VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ VĂN DƯƠNG
TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, thông tin, trích dẫn được sử
dụng trong Luận văn này hoàn toàn chính xác, trung thực, tin cậy; kết quả có
được là do quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân và sự giúp đỡ, hướng dẫn
tận tình của Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Cương.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Văn Dương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ
TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA
CỦA NHÀ SẢN XUẤT ...................................................................................... 6
1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa ................................ 7
1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của nhà sản xuất ........................................................................................... 15
1.3. Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 28
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 48
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG
HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT .......................................................................... 62
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản
xuất trong bối cảnh hiện nay........................................................................ 62
3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay ......................... 63
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay ... 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với quan điểm phát triển nên
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, trong hơn
ba thập kỷ qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh với sự đa dạng
của các hình thức sở hữu; sản phẩm, hàng hóa trong nước sản xuất đã có sự
phát triển vượt bậc về lượng và thay đổi quan trọng về chất. Sản phẩm, hàng
hóa do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ngày càng phong phú, đa dạng
về chủng loại và cấp độ sản phẩm, chất lượng không ngừng được nâng cao,
đáp ưng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng đa dạng và phong phú của người
tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá không những là thước đo quan trọng
khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan
hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chất lượng sản
phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ sinh, sức khỏe con
người, tài sản và môi trường. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên
cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước
cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm
an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và
lợi ích quốc gia.
Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội
về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa năm 2007; Luật An toàn thực phẩm năm 2010 và Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm 2015. Đây là các đạo luật
1
điều chỉnh về chất lượng sản phẩm, hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương
đối đầy đủ, hệ thống phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu vật
chất, tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Tuy nhiên, tình trạng hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm không bảo đảm
chất lượng còn phổ biến và rất khó kiểm soát, gây thiệt hại không nhỏ cho
người tiêu dùng, nhà sản xuất và nhà nước. Điều này còn ảnh hưởng không
nhỏ đến niềm tin của người tiêu dùng và sự phát triển bền vững của nền kinh
tế cũng như uy tín của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những năm
gần đây, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta ngày càng được
hoàn thiện nhằm phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và bối cảnh hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên, các quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa vẫn còn có
sự chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thực sự đồng bộ, nhiều nội dung chưa được
điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu cơ sở lý luận và các quy định pháp
luật về “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà
sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật chất lượng sản
phẩm, hàng hóa được ban hành và có hiệu lực đến nay, đã hơn 12 năm thực
hiện nhưng sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong giới luật học và giới kinh
doanh cũng chưa nhiều. Đã có một vài công trình nghiên cứu có liên quan trực
tiếp đến đề tài như:
- Ngô Thị Út Quyên (2012) Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một
số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật
2
học Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Chu Đức Nhuận (2012) Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
- Trần Thanh Thất (2014) Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội;
- Lê Thị Hải Ngọc (2017) Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong
việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng, Luận án
tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
Các đề tài đã đề cập đến các khía cạnh nhất định của trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tuy nhiên dư địa nghiên
cứu về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn. Đề tài mà tác giả
nghiên cứu sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất hiện nay ở Việt Nam theo hướng
làm rõ lý luận và quy định của nhà nước, những điểm mới, tiến bộ của các luật
có liên quan đến như Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010. Đây là các đạo luật chuyên ngành về chất lượng sản phẩm,
hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy đủ, hệ thống về quy định của
pháp luật đối với sản phẩm, hàng hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng quy định pháp
luật về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng của sản
phẩm, hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, học viên đề xuất các giải pháp hoàn
thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có liên quan, nhằm góp phần đảm
bảo an toàn pháp lý trong hoạt động của nhà sản xuất đối với sản phẩm, hàng
3
hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: Những quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất và thực tiễn thi hành.
- Về phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, đồng thời có so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa từ
năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền dựa
trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận
văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy
định của pháp luật, phân tích các số liệu...
+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số
quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau.
+ Phương pháp diễn giải: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải các
4
số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của
luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác
trong đó có phương pháp thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần củng cố cơ sở khoa học trong quá trình hoàn thiện
pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam;
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo giúp chính quyền và các
cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà
sản xuất ở Việt Nam trong gian đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo và ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Chương 2: Thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất tại Việt Nam
hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
5
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ TRÁCH
NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA CỦA
6
NHÀ SẢN XUẤT
1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1.1.1. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa
Trước khi đi vào phân tích các khái niệm chất lượng, chất lượng sản
phẩm, hàng hóa chúng ta cần tìm hiểu và phân biệt khái niệm sản phẩm và
khái niệm hàng hóa.
Theo định nghĩa sản phẩm là bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu
hút sự chú ý, được mua về, sử dụng hay tiêu dùng mà có thể thoả mãn mong
muốn hay nhu cầu. Sản phẩm không chỉ là những hàng hoá hữu hình. Theo
định nghĩa khái quát, sản phẩm bao gồm các đối tượng vật chất, các dịch vụ,
các sự kiện, địa phương, tổ chức, ý tưởng, và tổ hợp của các thực thể này. Như
vậy, trong toàn bộ luận văn này, chúng ta sử dụng thuật ngữ sản phẩm một cách
khái quát để bao gồm bất kỳ hay toàn bộ những thực thể này.
Thuật ngữ sản phẩm được hiểu là cả hàng hoá lẫn dịch vụ. Sản phẩm là
bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn.
Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất bắt nguồn không phải từ việc sở hữu
chúng, mà chính là từ việc có được những dịch vụ mà chúng đem lại. Người
tiêu dùng mua một chiếc xe không phải để ngắm nhìn nó mà vì nó cung ứng
khả năng vận chuyển. Người tiêu dùng mua một cái bếp không phải để chiêm
ngưỡng mà vì nó là phương tiện không thể thiếu để thực hiện hoạt động nấu
nướng. Vì vậy, các sản phẩm vật chất thực sự là những phương tiện đảm bảo
phục vụ con người.
Theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 thì “sản phẩm” là kết quả của
một quá trình, trong đó:
- Quá trình là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương
7
tác (với nhau) để biến đổi đầu vào (input) thành đầu ra (output).
Như vậy, các đầu vào của một quá trình thường là đầu ra của các quá
trình khác. Có 4 chủng loại sản phẩm phổ biến nhất, đó là:
- Dịch vụ - service (ví dụ: vận chuyển);
- Phần mềm - softwave (ví dụ: chương trình máy tính, từ điển);
- Phần cứng - hardware (ví dụ: động cơ, các chi tiết cơ khí);
- Vật liệu chế biến - processed material (ví dụ: dầu mỡ bôi trơn).
Nhiều sản phẩm được cấu thành bởi các chủng loại sản phẩm khác nhau.
Ví dụ: một sản phẩm ô tô được chào bán bao gồm cả sản phẩm phần cứng (săm
lốp), vật liệu chế biến (nhiên liệu, chất lỏng làm mát máy), phần mềm (phần
mềm kiểm soát động cơ, sổ tay hướng dẫn lái xe) và dịch vụ (các giải thích
hướng dẫn vận hành do người bán hàng thực hiện). Trong những trường hợp
như vậy, tên gọi của sản phẩm phải căn cứ vào thành phần chủng loại sản phẩm
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Dịch vụ và phần mềm thường không hữu tình. Trong khi đó, sản phẩm
phần cứng (hardware) và vật liệu chế biến (processed meterial) thường là hữu
hình và thường được gọi là hàng hoá (goods).
Như vậy, khái niệm sản phẩm của Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 là
khái niệm rộng bao trùm cả “hàng hoá”. Khái niệm này không dựa trên tính
chất trao đổi (mua bán) để định nghĩa mà dựa trên chu trình sống của sản phẩm
qua từng giai đoạn và bản chất của các chủng loại sản phẩm.
Nếu dựa trên tính chất mua bán để phân biệt giữa sản phẩm và hàng hoá
thì toàn bộ chu trình sống của sản phẩm (từ lúc hình thành cho đến lúc hết khả
năng sử dụng) bao gồm các giai đoạn sau:
1 2 3 4 5 6 7
Ý tưởng Triển Sản xuất Sản xuất Lưu thông Sử dụng Kết thúc
- thiết bị khai thử hàng trên thị trường sử dụng
8
Như vậy, sản phẩm trở thành hàng hoá thực chất ở giai đoạn lưu thông
sản phẩm trên thị trường.
Đồng thời, chất lượng của sản phẩm không sinh ra trong khâu lưu thông
trên thị trường. Chất lượng của nó được hình thành trong giai đoạn từ 1 đến 4,
tức là từ khâu thiết kế cho đến kết thúc quá trình sản xuất. Trong giai đoạn lưu
thông, chất lượng của sản phẩm hay như ta gọi là chất lượng của “hàng hoá”
phải được duy trì để không bị suy giảm trước khi đến tay người tiêu dùng. Việc
duy trì này được thực hiện bằng các biện pháp như vận chuyển, bảo quản thích
hợp và thường được quy định trong tiêu chuẩn của sản phẩm. Tiêu chuẩn này
thường do người sản xuất quy định.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa năm 2007 thì:
+ Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ
nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng.
+ Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua
trao đổi, mua bán, tiếp thị.
Như vậy thông qua các khái niệm và quy định trên có thể hiểu sản phẩm
là kết quả của hoạt động, quá trình; hàng hóa là sản phẩm được đưa vào tiêu
dùng, thị trường thông qua trao đổi, mua bán. Không thể có hàng hóa khi sản
phẩm được làm hoặc sản xuất chỉ nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân, không
mang ra trao đổi, mua bán.
1.1.2. Khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều
các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao"... Mỗi
quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thúc
đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Theo quan điểm của triết học Mác thì chất lượng là mức độ, thước đo biểu
9
hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích
của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.
Theo Giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho rằng:
“Chất lượng là sự thõa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” [10].
Theo Philip B. Crosby: “Chất lượng là tính phù hợp với các yêu cầu” [13].
Theo A.W. Feigenbaum: “Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp và
phức hợp của sản phẩm và dịch vụ về các mặt: marketing, kỹ thuật, chế tạo và
bảo dưỡng mà thông qua đó khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm đáp ứng được
điều mong đợi của khách hàng” [7].
Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa chất lượng
tại ISO 9000 thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định
nghĩa này: "Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng
các yêu cầu" [24].
Qua các định nghĩa trên, có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá sau đây:
+ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể
hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.
+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu
cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.
+ Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem
xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng.
Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của
sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho
con người, động thực vật, tài sản, môi trường. Chất lượng của sản phẩm, hàng
hoá là đặc tính của sản phẩm, hàng hóa thể hiện ở cấu tạo, thành phần hóa
học, vật lý, độ bền, độ tin cậy, tính tiện dụng, tính thẩm mỹ và tính an toàn.
Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá, chất lượng sản phẩm, hàng hoá
10
là tổng thể các chỉ tiêu, các đặc trưng của sản phẩm, thể hiện được sự thoả
mãn nhu cầu trong các điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng
của sản phẩm. Như vậy, theo định nghĩa này, chất lượng sản phẩm, hàng hoá
bao gồm nhiều chỉ tiêu, trong đó an toàn chỉ là một trong các chỉ tiêu của sản
phẩm, hàng hoá.
Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn,
chỉ là các yêu cầu về an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đáp ứng. Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá
“là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu
chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”.
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được
hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người tiêu
dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an
toàn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hoá và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết
định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ
để bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hoá từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông
trên thị trường đến bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng của người tiêu
dùng. Người sử dụng phải sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, bảo trì, bảo
dưỡng hàng hoá theo hướng dẫn của người sản xuất để bảo đảm an toàn cho
chính người đó và cho xã hội khi sử dụng hàng hoá đã được phép lưu thông.
Đối với những sản phẩm, hàng hoá có nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình
sử dụng như thang máy, xe ô tô, máy bay, nhà nước tổ chức thực hiện kiểm
định định kỳ và chỉ được tiếp tục sử dụng nếu có chứng nhận an toàn của cơ
quan kiểm định.
1.1.3. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, vì vậy, nó sẽ có
11
rất nhiều đặc điểm khác nhau. Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất của
12
chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Thứ nhất: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh
tế, xã hội, kĩ thuật, vì vậy, nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế, kĩ thuật, văn hoá của sản phẩm.
Thứ hai: Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường
xuyên thay đổi theo không gian và thời gian.
Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao nhưng
ở giai đoạn sau thì không chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển
và nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy, chất lượng chỉ được
đánh giá theo từng thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm chắc đặc điểm này để
luôn luôn đổi mới và cải tiến công nghệ để ngày càng nâng cao chất lượng sản
phẩm để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Thứ ba: Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và
sở thích của người dân ở mỗi vùng là khác nhau. Vì vậy, khi đưa sản phẩm mới
vào thị trường thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó.
Thứ tư: Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể. Tính
trừu tượng thông qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và
phụ thuộc vào nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có
tác dụng tăng khả năng hấp dẫn thu hút khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu
thụ sản phẩm. Chất lượng phải thông qua các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật, cụ thể
được thể hiện thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế, thông qua tính khách quan
của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm giảm chi phí và tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả linh hoạt.
Thứ năm: Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong điều kiện tiêu
dùng cụ thể, phù hợp với mục đích sử dụng nhất định.
1.1.4. Vai trò của chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, doanh nghiệp
13
muốn tồn tại và phát triển phải tăng khả năng cạnh tranh của mình thông qua
hai chiến lược cơ bản là phân biệt hóa sản phẩm (chất lượng sản phẩm) và chi
phí thấp. Chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng
nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể khẳng định
được một điều là: "Nâng cao chất lượng sản phẩm, có tầm quan trọng sống còn
đối với các doanh nghiệp". Điều này thể hiện ở chỗ:
Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nâng cao chất lượng sẽ tạo
được uy tín, danh tiếng, cơ sở cho sự tồn tại, phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Tăng cường sản phẩm tương đương với tăng năng suất lao động xã hội
sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và nâng cao chất lượng chu chuyển trên thị
trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các
loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động. Nâng cao
chất lượng sẽ góp phần quan trọng cho việc tiết kiệm nguyên vật liệu, vật tư,
năng lượng và thời gian lao động. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng sản phẩm
còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất
nước: Nâng cao chất lượng sản phẩm là nâng cao vị trí và uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, do đó
nâng cao thu nhập cho nhà quản lý cũng như người lao động…
Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với sự phát triển
kinh tế nhanh chóng và ổn định trong doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa chính trị tư tưởng và xã
hội to lớn.
