VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------
NGUYỄN ĐỨC THƯ
HỢP ĐỒNG GIA CÔNG TRONG THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
CÔNG TY MAX SUCCEED
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
NGUYỄN ĐỨC THƯ
HỢP ĐỒNG GIA CÔNG TRONG THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
CÔNG TY MAX SUCCEED
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH HẢI
Hà Nội, năm 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đôi khi một thương nhân nói
chung, doanh nghiệp nói riêng không tự mình thực hiện hết các công đoạn của
khâu sản xuất. Thông thường, chỉ thực hiện một số công đoạn then chốt và giao
lại cho một hoặc nhiều thương nhân khác thực hiện phần còn lại cho đến khi hoàn
thành sản phẩm. Đây là xu hướng chung của thế giới hiện nay.
Việt Nam được đánh giá là một xưởng gia công lớn của khu vực và trên thế
giới. Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017, trong năm 2016 cả nước có 1.740
doanh nghiệp thực hiện hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài, trong đó có
1.687 doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Giá trị
nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp của các doanh
nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài chiếm khoảng 12%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tổng tiền phí gia công các doanh nghiệp
nhận được trong năm 2016 là 8,6 tỷ USD. Hoạt động nhận gia công hàng hóa cho
nước ngoài đã có những đóng góp trong xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Cụ thể, trong năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sau gia công của các doanh
nghiệp thực hiện gia công hàng hóa cho đối tác nước ngoài chiếm hơn 18% (32,4
tỷ USD) tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời kim ngạch nhập khẩu
nguyên liệu từ các đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp này chiếm 11,5% (20,2
tỷ USD) tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, giá trị hàng hóa sau
gia công của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 6,7 tỷ USD chiếm 20,6% và nhập
khẩu nguyên liệu đạt 3,8 tỷ USD chiếm 19%; giá trị hàng hóa sau gia công của các
doanh nghiệp nhà nước đạt giá trị khiêm tốn khoảng 150 triệu USD, chiếm tỷ trọng
0,5% và nhập khẩu nguyên liệu đạt 99,6 triệu USD, chiếm 0,5% [10]. Điều này mang
lại cho nền kinh tế Việt Nam những tác động tích cực song cũng cho thấy hoạt động
gia công của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là làm thuê cho các đối tác
nước ngoài, bởi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hưởng phần phí (tiền công) từ việc
1
gia công lắp ráp, phần lớn nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp.
Trước khi tiến hành gia công đòi hỏi các bên phải giao kết hợp đồng, gọi là
HĐGC thương mại. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc tránh phát sinh tranh chấp
trong quá trình thực hiện. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, HĐGC
thương mại được quy định bởi BLDS, LTM và các văn bản hướng dẫn khác có
liên quan. Khi những quy định này đi vào thực tiễn, tất nhiên sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, bất cập làm cho hiệu quả thực hiện không được như mong muốn.
Ngoài ra, bản thân đang làm việc tại Công ty TNHH Max Succeed là Công
ty được chuyển đổi từ Công ty Quốc Tế Vĩ Hảo Việt Nam TNHH – doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam chuyên sản xuất và gia công
các loại sản phẩm may mặc như quần áo, nón, khăn choàng, gang tay, túi xách, ba
lô, áo yếm, áo yếm dùng trong thể thao, sản xuất, gia công thuê sản phẩm may
mặc,…Thời gian qua, việc thực hiện pháp luật HĐGC tại Công ty đã đạt được
hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Do đó,
việc nghiên cứu về HĐGC dưới góc độ pháp luật là rất cần thiết.
Xuất phát từ những điều kiện thực tiễn và lý luận đó, học viên quyết định chọn
đề tài “Hợp đồng gia công trong thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
Công ty Max Succeed” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình. Đồng thời, thông
qua đó giúp học viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật
của mình về lĩnh vực HĐGC thương mại trên thực tế. Từ đó, đề ra những giải pháp
nâng cao việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC trong thương
mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Theo sự tìm hiểu của học viên, hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu về
HĐGC thương mại dưới góc độ pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, tuy nhiên
có thể tìm thấy một số công trình nghiên cứu khác liên quan như:
- Quyển sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tập II phần
thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự do Hoàng Thế Liên (chủ biên) năm
2
2013, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Sách này đã tập trung bình luận các quy
định pháp luật về HĐGC trong dân sự. Đây là tài liệu tham khảo rất cần thiết để
tác giả đánh giá các quy định về HĐGC.
- Bài viết của tác giả Đồng Thái Quang (2014) về “Chế tài phạt vi phạm
hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005 - Một số vướng mắc về lý luận và thực
tiễn” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, tr.19-26. Bài viết đã nêu lên những
tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài phạt vi phạm, từ đó đề xuất giải pháp hoàn
thiện các quy định pháp luật đối với chế tài này. Tác giả đã kế thừa bài viết này để
đánh giá, phân tích các quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong HĐGC
thương mại, từ đó nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài phạt vi phạm,
từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện.
- Các quyển “Giáo trình Luật thương mại”, Tập I, Tập II do tác giả Nguyễn
Văn Tý (chủ biên) (2015), Nhà xuất bản Công an nhân dân đã làm rõ một số vấn
đề lý luận về hợp đồng thương mại, nội dung thực hiện pháp luật về hợp đồng
thương mại cũng như lược sử phát triển hình thành và phát triển của luật thương
mại. Tác giả đã sử dụng tài liệu này để phân tích lược sử hình thành và phát triển
pháp luật HĐGC trong thương mại.
- Luận án tiến sĩ “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại ở
Việt Nam hiện nay”, năm 2016 của tác giả Lê Thị Tuyết Hà tại Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam. Luận án tập trung nghiên cứu giải quyết nội dung quy định
của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại; từ đó
đưa ra các giải pháp về pháp luật và thực tiễn. Đây là tài liệu tham khảo rất cần
thiết để tác giả phân tích trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại gia công.
- Bài viết của tác giả Trần Thị Nhật Anh (2016) về “Hoàn thiện quy định
về chế tài bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại năm 2005” đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 5, tr.13-17. Bài viết đã nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật đối với chế tài này. Tác giả đã kế thừa bài viết này để đánh giá, phân
3
tích các quy định pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại HĐGC thương mại, từ
đó nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài này, từ đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện.
- Bài viết “Bình luận về HĐGC theo BLDS năm 2015” của tác giả Đào Xuân
Thủy trên Tạp chí Kinh tế đối ngoại năm 2017. Chủ yếu tập trung trình bày những
điểm mới về HĐGC trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005, qua đó đề
cập một số vấn đề còn tồn tại của quy định về HĐGC. Đây là tài liệu tham khảo
rất cần thiết để tác giả đánh giá các quy định về HĐGC.
Mỗi công trình nghiên cứu là mỗi cách nhìn khác nhau về hợp đồng, đây là
những tài liệu quý báu trong việc nghiên cứu đề tài Luận văn. Các công trình
nghiên cứu, đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp
luật về thực hiện pháp luật về hợp đồng thương mại nói chung, HĐGC nói riêng.
Tuy nhiên, chưa đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực tiễn, đặc biệt từ thực tiễn Công
ty TNHH Max Succeed.
Với luận văn này, học viên mong muốn làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về hợp đồng về HĐGC chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp
luật về HĐGC trong thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed. Từ
đó, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật
HĐGC trong thương mại hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu pháp luật về HĐGC thương mại từ thực
tiễn Công ty TNHH Max Succeed; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về HĐGC thương mại và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Hệ thống một cách khái quát các cơ sở lý luận về HĐGC thương mại như
khái niệm, đặc điểm, phân biệt giữa HĐGC trong thương mại và gia công trong
dân sự, lược sử hình thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC cũng như phân tích
4
các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại.
- Phân tích, so sánh các văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật về HĐGC
thương mại, cụ thể là làm rõ quy định về giao kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng;
các chế tài xử lý vi phạm và phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng.
- Tiến hành thống kê, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về HĐGC
thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed.
- Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về HĐGC thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng thực hiện
pháp luật về HĐGC trong thương mại. Qua đó, đề ra một số kiến nghị giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về thực hiện pháp luật Việt Nam về HĐGC
trong thương mại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu sau:
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu, phân tích các văn bản quy phạm
pháp luật chứa đựng quy định liên quan đến HĐGC thương mại như: BLDS, LTM,
Luật Trọng tài thương mại,…và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Ngoài ra,
tác giả còn sử dụng các công trình nghiên cứu những tác giả đi trước đã được công
bố liên quan đến HĐGC thương mại như: Giáo trình, Sách, Tạp chí, Luận
án,…Song song đó là sử dụng các công bố, thống kê liên quan đến thực tiễn thực
hiện pháp luật HĐGC từ Công ty TNHH Max Succeed.
- Phạm vi không gian: Thực tiễn tập trung chủ yếu tại Công ty TNHH Max
Succeed.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-
5
Lênin trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC thương mại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên sau:
- Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng trong Luận văn để làm
sáng tỏ cơ sở khoa học về HĐGC thương mại.
- Phương pháp tổng hợp, liệt kê được sử dụng trong Luận văn nhằm trình
bày nội hàm pháp luật về HĐGC thương mại.
- Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng trong Luận văn để làm sáng
tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC thương mại.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong Luận văn nhằm làm rõ tình
hình thực hiện pháp luật về HĐGC thương mại tại Công ty TNHH Max Succeed
nói riêng, Việt Nam nói chung.
- Luận văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp so sánh; phương pháp đánh giá, bình luận; phương pháp quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn hệ thống một cách khoa học các vấn đề lý luận về HĐGC thương
mại. Trong đó, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận mới như khái niệm, đặc điểm,
phân biệt giữa HĐGC trong thương mại và gia công trong dân sự, lược sử hình
thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại. Đồng thời, làm rõ cấu trúc pháp
luật của HĐGC thương mại qua các khía cạnh quy định về giao kết hợp đồng; thực
hiện hợp đồng; các chế tài xử lý vi phạm và phương thức giải quyết tranh chấp
hợp đồng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn đã phân tích được thực trạng trong quy định của pháp luật về
HĐGC thương mại hiện nay qua thực tiễn tại Công ty TNHH Max Succeed; từ đó
đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
6
giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các chủ thể như
Tòa án; Viện kiểm sát; Trọng tài, Hòa giải viên thương mại và đặc biệt là vận dụng
tại Công ty TNHH Max Succeed.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương cụ thể
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về HĐGC trong thương mại theo pháp
luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại và
thực tiễn tại công ty TNHH Max Succeed.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
7
HĐGC trong thương mại từ thực tiễn công ty TNHH Max Succeed.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG
TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của HĐGC trong thương mại
1.1.1. Khái niệm HĐGC trong thương mại
Hợp đồng là một dạng cụ thể của giao dịch dân sự nói chung. Giao dịch -
mối quan hệ “giữa người với người” - là mối liên hệ phổ biến trong xã hội loài
người và cũng là một trong các chế định pháp lý cổ điển, xuất hiện từ rất lâu đời
trong lịch sử khoa học pháp lý. Giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý quan
trọng để các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh
doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng [11, tr.5].
Theo lý thuyết về hợp đồng, thì hợp đồng là căn cứ phát sinh nghĩa vụ, hay
nói cụ thể hơn, hợp đồng trước hết là sự kiện pháp lý, là giao dịch nhằm tạo lập hệ
quả pháp lý. Với tư cách là sự kiện pháp lý, hợp đồng bao hàm hai yếu tố đó là sự
thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý (mục đích xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ). Hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự thỏa thuận
giữa hai hay nhiều bên, tức là khi có sự đồng thuận của các ý định hay sự thống
nhất ý chí giữa các chủ thể. Song sự thỏa thuận giữa các bên không nhằm mục
đích tạo lập hệ quả pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ thì cũng không có
hợp đồng nào được hình thành. Vậy, hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa
các bên nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của mình cho
từng loại hợp đồng cụ thể. Chẳng hạn, đối với việc giao kết hợp đồng thương mại
thì quyền và nghĩa vụ của các bên khi xác lập hợp đồng phải dựa trên sự thỏa thuận
nhưng vẫn đảm bảo rằng sự thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật về hợp đồng
thương mại và các pháp luật khác có liên quan.
Một hợp đồng thì nhất thiết phải có tên gọi. Khi hợp đồng được các bên gọi
8
bằng một tên nhất định và tên này được ghi nhận trong luật, thì toàn bộ chế định
pháp lý của hợp đồng đó được áp dụng để chi phối các mối quan hệ kết ước liên
quan mà không cần sự bày tỏ ý chí rành mạch của các bên.
LTM năm 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về HĐGC trong thương mại
nhưng có đưa ra khái niệm về gia công trong thương mại cũng như hình thức
HĐGC. Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia
công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để
thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên
đặt gia công để hưởng thù lao (Điều 178 LTM năm 2005). Đồng thời, HĐGC phải
được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương
(Điều 179 LTM năm 2005).
Từ những phân tích nêu trên, có thể khái niệm: HĐGC thương mại là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn
bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện công việc, tạo ra sản
phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả
tiền công.
1.1.2. Đặc điểm của HĐGC trong thương mại
Xuất phát từ khái niệm của HĐGC cho thấy, loại hợp đồng này có 05 (năm)
đặc điểm như sau:
Thứ nhất, về chủ thể.
Nói chung chủ thể trong hợp đồng là phải từ 02 chủ thể trở lên, tư cách chủ
thể phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi, có nghĩa chủ thể khi tham gia giao
kết hợp đồng là phải đáp ứng các quy định pháp luật của chủ thể đó.
HĐGC trong thương mại được xác lập giữa các chủ thể là thương nhân với
nhau hoặc giữa thương nhân với các chủ thể hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi chọn áp dụng LTM để điều chỉnh quan hệ HĐGC của các bên (Khoản 3 Điều
1 LTM năm 2005).
Như vậy, khi đề cập đến chủ thể của HĐGC phải có ít nhất một bên là
9
thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh (Khoản 1 Điều 6 LTM năm 2005).
Thứ hai, HĐGC thương mại là loại hợp đồng song vụ, mang tính đền bù.
Luật dân sự Việt Nam nói chung, LTM nói riêng từ trước tới nay tỏ ra đồng
nhất trong việc coi phân loại hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là phân loại
đầu tiên được nhắc tới trong các BLDS. Đó là các loại hợp đồng thông dụng theo
quan niệm của Luật La Mã (luật nghiêm chính), theo đó hợp đồng đơn vụ chỉ làm
phát sinh nghĩa vụ đối với một bên trong hợp đồng. Ngược lại, hợp đồng song vụ
làm phát sinh hiệu lực với cả các bên đối ước, tức là họ có quyền và nghĩa vụ đối
với nhau.
Theo BLDS năm 2015, hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có
nghĩa vụ đối với nhau. Đối với HĐGC trong thương mại, bên gia công có quyền
yêu cầu bên đặt gia công phải chuyển cho mình vật liệu đạt tiêu chuẩn về chất
lượng, chủng loại, tính đồng bộ và số lượng cùng vật mẫu, bản vẽ để chế tạo. Bên
gia công yêu cầu bên đặt gia công nhận tài sản mới do chính mình tạo ra và trả
tiền công như đã thỏa thuận. Chính vì vậy, đây là loại hợp đồng song vụ.
Ngoài ra, theo lý thuyết về hợp đồng, hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng
mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận
được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Đối với HĐGC trong thương mại, khoản
tiền mà bên thuê gia công phải trả cho bên gia công là khoản đền bù. Khoản đền
bù này là tiền công do các bên thỏa thuận trong HĐGC.
Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận rằng HĐGC thương mại là loại
hợp đồng song vụ, mang tính đền bù.
Thứ ba, bản chất của HĐGC thương mại tuy có nét giống với hợp đồng
cung ứng dịch vụ nhưng vẫn có những điểm khác biệt.
Nếu xét về bản chất thì HĐGC tuy có một số nét giống hợp đồng dịch vụ
nhưng vẫn có những điểm khác về bản chất so với hợp đồng dịch vụ. Điểm giống
nhau cơ bản của hai loại hợp đồng này đều là loại hợp đồng song vụ, có đền bù.
Điểm khác nhau quan trọng để phân biệt hai loại hợp đồng này là kết quả của công
10
việc hay còn gọi là mục đích của hợp đồng.
Khi giao kết HĐGC sẽ gắn liền với mục đích sinh lợi (mục đích lợi nhuận).
Cần lưu ý, mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh,
thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không
phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương
mại đó. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng
ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy,
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trong hợp đồng dịch vụ, kết quả của công việc sau khi thực hiện không thể
hiện dưới dạng hiện vật, hay nói cách khác là kết quả của công việc trong hợp
đồng dịch vụ không tạo ra các sản phẩm vật chất, mặc dù đó là những kết quả đạt
được từ công sức của người làm dịch vụ. Ví dụ: kết quả của chuyến đi du lịch
trong dịch vụ hướng dẫn du lịch,…Còn trong HĐGC, kết quả công việc được thực
hiện trong hợp đồng luôn thể hện dưới dạng các sản phẩm vật chất. Ví dụ: Những
bộ bàn ghế được đóng theo HĐGC đóng đồ gỗ hay các thiết bị được lắp ráp trong
hợp đồng lắp ráp, chế tạo máy,…[18, tr.600].
Song song đó, trong hợp đồng dịch vụ, việc thực hiện công việc theo hợp
đồng dịch vụ chỉ phụ thuộc vào những yêu cầu và những thông tin cần thiết liên
quan đến công việc mà bên thuê dịch vụ cung cấp để bên cung ứng dịch vụ thực
hiện, bên thuê dịch vụ có thể cung cấp để bên cung ứng dịch vụ thực hiện, bên
thuê dịch vụ có thể cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ máy móc, thiết bị cần thiết
để thực hiện hợp đồng dịch vụ, nhưng không phải cung cấp nguyên vật liệu cho
bên cung ứng dịch vụ thực hiện hợp đồng; còn trong HĐGC chất lượng của sản
phẩm mà bên nhận gia công thực hiện phụ thuộc vào nguyên liệu, mẫu mã sản
phẩm mà bên đặt gia công cung cấp cho bên nhận gia công.
Việc phân biệt sự khác nhau giữa HĐGC và hợp đồng dịch vụ chủ yếu có
ý nghĩa trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hai loại hợp đồng
đó.
