Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
lượt xem 16
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh" gồm những nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật hộ kinh doanh; Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh và thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh; Định hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Tây Ninh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ MINH TUẤN HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ MINH TUẤN HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. DƯƠNG ANH SƠN HÀ NỘI - 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, bên cạnh hệ thống loại hình doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, hộ kinh doanh cũng là một mô hình pháp lý quan trọng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Cùng với các loại hình kinh doanh khác, sự phát triển của hộ kinh doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các hộ kinh doanh của Việt Nam hiện nay chưa phát huy được hết các tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh như: quy mô nhỏ bé, phân tán, manh mún, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề của người lao động thấp, sức cạnh của hàng hóa thấp.Bên cạnh doanh nghiệp thì hộ kinh doanh là một trong những phương tiện mà pháp luật đã tạo ra để các chủ thể có thể hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh của mình. Hiện nay, số lượng hộ kinh doanh trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng chiếm số lượng lớn và tỷ lệ áp đảo so với số lượng doanh nghiệp. Việc hình thành và phát triển hộ kinh doanh có vai trò đóng góp tích cực đối với nền kinh tế như các đóng góp về việc giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, phát triển kinh tế thị trường, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Các hộ kinh doanh được biết đến với thực trạng chung là quy mô kinh doanh nhỏ hẹp, phù hợp với tâm lý nói chung của đại bộ phận người dân là kinh doanh nhỏ lẻ, đủ ăn. Trên thưc tế hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh tại Việt Nam hiện nay chưa phát huy được hết các tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh như: quy mô nhỏ bé, manh mún, phân tán, trình độ tay nghề 1
- của người lao động còn thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, vốn ít… Để đảm bảo cho các hộ kinh doanh phát huy được hết vai trò của mình và phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội cũng như yêu cầu của công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, một hệ thống pháp luật phù hợp và toàn diện về hoạt động kinh doanh góp phần không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó cũng có nhiều hộ kinh doanh lớn, hoạt động phát triển tốt thì vấn đề chuyển đổi mô hình từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp cũng là vấn đề cần được Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện. Tây Ninh là địa phương có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế. Thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân, cải thiện môi trường kinh doanh, coi “doanh nghiệp là động lực phát triển kinh tế của đất nước”, UBND tỉnh Tây Ninh đã ban hành Quyết định số 4165/QĐ-UBND về Đề án “Hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đến năm 2020”. Với số lượng lớn trên địa bàn thành phố, hộ kinh doanh chính là một trong những đối tượng được hỗ trợ để chuyển đổi thành loại hình doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, trong thời gian qua số lượng hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp còn khá ít hay số lượng hộ kinh doanh không quá mặn mà với chủ trương chuyển đổi nêu trên. Xuất phát từ thực tế này, tác giả lựa chọn đề tài: “Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu pháp luật về hộ kinh doanh dưới góc độ nghiên cứu luật học, có thể kể đến một số công trình sau: Bài viết của TS. Ngô Huy Cương (2009), “Phân tích pháp luật về hộ 2
