Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
lượt xem 13
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau" gồm các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện; Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau; Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÂM NGỌC SƠN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÂM NGỌC SƠN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngoài việc phát huy nguồn nhân lực để đưa nền kinh tế phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, mặt khác phải không ngừng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, trước hết là bảo hiểm xã hội để giúp người lao động có thêm tiềm lực chống đỡ, vượt qua rủi ro. Do vậy, chính sách bảo hiểm xã hội luôn là vấn đề nóng vì có sự chi phối của các quy luật nền kinh tế thị trường, nó luôn có sự cạnh tranh gay gắt, xã hội đang diễn ra sự phân chia với một ranh giới rõ ràng giữa người chủ và người lao động. Lẽ đó, người lao động cần có sự tương trợ trong cuộc sống do các rủi ro mang lại, vì vậy mà việc xác định đúng đắn vị trí của bảo hiểm xã hội trong cuộc sống, sự tác động của nó đối với người lao động còn là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Đặc biệt, là trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, hệ thống an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội càng phải được phát triển đồng bộ và toàn diện hơn, đáp ứng được người lao động và cho nhân dân; bởi lẽ, thực hiện bảo hiểm xã hội đối với mọi người lao động là thực hiện sự công bằng giữa mọi người thuộc các thành phần kinh tế. Do đó, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, coi trọng thực hiện các chính sách an sinh xã hội, cụ thể rõ nét nhất là hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, đây là mục tiêu quan trọng và thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp xu thế chung của quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Từ khi thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội đến nay, Nhà nước ta đã nhiều lần thay đổi, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, với mục tiêu phấn đấu là để mọi người lao động đều sống và làm việc trong môi trường có bảo hiểm, mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tại Đại hội Đại biểu toàn 1
- quốc lần thứ IX của Đảng nêu: “Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”; tới Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ, giải pháp là: “Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội” [15]; đồng thời, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tiếp tục chỉ rõ: “Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước”, chính vậy việc xây dựng chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng là phù hợp thực tiễn và rất cần thiết, bởi chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ áp dụng cho đối tượng không thuộc diện làm công ăn lương, không được bảo vệ bằng bảo hiểm xã hội bắt buộc, những đối tượng làm nghề tự do, những người nông dân v.v… mà trong nền kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay, đối tượng này rất rộng lớn. Mặc dù, bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được triển khai trong nhiều năm qua, hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức bộ máy đến huyện và cấp xã đều có đại lý tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tham gia. Tuy nhiên, thời gian qua số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ cũng như mục tiêu của Đảng, Nhà nước đề ra. Nguyên nhân chủ yếu việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm lao động của nhóm đối tượng tham gia ở nước ta như: trình độ học vấn, nhận thức xã hội, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, thu nhập thiếu ổn định,… và chưa phù hợp với nhu cầu chung về bảo hiểm của người lao động, nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đất nước ta đang có những thay đổi quan trọng để hội nhập theo xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở 2
- đó, cho thấy việc thực thi loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là thật sự cấp thiết và sao cho phải phù hợp với nguyện vọng, khả năng đa số người lao động, đó là yếu tố quyết định. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế, với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta nói chung và việc thực thi tại huyện Phú Tân, góp phần đưa chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống người dân hiệu quả nhất. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều cách với những cấp độ khác nhau. Một số công trình tiêu biểu đã được thực hiện dưới dạng đề tài tốt nghiệp cấp độ Thạc sĩ như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Dương Thảo Phương (thực hiện năm 2014), “Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Võ Thị Hạnh Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội (thực hiện năm 2015). Ngoài ra, còn có các đề tài được trình bày, nghiên cứu dưới dạng bài báo tạp chí khoa học như: “Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện của một số nước trên thế giới” của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đăng trong Thông tin Khoa học bảo hiểm xã hội, số 3/2014; “Phân tích thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự do” của Nguyễn Thị Thúy, Báo Công thương online; “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện” của Nguyễn Xuân Thu, đăng trên Tạp chí Luật học, số 9 năm 2006; Giáo trình Luật an sinh xã hội do PGS.TS Nguyễn Hữu Chí chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2012,... Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó kết hợp với thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau, nhằm bổ sung thêm vào hệ thống lý luận về bảo hiểm xã hội tự 3