Thứ tư, đối tượng của HĐGC thương mại phải là vật được xác định theo
11
yêu cầu.
Đối tượng của HĐGC là vật được xác định trước theo mẫu, theo tiêu chuẩn
mà các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Về lý thuyết, vật rất đa dạng, nhưng không phải bất cứ vật nào cũng trở
thành đối tượng của bất kỳ quan hệ nghĩa vụ nào. Tùy thuộc vào tính chất, đặc
tính, vị trí, tính năng, công dụng của vật,…mà từng vật cụ thể chỉ có thể là đối
tượng của một hoặc một số quan hệ nghĩa vụ nhất định, Vì vậy, tùy vào từng loại vật
khác nhau mà cách thức thực hiện nghĩa vụ giao vật cũng khác nhau [12, tr.78].
Trong HĐGC thương mại, vật là một loại sản phẩm, hàng hóa do bên thuê
gia công đặt theo hợp đồng. Mẫu của vật này có thể do bên thuê gia công chỉ định
hoặc do bên gia công đưa ra và bên thuê gia công chấp nhận. Mẫu mà các bên sử
dụng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Như vậy, có thể thấy, đối tượng của HĐGC là vật chưa có thực khi hai bên
giao kết hợp đồng, mà vật đó chỉ được xác định trước theo mẫu, theo tiêu chuẩn
nhất định và bên gia công có nghĩa vụ phải tạo ra sản phẩm gia công theo đúng
mẫu mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Đối với đối tượng của
HĐGC, nếu pháp luật có quy định về tiêu chuẩn thì tiêu chuẩn đó thường liên quan
đến việc sản phẩm gia công phải đảm bảo các yếu tố về sức khỏe, tính mạng của
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường,…
Theo Điều 180 LTM năm 2005, hàng hóa gia công bao gồm tất cả các loại
hàng hóa đều có thể được gia công, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện cấm kinh
doanh. Trường hợp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở
nước ngoài thì hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Thứ năm, về hình thức hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài của các
bên giao kết hợp đồng. Thông qua cách biểu hiện này, có thể biết được nội dung
của giao dịch đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong
tố tụng. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, từ đó,
12
xác định trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. Tùy thuộc vào nội
dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau
mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định để giao kết hợp đồng phù hợp
với từng trường hợp cụ thể [2, tr.14].
Về nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn hình thức, hợp đồng có thể
được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, đối với HĐGC trong thương mại thì hợp đồng phải được lập thành văn
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 179 LTM năm
2005). Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định pháp luật (khoản 15 Điều
3 LTM năm 2005).
Như vậy, so với các loại hợp đồng thương mại khác thì hình thức HĐGC
mang tính chất đặc thù, bắt buộc lập thành văn bản.
1.2. Phân biệt HĐGC trong thương mại và HĐGC trong dân sự
Việc phân biệt HĐGC trong thương mại và HĐGC trong dân sự có ý nghĩa
rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp các bên có tranh chấp thì việc phân biệt
này dùng để xác định quan hệ tranh chấp dân sự hay thương mại. Tranh chấp hợp
đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26 và tranh chấp hợp đồng thương mại quy
định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015. Mặc dù đều là các tranh chấp về sự
thỏa thuận của các bên; trình tự, thủ tục tố tụng đều theo quy định của BLTTDS
năm 2015. Tuy nhiên, về căn cứ pháp luật để áp dụng giải quyết thì khác nhau:
Tranh chấp hợp đồng dân sự (HĐGC trong dân sự) căn cứ vào BLDS vá các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến dân sự; còn giải quyết các tranh
chấp hợp đồng thương mại (HĐGC trong thương mại) là theo quy định của LTM
và các văn bản quy phạm pháp luật khác về thương mại, trừ khoản 3 Điều 4 LTM
năm 2005, khoản 3 Điều 4 BLDS năm 2015, tức là hoạt động thương mại không
được quy định trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS.
Và trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi
phạm trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì quy định của BLDS
13
được áp dụng [14, tr.417].
Thứ nhất, chủ thể của HĐGC trong thương mại phải có ít nhất một bên là
thương nhân, còn chủ thể của HĐGC trong dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.
Với quy định hiện hành của BLDS năm 2015, chủ thể của quan hệ dân sự
là cá nhân hoặc pháp nhân còn chủ thể của HĐGC trong thương mại phải có ít
nhất một bên là thương nhân. Lý do có sự khác biệt này là vì, để thực hiện hoạt
động thương mại thì chủ thể HĐGC thương mại cần đáp ứng những yêu cầu nhất
định về vốn, về tư cách pháp lý, về một số yêu cầu điều kiện mang tính nghề
nghiệp để triển khai hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập trên thị trường.
Ảnh hưởng của hoạt động thương mại đối với nền kinh tế - xã hội cũng có sự khác
biệt so với các giao dịch dân sự. Do vậy, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động thương mại cũng có những điểm khác biệt. Một trong những yêu cầu thể
hiện sự quản lý của Nhà nước là quy định về điều kiện chủ thể tham gia hoạt động
thương mại nói chung, HĐGC nói riêng là tổ chức, cá nhân có hoạt động thương
mại phải đăng ký kinh doanh với tư cách thương nhân.
Thứ hai, HĐGC trong thương mại gắn liền với hoạt động mang tính nghề
nghiệp của thương nhân - hoạt động thương mại, vì vậy mục đích của HĐGC
thương mại chủ yếu gắn với mục đích sinh lợi, còn gia công trong dân sự mang
đậm tính chất dân sự.
Phân biệt này xuất phát và gắn liền với đặc điểm về chủ thể chủ yếu của
HĐGC trong thương mại là thương nhân. Theo lý thuyết và trong thực tiễn, thương
nhân sẽ thường xuyên thực hiện hoạt động thương mại với mục đích sinh lời. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, một bên của hợp đồng thương mại không có mục
đích sinh lời như hợp đồng được thiết lập giữa thương nhân và các tổ chức, cá
nhân có liên quan. Hoặc giữa các tổ chức, cá nhân với nhau đơn thuần là thực hiện
công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công
nhận sản phẩm và trả tiền công theo như HĐGC trong dân sự.
Thứ ba, HĐGC trong thương mại không đặt ra vấn đề cụ thể đơn phương
14
chấm dứt thực hiện hợp đồng như trong dân sự.
Theo quy định tại Điều 551 BLDS năm 2015, mỗi bên đều có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện HĐGC, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không
mang lại lợi ích cho mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác, nhưng phải báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý. Bên
đặt gia công đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì phải trả tiền công tương
ứng với công việc đã làm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên nhận gia công
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì không được trả tiền công, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mà gây
thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường. Còn trong hoạt động thương mại nói
chung, HĐGC nói riêng thông thường chỉ đặt ra 07 loại chế tài được liệt kê tại
Điều 292 LTM năm 2005, không đề cập đến vấn đề đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng.
Thứ tư, phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại sẽ không được
áp dụng khi xảy ra tranh chấp đối với HĐGC trong dân sự.
Khác với HĐGC trong thương mại, phương thức giải quyết bằng trọng tài
thương mại có thể được áp dụng nếu các bên có thỏa thuận và phải là một trong
ba dạng tranh chấp theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010
bao gồm (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh
chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại (iii)
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng
tài. Đối với HĐGC trong dân sự thì phương thức giải quyết này sẽ không được áp
dụng. Đây là điểm đặc thù phân biệt phương thức giải quyết giữa HĐGC trong
thương mại và trong dân sự.
1.3. Lược sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật Việt Nam
về HĐGC trong thương mại
Sự hình thành và phát triển quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC
trong thương mại gắn liền với sự hình thành và phát triển của LTM Việt Nam.
1.3.1. Giai đoạn trước ngày 01/01/2006
15
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam đã có các bộ luật như Bộ hình thư
(triều Lý), Bộ Quốc triều thống chế (triều Trần), Bộ Quốc triều hình luật (triều
Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ (triều Nguyễn), mặc dù nội dung nặng về hình sự nhưng
ngoài những quy định về luật hình sự, các bộ luật này còn chứa đựng một số chế
định của luật dân sự và một số ngành luật khác và các bộ luật này có thể được coi
như nguồn gốc của dân luật Việt Nam. Như vậy, các quy định của luật dân sự có
từ thời phong kiến, còn pháp luật về thương mại nói chung, HĐGC nói riêng hầu
như không được biết đến trong pháp luật Việt Nam thời phong kiến. Điều đó có
thể lý giải là vì nền thương mại Việt Nam lúc bấy giờ còn kém cỏi, chưa có gì phát
triển đáng kể [33, tr.15].
Đến thời kỳ Pháp thuộc, năm 1864 người Pháp đem Bộ LTM của mình áp
dụng vào Nam Kỳ và Bộ luật đó cũng được áp dụng vào Bắc Kỳ năm 1888. Bộ
LTM Pháp quy định về các vấn đề như thương gia và quyền hạn, nghĩa vụ của
thương gia; về các hội buôn; về thương phiếu; về luật hàng hải; về phá sản (khánh
tận) và về tòa án thương mại. Năm 1892, Pháp ban hành sắc lệnh quy định việc
hành nghề thương mại của người Á Đông ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại
các nhượng địa Pháp (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật Pháp. Theo tinh thần các văn bản trên, hoạt động thương mại của các
thương nhân trên lãnh thổ Việt Nam được điều chỉnh bằng pháp luật Pháp, trong
trường hợp những người này có vi phạm thì được xét xử ở các tòa án Pháp và theo
pháp luật của Pháp. Tuy nhiên, trong giai đoạn này hoạt động gia công thương mại
vẫn chưa được phát triển, chủ yếu là phát triển hoạt động mua bán hàng hóa.
Sau Cách mạng tháng Tám, trên cơ sở Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 và
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
trong những năm đầu cách mạng, pháp luật về thương mại vẫn còn hiệu lực trừ
những luật lệ trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể nhân
dân cộng hòa. Khi hòa bình lập lại (1954), đất nước bị chia cắt thành hai miền với
hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật về thương mại quan trọng, trong đó phải kể đến Bộ
16
LTM ban hành ngày 20/12/1972. Với sự ra đời của Bộ LTM, LTM Việt Nam cộng
hòa có một bước phát triển đáng kể với nội dung khá phong phú, đề cập nhiều vấn
đề của đời sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như định nghĩa và lịch
sử của LTM, về thương gia, khế ước thương mại,…Tuy nhiên, hoạt động gia công
trong thương mại vẫn chưa được điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng.
Năm 1989, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế đã ra đời, theo đó, hợp đồng kinh
tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực
hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy
định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch
của mình. Như vậy, trong văn bản này cũng chưa cụ thể hóa HĐGC trong thương
mại.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/CP
ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu hàng hóa
từng chuyến. Theo đó, căn cứ chỉ tiêu chung của Nhà nước về xuất, nhập khẩu,
Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất, nhập khẩu đối với những mặt hàng và nhóm
hàng gia công. Đồng thời, Bộ Thương mại – Tổng Cục hải quan đã ban hành
Thông tư liên bộ số 77-TM/TCHQ ngày 29 tháng 7 năm 1996 điều chỉnh và bổ
sung các quy định của liên Bộ thương mại – Tổng cục hải quan về việc thực hiện
Nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ. Theo đó, tất cả các HĐGC hàng
xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cho nước ngoài đều do Bộ Thương mại
phê duyệt. Riêng đối với các phụ kiện bổ sung của các HĐGC đã được Bộ Thương
mại phê duyệt không có nội dung về máy móc thiết bị và không sửa đổi nội dung
của các điều khoản thương mại, doanh nghiệp trực tiếp đến cơ quan Hải quan để
làm thủ tục xuất nhập khẩu. Đối với các phụ kiện bổ sung HĐGC có nội dung về
máy móc thiết bị và thay đổi nội dung, điều khoản thương mại của hợp đồng do
Bộ Thương mại phê duyệt. Việc gia công hàng xuất khẩu của các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài do Bộ Thương mại phê duyệt hợp đồng và phụ kiện của hợp
17
đồng.
Với mục tiêu LTM là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế
hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phát triển thị trường hàng hoá và
dịch vụ thương mại trên các vùng của đất nước; mở rộng giao lưu thương mại với
nước ngoài; góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi
ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương
nhân, góp phần tích luỹ nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nhanh và
bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, LTM năm 1997 đã ra đời và đã xác định gia
công trong thương mại là một trong 14 hành vi thương mại theo quy định của LTM
năm 1997. Theo đó, gia công trong thương mại là hành vi thương mại, theo đó bên
nhận gia công thực hiện việc gia công hàng hoá theo yêu cầu, bằng nguyên liệu,
vật liệu của bên đặt gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng
hoá đã gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho bên nhận
gia công. Đồng thời, LTM năm 1997 cũng đã quy định Nội dung gia công (Điều
129), Bên nhận gia công và bên đặt gia công (Điều 130), HĐGC (Điều 131), Gia
công với thương nhân nước ngoài (Điều 132), Điều kiện gia công với thương nhân
nước ngoài (Điều 133), Xuất khẩu, nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật
liệu và các mặt hàng được phép gia công (Điều 134), Chuyển giao công nghệ trong
gia công hàng hoá với thương nhân nước ngoài (Điều 135), Trách nhiệm về quyền
sở hữu công nghiệp đối với hàng hoá gia công (Điều 136), Kiểm tra, giám sát việc
gia công (Điều 137), Áp dụng pháp luật về thuế trong gia công với thương nhân
nước ngoài (Điều 138).
Sau đó, để hướng dẫn cho LTM năm 1997, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 1998 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành LTM về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán
hàng hóa với nước ngoài và Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm
18
2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng
7 năm 1998. Theo đó, đã xác định gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài
là việc thương nhân Việt Nam, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam nhận gia công hàng hóa tại Việt Nam cho thương nhân
nước ngoài hoặc đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài.
Ngoài ra, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) cũng đã ban hành Quyết
định 0971/2004/QĐ-BTM về ban hành danh mục tạm thời hàng hoá tạm nhập tái
xuất, chuyển khẩu, nhập khẩu để gia công theo giấy phép của Bộ Thương mại;
Quyết định 1318/2005/QĐ-BTM về việc bãi bỏ Quyết định số 0971/2004/QĐ-
BTM ngày 14 tháng 7 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại; tạm ngừng việc
tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu đồ gỗ thành phẩm và điều kiện nhập khẩu bán
thành phẩm đồ gỗ để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu.
1.3.2. Từ ngày 01/01/2006 cho đến nay
LTM năm 1997 khi được áp dụng đã có những tác động tích cực đến đời
sống kinh tế - xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại nói
chung, gia công trong thương mại nói riêng vào nền nếp, khuyến khích và phát
triển hoạt động thương mại hợp pháp, ngăn chặn và xử lý các hành vi bất hợp pháp
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, LTM năm 1997
đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải sửa đổi để chủ động hơn trong hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Do đó, việc thu hẹp sự không tương thích giữa
pháp LTM, trong đó có gia công thương mại của Việt Nam và pháp LTM quốc tế
là một ưu tiên hàng đầu. Từ đó LTM năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hũa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 thỏng 6 năm
2005. Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 10/2005/L/CTN
công bố ban hành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Đây
là cơ sở pháp lý rất quan trọng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến HĐGC
trong thương mại.
Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng
19
01 năm 2006 quy định chi tiết thi hành LTM về hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài.
Tiếp theo đó, Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2013
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành LTM về hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài cũng đã được ban hành thay thế Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng
01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành LTM về hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa
với nước ngoài.
Tiếp theo đó, Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương (gọi tắt là
69/2018/NĐ-CP) cũng đã được ban hành thay thế Nghị định số 187/2013/NĐ-CP
ngày 20 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành LTM về hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá
cảnh hàng hóa với nước ngoài.
Tất cả những văn bản pháp lý nêu trên là cơ sở quan trọng để việc áp dụng,
thực hiện các quy định pháp luật về HĐGC được thực hiện có hiệu quả, hiệu lực
trên thực tế.
1.4. Ý nghĩa của HĐGC trong thương mại
Ngày nay, gia công trong thương mại khá phổ biến trong các giao dịch trong
nước và ngoài nước của nhiều quốc gia. Đối với bên đặt gia công, phương thức
này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên phụ liệu và nhân công của nước nhận
gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn
việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ
mới về cho nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước
đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế mà có được một
nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,
20
Malaysia,…
1.4.1. Ý nghĩa đối với kinh tế quốc dân
HĐGC trong thương mại góp phần từng bước tham gia vào quá trình phân
công lao động, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh. Thông qua phương thức gia
công hàng hóa mà các nước kém phát triển với khả năng sản xuất hạn chế có cơ
hội tham gia vào phân công lao động quốc tế, khai thác được nguồn tài nguyên
đặc biệt là giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội. Đặc biệt gia công quốc tế
không những cho phép chuyên môn hoá với từng sản phẩm nhất định mà còn
chuyên môn hoá trong từng công đoạn, từng chi tiết sản phẩm từng bước thiết lập
nền công nghiệp hiện đại và quốc tế hoá, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao tay nghề người lao động và tạo
dựng đội ngũ quản lý có kiến thức và kinh nghiệm trong việc tham gia kinh doanh
trên thị trường quốc tế và quản lý nền công nghiệp hiện đại. Đồng thời, góp phần
tạo nguồn tích luỹ với khối lượng lớn, tiếp thu những công nghệ quản lý và công
nghệ sản xuất hiện đại thông qua chuyển giao công nghệ. Thông qua việc gia công
những mặt hàng có thế mạnh, có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng lợi thế
các nguồn lực trao đổi thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là yếu tố then
chốt trong chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đồng thời phát
triển các ngành công nghiệp sản xuất hay xuất khẩu có tính cạnh tranh ngày càng
cao hơn.
Hoạt động gia công là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta. Thông qua hoạt động gia công môi trường kinh tế được mở
rộng tính cạnh tranh ngày càng cao đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải có sự đổi
mới để thích nghi, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hoạt động gia công góp
phần hoàn thiện các cơ chế quản lý gia công của nhà nước và của từng điạ phương
phù hợp với yêu cầu chính đáng của doanh nghiệp tham gia kinh doanh gia công.