- kinh doanh để tìm ra các bất cập”; Hoàng Minh Sơn (2012), “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội [24]; Trần Ngọc Trà (2016), “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Mở Hà Nội [28]; Trần Ngọc Dũng (2014), “Hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 9/2014, tr.42- 29 [10]; Vũ Thị Ngọc Anh (2014), “Địa vị pháp lý của hộ kinh doanh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội [1]; Tổng cục Thống kê (2015), “Kết quả điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 2014”, Hà Nội… Như vậy với nội dung nghiên cứu về hộ kinh doanh đã có các công trình nghiên cứu khá cụ thể, chi tiết những đặc điểm, bản chất và vai trò của hộ kinh doanh cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về hộ kinh doanh trong nền kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về hộ kinh doanh và đặc biệt làm rõ được vấn đề thực tiễn chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh cũng như những chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với hộ kinh doanh trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, trên cơ sở thừa kế có chọn lọc các công trình khoa học đã được công bố, tác giả hy vọng góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề pháp lý cũng như chủ trương, chính sách chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp qua thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm khuyến khích hộ kinh doanh phát triển trong quá trình hội nhập hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
- Trên cơ sở nghiên cứu sự hình thành và phát triển hộ kinh doanh ở Việt Nam và những quy định của pháp luật hiện hành, mục đích của luận văn là làm sáng tỏ vấn đề về hộ kinh doanh dưới góc độ các quy định của pháp luật thực định về hộ kinh doanh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các vấn đề liên quan đến thực hiện pháp luật hộ kinh doanh địa bàn tỉnh Tây Ninh; từ đó tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hộ kinh doanh và đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ kinh doanh. Trên cơ sở đó, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh, pháp luật về hộ kinh doanh. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Tây Ninh Thứ ba, từ đó đề xuất ra những phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh mà trọng tâm là các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành về hộ kinh doanh. Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung vào nội dung các quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp 2019), thực tiễn thực hiện pháp luật (Luật doanh nghiệp 2014) về hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4
- Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống, thống nhất và có hiệu quả, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu: tổng hợp và phân tích, suy luận logic, thống kê, so sánh đối chiếu. Các phương pháp nghiên cứu sẽ giúp làm sáng tỏ những luận cứ khoa học trong phạm vi nghiên cứu đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về hộ kinh doanh trên cơ sở phân tích pháp luật qua từng thời kỳ, so sánh với pháp luật thực tại đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và thúc đẩy hộ kinh doanh trong bối cảnh hiện nay. Luận văn còn cập nhật chủ trương, chính sách mới về chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp qua thực tiễn tại địa phương cụ thể là tỉnh Tây Ninh, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hộ kinh doanh trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật hộ kinh doanh Chương 2: Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh và thực tiễn tại tỉnh Tây Ninh Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ kinh doanh tại tỉnh Tây Ninh 5
- Chương 1 LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT HỘ KINH DOANH 1.1. Khái quát về hộ kinh doanh 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh 1.1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh Có thể nói, hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh xuất hiện rất sớm ở nước ta và cho đến nay hình thức này vẫn khẳng định được vai trò của mình đối với nền kinh tế. Trước đây, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, bối cảnh phát triển thực tiễn mà quan điểm về hộ kinh doanh tại Việt Nam được gọi dưới các tên gọi khác nhau như “tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa”; “hộ cá thể”; “hộ tiểu công nghiệp”; “hộ kinh doanh cá thể”... Tên gọi “tổ chức sản xuất hàng hóa” được sử dụng trong giai đoạn trước đổi mới, như: thợ thủ công, nông dân cá thể, người làm dịch vụ nhỏ được phép kinh doanh sau khi được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp Giấy môn bài [10]. Từ sau đổi mới (năm 1986), cùng với chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hộ kinh doanh đã chính thức được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Trong Nghị đinh 27/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 9/3/1988 thừa nhận ba hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm hộ cá thể, hộ tiểu thủ công nghiệp và xí nghiệp tư doanh. Trong đó hộ cá thể được giải thích: “hộ cá thể: tư liệu sản xuất và các vốn là sở hữu của người chủ đứng tên đăng ký kinh doanh; chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp. Những người lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, các con và nếu 6
