intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

83
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế "Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh; Thực trạng áp dụng pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI NGUYÊN HẠNH PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI, năm 2021
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk” này là công trình nghiên cứu của chính tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn này, tôi cam đoan rằng toàn phần hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được công bố hoặc sử dụng để nhận bằng cấp ở nơi khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các kết quả nghiên cứu trong Luận văn. Đắk Lắk, ngày tháng năm 2021 Tác giả luận văn Bùi Nguyên Hạnh
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH ........ 8 1.1. Khái niệm hộ kinh doanh ........................................................................... 8 1.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh ....................................................... 20 1.3. Vai trò của hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay ..................................... 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN TẠI HUYỆN KRÔNG BÔNG,TỈNH ĐẮK LẮK VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................................ 31 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về hộ kinh doanh ............................... 31 2.2. Tình hình đăng ký thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh tại Việt Nam hiện nay .................................................................................................. 44 2.3. Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk .................................................................................................... 49 2.4. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về hộ kinh doanh . 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 CP Chính phủ 2 HKD Hộ Kinh doanh 3 UBND Ủy ban nhân dân 4 TS Tiến sĩ 5 Nxb Nhà xuất bản 6 NĐ Nghị định 7 CN Chứng nhận 8 ĐKKD Đăng ký kinh doanh
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Thống kê nhóm hộ kinh doanh có địa điểm ổn định 45 2.2 Số lượng hộ kinh doanh theo vùng 2015 – 2019 48
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với các loại hình kinh doanh khác, hộ kinh doanh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, cả nước có khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh, ước tính tổng tài sản trên 655 nghìn tỷ đồng, trên 2,2 triệu tỷ đồng doanh thu, đóng góp 34% GDP; nộp hơn 12 nghìn tỷ tiền thuế sử dụng; thu hút khoảng 7,9 triệu lao động; tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ (chiếm hơn 15% doanh thu của các tổ chức kinh doanh có đăng ký) cho xã hội... [32] Nhấn mạnh tầm quan trọng của loại hình này, trong nội dung Nghị quyết Hội nghị, Đảng cũng nhấn mạnh “… Hộ kinh doanh đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các loại hình kinh doanh khác, sự phát triển của hộ kinh doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục và hội nhập kinh tế quốc tế” .[16] Tuy nhiên, thực tế hoạt động của hộ kinh doanh của Việt Nam hiện nay chưa phát huy được hết các tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh như: quy mô nhỏ; vốn ít; công nghệ lạc hậu; sức cạnh của hàng hóa thấp... Nguyên nhân do hộ kinh doanh chưa có kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường; chưa năng động, sáng tạo trong hoạt 1
  7. động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, cũng do chưa có một hệ thống khung pháp lý rõ ràng, ổn định từ phía Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát huy hết khả năng của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra là cần có các giải pháp hữu hiệu, thiết thực về tổ chức và hoạt động của hộ kinh doanh đảm bảo phù hợp với những điều kiện của nền kinh tế thị trường. Theo số liệu thống kê năm 2019, tổng số hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 78.545 hộ, trong đó Huyện Krông Bông có 5972 hộ. Việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông cũng gặp một số bất cập. Một số trường hợp cá nhân muốn kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh nhưng không được phép cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh… Vấn đề đặt ra là tìm giải pháp điều chỉnh pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh như thế nào cho phù hợp với điều kiện của hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông nói riêng và nền kinh tế thị trường của nước ta nói chung. Từ những vấn đề đặt ra từ những bất cập thực tế trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk , tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong quá trình nghiên cứu viết đề tài, tôi đã tham khảo các nghiên cứu của học giả, các tài liệu, các thống kê số liệu, tham khảo từ thầy cô và các anh, chị đi trước trong phạm vi đề tài “hộ kinh doanh”, bản thân tự nhận thấy: có rất nhiều tài liệu đề cập đến một số vấn đề về hộ kinh doanh như: - Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2016, đề cập đến lịch 2
  8. sử cũng như khái niệm của hộ kinh doanh tại nước ta, nhận định về hộ kinh doanh thông qua quy định pháp luật và chỉ ra đặc điểm của hộ kinh doanh. - Trong Giáo trình Luật kinh tế, của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006; Giáo trình luật dân sự; Giáo trình Luật thương mại, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006…; Báo cáo nghiên cứu “Chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng và khuyến nghị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2017. - Ngoài ra, cũng tìm thấy trong các bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý như: Bài viết của TS. Ngô Huy Cương đăng trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (Luật học 25, năm 2009) với chủ đề “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập, Tạp chí Luật học. Theo đó, tác giả đã tập trung nghiên cứu một vài bất cập của pháp luật điều tiết hộ kinh doanh ở mức độ khái quát nhất. Nhưng chỉ dừng lại ở việc tìm ra bất cập của pháp luật chứ tác giả mà không nêu ra các giải pháp hay kiến nghị để hoàn thiện pháp luật. - Luận văn thạc sỹ của học viên Hoàng Minh Sơn với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” năm 2012. Tác giả đã phân tích những quy định của pháp luật hiện hành (tại thời điểm viết) đối với hộ kinh doanh, đồng thời cũng ghi nhận những bất cập, tồn tại để từ đó đưa ra các đề xuất nhằm củng cố, tăng cường địa vị pháp lý của hộ kinh doanh; hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật kinh tế và chấn chỉnh việc thi hành luật một cách đồng bộ và thống nhất. - Luận văn thạc sỹ của học Viên Trần Ngọc Trà với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” năm 2016. Tác giả đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về hộ kinh doanh, nội dung quy định pháp luật hiện hành (tại thời điểm viết) bên cạnh đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện và thúc đẩy phát triển hộ kinh doanh. 3
  9. - Luận văn thạc sỹ của học viên Lê Thị Thảo với đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2019. Với đề tài này tác giả đã nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường qua đó đánh giá, so sánh các quy định thông qua thực tế tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra các giải pháp cụ thể kiến nghị đến sự phát triển của khu vực này. - Trên các bài báo Báo điện tử như: Báo diễn đàn doanh nghiệp (2019), “TS Vũ Tiến Lộc: Cần "tấm áo pháp lý mới" cho hộ kinh doanh”. - Các thống kê số liệu hộ kinh doanh như: Trong Niên giám thống kê Tỉnh Đắk Lắk năm 2018, của Cục Thống kê Đắk Lắk, Nxb Thanh niên, 2018; Niên giám thống kê Tỉnh Đắk Lắk năm 2019, của Cục Thống kê Đắk Lắk, Nxb Thanh niên, 2020, Tổng cục thống kê 2019…. Bên cạnh đó, quy định về hộ kinh doanh cụ thể nhất cũng chỉ nằm gọn trong một chương của Nghị định 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 9 năm 2015 về đăng ký hộ kinh doanh chứ không được quy định trực tiếp tại Luật nào được ban hành bởi Quốc hội. Đặc biệt vào ngày 04/01/2021, Chính phủ ban hành nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp (có hiệu lực từ ngày 04/01/2021) đã có những quy đinh mới về hộ kinh doanh. Tóm lại, lại các tài liệu, các tác giả đều chỉ ra đặc tính, bản chất, vị trí, vai trò của hộ kinh doanh trong tổng quan nền kinh tế của Việt Nam qua các thời kỳ; từ đó chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, để tìm ra các giải pháp hoàn thiện. Tuy nhiên, tôi vẫn tâm đắc với đề tài: “Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk”. Bởi vì, huyện Krông Bông, một huyện vùng núi đang trong quá trình chuyển mình, phát triển khá nhanh.và đa dạng các ngành nghề kinh doanh thương mại - dịch vụ.Do vậy tôi mong 4
  10. muốn qua nghiên cứu sẽ kiến nghị UBND huyện Krông Bông triển khai thực hiện pháp luật kinh doanh tốt hơn, chặt chẽ hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài thông qua việc so sánh, đối chiếu, phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực tiễn áp dụng các vấn đề pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động hộ kinh doanh để tìm ra những bất cập cần hoàn thiện; 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Từ việc phân tích thực tiễnhuyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk để đề xuất các giải pháp, các phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây: - Các quan hệ xã hội có liên quan, về mô hình kinh doanh hộ kinh doanh hiện nay tại Việt Nam, pháp luật nước ngoài. - Các quan điểm, các học thuyết pháp lý về hộ kinh doanh và vai trò của Nhà nước trong việc quy định các thủ tục, điều kiện thành lập hộ kinh doanh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Tập trung vào các cơ sở lý luận pháp lý liên quan đến hộ kinh doanh, thực trạng hộ kinh doanh trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk - Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề về hộ kinh doanh đến thời điểm tháng 3 năm 2021. 5
  11. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận: Các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, bản chất và những đặc điểm của hộ kinh doanh, làm rõ những phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hoạt động của hộ kinh doanh. +Phương pháp hệ thống được sử dụng nhằm mục đích đánh giá thực trạng vị trí pháp lý của hộ kinh doanh ở Việt Nam để tìm ra những hạn chế. + Phương pháp thực tiễn để đánh giá tình hình thực tế nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn trước hết có ý nghĩa đối với bản thân người viết vì đây là cơ hội để người viết có thể tìm hiểu một cách đầy đủ về pháp luật liên quan đến hộ kinh doanh của Việt Nam cũng như nâng cao khả năng nghiên cứu pháp luật.Các kết quả liên quan đến luận văn này có giá trị tham khảo cho các nhà làmluật. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Phân tích những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động của hộ kinh doanh, thực trạng tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk để tìm ra những hạn chế và đề ra những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn 6
  12. Luận văn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt nam hiện nay từ thực tiễn tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk” bao gồm: Phần mở đầu Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. 7
  13. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH 1.1. Khái niệm hộ kinh doanh Khi tiến hành nghiên cứu một số cách định nghĩa của hộ kinh doanh theo quy định pháp luật của một số quốc gia phát triển, có nhiều tên gọi cho loại hình này và đây là một trong những hình thức kinh doanh tương đối phổ biến bởi sự đơn giản trong thủ tục, chi phí tham gia thị trường thấp vì những lợi ích đó mà loại hình này vẫn khá được ưu tiên và được các nhà lập pháp ở các quốc gia này quan tâm cụ thể: Tại Hà Lan, mô hình hộ kinh doanh được xác định là mô hình doanh nghiệp một chủ (One-Man Business) có ít hơn 9 lao động, hoặc một cá nhân tự làm chủ, tự kinh doanh và không sử dụng bất cứ nhân viên nào. Theo quy định này có thể thấy hộ kinh doanh sẽ được gắn với mô hình doanh nghiệp và một chủ khi tiến hành kinh doanh được giới hạn số lượng lao động dưới 09 người và đặc biệt với mô hình này không sử dụng bất kì nhân viên nào, có thể hiểu cách định nghĩa này hộ kinh doanh được đánh đồng là một doanh nghiệp (một chủ) và sẽ không được thuê lao động cho mô hình vì thế có thể nghĩ ngay đến việc số lượng lao động này xuất phát từ chính là các thành viên trong gia đình của hộ kinh doanh. Tại Singapore, hộ kinh doanh được coi như loại hình kinh tế doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship). Đây là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của một người hoặc một công ty, không có đối tác và chủ sở hữu có toàn quyền đối với cáchoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định này cũng được xác định là doanh nghiệp cá thể có sự đánh đồng nhất định về khái niệm cũng như về mặt sở hữu ở đây bao gồm cả cá nhân và công ty tức là hộ kinh doanh ở Singapore có thể được thành lập bởi một công ty khác, và chủ sở hữu có toàn quyền với loại hình này. 8
  14. Theo đánh giá chung thì khái niệm về hộ kinh doanh ở một số quốc gia thường được định nghĩa một cách chung chung gắn liền với khái niệm doanh nghiệp từ đó có thể dẫn đến việc hiểu nhầm đi bản chất của hộ kinh doanh cũng như các yếu tố về trách nhiệm không được đề cập điều này sẽ dẫn đến các vấn đề như nhà làm luật phải có các văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc khi áp dụng tùy thuộc vào pháp luật mà có thể có sự giải thích ứng dụng khác nhau. Trong nền kinh tế nước ta hộ kinh doanh là chủ thể kinh doanh chiếm số lượng đông đảo và được pháp luật thừa nhận bởi các quy định pháp luật, đối với chủ thể này có nhiều cách gọi khác nhau như: hộ cá thể, hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh dưới mỗi thời kì mỗi góc độ thì có những cách gọi khác nhau tuy nhiên về bản chất của hộ kinh doanh thì không có sự thay đổi. Xét về phương diện ngôn ngữ, theo từ điển Tiếng việt năm 2003 thì“hộ” được hiểu là “đơn vị quản lí dân số gồm những người cùng ăn ở chung với nhau” và “kinh doanh” được hiểu là “việc tổ chức việc sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục sinh lợi”. Vậy hộ kinh doanh theo hai định nghĩa trên được hiểu là để chỉ những một nhóm người cùng ăn ở chung với nhau tại một địa điểm thực hiện việc tổ chức sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Hay nói cách khác là một nhóm người có thể hiểu đây là một gia đình có quan hệ huyết thống với nhau và thực hiện các công việc từ sản xuất đến mua bán và cung cấp dịch vụ trong hoạt động kinh doanh và mang bản chất thuần túy của hoạt động kinh doanh có thể thấy hộ kinh doanh cũng là một chủ thể tìm kiếm lợi nhuận. Qua cách nhìn nhận này có thể thấy những thiếu sót nhất định về khái niệm hộ kinh doanh như sau: Một là, việc cho rằng hộ kinh doanh là tập hợp nhiều người cùng ăn ở chung với nhau tại một địa điểm bởi trên thực tế có những trường hợp chủ hộ 9
  15. kinh doanh là một cá nhân và chỉ có một cá nhân đứng ra hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy các quy định pháp luật. Hai là, cách nhìn nhận vẫn chưa tồn tại một sự tự do nhất định của hộ kinh doanh như việc đề cập đến năng lực trong hoạt động kinh doanh và chế độ trách nhiệm. Qua đây, cách nhìn dưới phương diện từ ngữ về hộ kinh doanh chỉ cung cấp một cách khái quát về khái niệm này mà vẫn chưa làm rõ những yếu tố mang tính chất nội tại của vấn đề và còn nhiều thiếu sót cho người nghiên cứu. Xét về phương diện nghiên cứu lý luận, trích dẫn Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (2016), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức, trang 100: “Hộ kinh doanh là đơn vị quy mô nhỏ,không phải là doanh nghiệp nhưng cũng được thành lập đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh”. Dưới góc độ nhìn nhận này có thể thấy được người nghiên cứu đã đặt ra sự so sánh về quy mô và đánh giá hộ kinh doanh là một đơn vị có quy mô nhỏ đồng thời để có sự tách biệtkhái niệm đã đề cập đến việc hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp để cho người nghiên cứu có nhìn nhận đúng đắn hơn, nhưng việc xác định hộ kinh doanh có quy mô nhỏ nhưng lại không đưa ra được yếu tố định lượng về mức độ để xét quy mô như các yếu tố về vốn, tài sản hay số lượng lao động sử dụng. Bên cạnh đó khái niệm đã dựa trên các căn cứ pháp luật để xác định hộ kinh doanh là đối tượng đăng kí theo quy định để tiến hành các hoạt động kinh doanh, vì khi căn cứ trên thực tế dễ dàng nhận thấy rằng nhiều “hộ gia đình” tiến hành hoạt động kinh doanh mang bản chất của hộ kinh doanh nhưng không tiến hành đăng kí hay không đủ điểu kiện thì vẫn không được xem là hộ kinh doanh. 10
  16. Xét về góc độ lịch sử lập pháp của nước ta có thể thấy có thể khái niệm “hộ kinh doanh” không gọi thống nhất ngay từ đầu mà mỗi thời kì thì khái niệm này lại có những tên gọi khác nhau. Đặc biệt, Hiến pháp 1992 ghi nhận về quyền tự do kinh doanh của công dân Việt Nam là một bước ngoặt lớn cho sự ra đời, phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có mô hình cá nhân kinh doanh. Mô hình này thời điểm đó có mục tiêu quan trọng nhằm xóa đói, giảm nghèo và được gọi với những tên khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội qua các thời kỳ, như: Tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa, hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, hộ kinh doanh. Dưới mỗi thời kì mỗi góc độ thì có những cách gọi khác nhau tuy nhiên về bản chất của hộ kinh doanh thì không có sự thay đổi. Luật Doanh nghiệp 1999 và các Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 và Nghị định số 109/2004/ NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh đã quy định Hộ kinh doanh tồn tại như hình thức kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ gia đình (gồm các thợ thủ công, người làm dịch vụ nhỏ) được phép kinh doanh sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy môn bài; tuy nhiên không được phép thuê lao động thường xuyên (sau đó đã bãi bỏ). Luật Doanh nghiệp 2005 được ra đời nhằm giải quyết những khúc mắc cũng như dần hoàn thiện các quy định của loại hình doanh nghiệp cũng không đề cập đến khái niệm hộ kinh doanh nhưng lại có đề cập tại khoản 4, Điều 170: “Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp” tức là đã gián tiếp thừa nhận rằng hộ kinh doanh là các cơ sở kinh doanh có quy mô sử dụng lao động thường xuyên dưới mười người và đối với các hộ kinh doanh sử dụng từ mười lao động trở lên phải chuyển đổi loại hình sang doanh nghiệp. Tại khoản 1, Điều 36 Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng kí kinh doanh đã đưa ra khái niệm về hộ kinh doanh như sau “Hộ kinh doanh 11
  17. do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Luật Doanh nghiệp 2014 của Quốc Hội ra đời ngày 26 tháng 11 năm 2014 và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đăng kí kinh doanh ngày 14 tháng 9 năm 2015 là cuộc cách mạng lớn trong thủ tục thành lập doanh nghiệp nói chung trong đó có hộ kinh doanh. Khoản 1, điều 66, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP quy đinh: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.” Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia thành ba loại căn cứ vào chủ thể tạo lập ra nó: (1) Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ; (2) Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ; (3) Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ. Đối với nhóm chủ thể là “cá nhân” khi thành lập hộ kinh doanh ở nước ta hiện nay được gắn với yếu tố quốc tịch tức là pháp luật nước ta chỉ thừa nhận rằng hộ kinh doanh là một chủ thể kinh doanh nhưng chỉ được áp dụng cho đối tượng là công dân Việt Nam cũng như các đối tượng là các nhà đầu tư nước ngoài khi tiên hành kinh doanh ở nước ta phải lựa chọn hình thức khác mà pháp luật về Doanh nghiệp cũng như Luật Đầu tư yêu cầu. Bên cạnh đó là việc yêu cầu đối với hai điều kiện đối với chủ thể này đó là yêu cầu về tuổi và năng lực hành vi dân sự đây là một trong những yêu cầu phù hợp với 12
  18. pháp luật về Dân sự ở nước ta, bởi một cá nhân khi tiến hành thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình thì một điều bắt buộc là các chủ thể phải tiến hành tham gia các quan hệ dân sự để đảm bảo các giao dịch cũng như sự thống nhất trong quan hệ pháp luật. Tại Nghị định 78 cũng quy định Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ. Đối với nhóm chủ thể là “nhóm người” gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ mới dừng lại ở việc cho phép “một nhóm người” được đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh mà chưa có nhiều quy định cụ thể liên quan đến chế độ chịu trách nhiệm của các cá nhân trong nhóm và chế độ quản trị hộ kinh doanh. Tại khái niệm này đã bổ sung thiếu xót ở quy định trước đây bằng việc xác định thông qua yếu tố “đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Bên cạnh đó các yêu cầu về số lao động dưới mười, đăng kí tại một địa điểm và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình vẫn được giữ nguyên. Đặc biệt là quy định về không có con dấu đã được loại bỏ trong quy định này điều này dựa trên tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014 bởi tính chất pháp lí của con dấu đã được các nhà làm luật có lộ trình bãi bỏ để nhằm hạn chế những thực tiễn phát sinh từ con dấu. Về số lượng thành viên, tuy luật và các Nghị định không quy định nào về hạn chế số lượng thành viên trong một nhóm nhưng nếu sử dụng hơn mười lao động thì hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Tổng quan cho thấy “Hộ kinh doanh như một chủ thể doanh nghiệp không tồn tại trong Luật Doanh nghiệp hiện hành nhưng hộ kinh doanh thực chất đã có tư cách pháp lý trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật từ rất lâu rồi”[19] 13