Đối với Việt Nam nhờ vận dụng được phương thức này đã khai thác được mặt lợi
thế rất lớn về lao động và đã thu hút được thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và giải quyết được
21
công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân. Nâng cao tay nghề và kiến thức cho
người lao động. Tiếp cận và học hỏi các kiểu quản lý mới, mở rộng thị trường tiêu
thụ, tăng cường các mối quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, góp phần thúc
đẩy nhanh công việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.4.2. Ý nghĩa đối với doanh nghiệp
Trong quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế các doanh nghiệp đặc biệt
là các doanh nghiệp gia công hàng hóa phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế thế
giới. Các cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp rất nhiều, nó là sự sống
còn của nhiều doanh nghiệp, nếu như doanh nghiệp thu, tìm được nhiều bạn hàng
thì sẽ nhận được nhiều hợp đồng, gia công được nhiều hàng hoá và sẽ thu được
nhiều ngoại tệ cho quốc gia cũng như cho chính doanh nghiệp để đầu tư phát triển.
Thông qua gia công, doanh nghiệp nhanh chóng tiếp thu được khoa học kỹ thuật,
từ đó có khả năng củng cố tổ chức sản xuất, nâng cao mẫu mã, chất lượng, uy thế
và địa vị của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Song song đó, cũng thông qua hoạt động gia công hàng hóa, các doanh
nghiệp gia công hàng hóa nhanh chóng hoàn thiện sản phẩm của mình, củng cố
đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên
trong sản xuất cũng như trong gia công cụ thể, mục đích để tạo lợi thế cạnh tranh
so với các đối thủ khác trên thị trường thế giới.
1.5. Nội dung pháp luật HĐGC thương mại
Nội dung pháp luật HĐGC thương mại chủ yếu bao gồm 04 nội dung sau
đây: giao kết HĐGC thương mại, thực hiện HĐGC thương mại, trách nhiệm pháp
lý do vi phạm HĐGC thương mại, phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐGC thương mại.
1.5.1. Giao kết HĐGC thương mại
Về lý thuyết, một HĐGC thương mại có thể được hình thành theo bất cứ
cách thức nào nhưng bắt buộc phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức
khác có giá trị tương đương văn bản. Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm
các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Trong quá trình giao kết HĐGC thương mại,
22
các vấn đề pháp lý cơ bản cần làm rõ đó là (i) Đề nghị giao kết hợp đồng; (ii) Chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng; (iii) Thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng.
Những vấn đề này không được LTM năm 2005 quy định cụ thể, vì vậy các quy
định của BLDS sẽ được áp dụng đối với việc giao kết HĐGC.
Giao kết HĐGC thương mại là một quá trình mà trong đó các bên bày tỏ ý
chí, nguyện vọng với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó
xác lập các quyền, nghĩa vụ bằng các thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo lý thuyết về hợp đồng, muốn có một hợp đồng phát sinh thì nhất thiết
phải có sự đề nghị giao kết hợp đồng từ một bên. Đồng thời, cũng cần có một bên
chấp nhận về lời đề nghị đó thì hợp đồng mới có thể được xác lập. Hợp đồng mang
bản chất là sự thỏa thuận, các bên thống nhất ý chí với nhau thông qua đề nghị
giao kết hợp đồng và chấp nhận lời đề nghị.
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ
thể. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối
với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
Điều kiện có hiệu lực là khả năng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ hợp
đồng giữa các bên giao kết. Đây là yếu tố rất quan trọng khi xem xét tính hợp pháp
của hợp đồng. Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất, pháp luật hiện hành quy định
hợp đồng nói chung và HĐGC thương mại nói riêng chỉ phát sinh hiệu lực khi đáp
ứng các điều kiện về mặt chủ thể, về mặt nội dung và hình thức hợp đồng.
1.5.2. Thực hiện HĐGC thương mại
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các
bên; hợp đồng có tính chất là “luật” giữa các bên. Các bên phải thực hiện các nghĩa
vụ đã thỏa thuận đúng hợp đồng.
Quyền công dân về mặt lý luận chính là khả năng mà Nhà nước cho phép
công dân được tự do lựa chọn hành động. Nghĩa vụ công dân là quy định pháp luật
buộc công dân phải hành động trong trường hợp nhất định vì lợi ích của toàn thể
Nhà nước và toàn xã hội, Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp, kể cả
23
biện pháp cưỡng chế. Như vậy, nếu như quyền thể hiện khả năng của mỗi công
dân được tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động
của mình một cách tự nguyện, tự giác thì nghĩa vụ lại thể hiện sự đòi hỏi đối với
mỗi công dân phải có thái độ và hành động nhất định nhằm thực hiện những đòi
hỏi, những yêu cầu được quy định trong các quy phạm pháp luật [32, tr.264].
LTM năm 2005 đã quy định quyền và nghĩa vụ của bên dặt gia công cũng
như quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công (Điều 181, Điều 182). Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng để các bên thực hiện HĐGC trong thương mại.
1.5.3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐGC thương mại
Trách nhiệm pháp lý được hiểu là sự bắt buộc chủ thể vi phạm pháp luật
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa
Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được pháp luật xác lập và điều chỉnh,
trong đó chủ thể vi phạm pháp luật bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế được
pháp luật quy định. Như vậy, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý bắt buộc phải áp
dụng các biện pháp cưỡng chế hay nói cách khác là chế tài.
Trong hoạt động thương mại nói chung, HĐGC nói riêng các tranh chấp
thông thường được phát sinh sau khi bên (hoặc các bên) bị vi phạm quyền và nghĩa
vụ đã áp dụng các biện pháp chế tài theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật mà không được bên vi phạm thực hiện.
Ngoài 06 chế tài được liệt kê tại Điều 292 LTM năm 2005 gồm (i) Buộc thực
hiện đúng hợp đồng; (ii) Phạt vi phạm; (iii) Buộc bồi thường thiệt hại; (iv) Tạm ngừng
thực hiện hợp đồng; (v) Đình chỉ thực hiện hợp đồng; (vi) Hủy bỏ hợp đồng; LTM năm
2005 còn cho phép các biện pháp chế tài khác nếu các biện pháp đó không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
1.5.4. Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐGC thương mại
Tranh chấp HĐGC thương mại đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng
một hoặc nhiều phương thức chọn lựa phù hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tranh chấp, vừa đảm bảo trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội,
24
giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần chủ động ngăn
ngừa các vi phạm hợp đồng khác có thể xảy ra trong tương lai. Do đó, Điều 317
LTM năm 2005 quy định các phương thức giải quyết tranh chấp áp dụng chung
trong lĩnh vực thương mại, trong đó có HĐGC gồm: thương lượng, hòa giải, trọng
tài và tòa án. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp có những ưu, nhược điểm
riêng.
Thương lượng nghĩa là các bên tranh chấp tự gặp nhau bàn bạc thỏa thuận
và không chịu bất kì ràng buộc của của nguyên tắc pháp lý hay quy định khuôn
mẫu nào cũng như kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các bên. Xuất phát từ những
phân tích nêu trên, ưu điểm của thương lượng là mang tính chất đơn giản, hiệu
quả, nhanh chóng, thuận tiện, ít tốn kém, đồng thời bảo vệ uy tín cho các bên tranh
chấp, bảo vệ bí mật kinh doanh; tuy nhiên, nhược điểm của phương thức này là
không được đảm bảo thi hành bởi cơ chế bắt buộc.
Đối với hòa giải có ưu điểm là có sự hiện diện của bên thứ ba làm trung
gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, đồng
thời cũng mang tính chất đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên, nhược
điểm là tốn kém chi phí dịch vụ cho người thứ ba.
Đối với trọng tài, ưu điểm của phương thức giải quyết bằng trọng tài thì
việc giải quyết tranh chấp được thực hiện theo trình tự, thủ tục và phán quyết trọng
tài được thi hành theo quy định của pháp luật; tuy nhiên, nhược điểm là thời gian giải
quyết có khi kéo dài, tốn kém chi phí cho chủ thể giải quyết tranh chấp.
Đối với Tòa án, ưu điểm của phương thức này là thực hiện theo trình tự,
thủ tục theo quy định cũng như bản án, quyết định của Tòa án sẽ được đảm bảo
thực hiện theo quy định về thi hành án, tuy nhiên, nhược điểm là thời gian giải
quyết có thể kéo dài.
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC trong
thương mại
1.6.1. Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước
Bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
25
khác nhau, trong đó bối cảnh khu vực và thế giới có những yếu tố thuận lợi và khó
khăn đan xen, diễn biến phức tạp, tác động đến phát triển kinh tế trong nước như:
Xu hướng kinh tế thế giới phục hồi và phát triển; liên kết và tự do hoá thương mại
vẫn là xu thế chủ đạo nhưng đan xen yếu tố bảo hộ; tác động mạnh mẽ của phát
triển khoa học và công nghệ đến các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội; cạnh tranh địa
chính trị, địa kinh tế đi đôi với căng thẳng thương mại giữa một số nền kinh tế lớn;
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy; biến động chính trị và xung
đột xảy ra nhiều nơi; diễn biến căng thẳng ở Biển Đông đe doạ hoà bình, ổn định
và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngoài ra, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế đã ảnh hưởng
không nhỏ tới phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Ảnh hưởng từ bên
ngoài gia tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao,
sức chống chịu còn hạn chế; tác động của biến đổi khí hậu ngày càng mạnh, các
loại dịch bệnh xảy ra,…cũng đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình phát
triển kinh tế - xã hội.
Trước tình hình kinh tế, xã hội của đất nước cũng ảnh hưởng đến thực hiện
pháp luật HĐGC trong thương mại. Đây chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan
trọng nhất ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật về HĐGC trong thương mại nói riêng. Theo lý thuyết về cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng mà sự ảnh hưởng của nền kinh tế và xã hội tới HĐGC
trong thương mại là hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi lẽ, trên thực tế, với sự phát triển
ngày càng tăng của nền kinh tế, thì các HĐGC trong thương mại ngày càng phát
triển. Điều này là cơ sở, là tiền đề để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về HĐGC trong
thương mại.
1.6.2. Việc gia nhập các tổ chức, hiệp định thương mại quốc tế
Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí, vai trò ngày càng quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế của toàn cầu nói chung, HĐGC nói riêng, đặc biệt khi Việt
Nam gia nhập WTO. Kéo theo đó, nhiều chính sách pháp luật của Nhà nước cũng
sẽ thay đổi để phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, điều này ảnh hưởng
26
không nhỏ đến thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại. Bên cạnh những cơ
hội như hoạt động gia công sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế, thị trường được mở
rộng, hàng hóa của Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng với các nước khác, chính
vì vậy hàng hóa gia công của Việt Nam sẽ tránh bị xử ép trong các vụ kiện bán
phá giá. Đồng thời, nguồn lao động Việt Nam có giá cạnh tranh hơn so với các
nước khác. Đồng thời, chính sách nguồn nguyên liệu vẫn phụ thuộc vào nước
ngoài, các doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn cung trong nước. Bên cạnh
đó, nguồn cung cấp phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu, chất lượng
không cao, số lượng nhỏ. Đồng thời, khi thị trường được mở rộng tình hình cạnh
tranh ngày càng gay gắt với các nước có ưu thế hơn về trình độ quản lý sản xuất,
công nghệ, vốn,…Ngoài ra, bởi vì không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu
nên các doanh nghiệp phải mua từ nước ngoài nên dễ dàng bị các doanh nghiệp
nước ngoài nâng giá, gây khó khăn cho quá trình sản xuất thực hiện hợp đồng.
Song song đó, các doanh nghiệp gia công sẽ đối mặt với các nguy cơ trong luật
pháp quốc tế là điều không tránh khỏi. Nếu các doanh nghiệp không am hiểu pháp
luật và thông lệ quốc tế sẽ gây ra những tổn thất lớn cho doanh nghiệp.
1.6.3. Ý thức pháp luật
Trong đời sống xã hội, không có yếu tố nào của quá trình điều chỉnh pháp
luật lại không có mối liên hệ hoặc thiếu đi sự ảnh hưởng, chi phối của ý thức pháp
luật, pháp luật về HĐGC cũng không ngoại lệ. Thực tế trong sự tồn tại, phát huy
vai trò của mỗi yếu tố với mức độ ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp đều có
dấu ấn của ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý
khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật (pháp luật đã qua,
pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải có) và sự đánh giả về mức độ công bằng,
bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp,…đối với các hành vi, lợi ích hoặc
quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lý và xã hội.
Pháp luật hoàn toàn không có khả năng tự tác động vào ý thức của con
27
người mà nó được chuyển hoá thông qua chính quá trình nhận thức của con người.
Như vậy, khi cá nhân con người có năng lực nhận thức, ý thức và sự hiểu biết pháp
luật tốt thì sự tác động của các quy định pháp luật lên ý thức của họ diễn ra theo
chiều hướng thuận lợi và khả năng đem lại hiệu quả cao. Ngược lại, đối với người
năng lực nhận thức và ý thức pháp luật thấp kém thì sự tác động của pháp luật về
28
HĐGC lại diễn ra hạn chế, kém hiệu quả.
Tiểu kết chương 1
Nhằm giải quyết các vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu, trong nội dung
chương 1, Luận văn đã hoàn thành:
Một là, hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ các vấn đề lý luận về
HĐGC thương mại như: khái niệm, đặc điểm, phân biệt giữa HĐGC trong thương
mại và gia công trong dân sự, lược sử hình thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC
trong thương mại. Góp phần làm phong phú thêm cơ sở khoa học nghiên cứu của
đối tượng này.
Hai là, làm rõ cấu trúc pháp luật của HĐGC thương mại qua các khía cạnh
quy định về giao kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; các chế tài xử lý vi phạm và
phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng. Đây là những nội dung quan trọng
mà Luận văn sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở chương 2.
Ba là, đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC
trong thương mại bao gồm tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, việc gia nhập
29
các tổ chức, hiệp định thương mại quốc tế và ý thức pháp luật.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HĐGC TRONG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC
TIỄN TẠI CÔNG TY TNHH MAX SUCCEED
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về HĐGC trong thương mại
2.1.1. Giao kết HĐGC trong thương mại
HĐGC trong thương mại có thể được giao kết bằng các phương thức trực
tiếp hoặc gián tiếp. Giao kết hợp đồng bằng phương thức trực tiếp: các bên tham
gia giao kết hợp đồng cử người đại diện để trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc,
thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký
tên vào văn bản hợp đồng. Giao kết hợp đồng bằng phương pháp gián tiếp: các
bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thảo luận mà thực hiện trao đổi qua các
tài liệu giao dịch như công văn, thư điện tử, đơn đặt hàng, đơn chào hàng,…có ghi
rõ nội dung cần giao dịch.
Trình tự giao kết hợp đồng bao gồm hai giai đoạn: Đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Những vấn đề này không được
LTM năm 2005 quy định chi tiết nên trong thực tiễn các quy định của BLDS năm
2015 được sử dụng cho giao kết HĐGC trong thương mại.
2.1.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Theo Điều 386 BLDS năm 2015: Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một
bên thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng. Trường hợp đề
nghị giao kết hợp đồng có nêu thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp
đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh.
Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình
bằng lời đề nghị giao kết hợp đồng với một chủ thể nào đó. Đề nghị đó phải là chủ
30
định đích thực, mong muốn xác lập quan hệ hợp đồng với mục đích phát sinh các
quyền và nghĩa vụ HĐGC trong thương mại. Vì vậy, một lời hứa hẹn mang tính
đạo lý không phải là đề nghị giao kết hợp đồng, không có ý nghĩa trong việc phải
xét sự tồn tại của hợp đồng. Đồng thời, đề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng để
người được đề nghị biết được ý muốn của người đề nghị. Trong đề nghị phải nêu
ra những nội dung cơ bản của hợp đồng để người được đề nghị có thể đồng ý ngay
hoặc tiếp tục đưa ra những yêu cầu của họ để các bên cùng thảo luận.
Pháp luật không quy định về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng nhưng
có thể dựa vào hình thức của hợp đồng để xác định hình thức của đề nghị giao kết
hợp đồng. Theo đó, đề nghị giao kết HĐGC trong thương mại có thể được lập
thành văn bản hoặc bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn
bản.
Ngoài ra, theo Điều 390 BLDS năm 2015 quy định: Bên đề nghị giao kết
hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên
được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi
thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2.1.1.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về
việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Như vậy, một lời chấp nhận đề nghị
có hiệu lực khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng chấp nhận toàn bộ nội dung
của hợp đồng mà không có sự sửa đổi, bổ sung đề nghị đó. Song song đó, sự im
lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng,
trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên
(Khoản 2 Điều 404 BLDS năm 2005; Điều 393 BLDS năm 2015).
Đề hình thành HĐGC trong thương mại, các chủ thể phải trải qua hai bước
là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị, trong đó, chấp nhận đề nghị là
bước quyết định sự hình thành của hợp đồng. Quy định về chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng giống như quy định của các nước khác trên thế giới. Nguyên tắc
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng xuất phát từ lý thuyết “hình ảnh qua gương”.
31
Tức là bên được đề nghị phải chấp nhận toàn bộ, tuyệt đối, vô điều kiện đối với
nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 395 BLDS năm 2015, trường hợp bên đề
nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị
giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với
nhân thân bên đề nghị.
2.1.1.3. Thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng
Về thời điểm giao kết HĐGC trong thương mại: Theo quy định tại Điều
400 BLDS năm 2015 thời điểm giao kết hợp đồng được xác định: (i) Hợp đồng
được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết; (ii) Trường
hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong
một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn
đó; (iii) Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí của các bên, vì vậy chỉ khi nào các bên
thống nhất được ý chí thì hợp đồng mới hình thành, thời điểm xác định sự thống
nhất ý chí của các bên đó chính là thời điểm giao kết hợp đồng. Vấn đề này có
nhiều học thuyết khác nhau.
Theo thuyết tuyên bố ý chí, hợp đồng được thiết lập kể từ khi người được
đề nghị tuyên bố ý chí chấp nhận đề nghị. Với học thuyết này, nếu đề nghị được
đưa ra với người vắng mặt thì người được đề nghị tuyên bố ý chí chấp nhận bằng
thư hay điện tín,…
Theo thuyết tiếp nhận, hợp đồng được thiết lập khi người đề nghị nhận được
sự trả lời của người được đề nghị. Và với quy định nêu trên, nhà làm luật đã sử
dụng học thuyết tiếp nhận để xác định thời điểm giao kết hợp đồng [18, tr.238].