- là người thân phải có tên trong sổ đăng ký hộ khẩu của chủ đăng ký kinh doanh, có thể thuê mướn lao động thời vụ; thu nhập sau khi đóng thuế thuộc sở hữu của chủ hộ”. Quan niệm về hộ cá thể theo Nghị định này có thể hiểu là các cá nhân tự do kinh doanh, thương nhân, thể nhân thực hiện hoạt động kinh doanh và là người lao động cho chính mình. [25] Nghị định số 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến hộ kinh doanh với cái tên “hộ kinh doanh cá thể”, theo đó, trong nghị định này quy định: “Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Tiếp đó, ngày 02/4/2004, Chính phủ lại ban hành Nghị định số 109/2004/NĐ-CP để thay thế Nghị định 02/2000/NĐ-CP. Theo đó, định nghĩa về hộ kinh doanh có sự bổ sung khi đưa ra tiêu chí về nhận diện hộ kinh doanh cá thể là về số lượng người lao động của hộ là không quá mười lao động [25]. Tên gọi “hộ kinh doanh cá thể” chính thức được rút gọn thành “Hộ kinh doanh” tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP. Như vậy, theo quy định này, phạm vi chủthểtham gia hộ kinh doanh đã có sự mở rộng hơn. Đó là bên cạnh cá nhân và hộ gia đình, một nhóm người cũng có quyền thành lập hộ kinh doanh để hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh của mình [25]. Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp vẫn giữ nguyên cách hiểu và định nghĩa về hộ kinh doanh cho đến năm 2015, sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời [7], Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp cũng đã có một số thay đổi về khái niệm hộ kinh doanh tại điều 66, cụ thể như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công 7
- dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”[9]. Đây được coi là cơ sở pháp lý hiện hành về hộ kinh doanh. Với quy định này, khái niệm về hộ kinh doanh đã được thay đổi về mặt từ ngữ để đầy đủ và chặt chẽ hơn so với quy định trước đó. 1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh Thứ nhất, hộ kinh doanh có thể do một cá nhân, một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ. Theo quy định pháp luật hiện hành, có ba nhóm đối tượng sau có thể thành lập hộ kinh doanh: Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người. Trước năm 2006, chủ thể có quyền thành lập hộ kinh doanh chỉ có thể là cá nhân và hộ gia đình. Sau khi có Nghị định số 88/2006/NĐ-CP, một đối tượng cũng có quyền thành lập hộ kinh doanh là một nhóm người. Việc pháp luật mở rộng đối tượng có quyền thành lập hộ kinh doanh cho một nhóm người đã phần nào làm giảm đi tính cá thể, tính hộ gia đình trong bản chất của hộ kinh doanh và làm tăng tính hội nhập cho hình thức này [25, tr.264]. Việc phân tích các đối tượng có quyền thành lập hộ kinh doanh sẽ được trình bày phân tích và cụ thể ở phần 2.1 của luận văn. Thứ hai, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân ỞViệt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa tư cách pháp nhân mà chỉ quy định các điều kiện để một tổ chức có tư cách pháp nhân. Căn cứ vào quy định tại Điều 74 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: (i) Được thành lập theo quy định của pháp luật; (ii) Có cơcấu tổ chức chặt chẽ theo quy định của pháp luật; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác 8