- nguyện, qua đó đề ra một số giải pháp, kiến nghị để từng bước hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Tìm hiểu, nghiên cứu lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng; phân tích thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện, việc vận dụng triển khai thực hiện pháp luật này thực tiễn tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Từ những bất cập trong quy định của pháp luật và áp dụng trong thực tiễn tại địa phương để đưa ra một số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện. - Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện. - Phân tích, đánh giá thực tiễn việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực thi tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. 4
- Cùng với đó, luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện trên cơ sở các tài liệu, số liệu trong những năm gần đây của bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện như: đối tượng, chế độ hưởng, tài chính, trình tự, thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Luận văn không nghiên cứu các nội dung về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm xã hội tự nguyện. - Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng tại địa bàn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2018 – 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của học thuyết Mác - Lênin bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích và tổng hợp, so sánh, liệt kê; kết hợp với phương pháp nghiên cứu thực tiễn, dự báo khoa học. Tùy từng nội dung mà các phương pháp nghiên cứu này được sử dụng linh hoạt, kết hợp hoặc riêng rẽ với nhau. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa khoa học: Luận văn khái quát hệ thống và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Trên cơ sở những bất cập, hạn chế, luận văn 5
- mạnh dạn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp kiến thức cho những người đang làm công tác thực tiễn về bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng, cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Qua đó, giúp họ thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện đúng, đảm bảo quyền lợi. Bên cạnh đó, đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên, nhà nghiên cứu quan tâm đến pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện. Việc đi sâu tìm hiểu đề tài là vấn đề lớn, nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. 7. Kết cấu luận văn Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội Theo Bách khoa toàn thư mở (Trang thông tin điện tử Wikipedia Việt Nam): "Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội" [37]. Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Về nội dung, cả hai khái niệm nêu trên không có gì khác biệt. Tuy nhiên khái niệm về bảo hiểm xã hội theo từ điển Bách khoa được trình bày chi tiết phù hợp với cách tiếp cận bảo hiểm xã hội có sự bảo hộ của Nhà nước, còn khái niệm bảo hiểm xã hội theo Luật bảo hiểm xã hội phù hợp hơn với xu thế của nền kinh tế mở, kinh tế hội nhập hiện nay. Để có một khái niệm thống nhất trong việc nghiên cứu bảo hiểm xã hội tại Việt Nam, trên phương diện lý thuyết bảo hiểm xã hội được khái quát như 7
- sau: Bảo hiểm xã hội là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện thông qua việc tạo lập quỹ tài chính bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. Với khái niệm bảo hiểm xã hội này, ta có thể tiếp cận về bảo hiểm xã hội trên cả phương diện kinh tế và phương diện xã hội. Song, về mặt bản chất bảo hiểm xã hội là “bù đắp” khoản thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện Xét về sự tự nguyện, có thể hiểu một cách đơn giản đó là sự lựa chọn và hành động tự do trong ý thức, bắt nguồn từ những tác nhân được xem xét dựa trên lý trí để đạt đến một mục đích nào đó, theo cách này chủ thể điều khiển được chính bản thân trong những hành động và quyết định của chính mình [23, tr.9]. Quá trình lao động, con người có thể gặp những sự cố bất thường như lủ lụt, hạn hán, hỏa hoạn, bệnh tật,... dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản; đó là những rủi ro ngoài tầm kiểm soát, người lao động không mong muốn xảy ra. Với tiến trình xã hội ngày càng phát triển thì những rủi ro có xu thế tăng, nên nhu cầu về bảo hiểm xã hội của người lao động ngày càng lớn. Để đảm bảo thu nhập tài chính khi gặp rủi ro đến thì cần sự tương trợ giúp đỡ của cộng đồng, mà bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt buộc như là một yếu tố khách quan, thật sự là nhu cầu cần thiết cho người lao động. Song, trước khi có bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải tất cả người lao động thuộc các thành phần kinh tế ai cũng đều được tham gia, mặc dù họ có nhu cầu. Trong môi trường lao động, nếu như người lao động làm việc tại khu vực chính thức được chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc thì sẽ có điều kiện nguồn lực hỗ trợ vượt qua khó khăn nếu rủi ro không may đến; nhưng đối với 8