Về hiệu lực của HĐGC trong thương mại: Theo quy định tại Điều 401
BLDS năm 2015, hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao
kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Từ
32
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận
của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Song song đó, theo quy định tại Điều 396 BLDS năm 2015, trường hợp bên
được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết, mất năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn
liền với nhân thân bên được đề nghị.
Khi HĐGC trong thương mại có hiệu lực sẽ có giá trị bắt buộc đối với các
bên giao kết hợp đồng phải thực hiện. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hợp đồng
với luật pháp, vì pháp luật có tầm hiệu lực bao quát áp dụng cho tất cả mọi người,
còn hợp đồng chỉ có hiệu lực đối với các bên giao kết, hiệu lực này được gọi là
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Tôn trọng lợi ích của các bên trong hợp đồng
không có nghĩa là làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác, của Nhà
nước cũng như lợi ích chung của xã hội.
Từ những phân tích về giao kết HĐGC thương mại có thể nhận thấy quy
định này có bất cập sau:
Dường như, quy định trong BLDS năm 2015 về đề nghị giao kết hợp đồng,
việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng nói chung, HĐGC nói riêng có giá trị hay
không, trong trường hợp các bên xảy ra những sự cố không mong muốn dành cho
cá nhân là chủ yếu. Cụ thể, theo quy định tại Điều 395, Điều 396 BLDS năm 2015
chỉ đề cập đến tính có giá trị của đề nghị cũng như chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng khi bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi. Đây là các trường hợp chỉ dành cho cá nhân mà không
quy định các trường hợp đối với pháp nhân nói chung, doanh nghiệp nói riêng khi
các chủ thể này cũng xảy ra những sự cố tương tự. Ví dụ, sau khi đề nghị giao kết
HĐGC doanh nghiệp bị hợp nhất, giải thể hoặc thậm chí là phá sản,…những sự
cố này cũng có thể xảy ra đối với bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 96 BLDS năm 2015 pháp nhân chấm dứt tồn tại
33
trong trường hợp sau đây: Hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi hình thức, giải thể
pháp nhân theo quy định tại các điều 88, 89, 90, 92 và 93 của BLDS năm 2015;
Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Riêng đối với trường
hợp tách pháp nhân thì pháp nhân đó vẫn còn tồn tại. Tương ứng với các hình thức
chấm dứt tồn tại của pháp nhân thì hậu quả pháp lý là khác nhau, việc BLDS năm
2015 không dự liệu các trường hợp xem xét tính có giá trị của đề nghị cũng như
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nói chung, HĐGC trong thương mại nói
riêng do pháp nhân thực hiện khi những chủ thể này chấm dứt tồn tại, tách pháp
nhân mà chỉ quy định đối với trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hàng vi dân
sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là chưa bao quát toàn diện,
gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.
2.1.2. Thực hiện HĐGC trong thương mại
2.1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công
Theo quy định của Điều 181 LTM năm 2005 quyền và nghĩa vụ của bên
đặt gia công bao gồm:
(i) Giao một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu gia công theo đúng
HĐGC hoặc giao tiền để mua vật liệu theo số lượng, chất lượng và mức giá thoả
thuận. Đây là nghĩa vụ quan trọng của bên đặt gia công. Nếu bên đặt gia công thực
hiện tốt nghĩa vụ này thì mới tạo được tiền đề để bên nhận gia công thực hiện
nghĩa vụ của mình, tạo ra các sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu về số lượng, chất
lượng sản phẩm, thời hạn giao sản phẩm,…mà hai bên đã thỏa thuận trong HĐGC.
(ii) Nhận lại toàn bộ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị cho thuê hoặc
cho mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, phế liệu sau khi thanh lý HĐGC, trừ
trường hợp có thoả thuận khác. Đây là quyền quan trọng nhất của bên đặt gia công.
Điều này trực tiếp liên quan đến nghĩa vụ của bên nhận gia công. Điểm đáng lưu
ý là trong HĐGC trong thương mại, quyền tiếp nhận sản phẩm của bên đặt gia
công, đồng thời đó cũng chính là nghĩa vụ của họ. Nếu bên đặt gia công không
thực hiện quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của mình trong việc tiếp nhận sản
34
phẩm gia công đúng theo phương thức, thời hạn, địa điểm đã thỏa thuận thì sẽ dẫn
đến những hậu quả pháp lý nhất định mà bên đặt gia công phải chịu như chậm tiếp
nhận sản phẩm,…
(iii) Bán, tiêu huỷ, tặng biếu tại chỗ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị
cho thuê hoặc cho mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu
theo thoả thuận và phù hợp với quy định của pháp luật. Đây là quyền của bên đặt
gia công, theo đó đối với sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị cho thuê hoặc cho
mượn, các nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu thì bên đặt gia
công có quyền bán, tiêu hủy, tặng tại chỗ.
Riêng đối với trường hợp gia công cho thương nhân nước ngoài thì bên đặt
gia công được xuất khẩu tại chỗ sản phẩm gia công; máy móc, thiết bị cho thuê
hoặc cho mượn; nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa; phế phẩm, phế liệu theo văn
bản thỏa thuận của các bên có liên quan, phù hợp với các quy định hiện hành về
quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và phải thực hiện nghĩa vụ thuế và các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (điểm e khoản 1 Điều 43 Nghị
định số 69/2018/NĐ-CP).
(iv) Cử người đại diện để kiểm tra, giám sát việc gia công tại nơi nhận gia
công, cử chuyên gia để hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và kiểm tra chất lượng sản
phẩm gia công theo thoả thuận trong HĐGC. Đối với quy định này, pháp luật
không phân định đây là quyền hay là nghĩa vụ của bên đặt gia công. Theo quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 43 Nghị định số 69/2018/NĐ-CP thì bên đặt gia công
cho thương nhân nước ngoài được cử chuyên gia đến Việt Nam để hướng dẫn kỹ
thuật sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm gia công theo thỏa thuận trong
HĐGC. Như vậy, kết hợp giữa quy định của LTM năm 2005 và văn bản hướng
dẫn thi hành thì quy định này là quyền của bên đặt gia công. Vì vậy, khi thực hiện
hợp đồng, bên đặt gia công có quyền thực hiện hoặc không và như đã phân tích
nêu trên HĐGC là loại hợp đồng song vụ, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất quyền
của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Do đó, nếu xét đây là quyền của bên đặt gia
công trong HĐGC thương mại thì cũng là nghĩa vụ của bên nhận gia công. Tuy
35
nhiên, nếu đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 59 BLDS năm 2005 về nghĩa
vụ của bên đặt gia công “Chỉ dẫn cho bên nhận gia công thực hiện hợp đồng”,
khoản 2 Điều 552 BLDS năm 2005 về quyền của bên nhận gia công “Từ chối sự
chỉ dẫn không hợp lý của bên đặt gia công, nếu thấy chỉ dẫn đó có thể làm giảm
chất lượng sản phẩm, nhưng phải báo ngay cho bên đặt gia công”. Tinh thần này
cũng được quy định tương tự theo khoản 2 Điều 544, khoản 2 Điều 547 BLDS
năm 2015. Như vậy, nếu căn cứ vào quy định của luật chung BLDS thì đây là
nghĩa vụ chứ không phải là quyền. Việc phân định không rõ ràng quyền và nghĩa
vụ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện hợp đồng nói chung, thực hiện nghĩa
vụ nói riêng, đặc biệt khi các bên không thỏa thuận điều khoản này trong hợp đồng
mà lại xảy ra tranh chấp thì việc xử lý gặp những khó khăn nhất định.
(v) Chịu trách nhiệm đối với tính hợp pháp về quyền sở hữu trí tuệ của
hàng hoá gia công, nguyên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị dùng để gia công
chuyển cho bên nhận gia công. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng (khoản 1 Điều 4
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, năm 2019). Đối với
hàng hoá gia công, nguyên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị dùng để gia công
chuyển cho bên nhận gia công chủ yếu sẽ liên quan đến quyền sử dụng nhãn hiệu
hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa. Đây là nghĩa vụ của bên đặt gia công để đảm
bảo rằng các hàng hóa nguyên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị dùng để gia công
chuyển cho bên nhận gia công không vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí
tuệ.
2.1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công
Theo quy định của Điều 182 LTM năm 2005 quyền và nghĩa vụ của bên
nhận gia công bao gồm:
(i) Cung ứng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu để gia công theo
thỏa thuận với bên đặt gia công về số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật và
giá. Việc cung ứng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu để gia công được
36
thực hiện dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, bởi lẽ, như đã phân tích nêu trên
nghĩa vụ của bên đặt gia công là đã giao một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật
liệu gia công theo đúng HĐGC, việc làm này có thể được chuyển giao cho bên
nhận gia công nếu các bên có thỏa thuận.
(ii) Nhận thù lao gia công và các chi phí hợp lý khác. Bên nhận gia công có
thể nhận thù lao bằng tiền hoặc bằng sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị dùng
để gia công. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 183 LTM năm 2005 trường
hợp gia công hàng hóa cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, nếu bên nhận gia công
nhận thù lao bằng sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị dùng để gia công thì phải
tuân thủ các quy định về nhập khẩu đối với sản phẩm, máy móc, thiết bị đó.
Cần lưu ý, đối với HĐGC trong thương mại, đây là loại hợp đồng liên quan
đến thanh toán một khoản tiền, được thực hiện trên cơ sở hợp đồng ngang giá, khi
thiết lập hợp đồng, thông thường các bên không thỏa thuận lãi, nhưng pháp luật
quy định khi một bên vi phạm nghĩa vụ, xảy ra tranh chấp và có yêu cầu Tòa án
giải quyết thì pháp luật quy định Tòa án áp dụng lãi suất mà pháp luật quy định để
giải quyết về lãi chậm trả do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán [21, tr.11]. Cụ
thể, đối với loại HĐGC nếu bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền thù lao
thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi
suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với
thời gian chậm trả theo Điều 306 LTM năm 2005. Nếu có tranh chấp, thì khi xác
định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam,...) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán
(thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác theo Điều 11 Nghị
37
quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi,
lãi suất, phạt vi phạm.
(iii) Trường hợp nhận gia công cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, bên nhận
gia công được xuất khẩu tại chỗ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị thuê hoặc
mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu theo ủy quyền của
bên đặt gia công. Về nguyên tắc, chỉ có bên đặt gia công mới được thực hiện các
công việc xuất khẩu tại chỗ sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị thuê hoặc mượn,
nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu vì suy cho cùng bên nhận
gia công chỉ thực hiện việc gia công cho bên đặt gia công còn quyền sở hữu đối
với sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị thuê hoặc mượn, nguyên liệu, phụ liệu,
vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu thuộc về bên đặt gia công, nếu các bên không
có thỏa thuận khác. Do đó, để tiến hành các công việc nêu trên pháp luật quy định
cần phải có sự ủy quyền của bên đặt gia công.
(iv) Trường hợp nhận gia công cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, bên nhận
gia công được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ
liệu, vật tư tạm nhập khẩu theo định mức để thực hiện HĐGC theo quy định của
pháp luật về thuế. Định mức sử dụng, tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu, phụ
liệu, vật tư do các bên thỏa thuận trong HĐGC, có tính đến các định mức, tỷ lệ
hao hụt được hình thành trong các ngành sản xuất, gia công có liên quan của Việt
Nam tại thời điểm ký hợp đồng. Người đại diện theo pháp luật của thương nhân
nhận gia công trực tiếp chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng nguyên
liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu vào đúng mục đích gia công và tính chính xác của
định mức sử dụng, tiêu hao và tỷ lệ hao hụt của nguyên phụ liệu gia công (Điều
40 Nghị định số 69/2018/NĐ-CP).
(v) Chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hoạt động gia công hàng hoá
trong trường hợp hàng hoá gia công thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu. Một vấn đề cần lưu ý, đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo
38
giấy phép, thương nhân chỉ được ký HĐGC cho thương nhân nước ngoài sau khi
được Bộ Công Thương cấp Giấy phép. Hồ sơ, quy trình cấp Giấy phép thực hiện
theo khoản 4 Điều 38 Nghị định số 69/2018/NĐ-CP.
Cần lưu ý thêm đối với HĐGC cho thương nhân nước ngoài phải được lập
thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương theo quy
định của LTM và phải tối thiểu bao gồm các điều khoản sau: Tên, địa chỉ của các
bên ký hợp đồng và bên gia công trực tiếp; Tên, số lượng sản phẩm gia công; Giá
gia công; Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán; Danh mục, số lượng,
trị giá nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu và nguyên liệu, phụ liệu, vật tư sản
xuất trong nước (nếu có) để gia công; định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật
tư; định mức vật tư tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu trong gia công; Danh mục
và trị giá máy móc, thiết bị cho thuê, cho mượn hoặc tặng cho để phục vụ gia công
(nếu có); Biện pháp xử lý phế liệu, phế thải, phế phẩm và nguyên tắc xử lý máy
móc, thiết bị thuê, mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa sau khi kết thúc
HĐGC; Địa điểm và thời gian giao hàng; Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ
hàng hóa; Thời hạn hiệu lực của hợp đồng (Điều 39 Nghị định số 69/2018/NĐ-
CP).
Từ những phân tích nêu trên dẫn đến bất cập đó là, quy định về thực hiện
HĐGC, cụ thể quy định về quyền, nghĩa vụ các bên trong HĐGC thương mại chưa
có sự tương thích giữa LTM với BLDS cũng như văn bản hướng dẫn thi hành
LTM về HĐGC. Sự không tương thích lớn nhất là LTM không phân định rõ ràng
quy định nào là quyền, quy định nào là nghĩa vụ như quy định về HĐGC trong
dân sự của BLDS năm 2005, sau này là BLDS năm 2015. Việc không phân định
sẽ dẫn đến cách nhận thức, áp dụng pháp luật khác nhau không chỉ giữa những
chủ thể tham gia thực hiện hợp đồng mà ngay cả chủ thể giải quyết tranh chấp,
nếu như các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, đối với quy định trường hợp nhận gia công cho tổ chức, cá nhân
nước ngoài, bên nhận gia công được xuất khẩu tại chỗ sản phẩm gia công, máy
móc, thiết bị thuê hoặc mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế
39
liệu theo ủy quyền của bên đặt gia công. Quy định về việc ủy quyền của bên đặt
gia công trong trường hợp này là không cần thiết, làm phát sinh thêm các thủ tục,
tốn kém thời gian giữa các bên, trong BLDS năm 2005 cũng như BLDS năm 2015
cũng không có quy định này.
Song song đó, theo quy định của LTM năm 2005, bên nhận gia công chỉ
chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hoạt động gia công hàng hoá trong trường
hợp hàng hoá gia công thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
mà không đề cập đến hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 38 Nghị định 69/2018/NĐ-CP thì “Thương nhân Việt
Nam được nhận gia công hàng hóa hợp pháp cho thương nhân nước ngoài, trừ
hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm
ngừng nhập khẩu”. Do đó, về nguyên tắc đối với các hàng hóa tạm ngừng xuất
khẩu, tạm ngừng nhập khẩu bên nhận gia công cũng phải chịu trách nhiệm về tính
hợp pháp của hoạt động gia công hàng hoá. Như vậy, đang có sự không tương
thích giữa LTM và văn bản hướng dẫn thi hành.
2.1.3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐGC trong thương mại
Thứ nhất, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Theo khoản 1 Điều 297 LTM năm 2005 nếu bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng với nghĩa vụ đã được thỏa thuận được ký kết trong hợp đồng như (giao
một sản phẩm gia công không đúng hợp đồng, không trả thù lao hoặc trả thù lao
chậm cho bên kia,…) thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực
hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp
đồng được thực hiện và bên có nghĩa vụ phải chịu các chi phí phát sinh. Chế tài
này, thông thường xảy ra khi một bên trong hợp đồng bị bên đối tác không thực
hiện đúng những thỏa thuận ghi trong hợp đồng hoặc không thực hiện đúng những
nghĩa vụ do luật định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đối với chế tài này các
bên không cần phải thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, khi một bên vi phạm hợp
đồng, bên bị vi phạm có quyền sử dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
(buộc thực hiện đúng những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc những gì pháp
40
luật quy định mà có thể áp dụng cho hợp đồng đó) trong thời hạn nhất định. LTM
năm 2005 không quy định thời hạn cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Do
đó, đối với hợp đồng không có xác định thời hạn thực hiện hợp đồng (ví dụ như
HĐGC giao sản phẩm một lần và thời gian giao được xác định chính xác ngày,
giờ cụ thể) bên bị vi phạm có quyền tự ấn định thời hạn để buộc bên kia phải thực
hiện đúng hợp đồng. Đối với hợp đồng có xác định thời hạn thực hiện hợp đồng
kéo dài (ví dụ, hai bên thỏa thuận giao sản phẩm trong vòng 7 ngày) thì việc buộc
thực hiện đúng hợp đồng không được yêu cầu bên nhận gia công giao trước thời
hạn đã thỏa thuận (ví dụ, việc buộc bên gia công giao đủ số lượng hàng gia công
trong vòng 6 ngày là không được, vì bên nhận gia công có đến 7 ngày để giao đủ
hàng theo thỏa thuận).
Ngoài ra, tính đến tình hình khó khăn hoặc mối quan hệ làm ăn lâu
dài,…bên bị vi phạm có thể gia hạn thêm một thời gian hợp lý để bên kia thực
hiện nghĩa vụ của hợp đồng theo yêu cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng của bên
bị vi phạm. Điều 298 LTM năm 2005 cũng không quy định rõ là thời gian gia hạn
này là bao lâu, tối đa là bao lâu, tối thiểu là bao lâu mà chỉ quy định “thời gian hợp
lý”. Do đó, bên bị vi phạm có quyền tự ấn định “thời gian hợp lý” này. Cũng cần
lưu ý rằng, việc gia hạn cho bên vi phạm một “thời gian hợp lý” này là quyền của
bên bị vi phạm, chứ không phải nghĩa vụ của bên bị vi phạm.
Thứ hai, chế tài phạt vi phạm.
Ngoài chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chủ thể có hành vi vi phạm
nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng còn có thể phải gánh chịu một khoản tiền phạt
gọi là phạt vi phạm.