- và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (iv) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập” [12]. Đối với hộ kinh doanh có một điều kiện mà xét về bản chất chủ thể này sẽ không đáp ứng được đó chính là sự độc lập về mặt tài chính. Trong hộ kinh doanh không có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của hộ và tài sản của các thành viên. Đối với hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ sở hữu thì tài sản của hộ kinh doanh cũng là tài sản của chủ hộ và ngược lại. Đối với hộ kinh doanh do một hộ gia đình hoặc một nhóm người làm chủ, mặc dù có sự góp vốn, trong quá trình hoạt động các thành viên cũng có thể phải tiếp tục bỏ tài sản riêng của mình vào để duy trì hoạt động của hộ. Do đó về mặt pháp lý, rõ ràng hộ kinh doanh không đáp ứng điều kiện để trở thành pháp nhân. Chủ hộ kinh doanh sẽ là đối tượng duy nhất có quyền hưởng mọi lợi nhuận và chịu mọi nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước khi thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trường hợp hộ kinh doanh cá thể do một hộ gia đình làm chủ thì hộ gia đình này phải cử một người đại diện. Người đại diện này sẽ thay mặt hộ thực hiện quyền và nghĩa vụ của cả hộ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người đại diện theo một cách nào đó, thì hộ sẽ không chịu trách nhiệm thay cho các thành viên khác trong gia đình. Lợi nhuận hay rủi ro sẽ chia cho các thành viên theo số vốn góp, công sức và thỏa thuận của các thành viên. Thứ ba, hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh có quy mô nhỏ Đặc điểm quy mô kinh doanh nhỏ hẹp là một trong những đặc điểm nổi bật của hộ kinh doanh. Nhắc đến hình thức tổ chức kinh doanh này, người ta thường nghĩ tới sự phù hợp đối với các nhà đầu tư có quy mô đầu tư kinh doanh nhỏ. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng đặc điểm này không phải 9
- xuất phát từ bản chất của hộ kinh doanh mà được hình thành dựa trên các quan điểm pháp lý của các nhà làm luật với mục đích xây dựng mô hình kinh doanh phù hợp với lựa chọn của các chủ thể kinh doanh nhỏ. Quy mô kinh doanh thể hiện trên các phương diện: vốn đầu tư, doanh thu, số lượng lao động, số lượng địa điểm kinh doanh. Đây cũng là những đặc điểm cơ bản để phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp. Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp thường có phạm vi lớn và ổn định, chủ yếu là trong những ngành quan trọng của quốc gia như dầu khí, công nghiệp nặng, tài chính, giao thông, xây dựng... Những ngành này đòi hỏi số vốn đầu tư lớn và trình độ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ cao. Vì vậy cho nên đối với doanh nghiệp, pháp luật cho phép được mở rộng quy mô sản xuất bằng việc tăng số vốn đầu tư, số lượng công nhân viên, nhà xưởng sản xuất hàng hóa hoặc thành lập các chi nhánh, công ty con, được ưu đãi sử dụng đất đai và các ưu đãi khác. Trước đây, Nghị định 66/HĐBT phân biệt việc kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh và các doanh nghiệp tư nhân bằng mức vốn pháp định, theo đó người kinh doanh có mức vốn thấp hơn vốn pháp định quy định cho doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay tiêu chí vốn pháp định không còn là cơ sở phân biệt hộ kinh doanh hay doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành bởi vì chỉ có doanh nghiệp tư nhân, công ty hoạt động trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện mới phải tuân thủ quy định về mức vốn pháp định. Mặc dù quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh so với các loại hình doanh nghiệp là nhỏ nhưng so với loại hình kinh doanh nhỏ lẻ như hộ nông, lâm ngư nghiệp, bán hàng rong, quà vặt... thì hộ kinh doanh không phải là loại hình kinh doanh có quy mô nhỏ nhất. Các đối tượng trên cũng tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng không ổn định, có mức thu nhập thấp hơn đối với hộ kinh doanh [25]. 10
- Như vậy, với quy mô sản xuất nhỏ, đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng không nhiều lao động, hộ kinh doanh có thể thay đổi linh hoạt phương thức hoạt động kinh doanh để đối phó với những biến động của thị trường. Trong công việc có thể dễ kiểm soát, quản lý chặt chẽ hơn. Đối với ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thì hộ kinh doanh ít có điều kiện để trang bị máy móc, thiết bị hiện đại nên công nghệ được sử dụng thường lạc hậu, kém hiệu quả hơn. Đối với hộ kinh doanh, quy định về số lượng lao động trong hộ kinh doanh không được vượt quá 10 lao động, nếu trên 10 lao động thì hộ kinh doanh phải chuyển sang các loại hình doanh nghiệp khác. Đồng thời, khi đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh phải xác định rõ địa điểm kinh doanh tại một vị trí nhất định và không được mở chi nhánh hay địa điểm sản xuất kinh doanh khác. Theo quy