Tóm lại, nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đẩy
mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc
tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng
cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam
14
và sức mạnh kinh tế của đất nước trên thị trường thế giới. Mặt khác, nâng cao
chất lượng sản phẩm sẽ tăng thêm giá trị sử dụng cho sản phẩm và tiết kiệm
hao phí cho xã hội. Chất lượng sản phẩm chính là yêu cầu quan trọng đối với
mọi doanh nghiệp và cũng chính là vấn đề tối quan trọng cho nền kinh tế đất
nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm có vai trò to lớn trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp
nói riêng.
1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa của nhà sản xuất
1.2.1. Khái niệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Đảm bảo chất lượng là cốt lõi của quản trị chất lượng, bao gồm một đảm
bảo sao cho người mua hàng có thể mua một sản phẩm, dịch vụ với lòng tin và
sự thoải mái là có thể sử dụng một thời gian dài. Đảm bảo chất lượng giống
như một lời hứa hoặc hợp đồng với khách hàng về chất lượng.
Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng cần áp dụng chính sách đảm bảo chất lượng
nhằm đoán chắc với khách hàng rằng trước khi mua, trong khi mua và giai đoạn
nào đó sau khi mua, sản phẩm, dịch vụ phải có đủ độ tin cậy làm thỏa mãn khách
hàng và chiếm được lòng tin của họ. Các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách
đảm bảo chất lượng sao cho khách hàng tin vào hàng hóa của công ty mình hoặc
xa hơn nữa là tin tưởng vào chất lượng của chính bản thân công ty, như vậy
khách hàng sẽ yên tâm khi mua sản phẩm, dịch vụ mới.
Theo ISO 9000, "Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch
và hệ thống được tiến hành trong hệ thống chất lượng được chứng minh là đủ
mức cần thiết để tạo tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thỏa mãn
đầy đủ các yêu cầu chất lượng. Đảm bảo chất lượng bao gồm cả đảm bảo chất
lượng trong nội bộ lẫn đảm bảo chất lượng với bên ngoài".
Đảm bảo chất lượng bao gồm mọi việc từ lập kế hoạch sản phẩm cho đến
15
khi làm ra nó, bảo dưỡng, sửa chữa và tiêu dùng. Vì thế, các hoạt động đảm
bảo chất lượng cần được xác định rõ ràng, điều gì cần làm ở mỗi giai đoạn để
đảm bảo được chất lượng trong suốt vòng đời của sản phẩm.
Đảm bảo chất lượng không những bao gồm mọi hoạt động về kiểm tra
chất lượng bên trong các phòng ban, mà còn giữa các phòng ban với nhau. Điều
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới cơ cấu tổ chức từ quản trị theo chức
năng sang quản trị theo chức năng chéo nhằm hướng mọi nỗ lực của các thành
viên vào việc thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp là thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận.
1.2.2. Vai trò của đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản
phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con
người, động thực vật, tài sản, môi trường. Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng
hoá ngoài việc có ý nghĩa rất quan trọng với người tiêu dùng, người sản xuất
mà còn quan trọng đối với việc duy trì an ninh, trật tự công cộng, lợi ích quốc
gia.
Chất lượng sản phẩm còn là chính sách để các doanh nghiệp thực hiện
chiến lược quảng cáo nhằm mục đích tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm
của chính doanh nghiệp và khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường,
tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển vững bền của doanh nghiệp. Mặt khác,
bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn giúp tiết kiệm nguyên vật liệu và
giảm thiểu tác động xấu môi trường trong quá trình sản xuất sản phẩm, hàng
hóa.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép các nhà
sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng, tạo
ra lợi thế cạnh tranh điều này dẫn đến cuộc cạnh tranh toàn cầu sẽ trở nên ngày
càng mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn. Với tình hình như vậy, chất lượng
16
trở sẽ trở thành yếu tố cạnh tranh hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa tốt, bảo đảm chất lượng sẽ dẫn tới việc
kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất, chất lượng sản
phẩm tốt còn đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc
dân, nâng cao năng suất lao động. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được đảm
bảo không chỉ làm tăng uy tín sản phẩm, hàng hóa của nước ta trên thị trường
quốc tế mà còn đem lại tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hoá, tích cực đấu tranh chống hàng
giả, hàng nhái, chống hàng lậu, hàng không đảm bảo chất lượng, không rõ
nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần tích cực trong
việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam.
1.2.3. Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Quá trình lưu thông hàng hóa có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với các
vai trò khác nhau như nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán
hàng… Quan hệ giữa các chủ thể này là quan hệ biện chứng, có tác động qua
lại lẫn nhau, trong đó các bên đều có lợi ích trong quan hệ này.
Các chủ thể nêu trên là những thực thể của xã hội có quan hệ và tác động
qua lại nhau để cùng tồn tại và phát triển. Xã hội chỉ tồn tại khi có hoạt động
sản xuất nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích của con người vì vậy quan hệ giữa
nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán hàng… là một trong
những quan hệ xã hội thường xuyên và cơ bản nhất vì. Con người trong xã hội
hiện đại không thể tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Nhưng nhà sản xuất cũng không thể tồn tại nếu không có khách hàng vì chủ thể
này quyết định sự phát triển của nhà sản xuất. Để quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ giữa các chủ thể này nói riêng phát triển lành mạnh đòi hỏi nhà sản
xuất phải thực hiện các hành vi có trách nhiệm với các chủ thể còn lại trong
17
việc sản xuất sản phẩm, hàng hóa. Đó chính là trách nhiệm bảo đảm chất lượng
18
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá chịu ảnh hưởng tác động đồng thời của
các chủ thể là nhà nước, người sản xuất và các chủ thể liên quan. Để sản phẩm,
hàng hoá bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường,
đòi hỏi mỗi chủ thể phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình để tác động lên các
yếu tố về chất lượng của sản phẩm, hàng hoá. Sản phẩm, hàng hoá do các doanh
nghiệp sản xuất và cung cấp cho xã hội để tiêu dùng nên doanh nghiệp hoàn
toàn tự quyết định và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hoá đó,
nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật, việc đảm bảo chất lượng đối với sản phẩm, hàng
hóa trước khi đưa ra thị trường là nghĩa vụ của nhà sản xuất, việc sản xuất sản
phẩm đảm bảo chất lượng là vi phạm quyền tài sản, quyền nhân thân của cá
nhân nên nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với các đối tượng liên quan về
các thiệt hại do sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Để làm rõ trách nhiệm
của người sản xuất đối với sản phẩm, hàng hoá của mình, pháp luật đã xác định
trách nhiệm cụ thể đối với nhà sản xuất để bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng
hoá.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa
khác nhau: một là những việc mà các chủ thể nhất định phải thực hiện, hai là
những hậu quả mà chủ thể thực hiện những hành vi nhất định phải gánh chịu.
Luận văn này sử dụng khái niệm “trách nhiệm” theo nghĩa thứ hai. Theo đó,
trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất là những
hậu quả bất lợi mà nhà sản xuất phải gánh chịu do sản xuất các sản phẩm không
bảo đảm chất lượng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất bao gồm các trách nhiệm chính sau:
Một là, trách nhiệm đảm bảo chất lượng của sản phẩm, hàng hóa theo
19
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: Theo quy định của pháp luật, nhà sản xuất
có trách nhiệm sản xuất sản phẩm, hàng hóa phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp
dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật là các
quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật mà sản phẩm, hàng hoá phải
tuân theo để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về an toàn. Đối với sản phẩm, hàng hoá
trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục
đích mà vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho con người, tài sản thì nhà nước ban
hành quy chuẩn kỹ thuật, người sản xuất phải tuân theo quy chuẩn kỹ thuật này
trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá có liên quan của mình. Đối với
sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng
hợp lý và đúng mục đích không gây hại cho con người, tài sản thì người sản
xuất tự công bố tiêu chuẩn và phải tuân theo tiêu chuẩn đã công bố trong hoạt
động sản xuất kinh doanh hàng hoá có liên quan của mình.
Hai là, trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng: Theo quy
định của pháp luật, trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dung bao
gồm các nội dung như sau: ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật;
niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh; cảnh báo khả
năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của
người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa; cung cấp thông tin về khả năng
cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa; cung cấp hướng dẫn sử
dụng, điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng
hóa, dịch vụ có bảo hành; thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về
hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch. Trường hợp
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người
tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm bảo đảm cung cấp
thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp; yêu cầu tổ
20
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh
tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ; chịu trách nhiệm liên
đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường
hợp chứng minh đã thực hiện tất cả biện pháp theo quy định của pháp luật để
kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ; tuân thủ các
quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
Ba là, trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện: trách nhiệm bảo hành
hàng hóa, linh kiện, phụ kiện của nhà sản xuất là trách nhiệm của nhà sản xuất
trong việc sửa chữa, thay thế hoặc hoàn trả hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đối
với người tiêu dùng trong trường hợp hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đó được
các bên thỏa thuận bảo hành hoặc bắt buộc bảo hành theo quy định của pháp
luật. Đặc điểm của loại trách nhiệm này đó là: Cơ sở phát sinh trách nhiệm bảo
hành là do thỏa thuận của các bên hoặc do pháp luật quy định bắt buộc bảo
hành trong những trường hợp nhất định; Trách nhiệm bảo hành thông thường
chỉ áp dụng đối với hàng hóa, linh kiện, phụ kiện (hàng hóa hữu hình); Trách
nhiệm bảo hành được xác lập trong một thời hạn nhất định.
Bốn là, trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật: Thu hồi
sản phẩm là áp dụng các biện pháp nhằm đưa sản phẩm không đảm bảo an toàn
thực phẩm ra khỏi chuỗi sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu và lưu thông trên thị
trường. Theo quy định của pháp luật, cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh sản
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng đã đăng ký hoặc công bố và hàng
hóa khác không bảo đảm chất lượng, điều kiện lưu thông thì phải thu hồi các
sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.
Năm là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất do hàng hóa
có khuyết tật gây ra: theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng
hóa nhà sản xuất phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu
dùng khi hàng hóa gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất không bảo đảm chất
21
lượng hàng hóa, trừ các trường hợp không phải bồi thường. Việc bồi thường
thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo
quyết định của toà án hoặc trọng tài.
1.2.4. Đặc điểm của trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất
Thứ nhất, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm pháp lý với các hậu quả xấu mà nhà sản
xuất phải gánh chịu, bao gồm các biện pháp phòng ngừa, hạn chế thiệt hại gây
ra, bồi thường khi sản phẩm, hàng hóa khuyết tật gây thiệt hại cho các chủ thể
liên quan.
Thứ hai, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa phát sinh do sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây
thiệt hại cho các chủ thể liên quan, không phụ thuộc giữa nhà sản xuất sản phẩm,
hàng hóa không đảm bảo chất lượng và các chủ thể liên quan dùng bị thiệt hại có
quan hệ hợp đồng hay không.
Thứ ba, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa có thể là trách nhiệm riêng lẻ hoặc liên đới. Nếu sản phẩm, hàng
hóa không đảm bảo do nhiều nhà sản xuất gây ra thì các nhà sản xuất này chịu
trách nhiệm liên đới khi các chủ thể liên quan bị thiệt hại.
Thứ tư, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa là trách nhiệm tương đối vì nhà sản xuất có thể được miễn trách
nhiệm trong một số trường hợp nhất định.
1.3. Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất hoặc người bán hàng,
tức phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm, hàng
hóa đến tay người tiêu dùng. Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người
22
tiêu dùng hoặc không có mối liên hệ trực tiếp. Như vậy, về mặt nguyên tắc, trong
bất kỳ trường hợp nào, đối với một sản phẩm xuất hiện trên thị trường luôn tồn tại
chủ thể chịu trách nhiệm đối với sản phẩm này. Xác định được chủ thể chịu trách
nhiệm sản phẩm có ý nghĩa quan trọng và quyết định khi giải quyết vụ án liên
quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Những phạm trù khái niệm còn lại của
chế định trách nhiệm sản phẩm dù được quy định một cách chuẩn xác cũng sẽ trở
lên vô nghĩa nếu không làm rõ được chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường và quyền
lợi của người tiêu dùng cũng sẽ không được bảo vệ. Nghiên cứu pháp luật các
nước trên thế giới, có thể nhận thấy luật pháp các nước cũng có những quy định
khác nhau về chủ thể phải chịu trách nhiệm trong những trường hợp khiếu nại về
trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất. Có quốc gia quy định phạm vi chủ thể
này khá rộng, nhưng cũng có những quốc gia quy định ở mức độ hẹp.
Liên minh Châu Âu (EU):
Điều 3 Chỉ thị về trách nhiệm sản phẩm (năm 1985) quy định khá rõ ràng
về những chủ thể phải chịu trách nhiệm sản phẩm như sau:
- Nhà sản xuất là người sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh, là người sản
xuất ra nguyên liệu thô hoặc là người sản xuất một bộ phận của sản phẩm hay bất
cứ người nào, mà bằng cách đặt tên, nhãn hiệu hoặc bất cứ dấu hiệu nào khác xác
nhận mình là người sản xuất ra sản phẩm đó;
- Nếu không tính đến trách nhiệm của nhà sản xuất thì bất cứ người nào
nhập khẩu sản phẩm vào cộng đồng chung Châu Âu để bán, thuê, cho thuê hay
bất cứ hình thức phân phối nào trong quá trình kinh doanh của người đó, thì được
coi là nhà sản xuất trong khuôn khổ của Chỉ thị này và phải chịu trách nhiệm như
người sản xuất;
- Khi không thể xác định được người sản xuất thì người phân phối sẽ phải
chịu trách nhiệm như người sản xuất trừ khi người đó thông báo cho người bị thiệt
hại trong thời gian hợp lý người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó hoặc người trực
23
tiếp phân phối sản phẩm đó.
Như vậy, đối tượng áp dụng của pháp luật trách nhiệm sản phẩm của
Liên minh Châu Âu bao gồm người sản xuất, người nhập khẩu và người cung
ứng sản phẩm. Người bị thiệt hại có quyền khiếu nại bất cứ người nào trong bất
cứ khâu nào của quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm. Phạm vi giới hạn
này được thể hiện rất rõ trong một văn bản được coi là luật mẫu để các quốc
gia thuộc Liên minh Châu Âu xây dựng các quy định của nội luật về trách
nhiệm sản phẩm. Theo bản Chỉ thị, chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm cũng
được xem xét khá rộng rãi, vì thế, một vụ kiện trách nhiệm sản phẩm tại Liên
minh Châu Âu không chỉ chống lại nhà sản xuất thành phẩm cuối cùng, mà còn
có thể chống lại các nhà sản xuất linh kiện bộ phận, nhà nhập khẩu, hoặc các
chủ thể khác như nhà phân phối, nhà đại diện, nhà bán buôn, bán lẻ và đôi khi
là người mua hoặc nhà tuyển dụng.