Theo quy định của pháp luật, khi HĐGC được giao kết một cách hợp pháp
thì phải được các bên cam kết và thực hiện cam kết, tuy nhiên, thực tế rất phổ biến
là tình trạng vi phạm cam kết trong hợp đồng. Vì vậy, phạt vi phạm được xem là
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, là hình thức trách nhiệm do vi
phạm vừa mang tính trừng phạt, vừa mang tính đền bù [29, tr.19].
Theo Điều 300 LTM năm 2005 phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
41
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng
có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 294
LTM năm 2005. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, nhưng tổng mức phạt
không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy
định tại Điều 266 của LTM năm 2005.
Như vậy, điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm là phải có thỏa thuận giữa
các bên trong hợp đồng. Nói cách khác, nếu trong hợp đồng không có điều khoản
cho phép phạt vi phạm khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng thì chế tài phạt vi
phạm sẽ không được thực hiện, không phụ thuộc vào việc hành vi vi phạm đã gây
ra thiệt hại hay chưa.
Các bên giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận phạt vi phạm đối với hành vi
vi phạm bất kỳ điều khoản nào của hợp đồng hoặc chỉ thỏa thuận phạt vi phạm đối
với một số hành vi vi phạm nhất định được liệt kê cụ thể.
Tuy nhiên, khi có các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong
LTM năm 2005, thì chế tài phạt vi phạm sẽ không được áp dụng. Yếu tố lỗi của
bên vi phạm hợp đồng không được quy định trực tiếp làm điều kiện để áp dụng
chế tài này.
Thứ ba, chế tài bồi thường thiệt hại.
Khác với chế tài phạt vi phạm, chế tài yêu cầu bồi thường thiệt hại được áp
dụng ngay cả khi các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng về việc áp dụng
biện pháp chế tài này. Do đó, chế tài yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng có thể được
áp dụng khi đã và đang áp dụng các chế tài khác
Theo Điều 302 LTM năm 2005 bồi thường thiệt hại áp dụng khi có tổn thất
do vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm phải được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định
Điều 303 LTM năm 2005: Có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế;
42
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Tuy nhiên, thiệt hại thực tế (hay tổn thất) chỉ được bên vi phạm bồi thường
đầy đủ khi bên yêu cầu bồi thường đã và đang áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn
chế tổn thất, kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện
pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại
bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 304 LTM năm 2005 bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây
ra và những khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không
có hành vi vi phạm.
Thứ tư, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện HĐGC, các bên có thể gặp một vài khó khăn làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Do dó, ngoài những trường hợp luật định, trên cơ
sở nguyên tắc tự nguyện, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng về các trường hợp
tạm ngưng thực hiện hợp đồng trong một thời gian nhất định.
Theo Điều 308 LTM năm 2005: Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong
HĐGC là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Việc
một bên không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp
sau: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngưng
thực hiện hợp đồng; một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng. Khi hợp
đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên
kia biết về việc mình áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Trong trường
hợp không thông báo ngay làm cho bên kia bị thiệt hại do hành vi tạm ngừng của
mình thì bên ra quyết định tạm ngừng thực hiện hợp đồng phải có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho bên bị áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Ngược
43
lại, nếu đã thông báo, bên yêu cầu tạm ngưng thực hiện hợp đồng (bên bị vi phạm)
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, trong thời gian
hợp đồng bị tạm ngưng.
Về thời hạn tạm ngừng thực hiện hợp đồng, theo nguyên tắc tự do ý chí
trong hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng
trong một thời hạn cụ thể cho từng hành vi vi phạm đã được thỏa thuận.
Thứ năm, chế tài đình chỉ thực hiện HĐGC.
Theo quy định tại Điều 310, Điều 311 LTM năm 2005, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc
một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các
bên đã thoả thuận làm điều kiện để chấm dứt thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng
hoặc khi có một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
So với chế tài tạm ngưng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp
đồng cũng dựa trên một trong hai cơ sở pháp lý là: Có thỏa thuận trước các hành
vi vi phạm làm điểu kiện định chỉ hợp đồng hoặc khi có hành vi vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu chế tài tạm ngưng thực hiện hợp đồng chỉ áp
dụng một cách tạm thời và hợp đồng sẽ tiếp tục được thực hiện sau khi hết thời
hạn tạm ngừng, thì chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng sẽ làm kết thúc nghĩa vụ
của các bên. Do đó, các bên không phải tiếp tục thực hiện những nghĩa vụ trong
hợp đồng nữa. Nói cách khác, khi một hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng
đó chấm dứt từ thời điểm bên vi phạm nhận được thông báo đình chỉ. Trường hợp
này, bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện
nghĩa vụ đối ứng.
Tương tự như chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, bên đình chỉ thực hiện
hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc đình chỉ hợp đồng. Trong
trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường
thiệt hại. Ngược lại, nếu đã thông báo ngay cho bên kia biết về việc đình chỉ hợp
đồng, thì bên áp dụng chế tài đình chỉ còn có thêm quyền yêu cầu bên vi phạm bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu hành vi vi phạm đó đồng thời gây
44
thiệt hại thực tế.
Ngoài ra, nếu hành vi vi phạm đó được các bên thỏa thuận với nhau làm
điều kiện để áp dụng chế tài phạt vi phạm thì bên bị vi phạm cũng có quyền áp
dụng chế tài phạt vi phạm.
Thứ sáu, chế tài hủy bỏ HĐGC.
Theo Điều 312, Điều 314, Điều 315 LTM năm 2005, hủy bỏ hợp đồng là
biện pháp chế tài do một bên đơn phương yêu cầu hợp đồng không có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, khi bên kia có hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận làm
điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hoặc có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Như vậy, điều kiện áp dụng của chế tài hủy bỏ hợp đồng hoàn toàn giống
với điều kiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng và chế tài đình chỉ
thực hiện hợp đồng. Đó là: Hoặc là khi có thỏa thuận các hành vi vi phạm cụ thể
làm điều kiện hủy bỏ hợp đồng; hoặc là khi hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ của
hợp đồng.
Do hợp đồng được xem như không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, nên
các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng,
trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết
tranh chấp.
Đồng thời, các bên có quyền đòi lại những lợi ích do việc đã thực hiện phần
nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa
vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Trường hợp không thể hoàn trả bằng
chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
Hủy bỏ hợp đồng được phân ra thành hai loại: hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và
hủy bỏ một phần hợp đồng.
Khi hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ thì tất cả các nghĩa vụ hợp đồng sẽ chấm
dứt. Khi hợp đồng chỉ bị hủy bỏ một phần thì chỉ có một phần nghĩa vụ của hợp
đồng sẽ bị chấm dứt, các phần nghĩa vụ khác trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Điều này có nghĩa là bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng phải thực hiện tất cả các
nghĩa vụ còn lại trong hợp đồng, ngoại trừ các nghĩa vụ đã tuyên bố hủy bỏ theo
45
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Cũng giống như chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực
hiện hợp đồng, trước khi áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng, bên áp dụng phải thông
báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ hợp đồng. Trong trường hợp không thông
báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Ngược lại, nếu
đã thông báo cho bên kia biết về việc hủy bỏ hợp đồng, thì bên yêu cầu hủy bỏ
còn có thêm quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt nếu hành vi vi phạm này
có thiệt hại xảy ra và phạt vi phạm nếu có thỏa thuận với nhau trước đó là hành vi
vi phạm này được áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Ngoài các biện pháp chế tài nêu trên, các bên có quyền thỏa thuận bất kỳ
một hay nhiều biện pháp chế tài khác khi có một bên vi phạm hợp đồng.
Cũng giống như chế tài phạt vi phạm, những biện pháp chế tài khác phải
được các bên thỏa thuận trong hợp đồng mới được áp dụng. Đồng thời, các biện
pháp này phải không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam,
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập
quán thương mại quốc tế.
Ngoài ra, cần lưu ý các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm được quy định tại Điều 294 LTM năm 2005. Theo đó, bên vi phạm hợp đồng
được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: (i) Xảy ra trường hợp miễn
trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; (ii) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; (iii) Hành
vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) Hành vi vi phạm của
một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà
các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bên vi phạm hợp
đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm. Bên vi phạm hợp
đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn
trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Khi trường hợp miễn trách nhiệm
chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi
phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi
thường thiệt hại. Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về
46
trường hợp miễn trách nhiệm của mình.
Từ những phân tích nêu trên, liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại
HĐGC trong thương mại có bất cập đó là, theo quy định bên yêu cầu bồi thường
thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và
những khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm. Quy định này cũng tương thích với điểm c khoản 1 Điều 91
BLTTDS năm 2015, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ trường hợp “Các trường
hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh”. Như vậy, pháp luật quy
định nghĩa vụ chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và
những khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm thuộc về bên yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, không phải lúc nào thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng đều dễ dàng xác
định được hoặc nếu muốn xác định được thì phải tốn rất nhiều thời gian và đây
cũng chính là mầm mống cho các tranh chấp từ hợp đồng phát sinh. Do đó, cần có
những quy định hợp lý hơn.
2.1.4. Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐGC trong
thương mại
2.1.4.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp, theo đó, các bên tranh
chấp trực tiếp, tự đàm phán, bàn bạc với nhau trên cơ sở tự nguyện, nhằm loại bỏ
tranh chấp đang phát sinh trong hoạt động thương mại.
Do tính chất đơn giản về thủ tục, ít tốn kém về thời gian, chi phí, đảm bảo
được bí mật, uy tín cũng như khả năng tiếp tục hợp tác giữa các bên trong hoạt
động thương mại nên thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến
nhất, thường được các bên tranh chấp sử dụng.
Hình thức giải quyết tranh chấp này được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản
47
sau:
- Tự giải quyết: Khi phát sinh tranh chấp, các bên tự nguyện liên hệ, gặp gỡ
nhau để thương lượng mà không phải nhờ đến bên trung gian hoặc cơ quan giải
quyết tranh chấp. Trên cơ sở đó, các bên tự thảo luận, lựa chọn và tiến hành các
cách thức nhằm để loại trừ tranh chấp. Do đó, hình thức này ít gây phương hại đến
quan hệ hợp tác vốn có của các bên, ít gây căng thẳng về tâm lý vì vẫn đảm bảo
được bí mật, uy tín của các bên trong hoạt động kinh doanh.
- Tự lựa chọn trình tự, thủ tục: Các bên tranh chấp tự thỏa thuận ngày, giờ,
địa điểm và hình thức thương lượng (trực tiếp hay gián tiếp) mà không bị ràng
buộc bất kỳ trình tự, thủ tục pháp lý nào. Do đó, hình thức này ít tốn kém về thời
gian và chi phí, đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và hiệu quả. Bảo vệ được bí mật
kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp do các bên tranh chấp tự kiểm soát
được thông tin.
- Phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp: Trước tiên, để có thể
thương lượng, các bên phải có thiện chí trong việc cùng nhau muốn thương lượng
để giải quyết tranh chấp. Trong quá trình thương lượng, thiện chí hợp tác của các
bên cũng rất quan trọng vì nó có thể thành công hay không, thời gian thương lượng
dài hay ngắn, kết quả thương lượng đảm bảo quyền và lợi ích của các bên hay
không,…đều tùy thuộc vào thiện chí của các bên.
- Kết quả thương lượng đa dạng: Sau tiến hành thương lượng, nếu các bên
có thiện chí và nhượng bộ lẫn nhau, cùng hợp tác và muốn duy trì tiếp tục quan hệ
trong hoạt động thương mại thì toàn bộ tranh chấp sẽ được giải quyết. Tuy nhiên,
nếu còn nhiều điểm bất đồng, tranh chấp có thể không thể giải quyết được hoặc
chỉ giải quyết được một phần. Ngoài ra, biện pháp thương lượng này còn có thể
dẫn đến kết quả là việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp khác như cùng
nhau thỏa thuận chọn hình thức hòa giải, chọn hòa giải viên hoặc cùng nhau thỏa
thuận chọn trọng tài để tiếp tục giải quyết tranh chấp.
2.1.4.2. Hòa giải
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên do một cơ quan, tổ
48
chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải. Nói cách
khác, đây là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba.
Với hình thức hòa giải, bên thứ ba đóng vai trò trung gian để hỗ trợ, thuyết phục
các bên tìm kiếm các giải pháp thích hợp, nhằm chấm dứt tranh chấp đang phát
sinh.
Hiện nay, để có cơ chế thi hành cũng như khuyến khích các bên tham gia
hòa giải Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải
thương mại (gọi tắt Nghị định số 22/2017/NĐ-CP) đã ra đời, theo khoản 2 Điều 2
của Nghị định này quy định về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương
mại là “Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại”, HĐGC cũng là một trong những hoạt động thương mại. Do đó, căn cứ vào
quy định nêu trên phương thức hòa giải thương mại có thể áp dụng khi xảy ra tranh
chấp giữa các bên. Tuy nhiên, điều kiện giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương
mại là các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào
của quá trình giải quyết tranh chấp.
Khác với các phương thức hòa giải khác, khi đạt được kết quả hòa giải
thành các bên lập văn bản về kết quả hòa giải thành. Văn bản về kết quả hòa giải
thành có hiệu lực thi hành đối với các bên theo quy định của pháp luật dân sự. Văn
bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự (Điều 15, Điều 16 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP).
Đồng thời theo mục 7 Văn bản số 212/TANDTC-PC về việc thông báo kết
quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử
ngày 13 tháng 09 năm 2019 của Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn: Nội dung
hòa giải liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì
phải xác định yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là yêu cầu
về kinh doanh, thương mại. Đồng thời, theo khoản 6 Điều 31 BLTTDS năm 2015
những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
49
án bao gồm “6. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp
luật”.
Như vậy, trong trường hợp có yêu cầu công nhận văn bản về kết quả hòa
giải thành thì Tòa án áp dụng khoản 6 Điều 31 của BLTTDS năm 2015 để thụ lý
giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
2.1.4.3. Trọng tài
Để giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài, điều kiện bắt
buộc là phải có thỏa thuận trọng tài. Có nghĩa là phải có thỏa thuận giữa các bên
về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh, trên
cơ sở quyền tự do ý chí của các bên. Thỏa thuận trọng tài mang tính kế thừa. Trong
trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng
lực hành vi, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người
đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Tương tự, trong trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải
chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc
chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức
tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác (Khoản 2 và khoản 3, Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Về thời
điểm thỏa thuận, các bên có quyền thỏa thuận trước, trong và sau khi xảy ra tranh
chấp. Về hình thức, thỏa thuận trọng tài có thể được các bên thỏa thuận trong hợp
đồng, trong phụ lục của hợp đồng hoặc trong một văn bản độc lập với hợp đồng.
2.1.4.4. Tòa án
Theo Điều 6 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010: Trong trường hợp
các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì
Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả
thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Do đó, căn cứ vào các quy định về thẩm quyền của tòa án được quy định
50
trong BLTTDS năm 2015, tòa án chỉ được quyền thụ lý giải quyết các tranh chấp
thương mại khi đúng thẩm quyền và không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hay không thể thực hiện được.
Việc xác định thẩm quyền của tòa án được căn cứ vào quy định của
BLTTDS năm 2015. Theo đó, thẩm quyền của tòa án được xác định dựa trên cơ
sở vụ việc, lãnh thổ và trong các trường hợp đặc biệt thì xác định dựa trên sự lựa
chọn của nguyên đơn. Tuy nhiên, việc xác định này chỉ mang tính khả thi khi vụ
tranh chấp thương mại liên quan không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.
Ngoài ra, liên quan đến việc xác định Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt
động Trọng tài thì theo quy định tại Điều 7 Luật Trọng tài thương mại 2010, Tòa
án có thẩm quyền đối với đối với hoạt động trọng tài là Tòa án nhân dân Tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn thì thẩm quyền của Tòa án được xác
định như sau: (i) Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng Trọng
tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bi đơn nếu bị đơn là
cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều
bị đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một
trong các bị đơn đó; (ii) Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc có trụ sở ở nước
ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên
đơn; (iii) Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì
tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp; (iv)
Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng Trọng tài về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài
ra quyết định; (v) Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi có chứng cứ cần thu thập; (vi) Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có biện pháp
khẩn cấp tạm thời cần dụng áp dụng; (vii) Đối với việc triệu tập người làm chứng
51
thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của người làm chứng; (v)vĐối với
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài.
Thực tiễn dạng tranh chấp liên quan đến HĐGC giải quyết tại Tòa án thường
liên quan đến thanh toán tiền gia công cũng như vấn đề bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp HĐGC giữa nguyên đơn là Công ty Trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) QH có trụ sở tại 44/1 KP1, phường TA, Quận X12, Thành phố
Hồ Chí Minh; Bị đơn là Công ty TNHH TP có trụ sở tại 345 Đường số 10, Phường
T8, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thông qua email, nguyên đơn đã
gia công in hàng may mặc cho bị đơn được nhiều đơn hàng nhỏ với giá rẻ. Nguyên
phụ kiện để gia công in là của bị đơn cung cấp. Chất lượng in do bên thuê gia công
tự kiểm tra lúc giao nhận hàng. Hai bên không tồn tại một thỏa thuận hay quy định
nào về chất lượng. Bị đơn không có yêu cầu nào về quy chuẩn chất lượng gia công
in. Đầu năm 2016, bị đơn có thuê nguyên đơn in gia công giá thành phẩm mặt hàng
áo thun với giá theo từng mã hàng. Tuy nhiên, nguyên đơn không đồng ý thẩm định
mẫu áo in hư, do việc thu giữ mẫu không niêm phong, mẫu không rõ nguồn thuộc
đơn hàng nào, bị bong tróc khi nào, có bị tác động không. Bị đơn cũng đã xác nhận
mẫu áo in hư là của kỳ hàng lần trước, nên không phải đối tượng phản tố yêu cầu trừ
tiền. Nguyên đơn đã in xong toàn bộ đơn hàng, chất lượng hàng in do bị đơn kiểm tra
và đã đồng ý nhận hàng, hàng hóa đã được bị đơn xuất sang Nhật Bản. Từ đó, nguyên
đơn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gia công đầy đủ 315.277.438 đồng. Bị đơn phản tố
yêu cầu nguyên đơn bồi thường 114.046.410 đồng tương đương 5.154.64 USD do
lỗi gia công in.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1085/2019/KDTM-ST ngày
04 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: Buộc Công ty TNHH TP thanh toán
cho Công ty TNHH QH nợ gia công in số tiền 315.277.438 đồng. Không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH TP yêu cầu Công ty
52
TNHH QH bồi thường thiệt hại 114.046.410 đồng.