định hiện hành tại Điều 72 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định về địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh: “Đối với hộ kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động thì phải chọn một địa điểm cố định để đăng ký hộ kinh doanh…” [9]. Thứ tư, chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh không phải là một thực thể độc lập, tách biệt với chủ nhân của nó về nhiều khía cạnh như tài sản, tài chính. Do không có tính chất độc lập về tài sản nên chế độ trách nhiệm tài sản của hộ là vô hạn. Đối với hộ kinh doanh do cá một nhân làm chủ: cá nhân là chủ sở hữu hộ kinh doanh sẽ là người duy nhất chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt động của hộ kinh doanh. Trong trường hợp hộ kinh doanh có chung chủ sở hữu thì tất cả các thành viên trong hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tất cả tài sản 11
- của mình. Nếu số vốn chung không đủ để trả nợ, thì mỗi thành viên sẽ góp thêm bằng tài sản riêng hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ. Mức góp thêm của mỗi thành viên phụ thuộc vào thỏa thuận trong hộ kinh doanh. Trường hợp nào đó, một số thành viên không có khả năng góp thêm vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ như thỏa thuận thì các thành viên còn lại có nghĩa vụ phải lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ theo quy định. Quan hệ nợ này chỉ chấm dứt khi đã thanh toán hết các khoản nợ. Chính vì vậy đặc trưng pháp lý này tạo ra một số những thuận lợi cơ bản như: - Lợi nhuận và khả năng kiểm soát công việc kinh doanh đều thuộc về chủ hộ, vì quyền lực chỉ tập trung ở một hoặc một số chủ sở hữu. - Toàn bộ tài sản của chủ sở hữu kinh doanh là một bảo đảm cho việc thanh toán các khoản nợ của hộ, cho nên khi tham gia ký kết hợp đồng hoặc huy động nguồn vốn từ ngoài xã hội, hộ kinh doanh tạo được niềm tin về việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản đối với khách hàng và chủ nợ. - Khi vay vốn, chủ hộ kinh doanh có thể dễ dàng tiếp cận các khoản tín dụng của ngân hàng. Do khi xem xét các điều kiện, ngân hàng có thể căn cứ vào tài sản của chủ hộ chứ không chỉ căn cứ vào tài sản của hộ kinh doanh để cho vay vốn. Với đặc điểm này, chủ sở hữu chỉ được thành lập duy nhất một hộ kinh doanh cho đến khi hộ kinh doanh này chấm dứt sự tồn tại thì chủ sở hữu mới cóquyền thành lập một hộ kinh doanh khác. Bên cạnh đó hộ kinh doanh sẽ không có tư cách pháp nhân cũng như không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để thu hút vốn đầu tư. Nếu các cá nhân muốn khắc phục vấn đề trên phải lựa chọn loại hình doanh nghiệp, bởi chỉ có các thành viên của công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn và thành viên góp vốn của công ty hợp danh mới có chế độ trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ 12
- và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. 1.1.2. Vị trí, vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế Với tư cách là một trong những hình thức kinh doanh xuất hiện sớm ở nước ta, hộ kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước nhà. Có thể kể tới những đóng góp tích cực, nổi bật của hộ kinh doanh như: Thứ nhất, khu vực hộ kinh doanh có đóng góp lớn trong tạo việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội. Việc phát triển hộ kinh doanh, hiện nay đã giúp cho khoảng gần 10 triệu lao động Việt Nam có việc làm thường xuyên trong thời gian qua. Với công sức đầu tư nhỏ nhưng thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận lớn cùng với các điều kiện thành lập và hoạt động đơn giản, lực lượng lao động dồi dào cũng như không cần công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại nên hộ kinh doanh là một mô hình được nhiều cá nhân và hộ gia đình lựa chọn. Với sự phát triển nhanh chóng, hộ kinh doanh đã xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước, từ đồng bằng đến miền núi và hải đảo, biên cương của Tổ quốc. Với sự phát triển về quy mô cũng như số lượng, hộ kinh doanh đã tạo nên các điều kiện để cá nhân có môi trường lao động góp phần cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo và thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Hiện nay, khi tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao, các công việc ngày càng đòi hỏi lực lượng lao động có điều kiện, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì hộ kinh doanh với hình thức kinh doanh nhỏ lẻ hàng năm tạo ra hàng vạn việc làm mới, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như giải quyết các nhu cầu của thị trường lao động [28]. Thứ hai, hộ kinh doanh là một trong những động lực thúc đẩy tinh thần kinh doanh và phát triển kinh tế thị trường. Hộ kinh doanh còn là cơ 13
- sở huy động nguồn nhân lực lớn cho phát triển kinh tế, xã hội. Ở nông thôn, mô hình hộ kinh doanh thu hút một lượng lớn lao động nông nhàn muốn tăng thu nhập hoặc những người dân muôn chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang thủ công nghiệp. Ở thành thị, các cơ sở kinh doanh cá thể trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, thủ công nghiệp, tạo điều kiện giải quyết việc làm cho những người lao động chưa có việc làm. Đây không chỉ là việc giải quyết vấn đề xã hội mà hình thức kinh doanh này đã góp phần phát huy khả năng sáng tạo, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của người lao động. Trong thực tế, không ít các cá nhân kinh doanh đã trở thành điển hình cho những sáng kiến, phát minh tạo ra những sản phẩm mới được xã hội công nhận hay cải tiến phương pháp sản xuất, chế biến tăng năng xuất lao động… đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính những con người ấy là nguồn lực quan trọng, trong tương lai sẽ trở thành những ông chủ lớn, bứt phá khỏi quy mô nhỏ và trở thành những doanh nhân làm chủ cơ sở sản xuất quy mô lớn. Thứ ba, hộ kinh doanh có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Hộ kinh doanh có vai trò đáng kể trong tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, trực tiếp đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (trên 30% GDP). Các hộ kinh doanh không những giải quyết việc làm, tăng thu nhập mà còn là mạng lưới rộng lớn, phát triển về những vùng xa, vùng khó khăn mà các lĩnh vực kinh doanh khác không đáp ứng được. Với khoảng hơn 5 triệu hộ kinh doanh, hàng năm đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng GDP và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước [28]. Doanh thu của khu vực hộ kinh doanh liên tục tăng trong giai đoạn 2005 - 2015. Theo Thông cáo báo chí Kết quả chính thức Tổng điều tra 14
- kinh tế năm 2017 thì số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể có 5,1 triệu cơ sở với 8,7 triệu lao động [28]. Thứ tư, hộ kinh doanh góp phần tạo ra nguồn cung hàng hóa đa dạng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên nhiều lĩnh vực như loại hình doanh nghiệp (trừ những lĩnh vực có điều kiện), hộ kinh doanh cùng với doanh nghiệp đã và đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế quan trọng, cung cấp đầy đủ và kịp thời các sản phẩm và các dịch vụ thiết yếu cho toàn xã hội. Tuy số lượng sản phẩm mỗi đơn vị sản xuất ra không nhiều do số vốn nhỏ, nhưng với số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, quy mô hoạt động trên toàn quốc nên số lượng sản phẩm tạo ra lớn và đa dạng, phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng đơn giản đến các mặt hàng cao cấp, đến những sản phẩm truyền thống được xuất khẩu ra nước ngoài. Với đóng góp khoảng 30% GDP toàn quốc, có thể nói hộ kinh doanh không những góp phần tạo ra khối lượng lớn hàng hóa phục vụ nhu cầu thị trường và xuất khẩu mà còn đóng vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng hơn như: tạo sự cân đối quỹ hàng hóa, tiền tệ, bình ổn giá cả, cân đối phát triển kinh tế giữa các vùng, ổn định đời sống nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, với nhiều cơ sở, khu vực sản xuất kinh doanh cá thể đang hoạt động rộng khắp trên địa bàn xã, phường trong phạm vi toàn quốc, không những đã huy động được nguồn nội lực khá lớn cho phát triển kinh tế của đất nước mà còn làm giảm bớt sự cách biệt về kinh tế và xã hội giữa các vùng, miền, các địa bàn trong cả nước, nhất là những địa bàn mà các doanh nghiệp không muốn hoặc không thể đầu tư như miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. 15