Nhật Bản
Luật Trách nhiệm sản phẩm (năm 1994) quy định tương đối hẹp về đối
tượng áp dụng, theo đó chỉ có hai đối tượng chính chịu sự điều chỉnh của luật trách
nhiệm sản phẩm là người sản xuất và người tương tự như người sản xuất. Người
sản xuất là những người tham gia sản xuất ra thành phẩm, chế biến nguyên liệu
thô, người sản xuất bán thành phẩm, những người tham gia hoạt động chế biến,
làm biến đổi sản phẩm. Những đối tượng này không phụ thuộc vào việc sản xuất
theo dây chuyền công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công nhỏ lẻ miễn
sao khi sản phẩm có khuyết tật, bán ra thị trường và người tiêu dùng bị thiệt hại,
thì họ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Những người
tương tự như người sản xuất là những người có sản phẩm mang tên mình, có
thương hiệu của mình, hay bất cứ một dấu hiệu đặc trưng nào của mình thể hiện
rằng mình là người sản xuất ra sản phẩm.
Hoa Kỳ
24
Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật hiện hành được áp dụng với các chủ
thể sau:
- Các nhà sản xuất, phân phối, bán lẻ (hệ thống phân phối) phải chịu trách
nhiệm với những thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra cho người sử dụng
hoặc những người ở gần sản phẩm đó;
- Công ty nước ngoài trực tiếp kinh doanh tại Hoa Kỳ.
Cũng giống như các nước khác, đối tượng áp dụng của luật trước hết là
người sản xuất, người phân phối (bao gồm người bán buôn, bán lẻ… và người
nhập khẩu sản phẩm). Ngoài ra, công ty nước ngoài cũng có thể phải chịu sự
xét xử của tòa án Hoa Kỳ ngay cả khi công ty không trực tiếp sản xuất, kinh
doanh tại Hoa Kỳ nhưng chi nhánh của nó phân phối các sản phẩm có khuyết
tật tại Hoa Kỳ, thì công ty đó vẫn có thể phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm
có khuyết tật.
Đối tượng áp dụng của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm Hoa Kỳ được
mở rộng thêm khi quy định trách nhiệm của người trung gian. Đó là những
người có đủ chuyên môn nghiệp vụ để cảnh báo đầy đủ cho người sử dụng sản
phẩm cuối cùng về sự nguy hiểm của sản phẩm và việc sản phẩm có khuyết tật.
Nếu có thể làm như vậy nhưng người trung gian không làm, thì người trung
gian phải chịu trách nhiệm nếu thiệt hại phát sinh là kết quả của việc cảnh báo
không đầy đủ. Trong trường hợp này người sản xuất, người bán hàng… được
miễn trách. Quan điểm về trách nhiệm của người trung gian xuất hiện đầu tiên
trong Ngành Dược phẩm Hoa Kỳ và sau đó đã được phát triển và tinh lọc để
bảo vệ quyền lợi của rất nhiều nhà sản xuất dược phẩm khi họ bán sản phẩm
của mình tới những người trung gian là các bác sỹ hay dược sỹ.
25
Tiểu kết chương 1
Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản phẩm,
hàng hóa là trách nhiệm pháp lý với các hậu quả xấu mà nhà sản xuất phải gánh
chịu; trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa phát sinh do sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại
cho các chủ thể liên quan; trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa có thể là trách nhiệm riêng lẻ hoặc liên đới; trách
nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách
nhiệm tương đối.
Theo quy đinh của pháp luật Việt Nam hiện nay, trách nhiệm đảm bảo
chất lượng sản phẩm hàng hóa của nhà sản xuất bao gồm các trách nhiệm chính
sau:
Bảo đảm sản phẩm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi
trường; Tự xác định và thể hiện thông tin để cảnh báo về khả năng gây mất an
toàn của sản phẩm; Trường hợp sử dụng mã số, mã vạch trên sản phẩm, hàng
hóa hoặc bao bì sản phẩm, hàng hóa thì người sản xuất phải tuân thủ theo đúng
quy định về sử dụng mã số, mã vạch; Thể hiện các thông tin về chất lượng trên
nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo hàng hóa theo quy định của pháp
luật về nhãn hàng hóa; Thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
Cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa cho
người bán hàng và người tiêu dùng; Thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ,
bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa; Cung cấp thông tin về việc bảo hành
và thực hiện việc bảo hành sản phẩm, hàng hóa cho người mua, người tiêu
dùng; Sửa chữa, hoàn lại hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết tật bị
người bán hàng, người tiêu dùng trả lại; Kịp thời ngừng sản xuất, thông báo
cho các bên liên quan và có biện pháp khắc phục hậu quả khi phát hiện sản
phẩm, hàng hóa gây mất an toàn hoặc sản phẩm, hàng hóa không phù hợp với
26
tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; Thu hồi, xử lý sản
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng.
Nghiên cứu pháp luật các nước trên thế giới, có thể nhận thấy luật pháp các
nước cũng có những quy định khác nhau về về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản
xuất. Những nghiên cứu này góp phần định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật quy định về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất tại Việt Nam.
27
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG
HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm bảo đảm chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
- Thứ nhất, pháp luật hiện hành đã tạo được hành lang pháp lý về trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất khá đầy đủ
như sau:
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, ngoài mục đích tạo điều kiện
để lưu thông, trao đổi sản phẩm, hàng hóa, các quốc gia cũng cần ngăn chặn
các sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm an toàn, không đảm bảo chất lượng để
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước, bảo vệ sản xuất sản phẩm, hàng
hóa trong nước và đảm bảo lợi ích quốc gia. Vì các yêu cầu này, nhiều nước đã
ban hành các đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, để thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hoá, năm 1990 nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá cùng
với gần một trăm văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên,
cho tới năm 2006, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa vẫn chưa thống nhất và đồng bộ, ngày càng bộc lộ những
bất cập với yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong tình hình hội
nhập của đất nước. Với mục đích hoàn thiện pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối
cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, từ năm 2006 đến
nay, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được
hoàn thiện. Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã
28
hội về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của
nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban
hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006, Luật chất lượng sản
phẩm, hàng hoá năm 2007, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010,
Bộ luật Dân sự năm 2015... Bên cạnh đó là các luật và các văn bản hướng dẫn
thi hành được các cơ quan chức năng chuyên ngành ban hành để hướng dẫn áp
dụng vào thực tiễn đối với từng ngành sản phẩm, hàng hóa.
Thứ hai, trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà
sản xuất được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật.
- Quy định tại Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật:
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động xây dựng,
ban hành và áp dụng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (hoạt động tiêu chuẩn
hoá) trở thành một bộ phận không thể tách rời của hoạt động sản xuất, kinh
doanh và quản lý kinh tế - xã hội. Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là công cụ
kỹ thuật quan trọng để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá vì tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật quy định các yêu cầu an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải
đạt được để có thể được đưa vào lưu thông, tiêu dùng; đồng thời nó cũng là căn
cứ để đánh giá sản phẩm, hàng hóa có đảm bảo yêu cầu an toàn hay không.
Thực tiễn phát triển đòi hỏi phải có các thay đổi mạnh mẽ hơn nữa trong
hoạt động tiêu chuẩn hóa, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa,
dịch vụ trong nước, khơi thông và phát triển các quan hệ kinh tế, thương mại
song phương và đa phương với các nước trong tiến trình hội nhập.
Đặc biệt, trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế để phát triển và hội nhập,
Nhà nước không thể quản lý, bao quát được chất lượng của hàng triệu mặt hàng
với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng, phong phú mà cần sự tham gia và chia
sẻ trách nhiệm của các doanh nghiệp. Một mặt, các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân phải được tham gia vào quá trình xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn
29
kỹ thuật và tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hoá của mình,
mặt khác, Nhà nước phải đổi mới tư duy quản lý về tiêu chuẩn hoá cũng như
phương pháp tiếp cận về quản lý chất lượng thì mới theo kịp và đáp ứng được
các yêu cầu của thực tiễn.
Với tinh thần đó, việc ban hành Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật
là hết sức cần thiết và cấp bách nhằm đổi mới toàn diện và thống nhất điều
chỉnh hoạt động tiêu chuẩn hoá, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy tiến trình gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và thực hiện Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương
mại (TBT/WTO), bảo vệ được lợi ích quốc gia và lợi ích của các doanh nghiệp
trong nước trước sức ép của cạnh tranh toàn cầu và tự do hoá thương mại, đồng
thời, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam
phục vụ cho giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày
29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Theo quy định của
Luật, tổ chức, cá nhân sản xuất có trách nhiệm:
Một là: Công bố tiêu chuẩn áp dụng cho sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ,
quá trình, môi trường. Công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định là việc tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thông báo về tiêu chuẩn áp dụng hoặc các
đặc tính cơ bản của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường của
mình. Đối tượng của công bố hợp chuẩn là sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá
trình, môi trường được quy định trong tiêu chuẩn tương ứng. Công bố hợp
chuẩn là hoạt động tự nguyện. Việc công bố phù hợp tiêu chuẩn tương ứng dựa
trên: kết quả chứng nhận hợp chuẩn do tổ chức chứng nhận đã đăng ký thực
hiện hoặc kết quả tự đánh giá sự phù hợp của tổ chức, cá nhân công bố hợp
chuẩn. Việc thử nghiệm phục vụ đánh giá hợp chuẩn phải được thực hiện tại tổ
30
chức thử nghiệm đã đăng ký. Khi phát hiện sự không phù hợp của sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường đã công bố hợp chuẩn trong quá trình
lưu thông, sử dụng, tổ chức, cá nhân phải: (1) Tạm ngừng việc xuất xưởng và
tiến hành thu hồi các sản phẩm, hàng hóa không phù hợp đang lưu thông trên
thị trường trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa không phù hợp có rủi ro cao
gây mất an toàn cho người sử dụng; ngừng vận hành, khai thác các quá trình,
dịch vụ, môi trường liên quan khi cần thiết; (2) Tiến hành các biện pháp khắc
phục sự không phù hợp; (3) Thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền về kết quả khắc phục sự không phù hợp trước khi tiếp tục
đưa các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường vào sử dụng, lưu
thông, khai thác, kinh doanh.
Hai là: Công bố sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường phù
hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
thuộc đối tượng phải áp dụng quy chuẩn kỹ thuật có trách nhiệm công bố sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
tương ứng dựa trên kết quả chứng nhận hợp quy do tổ chức chứng nhận sự phù
hợp được chỉ định theo quy định thực hiện hoặc kết quả tự đánh giá của tổ chức,
cá nhân trên cơ sở kết quả thử nghiệm của phòng thử nghiệm được công nhận
hoặc chỉ định. Đối tượng của công bố hợp quy là sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ,
quá trình, môi trường được quy định trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do các
Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành hoặc được quy định trong quy chuẩn kỹ
thuật địa phương do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
ban hành. Công bố hợp quy là hoạt động bắt buộc. Bộ quản lý ngành, lĩnh vực
xác định sản phẩm, hàng hóa nhóm 2, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
tương ứng và biện pháp quản lý để công bố hợp quy quy định trong quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Hoạt động công bố hợp quy đối với hàng hóa nhập khẩu quy định là việc tổ
31
chức, cá nhân thực hiện quy định kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa
nhập khẩu. Việc công bố hợp quy dựa trên một trong các biện pháp sau: Kết
quả tự đánh giá sự phù hợp của tổ chức, cá nhân; Kết quả chứng nhận của tổ
chức chứng nhận đã đăng ký hoặc được thừa nhận theo quy định của pháp luật;
Kết quả chứng nhận của tổ chức chứng nhận được chỉ định Việc thử nghiệm
phục vụ công bố hợp quy được thực hiện tại tổ chức thử nghiệm đã đăng ký
hoặc được thừa nhận theo quy định của pháp luật. Trường hợp sử dụng kết quả
đánh giá sự phù hợp của tổ chức đánh giá sự phù hợp nước ngoài thì tổ chức
đánh giá sự phù hợp nước ngoài phải được thừa nhận theo quy định của pháp
luật hoặc được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chỉ định. Trường hợp
sản phẩm, hàng hóa được quản lý bởi nhiều quy chuẩn kỹ thuật khác nhau thì
tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc đăng ký bản công bố hợp quy tại các cơ
quan chuyên ngành tương ứng và dấu hợp quy chỉ được sử dụng khi sản phẩm,
hàng hóa đó đã thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý theo quy định, tại các
quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Tổ chức, cá nhân công bố hợp quy phải đăng
ký bản công bố hợp quy tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân công bố hợp quy: (1) Thông báo trên các phương tiện thông
tin thích hợp về việc công bố hợp quy của mình đảm bảo người sử dụng sản
phẩm, hàng hóa đó dễ dàng tiếp cận; (2) Duy trì liên tục và chịu trách nhiệm về
sự phù hợp của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường đã công
bố hợp quy; duy trì việc kiểm soát chất lượng, thử nghiệm và giám sát định kỳ;
(3) Sử dụng dấu hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa đã được công bố hợp quy
theo quy định trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường. Lập sổ theo dõi và
định kỳ hàng năm báo cáo việc sử dụng dấu hợp quy cho tổ chức chứng nhận
được chỉ định; (4) Thực hiện việc công bố lại khi có bất kỳ sự thay đổi nào về
nội dung của hồ sơ công bố hợp quy đã đăng ký hoặc có bất kỳ sự thay đổi nào
về tính năng, công dụng, đặc điểm của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã công bố
32
hợp quy; (5) Khi phát hiện sự không phù hợp của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ,
quá trình, môi trường đã công bố hợp quy trong quá trình lưu thông hoặc sử
dụng, tổ chức, cá nhân phải: Kịp thời thông báo bằng văn bản về sự không phù
hợp với cơ quan chuyên ngành; Tạm ngừng việc xuất xưởng và tiến hành thu
hồi các sản phẩm, hàng hóa không phù hợp đang lưu thông trên thị trường trong
trường hợp sản phẩm, hàng hóa không phù hợp có rủi ro cao gây mất an toàn
cho người sử dụng; ngừng vận hành, khai thác các quá trình, dịch vụ, môi
trường liên quan khi cần thiết; Tiến hành các biện pháp khắc phục sự không
phù hợp; Thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên ngành về kết quả khắc
phục sự không phù hợp trước khi tiếp tục đưa các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ,
quá trình, môi trường vào sử dụng, lưu thông, khai thác, kinh doanh.
Ba là: Bảo đảm sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường phù
hợp với quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn đã công bố.
- Quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá về trách nhiệm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất:
Cũng như nhiều nước trên thế giới, quản lý nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường khả
năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới. Luật Chất lượng sản
phẩm, hàng hóa được ban hành là bước quan trọng góp phần hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hướng vào mục tiêu nâng cao
chất lượng của sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, góp phần thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong bối cảnh tự do
hoá thương mại và hội nhập; đổi mới vai trò điều tiết của Nhà nước kết hợp
linh hoạt với điều tiết của thị trường nhằm định hướng và bảo đảm cho hoạt
động chất lượng có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, giúp các doanh
nghiệp và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vượt qua các rào cản kỹ thuật trên
33
cơ sở đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu, đồng thời, bảo
vệ được lợi ích quốc gia và người tiêu dùng trong nước thông qua các biện pháp
kiểm soát chất lượng đối với hàng hoá nhập khẩu; đổi mới cơ chế quản lý chất
lượng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu quản lý
kinh tế cũng như các tập quán quốc tế trong lĩnh vực chất lượng; bảo đảm tối
đa quyền lợi người tiêu dùng thông qua cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ,
toàn diện, kể cả các biện pháp mạnh từ phía Nhà nước đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về chất lượng. Việc ban hành Luật này cũng nhằm tạo sự đồng
bộ với hệ thống các quy định của Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật năm
2006. Luật về cơ bản đã quy định đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động
liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá và hoạt động quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của cơ quan nhà nước. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải tuân theo quy
định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Theo quy định của Luật này sản phẩm (kết quả của quá trình sản xuất
hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng), hàng hoá
(sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp
thị) đều được quản lý chất lượng theo các nguyên tắc sau:
Một là, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn
công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sản phẩm, hàng hoá không có
khả năng gây mất an toàn là sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển,
lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, không gây hại cho người,
động vật, thực vật, tài sản, môi trường được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu
chuẩn của hàng hoá, chất lượng mà người sản xuất sản phẩm, hàng hoá đó công
bố áp dụng. Sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn là sản phẩm,
hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và
34
đúng mục đích, vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài
sản, môi trường được quản lý trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản
xuất công bố áp dụng.
Hai là, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của nhà sản
xuất nhằm bảo đảm an toàn cho người, môi trường; động vật, thực vật, nâng
cao chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá.
Ba là, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quản lý về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá. Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng
hoá phải phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo khách quan, minh bạch, không
phân biệt đối xử đối xử nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà sản xuất,
kinh doanh và người tiêu dùng.
Nội dung về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất (quyền và nghĩa vụ của người sản xuất) quy định tại Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá được quy định như sau:
Một là, nhà sản xuất có quyền quyết định và công bố mức chất lượng sản
phẩm do mình sản xuất, cung cấp; được quyết định các biện pháp kiểm soát nội
bộ để bảo đảm chất lượng sản phẩm; được lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù
hợp để thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm,
hàng hóa....
Hai là, nhà sản xuất có trách nhiệm: Bảo đảm sản phẩm an toàn cho
người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; Thể hiện các thông tin về chất
lượng trên nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo hàng hóa theo quy
định của pháp luật về nhãn hàng hóa; Thông tin trung thực về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa; Cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách
phòng ngừa cho người bán hàng và người tiêu dùng; Thông báo yêu cầu về vận
35
chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa; Cung cấp thông tin về
việc bảo hành và thực hiện việc bảo hành sản phẩm, hàng hóa cho người mua,
người tiêu dùng; Sửa chữa, hoàn lại hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết
tật bị người bán hàng, người tiêu dùng trả lại; Kịp thời ngừng sản xuất, thông
báo cho các bên liên quan và có biện pháp khắc phục hậu quả khi phát hiện sản
phẩm, hàng hóa gây mất an toàn hoặc sản phẩm, hàng hóa không phù hợp với
tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; Thu hồi, xử lý sản
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng. Phải chịu toàn bộ chi phí cho việc
tiêu huỷ hàng hóa và chịu trách nhiệm về hậu quả của việc tiêu huỷ hàng hóa.
- Quy định về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010:
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với thế giới, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhiều phương thức kinh doanh hiện đại
đã ra đời, phát triển và gia nhập vào Việt Nam, qua đó mang đến cho người tiêu
dùng nhiều sự lựa chọn hơn trong việc mua sắm hàng hóa và dich vụ chất lượng
ổn định. Nội dung về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm: Trách nhiệm
trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng; Trách
nhiệm hợp đồng giao kết với người tiêu dùng và giải thích hợp đồng giao kết
với người tiêu dùng; Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch; Trách nhiệm
bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện; Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết
tật; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra. Theo
quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của người sản xuất bao gồm những trách nhiệm
36
chính sau:
Một là, trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng:
Nhà sản xuất có trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng:
Điều 12 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dung
bao gồm: ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật; Niêm yết công khai
giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ; Cảnh báo
khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản
của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa; Cung cấp thông tin về khả
năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa; Cung cấp hướng dẫn
sử dụng, điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng
hóa, dịch vụ có bảo hành.
Ngoài quy định trong Luật này, nội dung về trách nhiệm cung cấp thông
tin của nhà sản xuất còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
khác như Luật Cạnh tranh năm 2018 (quy định cấm hành vi đưa thông tin gian
dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch
vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh
nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác); Nghị định
số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa (với nội
dung quy định cụ thể về việc ghi nhãn hàng hóa, kích thước, nội dung, cách ghi
nhãn và trách nhiệm ghi nhãn).
Hai là, trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện: Theo quy định tại Điều
21 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trách nhiệm bảo hành hàng hóa,
linh kiện, phụ kiện như sau: “Hàng hóa, linh kiện, phụ kiện được bảo hành theo
thỏa thuận của các bên hoặc bắt buộc bảo hành theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hàng hóa, linh kiện, phụ kiện được bảo hành, tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa có trách nhiệm: Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hành hàng hóa,
37
linh kiện, phụ kiện do mình cung cấp; Cung cấp cho người tiêu dùng giấy tiếp
nhận bảo hành, trong đó ghi rõ thời gian thực hiện bảo hành. Trường hợp tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa thay thế linh kiện, phụ kiện hoặc đổi hàng
hóa mới thì thời hạn bảo hành linh kiện, phụ kiện hoặc hàng hóa đó được tính
từ thời điểm thay thế linh kiện, phụ kiện hoặc đổi hàng hóa mới; Cung cấp cho
người tiêu dùng hàng hóa, linh kiện, phụ kiện tương tự để sử dụng tạm thời
hoặc có hình thức giải quyết khác được người tiêu dùng chấp nhận trong thời
gian thực hiện bảo hành; Đổi hàng hóa, linh kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc
thu hồi hàng hóa, linh kiện, phụ kiện và trả lại tiền cho người tiêu dùng trong
trường hợp hết thời gian thực hiện bảo hành mà không sửa chữa được hoặc
không khắc phục được lỗi; Đổi hàng hóa, linh kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc
thu hồi hàng hóa và trả lại tiền cho người tiêu dùng trong trường hợp đã thực
hiện bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện từ ba lần trở lên trong thời hạn bảo
hành mà vẫn không khắc phục được lỗi; Chịu chi phí sửa chữa, vận chuyển
hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đến nơi bảo hành và từ nơi bảo hành đến nơi cư
trú của người tiêu dùng; Chịu trách nhiệm về việc bảo hành hàng hóa, linh kiện,
phụ kiện cho người tiêu dùng cả trong trường hợp ủy quyền cho tổ chức, cá
nhân khác thực hiện việc bảo hành”. Như vậy, sản phẩm được người tiêu dùng
mua có thể được bảo hành hoặc không được bảo hành. Đây là điều người tiêu
dùng cần lưu ý ngay trước khi tiến hành giao dịch mua bán để xác thực thông
tin với nhà cung cấp sản phẩm. Nói cách khác, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần
cung cấp cho người tiêu dùng sổ bảo hành, hoặc giấy chứng nhận bảo hành với
đầy đủ các nội dung nói trên cho việc bán sản phẩm được bảo hành.
Ba là, trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật: Hàng hóa
có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả
năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả
trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn
38
kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng
hóa được cung cấp cho người tiêu dùng.
Xuất phát từ ảnh hưởng trực tiếp của hàng hóa khuyết tật tới lợi ích hợp
pháp của người tiêu dùng cũng như tính mạng và sức khỏe của những người
được coi là bên yếu thế hơn, pháp luật quy định nhà sản xuất buộc phải áp dụng
những biện pháp cần thiết trong đó có trách nhiệm thu hồi hàng hóa đã lưu
thông trên thị trường nên trong nhiều trường hợp, kể cả hàng hóa có khuyết tật
bắt nguồn từ lỗi cố ý của nhà sản xuất vì mục tiêu lợi nhuận hay lỗi vô ý trong
quá trình sản xuất.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định khá chi tiết về trách
nhiệm của nhà sản xuất khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật. Theo đó, nhà sản
xuất hàng hóa có trách nhiệm: Kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để
ngừng việc cung cấp hàng hóa có khuyết tật trên thị trường; Thông báo công
khai về hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi hàng hóa đó; Thực hiện việc thu
hồi hàng hóa có khuyết tật đúng nội dung đã thông báo công khai và chịu các
chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi; Báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp tỉnh nơi thực hiện thu hồi
hàng hóa có khuyết tật sau khi hoàn thành việc thu hồi, trường hợp việc thu hồi
hàng hóa có khuyết tật được tiến hành trên địa bàn từ hai tỉnh trở lên thì báo
cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
ở trung ương.
Bốn là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất do hàng hóa
có khuyết tật gây ra: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết
tật gây ra cho người tiêu dùng là những hậu quả bất lợi về mặt vật chất mà tổ
chức, cá nhân phải gánh chịu do cung cấp hàng hóa có khuyết tật gây ra thiệt
hại cho người tiêu dùng, không phụ thuộc vào tổ chức, cá nhân đó có lỗi hay
không trong việc tạo ra hàng hóa khuyết tật. Để truy cứu trách nhiệm đối với
39
nhà sản xuất về hàng hóa có khuyết tật, điều đầu tiên cần chứng minh là có thiệt
hại đối với người tiêu dùng đã xảy ra. Thiệt hại xảy ra đối với người tiêu dùng
bao gồm thiệt hại cả về tài sản và tinh thần cho người tiêu dùng. Thiệt hại về
tài sản được biểu hiện cụ thể là những mất mát về tài sản, giảm sút tài sản,
những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sữa chữa, thay thế, những lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe bao gồm các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại... Thiệt hại về tinh thần theo quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam đó là những thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm hoặc những suy sụp tình cảm, tâm lý của người tiêu
dùng do ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm, hàng hóa.
Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định: Tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp
hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không biết hoặc
không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp quy định tại Điều
24 của Luật này.
Bên cạnh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Bộ luật Dân sự năm
2015 cũng có quy định về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của nhà sản xuất. Bộ luật Dân sự năm 2015 là đạo luật cơ bản của hệ thống
pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự được hình thành trên cơ sở bình đẳng,
tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các bên tham gia quan
hệ đó. Việc ban hành Bộ luật này là dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của
pháp luật dân sự ở nước ta. Theo quy định tại Bộ luật, có thể thấy trách nhiệm
bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất cũng được quy định
tương tự như nội dung quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ
40
thể bao gồm: trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa; trách nhiệm
bảo hành sản phẩm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng…
Ngoài ra, quy định về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành
khác như: Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Luật Thương mại năm 2005…
Thứ ba, quy định trách nhiệm của nhà nước đối với đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất: Xuất phát từ quan điểm kinh tế - xã hội
- kỹ thuật về chất lượng, quản lý chất lượng cũng chịu sự chi phối trực tiếp của
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế. Có thể nêu lên những vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu quyết định đến quản lý chất lượng, bao gồm:
- Định hướng phát triển kinh tế ở nước ta trước đây là nền kinh tế kế
hoạch hóa cao độ, tập trung và bao cấp, hiện nay là xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo các quy luật của thị trường, trong xu hướng hội nhập
quốc tế, và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Tôn trọng và phát huy đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, đó là
quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và quy luật giá trị;
- Đảm bảo phát triển kinh tế bền vững (bảo vệ môi trường) và hài hòa
các lợi ích của người sản xuất, kinh doanh, của người lao động, của người tiêu
dùng và của nhà nước (đảm bảo phúc lợi xã hội và xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa);
- Các chính sách của Nhà nước về khoa học và công nghệ, các biện pháp
khuyến khích áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ, đổi mới và chuyển
giao công nghệ, hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ…;
- Các vấn đề hợp tác, đấu tranh và cạnh tranh trong điều kiện hội nhập
kinh tế, khu vực và quốc tế.
Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa diễn
41
ra ở hầu hết các Bộ, ngành. Do vậy, ngoài quy định trách nhiệm của Bộ Khoa
học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, còn quy
định cụ thể trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các Bộ
quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo đó, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách
nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
chất lượng sản phẩm, hàng hóa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của Bộ,
ngành; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm
trong sản xuất… Đặc biệt đã quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước
về chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị
trường, trong quá trình sử dụng có khả năng gây mất an toàn, ví dụ cụ thể như
42
sau:
- Bộ Y tế chịu có trách nhiệm thực hiện việc quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm trong sản xuất đối với: an toàn thực phẩm, dược phẩm, vắc
xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, nguyên liệu sản xuất thuốc và thuốc cho mọi
người, hóa chất gia dụng, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn, thiết bị, công
trình y tế;
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm thực hiện việc
quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất đối với: cây trồng, vật
nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, muối,
chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công trình
thủy lợi, đê điều;
- Bộ Công Thương có trách nhiệm thực hiện việc quản lý nhà nước về
chất lượng sản phẩm trong sản xuất đối với: thiết bị áp lực, thiết bị nâng đặc
thù chuyên ngành công nghiệp, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, trang thiết bị
khai thác mỏ, dầu khí, trừ các thiết bị, phương tiện thăm dò, khai thác trên biển,
an toàn thực phẩm, thương mại điện tử…
Quá trình tạo ra sản phẩm, lưu thông trên thị trường và đưa vào sử dụng
sản phẩm là một quá trình liên tục, tuy nhiên để xác định được các biện pháp
quản lý chất lượng thích hợp, quá trình này được phân chia thành 3 khu vực
quản lý riêng. Đó là khu vực sản xuất, khu vực nhập khẩu và khu vực lưu thông
trên thị trường.