Bị đơn có kháng cáo, tại Bản án phúc thẩm số 19/2020/KDTM-PT ngày
09/06/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định:
Đầu năm 2016, thông qua email bị đơn có thuê nguyên đơn in gia công bán thành
phẩm mặt hàng áo thun với giá theo từng mã hàng. Nguyên đơn đã in xong giao
hàng đầy đủ được bị đơn đồng ý nhận hàng. Vấn đề hàng in hư do các bên mua
bán ngoại thương phản hồi, phát sinh sau khi giao nhận gia công in, sau khi bị đơn
bán hàng là thuộc trách nhiệm của bị đơn. Bị đơn xác nhận có kiểm tra chất lượng
gia công in lúc giao nhận hàng, đã đồng ý nhận hàng gia công in. Bị đơn không
chứng minh được lỗi của nguyên đơn trong việc in ấn; không chứng minh được
hợp đồng với công ty tại Nhật Bản có liên quan đến nguyên đơn. Từ đó, bản án
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Từ những phân tích nêu trên liên quan đến phương thức giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐGC thương mại có bất cập là, Luật Trọng tài thương mại
đã quy định chi tiết về cách xác định Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động
trọng tài. Tuy nhiên, quy định trên là quá phức tạp và gây khó khăn cho các bên
trong quá trình áp dụng. Bởi lẽ, nếu các bên không có thỏa thuận trước, trong quá
trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, có thể có sự tham gia của nhiều tòa án
khác nhau: khi chỉ định Trọng tài viên để thành lập nên Hội đồng trọng tài vụ việc
thì nguyên đơn phải làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở;
nếu cần thay đổi Trọng tài viên các bên lại phải nộp đơn đến Tòa án cấp Tỉnh nơi
Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp; nếu cần thu thập chứng cứ thì phải gởi
đơn đến Tòa án cấp Tỉnh nơi có chứng cứ cần thu thập hay nếu cần áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án cấp Tỉnh nơi biện pháp
khẩn cấp tạm thời đó được áp dụng,…Như vậy, trong quá trình giải quyết tranh
chấp, khi phát sinh các vấn đề cần đến sự trợ giúp của Tòa án, các bên có thể sẽ
phải tìm đến nhiều Tòa án khác nhau. Việc gởi hồ sơ đến nhiều Tòa án trong quá
trình giải quyết tranh chấp như vậy sẽ tốn nhiều thời gian vè chi phí của các bên
53
tranh chấp.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại tại Công
ty TNHH Max Succeed
Trước khi đánh giá việc thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại tại
Công ty TNHH Max Succeed cần đánh giá tình hình thực hiện pháp luật hợp đồng
gia công thương mại. Theo đó, qua tình hình thực hiện pháp luật hợp đồng gia
công thương mại, có thể rút ra được một số ưu điểm lớn trong công tác thực tiễn
sau đây: (i) các bên tuân thủ chặt chẽ quy định về hình thức và nội dung của hợp
đồng gia công thương mại trong quá trình giao kết. Về hình thức, các hợp đồng
gia công thương mại đều được lập thành văn bản, được ký bởi người đại diện có
thẩm quyền. Về nội dung, tùy thuộc vào hàng hóa yêu cầu gia công mà mỗi điều
khoản trong hợp đồng có thể khác nhau, nhưng đều thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ mà các bên cam kết; (ii) tranh chấp phát sinh trong hợp động gia công thương
mại không quá gay gắt, các bên ý thức được quyền tự do định đoạt, thỏa thuận trên
cơ sở thiện chí nên vẫn đạt được một số kết quả; (iii) công tác hòa giải tại Tòa án
được tuân thủ một cách nghiêm túc.
Bên cạnh những ưu điểm, thành công đã đạt được thì trong quá trình thực
hiện pháp luật hợp đồng gia công thương mại thời gian qua vẫn còn tồn tại một số
hạn chế, bất cập sau: (i) đa phần những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực
hiện hợp đồng gia công thương mại do một bên không tuân thủ đúng nghĩa vụ hợp
đồng, vi phạm những cam kết đã thỏa thuận; (ii) thực tiễn hòa giải trước khi đưa
vụ án ra xét xử tại Tòa án hiệu quả chưa cao; (iii) Chất lượng giải quyết tranh chấp
hợp đồng gia công thương mại bằng Tòa án chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
2.2.1. Tổng quan về Công ty TNHH Max Succeed
Công ty TNHH Max Succeed (gọi chung là Công ty) được chuyển đổi từ
Công ty Quốc Tế Vĩ Hảo Việt Nam TNHH – doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
được thành lập tại Việt Nam theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư lần đầu ngày
31 tháng 12 năm 1995, điều chỉnh lần bảy số 9883567519 ngày 29 tháng 01 năm
2019 do Ban quản lý các khu Công nghiệp Đồng Nai cấp và Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp số 3600263581 đăng ký lần đầu ngày 31 tháng 12 năm
54
1995, thay đổi lần thứ nhất ngày 26 tháng 02 năm 2019 do Sở Kế hoạch và Đầu
tư tỉnh Đồng Nai cấp.
Hình thức sở hữu vốn: Trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Hoạt động kinh doanh của Công ty: Sản xuất và gia công các loại sản phẩm
may mặc như quần áo, nón, khăn choàng, gang tay, túi xách, ba lô, áo yếm, áo
yếm dùng trong thể thao, sản xuất, gia công thuê sản phẩm may mặc,…
Trụ sở chính: số 3 đường số 15A, khu công nghiệp Biên Hòa II, Đồng Nai.
Vốn đầu tư: 4.000.000 USD, vốn góp để thực hiện dự án: 3.000.000 USD.
Tổng số người lao động tính đến ngày 30/6/2020: 309 người.
Nguyên tắc ghi nhận doanh thu gia công: Doanh thu đối với hoạt động nhận
gia công vật tư, hàng hóa là số tiền gia công thực tế được hưởng, không bao gồm
giá trị vật tư, hàng hóa nhận gia công.
2.2.2. Tình hình thực hiện HĐGC tại Công ty TNHH Max Succeed
2.2.2.1. Tình hình doanh thu gia công, giá vốn gia công, thu nhập vi phạm
HĐGC giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Tình hình doanh thu gia công xuất khẩu, giá vốn gia công xuất khẩu, thu
nhập vi phạm HĐGC giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 được thể hiện qua các
bảng số liệu như sau:
Bảng 2.1: Doanh thu gia công
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Doanh
thu 5.526.767.26 7.009.930.50 6.775.341.45 7.911.626.60 5.816.975.60
(USD)
Bảng 2.2: Giá vốn gia công
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Giá
4.536.830.36 7.118.739.33 6.483.684.77 6.742.367.85 5.302.952.42 vốn
(USD)
Bảng 2.3: Thu nhập vi phạm HĐGC
55
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Thu nhập
(USD) Không có Không có Không có 2.966.43 1.332.08
Nhận xét chung:
Thứ nhất, về tình hình doanh thu gia công. Xét cả giai đoạn từ năm 2016-
2020 thì doanh thu gia công có tăng trưởng, tuy nhiên mức độ tăng không cao chỉ
4,98%. Nếu so sánh năm liền kề với năm đầu giai đoạn (2016-2017) thì doanh thu
tăng 21,1%. Tuy nhiên, nếu so sánh năm cuối giai đoạn so với năm trước đó (2019-
2020) doanh thu giảm tới 36%.
Thứ hai, về tình hình giá vốn gia công. Xét cả giai đoạn từ năm 2016-2020
thì giá vốn gia công có xu hướng tăng, cụ thể tăng 14,45%. Nếu so sánh năm liền
kề với năm đầu giai đoạn (2016-2017) thì giá vốn tăng cao 36,2%. Tuy nhiên, nếu
so sánh năm cuối giai đoạn so với năm trước đó (2019-2020) giá vốn giảm 27,1%.
Thứ ba, về tình hình thu nhập vi phạm HĐGC. Xét cả giai đoạn từ năm
2016-2020 thì tình hình vi phạm HĐGC tăng nhưng không cao, cả 03 năm từ
2016-2018 không phát sinh thu nhập vi phạm HĐGC.
Thứ tư, về tình hình giữa doanh thu gia công và giá vốn gia công. Nhìn
chung, xét cả giai đoạn từ năm 2016-2020 thì doanh thu luôn cao hơn giá vốn, cá
biệt năm 2017 giá vốn giá công cao hơn doanh thu.
2.2.2.2. Về nội dung cụ thể HĐGC từ năm 2016 đến năm 2020
Đánh giá chung:
Một là, việc gia công của Công ty chủ yếu để gia công xuất khẩu đối với
các sản phẩm nón mũ vải, may các loại. Tuy nhiên, cả giai đoạn không có bất kỳ
vụ kiện tụng nào trong và ngoài nước mà có thể dẫn đến các khoản phải thanh toán
trong thời gian tới.
Hai là, số lượng đối tác gia công không nhiều, chủ yếu là các đối tác truyền
thống. Cụ thể giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 chủ yếu ký kết hợp đồng với
Công ty B có trụ sở ở nước ngoài gia công sản phẩm như nón mũ vải các loại, sản
56
phẩm may các loại (áo yếm, yếm số, băng đầu các loại, khăn choàng, găng tay,
vớ, túi xách, ba lô, quần áo) theo các số hợp đồng 05/MSSS-MS ngày 25/3/2016;
06/MSSS-MS ngày 15/3/2017; 07/MSSS-MS ngày 01/3/2018; 08/MSSS-MS
ngày 6/02/219; 09/MSSS-MS ngày 18/02/2020.
Ba là, các bên tuân thủ chặt chẽ quy định về hình thức và nội dung của
HĐGC thương mại trong quá trình giao kết. Về hình thức, các HĐGC thương mại
đều được lập thành văn bản, được ký bởi người đại diện có thẩm quyền. Về nội
dung, tùy thuộc vào hàng hóa yêu cầu gia công mà mỗi điều khoản trong hợp đồng
có thể khác nhau, nhưng nội dung hợp đồng cơ bản đáp ứng các yêu cầu về HĐGC.
Ngoài phần thông tin các bên, HĐGC tại Công ty bao gồm 10 Điều thể hiện tên,
số lượng sản phẩm gia công; giá gia công; thời hạn thanh toán và phương thức
thanh toán; nguyên phụ liệu; máy móc thiết bị phục vụ gia công; thanh khoản
nguyên phụ liệu; địa điểm và thời gian giao hàng; nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi
xuất xứ hàng hóa; thời hạn hiệu lực hợp đồng và điều khoản khác.
Bốn là, sau khi thanh lý hợp đồng với đối tác đều có thông báo phương án
xử lý nguyên liệu, vật tư dư thừa; máy móc, thiết bị thuê, mượn; phế liệu, phế
phẩm với cơ quan Hải quan có thẩm quyền. Hầu như phương án xử lý như sau: (i)
Về nguyên liệu vật tư dư thừa: Không phát sinh nguyên liệu vật tư dư thừa trong
quá trình thực hiện HĐGC; (ii) Về máy móc thiết bị thuê mượn: Máy móc thiết bị
thuê mượn không phát sinh trong quá trình gia công; (iii) Về sản phẩm hoàn chỉnh
chưa xử lý hết: Không có sản phẩm hoàn chỉnh chưa xử lý hết; (iv) Về phế liệu
phế thải: Không phát sinh trong quá trình thực hiện HĐGC.
Nội dung cụ thể HĐGC tại Công ty:
- Điều 1: Thể hiện tên, số lượng sản phẩm gia công.
Trong nội dung điều này ngoài tên, số lượng sản phẩm gia công còn thể
hiện đơn vị gia công được tính bằng cái, thể hiện đơn giá cụ thể cũng như trị giá
công. Đồng tiền được sử dụng thông thường là Đô la Mỹ (USD).
- Điều 2: Giá gia công.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thể hiện cách thức tính đơn giá gia công
57
tại Điều 1 bao gồm công cắt, may, in thêu, ủi, ép nhãn, đóng gói và các phụ liệu
khác như chỉ, thùng cartons, bao ny lon,…Chi tiết mã hàng, số lượng mỗi mã hàng
không được thể hiện trong hợp đồng chính mà được bổ sung bằng phụ kiện hợp
đồng.
- Điều 3: Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán
Trong nội dung điều này, chủ yếu thể hiện hình thức thanh toán bằng cách
chuyển khoản, thời hạn thanh toán theo khoảng thời gian cụ thể (thông thường
trong vòng 90 ngày) sau ngày vận đơn hàng xuất vào tài khoản của Công ty. Ngoài
ra, còn có điều khoản mang tính chất tùy nghi là bên đối tác có thể chuyển khoản
trước tiền hàng để bên A tạm ứng phục vụ cho sản xuất gia công.
- Điều 4: Nguyên phụ liệu.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thể hiện trách nhiệm cung cấp nguyên
phụ liệu do bên đặt gia công cung cấp, không thanh toán, tỷ lệ hao hụt đối với
nguyên phụ liệu tối đa là 3%, riêng nhãn chính 0%. Đồng thời, các bên còn thỏa
thuận nếu nguyên phụ liệu thiếu trong quá trình gia công bên đặt gia công sẽ ủy
quyền cho bên A mua tại Việt Nam (cam kết nộp thuế xuất khẩu và các loại thuế
khác nếu có) sẽ được bổ sung bằng phụ kiện hợp đồng và được tính vào đơn giá
gia công.
- Điều 5: Máy móc thiết bị phụ vụ gia công.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thể hiện trách nhiệm cung ứng máy móc
thiết bị phục vụ gia công do bên nhận gia công tự cung ứng cho toàn bộ đơn hàng.
Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận, trong trường hợp cần thiết, bên đặt gia công sẽ
hỗ trợ máy móc chuyên dùng phục vụ cho sản xuất, bên nhận gia công phải hoàn
trả đầy đủ máy móc đã mượn của bên đặt gia công sau khi kết thúc hợp đồng.
- Điều 6: Thanh khoản nguyên phụ liệu.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thể hiện thời hạn, cách thức giải quyết số
nguyên phụ liệu thừa sau khi kết thúc hợp đồng bằng một trong 04 cách sau:
(i) Chuyển nguyên phụ liệu thừa sang hợp đồng kế tiếp.
(ii) Tái xuất nguyên phụ liệu thừa cho bên đặt gia công.
(iii) Nếu sử dụng nguyên phụ liệu thừa tại Việt Nam thì bên đặt phải đóng
58
thuế theo quy định hiện hành cho phần phụ liệu đó.
(iv) Phế liệu (nếu có) được tạo ra trong quá trình sản xuất gia công sẽ được
tái xuất trả cho bên đặt gia công hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
- Điều 7: Địa điểm và thời gian giao hàng.
Trong nội dung điều này, chủ yếu các bên thỏa thuận thời gian, phương
thức giao nhận nguyên phụ liệu. Theo đó, đối với gia công cho thương nhận nước
ngoài bộ chứng từ bắt buộc phải có đối với giao nhận nguyên phụ liệu gồm (i) Bộ
vận đơn đường biển có đóng dấu “Surrendred” hoặc không vận đơn; (ii) Hóa đơn
thương mại đã ký; (iii) Bảng kê chi tiết đóng gói. Đối với bộ chứng từ thành phẩm
khi giao nhận sản phẩm gồm (i) Trọn bộ vận đơn hoàn hảo; (ii) Phiếu đóng gói
hàng hóa; (iii) Giấy phép xuất khẩu (nếu có), giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
- Điều 8: Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thỏa thuận trách nhiệm cung cấp nhãn
chính theo sở hữu của bên đặt gia công và bên đặt gia công chịu trách nhiệm pháp
lý nếu xảy ra mọi khiếu nại về việc sử dụng nhãn hiệu độc quyền (nếu có). Thành
phẩm ia công sử dụng tên gọi xuất xứ “Made in Việt Nam”.
- Điều 9: Thời hạn hiệu lực hợp đồng
Trong nội dung điều này, chủ yếu thời gian có hiệu lực của hợp đồng, số lượng
bản gốc cũng như việc bản gốc của hợp đồng được lập bằng tiếng Việt Nam.
- Điều 10: Điều khoản khác.
Trong nội dung điều này, chủ yếu thỏa thuận về hình thức thay đổi hoặc bổ
sung hợp đồng sẽ được lập thành văn bản. Phương thức giải quyết tranh chấp được
các bên lựa chọn bằng cách thương lượng, nếu không thương lượng được sẽ do
trọng tài thương mại giải quyết.
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế
Trong quá trình thực hiện pháp luật HĐGC, đặc biệt là gia công cho thương
nhân nước ngoài, Công ty gặp một số tồn tại như sau:
Thứ nhất, Công ty chủ yếu gia công nón vải, do không có máy móc để sản
xuất, nên Công ty xuất khẩu nguyên liệu đã nhập khẩu hiện có ở Công ty ra nước
ngoài để đặt gia công một công đoạn. Sau đó, sẽ nhập về lại sản phẩm gia công
nêu trên về Việt Nam để tiếp tục gia công sản phẩm gia công xuất khẩu thì đang
59
gặp nhiều khó khăn liên quan đến vấn đề thuế, đặc biệt là đóng thuế cho lượng
nguyên liệu cấu thành nên sản phẩm gia công do Công ty gia công ở nước ngoài
đã đính lên sản phẩm.
Thứ hai, khi kết thúc HĐGC thì nguyên phụ liệu dư thừa sẽ chuyển tiếp qua
HĐGC tiếp theo. Nhưng một nguyên phụ liệu đã chuyển tiếp xong nhưng hiện vẫn
chưa sử dụng hết, pháp luật không quy định về giới hạn số lần chuyển tiếp nguyên
phụ liệu đó qua hợp đồng khác. Nên thực tiễn Công ty vẫn chưa chủ động thỏa
thuận trường hợp được phép tiếp tục chuyển tiếp.
Thứ ba, do tình hình của dịch bệnh Covid-19 nên trong tương lai có thể xảy ra
hiện tượng vi phạm hợp đồng, Công ty sẽ gặp khó khăn trong việc xác định đây có
thuộc trường hợp bất khả kháng dẫn đến miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hay
là vấn đề thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Dịch Covid-19 được xem là một cú sốc phi truyền thống, thông qua quá
trình giãn cách, cách ly xã hội với quy mô lớn ở một số quốc gia và lan rộng khắp
toàn cầu. Covid-19 khiến các nền kinh tế trên thế giới bị cô lập, nguồn nhân lực
và các hoạt động tiêu dùng, đầu tư, sản xuất đều suy giảm. Song song đó là xuất
hiện sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng và sự thoái trào của toàn cầu. Đại dịch đã
làm tê liệt nhiều hoạt động kinh tế như dịch vụ du lịch, vận tải; làm trỗi dậy chủ
nghĩa bảo hộ và tình trạng bất bình đẳng trong xã hội [16, tr.59].
Luật TM năm 2005 không giải thích như thế nào là sự kiện bất khả kháng,
tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 thì “Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể
khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép”. Trong các giao dịch dân sự nói chung:“Trường hợp bên có nghĩa vụ không
thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm
dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Đối với trường hợp thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, khái
niệm về sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản mặc dù không được làm rõ, nhưng Điều 420
BLDS năm 2015 đã nêu ra những điều kiện cụ thể để một sự kiện được coi như là
sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản phải đủ 05 điều kiện sau đây: (i) Sự thay đổi hoàn
cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng; (ii) Tại thời
60
điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn
cảnh; (iii) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp
đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn
khác; (iv) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; (v) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng
đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất
61
của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
Tiểu kết chương 2
Với mục tiêu làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
HĐGC thương mại từ Công ty TNHH Max Succeed, kết thúc chương 2 Luận văn
giải quyết các vấn đề sau:
Một là, Luận văn đã làm rõ thực trạng pháp luật về HĐGC thương mại qua
việc phân tích, đánh giá các quy định liên quan về giao kết, thực hiện HĐGC, trách
nhiệm pháp lý do vi phạm và quy định về giải quyết tranh chấp HĐGC trong
thương mại.
Hai là, Luận văn làm sáng tỏ thực tiễn thực hiện pháp luật về HĐGC thương
mại từ Công ty TNHH Max Succeed giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. Qua
việc phân tích, đánh giá tình hình doanh thu gia công, giá vốn gia công, thu nhập
vi phạm HĐGC, nội dung cụ thể HĐGC đã được ký kết từ trong giai đoạn từ năm
2016 đến năm 2020, từ đó phân tích những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực
hiện; đây là cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp ở nội dung chương 3
62
Luận văn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT HĐGC TRONG THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY
TNHH MAX SUCCEED
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về HĐGC trong
thương mại
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật HĐGC trên cơ sở hội nhập, bảo đảm sự phù
hợp với các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập
và pháp luật, tập quán thương mại quốc tế
Trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay, hầu hết các nước đang cố gắng
thích ứng hệ thống pháp luật của mình với tính hợp lý của thị trường thế giới, phù
hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Với yêu cầu đó, trong quá trình nghiên cứu
và vận hành luật pháp, các nhà nghiên cứu và các nhà thực tiễn từng bước phải đi
đến đánh giá đầy đủ hơn về cách thức hệ thống pháp luật của mỗi nước, ảnh hưởng
tới nền kinh tế của nước đó như thế nào, cũng như những yếu tố truyền thống, tập
quán khác nhau của mỗi nước đã giải đáp cho những vấn đề vượt ra khỏi biên giới
một quốc gia như thế nào [34, tr.13].
Hiện nay, hội nhập quốc tế không chỉ dừng lại ở một vài lĩnh vực mà hội
nhập một cách toàn diện, trên mọi mặt, đặc biệt khi Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 và ký kết
nhiều hiệp định quan trọng như Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản
2008; Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) 2001; Hiệp
định FTA (Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khu
vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Khu vực
thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA),…Để không đứng ngoài xu
63
hướng đó, Việt Nam cần phải điều chỉnh pháp luật của mình xích gần hơn với
pháp luật thế giới, trong đó có pháp luật về thương mại nói chung, pháp luật về
HĐGC nói riêng, bảo đảm sự phù hợp với các điều ước quốc tế về thương mại mà
Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật, tập quán thương mại quốc tế. Đồng
thời, cũng bảo đảm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng
chính sách, pháp luật thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường gia công.
Cần lưu ý, việc hoàn thiện pháp luật HĐGC bảo đảm sự phù hợp với các
tập quán thương mại quốc tế. Bởi lẽ, trong quan hệ thương mại quốc tế nói chung,
hoạt động gia công nói riêng, tập quán có thể được áp dụng nếu đáp ứng được
những điều kiện sau: Các bên trong hợp đồng có thỏa thuận sử dụng; Luật quốc
gia do các bên trong hợp đồng lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ để
giải quyết vấn đề phát sinh; Điều ước quốc tế có liên quan không quy định về vấn
đề xảy ra.
Tập quán được hình thành một cách tự phát từ cuộc sống; nó mang đậm dấu
ấn của môi trường nơi mà nó được sinh ra và tương ứng với tính cách của con
người sống trong môi trường đó. Môi trường, con người khác nhau có đặc điểm,
tính cách không giống nhau [13, tr.14].
Tập quán không những giải thích những điều khoản của hợp đồng mà còn
hướng dẫn việc thực hiện các hợp đồng đó và bổ sung cho hợp đồng những điều
khoản mà các bên chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể. Tập quán, với tính
chất là những thói quen, phong tục trong thương mại được áp dụng một cách
thường xuyên, nội dung tường minh, có thể đảm nhiệm vai trò này. Tập quán
thương mại trong việc hình thành nên các quyết định xét xử với ý nghĩa là một
loại nguồn phổ biến. Không những bổ trợ cho hợp đồng, tập quán còn có thể đứng
độc lập như một nguồn luật, cùng các nguồn luật khác (luật quốc gia, điều ước
quốc tế hay thậm chí kể cả án lệ) giải quyết những vấn đề phát sinh trong thương
64
mại quốc tế nói chung, HĐGC nói riêng.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật HĐGC phải tôn trọng nguyên tắc tự do, tự
nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại
Xuất phát từ các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân đã được Hiến pháp quy định. Theo đó, khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
đã hiến định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, một trong các
quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
thực hiện là quyền về dân sự. Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền dân sự,
BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 đã được Quốc hội ban hành. Các Bộ luật
này là những văn bản quy phạm pháp luật rất quan trọng để công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền dân sự của con người, công dân [15, tr.7].
Khi xây dựng chế định hợp đồng nói chung nhà làm luật đều tôn trọng
nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận của các chủ thể. Cụ thể, Điều 11 LTM năm
2005 đã quy định các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định
của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các
quyền đó. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên
nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Đây là
minh chứng thể hiện sự suy tôn tự do hợp đồng (freedom of contract) – một trong
những nền tảng pháp lý quan trọng để các bên tham gia hợp đồng có thể thiết lập
các quyền và nghĩa vụ chính mình và một khi những thỏa thuận được hình thành
dựa trên sự thống nhất ý chí và sự tự nguyện thực thi các cam kết, thì không có lý
do gì để phá vỡ những thỏa thuận ấy. Quyền tự quyết cũng như tự thỏa thuận trong
HĐGC phải được đặt lên hàng đầu và sự can thiệp của Nhà nước chỉ xuất hiện khi
nội dung thỏa thuận làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng hoặc trật tự xã hội [1,
65
tr.14].
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật HĐGC thương mại phải đảm bảo sự thống
nhất, đồng bộ giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại
Một trong những mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách pháp luật ở
Việt Nam được xác định là xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch. BLDS là đạo luật quan trọng của mỗi quốc gia; tại Việt
Nam, BLDS có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống thống pháp luật,
là nền tảng của hệ thống tư luật mà các ngành luật khác phải tuân theo. Do đó,
trong quá trình hoàn thiện các quy định về HĐGC thương mại phải đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ giữa BLDS và LTM là điều tất yếu. Đồng thời, HĐGC cũng
phải phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về thương mại, trong đó
LTM điều chỉnh những nguyên tắc, định chế chung của thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ.
Tuy nhiên, cần lưu ý, để tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, giữa
luật gốc và luật chuyên ngành, thì khi luật chuyên ngành có quy định thì phải áp
dụng luật chuyên ngành, chỉ khi luật chuyên ngành không quy định hoặc quy định
không rõ ràng thì mới áp dụng luật gốc là BLDS. Khi áp dụng, giữa luật gốc và
luật chuyên ngành không được tạo sự xung đột pháp luật [20, tr.30].
Muốn hoàn thiện pháp luật HĐGC thương mại phải đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ giữa BLDS và LTM cũng như vấn đề đảm bảo tương thích với việc xây
dựng pháp luật trong nước với các điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất phải đánh
giá sơ bộ tác động về chế định hợp đồng nói chung, HĐGC nói riêng giữa BLDS
và LTM; đồng thời, rà soát sơ bộ quy định của pháp luật hiện hành là cần thiết và
hợp lý.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật HĐGC thương mại phải đảm bảo hài hòa
quyền, nghĩa vụ các bên
Một quan hệ xã hội chỉ phát sinh tranh chấp khi lợi ích giữa các chủ thể bị
xâm phạm, không được đảm bảo; vì vậy pháp luật xuất hiện nhằm điều hòa các
xung đột về lợi ích bảo vệ trật tự công cộng. Do đó, khi hoàn thiện pháp luật
66
HĐGC thương mại phải đảm bảo hài hòa quyền, nghĩa vụ các bên. Điều này xuất
phát từ nguyên tắc bình đẳng. Trong quan hệ hợp đồng nói chung, HĐGC nói
riêng các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính,
thành phần dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau. Điều này có ý nghĩa, vị trí rất quan
trọng, việc vi phạm nguyên tắc bình đẳng sẽ không đảm bảo sự hài hòa giữa các
bên trong HĐGC trong thương mại. Khi đó, chủ thể vi phạm sẽ bị xử lý bằng các
quy định bảo vệ quyền tài sản.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật HĐGC trong
thương mại
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, đối với vấn đề giao kết HĐGC.
Để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, cũng như dự liệu được những
sự cố không mong muốn khi đề nghị cũng như chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, BLDS năm 2015 nên bổ sung 02 Điều luật tương tự như quy định tại Điều
395, Điều 396 BLDS năm 2015, dự liệu các trường hợp bên đề nghị là pháp nhân
gặp những sự cố sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
cũng như trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng là pháp nhân đã chấp
nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó cũng gặp những sự cố, chấm dứt tồn tại thì
việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng có giá trị hay không.
Việc bổ sung quy định này dựa trên cơ sở pháp lý về hậu quả sau khi pháp
nhân tiến hành các hình thức tổ chức lại, giải thể, phá sản pháp nhân. Cụ thể:
(i) Đối với hợp nhất pháp nhân thì sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ chấm
dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân mới được thành lập; quyền và nghĩa vụ dân
sự của pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân mới (Điều 88, BLDS năm
2015), cụ thể hơn, đối với doanh nghiệp sau khi công ty hợp nhất đăng ký doanh
nghiệp, công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp nhất được hưởng quyền
và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
67
Công ty hợp nhất đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của các công ty bị hợp nhất theo hợp đồng hợp nhất công ty (Điều 200 Luật Doanh
nghiệp năm 2020).
(ii) Đối với sáp nhập pháp nhân thì sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp
nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập
được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập (Điều 89 BLDS năm 2015), cụ thể hơn
đối với doanh nghiệp sau khi công ty nhận sáp nhập đăng ký doanh nghiệp, công
ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và
lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, các khoản nợ chưa thanh toán,
hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập. Các công ty
nhận sáp nhập đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ, và lợi ích hợp pháp
của các công ty bị sáp nhập theo hợp đồng sáp nhập (Điều 201 Luật Doanh nghiệp
năm 2020).
(iii) Đối với chia pháp nhân thì sau khi chia, pháp nhân bị chia chấm dứt
tồn tại; quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân bị chia được chuyển giao cho các
pháp nhân mới (Điều 90 BLDS năm 2015), cụ thể hơn đối với doanh nghiệp thì
các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về nghĩa vụ, các khoản nợ
chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia
hoặc thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các
công ty đó thực hiện nghĩa vụ này. Các công ty mới đương nhiên kế thừa toàn bộ
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp được phân chia theo nghị quyết, quyết định
chia công ty (Điều 198 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
(iv) Đối với chuyển đổi hình thức của pháp nhân thì sau khi chuyển đổi hình
thức, pháp nhân được chuyển đổi chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân
chuyển đổi được thành lập; pháp nhân chuyển đổi kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự
của pháp nhân được chuyển đổi (Điều 92 BLDS năm 2015), cụ thể hơn đối với
việc chuyển đổi công ty thì công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền
và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng
lao động và nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi (Điều 202 đến Điều 205
68
Luật Doanh nghiệp năm 2020).
(v) Đối với giải thể, phá sản pháp nhân thì trước khi giải thể cũng như phá
sản, pháp nhân phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài sản, cụ thể hơn đối với
doanh nghiệp thì doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các
khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án hoặc Trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp cùng liên đới
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp (Điều 93 BLDS năm 2015,
Điều 206 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Riêng đối với phá sản thì các khoản nợ
được thanh toán theo thứ tự nhất định (Điều 108 Luật Phá sản năm 2014).
(vi) Đối với trường hợp tách pháp nhân thì sau khi tách, pháp nhân bị tách
và pháp nhân được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình phù hợp với
mục đích hoạt động (Điều 91 BLDS năm 2015), cụ thể hơn đối với doanh nghiệp
sau khi đăng ký doanh nghiệp, công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên
đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao
động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách,
công ty được tách, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có
thỏa thuận khác. Các công ty được tách đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp được phân chia theo nghị quyết, quyết định tách công ty
(Điều 199 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
Như vậy, đối với các hình thức tổ chức lại pháp nhân nêu trên thì đa số pháp
nhân cũ chấm dứt tồn tại, pháp nhân mới sẽ kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ, và
lợi ích hợp pháp của pháp nhân cũ. Riêng đối với trường hợp tách pháp nhân, cụ
thể là công ty thì công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ, các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty được
tách, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thỏa thuận khác.
Đối với hình thức giải thể, phá sản pháp nhân thì về nguyên tắc, bên đề nghị hoặc
bên đề nghị giao kết hợp đồng vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý về giao dịch đã
69
xác lập khi cơ quan có thẩm quyền tuyên bố giải thể, phá sản. Do đó, về mặt lý
luận và thực tiễn thì việc đề nghị giao kết hợp đồng cũng như chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng do pháp nhân thực hiện vẫn có giá trị pháp lý.
Từ những phân tích nêu trên, BLDS năm 2015 nên bổ sung 02 Điều luật cụ
thể như sau:
“Điều... Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng là pháp nhân tiến
hành tổ chức lại, giải thể hoặc phá sản
Trường hợp bên đề nghị là pháp nhân tiến hành tổ chức lại, giải thể hoặc
phá sản sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị
giao kết hợp đồng vẫn có giá trị.
Điều... Trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng là pháp nhân
tiến hành tổ chức lại, giải thể hoặc phá sản
Trường hợp bên được đề nghị là pháp nhân đã chấp nhận giao kết hợp đồng
nhưng sau đó tiến hành tổ chức lại, giải thể hoặc phá sản thì việc trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng vẫn có giá trị”.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
HĐGC theo hướng thống nhất giữa BLDS và LTM.
Như đã phân tích, một trong những tồn tại của pháp luật HĐGC là, tuy
BLDS được coi như một “bộ luật gốc” điều chỉnh những quan hệ cơ bản và thiết
lập những quy tắc chung nhất và các luật chuyên ngành khác phải được xây dựng
trên nền tảng đó, nhưng giữa BLDS và LTM vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng.
Vì vậy, cần có sự sửa đổi, bổ sung luật chuyên ngành theo đúng hướng mà BLDS
đã xây dựng. Cụ thể, LTM cần phân định rõ quy định nào là quyền, quy định nào
là nghĩa vụ của các bên trong HĐGC thương mại, tinh thần này cũng phải được
áp dụng khi xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và đặc biệt các
văn bản này không được quy định thêm những quyền, nghĩa vụ khác mà LTM
không quy định mà chỉ làm đúng nội dung của văn bản hướng dẫn chi tiết.
Cần nhấn mạnh rằng, mặc dù nguyên tắc chung là khi có sự khác biệt giữa
luật chuyên ngành và luật chung thì sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành, nhưng
70
các quy định của luật chuyên ngành có nhiệm vụ quy định rõ hơn về một vấn đề
chứ không thể có cách tiếp cận trái ngược so với luật chung và phải tuân theo
những nguyên tắc ban đầu cũng như tinh thần mà luật chung đã đưa ra.
Song song đó, LTM cần sửa đổi đối với quy định trường hợp nhận gia công
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, bên nhận gia công được xuất khẩu tại chỗ sản
phẩm gia công, máy móc, thiết bị thuê hoặc mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư
dư thừa, phế phẩm, phế liệu không cần thiết phải có sự ủy quyền của bên đặt gia
công mà chỉ cần có thỏa thuận trong HĐGC. Đồng thời, cũng bổ sung đối với các
hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu bên nhận gia công cũng phải
chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hoạt động gia công hàng hoá.
Thứ ba, cần sửa đổi nghĩa vụ chứng minh thiệt hại trong HĐGC theo hướng
quy định cho các bên thỏa thuận một mức bồi thường thiệt hại cố định, điều này
có thể loại trừ đi được một số tranh chấp trong thương mại nói chung, HHĐGC
nói riêng, giảm bớt các chi phí không cần thiết cũng như nhanh chóng khắc phục
những thiệt hại, từ đó, đưa việc thực hiện hợp đồng về đúng quỹ đạo của nó. Bồi
thường thiệt hại với tư cách là một chế tài thương mại cũng mang trong mình chức
năng phòng ngừa các hành vi vi phạm, tác động vào nhận thức các bên tham gia
hợp đồng về nguy cơ phải chịu trách nhiệm vật chất một khi có hành vi vi phạm
hợp đồng gây ra cho đối phương. Từ đó cho thấy nhu cầu điều chỉnh quy định này
là vấn đề cấp bách trong bối cảnh các quan hệ HĐGC trong thương mại, đặc biệt
gia công cho thương nhân nước ngoài ngày càng phát triển đa dạng và phát sinh
nhiều tình huống mới nằm ngoài dự liệu của nhà làm luật.
Từ những phân tích nêu trên, cần quy định một mức bồi thường thiệt hại cố
định tại thời điểm giao kết hợp đồng, có thể là một khoản tiền nhất định hoặc là
một cách tính thiệt hại được dự liệu từ trước. Tuy nhiên, thỏa thuận này có thể bị
tuyên vô hiệu nếu việc dự liệu có dấu hiệu cho thấy nhằm mục đích trừng phạt bên
vi phạm hợp đồng khi quy định khoản tiền quá lớn hay không hợp lý so với thiệt
hại thực tế xảy ra.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp
71
HĐGC liên quan đến việc xác định Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động Trọng
tài. Theo đó, thiết nghĩ, pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam nên sửa đổi
quy định theo hướng chỉ rõ một Tòa án cụ thể có thẩm quyền đối với hoạt động
trọng tài (nên là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp). Đồng thời,
quy định về cơ chế phối hợp giữa các Tòa án với nhau đối với các hoạt động như
triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ,…để tránh trường hợp các bên phải
gửi hồ sơ đến nhiều Tòa án khác nhau trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài thương mại.
3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước
Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước về thủ tục xuất, nhập khẩu, hải quan
nói chung, HĐGC nói riêng tại một số địa phương chưa được triển khai một cách
đồng bộ. Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan chưa được thực hiện có hiệu quả,
dẫn đến chậm trễ trong việc thông quan. Ngoài ra, vệc đăng ký tham gia kết nối
với Hệ thống để được cấp tài khoản truy cập và các thông tin kết nối. Khi có thay
đổi, bổ sung hoặc hủy hiệu lực thông tin đăng ký, tổ chức, cá nhân phải thông báo
ngay cho cơ quan hải quan. Việc đăng ký, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy thông tin
đăng ký thực hiện chưa kịp thời. Từng lúc chưa trang bị đầy đủ về hạ tầng kỹ thuật
trong hoạt động giao dịch điện tử đảm bảo cho việc khai báo, truyền, nhận, lưu trữ
thông tin khi truy cập và trao đổi thông tin với Hệ thống; sử dụng phần mềm khai
hải quan điện tử do cơ quan hải quan cung cấp hoặc phần mềm khai hải quan điện
tử.
Do đó, việc nâng cao năng lực cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện quản
lý Nhà nước và từng bước hình thành, hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về
vấn đề trên từ trung ương đến địa phương là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý Nhà nước cần quan tâm đến vấn đề tập huấn, nâng
cao nhận thức của doanh nghiệp thông qua việc tổ chức hội nghị, hội thảo đi đôi
là nhấn mạnh trách nhiệm, lợi ích của doanh nghiệp khi làm tốt công tác này.
Ngoài ra, tiếp tục hoàn thiện các công cụ hỗ trợ doanh nghiệp như sử dụng hệ
72
thống tiếp nhận phản ánh của doanh nghiệp qua điện thoại và đưa trang thông tin
điện tử về hải quan, xuất nhập khẩu hoạt động có hiệu quả. Làm được những việc
này, cũng đồng thời sẽ tăng cường khả năng thực thi của LTM nói chung, HĐGC
nói riêng trong đời sống.
3.2.2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trách nhiệm, giàu kiến thức,
kỹ năng, trong sạch hướng đến nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp HĐGC
thương mại
Nhằm mục đích đề cao ý thức chấp hành pháp luật, duy trì kỷ luật, kỷ cương
công vụ, đề cao trách nhiệm cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt
động công vụ, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nói chung trong các Tòa án nhân
dân trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, liêm chính.
Song song đó, trong điều kiện mặt bằng dân trí của xã hội ngày càng được
cải thiện, tri thức khoa học - công nghệ của thế giới đang tăng lên nhanh chóng,
ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có trình
độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học, năng lực vận dụng thực tiễn sáng tạo,
nhạy bén, độc lập, trí tuệ cao. Yêu cầu trí tuệ hoá buộc cán bộ, công chức tư pháp
phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực trí tuệ của
mình, đồng thời Nhà nước và ngành cần phải có chính sách, chế độ và tạo điều
kiện để cán bộ, công chức được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng bổ sung những
tri thức mới của khoa học và công nghệ hiện đại nhằm thực thi công vụ hiệu quả
nhất [36, tr.139].
Ngoài ra, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp nói chung, mà
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải được đào tạo để có kiến thức, kỹ
năng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi; chuyên môn hoá phải đi đôi với trí
tuệ hoá, làm cho mỗi cán bộ, công chức trong từng lĩnh vực có trình độ cao, vừa
có kiến thức, vừa có năng lực và trình độ chuyên môn sâu. Bên cạnh đó phải tạo
được một lực lượng chuyên gia đầu về giải quyết tranh chấp HĐGC, những người
có trình độ, năng lực chuyên môn sâu sắc hơn và uyên thâm hơn về lý thuyết, tinh
73
thông, thành thạo hơn về nghiệp vụ và cao hơn về năng lực thực tiễn.
Để làm được điều đó song song với việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng,
tuyển chọn chặt chẽ, Nhà nước phải có chế độ, chính sách đãi ngộ thoả đáng. Đồng
thời, phải xây dựng được quy chế hoạt động đặc thù phù hợp với tính chất và tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp nói chung, Thẩm phán nói riêng,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân; có năng lực tổng kết thực tiễn và dự báo, định hướng sự phát triển;
mẫu mực về đạo đức, lối sống, có tác phong dân chủ, khoa học; biết tập hợp quần
chúng, đoàn kết tập thể, cơ quan, đơn vị và cộng đồng; có kiến thức về khoa học
và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý, có bề dày kinh nghiệm thực tiễn giải quyết tranh
chấp về HĐGC, nhất là HĐGC có yếu tố nước ngoài.
3.2.2.3. Tăng cường hợp tác, trao đổi quốc tế về giải quyết tranh chấp HĐGC
thương mại
Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác thương mại quốc tế với
nhiều quốc gia trên thế giới thông qua thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định
thương mại tự do song phương, đa phương và khu vực. Những cơ hội, tác động
tích cực của hội nhập là điều không thể phủ nhận, song cùng với đó là xu hướng
ngày càng gia tăng của các vụ tranh chấp thương mại quốc tế. Điều này đang đặt
ra không ít thách thức cho các doanh nghiệp trong nước, bởi nền kinh tế Việt Nam
có trình độ phát triển chưa cao, năng lực cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp
còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu mới
nhất vào năm 2019 do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố, Việt Nam có
nhiều cải thiện rõ rệt nhất trong số 141 nền kinh tế, tăng 10 bậc để xếp hạng thứ
67 về năng lực cạnh tranh. Theo đuổi thành công chính sách hội nhập kinh tế toàn
cầu, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm
2007 và tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia, trong
74
đó có hai hiệp định lớn là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Đây
là điều kiện cần để Việt Nam xoá bỏ rào cản, thúc đẩy hợp tác thương mại quốc
tế nói chung, HĐGC nói riêng. Đồng thời, tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc
gia trên thế giới. Trong bối cảnh mới này, tranh chấp kinh doanh và thương mại
quốc tế đã và đang trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, tình hình thụ
lý giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài thường tập
trung ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương [17].
Để tăng cường hợp tác, trao đổi quốc tế về giải quyết tranh chấp HĐGC
thương mại, thì việc tổ chức hội thảo có liên quan đến vấn đề này là điều cần thiết.
Năm 2019, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Chương trình phát triển Liên
hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), Đại sứ quán Pháp và Đại sứ quán Anh tại Việt
Nam tổ chức Hội thảo Trao đổi kinh nghiệm giữa Thẩm phán Việt Nam và Thẩm
phán Quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, công nhận và cho thi
hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Hội thảo này là một trong
các hoạt động nhằm hợp tác, trao đổi quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại
nói chung, HĐGC nói riêng trong bối cảnh việc giải quyết các tranh chấp thương
mại quốc tế đang ngày càng nhiều và càng phức tạp để thúc đẩy môi trường kinh
doanh công bằng tại Việt Nam. Mục đích của hoạt động này là tạo ra một diễn đàn
cho những Thẩm phán có kinh nghiệm về xử lý các vụ tranh chấp thương mại quốc
tế, công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài chia sẻ kinh
nghiệm với các Thẩm phán Việt Nam.
3.2.2.4. Đối với Công ty TNHH Max Succeed
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các điều khoản của HĐGC giữa
Công ty với đối tác để việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả hơn.
Muốn vậy, cần thực hiện theo 02 nhóm sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu bổ sung, sửa đổi các điều khoản đã thỏa thuận, thực
hiện từ các hợp đồng trước đó. Cụ thể, tại Điều 3 của HĐGC không nên thỏa thuận,
75
bên đặt gia công có thể chuyển khoản trước tiền hàng để bên nhận gia công tạm
ứng phục vụ cho sản xuất gia công vì điều khoản này mang tính chất tùy nghi,
không mang lại ý nghĩa thực tế khi thực hiện hợp đồng. Đồng thời, tại Điều 5 của
hợp đồng cần làm rõ như thế nào là trường hợp cần thiết để bên đặt gia công sẽ hỗ
trợ máy móc chuyên dùng phục vụ sản xuất.
Song song đó, Điều 9 của HĐGC nên thỏa thuận thêm việc bản gốc của hợp
đồng sẽ được lập bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các bản này có giá trị ngang nhau
để phù hợp hơn với tính chất của gia công có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, Điều
10 của hợp đồng nên bổ sung trường hợp mọi chi tiết thay đổi hoặc bổ sung sẽ
được hai bên cùng nhau thỏa thuận và không chỉ ký kết bằng văn bản mà có thể
bằng các hình thức khác tương đương văn bản như điện báo, telex, fax, thông điệp
điện tử. Việc làm này sẽ mang lại sự hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời khi các
bên muốn thay đổi hoặc bổ sung nhưng không có điều kiện gặp trực tiếp, phù hợp
với xu hướng hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19.
Ngoài ra, tại Điều 10 của HĐGC, các bên có thỏa thuận mọi tranh chấp phát
sinh nằm ngoài hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng thương lượng hữu nghị giữa
hai bên. Trường hợp không thương lượng được thì trong vòng 30 ngày kể từ ngày
tranh chấp, mỗi bên đều có quyền đưa ra tranh chấp này để nhờ sự can thiệp của
hội đồng trọng tài thương nghiệp và công nghiệp Việt Nam, sự phán quyết của ủy
ban này có giá trị quyết định sau cùng cho cả hai bên. Như vậy, các bên chỉ chú
trọng đến 02 phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng và trọng tài. Trong
tương lai, cần bổ sung lựa chọn phương thức “giải quyết tranh chấp bằng hòa giải
thương mại. Đồng thời, việc thỏa thuận một trung tâm trọng tài cụ thể là hội đồng
trọng tài thương nghiệp và công nghiệp Việt Nam sẽ dẫn đến khả năng thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được “Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh
chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm
dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận
được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp” theo khoản
1 Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Hội
76
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
Luật Trọng tài thương mại. Khi đó việc thỏa thuận thêm phương thức giải quyết
tranh chấp khác là điều cần thiết.
Nhóm 2: Nghiên cứu bổ sung một số điều khoản khác trong hợp đồng.
Cần bổ sung các điều khoản về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng,
đặc biệt liên quan đến chế tài phạt vi phạm cũng như những trường hợp bồi thường
thiệt hại cụ thể. Việc thỏa thuận này sẽ nâng cao trách nhiệm của các bên trong
việc thực hiện HĐGC.
Ngoài ra, đối với các HĐGC có yếu tố nước ngoài, các bên nên thỏa thuận
thêm nội dung pháp luật áp dụng. Bởi lẽ, theo Điều 14 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 quy định: (i) Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng
trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; (ii) Đối với tranh
chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa
chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết
định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất; (iii) Trường
hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể
liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán
quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng
đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Như vậy, việc
lựa chọn áp dụng pháp luật là cần thiết, làm cho việc giải quyết tranh chấp rõ ràng
hơn, đồng thời, nên thỏa thuận lựa chọn luật Việt Nam để được thuận tiện hơn
trong việc tiếp cận pháp luật về HĐGC.
Tiếp tục nghiên cứu và đưa vào HĐGC các quy định về thủ tục hải quan,
kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để
sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo mục 4 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25
tháng 3 năm 2015 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám
sát hải quan; thuế xuất khẩu, nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu, tương lai có thể là văn bản mới của cơ quan này như: Thủ tục
77
hải quan nhập khẩu nguyên liệu, vật tư và xuất khẩu sản phẩm; Thủ tục xử lý phế
liệu, phế phẩm tiêu thụ nội địa; Thủ tục hải quan đối với trường hợp bán sản phẩm
cho tổ chức, cá nhân khác để trực tiếp xuất khẩu.
Thứ hai, đội ngũ pháp chế của Công ty cần tiếp tục nghiên cứu các quy
định liên quan đên các trường hợp vi phạm hợp đồng do dịch bệnh Covid-19.
Mặc dù, có sự kiện dịch bệnh đang diễn ra, tuy nhiên, để được xem là sự
kiện bất khả kháng chỉ khi bên có hành vi vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép nhưng vẫn không thể thực hiện đúng hợp đồng thì mới
được xem là sự kiện bất khả kháng. Điều này, pháp luật bắt buộc bên vi phạm hợp
đồng phải có nghĩa vụ chứng minh trường hợp miễn trách nhiệm.
Song song đó, đối với thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
nguyên nhân xảy ra phải là nguyên nhân khách quan, tức là không phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của bất kỳ bên nào. Điều này cũng đồng nghĩa với việc những
trường hợp có chủ đích, có tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho một
sự kiện diễn ra dẫn đến bên còn lại bị bất lợi thì sẽ không đáp ứng được điều kiện
của sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản.
Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng
có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Tuy
nhiên, thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp các bên không thể đàm phán lại hợp đồng,
trong trường hợp đó cần phải có chủ thể thứ ba trung gian để đưa ra quyết định
phù hợp cho các bên. Theo đó, trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về
việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu
Tòa án: (i) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định; (ii) Sửa đổi hợp đồng
để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt
hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu
được sửa đổi. Và trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án
giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
78
Việc phân định các trường hợp nêu trên có ý nghĩa trong việc xác định hậu
quả pháp lý khi dịch bệnh xảy ra, nếu là sự kiện bất khả kháng thì bên bị vi phạm
có thể được miễn trách nhiệm, còn nếu là thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản thì có thể chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định hoặc sửa đổi
hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở những hạn chế, bất cập về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật HĐGC; trong nội dung chương 3, Luận văn giải quyết các vấn đề sau đây:
Một là, xây dựng định hướng hoàn thiện pháp luật HĐGC thương mại, chú
trọng đến việc hoàn thiện pháp luật HĐGC trên cơ sở hội nhập, bảo đảm sự phù
hợp với các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và
pháp luật, tập quán thương mại quốc tế. Đồng thời, hoàn thiện pháp luật HĐGC
phải tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa BLDS và LTM, đảm bảo hài
hòa quyền, nghĩa vụ các bên.
Hai là, đề xuất các giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật HĐGC,
khắc phục sự chồng chéo giữa BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 gồm sửa đổi,
bổ sung các quy định về vấn đề giao kết HĐGC; về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong HĐGC theo hướng thống nhất giữa BLDS và LTM; về nghĩa vụ chứng minh
thiệt hại trong HĐGC theo hướng quy định cho các bên thỏa thuận một mức bồi
thường thiệt hại cố định. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung các quy định về phương thức
giải quyết tranh chấp HĐGC liên quan đến việc xác định Tòa án có thẩm quyền
đối với hoạt động Trọng tài.
Ba là, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật HĐGC
thương mại trong thời gian tới như: Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan
quản lý Nhà nước; Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trách nhiệm, giàu kiến
thức, kỹ năng, trong sạch hướng đến nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp
HĐGC thương mại. Đồng thời, tăng cường hợp tác, trao đổi quốc tế về giải quyết
79
tranh chấp HĐGC thương mại cũng như các giải pháp cụ thể đối với Công ty
TNHH Max Succeed gồm tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các điều khoản của HĐGC
giữa Công ty với đối tác để việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả hơn và đội ngũ
pháp chế của Công ty cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đên các
trường hợp vi phạm hợp đồng do dịch bệnh Covid-19.
KẾT LUẬN
HĐGC trong thương mại có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh hoạt
động gia công ngày càng phát triển như hiện nay, đó là cơ sở pháp lý vững chắc
ghi nhận mối quan hệ giữa các bên, là cơ sở để giải quyết khi phát sinh tranh chấp.
HĐGC thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một bên thực hiện
các công việc theo yêu cầu để tạo ra sản phẩm cho bên kia và hưởng thù lao. Việc
nghiên cứu pháp luật về loại hợp đồng này có ý nghĩa sâu sắc trong thực tiễn và
lý luận.
Kết thúc Luận văn, học viên đã làm sáng tỏ các nội dung sau:
Một là, về mặt lý luận: Luận văn đã khái quát các cơ sở khoa học về HĐGC
thương mại như làm rõ khái niệm, đặc điểm, phân biệt giữa HĐGC trong thương
mại và gia công trong dân sự, lược sử hình thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC
cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC trong
thương mại.
Hai là, về mặt pháp luật: Luận văn đã làm rõ được thực trạng pháp luật của
HĐGC thương mại qua việc phân tích, đánh giá các quy định của BLDS năm 2015,
LTM năm 2005 và nhiều văn bản khác có liên quan về giao kết hợp đồng; thực
hiện hợp đồng; các chế tài xử lý vi phạm và phương thức giải quyết tranh chấp
hợp đồng. Trên cơ sở đó, rút ra những ưu điểm, bất cập trong các quy định này và
đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐGC thương mại.
Ba là, về mặt thực tiễn: Luận văn đã làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật
về HĐGC thương mại giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 từ thực Công ty
80
TNHH Max Succeed. Qua đó phân tích, đánh giá những thành công đã đạt được;
những vướng mắc, hạn chế còn tồn tại; đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện các quy định này trong thời gian sắp tới.
Với thời gian hạn hẹp, vốn kiến thức ít ỏi, luận văn không tránh khỏi những
sai sót, học viên rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy Cô giúp cho Luận văn
81
được hoàn chỉnh hơn.