- 1.2. Khái quát pháp luật về hộ kinh doanh 1.2.1. Khái niệm pháp luật về hộ kinh doanh Nhà nước với tư cách chủ thể quyền lực chính trị, ban hành hoặc thừa nhận các quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý xã hội theo định hướng. Với tư cách là một hình thức tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nên các hộ kinh doanh cũng giống với các hình thức tổ chức kinh doanh khác đều phải chịu sự điềuchỉnh của pháp luật, nó là khuôn mẫu và có tính bắt buộc chung buộc các chủ thể phải tuân thủ và thực hiện. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hộ kinh doanh là các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh như: quan hệ quản lý của nhà nước đối với các chủ thể đăng ký thành lập hộ kinh doanh; Quan hệ của cơ quan quản lý nhà nước với hộ kinh doanh; quan hệ giữa các thành viên trong việc quản lý, hoạt động của hộ kinh doanh; quan hệ giữa hộ kinh doanh với các chủ thể khác có liên quan [1]…. Tóm lại, có thể khái quát rằng pháp luật về hộ kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước quản lý tổ chức, hoạt động của hộ kinh doanh, các quan hệ về tổ chức, hoạt động của hộ kinh doanh và các quan hệ giữa hộ kinh doanh với các chủ thể khác. 1.2.2. Nội dung và đặc điểm pháp luật về hộ kinh doanh Với tư cách là một phương tiện tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, nội dung quy định pháp luật về hộ kinh doanh sẽ bao gồm các vấn đề cơ bản sau: - Quy định về đăng ký, thành lập, hình thức tổ chức của hộ kinh doanh. - Quy định về quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh. 16
- - Quy định về tạm ngừng, chấm dứt, thay đổi hộ kinh doanh. - Quy định về chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp. Trong đó, nội dung pháp luật về hộ kinh doanh có một số đặc điểm như: Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh của pháp luật hộ kinh doanh chính là hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam, hoặc do một nhóm người hay một hộ gia đình làm chủ, có quy mô nhỏ và mô hình tổ chức đơn giản, không có tư cách pháp nhân và phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình trong hoạt động kinh doanh. Đây là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt pháp luật hộ kinh doanh với các chế định pháp luật khác. Thứ hai, pháp luật của hộ kinh doanh chịu sự chi phối, tác động từ lịch sử, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Khi Đảng có chính sách đổi mới năm 1986, khi Luật doanh nghiệp tư nhân chưa ra đời, pháp luật về hộ kinh doanh đã tạo nền tảng, cơ sở để thúc đẩy, giải phóng năng lực kinh doanh của các thành phần kinh tế trong xã hội. Khi nền kinh tế phát triển, pháp luật doanh nghiệp hoàn thiện hơn, vai trò của các doanh nghiệp được khẳng định và nâng cao, pháp luật về hộ kinh doanh tiếp tục hoàn thiện các quy định và trở thành một bộ phận cấu thành của pháp luật doanh nghiệp [1]. Thứ ba, pháp luật hộ kinh doanh có liên hệ chặt chẽ và là một bộ phận cấu thành của pháp luật doanh nghiệp. Mặc dù các văn bản Luật doanh nghiệp qua các thời kỳ đều không ghi nhận hộ kinh doanh có tư cách giống như doanh nghiệp, nhưng với quan niệm hộ kinh doanh là một đơn vị kinh tế có quy mô nhỏ hơn doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp luôn đưa ra các quy định tùy nghi, thậm chí bắt buộc về sự chuyển đổi của hộ kinh doanh thành doanh nghiệp. Trên cơ sở Luật doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp luôn quy định các vấn đề về 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 301 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 343 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 116 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 109 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 228 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 132 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 84 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 107 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 34 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thử việc theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam - Thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh
95 p | 40 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 191 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 36 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 118 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 66 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 90 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 18 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 25 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn