BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
-------/-------
---/---
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN CÔNG HOAN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ ĐỨC ĐÁN
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính từ thực tiễn thành phố Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên” là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính của tôi.
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình của riêng mình và không trùng
lắp với các công trình nào của các tác giả khác. Các số liệu, kết quả được sử dụng
trong luận văn là trung thực có nguồn gốc rõ ràng.
Học viên
Trần Công Hoan
i
Lời Câm Ơn
Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS. TS. Vũ Đức Đán đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, thæy luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017
Học viên Træn Công Hoan
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH VÀ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH ........................... 7
1.1. Quan niệm về khiếu nại và khiếu nại hành chính ............................................ 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại khiếu nại ............................................. 7
1.1.2. Khái niệm, đối tượng và đặc điểm của khiếu nại hành chính ................... 9
1.1.3. Sự khác nhau giữa khiếu nại hành chính – khiếu nại tư pháp ................ 11
1.2. Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính................................................. 12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính 12
1.2.2. Nội dung của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ................... 14
1.2.3. Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ........................ 28
1.3. Những yếu tố tác động đến kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại
hành chính ............................................................................................................. 30
1.3.1. Yếu tố tiếp nhận đơn khiếu nại ................................................................ 30
1.3.2. Yếu tố thụ lý giải quyết khiếu nại ............................................................ 31
1.3.3. Yếu tố đối thoại và xác minh nội dung khiếu nại .................................... 32
1.3.4. Yếu tố ra quyết định giải quyết khiếu nại ............................................... 34
1.3.5. Yếu tố thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật . 34
1.3.6. Ý thức trách nhiệm của các bên liên quan .............................................. 35
1.3.7. Năng lực của người thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính36
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 38
iii
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH
CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ TUY HÒA ................................................................ 39
2.1. Sự phát triển của pháp luật giải quyết khiếu nại ............................................ 39
2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến kết quả thực hiện pháp luật giải
quyết khiếu nại hành chính ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ......................... 42
2.2.1. Đặc điểm chung về kinh tế - xã hội ......................................................... 42
2.2.2. Tình hình khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính tại
thành phố Tuy Hòa thời gian qua ..................................................................... 44
2.3. Kết quả giải quyết khiếu nại hành chính ở thành phố Tuy Hòa ..................... 57
2.3.1. Chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy, chính quyền thành phố trong giải quyết
khiếu nại hành chính ......................................................................................... 57
2.3.2. Vài nét về bộ phận thực hiện giải quyết khiếu nại hành chính ở thành
phố Tuy Hòa ...................................................................................................... 60
2.3.3. Đánh giá chung việc thực hiện những quy định của pháp luật trong giải
quyết khiếu nại hành chính ............................................................................... 61
2.4. Đánh giá kết quả giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn thành phố Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên ................................................................................................. 67
2.4.1. Ưu điểm ................................................................................................... 67
2.4.2. Tồn tại hạn chế ........................................................................................ 68
2.5. Nguyên nhân của những tồn tại ..................................................................... 69
2.5.1. Nguyên nhân chủ quan ............................................................................ 69
2.5.2. Nguyên nhân khách quan ........................................................................ 69
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 71
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH ............................................ 72
3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính ..... 72
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính ...... 73
3.2.1. Giải pháp chung ...................................................................................... 73
iv
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính trên địa
bàn thành phố Tuy Hòa ..................................................................................... 79
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 83
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 87
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp Đơn khiếu nại thuộc UBND Tp Tuy Hòa (2013 – 2016) ........ 45
Bảng 2.2: Tổng hợp kết quả giải quyết đơn khiếu nại của UBND Tp Tuy Hòa....... 60
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: So sánh số đơn khiếu nại về lĩnh vực đất đai so với các lĩnh vực khác .... 46
Hình 2.2: Kết quả giải quyết đơn khiếu nại từ 2013 – 2015 ..................................... 60
Hình 2.3: Số đơn khiếu nại chưa được giải quyết trong năm từ 2013 – 2015 .......... 61
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẰT
CQHCNN: Cơ quan hành chính nhà nước
HVHC: Hành vi hành chính
GD-ĐT: Giáo dục – Đào tạo
GQKN: Giải quyết khiếu nại
KNHC: Khiếu nại hành chính
QĐ: Quyết định
QĐHC: Quyết định hành chính
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
Tp: Thành phố
TT: Thanh tra
TTr: Tờ trình
UBND: Ủy ban nhân dân
viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy
định nhằm bảo vệ cho người có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi quyết định hay hanh vi
của cơ quan nhà nước. Điều 30 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “1. Mọi người có
quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp
luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”. Có thể thấy, việc Hiến pháp
ghi nhận quyền khiếu nại của công dân cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của quyền
năng pháp lý này. Xét trên phương diện lý thuyết thì thực hiện khiếu nại chính là
phương thức quan trọng để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi
ích tập thể và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua việc sử dụng quyền
khiếu nại mà các quyền cơ bản khác như: quyền được học tập, quyền tự do tín
ngưỡng, quyền bầu cử...sẽ được bảo đảm và thực hiện. Kiếu nại cũng là hoạt động
để góp phần vào việc thực hiện dân chủ, công khai và minh bạch hơn trong các cơ
quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nói riêng. Nhận thực rõ vai trò,
tầm quan trọng của việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố
cáo nên Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác này.
Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Phú Yên, công
tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn Tp Tuy Hòa trong thời gian qua đã đạt được
nhiều kết quả đáng kể. Năm 2013, UBND Tp Tuy Hòa đã giải quyết xong 13/17
đơn khiếu nại hợp lệ (76,47%) [51]; năm 2014, giải quyết xong 16/20 đơn khiếu nại
hợp lệ (80,00%) [58]; năm 2015, giải quyết xong 14/15 đơn khiếu nại hợp lệ
(93,33%) [60]. Trong 6 thán đầu năm 2016, đã giải quyết được 2/22 đpưn khiếu nại
(9%) [60].
1
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết khiếu nại tại Tp Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên vẫn còn bộc lộ những tồn tại. Ngoài các bất cập chung xuất phát
từ hệ thống pháp luật, thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh
Phú Yên còn nhiều hnnj chế. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và tổ chức chưa
chủ động; đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất
lượng; sự phối hợp trong hoạt động giải quyết khiếu nại với các cơ quan, tổ chức
chưa hiệu quả, sự khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành... Hơn nữa,
trên thực tế công tác giải quyết khiếu nại chưa được các cấp, các ngành quan tâm
xứng tầm với nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc làm giảm đáng kể
hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo, cần có các giải pháp để giải quyết tổng thể.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết
khiếu nại hành chính - Từ thực tiễn TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” để làm đề tài
luận văn thạc sĩ, nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt Luật khiếu nại,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong quá trình giải quyết khiếu
nại đúng theo pháp luật.
2. Tổng quan các nghiên cứu trƣớc có liên quan
Trong nhiều năm qua, có nhiều tác giả đã thực hiện các đề tài có liên quan
đến Luật khiếu nại, Luật tố cáo, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên nhiều địa
phương trong cả nước, cụ thể là:
Thứ nhất, nghiên cứu của Bùi Thị Thuận Ánh (2012) về “Giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực đất đai qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội [2]. Trong nghiên cứu này, tác giả đã hệ
thống hóa một số khía cạnh lý luận cơ bản về khiếu nại và giải quyết khiếu nại nói
chung, trong lĩnh vực đất đai nói riêng; thông qua tìm hiểu thực tiễn và số liệu báo
cáo tổng kết của thanh tra tỉnh hàng năm, tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng
khiếu nại và những vướng mắc trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh
2
Thừa Thiên Huế, theo đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thứ hai, nghiên cứu của Đặng Công Nhiên (2012) về “Khiếu nại hành chính
và giải quyết khiếu nại hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội [14]. Để có cơ sở đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
giải quyết khiếu nại hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Đặng Công Nhiên (2012) đã nêu lên được
khái quát chung về khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; và tiến hành nghiên cứu
thực trạng về khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Thứ ba, nghiên cứu của Lê Thị Sáu (2014) về “Hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải
pháp”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội [22]. Trên cơ
sở hệ thống các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo; cũng như phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
trên địa bàn huyện Quốc Oai, tác giả đã đưa ra những đề xuất chung nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật khiếu nại, tố cáo, đồng thời tác giả cũng đưa ra các giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện
Quốc Oai, Tp Hà Nội.
Thứ tư, nghiên cứu của Võ Nguyên Chương (2015) về “Thi hành pháp luật
giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội [63]. Tác giả cho rằng, để nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn Tp Đà Nẵng thì cần
phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoàn
thiện quy định pháp luật về đất đai; nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm
của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai.
3
Thứ năm là nghiên cứu của Dương Thị Thanh Huyền (2015) về “Giải quyết
khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai – Qua thực tiễn thị xã Tam Điệp, tỉnh
Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội [8].
Tương tự như nghiên cứu của Võ Nguyên Chương (2015) trên địa bàn Tp Đà Nẵng,
Dương Thị Thanh Huyền (2015) cũng đề nghị rằng, cần phải hoàn thiện pháp luật
về giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại hành chính trong lĩnh vực đất đai ở thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
Trên cơ sở các nghiên cứu trước cho thấy, lĩnh vực khiếu nại hành chính nói
chung, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng đã được nhiều tác giả thực
hiện ở các địa phương khác nhau. Điều này cho thấy, hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo phát sinh thường xuyên, liên tục ở tất cả các địa phương, nên việc nghiên
cứu về pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính tuy không mới nhưng là cần thiết
cho thực tiễn ở Tp Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chín tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng, phân tích cá nguyên nhân của thực trạng, luận văn đề xuất c một số
phương hướng về các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
khiếu nại hành chính trên địa bàn thành phố Tuy Hòa, trong chương trình tổng thể
về cải cách hành chính đến năm 2020 và trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại hành chính; phân tích nội dung của hoạt động thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chính.
4
Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở
thành phố Tuy Hòa, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của
thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại hành chính và làm rõ
nguyên nhân của những hạn chế đó
Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luạt về giải quyết khiếu nại hành chính ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh
Phú Yên nói riêng và tại Việt Nam nói chung
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại hành chính tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu nại hành
chính ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chính từ trước đến nay, tham khảo số liệu từ năm 2013 đến
nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về hoạt động giải quyết
khiêu nại hành chính
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng
các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề
thuộc nội dung của đề tài.
5
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các
báo cáo liên quan đến giải quyết khiếu nại hành chính của UBND Tp Tuy Hòa, tỉnh
Phú Yên, từ năm 2013 đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đúc kết một số vấn đề lý luận của pháp luật về khiếu nại hành
chính, đánh giá thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính ở
Tp Tuy Hòa, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
khiếu nại hành chính, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với lĩnh
vực khiếu nại hành chính, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập
quốc tế ngày nay.
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên liên quan đến pháp luật về
khiếu nại hành chính – từ thực tiễn Tp Tuy Hòa. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán bộ, công chức làm
việc trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn Tp Tuy Hòa nói riêng
và thực hiện pháp luật trên toàn quốc nói chung. Luận văn cũng có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai
quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành
chính
Chương 2: Thực trạng thực hiẹn pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính
tại thành phố Tuy Hòa
Chương 3: Phuwong hướng giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật khiếu
nại hành chính trên địa bàn thành phố Tuy Hòa
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI HÀNH CHÍNH
1.1. Quan niệm về khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính
1.1.1. Khái niệm, đối tượng và đặc điểm của khiếu nại hành chính
Khái niệm khiếu nại hành chính
Khiếu nại hành chính (KNHC) là loại hình khiếu nại phát sinh trong lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước, xảy ra trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà
nước, được giải quyết theo các thủ tục hành chính [36].
Trần Văn Sơn (2005) cho rằng khiếu nại hành chính là từ ngữ để chỉ hành vi
của cá nhân hay cơ quan, tổ chức đề nghị với cơ quan hành chính nhà nước hoặc
với người có thẩm quyền của cơ quan đó xem xét lại các QĐHC, HVHC khi có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình [48]. Theo Hoàng Ngọc Dũng (2015), khiếu nại hành chính là việc
cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu CQHCNN, cơ quan khác của nhà nước hay tổ
chức sự nghiệp công (với tư cách là chủ thể quản lý) xem xét lại QĐHC, HVHC
nào đó của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác của Nhà nước đã xâm phạm tới quyền,
lợi ích của mình [16].
Đối tượng của khiếu nại hành chính
“Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức
được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.” (khoản 3, Điều 3, luật Tố tụng
hành chính), còn “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề
cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc
một số đối tượng cụ thể.” (khoản 1, Điều 3) [36]. Như vậy, có thể hiểu rằng đối
tượng khiếu nại hành chính là các QĐHC, HVHC của CQHCNN, của người có
7
thẩm quyền trong CQHCNN hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, khi người
khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái với pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Đặc điểm của khiếu nại hành chính
Trên cơ sở các khái niệm, quan điểm về khiếu nại hành chính, ta có thể đưa
ra 08 đặc điểm của khiếu nại hành chính, cụ thể như sau:
Thứ nhất, khiếu nại hành chính là một trong các quyền công dân hiến định
trong pháp luật Việt Nam; KNHC chỉ phát sinh trong lĩnh vực hoạt động quản lý
HCNN, đó là hoạt động chấp hành - điều hành giữa đối tượng quản lý là cá nhân, tổ
chức với chủ thể quản lý là CQHCNN hoặc người có thẩm quyền trong CQHCNN.
Thứ hai, khiếu nại hành chính xuất phát từ nhận thức chủ quan của người
khiếu nại, khi họ có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
trực tiếp bởi QĐHC hoặc HVHC.
Thứ ba, khiếu nại hành chính luôn mang trong mình những thông tin về sự vi
phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc sự vi phạm của cán bộ,
công chức đã được pháp luật quy định.
Thứ tư, người khiếu nại không thể tự khôi phục được những quyền, lợi ích
của mình bị xâm phạm bởi việc làm trái pháp luật của CQNN, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự
nghiệp hoặc bất cứ cá nhân có thẩm quyền nào có gây ra mà họ khiếu nại, trông chờ
vào quyết định giải quyết khiếu nại của CQHCNN theo luật định.
Thứ năm, giải quyết KNHC phải tuân theo thủ tục hành chính nhất định do
các CQHCNN thực hiện; thủ tục giải quyết KNHC đơn giản hơn so với thủ tục tố
tụng do các cơ quan tư pháp tiến hành.
Thứ sáu, mục đích của KNHC là nhằm khôi phục lại những quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm bởi việc làm trái pháp luật của CQHCNN, của người có
thẩm quyền trong CQHCNN gây ra.
8
Thứ bảy, phạm vi phát sinh KNHC là rất rộng, trong các hoạt động liên quan
đến các lĩnh vực QLNN như quản lý, sử dụng đất đai, nhà ở, xây dựng, đăng ký
kinh doanh, thuế, hải quan, kỷ luật CB,CC, xử lý vi phạm hành chính...
Thứ tám, chủ thể của KNHC rất rộng, bao gồm tất cả những cơ quan, tổ
chức, cá nhân có mối quan hệ về quyền, lợi ích với CQHCNN trong hoạt động
QLNN (mối quan giữa chấp hành và điều hành).
1.1.2. Sự khác nhau giữa khiếu nại hành chính – khiếu nại tư pháp
Theo Luật Tố tụng hành chính, “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu
nại quyết định, hành vi trong tố tụng hành chính của cơ quan, người tiến hành tố
tụng hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” (khoản 1, Điều 327) [36]; Bộ luật
Tố tụng dân sự quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định,
hành vi trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.” (khoản 1, Điều 499) [36]; còn Bộ luật Tố tụng hình sự nêu rõ
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định,
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.” (khoản
1, Điều 469) [38]. Như vậy, có thể hiểu rằng, khiếu nại tư pháp là việc công dân hay
tổ chức đề nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan Thi hành án xem
xét, sửa chữa một việc làm hoặc thay đổi một quyết định trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án mà họ cho rằng việc làm hoặc quyết định đó là không
đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Theo đó, đối tượng của khiếu nại tư pháp là quyết định tố tụng, hành
vi tố tụng; còn chủ thể tiến hành tố tụng là do các cơ quan Tư pháp tiến hành giải
quyết theo quy định của Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự, và Luật Tố
tụng hành chính.
Còn Khiếu nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị CQHCNN
xem xét, sửa chữa một hành vi hay một QĐHC mà họ cho là hành vi hay quyết định
9
đó không đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Như vậy, khái niệm khiếu nại hành chính dùng để chỉ việc người
khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại của mình đối với QĐHC, HVHC tại CQHCNN,
chọn CQHCNN giải quyết khiếu nại của mình.
Như vậy, khiếu nại hành chính là việc cá nhân, tổ chức khiếu nại đối với
QĐHC, HVHC tại CQHCNN, chọn CQHCNN giải quyết khiếu nại của mình, và
được giải quyết theo thủ tục hành chính về giải quyết khiếu nại được quy định trong
Luật khiếu nại và các nghị định hướng dẫn thi hành; còn khiếu nại tư pháp dùng để
chỉ người khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại của mình đối với bản án, quyết định
của cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra)
hoặc hành vi công vụ của kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên trong các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và được giải quyết bởi các cơ quan tư pháp theo quy
định của Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Phạm vi khiếu nại tư pháp hẹp hơn khiếu nại hành chính, chỉ giới hạn trong một số
loại hoạt động nhất định của cơ quan và người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết khiếu nại hành chính
Giải quyết khiếu nại hành chính được hiểu là quá trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật về tính hợp pháp và tính hợp lý, từ đó đưa ra
các giải pháp xử lý.
Khái niệm giải quyết khiếu nại hành chính
Với cách hiểu trên, có thể hiểu giải quyết khiếu nại hành chính ở những
đặc điểm như sau:
Thứ nhất, cơ sở của giải quyết khiếu nại là khiếu nại hành chính theo
quy định của pháp luật.
Khiếu nại hành chính là biểu hiện của tranh chấp hành chính giữa cá
nhân, tổ chức với cơ quan công quyền khi cá nhân, tổ chức cho rằng quyền và
Đặc điểm giải quyết khiếu nại hành chính
10
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định, hành vi hành chính. Giải
quyết khiếu nại hành chính chỉ được triển khai khi có khiếu nại hành chính.
Và giải quyết khiếu nại hành chính cũng là nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức. Mặt khác việc giải quyết khiếu nại hành chính còn
bảo đảm cho công dân được tham gia vào giám sát hoạt động quản lý nhà
nước, đồng thời cũng giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa chữa
những bất hợp lý, sai sót trong quá trình quản lý; từ đó ý thức trách nhiệm của
chủ thể quản lý cũng được nâng cao khi có sự giám sát của nhân dân.
Thứ hai, đối tượng xem xét khi giải quyết khiếu nại là quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý thực
hiện quản lý hành chính nhà nước dựa trên trách nhiệm, quyền hạn mà pháp
luật quy định nhằm duy trì, bảo vệ và củng cố trật tự quản lý hành chính nhà
nước. Việc ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính hợp pháp là
một trong những hoạt động quản lý của chủ thể quản lý vừa là biểu hiện của
việc thiết lập trật tự quản lý vừa là biểu hiện duy trì trật tự quản lý hành chính
nhà nước.
Quyết định hành chính, hành vi hành chính bất hợp pháp không những
không thiết lập, duy trì trật tự quản lý, phá vỡ trật tự quản lý mà còn xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì thế khi giải
quyết khiếu nại hành chính, đối tượng xem xét chính là các quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khiếu nại. Kết quả giải quyết khiếu nại chính là
việc khẳng định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khiếu nại.
Thứ ba, giải quyết khiếu nại được thực hiện theo thủ tục hành chính –
thủ tục giải quyết khiếu nại
11
Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của quyết định hành chính, hành
vi hành chính do cơ quan nhà nước ban hành khi thực hiện hoạt động quản lý
nhà nước. Đây là một quá trình phức tạp và đòi hỏi khách quan trong quá
trình giải quyết, vì vậy, cần phải được tiến hành theo thủ tục pháp luật quy
định – thủ tục giải quyết khiếu nại.
Thứ tư, kết quả giải quyết khiếu nại là một quyết định hành chính của
chủ thể giải quyết khiếu nại về việc xem xét lại tính hợp pháp của quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Quyết định hành chính của chủ thể giải quyết khiếu nại chính là kết quả
của việc đối chiếu, xem xét một cách toàn diện giữa yêu cầu của người khiếu
nại và kết quả thẩm tra, xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan giải quyết
khiếu nại. Vì vậy, việc ra quyết định giải quyết khiếu nại là một hoạt động đặc
biệt quan trọng vì chính thông qua hoạt động này mà các yêu cầu của người
khiếu nại được thỏa mãn toàn bộ hay từng phần hoặc bị bác bỏ, ngoài ra,
thông qua việc giải quyết khiếu nại cơ quan nhà nước đảm bảo quyền khiếu
nại cho công dân, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý để kịp thời bổ
sung, sửa đổi, tạo niềm tin trong nhân dân.
1.2. Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Khái niệm pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Pháp luật khiếu nại là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Bao gồm hệ thống các quy
định của pháp luật về quyền khiếu nại; quyền và nghĩa vụ các bên trong khiếu nại;
thẩm quyền, trách nhiệm và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại [26]. Trên cơ sở của
pháp luật hiện hành, có thể hiểu pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính là tổng
hợp các quy phạm pháp luật quy định về những vấn đề liên quan đến chủ thể, khách
thể, nguyên tắc, nội dung, quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính.
12
Giải quyết khiếu nại hành chính là hoạt động của Cơ quan hành chính nhà
nước trong việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại của
cá nhân, tổ chức đối với QĐHC, HVHC khi họ có căn cứ cho rằng quyết định hay
hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16].
Đặc điểm của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Khiếu nại hành chính là việc đối tượng (cơ quan, tổ chức, cá nhân) chịu sự
tác động trực tiếp của QĐHC, HVHC yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan HCNN, người
có thẩm quyền trong cơ quan HCNN xem xét lại các QĐHC, HVHC do cơ quan
HCNN, người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN ban hành hoặc thực hiện khi
cho rằng QĐHC, HVHC đó không hợp pháp, hợp lý, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Với quan niệm này, giải quyết KNHC có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể giải quyết KNHC là cơ quan HCNN có QĐHC, HVHC bị
khiếu nại (gọi là chủ thể giải quyết khiếu nại lần đầu) và cơ quan HCNN cấp trên
trực tiếp của chủ thể giải quyết khiếu nại lần đầu (gọi là chủ thể giải quyết khiếu nại
lần hai) giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.
Thứ hai, khách thể giải quyết KNHC là quyền, lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại được pháp luật quy định bảo vệ.
Thứ ba, thông qua việc giải quyết KNHC, quyền chủ thể của người khiếu nại
bị xâm phạm bởi QĐHC hoặc HVHC được khôi phục.
Thứ tư, về bản chất, giải quyết KNHC là thái độ, phản ứng của nhà nước
đối với khiếu nại của công dân nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân.
Thứ năm, giải quyết KNHC luôn chứa đựng trong đó các thông tin, chứng cứ
nhất định về sự vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại và là một
dạng của quản lý HCNN.
Thứ sáu, giải quyết KNHC phải được thể hiện bằng văn bản cụ thể với tên
gọi là “quyết định”, không dùng công văn, thông báo thay “quyết định” giải quyết
khiếu nại. Việc ban hành quyết định giải quyết khiếu nại không phải là kết quả của
sự thỏa thuận ý chí giữa người giải quyết khiếu nại và người khiếu nại.
13
Thứ bảy, quyết định giải quyết KNHC là QĐHC cá biệt, chỉ được áp dụng
một lần, sau khi được thi hành thì tự nó chấm dứt hiệu lực; trong khi đó quyết định
quy phạm được áp dụng nhiều lần, chấm dứt hiệu lực khi có văn bản quy phạm mới
thay thế.
1.2.2. Lich sử hình thành và phát triển pháp luật về giải quyết khiếu nại hành
chính tại Việt Nam
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngay từ khi ra đời đã rất quan tâm đến
quyền khiếu nại của nhân dân. Ngày 23 tháng 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Điều 1 Sắc lệnh ghi
Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả
các công việc và các nhân viên của các Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính
phủ; Điều 2 quy định: nhận các đơn khiếu nại của nhân dân [23].
Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban
hành Sắc lệnh số 138/B-SL-QD để bãi bỏ Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 để
thành lập Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng Phủ. Một trong ba nhiệm
vụ của Ban Thanh tra Chính phủ là thanh tra các sự khiếu nại của nhân dân [7].
Ngày 13/9/1958, Phủ Thủ tướng đã ban hành Thông tư số 436-TTg về
việc “Quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chính quyền
trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của
nhân dân”. Thông tư đề cao tinh thần trách nhiệm “Nghiên cứu và giải quyết các
việc khiếu nại và tố giác của nhân dân là một trách nhiệm quan trọng của tất cả
các cơ quan Nhà nước các cấp trước nhân dân. Giải quyết tốt, kịp thời thư khiếu
tố của nhân dân là biểu thị tinh thần phụ trách của các cơ quan Nhà nước trước
nhân dân, là thiết thực bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, thỏa mãn
những yêu cầu thiết thân của nhân dân; nhờ đó, mối liên hệ giữa Nhà nước và
nhân dân sẽ được tăng cường.” [28].
Ngày 31/12/1959, Quốc Hội đã ban hành Hiến pháp Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Hiến pháp 1959 đã dành riêng Điều 29 để quy định “Công dân nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà
14
nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những
việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại
vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”
[29]. Đến Hiến pháp 1980, ngày 18/12/1980, tiếp tục ghi nhận quyền khiếu nại và tố
cáo của công dân, được thể hiện tại Điều 73, cụ thể là “Công dân có quyền khiếu
nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật
của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá
nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó; Các điều khiếu nại và tố cáo phải
được xem xét và giải quyết nhanh chóng; Mọi hành động xâm phạm quyền lợi
chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh, người
bị thiệt hại có quyền được bồi thường; Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố
cáo” [30]. Tiếp theo đó, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cũng tiếp
tục khẳng định quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân tại Điều 74, cụ thể là
“Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào; Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định;
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể
và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự; Nghiêm cấm việc trả thù người
khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại
người khác” [31]. Hiến pháp năm 2013 cũng tiếp tục khẳng định quyền khiếu nại,
tố cáo của người dân, được quy định tại Điều 30 rằng “Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật;
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác” [34].
15
Sau khi Hiến pháp 1980 được ban hành, ngày 27/11/1981, Hội đồng Nhà
nước đã ban hành Pháp lệnh về việc “Quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại,
tố cáo của công dân”, gồm 6 Chương và 34 Điều [19]. Có thể xem đây là văn bản
pháp lý đầu tiên quy định một cách tập trung, đầy đủ và chi tiết về việc tiếp nhận và
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Ngày 29/3/1982, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 58-HĐBT
về việc “Thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân”. Nghị định số 58-HĐBT gồm có 28 điều quy định chi tiết về (i) quyền và
trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo; (ii) việc tiếp dân và nhận các
khiếu nại, tố cáo; (iii) thẩm quyền, thời hạn và thủ tục trong việc xét và giải quyết
các khiếu nại, tố cáo của công dân; (iv) việc quản lý, kiểm tra công tác xét và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo; (v) chế độ báo cáo về công tác xét và giải quyết các đơn
khiếu nại, tố cáo; và (vi) việc xử lý các vi phạm [18].
Qua thực tiễn 10 năm thi hành Pháp lệnh 1981 về việc xét và giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 07/5/1991, Hội đồng Nhà nước đã ban hành
Pháp lệnh số 53-LCT/HĐNN về “Khiếu nại, tố cáo của công dân” thay thế cho
Pháp lệnh năm 1981. Pháp lệnh năm 1991 đã tách bạch rõ ràng hoạt động khiếu nại
và hoạt động tố cáo của công dân [20].
Ngày 02/12/1998, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
X, ký họp thứ 4 đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo thay thế cho Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991 [32]. Trong quá trình tổ chức thực hiện, Luật
Khiếu nại, tố cáo được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004 và năm 2005. Đến ngày
11/11/2011, Luật Khiếu nại đã được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2012. Luật
Khiếu nại 2011 thay thế cho những quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005
[33]. Để hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Khiếu nại năm 2011, Chính phủ đã ban
hành các Nghị định, Thanh tra Chính phủ đã ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn
thực hiện.
16
1.2.3. Nội dung của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
1.2.2.1. Quy định về nguyên tắc giải quyết khiếu nại hành chính
Theo Điều 3, Luật Khiếu nại, nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
(GQKN) là“việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy
định của pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời” [33].
Nguyên tắc khiếu nại và GQKN được làm rõ hơn tại Thông tư số 07/2013/TT-
TTCP ngày 31/10/2013, cụ thể là “việc giải quyết khiếu nại phải bảo đảm chính xác,
khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời và đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời
hạn theo quy định của pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân” (Điều 3) [40].
Trịnh Văn Thảo (2014) cho rằng để bảo đảm GQKN đúng pháp luật, bảo vệ
được lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức,
việc GQKN phải được xây dựng và thực hiện theo những nguyên tắc nhất định do
pháp luật quy định. Dựa trên các nguyên tắc cơ bản trong quản lý HCNN và thực
tiễn hoạt động GQKN thì việc khiếu nại cũng như GQKN phải tuân thủ các nguyên
tắc sau đây [49]:
i) Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi trước hết là mọi quy định về khiếu nại và GQKN
phải được xây dựng và ban hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhất định.
Việc GQKN phải do chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục,
thời hạn, thời hiệu do pháp luật quy định. Mọi vi phạm pháp luật trong quá trình
GQKN, bất kể là do người khiếu nại hay người GQKN gây ra, đều phải được xử lý
nghiêm minh. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào can thiệp trái pháp luật vào
hoạt động GQKN. Bên cạnh đó, quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật phải được
mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
ii) Nguyên tắc công tâm, khách quan
17
Để đảm bảo nguyên tắc công tâm, đòi hỏi chính những người giải quyết
khiếu nại phải có tâm thật sự trong sáng, không bị chi phối bởi ý thức chủ quan,
không định kiến, xuất phát từ chính yêu cầu thực tiễn khách quan của hoạt động
khiếu nại và GQKN. Các quyết định GQKN được chủ thể có thẩm quyền ban hành
phải dựa trên thực tiễn khách quan, đảm bảo cả tính hợp pháp, tính hợp lý và phải
được thi hành nghiêm chỉnh trong thực tế.
iii) Nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật
Thủ tục GQKN có sự tham gia của chủ thể khiếu nại và chủ thể GQKN. Tuy
nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước, giữa hai chủ thể này lại là quan hệ bất
bình đẳng về ý chí giữa chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước (chủ thể GQKN) và
chủ thể phục tùng quyền lực nhà nước (chủ thể khiếu nại). Tuy nhiên trước pháp
luật cả hai chủ thể này đều có quyền bình đẳng như nhau, nghĩa là mọi tổ chức, cá
nhân đều có quyền khiếu nại khi cho rằng QĐHC, HVHC của cơ quan HCNN xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ thể khiếu nại, cũng như chủ thể
GQKN đều có quyền đưa ra những căn cứ pháp lý, các tài liệu chứng cứ để chứng
minh trong quá trình GQKN.
iv) Nguyên tắc công khai, minh bạch
Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình ban hành các quy định pháp luật về khiếu
nại, GQKN phải tạo điều kiện cho mọi chủ thề tham gia đóng góp ý kiến. Các quy
định của pháp luật về khiếu nại và GQKN phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện và
phải được ghi nhận đầy đủ trong Luật Khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Pháp luật về khiếu nại và GQKN phải được tuyên truyền, phổ biến công khai dưới
mọi hình thức, tới mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, hoạt động GQKN phải được
thực hiện công khai ngay từ giai đoạn bắt đầu vụ việc đến khi thi hành quyết định
GQKN, và các quyết định GQKN đã ban hành phải được công bố công khai.
v) Nguyên tắc tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan HCNN, người có thẩm quyền trong cơ quan
HCNN phải giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm và gọn nhẹ các khiếu nại của người
khiếu nại. Tránh tình trạng, cán bộ lợi dụng, gây phiền hà, sách nhiễu người khiếu
18
nại. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi cơ quan HCNN phát hiện, ngăn ngừa và xử lý
nhanh chóng, kịp thời những vi phạm pháp luật trong thời hạn pháp luật quy định,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước và xã hội.
Như vậy, để đảm bảo hoạt động khiếu nại và GQKN đúng pháp luật, bảo vệ
được lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức,
việc GQKN phải được xây dựng và thực hiện theo những nguyên tắc chủ yếu, cơ
bản trên, đúng theo quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính
Theo Nguyễn Ngọc Hòa và cộng sự (1999), thẩm quyền là tổng thể những
quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực – pháp lý do pháp luật quy định [23]. Còn
theo Học viện hành chính quốc gia (2001), thẩm quyền là phương tiện để các
CQNN, đặc biệt là các cơ quan công quyền và cán bộ, công chức nhà nước thực
hiện và duy trì chức năng, nhiệm vụ của mình [17].
Căn cứ vào mục 1, chương III của Luật Khiếu nại, có thể hiểu thẩm quyền
GQKN được xác định theo nguyên tắc: người có thẩm quyền do pháp luật quy định
có trách nhiệm giải quyết khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của mình; QĐHC,
HVHC của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp; khiếu nại mà cấp dưới
trực tiếp đã giải quyết lần đầu nhưng vẫn còn có khiếu nại. Thẩm quyền của CQNN
thể hiện ở địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức và phạm vi quyền năng của nó. Trên cơ sở
pháp luật, mỗi CQNN được ban hành những quyết định pháp luật (gồm cả quyết
định quy phạm và quyết định cá biệt) theo hình thức, trình tự, thủ tục nhất định [33].
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Thủ trưởng cơ quan thuộc
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền
GQKN lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của
người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp (Điều 17, Luật Khiếu nại) [33].
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với
QĐHC, HVHC của mình; có thẩm quyền GQKN lần hai đối với QĐHC, HVHC của
Chủ tịch UBND cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết
19
lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa
được giải quyết (Điều 18, Luật khiếu nại) [33].
Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyền GQKN lần
đầu đối với QĐHC, HVHC của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực
tiếp (Điều 19, Luật khiếu nại) [33].
Giám đốc sở và cấp tương đương có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với
QĐHC, HVHC của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp; GQKN
lần hai đối với QĐHC, HVHC của Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương
đương đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời
hạn nhưng chưa được giải quyết (Điều 20, Luật Khiếu nại) [33].
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với
QĐHC, HVHC của mình; GQKN lần hai đối với QĐHC, HVHC của Chủ tịch
UBND cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương đã giải quyết lần đầu nhưng
còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết;
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền GQKN giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm
vi quản lý của mình (Điều 21, Luật khiếu nại) [33].
Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc
Chính phủ có thẩm quyền GQKN đối với QĐHC, HVHC của mình, của cán bộ,
công chức do mình quản lý trực tiếp (Điều 22, Luật khiếu nại) [33].
Bộ trưởng có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với QĐHC, HVHC của mình,
của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp; GQKN lần hai đối với QĐHC,
HVHC của Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại
hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết; GQKN lần hai
đối với QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND cấp tỉnh có nội dung thuộc thẩm quyền
quản lý nhà nước của bộ, ngành đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc
khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết; giải quyết tranh chấp
về thẩm quyền GQKN giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình
(Điều 23, Luật khiếu nại) [33].
20
Tổng thanh tra Chính phủ có thẩm quyền giúp Thủ tướng Chính phủ theo
dõi, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
các cấp trong việc tiếp công dân, GQKN, thi hành quyết định GQKN có hiệu lực
pháp luật; trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật về khiếu nại gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt vi phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với
người vi phạm (Điều 24, Luật khiếu nại) [33].
Chánh thanh tra các cấp có thẩm quyền giúp thủ trưởng cơ quan QLNN
cùng cấp tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc GQKN thuộc thẩm
quyền của Thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp khi được giao; giúp thủ trưởng cơ
quan QLNN cùng cấp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan thuộc quyền quản lý
trực tiếp của thủ trưởng trong việc tiếp công dân, GQKN, thi hành quyết định
GQKN có hiệu lực pháp luật; trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về
khiếu nại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp hoặc kiến
nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt vi phạm, xem
xét trách nhiệm, xử lý đối với người vi phạm (Điều 25, Luật Khiếu nại) [33].
Thủ tướng chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác GQKN của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp; xử lý các kiến nghị của
Tổng thanh tra Chính phủ quy định trong thẩm quyền của Tổng thanh tra Chính
phủ; chỉ đạo, xử lý tranh chấp về thẩm quyền GQKN giữa các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh (Điều 26, Luật Khiếu nại).
Việc phân định thẩm quyền theo quy định của Luật Khiếu nại cho thấy
KNHC được giải quyết qua hai cấp (i) giải quyết lần đầu là giải quyết của thủ
trưởng cơ quan HCNN có QĐHC, HVHC bị khiếu nại (kể cả hành vi của CBCC
thuộc quyền quản lý bị khiếu nại) và giải quyết lần hai là giải quyết của thủ trưởng
cơ quan HCNN cấp trên trực tiếp. Khiếu nại đối với HVHC của nhân viên thuộc
quyền quản lý của cơ quan nào thì thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết;
21
khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của thủ trưởng cơ quan nào thì thủ trưởng cơ quan
đó có trách nhiệm giải quyết hoặc người khiếu nại khởi kiện vụ án hành chính tại
Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Khiếu nại trên được gọi là khiếu
nại lần đầu và quyết định giải quyết được gọi là quyết định GQKN lần đầu. Trường
hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định GQKN nại lần đầu, có quyền
khiếu nại quyết định đó đến người có thẩm quyền GQKN lần hai là thủ trưởng
CQHC cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại lần đầu (quyết định giải
quyết của thủ trưởng CQHC cấp trên trực tiếp được gọi là quyết định GQKN lần
hai) hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành
chính (khoản 1, Điều 7, Luật Khiếu nại) [33].
1.2.2.3. Thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính
Hoạt động xem xét và GQKN là một quá trình phức tạp, phải được tiến hành
theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Đây là trình tự pháp lý cần
thiết để đảm bảo cho việc khiếu nại và GQKN được chính xác, đúng pháp luật.
Theo Quyết định số 1294/QĐ-TTCP ngày 04/6/2014 của Thanh tra Chính phủ về
việc “Công bố thủ tục hành chính được ban hành mới thuộc phạm vi chức năng
quản lý của Thanh tra Chính phủ”, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính được
thực hiện thông qua các bước (i) tiếp nhận đơn khiếu nại, (ii) thụ lý giải quyết khiếu
nại, (iii) xác minh nội dung khiếu nại, (iv) tổ chức đối thoại và (v) ra quyết định giải
quyết khiếu nại [41].
Bƣớc 1, tiếp nhận đơn khiếu nại
Tiếp nhận đơn khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức gắn liền với hoạt
động tiếp công dân. Tiếp công dân tuy không phải là việc trực tiếp giải quyết vụ
việc khiếu nại, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xem xét, tiếp nhận
các khiếu nại, góp phần không nhỏ vào sự thành công của cả quá trình giải quyết
khiếu nại. Do đó, việc tiếp công dân nên được thực hiện theo các quy định của Luật
tiếp công dân 2013, “tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc
cơ quan HCNN đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại,
22
tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật” (Điều 2, Luật Tiếp
công dân) [35]. Luật Tiếp công dân cũng quy định rõ việc tiếp công dân phải được
tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan HCNN, phải đảm bảo tính công khai,
dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và đảm bảo an toàn cho
người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không
phân biệt đối xử khi tiếp công dân; tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật
(Điều 3, Luật tiếp công dân) [35].
Thông qua tiếp dân, cơ quan HCNN có thẩm quyền tiếp nhận các khiếu nại,
kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức. Đây là
tiền đề vô cùng quan trọng để những người có thẩm quyền, cơ quan chức năng giải
quyết đúng và kịp thời khiếu nại của công dân. Vì vậy, tiếp công dân là hoạt động
có tính chất bắt buộc và phải được tiến hành thường xuyên của các cơ quan HCNN
có thẩm quyền GQKN, đồng thời, Luật khiếu nại cũng nêu rõ “Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân; bảo đảm các điều kiện cần
thiết để tiếp công dân; bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, kiến thức
và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp công dân
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh” (khoản 2, Điều 59, Luật khiếu nại) [33].
Pháp luật khiếu nại quy định, thủ trưởng cơ quan HCNN có trách nhiệm tổ
chức việc tiếp công dân, bố trí cán bộ chuyên trách tiếp công dân và bản thân họ
cũng phải dành một khoảng thời gian nhất định để tiếp công dân. Chủ tịch UBND
cấp xã dành mỗi tuần ít nhất một ngày, Chủ tịch UBND cấp huyện mỗi tháng ít nhất
hai ngày, Chủ tịch UBND cấp tỉnh mỗi tháng ít nhất một ngày để tiếp công dân
(khoản 1, Điều 61, Luật khiếu nại) [33]. Người trực tiếp tiếp công dân có trách
nhiệm tiếp nhận đơn khiếu nại của công dân, trường hợp người khiếu nại chưa viết
đơn mà trình bày trực tiếp thì người tiếp công dân đề nghị và hướng dẫn người
khiếu nại viết đơn và ký xác nhận. Đồng thời, khi nhận đơn của người khiếu nại,
người tiếp công dân phải ghi vào sổ tiếp dân. Đây là thủ tục xác nhận chính thức
23
việc khiếu nại được tiếp nhận để cơ quan HCNN xem xét giải quyết theo trình tự
GQKN của công dân.
Bƣớc 2, thụ lý giải quyết khiếu nại
Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ
nêu rõ trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại QĐHC, HVHC,
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền giải quyết mà không thuộc
một trong các trường hợp không được thụ lý giải quyết theo quy định của Điều 11,
Luật khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai phải
thụ lý giải quyết. Đối với trường hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung
và cử người đại diện để thực hiện việc khiếu nại thì thụ lý khi trong đơn có đầy đủ
chữ ký của những người khiếu nại và có văn bản cử người đại diện. Trường hợp
không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do trong văn bản thông báo cho người
khiếu nại (Điều 5) [40].
Đối với khiếu nại QĐHC, HVHC, người có thẩm quyền GQKN thông báo
việc thụ lý bằng văn bản đến người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
thẩm quyền chuyển khiếu nại đến (nếu có) và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp
biết. Đối với trường hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung và cử người
đại diện để thực hiện việc khiếu nại thì văn bản thông báo việc thụ lý được gửi đến
người đại diện. Thông báo việc thụ lý giải quyết khiếu nại của cơ quan HCNN phải
được thực hiện theo mẫu quy định của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP [40].
Bƣớc 3, xác minh nội dung khiếu nại
Trên cơ sở đơn và các tài liệu mà người khiếu nại cung cấp, cán bộ thụ lý
phải tiến hành nghiên cứu kỹ để xác định nội dung khiếu nại bao gồm những vấn đề
gì, yêu cầu của người khiếu nại là gì, những căn cứ mà người khiếu nại đưa ra để
chứng minh cho yêu cầu của họ có đúng pháp luật không, đã đầy đủ chưa. Tiến
hành kiểm tra lại QĐHC, HVHC của mình, của người có trách nhiệm do mình quản
lý trực tiếp, nếu xét thấy khiếu nại là đúng thì ra quyết định GQKN ngay, ngược lại
thì phải tiến hành xác minh.
24
Xác minh là nhằm mục đích thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho nhận
xét chính xác, khách quan, đúng pháp luật về vụ việc khiếu nại. Khi tiến hành xác
minh, cần phải khách quan, trung thực, vận dụng khéo léo, linh hoạt các biện pháp
nghiệp vụ, tìm hiểu bản chất của sự việc dẫn đến khiếu nại. Điều quan trọng là xác
minh rõ nguồn gốc của chứng cứ, mức độ trung thực và chính xác của chứng cứ,
xác định càng chính xác bao nhiêu thì giá trị chứng cứ càng vững chắc bấy nhiêu.
Trong quá trình xác minh các nội dung khiếu nại, người có thẩm quyền
GQKN phải làm việc trực tiếp và yêu cầu người khiếu nại, người đại diện, người
được ủy quyền cung cấp các thông tin, tài liệu, bằng chứng có liên quan đến nội
dung khiếu nại; làm việc trực tiếp và yêu cầu người bị khiếu nại cung cấp thông tin,
tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung bị khiếu nại, giải trình QĐHC, HVHC
bị khiếu nại. Người khiếu nại, người bị khiếu nại có trách nhiệm cung cấp thông tin,
tài liệu, bằng chứng cho người có thẩm quyền GQKN trong vòng 7 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu.
Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền GQKN cần phải xác minh
nội dung khiếu nại thông qua bên thứ 3, để các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên
quan cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng đối với các nội dung khiếu nại. Đồng
thời, người có thẩm quyền GQKN có trách nhiệm xác minh thực tế để thu thập
thông tin, kiểm tra, xác định tính chính xác, hợp pháp, đầy đủ của các thông tin, tài
liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại.
Bƣớc 4, tổ chức đối thoại
Trong quá trình GQKN các QĐHC, HVHC, người GQKN lần đầu tổ chức
đối thoại nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại
còn khác nhau. Đối với khiếu nại lần hai thì người GQKN hoặc người có trách
nhiệm xác minh tổ chức đối thoại giữa các bên với nhau, bao gồm người GQKN,
người khiếu nại, người bị khiếu nại và tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.
Đại diện cơ quan giải quyết trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại,
người bị khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng
25
giải quyết khiếu nại, thông báo bằng văn bản với người khiếu nại, người bị khiếu
nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan biết thời
gian, địa điểm, nội dung việc gặp gỡ, đối thoại.
Khi đối thoại, đại diện cơ quan có thẩm quyền nêu rõ nội dung cần đối thoại;
kết quả xác minh nội dung khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền phát biểu ý
kiến, đưa ra những bằng chứng liên quan đến vụ việc khiếu nại và yêu cầu của
mình.Việc đối thoại được lập thành biên bản; biên bản ghi rõ ý kiến của những
người tham gia; kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham gia;
trường hợp người tham gia đối thoại không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải ghi rõ lý
do, biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc khiếu nại. Kết quả đối thoại là một
trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.
Bƣớc 5, ra quyết định giải quyết khiếu nại
Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, bằng chứng đối với các nội dung khiếu nại,
kết quả xác minh nội dung khiếu nại, kết quả đối thoại (nếu có), người có thẩm
quyền GQKN ban hành quyết định GQKN. Quyết định GQKN về QĐHC, HVHC
lần đầu được thực hiện theo quy định tại Điều 31 của Luật khiếu nại; quyết định
GQKN lần hai được thực hiện theo quy định tại Điều 40 của Luật khiếu nại [33].
Trong quyết định GQKN phải thể hiện rõ thông tin về người khiếu nại, người
bị khiếu nại, nội dung khiếu nại, căn cứ để khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại;
kết quả giải quyết khiếu nại trước đó (nếu có); kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
nêu rõ căn cứ để kết luận nội dung khiếu nại là đúng toàn bộ, sai toàn bộ, hoặc đúng
một phần; giữ nguyên, hủy bỏ toàn bộ hoặc sửa đổi, bổ sung một phần QĐHC,
HVHC bị khiếu nại (đối với quyết định GQKN lần đầu) hoặc yêu cầu người có
QĐHC, HVHC bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ QĐHC, chấm dứt
HVHC bị khiếu nại (đối với GQKN lần hai); việc bồi thường thiệt hại cho người bị
thiệt hại (nếu có) và giải quyết các vấn đề khác có liên quan; quyền khiếu nại lần
hai, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án (Khoản 1, Điều 22, Luật khiếu
nại) [33].
26
Sau khi ban hành quyết định GQKN, người có thẩm quyền GQKN có trách
nhiệm gửi quyết định GQKN cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của
người GQKN hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, tổ
chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra cùng cấp. Nếu là khiếu
nại lần đầu thì thời gian gửi quyết định GQKN trong vòng 03 ngày, kể từ ngày ra
quyết định; nếu là khiếu nại lần thứ hai thì thời gian gửi GQKN trong vòng 07 ngày,
đồng thời gửi quyết định GQKN cho người bị khiếu nại và người GQKN lần đầu.
1.2.2.4. Thời hiệu, thời hạn giải quyết khiếu nại hành chính
Theo điều 9, Luật Khiếu nại 2011, thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày
nhận được QĐHC hoặc biết được QĐHC, HVHC. Trường hợp người khiếu nại
không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch
họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời
gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. Theo đó, có thể hiểu rằng
thời hiệu khiếu nại là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó,
chủ thể khiếu nại không còn quyền khiếu nại nữa. Đây được xem là thời hiệu khiếu
nại lần đầu [33].
Đối với thời hiệu khiếu nại lần hai, kể từ ngày hết thời hạn GQKN lần đầu
mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định GQKN
lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì thời hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày,
khi trường hợp người khiếu nại ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có
thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày (khoản 1, Điều 33, Luật khiếu nại) [33].
Việc pháp luật quy định rõ về thời hiệu khiếu nại có ý nghĩa bảo đảm tính
liên tục, ổn định của nền hành chính, bảo đảm cho việc GQKN được nhanh chóng,
hiệu quả, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của người khiếu nại. Nếu không có
những quy định về thời hiệu khiếu nại sẽ làm ảnh hưởng đến tính thực thi và hiệu
quả GQKN đối với các trường hợp HVHC, QĐHC đã xảy ra trong thời gian dài
trước đó.
Tương tự như thời hiệu khiếu nại, thời hạn GQKN cũng được Luật khiếu nại
quy định cụ thể, đối với thời hạn GQKN lần đầu là không quá 30 ngày, kể từ ngày
27
thụ lý; riêng những vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài những
không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Đối với trường hợp người khiếu nại ở vùng
sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn GQKN không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ
lý, và kéo dài không quá 60 ngày đối với những vụ việc phức tạp, kể từ ngày thụ lý
(Điều 28, Luật Khiếu nại) [33].
Đối với những vụ việc phát sinh cần đến giải quyết lần hai thì thời gian
GQKN lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; riêng những vụ việc phức tạp
thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ
ngày thụ lý. Đối với trường hợp người khiếu nại ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó
khăn thì thời hạn GQKN không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; riêng những vụ việc
phức tạp thì thời hạn GQKN có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày, kể từ
ngày thụ lý.
Pháp luật quy định rõ thời gian GQKN là cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, đơn vị và tổ chức; đồng thời giúp cho cơ quan
nhà nước giải quyết các vụ việc đúng thời hạn, bảo đảm tính thực thi của pháp luật.
1.2.2.5. Quyền, nghĩa vụ các bên trong giải quyết khiếu nại hành chính
Khi một vụ việc xảy ra mà cần đến hoạt động GQKN, thì các bên liên quan
trong hoạt động này gồm có (i) người khiếu nại, (ii) người bị khiếu nại, (iii) người
giải quyết khiếu nại, và (iv) luật sư, trợ giúp viên pháp lý, các bên liên quan này có
các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động GQKN cụ thể như sau:
a) Ngƣời khiếu nại
Người khiếu nại được quyền tự mình khiếu nại hoặc nhờ luật sư tư vấn về
pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Người khiếu nại được quyền tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại
diện hợp pháp tham gia đối thoại; được biết, đọc, sao chụp, sao chép, tài liệu, chứng
cứ do người GQKN thu thập để giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí
mật nhà nước; được quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu
giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin,
tài liệu đó cho mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho
28
người GQKN, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước; được yêu cầu người giải
quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra
do việc thi hành QĐHC bị khiếu nại; được quyền đưa ra chứng cứ về việc khiếu nại
và giải trình ý kiến của mình về chứng cứ đó; được quyền nhận văn bản trả lời về
việc thụ lý GQKN, nhận quyết định GQKN; được khôi phục quyền, lợi ích hợp
pháp đã bị xâm phạm; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; được
quyền khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định
của Luật tố tụng hành chính; và được quyền rút lại khiếu nại của mình (khoản 1,
Điều 12, Luật Khiếu nại) [33].
Bên cạnh những quyền, thì người khiếu nại phải đảm bảo các nghĩa vụ khiếu
nại vụ việc đến đúng người có thẩm quyền giải quyết; trình bày trung thực sự việc,
đưa ra chứng cứ về tính đúng đắn, hợp lý của việc khiếu nại; cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan cho người GQKN; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình
bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; chấp hành QĐHC, HVHC mà mình
khiếu nại trong thời gian khiếu nại, trừ trường hợp quyết định, hành vi đó bị tạm
đình chỉ thi hành; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp
luật (khoản 2, Điều 12, Luật Khiếu nại) [33].
b) Ngƣời bị khiếu nại
Người bị khiếu nại có quyền đưa ra chứng cứ về tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC bị khiếu nại; được biết, đọc, sao chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ do
người GQKN thu thập để GQKN, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;
được quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý
thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho
mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao cho người GQKN, trừ
thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước; được quyền nhận quyết định GQKN lần
hai (khoản 1, Điều 13, Luật Khiếu nại) [33].
Song song với các quyền, người bị khiếu nại có nghĩa vụ tham gia đối thoại
hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại; chấp hành quyết
định xác minh nội dung khiếu nại của cơ quan, đơn vị có thẩm quyền GQKN; cung
29
cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, giải trình về tính hợp pháp,
đúng đắn của QĐHC, HVHC bị khiếu nại khi người GQKN hoặc cơ quan, đơn vị
kiểm tra, xác minh yêu cầu trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày có yêu cầu; chấp hành
nghiêm chỉnh quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật; có nghĩa vụ sửa đổi hoặc
hủy bỏ QĐHC, chấm dứt HVHC bị khiếu nại; bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do
QĐHC, HVHC trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước (khoản 2, Điều 13, Luật Khiếu nại) [33].
c) Ngƣời giải quyết khiếu nại
Đối với ngƣời giải quyết khiếu nại lần đầu
Người giải quyết khiếu nại lần đầu có quyền (i) yêu cầu người khiếu nại, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ trong thời
hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để làm cơ sở giải quyết khiếu nại; (ii) quyết
định áp dụng, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp theo quy định của Luật khiếu nại (khoản
1, Điều 14, Luật Khiếu nại) [33].
Người giải quyết khiếu nại lần đầu có nghĩa vụ (i) tiếp nhận khiếu nại và
thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp về việc thụ lý
GQKN đối với QĐHC, HVHC bị khiếu nại; (ii) có nghĩa vụ GQKN đối với QĐHC,
HVHC khi người khiếu nại yêu cầu; (iii) tổ chức đối thoại với người khiếu nại,
người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (iv) gửi quyết định
GQKN cho người khiếu nại và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc GQKN của
mình; trường hợp khiếu nại do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến
thì phải thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó theo quy định
của pháp luật; (v) cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung
khiếu nại khi người khiếu nại yêu cầu; cung cấp hồ sơ GQKN khi người GQKN lần
hai hoặc Tòa án yêu cầu (khoản 2, Điều 14, Luật Khiếu nại) [33].
Đối với ngƣời giải quyết khiếu nại lần hai
Người giải quyết khiếu nại lần hai có quyền (i) yêu cầu người khiếu nại,
người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài
30
liệu, chứng cứ trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để làm cơ sở GQKN;
(ii) quyết định áp dụng, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp theo quy định của Luật Khiếu
nại; (iii) triệu tập cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia đối thoại; (iv)
trưng cầu giám định; và (v) tham khảo ý kiến của Hội đồng tư vấn khi xét thấy cần
thiết (khoản 1, Điều 15, Luật Khiếu nại) [33].
Người giải quyết khiếu nại lần hai có nghĩa vụ (i) tiếp nhận, thụ lý, lập hồ sơ
vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết; (ii) kiểm tra, xác minh nội dung
khiếu nại; (iii) tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại và cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan; (iv) ra quyết định GQKN và công bố quyết định
GQKN; và (v) cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại khi
người khiếu nại, người bị khiếu nại hoặc Tòa án yêu cầu (khoản 2, Điều 15, Luật
Khiếu nại) [33].
d) Luật sƣ, trợ giúp viên pháp lý
Luật sư, trợ giúp viên pháp lý có quyền (i) tham gia vào quá trình giải quyết
khiếu nại theo đề nghị của người khiếu nại; (ii) thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
người khiếu nại khi được ủy quyền; (iii) xác minh, thu thập chứng cứ có liên quan
đến nội dung khiếu nại theo yêu cầu của người khiếu nại và cung cấp chứng cứ cho
người giải quyết khiếu nại; và (iv) nghiên cứu hồ sơ vụ việc, sao chụp, sao chép các
tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước (khoản 1,
Điều 16, Luật Khiếu nại) [33].
Luật sư, trợ giúp viên pháp lý có nghĩa vụ (i) xuất trình thẻ luật sư, thẻ trợ
giúp viên pháp lý và quyết định phân công trợ giúp pháp lý, giấy yêu cầu giúp đỡ về
pháp luật hoặc giấy ủy quyền của người khiếu nại; và (ii) thực hiện đúng nội dung,
phạm vi mà người khiếu nại đã ủy quyền (khoản 2, Điều 16, Luật Khiếu nại) [33].
1.2.3. Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
1.2.3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Những quy phạm pháp luật chứa đựng trong các văn bản do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành sẽ hoàn toàn mất hết ý nghĩa nếu nó không được thực
31
hiện, nghĩa là không đi vào đời sống bằng hành vi của các chủ thể pháp luật. Thực
hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng
hành vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế đời sống [15]. Thực
hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ
thể pháp luật [12].
Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về khiếu nại hành chính đi
vào cuộc sống, nhằm giúp cho các QĐHC, HVHC của cơ quan HCNN đúng theo
quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đơn vị,
tổ chức hoặc cán bộ, công chức.
1.2.3.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Hành vi thực hiện pháp luật là những xử sự (hành động hoặc không hành
động) của các chủ thể pháp luật (các cá nhân, tổ chức) phù hợp với những yêu cầu
của các quy phạm pháp luật, có ích cho xã hội, nhà nước và cá nhân. Các quy phạm
pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú và
khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau (i) tuân thủ pháp luật, (ii) thi
hành pháp luật, (iii) sử dụng pháp luật, và (iv) áp dụng pháp luật [12].
Tuân thủ pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính là một hình thức thực
hiện pháp luật về khiếu nại hành chính, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế
không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính là một hình thức thực
hiện pháp luật khiếu nại hành chính, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực, những quy phạm pháp luật bắt buộc
(những quy phạm quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất
định) được thực hiện ở hình thức này.
Sử dụng pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính là một hình thức thực
hiện pháp luật khiếu nại hành chính, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền
32
chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Những quy
phạm pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính quy định các quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác với
các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải
thực hiện.
Áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính là một hình thức thực
hiện pháp luật khiếu nại hành chính, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có
thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những
quy định của pháp luật khiếu nại hành chính, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm
dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này các chủ thể pháp luật
thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong một số
trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số lổ chức xã hội
cũng có thể thực hiện hoạt động này.
1.3. Những yếu tố tác động đến kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu
nại hành chính
Để công tác giải quyết khiếu nại hành chính được thực thi có hiệu quả thì
trước hết phải xác định được những yếu tố nào có thể tác động đến kết quả giải
quyết khiếu nại, từ đó mới có thể đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết khiếu nại hành chính. Để xác định được những yếu tố có thể tác động đến
kết quả GQKN, thì trước hết nghiên cứu này phải xem xét đến quy trình GQKN,
nếu quy trình GQKN được thực hiện tốt sẽ giúp cho kết quả GQKN tốt hơn và
ngược lại.
1.3.1. Yếu tố quy trình giải quyết khieus nại
Thủ tục tiếp dân
Luật Tiếp công dân quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại; trách
nhiệm của người tiếp công dân; nhiệm vụ và quyền hạn của Trưởng ban tiếp công
dân, hoạt động tiếp công dân ở xã, phường, thị trấn; các điều kiện đảm bảo cho hoạt
33
động tiếp công dân [35]. Điều này cho thấy, hoạt động tiếp dân là khâu đầu tiên
trong quy trình GQKN, do đó nó đóng vai trò rất quan trọng, làm ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả GQKN. Khi người khiếu nại trình bày hay nộp đơn khiếu nại đến cơ
quan HCNN, nếu người trực tiếp nhận đơn hòa nhã, nhiệt tình hướng dẫn, giải thích
rõ ràng, cụ thể cho người khiếu nại thì sẽ làm cho người khiếu nại hài lòng ngay từ
đầu, góp phần cho quá trình GQKN được thuận lợi.
Ngược lại, nếu hoạt động tiếp dân không được thực hiện đúng theo các
chuẩn mực, không làm hài lòng người khiếu nại sẽ làm phát sinh thêm vấn đề, có
thể làm cho người khiếu nại nghi ngờ về khả năng giải quyết khiếu nại của cơ quan
HCNN, hoặc có thể làm phát sinh thêm một vụ khiếu nại mới về HVHC của người
trực tiếp nhận đơn thư khiếu nại.
Điều này cho thấy, khi sự hài lòng của người dân được đáp ứng ngay từ đầu
của quy trình GQKN sẽ tác động tích cực lên kết quả GQKN, ngược lại, sẽ tác động
tiêu cực đến kết quả GQKN, và có thể phát sinh nhiều vấn đề không tốt khác lên
quá trình GQKN của cơ quan HCNN.
Thụ lý giải quyết khiếu nại
Đây là bước thứ hai trong thủ tục GQKN của cơ quan HCNN, theo quy định,
thì trong khoảng thời gian 10 ngày, kế từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm
quyền, người có thẩm quyền GQKN phải thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn
bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã chuyển khiếu
nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết; trường hợp không thụ lý giải
quyết thì phải nêu rõ lý do (Điều 27, Điều 36) [33].
Yếu tố thụ lý GQKN cho biết, người có thẩm quyền GQKN phải xác định
được tính chính xác của thông tin khiếu nại, phân loại khiếu nại đó thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị nào, khiếu nại đó có được thụ lý giải quyết
hay không. Sau đó, người có thẩm quyền phát hành văn bản thông báo cho người
khiếu nại biết, nếu thụ lý GQKN thì phải ghi rõ khiếu nại đó được thụ lý giải quyết
kể từ ngày nào, nếu không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ những lý do nào dẫn đến
34
việc không thụ lý GQKN. Đồng thời, việc thụ lý giải quyết khiếu nại phải đảm bảo
thời gian quy định là 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại.
Như vậy, người khiếu nại chỉ có thể hài lòng khi và chỉ khi họ nhận được thông
báo thụ lý của cơ quan HCNN đúng theo thời gian quy định, và nắm rõ việc khiếu nại
của mình được thụ lý giải quyết kể từ ngày nào, hoặc không được giải quyết vì những
nguyên do gì. Nếu khâu thụ lý GQKN được thực hiện tốt sẽ giúp cho các khâu còn lại
trong quá trình GQKN được thuận lợi và đạt được kết quả tốt đẹp.
Đối thoại và xác minh nội dung khiếu nại
Đối thoại và xác minh nội dung khiếu nại đóng vai trò quan trọng trong quá
trình GQKN, việc xác minh nội dung khiếu nại cần phải được thực hiện dân chủ,
minh bạch, rõ ràng, có như vậy thì kết quả GQKN mới được hiệu quả và làm thỏa
mãn các bên liên quan. Để đảm bảo được điều này, hoạt động xác minh nội dung
khiếu nại nên được thực hiện qua các bước như sau (Điều 9 đến Điều 16, [40]):
i) Công bố quyết định xác minh nội dung khiếu nại: trong trường hợp cần
thiết, người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác minh thực hiện việc công bố
quyết định xác minh nội dung khiếu nại tại cơ quan, tổ chức, đơn vị của người bị
khiếu nại hoặc tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi phát sinh khiếu nại.
ii) Làm việc trực tiếp với người khiếu nại, người đại diện, người được ủy
quyền, luật sư, trợ giúp viên pháp lý của người khiếu nại: người GQKN hoặc người
có trách nhiệm xác minh nội dung khiếu nại làm việc trực tiếp và yêu cầu người
khiếu nại hoặc người đại diện của người khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu, bằng
chứng có liên quan đến nội dung khiếu nại.
iii) Làm việc trực tiếp với người bị khiếu nại: người GQKN hoặc người có
trách nhiệm xác minh nội dung khiếu nại làm việc trực tiếp và yêu cầu người bị
khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung bị khiếu
nại, giải trình về QĐHC, HVHC bị khiếu nại.
iv) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông
tin, tài liệu, bằng chứng: người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác minh nội
dung khiếu nại gửi văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan
35
cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại. Trường
hợp làm việc trực tiếp thì người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác minh nội
dung khiếu nại phải thông báo trước thời gian, địa điểm, nội dung làm việc và yêu
cầu cung cấp các thông tin, tài liệu, bằng chứng phục vụ cho buổi làm việc.
v) Tiếp nhận, xử lý thông tin, tài liệu, bằng chứng: khi tiếp nhận thông tin, tài
liệu, bằng chứng do người khiếu nại hoặc người đại diện, người được ủy quyền, luật
sư, trợ giúp viên pháp lý của người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân cung cấp trực tiếp thì người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác
minh phải lập Giấy biên nhận (Mẫu số 07-KN ban hành kèm theo Thông tư
07/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ) [40]. Người GQKN hoặc người có
trách nhiệm xác minh phải đánh giá, nhận định về giá trị chứng minh của những
thông tin, tài liệu, bằng chứng đã được thu thập trên cơ sở tuân thủ các quy định của
pháp luật, các nguyên tắc trong giải quyết khiếu nại. Thông tin, tài liệu, chứng cứ
được sử dụng để kết luận nội dung khiếu nại thì phải rõ nguồn gốc, tính khách quan,
tính liên quan, tính hợp pháp.
vi) Tiến hành xác minh hoặc trưng cầu giám định: nếu xét thấy cần thiết,
người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác minh tiến hành xác minh thực tế để
thu thập, kiểm tra, xác định tính chính xác, hợp pháp, đầy đủ của các thông tin, tài
liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung vụ việc khiếu nại. Khi xét thấy cần có sự
đánh giá về nội dung liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật làm căn cứ cho việc kết
luận nội dung khiếu nại thì người GQKN hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao
nhiệm vụ xác minh trưng cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám định.
vii) Làm việc với các bên trong quá trình xác minh nội dung khiếu nại: trong
trường hợp kết quả xác minh khác với thông tin, tài liệu, bằng chứng do người
khiếu nại, người bị khiếu nại cung cấp thì người có trách nhiệm xác minh phải tổ
chức làm việc với người khiếu nại, người bị khiếu nại. Trường hợp cần thiết thì mời
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan tham gia làm việc.
Trong trường hợp kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác với yêu cầu
của người khiếu nại thì người giải quyết khiếu nại lần đầu, hoặc người giải quyết
36
khiếu nại lần hai, hoặc người có trách nhiệm xác minh nội dung khiếu nại lần hai
phải tổ chức đối thoại. Việc đối thoại phải được lập thành biên bản, ít nhất là 03
bản, mỗi bên giữ 01 bản, trong biên bản phải ghi rõ thời gian, địa điểm, thành phần
tham gia, nội dung, ý kiến của những người tham gia, những nội dung đã được
thống nhất, những vấn đề còn có những ý kiến khác nhau và có đầy đủ chữ ký của
các bên (Điều 21, [40]).
Như vậy, để kết quả đối thoại và xác minh nội dung khiếu nại đạt được mức
độ chính xác cao, thì người GQKN hoặc người có trách nhiệm xác minh nội dung
khiếu nại nên tuân thủ chặt chẽ các bước trong quá trình xác minh nội dung khiếu
nại. Nếu yếu tố đối thoại và xác minh nội dung khiếu nại càng được thực hiện tốt,
với độ chính xác cao, rõ ràng và minh bạch thì kết quả GQKN sẽ càng cao, đồng
thời giúp cho các bên có liên quan càng thỏa mãn hơn với kết quả GQKN.
Ra quyết định giải quyết khiếu nại
Ra quyết định giải quyết khiếu nại là bước cuối cùng trong thủ tục giải quyết
khiếu nại, là yếu tố vô cùng quan trọng, tác động trực tiếp đến kết quả GQKN về
QĐHC, HVHC của cơ quan HCNN. Quyết định GQKN phải có đầy đủ các thông
tin theo yêu cầu của pháp luật khiếu nại (theo mẫu 15-KN, Thông tư số
07/2013/TT-TTCP) [40], và gửi đến cho tất cả các đối tượng có liên quan đối với
nội dung khiếu nại, theo đúng thời hạn quy định.
Nếu quyết định GQKN được thực hiện chính xác và kịp thời sẽ giúp cho cả
người khiếu nại và người bị khiếu nại đều thỏa mãn với kết quả cuối cùng, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Ngược lại, sẽ làm nảy sinh không
hài lòng hoặc bất mãn của cả người khiếu nại và người bị khiếu nại. Trong trường
hợp người khiếu nại không hài lòng, không đồng thuận đối với kết quả GQKN về
QĐHC, HVHC sẽ tác động tiêu cực đến người khiếu nại, và hình thành sự vụ khiếu
nại lần hai. Chính vì vậy, yếu tố ra quyết định GQKN đóng vai trò vô cùng quan
trọng đến kết quả GQKN của cơ quan HCNN.
37
Thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật
Mục đích cuối cùng của GQKN là duy trì trật tự quản lý HCNN, khôi phục
và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Vì vậy, để đạt được
mục đích này, pháp luật đã quy định khá chi tiết và ngày càng hoàn thiện về khiếu
nại, thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, các quy định của
pháp luật cũng như toàn bộ hoạt động GQKN của chủ thể có thẩm quyền chỉ thực
sự có giá trị nếu quyết định GQKN được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.
Theo Điều 44, Luật Khiếu nại, quyết định GQKN lần đầu có hiệu lực pháp
luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai;
và quyết định GQKN lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban
hành; trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật
Tố tụng hành chính [33].
Như vậy, có thể thấy thi hành quyết định GQKN là một khâu có ý nghĩa rất
quan trọng, quyết định giá trị của toàn bộ hoạt động GQKN của chủ thể có thẩm
quyền, nếu được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế thì sẽ thực sự bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Nghị định 75/2012/NĐ-CP quy định rõ quyết định GQKN phải được công
bố, công khai; trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại, người bị khiếu nại, người
khiếu nại, trách nhiệm của người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trong việc thi
hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật, trách nhiệm của cơ quan được giao tổ
chức thi hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật [4]. Tuy nhiên, Luật Khiếu
nại không quy định về chế tài đối với các chủ thể phải thi hành quyết định GQKN
có hiệu lực pháp luật mà không thực hiện đúng theo các yêu cầu của quyết định
GQKN có hiệu lực pháp luật. Chính vì thế, yếu tố thực hiện quyết định GQKN có ý
nghĩa quan trọng tác động trực tiếp đến kết quả GQKN. Nếu việc các chủ thể liên
quan đến việc thực hiện quyết định GQKN đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì sự vụ
khiếu nại sẽ được kết thúc, ngược lại, sự vụ khiếu nại sẽ còn tiếp diễn, có thể là
38
khiếu nại lần hai hoặc khiếu kiện ra Tòa án đối với các nội dung chưa được thực
hiện đúng theo các yêu cầu của quyết định GQKN.
1.3.2. Ý thức trách nhiệm của các bên liên quan
Trong tất cả các văn bản Luật và hướng dẫn thi hành luật luôn nêu rõ trách
nhiệm của các bên có liên quan để làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện những
vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm là sự phụ trách hoặc
đảm đương một nhiệm vụ nào đó của cá nhân, hay của tổ chức. Cá nhân, tổ chức đó
phải có nghĩa vụ thi hành trách nhiệm đúng theo yêu cầu công việc, trách nhiệm
được phân công.
Xét trong khía cạnh hành chính thì trách nhiệm hành chính là “Trách nhiệm
thi hành nghĩa vụ do pháp luật hành chính quy định và trách nhiệm phát sinh do vi
phạm nghĩa vụ đó”. Cụ thể hơn, có thể nói trách nhiệm hành chính với tính cách là
trách nhiệm pháp lý gắn với yếu tố vi phạm hành chính, hay là vi phạm hành chính
là cơ sở của trách nhiệm hành chính. Trong đó, lỗi là tiền đề chủ quan của vi phạm
hành chính. Ba yếu tố của trách nhiệm hành chính được xác định là: (i) Là biện
pháp cưỡng chế hành chính; (ii) Sự lên án của nhà nước và xã hội đối với hành vi
của người vi phạm hành chính; (iii) Người vi phạm hành chính phải chịu những hậu
quả bất lợi nhất định [24].
Khác với trách nhiệm, ý thức trách nhiệm thể hiện thái độ của một người đối
với một sự việc, công việc cụ thể. Xét trong hoạt động khiếu nại và giải quyết khiếu
nại hành chính thì ý thức trách nhiệm của các bên liên quan giữ vai trò vô cùng
quan trọng trong suốt quá trình giải quyết khiếu nại. Nếu các bên liên quan luôn nêu
cao tinh thần ý thức trách nhiệm cao, luôn có được thái độ tích cực trong quá trình
giải quyết khiếu nại hành chính cũng như trong việc thực hiện quyết định GQKN có
hiệu lực pháp luật, thì kết quả công việc mang lại tất yếu sẽ cao hơn so với một sự
vụ, công việc được giải quyết với ý thức trách nhiệm thấp.
1.3.7. Năng lực của người thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính
Năng lực, một trong những thuật ngữ chung nhất, là "thứ" mà một cá nhân
phải thể hiện và chứng minh nó có hiệu quả trong công việc, vai trò, chức năng,
39
hoặc nhiệm vụ của bản thân. Theo quan điểm của những nhà tâm lý học, Năng lực
là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả
cao. Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân mới
đóng vai trò quan trọng, năng lực của con người không phải hoàn toàn đo tự nhiên
mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có [13].
Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những điều kiện tiên
quyết bảo đảm cho quá·trình phân cấp diễn ra đạt kết quả tốt. Đội ngũ cán bộ, công
chức là nguồn lực chủ yếu của hệ thống quản lý hành chính có thể vận hành và hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Do tình hình kinh tế, xãhội thường xuyên
thay đổi đòi hỏi phải liên tục phát triển năng lực của tất cả cán bộ, công chức trong
hệ thống quản lý hành chính. Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức được tiếp cận
trên các khía cạnh, như (i) năng lực lãnh đạo, quản lý là khả năng dự báo, phán
đoán, khả năng xử trí tình huống, khả năng hành động của cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong quá· trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý hành chính; (ii)
năng lực thực thi công vụ của mỗi cán bộ, công chức, đây là lĩnh vực khó phân tích.
Lĩnh vực này liên quan tới cá tính và giá· trị, niềm tin của mỗi cán bộ, công chức và
những yếu tố này định hướng cách thức xử lý công việc của họ; và (iii) năng lực
thực thi công vụ của tập thể (năng lực nhóm): Năng lực không chỉ liên quan đến các
cán bộ, công chức mà còn liên quan tới việc tổng hợp năng lực của cán bộ, công
chức để biến chúng thành năng lực tập thể của tổ chức [21].
Như vậy, khi xét trong thực thi pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính,
yếu tố năng lực của cán bộ, công chức giữ vai trò vô cùng quan trọng trong suốt quá
trình giải quyết khiếu nại hành chính. Yếu tố năng lực của cán bộ công chức tác
động ngay từ bước tiếp công dân cho đến khi thực hiện quyết định giải quyết khiếu
nại có hiệu lực pháp luật. Nếu năng lực cán bộ, công chức đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn công việc sẽ góp phần tích cực đối với việc thực thi pháp luật giải quyết
khiếu nại hành chính, ngược lại sẽ tác động tiêu cực kết việc thực thi pháp luật giải
quyết khiếu nại hành chính.
40
Kết luận chương 1
Như vậy, tại chương 1, Luận văn này đã trình bày được khái niệm, đặc điểm
của khiếu nại; khái niệm, đặc điểm của khiếu nại hành chính; khái niệm, đặc điểm
của GQKN hành chính; các nguyên tắc và thẩm quyền GQKN hành chính; thủ tục
GQKN hành chính; thời hiệu và thời gian GQKN hành chính; và quyền, nghĩa vụ
các bên trong GQKN hành chính; khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật về
giải quyết khiếu nại hành chính Đồng thời, nghiên cứu này cũng đã nêu lên được
các yếu tố tác động đến kết quả GQKN hành chính, cụ thể là (i) yếu tố tiếp nhận
khiếu nại, (ii) yếu tố thụ lý giải quyết khiếu nại, (iii) yếu tố đối thoại và xác minh
nội dung khiếu nại, (iv) yếu tố ra quyết định giải quyết khiếu nại, (v) yếu tố thực
hiện quyết định giải quyết khiếu nại, (vi) ý thức trách nhiệm của các bên liên quan,
và (vii) năng lực của người thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính.
Tiếp theo chương 2, nghiên cứu này sẽ tập trung vào đánh giá thực trạng thực tiễn
pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính tại Tp. Tuy Hòa.
41
Chương 2:
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ TUY HÒA
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình khiếu nại hành chính ở thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
2.1.1. Đặc điểm chung về kinh tế - xã hội
Thành phố Tuy Hòa có diện tích tự nhiên khoảng 107,3km2, dân số khoảng
202.030 người và 16 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 12 phường, 04 xã). Thành
phố giáp huyện Tuy An ở phía Bắc, giáp huyện Phú Hòa và Sơn Hòa ở phía Tây,
giáp huyện Đông Hòa ở phía Nam và giáp biển Đông ở phía Đông. Các tuyến giao
thông huyết mạch Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, Quốc lộ 25, ĐT 645 nối liền
thành phố Tuy Hòa với các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, khu vực Tây Nguyên,
Bắc Bộ và Nam Bộ, tạo mối quan hệ kinh tế - xã hội bền chặt giữa thành phố với
các tỉnh, thành phố trong khu vực trên cả nước. Cách trung tâm thành phố Tuy Hòa
05km về phía Nam, cảng hàng không Tuy Hòa với quy mô hiện đại được xây dựng trên diện tích gần 40.000m2, khai thác 02 đường bay: thành phố Hồ Chí Minh – Tuy
Hòa – thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội – Tuy Hòa – Hà Nội, công suất hoạt động
đạt khoảng 100.00 khách/năm… đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội thành phố Tuy Hòa nói riêng, tỉnh Phú Yên nói chung [47].
Về phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân 5 năm
đạt 14,79%/năm, tỉ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng tăng, tỉ
trọng ngành nông nghiệp giảm đúng định hướng Nghị quyết Đại hội XIV đề ra.
Thương mại - dịch vụ tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 17,95%, nâng tỉ
trọng ngành thương mại - dịch vụ đến năm 2015 lên 51,1% trong cơ cấu GRDP.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt gần 10.000 tỉ đồng, tăng hơn 2 lần so
với năm 2010. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định năm 1994) bình quân 5
năm đạt hơn 2.000 tỉ đồng, tăng 12,7%/năm. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu
tư mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ,
ngày càng phát triển đa dạng về chủng loại, chất lượng được nâng cao. Giá trị sản
42
xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng năm đạt 305,8 tỉ đồng (giá cố định năm 1994), tốc
độ tăng trưởng bình quân hơn 1,5%/năm, đến năm 2015 tỉ trọng ngành nông, lâm,
ngư nghiệp chiếm 4,2% trong cơ cấu GRDP [9].
Kinh tế thủy sản tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển cả về năng lực
đánh bắt sản lượng khai thác và chế biến. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách của
Nhà nước hỗ trợ cho ngư dân, góp phần giúp ngư dân bám biển sản xuất, kết hợp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
mang lại hiệu quả khá. Tổng vốn đầu tư đạt trên 40 tỉ đồng; đã thi công hoàn thành
552 tuyến với chiều dài hơn 65km đường giao thông nông thôn, trong đó nhân dân tự nguyện đóng góp hàng trăm ngày công và hiến hơn 1.450m2 đất để làm đường
giao thông; có 49% dân số vùng nông thôn được hưởng BHYT. Đến nay, xã Bình
Kiến được UBND tỉnh công nhận là xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới.
Tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 9,8%. Các thành phần kinh tế
trên địa bàn thành phố ngày càng phát triển mạnh, nhất là kinh tế tư nhân. Thành
phố chú trọng việc xây dựng cơ bản, quản lý đô thị, tài nguyên, môi trường. Nhiều
dự án của tỉnh được đầu tư xây dựng trên địa bàn đã tạo điểm nhấn kiến trúc đô thị
Tuy Hòa. Các công trình do thành phố làm chủ đầu tư, đưa vào sử dụng đạt hiệu
quả với tổng vốn đầu tư hơn 382 tỉ đồng, tăng 23,6% so nhiệm kỳ trước. Đã hoàn
thành các quy hoạch tổng thể làm cơ sở định hướng cho việc đầu tư phát triển các
khu chức năng của đô thị và triển khai các dự án theo quy hoạch xây dựng.
Về văn hóa - xã hội, chất lượng dạy và học của ngành GD-ĐT ngày càng
được nâng lên; các trường học trên địa bàn đều ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học và quản lý giáo dục. Hầu hết các trường THPT, THCS đã được tầng hóa, cơ
sở vật chất, trang thiết bị trường học cơ bản đáp ứng được nhu cầu dạy và học; cảnh
quan môi trường sư phạm ngày càng khang trang, sạch đẹp. Công tác xã hội hóa
giáo dục, khuyến học, khuyến tài được chú trọng đẩy mạnh, góp phần tích cực vào
sự phát triển giáo dục và đào tạo của thành phố [9].
43
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Cuối năm 2014, thành phố có 90% hộ đạt danh hiệu “gia
đình văn hóa”; 90,22% thôn, khu phố văn hóa; 56,25% phường, xã văn hóa và
94,74% cơ quan, doanh nghiệp văn hóa. Trong lĩnh vực y tế, chất lượng khám, chữa
bệnh cho nhân dân ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5
tuổi giảm hàng năm, hiện còn 7,1% và đang ở mức thấp nhất trong toàn tỉnh; tỉ lệ
tăng dân số tự nhiên còn 1,06%; mức giảm sinh bình quân đạt 0,260/00. Hàng năm,
giải quyết việc làm mới cho trên 4.593 lao động, số lao động qua đào tạo chiếm
47% (năm 2010 là 36%), đào tạo nghề trên 8.200 người, trong đó đào tạo nghề cho
lao động nông thôn 600 người/năm. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội
cho các đối tượng chính sách, xã hội luôn được quan tâm kịp thời, đúng mức.
2.1.2. Tình hình khiếu nại hành chính tại thành phố Tuy Hòa thời gian qua
Thời gian qua, thành phố Tuy Hòa đã triển khai thực hiện nhiều công trình,
dự án xây dựng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, đòi hỏi
phải tiến hành thu hồi đất, đền bù, hỗ trợ, tái định cư; bên cạnh đó tình hình tranh
chấp, lấn, chiếm đất đai đất vẫn tiếp tục diễn ra; công tác quản lý nhà nước về đất
đai có nơi, có lúc còn hạn chế, yếu kém, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ,
công chức làm công tác tiếp công dân và giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
chưa cao, gây phiền hà cho công dân…đã phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo của công
dân đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính và các hành vi vi phạm
pháp luật. Nội dung khiếu nại, tố cáo chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; giải quyết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không thỏa
đáng; lấn chiếm đất đai; tranh chấp quyền sử dụng đất, ranh giới liền kề, lối đi và
hành vi của cán bộ, công chức, viên chức trong khi thi hành nhiệm vụ.
Từ năm 2013 đến năm 2016, UBND Tp Tuy Hòa đã tiếp nhận 117 đơn khiếu
nại, trong đó, có 84 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Tp Tuy
Hòa, được chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa ban hành 84 quyết định thụ lý xác minh
thuộc 09 loại hình khiếu nại, cụ thể như sau:
44
Bảng 2.1: Tổng hợp Đơn khiếu nại thuộc thầm quyền giải quyết của UBND Tp
Tuy Hòa (2013 – 2016)
TT Loại đơn khiếu nại Số lƣợng Tỷ lệ %
1 Đền bù, giải tỏa không thỏa đáng khi thu hồi đất đai 60 71,43
2 Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 05 5,95
3 HVHC của UBND phường và Đoàn kiểm tra 02 2,38
4 Quyết định GQKN lần đầu 06 7,14
5 Đòi lại đất, khiếu nại quyết định thu hồi đất 05 5,95
6 Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02 2,38
7 Quyết định thu hồi quyết định giao đất 01 1,19
8 Quyết định bán quyền sử dụng đất không thông qua đấu giá 02 2,38
9 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 01 1,19
100,00 Tổng cộng 84
Nguồn: UBND Tp Tuy Hòa [62]
Trong 09 loại hình khiếu nại nêu trên, thì Đơn khiếu nại về đền bù, giải tỏa
không thỏa đáng khi thu hồi đất đai chiếm số lượng lớn nhất, với 60 đơn, chiếm tỷ
lệ 71,43%, còn lại 28,17% thuộc 08 loại hình khiếu nại khác. Trong đó,05 khiếu nại
(5,95%) về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 02 khiếu nại (2,38%) về HVHC
của UBND phường và đoàn kiểm tra, 06 khiếu nại (7,14%) về quyết định GQKN
lần đầu, 05 khiếu nại (5,95%) về đòi lại đất và khiếu nại quyết định thu hồi đất, 02
khiếu nại (2,38%) về quyết định về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01
khiếu nại (1,19%) về quyết định thu hồi quyết định giao đất, 02 khiếu nại (2,38%)
về quyết định bán quyền sử dụng đất không thông qua đấu giá, và 01 khiếu nại
(1,19%) về quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
45
Hình 2.1: So sánh số đơn khiếu nại về lĩnh vực đất đai so với các lĩnh vực khác
Nguồn: UBND Tp Tuy Hòa [62]
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính tại
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
2.2.1. Công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy, chính quyền thành phố trong giải
quyết khiếu nại hành chính
Để hoạt động tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt được hiệu quả cao,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 26/5/2014, Bộ Chính trị đã
ban hành Chỉ thị số: 35/CT-TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Chỉ thị số 35/CT-TW nêu rõ “Quán
triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng
và nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Phát huy trách
nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; lấy hiệu quả
của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo làm tiêu chí đánh giá năng lực,
kết quả công tác; Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và
tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thông nghiệp
vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân hiểu và chấp hành
đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy mạnh ứng dụng công
46
nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo đảm thuận lợi cho công dân và
cán bộ, công chức tiếp công dân”[1].
Theo đó, Ban thường vụ tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành Công văn số 572-
CV/TU, ngày 20/8/2014 chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xác định là nhiệm vụ chính trị, trọng tâm thường
xuyên, lấy hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo làm tiêu
chí đánh giá năng lực, kết quả công tác [44]. Đồng thời, BTV tỉnh ủy Phú Yên cũng
đã ban hành Kế hoạch số: 89-KH/TU, ngày 25/9/2014 về “Theo dõi, đôn đốc việc
thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TW, ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Chỉ thị số
35/CT-TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” [45].
Trên cơ sở chỉ đạo của BTV Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Yên đã ban hành
nhiều văn bản cụ thể hóa về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
triển khai thực hiện Luật tiếp công dân. Cụ thể là Công văn số 91/UBND-NC, ngày
10/9/2014 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị 35-CT/TW của Bộ Chính trị; Kế
hoạch số 116/KH-UBND, ngày 08/10/2014 về triển khai thực hiện Luật tiếp công
dân; Công văn số 5489/UBND-NC, ngày 25/12/2014 về việc triển khai thực hiện
một số nội dung liên quan đến Luật tiếp công dân năm 2014; Quyết định số
1412/QĐ-UBND, ngày 03/09/2014 về Kế hoạch thực hiện Đề án “Tiếp tục tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị
trấn giai đoạn 2013-2016” trên địa bàn tỉnh [46].
Trên cơ sở các chỉ đạo của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Phú Yên, UBND tỉnh Phú
Yên và Thành ủy Tuy Hòa, UBND thành phố Tuy Hoà đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo Thủ trưởng các phòng, ban, Chủ tịch UBND phường, xã tổ chức thực hiện chức
trách, nhiệm vụ theo Luật quy định; gắn công tác tiếp dân với giải quyết khiếu nại,
tố cáo; phối hợp chặt chẽ, thống nhất với các hội đoàn thể làm tốt công tác tuyên
truyền, giải thích, vận động quần chúng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
47
hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo [62], được thể hiện qua
các văn bản sau:
i) Kế hoạch số 2118/KH-UBND ngày 08/10/2012 về công tác tuyên truyền
Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo;
ii) Kế hoạch số 3346/KH-UBND ngày 13/11/2013 về kiểm tra, rà soát, giải
quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài theo Kế hoạch
số 98/KH-UBND ngày 18/10/2013 của UBND tỉnh Phú Yên;
iii) Kế hoạch số 3620/KH-UBND ngày 08/10/2014 về triển khai thực hiện Đề án
"Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố
cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016" trên địa bàn thành phố
Tuy Hòa trên cơ sở Quyết định số 1412/QĐ-UBND ngày 03/9/2014 của
UBND tỉnh Phú Yên;
iv) Kế hoạch số 4386/KH-UBND ngày 17/11/2014 về thực hiện Kế hoạch số
82-KH/TU ngày 02/10/2014 của Thành ủy Tuy Hòa về việc theo dõi, đôn
đốc thực hiện Chỉ thị số 35-KH/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo;
v) Kế hoạch số 19/KH-UBND ngày 29/01/2016 về triển khai thực hiện Đề án
“Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố
cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016” trong năm 2016 trên địa
bàn thành phố Tuy Hòa.
2.2.2.. Đánh giá việc xây dựng khung pháp lý trong giải quyết khiếu nại hành
chính
Luật khiếu nại 2011 có hiệu lực từ ngày 01/7/2012, Chỉ thị số 14/CT-TTg
ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ “Về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo” [42] và Kế hoạch số 1130/KH-
TTCP ngày 10/5/2012 của Thanh tra Chính phủ về “Kiểm tra, ra soát, giải quyết
các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài” [39], UBND Tp Tuy Hòa
đã giao Thanh tra Tp Tuy Hòa thường xuyên rà soát các vụ việc khiếu nại tồn đọng,
48
kéo dài để tham mưu cho UBND Tp Tuy Hòa giải quyết, kết quả là thành phố Tuy
Hòa không có những vụ việc khiếu nại tồn đọng, phức tạp, kéo dài [59]. Tuy nhiên,
kết quả GQKN của UBND thành phố cũng cho thấy, trong 06 tháng cuối năm 2012
có đến 15 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Tp Tuy Hòa, Chủ
tịch UBND Tp Tuy Hòa đã ban hành 06 quyết định GQKN (05 trường hợp khiếu
nại sai, 01 trường hợp khiếu nại có đúng có sai), ra quyết định đình chỉ xác minh 09
đơn khiếu nại (người khiếu nại có đơn xin rút nội dung khiếu nại) [59]. Kết quả giải
quyết khiếu nại 06 tháng cuối năm còn cho biết hoạt động tiếp nhận đơn khiếu nại
của người dân và quá trình GQKN của UBND Tp Tuy Hòa luôn bảo đảm các thủ
tục, đúng thời hạn, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của các bên, không để xảy ra
trường hợp kéo dài, hoặc làm sai quy trình, thủ tục.
Từ khi Luật tiếp công dân 2013 được ban hành, có hiệu lực từ ngày
01/7/2014, UBND Tp Tuy Hòa đã ban hành Quyết định số 5768/QĐ-UBND về việc
thành lập Ban tiếp công dân Tp Tuy Hòa và Quyết định số 5569/QĐ-UBND về việc
ban hành nội quy tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân Tp Tuy Hòa. Đồng thời,
UBND Tp Tuy Hòa đã chỉ đạo Thủ trưởng các phòng, ban trực thuộc UBND Tp
Tuy Hòa và Chủ tịch UBND các xã, phường bố trí nơi tiếp công dân tại trụ sở, phân
công cán bộ và công chức có trình độ, phẩm chất đạo đức phụ trách tiếp công dân,
xử lý đơn khiếu nại và giải quyết khiếu nại cho công dân. Nhờ đó, mà các khiếu nại
của công dân được giải quyết kịp thời, đảm bảo về thủ tục hành chính, bảo đảm các
quyền và nghĩa vụ của công dân trong suốt quá trình khiếu nại. Đối với những khiếu
nại không thuộc thẩm quyền giải quyết, cán bộ, công chức đã hướng dẫn cho công
dân thực hiện đúng nơi và đúng quy trình, thủ tục.
Do phần lớn các khiếu nại phát sinh ở UBND Tp Tuy Hòa có liên quan đến
lĩnh vực đất đai, nên UBND Tp Tuy Hòa đã kịp thời ban hành Quyết định số
02/2014/QĐ-UBND ngày 06/10/2014 về “Quy định về trình tự, thủ tục hòa giải đất
đai tại UBND phường, xã và giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa” [52]. Quy định này là cơ sở pháp lý để các phòng,
ban và UBND phường, xã làm căn cứ hòa giải tranh chấp đất đai của công dân; làm
49
rõ trách nhiệm của các cấp, ngành trong việc giải quyết những khiếu nại của công
dân, bảo đảm quyền và lợi ích của công dân. Chính nhờ những quy định về hòa giải
tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai thuộc Chủ tịch UBND Tp Tuy
Hòa đã giúp cho việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai được ngày càng
hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, vẫn có một quyết định GQKN của Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa
trong lĩnh vực đất đai chưa làm thỏa đáng người khiếu nại, kết quả người khiếu nại
đã khởi kiện lên Tòa án Nhân dân thành phố Tuy Hòa. Đó là trường hợp “Ông Đỗ
Chiếm ở Phước Hậu 2, phường 9, Tp Tuy Hòa đã khởi kiện Quyết định số
3813/QĐ-UBND ngày 30/8/2013 của Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa về việc chi trả
tiền bồi thường, hỗ trợ đối với Dự án Đường Nguyễn Hữu Thọ, giai đoạn 1. Qua
bản ánh hành chính sơ thẩm số 05/2014/HCST ngày 23/9/2014 của Tòa án Nhân
dân Tp Tuy Hòa, Ông Đỗ Chiếm tiếp tục kháng cáo và được Tòa án Nhân dân tỉnh
Phú Yên thụ lý, xét xử; kết quả sửa một phần bản án hành chính sơ thẩm số
05/2014/HCST ngày 23/9/2014 của Tòa án Nhân dân Tp Tuy Hòa, chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của Ông Đỗ Chiếm, hủy Quyết định số 3813/QĐ-UBND ngày
30/8/2013 của UBND Tp Tuy Hòa về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ đối với Dự
án Đường Nguyễn Hữu Thọ, giai đoạn 1; kết quả UBND Tp Tuy Hòa đã thực hiện
bản án” [59]. Điều này cho thấy vẫn còn sai sót trong quá trình giải quyết khiếu nại
đối với lĩnh vực đất đai, chưa làm thỏa mãn người khiếu nại, dẫn đến sự việc phải
đưa ra Tòa án Nhân dân Tp Tuy Hòa, rồi lên đến Tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên thì
vụ việc mới giải quyết xong.
Đối với các quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật, tính đến cuối năm
2015, UBND Tp Tuy Hòa còn 08 quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật nhưng
chưa được giải quyết xong, cả 08 quyết định GQKN này đều thuộc lĩnh vực đất đai.
Trong đó, có 04 quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật nhưng người khiếu nại vẫn
chưa chịu nhận tiền đền bù và 04 quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật đang
được lập phương án đền bù, hỗ trợ [59].
50
a) 04 trường hợp UBND Tp Tuy Hòa đã phê duyệt Phương án điều chỉnh về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư
phường 9 (giai đoạn 2, đợt 2) và thực hiện chi trả nhưng hộ gia đình vẫn không
đồng ý nhận tiền, cụ thể như sau:
Trường hợp ông Đặng Khế - Khu phố Liên Trì, phường 9: Quyết định
GQKN lần đầu của Chủ tịnh UBND Tp Tuy Hòa số 2102/QĐ-UBND
ngày 03/3/2014, chỉ công nhận đối với nội dung yêu cầu tính lại giá trị
bồi thường cây mai vàng, cây sứ, yêu cầu bồi thường phần diện tích đất 141,1m2 chênh lệch giữa hồ sơ quản lý đất đai và đo đạc thực tế; được
Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên công nhận tại Quyết định GQKN lần hai số
1839/QĐ-UBND ngày 10/11/2014. Theo đó, hộ Ông Đặng Khế được bồi thường, hỗ trợ thêm 7.913.000đ, trong đó: bồi thường 141,1m2 đất với số
tiền 7.760.000đ, hỗ trợ di dời chậu cảnh 153.000đ (tại Quyết định số
3390/QĐ-UBND ngày 26/6/2014 của UBND Tp Tuy Hòa về việc phê
duyệt Phương án điều chỉnh về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực
hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường 9, giai đoạn 2, đợt 2).
Trường hợp Bà Đặng Thị Việt Hà – Khu phố Liên Trì, phường 9: Quyết
định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa số 73/QĐ-UBND
ngày 09/01/2015, chỉ công nhận một phần nội dung khiếu nại về bồi
thường khối lượng vật kiến trúc; được Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên
công nhận tại Quyết định GQKN lần hai số 831/QĐ-UBND ngày
14/5/2015. Theo đó, bộ Bà Đặng Thị Việt Hà được bồi thường, hỗ trợ
thêm về vật kiến trúc với số tiền 2.578.620đ (tại Quyết định số 3043/QĐ-
UBND ngày 11/5/2015 của UBND Tp Tuy Hòa về việc phê duyệt
Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện Dự án Hạ tầng
kỹ thuật khu tái định cư phường 9, phương án bổ sung).
Trường hợp Ông Lê Đức Thắng – Khu phố Liên Trì, phường 9: Quyết
định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND thành phố số 5302/QĐ-UBND
ngày 26/9/2014, chỉ công nhận một phần nội dung khiếu nại về giá trị bồi
51
thường khối lượng vật kiến trúc; được Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên
công nhận tại Quyết định GQKN lần hai số 127/QĐ-UBND ngày
23/01/0215. Theo đó, hộ Ông Lê Đức Thắng được bồi thường, hỗ trợ
thêm vật kiến trúc với số tiền 4.453.620đ (tại Quyết định số 3043/QĐ-
UBND ngày 11/5/2015 của UBND Tp Tuy Hòa về việc phê duyệt
Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện Dự án Hạ tầng
kỹ thuật khu tái định cư phường 9, phương án bổ sung).
Trường hợp Ông Lê Đức Nhàn – Khu phố Liên Trì, phường 9: Quyết
định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND thành phố số 4839/QĐ-UBND
ngày 22/8/2014, công nhận một phần nội dung khiếu nại về giá trị bồi
thường khối lượng vật kiến trúc (do xác định sai vị trí xây dựng nhà ở đã
bị lập Biên bản vi phạm hành chính). Theo đó, hộ Ông Lê Đức Nhàn
được bồi thường, hỗ trợ thêm vật kiến trúc với số tiền 162.819.881đ (tại
Quyết định số 3043/QĐ-UBND ngày 11/5/2015 của UBND Tp Tuy Hòa
về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực
hiện Dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường 9, phương án bổ
sung).
Theo Điều 44, Luật Khiếu nại 2011, Quyết định GQKN lần đầu có hiệu lực
pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại không khiếu nại lần
2, Quyết định GQKN lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành
(khoản 1 và 2, [33]); Điều 15, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP cũng quy định rõ
“Người khiếu nại có trách nhiệm chấp hành các quyết định của cơ quan có thẩm
quyền để thực hiện quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật” (khoản 3, [4]). Xét cả
04 trường hợp quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật, UBND Tp Tuy Hòa đã thực
hiện chi trả nhưng cả 04 hộ dân đều không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, nghĩa là
người khiếu nại chưa chấp hành quyết định GQKN của cơ quan có thẩm quyền;
đồng thời, cũng cho thấy phương án giải quyết là chưa thỏa mãn người khiếu nại; và
UBND Tp Tuy Hòa cũng chưa có biện pháp để quyết định GQKN có hiệu lực pháp
luật được thi hành hoàn tất.
52
Điều 44, Luật khiếu nại 2011 cũng nêu rõ “Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý với quyết định GQKN thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án theo quy định của Luật tố tụng hành chính” (khoản 3, [33]). Tuy nhiên, cả 04
trường hợp chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ nêu trên vẫn không thực hiện khoản 3,
Điều 44, Luật Khiếu nại để khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân Tp Tuy
Hòa. Đây là điều bất cập trong quá trình GQKN và thực thi quyết định GQKN có
hiệu lực pháp luật.
b) 04 trường hợp UBND Tp Tuy Hòa đang thực hiện, Trung tâm Phát triển
quỹ đất Tp Tuy Hòa đang lập Phương án đền bù, hỗ trợ và tái định cư (phương án
bổ sung), cụ thể như sau:
Trường hợp Ông Lê An – khu phố Liên Trì, Phường 9: Quyết định
GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa số 4574/QĐ-UBND
ngày 16/9/2015, công nhận đối với nội dung hộ Ông Lê An đề nghị xem
xét lại việc bồi thường cây trồng.
Trường hợp Bà Nguyễn Thị Mộng Huyền - 343 Nguyễn Huệ, phường 5:
Quyết định GQKN lần đầu số 2519/QĐ-UBND ngày 06/5/2015 của Chủ
tịch UBND Tp Tuy Hòa, công nhận đối với nội dung đề nghị bồi thường 46,59m2 đất.
Trường hợp Ông Ngô Văn Mậu - Khu phố Chu Văn An, phường 5: Quyết
định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND thành phố số 5788/QĐ-UBND
ngày 20/11/2014, công nhận đối với nội dung đề nghị giao thêm 01 lô đất
tái định cư cho ông Ngô Trường Hoạng (con ông Ngô Văn Mậu). Quyết
định GQKN lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên số 325/QĐ-UBND
ngày 13/2/0215, công nhận Quyết định GQKN lần đầu của Chủ tịch
UBND thành phố.
Trường hợp Bà Đỗ Thị Diệu Hiền – 339 Nguyễn Huệ, phường 5: Quyết
định GQKN lần đầu số 178/QĐ-UBND ngày 19/1/2015 của Chủ tịch
UBND Tp Tuy Hòa, công nhận đối với nội dung đề nghị bồi thường 5,16m2 đất do sai số đo đạc.
53
Căn cứ vào thời gian ra quyết định GQKN của UBND Tp Tuy Hòa cho đến
thời điểm hoàn thành việc lập phương án đền bù, hỗ trợ của Trung tâm phát triển
quỹ đất Tp Tuy Hòa là quá lâu. Cụ thể như trường hợp của Bà Đỗ Thị Diệu Hiền,
với quyết định GQKN ban hành ngày 19/01/2015 nhưng đến cuối năm 2015 vẫn
chưa có phương án đền bù, hỗ trợ là quá lâu, mất đến hơn 11 tháng để giải quyết;
trường hợp của Ông Ngô Văn Mậu là hơn 10 tháng, tính từ ngày Chủ tịnh UBND
tỉnh Phú Yên ban hành quyết định GQKN lần hai vào ngày 13/2/2015; trường hợp
của Bà Nguyễn Thị Mộng Huyền là hơn 7 tháng, tính từ ngày Chủ tịch UBND Tp
Tuy Hòa ra quyết định GQKN lần đầu vào ngày 06/5/2015. Đây cũng là điều bất
cập trong quá trình giải quyết khiếu nại đối với lĩnh vực đất đai.
2.2.3. Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại hành chính tại thành phố Tuy
Hòa từ năm 2013 đến nay
2.2.3.1.Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính năm 2013
Tiếp nhận và xử lý đơn thƣ khiếu nại
Năm 2013, UBND thành phố: tiếp nhận 123 đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị của công dân, giảm 8,8% so với cùng kỳ; đã xử lý 123 đơn, đạt tỉ lệ
100%; trong đó 22 đơn đủ điều kiện thụ lý giải quyết theo thẩm quyền, với 04 đơn
tranh chấp đất đai, 01 đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của công chức và 17
đơn khiếu nại, gồm có (i) 14 đơn khiếu nại Quyết định hành chính liên quan đến
lĩnh vực đất đai; (ii) 01 đơn khiếu nại HVHC; và (iii) 02 đơn khiếu nại Quyết định
giải quyết đơn khiếu nại của Chủ tịch UBND phường) [51].
Số đơn còn lại (101 đơn), UBND thành phố Tuy Hòa giao các cơ quan
chuyên môn kiểm tra, tham mưu cho UBND thành phố giải quyết và trả lời đơn cho
công dân. Đối với đơn thuộc trách nhiệm giải quyết của các phòng ban, phường xã,
thì sau khi tiếp nhận UBND thành phố có văn bản chỉ đạo giải quyết theo thẩm
quyền và báo cáo kết quả giải quyết cho UBND thành phố.
Đối với các phòng, ban trực thuộc UBND Tp Tuy Hòa: tiếp nhận và xử lý 86
đơn kiến nghị, phản ảnh đạt 100%, đã kịp thời hướng dẫn công dân gởi đơn đến cơ
quan có thẩm quyền để được giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo.
54
Đối với UBND phường, xã: đã tiếp nhận 234 đơn, tăng 32,2% so với cùng
kỳ năm trước; đã xử lý 234 đơn, đạt tỷ lệ 100%; trong đó có 209 đơn thuộc thẩm
quyền giải quyết.
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại
Đối với thành phố: trong tổng số 17 đơn khiếu nại, UBND Tp Tuy Hòa đã ra
quyết định giải quyết 13 đơn khiếu nại, 01 đơn khiếu nại đang giải quyết, còn lại 03
đơn khiếu nại có vướng mắc về công nhận thời điểm sử dụng đất, sự chênh lệch
diện tích giữa các loại giấy tờ (giấy CNQSD đất, giấy tờ mua bán, Sổ địa chính, bản
đồ và hiện trạng sử dụng đất); UBND thành phố đã có Tờ trình số 1300/TTr-
UBND, 1303/TTr-UBND ngày 05/6/2013 xin ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Phú
Yên, Sở Tài nguyên & Môi trường để có cơ sở giải quyết.
Đối với UBND các phường, xã: Đã ra quyết định thụ lý 11 đơn khiếu nại và
tiến hành kiểm tra, tổ chức hòa giải 195 đơn tranh chấp đất đai, phản ảnh vệ sinh
môi trường, lĩnh vực tư pháp. Kết quả đã giải quyết 09 đơn khiếu nại, tổ chức hòa
giải 181 đơn, còn lại 02 đơn khiếu nại và 14 trường hợp hòa giải đang tiếp tục xác
minh giải quyết [51].
2.2.3.2.Thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính năm 2014
Tiếp nhận và xử lý đơn thƣ khiếu nại
Đối với UBND thành phố: Tiếp nhận 485 đơn; qua xử lý, phân loại có 398
đơn không thuộc thẩm quyền và 87 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, với 01 đơn
tranh chấp đất đai; 05 đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức;
61 đơn kiến nghị và 20 đơn khiếu nại QĐHC của UBND thành phố đủ điều kiện thụ
lý theo quy định của Luật Khiếu nại, trong đó: 01 đơn khiếu nại Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND thành phố, 02 đơn khiếu nại Công văn trả
lời của UBND thành phố về việc cấp giấy CNQSD đất, 01 đơn khiếu nại Công văn
trả lời của UBND thành phố về việc không bồi thường đất bị thu hồi, 01 đơn khiếu
nại Quyết định thu hồi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 đơn
khiếu nại Quyết định giao đất bổ sung có thu tiền sử dụng đất, 02 đơn khiếu nại
Quyết định thu hồi đất, 12 đơn khiếu nại Quyết định phê duyệt giá trị bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ 1A, khu tái
định cư Phường 9 (giai đoạn 2) [58].
55
Đối với đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND thành phố nhưng
thuộc trách nhiệm giải quyết của các phòng ban, phường xã thì UBND thành phố đã có
văn bản chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền và báo cáo kết quả cho UBND thành phố.
Đối với các phòng, ban thuộc UBND thành phố: Tiếp nhận 107 đơn, trong đó:
i) Phòng Quản lý đô thị thành phố tiếp nhận 42 đơn, qua xử lý có 01 đơn
khiếu nại thuộc thẩm quyền, đủ điều kiện thụ lý theo quy định của
Luật Khiếu nại (trường hợp bà Hồ Thị Thanh Sương, khiếu nại hành
vi hành chính của Trưởng phòng Quản lý đô thị), 21 đơn phản ánh, 13
đơn kiến nghị liên quan đến lĩnh vực trật tự xây dựng đô thị thuộc
thẩm quyền và 07 đơn không thuộc thẩm quyền;
ii) Thanh tra thành phố tiếp nhận 18 đơn khiếu nại, kiến nghị không
thuộc thẩm quyền;
iii) Phòng Tài nguyên & Môi trường thành phố tiếp nhận 01 đơn khiếu
nại, 46 đơn phản ánh, kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết.
Đối với UBND các phường, xã: Tiếp nhận 190 đơn, qua phân loại, xử
lý có 09 đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết, 181 đơn thuộc thẩm quyền
giải quyết, gồm: 03 đơn khiếu nại HVHC, 01 đơn tố cáo, 77 đơn tranh chấp
đất đai, 26 đơn phản ảnh lĩnh vực môi trường và 74 đơn yêu cầu giải quyết,
kiến nghị khác.
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại
Đối với UBND thành phố: trong số 87 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, có
26 đơn đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Đất
đai và 61 đơn kiến nghị, phản ánh. Chủ tịch UBND thành phố đã ra quyết định thụ
lý 05 đơn tố cáo, 01 đơn tranh chấp đất đai và 20 đơn khiếu nại. Kết quả giải quyết
đơn khiếu nại cho biết, UBND thành phố đã ra Quyết định giải quyết 13 đơn (trong
đó không công nhận nội dung khiếu nại: 11 đơn; công nhận một phần nội dung
khiếu nại: 02 đơn); ra Quyết định đình chỉ xác minh 03 đơn (lý do: người khiếu nại
có đơn xin rút đơn khiếu nại); còn lại 04 đơn khiếu nại đã có báo cáo kết quả xác
minh, đang xem xét ban hành Quyết định giải quyết [58].
Đối với phòng ban thuộc UBND thành phố: (i) Trưởng phòng Quản lý đô thị
thành phố ra Quyết định thụ lý 01 đơn khiếu nại của bà Hồ Thị Thanh Sương – Phường
56
1, đã ban hành Quyết định giải quyết (không công nhận nội dung khiếu nại); và (ii)
Trưởng phòng Tài nguyên & Môi trường thành phố ra Quyết định thụ lý 01 đơn
khiếu nại của bà Nguyễn Thị Minh – phường 4; đã ban hành Quyết định đình chỉ
xác minh (lý do: mời làm việc nhiều lần nhưng bà Minh không đến).
Đối với UBND các phường, xã: Trong 181 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết,
đã tiến hành thụ lý xác minh, kiểm tra, tổ chức hòa giải, giải quyết 158 đơn, gồm:
03 đơn khiếu nại (khiếu nại sai), 01 đơn tố cáo (tố cáo đúng), 66 đơn tranh chấp đất
đai (hòa giải thành 50 đơn, không thành 13 đơn và 03 trường hợp xin rút đơn), 19
đơn phản ảnh lĩnh vực môi trường, 69 đơn phản ánh, kiến nghị khác. Còn 23 đơn
đang tiếp tục giải quyết (gồm: 11 đơn tranh chấp đất đai, 07 đơn phản ánh lĩnh vực
môi trường và 05 đơn phản ảnh, kiến nghị khác).
2.2.3.3.Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính năm 2015
Tiếp nhận và xử lý đơn thƣ khiếu nại
Đối với UBND thành phố: tiếp nhận 158 đơn khiếu nại, phản ánh, kiến nghị.
Qua xử lý, có 85 đơn không thuộc thẩm quyền và 73 đơn thuộc thẩm quyền giải
quyết, gồm có (i) 57 đơn kiến nghị, phản ánh; (ii) 01 đơn tranh chấp đất đai; và 15
đơn khiếu nại. Trong 15 đơn khiếu nại, có 03 đơn khiếu nại Quyết định phê duyệt
giá trị bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ
1A, dự án Trung tâm an điều dưỡng Hải quân và dự án khu tái định cư Phường 9
giai đoạn 2, đợt 2; 01 đơn khiếu nại Quyết định thu hồi, hủy bỏ hiệu lực Quyết định
giao đất tái định cư khi nhà nước thực hiện công trình nâng cấp đường Nguyễn Văn
Cừ; 03 đơn khiếu nại Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND phường
Phú Đông và Phường 2; 03 đơn khiếu nại việc cấp giấy CNQSD đất không đúng
quy định; 04 đơn khiếu nại Công văn trả lời đơn của UBND thành phố và 01 đơn
khiếu nại quy trình lấy mẫu nước thải của Đoàn kiểm tra việc chấp hành Luật Bảo
vệ môi trường [60].
Đối với phòng, ban trực thuộc UBND thành phố: Thanh tra thành phố tiếp
nhận 16 đơn phản ánh, kiến nghị không thuộc thẩm quyền; Phòng Quản lý đô thị
thành phố tiếp nhận 11 đơn khiếu nại, phản ánh, kiến nghị, trong đó có 06 đơn
thuộc thẩm quyền giải quyết; Phòng Tài nguyên & Môi trường thành phố tiếp nhận
43 đơn, qua xử lý có 25 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết; Phòng Giáo dục & Đào
57
tạo thành phố tiếp nhận 11 đơn khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, trong đó có 04 đơn
phản ánh, kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết.
Đối với UBND các phường, xã: tiếp nhận 228 đơn, trong đó có 192 đơn
thuộc thẩm quyền giải quyết, gồm: 04 đơn khiếu nại hành vi hành chính, 02 đơn tố
cáo, 92 đơn tranh chấp đất đai và 94 đơn phản ảnh, kiến nghị khác.
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại
Đối với UBND thành phố: trong 15 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải
quyết, UBND thành phố đã ra quyết định giải quyết 11 đơn (10 trường hợp khiếu
nại sai, 01 trường hợp khiếu nại có đúng, có sai); đình chỉ xác minh 03 đơn (trong
đó, 01 trường hợp do Chủ tịch UBND phường Phú Đông đã ban hành quyết định
thu hồi quyết định bị khiếu nại và 02 trường hợp người khiếu nại có đơn xin rút nội
dung khiếu nại); và 01 đơn khiếu nại đang trong thời gian xác minh [60].
Đối với phòng, ban trực thuộc UBND thành phố: Phòng Quản lý đô thị thành
phố đã giải quyết 06 đơn khiếu nại, phản ánh, kiến nghị; Phòng Tài nguyên & Môi
trường thành phố đã tiến hành kiểm tra, giải quyết 22 đơn khiếu nại, phản ánh, còn
lại 03 đơn đang tiếp tục kiểm tra.
Đối với UBND các phường xã: trong 04 đơn khiếu nại HVHC, UBND
phường, xã đã ban hành quyết định giải quyết 03 đơn khiếu nại (không công nhận
nội dung khiếu nại) và đình chỉ xác minh 01 đơn (lý do: người khiếu nại không tiếp
tục khiếu nại).
2.2.3.4. Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính 06 tháng đầu
năm 2016
Tiếp nhận và xử lý đơn thƣ khiếu nại
Đối với UBND thành phố: tiếp nhận 92 đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến
nghị. Qua xử lý, có 31 đơn không thuộc thẩm quyền và 61 đơn thuộc thẩm quyền
giải quyết, gồm có: 01 đơn tố cáo, 38 đơn phản ánh, kiến nghị và 22 đơn khiếu nại.
Trong 22 đơn khiếu nại, có 01 đơn khiếu nại Quyết định GQKN lần đầu của Chủ
tịch UBND phường Phú Đông, 20 đơn khiếu nại Quyết định phê duyệt giá trị bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thực hiện Dự án Xây dựng Cơ sở 2 -
Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên và Dự án xây dựng vị trí đóng quân Đoàn tên lửa
58
bờ/ Quân chủng Hải quân tại tỉnh Phú Yên và 01 đơn khiếu nại văn bản trả lời của
UBND thành phố [61].
Đối với phòng, ban trực thuộc UBND thành phố: Thanh tra thành phố tiếp
nhận 06 đơn khiếu nại, phản ánh, kiến nghị không thuộc thẩm quyền; Phòng Tư
pháp tiếp nhận 01 đơn kiến nghị không thuộc thẩm quyền; Phòng Tài nguyên &
Môi trường tiếp nhận 54 đơn phản ánh, kiến nghị, trong đó có 13 đơn thuộc thẩm
quyền và 41 đơn không thuộc thẩm quyền; Phòng Giáo dục & Đào tạo tiếp nhận 06
đơn phản ánh, kiến nghị, trong đó có 03 đơn thuộc thẩm quyền và 03 đơn không
thuộc thẩm quyền.
Đối với UBND phường, xã: tiếp nhận 75 đơn, qua phân loại, xử lý có 10 đơn
không thuộc thẩm quyền giải quyết và 65 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, gồm:
01 đơn khiếu nại HVHC, 26 đơn tranh chấp đất đai, 19 đơn phản ảnh lĩnh vực môi
trường và 19 đơn yêu cầu giải quyết, kiến nghị khác.
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại
Đối với UBND thành phố: trong 22 đơn khiếu nại, UBND thành phố đã ra
quyết định đình chỉ xác minh 02 đơn (lý do: Chủ tịch UBND phường Phú Đông đã
ra quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để giải quyết
lại theo đúng trình tự, thủ tục quy định và trường hợp ông Ngô Hồng Được có đơn
xin rút toàn bộ nội dung khiếu nại); Đoàn kiểm tra đang hoàn chỉnh báo cáo kết quả
xác minh đối với 11 đơn khiếu nại của các hộ dân bị ảnh hưởng bởi Dự án Xây
dựng Cơ sở 2 - Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên; còn lại 08 đơn khiếu nại của các hộ
dân bị ảnh hưởng bởi Dự án xây dựng vị trí đóng quân Đoàn tên lửa bờ/ Quân
chủng Hải quân tại tỉnh Phú Yên và 01 đơn khiếu nại văn bản trả lời của UBND
thành phố, đang trong thời gian xác minh [61].
Đối với phòng, ban trực thuộc UBND thành phố: trong 06 tháng đầu năm,
các phòng, ban trực thuộc UBND thành phố không nhận được các đơn khiếu nại
thuộc thẩm quyền giải quyết, hầu hết là các đơn kiến nghị và phản ánh, đã được các
phòng, ban trực thuộc UBND thành phố giải quyết xong.
Đối với UBND phường, xã: trong 06 tháng đầu năm 2016, UBND phường,
xã chỉ nhận được 01 đơn khiếu nại, tuy nhiên thuộc diện đơn khiếu nại sai. Hầu hết
59
các đơn thư tranh chấp đất đai (23/26 đơn tranh chấp đất đai, tiến hành xử lý hòa
giải thành 15 trường hợp, không thành 08 trường hợp); đơn thư phản ánh về môi
trường, đã giải quyết được 17/19 đơn phản ảnh lĩnh vực môi trường.
2.2.3.5.Đánh giá, so sánh kết quả giải quyết đơn khiếu nại qua các năm
Từ năm 2013 đến 06 tháng đầu năm 2016, UBND thành phố đã tiếp nhận 74
đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND thành phố. Qua so sách các
năm cho biết, số đơn khiếu nại của năm 2015 có giảm so với các năm 2013 và năm
2014, nhưng số đơn khiếu nại trong 06 tháng đầu năm 2016 lại tăng đáng kể, từ 15
đơn khiếu nại năm 2015 tăng lên 22 đơn khiếu nại trong 6 tháng đầu năm 2016.
Bảng 2.2: Tổng hợp kết quả giải quyết đơn khiếu nại của UBND Tp Tuy Hòa
Đơn vị Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 6 tháng 2016
Tiếp nhận đơn khiếu nại 17 20 15 22
Đã giải quyết 13 16 14 2
Đang xác minh, giải quyết 4 4 1 20
Nguồn: báo cáo năm của UBND Tp Tuy Hòa [51], [58], [60], [61]
Hình 2.2: Kết quả giải quyết đơn khiếu nại từ 2013 – 2016
Nguồn: báo cáo năm của UBND Tp Tuy Hòa [51], [58], [60].
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại của UBND thành phố qua các năm cũng đã
cho thấy tính tích cực trong quá trình giải quyết đơn khiếu nại của UBND thành
phố, với kết quả giải quyết kịp thời, thỏa đáng cho người dân. Kết quả thống kê cho
60
biết tỷ lệ số đơn khiếu nại được giải quyết qua các năm ngày càng tăng, cụ thể là
năm 2013 với tỷ lệ đạt là 76,47%, đến năm 2014 đạt 80,00%, và năm 2015 tăng lên
là 93,33% số đơn khiếu nại của người dân được giải quyết kịp thời. Tuy nhiên,
trong 37 quyết định GQKN của Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa, có 18 (chiếm
tỷ lệ 48,65%) quyết định GQKN phải được giải quyết lần 2, và Chủ tịch UBND tỉnh
Phú Yên cũng đã công nhận quyết định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND Tp Tuy
Hòa [59], [62].
Hình 2.3: Số đơn khiếu nại chưa được giải quyết trong năm từ 2013 – 2016
Nguồn: báo cáo năm của UBND Tp Tuy Hòa [51], [58], [60].
Kết quả thống kê cho thấy tín hiệu đáng mừng là tỷ lệ số đơn khiếu nại còn
phải giải quyết giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2013 với tỷ lệ là 23,53% đơn
khiếu nại chưa giải quyết xong, thì đến năm 2014 giảm xuống còn 20,00%, và đến
năm 2015 thì chỉ còn 6,67% đơn khiếu nại tồn đọng. Đối với số đơn khiếu nại chưa
được giải quyết trong năm, thì UBND thành phố cũng đã giải quyết trong năm tiếp
theo, không có trường hợp bị kéo dài và chưa giải quyết cho người dân. Một thực tế
trong công tác tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại cho biết, vẫn còn rất nhiều đơn
khiếu nại sai và đơn khiếu nại đúng một phần, cụ thể là từ năm 2013 đến năm 2015
có đến 23 đơn khiếu nại sai và 09 đơn khiếu nại đúng một phần [59]. Điều này cho
thấy, vẫn còn một bộ phận người dân chưa nắm rõ Luật khiếu nại, điều này cũng có
61
nghĩa là công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho người dân vẫn còn những hạn
chế nhất định.
2.2.4. Đánh giá kết quả giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
2.2.4.1. Ưu điểm
Để đạt được những kết quả tích cực về công tác giải quyết khiếu nại hành
chính trên địa bàn thành phố Tuy Hòa là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu
sát của UBND tỉnh, Ban Thường vụ Thành uỷ và giám sát của HĐND thành phố.
Trong nhiều năm qua, UBND thành phố đã lãnh đạo các cơ quan, đơn vị
thực hiện tốt công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại
của công dân thuộc thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật; hiệu lực quản lý
nhà nước về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại được tăng cường; quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân được bảo vệ.
UBND thành phố Tuy Hòa luôn quan tâm đến công tác bồi dưỡng nâng cao
trình độ, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho các Thủ trưởng và công chức phụ
trách công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại.
Thủ trưởng các phòng ban, Chủ tịch UBND các phường, xã đã phát huy chức
trách, thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện tốt công
tác tiếp dân thường xuyên và định kỳ, gắn việc tiếp dân với giải quyết khiếu nại
theo Đề án Đổi mới tiếp công dân.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, các cơ quan, ban, ngành luôn tuân thủ
pháp luật, kết hợp với sự vận dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa
phương, thực hiện tốt việc nắm bắt thông tin, tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với công
dân; có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất của các cơ quan, ban, ngành, hội đoàn thể;
làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích, vận động quần chúng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, không để
phát sinh thành điểm nóng, khiếu nại đông người.
62
2.2.4.2. Tồn tại hạn chế
Song song với những ưu điểm thì luôn tồn tại những hạn chế trong công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại trên địa bàn thành phố Tuy Hòa, cụ thể là:
Thứ nhất, trong giải quyết đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền, có nơi, có lúc
chưa thực hiện đúng tiến độ, dẫn đến việc ban hành quyết định giải quyết chậm so
với thời hạn quy định. Đa số đơn thư khiếu nại của người dân đều thuộc lĩnh vực
đất đai, đặc biệt là trường hợp các hộ dân bị ảnh hưởng bởi 02 dự án Dự án Xây
dựng Cơ sở 2 - Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên và Dự án xây dựng vị trí đóng quân
Đoàn tên lửa bờ/ Quân chủng Hải quân tại tỉnh Phú Yên.
Thứ hai, công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu
nại có phường, xã, phòng, ban trực thuộc UBND thành phố Tuy Hòa chưa thực hiện
theo đúng trình tự quy định.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại tuy được chủ
động triển khai nhưng chưa được thường xuyên, sâu rộng trong quần chúng nhân
dân, dẫn đến thực trạng là có rất nhiều đơn khiếu nại của người dân là sai hoàn toàn,
hoặc có đúng có sai.
Thứ tư, công tác hòa giải cơ sở đối với một số vụ việc tranh chấp ở các
phường, xã còn thiếu sự quan tâm, thực hiện đúng theo trình tự quy định, thiếu sâu
sát ảnh hưởng đến công tác giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ năm, việc triển khai thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu
lực pháp luật chưa nhận được sự đồng tình cao của người dân, số vụ việc khiếu nại đã
có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật vẫn còn tồn đọng, chưa được
thi hành triệt để. Hầu hết các vụ việc này đều liên quan đến lĩnh vực đất đai, trong công
tác bồi thường vẫn còn gặp nhiều bất cập, cụ thể là người dân chưa chịu nhận tiền bồi
thường đúng theo quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
2.2.5. Nguyên nhân của những tồn tại
2.2.5.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, thủ trưởng
cơ quan chưa đúng mức, đầy đủ về công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại. Công
63
tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền tại một số xã, phường về tiếp dân và
giải quyết đơn khiếu nại của người dân chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, biên chế, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức trực tiếp làm
công tác tiếp công dân, tiếp nhận, giải quyết đơn khiếu nại ở một số ban, ngành, xã,
phường còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác.
Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cấp chính quyền và các ngành, đoàn thể
còn nhiều hạn chế, chưa được phối hợp thực hiện thường xuyên, đặc biệt là trong
lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân trong khu vực giải tỏa.
Thứ tư, lực lượng làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, đất đai còn thiếu, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ
tuyên truyền còn nhiều hạn chế, dẫn đến hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, đất đai là không cao.
2.2.5.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, đa số đơn thư khiếu nại đều thuộc về lĩnh vực đất đai, bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho người dân trong khu vực bị giải tỏa, nên việc thẩm định và
lập phương án đề bù mất rất nhiều thời gian trong suốt quá trình giải quyết khiếu
nại. Chính điều này đã làm cho nhiều đơn khiếu nại không được giải quyết đúng
theo quy định của Luật Khiếu nại về thời hạn giải quyết khiếu nại.
Thứ hai, mặc dù quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật
nhưng việc người khiếu nại không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có
hiệu lực pháp luật nhưng vẫn chưa có những quy định cụ thể nào trong vấn đề này,
làm cho sự vụ khiếu nại vẫn được xem như là chưa kết thúc.
Thứ ba, theo quy định của Luật Khiếu nại, thì người khiếu nại được quyền
nhờ đến Luật sư để tư vấn pháp lý hoặc ủy quyền cho Luật sư khiếu nại để bảo đảm
quyền và lợi ích của mình. Nhưng trong thực tế, thì hầu như các đơn thư khiếu nại
của người dân đều không có sự tư vấn pháp lý của Luật sư, chính điều này đã xảy ra
tình trạng người dân khiếu nại sai, hoặc có đúng có sai, đồng thời làm cho việc giải
quyết khiếu nại gặp nhiều khó khăn và ít hiệu quả.
64
Thứ tư, kiến thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, ý thức chấp
hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao, làm cho nhiều sự vụ khiếu nại
không chính xác, cũng như một số quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp
luật chưa được thi hành hoàn thành đúng theo quy định của pháp luật.
65
Kết luận chương 2
Như vậy, ở chương 2, nghiên cứu này đã trình bày được các đặc điểm kinh tế
xã hội ảnh hưởng đến kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính ở
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên; nêu bật lên được kết quả giải quyết khiếu nại
hành chính ở thành phố Tuy Hòa, bao gồm (i) công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng
ủy, chính quyền thành phố trong giải quyết khiếu nại hành chính, (ii) công tác tiếp
dân của bộ phận thực hiện giải quyết khiếu nại hành chính, và (iii) đánh giá được
việc thực hiện những quy định của pháp luật trong giải quyết khiếu nại hành chính ở
thành phố Tuy Hòa; trên cơ sở các đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chính, nghiên cứu này đã nêu lên được những ưu điểm, tồn tại
hạn chế trong việc giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn thành phố Tuy Hòa
và xác định được các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của các tồn
tại hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Tiếp theo chương 3, nghiên cứu này tiến hành xác định
phương hướng và đề ra các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật giải quyết khiếu
nại hành chính.
66
Chương 3:
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính
Để pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính đi vào cuộc sống của người
dân, Luận văn này xác định phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết
khiếu nại hành chính cho những năm tiếp theo, cụ thể như sau:
i) Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về Tiếp công dân, Khiếu nại, Đất đai ở các xã, phường, thị trấn;
đổi mới, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật.
ii) Tiếp tục thực hiện một cách có hiệu quả Chỉ thị số 35/CT-TW của Bộ
Chính trị, ngày 26/5/2014 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” [1].
iii) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức đúng theo tinh thần của Chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 của Chính phủ [3]; Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2011-
2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên
nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân” [10].
iv) Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về “Xây dựng
tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu”[11].
v) Đẩy mạnh vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Ban Thanh tra nhân
dân ở các xã, phường, thị trấn đúng theo tinh thần của Nghị định số
159/2016/NĐ-CP, ngày 29/11/2016 của Chính phủ về “Quy định chi
67
tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức
và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân” [6].
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính
3.2.1. Giải pháp chung
Công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan HCNN và người có thẩm quyền
trong cơ quan HCNN là biện pháp hữu hiệu bảo đảm quyền khiếu nại của công dân
được thực thi trong thực tế. Qua đó, bảo vệ, không phục quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân, duy trì trật tự quản lý hành chính nhà nước. Khiếu nại và giải quyết
khiếu nại đúng pháp luật, kịp thời và hiệu quả sẽ góp phần phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân, cơ quan, tổ chức. Nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về giải quyết khiếu nại hành chính, nghiên cứu này đưa ra một số giải pháp
chung cụ thể như sau:
3.2.1.1. Hoàn thiện thể chế pháp luật
Thứ nhất, thời hạn giải quyết khiếu nại
Thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu: theo quy định của Luật Khiếu nại
2011, thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ
việc phức tạp thì thời gian giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày,
kể từ ngày thụ lý (Điều 28, [33]). Từ khi thụ lý hồ sơ khiếu nại, cơ quan HCNN,
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải tiến hành các bước xác minh nội
dung khiếu nại và tổ chức đối thoại với người khiếu nại, và thời gian thực hiện hai
công đoạn này cũng nằm trong giới hạn thời gian giải quyết khiếu nại nêu tại Điều
28, Luật Khiếu nại.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý;
đối với vụ việc phức tạp thì thời gian giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng
không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý (Điều 37, [33]).
Xét trong trường hợp thực tế của thành phố Tuy Hòa, phần lớn các khiếu nại
đều có liên quan đến lĩnh vực đất đai, bồi thường và giải phóng mặt bằng. Do đó,
nghiên cứu này chỉ đề xuất giải pháp về thời gian giải quyết khiếu nại trong trường
68
hợp liên quan đến lĩnh vực đất đai. Tuy các khiếu nại của người dân đều được
UBND thành phố, các ban, ngành trực thuộc giải quyết cho người dân nhưng thực
tế thì thời gian giải quyết khiếu nại không bảo đảm đúng theo quy định của Luật
Khiếu nại, vì thời gian xác minh nội dung khiếu nại, thời gian lập phương án đền
bù, hỗ trợ và tái định cư chiếm một thời lượng rất dài. Do đó, nghiên cứu này đề
nghị cần phải có văn bản quy định chi tiết về việc giải quyết khiếu nại đối với lĩnh
vực đất đai, thì khi đó mới bảo đảm được tính pháp lý trong quá trình giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của cơ quan HCNN.
Thứ hai, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật
Theo quy định của Luật Khiếu nại 2011, quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại
không khiếu nại lần 2 (khoản 1, Điều 44); quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có
hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành (khoản 2, Điều 44). Trường
hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính
(khoản 3, Điều 44). Luật Khiếu nại cũng nêu rõ: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm chấp hành các
quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền để thi hành quyết định giải quyết
khiếu nại có hiệu lực pháp luật; phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp
luật khi được yêu cầu (khoản 3, Điều 46) [33].
Nghị định số 75/2012/NĐ-CP cũng nêu rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
pháp luật. Trong đó, trách nhiệm của người khiếu nại là chấp hành QĐHC, HVHC
bị khiếu nại nếu QĐHC, HVHC được người có thẩm quyền quyết định là đúng pháp
luật; chấp hành các quyết định của cơ quan có thẩm quyền để thực hiện quyết định
giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật (khoản 2 và 3, Điều 15 [4]).
Tuy nhiên trong thực tế thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
pháp luật trên địa bàn thành phố Tuy Hòa, người khiếu nại không chấp hành quyết
69
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể
là 04 trường hợp khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực
pháp luật của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, nhưng cả 04 người khiếu nại vẫn chưa
chịu nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng, mà cũng không khởi kiện vụ án hành
chính ra Tòa án theo Luật tố tụng hành chính. Do đó, nghiên cứu này đề xuất cần
phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết việc thi hành quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, đặc biệt trong trường hợp người khiếu nại
không thực hiện bất kỳ hành vi nào sau khi quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu
lực pháp luật.
Thứ ba, vai trò của Luật sƣ, trợ giúp viên pháp lý trong quá trình GQKN
Theo Điều 16, Luật Khiếu nại 2011, Luật sư, trợ giúp viên pháp lý có quyền
tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại theo đề nghị của người khiếu nại; thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại khi được ủy quyền; xác minh, thu
thập chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu nại theo yêu cầu của người khiếu nại
và cung cấp chứng cứ cho người giải quyết khiếu nại; nghiên cứu hồ sơ vụ việc, sao
chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu nại để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại [33]. Quy định này đã làm tăng tính
chuyên nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại tiếp cận được vấn đề
mang tính pháp lý rõ ràng hơn và nhanh hơn, đồng thời cũng giúp cho quá trình giải
quyết khiếu nại cũng được thuận lợi hơn và nâng cao hiệu quả của các quyết định
giải quyết khiếu nại.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Khiếu nại trên địa bàn
thành phố Tuy Hòa, thì vai trò của Luật sư, trợ giúp viên pháp lý chưa được thể hiện
rõ nét, phần lớn các vụ việc khiếu nại đều không có sự tham gia của Luật sư, trợ
giúp viên pháp lý, hay nói cách khác, có rất ít người khiếu nại nhờ đến Luật sư, trợ
giúp viên pháp lý trong quá trình khiếu nại. Đó cũng chính là lý do tại sao phần lớn
các đơn khiếu nại đều bị sai, hoặc có đúng có sai, dẫn đến việc chuẩn bị hồ sơ khiếu
nại của người khiếu nại mất rất nhiều thời gian. Chính vì thế, nghiên cứu này đề
nghị nên có văn bản hướng dẫn cụ thể để người khiếu nại có thể tiếp cận được với
70
dịch vụ Luật sư, trợ giúp viên pháp lý trong quá trình chuẩn bị hồ sơ khiếu nại và
tham gia giải quyết khiếu nại, cũng như việc thi hành quyết định giải quyết khiếu
nại có hiệu lực pháp luật.
3.2.1.2. Tổ chức bộ máy, con người thực thi trực tiếp pháp luật giải quyết khiếu nại
hành chính
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác
giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước.
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 35/CT-TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” [1],
Kế hoạch số 89-KH/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên về “Theo dõi, đôn đốc
việc thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản;
Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” [45].
Theo đó, cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu (i) quán triệt đầy đủ, thực
hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước về
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại; (ii) hoàn thiện chính sách, pháp luật
liên quan đến quyền và lợi ích của người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài
nguyên, đầu tư, tài chính …, bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn; (iii) phát huy
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; lấy hiệu
quả của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết
quả công tác; (iv) các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tòa án, công an nâng
cao trách nhiệm trong việc chủ trì, phối hợp xử lý theo thẩm quyền, giải quyết dứt
điểm những vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài; (v) đổi mới hoạt động của hội
đồng nhân dân, đại biểu HĐND, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại; (vi) kiện toàn đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác tiếp dân và tham mưu giải quyết khiếu nại có phẩm chất đạo đức
tốt, tinh thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công
dân hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy
71
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo đảm thuận
lợi cho công dân và cán bộ, công chức tiếp công dân.
Thứ hai, củng cố bộ máy hành chính các cấp.
Tăng cường củng cố bộ máy cơ quan hành chính các cấp có đủ năng lực,
trình độ nghiệp vụ chuyên môn, nhất là ở các xã, phường. UBND các cấp, các ban,
ngành trực thuộc UBND thành phố Tuy Hòa nên thường xuyên rà soát, bổ sung
những quy định chưa phù hợp hoặc còn thiếu cho phù hợp với tình hình thực tế. Tổ
chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của cấp ủy, HĐND; thực hiện tốt quy chế
cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành của Chủ tịch UBND các cấp,
Thủ trưởng các ban, ngành trực thuộc UBND thành phố Tuy Hòa trên mọi lĩnh vực
của đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng. Tăng
cường công tác kiểm tra trong việc chấp hành pháp luật, phát hiện và xử lý kịp thời,
dứt điểm các vụ việc khiếu nại của người dân ngay từ ban đầu, không để phát sinh
những vụ việc khiếu nại, khiếu kiện dai dẳng, phức tạp.
Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn và ý thức trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại.
Tập trung, chú trọng đào tạo trình độ nghiệp vụ chuyên môn, bồi dưỡng
chính trị, ý thức trách nhiệm đối với nhân dân cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại. Người làm công tác tiếp dân và giải quyết
khiếu nại cần phải có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao, am hiểu
pháp lý và tình hình thực tiễn của địa phương, và luôn thân thiện với người dân.
Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các ban, ngành nên tạo điều kiện và khuyến
khích các bộ, công chức tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn; tổ chức các buổi giao lưu, học tập kinh nghiệp giữa các cơ sở với nhau
để cán bộ, công chức học tập kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động tiếp dân và giải
quyết khiếu nại; huấn luyện cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và
giải quyết khiếu nại kỹ năng vui vẻ, kỹ năng trình bày để phục vụ người dân ngày
càng tốt hơn. Đồng thời, Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các ban, ngành thuộc
UBND thành phố Tuy Hòa cũng nên thường xuyên động viên tinh thần làm việc
72
của cán bộ, công chức; có chính sách khen thưởng những cá nhân, tập thể hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong hoạt động tiếp dân và giải quyết khiếu nại.
3.2.1.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động tiếp công dân và giải quyết khiếu nại
đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình giải quyết khiếu nại và thi hành
quyết định giải quyết khiếu nại của các cá nhân, cơ quan, đơn vị có liên quan.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Cơ quan thanh tra thành phố Tuy Hòa, Ban
thanh tra nhân dân xã, phường nên được thực hiện thường xuyên để giúp cho hiệu
quả tiếp công dân và giải quyết khiếu nại được nâng cao.
Từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016, Thanh tra thành phố Tuy Hòa đã
triển khai thực hiện 07 đợt thanh tra trách nhiệm việc chấp hành các quy định của
pháp luật về khiếu nại tại các UBND phường, xã. Trong đó, năm 2013 thanh tra
tại UBND phường Phú Lâm và UBND phường Phú Thạnh [51], năm 2014 thanh
tra tại UBND phường 9 và UBND xã Bình Ngọc [58], năm 2015 thanh tra tại
UBND phường 8 và UBND phường Phú Đông [60], và 06 tháng đầu năm 2016
thanh tra tại UBND phường 7 [61]. Ngoài ra, UBND thành phố Tuy Hòa còn
thành lập 01 Đoàn kiểm tra việc thực hiện các quy định về tiếp công dân, xử lý đơn
tại các phòng chuyên môn và UBND phường, xã. Như vậy, sau hơn 3 năm Thanh
tra thành phố Tuy Hòa chỉ thực hiện được 07 đợt thanh tra trách nhiệm việc chấp
hành các quy định của pháp luật về khiếu nại tại UBND các phường, xã, so với 16
UBND xã, phường trực thuộc UBND thành phố Tuy Hòa, còn đến 9 UBND xã,
phường chưa được thanh tra.
Để công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại được hiệu quả hơn, Thanh tra
thành phố Tuy Hòa nên xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện
các quy định của pháp luật về khiếu nại, về tiếp công dân rộng hơn, đảm bảo tất cả
các UBND phường, xã đều được thanh tra trong một khoảng thời gian nhất định.
UBND thành phố Tuy Hòa cần chỉ đạo Thanh tra thành phố tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng các phòng ban, Chủ tịch UBND
các phường, xã trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại;
73
đôn đốc việc thi hành các kết luận, quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực
pháp luật; tăng cường thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật.
Thanh tra thành phố Tuy Hòa, UBND phường, xã nên thường xuyên tổ chức
các đợt kiểm tra việc thi hành Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và công tác giải
quyết khiếu nại ở các cấp, phòng, ban, đặc biệt là khiếu nại đối với lĩnh vực đất đai.
Cần phát huy vai trò của Ban thanh tra nhân dân phường, xã; UBND phường,
xã cần phối hợp với Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp chỉ đạo và tạo điều kiện cho
Ban thanh tra nhân dân phường, xã thực hiện trách nhiệm của mình theo đúng quy
định của pháp luật “Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã,
phường, thị trấn trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở theo
quy định tại Điều 13 Nghị định này. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật
thì kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát
việc thực hiện kiến nghị đó” (khoản 1, Điều 11, [6]).
3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
trên địa bàn thành phố Tuy Hòa
3.2.2.1. Công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục Luật Khiếu nại,
UBND thành phố Tuy Hòa đã ban hành Kế hoạch số 2118/KH-UBND ngày
08/10/2012 về “Tuyên truyền, phổ biến Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo năm 2011”
[50]. Theo đó, trong 02 năm 2013 và năm 2014, UBND thành phố Tuy Hòa đã tổ
chức 02 Hội nghị tuyên truyền cho cán bộ, lãnh đạo chủ chốt của thành phố và 04
Lớp tuyên truyền, phổ biến cho công chức, viên chức thành phố với gần 800 lượt
người tham dự; từng UBND phường, xã tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến
Luật sâu rộng đến cán bộ, công chức và nhân dân ở địa phương. Bên cạnh đó,
UBND Tp Tuy Hòa đã chỉ đạo cơ quan Thanh tra phối hợp với Đài Truyền thanh
Tp Tuy Hòa tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo trên hệ thống đài
truyền thanh Tp Tuy Hòa trong các Bản tin thời sự mỗi ngày, nội dung tuyên truyền
74
bám sát vào tài liệu hỏi đáp của Thanh tra Chính phủ, các quy định mới ban hành
liên quan đến lĩnh vực khiếu nại, tố cáo và các tin, bài phản ánh, kết quả hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước [62].
Nhằm giúp cho công tác tiếp dân của các cơ quan trực thuộc UBND Tp Tuy
Hòa được triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả, đúng theo tinh thần của Luật
Tiếp công dân 2013, UBND Tp Tuy Hòa đã ban hành Công văn số 1956/UBND
ngày 30/6/2014 về “Triển khai thực hiện Luật Tiếp công dân 2013” [52] và Kế
hoạch số 2194/KH-UBND ngày 14/7/2014 về “Tuyên truyền, phổ biến Luật Tiếp
công dân 2013” [53]. Trên cơ sở đó, trong năm 2014, UBND Tp Tuy Hòa đã tổ
chức Hội nghị phổ biến, giáo dục Luật Tiếp công dân 2013 cho lãnh đạo, công chức
các phòng, ban, UBND các phường, xã trong toàn Tp Tuy Hòa, với 324 lượt người
tham gia [58].
Thực hiện Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016” của Thủ tướng
Chính phủ (Ban hành kèm theo Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013) [43],
Kế hoạch số 3177/KH-TTCP ngày 30/12/2013 của Thanh tra Chính phủ về “Thực
hiện Đề án tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại,
tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016”, và các chỉ đạo, kế hoạch
hướng dẫn của UBND tỉnh Phú Yên, UBND Tp Tuy Hòa đã ban hành Kế hoạch số
3620/KH-UBND ngày 08/10/2014 về “Triển khai thực hiện Đề án tiếp tục tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị
trấn giai đoạn 2013 – 2016 trên địa bàn Tp Tuy Hòa” [55]. Theo đó, UBND Tp
Tuy Hòa đã chỉ đạo cơ quan Thanh tra phối hợp với Đài Truyền thanh tuyên truyền
tài liệu hỏi đáp của Thanh tra Chính phủ về khiếu nại, tố cáo trên hệ thống đài
truyền thanh từ thành phố đến cơ sở; phối hợp với UBND phường 9, phường Phú
Đông, và xã An Phú (các địa bàn phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo) để tổ chức 03
buổi tuyên truyền, phổ biến trực tiếp đến nhân dân địa phường. Đồng thời, UBND
Tp Tuy Hòa đã phối hợp với Thanh tra tỉnh Phú Yên tổ chức 02 lớp tập huấn bồi
75
dưỡng nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cho lãnh đạo các phòng,
ban, UBND phường xã, và công chức phụ trách, với 150 lượt người tham gia [59].
Nhờ vào việc tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật của UBND Tp Tuy Hòa đã góp phần đưa các quy định của Luật Tiếp công
dân, Luật Khiếu nại phần nào đi vào cuộc sống của người dân, nâng cao ý thức
trách nhiệm của từng cán bộ, công chức, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật; pháp huy tác dụng của Luật Khiếu nại trong việc bảo vệc
trật tự quản lý hành chính nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, đọn vị trên toàn Tp Tuy Hòa. Tuy nhiên, trong 06 tháng đầu năm 2016 số
lượng đơn thư khiếu nại không có dấu hiệu giảm, mà còn tăng đáng kể, có đến 22
đơn khiếu nại đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Khiếu nại, cao hơn năm
2015 là 07 đơn khiếu nại, cao hơn năm 2014 là 02 đơn khiếu nại, và cao hơn cả
năm 2013 là 05 đơn khiếu nại. Do đó, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật cần được tổ chức, thực hiện thường xuyên và sâu rộng hơn nữa, cụ thể
như sau:
i) Vì đa số các đơn khiếu nại của người dân đều liên quan đến lĩnh đất
đai, nền cần đẩy mạnh tuyên truyền Luật Đất đai 2013 đến toàn thể
người dân trên địa bàn Tp Tuy Hòa, đặc biệt là ở những phường, xã
đang triển khai hoặc chuẩn bị có dự án giải phóng mặt bằng.
ii) Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật Khiếu nại,
Luật Tiếp công dân cho người dân được nắm rõ hơn nữa, để tranh thủ
sự ủng hộ, đồng tình của người dân, đồng thời, giảm bớt số lượng đơn
khiếu nại sai hoàn toàn, hoặc không đúng thẩm quyền giải quyết.
iii) Hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phong phú
và đa dạng hơn, cụ thể như (1) tuyên truyền miệng; (2) tuyên truyền
thông qua sinh hoạt chi bộ, tổ hội, câu lạc bộ; (3) tuyên truyền thông
qua hệ thống thông tin đại chúng; (4) tuyên truyền bằng hình thức trực
quan như khẩu hiệu, pa nô, áp phích, tờ rơi; (5) tuyên truyền thông
qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, lễ hội truyền thống; và
76
(6) tuyên truyền thông qua các hoạt động tham quan thực tế, báo cáo
điển hình, học tập gương người tốt, việc tốt.
iv) Xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên với trình độ nghiệp vụ chuyên
môn cao, kỹ năng trình bày, thuyết phục tốt, và thân thiện với người
dân.
v) Hệ thống đài phát thanh trên địa bàn Tp Tuy Hòa: cần sửa chữa hệ
thống các loa phát thanh trên toàn địa bàn Tp Tuy Hòa, để chất lượng
của các đợt tuyên truyền trên hệ thống phát thanh được đảm bảo và
mang lại hiệu quả cao hơn.
3.2.2.2. Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho người dân
Hiện tại công tác hỗ trợ pháp lý cho người dân trên địa bàn Tp Tuy Hòa chưa
được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong lĩnh vực khiếu nại. Hoạt động hỗ trợ
pháp lý cho người dân đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong suốt quá trình trước và
sau khi tiếp nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại. Nếu hoạt động pháp lý được triển
khai thực hiện đúng mức sẽ góp phần thiết thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người dân, góp phần tích cực vào quá trình tổ chức thực hiện Luật Khiếu nại, giảm
dần số vụ việc khiếu nại, hoặc có khiếu nại thì đó là khiếu nại đúng cả về nội dung
và cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Một thực tế nữa cho thấy trong các vụ việc khiếu nại, người dân không
thường nhờ đến các Văn phòng Luật sư để được tư vấn về pháp lý, mà chỉ hỏi thăm
người quen cách thức thực hiện, rồi tiến hành làm đơn khiếu nại và gửi đến cơ quan
HCNN mà người dân cho là đúng. Chính vì thế mà hầu hết các đơn khiếu nại của
người dân đều không chính xác, mà phải làm đi làm lại nhiều lần, đồng thời đơn
khiếu nại được gửi đến cơ quan HCNN không thuộc thẩm quyền giải quyết.
Do đó, UBND Tp Tuy Hòa nên quan tâm nhiều hơn nữa đến dịch vụ hỗ trợ
pháp lý cho người dân, làm thế nào để khi người dân có ý định khiếu nại một vấn đề
nào đó, thì họ biết phải đến nơi nào, đơn vị nào để được tư vấn về pháp lý. Đơn vị
hỗ trợ pháp lý cho người dân có thể công, cũng có thể là tư, điều đó không quan
trọng, miễn sao đơn vị đó đáp ứng được nhu cầu pháp lý của người dân.
77
Kết luận chương 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực tiễn pháp luật giải quyết khiếu nại hành
chính tại Tp Tuy Hòa ở chương 2, tại chương 3, nghiên cứu này đã xác định được
phương hướng thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính và đưa ra được
các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính nói
chung, cũng như trên địa bàn Tp Tuy Hòa, trong đó có giải pháp chung và giải pháp
nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính. Đối với giải pháp chung, nghiên
cứu này đưa ra 03 giải pháp gồm: (i) hoàn thiện thể chế pháp luật, (ii) tổ chức bộ
máy, con người thực thi trực tiếp pháp luật giải quyết khiếu nại hành chính, và (iii)
hoạt động thanh tra, kiểm tra. Đối với giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại hành chính trên địa bàn Tp Tuy Hòa, gồm có (i) đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; và (ii) hoạt động hỗ trợ pháp lý cho người dân.
78
KẾT LUẬN
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ
nhằm bảo vệ cho người có quyền lợi bị ảnh hưởng và cũng là hoạt động để góp
phần vào việc thực hiện dân chủ, công khai và minh bạch hơn trong các cơ quan
nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nói riêng. Trong thực tế hiện nay,
việc khiếu nại đã được người dân quan tâm hơn, nâng cao được các quyền cơ bản
của công dân mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Mọi người có quyền khiếu nại,
tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (khoản 1, Điều 30, [34]). Quyền khiếu nại là
quyền bảo vệ quyền của cá nhân, công dân khi bị quyết định hành chính và hành vi
hành chính xâm hại nhưng quyền đó được thực hiện, bảo đảm như thế nào lại tùy
thuộc vào việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước người có thẩm quyền
mà chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước.
Để bảo đảm quyền và lợi ích của người dân, bảo đảm lợi ích của nhà nước,
thực hiện dân chủ, văn minh và phát triển kinh tế - xã hội, Luật Khiếu nại 2011
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII ban hành và
có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/7/2012 [33]. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong hoạt động khiếu nại, tố cáo, nhất là tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người,
vượt cấp, kéo dài làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự công cộng và phát
triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày
18/5/2012 về “Chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo” [42]. Nhằm giúp cho người dân hiểu và thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ khi thực hiện khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm khi thi hành quyết định giải
quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật; nâng cao ý thức,
trách nhiệm, năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Đồng thời, tăng cường mối quan hệ, sự phối hợp giữa chính quyền và
các tổ chức đoàn thể trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo tại
xã, phường, thị trấn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án “Tiếp tục tăng cường
79
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn
giai đoạn 2013 – 2016” (Ban hành kèm theo Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày
15/7/2013) [43]. Tiếp đó, Luật Tiếp công dân 2013 được Quốc hội khóa XIII ban
hành và có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/7/2014 [35]. Để nâng cao hơn nữa chất
lượng, hiệu quả của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35/CT-TW
ngày 26/5/2014 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công
dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” [1].
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ,
các chỉ đạo và hướng dẫn của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Yên, Thành ủy Tuy Hòa,
UBND thành phố Tuy Hòa đã tích cực triển khai thực hiện một cách có hiệu quả
Luật tiếp công dân 2013, Luật Khiếu nại 2011; tích cực tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật đến toàn thể cán bộ, công chức chuyên trách, Chủ tịch UBND các
phường, xã và toàn thể người dân trên địa bàn thành phố Tuy Hòa. Nhờ đó, đã giúp
cho công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại mang lại nhiều hiệu quả tích cực,
làm hài lòng đa số người dân, số lượng đơn khiếu nại giảm dần, nếu như năm 2013
có 17 đơn khiếu nại hợp lệ [51], thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Tp Tuy
Hòa, thì đến năm 2015 chỉ có 15 đơn khiếu nại hợp lệ [60].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thì vẫn còn đó nhiều
tồn tại hạn chế như số lượng đơn khiếu nại không đúng, hoặc có đúng có sai vẫn
còn nhiều; công tác tuyên truyền, phổ biên, giáo dục pháp luật chưa được thường
xuyên, sâu rộng; công tác tiếp dân và giải quyết đơn khiếu nại của một số phường,
xã thực hiện chưa đúng theo trình tự quy định; một số phường, xã còn thiếu sự quan
tâm đúng mức đối với công tác hòa giải cơ sở; việc triển khai thực hiện các quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật chưa được hoàn thiện. Một điều đặc
biệt là ở những phường, xã có các dự án thu hồi đất, giải phóng mặt bằng là ở đơn
vị đó phát sinh nhiều đơn khiếu nại.
80
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong
công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại từ thực tiễn của Tp Tuy Hòa, nghiên cứu
này đã xác định được các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của các
tồn tại, hạn chế đó, để đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn Tp Tuy Hòa, cụ thể là đối với giải pháp
chung, nghiên cứu này đưa ra 03 giải pháp gồm: (i) hoàn thiện thể chế pháp luật, (ii)
tổ chức bộ máy, con người thực thi trực tiếp pháp luật giải quyết khiếu nại hành
chính, và (iii) hoạt động thanh tra, kiểm tra; đối với giải pháp nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn Tp Tuy Hòa, gồm có (i) đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; và (ii) hoạt động hỗ trợ pháp lý cho
người dân.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Chính trị (2014), “Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Số: 35/CT-TW, ngày
26/5/2014.
[2] Bùi Thị Thuận Ánh (2012), “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai qua
thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế”. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật,
ĐH Quốc gia Hà Nội.
[3] Chính Phủ (2011), “Nghị quyết ban hành Chương trình tổng thể cải cách
hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020”. Số: 30c/NQ-CP, ngày
08/11/2011.
[4] Chính Phủ (2012),“Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu
nại”. Số: 75/2012/NĐ-CP, ngày 03 tháng 10 năm 2012, Hà Nội.
[5] Chính Phủ (2014), “Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật tiếp công dân”. Số: 64/2014/NĐ-CP, ngày 26/6/2014.
[6] Chính Phủ (2016), “Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số
điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân
dân”. Số: 159/2016/NĐ-CP, ngày 29/11/2016.
[7] Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1949), “Sắc lệnh của Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Số: 138/B-SL-QD, ngày
18/12/1949.
[8] Dương Thị Thanh Huyền (2015), “Giải quyết khiếu nại hành chính trong
lĩnh vực đất đai – Qua thực tiễn thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình”. Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội.
[9] Đào Bảo Minh (2017), “Xây dựng thành phố Tuy Hòa văn minh, xanh – sạch
– đẹp”. Báo Phú Yên online, ngày 29/3/2017. Có thể xem tại
http://www.baophuyen.com.vn/167/136472/xay-dung-thanh-pho-tuy-hoa-
van-minh-xanh-sach-dep.html. Ngày truy xuất 30/3/2017.
82
[10] Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI. Trong Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011). NXB
Chính trị Quốc gia – Sự thật.
[11] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII. Trong Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016). Văn
phòng Trung ương Đảng.
[12] Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật.
[13] Đại học Harvard (2014), Từ điển Năng lực. Bản dịch của Hoàng Minh Khai.
[14] Đặng Công Nhiên (2012), “Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại
hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam”. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc
gia Hà Nội.
[15] Đinh Ngọc Vượng (2013), “Ý thức pháp luật, pháp chế, thực hiện pháp luật,
vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”. Trang web Tổng Công ty Điện
https://cpc.vn/home/Ttuc_Detail.aspx?pm=ttuc&sj=TN&id=11161#.WT5QQpLyi1
s. Ngày truy xuất 12/6/2017.
lực Miền Trung, ngày 05/11/2013. Có thể xem tại
[16] Hoàng Ngọc Dũng (2015), “Giải quyết khiếu nại hành chính trong công
cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam”. Luận án tiến sĩ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia.
[17] Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Giáo trình Luật hành chính và Tài
phán hành chính. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[18] Hội đồng Bộ trưởng (1982), “Nghị định về việc thi hành Pháp lệnh quy định
việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân”. Số: 58-HD0BT,
ngày 29/3/1982.
[19] Hội đồng Nhà nước (1981), “Pháp lệnh quy định việc xem xét và giải quyết
các khiếu nại, tố cáo của công dân”. Ngày 27/11/1981.
[20] Hội đồng Nhà nước (1991), “Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân”. Số:
53-LCT/HĐNN, ngày 07/5/1991.
83
[21] Lại Đức Vượng (2008), “Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức – cơ sở
cho việc phân cấp quản lý”. Trang web Cải cách Hành chính Nhà nước,
11/12/2008. Có thể xem tại
http://caicachhanhchinh.gov.vn/Uploads/News/1869/attachs/vi.7-
trang%2010-Nangluc%20CBCC.pdf. Truy xuất ngày: 14/6/2017.
[22] Lê Thị Sáu (2014), “Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp”. Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội.
[23] Nguyễn Danh Tú (2013), “Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”. Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Khoa học Xã hội.
[24] Nguyễn Minh Phương, “Một số vấn đề trách nhiệm công vụ của cán bộ,
công chức ở nước ta hiện nay”. Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước – Bộ Nội
http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/1153/language/vi-VN/M-t-s-v-n-d-v-
trach-nhi-m-cong-v-c-a-can-b-cong-ch-c-n-c-ta-hi-n-nay.aspx. Ngày
vụ. Có thể xem tại
truy xuất:
19/5/2017.
[25] Nguyễn Ngọc Hòa và cộng sự (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học –
Luật hành chính. NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
[26] Nguyễn Thị Hồng Thơm (2010), “Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở Ninh Bình hiện nay”. Tóm tắt
Luận văn Thạc sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Khoa Luật,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
[27] Nguyễn Thị Thủy (2009), “Quyền khiếu nại hành chính của công dân
ở Việt Nam hiện nay”. Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà
Nội.
[28] Phủ Thủ tướng (1958), “Thông tư quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ
chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu
84
nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của nhân dân”. Số: 436-TTg, ngày
13/9/1958.
[29] Quốc hội (1959), “Hiến pháp Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Ngày
31/12/1959.
[30] Quốc hội (1980), “Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
1980”. Ngày 18/12/1980.
[31] Quốc hội (1992), “Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
1992”. Ngày 15/4/1992.
[32] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), “Luật Khiếu
nại, tố cáo”. Số: 09/1998/QH10, ngày 02 tháng 12 năm 1998.
[33] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), “Luật Khiếu
nại”. Luật số 02/11/QH13, ngày 11 tháng 11 năm 2011.
[34] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), “Hiến pháp
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Ngày 28/11/2013.
[35] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), “Luật Tiếp
công dân”. Luật số: 42/2013/QH13, ngày 25/11/2013.
[36] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), “Bộ luật Tố
tụng dân sự”. Luật số: 92/2015/QH13, ngày 25/11/2015.
[37] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), “Luật Tố tụng
hành chính”. Luật số: 93/2015/QH13, ngày 25/11/2015.
[38] Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), “Bộ luật Tố
tụng hình sự”. Luật số: 101/2015/QH13, ngày 27/11/2015.
[39] Thanh tra Chính phủ (2012), “Kế hoạch kiểm tra, rà soát, giải quyết các vụ
việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài”. Số: 1130/KH-TTCP,
ngày 10/5/2012.
[40] Thanh tra Chính Phủ (2013), “Thông tư quy định quy trình giải quyết khiếu
nại hành chính”. Số: 07/2013/TT-TTCP, ngày 31 tháng 10 năm 2013.
85
[41] Thanh tra Chính Phủ (2014),“Quyết định về việc công bố thủ tục hành chính
được ban hành mới thuộc phạm vi chức năng quản lý của Thanh tra Chính
phủ”. Số: 1294/QĐ-TTCP, ngày 04 tháng 6 năm 2014.
[42] Thủ tướng Chính phủ (2012), “Chỉ thị về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Số: 14/CT-TTg, ngày
18/5/2012.
[43] Thủ tướng Chính phủ (2013), “Đề án Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013
– 2016”. Ban hành kèm theo Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013.
[44] Tỉnh ủy Phú Yên (2014), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Số: 572-CV/TU, ngày
20/8/2014.
[45] Tỉnh ủy Phú Yên (2014), “Kế hoạch theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị
số 33/CT-TW, ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Chỉ thị số
35/CT-TW , ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Số: 89-
KH/TU, ngày 25/9/2014.
[46] Tỉnh ủy Phú Yên (2015), “Báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị số 35/CT-TW,
ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Số: 286-BC/TU,
ngày 20/01/2015.
[47] Trang tin điện tử Thành phố Tuy Hòa http://tptuyhoa.phuyen.gov.vn/gioi-
thieu-chung.
[48] Trần Văn Sơn (2005), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước”. Tạp chí
Thanh tra, số 12, trang 24-27.
86
[49] Trịnh Văn Thảo (2014), “Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính Nhà
nước – Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng”. Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[50] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2012), “Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật
Khiếu nại, Luật Tố cáo năm 2011”. Số: 2118/KH-UBND, ngày 08/10/2012.
[51] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2013), “Báo cáo kết quả thực hiện tiếp công
dân, tiếp nhận đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 2013
và phương hướng, nhiệm vụ năm 2014”. Số: 461/BC-UBND, ngày
27/12/2013.
[52] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Công văn triển khai thực hiện Luật
Tiếp công dân 2013”. Số: 1956/UBND, ngày 30/6/2014.
[53] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật
Tiếp công dân 2013”. Số: 2194/KH-UBND, ngày 14/7/2014.
[54] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Quyết định về việc ban hành Quy
định về trình tự, thủ tục hòa giải đất đai tại UBND phường, xã và giải quyết
tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND Tp Tuy Hòa”. Số:
02/2014/QĐ-UBND, ngày 06/10/2014.
[55] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án
tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố
cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016 trên địa bàn Tp Tuy Hòa”.
Số: 3620/KH-UBND, ngày 08/10/2014.
[56] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Quyết định về việc ban hành nội quy
tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân thành phố Tuy Hòa”. Số: 5569/QĐ-
UBND, ngày 06/11/2014.
[57] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Quyết định về việc thành lập Ban tiếp
công dân thành phố Tuy Hòa”. Số: 5768/QĐ-UBND, ngày 17/11/2014.
[58] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2014), “Báo cáo kết quả thực hiện tiếp dân,
tiếp nhận đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 2014 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2015”. Số: 416/BC-UBND, ngày 22/12/2014.
87
[59] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2015), “Báo cáo tình hình tiếp công dân; giải
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố Tuy Hòa, giai đoạn 2012 –
2015”. Số: 409/BC-UBND, ngày 23/11/2015.
[60] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2015), “Báo cáo công tác tiếp dân, tiếp nhận
đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 2015 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2016”. Số: 445/BC-UBND, ngày 15/12/2015.
[61] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2016), “Báo cáo công tác tiếp dân, xử lý đơn
thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân 6 tháng đầu năm 2016 và
phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2016”. Số: 237/BC-UBND, ngày
18/7/2016.
[62] Ủy ban nhân dân Tp Tuy Hòa (2016), “Báo cáo tổng kết 04 năm thực hiện
Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo”. Số: 391/BC-UBND, ngày 11/10/2016.
[63] Võ Nguyên Chương (2015), “Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng”. Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội.
88
1