Trong toàn bộ chu trình sống của sản phẩm, hàng hóa, quản lý chất lượng
tại khu vực sản xuất là quan trọng nhất vì đây chính là nơi hình thành, sáng tạo
ra đặc tính về chất lượng và tính an toàn của sản phẩm. Việc tổ chức quản lý,
kiểm soát chất lượng ở khu vực sản xuất chính là nhằm kiểm soát từ gốc, chủ
yếu là triển khai các biện pháp có tính chất phòng ngừa rủi ro của sản phẩm
trước khi ra thị trường, hạn chế ngay từ đầu các tổn thất về kinh tế cho nhà sản
43
xuất và nền kinh tế chung, cũng như tránh các rủi ro về an toàn cho con người,
tài sản, môi trường. Đối với sản phẩm Sản phẩm, hàng hóa không có khả năng
gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hóa nhóm 1), được quản lý dựa trên cơ sở tiêu
chuẩn do nhà sản xuất tự công bố áp dụng thông qua việc tự đánh giá hoặc đánh
44
giá sự phù hợp của bên thứ ba.
Đối với sản phẩm thuộc Nhóm 2, nhà sản xuất phải công bố hợp
quy hoặc chứng nhận hợp quy thông qua kết quả đánh giá sự phù hợp của bên
thứ ba. Sản phẩm thuộc Nhóm 2, nhưng có yêu cầu quản lý nghiêm ngặt về an
toàn (dược phẩm, thực phẩm, hóa chất có tính độc, vật liệu nổ, thiết bị nâng hạ,
phương tiện giao thông vận tải, nồi hơi, thiết bị áp lực, …) còn phải được quản
lý bằng quy chế đặc biệt.
Đối với chứng nhận hợp quy, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định điều
kiện đối với tổ chức chứng nhận. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định
tổ chức chứng nhận thực hiện việc chứng nhận hợp quy. Dấu hợp chuẩn, dấu
hợp quy là dấu hiệu chứng minh sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá với tiêu
chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Dấu hợp chuẩn là dấu thuộc sở hữu
của các tổ chức chứng nhận đã được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tổ
chức chứng nhận quy định về hình dạng, kết cấu, cách thể hiện và sử dụng dấu
hợp chuẩn cấp cho đối tượng được chứng nhận hợp chuẩn. Dấu hợp quy là dấu
hiệu chứng minh sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá với tiêu chuẩn hoặc quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng do Nhà nước quy định và việc quản lý dấu hợp quy
thuộc thẩm quyền quản lý của Cơ quan Nhà nước. Nhà sản xuất tự gắn dấu hợp
quy lên sản phẩm của mình khi thực hiện việc công bố hợp quy.
Đối với mỗi loại sản phẩm cụ thể, tùy theo yêu cầu về đảm bảo an toàn
và nâng cao chất lượng, trong từng giai đoạn cụ thể của toàn bộ quá trình hình
thành, phát triển, hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng của sản phẩm, việc quản lý
và kiểm soát được phân định theo hai nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Nhà sản xuất tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm theo
tiêu chuẩn do mình tự công bố hoặc ký hợp đồng với đối tác thương mại. Đối
với những sản phẩm, hàng hóa không có khả năng gây mất an toàn (là sản
phẩm, hàng hóa trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý
45
và đúng mục đích, không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi
trường), việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hoàn toàn phụ thuộc
vào quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà sản xuất. Theo nguyên tắc này,
các chính sách, biện pháp quản lý của Nhà nước có tính chất khuyến khích để
nhà sản xuất có cơ hội phát triển sản xuất, đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả
46
các bên có liên quan.
Nguyên tắc 2: Quản lý nhà nước về chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật
Nhà nước tổ chức quản lý và kiểm soát những sản phẩm, những giai đoạn có
yêu cầu trực tiếp đến việc đảm bảo an toàn của sản phẩm. Khái niệm an toàn ở
đây được hiểu trong một phạm vi rộng bao gồm an toàn đối với con người, môi
trường, động thực vật... Trong giai đoạn này, các hoạt động kỹ thuật cụ thể đều
được xã hội hóa theo hướng cơ quan nhà nước không trực tiếp can thiệp vào sản
xuất, tuy nhiên cơ quan nhà nước có quyền lựa chọn và chỉ định các tổ chức đánh
giá sự phù hợp việc thử nghiệm, kiểm đinh kỹ thuật.
Hiện nay, việc quản lý chất lượng đã chuyển từ việc kiểm soát đối tượng
cụ thể, công đoạn cụ thể sang việc quản lý toàn bộ quá trình sống của sản phẩm
từ khâu nghiên cứu tiền sản xuất, tổ chức sản xuất sản phẩm, tổ chức việc phân
phối và lưu thông hàng hóa; trong một số trường hợp còn cần phải kiểm soát
việc sử dụng hàng hóa sau khi bán đến tay người sử dụng (đặc biệt đối với các
hàng hóa có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn). Như vậy, việc quản lý chất lượng
sản phẩm là quản lý toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm, lưu thông hàng hóa
và sử dụng hàng hóa. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam được
chia thành hai giai đoạn cơ bản là: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật
tiêu chí về chất lượng (tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật) của sản phẩm, hàng hóa
và Tổ chức việc đánh giá sự phù hợp (chứng nhận, giám định, thử nghiệm) của
hàng hóa so với tiêu chí đã được xác định trước, theo thủ tục, quy trình, phương
thức đã được xác định trước.
Các quy định trên đây cho thấy, pháp luật đã xác định người chịu trách
nhiệm trực tiếp và chủ yếu về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm chất
lượng sản phẩm, hàng hoá vì an ninh, trật tự, an toàn cho xã hội và cộng đồng
nhưng nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh
47
của doanh nghiệp. Nói cách khác, hiện nay nhà nước quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hoá từ thị trường thay vì từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh như
trước đây, còn quá trình sản xuất và các hoạt động kinh doanh do người sản
xuất tự tổ chức và chịu trách nhiệm. Nhà nước thông qua các quy định về an
toàn chất lượng, sản phẩm, hàng hóa và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để
kiểm tra người sản xuất có bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa
ra thị trường hay không nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
2.2.1. Thực trạng chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại Việt Nam hiện nay
Ngày nay, hàng hóa trên thị trường nước ta ngày càng dồi dào, đa dạng,
đáp ứng được phần nào nhu cầu rất đa dạng của người tiêu dùng. Chất lượng
hàng hoá và dịch vụ ngày càng được cải thiện, chủng loại, kiểu cách mẫu mã
càng phong phú hơn, bắt mắt hơn. Nhiều loại sản phẩm trước đây chất lượng
kém vẫn được chấp nhận và lưu hành trên thị trường do sự quản lý không chặt
chẽ của doanh nghiệp thương mại đối với nhà sản xuất, ngày nay vì lợi ích
chung đòi hỏi mỗi doanh nghiệp thương mại muốn đưa hàng hoá của mình tham
gia thị trường và được thị trường chấp nhận cần phải đảm bảo yếu tố quan trọng
đó là chất lượng hàng hoá. Các doanh nghiệp đã nhận thức được động lực phát
triển, khả năng thu được lợi nhuận cao nhất tức là doanh nghiệp đó phải tạo
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như thị trường thế
giới, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng nâng cao chất lượng
sản phẩm, hàng hoá sản xuất. Đối với thị trường trong nước về cơ bản đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hoá đã đáp ứng đủ điều kiện cạnh tranh với hàng
nhập khẩu của nước ngoài, bên cạnh đó, doanh nghiệp thương mại chú trọng
kiểm tra, khắc phục những yếu kém, xử phạt đối với những hành vi nhập, xuất
48
khẩu hàng kém chất lượng bằng hệ thống máy móc hiện đại. Qua đó, các sản
phẩm, hàng hóa của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam không chỉ đáp ứng
nhu cầu trong nước mà còn có thể đáp ứng yêu cầu xuất khẩu sang các nước
trên thế giới. Xuất khẩu hàng hóa của nước ta thời gian qua được mở rộng về
quy mô, đồng thời số lượng mặt hàng cũng ngày càng đa dạng và phong phú,
đặc biệt đã phát triển thêm một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực và tạo vị thế cao
trong xuất khẩu các mặt hàng này. Theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), nếu như năm 2007, Việt Nam đứng thứ 50 thì đến năm 2017, đã
vươn lên vị trí thứ 27 về xuất khẩu. Xét về quy mô thị trường xuất khẩu, nếu
năm 2011, Việt Nam chỉ có 24 thị trường xuất khẩu, đạt kim ngạch trên 1 tỷ
USD (trong đó có 3 thị trường trên 10 tỷ USD) thì đến năm 2018, có 31 thị
trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (trong đó, 4 thị trường đạt kim
ngạch trên 10 tỷ USD, 7 thị trường trên 5 tỷ USD). [19]
Tuy nhiên, khi Việt Nam đã trở thành viên chính thức của WTO và tham
gia các hiệp định thương mại tư do nhưng chất lượng sản phẩm vẫn chưa hoàn
toàn đáp ứng nhu cầu mà người tiêu dùng mong đợi, dư luận người tiêu dùng
ngày càng thêm bức xúc với nạn hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí
tuệ, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang
có xu hướng gia tăng ở mức báo động cao như: sản phẩm chứa chất độc hại,
không an toàn, thậm chí có những sản phẩm bị thu hồi, nguy cơ gây ung thư…
Trong lĩnh vực thực phẩm, theo thống kê từ Bộ Y tế cũng chỉ ra rằng,
mỗi năm Việt Nam có khoảng 150.000 ca mới mắc và trên 75.000 trường hợp
tử vong do ung thư, trong đó có nguyên nhân từ việc sử dụng thực phẩm “bẩn”
(thực phẩm có sử dụng chất kích thích, chất tăng trọng, thuốc bảo vệ thực vật
quá dư lượng) [6]. Liên tiếp trong thời gian ngắn, các lực lượng chức năng Hà
Nội đã phát hiện và bắt giữ nhiều lô hàng thực phẩm “bẩn”, thực phẩm hết hạn,
không nhãn mác xuất xứ, ôi thiu, không đảm bảo an toàn thực phẩm với khối
49
lượng lớn đang trên đường đưa đi tiêu thụ. Đội Quản lý thị trường số 17 (Cục
Quản lý thị trường Hà Nội) phối hợp với Đội 6, Phòng Cảnh sát môi trường
(Công an thành phố Hà Nội) kiểm tra kho lạnh An Việt thuộc khu công nghiệp
Quang Minh, thị trấn Quang Minh, huyện Mê Linh (Hà Nội) và phát hiện 25
tấn đùi gà hun khói xuất xứ Hàn Quốc, không có hóa đơn chứng từ chứng minh
nguồn gốc xuất xứ. Đặc biệt, trong đó có 12 tấn đã hết hạn sử dụng từ ngày
9/3/2019, đang được chủ cơ sở gia hạn thêm thời gian sử dụng đến ngày
01/3/2020 để trong các thùng carton chảy nước, có mùi hôi thối. Theo khai
nhận của chủ hàng, toàn bộ sản phẩm trong kho đều không có giấy tờ nhập
khẩu chứng minh nguồn gốc xuất xứ hợp pháp; các giấy tờ được các cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận sản phẩm đủ điều kiện an toàn vệ
sinh thực phẩm lưu thông trên thị trường [5].
Bên cạnh đó, các mặt hàng trọng yếu như xăng dầu không đạt chất lượng,
tình hình xăng dầu gian lận, buôn lậu xăng dầu diễn biến phức tạp, với thủ đoạn
ngày càng tinh vi, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát. Như tháng
10/2017 phát hiện vụ pha chế, tiêu thụ 2 triệu lít tại Nghệ An; năm 2019 triệt
phá đường dây pha chế xăng giả tạo A95 và E5 trên thị trường của Trịnh
Sướng…, từ đầu năm 2018 đến cuối năm 2019, lĩnh vực quản lý thị trường nói
chung đã xử lý rất nhiều vụ việc liên quan đến xăng dầu với khoảng 5.000 vụ
việc và xử lý vi phạm hơn 1.000 vụ việc, tước quyền sử dụng 37 giấy phép kinh
doanh, tịch thu 6 cột bơm và 1 cây xăng… [25]
Theo số liệu của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, năm 2019
đã thực hiện thanh tra 31 cơ sở, kiểm tra 345 cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhập
khẩu. Tổng số mẫu hàng hóa được kiểm tra: 1.894 mẫu. Số mẫu không đạt về
ghi nhãn: 458/1.894 mẫu. Số mẫu không có chứng nhận hợp quy: 72/787 mẫu.
Số mẫu không đạt qua kiểm tra nhanh: 08/180 mẫu; Số mẫu không đạt qua thử
nghiệm: 19/81 mẫu, trong đó qua kiểm tra tại các cơ sở sản xuất mũ bảo hiểm,
50
điện - điện tử, đồ chơi trẻ em, dây cáp điện và xăng dầu, phát hiện 27 mẫu
không đạt về ghi nhãn (06 mẫu mũ bảo hiểm, 13 mẫu đồ chơi trẻ em, 02 mẫu
điện - điện tử, 06 mẫu dây cáp điện)… [23].
Những con số trên đã rung lên hồi chuông báo động cho các cơ quan chức
năng và tất cả người dân về chất lượng sản phẩm, hàng hóa Việt Nam để từ đó
có kế hoạch cụ thể để khắc phục tình trạng này.
2.2.2. Những ưu điểm của quy định pháp luật về đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng
nói chung và hệ thống văn bản pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ngày càng được ban hành và triển khai
khá đầy đủ, mở rộng đến nhiều loại, nhóm sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong
nước và sản phẩm, hàng hóa xuất, nhập khẩu làm cơ sở cho công tác quản lý
nhà nước thống nhất về chất lượng; thiết lập cơ chế và phương thức hoạt động
ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và xu thế hội nhập
quốc tế; đầu tư xây dựng được hệ thống các phòng thử nghiệm; tăng cường hợp
tác với các tổ chức chất lượng ở các nước. Điều này góp phần tích cực vào việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường,
đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và tạo môi trường phát triển lành mạnh,
bền vững cho các doanh nghiệp. Việc thực hiện các quy định về trách nhiệm
đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất đã mang lại những
lợi ích sau:
Thứ nhất, về vấn đề đảm bảo chất lượng của sản phẩm, hàng hóa theo
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật:
Hiện nay, các bộ đều đã xây dựng và ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá có nguy cơ gây mất an toàn
(sản phẩm, hàng hoá nhóm 2). Khoảng hơn 800 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
51
đã được ban hành và Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố hơn 12000 tiêu
chuẩn quốc gia. Số lượng và chất lượng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia này đã và đang là căn cứ quan trọng để đảm bảo trách nhiệm của nhà
sản xuất đối với trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Thứ hai, về vấn đề bảo hành sản phẩm:
Quy định trách nhiệm của nhà sản xuất về bảo hành sản phẩm không
những giúp người phân phối, người bán hàng và người tiêu dùng có thể nâng
cao được khả năng tự bảo vệ mình trong các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ
bảo hành của nhà sản xuất mà còn giúp nhà sản xuất nỗ lực để hoàn thiện chất
lượng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng, giảm thiểu các chi phí phát sinh do
phải tiến hành bảo hành, sữa chữa nhiều lần. Từ đó, giúp nâng cao uy tín nhà
sản xuất đối với người phân phối, người bán hàng và người tiêu dùng, góp phần
xây dựng một môi trường tiêu dùng lành mạnh và bền vững cho các chủ thể
tham gia và nhà sản xuất làm ăn chân chính.
Thứ ba, về vấn đề cung cấp thông tin sản phẩm, hàng hóa:
Thông tin là yếu tố quan trọng nhất mà người tiêu dùng quan tâm khi
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, là cơ sở để người tiêu dùng cân nhắc việc có
hay không thiết lập giao dịch mua bán, sử dụng hàng hóa dịch vụ với tổ chức,
cá nhân kinh doanh. Những thông tin cơ bản mà người tiêu dùng thường quan
tâm đó là: nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, giá cả, chất lượng, tính năng, công
dụng, chế độ hậu mãi, phương thức thanh toán, thông tin về tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh (năng lực, uy tín, địa điểm kinh doanh, thời gian hoạt
động…). Vì vậy, pháp luật quy định trách nhiệm cung cấp thông tin về sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất là cần thiết, đảm bảo quyền lợi của các đối
tượng liên quan trong lưu thông hàng hóa.
Thứ tư, về vấn đề thu hồi sản phẩm khuyết tật:
Trước khi có các quy định chi tiết về trách nhiệm đảm bảo chất lượng
52
sản phẩm, hàng hóa tại các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở trên thì vấn
đề thu hồi hàng hóa có khuyết tật cũng chưa được điều chỉnh cụ thể tại văn bản
nào. Do đó, gây ảnh hưởng trong công tác bảo vệ quyền lợi của các đối tượng
liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất, bên cạnh đó,
chính nhà sản xuất cũng lúng túng khi xử lý hàng hóa có khuyết tật. Vì vậy,
quy định về trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật đối với nhà
sản xuất tạo cơ sở pháp lý quan trọng để buộc nhà sản xuất phải thu hồi hàng
hóa có khuyết tật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các đối tượng có liên
quan đặc biệt là đối với người tiêu dùng.
Thứ năm, về trách nhiệm bồi thường của nhà sản xuất đối với hàng hóa
có khuyết tật:
Pháp luật đã quy định khá đầy đủ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà sản xuất đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật. Theo đó, thiệt hại do vi
phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải được bồi thường toàn
bộ và kịp thời. Người sản xuất phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc
người tiêu dùng khi hàng hóa gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất không bảo
đảm chất lượng hàng hóa. Nhà sản xuất có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người mua, người tiêu dùng trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của nhà
sản xuất không bảo đảm chất lượng hàng hóa. Việc bồi thường thiệt hại được
thực hiện theo thoả thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của
toà án hoặc trọng tài. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định về miễn trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đối với nhà sản xuất do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Việc quy định các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng không chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên, và đảm
bảo sự tự nguyện thỏa thuận của các bên trong các quan hệ dân sự mà còn thúc
53
đẩy tính chủ động tự vệ của người tiêu dùng.
Thứ sáu, về chế tài xử lý hành vi vi phạm:
Như đã nêu ở trên, hành vi vi phạm về đảm bảo chất lượng sản phẩm,
hàng hóa của nhà sản xuất ngày càng gia tăng, đặc việt là các vi phạm liên quan
trực tiếp đến người tiêu dùng từ an toàn vệ sinh thực phẩm đến hàng giả, hàng
kém chất lượng, đo lường, thông tin không trung thực, lừa dối khách hàng của
nhà sản xuất. Pháp luật đã quy định nhà sản xuất có hành vi vi phạm pháp luật
về chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, thì chế tài xử phạt vi phạm hành
chính là chế tài được sử dụng nhiều nhất, trách nhiệm pháp lý này được áp dụng
với người có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá. Thông qua trách nhiệm này đề cao trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm,
hàng hoá của mình trước xã hội, người tiêu dùng, đồng thời bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng, mặt khác đảm bảo răn đe, giáo dục các tổ
chức, cá nhân sản xuất trong việc tuân thủ quy định của pháp luật về trách nhiệm
đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất.
2.2.3. Những hạn chế, thiếu sót, bất cập của quy định pháp luật về đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất và nguyên nhân
2.2.3.1. Những hạn chế
Thứ nhất, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất do sản
phẩm có khuyết tật gây ra:
Theo pháp luật dân sự truyền thống, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được áp dụng khi thỏa mãn 4 căn cứ áp dụng sau: Có hành vi vi phạm; Có thiệt
hại thực tế xảy ra; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
thực tế xảy ra; Có lỗi. Dựa trên cơ sở đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
54
dùng áp dụng và quy định bổ sung một số ngoại lệ.
Một là, trách nhiệm chứng minh lỗi được xây dựng theo hướng mỗi cá
nhân nên chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, trong đó có một phần nhỏ
tác động từ phía Nhà nước. Theo nguyên tắc này, bên yêu cầu có trách nhiệm
chứng minh lỗi, đối chiếu vào trường hợp này bên yêu cầu là người tiêu dùng
có yêu cầu bồi thường.
Tuy nhiên, đặc thù của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng là giải phóng người tiêu dùng khỏi trách nhiệm chứng minh
lỗi. Việc chứng minh lỗi của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng gần như là bất
khả thi. Vô hình chung, việc chứng minh yếu tố lỗi lại đe dọa đến quyền hưởng
quyền của người chịu thiệt hại, tức người tiêu dùng - bên yếu thế trong quan hệ
tiêu dùng.
Hai là, căn cứ thiệt hại thực tế xảy ra. Trong thực tiễn áp dụng, không
phải lúc nào thiệt hại cũng phát sinh ngay sau khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Ví
dụ như: nước mắm có chứa arsen, sữa có chất melamine sử dụng trong thời gian
dài có thể làm hỏng thận và gây ung thư… là những sản phẩm, hàng hóa có
khuyết tật. Những hậu quả, thiệt hại này khoa học hoàn toàn có thể chứng minh
được là sẽ xảy ra, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng dù ít hay nhiều,
hậu quả mà hàng hóa có khuyết tật đó gây nên không phát sinh ngay tại thời điểm
người tiêu dùng sử dụng sản phẩm mà phải qua một thời gian dài, có khi đến vài
năm hay vài chục năm sau thiệt hại mới bộc phát. Như vậy, khi nào người tiêu
dùng sẽ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại? Liệu đến lúc người tiêu dùng bồi
thường thiệt hại, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa còn tồn tại trên thị
trường? Hiện nay, các quy định về vấn đề này còn rất chung chung, mang tính
nguyên tắc, rất khó áp dụng trong thực tế để bảo vệ người bị thiệt hại, nhiều vi
phạm quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá chưa được điều
chỉnh. Ví dụ, Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân
55
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa,
dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường. Tuy nhiên,
cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác sản xuất, kinh doanh là người sản xuất,
người nhập khẩu hay người bán hàng chưa được quy định rõ sẽ dẫn đến đùn
đẩy trách nhiệm hoặc không xác định được trách nhiệm; hoặc theo quy định
trên chỉ có người tiêu dùng mới được bồi thường, còn người mua không được
quyền này mặc dù bị thiệt hại là không phù hợp với nguyên tắc trách nhiệm bồi
thường của pháp luật dân sự (người bị thiệt hại phải được bồi thường).
Thứ hai, về chế độ bảo hành sản phẩm:
Trên thực tế, nhiều nhà sản xuất vẫn chưa thực hiện nghiêm túc, mặc dù
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo quy định tại
Điều 75 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm về trách
nhiệm bảo hành hàng hóa có thể bị phạt từ 5 triệu - 100 triệu đồng tùy thuộc
vào giá trị của hàng hóa. Đối với trường hợp hàng hóa bảo hành có giá trị dưới
20 triệu đồng thì mức xử phạt tối thiểu là từ 5 triệu -10 triệu đồng và trong
trường hợp hàng hóa, linh kiện, phụ kiện liên quan có giá trị từ 2 tỷ đồng trở
lên mức xử phạt tối là từ 70 triệu - 100 triệu đồng. Đối với trường hợp tổ chức,
cá nhân kinh doanh không cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện,
phụ kiện thay thế theo quy định hoặc không cung cấp hướng dẫn sử dụng hoặc
không cung cấp thông tin về điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành
trong trường hợp sản phẩm có bảo hành theo quy định thì bị phạt từ 10 triệu -
20 triệu đồng; trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm còn bị áp dụng hình
thức xử phạt bổ sung. Mức xử phạt này là khá hợp lý và đã có tính răn đe đối
với các nhà sản xuất có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về trách nhiệm
bảo hành. Tuy nhiên, trên thực tế thì số vụ việc vi phạm trách nhiệm bảo hành
56
còn diễn ra khá phổ biến, việc xử lý các vi phạm này còn chưa triệt để và gặp
nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do nguồn lực của các cơ quan quản lý còn khá
hạn chế, mặt khác còn do các vụ việc có tính chất phức tạp và nhỏ lẻ. Một số
trường hợp vi phạm điển hình của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thời gian
qua như: Không cung cấp cho người tiêu dùng giấy bảo hành trong đó ghi rõ
thời gian và điều kiện thực hiện bảo hành; Không cung cấp giấy tiếp nhận bảo
hành trong đó ghi rõ thời gian thực hiện bảo hành; Không đổi hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện mới tương tự hoặc thu hồi hàng hóa và trả lại tiền cho người tiêu
dùng trong trường hợp đã thực hiện bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện từ
03 lần trở lên trong thời hạn bảo hành mà vẫn không khắc phục được lỗi hoặc
trong trường hợp hết thời gian thực hiện bảo hành mà không sửa chữa được
hoặc không khắc phục được lỗi…
Thứ ba, về chế tài xử lý vi phạm vi phạm đối với trách nhiệm đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất:
Hiện tại, pháp luật đã quy định khá cụ thể mức xử phạt vi phạm hành
chính đối với đảm bảo trách nhiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản
xuất, tuy nhiên mức phạt còn khá thấp, chưa đủ sức răn đe, giáo dục đối với
nhà sản xuất ví dụ như với hành vi vi phạm quy định trong sản xuất, pha chế
khí, pha chế xăng dầu chỉ phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng
mặc dù đây là mặt hàng có giá trị lớn và thiết yếu. Ngoài ra một số biện pháp
xử phạt bổ sung không hợp lý ví dụ tước quyền sử dụng giấy chứng nhận hợp
chuẩn, giấy chứng nhận hợp quy, dấu hợp chuẩn, giấy hợp quy, chứng chỉ công
nhận; chứng chỉ kiểm định tại Điều 2, Điều 19 Nghị định số 119/2017/NĐ-CP
(vì đây không phải là giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo quy định tại Điều
21 Luật Xử lý vi phạm hành chính), quy định biện pháp khắc phục hậu quả
không khả thi trong quá trình thực hiện như buộc thu hồi chứng chỉ kiểm định
đã hết hiệu lực (Điều 10 Nghị định số 119/2017/NĐ-CP) và chậm có chế tài xử
57
lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm mới.
Thứ tư, về hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật:
Thực trạng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật còn tồn tại một
số bất cập như số lượng quy chuẩn của Việt Nam so với các nước nhiều nhưng
vẫn chưa phủ hết các đối tượng cần quản lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của
xã hội; thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu liên kết giữa các bộ chuyên ngành nên
đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng vào các hoạt động sản xuất; có sự
mâu thuẫn, trùng lặp do các Bộ, ngành cùng ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn
kỹ thuật để điều tiết cùng một đối tượng; một số tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật được xây dựng trên nền tảng khoa học, công nghệ lạc hậu, chuyển dịch
cứng nhắc từ tiêu chuẩn và quy chuẩn nước không phù hợp với thực tiễn tại
Việt Nam.
Ngoài ra, với những thay đổi trong chính sách quản lý, Luật Đầu tư kiểm
soát chặt chẽ các bộ quản lý chuyên ngành hơn trong việc thực hiện quy định
về điều kiện kinh doanh dẫn tới hiện nay các bộ quản lý chuyên ngành tăng
cường xây dựng QCVN theo xu thế chia lẻ đối tượng quản lý, lồng ghép các
yêu cầu kỹ thuật có tính chất điều kiện kinh doanh gây tốn kém thời gian, chi
phí cho doanh nghiệp.
Thứ năm, sự không rõ ràng của khái niệm hàng hóa không đảm bảo
chất lượng và hàng hóa có khuyết tật
Tại Điều 630 của Bộ Luật dân sự năm 2005 hay Điều 608 của Bộ Luật
dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa không
đảm bảo chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải
bồi thường. Mặc dù, Bộ Luật dân sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi chủ thể đó
là “Chủ thể khác” nhưng về bản chất thì không thay đổi. Từ đó cho thấy, Bộ
Luật dân sự chỉ nêu ra hàng hóa không đảm bảo chất lượng nhưng không có
tiêu chí để đánh giá thế nào là hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Luật quy
58
định chung chung, không cụ thể và không đưa ra được tiêu chí để áp dụng. Để
hiểu được thế nào là hàng hóa không đảm bảo chất lượng thì không tìm ra một
định nghĩa cụ thể, không một cuốn sách, không một quy định và không có bất
cứ một tác giả nào đề cập đến vấn đề này mà chỉ bắt gặp những khái niệm
mang tính đơn lẻ.
Khác với Bộ Luật dân sự năm 2015 thì Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 không sử dụng cụm từ “hàng hoá không đảm bảo chất
lượng” mà đề cập thẳng đến “hàng hóa có khuyết tật”. Theo khoản 3 Điều 1
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định “Hàng hóa có khuyết tật là
hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt
hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp
hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện
hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung
cấp cho người tiêu dùng”. Hàng hóa có khuyết tật bao gồm: Hàng hóa sản
xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; Hàng hóa đơn lẻ có
khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; Hàng
hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có
hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.
Như vậy, hàng hóa có khuyết tật và hàng hóa không đảm bảo chất lượng
không giống nhau và ngữ nghĩa của hai cụm từ “Khuyết tật” và “Không đảm
bảo chất lượng” cũng không đồng nhất với nhau. Điều này cho thấy, có một
sự không thống nhất giữa Bộ Luật dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.
2.2.3.2. Nguyên nhân
Thứ nhất: Quy định pháp luật hiện hành còn chưa sát thực tiễn.
Không ít quy định hiện hành khi áp dụng vào thực tế không chỉ chủ thể
là người tiêu dùng, người sản xuất kinh doanh hay là cơ quan nhà nước đều
59
cảm thấy vướng mắc. Chính điều này khiến mục đích bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng nhiều khi không đạt được. Người tiêu dùng không được hỗ trợ, cung
cấp thông tin cần thiết khi tham gia khởi kiện.
Thực tiễn hoạt động công tác bảo vệ người tiêu dùng cho thấy, khi xảy
ra vụ việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền rất khó xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm bởi thiếu
một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xử lý đó. Chính vì vậy, nhiều vụ việc
mặc dù xác định rõ ràng có sự vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ trong việc thực hiện các trách nhiệm của mình với người tiêu dùng
vẫn không xử lý được. Đây cũng là một trong những lý do ảnh hưởng đến hiệu
quả trong công tác bảo vệ người tiêu dùng thời gian qua.
Thứ hai: Kỹ thuật lập pháp liên quan đến quy định về trách nhiệm đối
với chất lượng sản phẩm:
Về mặt kỹ thuật lập pháp các quy định còn mang tính rải rác, thiếu tính
hệ thống, trong các quy định luật pháp hiện hành về trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng có thể thấy một sự thiếu đồng bộ
trong nội dung quy định về các trách nhiệm đó. Người tiêu dùng Việt Nam
thuộc nhiều đối tượng khác nhau với trình độ, nhận thức khác nhau. Do vậy,
với quy định như hiện nay, người tiêu dùng khi tiếp cận với các quy định pháp
luật rất khó để họ có thể dễ dàng nhìn thấy những trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Điều này không chỉ xảy ra với người tiêu
dùng mà thậm chí còn xảy ra với chính những tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, việc bố trí các điều khoản nhiều khi không khoa
học, thiếu logic thậm chí là trùng lặp.
60
Tiểu kết chương 2
Ở Việt Nam, pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm,
hàng hóa của nhà sản xuất đã được đưa ra và áp dụng trong nhiều năm qua với
các quy định ngày càng đầy đủ và mở rộng đến nhiều loại, nhóm sản phẩm,
hàng hóa sản xuất trong nước. Điều này góp phần tích cực vào việc nâng cao
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo
quyền lợi của người tiêu dùng và tạo môi trường phát triển lành mạnh, bền vững
cho các doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm,
hàng hóa của nhà sản xuất bao gồm: Trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin
về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng; Trách nhiệm hợp đồng giao kết với
người tiêu dùng và giải thích hợp đồng giao kết với người tiêu dùng; Trách
nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch; Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện; Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật; Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra. Mặc dù quy định pháp luật
đó đã bước đầu tạo được hành lang pháp lý cho việc bảo vệ người tiêu dùng và
chế tài đối với nhà sản xuất.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà các quy định trên đã ngày càng bộc
lộ các hạn chế, như: một số quy định còn chung chung, chưa thực sự đảm bảo
cơ chế cho việc thực thi các quyền của người tiêu dùng… Do đó, yêu cầu cấp
thiết hiện nay là cần nâng cao, hoàn thiện các quy định về đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên
quan đặc biệt là người tiêu dùng và hạn chế đến mức thấp nhất các lỗi về sản
phẩm do nhà sản xuất gây ra, buộc các nhà sản xuất phải cân bằng giữa lợi
nhuận kinh doanh và bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra.
61
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA
CỦA NHÀ SẢN XUẤT
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm của nhà
sản xuất trong bối cảnh hiện nay
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế mang lại những lợi ích kinh tế cho đất nước tuy nhiên
việc hội nhập cũng có những tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng như: hiện tượng hàng
giả, hàng không đảm bảo chất lượng, không đảm bảo an toàn đối với người tiêu
dùng được nhập khẩu vào nước ta. Nhà nước đã nhận thức được vấn đề nghiêm
trọng này và chỉ ra rằng: Chủ động phòng ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực
của quá trình hội nhập quốc tế. Để bảo vệ người tiêu dùng trong nước trong
điều kiện hội nhập quốc tế thì yêu cầu đặt ra là phải áp dụng các biện pháp được
quốc tế thừa nhận như các hàng rào kỹ thuật, pháp luật và thông lệ quốc tế,
trong đó có yêu cầu doanh nghiệp nước ngoài cũng như doanh nghiệp nhập
khẩu hàng hóa phải chịu trách nhiệm về sản phẩm mà họ tạo ra được cung cấp
cho người tiêu dùng Việt Nam.
Thứ hai, đáp ứng yêu cầu vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm,
hàng hóa của nhà sản xuất cũng là nhằm góp phần xây dựng cơ chế vận hành
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp
62
luật nói chung, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp
luật về đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất cũng cần được
đặt ra. Thêm vào đó, việc hoàn thiện pháp luật này còn cần bám sát vào đường
lối của Đảng về xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, định
hướng cho sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Việc xây dựng hệ
thống pháp luật có sự thống nhất bên trong, không có sự mâu thuẫn, chồng
chéo, có khả năng chấp nhận sự hội nhập và hợp tác quốc tế là một trong những
tiền đề và điều kiện không thể thiếu cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ ba, khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và
trong thực tiễn thực thi
Giải pháp hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn và phải phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Chính vì lẽ đó, việc đề
ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất cũng phải phù hợp với thực
trạng nền kinh tế, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp.
3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện các quy định của pháp
luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất do sản
phẩm có khuyết tật gây ra:
Một là: Việc quy định các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng không chỉ đảm bảo quyền lợi của các
bên, bảo đảm sự tự nguyên thỏa thuận của các bên trong quan hệ dân sự mà còn
là yếu tố thúc đẩy tính chủ động tự vệ của người tiêu dùng.
Nguyên lý chung của việc miễn trừ là những trường hợp nhà sản xuất
không biết và đồng thời không thể biết về khuyết tật và tính mất an toàn trong
63
sản phẩm, hàng hóa của mình. Theo đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 quy định một trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đối với nhà sản xuất (Điều 24); Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007
quy định bảy trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường đối với nhà sản xuất
(Điều 62).
Trong các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nêu
trên, pháp luật cần quy định rõ trường hợp miễn trừ trách nhiệm do rủi ro về trình
độ khoa học phát triển:
Đầu tiên là thời điểm xác định mối quan hệ giữa khuyết tật của hàng hóa
với trình độ khoa học, kỹ thuật. Theo Điều 24 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, thời điểm được xác định là “tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa cung cấp cho người tiêu dùng” trong khi Luật Chất lượng sản phẩm
hàng hóa năm 2007 lấy thời điểm là “tính đến thời điểm hàng hoá gây thiệt hại”.
Trong trường hợp này, quy định của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa thể
hiện chức năng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tốt hơn vì nếu sau khi sản phẩm
được đưa vào lưu thông, thương nhân phát hiện hay buộc phải phát hiện hàng
hóa của mình sản xuất có nguy cơ gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải thu
hồi sản phẩm và bồi thường thiệt hại. Có như vậy, thương nhân mới có trách
nhiệm hơn đối với hàng hóa của họ, đồng thời hạn chế được rủi ro cho người
tiêu dùng.
Bên cạnh đó, “trình độ khoa học, kỹ thuật” trong Điều 24 Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng là một thuật ngữ khá chung chung. Với quy định như
vậy, có thể hiểu trình độ khoa học, kỹ thuật là trình độ phát triển của khu vực
nơi sản xuất, cung ứng hàng hóa; hoặc trình độ phát triển khoa học công nghệ
của đất nước hay của thế giới. Cách hiểu khác nhau có khả năng dẫn tới việc
người thực thi pháp luật đưa ra phán quyết khác nhau đối với các trường hợp
có tính chất tương tự, không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật cũng như
64
quyền, lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Trong khi đó, Luật Chất lượng
sản phẩm hàng hóa quy định cụ thể là “trình độ khoa học, công nghệ của thế
giới”.
Từ góc độ khác, trước những rủi ro không thể biết, không thể phát hiện
được do trình độ khoa học phát triển, người tiêu dùng vẫn được xem là đối tượng
yếu thế hơn so với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do vậy, quy định về miễn trách
nhiệm trong trường hợp này có lẽ đang đẩy sự rủi ro, bất lợi sang cho phía người
tiêu dùng. Vì vậy, quy định này có phần làm giảm đi tinh thần của pháp luật bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng với tư cách là bên yếu thế.
Hai là, cần xác định rõ trách nhiệm bồi thường của nhà sản xuất khi sản
phẩm hàng hóa có khuyết tật vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá mà gây ra thiệt hại cho người khác. Việc xác định trách
nhiệm bồi thường này dựa trên nguyên tắc người có hành vi trực tiếp gây thiệt
hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nguyên tắc này thể hiện: nhà sản xuất
phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu dùng khi hàng hoá
gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất không đảm bảo chất lượng hàng hoá;
người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua hàng hoặc người tiêu
dùng trong trường thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng không bảo đảm
chất lượng hàng hoá. Các quy định làm rõ trách nhiệm của người gây thiệt hại,
do đó là cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt cho mình.
Thứ hai, về chế độ bảo hành sản phẩm:
Một là, về giới hạn trách nhiệm bảo hành: Sự phát triển không ngừng và
sự đa dạng của thị trường hiện nay cho thấy không chỉ hàng hóa mới là đối
tượng được bảo hành. Trong thời gian gần đây, việc bảo hành đối với dịch vụ
không còn xa lạ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh trong các ngành dịch vụ với mục
đích tạo sự tin cậy đối với khách hàng về tính hiệu quả, chất lượng của dịch vụ
mình đã đặt ra các nguyên tắc, điều kiện bảo hành. Người tiêu dùng từ đó có
65
thể yên tâm về chất lượng phục vụ hơn, và tổ chức, cá nhân kinh doanh lúc này
cũng có cơ hội để “sửa sai” nếu như dịch vụ của mình vô ý làm phật ý khách
hàng của mình. Các dịch vụ được bảo hành phổ biến có thể kể đến như: dịch
vụ phẫu thuật thẩm mĩ, dịch vụ làm răng, dịch vụ cung cấp mạng internet... Bảo
hành dịch vụ hiện nay giúp cho tổ chức, cá nhân kinh doanh “giữ chân” khách
hàng, giúp người tiêu dùng gắn bó với dịch vụ của mình. Hơn nữa, do không
được pháp luật bảo vệ nên mặc dù đã đưa ra các cam kết về việc bảo hành,
nhưng những tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ vẫn thờ ơ, không thực hiện
trách nhiệm của mình. Điều này gây ra tâm lý lo lắng, bất an của người tiêu
dùng khi tham gia dịch vụ. Có thể thấy, các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch
vụ đã lợi dụng sự đáng tin cậy của trách nhiệm bảo hành để từ đó lừa dối khách
hàng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại chưa có quy định cụ thể về bảo hành
trong lĩnh vực dịch vụ, khiến cho người tiêu dùng bối rối, không biết dựa vào
đâu để bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, pháp luật cần có quy định cụ thể về
bảo hành đối với dịch vụ, tránh được các thiệt hại đáng tiếc xảy ra.
Hai là, cần có cơ chế, lượng quản lý, kiểm soát thị trường thương mại
điện tử: Việc bán hàng trực tuyến đang trở nên ngày càng phổ biến, số lượng
người vi phạm ngày càng nhiều. Do vậy, cơ quan nhà nước về lĩnh vực thương
mại cần có cơ chế, hình thức quản lý thông tin của người tham gia bán hàng
trực tuyến, qua đó, quản lý hóa đơn, chứng từ bán hàng. Từ đó, tạo niềm tin
cho người tiêu dùng trong thương mại điện tử, bảo đảm chất lượng hàng hóa
cũng như đảm bảo các loại trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa được thực hiện trên thực tế.
Ba là, người tiêu dùng cần được phổ biến, tuyên truyền pháp luật về
quyền lợi người tiêu dùng: Phần lớn người tiêu dùng không biết về quyền và
lợi ích của mình khi đóng vai trò là người tiêu dùng, hoặc nếu biết thì họ cũng
e ngại việc khiếu nại, kiện tụng. Do vậy, các kênh thông tin truyền thông cần
66
tuyên truyền, phổ biến những quyền lợi mà người tiêu dùng đó có quyền được
hưởng, qua đó khuyến khích người tiêu dùng đấu tranh bảo vệ lợi ích chính
đáng của chính mình nói riêng cũng như bảo đảm trật tự quan hệ mua bán nói
chung.
Thứ ba, về chế tài xử lý vi phạm vi phạm đối với trách nhiệm đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất: Như đã phân tích ở trên, biện
pháp chủ yếu áp dụng đối với nhà sản xuất vi phạm pháp luật về trách nhiệm
đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất là xử phạt hành chính.
Tuy nhiên, quy định mức xử phạt hành chính đối với nhà sản xuất còn thấp
chưa có tính răn đe đối với các nhà sản xuất. Vì vậy cần thực hiện rà soát, sửa
đổi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về xử phạt hành chính đối với
các vi phạm liên quan đến trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của nhà sản xuất theo hướng tăng mức xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc
phục cụ thể với từng hành vi. Ngoài ra, không chỉ quy định dừng lại ở phạt tiền,
hay thu hồi sản phẩm mà có thể thu hồi giấy phép kinh doanh, thông báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng để người dân nâng cao cảnh giác.
Thứ tư, về việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật:
Trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế để phát triển ngày càng toàn diện đối với
quốc tế, Nhà nước không thể quản lý, bao quát được chất lượng của hàng triệu
mặt hàng với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng, phong phú mà cần sự tham
gia và chia sẻ trách nhiệm của các doanh nghiệp. Một mặt, các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân cần phải tham gia tích cực hơn vào quá trình xây dựng, áp
dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá của mình, mặt khác, Nhà nước cũng phải đổi mới tư duy quản
lý về tiêu chuẩn hoá cũng như phương pháp tiếp cận về quản lý chất lượng thì
mới theo kịp và đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn. Chính vì vậy, việc cần
thiết để hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là tiếp tục nghiên
67
cứu, rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quản lý chất
68
lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng:
Một là, thể chế hoá kịp thời các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
phát triển hoạt động tiêu chuẩn hoá phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đổi mới toàn diện tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động tiêu
chuẩn hóa theo hướng áp dụng linh hoạt chế độ tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng
và quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng,... nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tạo
bước tiến rõ rệt về năng suất, chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ trong nước,
thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và chất lượng tăng trưởng
của nền kinh tế.
Ba là, bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước cũng như quyền lợi
và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tiêu chuẩn hóa. Kế
thừa các quy định pháp luật hiện hành về tiêu chuẩn hóa đã được thực tiễn kiểm
nghiệm và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để vận
dụng phù hợp với tình hình Việt Nam
Bốn là, đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia theo hướng đồng bộ, có trình độ ngang bằng,
hài hòa các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Đổi mới hoạt động mã số mã vạch.
Tập trung, ưu tiên mọi nguồn lực nhà nước, nguồn lực xã hội để đầu tư phát
triển hạ tầng chất lượng quốc gia, trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến. Xây dựng, tổ
chức triển khai chương trình, đề án trọng điểm trong hoạt động đo lường, tiêu
chuẩn, chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Năm là, cần nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu
chuẩn, quy chuẩn của các nước phát triển trên thế giới. Trên cơ sở đó, đề xuất
hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với điều kiện thực tiễn của
Việt Nam.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về thu hồi sản phẩm, hàng hóa có
69
khuyết tật:
Sản phẩm, hàng hóa khuyết tật là sản phẩm, hàng hóa có nguy cơ gây ra
thiệt hại cho tài sản, tính mạng và sức khỏe người tiêu dùng. Các sản phẩm,
hàng hóa khuyết tật hầu hết chỉ được phát hiện khi phát sinh ra thiệt hại cho
người tiêu dùng trong quá trình sử dụng sản phẩm, hàng hóa, nên biện pháp
ngăn chặn trước khi khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa là điều khó có thể thực
hiện. Vì vậy, pháp luật đã quy định: “Khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ
chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa có trách nhiệm thực hiện việc thu
hồi hàng hóa có khuyết tật”.
Để giúp doanh nghiệp và người tiêu dùng ít tốn kém hơn đối với biện
pháp thu hồi sản phẩm, hàng hóa khuyết tật thì pháp luật cần quy định rõ những
trường hợp nào thì sử dụng biện pháp thu hồi, trường hợp nào thì bồi thường...
quyền yêu cầu thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và người tiêu dùng cùng các biện pháp chế tài cụ thể.
Sáu là, cần thống nhất khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng
và khái niệm hàng hóa có khuyết tật:
Luật BVQLNTD năm 2010 và BLDS năm 2015 có tính thống nhất ở
chỗ khi hàng hóa không đạt chất lượng gây thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy
nhiên, Luật BVNTD còn hạn chế về mặt ngữ nghĩa, đồng thời cũng hạn chế
nếu có trường hợp cụ thể xảy ra. Khi đã xác định hàng hóa không đảm bảo
chất lượng thì không thể áp dụng Luật BVQLNTD. Nếu ý kiến chủ quan của
Thẩm phán, mặc nhiên để xác định đó là hàng hóa không đảm bảo chất lượng
hoặc đó là hàng hóa có khuyết tật, thì dẫn đến sự thao túng khi áp dụng các
quy định pháp luật.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là các văn bản quy định pháp
luật không thống nhất. Như bản án mà tác giả phân tích ở trên các nhà làm
luật mặc nhiên hiểu rằng hàng hóa có khuyết tật cũng là hàng hóa không đảm
70
bảo chất lượng, hàng hóa có khuyết tật được quy định trong Luật BVQLNTD
còn BLDS năm 2015 không hề đề cập đến cụm từ này, nhưng thực tiễn xét xử
lại cố tình áp dụng, khi nhận định là “hàng hóa có khuyết tật” nhưng khi quyết
định lại áp dụng điều luật của BLDS. Từ những lập luận trên tác giả kiến nghị
như sau:
Nếu BLDS đã quy định rõ về vấn đề này thì Luật BVQLNTD nên thống
nhất tránh những trường hợp thực tế đã mắc phải. Kiến nghị sửa, đổi Luật
BVQLNTD như sau tại khoản 1 Điều 23 Luật BVQLNTD quy định “1. Tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp hàng hóa có khuyết tật……” nên sửa lại “Tổ chức, cá nhân kinh
doang hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng
hóa không đảm bảo chất lượng….”. Đồng thời, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán
TANDTC ban hành Nghị Quyết hướng dẫn về “hàng hóa không đảm bảo chất
lượng” tại Điều 608 của BLDS năm 2015. Cần phải đưa ra các tiêu chí để
đánh giá một sản phẩm không đảm bảo chất lượng, để việc xét xử có một quy
chuẩn thống nhất, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện và áp đặt ý chí chủ quan
trong quá trình xét xử.
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm
đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện
nay
Thứ nhất, quy định chặt chẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm sản phẩm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sản phẩm có khuyết tật trong
kinh doanh quốc tế là một loại rủi ro không thể loại trừ. Thay vào đó, người ta
chỉ có thể giảm thiểu hoặc phòng tránh một cách hữu hiệu những rủi ro này.
Mỗi doanh nghiệp khi xuất khẩu đến thị trường các nước phát triển, như thị
trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU... cần phải có chiến lược để giảm thiếu tối đa
71
những vấn đề trách nhiệm sản phẩm. Để làm được điều đó, phải quy định rõ
trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp và các khoản bồi thường đó phải cao
hơn so với thiệt hại thực tế và bất cứ ai chịu thiệt hại cũng có thể tiến hành các
thủ tục yêu cầu đồi bồi thường.
Thứ hai, quy định nghiêm ngặt trách nhiệm sản phẩm không cần chứng
minh lỗi
Điều này giúp thanh lọc khỏi thị trường các nhà cung ứng sản phẩm kém
chất lượng, gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Quy định về trách nhiệm sản
phẩm đồng thời tác động đến quá trình cạnh tranh nâng cao chất lượng và an
toàn sản phẩm giữa các nhà sản xuất. Trong quá trình cạnh tranh đó, các nhà
sản xuất các sản phẩm có khuyết tật hoặc kém chất lượng sẽ bị quy luật cạnh
tranh loại bỏ khỏi thị trường. Các nhà sản xuất chân chính, biết quan tâm tới lợi
ích người tiêu dùng sẽ đứng vững và phát triển.
Thứ ba, bổ sung các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Cần bổ sung các quy định nhằm bảo vệ hơn nữa quyền lợi của người tiêu
dùng, điều này giúp người dân chủ động hơn trong việc tố cáo, khởi kiện đơn
vị sản xuất để được đền bù thỏa đáng, hơn nữa điều này buộc các nhà sản xuất
kinh doanh phải e dè hơn trong các vụ kiện, không như trước đây rất nhiều vụ
kiện đã xảy ra nhưng hầu như phần thắng thuộc về nhà sản xuất bởi chưa có
chế định cụ thể quy định trách nhiệm của họ cũng như chưa có chế tài bảo vệ
người tiêu dùng, chỉ là những quy định chung chung.
Thứ tư, tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho
người dân và các doanh nghiệp từ đó tạo nên phong trào nâng cao chất lượng
sản phẩm, hàng hóa trong toàn xã hội. Cung cấp thông tin cần thiết cho người
tiêu dùng và người kinh doanh, sản xuất.
Để nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp đối với pháp luật
về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến cần
72
phải thực hiện cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động cải tiến, nâng
cao năng suất và quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa tại doanh nghiệp: đi
sâu vào giới thiệu các điển hình thực hiện cải tiến, các mô hình điểm cho các
ngành, lĩnh vực; đa dạng hóa các kênh thông tin, tận dụng các công cụ truyền
thông mang tính xã hội để tạo mức độ lan tỏa; ưu tiên các thông tin có tính trực
quan; xây dựng các chuyên mục và bản tin chuyên đề (báo hình, điện tử, giấy)
về năng suất chất lượng. Qua đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ
biến chính sách, pháp luật; thông tin về chất lượng hàng hóa, dịch vụ và cảnh
báo về nguy cơ mất an toàn cho người tiêu dùng trên nguyên tắc công khai,
minh bạch và đa dạng hóa phương thức truyền thông. Đặc biệt, xây dựng Đề
án tăng cường tuyên truyền, giáo dục phổ biến chính sách pháp luật liên quan
đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cho đối tượng người tiêu dùng yếu
thế: Trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người tiêu dùng ở khu vực nông
thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…
Thứ năm, tăng cường vai trò của cơ quan chức năng cũng như việc hỗ
trợ người tiêu dùng về thông tin.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, phát huy vai trò
tiên phong, giám sát của chi bộ, đảng viên trong công tác bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng. Xác định công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là nhiệm
vụ thường xuyên, lâu dài và là trách nhiệm cuả các cấp ủy, tổ chức đảng, của
cán bộ, đảng viên trong toàn bộ hệ thống chính trị cũng như trong các cơ quan
đơn vị của toàn bộ cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng
hóa.
Ngoài ra cần xây dựng Cơ sở dữ liệu Quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng.
Mở các chuyên trang, chuyên mục và tăng thời lượng đưa tin về công tác bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng; xây dựng và đăng tải các tin bài, phóng sự chuyên
đề về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; biểu dương gương người tốt,
73
việc tốt trong công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; phê phán công
khai các hành vi thiếu trách nhiệm, các vị phạm nghiêm trọng trong bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân trên các phương tiện
thông tin đại chúng để giáo dục phòng ngừa chung; đăng tin, bài về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ và cảnh báo những nguy cơ gây mất an toàn cho người tiêu
dung.
74
Tiểu kết chương 3
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận đối với trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất, pháp luật và thực trạng về trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất cho thấy việc
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa là
cần thiết nhằm nâng cao, hoàn thiện các quy định về đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan
đặc biệt là người tiêu dùng và hạn chế đến mức thấp nhất các lỗi về sản phẩm
do nhà sản xuất gây ra, buộc các nhà sản xuất phải cân bằng giữa lợi nhuận
kinh doanh và bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra.
Qua tìm hiểu thực trạng pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất, việc hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất dựa
trên các nguyên tắc sau đây: hoàn thiện quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của nhà sản xuất do sản phẩm có khuyết tật gây ra; quy định về chế độ
bảo hành sản phẩm; quy định về chế tài xử lý vi phạm vi phạm đối với trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất; quy định về
việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; quy định về thu hồi
sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật.
75
KẾT LUẬN
Việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá gắn trực tiếp với trách
nhiệm của người sản xuất và nhà nước, trong đó người sản xuất chịu trách
nhiệm trực tiếp và chủ yếu, Nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hoá nhưng nhà nước không can thiệp trực
tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm, hàng hoá của người sản xuất. Nhà nước
thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật, các công cụ quản lý khác và kiểm tra việc thực hiện các quy
định này, tác động đến các yếu tố hình thành chất lượng của sản phẩm, hàng
hoá để bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường sử
dụng.
Hiện nay, pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa của người tiêu dùng đã được ban hành và áp dụng trong nhiều năm qua,
bước đầu tạo được hành lang pháp lý cho việc đảm bảo chất lượng sản phẩm
hàng hóa và trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản
xuất. Theo đó, nhà sản xuất có trách nhiệm tuân thủ các điều kiện bảo đảm
chất lượng đối với sản phẩm trước khi đưa ra thị trường; Trách nhiệm trong
việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng; Trách nhiệm
hợp đồng giao kết với người tiêu dùng và giải thích hợp đồng giao kết với
người tiêu dùng; Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch; Trách nhiệm
bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện; Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có
khuyết tật; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các quy định trên đã
ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, như: quy định còn chung chung, chưa thực sự
đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền của người tiêu dùng và các đối
tượng liên quan đến nhà sản xuất… Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần
nâng cao hiệu quả thực thi và tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về
76
trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất để đảm
bảo quyền lợi của các bên liên quan đặc biệt là quyền lợi của người tiêu dùng
và hạn chế đến mức thấp nhất các lỗi về sản phẩm do nhà sản xuất gây ra, buộc
các nhà sản xuất phải cân bằng giữa lợi nhuận kinh doanh và bồi thường thiệt
hại khi có thiệt hại xảy ra.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Văn Cương (2012) “Giáo trình bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Chính phủ (2007) Nghị định số 127/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, ban hành ngày
01/8/2007, Hà Nội.
3. Chính phủ (2008) Nghị định số 132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, ban hành ngày
31/12/2008, Hà Nội.
4. Chính phủ (2011) Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
ban hành ngày 27/10/2011, Hà Nội.
5. Ngô Cường (2019) “Bắt kho lạnh 25 tấn đùi gà Hàn Quốc không rõ
nguồn gốc, "tẩy" hạn sử dụng” tan-dui-ga-han-quoc-khong-ro-nguon-goc-tay-han-su-dung-775501.ldo> (30/12/2019). 6. Hoàng Đức (2016) “Mỗi năm Việt Nam có khoảng 250-500 vụ ngộ độc thực phẩm” 78 500-vu-ngo-doc-thuc-pham-20161219123846395.htm> (19/12/2016). 7. J.S. OAKLAND (1994) Quản lý chất lượng đồng bộ, Nxb Thống kê, Hà Nội. 8. Lê Hồng Hạnh (2010), Báo cáo tổng kết đề tài: Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp - Công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng. 9. Lê Hồng Hạnh (2013), Chế định trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 10. Kaoru Ishikawa (1990) “Quản lý chất lượng theo phương pháp Nhật”, Nxb Khoa học và kỹ thuật. 11. Trần Tuyết Minh (2014) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nga, Luận văn thạc sĩ Luật học. 12. Chu Đức Nhuận (2011), Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luận án Tiến sĩ. 13. Philips B Crosby (1990) “Chất lượng là thứ không cho không”, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 14. Trương Hồng Quang (2010) “Các nguyên lý của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ và một số quốc gia”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2(262), tr. 35-42. 15. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội. 16. Quốc hội (2010) Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ban hành ngày 17/11/2010, Hà Nội. 17. Quốc hội (2007) Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, ban hành ngày 21/11/2007, Hà Nội. 18. Quốc hội (2006) Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, ban hành ngày 29/6/2006, Hà Nội. 19. Quốc hội (2005) Luật Thương mại, ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội. 20. Ngô Thị Út Quyên (2012) Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của 79 một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 21. Lê Thị Thanh (2019) “Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra” hang-hoa-viet-nam-trong-boi-canh-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-310745 .html> (03/8/2009). 22. Trần Thanh Thất (2014) Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội. 23. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (2019) “Báo cáo công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, chống hàng giả và gian lận thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2019” ngày 16/12/2019, Hà Nội. 24. TCVN ISO 9000:2000 Hệ thống quản lý chất lượng - Cơ sở và từ vựng (2000). 25. Phan Trang (2019) “Ngăn chặn xăng dầu giả: Cần sự chung tay của DN và người tiêu dùng” Can-su-chung-tay-cua-DN-va-nguoi-tieu-dung/381363.vgp> (30/11/2019). 80