- những người lao động không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì lại không có điều kiện tài chính, cơ chế tự bảo vệ mình một cách phù hợp với điều kiện sống thiếu đảm bảo và thu nhập không ổn định. Chính vậy, ngoài bảo hiểm xã hội bắt buộc thì loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng đa số người lao động. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm” [30, tr.85] Ở Việt Nam, khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện lần đầu tiên được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 như sau: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội. Đến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tiếp tục phát triển hoàn thiện khái niệm hơn, cụ thể tại Khoản 3, Điều 3 nêu: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”. Có thể thấy, định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật Việt Nam năm 2014 đã có sự bổ sung cụ thể hơn, hoàn thiện hơn so với Luật bảo hiểm xã hội 2006. Theo đó, định nghĩa này đã nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời định nghĩa đưa ra cụ thể hai chế độ mà người tham gia được hưởng. Tuy nhiên việc quy định các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong khái niệm này phần nào làm hạn chế việc mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong tương lai. 9
- 1.1.1.3. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện Hiện nay, bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện rộng rãi trên thế giới. Tại mỗi quốc gia có quan điểm, đường lối, trình độ phát triển dân trí khác nhau thì chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có những điểm khác nhau; tên gọi chính sách đôi khi cũng khác nhau nhưng cho cùng mục đích là cấp hỗ trợ an sinh xã hội cho công dân đất nước mình. Dù trình độ dân trí có khác nhau nhưng loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia, bằng cách đóng góp một phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách xã hội của quốc gia nhưng đồng thời cũng là công cụ của Nhà nước nhằm tham gia vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý giữa các tầng lớp xã hội. Tại Việt Nam, pháp luật bảo hiểm xã hội ra đời năm 1945 khi bắt đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tuy nhiên các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Việt Nam mới được cụ thể tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và được sửa đổi, hoàn thiện hơn trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động bảo hiểm xã hội trong đó bao gồm các quy định về đối tượng tham gia, mức đóng phí, mức hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, mức phí và phương thức đóng phí bảo hiểm xã hội tự nguyện và các nội dung liên quan khác. Do vậy, có thể hiểu pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những quy định do Nhà nước ban hành, quy định về đối tượng tham gia, mức phí và phương thức đóng phí, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, thủ tục hưởng quyền lợi, quản lý của nhà nước và vấn đề khác về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tóm lại, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những chính sách do Nhà nước ban hành quy định các hình thức đảm bảo điều kiện 10
- vật chất, tinh thần cho người lao động và thành viên trong gia đình trong trường hợp bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động, mất việc làm, khi họ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. 1.1.1.4. Phân biệt bảo hiểm xã hội tự nguyện với loại hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại) * Sự giống nhau: Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là có sự đóng góp của đối tượng tham gia thì mới được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại hình này đều nhằm bù đắp tài chính cho đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ bị rủi ro trong khuôn khổ hình thức bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này đều mang tính cộng đồng, lấy số đông bù cho số ít, mang tính chất cộng đồng chia sẽ rủi ro. * Sự khác nhau: - Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên của gia đình họ; tức là, hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Còn đối với mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. - Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ diễn ra trong từng quốc gia, với từng chính sách bảo hiểm xã hội riêng biệt phù hợp với điều kiện quốc gia đó, mà nó sẽ trực tiếp liên quan đến người lao động và các thành viên gia đình của họ. Về mức đóng, hình thức đóng, thời gian đóng, mức hưởng dựa trên tiền lương, mức thu nhập của họ; khi có chính sách thay đổi tiền lương hoặc chỉ số giá sinh hoạt tăng thì cũng sẽ được điều chỉnh phù hợp để ổn định cuộc sống người lao động và đảm bảo cho họ tham gia để được thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội 11
- Còn phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại không chỉ diễn ra trong mỗi quốc gia mà còn sang những quốc gia khác, trên toàn thế giới; các sản phẩm của bảo hiểm thương mại có mặt hầu hết trên tất cả lĩnh vực kinh tế xã hội. Hoạt động bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế thị trường và nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Nội dung hoạt động rất rộng, không chỉ đảm bảo rủi ro về người mà còn đảm bảo rủi ro các đối tượng khác như: công trình, hàng hóa, phương tiện,... Ứng với mỗi gói sản phẩm và mức đóng góp nhất định mà công ty bảo hiểm đưa ra thì khi có sự kiện rủi ro xảy ra người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận một mức quyền lợi tương ứng được quy định trước, do đó quan hệ giữa mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm là quan hệ tương đồng. - Bảo hiểm xã hội tự nguyện ngoài việc là một chính sách xã hội và đồng thời cũng là một công cụ nhà nước tham gia vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân đảm bảo hài hòa, phù hợp với tầng lớp dân cư. Mặc dù, nguồn kinh phí thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện do người sử dụng lao động và người lao động đóng góp nhưng đều do nhà nước bảo hộ, đảm bảo quỹ bảo hiểm không bị vỡ và cũng nhằm giảm gánh nặng cho nguồn ngân sách nhà nước và thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài, bền vững. Còn bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Bảo hiểm thương mại chỉ hoạt động mà nơi đó doanh nghiệp chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm tham gia để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm khi có sự kiện rủi ro xảy ra mà các bên đã thỏa thuận trước thông qua hợp đồng bảo hiểm. - Mối quan hệ giữa người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn và trọn đời. Còn đối với mối quan hệ của người được bảo hiểm và người bảo hiểm trong bảo hiểm thương mại là có thời hạn, thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân thọ). 12
- 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện - Dưới góc độ chính trị xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm trù xã hội thuộc hệ thống các chính sách xã hội, đây cũng là một trong những giải pháp góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân của một đất nước. - Đối với góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập cho người lao động khi đối mặt với sự kiện rủi ro khách quan mà họ không lường trước được dẫn đến tình trạng giảm hoặc mất khả năng lao động. [13] - Còn đối với góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức và quản lý mà trong đó người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn tham gia, lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Do đó, cho thấy rằng: Thứ nhất, về đối tượng bảo hiểm xã hội tự nguyện có đối tượng áp dụng rộng rãi và việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện dựa vào ý chí của người tham gia. Do tính chất tự nguyện của loại bảo hiểm xã hội này nên nhà nước không bắt buộc người lao động tham gia; đây cũng là một trong những tiêu chí phân biệt giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Khi không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tham gia hoặc không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Thứ hai, người tham gia tự chọn mức đóng và phương thức đóng, phù hợp với thu nhập và điều kiện thực tế của người tham gia (như là có thể lựa chọn thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn; phương thức đóng có thể là đóng hàng tháng, 03 tháng hoặc 06 tháng một lần;…). Vấn đề này được nhà nước quy định linh hoạt, xuất phát từ đặc điểm của đối tượng tham gia chủ yếu là người lao động có thu nhập bấp bênh, việc làm thiếu ổn định. 13
- Thứ ba, ngoài sự đóng góp của người lao động, thì còn được nhà nước hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội. Để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hôi tự nguyện, nhà nước có quy định cụ thể về mức hỗ trợ tiền đóng (cụ thể tại Điều 14 Nghị định 134/2015/NĐ-CP) Thứ tư, về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện không thực hiện tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ thực hiện một số chế độ nhất định như: chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Cụ thể, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khi đủ 60 tuổi đối với nam; 55 tuổi đối với nữ và đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu; đối với chế độ tử tuất thì được giải quyết hưởng trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất theo quy định. 1.1.3. Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện - Bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của người tham gia. Đây là nguyên tắc đặc trưng của loại hình này; chính nguyên tắc này tạo điều kiện cho mọi người lao động trong xã hội tham gia, dù giữa họ có sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nhiên, sự tự nguyện này còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố mệnh lệnh; thể hiện ở việc nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện rất cụ thể và chặt chẽ áp dụng cho cả nước, các cơ quan bảo hiểm xã hội không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, quy định nào khác thêm. - Trong quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự linh hoạt nhưng cũng có giới hạn nhất định. Đặc trưng này nhằm đảm bảo sự bình đẳng, hài hòa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện; tránh sự chênh lệch quá lớn về đời sống của những người cùng hưởng bảo hiểm, cũng nhằm tránh gây mất cân đối cho quỹ bảo hiểm xã hội khi chi trả bảo hiểm. - Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện phải đảm bảo sự liên thông giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, khi quan hệ lao động luôn có sự 14