  19. Với nhóm chủ thể này theo Nghị định số 78/2015/NĐ – CP về đăng kí kinh doanh thì không đưa ra cũng như có sự hướng dẫn nào về khái niệm “nhóm người”. Nhìn nhận chung có thể thấy việc nhà làm luật đưa chủ thể này vào một trong ba nhóm có quyền đăng kí thành lập hộ kinh doanh theo quy định của Chính phủ nhằm mục đích thúc đẩy kinh doanh và phát triển loại hình hộ kinh doanh ở nước ta khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh phát triển và tạo ra nguồn thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống địa phương. Tuy nhiên việc mở rộng nhưng không kèm theo các quy định hay hướng dẫn lại làm khó cho các chủ thể khi tiến hành đăng kí kinh doanh hoặc cách xác định. Căn cứ vào các quy định mà tác giả đã tìm hiểu hiện nay thuật ngữ “nhóm người” chưa có sự định hình cụ thể cũng như cách xác định cũng chưa có căn cứ cụ thể việc xác định một nhóm người thì sẽ bao gồm nhiều tiêu chí để xác định như việc xác định số lượng người của nhóm, có giới hạn hay không? Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn bởi pháp luật Việt Nam quy định về qui mô tổ chức của hộ kinh doanh theo đó pháp luật đã quy định rằng hộ kinh doanh sử dụng dưới mười lao động, có thể thấy hộ kinh doanh quy định về việc số lao động giới hạn của hộ kinh doanh nhằm định hình quy mô của hộ kinh doanh nhưng lại không quy định về số lượng cụ thể mà nhóm người có thể đăng kí thành lập hộ kinh doanh và việc các cá nhân trong nhóm này có được tính vào số lao động động làm việc tại hộ kinh doanh hay không. Theo quan điểm của Bộ luật lao động 2012 thì khái niệm người lao động được định nghĩa là “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”, nếu nhìn nhận theo khái niệm này thì người lao động trong hộ kinh doanh và số người trong hộ kinh doanh (bao gồm người lao động và chủ hộ) có sự khác biệt. Bởi chủ thể thành lập hộ kinh doanh phải đủ điều kiện về tuổi, năng lực và đồng thời đây là 14
  20. những người sử dụng lao động vào mục đích của hộ kinh doanh, nên có sự khác biệt so với người lao động sử dụng trong hộ. Khi phân tích quy định này tác giả thấy hai vấn đề như sau: Thứ nhất, hộ kinh doanh bắt buộc phải sử dụng dưới mười lao động, vậy nếu nhóm người thành lập hộ kinh doanh theo quy định trên thực hiện các công việc trong hộ có phải chuyển đổi hình thức lên loại hình doanh nghiệp hay không. Thứ hai, khi quy chiếu chế độ trách nhiệm trong nhóm người đăng kí thành lập hộ kinh doanh này sẽ phải thuộc điều chỉnh của quan hệ pháp luật Dân sự trong khi không có bất kì ràng buộc pháp lý nào. Việc bỏ ngõ các quy định mặc dù đưa ra đã tạo nên những bất cập cho pháp luật về hộ kinh doanh, có thể thấy do không có quy định và sự phân định rõ ràng thì các hộ kinh doanh có nguy cơ thành lập hộ kinh doanh cho “nhóm người” và thực hiện các hoạt động kinh doanh quá số người lao động mà pháp luật cho phép. Đương nhiên thì các hộ kinh doanh này không thể nói là vi phạm bởi không có bất kì quy định nào hướng dẫn rõ ràng nhưng khi so sánh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng địa bàn cũng như sự thiếu xót mà được đông đảo hộ kinh doanh áp dụng thì thực sự là một vấn đề. Đối với chủ thể cuối cùng, hộ kinh doanh do một hộ gia đình làm chủ: Chủ thể hộ gia đình là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam vì hộ gia đình không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân mà tập hợp các thành viên có tài sản chung. Do đó hộ kinh doanh không hoàn toàn là thương nhân thể nhân. Tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình” không dễ xác định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Song “hộ gia đình” không bao 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2