình hình nghiên cứ u

Hiện nay, tại Việt Nam mới có một số bài báo báo, tạp chí tìm hiểu về vấn đề

giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện, tuy nhiên chưa

có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ. Trên thế

giớ i chủ đề này đã đươ ̣c nghiên cứ u nhiều, đã có những quốc gia ban hành cơ chế,

luật định để giải quyết tranh chấp.

2.1. Tình hình nghiên cứ u trong nước

Ta ̣i Viê ̣t Nam, chưa có nghiên cứ u chuyên sâu ở cấp đô ̣ luâ ̣n văn thạc sĩ hay

sách chuyên khảo về giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện, mà chỉ có mô ̣t số nghiên cứ u về khía ca ̣nh nguyên nhân gốc rễ củ a sự cố y khoa. Có thể kể đến như:

Nguyễn Thị Mỹ Linh (2010), “Khảo sát sự cố y khoa không mong muốn của

điều dưỡng Bệnh viện đa khoa khu vực Cai Lậy 2008 -2010”, Y Học TP.Hồ Chí Minh,

Tập 14, Phụ bản số 4. Bài báo cáo đã phân tích lý do và những yếu tố rủi ro gây ra SCYK, chỉ ra các nguyên tắc dự phòng. Tuy nhiên, báo cáo này cò n khá sơ sài và chưa phân tích đến nô ̣i dung về xử lý khi có phát sinh tranh chấp.

Bộ Y tế (2014), “Tài liệu đào tạo An toàn người bệnh” - Tài liệu đào tạo an

toàn người bệnh do Bộ Y tế ban hành dựa trên các khuyến cáo và hướng dẫn cập nhật

của Tổ chức Y tế Thế giới và triển khai thực hiện Điều 7 của Thông tư số 19/2013/TT-

BYT về triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn người bệnh và nhân viên y tế. Mục

đích của Tài liệu đào tạo này nhằm cung cấp các kiến thức hiểu biết về tần suất các

sai sót chuyên môn, sự cố y khoa, các nguyên nhân và các giải pháp để hạn chế các

sai sót chuyên môn và sự cố y khoa tới mức thấp nhất có thể trong các cơ sở khám

chữa bệnh.

Bác sĩ. Trần Nguyễn Như Anh (2015), “Văn hóa an toàn người bệnh tại bệnh

viện Từ Dũ” - Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí

Minh. Đề tài phác thảo bức tranh toàn cảnh về văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh

viện, và lý giải các yếu tố tác động đến văn hóa an toàn người bệnh nhằm giúp nâng

cao văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế.

4

Bùi Thị Trà (2016), “Phân tích kiến thức, thái độ, thực hành của cán bộ y tế về

hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại một số bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh

khu vực phía bắc” - Khóa luận tốt nghiệp Dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội. Nghiên

cứu đã mô tả thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của cán bộ y tế trong hoạt

động báo cáo Tác dụng không mong muốn của thuốc (ADR) và phân tích một số yếu

tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại năm bệnh viện.

2.2. Tình hình nghiên cứ u ngoài nước

Trên thế giớ i đã có nhiều nghiên cứ u, bài viết khoa học về các cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế Tòa án khi có SCYK xảy ra. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây:

Edward A. Dauer, LLB, MPH (2002), “Alternatives to litigation for health care

conflicts and claims: alternative dispute resolution in medicine”, University of

Denver College of Law, 1900 Olive Street, Denver, CO 80220, USA. Nghiên cứu đã

đi sâu về các lựa chọn thay thế cho tranh tụng khi có xung đột trong y học tại Hoa

Kỳ. Tập trung phân tích về phương pháp hòa giải khi có các tranh chấp liên quan đến cáo buộc về sự cố y khoa. Tác giả nhận định rằng các chỉ số về hiệu quả là rất tích

cực và rủi ro đối với rò rỉ thông tin là rất thấp. Một mô hình khá tương đồng với Trọng

tài kinh tế.

Carol B. Liebman và Chris Stern Hyman (2004), “A Mediation Skills Model To

Manage Disclosure Of Errors And Adverse Events To Patients”, Project HOPE: The

People-to-People Health Foundation, Inc. 7500 Old Georgetown Road, Suite 600,

Bethesda, Maryland 20814 – USA. Bài viết tập trung vào việc triển khai một mô hình

hòa giải dựa trên Luật định của tiểu bang Pennsylvania về việc buộc các bệnh viện

phải thông báo cho bệnh nhân bằng văn bản về một SCYK nghiêm trọng. Đồng thời

dựa trên cơ sở sữ liệu đó để đào tạo cho các bác sĩ nhằm rút kinh nghiệm và tránh

mắc phải.

David H. Sohn , JD, MD và B. Sonny Bal , MD, JD, MBA (2011), “Medical

Malpractice Reform: The Role of Alternative Dispute Resolution”, University of

Toledo Medical Center, 3000 Arlington Avenue, Toledo, OH 43551 USA &

5

University of Missouri, Columbia, MO USA. Nghiên cứu kết luận: “Giải quyết tranh

chấp thay thế có khả năng giúp cải tổ hệ thống tố tụng hiện tại, giảm chi phí và tăng

sự hài lòng của cả hai bên (bệnh nhân và thầy thuốc)”.

Solmaz Khodapanahandeh và Siti Naaishah Hambali (2014), “Efficiency of

Using “Alternative Dispute Resolution” Method in Medical Negligence Claims”,

Faculty of Law, Universiti Kebangsaan Malaysia. Nghiên cứu cho thấy tại Vương

Quốc Anh từ năm 1995, Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) đã đưa ra Chương trình thí

điểm Hòa giải Tiêu cực Y tế nhằm đáp ứng mối lo ngại về sự gia tăng số lượng các

SCYK. Người ta cũng ước tính rằng hòa giải sẽ giảm 5% chi phí pháp lý, chi phí bồi

thường.

Dossierfamilial (2014), “Résoudre un litige avec l'hôpital”, trang tin điện tử

của tạp trí Dossierfamilial. Bài viết cho biết tại Pháp, bắt buộc kể từ ngày 07/5/1999

khi có tranh chấp liên quan đến SCYK thì bệnh nhân sẽ được hỗ trợ hoặc hướng dẫn

bởi một Ủy ban hòa giải và bồi thường khu vực. Ngày 04/3/2002, Luật Quyền của

người bệnh (La loi sur les droits des malades) đóng vai trò trung tâm trong các yêu

cầu bồi thường và thủ tục bồi thường được ban hành.

Prachi Patel (2018), “Relevance of Alternative Dispute Resolution in Medical

Malpractice”, www.academia.edu. Nghiên cứu giới thiệu một số SCYK với những

phương pháp giải quyết tranh chấp khác nhau; phân tích từng phương pháp giải quyết

tranh chấp thay thế và phương pháp tố tụng truyền thống; so sánh cơ sở pháp lý giữa

Ireland, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, đồng thời khuyến nghị cơ chế cho Ấn Độ.

Như vậy, có thể thấy rằng những nghiên cứu tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở

việc khái quát về nguyên nhân gây ra SCYK, các biện pháp dự phòng và phân tích

chuyên sâu về một khía cạnh là lỗi hệ thống.

Các nghiên cứu trên thế giới thì chủ yếu tập trung vào các phương pháp giải

quyết tranh chấp thay thế khi đối mặt với một vụ kiện đòi bồi thường về sự cố y khoa.

Mô ̣t số nghiên cứ u đã đề câ ̣p chuyên sâu đến phương pháp hòa giải, nhưng các đánh

giá đưa ra là dướ i gó c đô ̣ pháp luật củ a Hoa Kỳ và châu Âu; nơi mà việc hòa giải đã

6

có những cơ chế pháp lý rõ ràng, có các cơ quan do Chính phủ lập ra để thực hiện và

bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của các bên.

Kế thừa những nghiên cứu tại cả Việt Nam và thế giới, luận văn sẽ phân tích

sâu hơn về hậu quả pháp lý khi có SCYK xảy ra, những tranh chấp phát sinh thường

gặp, các cơ chế, phương pháp giải quyết tranh chấp theo pháp luật Việt Nam. Từ đó chỉ ra các ưu điểm, hạn chế cũng như các thuâ ̣n lơ ̣i và thách thứ c đố i vớ i giải quyết

tranh chấp phát sinh trong SCYK trong tình hình hiện nay.

3. Mục tiêu nghiên cứ u

3.1. Mu ̣c đích nghiên cứ u

Đề xuất các giải pháp tăng cường hiê ̣u quả giải quyết tranh chấp phát sinh trong

sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh trước tình hình thực tiễn hiện nay trên

cơ sở nghiên cứu các quy đi ̣nh của pháp luật điều chỉnh hoa ̣t đô ̣ng giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại Việt Nam và một số nước phát triển trên thế

giới. Đồng thời qua đó chỉ ra những ưu, nhược điểm của các cơ chế đã nghiên cứu.

3.2. Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứ u

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ giải quyết những nhiệm vụ cu ̣

thể sau:

Thứ nhất, nghiên cứu về cơ sở lý luận liên quan đến giải quyết tranh chấp phát

sinh trong SCYK.

Thứ hai, phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa

tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, từ đó chỉ ra những thành công đạt được, hạn chế

và nguyên nhân.

Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp trong SCYK tại

Quảng Ninh, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết tranh chấp

phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh.

7

4. Đố i tươ ̣ng và phạm vi nghiên cứ u

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:

Những vấn đề pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố

y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh (QN).

Một số quy định của nước ngoài có thể đươ ̣c trích dẫn, phân tích, nhưng không phải là đố i tươ ̣ng chính củ a nghiên cứ u, mà chỉ để so sánh nhằ m làm rõ sự khác biê ̣t giữa các quy đi ̣nh.

4.2. Phạm vi về thời gian:

Đề tài nghiên cứu các số liệu trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019.

4.3. Phạm vi về không gian:

Giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK tại các bệnh viện ở Quảng Ninh.

5. Tính mới của luận văn

Ta ̣i Viê ̣t Nam, chưa có nghiên cứ u chuyên sâu ở cấp đô ̣ luâ ̣n văn thạc sĩ hay

sách chuyên khảo về giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK tại các bệnh viện, mà chỉ có mô ̣t số nghiên cứ u về khía ca ̣nh nguyên nhân gốc rễ củ a SCYK. Tác giả hy vọng nghiên cứu của mình sẽ góp phần thúc đẩy hình thành một cơ chế tạo ra các

phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế trong SCYK tại các bệnh viện một cách

chính thức và đem lại lợi ích cho cả người bệnh cũng như các tổ chức y tế.

6. Phương phá p nghiên cứ u

Để thực hiê ̣n đươ ̣c nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứ u trên, đề tài sẽ sử du ̣ng kết hơ ̣p các

phương pháp nghiên cứ u sau:

- Phương pháp thu thập, thống kê, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp thông

tin, cụ thể là thông tin và số liệu từ các nguồn như sách, báo, văn bản luật, báo cáo và

một số đề tài nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới, các tài liệu từ trang web điện

tử của các trường Đại học, cơ sở nghiên cứ u, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tố

tụng trong và ngoài nước. Phương pháp này đươ ̣c sử du ̣ng xuyên suố t luâ ̣n văn, đă ̣c

biê ̣t trong Chương 1 và Chương 2.

8

- Phương pháp nghiên cứu tình huống, bao gồm việc tập hợp, lựa chọn, phân

tích và bình luận các tình huống, vụ việc tiêu biểu liên quan đến việc giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh. Phương pháp này

đươ ̣c sử du ̣ng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 2.

- Phương pháp so sánh luật ho ̣c. Đề tài sẽ so sánh các quy đi ̣nh hiện tại với trướ c

đây và các quy định của Việt Nam với một số nước như: Hoa Kỳ, Vương quốc Anh,

Pháp, Úc… (đây là các nước tiên phong và có nhiều giải pháp trong giải quyết sự cố

y khoa từ những năm cuối thế ký trước đến nay). Phương pháp này được sử dụng chủ

yếu trong Chương 2 và phần Phụ lục nhằm chỉ ra các điểm tương đồng và khác biệt

giữa các cơ chế giải quyết tranh chấp tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các

bệnh viện ở Quảng Ninh.

- Phương pháp phỏng vấn (bao gồm cả trực tiếp và qua các phương tiện truyền

tin, phương tiện điện tử, phương tiện viễn thông). Đề tài sẽ phỏng vấn các cán bộ làm

công tác quản lý và xử lý các sự cố y khoa tại một số bệnh viện ở Quảng Ninh. Phương

pháp này được sử dụng chủ yếu trong Chương 2 nhằm chỉ ra các lựa chọn phương

thức giải quyết tranh chấp trong sự cố y khoa tại Quảng Ninh.

7. Kết cấ u củ a Luâ ̣n văn

Bên ca ̣nh phần Mở đầu, Kết luâ ̣n, Luâ ̣n văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa.

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các

bệnh viện ở Quảng Ninh.

Chương 3: Giải pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các

bệnh viện.

9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P PHÁT SINH TRONG SỰ CỐ Y KHOA

1.1. Khái niệm chung về sự cố y khoa

1.1.1. Khái niệm:

Theo WHO: Sự cố y khoa là sự cố không mong muốn tác hại liên quan đến quản

lý y tế (khác với biến chứng do bệnh) bao gồm các lĩnh vực chẩn đoán, điều trị, chăm

sóc, sử dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế. Sự cố y khoa có thể phòng

ngừa và không thể phòng ngừa (WHO 2011, Patient Safety curriculum guide. Multi-

professional Edition).

Theo Bộ sức khỏe và dịch vụ con người của Mỹ: Sự cố y khoa là sự cố không

mong muốn gây hại cho người bệnh do hậu quả của chăm sóc y tế hoặc trong y tế

(Levinson DR 2010, Adverse Events in Hospitals: National Incidence Among

Medicare Beneficiaries, Department of health and Human Services-USA).

Khoản 13, Điều 2 Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định “Tai biến trong khám

bệnh, chữa bệnh là hậu quả gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh do

sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh hoặc rủi ro xảy ra ngoài ý

muốn trong khám bệnh, chữa bệnh mặc dù người hành nghề đã tuân thủ các quy định

chuyên môn kỹ thuật.”

Khoản 1, Điều 2, Thông tư 43/2018/TT-BYT của Bộ Y tế Việt Nam quy định

“Sự cố y khoa là các tình huống không mong muốn xảy ra trong quá trình chẩn đoán,

chăm sóc và điều trị do các yếu tố khách quan, chủ quan mà không phải do diễn biến

bệnh lý hoặc cơ địa người bệnh, tác động đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh”.

Vì vậy có thể dễ dàng nhận thấy sự tương đồng giữa thuật ngữ “tai biến” được

sử dụng trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh với “sự cố y khoa” được sử dụng trong

Thông tư 43/2018/TT-BYT của Bộ Y tế. Nói cách khác, có thể coi thuật ngữ “tai

biến” và “sự cố y khoa” là một và Thông tư 43/2018/TT-BYT được ban hành với tinh

thần giải thích, làm rõ thêm cho thuật ngữ “tai biến” được nêu trong Luật Khám bệnh,

chữa bệnh.

10

Bản chất “sự cố” là một điều không mong muốn, tuy nhiên trong khái niệm mà

Thông tư 43/2018/TT-BYT nêu ra vẫn sử dụng thuật ngữ “sự cố y khoa là các tình

huống không mong muốn” vì các thuật ngữ như “sai sót chuyên môn, sai lầm y khoa”

hay “tai biến” như Luật Khám bệnh, chữa bệnh sử dụng dễ gây ra cách hiểu sai lệch về

trách nhiệm của nhân viên y tế (NVYT) và trong thực tế không phải bất cứ sự cố nào

xảy ra cũng do cán bộ y tế. Các nước phát triển họ đã sử dụng thuật ngữ “Adverse

Events - Sự cố không mong muốn” rất sớm từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước

(FDA-USA 1991, 1993, 1996, Manufacturer and User Facility Device Experience

Database).

1.1.2. Đặc điểm:

Trên cơ sở “Tài liệu đào tạo An toàn người bệnh” của Bộ Y tế và thông qua

phân tích một số SCYK trong thời gian qua, tác giả tổng kết được các đặc điểm chính

của SCYK như sau:

Một là, SCYK có biên độ biến động lớn, bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, tình

trạng sức khỏe của BN bất định, khó đoán trước… nó có thể sảy ra và kết thúc ngay

hoặc có thể tiến triển theo nhiều hướng khác nhau.

Hai là, bản thân Y học là khoa học chẩn đoán luôn kèm theo xác suất do đó

SCYK cũng luôn thường trực sảy ra ở bất kỳ đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất

kỳ ai.

Ba là, SCYK có thể trồng SCYK, cùng một thời điểm nhiều SCYK có thể cùng

sảy ra trên một BN.

Bốn là, SCYK luôn có tính chất nhậy cảm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức

khỏe, tính mạng con người và tài sản.

Năm là, Khó khăn trong xác định nguyên nhân gốc vì các hoạt động phân tích

chỉ dựa trên cơ sở hồi cứu, phân tích lý thuyết, phỏng đoán, không thể tiến hành thực

nghiệm; phụ thuộc hoàn toàn vào việc ghi chép HSBA, mức độ trung thực của các

NVYT có liên quan đến SCYK; các bằng chứng khác thường rất ít hoặc thiếu căn cứ;

mặt khác rào cản văn hóa người Việt Nam thường không muốn khám nghiệm tử thi

trong các SCYK gây tử vong nên càng ít cơ sở khoa học để kết luận nguyên nhân.

11

Sáu là, SCYK có thể đi kèm với hậu quả pháp lý như trách nhiệm dân sự, trách

nhiệm hình sự.

1.1.3. Phân loại:

Tùy theo mục đích của người sử dụng dữ liệu mà có các cách phân loại SCYK

khác nhau. Thông thường sẽ có ba cách phân loại sau: (1) Phân loại theo mức độ nguy

hại đối với người bệnh, (2) phân loại theo báo cáo bắt buộc và (3) phân loại theo đặc

điểm chuyên môn.

1.1.3.1. Phân loại SCYK theo mức độ nguy hại đối với người bệnh

SCYK được phân loại theo các cách khác nhau, tùy vào mục đích sử dụng. Bao

gồm phân loại theo mức độ nguy hại của người bệnh, theo tính chất nghiêm trọng của

sự cố làm cơ sở để đo lường và đánh giá mức độ nguy hại cho người bệnh, tuy nhiên

tổng hợp các phương pháp phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam (Bộ Y tế-2014, Tài

liệu đào tạo an toàn người bệnh, trang 11-13) hiện nay có thể phân thành 3 mức độ

như sau:

(1) Sự cố suýt xảy ra có nguy cơ gây nguy hại cho người bệnh;

(2) Sự cố đã xảy ra nhưng chưa tác động trực tiếp đến người bệnh hoặc đã đến

người bệnh nhưng không gây nguy hại;

(3) Sự cố đã xảy ra và gây nguy hại cho người bệnh hoặc làm tử vong.

1.1.3.2. Phân loại SCYK theo báo cáo bắt buộc

a) Theo Diễn đàn chất lượng quốc gia Hoa Kỳ (National Quality Forum- NQF)

thì SCYK phải báo cáo bắt buộc gồm các nhóm sau:

(1) Do phẫu thuật, thủ thuật: Nhầm vị trí, nhầm người bệnh, sai phương pháp,

sót gạc dụng cụ, tử vong trong hoặc ngay sau khi phẫu thuật thường quy;

(2) Do môi trường: Bị shock do điện giật, bị bỏng trong khi điều trị tại bệnh

viện, cháy nổ ôxy, bình ga, hóa chất độc hại;

(3) Liên quan tới chăm sóc: Nhầm thuốc, nhầm nhóm máu/chế phẩm máu; ngã,

loét do tỳ đè trong BV; thụ tinh nhân tạo nhầm; tai biến do tiêm/chọc dò tủy sống…

12

(4) Liên quan tới quản lý người bệnh: Giao nhầm trẻ sơ sinh, BN gặp sự cố y

khoa ở ngoài cơ sở y tế, BN tự tử, tự sát hoặc tự gây hại;

(5) Liên quan tới thuốc và thiết bị: Thuốc bị nhiễm khuẩn/chất sinh học, sử

dụng thiết bị hỏng/thiếu chính xác trong điều trị và chăm sóc, tắc mạch do không khí;

(6) Liên quan tới tội phạm: NVYT chủ định gây sai phạm, bắt cóc, lạm dụng

tình dục.

b) Tại Việt Nam, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Thông tư số

43/2018/TT-BYT quy định thì SCYK phải báo cáo bắt buộc gồm các nhóm sau:

(1) SCYK đã xảy ra gây nguy hại kéo dài, để lại di chứng;

(2) SCYK đã xảy ra gây nguy hại cần phải hồi sức tích cực;

(3) SCYK đã xảy ra có ảnh hưởng hoặc trực tiếp gây tử vong;

(4) SCYK gây tử vong cho 01 người bệnh và nghi ngờ có nguy cơ tiếp tục gây

tử vong cho người bệnh tiếp theo;

(5) SCYK gây tử vong cho 02 người bệnh trở lên trong cùng một tình huống,

hoàn cảnh hoặc do cùng một nguyên nhân.

1.1.3.3. Phân loại SCYK theo đặc điểm chuyên môn:

Hiệp hội An toàn người bệnh Thế giới phân loại sự cố y khoa theo 6 nhóm sự

cố gồm:

(1) Nhầm tên người bệnh;

(2) Thông tin bàn giao không đầy đủ;

(3) Nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật;

(4) Nhầm lẫn liên quan tới các thuốc có nguy cơ cao;

(5) Nhiễm trùng bệnh viện;

(6) Người bệnh ngã.

13

1.1.4. Nguyên nhân của SCYK:

Trước hết, cần phải làm rõ đâu là nguyên nhân dẫn đến SCYK, việc xác

định nguyên nhân là căn cứ quan trọng để xem xét trách nhiệm của các bên

khi phát sinh SCYK. Có nhiều nguyên nhân được đưa ra khi người bệnh gặp

phải SCYK; nhưng tựu chung lại có thể chủ quan từ phía BV, NVYT hoặc

khách quan từ các yếu tố bên ngoài như môi trường, người bệnh… dẫn đến

SCYK; ngoài ra có những yếu tố thuận lợi có thể khiến thúc đẩy SCYK dễ gặp

phải hơn.

Việc phân tích xác định nguyên nhân gốc không chỉ đơn giản là tìm kiếm

lỗi cá nhân mang tính trực tiếp mà phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn gián

tiếp thúc đẩy sự cố xảy ra. Việc phân tích nguyên nhân gốc và thực hiện các

hành động khắc phục được coi là quá trình cải tiến liên tục của cơ sở y tế.

Những yếu kém trong việc tìm hiểu nguyên nhân gốc của các sự cố y

khoa dẫn đến việc mặc dù sự cố y khoa đã tồn tại từ lâu nhưng hệ thống y tế

chưa có được bức tranh toàn cảnh về sự cố y khoa để có phương sách đối phó

hiệu quả. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra Hội chứng hệ thống suy yếu của tổ

chức (Vulnerable System Syndrome). Hội chứng này có ba nhóm triệu chứng

chính là:

(1) Đổ lỗi cho cá nhân trực tiếp (bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh..);

(2) Phủ nhận sự tồn tại các điểm yếu của lỗi hệ thống;

(3) Theo đuổi mù quáng các chỉ số tài chính, lạm dụng các chỉ định chuyên môn.

14

Lỗi hoạt động (Active errors)

Nguy cơ

Lỗi hệ thống (Latent conditions)

Sự cố

Hình 1. Mô hình các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa

sự cố y khoa theo J.T.Reason, J.Carthey và M.R.de Leval

Theo nghiên cứu Diagnosing “vulnerable system syndrome” của J.T.Reason,

J.Carthey và M.R.de Leval: Trong y tế, lỗi hoạt động (active errors) liên quan trực

tiếp tới NVYT vì họ ở lớp hàng rào phòng ngự cuối cùng trực tiếp tiếp xúc với người

bệnh. Khi sự cố xảy ra người làm công tác khám chữa bệnh trực tiếp (bác sĩ, điều

dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên y…) dễ bị gán lỗi. Tuy nhiên, các yếu tố hệ thống (latent

factors) có vai trò rất quan trọng liên quan tới các sự cố đó như công tác quản lý, tổ

chức lao động, môi trường làm việc… thường ít được chú ý xem xét về sự liên quan.

Các nhà nghiên cứu nhận định cứ có một lỗi hoạt động thường có 3-4 yếu tố liên quan

tới lỗi hệ thống.

Dưới đây là những nhóm nguyên nhân cơ bản thường dẫn đến SCYK:

1.1.4.1. Nguyên nhân chủ quan:

a) Lỗi hệ thống:

BV thiếu nguồn lực: Nhân lực, vật lực, tài lực, hệ thống văn bản (Nội quy/quy

định/quy trình/phác đồ…). Hoạt động quản trị bệnh viện còn nhiều hạn chế; chính

sách, cơ chế vận hành chưa hoàn chỉnh. Tổ chức cung cấp dịch vụ: Dây chuyền

khám chữa bệnh khá phức tạp, ngắt quãng, nhiều đầu mối, nhiều cá nhân tham gia

trong khi kỹ năng làm việc nhóm chưa tốt. Chưa có/chưa xây dựng hệ thống quản

lý sai sót, sự cố hiệu quả, thực chất. Thiếu hoạt động huấn luyện/đào tạo về an toàn

người bệnh cho NVYT. Văn hóa của tổ chức; môi trường làm việc thiếu an toàn

15

(tiếng ồn, nhiệt độ, diện tích…), thiếu tính bền vững (không khí làm việc căng thẳng,

quá áp lực…); môi trường tâm lý (tiếp xúc với người ốm, tâm lý luôn căng thẳng…);

các nguy cơ rủi ro của môi trường làm việc khác. Kiểm tra giám sát chưa hiệu quả,

thiếu khách quan.

b) Nhân viên y tế:

Nhận thức: Kiến thức, hiểu biết, quan niệm. Thực hành: Kỹ năng thực hành

không đúng quy định, hướng dẫn chuẩn; hoặc thực hành theo quy định, hướng dẫn

sai; hoặc quá tự tin về năng lực bản thân; kỹ năng làm việc nhóm yếu kém; can thiệp

nhiều thủ thuật/phẫu thuật trên BN cùng một lúc. Thái độ, hành vi, cảm xúc, thiếu

tinh thần, trách nhiệm; thói quen, thiếu tập trung khi thực hiện công việc; Giao tiếp.

Tâm sinh lý, thể chất, bệnh lý (mệt mỏi, ốm đau…). Các yếu tố xã hội…

1.1.4.2. Nguyên nhân khách quan:

a) Từ phía bệnh viện và nhân viên y tế:

Tình trạng quá tải bệnh nhân tại các BV tuyến tỉnh và trung ương. Thiếu hụt

nhân lực, đặc biệt là NVYT chuyên sâu, tay nghề kỹ thuật cao ở các tuyến huyện,

vùng khó khăn về kinh tế. Môi trường làm việc không thuận lợi gây xao lãng, thiếu

tập trung. Trang thiết bị thiếu thốn, không đồng bộ, cũ kỹ. Việc trao đổi thông tin

giữa BN, NVYT và người quản lý còn nhiều hạn chế. Còn áp dụng những phương

pháp chẩn đoán và điều trị có mức an toàn hẹp, lỗi thời. Bất cứ một can thiệp điều trị

nào cũng luôn tiềm ẩn 2 mặt lợi và hại.

b) Từ phía bệnh nhân và gia đình bệnh nhân:

Nhận thức: Kiến thức, hiểu biết, quan niệm. Thực hành: Không tuân thủ điều

trị, không chấp hành nội quy… Thái độ, hành vi, cảm xúc; Giao tiếp. Tâm sinh lý,

khuyết tật bẩm sinh. Các yếu tố xã hội.

c) Các yêu tố bên ngoài:

Môi trường tự nhiên. Sản phẩm, công nghệ và cơ sở hạ tầng của các đơn vị cung

cấp hàng hóa, dịch vụ cho BV. Quy trình, hệ thống dịch vụ, hạ tầng xã hội. Các nguyên

nhân khác.

16

1.1.4.3. Yếu tố thuận lợi:

Những yếu tố về đặc điểm của bệnh nhân như cơ địa, sức đề kháng khác nhau

cũng là điều kiện thuận lợi góp phần để SCYK dễ xảy ra.

YẾU TỐ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH Chính sách, cơ chế vận hành, tổ chức cung cấp dịch vụ, bố trí nguồn lực, đào tạo nhân viên và kiểm tra, giám sát

YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NƠI LÀM VIỆC Môi trường vật lý (ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn, nơi làm việc chật hẹp), quá tải công việc, áp lực tâm lý

YẾU TỐ CHUYÊN MÔN Bệnh bất định, xác suất, dùng thuốc, phẫu thuật, thủ thuật dễ gây phản ứng

YẾU TỐ NGƯỜI HÀNH NGHỀ Kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, sức khỏe, tâm lý..

SỰ CỐ XẢY RA

Sơ đồ 1. Sơ đồ mô tả các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa

(Bộ Y tế 2014, Tài liệu đào tạo an toàn người bệnh, tr 15-16)

1.1.5. Xác định sai sót trong sự cố y khoa

1.1.5.1. Cơ quan xác định sai sót trong sự cố y khoa

Căn cứ khoản 1 Điều 74 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, trường hợp

SCYK phát sinh tranh chấp và BN, gia đình BN hoặc người đại diện theo ủy quyền

có yêu cầu thì thành lập Hội đồng Chuyên môn để xác định có hay không có sai sót

chuyên môn kỹ thuật.

Hội đồng Chuyên môn có 3 cấp là: (1) Cấp cơ sở do bệnh viện thành lập; (2)

Cấp địa phương do Sở Y tế thành lập; (3) Cấp trung ương do Bộ Y tế thành lập).

17

1.1.5.2. Trình tự thủ tục thành lập và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng

Chuyên môn

a) Thủ tục thành lập HĐCM được quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 74 Luật

Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 như sau:

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết tranh

chấp, người đứng đầu BV phải tự thành lập HĐCM hoặc nếu không tự thành lập được

thì đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế quản lý trực tiếp thành lập

HĐCM; Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của BV, cơ

quan nhà nước có thẩm quyền về y tế quản lý trực tiếp phải thành lập HĐCM.

Trường hợp các bên tranh chấp không nhất trí với kết luận của HĐCM nêu trên,

một trong các bên có quyền đề nghị BYT thành lập HĐCM. Trong thời hạn 20 ngày,

kể từ ngày nhận được đề nghị, BYT phải thành lập HĐCM.

Trường hợp vụ việc liên quan đến tai biến trong KBCB được giải quyết theo thủ

tục tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có

thẩm quyền về y tế thành lập HĐCM để xác định có hay không có sai sót chuyên môn

kỹ thuật.

b) Thành phần của HĐCM, theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Khám bệnh,

chữa bệnh năm 2009 bao gồm:

Các chuyên gia thuộc lĩnh vực chuyên môn phù hợp;

Các chuyên gia thuộc các chuyên khoa khác có liên quan đến tai biến trong

khám bệnh, chữa bệnh;

Luật gia hoặc luật sư.

c) Thời gian và chế độ làm việc của HĐCM:

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thành lập, HĐCM phải họp và mời các bên

liên quan đến tranh chấp tham gia một số phiên họp và phiên kết luận (khoản 3 Điều

74 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009).

18

HĐCM hoạt động theo nguyên tắc thảo luận tập thể, quyết định theo đa số và

chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận của mình (khoản 2 Điều 75 Luật Khám

bệnh, chữa bệnh năm 2009).

d) Chức năng nhiệm vụ của HĐCM được quy định tại các khoản 3, 4, 5 Điều

75 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 như sau:

HĐCM có trách nhiệm xác định có hay không có sai sót chuyên môn kỹ thuật

các quy định tại Điều 73 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh.

Kết luận của HĐCM là cơ sở để giải quyết tranh chấp hoặc để cơ quan tiến hành

tố tụng xem xét, quyết định giải quyết vụ việc; là căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước

có thẩm quyền về y tế, giám đốc BV quyết định áp dụng các biện pháp xử lý theo

thẩm quyền đối với NVYT.

Kết luận của HĐCM cấp Bộ Y tế là kết luận cuối cùng về việc có hay không có

sai sót chuyên môn kỹ thuật.

1.1.5.3. Cơ sở xác định NVYT có sai sót chuyên môn kỹ thuật hay không

trong SCYK

Căn cứ Điều 73, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009:

a) NVYT có sai sót chuyên môn kỹ thuật khi HĐCM xác định có một trong các

hành vi sau đây:

Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh;

Vi phạm các quy định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp;

Xâm phạm quyền của người bệnh.

b) NVYT không có sai sót chuyên môn kỹ thuật khi được HĐCM xác định thuộc

một trong các trường hợp sau đây:

Đã thực hiện đúng các quy định chuyên môn kỹ thuật trong quá trình khám

bệnh, chữa bệnh (KBCB) nhưng vẫn xảy ra tai biến đối với người bệnh;

Trong trường hợp cấp cứu nhưng do thiếu phương tiện, thiết bị kỹ thuật, thiếu

người hành nghề theo quy định của pháp luật mà không thể khắc phục được hoặc

19

bệnh đó chưa có quy định chuyên môn để thực hiện dẫn đến xảy ra tai biến đối với

người bệnh; các trường hợp bất khả kháng khác dẫn đến xảy ra tai biến đối với người

bệnh.

1.1.6. Các bên trong sự cố y khoa

Đối tượng gây ra SCYK: Bệnh viện, nhân viên y tế, bản thân bệnh nhân, gia

đình bệnh nhân, các đối tượng khác;

Đối tượng bị tổn hại trong SCYK: Bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, nhân viên

y tế, tài sản của bệnh nhân/bệnh viện;

Các đối tượng có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong SCYK, ví dụ: Doanh

nghiệp sản xuất / cung cấp thuốc, nhà thầu xây dựng, doanh nghiệp bảo hiểm…

1.2. Khái niệm chung về tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa

1.2.1. Khái niệm

Thuật ngữ “tranh chấp” trong Từ điển Tiếng Việt điện tử có định nghĩa: Tranh

giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào (tranh chấp đất đai, tranh

chấp thị trường…); đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề

quyền lợi giữa hai bên (tranh chấp ý kiến, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế…)

Tranh chấp trong SCYK được hiểu là những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột lợi

ích về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động cung cấp

dịch vụ y tế.

1.2.1.1. Đặc điểm của tranh chấp trong Sự cố y khoa

Tranh chấp phát sinh trong SCYK bản thân nó mang đầy đủ các đặc điểm của

SCYK đã nêu tại mục 1.1.2 ở trên, bên cạnh đó nó còn có thêm các đặc điểm sau:

Trách nhiệm bồi thường trong tranh chấp phát sinh trong SCYK có thể đồng

thời vừa mang bản chất của trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng, vừa kèm theo

BTTH ngoài hợp đồng.

Luôn có sự bất tương xứng trong tranh chấp phát sinh trong SCYK giữa BN và

gia đình BN với BV vì: BN và gia đình BN rất khó khăn trong việc thu thập bằng

20

chứng, thường gặp khó khăn về nguồn lực trong quá trình giải quyết mâu thuẫn; trong

khi đó BV thường tham gia tranh chấp với vai trò pháp nhân, có nhiều bộ phận chuyên

môn tham mưu, có nguồn lực đầy đủ để theo đuổi khiếu kiện nếu có.

1.2.1.2. Xác định tranh chấp trong Sự cố y khoa

a) Xác định trách nhiệm

Trường hợp HĐCM kết luận NVYT vi phạm 1 trong các hành vi tại khoản 1

Điều 73 hoặc trường hợp SCYK sảy ra theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 73 của

Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 thì doanh nghiệp bảo hiểm mà BV đã mua

bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bệnh theo hợp đồng bảo hiểm

đã ký với BV đó. Trường hợp BV chưa mua bảo hiểm thì phải tự bồi thường thiệt hại

cho người bệnh theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 76 Luật Khám bệnh, chữa

bệnh năm 2009).

Ngoài việc bồi thường theo các nôi dung nêu trên, BV và NVYT có sai sót

chuyên môn kỹ thuật gây ra tai biến cho người bệnh phải chịu các trách nhiệm pháp

lý khác theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 76 Luật Khám bệnh, chữa bệnh

năm 2009).

Trường hợp đã thực hiện đúng các quy định chuyên môn kỹ thuật trong quá

trình KBCB nhưng vẫn xảy ra SCYK thì thì BV và NVYT không phải bồi thường

thiệt hại (Khoản 3 Điều 76 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009).

Đối với thực hiện tiêm chủng mở rộng, nếu xảy ra tai biến ảnh hưởng nghiêm

trọng đến sức khỏe hoặc gây thiệt hại đến tính mạng của người được tiêm chủng, Nhà

nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp xác định được lỗi

thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc xin, sinh phẩm y tế hoặc

người làm công tác tiêm chủng thì tổ chức, cá nhân này phải bồi hoàn cho Nhà nước

theo quy định của pháp luật (Khoản 6 Điều 30 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm

năm 2007).

21

b) Trách nhiệm bồi thường

Theo quy định tại Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại

do người của Pháp nhân gây ra thì “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người

của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân

đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải

hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Như vậy, pháp luật cũng đã

quy định rất rõ trách nhiệm của bệnh viện.

Hiện nay, Điều 590, Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị quyết

03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã quy

định rất cụ thể việc xác định thiệt hại là căn cứ để bồi thường cho người bị thiệt hại

về sức khoẻ, tính mạng. Những quy định này cũng sẽ áp dụng chung đối với các

trường hợp người bệnh gặp sự cố y khoa trong bệnh viện.

Bên cạnh đó, Nghị định 104/2016/NĐ-CP cũng đã quy định rất rõ trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của Nhà nước cho người bị thiệt hại khi sử dụng vaccine trong

Chương trình tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng chống dịch.

Phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) làm phát sinh nghĩa vụ

bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH thì mới tính được mức bồi thường cụ thể trên

từng SCYK khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay căn cứ theo các quy định của pháp luật,

khi SCYK xảy ra sẽ có thể phát sinh 2 trường hợp tranh chấp làm phát sinh nghĩa vụ

bồi thường như sau:

Một là, tranh chấp do phát sinh hành vi vi phạm hợp đồng:

Trường hợp này hay gặp tại các BV tư nhân hơn vì các BV tư thường bán các

gói sản phẩm dịch vụ cho BN và đi kèm với đó là 01 hợp đồng bằng văn bản có đầy

đủ các điều khoản mà bao gồm cả điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng. BV tư nhân

bản chất là doanh nghiệp, khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại quy định phạm vi điều

chỉnh của Luật Thương mại bao gồm cả “hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi

của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm

mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này”. Như vậy, đối với trường hợp bệnh viện

22

tư nhân nêu trên thì nếu bên không có mục đích lợi nhuận (bệnh nhân hoặc gia đình

bệnh nhân) chọn áp dụng Luật Thương mại thì liệu có thể xác định tranh chấp này là

tranh chấp kinh doanh thương mại và áp dụng Luật Thương mại để giải quyết hay

không? Để trả lời câu hỏi này, phải xác định loại tranh chấp này có phù hợp với hướng

dẫn tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm

phán: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu

về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân

sự; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng

ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận” hay không. Qua đó có thể thấy,

tranh chấp trong SCYK nêu trên về trường hợp bệnh viện tư nhân chỉ có 1 bên có lợi

nhuận, còn bệnh nhân hoặc gia đình bệnh nhân không có mục đích lợi nhuận nào.

Do đó dù là BV công lập hay tư nhân cũng là 01 tổ chức cung cấp dịch vụ và

BN là người sử dụng dịch vụ KBCB, vì vậy khi 01 bên đồng ý cung cấp (bán) và 01

bên đồng ý sử dụng (mua) thì theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự

2015 giao dịch dân sự đã được hình thành; căn cứ theo quy định tại Điều 116 Bộ luật

Dân sự 2015 thì giao dịch dân sự là hợp đồng. Trong trường hợp này nguồn luật áp

dụng sẽ là Bộ luật Dân sự 2015. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được quy

định tại các điều khoản sau của Bộ luật Dân sự năm 2015: Điều 13 quy định, BN và

gia đình BN có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường “toàn bộ thiệt hại”, trừ

trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Điều 360 cũng có

quy định tương tự, trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì BV phải

bồi thường “toàn bộ thiệt hại”, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy

định khác. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm cả thiệt hại về vật chất và tinh thần

(Điều 361). Điều 419 quy định cụ thể về xác định thiệt hại được bồi thường do vi

phạm hợp đồng. Theo đó, thiệt hại được bồi thường sẽ bao gồm: (i) Thiệt hại vật chất

thực tế xác định được: tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc

phục thiệt hại , thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; (ii) Khoản lợi ích mà lẽ ra BN

và gia đình BN được hưởng do hợp đồng mang lại; (iii) Chi phí phát sinh do không

hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho

lợi ích mà hợp đồng mang lại; (iv) Thiệt hại về tinh thần.

23

Hai là, tranh chấp do phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng:

Trường hợp nếu không thể chứng minh được giao dịch dân sự đã hình thành,

hoặc các SCYK không liên quan đến hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa BV với BN

như bắt cóc, bị NVYT xâm hại tình dục, NVYT bán thuốc giả/nhập lậu/hết hạn sử

dụng cho BN… thì theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015, một trong

những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp

luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ

luật Dân sự về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp

này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của BV, NVYT phải bồi thường

cho bên bị thiệt hại là BN, gia đình BN. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng làm phát

sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương

ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan

nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm BTTH.

Theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp

khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật

này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm

BTTH ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Qua nghiên

cứu có thể thấy, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm

BTTH ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho bên bị thiệt hại (BN, gia đình BN). Theo

đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện như sau:

Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm BTTH ngoài

hợp đồng. Trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt

hại về tinh thần (bao gồm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín)

Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong trách

nhiệm dân sự bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà

pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực

hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

24

Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Thiệt

hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái

pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

Từ các phân tích nêu trên, có thể xác định các tranh chấp phát sinh trong SCYK

là tranh chấp dân sự.

1.2.1.3. Xác định mức bồi thường

Việc xác định mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp phát sinh được thực

hiện theo quy định của pháp luật (Điều 77 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009).

Khi bệnh nhân gặp sự cố y khoa xuất phát từ lỗi của nhân viên y tế thì ngoài

việc được bồi thường do tính mạng, sức khoẻ bị xâm hại thì bệnh nhân hoặc gia đình

bệnh nhân còn được bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần. Khác với quy

định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tăng mức trần bồi

thường tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự năm 2015 dùng cụm từ “mức lương cơ

sở” thay cho “tháng lương tối thiểu” để tính mức bù đắp tổn thất về tinh thần. Và mức

tối đa là 50 lần mức lương cơ sở đối với trường hợp sức khoẻ bị xâm hại và tối đa

100 lần mức lương cơ sở đối với trường hợp tính mạng bị xâm hại.

1.2.2. Nguồn luật áp dụng trong tranh chấ p phát sinh do sự cố y khoa

1.2.2.1. Các văn bản luật

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, quy định

của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện

quyền dân sự. Với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; các quy định chung

về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; các quy định về giao dịch dân sự,

bảo đảm quyền tự do thể hiện ý chí, sự an toàn pháp lý, sự ổn định của giao dịch,

quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình. Quy định về đại diện nhằm tạo

điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ

các quyền dân sự của mình và hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự.

Quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được đảm bảo tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm

kịp thời, nâng cao trách nhiệm của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác trong

tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, sự ổn định của các quan

25

hệ dân sự về thời hiệu được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân

sự. Các quy định chi tiết về nghĩa vụ và hợp đồng; trách nhiệm bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những nguyên tắc cơ bản trong

tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa

án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án

dân sự tại Tòa án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham

gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,

tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ

việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.

Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định quyền và nghĩa vụ của người

bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều

kiện đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;

quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương

thức mới trong khám bệnh, chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu

nại, tố cáo và tranh chấp trong khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác

khám bệnh, chữa bệnh.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về quyền và nghĩa

vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức,

cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng.

Luật khiếu nại năm 2011 quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với

quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của

người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; tiếp công dân; quản lý và

giám sát công tác giải quyết khiếu nại.

26

Luật Tố cáo năm 2018 quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi

vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp

luật khác về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm

của cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo.

1.2.2.2. Các văn bản hướng dẫn luật

Nghị định số 102/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 của Chính phủ về bảo hiểm

trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh đã làm rõ Điều 78 của Luật Khám bệnh,

chữa bệnh năm 2009. Bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh là bảo hiểm

đối với tai biến trong khám bệnh, chữa bệnh do sai sót chuyên môn kỹ thuật gây ra

bởi lỗi sơ suất, bất cẩn của người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh gây ra

cho người bệnh hoặc các trường hợp khác do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và doanh

nghiệp bảo hiểm tự thỏa thuận.

Nghị định 104/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ quy định về hoạt

động tiêm chủng đã làm rõ quy định tại khoản 6 Điều 30 của Luật Phòng, chống bệnh

truyền nhiễm năm 2007. Quy định chi tiết về trách nhiệm bồi thường khi sử dụng vắc

xin, xác định trường hợp được bồi thường, phạm vi và mức bồi thường, nguồn ngân

sách nhà nước bảo đảm kinh phí cho bồi thường; chi phí do phải khám bệnh, chữa

bệnh tại các cơ sở y tế; hồ sơ, thủ tục xác định trường hợp được bồi thường và trình

tự, thủ tục bồi thường.

Thông tư 43/2018/TT-BYT ngày 26/12/2018 của Bộ Y tế hướng dẫn phòng

ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hướng dẫn việc báo cáo

sự cố y khoa, phân tích, phản hồi và xử lý sự cố y khoa; khuyến cáo, cảnh báo và

khắc phục để phòng ngừa sự cố y khoa và trách nhiệm thực hiện.

Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao ban hành về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật

Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nghị quyết quy định chi

tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; nguyên tắc bồi thường thiệt

hại; năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; chi phí hợp lý; nghĩa vụ chứng

minh của các đương sự; thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại; thiệt hại do

27

sức khỏe bị xâm phạm; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự,

nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn Quy định trong

Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi

theo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao ban hành.

1.2.3. Các yếu tố tác động trực tiếp đến tranh chấ p trong sự cố y khoa

1.2.3.1. Nhóm liên quan đến đối tượng gây ra SCYK:

Các BV, NVYT thường có xu hướng không muốn phát sinh khiếu kiện, mất uy

tín tổ chức/bản thân nên sẽ che giấu SCYK;

Trường hợp SCYK không thể che giấy được thì BV và/hoặc NVYT sẽ có xu

hướng chỉnh sửa hồ sơ bệnh án (HSBA) hoặc tạo lập hồ sơ, bằng chứng giả tạo để

nhằm giảm nhẹ tính chất của SCYK;

Nguy cơ bị khiếu kiện, khiếu nại vì mọi vấn đề dù có phải là SCYK hay không

nên các BV và NVYT đều có xu thế hạn chế quyền được cung cấp thông tin của BN,

người nhà BN;

Văn hóa đổ lỗi, văn hóa quy chụp cá nhân, văn hóa “thí tốt”;

Khó khăn trong kết luận nguyên nhân gốc vì HĐCM chưa thực sự độc lập với

Đối tượng gây ra SCYK;

Rào cản văn hóa vì người Việt Nam thường không muốn khám nghiệm tử thi

trong các SCYK gây tử vong nên thường không có đầy đủ bằng chứng;

Giao tiếp giữa các bên không hiệu quả vì nhiều người liên quan, nhiều người

cùng có quyền quyết định…

Trường hợp SCYK được HĐCM xác định không có sai sót trong chuyên môn

thường khó đạt được thỏa thuận đảm bảo hài hòa với những mất mát của BN,

người nhà BN; song BV, NVYT cũng không muốn khiếu kiện kéo dài và cũng

28

không muốn đưa vụ việc ra tòa án vì các gánh nặng tâm lý, áp lực cộng đồng, hao

tổn thời gian…

1.2.3.2. Nhóm liên quan đến đối tượng bị tổn hại trong SCYK:

Khó khăn trong việc thu thập bằng chứng. Không có kiến thức về chuyên môn

y tế. Thiếu hiểu biết về pháp luật; dễ bị tác động bởi cộng đồng và các bên liên quan.

Không có điều kiện về tài chính, thời gian, sức khỏe để theo đuổi tranh chấp. Khó

kiểm soát được hành vi của bản thân, người thân.

1.3. Các phương pháp giải quyết tranh chấp

Hiện nay, tranh chấp trong SCYK theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh được giải

quyết theo quy định tại khoản 2, Điều 80 như sau: “Các bên tranh chấp có trách

nhiệm tự hòa giải về nội dung tranh chấp”. “Trường hợp hòa giải không thành thì

các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật”. Song

không có quy định nào yêu cầu bắt buộc phải hòa giải và hoặc không được lựa chọn

phương thức giải quyết thay thế khác. Do đó trong thực tiễn, tranh chấp trong SCYK

đã được giải quyết bằng nhiều phương pháp mang tính tài phán hoặc không mang

tính tài phán. Các bên tham gia tranh chấp có thể tự do lựa chọn phương pháp giải

quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK, trong đó có phương pháp khởi kiện ra tòa

án, hòa giải hoặc thương lượng. Việc tự do lựa chọn này là biểu hiện của quyền tự

do, dân chủ, tôn trọng quyền con người. Nó thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà

nước của dân, do dân và vì dân.

Thứ nhất, các hình thức mang tính tài phán: Tài phán là quyền của cơ quan thực

hiện giải quyết các tranh chấp trong SCYK theo thẩm quyền. Hình thức này bao gồm

Tòa án và trọng tài. Tuy nhiên, như đã nêu trước đó thì tranh chấp trong SCYK là

tranh chấp dân sự; do đó không thể áp dụng phương thức trọng tài.

Thứ hai, các hình thức không mang tính tài phán còn gọi là các phương pháp

giải quyết tranh chấp thay thế: Đây là phương pháp giải quyết tranh chấp lựa chọn

bao gồm hoà giải và thương lượng. Khác với các hình thức mang tính tài phán, các

hình thức không mang tính tài phán đề cao sự tự nguyện, tinh thần thiện chí của các

29

bên. Thỏa thuận trong hoà giải và thương lượng không mang tính bắt buộc thi hành,

như là giao kết với nhau để giải quyết tranh chấp.

1.3.1. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

1.3.1.1. Khái niệm thương lượng

Thương lượng là phương pháp giải quyết thường được lựa chọn đầu tiên trong

quá trình giải quyết tranh chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp

gỡ nhau, bàn bạc, thỏa thuận về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên mà không

có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào và không chịu sự điều chỉnh

của pháp luật.

Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 cũng có quy định về

Thương lượng tại Điều 31, song thực tế việc áp dụng Luật này vào thực tế cuộc sống

còn nhiều hạn chế. Bản chất quy định này cũng chỉ có thể áp dụng với các tranh chấp

tại BV tư nhân, còn các BV công lập chưa đủ cơ sở để coi là tổ chức kinh doanh dịch

vụ, dù các BV công tuyến tỉnh trở lên đã bắt đầu được giao quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm hoàn toàn trong năm 2019 này.

1.3.1.2. Đặc điểm của phương pháp thương lượng:

- Thương lượng là phương pháp không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, không

bị gò bó bởi các quy định chặt chẽ về quy trình tổ chức thương lượng, thành phần

tham gia, thời gian thực hiện, cũng như không tốn kém tiền bạc. Do được tự giải

quyết với nhau, nên tranh chấp không bị làm lớn, không ảnh hưởng đến uy tín của

các bên. Và cũng vì vậy mà phương pháp này thường được các chủ thể ưu tiên lựa

chọn ngay khi xảy ra tranh chấp.

- Phương pháp giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết

mà không cần bên thứ 3. Do đó phương pháp này đáp ứng được nhu cầu về bảo mật

thông tin cho các bên.

- Kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh

chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận

của các bên trong quá trình thương lượng.

30

1.3.1.3. Phương thức thực hiện thương lượng

Pháp luật về giải quyết tranh chấp không có quy định bắt buộc các bên phải tiến

hành thương lượng. Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt của các bên,

quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương lượng không hề có sự

điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Tất cả đều phụ thuộc vào thiện chí tự giải quyết

của các bên.

Hiện nay, thương lượng thường được tiến hành theo hai cách:

- Thương lượng trực tiếp là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau

bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi nên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh

chấp.

- Thương lượng bằng cách khiếu nại và trả lời khiếu nại thông qua văn bản hoặc

phương tiện điện tử, viễn thông.

1.3.1.4. Hậu quả pháp lý của phương pháp thương lượng

- Việc thực hiện kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện

của các bên tranh chấp. Trường hợp đạt được thỏa thuận trong cuộc họp thương

lượng, sau đó có 1 trong các bên không tuân thủ, bên còn lại cũng không thể yêu cầu

cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thi hành đối với kết quả thương

lượng vì không có sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Đây là điểm làm hạn chế

hiệu lực thi hành các kết quả thu được từ quá trình giải quyết tranh chấp bằng thương

lượng.

- Duy nhất Điều 32 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có quy định

“Kết quả thương lượng thành của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với

người tiêu dùng được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.

Còn lại vấn đề này, pháp luật Việt Nam hiện nay gần như còn bỏ ngỏ. Do đó có thể

khẳng định Kết quả của thương lượng cũng không phải ban hành theo một hình thức

nhất định nào.

31

1.3.2. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải

1.3.2.1. Khái niệm hòa giải

Hòa giải theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là “thuyết phục, giúp cho ổn thỏa

tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các bên”.

Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ

trợ của bên thứ ba. Phương pháp hòa giải là một phương pháp giải quyết tranh chấp

được thực hiện hoàn toàn dựa trên thiện chí của các bên.

Hòa giải hiện nay có nhiều hình thức, song trong khuôn khổ giải quyết tranh

chấp phát sinh do SCYK tại BV thì người viết xem xét 2 hình thức là: Hòa giải ngoài

tòa án và hòa giải tại toàn án (bao gồm hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự và hòa

giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án).

1.3.2.2. Hòa giải ngoài tòa án

a) Cơ sở để tiến hành phương pháp hòa giải ngoài tòa án:

Đối với các vụ việc tranh chấp trong SCYK hiện nay theo quy định tại điểm a

khoản 2 Điều 80 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 thì “các bên tranh chấp có trách

nhiệm tự hòa giải về nội dung tranh chấp”.

Tuy nhiên ngoài quy định rất chung nêu trên thì chưa có một cơ chế chính thức

nào cho hoạt động này. BYT hiện chưa ban hành bất kỳ một văn bản nào quy định

chi tiết hoặc hướng dẫn thực hiện hoạt động này.

Trên thực tế khi thực thi các quy định tại Điều 74 Luật Khám bệnh, chữa bệnh

thì HĐCM phải họp và mời các bên liên quan đến tranh chấp tham gia một số phiên

họp và phiên kết luận thì HĐCM cấp SYT trở lên thường sẽ đề nghị các bên đương

sự hòa giải. Khi đó HĐCM sẽ đóng vai trò như một tổ chức hòa giải không chính

thức, song hình thức này thường là không đạt được hòa giải thành vì BN và gia đình

BN thường cho rằng HĐCM này không thực sự trung lập giữa các bên tranh chấp nên

có các kết luận thiếu minh bạch và khách quan. Mặt khác các thành viên của HĐCM

thường thiên về các chuyên gia phục vụ cho nhiệm vụ xác định nguyên nhân gốc của

SCYK chứ không phải chuyên gia về pháp luật hòa giải.

32

Một quy định khác tại Điều 35 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có

quy định “Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được thành

lập tổ chức hòa giải để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá

nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ”. Tuy nhiên đến hiện tại ở Việt Nam chưa có tổ

chức hòa giải nào được thành lập để phục vụ các tranh chấp liên quan đến y tế.

b) Biện pháp bảo đảm để kết quả hòa giải thành ngoài tòa án có hiệu lực:

Để kết quả hòa giải thành ngoài tòa án được bảo đảm có hiệu lực thi hành thì

một trong các bên phải có đơn yêu cầu Tòa án công nhận. Việc công nhận kết quả

hòa giải thành ngoài tòa án theo quy định tại điều 416 Bộ luật tố tụng dân sự: “Kết

quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là

kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ

chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của

pháp luật về hòa giải”. Trên cơ sở đó kết quả hòa giải thành được thi hành theo pháp

luật về thi hành án dân sự.

1.3.2.3. Hòa giải tại tòa án

a) Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự

Về bản chất: Là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Hoạt động này

do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải

quyết vụ án dân sự (VADS). Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa đảm

bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân, giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài,

vừa giải quyết triệt để các mâu thuẩn giữa các đương sự.

Sau khi thụ lý vụ án, để giải quyết vụ án tòa án tiến hành giải thích pháp luật,

giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết

các vấn đề có tranh chấp. Hoạt động này của tòa án được gọi là hòa giải VADS. Hòa

giải VADS là hoạt động tố tụng do tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa

thuận với nhau về giải quyết VADS.

Cơ sở của hòa giải: Là quyền tự định đoạt của các đương sự. Để giải quyết

VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tòa án không chỉ xét xử mà

còn hòa giải VADS. Điều 10 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: “Tòa án có trách

33

nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với

nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.”

Về phương pháp hòa giải: Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử

sơ thẩm VADS. Tuy vậy, theo các Điều 246, 298 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì tại

phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa án cũng hỏi các đương sự có thỏa thuận được với

nhau về việc giải quyết VADS không? Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau

về việc giải quyết VADS thì toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các

đương sự. Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ

những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải (Điều

206, 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015). Quy định này xuất phát từ tầm quan trọng

của hòa giải. Nếu hòa giải thành cũng có nghĩa là tòa án đã hoàn thành việc giải quyết

vụ án mà không cần mở phiên tòa.

Thành phần và thủ tục hòa giải:

Thành phần phiên hòa giải trong VADS giải quyết tranh chấp phát sinh do

SCYK bao gồm (khoản 1 Điều 209 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015):

- Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.

- Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.

- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có);

- Người phiên dịch (nếu có).

Việc hòa giải là nhằm giúp cho các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của

họ và làm cho việc giải quyết vụ án được hiệu quả cao mà không phải xét xử. Vì để

cho các đương sự giải quyết với nhau bằng cách thương lượng, thỏa thuận nên sự

thỏa thuận này phải được tòa án công nhận bằng một quyết định có giá trị bắt buộc

đối với các bên. Bởi lẽ đó, quy định bắt buộc người đứng ra tổ chức hòa giải và chủ

trì phiên hòa giải phải là thẩm phán.

Thủ tục tiến hành hòa giải:

34

Theo quy định của Điều 208 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, trước khi tiến hành

phiên hòa giải, tòa án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của

đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần

hòa giải.

Theo Điều 210 Bộ luật Tố tụng Dân sự, khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán

phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc

giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu

quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc

giải quyết vụ án.

Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra cách giải quyết bất hợp lý như khởi

kiện không có căn cứ, yêu cầu bồi thường quá đáng thì thẩm phán chủ trì phải kịp

thời phân tích, thẳng thắn chỉ cho họ biết yêu cầu của họ đưa ra là không hợp lý để

họ cân nhắc lại.

Về hậu quả pháp lý:

Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ

án thì toà án lập biên bản hòa giải thành, làm cơ sở để tòa án ra quyết định công nhận

sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa giải phải có các nội dung theo quy định tại

khoản 3, 4 Điều 211 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Biên bản này được gửi ngay cho

các đương sự tham gia hòa giải.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự:

Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm được tiếng nói chung, đã thỏa

thuận được với nhau giải pháp để giải quyết tranh chấp, bảo đàm quyền và lợi ích

hợp pháp của cả đôi bên và được ghi lại trong biên bản hòa giải. Tuy nhiên, Bộ luật

Tố tụng Dân sự quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa

để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận. Thời hạn đó

là 7 ngày (Điều 212 Bộ luật Tố tụng Dân sự) mà không có đương sự nào thay đổi ý

kiến tòa án mới ra quyết định công nhận.

35

Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa

thuận của các đương sự, tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và viện kiểm

sát cùng cấp.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 213 Bộ luật Tố tụng Dân sự, quyết định công

nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tòa án ban

hành. Đương sự không có quyền kháng cáo, viện kiểm sát không có quyền kháng

nghị phúc thẩm đối với quyết định này.

Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã khép lại quá

trình tố tụng đối với việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để đề phòng các sai lầm hay vi

phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình tiến hành hòa giải, khoản 2 Điều 213 Bộ

luật Tố tụng Dân sự quy định quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa

thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc vi phạm điều cấm của pháp luât, trái

đạo đức xã hội.

b) Hòa giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Về bản chất: Hòa giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án

(Trung tâm này được tổ chức theo Công văn số 308/TANDTC-PC ngày 09/10/2018

của Tòa án nhân dân Tối cao): Xét về phạm vi, Hòa giải viên tại Trung tâm có quyền

hòa giải tất cả các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ

những vụ việc pháp luật quy định không được hòa giải hoặc hòa giải không được.

Tuy nhiên việc hòa giải này được thực hiện sau khi người khởi kiện nộp đơn khởi

kiện tại Tòa án nhưng chưa thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự

hoặc các bên có yêu cầu Trung tâm hòa giải tại Tòa án thực hiện việc hòa giải trong

khi các bên chưa nộp đơn khởi kiện tại Tòa án theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân

Tối cao, khác một số quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về phương pháp hòa giải: Hòa giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại

tại Tòa án (Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân

Tối cao): Hòa giải viên được quyền quyết định thời gian và địa điểm tiến hành hòa

giải, không buộc phải thu thập chứng cứ đầy đủ rồi mới bắt đầu phiên hòa giải. Mặc

36

khác nếu các bên tranh chấp yêu cầu, Hòa giải viên có thể hòa giải vụ việc ngoài trụ

sở Trung tâm hòa giải. Hòa giải viên có được sự linh hoạt, không bị gò bó theo trình

tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Sau khi được phân công vụ việc cần hòa giải,

Hòa giải viên sẽ thực hiện nghiên cứu hồ sơ và hòa giải trong thời hạn 20 ngày, trong

trường hợp cần thiết việc hòa giải có thể tiến hành trong hai tháng nên được các bên

đồng ý. Thông tin trong quá trình hòa giải phải giữ bí mật, tài liệu, lời trình bày của

các bên tranh chấp và thông tin thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án không

là chứng cứ, trừ trường hợp các bên đồng ý sử dụng các tài liệu, lời trình bày chứng

cứ đó tại Tòa án.

Về hậu quả pháp lý: Hòa giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa

án: Nếu hòa giải thành, các bên tranh chấp có thể lựa chọn 02 cách là làm đơn yêu

cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành theo thủ tục vụ việc dân sự; hoặc rút

đơn khởi kiện, Tòa án sẽ ban hành thông báo trả đơn khởi kiện theo điểm g khoản 1

Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Có một điểm cần lưu ý là hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự và hòa giải thí

điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Cụ thể hòa giải viên do Tòa án lựa chọn và công nhận, Tòa án có trách nhiệm hướng

dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, tống đạt văn bản tố tụng… (Tống

Anh Hào 2018, Kỹ năng hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án, Bộ tài liệu Hội

nghị Tập huấn về quy trình, kỹ năng hòa giải, đối thoại trong giải quyết tranh chấp

dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tr 44-45).

1.3.2.4. Mô hình tham khảo trên thế giới

Tại Hoa Kỳ: Các tiến bộ trong giải quyết SCYK bắt đầu được hệ thống hóa vào

cuối năm 1990. Năm 1995, ở thành phố Chicago thuộc tiểu bang Illinois, Trung tâm

y tế Rush - Chicago đã phát triển mô hình hòa giải, nó có lẽ là mô hình được tham

khảo nhiều nhất trong các cơ chế giải quyết thay thế cho tranh chấp về SCYK tại Hoa

Kỳ. Tháng 07/1998, Hiệp hội American Bar, Hiệp hội Trọng tài Mỹ, Ủy ban về giải

quyết tranh chấp Y tế và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã hợp tác để tạo ra một cơ chế

giải quyết thay thế cho tranh chấp về SCYK đảm bảo đúng “tiêu chuẩn phác đồ điều

37

trị”… Kết quả là, thời gian giải quyết của các trường hợp giảm từ 2-4 năm xuống 2-

4 tháng (Prachi Patel 2018, Relevance of Alternative Dispute Resolution in Medical

Malpractice, tr 4, 14).

Vương Quốc Anh: Vào năm 1995, Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) đã đưa ra

Chương trình thí điểm Hòa giải Tiêu cực Y tế nhằm đáp ứng mối lo ngại về sự gia

tăng số lượng các trường hợp mắc bệnh do sự cẩu thả và những than phiền về dịch

vụ chăm sóc sức khỏe. Hội đồng Luật sư đã được Cơ quan Y tế Quốc gia hướng dẫn

xem xét tính phù hợp của hòa giải và theo dõi kết quả của mọi trường hợp. Người ta

ước tính rằng hòa giải sẽ giảm 5% chi phí pháp lý, chi phí bồi thường (Solmaz

Khodapanahandeh và Siti Naaishah Hambali 2014, Efficiency of Using “Alternative

Dispute Resolution” Method in Medical Negligence Claims, AENSI Journals, tr 4).

Tại Pháp, bắt buộc kể từ ngày 07/5/1999 khi có tranh chấp liên quan đến SCYK

thì bệnh nhân sẽ được hỗ trợ hoặc hướng dẫn bởi một Ủy ban hòa giải và bồi thường

khu vực. Ngày 04/3/2002, Luật Quyền của người bệnh (La loi sur les droits des

malades) đóng vai trò trung tâm trong các yêu cầu bồi thường và thủ tục bồi thường

được ban hành (Dossierfamilial 2014, Résoudre un litige avec l'hôpital,

https://www.dossierfamilial.com/social-sante/soins-et-prevention/resoudre-un-litige-

avec-lhopital-342623).

1.3.3. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án

1.3.3.1. Khái niệm

Toà án là phương pháp giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền

lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án

hay quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ

được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.

Tòa án là phương pháp giải quyết tranh chấp truyền thống nhất và cũng hiệu

quả nhất hiện nay tại Việt Nam.

BN, gia đình BN có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc tranh

chấp tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, quyền công dân,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân hoặc của người thân. Ngược lại BV

38

cũng có quyền tương tự, một ví dụ điển hình cho trường hợp này là bệnh viện FV

(TP. Hồ Chí Minh) đã ít nhất 2 lần phản tố lại BN và đều thắng kiện. Tòa án không

được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (Điều 4

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

1.3.3.2. Đặc điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án

Một là, phương pháp có sự tham gia giải quyết của đại diện quyền lực nhà nước

là Tòa án nhân dân. Vì vậy quy trình giải quyết tranh chấp phải tuân thủ quy định

chặt chẽ của pháp luật tố tụng dân sự.

Hai là, tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu

cầu của BN, gia đình BN và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu

đó.

Ba là, không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật

để áp dụng. Như vậy có thể thấy thấy thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng

đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, bao gồm cả tranh chấp phát sinh do SCYK.

Bốn là, nguyên tắc xét xử công khai (trừ trường hợp có quy định khác của pháp

luật) do đó trong một số trường hợp nhậy cảm, liên quan đến bí mật hoạt động, bí mật

đời tư, uy tín tổ chức, danh dự cá nhân…

Năm là, quyền bình đẳng, quyết định và tự định đoạt của các đương sự được tòa

án đảm bảo theo quy định của pháp luật. Đây là điểm ưu việt hơn so với các phương

pháp thương lượng và hòa giải; vì các phương pháp thay thế đó trong quá trình thỏa

thuận về mặt lý luận thì vẫn phải đảm bảo tinh thần bình đẳng, nhưng thực tiễn thì

trong các tranh chấp luôn có một bên phài “lùi 1 bước” so với bên còn lại hoặc mỗi

bên đều phải có những điểm “lùi” để đạt được một kết quả tổng quan chung thỏa mãn

ý chí của mỗi bên.

Sáu là, hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và xác minh chứng cứ.

Đây là quyền lực mà chỉ có duy nhất phương pháp giải quyết bằng tòa án mới có,

điều này thực sự giải quyết điểm mấu chốt khó khăn nhất mà BN và gia đình BN

không có được nếu chọn phương pháp giải quyết bằng thương lượng hoặc hòa giải.

39

Bảy là, có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật để

các trường hợp BN và gia đình BN không có khả năng tự thuê luật sư thực hiện quyền

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Đây cũng là quyền mà chỉ có

duy nhất phương pháp giải quyết bằng tòa án mới có.

Tám là, quyết định của toà án được bảo đảm chính xác, công bằng, khách quan

và đúng với pháp luật vì nhiều cấp xét xử, nguyên tắc, trình tự được pháp luật quy

định chặt chẽ.

Chín là, bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống

cơ quan thi hành án của nhà nước. Mặc dù vậy trên thực tế vẫn có những vụ việc cơ

quan thi hành án dân sự đã không thể thi hành được toàn bộ bản án.

1.3.3.3. Phương pháp hoạt động của tòa án:

a) BN và gia đình BN phải viết đơn khởi kiện theo mẫu quy định.

b) Gửi đơn kiện đến Tòa án phải kèm theo tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền,

lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm. Có thể nộp đơn trực tiếp tại tòa án, gửi qua đường

bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của

tóa án.

c) Nhận và xử lý đơn khởi kiện:

Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác

nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Chánh án

Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày

làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có

một trong các quyết định sau đây:

Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;

Thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện

để giải quyết theo thủ tục rút gọn;

Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền nếu vụ án thuộc thẩm quyền

của tòa khác và thông báo cho người khởi kiện;

40

Trả lại đơn khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án.

Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán phải được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông

báo cho người khởi kiện.

d) Thụ lý và phân công thẩm phán giải quyết vụ việc:

Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho

người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong

trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.

Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền

tạm ứng án phí.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho

các đương sự, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết

vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc thụ lý vụ án.

Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm

nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.

1.3.3.4. Hậu quả pháp lý của phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh

do SCYK bằng toàn án

Phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành

án của nhà nước. Mặc dù vậy trên thực tế vẫn có những vụ việc cơ quan thi hành án

dân sự chỉ thi hành được 1 phần của bản án và thậm chí đã không thể thi hành được

bản án vì nhiều lý do khách quan và khoảng trống của pháp luật.

Bản án sơ thẩm, quyết định sơ thẩm của tòa án chưa có hiệu lực ngay, nó cần

có một thời gian nhất định để các đương sự thực hiện kháng cáo hoặc Viện kiểm sát

thực hiện kháng nghị.

Bản án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm có hiệu lực ngay lập tức, Như vậy, bản

án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm đã khép lại quá trình tố tụng đối với việc giải

quyết vụ án tranh chấp phát sinh do SCYK. Tuy nhiên, để đề phòng các sai lầm hay

41

vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình xét xử, Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân

sự quy định bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể bị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng “a) Kết luận trong

bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt

hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục

tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,

dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của

pháp luật; c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết

định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm

đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ

ba.” hoặc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 nếu có căn cứ cho

rằng “1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không

thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; 2. Có cơ sở chứng minh kết luận của

người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo

chứng cứ; 3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ

vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; 4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính,

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc

quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị

hủy bỏ.”

1.3.4. Ưu điểm và hạn chế của các phương pháp giải quyết tranh chấp phát

sinh trong SCYK

1.3.4.1. Ưu điểm

Đối với phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng thương

lượng có các ưu điểm đó là đảm bảo quyền lợi cho các bên vì được cùng nhau bàn

bạc, tự dàn xếp, thỏa thuận tự do theo ý chí của các bên mà không bị hạn chế hay

ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện, quy định nào của pháp luật. Phương pháp thương

lượng thường thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.

Ngoài ra, các bên có thể giữ kín được thông tin của nhau.

42

Giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải có ưu điểm đó là đảm bảo

quyền lợi cho các bên vì được cùng nhau bàn bạc, dàn xếp với sự tham gia của một

bên thứ ba để hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm cách giải quyết mâu thuẫn. Hòa giải

viên thường là người có chuyên môn, trình độ kiến thức liên quan đến lĩnh vực y tế,

sức khỏe, dịch vụ khám chữa bệnh do vậy bảo đảm việc giải quyết tranh chấp một

cách khách quan, trung thực. Đây cũng là phương pháp được thực hiện với thủ tục

đơn giản, linh hoạt, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên đương sự. Đối với phương

pháp hòa giải trong thương mại, các bên có quyền tự quyết định việc giải quyết tranh

chấp và luôn biết trước kết quả. Trong quá trình hòa giải, với sự hỗ trợ của hòa giải

viên, các bên sẽ có cơ hội được đưa ra quyết định của mình về phương án giải quyết

tranh chấp. Đây là ưu điểm khá nổi trội của phương pháp này so với các phương pháp

tố tụng khác vốn khó dự đoán trước được kết quả. Đây còn là phương pháp giải quyết

tranh chấp mang tính thân thiện rất cao. Một ưu điểm nữa của phương pháp hòa giải

mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia quan hệ pháp luật này chính là việc không

công khai quá trình hòa giải.

Khi không thể tự thương lượng hoặc hòa giải, các bên có thể đưa tranh chấp ra

cơ quan tố tụng để giải quyết. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án có ưu

điểm đó là mang tính minh bạch, độc lập và công bằng cao. Đảm bảo quyền lợi cho

các bên vì giải quyết tranh chấp tại cơ quan mang quyền lực Nhà nước, phán quyết

của Tòa án được bảo đảm thi hành; Đảm bảo tính thực thi vì Quyết định của tòa án là

bắt buộc các bên phải thi hành, nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo luật định.

1.3.4.2. Hạn chế

Ngoài các ưu điểm ở trên, mỗi phương pháp giải quyết tranh chấp đều hàm chứa

những hạn chế nhất định, đó là:

Đối với phương pháp thương lượng và hòa giải, kết quả thương lượng hòa giải

phụ thuộc rất lớn vào thái độ, thiện chí, sự hợp tác của các bên. Có những trường

hợp đã thương lượng hoặc hòa giải thành, tuy nhiên các bên lại không tuân thủ kết

quả đó.

43

Nếu quá trình hòa giải không thành, các bên có thể tiếp tục hòa giải hoặc tiếp

tục giải quyết tranh chấp bằng hình thức tòa án theo quy định của pháp luật. Do quy

định thông tin về việc hòa giải phải được giữ bí mật trừ khi có thỏa thuận của hai

bên, do vậy trong trường hợp hai bên không thể hòa giải dẫn đến phải đưa tranh

chấp ra tòa án thì những thông tin trong quá trình hòa giải sẽ không trở thành bằng

chứng để chống lại bên còn lại, và đó cũng không phải là thông tin hay bằng chứng

pháp lý được tòa án công nhận.

Đối với phương pháp tòa án, quy trình tố tụng thường phức tạp, tốn nhiều thời

gian và chi phí. Phương pháp tòa án thường không giữ kín được thông tin của các

bên. Mặt khác hầu hết các thẩm phán hiện nay đều không phải là chuyên gia trong

giải quyết tranh chấp liên quan đến lĩnh vực y tế.

1.3.5. Những yếu tố tác động đến lựa chọn phương pháp giải quyết tranh

chấp phát sinh trong SCYK

1.3.5.1. Yếu tố nhận thức

Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong SCYK ở Việt Nam chủ

yếu được giải quyết bằng phương pháp thương lượng. Cho đến hiện nay phương pháp

này vẫn được đánh giá là hiệu quả, không tốn kém cả về chi phí và thời gian, đặc biệt

đảm bảo được tính bí mật cho các bên. Tuy nhiên vì các lý do như thiếu khả năng tiếp

cận bằng chứng, không có đủ hiểu biết cả về chuyên môn lẫn pháp luật nên thường

nạn nhân hoặc người nhà của nạn nhận luôn là thế yếu trong các cuộc thương lượng

kín này.

Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng tòa án và hòa giải chỉ có thể trở lên

phổ biến khi nó lấy được sự tin tưởng về sự công bằng, minh bạch từ phía người dân

và thông qua đó, dần dần thay đổi tư duy truyền thống. Mặt khác các thủ tục của tòa

án cần phải được cải cách tinh gọn hơn; với phương pháp hòa giải nên tập trung vào

mô hình Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc thành lập các Trung tâm hòa

giải Y tế độc lập với hệ thống quản lý y tế hiện nay. Chỉ khi ấy, phương pháp giải

quyết tranh chấp bằng tòa án và hòa giải mới được đánh giá là hiệu quả khi so sánh

với các phương pháp giải quyết tranh chấp khác.

44

1.3.5.2. Yếu tố khác

Vai trò hoạt động của luật sư và tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý tư vấn pháp

luật cho các bên, hòa giải viên, thừa phát lại có vai trò quan trọng trong thương lượng,

hòa giải. Đặc biệt là trong tình hình nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày một tăng

cao, song cơ sở hạ tầng của hệ thống y tế lại đang quá tải, công tác quản lý nhà nước

chuyên ngành vẫn còn những hạn chế nhất định. SCYK ngày nay đã được nhận thức

thay đổi từ “sai sót hiếm khi xảy ra” sang “sai sót luôn có thể xảy ra”.

45

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P PHÁT SINH TRONG SỰ CỐ Y KHOA TẠI CÁC BỆNH VIỆN Ở QUẢNG NINH

2.1. Tình hình SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK

2.1.1. Thực trạng về SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK trên thế

giới và tại Việt Nam

2.1.1.1. Tình hình ở ngoài nước

Hàng năm, có gần 7 triệu BN phẫu thuật bị biến chứng, trong đó có 1 triệu người

chết trong hoặc ngay sau phẫu thuật; Số BN bị biến chứng do phẫu thuật tại các nước

thu nhập thấp và trung bình cao gấp 2-3 lần so với các nước thu nhập cao. Nhiễm khuẩn

bệnh viện ảnh hưởng từ 7% (ở các nước thu nhập cao) đến 10% (ở các nước thu nhập

thấp và trung bình) số BN nhập viện. Chẩn đoán chậm và không chính xác là 1 trong

những nguyên nhân phổ biến nhất gây tổn hại cho BN và ảnh hưởng tới hàng triệu BN.

Ước tính tỷ lệ mắc lỗi gây phơi nhiễm phóng xạ cho cộng đồng và người bệnh là khoảng

15/10.000 lượt điều trị. (WHO 2019, 10 facts on patient safety, tr 1-4, 8-11).

Tại Hoa Kỳ: Các tiến bộ trong giải quyết SCYK bắt đầu được hệ thống hóa vào

cuối năm 1990. Tháng 07/1998, Hiệp hội American Bar, Hiệp hội Trọng tài Mỹ, Ủy

ban về giải quyết tranh chấp Y tế và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã hợp tác để tạo ra

một cơ chế giải quyết thay thế cho tranh chấp về SCYK. Kết quả là, thời gian giải

quyết của các trường hợp giảm từ 2-4 năm xuống 2-4 tháng (Prachi Patel 2018,

Relevance of Alternative Dispute Resolution in Medical Malpractice, tại địa chỉ:

https://www.academia.edu/33831046/Relevance_of_Alternative_Dispute_Re

solution_in_Medical_Malpractice, tr 4, 14).

Một nghiên cứu của Viện Y học Mỹ (Institute of Medicine), cho thấy lĩnh vực

y khoa là lĩnh vực có nhiều rủi ro nhất đối với khách hàng. Các chuyên gia y tế Mỹ

nhận định “Chăm sóc y tế tại Mỹ không an toàn như người dân mong đợi và như hệ

thống y tế có thể, ít nhất 44.000 – 98.000 người tử vong trong các bệnh viện của

Mỹ hàng năm do các sự cố y khoa (WHO 2011, Patient Safety curriculum guide.

Multi-professional Edition). Tiếp theo nghiên cứu của Viện Y học Mỹ, các nước

46

như: Úc, Anh, Canada... cũng đã tiến hành nghiên cứu sự cố y khoa và đã công bố

kết quả như sau:

Bảng 1. Bảng tổng hợp số liệu Sự cố y khoa tại Mỹ và các nước phát triển

STT Nghiên cứu Năm Số NB NC Số sự cố Tỷ lệ (%)

1. Mỹ (Harvard Medical Practice Study) 1989 30.195 1133 3,8

2. Mỹ (Utah-Colorado Study) 1992 14.565 475 3,2

3. Mỹ (Utah-Colorado Study)* 1992 14.565 787 5,4

4. Úc (Quaility in Australia Health Case Study) 1992 14,179 2353 16,6

5. Úc (Quaility in Australia Health Case Study)** 1992 14,179 1499 10,6

6. Anh 2000 1014 119 11,7

7. Đan Mạch 1998 1097 176 9,0

Ghi chú: * Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Úc;

** Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Mỹ

(WHO 2011, Patient Safety curriculum guide. Multi-professional Edition).

Nếu sử dụng cụm từ “Medical Negligence Claims” (Yêu cầu bồi thường y tế)

trên Google sẽ cho ra 327.000.000 kết quả trong 0,49 giây; với cụm từ tương tự như

“Medical Malpractice” (Sai sót y khoa) cũng cho ra các kết quả lần lượt là 30.800.000

kết quả trong 0,56 giây.

Theo tổ chức Dịch vụ y tế quốc gia của Vương quốc Anh, nước này đã chi 1,7

tỷ bảng Anh (tương đương 2,19 tỷ đô la Mỹ) cho các khiếu nại sơ suất vào năm 2017

và chi phí hàng năm đã tăng gấp đôi kể từ tháng 11/2010. Họ nói thêm rằng tổng nợ

phải trả ước tính, là chi phí nếu tất cả các khiếu nại hiện tại thành công, sẽ ở mức 65

tỷ bảng Anh (tương đương 83,87 tỷ đô la Mỹ), tăng từ 29 tỷ bảng Anh (tương đương

37,42 tỷ đô la Mỹ) trong năm 2014-2015 (Nicola Slawson 2018, NHS compensation

payouts 'unsustainable', say health leaders, www.theguardian.com)

47

Hệ thống tố tụng của Hoa Kỳ hiện tại vô cùng đắt đỏ với chi phí trực tiếp ước

tính từ 76 đến 122 tỷ đô la Mỹ mỗi năm (US Department of Health and Human

Services 2011, Confronting the New Health Care Crisis: Improving Health Care

Quality and Lowering Costs by Fixing Our Medical Liability System). Nó cũng kéo

dài và không hiệu quả, hơn 60% các vụ kiện được bác bỏ hoàn toàn mà không có tốn

nhiều công sức, nhưng vẫn có giá lên tới 80.000 đô la Mỹ để bào chữa. Ngay cả khi

thành công, phần lớn các khoản tiền đền bù đều thuộc về các luật sư chứ không phải

các nguyên đơn (Localio AR, Lawthers AG, Brennan TA, Laird NM, Hebert LE,

Peterson LM, Newhouse JP, Weiler PC and Hiatt HH 1991, Relation between

malpractice claims and adverse events due to negligence, Results of the Harvard

Medical Practice Study III, tr 245-251). Khi các vụ án được đưa ra xét xử, chúng kéo

dài với thời gian xét xử trung bình là 5 năm (AAOS 2009, Greer TE. Alternative

dispute resolution in medical liability cases) và có tỷ lệ thành công dưới 10% cho

nguyên đơn (PIAA 2004, Claim Trend Analysis).

2.1.1.2. Tình hình tại Việt Nam

Nghiên cứu của 1 số bệnh viện tại Việt Nam về nhiễm khuẩn bệnh viện được

báo cáo trong các hội nghị, hội thảo về KSNK cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện hiện

mắc từ 4,5%-8% người bệnh nội trú (Bộ Y tế 2014, Tài liệu đào tạo an toàn người

bệnh, tr 11).

Bảng 2. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện Việt Nam

Nghiên cứu Năm NKBV %

Phạm Đức Mục và cộng sự (11 BVTW) 2005 5,8

Nguyễn Thanh Hà và cộng sự (6BV phía Nam) 2005 5,6

Nguyễn Việt Hùng (36BV phía Bắc) 2006 7,8

2008 4,3 Trần Hữu Luyện. Giám sát NKVM của 1000 NB có phẫu thuật tại Bệnh viện trung ương Huế.

2011 39,4 Lê Thị Anh Thư. Giám sát viêm phổi bệnh viện liên quan thở máy của 170 người bệnh tại BV Chợ Rẫy.

(Bộ Y tế 2005, 2008, 2012, Báo cáo KSNK Bộ Y tế / Bệnh viện Bạch Mai)

48

Bên cạnh đó, hậu quả của SCYK làm cho BN phải kéo dài thời gian điều trị và

tăng chi phí. Tại Hoa Kỳ, số ngày nằm viện gia tăng trung bình do nhiễm khuẩn vết

mổ là 7,4 ngày, chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn vết mổ hàng năm khoảng 130 triệu

USD. Một vài nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy nhiễm khuẩn vết mổ làm tăng gấp 2

lần thời gian nằm viện và chi phí điều trị trực tiếp (Bộ Y tế 2014, Tài liệu đào tạo An

toàn người bệnh, tr 81).

Nếu tìm kiếm bằng tiếng Việt trên Google với cụm từ “đòi bệnh viện bồi thường

do sự cố y khoa” sẽ cho ra 1.610.000 kết quả trong 0,62 giây và cụm từ “Sự cố y khoa

gây tử vong tại bệnh viện” (SCYK gây tử vong thường sẽ khó che dấu nhất và đa phần

sẽ xảy ra tranh chấp sau sự cố) sẽ cho ra 25.500.000 kết quả trong 0,54 giây.

Từ các số liệu trên có thể sơ bộ nhận thấy vấn đề tranh chấp trong SCYK là tình

trạng phức tạp mang tính toàn cầu. Tại Việt Nam, các con số 1.610.000 và 25.500.000

sẽ là chưa đủ để nói lên sự nghiêm trọng này vì không phải SCYK nào cũng được

biết đến và không phải SCYK nào được biết đến cũng được công khai trên các phương

tiện truyền thông hoặc mạng xã hội. Nhưng nếu thống kê nhanh cũng có thể liệt kê ra

hàng loạt các sự cố y khoa nghiêm trọng như:

Bà Hứa Cẩm Tú hỏng một quả thận, bác sĩ BV đa khoa Cần Thơ “lỡ tay” cắt cả

hai ngày 06/12/2011 khiến sức khoẻ bà suy giảm 81% theo kết quả giám định pháp y

của Viện Pháp y quốc gia.

Ngày 09/05/2012, sản phụ Lưu Thị Cầm (Tiền Giang) bị bỏ quên gạc phẫu thuật

trong bụng sau mổ lấy thai và gặp diễn biến phải chuyển viện; hơn tuần sau Sở Y tế

(SYT) tỉnh Tiền Giang vẫn chưa xác định được kíp mổ nào bỏ quên gạc trong hai BV

đa khoa khu vực thị xã Gò Công và BV Phụ sản Tiền Giang. Trường hợp bé Trần

Anh Đ, 21 tháng tuổi bị cắt nhầm vào bàng quang khi phẫu thuật thoát vị bẹn ngày

25/10/2012 tại Bệnh viện thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Sáng 20/07/2013, tại Bệnh viện đa khoa huyện Hướng Hóa, Quảng Trị; 3 cháu

bé sơ sinh tử vong sau tiêm vắc xin viêm gan B. Một ngày sau tại Bệnh viện huyện

Tuy Phong, Bình Thuận 1 bé sơ sinh khác tử vong sau 13 tiếng tiêm vắc xin viêm gan

B trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Anh Lê Văn Giang (29 tuổi, Cái Răng,

49

Cần Thơ) nhập viện Lao và Phổi thành phố Cần Thơ do tràn khí màng phổi tái phát

bên trái ngày 28/08/2013 sau mở màng phổi hút khí dẫn lưu liên tục gia đình phát

hiện anh Giang có 2 vết mở màng phổi ở cả bên trái và phải. BV giải thích, do BS coi

phim sai nên mở màng phổi nhầm bên phải, sau đó phải mở lại.

Sáng ngày 29/07/2015, em Lê Nguyễn Quốc Hào (6 tuổi, ngụ xã Thanh Bình,

Vũng Liêm, Vĩnh Long) được đưa vào phòng mổ với chỉ định mổ chân trái nhưng

bác sĩ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Long đã mổ chân phải.

Ngày 15/06/2016 tại Bệnh viện 115 Nghệ An, bé Phạm Thành Luân (6 tuổi, ở

Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh) mổ rút đinh kết hợp xương cố định cổ tay phải bị mổ nhầm sang

tay trái. Ngày 20/06/2016, đại diện BV Phụ sản Thanh Hóa xác nhận BV này đã trao

nhầm trẻ sơ sinh cho hai gia đình sinh con ở bệnh viện cách đây bốn năm. Đây là

vụ trao nhầm con thứ 3 được công bố trên truyền thông trong năm 2016, trong đó

2/3 trường hợp (bị trao nhầm ở Hà Nội nay đã trưởng thành) vẫn chưa tìm được cha

mẹ ruột. Ngày 19/07/2016, anh Trần Văn Thao (37 tuổi, trú tại Ứng Hòa, Hà Nội)

nhập BV Việt Đức và với chỉ định mổ chân trái nhưng kíp mổ đã mổ nhầm sang chân

phải. Trước khi mổ lại đúng chân, phía BV đã yêu cầu người nhà BN đóng thêm 5

triệu đồng tiền viện phí để tiếp tục thực hiện ca mổ khiến người nhà BN vô cùng bức

xúc. Bệnh nhân Ma Văn Nhật (54 tuổi, ở Bình Trung, Chợ Đồn, Bắc Cạn) bị BV đa

khoa tỉnh Bắc Cạn để quên 01 chiếc panh trong bụng từ năm 1998, đến tháng 12/2016

mới phát hiện ra.

Bà Nguyễn Thị Hồng (79 tuổi, trú tại Sông Khoai, Quảng Yên, Quảng Ninh) đã

tử vong một ngày sau khi phẫu thuật thay chỏm xương đùi tại Bệnh viện Việt Nam

Thụy Điển Uông Bí (Quảng Ninh) lúc 5 giờ sáng ngày 13/07/2017.

Ngày 15/01/2018, bệnh nhi bị sử dụng nhầm kaliclorid 10% đường uống sang

tiêm tĩnh mạch ở BV Đa khoa Đông Anh (Hà Nội) và tử vong 1 tuần sau đó ở BV

Nhi Trung ương.

Ngày 25/05/2019, tại BV Việt Nam Thuỵ Điển Uông Bí (Quảng Ninh) ông

Nguyễn Văn Ba 59 tuổi đột ngột tử vong sau 4 ngày mổ ruột thừa. Ngày 29/5/2019,

Công an huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) đã khởi tố nam nhân viên BV đa khoa huyện

50

Quỳnh Nhai về hành vi xâm hại tình dục bệnh nhi 13 tuổi khi chụp X-quang. BN

Nguyễn Đức Th (30 tuổi ngụ tại Hậu giang) được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy

ngày 12/6/2019 với chẩn đoán gãy đốt sống ngực D8 – dập tủy ngực nhưng sau đó

đã bị khoan nhầm cẳng chân.

Nếu nói các bệnh viện công do tình trạng quá tải nên rủi ro nhiều hơn thì thực

tế là SCYK cũng vẫn gặp cả ở các bệnh viện tư như: Ngày 25/12/2016, hai người chết

sau khi tiêm thuốc gây mê tại Bệnh viện Đa khoa Trí Đức. Năm 2018, tại một bệnh

viện Quốc tế ở Hà Nội xảy ra sự cố 01 em bé chiếu đèn điều trị vàng da đã tử vong

ngay trên bàn chiếu đèn vì bị bỏng nặng. cũng trong năm này tại một bệnh viện tư ở

Quảng Ninh xảy ra SCYK phẫu thuật khiến BN tử vong ngay trên bàn mổ do phẫu

thuật viên trong quá trình mổ đã cắt vào động mạch vùng cùng cụt.

Trên đây chỉ là 1 vài vụ việc nội cộm được liệt kê nhanh trên các phương tiện

truyền thông, còn phần chìm của “tảng băng” khó mà có thể thống kê đầy đủ. Phía

sau của những SCYK trên là chặng đường gian nan đòi bồi thường, đòi bù đắp của

BN và gia đình họ, nhìn lại những vụ việc trước đó để thể thấy phần nào thực trạng

về giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK hiện nay ở nước ta:

Cuối năm 2017, TAND thành phố Cần Thơ đã tạm hoãn phiên tòa phúc thẩm

xét xử vụ kiện “Tranh chấp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng dịch vụ” giữa nguyên

đơn là bà Hứa Cẩm Tú với bị đơn là BV Đa khoa thành phố Cần Thơ để làm rõ những

chứng cứ trong việc bà Tú bị cắt nhầm 2 quả thận. Trong phiên sơ thẩm, TAND quận

Ninh Kiều đã tuyên buộc bị đơn bồi thường một lần 302,4 triệu đồng và hằng tháng

5,8 triệu đồng cho bà Tú. Sau đó, BV kháng cáo; Vậy là hơn 4 năm sau khi bà Tú bị

cắt nhầm 2 quả thận, việc bồi thường vẫn chưa ngã ngũ.

Trước đó, ông Trịnh Quang S (55 tuổi, ngụ TP HCM) mổ rò động mạch chủ

xoang hang tại BV Đại học Y Dược TP HCM và bị tai biến gần như sống thực vật.

Vì vậy, gia đình ông khởi kiện BV này đòi bồi thường 33 tỉ đồng. Đây có lẽ là số tiền

đòi bồi thường “khủng” nhất trong một vụ kiện mà nền y tế Việt Nam ghi nhận. Tuy

nhiên, rất khó khăn trong việc tìm được bằng chứng và yêu cầu BV bồi thường.

51

Ở một số nước, trước một sự cố y khoa đều có Hội đồng Bác sĩ giải quyết. Còn

ở Việt Nam, khi có đơn khiếu nại sau SCYK, BV hoặc SYT thành lập Hội đồng

Chuyên môn (HĐCM) để xác định nguyên nhân. Trường hợp các bên không đồng ý

với kết luận ở cấp cơ sở/địa phương thì Bộ Y tế (BYT) thành lập một HĐCM cấp

trung ương. Kết luận của HĐCM do BYT thành lập sẽ là kết luận cuối cùng và là cơ

sở để tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, hiện nay, việc đền bù như thế nào cho

những thiệt hại của bệnh nhân thực sự còn bị bỏ ngỏ. Bên cạnh đó, HĐCM hiện nay

chưa thực sự đảm bảo tính độc lập để điều tra, đánh giá các SCYK. Đến thời điểm

này, tại Việt Nam mới có điều khoản bồi thường khi có trường hợp tai biến sau tiêm

vắc-xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng chống dịch miễn phí

của nhà nước. Tuy nhiên, từ thời điểm Nghị định 104/2016/NĐ-CP của Chính phủ về

hoạt động tiêm chủng có hiệu lực ngày 01/7/2016 đến nay mới chỉ có 1 ca tử vong do

tai biến sau tiêm vắc-xin được bồi thường (Báo Người lao động 2017, Gian nan đòi

bồi thường tai biến y khoa).

2.1.2. Thực trạng về SCYK và tranh chấp phát sinh trong SCYK tại các

bệnh viện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

2.1.2.1. Sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

Ngày 26/12/2018, Thông tư 43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa sự cố y

khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Bộ Y tế ban hành (sau đây gọi tắt là

Thông tư 43) và bắt đầu có hiệu lực từ 01/03/2019. Trong đó có quy định bắt buộc

báo cáo bằng văn bản hỏa tốc hoặc báo cáo điện tử và báo cáo trước bằng điện thoại

trong thời hạn 01 giờ, kể từ khi phát hiện các sự cố y khoa từ Mục 7 đến Mục 9 của

Phụ lục I và các sự cố y khoa nghiêm trọng gồm: sự cố y khoa gây tử vong cho 01

người bệnh và nghi ngờ có nguy cơ tiếp tục gây tử vong cho người bệnh tiếp theo

hoặc sự cố y khoa gây tử vong cho 02 người bệnh trở lên trong cùng một tình huống,

hoàn cảnh hoặc do cùng một nguyên nhân (điểm b khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều

5 Thông tư 43). Đồng thời cũng quy định các BV phải tổng hợp báo cáo sự cố y khoa

gửi cơ quan quản lý định kỳ 6 tháng một lần (Điều 6 Thông tư 43).

52

Ngày 27/03/2019, Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh ra công văn số 701/SYT-NVY về

việc thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh; với yêu cầu tuân thủ quy định các báo cáo hỏa tốc, báo cáo

tổng hợp chung 6 tháng/lần. Ngày 10/07/2019 là lần đầu tiên các BV không phân biệt

công, tư trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phải báo cáo thống kê số lượng, tần suất và

phân tích nguyên nhân gốc các SCYK từ ngày 01/01 – 30/06/2019 theo quy định,

phân loại tại Thông tư 43.

Dưới đây là các số liệu do Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh tổng hợp được từ báo cáo

của các bệnh viện:

53

Bảng 3. Bảng tổng hợp số liệu SCYK 6 tháng đầu năm 2019

và SCYK nghiêm trọng đến hết tháng 10 năm 2019 tại Quảng Ninh

STT Bệnh viện / Trung tâm y tế SCYK nghiêm trọng Số lượng SCYK báo cáo tự nguyện

1. BV Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí 149 01

2. BV Đa khoa tỉnh Quảng Ninh 109 -

3. BV Bãi Cháy 139 01

4. BV Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh 124 -

5. BV Lao & Phổi tỉnh Quảng Ninh 58 -

6. BV Y dược học cổ truyển tỉnh QN 01 -

7. TTYT thị xã Đông Triều 56 -

8. TTYT thị xã Quảng Yên 27 01

9. BV Đa khoa khu vực Cẩm Phả 39 -

10. BV Đa khoa Cẩm Phả 14 -

11. TTYT huyện Tiên Yên 136 -

12. TTYT huyện Đầm Hà 07 -

13. TTYT huyện Hải Hà 15 02

14. TTYT huyện Bình Liêu 07 -

15. TTYT thành phố Móng Cái 14 -

16. TTYT huyện Cô Tô 02 -

17. TTYT than khu vực Mạo Khê 12 01

18. TTYT than khu vực Vàng Danh 09 -

19. BV ĐKQT Vinmec Hạ Long 15 -

Tổng cộng: 933 06

54

BV Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí

149

1

BV Đa khoa tỉnh Quảng Ninh

109

BV Bãi Cháy

139

1

BV Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh

124

BV Lao & Phổi tỉnh Quảng Ninh

58

BV Y dược học cổ truyển tỉnh QN

1

TTYT thị xã Đông Triều

56

TTYT thị xã Quảng Yên

27

1

BV Đa khoa khu vực Cẩm Phả

39

BV Đa khoa Cẩm Phả

14

TTYT huyện Tiên Yên

136

TTYT huyện Đầm Hà

7

TTYT huyện Hải Hà

2

15

TTYT huyện Bình Liêu

7

TTYT thành phố Móng Cái

14

TTYT huyện Cô Tô

2

TTYT than khu vực Mạo Khê

1

12

TTYT than khu vực Vàng Danh

9

BV ĐKQT Vinmec Hạ Long

15

20

0

40

60

80

100

120

140

SCYK nghiêm trọng

Số lượng SCYK chung

Biểu đồ 1. Số lượng SCYK 6 tháng đầu năm 2019 và SCYK nghiêm trọng đến

hết tháng 10 năm 2019 tại Quảng Ninh

Nhìn từ thống kê trên ta có thể thấy SCYK chủ yếu xảy ra ở các BV tuyến tỉnh

có lẽ tình trạng quá tải và thiếu hụt nhân lực của các BV này đã góp phần tăng các rủi

ro tiềm tàng và tăng tần suất xảy ra SCYK. Tuy nhiên 04/06 SCYK nghiêm trọng là

ở các BV và trung tâm y tế (TTYT) tuyến huyện, điều này cho thấy việc thiếu thốn

về hạ tầng, cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn sẽ làm tăng các nguy cơ rủi

ro trong hành nghề y khoa.

55

Dựa trên các báo cáo phân tích nguyên nhân do SYT Quảng Ninh tổng hợp từ

báo cáo của các BV và TTYT trực thuộc, ghi nhận được tỷ lệ nguyên nhân gốc gây

ra SCYK như sau:

Bảng 4. Các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng

đầu năm 2019 tại Quảng Ninh

Số lượng

STT Nhóm nguyên nhân gốc Tư nhân Tuyến tỉnh Tuyến huyện Tổng cộng theo nguyên nhân

215 10 549 324 1 Nhân viên y tế

2 Người bệnh 42 26 1 69

3 Môi trường làm việc 55 46 101

4 Tổ chức/ dịch vụ 131 34 3 168

5 Yếu tố bên ngoài 26 10 36

6 Khác 11 4 1 16

Tổng cộng theo loại BV: 589 335 15

Biểu đồ 2. Tỷ lệ các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng đầu năm 2019 tại Quảng Ninh

56

BV tuyến tỉnh

BV/TTYT tuyến huyện

BV tư nhân

Biểu đồ 3. Tỷ lệ các nhóm nguyên nhân của SCYK trong 6 tháng đầu năm 2019 theo các tuyến bệnh viện trên địa bàn Quảng Ninh

Từ các số liệu thống kê được, nhận thấy nguyên nhân gây ra SCYK tại các

BV và TTYT hơn một nửa là do nhân viên y tế. Đây cũng là nguyên nhân chính

dẫn đến sự không hài lòng của người dân về ngành y trong những năm qua. Sau 5

năm triển khai cải tiến chất lượng cung cấp dịch vụ KBCB toàn diện cấp quốc gia

thì tỷ lệ hài lòng ở BN nội trú mới đạt ngưỡng 80,61%, tỷ lệ này ở ngoại trú chỉ

đạt 60,63% (Bộ Y tế 2019, Phụ lục 2 - Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá chất

lượng bệnh viện năm 2018, Công văn số 1200/KCB-QLCL&CĐT ngày

25/10/2019, tr 1, 5).

Biểu đồ 4. Tỷ lệ hài lòng của người dân với ngành y tế năm 2018 thông qua khảo sát tại các bệnh viện trên toàn quốc

(Bộ Y tế 2019, Phụ lục 2 - Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện

năm 2018, Công văn số 1200/KCB-QLCL&CĐT ngày 25/10/2019, tr 1, 5)

57

2.1.2.2. SCYK có phát sinh tranh chấp tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

Với từ khóa “Sự cố y khoa gây tử vong tại Quảng Ninh”, Google cho ra

38.800.000 kết quả trong 0,37 giây và với từ khóa “đòi bệnh viện bồi thường do sự

cố y khoa ở quảng ninh” thì cho ra 681.000 kết quả trong 0,68 giây.

Do đặc điểm địa lý của tỉnh Quảng Ninh trải dọc bờ biển vịnh Bắc Bộ với chiều

dài bờ biển 250 km, các khu dân cư, BV phân tán trên một không gian rộng lớn; mặt

khác gặp phải một số hạn chế về thời gian nên người viết tại nghiên cứu này chỉ tập

trung phân tích, khảo sát các số liệu của một số BV tuyến tỉnh và BV tư nhân đóng

trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Mặt khác vì lý do bảo mật các thông tin tranh chấp nên việc tiếp cận dữ liệu của

các BV rất khó khăn. Thông qua việc thu thập dữ liệu từ các nguồn như: Các phương

tiện truyền thông, một số trang mạng xã hội và phỏng vấn các đại diện của một số

bệnh viện tuyến tỉnh và bệnh viện tư nhân đóng trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh

Quảng Ninh ghi nhận được như sau:

Bảng 5. Thống kê SCYK phát sinh tranh chấp tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV tư

nhân đóng trên địa bàn TP. Hạ Long, Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

STT Bệnh viện Khởi kiện ra tòa Khiếu nại đòi bồi thường

1. Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí 01 18

2. Đa khoa tỉnh Quảng Ninh - 17

3. Bãi Cháy - 12

4. Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh - 08

5. Lao & Phổi tỉnh Quảng Ninh - 10

6. ĐKQT Vinmec Hạ Long - 05

Tổng cộng: 01 70

Như vậy trong 3 năm từ 2016 đến 2018 vừa qua tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV

tư nhân đóng trên địa bàn TP. Hạ Long, Quảng Ninh có 70 vụ SCYK có phát sinh

tranh chấp, nhưng chỉ có 01 vụ được khởi kiện ra tòa án (phía BV là bị đơn thắng

58

kiện), còn lại 69 vụ việc đều được giải quyết bằng hình thức thương lượng, hòa giải.

Tuy nhiên đây chỉ là các vụ việc được đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng

hoặc trang mạng xã hội cá nhân, còn “phần chìm của tảng băng” thì thật khó để thống

kê hết được. Bản thân tác giả là người đang công tác trong ngành y nhưng cũng rất

khó khăn để tiếp cận số liệu.

Bảng 6. Tỷ lệ phát sinh tranh chấp trên tổng số SCYK ghi nhận được trong 6

tháng đầu năm 2019 tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV tư nhân tại Quảng Ninh

STT Bệnh viện Tỷ lệ Tổng số SCYK Số vụ phát sinh tranh chấp

1 Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí 150 5 3%

2 Đa khoa tỉnh Quảng Ninh 109 4 4%

3 Bãi Cháy 140 5 4%

4 Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh 124 3 2%

5 Lao & Phổi tỉnh Quảng Ninh 58 4 7%

6 ĐKQT Vinmec Hạ Long 15 2 13%

Mặc dù tỷ lệ phát sinh tranh chấp so với số lượng SCKY đã xảy ra trong 6 tháng

đầu năm 2019 là không cao, song tất cả các vụ việc này đều có diễn biến kéo dài chưa

có hồi kết. Đến thời điểm ngày 31/10/2019, mới có 10/23 (43,5%) vụ việc được đóng

lại sau thương lượng thành, 13 vụ việc còn lại các bên vẫn chưa đi đến được tiếng nói

chung; trong đó có 04 vụ đã thương lượng xong nhưng phát sinh ý kiến thay đổi từ

phía BN và gia đình BN khiến vụ việc đang có chiều hướng khó khăn trong thương

lượng tiếp.

Trong tình hình số lượng các tranh chấp phát sinh trong SCYK ngày càng gia

tăng thể hiện:

Một là, nhu cầu đòi hỏi ngày một cao về chất lượng cung cấp dịch vụ y khoa,

mối quan hệ đa dạng phức tạp, đan xen các lợi ích với nhau giữa thầy thuốc và người

59

bệnh làm phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp phát sinh trong SCYK trong thực

tiễn cuộc sống.

Hai là, pháp luật đã đi vào cuộc sống thực tế. Các chủ thể trong mối quan hệ

dịch vụ y tế ngày càng hành xử theo chuẩn mực pháp lý khi xã hội đang ngày càng

hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Người dân đã tiệm cận với những phương

pháp giải quyết tranh chấp của các nước tiến tiến trên thế giới. Điều này cũng thể hiện

một xã hội thượng tôn pháp luật đang ngày một rõ nét tại Việt Nam.

Ba là, số lượng các vụ tranh chấp phát sinh trong SCYK được giải quyết bằng

thương lượng đang đứng trước sức ép phải đổi mới thể chế để đáp ứng được việc giải

quyết các tranh chấp ngày một nhiều và phức tạp như hiện nay mà vẫn đảm bảo tính

minh bạch và sự tin tưởng vào pháp luật.

2.2. Thực trạng lựa chọn và áp dụng các phương pháp giải quyết tranh

chấp phát sinh trong SCYK tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

2.2.1. Thực trạng lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp trong SCYK

tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

Từ dữ liệu thống kê SCYK phát sinh tranh chấp tại 1 số BV tuyến tỉnh và BV

tư nhân đóng trên địa bàn TP. Hạ Long, Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018,

người viết thực hiện phỏng vấn chuyên sâu đại diện các BV và ghi nhận được số

lượng các vụ việc được giải quyết theo các nhóm phương pháp sau:

Bảng 7. Thống kê các phương pháp giải quyết tranh chấp trong SCYK phát

sinh tại một số BV trên địa bàn Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

STT Bệnh viện Khởi kiện ra tòa Hòa giải Thương lượng

1. Việt Nam-Thụy Điển UB 01 - 18

2. Đa khoa tỉnh Quảng Ninh - 01 16

3. Bãi Cháy - - 12

4. Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh - - 08

60

STT Bệnh viện Khởi kiện ra tòa Hòa giải Thương lượng

5. Lao & Phổi tỉnh QN - 02 08

6. ĐKQT Vinmec Hạ Long - - 05

Tổng cộng: 01 03 67

Biểu đồ 5. Biểu đồ tỷ lệ các phương pháp giải quyết tranh chấp trong SCYK

phát sinh tại một số BV trên địa bàn Quảng Ninh trong giai đoạn 2016-2018

Thông qua thống kê nêu trên, ta có thể nhận thấy tỷ lệ lựa chọn phương pháp

Thương lượng (94,3%) được lựa chọn phổ biến nhất. Với SCYK phải đưa ra hòa giải

và khởi kiện tại tòa án, qua tìm hiểu nguyên nhân đều là do phương án xử lý ban đầu

của BV đã thiếu khéo léo, tế nhị khiến BN và gia đình BN bức xúc nên sau đó các

bên không thể ngồi lại cùng thương lượng để đạt được tiếng nói chung. Trong đó có

01 vụ việc tại BV Lao & Phổi tỉnh QN khiến Giám đốc BV bị kỷ luật phải điều chuyển

công tác, 09 cán bộ lãnh đạo cấp khoa bị thi hành kỷ luật. 01 vụ kiện tại BV Việt

Nam-Thụy Điển-Uông Bí tuy BV thắng kiện tại cả 2 phiên sơ thẩm và phúc thẩm

nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh bản án của Tòa án; gia đình BN vẫn tiếp

tục khiếu nại lên BYT và các cơ quan chức năng khác.

61

Thông qua khảo sát 19 bệnh viện và trung tâm y tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

về lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK để làm cơ sở

cho kiến nghị khoa học của đề tài cho thấy:

Bảng 8. Thống kê phỏng vấn quan điểm của BV và TTYT được hỏi về việc lựa

chọn phương pháp ưu tiên khi giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK

STT Phương pháp giải quyết Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

1 Bệnh viện lựa chọn thương lượng 16 84,2%

2 Bệnh viện lựa chọn hòa giải 3 15,8%

3 Bệnh viện lựa chọn Tòa án 0 0%

Như vậy có thể thấy ưu tiên hàng đầu của các BV là lựa chọn phương pháp

thương lượng trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK (84,2%). Với 3

bệnh viện lựa chọn hòa giải, sau khi người viết liên hệ và trao đổi với các đầu

mối tham gia khảo sát để làm rõ thêm về bản chất của phương pháp hòa giải thì

ghi nhận được cách hiểu của các BV này đang đánh đồng giữa hòa giải và thương

lượng là một; và sau khi phân tích làm rõ, đồng thời hỏi nếu lựa chọn lại thì

anh/chị sẽ chọn phương pháp nào? Câu trả lời đều là “thương lượng”, qua đó có

thể hiểu rằng 100% sự lựa chọn khi đứng trước một SCYK của các BV là phương

pháp thương lượng.

2.2.2. Việc áp dụng phương pháp thương lượng

Thông qua phỏng vấn đại diện các bệnh viện tuyến tỉnh và tư nhân đóng trên

địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về kết quả thương lượng trong 3 năm

vừa qua (2016 – 2018), ghi nhận được thông tin:

62

Bảng 9. Tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp từ SCYK bằng phương

pháp thương lượng tại một số bệnh viện trong giai đoạn từ 2016 - 2018

Tỷ lệ (%) STT Bệnh viện Số vụ Thương lượng thành Tổng số SCYK phát sinh tranh chấp

19 1. Việt Nam-Thụy Điển UB 18 94,7

17 2. Đa khoa tỉnh Quảng Ninh 16 94,1

12 3. Bãi Cháy 12 100

08 4. Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh 08 100

10 5. Lao & Phổi tỉnh QN 08 80,0

05 6. ĐKQT Vinmec Hạ Long 05 100

71 Tổng cộng: 67 94,4

Biểu đồ 6. Tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp từ SCYK bằng phương pháp thương lượng tại một số bệnh viện trong giai đoạn từ 2016 - 2018

Như vậy có thể thấy tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp từ SCYK bằng

phương pháp thương lượng tại một số bệnh viện tuyến tỉnh và tư nhân trên địa bàn

Quảng Ninh trong 3 năm qua là rất cao. 3/6 bệnh viện có tỷ lệ thành công đạt 100%,

63

BV Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí có 1 vụ BN đã khởi kiện ra tòa án; BV đa khoa

tỉnh Quảng Ninh có 1 vụ đang kéo dài sang năm 2019 vẫn chưa thương lượng thành.

Riêng BV Lao & Phổi tỉnh QN, 1/2 vụ không thành do bản chất BN không phải vì

muốn bồi thường kinh tế mà là muốn những người có trách nhiệm phải bị kỷ luật nên

đưa ra số tiền yêu cầu đến bù rất cao và không có căn cứ, xong trong quá trình khiếu

nại thì BN đã đạt được mục đích khiến Giám đốc BV bị kỷ luật phải chuyển công tác,

09 cán bộ lãnh đạo khoa/phòng bị kỷ luật ghi vào hồ sơ lao động; 01 vụ việc còn lại

vẫn đang trong quá trình thương lượng.

2.2.3. Việc áp dụng phương pháp hòa giải

2.3.2.1. Hòa giải ngoài tòa án:

Trong giai đoạn 2016-2018, tỉnh Quảng Ninh ghi nhận được 03 vụ việc tranh

chấp phát sinh trong SCYK được giải quyết bằng phương pháp hòa giải. Tuy nhiên

cả 3 vụ việc đều là hòa giải ngoài tòa án bởi Hội đồng Chuyên môn được thành lập

bởi cơ quan quản lý nhà nước, chi tiết về biên bản hòa giải được giữ bí mật hoàn toàn

không thể tiếp cận do đó người viết không có cơ sở dữ liệu để đánh giá, phân tích

chuyên sâu.

Tình hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng

hòa giải trong thực tiễn vẫn dựa trên cơ sở các Luật chung mà chưa có các quy định

riêng. Hiện nay chưa có trung tâm hòa giải nào chính thức được thành lập và thực

hiện hòa giải tranh chấp phát sinh trong SCYK nên các Hội đồng Chuyên môn vẫn

đồng thời thực hiện hòa giải hoặc tiến hành hòa giải tại tòa án. Song cả 03 vụ việc

tranh chấp phát sinh trong SCYK nêu trên đều được tiến hành hòa giải ngay tại phiên

họp Kết luận của Hội đồng Chuyên môn.

Tuy nhiên không có vụ việc nào nêu trên được tiến hành các thủ tục xin tòa án

ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành. Việc này người viết chưa đủ cơ sở

để xác minh lý do các bên không tiến hành xin công nhận của tòa án vì phía các BV

giữ bí mật thông tin, phía BN không liên hệ được.

64

2.3.2.2. Hòa giải tại tòa án:

Vì lý do nhậy cảm của các tranh chấp phát sinh trong SCYK nên khi BN hoặc

gia đình BN đã phải đưa vụ việc ra tòa án để giải quyết thì đồng nghĩa với việc là các

bên không thể hòa giải và thương lượng được nữa. Do đó chưa ghi nhận được bất kỳ

vụ việc tranh chấp phát sinh trong SCYK nào được giải quyết thành công bằng

phương pháp hòa giải tại tòa án. Điển hình là vụ kiện duy nhất trong 3 năm vừa qua

tại Quảng Ninh giữa ông Nguyễn Thành Dương (ở Thanh Sơn, Uông Bí, Quảng Ninh)

và Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí tại tòa án nhân dân thành phố Uông Bí

và kháng cáo phúc thẩm lên toàn án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Tại cả hai phiên xét

xử theo trình tự thủ tục Chủ tọa phiên tòa đều hỏi hai bên có thể thỏa thuận, hòa giải

được với nhau không? theo quy định tại Điều 246, 298 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015. Nhưng thực tế đã chứng minh câu hỏi trên chỉ mang tính thủ tục trong vụ việc

này, vì hai bên không cùng chung lập trường, quan điểm về vụ tranh chấp, do đó đã

không thể thương lượng hoặc hòa giải.

Điều này đặt ra một cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trước sức ép

phải đổi mới thể chế để đáp ứng được việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong

SCYK ngày một nhiều và phức tạp như hiện nay mà vẫn đảm bảo tính minh bạch và

sự tin tưởng vào pháp luật của BN, gia đình BN và Thầy thuốc.

2.2.4. Việc áp dụng phương pháp tòa án

Trong giai đoạn 2017-2019, cả tỉnh Quảng Ninh chỉ ghi nhận 01 vụ việc tranh

chấp phát sinh trong SCYK được đưa ra tòa án để giải quyết. Vụ án diễn biến tóm tắt

như sau:

Năm 2009, ông Nguyễn Thành Dương bị ngã nên được người nhà đưa vào bệnh

viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí để điều trị. Theo các tài liệu của ông Dương nộp

cho tòa án thì bệnh viện kết luận ông bị chấn thương gãy kín cổ xương đùi, phải tiến

hành phẫu thuật đóng đinh nội tủy cổ xương đùi.

Bác sĩ phẫu thuật lúc đó là Trưởng khoa Chấn thương chỉnh hình tư vấn cho

ông Dương tỷ lệ thành công của ca mổ đến 99%. Sau mổ, BV thông báo với gia đình

ông Dương là ca mổ thành công. Ông Dương nằm viện thêm 5 ngày rồi ra viện, lúc

65

ra viện vẫn còn đau. Khi về nhà ông Dương vẫn đau, nên đã đi chụp kiểm tra tại

phòng khám 468 (Uông Bí). Tại phòng khám này bác sĩ kết luận đinh không vít vào

trung tâm xương đùi. Lập tức người nhà đưa ông Dương quay lại bệnh viện Việt Nam

- Thụy Điển Uông Bí khám. Bác sĩ phẫu thuật cho ông Dương đi chụp lại và vẫn kết

luận không sao. Ngày sau gia đình ông Dương đưa lên bệnh viện Trung ương Quân

đội 108 để khám kiểm tra. Qua chụp chiếu, BV Trung ương Quân đội 108 kết luận

ca mổ tại Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí thất bại, nếu mổ lại thành công

50%, nếu thay khớp háng sẽ thành công 100%.

Tại BV Trung ương Quân đội 108, gia đình ông Dương chọn thay khớp háng

cho ông. Hôm sau, trong quá trình khám trước phẫu thuật thì BV Trung ương Quân

đội 108 phát hiện ông Dương bị đái tháo đường tuýp 2 nên không thể tiến hành mổ

ngay mà phải điều trị 10 ngày ổn định mới mổ được. Theo ông Dương, trước đó bệnh

viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí không nói gì về việc ông bị đái tháo đường mà

vẫn tiến hành mổ. Sau phẫu thuật do trên nền bệnh đái tháo đường nên ông Dương

suy thận phải điều trị tại trung tâm hồi sức tích cực 24 giờ. Sau đó được về khoa Chấn

thương chỉnh hình điều trị tiếp đến ngày 03/03/2009 thì xuất viện.

Khi về nhà, sức khỏe tạm ổn định nhưng chỉ được một thời gian thì ông Dương

bị sốt nên người nhà lại đưa tới đến bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí khám,

kết luận là sốt không rõ nguyên nhân sau phẫu thuật nên cho nhập khoa Ngoại. Sau

đó Trưởng khoa Ngoại chẩn đoán ông Dương bị suy gan, suy thận. Gia đình đưa ông

Dương đến bệnh viện Bạch Mai. Tại BV Bạch Mai kết luận ông bị sốt do suy gan

cấp, men gan tăng cao, nhập viện điều trị 1 tuần.

Sau đợt điều trị tại Bạch Mai, ông Dương bị sứt chân, máu không cầm nên đến

bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí khám, được chẩn đoán là bị nhiễm trùng

do biến chứng của đái tháo đường, được chuyển lên bệnh viện Bạch Mai điều trị. Khi

ra viện về nhà ông Dương lại bị tím chân nên gia đình tiếp tục đưa đến bệnh viện Việt

Nam – Thụy Điển Uông Bí khám, sau đó được chuyển tiếp lên BV Bạch Mai rồi

chuyển qua BV Việt Đức. Bệnh viện Việt Đức kết luận bị tắc động mạch và tiến hành

phải phẫu thuật hai lần mới thông được hoàn toàn.

66

Hiện tại ông Dương tiếp tục điều trị ngoại trú tại bệnh viện Việt Nam - Thụy

Điển Uông Bí về căn bệnh đái tháo đường.

Cho rằng, việc thiếu sót của bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí đã gây

thiệt hại về sức khỏe và kinh tế của gia đình mình. Ông Dương từ một người khỏe

mạnh, trụ cột chính của gia đình, nay đi lại rất khó khăn. Trên cơ sở nhiều lần làm

việc với lãnh đạo bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí để yêu cầu bệnh viện bồi

thường thiệt hại do xâm phạm đến sức khỏe của bản thân nhưng bệnh viện không bồi

thường, không một lời động viên thăm hỏi tới ông. Chính vì vậy, ông Dương đã khởi

kiện ra tòa án nhân dân thành phố Uông Bí đòi BV Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí

bồi thường hơn 800 triệu đồng.

Ngoài việc gửi đơn ra tòa, gia đình ông Dương còn có đơn khiếu nại lên Bộ Y

tế và Cục Quản lý khám chữa bệnh về kết luận liên quan đến quy trình phẫu thuật và

KBCB của bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí với trường hợp của ông.

Phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng giữa bị đơn là Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí (Quảng Ninh) và

nguyên đơn là ông Nguyễn Thành Dương (Thanh Sơn, Uông Bí, Quảng Ninh) tại tòa

án nhân dân thành phố Uông Bí; bản án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của bị

đơn.

Sau đó ông Dương cùng luật sư của mình đã kháng cáo lên tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh vì những sai phạm của Cục Quản lý khám chữa bệnh thuộc Bộ Y tế đã

vi phạm nghiêm trọng trong việc thành lập Hội đồng chuyên môn:

Theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định, trong thời hạn 20 ngày

kể từ ngày nhận được đề nghị thì Bộ Y tế phải thành lập Hội đồng chuyên môn. Thế

nhưng kể từ ngày 16/12/2016, Tòa án Nhân dân thành phố Uông Bí có ra Quyết định

trưng cầu giám định số 03/2016/QĐ-TCGĐ đến Bộ Y tế để xác định có hay không

có việc sai sót về mặt chuyên môn kỹ thuật của bác sĩ BV Việt Nam - Thụy Điển

Uông Bí, đến ngày 11/01/2017 gửi công văn số 217/2016/TANDUB và rất nhiều lần

gửi công văn tiếp sau đó đề nghị hợp tác làm việc để ra kết luận nhưng mãi đến

14/04/2017 Bộ Y tế mới ra quyết định thành lập Hội đồng chuyên môn. Như vậy, sau

67

94 ngày (tức hơn 3 tháng) mới thành lập Hội đồng chuyên môn là trái với quy định

tại điểm b khoản 2 điều 74 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.

Tuy nhiên, việc sai sót và vi phạm về thời gian cũng không nghiêm trọng bằng

việc Hội đồng chuyên môn không mời người khởi kiện là ông Nguyễn Thành Dương

tham gia một số phiên họp và phiên kết luận theo quy định tại khoản 3 Điều 74 Luật

khám bệnh, chữa bệnh năm 2009: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thành lập, hội

đồng chuyên môn phải họp và mời các bên liên quan đến tranh chấp tham gia một số

phiên họp và phiên kết luận”.

Ông Dương và luật sư của ông cho rằng Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã

vi phạm hết sức nghiêm trọng theo quy định tại điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 74

của Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009. Việc vi phạm nghiêm trọng đó đã xâm

phạm một cách thô bạo đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn

Thành Dương. Với việc vi phạm các quy định trên thì kết luận số 1341 ngày

18/9/2017 của Cục Quản lý khám chữa bệnh là không có giá trị về mặt pháp lý. Một

văn bản không có giá trị về mặt pháp lý đã kéo theo việc tòa án căn cứ vào văn bản

không có giá trị pháp lý để tuyên là vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng quy

định pháp luật.

Ngày 17/5/2018, tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh mở phiên xét xử phúc thẩm

vụ án tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa bị đơn là Bệnh viện

Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí (Quảng Ninh) và nguyên đơn là ông Nguyễn Thành

Dương (Thanh Sơn, Uông Bí, Quảng Ninh). Vì cho rằng Bệnh viện Việt Nam -

Thụy Điển Uông Bí làm việc tắc trách, gây nên biến chứng lâu dài cho người bệnh

nên ông Dương kiện đòi bệnh viện bồi thường hơn 800 triệu đồng. Tuy nhiên, cũng

giống phiên sơ thẩm, tại phiên phúc thẩm, Hội đồng xét xử bác toàn bộ những chứng

cứ do Luật sư đưa ra, tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu

của bị đơn.

Như vậy: Sau ca mổ 10 năm trước và sau gần 02 năm theo đuổi vụ kiện tại tòa

án, cũng như nhiều lần đi lại giữa Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí và các

cơ quan chức năng thì toàn bộ những tranh chấp phát sinh sau SCYK mà ông Dương

68

gặp phải cho đến tận hôm nay vẫn chưa có hồi kết. Ông Dương vẫn tiếp tục hành

trình đòi lại sự công bằng cho bản thân thông qua những lá đơn “kêu cứu” gửi đi khắp

các ban ngành và cơ quan báo chí.

2.3. Đánh giá chung về việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK

tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

Như phân tích ở trên, hiện nay có 3 phương pháp được sử dụng để giải quyết

các tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, đó là:

Thương lượng, hòa giải và tòa án. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn

chế riêng. Do vậy, tùy thuộc vào tính chất vụ án và tình hình thực tế, bệnh viện và

người bệnh cần lựa chọn phương pháp phù hợp nhằm đạt được hiệu quả trong việc

giải quyết tranh chấp.

2.3.1. Thành công

Từ thực tế giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK tại các bệnh viện tỉnh

Quảng Ninh cho thấy, việc giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng có nhiều ưu

điểm như được tiến hành nhanh chóng, linh hoạt, tốn ít chi phí, đảm bảo bí mật thông

tin tranh chấp. Đối với hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án, trọng tài yêu cầu

phải tuân thủ theo đúng quy trình, quy định của pháp luật; trong khi thương lượng

không có quy trình chung mà việc thương lượng do các bên tự thỏa thuận, tự tiến

hành. Vì thế tranh chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, thuận tiện, chi phí

thấp. Đối với tòa án và trọng tài thì các bên có thể sẽ phải chi trả khoản lệ phí nhất

định theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc áp dụng phương pháp giải quyết

tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng thương lượng giúp các bên giữ được thông tin

đặc biệt là đối với các bệnh viện. Trên thực tế, pháp luật Việt Nam và nhiều nước trên

thế giới khuyến khích các bên khi có tranh chấp sử dụng biện pháp thương lượng để

giải quyết. Nếu quá trình thương lượng không thành công, hoặc các bên không đồng

ý giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thì mới sử dụng biện pháp giải quyết khác

như hòa giải, tòa án hoặc trọng tài.

69

Giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa bằng hòa giải có một số ưu

điểm đó là: Thuận tiện, thời gian giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém chi phí. Với sự

xuất hiện của bên thứ ba với trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, am hiểu kiến

thức về y tế, về quy trình khám chữa bệnh, do đó khả năng để hòa giải được tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa sẽ cao hơn so với việc hai bên tự thương lượng.

Ngoài ra, kết quả hoà giải được ghi nhận và chứng kiến bởi bên thứ ba nên mức độ

tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đã đạt được trong quá trình hoà giải giữa

các bên thường cũng cao hơn so với phương pháp thương lượng. Trường hợp các bên

không hòa giải thành thì mới chuyển sang cơ quan tố tụng.

Việc giải quyết tranh chấp HĐTD bằng tòa án có ưu điểm đó là phán quyết của

tòa án có tính chất cưỡng chế, buộc các bên phải thi hành. Điều này khắc phục được

hạn chế của phương pháp thương lượng và hòa giải vốn dựa vào sự tự nguyện, thiện

chí hợp tác của khách hàng. Ngoài ra, với nguyên tắc xét xử hai cấp cùng thủ tục đặc

biệt để xét lại bản án, điều này hạn chế sai sót và vi phạm trong quá trình tố tụng, từ

đó góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của các bên. Tòa án cơ quan mang quyền lực

Nhà nước nên tính độc lập và công bằng cao luôn được đảm bảo chặt chẽ bởi các quy

định của pháp luật. Không một bên nào, bệnh viện hay bệnh nhân có thể tác động vào

tòa án để làm thay đổi bản chất của vụ việc được. Đây cũng chính là lý do nên lựa

chọn tòa án trong các trường hợp phát sinh SCYK nghiêm trọng, ví dụ điển hình như

SCYK về chạy thận nhân tạo tại BV tỉnh Hòa Bình. Ngoài ra, bởi sự độc lập và công

bằng cao nên việc đảm bảo tính minh bạch của tòa án là một ưu điểm đương nhiên

khi lựa chọn phương pháp này. Sự minh bạch này sẽ đảm bảo các quyền được tiếp

cận, thu thập bằng chứng có hiệu quả cho BN/gia đình BN, điều mà không có phương

pháp nào hiện nay tại Việt Nam có được. Hơn nữa, phương pháp này bảo đảm trợ

giúp pháp lý theo quy định của pháp luật để các trường hợp BN và gia đình BN không

có khả năng tự thuê luật sư thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ

trước Tòa án. Đây cũng là quyền mà chỉ có duy nhất phương pháp giải quyết bằng

tòa án mới có được.

70

2.3.2. Nhược điểm và nguyên nhân

Bên cạnh những ưu điểm trên, giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng

phương pháp thương lượng cũng chứa đựng một số hạn chế nhất định, đó là: Việc

thương lượng có thành công không phụ thuộc rất lớn vào thái độ, ý chí, sự hợp tác và

hiểu biết của cả bệnh viện và người bệnh. Đồng thời, kết quả của việc thương lượng

không bị ràng buộc bởi quy định pháp luật; do vậy việc thực hiện kết quả thương

lượng phụ thuộc vào thiện chí của cả bệnh viện và khách hàng. Việc giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa bằng thương lượng được tiến hành bí mật, không

công khai, điều này có thể dẫn đến những hành vi tiêu cực, trái pháp luật. Đơn cử,

các bệnh viện sẽ muốn giữ kín thông tin về sự cố y khoa, điều này xét về lâu dài là

không có lợi đối với hoạt động ngành y tế. Sự cố y khoa cần phải được công khai để

cơ quan quản lý cũng như người bệnh có thể nắm được thông tin; đồng thời đây cũng

là bài học để các cơ sở y tế nghiên cứu, rút kinh nghiệm.

Đối với phương pháp hòa giải có một số hạn chế đó là: Quá trình hòa giải phụ

thuộc vào ý chí thỏa thuận cũng như sự tự nguyện thi hành của mỗi bên. Do đó, dù

có sự giúp đỡ của bên thứ ba làm trung gian hoà giải nhưng một bên không trung

thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình thảo luận trao đổi để giải quyết tranh

chấp thì việc hoà giải cũng khó đạt được kết quả như mong đợi. Do đó chỉ cần một

bên không có ý định muốn hòa giải thì hòa giải viên cũng không thể hỗ trợ hay áp đặt

bất kỳ vấn đề gì được. Chưa kể thực tiễn 03 vụ việc áp dụng phương pháp hòa giải

tại Quảng Ninh trong 03 năm vừa qua với sự tham gia của HĐCM trong vai trò là bên

thứ 3 để dàn xếp thỏa thuận giữa BV với BN/gia đình BN rất dễ rơi vào thất bại. Vì

chỉ cần có bất kỳ một điểm nào đó thiếu khéo léo hoặc không đảm bảo tính khách

quan thì HĐCM sẽ lập tức có nguy cơ bị BN/gia đình BN quy kết là thiên vị, không

độc lập do các thành viên của HĐCM đều là người trong ngành y tế.

Hòa giải tranh chấp phát sinh liên quan đến sự cố y khoa trong tòa án khó đạt

được hiệu quả. Nguyên nhân là vì những lý do nhậy cảm của các tranh chấp phát sinh

trong SCYK nên khi BN hoặc gia đình BN đã phải đưa vụ việc ra tòa án để giải quyết

thì đồng nghĩa với việc là các bên không có thiện chí muốn hòa giải nữa. Do đó việc

lựa chọn giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng phương pháp hòa giải tại

71

tòa án gần như chỉ mang tính lý luận mà không có tính thực tiễn cao. Đối với hòa giải

ngoài tòa án: hiện tại ở Việt Nam chưa có tổ chức hòa giải nào được thành lập để

phục vụ các tranh chấp liên quan đến y tế. Do đó dù có muốn lựa chọn phương pháp

hòa giải thì thực sự để tìm kiếm 1 trung tâm hòa giải chuyên ngành dành riêng cho

các tranh chấp phát sinh trong SCYK là không thể ở Việt Nam chứ không riêng gì

Quảng Ninh. Chính từ sự thiếu sót, chồng chéo và chưa rõ ràng cụ thể nêu trên kết

hợp với nhận thức về pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong

SCYK của cả BV, NVYT lẫn BN, gia đình BN đều còn hạn chế, nhiều e ngại nên

phương pháp hòa giải hiện nay tại Quảng Ninh gần như không được lựa chọn.

Đối với phương pháp giải quyết tranh chấp HĐTD bằng tòa án cũng có những

nhược điểm đó là: Việc giải quyết tốn nhiều thời gian với quy trình tố tụng phức tạp;

chi phí thường tốn kém hơn so với hình thức thương lượng và hòa giải. Điển hình là

vụ việc tranh chấp tại BV Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí xảy ra từ năm 2009 đến nay

vẫn chưa ngã ngũ dù ngày 17/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã tuyên bản

án phúc thẩm bác bỏ mọi yêu cầu bồi thường của nguyên đơn. Ngoài ra, một hạn chế

đáng kể của việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK bằng tòa án đó là, bản

án bị công khai theo quy định của pháp luật, điều này cả BV, NVYT lẫn nhiều trường

hợp BN và gia đình BN không mong muốn; đặc biệt là nhiều SCYK nhậy cảm, ví dụ

như: Trường hợp chị Nguyễn Thu H do sự nhầm lẫn của BS nên đã bị cắt cả 2 buồng

trứng khiến chị bị vô sinh trong khi chị chưa lập gia đình, hay việc anh Hùng Văn B

bị lây nhiễm bệnh sùi mào gà (1 bệnh lây qua đường tình dục) từ một BN khác do

NVYT không tuân thủ các quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn…

72

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢ I QUYẾ T TRANH CHẤ P PHÁT SINH TRONG SỰ CỐ Y KHOA TẠI CÁC BỆNH VIỆN

3.1. Cơ sở, nguyên tắc của đề xuất giải pháp

Việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp phát

sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện tại tỉnh Quảng Ninh cần bảo đảm các nguyên

tắc sau:

Thứ nhất, quá trình giải quyết tranh chấp không được trái quy định của pháp

luật, đạo đức xã hội. Việc các bên tự tiến hành thương lượng, hòa giải hoặc đưa ra cơ

quan tố tụng phải bảo đảm đúng theo trình tự, quy định pháp luật. Thỏa thuận đạt

được không được trái với pháp luật, đạo đức xã hội. Nếu thỏa thuận đó vi phạm các

nguyên tắc cơ bản của pháp luận dân sự, vi phạm các quy định pháp luật thì thỏa

thuận đó không có giá trị pháp lý.

Thứ hai, tranh chấp phát sinh trong SCYK giải quyết bằng thương lượng, hòa

giải phải dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng thiện chí và hợp tác. Pháp

luật không cho phép một bên bằng quyền lực của mình có hành động ép buộc, bắt

bên kia phải thực hiện những việc họ không mong muốn. Bệnh viện và bệnh nhân có

cùng địa vị pháp lý và bình đẳng như nhau trước pháp luật và trong quá tình giải

quyết mâu thuẫn. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK về bản chất là

một giao dịch hoặc thỏa thuận dân sự; do đó cần phải bảo đảm nguyên tắc tự do, tự

nguyện, bình đẳng và thiện chí trong quá trình thương lượng hoặc hòa giải.

Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp phải dựa trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích

hợp pháp của bệnh viện và bệnh nhân hoặc gia đình bệnh nhân. Đây là nguyên tắc

đầu tiên và quan trọng trong việc xác định tranh chấp SCYK đó có được giải quyết

một cách hiệu quả không. Nếu chỉ đáp ứng được lợi ích từ một phía thì tranh chấp đó

chưa được giải quyết triệt để; có thể dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện kéo dài.

Thứ tư, tranh chấp phát sinh trong SCYK phải được giải quyết một cách nhanh

chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên. Đây cũng là nguyên tắc để đánh giá

một tranh chấp đã được giải quyết hiệu quả hay chưa. Kéo dài thời gian giải quyết

tranh chấp không chỉ ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của bệnh viện mà cũng ảnh

73

hưởng tới sức khỏe, tinh thần, kinh tế của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân. Do vậy,

khi có tranh chấp phát sinh các bên cần lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp

nhằm giải quyết nhanh chóng, thỏa đáng, tiết kiệm thời gian và công sức của các bên.

3.2. Các giải pháp tăng cường hiê ̣u quả giả i quyết tranh chấ p phát sinh

trong sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Quảng Ninh

3.2.1. Nhóm giải pháp nhằm hạn chế phát sinh sự cố y khoa

Như đã đề cập ở trên, sự cố y khoa là những tình huống phát sinh bất ngờ, có

thể xảy ra bất cứ thời điểm nào, bất cứ quy trình, công đoạn nào trong hoạt động

khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở y tế, xảy ra ngoài mong muốn của cả nhân viên

y tế lẫn bệnh nhân và gia đình bệnh nhân. Sự cố y khoa gây ra những ảnh hưởng lớn

đối với cả bệnh nhân và bệnh viện. Đối với bệnh nhân, sự cố y khoa có thể kéo dài

thời gian điều trị, cũng có thể là những tổn hại về sức khỏe, thân thể và thậm chí là

đe dọa trực tiếp tính mạng bệnh nhân. Đối với các cơ sở y tế, sự cố y khoa cũng để

lại những hậu quả hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến uy tín, an toàn, an ninh bệnh viện.

Chính vì thế, hạn chế tối đa việc phát sinh sự cố y khoa là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục trong ngành y tế nói chung

và các bệnh viện tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Dựa trên thực tế quá trình công tác

tại các cơ sở y tế tỉnh Quảng Ninh, người viết nhận thấy, để khắc phục cũng như hạn

chế được các sự cố y khoa cần thiết phải thực hiện các giải pháp sau:

3.2.1.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các bệnh viện ở tỉnh Quảng

Ninh

Cần nhận thức rằng, phát triển nguồn nhân lực luôn là nhiệm vụ trọng tâm mà

ngành Y tế cần phải quan tâm để từng bước nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa

bệnh. Trong đó, thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của

các nhân viên y tế là việc làm then chốt. Các thống kê ở trên đã chỉ ra rằng, có tới

58,5% các sự cố y khoa tại tỉnh Quảng Ninh có nguyên nhân gốc xuất phát từ nhân

viên y tế, thậm chí tỷ lệ này tại các cơ sở y tế tuyến huyện và tuyến cơ sở là 64,2%.

Do đó, hơn bao giờ hết công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ

nhân viên y tế tại Quảng Ninh cần phải được quan tâm và đẩy mạnh thực hiện. Điều

74

này góp phần nâng cao dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, hạn chế phát sinh các sự cố y

khoa đáng tiếc.

Công tác đào tạo, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên y tế

cần phải được thực hiện một cách khoa học, có kế hoạch nhằm đạt được hiệu quả cao;

tránh tình trạng đào tạo một cách hình thức, phong trào, mang nặng lý thuyết mà

không gắn liền với thực tế. Trong thời gian sắp tới, các bệnh viện cần tiến hành:

Các bệnh viện cần triển khai thực chất và nghiêm túc các quy định về đào tạo

liên tục, cập nhật kiến thức, kỹ năng cho NVYT theo quy định tại Thông tư

22/2013/TT-BYT; đặc biệt là các tuyến y tế cơ sở - những nơi có chất lượng khám

chữa bệnh vẫn còn thấp. Cần xây dựng một cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động

này để tránh tình trạng tổ chức hình thức chỉ nhằm mục đích ghi nhận giờ như một

số nơi hiện nay. Theo đó, lãnh đạo các bệnh viện trực tiếp lên kế hoạch tập huấn, đào

tạo và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Sở Y tế Quảng Ninh có trách nhiệm

giám sát, kiểm tra nội dung đào tạo, quy trình và kết quả đào tạo. Việc đào tạo cần

phải thực chất và phải gắn với tiêu chuẩn đầu ra; sau đào tạo nếu nhân viên đáp ứng

được các tiêu chuẩn đó thì ghi nhận đã hoàn thành chương trình; nếu chưa đáp ứng

được thì bắt buộc phải đào tạo lại. Việc xây dựng bộ tiêu chuẩn đầu ra cần dựa vào

các văn bản hướng dẫn của Cục quản lý khám chữa bệnh, Cục Khoa học công nghệ

và đào tạo – Bộ Y tế và có tham vấn ý kiến của các chuyên gia đầu ngành, kết hợp

với tình hình thực tiễn tại địa phương.

Phát huy vai trò của các Hội nghề nghiệp trong Tổng hội Y học Việt Nam với

48 hội chuyên khoa trung ương, 57 hội địa phương trong việc cập nhật kiến thức, kỹ

năng tay nghề cho hội viên. Các bệnh viện tại Quảng Ninh cần phải có sự kết nối chặt

chẽ với các hội nghề nghiệp trung ương và địa phương trong việc cập nhật các kiến

thức mới.

Tăng cường đào tạo, huấn luyện về an toàn đối với bệnh nhân cho nhân viên

y tế tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Đưa chương trình đào tạo An toàn người

bệnh thành chương trình đào tạo bắt buộc đối với toàn bộ NVYT và quy định phải

thực hiện tái đào tạo hàng năm ít nhất 1 lần. Đây là việc làm quan trọng, nhằm nâng

75

cao nhận thức của các nhân viên y tế về an toàn người bệnh. Các nhân viên y tế cần

phải xác định, bệnh nhân cũng giống như người nhà của mình; cần phải hết sức cẩn

thận, tận tâm, tập trung, vận dụng hết khả năng, chuyên môn trong việc khám bệnh,

chữa bệnh.

Cần tổ chức thực hiện nghiêm các chương trình đào tạo bắt buộc theo quy định

của pháp luật thay vì hình thức và chống đối như: Đào tạo về phòng cháy chữa cháy,

an toàn vệ sinh lao động… Thực tế hiện nay, các bệnh viện công tại Quảng Ninh vẫn

chưa xem trọng công tác này. Các yếu tố về phòng cháy chữa cháy, an toàn vệ sinh

đều là những nhân tố tiềm tàng, là nguyên nhân có thể gây ra sự cố y khoa.

Xây dựng tài liệu quốc gia về đào tạo An toàn sử dụng vật tư - thiết bị y tế, An

toàn hệ thống kỹ thuật trong bệnh viện và tổ chức đào tạo bắt buộc cho mọi đối

tượng làm việc trong bệnh viện. Vật tư - Thiết bị y tế như bơm tiêm, dây chuyền,

đèn chiếu, máy chụp Xquang… là các công cụ trực tiếp tham gia hoạt động chữa

bệnh. Việc sử dụng cần phải thực hiện đúng quy định; ví dụ bơm tiêm không được

tái sử dụng, không được sử dụng chung trên nhiều bệnh nhân khác nhau hoặc dùng

một bơm tiêm để pha nhiều loại thuốc… Sử dụng thiết bị y tế, hệ thống kĩ thuật cần

bảo đảm an toàn cho người vận hành và an toàn cho đối tượng được điều trị, ví dụ

phòng tránh điện giật, bỏng... Hệ thống trang thiết bị y tế ngày càng hiện đại là tín

hiệu tích cực trong công tác khám bệnh và chữa bệnh. Tuy nhiên, thiết bị càng hiện

đại đòi hỏi các nhân viên y tế cũng cần có đủ kĩ năng để vận hành đúng quy trình,

đúng tiêu chuẩn đã quy định.

3.2.1.2. Xem xét thành lập tổ chức An toàn người bệnh

Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Úc, Anh, Canada, New Zealand từ thập kỷ đầu

của thế kỷ XXI đã tiên phong thành lập các tổ chức chuyên trách để tư vấn, giám sát,

đánh giá an toàn người bệnh như: Ủy ban quốc gia về chất lượng y tế và an toàn người

bệnh (Mỹ, Úc, Malaysia ); Viện nghiên cứu quốc gia an toàn người bệnh (Mỹ,

Canada); Hiệp hội an toàn người bệnh (Úc); Cơ quan an toàn người bệnh quốc gia

(Anh quốc, Mỹ); Liên minh an toàn người bệnh Đức (German Coalition for Patient

Safety); Ủy ban hòa giải và bồi thường khu vực ở Pháp (Commission Régionale de

76

Conciliation et d'indemnisation - CRCI)... Các tổ chức trên đóng vai trò rất quan trọng

trong việc tham mưu, tư vấn, điều phối các nỗ lực về An toàn người bệnh.

Điều này đặt ra đòi hỏi cần thiết về việc thành lập một “Ủy ban quốc gia về chất

lượng chăm sóc y tế và an toàn người bệnh” của Việt Nam, có văn phòng đại diện

đến các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương hoặc các cụm tỉnh… Ủy ban này có

nhiệm vụ là cơ quan tham mưu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ngành y tế;

thực hiện giám sát hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; bảo đảm an toàn cho người

bệnh; điều phối các hoạt động hỗ trợ bệnh nhân/gia đình bệnh nhân và các bệnh

viện/nhân viên y tế khi SCYK nghiêm trọng xảy ra. Và để đảm bảo SCYK được xem

xét như một vấn đề xã hội thì Ủy ban này phải hoàn toàn độc lập với Bộ Y tế.

3.2.1.3. Thiết lập hệ thống báo cáo và cơ sở dữ liệu sự cố y khoa quốc gia

dùng chung

Sự cố y khoa, đặc biệt là các sự cố phát sinh do sai sót trong thực hành, quy

trình thực hiện luôn là những bài học giá trị để các nhân viên y tế nghiên cứu, đúc rút

kinh nghiệm cho mình, tránh không mắc phải những sai sót tương tự. Mặc dù một hệ

thống báo cáo SCYK bắt buộc và tự nguyện đã được thiết lập bởi Thông tư

43/2018/TT-BYT; song hiện tại chưa có: (1) Quy trình hướng dẫn báo cáo dạng lưu

đồ để giúp NVYT dễ dàng thực hiện các quy định của thông tư; (2) Một cơ sở dữ liệu

điện tử có thể dễ dàng truy cập, tra cứu và học hỏi. Người viết xin đề xuất các giải

pháp sau:

Thiết lập lưu đồ Quy trình hướng dẫn nhanh công tác báo cáo SCYK dùng chung

toàn tỉnh. Căn cứ theo quy định tại Thông tư 43/2018/TT-BYT xin đề xuất sơ đồ Quy

trình hướng dẫn nhanh công tác báo cáo SCYK như sau:

77

Sơ đồ 2. Sơ đồ Quy trình hướng dẫn nhanh công tác báo cáo SCYK

78

Các bệnh viện đang phải tự thiết lập hệ thống phần mềm báo cáo của riêng mình

mà không theo bất kỳ một chuẩn mực nào và không thể kết nối với nhau để chia sẻ,

trao đổi dữ liệu. Điều này đòi hỏi một chương trình, chính sách ở cấp quốc gia nhằm

tạo ra một phần mềm báo cáo trực tuyến và dữ liệu “thư viện bài học” từ những

SCYK, những lỗi hệ thống, lỗi cá nhân…

Từ kinh nghiệm tại một số nước phát triển cho thấy việc công khai minh bạch

thông tin về sự cố y khoa làm giảm áp lực của xã hội cho ngành y tế và ngành y tế

nhận được sự thông cảm, chia sẻ của người bệnh, gia đình người bệnh và cộng đồng

xã hội về tính chất phức tạp, đa dạng của sự cố y khoa. Tại Mỹ, hầu hết các Bang đã

thông qua Luật về báo cáo sự cố y khoa (The Adverse Health Events Reporting Law)

vào năm 2003 và sửa đổi vào năm 2004. Tiếp đó các nước như Úc, Canada, New

Zealand… đã thiết lập hệ thống báo cáo sự cố y khoa bắt buộc và hệ thống báo cáo

tự nguyện tại các cơ sở y tế.

3.2.1.4. Cải thiện môi trường làm việc và văn hóa an toàn người bệnh

Việc yêu cầu bệnh viện hoạt động liên tục 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần đã tạo ra

những áp lực trong công tác quản trị bệnh viện và sự mệt mỏi của NVYT khi phải

trực 24 giờ liên tục… Một chính sách quốc gia về đảm bảo nhân lực cho ngành y tế

cũng như yêu cầu bắt buộc về tổ chức làm việc theo ca kíp thay vì thường trực, thường

trú như hiện nay đang là một đòi hỏi bức thiết.

Các bệnh viện cần trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị làm việc, thiết lập hệ

thống nhắc nhở, giảm bớt việc phải vận dụng trí nhớ, tăng cường ứng dụng công nghệ

thông tin, tăng việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ cho cán bộ y tế.

Rà soát lại các hoạt động thường quy trong công việc như: Khám bệnh, kê đơn,

phát thuốc, bàn giao ca kíp... phát hiện các khoảng trống có nguy cơ tiềm tàng tới sự

an toàn người bệnh để chủ động khắc phục, rà soát và cập nhật các hướng dẫn chuyên

môn, khắc phục lỗi hệ thống và tăng cường giáo dục. Phát động thành các cuộc thi,

phong trào, chiến dịch trong toàn ngành y tế để tận dụng tối đa trí tuệ tập thể, sáng

kiến cộng đồng.

79

Tổ chức các hoạt động quốc gia thường niên vào ngày Thế giới An toàn người

bệnh (17/9) như hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc gia/quốc tế về Quản lý chất lượng

bệnh viện/An toàn người bệnh.

Thiết lập các công cụ quốc gia dùng chung trong hỗ trợ thực hành y khoa như:

Hệ thống thẩm định y lệnh/đơn thuốc tự động cảnh báo tương tác thuốc; dữ liệu quốc

gia về cảnh báo tiền sử dị ứng, lịch sử bệnh lý…

Ngoài ra, bệnh viện cũng cần quan tâm hơn đến chất lượng đời sống của nhân

viên y tế. Thời gian cường độ và áp lực làm việc rất lớn, tuy nhiên mức lương mà

nhân viên y tế nhận được lại chưa tương xứng. Ngoài việc lo cho công tác khám bệnh,

chữa bệnh, nhân viên y tế còn nhiều trăn trở cho cuộc sống, chi tiêu. Thực tiễn, để trở

thành một bác sĩ đa khoa một người cần phải học tập liên tục 6 năm tại trường đại

học, ra trường phải tham gia đào tạo thực hành 18 tháng mới được cấp chứng chỉ

hành nghề; sau đó là đào tạo nội trú hoặc chuyên khoa I (sau đại học)/thạc sĩ (cao

học) rồi chuyên khoa II/tiến sĩ; chưa kể còn phải tham gia nhiều khóa đào tạo nâng

cao chuyên môn khác… Với ngành y, việc học luôn được xác định là suốt đời, tuy

nhiên hiện nay mức lương chi trả cho nhân viên y tế cũng tương đương như những

ngành khác. Điều này là một trong những bất cập, ảnh hưởng đến tâm lý, cách thức

làm việc của nhiều nhân viên y tế. Do vậy, yêu cầu đặt ra là các bệnh viện cần phải

cải thiện chế độ làm việc, chế độ tiền lương, thu nhập tăng thêm hợp lý để nhân viên

y tế có thể an tâm công tác, có thể nỗ lực cống hiến hết mình cho hoạt động khám

bệnh, chữa bệnh, từ đó cũng hạn chế việc phát sinh những sai sót, sự cố y khoa.

Xét về yếu tố phát triển bền vững, các bệnh viện cần xây dựng môi trường thuận

lợi cả về cơ chế và vật chất để các bác sĩ, nhân viên bệnh viện có thể tham gia nghiên

cứu khoa học, cải tiến kĩ thuật, quy trình khám, chữa bệnh. Về nội dung này, các bệnh

viện tỉnh Quảng Ninh có thể học tập kinh nghiệm từ các Bệnh viện tuyến trung ương

và Viện nghiên cứu của hệ thống y khoa Vinmec. Đây là những đơn vị đi đầu trong

việc chú trọng đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và y tế hàn lâm ở Việt Nam.

80

3.2.1.5. Tăng cường công tác quản lý chất lượng hoạt động khám, chữa bệnh

tại bệnh viện

Triển khai nghiêm túc, thực chất có hiệu quả Thông tư số 19/2013/TT-BYT

ngày 12/7/2013 của Bộ Y tế về hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám

bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện; Quyết định 2151/QĐ-BYT ngày 04/06/2015 của Bộ

trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ

phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”; Quyết định 6858/QĐ-

BYT ngày 18/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Bộ tiêu chí chất lượng

bệnh viện Việt Nam; Quyết định 7051/QĐ-BYT ngày 29/11/2016 của Bộ trưởng Bộ

Y tế về việc Hướng dẫn xây dựng thí điểm chỉ số cơ bản đo lường chất lượng bệnh

viện; Quyết định 2429/QĐ-BYT ngày 12/06/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban

hành Tiêu chí đánh giá mức chất lượng phòng xét nghiệm y học; Quyết định

7482/QĐ-BYT ngày 18/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Bộ tiêu chí

chất lượng đánh giá mức độ an toàn phẫu thuật; Quyết định 3869/QĐ-BYT ngày

28/08/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành mẫu phiếu và hướng dẫn khảo

sát hài lòng người bệnh và nhân viên y tế… đảm bảo cơ chế kiểm soát để không sảy

ra tình trạng thực hiện hình thức, chống đối.

Chuẩn hóa quy trình điều trị, chăm sóc bệnh nhân: Ban hành các phác đồ điều

trị, hướng dẫn quy trình kỹ thuật, bảng kiểm cho hoạt động giám sát quá trình thực

hiện kỹ thuật...

Triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn người bệnh: Xác

định chính xác người bệnh, tránh nhầm lẫn khi cung cấp dịch vụ; An toàn phẫu thuật,

thủ thuật; An toàn trong sử dụng thuốc; Phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện;

Phòng ngừa rủi ro, sai sót do trao đổi, truyền đạt thông tin sai lệch giữa nhân viên y

tế; Phòng ngừa người bệnh bị ngã và An toàn trong sử dụng trang thiết bị y tế.

Đẩy mạnh hoạt động của hệ thống Thanh tra Y tế trong kiểm tra, giám sát sự

tuân thủ của NVYT, tăng cường sự chuyên nghiệp và luôn đặt lợi ích của người bệnh

lên trên các lợi ích của cá nhân trong khi hành nghề. Thiết lập cơ chế chặt chẽ hơn

trong hoạt động kiểm tra/giám sát chéo, độc lập và tự kiểm tra/giám sát nhằm giảm

81

thiểu các sai sót sự cố y khoa liên quan tới việc nhầm lẫn người bệnh; bàn giao thông

tin không đầy đủ giữa các NVYT; sai sót trong dùng thuốc; sự cố phẫu thuật, thủ

thuật; nhiễm khuẩn bệnh viện; sự cố ngã và tai nạn thương tích trong bệnh viện; sự

cố liên quan trang thiết bị y tế. Việc thanh tra, kiểm tra cần phải thực hiện liên tục,

thường xuyên nhằm phát hiện và kịp thời điều chỉnh những sai sót, lỗ hổng trong hoạt

động khám, chữa bệnh tại các bệnh viện.

Ngoài việc thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại bệnh viện, cơ quan quản lý cần tham

khảo ý kiến từ bệnh nhân, đẩy mạnh công tác khảo sát hài lòng người bệnh theo Quyết

định 3869/QĐ-BYT. Đây là kênh thông tin hữu ích trong việc đánh giá chất lượng

dịch vụ. Ở các nước phát triển, hoạt động lấy ý kiến nhận xét từ người bệnh luôn được

thực hiện thường xuyên, liên tục; đây là cơ sở để các bệnh viện cải thiện dịch vụ

hướng tới sự hài lòng của người dân.

3.2.1.6. Các giải pháp khác

Tăng cường trao đổi thông tin giữa NVYT với BN, gia đình BN để họ có thể

hiểu được mức độ rủi ro, tai biến trong y khoa để có sự cảm thông đối với thầy thuốc

khi có sự cố y khoa. Cán bộ y tế cần tư vấn, giải thích cặn kẽ cho bệnh nhân, người

nhà bệnh nhân từ lúc bắt đầu tiếp xúc cho đến khi kết thúc điều trị.

Xây dựng văn hóa “Bệnh nhân thông thái”, thiết lập các chương trình quốc gia

về truyền thông, giáo dục trang bị các kiến thức, kỹ năng cho người dân nhằm tự kiểm

soát được sức khỏe của bản thân và giám sát thực hành cơ bản của NVYT.

Xây dựng “hệ thống khó mắc lỗi” ngay trong khâu thiết kế, xây dựng bệnh viện

(áp dụng cho các BV xây mới). Đảm bảo các thiết kế theo tiêu chuẩn liên hoàn 1

chiều; an toàn an ninh, phòng chống tự tử, phòng chống cháy nổ, tiếp địa, chống sét,

phòng chống ngã; thông khí, thông gió, áp lực âm, áp lực dương, kiểm soát chất lượng

không khí; kiểm soát độ ồn, độ rung; đảm bảo chiếu sáng đủ, tận dụng ánh sáng tự

nhiên tối đa; kiểm soát chất lượng nước đầu vào và đảm bảo xử lý tốt chất thải lỏng

đầu ra; kiểm soát chất thải y tế khép kín…

Đầu tư nguồn lực thích hợp cho hoạt động an toàn đối với bệnh nhân tại cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh.

82

Cần có sự phối hợp giữa các ngành nghề trong lĩnh vực y tế và ngoài y tế, đặc

biệt là các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc cung cấp thông tin để tăng cường

nhận thức của cộng đồng và NVYT về an toàn người bệnh.

3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh

3.2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên y tế chủ động phòng tránh các

rủi ro pháp lý.

a) Công tác đào tạo trong nhà trường

Hiện nay công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành y tế trong các trường y

dược đang chỉ tập trung cho các môn chuyên môn. Khảo sát chương trình đào tạo bác

sĩ đa khoa của 8 trường đại học y lớn nhất Việt Nam (Hà Nội, Thái Nguyên, Hải

Phòng, Thái Bình, Huế, TP. Hồ Chính Minh, Cần Thơ, Học viện Y dược học cổ

truyền) và 4 khoa Y dược của các trường đại học (Quốc gia Hà Nội, Đà Nẵng, Duy

Tân, Phạm Ngọc Thạch) thì chỉ có 3/12 (25%) trường trong chương trình đào tạo bác

sĩ đa khoa có môn Pháp luật & Chính sách y tế (Hải Phòng), Pháp luật đại cương

(Thái Nguyên), Nhà nước-Pháp luật (Học viện Y dược học cổ truyền).

Điều này đặt ra một đòi hỏi cần thiết về việc yêu cầu bắt buộc đào tạo kiến thức,

hiểu biết pháp luật cơ bản trong chương trình đào tạo ngành y dược (bao gồm cả Y

đa khoa, răng hàm mặt, y học cổ truyền, y tế dự phòng, y tế công cộng, điều dưỡng,

hộ sinh, kỹ thuật viên, dược sĩ) có môn học về pháp luật chuyên ngành. Việc xây

dựng chương trình đào tạo pháp luật cho sinh viên trường y dược nhằm trang bị những

kiến thức cơ bản về pháp luật, tư duy và thế giới quan pháp lý, pháp luật về hành

nghề, các kỹ năng cần thiết giải quyết tranh chấp pháp lý thường gặp cho đội ngũ

NVYT tương lai.

b) Công tác phổ biến, tập huấn các văn bản pháp luật

Mặc dù hiện tại các cơ chế, chính sách về phổ biến pháp luật đã có, tuy nhiên

hoạt động này vẫn chưa thực sự được chú trọng, còn mang tính hình thức là chủ yếu.

Để hoạt động phổ biến pháp luật trở nên thiết thực thì cần phải có sự phối hợp đồng

bộ từ các cơ quan ban ngành, các trường học. Cần xác định việc phổ biến, tập huấn

83

các quy định pháp luật, các văn bản pháp lý phải được thực hiện ngay từ khi sinh viên

còn trên ghế nhà trường như nêu ở trên.

Tại các cơ sở y tế thì cần phải có các hoạt động, chương trình truyền thông

trực quan hơn thay vì cách đọc hiểu văn bản thuần túy như hiện nay, thậm chí là

một số nơi còn lồng ghép vào giao ban đầu giờ một cách rất hình thức. Để làm được

điều này cần có một hệ thống tài liệu chuẩn cập nhật liên tục, sử dụng chung trên

toàn quốc hoặc tỉnh. Giao cho Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe Trung

ương hoặc Khoa Truyền thông, giáo dục sức khỏe trực thuộc Trung tâm Kiểm soát

bệnh tật cấp tỉnh xây dựng dưới dạng phim ngắn (video), đồ họa thông tin

(infographics), sổ tay/cẩm nang bỏ túi, bài giảng trình chiếu (powerpoint)… Tổ

chức các cuộc thi, hội thi cấp tỉnh, ngành hoặc tạo các games đố vui giải trí có nội

dung câu hỏi về pháp luật…

Tăng cường truyền thông để thay đổi tư duy của NVYT về giá trị, lợi ích của

việc tự trang bị kiến thức pháp luật. Làm cho họ hiểu việc nắm rõ các quy định của

pháp luật chính là giúp tự trang bị công cụ để bảo vệ bản thân trước cá rủi ro pháp lý.

3.2.2.2. Xây dựng quy trình xử lý và giải quyết tranh chấp sự cố y khoa

Sự cố y khoa là điều khó tránh khỏi đối với hệ thống y tế ở bất kỳ quốc gia nào,

kể cả những quốc gia có nền y học tiên tiến. Do đó cần thiết phải có một quy trình xử

lý và giải quyết tranh chấp sự cố y khoa được ban hành, sau đó tổ chức tập huấn để

các bệnh viện thống nhất một cách thực hiện.

Người viết xin đề xuất quy trình như sau:

Lưu đồ 1. Quy trình xử lý và giải quyết tranh chấp sự cố y khoa

Trách nhiệm Các bước thưc hiện Mô tả

Ban lãnh đạo Tổ chức, củng cố và duy trì hoạt động của khoa, phòng có liên quan đến sự cố nhằm đảm bệnh viện Ổn định bảo hoạt động liên tục không bị gián đoạn, ngừng hoạt động sau khi xảy ra sự cố; không gây (BGĐ, Lãnh hoạt động hoang mang cho các NVYT khác. đạo khoa)

- Họp toàn bệnh viện, khoa/phòng/bộ phận xảy ra sự cố để chuyển tải thông tin chính thống

8 4

về sự cố đến toàn thể NVYT để tránh các dư luận không đúng, các tin đồn thất thiệt gây ảnh Giám đốc hưởng đến uy tín của cán bộ y tế và đơn vị có liên quan đến sự cố cũng như các thông tin Cung cấp thông hoặc người cá nhân của BN/gia đình BN. tin về sự cố phát ngôn - Cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác cho các cơ quan thông tin đại chúng, cho BN của BV và gia đình BN để phản ánh đúng về sự cố xảy ra, giảm thiểu tác hại đến uy tín của cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh.

Thành lập Hội đồng chuyên môn để xác định nguyên nhân sự cố y khoa theo Điều 74, 75 Thành lập Giám đốc của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009. Trong trường hợp vượt quá khả năng thì trình

bệnh viện Sở Y tế thành lập hoặc đề nghị Bộ Y tế thành lập Hội đồng chuyên môn để xác định nguyên Hội đồng chuyên môn

nhân sự cố y khoa.

Trách nhiệm Các bước thưc hiện Mô tả

Hội đồng Việc chọn phương án giải quyết các sự cố y khoa phụ thuộc chủ yếu vào kết luận của Hội

chuyên môn đồng chuyên môn được thành lập theo sau sự cố y khoa.

Kết luận của HĐCM

- Thành lập đoàn công tác chủ động gặp gỡ BN/gia đình BN xin lỗi chân thành, động viên,

8 5

an ủi, chia sẻ mất mát của gia đình BN; hỗ trợ chi phí điều trị/mai táng, giải quyết các khó

khăn trước mắt cho gia đình BN; giải thích các nội dung có liên quan đến nguyên nhân xảy

ra sự cố; Trường hợp: - Thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại cho BN/gia đình BN. Trường hợp BV đã mua bảo Lỗi do hệ Giám đốc hiểm trách nhiệm trong KBCB theo quy định tại Nghị định 102/2011/NĐ-CP thì việc đền thống, quy trình bện viện bù thiệt hại do Doanh nghiệp bảo hiểm chi trả theo hợp đồng được ký kết với BV. Trường khám bệnh, hợp BV chưa tham gia bảo hiểm trách nhiệm trong KBCB thì BV cần thương thuyết với

chữa bệnh

BN/gia đình BN về mức đền bù thiệt hại. không đảm bảo - BV cũng có thể đề nghị một tổ chức hòa giải/hòa giải viên đứng ra hòa giải với BN/gia đình

BN về việc bồi thường các thiệt hại. Đây là phương án dễ đạt được thỏa thuận với BN/gia

đình BN.

Trách nhiệm Các bước thưc hiện Mô tả

- Phương án giải quyết trong trường hợp này tùy thuộc vào hành vi vi phạm để có hình thức

xử lý phù hợp, như: Phê bình, nhắc nhở chấn chỉnh nhằm rút kinh nghiệm; xử lý kỷ luật;

thu hồi chứng chỉ hành nghề; truy cứu trách nhiệm hình sự...

- Trường hợp BV đã mua bảo hiểm trách nhiệm trong KBCB thì việc đền bù thiệt hại do

Doanh nghiệp bảo hiểm chi trả.

- Trường hợp BV chưa tham gia bảo hiểm trách nhiệm trong KBCB thì việc đền bù thiệt hại Trường hợp:

8 6

cho bệnh nhân, người nhà bệnh nhân trong tình huống này do NVYT gây ra sai sót chuyên Lỗi do sai Nhân viên môn chịu trách nhiệm. Tuy nhiên do Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc bồi sót chuyên Y tế thường thiệt hại do người của Pháp nhân gây ra thì “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do môn của

người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân NVYT

đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn

trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”; do đó BV phải chi trả bồi thường cho

BN/gia đình BN trước, sau đó yêu cầu NVYT hoàn trả theo quy định của pháp luật.

- Mặt khác, trong tình huống này BV cần có những hỗ trợ cho NVYT về mặt vật chất, động

viên tinh thần để họ có thể “gượng dậy” sau sự cố và có thể tiếp tục hành nghề.

Trách nhiệm Các bước thưc hiện Mô tả

- Phương án xử lý trong trường hợp này là khó khăn nhất, khó đạt được thỏa thuận giữa các

bên. Phương án giải quyết chủ yếu là thương thuyết giữa BV với BN/gia đình BN nhằm

Trường hợp:

đảm bảo hài hòa giữa những mất mát của BN/gia đình BN với lợi ích, uy tín của BV, tránh Không có sai Bệnh viện khiếu kiện kéo dài. sót trong - Trường hợp BV hoặc NVYT không thể đạt được thỏa thuận với BN/gia đình BN về nội chuyên môn dung khiếu kiện, bồi thường thiệt hại cho BN/gia đình BN thì phương án cuối cùng là yêu

8 7

cầu tòa án dân sự giải quyết nội dung khiếu kiện.

Quản lý Lưu hồ sơ vụ việc tại kho hồ sơ bệnh án cùng thời hạn với hồ sơ bệnh án của BN. Lưu tại

chất lượng, tủ riêng biệt có 2 lớp cửa được khóa chắc chắn; phòng Quản lý chất lượng và Kế hoạch tổng Lưu hồ sơ Kế hoạch hợp mỗi phòng giữ một chìa khóa; khi cần lấy hồ sơ vụ việc ra khỏi tủ phải được sự đồng ý

tổng hợp của Giám đốc BV và có mặt của đại diện 2 phòng.

88

3.2.2.3. Triển khai bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc trong khám bệnh, chữa

bệnh

Việc triển khai bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh bắt buộc sẽ

giúp bảo vệ NVYT, bảo vệ cơ sở y tế. Khi SCYK xảy ra, cơ quan bảo hiểm sẽ đóng

vai trò trung gian giải quyết bồi thường cho người bệnh và sẽ có tác động làm tăng

niềm tin của người bệnh và gia đình người bệnh về tính minh bạch trong SCYK, khả

năng đền bù khi có SCYK xảy ra, từ đó sẽ giảm bớt tình trạng gây căng thẳng cho

thầy thuốc và cơ sở y tế.

Trên cơ sở Điều 78 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và Nghị định số

102/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 của Chính phủ về bảo hiểm trách nhiệm trong

khám bệnh, chữa bệnh. Người viết thiết nghĩ hiện Bộ Y tế đang chủ trì biên soạn Luật

Khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi cần xem xét luật hóa bắt buộc việc tham gia bảo hiểm

trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh (bệnh viện), chữa

bệnh và người hành nghề (NVYT).

3.3. Một số kiến nghị tới cơ quan quản lý nhà nước về y tế

3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến SCYK trong hoạt

động khám bệnh, chữa bệnh

Hiện nay, bức tranh về sự cố y khoa không đầy đủ do hệ thống báo cáo bắt buộc

sự cố y khoa mới được hình thành từ 01/03/2019. Những thông tin trên các phương

tiện truyền thông mới chỉ là phần nổi của tảng băng lớn. Ngành Y tế thiếu thông tin

để xác định quy mô và chiều hướng của các sự cố y khoa nên chưa có biện pháp khắc

phục và cải tiến hiệu quả. Cơ quan quản lý thường rơi vào tình trạng bị động chạy

theo báo chí. Theo kinh nghiệm của các nước, hệ thống báo cáo sự cố y khoa bao

gồm các thành tố sau:

Về cơ sở pháp lý: Bộ Y tế đang chủ trì soạn thảo dự thảo sửa đổi Luật Khám

bệnh, chữa bệnh do đó tác giả xin đề xuất:

- Cần nghiên cứu thống nhất lại thuật ngữ sử dụng; chọn thuật ngữ “sự cố y

khoa” hay “tai biến”? Từ cơ sở nghiên cứu tại luận văn này, tác giả xin kiến nghị lựa

89

chọn thuật ngữ “sự cố y khoa”, đồng thời kiến nghị giải thích thuật ngữ “tai biến” có

nội hàm hẹp hơn và là một phần trong “sự cố y khoa”.

- Đối với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 80 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009

thì “các bên tranh chấp có trách nhiệm tự hòa giải về nội dung tranh chấp”. Tác giả

kiến nghị điều chỉnh lại thành: các bên tranh chấp có quyền tự lựa chọn phương thức

giải quyết về nội dung tranh chấp. Điều này sẽ là cơ sở để các bên có thể đề nghị tòa

án công nhận thương lượng thành, phương thức được lựa chọn nhiều nhất trong thực

tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ SCYK.

- Bổ sung quy định về quy trình giải quyết sự cố y khoa, quy định pháp lý về

báo cáo và sử dụng thông tin về sự cố y khoa và các cơ chế tài chính của cơ quan bảo

hiểm từ chối hoặc cắt giảm chi trả cho các trường hợp liên quan tới sự cố y khoa.

Về phân tích nguyên nhân gốc: Thông tư số 19/2013/TT-BYT về hướng dẫn

quản lý chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh trong các bệnh viện đã quy định các bệnh

viện cần xây dựng quy trình đánh giá sai sót chuyên môn, sự cố y khoa để xác định

nguyên nhân gốc, nguyên nhân có tính hệ thống và nguyên nhân liên quan tới nhân

viên y tế; Thông tư 43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong các

cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cũng có quy định “Người đứng đầu cơ sở khám bệnh,

chữa bệnh chịu trách nhiệm thành lập nhóm chuyên gia dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo

cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực tiếp tiến hành phân tích nguyên nhân gốc và yếu tố

ảnh hưởng gây ra sự cố y khoa”. Việc xác định nguyên nhân gốc cần coi trọng các

yếu tố liên quan tới các cá nhân và các yếu tố hệ thống, khi cả yếu tố cá nhân (lỗi hoạt

động) và các yếu tố nguy cơ gián tiếp (lỗi hệ thống) được loại bỏ thì chắc chắn sẽ

giảm được sự cố y khoa. Song lại chưa có 1 cơ chế để tổng hợp, lựa chọn, thống kê

và phát hành thành thư viện “bài học” hoặc diễn đàn để các BV có thể chia sẻ, học

hỏi từ những SCYK của BV khác nhằm phòng tránh lặp lại hoặc gặp phải tại BV. Do

đó tác giả đề xuất cần luật hóa nguyên tắc này nhằm tạo ra một nền tảng dữ liệu lớn

nhằm phân tích, đánh giá và là cơ sở để xây dựng, điều chỉnh các chính sách tiếp theo

về SCYK tại nước ta.

90

Về cơ chế báo cáo: Kiến nghị áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động báo

cáo nhằm đáp ứng nhu cầu về tốc độ thông tin trong thời đại hiện nay. Bộ Y tế cần

xây dựng một phần mềm báo cáo sự cố y khoa dùng chung toàn quốc, phân quyền

theo các nhóm: (1) Người báo cáo với chế độ công cộng (puplic); (2) Các cơ sở khám

bệnh, chữa bệnh (bệnh viện) với chế độ cập nhật báo cáo, phân tích nguyên nhân gốc,

thống kê , tổng hợp, phân tích số liệu …; (3) Các cơ quan quản lý nhà nước về y tế

(SYT và BYT) với chế độ thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu. Hàng năm dựa trên

các chỉ số đánh giá về văn hóa an toàn để làm cơ sở tổng kết về chất lượng dịch vụ y

tế, tình hình, các biện pháp đã thực hiện và thi đua, khen thưởng. Tạo ra “thư viện bài

học” để cả các bệnh viện và bệnh nhân đều có thể tiếp cận để NVYT rút kinh nghiệm

từ các đồng nghiệp mà phòng trách SCYK sảy ra; để BN, gia đình BN và XH hiểu rõ

hơn các nguyên nhân gốc gây ra SCYK và cảm thông, chia sẻ hơn với ngành y tế.

Từng bước minh bạch thông tin về sự cố y khoa: Việc được thông tin về các

sự cố y khoa là quyền của người bệnh đã được đề cập trong Luật Khám bệnh, chữa

bệnh năm 2009. Minh bạch thông tin về sự cố y khoa thể hiện sự tôn trọng của các

hệ thống y tế đối với người bệnh và thể hiện trách nhiệm của các cấp của hệ thống

y tế khi sự cố xảy ra. Song trong lần soạn thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi

này cần làm rõ hơn về trách nhiệm thực thi quy định này, chế tài xử lý nếu không

thực hiện.

Kinh nghiệm một số nước tiên phong, việc công khai minh bạch thông tin về sự

cố y khoa làm giảm áp lực của cộng đồng cho ngành y tế và ngành y tế nhận được sự

thông cảm, chia sẻ của người bệnh và cộng đồng về tính chất phức tạp, đa dạng của

sự cố y khoa.

3.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh

chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện

3.3.2.1. Đối với phương pháp thương lượng

Mặc dù thực tiễn lựa chọn tại Quảng Ninh cũng như hiệu quả của phương pháp

thương lượng trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong SCYK là rất tốt, song người

viết nhận thấy vẫn còn một số vấn đề cần hoàn thiện như sau:

91

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách

Tư pháp đã chỉ rõ “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương

lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết

đó”. Tuy nhiên Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mới chỉ bổ sung một chương mới

về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”, điều này chưa thực sự

đã triển khai toàn vẹn ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 49-NQ/TW.

Thực tiễn hiện nay chứng minh cần một cơ chế đảm bảo thực thi cho các thỏa thuận

thương lượng thành để tránh việc sau khi thương lượng xong mà 1 bên lại thay đổi ý

chí sẽ khiến các bên phải lựa chọn phương pháp giải quyết khác; điều này sẽ tạo ra

các xung đột mới phát sinh cho các bên và đồng thời lãng phí công sức, thời gian, chi

phí của các bên.

3.3.2.2. Đối với phương pháp hòa giải

Thứ nhất, Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 quy định “các bên tranh chấp có

trách nhiệm tự hòa giải về nội dung tranh chấp” (điểm a khoản 2 Điều 80). Tuy nhiên

ngoài quy định rất chung nêu trên thì chưa có một cơ chế chính thức nào cho hoạt

động này. Mặt khác ở Việt Nam, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ về hoà

giải thương mại chỉ áp dụng cho tranh chấp thương mại. Theo đó, để được các hoà

giải viên hay tổ chức hoà giải giải quyết vụ việc thì tranh chấp phải là tranh chấp phát

sinh trong hoạt động thương mại hoặc phải được pháp luật quy định về việc sử dụng

phương pháp này. Vì thế, những tranh chấp không thuộc lĩnh vực thương mại, cũng

không được luật chuyên ngành quy định thì sẽ không thuộc phạm vi áp dụng và thẩm

quyền giải quyết tranh chấp bởi hoà giải viên thương mại theo Nghị định này. Kết

quả là, việc thực hiện nghề nghiệp của hoà giải viên, tổ chức hoà giải sẽ bị giới hạn

phạm vi lĩnh vực giải quyết tranh chấp một cách không cần thiết. Trong đó, một số

hoạt động hoà giải như trong lĩnh vực dân sự (cụ thể là tranh chấp trong SCYK) lại

thiếu cơ chế dịch vụ hoà giải được quy định bởi pháp luật.

Do đó, trong tương lai, Việt Nam cần nghiên cứu việc ban hành một văn bản

Luật về hoà giải. Luật Hoà giải mới sẽ là văn bản pháp lý quy định cơ sở pháp lý

cho chủ thể hoà giải, xác định quy trình hoà giải tiêu chuẩn và các vấn đề liên quan

đến phạm vi nghề nghiệp của hoạt động dịch vụ hoà giải trong xã hội như dịch vụ

92

khám bệnh, chữa bệnh.... Luật cũng nên giải thích rõ về nội hàm của thuật ngữ “hoà

giải”, nên được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả trung gian và hoà giải hay bất cứ

sự trợ giúp của bên thứ ba là hoà giải viên để giúp các bên giải quyết được tranh

chấp của mình.

Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Hòa ở giải cơ sở, vì thế Luật Hòa giải

mới nên tồn tại song song hay hợp nhất với Luật Hòa giải ở cơ sở. Về vấn đề này tác

giả cho rằng hai luật này cần hợp nhất để tránh làm phức tạp hóa hệ thống pháp luật.

Thứ hai, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có quy định “Tổ chức, cá

nhân có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được thành lập tổ chức hòa giải

để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng

hóa, dịch vụ” (Điều 35).

Tại Pháp, mô hình Ủy ban hòa giải và bồi thường khu vực hỗ trợ hoặc hướng

dẫn bắt buộc cho bệnh nhân/gia đình bệnh nhân khi có tranh chấp liên quan đến

SCYK, đây là một mô hình hay để Việt Nam có thể học tập. Hệ thống pháp luật của

Việt Nam và Pháp là khá tương đồng nên việc học tập mô hình này của Pháp sẽ thuận

lợi hơn các mô hình tại Mỹ và Anh.

Căn cứ trên quy định của điều Điều 35 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

2010, tại Quảng Ninh có thể thành lập một Trung tâm hòa giải và bồi thường y tế để

triển khai mô hình của Pháp, song vẫn cần 1 chính sách quốc gia để đảm bảo trên

toàn quốc đều được phủ ít nhất mỗi tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương có một

Trung tâm hòa giải và bồi thường y tế hoạt động độc lập, khách quan.

3.3.2.3. Đối với phương pháp tòa án

Thứ nhất, đối với các vụ án tranh chấp phát sinh do SCYK không kèm theo tính

chất hình sự mà chỉ có tranh chấp về dân sự thì cần một cơ chế để áp dụng trình tự xét

xử theo thủ tục rút gọn. Thực tiễn thời gian qua đã chỉ ra rằng, theo đuổi các vụ kiện

tại tòa án của bệnh nhân, gia đình bệnh nhân thường kéo dài trong tình cảnh nguyên

đơn (bệnh nhân, gia đình bệnh nhân) thường đã bị chịu một hậu quả nặng nề từ SCYK

và bị đơn (bệnh viện, nhân viên y tế) bị áp lực về tâm lý, tinh thần khiến cho các tranh

chấp trở thành “nỗi đau kép”. Khoản 3 Điều 316 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy

93

định “Trường hợp luật khác có quy định tranh chấp dân sự được giải quyết theo thủ

tục rút gọn thì việc giải quyết tranh chấp đó được thực hiện theo thủ tục quy định tại

Phần này”. Hiện nay Bộ Y tế đang chủ trì soạn thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh sửa

đổi, do đó tác giả nhận thấy cần luật hóa quy định này vào dự thảo luật mới.

Thứ hai, cần có quy định chi tiết làm rõ khoản 2 Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2015 về các trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong

mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí

mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự và quy định tại khoản

1 Điều 8 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 về quyền được tôn trọng bí mật riêng

tư các thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án để

được áp dụng xét xử kín trong tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa.

94

KẾ T LUẬN

Trong những năm qua, sự cố y khoa đã đang là vấn đề nóng được cả xã hội quan

tâm. Sự cố y khoa là điều tất cả mọi người không mong muốn xảy ra, vì nó có thể để

lại những hậu quả hết sức nặng nề đối với cả bệnh nhân và các bệnh viện. Trong phạm

vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn đã khái quát các vấn đề chung về sự cố y khoa và

giải quyết tranh chấp sự cố y khoa. Tác giải đã phân tích rõ khái niệm, đặc điểm,

nguyên nhân gây ra sự cố y khoa và trách nhiệm của các bên. Hiện nay có 3 phương

pháp thường được sử dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại

các bệnh viện, đó là: Thương lượng, hòa giải, và tòa án.

Trên cơ sở hệ thống lại các lý luận, Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực trạng

sự cố y khoa tại các bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, cả về số lượng và mức độ nghiêm

trọng của sự cố. Từ đó tác giả cũng đã phân tích cách thức giải quyết tranh chấp phát

sinh trong sự cố y khoa tại một số bệnh viện trên địa bàn. Thực tế cho thấy, hầu hết

các tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa đều được giải quyết bằng phương pháp

thương lượng, một số ít tranh chấp sử dụng phương pháp hòa giải và tòa án. Tác giả

cũng đã đi sâu tìm hiểu những thành công, hạn chế, phân tích nguyên nhân của hạn

chế trong việc giải quyết tranh chấp sự cố y khoa tại các bệnh viện ở tỉnh Quảng Ninh.

Từ thực trạng nêu trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm

nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa tại các bệnh viện

ở tỉnh Quảng Ninh. Đối với các bệnh viện, trước hết cần phải hạn chế tối đa việc phát

sinh sự cố y khoa bằng cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện môi trường

làm việc cho các NVYT, công khai thông tin về SCYK, tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra giám sát chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh... Ngoài ra, để giải

quyết tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa có hiệu quả, các bệnh viện cần xây

dựng quy trình xử lý tranh chấp, thực hiện chế độ bảo hiểm nghề nghiệp và nâng cao

hiểu biết của các NVYT về quy định pháp luật. Về phía cơ quan quản lý nhà nước

cần phải nghiên cứu sửa đổi một số quy định còn bất cập về sự cố y khoa trong hoạt

động khám bệnh, chữa bệnh; cần làm rõ hơn nội dung các quy định về phương pháp

giải quyết các tranh chấp phát sinh trong sự cố y khoa.

95

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ ngành Luật Kinh tế, giới hạn về thời

gian và năng lực của tác giả nên luận văn mới chỉ tập trung vào ba nội dung chính,

trong đó đi sâu vào phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp sự cố y khoa tại các

bệnh viện ở tỉnh Quảng Ninh, để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả giải quyết tranh chấp. Vẫn còn một số vấn đề có sự bất cập về chính sách, quy

định pháp luật Việt Nam liên quan trách nhiệm của bệnh viện, trách nhiệm của các

đơn vị sản xuất và cung ứng thuốc, thiết bị y tế, vật tư y tế… trong việc xảy ra và giải

quyết tranh chấp sự cố y khoa... cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong các công

trình nghiên cứu sau này./.

96

DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢ O

Tài liệu tiếng Việt:

1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự, Hà

Nội năm 2015;

2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân

sự, Hà Nội năm 2015;

3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khám bệnh,

chữa bệnh, Hà Nội năm 2009;

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng, Hà Nội năm 2010;

5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khiếu nại, Hà

Nội năm 2011;

6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tố cáo, Hà Nội

năm 2018;

7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số

102/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 về bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa

bệnh, Hà Nội năm 2011;

8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

104/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 quy định về hoạt động tiêm chủng, Hà Nội

năm 2016;

9. Bộ Y tế, Thông tư 43/2018/TT-BYT ngày 26/12/2018 của hướng dẫn phòng

ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Hà Nội năm 2018;

10. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết 03/2006/NQ-

HĐTP ngày 08/07/2006 của ban hành về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định

của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội năm

2006;

11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết 03/2012/NQ-

HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn Quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định

chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ

luật tố tụng dân sự, Hà Nội năm 2012;

97

12. Nguyễn Thị Mỹ Linh, Khảo sát Sự cố y khoa không mong muốn của điều

dưỡng bệnh viện đa khoa khu vực Cai Lậy 2008 -2010, Tiền Giang năm 2010

13. Bộ Y tế, Báo cáo Kiểm soát nhiễm khuẩn Bộ Y tế và Bệnh viện Bạch Mai,

Hà Nội các năm 2005, 2008, 2012;

14. Bộ Y tế, Tài liệu đào tạo an toàn người bệnh, Hà Nội năm 2014;

15. Cục Quản lý khám chữa bệnh - Bộ Y tế, Phụ lục 2 - Báo cáo tóm tắt kết

quả đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2018, Công văn số 1200/KCB-

QLCL&CĐT ngày 25/10/2019;

16. Lương Văn Toản, Sự cố y khoa không mong muốn và giải pháp hoàn

thiện quy trình kỹ thuật của điều dưỡng Bệnh viện Quân y 7B/Quân khu 7 năm

2015, Bệnh viện Quân y 7B/Quân khu 7 năm 2015;

17. Tống Anh Hào, Kỹ năng hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án, Bộ

tài liệu Hội nghị Tập huấn về quy trình, kỹ năng hòa giải, đối thoại trong giải quyết

tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

năm 2018.

18. Đinh Viết Nghĩa, Tổng quan về phòng ngừa sai sót, sự cố y khoa trong phẫu

thuật (An toàn phẫu thuật). Ban Quản lý chất lượng - Bệnh viện TƯ Quân đội 108

năm 2017;

Tài liệu tiếng nước ngoài:

19. Carol B. Liebman & Chris Stern Hyman, A Mediation Skills Model To

Manage Disclosure Of Errors And Adverse Events To Patients, Project HOPE: The

People-to-People Health Foundation, Inc. 7500 Old Georgetown Road, Suite 600,

Bethesda, Maryland 20814 – USA 2004;

20. David H. Sohn , JD, MD & B. Sonny Bal , MD, JD, MBA, Medical

Malpractice Reform: The Role of Alternative Dispute Resolution, University of

Toledo Medical Center, 3000 Arlington Avenue, Toledo, OH 43551 USA &

University of Missouri, Columbia, MO USA 2011;

21. Edward A. Dauer, LLB, MPH, Alternatives to litigation for health care

conflicts and claims: alternative dispute resolution in medicine, University of Denver

College of Law, 1900 Olive Street, Denver, CO 80220, USA 2002;

98

22. Food and Drug Administration (FDA), Manufacturer and User Facility

Device Experience Database, USA 1991, 1993, 1996;

23. Institute of Medicine, To ERR is human: Building a safer health system,

USA 1999;

24. J.T.Reason, J.Carthey and M.R.de Leval, Diagnosing “vulnerable system

syndrome”: an essential prerequisite to effective risk management, Research Gate

Journals 2001 (www.qualityhealthcare.com);

25. Levinson DR, Adverse Events in Hospitals: National Incidence Among

Medicare Beneficiaries, Department of health and Human Services, USA 2010;

26. Localio AR, Lawthers AG, Brennan TA, Laird NM, Hebert LE, Peterson

LM, Newhouse JP, Weiler PC and Hiatt HH, Relation between malpractice claims

and adverse events due to negligence, Results of the Harvard Medical Practice Study

III, Boston-Massachusetts-USA 1991;

27. Nieva.V.F. and Sorra.J, Safety Culture Assessment: A Tool for Improving

Patient Safety in Healthcare Organizations, Quality & Safety in Health Care, USA

2003;

28. Patrick Waterson, Patient Safety Culture: Theory, Methods and

Application, CRC Press is a member of the Taylor & Francis Group, an Informa

company 2017

29. Physician Insurers Association of America, PIAA Claim Trend Analysis: A

Comprehensive Analysis of Medical Malpractice Data Reported to the PIAA Data

Sharing Project, Physician Insurers Association of America 2002;

30. SJ Cox, T. C. (1991), The structure of employee attitude to safety: an

European example, Work and stress an International Journal of Work, Health &

Organisations Volume 5 – 1991 (Pages 93-106);

31. Solmaz Khodapanahandeh and Siti Naaishah Hambali, Efficiency of Using

“Alternative Dispute Resolution” Method in Medical Negligence Claims, AENSI

Journals 2014;

99

32. US Department of Health and Human Services, Confronting the New

Health Care Crisis: Improving Health Care Quality and Lowering Costs by Fixing

Our Medical Liability System, Washington, DC 2011;

33. WHO, 10 facts on patient safety, Hà Nội 2019;

34. WHO, Patient Safety curriculum guide. Multi-professional Edition,

Geneva, Thụy Sĩ 2011.

Tài liệu trực tuyến:

35. Báo Người lao động, Gian nan đòi bồi thường tai biến y khoa năm 2017, tại

địa chỉ: https://nld.com.vn/thoi-su/gian-nan-doi-boi-thuong-tai-bien-y-khoa-201712

112209 5289.htm, truy cập ngày 30/09/2019;

36. Bộ Tư pháp, cổng thông tin điện tử - mục Trọng tài, hòa giải thương mại,

tại địa chỉ: http://bttp.moj.gov.vn/qt/Pages/trong-tai-tm.aspx và http://bttp.moj.gov.

vn/Pages/hoa-giai-thuong-mai.aspx và http://bttp.moj.gov.vn/Pages/hoa-giai-vien.

aspx, truy cập ngày 20/09/2019;

37. Dossierfamilial, Résoudre un litige avec l'hôpital năm 2014, tại địa chỉ:

https://www.dossierfamilial.com/social-sante/soins-et-prevention/resoudre-un-litige

-av ec-lhopital-342623, truy cập ngày 19/09/2019;

38. Google, công cụ tìm kiếm trực tuyến, tại địa chỉ: http://www.google.com.

vn, truy cập lần cuối ngày 31/10/2019;

39. Greer TE. Alternative dispute resolution in medical liability cases. AAOS

Now 2009, tại địa chỉ: http://www.aaos.org/news/aaosnow/jul09/managing7.asp,

truy cập ngày 09/09/2019;

40. Nicola Slawson, NHS compensation payouts 'unsustainable', say health

leaders năm 2018, tại địa chỉ: https://www.theguardian.com/society/2018/feb/02/nhs-

compensation-payouts-unsustainable-say-health-leaders, truy cập ngày 30/08/2019;

41. Prachi Patel (2018), Relevance of Alternative Dispute Resolution in

Medical Malpractice, tại địa chỉ: https://www.academia.edu/33831046/Relevance_of

_Alternative_Dispute_Resolution_in_Medical_Malpractice, truy cập ngày 09/09/2019.