- thay đổi không ngừng trong điều kiện kinh tế có nhiều sự chuyển biến như sự chuyển dịch của cơ cấu ngành, lãnh thổ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu thành phần lao động, khu vực lao động,... hoặc là có sự yêu cầu về trình độ kỷ thuật, tay nghề ngày càng cao dẫn đến người lao động sẽ chuyển từ khu vực chính thức sang phi chính thức và ngược lại. Do đó, người lao động có quyền tham gia bảo hiểm xã hội theo đúng loại hình dù ở bất kỳ khu vực môi trường lao động nào, đảm bảo sự liên tục, thông suốt quá trình đóng bảo hiểm xã hội. 1.1.4. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.4.1. Tạo điều kiện để nhà nước thực hiện chỉnh sách kinh tế xã hội Trong những năm qua, bảo hiểm xã hội ngày càng phát triển toàn diện, số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng đông và ngày càng được mở rộng ra các thành phần kinh tế khác nhau, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện đã tạo điều kiện cho hàng triệu người lao động làm việc ở vùng nông thôn có thể tham gia bảo hiểm xã hội để họ yên tâm làm việc, gắn bó và phát triển nông nghiệp, nông thôn, giảm sức ép di dân ra các đô thị. Đồng thời, còn giúp thu hút lao động về làm việc tại các vùng nông thôn, miền núi để cho nhà nước thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển xã hội lành mạnh, cân bằng giữa các vùng miền, khôi phục và phát triển các làng nghề nhằm phát huy sức mạnh của tất cả các nguồn lực xã hội. Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện có hiệu quả một số chính sách xã hội khác như chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Vì hiện nay, đại bộ phận lao động khi tuổi già, mất sức, ốm đau không có thu nhập để sống, có tâm lý chung là phải đẻ nhiều con để được nương nhờ khi già yếu. Với tâm lý đó, mặc dù có nhiều cặp vợ chồng đã có 2, 3 con thậm chí 4, 5 con nhưng vẫn đẻ thêm để mong được nương nhờ vào các con khi tuổi già. Như vậy, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người lao động khi già yếu, góp phần xóa đi tâm lý “trẻ cậy cha, già cậy con”. 15
- 1.1.4.2. Tăng cường nội lực, kích thích phát triển nền kinh tế Trong đời sống xã hội con người có an cư mới lập nghiệp, việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội sẽ tạo cho người lao động an tâm công tác, lao động sản xuất. Trong định hướng chiến lược phát triển đất nước đã đặt ra đó là tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế xã hội nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường; tăng cường nội lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại; chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ; tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường và thúc đẩy cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường thì yếu tố phát triển thị trường vốn và tiền tệ cũng rất được quan tâm chú trọng. Nếu xét trên phương diện tài chính thì nguồn thu bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi cũng có thể được coi là nguồn vốn bổ sung, hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp và trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở. Mặt khác, việc thu hút đông đảo đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, về mặt chính trị sẽ đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội, về mặt tài chính thì thông qua chính sách bảo hiểm xã hội sẽ tập trung được lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân phục vụ cho việc đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra việc hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, từ đó giúp cho việc tập trung đầu tư vào các mũi nhọn kinh tế có trọng điểm từ nguồn ngân sách nhà nước có hiệu quả hơn. 16
- 1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện Theo pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm có các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành sau: Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Nghị định 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo hiểm xã hội về BHXH tự nguyện. Thông tư số 01/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo đó, pháp luật quy định một số nội dung cơ bản sau: 1.2.1. Về đối tượng tham gia Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/04/2017 của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, bao gồm: - Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 03 tháng trước ngày 01/01/2018; người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng từ ngày 01/01/2018 trở đi. - Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, ấp, bản, sóc, làng, tổ dân phố, khu, khu phố; - Người lao động giúp việc gia đình. - Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không hưởng tiền lương. - Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. - Người nông dân, người lao động tự tạo việc làm bao gồm những người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 106 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 78 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 183 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 20 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn