BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
......../.......
................/...............
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN GIANG LAM
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA,
TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
......../.......
................/...............
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN GIANG LAM
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA,
TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công
trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Nguyễn Giang Lam
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn này tôi đã nhận được
nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện từ nhiều cơ quan, tổ chức và cá
nhân.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Cơ sở Học viện Hành chính khu
vực miền Trung, Khoa Sau đại học - Học viện Hành chính quốc gia cùng
toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý
báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Đức Cường -
người hướng dẫn khoa học, đã tận tình dành nhiều thời gian trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng đề cương, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học LH3.T2 - Cơ sở Học viện Hành
chính khu vực miền Trung, các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã tạo
điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về thời gian và khả năng
nghiên cứu nên trong luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong quý thầy giáo, cô giáo, các chuyên gia, những người quan tâm đến
đề tài tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn./.
Học viên Nguyễn Giang Lam
MỤC LỤC
TRANG BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TRẺ EM
VÀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM ......... 10
1.1. Quyền trẻ em ......................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 10
1.1.2. Phân loại ............................................................................................. 14
1.2. Pháp luật về Quyền trẻ em ..................................................................... 22
1.2.1. Quyền trẻ em theo Luật Quốc tế. ........................................................ 22
1.2.2. Quyền trẻ em theo pháp luật Việt Nam. .............................................. 23
1.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật quyền trẻ em ............................................. 27
1.3.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ............................. 27
1.3.2. Sự cần thiết và mục tiêu của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.28
1.3.3. Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật quyền trẻ em. ............................................................................................ 31
Tóm tắt chương 1 ......................................................................................... 42
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .......................................................... 43
2.1. Thực tiễn phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở Việt Nam ......................... 43
2.1.1. Phổ biến, giáo dục quyền trẻ em trên Thế giới .............................................. 43
2.1.2. Phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở Việt Nam ............................................... 47
2.2. Thực tiễn phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng Bình trong những năm gần đây. ........................................................ 60
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội tác động đến công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng
Bình. .......................................................................................................................... 60
2.2.2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa,
tỉnh Quảng Bình ....................................................................................................... 64
2.3. Những tồn tại và nguyên nhân rút ra trong công tác giáo dục trẻ em ở
Việt Nam huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình ............................................. 83
2.3.1. Tồn tại ............................................................................................................. 83
2.3.2. Nguyên nhân ................................................................................................... 89
2.3.3. Bài học kinh nghiệm. ..................................................................................... 91
Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 94
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA,
TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................................. 95
3.1. Phương hướng chung nhằm thúc đẩy phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em ................................................................................................. 95
3.1.1. Đổi mới nhận thức và tư duy phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.95
3.1.2. Đổi mới nội dung, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ
em. .......................................................................................................................... 99
3.1.3. Tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế .............................................................. 100
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em ............................................................................................... 102
3.2.1. Củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với công tác PBGDPL trên địa bàn
huyện Tuyên Hóa ................................................................................................... 102
3.2.2.Kiện toàn tổ chức; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện về chủ thể và đối tượng thực
hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa ............ 104
3.2.3. Xác định đúng đắn nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL về quyền
trẻ em cho từng đối tượng trên địa bàn huyện Tuyên Hóa ................................... 108
3.2.4. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực
hiện PBGDPL về quyền trẻ em ............................................................................. 112
3.2.5. Các giải pháp khác để nâng cao chất lượng PBGDPL về quyền trẻ em trên
địa bàn huyện Tuyên Hóa ...................................................................................... 113
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 116
KẾT LUẬN ............................................................................................... 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Hội đồng nhân dân
HĐND
Liên Hợp Quốc
LHQ
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
MTTQVN
Phổ biến, giáo dục pháp luật
PBGDPL
Phối hợp thực hiện
PHTH
Tòa án nhân dân
TAND
Trợ giúp pháp lý
TGPL
Thi hành án dân sự
THADS
Ủy ban nhân dân
UBND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
Bảng 2.1: Phân bố đất trên địa bàn huyện Tuyên Hóa .................................. 61
Bảng 2.2: Thống kê số lượng trẻ em qua các năm ........................................ 65
Bảng 2.3: Thống kê số trẻ em được sinh ra ................................................... 66
Bảng 2.4: Thống kê số lượng trẻ em theo độ tuổi ......................................... 67
Bảng 2.5: Trẻ em với các vụ án hình sự ........................................................ 68
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Tỷ lệ sinh .................................................................................... 65
DANH MỤC SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc;
các thế hệ trẻ em hiện nay sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước, việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em hôm nay chính là đầu tư cho sự phát triển hiệu quả, bền vững
nguồn nhân lực trong tương lai và cho sự phát triển của đất nước. Trẻ em được coi
là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất. Đây là nhóm có vị thế kinh tế,
chính trị, xã hội thấp hơn, từ đó, nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con
người cao hơn. Bởi vậy, trẻ em cần được các nước, các cộng đồng chú ý bảo vệ đặc
biệt so với những nhóm, công đồng khác.
Từ thế kỷ XIV, ở Châu Âu đã xuất hiện những dự án công cộng dành cho trẻ
em, hoặc ngay cả ở Việt Nam, Bộ Luật Hồng Đức cũng quy định trách nhiệm của
dân chúng và các quan lại địa phương phải giúp đỡ trẻ em tàn tật, trẻ mồ côi không
nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc trẻ lạc, đồng thời, quy định về trừng trị tội gian
dâm với trẻ em gái, tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm án và hoãn thi hành án với
phụ nữ có thai, đang nuôi con nhỏ,... Tuy nhiên, về cơ bản những dự án, quy định
này chỉ xuất phát từ góc độ tình thương, lòng nhân đạo và sự che chở chứ chưa phải
dưới góc độ nghĩa vụ bảo về quyền, do đó, việc bảo về trẻ em còn chưa mang tính
phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc về nghĩa vụ với mọi đối tượng trong
xã hội.
Phải đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới chính thức
được điển hóa trong pháp luật quốc tế, xuất phát từ việc thành lập hai tổ chức cứu
trợ trẻ em đầu tiên trên Thế giới ở Anh và Thụy Điển năm 1919; cho đến năm 1924,
Bản Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em (do bà Eglantyne Jebb- người sáng lập
Quỹ cứu trợ trẻ em của nước Anh soạn thảo) gồm 7 điểm, trong đó kêu gọi thừa
nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em được Hội quốc liên thông qua. Đây là dấu mốc
đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ quyền trẻ em trên
thế giới. Đồng thời, đây cũng là tiền đề để Liên Hợp Quốc đưa vấn đề quyền trẻ em
1
phát triển lên một bước ngoặt mới thông qua Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1959 và Công ước về quyền trẻ em (CRC) ngày 20-11-1989,
được xem là văn kiện quốc tế và toàn diện nhất về quyền trẻ em.
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam từ lâu không chỉ là vấn
đề nhân đạo mà còn được thể chế hóa thông qua hệ thống pháp luật. Ngay từ khi
phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990,
UNICEF đã phối hợp chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam xây dựng Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em và nỗ lực triển khai thực hiện. Các quyền cơ bản của
trẻ em được Việt Nam tôn trọng và luật hóa trên cơ sở phù hợp với quy định của
Hiến Pháp và Pháp Luật Việt Nam. Mà cụ thể là, quyền trẻ em đã được hiến định
trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt trong Hiến pháp
năm 2013, quyền trẻ em cũng được ghi nhận và quy định trực tiếp tại khoản 1,
Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục;
được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi,
bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ
em”, đây là một bước tiến lớn trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân về vị trí và vai trò của Hiến pháp trong việc công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân nói chung và
quyền trẻ em nói riêng. Quyền trẻ em cũng được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và
luật như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 sau này được thay thế bởi
Luật Trẻ em 2016, Luật Hôn nhân và gia đình 2014; hệ thống các chính sách,
chương trình và kế hoạch hành động vì trẻ em như: Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05-
11-2012, của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em trong tình hình mới”; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn
2012 - 2020; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch
triển khai thực hiện Khuyến nghị của Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc;
Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; Chương trình
phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2013 - 2015; Kế hoạch hành
động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014 – 2020,.....
2
Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽ được hưởng những cơ hội tốt đẹp,
được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục toàn diện về mọi mặt. Tạo điều kiện cho trẻ em
luôn luôn được quan tâm, được học tập và phát triển đúng với lứa tuổi của mình.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian gần đây ở nước ta, tình trạng trẻ em bị xâm
hại ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về mức độ, tính chất nguy hiểm và số
lượng vụ việc, nhất là bóc lột sức lao động của trẻ em, các vụ hiếp dâm, dâm ô trẻ
em, bạo hành gia đình, bạo lực học đường... Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp
được công khai làm rúng động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những
đứa trẻ và sự xuống cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng
thành.
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là Làm sao để chấm dứt thực trạng này? Bằng cách
nào để trẻ em nhận thức được phải tự bảo vệ mình? Và làm thế nào để toàn xã hội
bảo vệ toàn diện về quyền cho trẻ em? Vấn này chỉ được giải quyết khi tất cả mọi
người trong xã hội phải hiểu biết cơ bản về quyền con người nói chung và quyền trẻ
em nói riêng. Hiểu biết về quyền là điều kiện đầu tiên, không thể thiếu để có thể bảo
vệ và thúc đẩy các quyền trẻ em trong thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên,
không phải ai cũng nhận thức rõ ràng về quyền của mình và tôn trọng quyền của
người khác, đặc biệt là trẻ em. Do đó, chỉ có thể khắc phục thông qua phổ biến pháp
luật, thông qua đó giáo dục, nâng cao nhận thức của mọi người về quyền con người,
quyền trẻ em, giúp mỗi con người ý thức biết tôn trọng quyền của trẻ em và giúp trẻ
em tự mình biết bảo vệ quyền của mình. Cũng như bất kỳ dạng kiến thức nào, tri
thức về quyền trẻ em chỉ có thể được phổ biến và tiếp nhận thông qua hình thức
giáo dục. Giáo dục có vai trò cực kỳ quan trọng trong phổ biến tri thức về quyền trẻ
em.
Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, việc trở thành thành viên của Liên
hợp quốc và của các công ước quốc tế về quyền con người đặt ra nghĩa vụ cho Việt
Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có giáo
dục, phổ biến quyền trẻ em. Mặt khác, nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục
3
quyền trẻ em lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết, giúp Việt Nam đẩy
nhanh tiến trình hội nhập quốc tế và xây dựng một Nhà nước công bằng, dân chủ,
nhân đạo và bảo vệ được nguồn nhân lực cho tương lai đất nước. Do đó, việc nâng
cao nhận thức của người dân về quyền trẻ là một yêu cầu bức thiết. Trên thực tế các
quyền trẻ đã được lồng ghép giảng dạy thông qua nhiều môn học, ở nhiều cấp học
tại Việt Nam và cũng đã được triển khai nghiên cứu dưới nhiểu hình thức khác
nhau. Tuy vậy, việc phổ biến và giáo dục pháp luật quyền trẻ em vẫn còn nhiều hạn
chế, chưa có sự tập trung chuyên sâu và thiếu tính khoa học; đồng thời chưa thực sự
có được các giải pháp giáo dục quyền trẻ hiệu quả, thiết thực, lâu dài và mang tính
vĩ mô. Vì vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) về quyền trẻ em là một yêu
cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, làm
rõ những khuyết điểm, tồn tại trong thực tiễn phổ biến, giáo dục quyền trẻ em, từ đó
xác định phương hướng và biện pháp tiếp tục giáo dục quyền trẻ em trong đề tài :
“Phổ biến, giáo dục về quyền trẻ em ở Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình”
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Liên Hợp Quốc, các nhà
khoa học pháp lý nước ta và thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần
đây, đã có những công trình nghiên cứu về trẻ em nói chung, những vấn đề truyền
thông - vận động quyền trẻ em để triển khai và đem lại những giá trị, ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn như các công trình sau: Chương trình nghiên cứu về trẻ em Việt
Nam: “Nghiên cứu vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam” do Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Việt
Nam chủ trì, GS.TS Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm; “Một số khó khăn và cản trở
qua 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” (1991-2001), do
Trung tâm Thông tin- Tư liệu và Nghiên cứu do Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em
Việt Nam tiến hành điều tra; Báo cáo “Hoạt động, tư vấn- xây dựng chương trình
truyền thông- vận động trẻ em giai đoạn 2001-2005” do Plan International Hà Nội,
4
2001, của tác giả Trịnh Hòa Bình;... Các công trình nghiên cứu kể trên đã chỉ ra
được nhận thức về Luật của các nhóm lãnh đạo, người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em,
khó khăn khi thực hiện luật, hoặc xây dựng các chương trình truyền thông, vận
động về quyền trẻ em, chỉ tập trung vào bảo vệ quyền trẻ em mà chưa chỉ ra được
nhận thức về quyền trẻ em, chưa đề cập được đến vấn đề giáo dục quyền trẻ em.
Mặt khác, một số công trình nghiên cứu như: “Giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ
Nguyễn Ngọc Hưng, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội; “Giáo dục nhân quyền
trong hệ thống các trường Đại học ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ do Nguyễn Thị
Thu Thủy, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội thực hiện; luận văn thạc sĩ “Ý
thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta
hiện nay” do Nguyễn Thị Như Quỳnh, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội thực
hiện; luận văn thạc sĩ của tác giả Đặng Ngọc Hoàng: “Một số vấn đề về phổ biến
pháp luật trong giai đoạn hiện nay”; “Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở
nước ta – Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hồ Ngọc Dũng;
“Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, đề tài khoa học
cấp Bộ, Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Một
số vấn đề về lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”
của Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư Pháp thực hiện; “Công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật ở nước ta – Thực trạng và giải pháp”,... thì đã có đề cập
đến vấn đề giáo dục và vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, chỉ đơn
thuần là công tác phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến những ngành nghề cụ
thể, mà không phải là pháp luật về quyền trẻ em; hoặc chỉ mới nghiên cứu về giáo
dục quyền con người, trong đó có cả quyền trẻ em, mà chưa quan tâm nghiên cứu
vấn đề phổ biến và giáo dục quyền trẻ em như là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập,
riêng biệt.
Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu về trẻ em và quyền trẻ em nói chung,
nhưng chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề phổ biến và giáo dục quyền
trẻ em, hay đưa ra được giải pháp để quyền trẻ em thực sự đi sâu vào nhận thức của
5
người dân đến đâu? Hay nói cách khác, vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào
nghiên cứu về cách thức phổ biến pháp luật và giáo dục về pháp luật quyền trẻ em.
Với nghiên cứu trong luận văn này, mong rằng sẽ là sẽ phần nào giải quyết được
vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục quyền
trẻ em để có được một cái nhìn mang tính hệ thống, toàn diện, sâu sắc; từ đó chỉ ra
được các nguyên nhân còn hạn chế, đồng thời đề xuất các giải pháp mang tính lâu
dài, ổn định và hiệu quả trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ
em ở địa bàn Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu phân tích một số vấn đề lý luận chung về phổ biến, giáo dục
pháp luật; cơ sở lý luận về quyền trẻ em và phổ biến, giáo dục pháp luật quyền trẻ
em.
- Đánh giá thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở nước ta
và trên địa bàn Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, hình thành các quan điểm,
phương hướng và đề xuất giải pháp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em phù hợp với tình hình ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là công tác phổ biến tri thức, giáo
dục nhận thức pháp luật về quyền trẻ em trong hệ thống văn bản pháp luật ở Việt
Nam nói chung và ở địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật
(trong đó tập trung nhấn mạnh vào công tác giáo dục pháp luật) về quyền trẻ em
trong hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng; thực trạng, giải pháp của công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trong những năm gần đây.
Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2012 đến nay. Bởi lẽ: Thứ nhất,
đây là giai đoạn mà Đảng và Nhà nước ta bắt đầu thay đổi nhận thức về Quyền con
người; vấn đề quyền con người được xác định là mục tiêu, là động lực của sự phát
triển, là bản chất của chế độ ta; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu; và dĩ nhiên rằng trong đó
có quyền trẻ em – tất cả điều đó được ghi nhận thông qua bản Hiến pháp 2013. Thứ
hai, đây cũng là giai đoạn Luật Phổ biến, Giáo dục pháp luật ra đời vào năm 2012 -
đánh dấu bước thay đổi và chuyển biến trong nhận thức và hành động của Đảng và
Nhà nước ta khi ghi nhận và đề cao vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trong đời sống xã hội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử trong nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Điều tra xã hội học đối với các đối tượng liên quan, nhằm đánh giá thực
trạng hiểu biết pháp luật về quyền trẻ em.
+ Nghiên cứu tài liệu, thống kê, phân tích những tài liệu có liên quan đến đề
tài; sử dụng sơ đồ, biểu mẫu để phục vụ nghiên cứu đề tài.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu các số liệu, tài liệu có liên quan trong
từng giai đoạn, từng đơn vị để có được những góc nhìn khách quan, đầy đủ với
nhiều khía cạnh, nhằm đạt được hiệu quả tối đa.
7
+ Phương pháp tổng hợp các dữ liệu có trong đề tài, nhằm đưa ra những nội
dung mang tính hệ thống, xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống của công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trên tất cả các phương diện: lý luận
và thực tiễn, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Về lý luận
Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù về mục đích, hình thức và phương
pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Luận văn phân tích và đánh giá khá toàn diện thực trạng phổ biến, giáo dục
pháp luật trong thực tiễn hiện nay, trên cơ sở đó nêu rõ được quan điểm, phương
hướng và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường hiệu quả công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam nói chung.
- Về thực tiễn
Kết quả luận văn góp phần vào việc bổ sung những vấn đề lý luận chung của
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em, trên cơ sở đó góp phần nâng
cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em nói riêng và phổ biến,
giáo dục pháp luật nói chung. Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng
trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoàn thiện các
chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trong phạm vi cả nước
và địa phương. Đồng thời luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy đối với các cơ sở giáo dục đại học, các trung tâm bồi dưỡng chính trị của
địa phương và những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần chú thích, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu tham
khảo. Luận văn gồm ba phần chính:
- Phần mở đầu, giới thiệu sơ lược về luận văn.
- Phần nội dung, đi vào nghiên cứu sâu đề tài, gồm có 3 chương:
8
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản quyền trẻ em và phổ biến, giáo dục
pháp luật về quyền trẻ em.
Chương 2. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở Việt
Nam và trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
- Phần kết luận.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TRẺ EM
VÀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM
1.1. Quyền trẻ em
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về trẻ em
Từ trong các thế kỷ XVI và XVII, xã hội đã bắt đầu xem trẻ em không phải là
một người lớn thu nhỏ nhưng là một người của một cấp dưới của sự trưởng thành
cần người lớn bảo vệ, thương yêu và nuôi dưỡng. Về mặt sinh học, một đứa trẻ là
bất kỳ ai trong giai đoạn phát triển của tuổi thơ ấu, giữa sơ sinh và trưởng thành.
Trẻ em nhìn chung có ít quyền hơn người lớn và được xếp vào nhóm không thể đưa
ra những quyết định quan trọng, và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ.
Do đó, cần nhận thức đúng và sâu sắc quyền trẻ em để có thể bảo vệ cũng như phổ
biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em, mà trước hết cần phải làm rõ được: Thế
nào là trẻ em?
Trẻ em, theo cách hiểu thông thường trong xã hội là những đứa trẻ nhỏ, chưa
trưởng thành. Tuy nhiên, đến độ tuổi nào thì không còn là trẻ em nữa? Về khái niệm
“trẻ em”, hiện nay pháp luật vẫn còn nhiều quy định khác nhau, thậm chí chồng
chéo nhau giữa Quốc tế với trong nước và giữa các văn bản pháp luật trong nước
với nhau.
Theo Điều 1, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em định nghĩa trẻ em
là: “...trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có
thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Việt Nam là
nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước này vào
ngày 20 tháng 2 năm 1990.
Ở Việt Nam, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam thì đưa ra khái
niệm: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trừ trường hợp pháp luật áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều này được quy định khá
10
đồng nhất trong các văn bản pháp luật của Việt Nam liên quan đến trẻ em. Cụ thể :
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Trẻ em số: 25/2004/QH11 được Quốc hội
thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 quy định tại Điều 1: “Trẻ em quy định trong
Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. Theo Luật trẻ em số:
102/2016/QH13 thông qua ngày 05 tháng 4 năm 2016 ra đời thay thế cho Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục Trẻ em nói trên, tại Điều 1 quy định: “Trẻ em là người
dưới 16 tuổi”. Ở đây có thể thấy, phạm vi quy định những người là trẻ em rộng hơn
so với cách hiểu thông thường từ trước đến nay. Đồng tình với quan điểm này, Luật
Thanh niên quy định thanh niên là người từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Điều 6 Bộ luật Lao động quy định người
lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng
lao động. Theo Công ước 182 - Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999) mà Việt Nam đã tham gia thì
thuật ngữ “trẻ em” áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi.
Về mặt dân sự, ở khía cạnh cơ bản nhất, Bộ luật Dân sự quy định: “Người từ
đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên”. Người chưa thành niên khi xác lập giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, cũng tại Bộ luật Dân sự lại quy định,
trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không
cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Đã là người thành niên (đủ
18 tuổi) nhưng theo Luật hôn nhân và gia đình thì các nam thanh niên chưa đủ 20
tuổi vẫn bị cấm kết hôn; nếu có quan hệ vợ chồng với người khác rất có nguy cơ bị
tội tảo hôn.
Về mặt hình sự, Bộ luật Hình sự quy định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người có hành vi giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi
11
đến dưới 16 tuổi thì phạm tội giao cấu với trẻ em. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ
em chưa đủ 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm trẻ em.
Điểm qua các quy định pháp luật liên quan đến trẻ em, thấy rằng, không dễ để
mọi người trong xã hội hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp luật quy định. Quá
nhiều quy định về độ tuổi trẻ em và rồi từ đó có nhiều người không hiểu rõ, dẫn đến
những hậu quả pháp lý khó lường.
Nhằm xác định đúng đối tượng và phạm vi đã nêu, trong đề tài này trẻ em
được hiểu theo định nghĩa của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam. Vậy
khái niệm trẻ em trong đề tài này được hiểu là: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới
16 tuổi trừ trường hợp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
1.1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em
Như đã nêu ở phần mở đầu, từ lâu trẻ em đã được coi là một trong các nhóm
xã hội dễ bỉ tổn thương nhất và được các nhà nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ.
Từ thế kỷ XIV, ở Châu Âu đã xuất hiện những dự án công cộng dành cho trẻ em,
hoặc ngay cả ở Việt Nam, Bộ Luật Hồng Đức cũng quy nhằm bảo vệ quyền của trẻ
em, nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới chính
thức được điển hóa trong pháp luật quốc tế, đã dấu mốc đánh dấu một bước ngoặt
trong nhận thức và hành động bảo vệ quyền trẻ em trên thế giới, đây cũng là tiền đề
để Liên Hợp Quốc đưa vấn đề quyền trẻ em phát triển lên một bước ngoặt mới
thông qua Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1959 và Công ước về
quyền trẻ em (CRC) ngày 20-11-1989, được xem là văn kiện quốc tế và toàn diện
nhất về quyền trẻ em.
Ở Việt Nam, cũng đã có rất nhiều văn bản đề cập đến công tác chăm sóc, bảo
vệ và giáo dục trẻ em, như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sau này là
Luật trẻ em, Luật giáo dục,... những cũng chỉ dừng lại ở việc nêu ra, liệt kê ra các
nội dung về quyền và nghĩa vụ của trẻ em mà không đưa ra được định nghĩa “quyền
trẻ em” cụ thể. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em
cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm
đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người
12
lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Bao
gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người, mọi gia đình dành cho
trẻ em và cả quyền được cha mẹ ruột yêu thương, cũng như những nhu cầu căn
bản: được ăn uống, được giáo dục phổ quát do nhà nước trả tiền, được chăm sóc
sức khoẻ và các điều luật hình sự thích hợp với độ tuổi và sự phát triển của trẻ em”.
Tuy nhiên các văn bản kể trên cũng chỉ đưa ra được tất cả các quyền và lợi ích
rất cụ thể, những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách an toàn, lành
mạnh mà chưa hề có bất kì một văn bản nào định nghĩa chính xác, toàn vẹn và đầy
đủ được khái niệm “Quyền trẻ em”. Bởi lẽ, quyền trẻ em là một phạm trù rất rộng
lớn, nó bao hàm rất nhiều yếu tố khác nhau và khái niệm khác nhau, liên quan đến
mọi mặt để một đứa trẻ được phát triển toàn diện, và bảo vệ an toàn tuyệt đối, nên
để định nghĩa chính xác trong từng câu chữ là một điều vô cùng khó khăn. Do đó,
chỉ có thể tùy thuộc vào từng quốc gia và từng đối tượng để có thể giải thích về
quyền trẻ em theo đúng mục đích, phạm vi mà họ quan tâm, họ hướng đến để bảo
vệ.
Theo đó, theo quan điểm của tác giả: Quyền trẻ em chính là quyền con người
được cụ thể hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc
sống của trẻ em, đó là những đặc quyền tự nhiên của trẻ em được quy định trong
pháp luật, đó là những quyền mà trẻ em được hưởng, được làm được tôn trọng
và thực hiện nhằm bảo đảm cho trẻ em không những được hưởng các quyền mà
còn trở thành chủ thể của các quyền đó. Nói cách khác, quyền trẻ em là tất cả
những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn.
Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng
nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá
trình phát triển. Bao gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người,
mọi gia đình dành cho trẻ em và cả quyền được cha mẹ ruột yêu thương, cũng như
những nhu cầu căn bản: được ăn uống, được giáo dục phổ cập do nhà nước trả tiền,
được chăm sóc sức khoẻ và các điều luật hình sự thích hợp với độ tuổi và sự phát
triển của trẻ em. Những cách giải thích về quyền trẻ em thay đổi từ cho phép trẻ em
13
khả năng tự quyết về hành động tới đảm bảo cho trẻ em tự do về thân thể, tinh thần
và tình cảm.
1.1.2. Phân loại
Cũng như khái niệm, việc phân loại quyền trẻ em cũng tùy thuộc vào mỗi
quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi tổ chức khác nhau, trên cơ sở các tiêu chí nhất
định mà họ đưa ra.
1.1.2.1. Phân loại theo Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em
Công ước về Quyền trẻ em là Luật quốc tế để bảo vệ trẻ em, bao gồm 54 điều
khoản. Công ước đề ra các quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn thế giới
đều được hưởng. Theo đó, quyền của trẻ em gồm hai mươi hai (22) quyền cụ thể
như:
1. Quyền về không phân biệt đối xử đối với trẻ em. Nguyên tắc cơ bản của Công
ước là mọi trẻ em phải được hưởng quyền của mình dù là gái hay trai, giàu hay
nghèo, khoẻ mạnh hay ốm đau, khuyết tật, đa số hay thiểu số, theo tôn giáo hay
không tôn giáo…
2. Quyền được có họ tên và quốc tịch. Trẻ em có quyền được đăng ký lập tức khi
sinh ra, và có quyền có họ tên và có quốc tịch ngay từ khi ra đời.
3. Quyền được bảo vệ và chăm sóc. Vì chưa đạt đến sự trưởng thành về mặt thể
chất và trí tuệ, trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, trước cũng như
sau khi ra đời. Các bậc cha mẹ là những người chịu trách nhiệm chính trong việc
nuôi nấng và giáo dục con cái của mình, cung cấp cho các em cơm ăn áo mặc. Khi
làm việc vắng nhà, chúng ta cần phải lo thu xếp sao cho trẻ em luôn được người lớn
có trách nhiệm trông nom, hoặc đưa các em đến nhà trẻ, trường học để các em được
an toàn và chăm sóc tốt.
4. Quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ. Trong trường hợp trẻ sống riêng với cha
hoặc mẹ của mình, các em có quyền gặp gỡ với người cha hay người mẹ mà các em
không được sống chung. Nếu vì một lý do nào đó mà một trong hai người đang ở
nơi khác, trẻ em có quyền được biết nơi ở và tình hình của cha, mẹ mình. Khi cha
14
mẹ không sống với con mình, họ cần phải chu cấp cho các em một khoản tiền trợ
cấp đảm bảo cho các em cuộc sống đầy đủ.
5. Quyền được chăm sóc sức khoẻ. Các bậc cha mẹ cần phải chăm sóc sức khoẻ
của con cái mình, giữ cho các em luôn sạch sẽ, được tiêm phòng và trong trường
hợp các em bị ốm đau, được đưa tới các trung tâm y tế, nơi có điều kiện chăm sóc
sức khoẻ cho các em.
6. Quyền được học hành. Trẻ em cần nhận được sự giáo dục cần thiết, được giúp
đỡ để phát triển tốt về thể chất, trí tuệ và xã hội, trở thành người công dân có trách
nhiệm và biết tôn trọng những quyền của người khác.
7. Quyền trẻ em trong trường học. Nghĩa vụ của thầy cô giáo là lên lớp và giảng
dạy tốt, khi uốn nắn trẻ em không được làm tổn hại đến các em, không được xúc
phạm trẻ em. Các bậc cha mẹ cần phối hợp với nhà trường trong việc giám sát để
đảm bỏ điều này được thực hiện.
8. Quyền được sống trong môi trường lành mạnh. Trẻ em có quyền được sống và
hưởng một môi trường lành mạnh và tự nhiên. Để có được điều này, người lớn phải
có trách nhiệm hướng dẫn và giáo dục các em biết giữ gìn thiên nhiên, nguồn nước,
bầu không khí, cây cối và các loài vật.
9. Quyền được giải trí. Trẻ em có quyền được vui chơi, giải trí và tham gia vào
bất kỳ một hoạt động nào cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân cách và thể
chất của các em.
10. Quyền được thông tin. Trẻ em có quyền được đọc sách báo, xem các chương
trình truyền hình và nghe các chương trình phát thanh phù hợp với lứa tuổi của các
em. Các bậc cha mẹ cần biết con cái mình đọc gì và xem gì, để hướng dẫn các em
tránh đọc và xem những điều làm cho các em sợ hãi, nhầm lẫn hoặc làm hại đến các
em.
11. Quyền được tổ chức hội họp. Trẻ em cũng có quyền được tự do kết giao và
tập hợp nhau theo những nhóm bạn cùng chung sở thích, cũng như tổ chức những
cuộc họp mang tính chất hoà bình.
15
12. Quyền được tự do bày tỏ ý kiến. Trong tất cả mọi quyết định có ảnh hưởng
đến trẻ em được đưa ra trong gia đình, trường học, toà án, bệnh viện hay tại bất kỳ
một cơ quan nào khác, người lớn cần lắng nghe ý kiến của trẻ em và làm những
điều tốt nhất cho các em.
13. Quyền được bảo vệ chống lại sự ngược đãi. Không ai được phép làm tổn hại
đến trẻ em. Nghĩa vụ của chúng ta là tôn trọng và bảo vệ các em. Không ai được
ngược đãi trẻ em trai và gái về mặt thể chất, bằng ngôn ngữ hoặc tình cảm, kể cả
cha, mẹ, thầy cô giáo hay những người chăm sóc trẻ. Ai xâm hại về thể chất và tinh
thần, làm tổn thương hoặc gây thương tích cho một bé trai hay gái là người phạm
tội.
14. Quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình dục. Các bậc cha mẹ có nghĩa
vụ bảo vệ con cái của mình tránh mọi nguy cơ bị xâm hại tình dục dưới mọi hình
thức khác nhau (từ những lời nói bóng gió, những cái vuốt ve mơn trớn, tiếp xúc
bằng tay đến những sự phô diễn xấu xa và hành vi cưỡng dâm). Không một ai, kể cả
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, anh em, họ hàng, thầy cô giáo, hàng xóm, hay những người
xa lạ với gia đình, có thể lạm dụng và xâm hại trẻ em về mặt tình dục. Lạm dụng
tình dục trẻ em là một tội ác. Nếu cha mẹ hay những người có trách nhiệm chăm sóc
các em nhận thấy những điều đó mà không báo cho các nhà chức trách thì bị coi là
kẻ đồng phạm.
15. Quyền được nhận làm con nuôi. Trẻ em vì một nguyên nhân nào đó không có
cha mẹ, đều có quyền có một gia đình và được nhận làm con nuôi dưới hình thức
hợp pháp. Cấm mọi hành vi mua bán trẻ em. Hãy nhớ rằng buôn bán trẻ em là một
tội ác.
16. Quyền được nhận sự chăm sóc đặc biệt. Những trẻ em không thể nhìn, không
thể nghe, phải dùng xe đẩy, nạng hay máy móc hỗ trợ; chậm phát triển hay có bệnh
về mặt tinh thần, đều có quyền được mọi người yêu quý, chăm sóc, tôn trọng, được
phục hồi chức năng và tạo điều kiện để làm việc bởi vì các em có giá trị cho chính
bản thân mình, tuỳ theo khả năng sẵn có của các em. Các bậc cha mẹ cần phải tìm
kiếm và nhận sự trợ giúp cũng như các thông tin cần thiết.
16
17. Quyền được bảo vệ chống lại sự bóc lột. Cấm lợi dụng trẻ em, buộc các em
đi làm ăn xin, hoặc làm việc vì lợi ích riêng của người lớn. Đây chính là hình thức
bóc lột trẻ em. Không một ai có quyền làm điều đó, kể cả các bậc cha mẹ.
18. Quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế. Trẻ em gái và trai từ đủ 15 tuổi
trở lên do nhu cầu cần phải lao động sớm, phải có chế độ làm việc đặc biệt, chỉ làm
những công việc nằm trong khả năng của mình, tại nơi không nguy hiểm và không
độc hại. Các em cần phải được lĩnh một khoản tiền lương hợp lý để sử dụng cho
nhu cầu của mình và phải có thời gian để các em học tập, vui chơi giải trí.
19. Trẻ em và cuộc sống nội trú. Vì một lý do nào đó mà trẻ em phải sống nội trú
trong bệnh viện hoặc trung tâm giáo dưỡng thì có quyền được đối xử tốt, được giải
thích vì sao các em ở đó và khi nào các em được ra, được tôn trọng về mặt nhân
phẩm, được thương yêu và tạo mọi cơ hội để phát triển và nâng cao trình độ.
20. Bảo vệ trẻ em chống mọi hình thức tra tấn và đối xử tàn tệ. Cấm mọi hành vi
làm nhục, đối xử dã man và vô nhân đạo đối với trẻ em như đốt, trói, đánh đập bằng
gậy gộc và những vật dụng khác. Người lớn có nghĩa vụ phải bảo vệ các em và tố
cáo với các nhà chức trách khi biết được ai đó đang phạm tội ác này.
21. Khi trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật. Luật pháp quy định, không một trẻ
em nào có thể bị bắt hay bị tạm giam, tạm giữ trong đồn cảnh sát hoặc nhà tạm giữ
nếu chưa có quyết định tạm giam, tạm giữ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Không trẻ em nào có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có phán
quyết của Toà án. Trẻ em làm trái pháp luật cần nhận được mọi sự giúp đỡ, chăm
sóc cần thiết để có điều kiện sớm hoà nhập vào cuộc sống của gia đình và cộng
đồng, tránh các hành vi tái phạm. Các bậc cha mẹ và những người giám hộ đỡ đầu
chính là những người chịu trách nhiệm về mọi hành vi của con cái mình.
22. Bảo vệ trẻ em trước nạn ma tuý. Các bậc cha mẹ hay người giám hộ phải
luôn cảnh giác, phải giáo dục và hướng dẫn trẻ em nhằm ngăn ngừa việc các em
tiêu thụ và sử dụng ma tuý, thuốc lá, rượu và bất kỳ sản phẩm nào khác làm hại đến
sức khoẻ của các em.
17
1.1.2.2. Phân loại theo Luật trẻ em 2016
Ở Việt Nam Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc Hội thông
qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, lại phân quyền trẻ em thành chín (09) quyền cơ bản
sau:
1. Quyền được khai sinh và có quốc tịch.
2. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng.
3. Quyền sống chung với cha mẹ.
4. Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự.
5. Quyền được chăm sóc sức khoẻ. Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ
sức khoẻ.
6. Quyền được học tập. Trẻ em có quyền được học tập.
7. Quyền được phát triển năng khiếu.
8. Quyền có tài sản.
9. Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Nhưng sau đó Luật Trẻ em năm 2016 thay thế cho Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004 đã bổ sung thêm 16 quyền nữa, tổng cộng sau khi đã sửa
đổi bổ sung, thì trẻ em có tổng cộng 25 quyền, được quy định từ Điều 12 đến Điều
16 trong Mục 1 của Chương 2. Cụ thể:
1. Quyền sống: Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất
các Điều kiện sống và phát triển.
2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch: Trẻ em có quyền được khai sinh, khai
tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định
của pháp luật.
3 . Quyền được chăm sóc sức khỏe: Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về
sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa
bệnh.
4. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển toàn diện.
18
5. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu: Trẻ em có quyền
được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của
bản thân; Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài
năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh.
6. Quyền vui chơi, giải trí: Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí: được bình đẳng về
cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù
hợp với độ tuổi.
7. Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc: Trẻ em có quyền được tôn trọng đặc Điểm
và giá trị riêng của bản thân phù hợp với độ tuổi và văn hóa dân tộc; được thừa
nhận các quan hệ gia đình; Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình.
8. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Trẻ em có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và phải được bảo đảm an toàn, vì lợi
ích tốt nhất của trẻ em.
9. Quyền về tài sản: Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với
tài sản theo quy định của pháp luật.
10. Quyền bí mật đời sống riêng tư: Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; Trẻ
em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại
sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư.
11. Quyền được sống chung với cha, mẹ: Trẻ em có quyền được sống chung với
cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly
cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; Khi phải
cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ,
gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
12. Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ: Trẻ em có quyền được
biết cha đẻ, mẹ đẻ, trừ trường hợp ảnh hưởng đến lợi ích tốt nhất của trẻ em; được
duy trì mối liên hệ hoặc tiếp xúc với cả cha và mẹ khi trẻ em, cha, mẹ cư trú ở các
19
quốc gia khác nhau hoặc khi bị giam giữ, trục xuất; được tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xuất cảnh, nhập cảnh để đoàn tụ với cha, mẹ; được bảo vệ không bị đưa ra
nước ngoài trái quy định của pháp luật; được cung cấp thông tin khi cha, mẹ bị mất
tích.
13. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi: Trẻ em được chăm sóc
thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ
đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích
tốt nhất của trẻ em; Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi.
14. Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục: Trẻ em có quyền được bảo
vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục.
15. Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động: Trẻ em có quyền được
bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động
trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo
quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng
xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em.
16. Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc: Trẻ em có quyền
được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến
sự phát triển toàn diện của trẻ em.
17. Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt: Trẻ
em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh
tráo, chiếm đoạt.
18. Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy: Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi
hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy.
19. Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em có
quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm
quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được
trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật;
20
không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm
thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
20. Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung
đột vũ trang: Trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để
thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang.
21. Quyền được bảo đảm an sinh xã hội: Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo
đảm an sinh xã hội theo quy định của pháp luật phù hợp với Điều kiện kinh tế - xã
hội nơi trẻ em sinh sống và Điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em.
22. Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội: Trẻ em có
quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu
nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham
gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực
của trẻ em.
23. Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp: Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định
của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em;
được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản
hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng.
24. Quyền của trẻ em khuyết tật: Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các
quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được
hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự
lực và hòa nhập xã hội.
25. Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn: Trẻ em không
quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị nạn được bảo vệ và hỗ trợ nhân
đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Như vậy, dù cho Pháp luật Quốc tế hay Pháp luật trong nước, có sự phân chia
khác nhau về các quyền trẻ em cụ thể, nhưng nhìn chung, ta có thể phân chia khái
quát các quyền trẻ em thành bốn (04) nhóm quyền cơ bản sau:
21
+ Nhóm Quyền được sống còn: bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc
sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát
triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức
khoẻ. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời.
+ Nhóm Quyền được phát triển: gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát
triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham
gia các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và
tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển
hài hoà.
+ Nhóm Quyền được bảo vệ: bao gồm những quy định như trẻ em phải được
bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình dục, lạm
dụng ma tuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em còn được bảo
vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư. Quyền được bảo vệ bao gồm
cả không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng trong trường hợp trẻ em làm trái pháp
luật hay bị giam giữ.
+ Nhóm Quyền được tham gia: tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày
tỏ quan điểm và ý kiến về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ
em còn có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp hoà bình, được tạo điều kiện tiếp cận
các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp.
1.2. Pháp luật về Quyền trẻ em
1.2.1. Quyền trẻ em theo Luật Quốc tế.
Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã đưa vấn đề trẻ em phát triển lên một
bước ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người năm 1948 và hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 là mọi người có quyền hoặc bất kì người
nào có quyền... trẻ em được thừa nhận là chủ thể bình đẳng với người lớn trong tất
cả các quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế.
Tuy nhiên cách tiếp cận “cào bằng” vị thế chủ thể của quyền giữa người lớn
và trẻ em cũng không hoàn toàn phù hợp, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả
22
về thể chất lẫn tinh thần. Bởi vậy, ngay trong UDHR (Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền), ICCPR (Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị) và
ICESCR (Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa), trẻ em đã
được ghi nhận những quyền đặc thù, đặc biệt là quyền được chăm sóc, giáo dưỡng
và bảo vệ đặc biệt. Dựa vào cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại Hội đồng Liên hợp
quốc đã thông qua một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên bố của Liên hợp
quốc về quyền trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên Hợp quốc xây dựng và
thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC) vào ngày 20-11-1989.
Tính đến thời điểm hiện nay, CRC vẫn là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn
diện nhất về quyền trẻ em. Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện duy nhất về vấn
đề này. Để thấy được toàn bộ khuôn khổ pháp lý quốc tế về quyền và bảo vệ quyền
trẻ em, cần nghiên cứu các văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư
không bắt buộc bổ sung Công ước về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ
trang và về buôn lậu trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (cùng được
Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2000), các công ước và khuyến nghị có
liên quan của Tổ chức Lao động Quốc tế, viết tắt là ILO (mà tiêu biểu là Công ước
số 138 về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 về xóa bỏ những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất), các tuyên bố, hướng dẫn, quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên
hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên và một số văn kiện khác.
1.2.2. Quyền trẻ em theo pháp luật Việt Nam.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990.
Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực
tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả
các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào
năm 2001), năm 2013. Trong Hiến pháp năm 2013 - một trong những thành tựu của
gần 30 năm đổi mới của Việt Nam (1986 - 2016) - là văn kiện pháp lý và đạo luật
đặc biệt quan trọng phản ánh ý chí của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, tạo cơ
sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng bảo vệ phát triển và hội
23
nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới, quyền trẻ em được quy định trực
tiếp tại khoản 1, Điều 37.
Quyền trẻ em cũng được thể chế hóa trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau, cụ thể:
- Trong hệ thống pháp luật về trẻ em, đã có hẳn một đạo luật chuyên ngành
điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến trẻ em - Luật trẻ em 2016.
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về trẻ em rộng lớn, liên quan đến các quyền, bổn
phận của trẻ em, trách nhiệm của nhà nước, gia đình, xã hội trong việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm quyền trẻ em
và đối với hành vi vi phạm của trẻ em. Xu hướng nhân đạo hoá đã thể hiện rõ nét
trong hệ thống các quy định pháp luật về truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với trẻ
em vi phạm pháp luật. Đồng thời, cũng nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi
phạm quyền trẻ em. Đây chính là cơ sở pháp lý thể chế hoá chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em phù hợp với Công ước quốc về
quyền trẻ em mà nhà nước ta đã phê chuẩn. Luật trẻ em có các quy định nghiêm
cấm các hành vi như cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình
giám hộ; dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang, lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi;
cản trở việc học tập của trẻ em; áp dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp
danh dự, nhân phẩm hoặc dùng nhục hình đối với trẻ em vi phạm pháp luật
vv…Nguyên tắc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là không phân biệt đối xử,
dành lợi ích tốt nhất để trẻ em thực hiện quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về
thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, bảo đảm cho trẻ em được sống trong một môi
trường an toàn và lành mạnh. Đồng thời, Luật còn quy định về những việc trẻ em
không được làm: tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang; xâm phạm tính mạng, thân
thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; sử dụng văn hoá phẩm có nội
dung xấu,...
- Pháp luật về hôn nhân và gia đình nước ta đã có vai trò to lớn trong việc
bảo vệ các quyền trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định các
nguyên tắc cơ bản: nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ trẻ em,
24
không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, con trai và con gái, con đẻ và
con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú; nghiêm cấm mọi hành vi ngược
đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong
gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, giáo dục con cái phát triển lành mạnh
về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Quyền và lợi ích của trẻ em còn được thể hiện trong
các quy định của chế định con nuôi trên nguyên tắc khuyến khích việc nhận trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn làm con nuôi, nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để
thực hiện những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật.
- Bên cạnh quyền và nghĩa vụ nhân thân, trẻ em còn có quyền và nghĩa vụ tài
sản. Bộ Luật dân sự Việt nam đã có những quy định bảo vệ quyền trẻ em thông qua
các cơ sở pháp lý như: xác định chế định về năng lực chủ thể pháp luật dân sự của
người chưa thành niên, chế định giám hộ; chế định thừa kế với việc bảo vệ quyền
lợi cho trẻ em là con nuôi... Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nhận
trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tận làm con nuôi. Đồng thời “nghiêm cấm” lợi
dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục mua bán trẻ
em hoặc vì lợi ích trục lợi khác.
- Bên cạnh việc bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm hại của tội phạm, Bộ luật hình sự
đã có những quy định áp dụng đối với trẻ em phạm tội thể hiện chính sách xử lý
hình sự nhân đạo của pháp luật. Đối với trường hợp trẻ em phạm tội, do còn non nớt
về thể chất và trí tuệ, do dễ bị tác động xấu của môi trường xung quanh nên chính
sách hình sự áp dụng đối với trẻ em phạm pháp mang tính nhân đạo, khoan hồng.
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Mục
đích chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành người công dân có ích cho xã hội. Bộ luật hình sự đã quy định cụ thể
và nghiêm khắc các chế tài đối với những hành vi xâm phạm quyền trẻ em trong đó
bổ sung nhiều quy định về các tội phạm mới với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự. Người phạm tội giết phụ nữ mà biết là có thai, hoặc giết trẻ em đều có thể
25
bị áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình; hành vi đối xử tàn ác với trẻ em là những
người lệ thuộc như một tình tiết tăng nặng và bị xử lý nghiêm khắc.
- Pháp luật lao động Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Là thành viên chính thức của ILO, Việt Nam
đã tham gia phê chuẩn nhiều Công ước của tổ chức này về lao động trẻ em. Bộ luật
lao động đã giành một chương riêng - chương XI về lao động người chưa thành
niên và một số lao động khác. Bộ luật đã quy định những điều cấm và những nghĩa
vụ ràng buộc đối với người sử dụng lao động trong việc sử dụng lao động trẻ em,
trong việc bảo vệ lao động nữ trong thời kỳ thai nghén, nuôi con nhỏ, chỉ được sử
dụng trẻ em vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để đảm bảo sự phát triển
thể lực, trí lực, nhân cách của họ. Đồng thời cũng quy định những biện pháp chế tài
áp dụng đối với những hành vi vi phạm đối với các đối tượng sử dụng lao động.
- Hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã có những quy định
tương đối đầy đủ để xử lý những hành vi vi phạm quyền trẻ em cũng như xử lý
những hành vi vi phạm do trẻ em thực hiện. Đường lối xử lý nhằm tăng cường hiệu
quả đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính, thể hiện tính nhân đạo và trách
nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giáo dục trẻ em nhằm bảo đảm lợi ích tốt
nhất cho trẻ em, phù hợp với tâm sinh lý của trẻ em.
- Ngoài ra, quyền trẻ em còn được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong những
ngành Luật cụ thể và trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Luật giáo dục và các văn bản khác.
Như vậy, Hệ thống pháp luật về trẻ em nước ta đã góp phần to lớn vào sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thể hiện đầy đủ các nguyên tắc của
Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tạo điều kiện cho trẻ em Việt Nam được quan
tâm, chăm sóc và bảo vệ của toàn xã hội để phát triển toàn diện.
26
1.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật quyền trẻ em
1.3.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
Cho đến nay, những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ở nước ta vẫn còn là một vấn đề
mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống.
Để xác định được đúng bản chất, mục đích, nội dung, phương pháp, đối tượng
của PBGDPL về quyền trẻ em, trước hết, chúng ta cần phải xuất phát từ vấn đề cơ
bản của phổ biến và giáo dục pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo
dục pháp luật.
Thứ nhất, Phổ biến pháp luật có hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp: là giới thiệu tinh thần bản pháp luật cho đối tượng của nó.
- Nghĩa rộng: là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả
nước. Trong các văn bản của ta, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp.
Thứ hai, Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình
nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (Thuyết phục, nêu
gương, ám thị...) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng
cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Nên, cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp: là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri
thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Nghĩa rộng: là công tác, lĩnh vực, ngạch, phổ biến giáo dục pháp luật bao
gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật:
Định hướng công tác phổ biến,giáo dục pháp luật;
Lập chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật;
Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật;
Triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật;
27
Kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục pháp
luật, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lí luận... về phổ
biến giáo dục pháp luật.
Như vậy, trên cơ sở trên, có thế thấy rằng, phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em cũng được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp,
PBGDPL về quyền trẻ em là việc truyền bá pháp luật liên quan đến trẻ em và quyền
trẻ em cho các đối tượng (bao gồm trẻ em và các đối tượng liên quan khác) nhằm
nâng cao tri thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho các đối tượng, từ đó nâng cao ý
thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về quyền trẻ em. Theo
nghĩa rộng, PBGDPL về quyền trẻ em là một quá trình thường xuyên, liên tục, từ
khâu định hướng, lập chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em; cho đến việc áp dụng các hình thức nhất định để triển khai chương trình, kế
hoạch PBGDPL về quyền trẻ em đã đề ra; đồng thời kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sơ
kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục pháp luật, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu
khoa học, nâng cao trình độ lý luận về phổ biến giáo dục pháp luật quyền trẻ em.
Tóm lại, có thể khái quát chung nhất khái niệm Phổ biến, giáo dục pháp luật
về quyền trẻ em như sau: Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em là hoạt động
có tính định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể thực hiện phổ biến, giáo
dục pháp luật lên đối tượng phổ biến giáo dục; nhằm hình thành cho họ tri thức về
quyền trẻ em, tôn trọng, bảo vệ quyền của trẻ em và giúp trẻ em biết tự bảo vệ
quyền của mình phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực pháp luật quốc tế,
pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân loại.
1.3.2. Sự cần thiết và mục tiêu của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em.
1.3.2.1. Sự cần thiết của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em được xem như là một quá trình
đào tạo, phổ biến và thông tin về pháp luật, nhằm xây dựng một nền văn hóa phổ
biến về quyền trẻ em thông qua truyền đạt kiến thức pháp luật, kỹ năng và thái độ
nhằm:
28
- Tăng cường sự tôn trọng quyền trẻ em;
- Thúc đẩy sự hiểu biết, bình đẳng, và bảo vệ quyền trẻ em;
- Tạo nên một cơ chế thống nhất, vận hành xuyên suốt và hiệu quả pháp luật
về quyền trẻ em trong xã hội.
Do đó, việc phổ biến và đặc biệt là giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần
cung cấp những kiến thức cơ bản về quyền của trẻ em và cơ chế bảo vệ quyền trẻ
em, mà còn nhằm mục đích truyền đạt các kỹ năng quan trọng giúp mọi người hiểu
biết và hành động tích cực để thực hiện các quyền của trẻ em, tôn trọng, thúc đẩy và
bảo vệ quyền trẻ em. Đồng thời, cũng đem lại sự phát triển toàn diện cho trẻ em
trong sự hiểu biết của xã hội, và cách thức để mọi người biết được các quyền của trẻ
em, và từ sự hiểu biết đó, phát sinh những đòi hòi và phương pháp thiết thực để bảo
vệ quyền của trẻ em.
Quyền trẻ em là sự kết tinh những giá trị cao đẹp của nhân loại, con người
phải rải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ để giành được những quyền
ấy, nhưng thực tế là “hàng triệu người sinh ra và chết đi mà không hề biết rằng họ
là chủ thể của quyền con người...” và đương nhiên trong đó có quyền trẻ em. Mặt
khác, sự vi phạm nghiêm trọng về quyền trẻ em, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trẻ em bị áp bức, bóc lột, xâm phạm, đày đọa về thể xác lẫn tinh thần ngày một
nhiều và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Có thể nói rằng, sự hiểu biết về quyền là
điều kiện cần đầu tiên để mọi người thực hiện và bảo vệ quyền trẻ em trong thực
tiễn, tránh những vi phạm về quyền, sẽ thức đẩy một xã hội hòa bình, công bằng,
văn minh và phát triển. Điều đó chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua công tác
phỏ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em là vấn đề cấp thiết khi mà Nhà nước ta
đang xây dựng Nhà nước theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như
hiện nay. Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là Nhà nước bảo đảm tính giai cấp, tính
nhân dân. Nhà nước pháp quyền không phải là một tổ chức quyền lực mà chỉ là một
trật tự pháp luật, trong Nhà nước đó có sự phục tùng Nhà nước vào pháp luật, có sự
29
phân chia quyền lực và thừa nhận sự phục tùng của tất cả các cơ quan Nhà nước vào
pháp luật, đồng thời pháp luật giữ vị trí thống trị trong đời sống xã hội, có sự phân
công quyền lực, có cơ chế hữu hiệu chống lại sự vi phạm quyền con người, công
chức thông thạo, tích cực về phương diện chính trị pháp lý. Do đó, việc đưa pháp
luật nói chung và pháp luật về quyền trẻ em nói riêng trở thành một trật tự, một
thước đo chuẩn mực trong xã hội là đồng nghĩa với việc xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cách thức để thực hiện điều đó
chính là PBGDPL về quyền trẻ em đến với tất cả mọi con người trong xã hội.
Không những thế, trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình
thương yêu và quan tâm đặc biệt. Với Bác, trẻ em là những mầm non, những người
chủ tương lai của đất nước. Bác nói: “cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có
xanh thì lá mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì
dân tộc mới tự cường tự lập”. Đặt niềm tin và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của
trẻ em là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Bác còn
thường xuyên quan tâm nhắc nhở và giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho các
ngành, đoàn thể. Trong Di chúc thiêng liêng trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Bởi
lẽ đó, bảo vệ trẻ em hôm nay, chính là xây dựng đất nước mai sau. Thông qua các
chế định pháp luật về quyền trẻ em, Nhà nước thể hiện sự quan tâm, sự kỳ vọng và
bảo vệ trẻ em một cách toàn vẹn nhất. Việc PBGDPL về quyền trẻ em cũng là một
cách để đưa pháp luật đến gần hơn với đời sống, đồng nghĩa với đó là giúp Nhà
nước đưa pháp luật bảo vệ quyền của trẻ em vào thực tiễn.
Như vậy, PBGDPL về quyền trẻ em là một hành động vô cần thiết trong giai
đoạn hiện nay, để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành
một nhà nước công bằng, vững mạnh, Nhà nước mà ở đó, Trẻ em - tương lai của đất
nước, được tạo mọi điều kiện tốt nhất để được chăm sóc, giáo dục và phát triển toàn
diện.
30
1.3.2.2. Mục tiêu của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em mang ý nghĩa vô cùng to lớn, do
đó hoạt động này cần phải có mục tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển thế hệ
tương lai, là hướng đến phát triển con người, hòa bình, dân chủ và tôn trọng Nhà
nước pháp quyền. Để đạt được mục tiêu đó, nhiều nhà nghiên cứu, các nhà học giả,
các cơ quan chuyên môn đã đưa ra những mục tiêu cụ thể cho hoạt động PBGDPL
làm kim chỉ nam cho hoạt động này. Trên cơ sở đó, công tác PBGDPL về quyền trẻ
cần truyền tải đến con người những hiểu biết về:
- Những giá trị cố hữu thuộc về trẻ em và quyền của trẻ em cần được ghi nhận,
tôn trọng và bảo vệ.
- Những quy định của pháp luật trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực khác nhau
liên quan đến quyền của trẻ em.
- Làm thế nào để những chế định pháp luật đó, đến gần hơn với nhân dân, mọi
tầng lớp người trong xã hội, giúp họ nhìn nhận đúng, đầy đủ và hoàn thiện về nó, từ
đó hành động tự giác, tích cực và hiệu quả. Đồng thời, đưa pháp luật trở thành “tập
quán” trong xã hội.
- Bảo vệ được những quyền cơ bản của trẻ em, giúp trẻ em có được một môi
trường có điều tốt nhất, an toàn nhất, đề phát triển toàn diện.
- Tiếp tục phát triển pháp luật về quyền trẻ em và điều chỉnh phù hợp với xu
thế chung của thế giới và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
1.3.3. Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phương pháp phổ biến, giáo
dục pháp luật quyền trẻ em.
1.3.3.1. Khách thể, đối tượng của giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khách thể. Tùy theo tính chất,
phương pháp, đối tượng nghiên cứu khác nhau mà các ngành khoa học khác nhau
có những quan niệm về các khách thể và đối tượng nghiên cứu của mình. Cụ thể:
Theo khoa học pháp luật, khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật
chấ, chính trị và tinh thần mà các công dân, tổ chức mong muốn đạt được nhằm
thỏa mãn những nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực
31
hện quyền chủ thể, nghĩa vụ pháp lý. Khách thể là đối tượng chịu tác động, chi phối
hoạt động trong quan hệ đói lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể.
Theo một số nhà nghiên cứu giáo dục pháp luật Việt Nam thì khách thể của
giáo dục pháp luật là ý thức pháp luật và những thói quen, nếp sống, hành vi ứng xử
của công dân, của các nhóm cộng đồng và toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định
của nền văn hóa pháp lý. Còn đối tượng của giáo dục pháp luật là những cá nhân
công dân, hay những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể, tiếp nhận tác động của các loại
hoạt động giáo dục pháp luật mà ý thức và hành vi của họ là khách thể của giáo dục
pháp luật. Nghĩa là khách thể và đối tượng của giáo dục pháp luật là hai phạm trù
mang ý nghĩa khác nhau.
Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em cũng là một dạng của quan hệ
giáo dục, là một dạng quan hệ xã hội nên nó cũng chứa đựng những yếu tố chung
nhất về khái niệm khách thể như những quan hệ xã hội khác, dạng giáo dục khác.
Trên cơ sở đó, khách thể của PBGDPL về quyền trẻ em chính là những nhận thức,
tính cảm, hành vi hành động của những cá nhân, những tập thể được hình thành
qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật quyền trẻ em. Hay nói cách khác, nó
chính là mục đích, kết quả mà chủ thể PBGDPL quyền trẻ em muốn đạt được, khi
tác động lên đối tượng phổ biến, giáo dục.
Trong mối quan hệ giữa khách thể và đối tượng, thì đối tượng phổ biến, giáo
dục có vai trò tiếp nhận sự tác động của hoạt động phổ biến, giáo dục và là phương
tiện để khách thể thông qua đó mà biểu đạt ra bên ngoài.
Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luât về quyền trẻ em là một trong
những vấn đề cơ bản của lý luận giáo dục. Cũng như các dạng giáo dục khác, việc
xác định nội dung, phương pháp, hình thức phổ biến, giáo dục thích hợp nhằm thực
hiện hiệu quả cao phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn về
đối tượng phổ biến giáo dục quyền trẻ em.
Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trước hết bao gồm
toàn bộ cá nhân, đặc biệt là trẻ em, đang tồn tại trong cộng đồng nhân loại, bao gồm
tất cả các dân tộc trong mối quan hệ quốc tế. Trong mỗi dân tộc cụ thể, đối tượng
32
PBGDPL về quyền trẻ em, là trẻ em, những cá nhân công dân khác, những nhóm,
cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận những tác động của hoạt động PBGDPL về
quyền trẻ em vừa mang tính quốc tế, vừa mang tính quốc gia mà mà ý thức và hành
vi của họ là khách thể của PBGDPL về quyền trẻ em. Đối tượng PBGDPL về quyền
trẻ em ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm chung của cộng đồng nhân loại, vừa
có những đặc điểm riêng biệt; nó rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại thành
các nhóm dựa trên cơ sở, yếu tố, phản ánh trạng thái, địa vị pháp lý, điều kiện kinh
tế, môi trường sống, việc làm, truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo của từng đối
tượng phổ biến, giáo dục. Các chủ thể phổ biến, giáo dục sẽ lựa chọn nội dung, hình
thức, để phổ biến, giáo dục phù hợp nhằm làm cho đối tượng phổ biên, giáo dục
tiếp thu được những tri thức cần thiết về quyền trẻ em để họ thực hiện quyền, nghĩa
vụ của mình, thích ứng với vai trò, địa vị pháp lý của họ trong quan hệ với cộng
đồng, với công dân khác.
Trên cơ sở tình hình thực tế và phạm vi của đề tài này, có thể phân loại các
nhóm đối tượng để phục vụ cho hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em như sau:
- Nhóm đối tượng thứ nhất, là trẻ em. Trong nhóm này, còn có thể chia nhỏ
đối tượng theo độ tuổi để có cách thức phổ biến, giáo dục phù hợp. Ví dụ như:
Nhóm trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm trẻ em từ 6 đến 10 tuổi, và nhóm trẻ em trên 10
tuổi.
- Nhóm đối tượng thứ hai, là nhóm mà theo pháp luật Việt Nam, không còn
được coi là trẻ em, nhưng cũng chưa được pháp luật công nhận có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Đó chính là nhóm đối tượng từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi.
- Nhóm đối tượng thứ ba, là nhóm gia đình và người thân.
- Nhóm đối tượng thứ tư, là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thực
hiện công tác phổ biến và giáo dục về quyền trẻ em.
- Nhóm đối tượng thứ năm, là nhà trường và tổ chức liên quan đến trẻ em.
- Nhóm đối tượng thứ sáu, là nhóm người lớn khác.
Đối với từng nhóm đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em kể
trên, cần có sự nghiên cứu đầy đủ những đặc điểm của họ về tâm lý, tuổi tác, trình
33
độ văn hóa, tôn giáo, giới tính, điều kiện sống để xác định đúng nội dung, phương
pháp phổ biến, giáo dục thích hợp.
1.3.3.2. Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em.
Theo từ điển Tiếng Việt, có thể hiểu chủ thể “là đối tượng gây ra hành động
mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng chi phối của hoạt động tác
động, gọi là khách thể”.
Theo quan điểm Giáo dục học, chủ thể của giáo dục là những thầy cô và
những người làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục khác.
Vận dụng quan niệm trên vào PBGDPL về quyền trẻ em có thể thấy rằng, tuy
đây là một dạng giáo duc, nhưng nó có những đối tượng, phương pháp, hình thức
giáo dục khác với giáo dục trong các nhà trường. Người thực hiện hiện công tác
PBGDPL về quyền trẻ em không chỉ là những thầy giáo, cô giáo, những cá nhân
làm công tác giáo dục mà còn có cả các tổ chức, cơ quan được giao nhiệm vụ hoặc
tự nhận nhiệm vụ PBGDPL về quyền trẻ em trước công đồng, xã hội; hoặc các tổ
chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục này ở
Việt Nam. Do đó, có thể nói rằng chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em là những cá nhân, cơ quan, tổ chức làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao hoặc mang tính tự nguyện, mang tính
trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục
pháp luật về quyền trẻ em. Có những chủ thể đồng thời là đối tượng của dạng phổ
biến, giáo dục này.
Việc xác định chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em có ý
nghĩa rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em.
Trên cơ sở mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và đối tượng trong
hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em - chủ yếu là các hoạt động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch giữa người phổ biến, giáo dục lên đối tượng phổ biến, giáo dục -
cho phép xác định đúng mức nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động lên
hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em của đối tượng giáo dục này; cũng như cho
phép xác định chính xác yêu cầu khách quan của chủ thể PBGDPL về quyền trẻ em
34
trong việc xác định nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp để tiếp
cận đối tượng đưa ra một cách hiệu quả nhất.
1.3.3.3. Nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em.
a) Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
Việc xác định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em là yếu tố
quan trọng hàng đầu của quá trình PBGDPL về quyền trẻ em. Nội dung dựa trên cơ
sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể, xuất phát từ đặc
điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng giáo dục này. Phạm vi PBGDPL về quyền trẻ
em rất rộng, nhưng lại có thể lồng ghép, đan xen với nội dung của các hoạt động
giáo dục khác.
Căn cứ theo Luật số: 14/2012/QH13 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật được
Quốc Hội thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2012, tại Điều 10 có quy định rõ ràng về
nội dung PBGDPL, đây là điều khoản quy định rõ ràng, chi tiết về nôi dung của
công tác PBGDPL của tất cả các ngành Luật nói chung. Cụ thể như sau:
“Điều 10. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các
quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình
đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc
phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp
luật mới được ban hành.
2. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
3. Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích
của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.”
Theo đó, có thể chỉ ra nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
bao gồm những vấn đề sau:
35
- Các quy định của pháp luật về quyền trẻ em, bao gồm những tuyên ngôn,
công ước quốc tề về quyền trẻ em và ghi nhận bảo đảm của Hiến pháp, pháp luật
quốc gia
- Các quan điểm hiện nay trên thế giới, quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vẫn đề trẻ em và
quyền trẻ em.
- Lịch sử hình thành và phát triển quyền trẻ em ở trên thế giới và Việt Nam.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, hính thức, phương pháp, nội dung, kinh
nghiệm tổ chức thực hiện hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em.
- Các thông tin về hệ thống, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện, sự
tác động, ảnh hưởng của công tác PBGDPL về quyền trẻ em của Liên Hợp quốc,
của các quốc gia, và Việt Nam....
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng cần đáp ứng đủ các nội dung nói trên. Mà
cần phải có sự phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan về các nội dung
để tạo ra nhận thức một cách đúng đắn về vấn đề quyền trẻ em, tránh tình trạng áp
đătk, chủ quan, định kiến duy ý chí, dẫn đến những nhận thức sai lệch và không đạt
được hiệu quả PBGDPL về quyền trẻ em. Vì thế, khi thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật về quyền trẻ em, cần xác định rõ ràng mục đích cần đạt được ở từng đối
tượng nhất định. Có thể phân định nội dung PBGDPL về quyền trẻ em thành ba cấp
độ cơ bản sau:
- Yêu cầu tối thiểu về nội dung PBGDPL về quyền trẻ em cho mọi công dân.
Cấp độ này bao gồm những nội dung tối thiểu nhất, phổ thông nhất về quyền trẻ em,
phù hợp với đối tượng đại đa số , nhằm giúp họ hình thành những tri thức tối thiểu,
hình thành tình cảm, thói quen đơn giản trong việc thực hiện quyền trẻ em.
- Yêu cầu riêng về PBGDPL về quyền trẻ em, theo nhu cầu về ngành nghê, địa
vị xã hội, giới, nhóm xã hội. Nội dung ở cấp độ này thường có tính tổng hợp, hệ
thống và nền tảng, bao gồm: hệ thống khái niệm, các phạm trù cơ bản về quyền trẻ
em, những tri thức về quyền trẻ em được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, pháp luật
quốc gia, việc xử lý vi phạm ,....
36
- Yêu cầu giáo dục có tính chuyên ngành về quyền trẻ em. Đây là cấp độ cao
nhất của PBGDPL về quyền trẻ em gồm những tri thức mang tính chuyên sâu,
những vấn đề mang tính kỹ năng, kỹ xảo, thao tác nghề nghiệp về quyền trẻ em,...
Nội dung của các cấp độ này chủ yếu dành cho các đối tượng nghiên cứu chuyên
sâu, giảng dạy hoặc chuyên gia hoạt động liên quan về quyền trẻ em.
Từ việc xác định phạm vi và mức độ yêu cầu về nội dung PBGDPL về quyền
trẻ em nêu trên, cho thấy trong thực tiễn khó có một hình thức hay một chủ thể
PBGDPL về quyền trẻ em nào có đủ khả năng đáp ứng việc truyền tải toàn bộ các
yêu cầu trong phạm vi nội dung để đạt đươc mục tiêu PBGDPL về quyền trẻ em
cho từng loại đối tượng, vì thế, cần phải tìm kiêm, phối hợp với các chương trình,
mục tiêu PBGDPL về quyền trẻ em của các chủ thể khác nhau để bổ sung, hỗ trợ ưu
điểm và hạn chế những nhược điểm của từng hình thức, phương tiện phổ biến, giáo
dục.
b) Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
Mục đích, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em không thể tự
thân trở thánh nhận thức, tình cảm của đối tượng mà phải thông qua các hính thức
phổ biến, giáo dục cụ thể. Việc xác định hình thức PBGDPL về quyền trẻ em vì thế
đóng vai trò không nhỏ đến kết quả của công tác này.
Hình thức giáo dục theo giáo dục học được hiểu là cách thức tổ chức hoạt
động phối hợp giữa giáo dục và người giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo dục
và đạt mục đích giáo dục. Mặt khác, cũng tương tự như nội dung của phổ biến, giáo
dục pháp luật, thì Luật phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012 cũng quy định chung
về hình thức của phổ biến giáo dục pháp luật tại Điều 11 như sau:
“Điều 11. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
1. Họp báo, thông cáo báo chí.
2. Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp
thông tin, tài liệu pháp luật.
3. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet,
pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật
37
trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu
dân cư.
4. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
5. Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở.
6. Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính
trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ
sở.
7. Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân.
8. Các hình thức PBGDPL khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác
PBGDPL đem lại hiệu quả.
Trên cơ sở đó, hình thức PBGDPL về quyền trẻ em là các dạng hoạt động cụ
thể, có tổ chức, phối hợp giữa các chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
về quyền trẻ em để thể hiện nội dung và đạt được mục đích PBGDPL về quyền trẻ
em, theo đó cũng bao gồm tám (08) hình thức nói trên. Tuy nhiên, trong đề tài này
có thể phân chia khái quát hơn thành ba nhóm hình thức PBGDPL về quyền trẻ em
như sau:
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em mang tính
phổ biến, truyền thống, như phổ biến, nói chuyện về quyền trẻ em tại các Hội nghị,
cuộc họp, hội thảo, câu lạc bộ về quyền trẻ em, lớp giảng chuyên đề cho các đối
tượng chuyên biệt, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật qua sinh hoạt văn
hóa cộng đồng ở các cụm dân cư, làng xã, thôn xóm, các đoàn thể quần chúng; nơi
thờ tự, sinh hoạt tôn giáo; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, sáng tác văn học
nghệ thuật về đề tài quyền trẻ em; thông tin, cổ động.
38
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em đặc thù. Đây
là các hoạt động định hướng pháp luật về quyền trẻ em thông qua hoạt động
hoạch định đường lối, chính sách, hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của
các cơ quan Nhà nước( như Đảng, Quốc Hội, Chính Phủ, Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân, Công an).
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em cho chính đối
tượng của nó. Đây là hoạt động tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho
chính trẻ em trong môi trường nhà trường; thông qua các cuộc thi tìm hiểu, các buổi
nói chuyện, các buổi tọa đàm, các trò chơi kết hợp, các chương trình giáo dục xuyên
suốt, dạy và học quyền trẻ em ngay trong nhà trường - nơi gắn bó với tất cả các trẻ
em , sẽ giúp cho các em định hình và hiểu được chính các quyền của mình và của
bạn bè mình, từ đó hình thành nhận thức về quyền trẻ em cho chính các em.
c) Phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
Theo các nhà nghiên cứu, thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
“Me Todos”, có nghĩa là con đường, cách thức tự vận động bên trong nội dung, nó
gắn với hoạt động của con người, giúp con người hoàn thành được những nhiệm vụ
phù hợp với mục tiêu đã đề ra.
Phương pháp bao giờ cũng xuất phát từ một mục đích nhất định, nội dung phổ
biến, giáo dục nhất định. Nội dung, mục đích PBGDPL về quyền trẻ em quy định
phương pháp, nhưng bản thân phương pháp có sự tác dụng trở lại mục đích, nội
dung, làm cho nội dung ngày càng hoàn thiện, làm cho mục đích đạt được ngày
càng cao.
Phương pháp PBGDPL về quyền trẻ em có mối quan hệ tác động qua lại rất
mật thiết với các nhân tố khác trong quá trình phổ biến, giáo dục mà trước hết là
hình thức. Mỗi hình thức phổ biến, giáo dục nhất định luôn luôn gắn với những
phương pháp phổ biến, giáo dục nhất định, đặc thù của hình thức đó. Ngược lại,
Phương pháp tác động trở lại làm cho hình thức phát triển ngày càng đúng hướng,
càng hoàn thiện hơn.
39
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em có thể sử dụng hai phương pháp cơ bản
sau:
- Phương pháp trực tiếp, tức là dùng các hình thức mang tính chủ động đề đề
cập, PBGDPL trực tiếp vào quyền trẻ em, thể hiện rõ ràng các quy định của pháp
luật có liên quan đến vấn đề này.
- Phương pháp gián tiếp, tức là thông qua các hình thức khác như tranh ảnh,
mẫu chuyện, hay một nội dung bất kỳ dễ hiểu, dễ tiếp nhận, mang tính sáng tạo để
truyền tải những vấn đề liên quan đến pháp luật về quyền trẻ em; mặc dù không nêu
rõ các quy định cụ thể về pháp luật quyền trẻ em, nhưng vẫn truyền đạt được nội
dung cốt lõi của nó đến các đối tượng.
Do vậy, khi lựa chọn sử dụng các hình thức PBGDPL về quyền trẻ em, nhất
thiết phải chọn lựa, áp dụng những phương pháp cụ thể và đối tượng cụ thể dựa trên
tính chất đặc thù của chủ thể và đối tượng đó. Đồng thời phải thường xuyên học
hỏi, áp dụng phương pháp phổ biến, giáo dục mới, đạt hiệu quả cao hơn trước.
1.3.3.4. Vai trò phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em đối với Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra
và tiếp tục được khẳng định ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đây là yêu cầu tất
yếu khách quan nhằm duy trì bản chất của Nhà nước ta; xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh để nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của Nhà nước; giữ vững
và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong tình hình hiện nay.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, quyền và nghĩa
vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Ở nhà nước này, Nhà
nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân có đủ khả năng
và điều kiện chống lại sự tùy tiện của Nhà nước, phải có một cơ chế chặt chẽ để
kiểm tra tính hợp háp và hợp hiến của pháp luật và các hành vi của bộ máy Nhà
nước. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm cho công dân rằng người ta không bị đòi
hỏi cái ngoài hoặc trên những điều quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Trong
40
Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp giữ vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến
pháp xây dựng trên cơ sở bảo đảm tự do và quyền của công dân. Do đó, một trong
những yêu cầu cơ bản và trọng tâm của Nhà nước pháp quyền đó chính là phải bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân. Điều này có nghĩa là quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có PBGDPL về quyền trẻ em.
PBGDPL về quyền trẻ em góp phần tạo ra các nội dung, giá trị của Nhà nước pháp
quyền, đảm bảo cho Nhà nước pháp quyền Việt Nam hình thành trong thực tiễn.
Thực hiện tốt PBGDPL về quyền trẻ em còn giúp quá trình này được rút ngắn và đi
đúng hướng, tránh được những lệch lạc, phiến diện trong xây dựng nhà nước Pháp
quyền Việt Nam.
PBGDPL về quyền trẻ em nhằm nâng cao tri thức về quyền trẻ em cho các
thành viên trong xã hội; góp phần xây dựng thái độ tôn trọng giá trị của trẻ em trong
xã hội, đối với tương lai của các quốc giá; đồng thời xây dựng ý thức tự vệ, tự đấu
tranh bảo vệ quyền trẻ em của chính trẻ em, cũng như đấu tranh bảo vệ quyền trẻ
em của các đối tượng khác trong xã hội, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ và phát
triển toàn diện nhất về mọi mặt.
41
Tóm tắt chương 1
Để công tác PBGDPL về quyền trẻ em đạt được hiệu quả tối ưu, thì chắc chắn,
ngay từ ban đầu phải nắm chắc cơ sở lý luận về vấn đề này. Việc xác định đúng, rõ
ràng, chi tiết các nội dung về trẻ em, quyền trẻ em, pháp luật về quyền trẻ em hay
đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL về quyền trẻ em sẽ là nền
tảng cơ bản vững chắc, để khi xem xét nó dưới góc độ thực tiễn, sẽ dễ dàng nhận ra
được, chỗ nào đúng, chỗ nào sai, điểm nào đã làm được và những điểm nào còn khó
khăn, còn vướng mắc, cần sửa đổi; giúp cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em đi
theo đúng hướng, đúng trọng tâm, tránh được các nghiên cứu xa rời thực tiễn, thiếu
chiều sâu. Cơ sở lý luận vững chắc, chính là điều kiện quan trọng, đặt nền móng
cho công tác nghiên cứu đi đúng hướng, sâu sắc và đạt hiệu quả.
42
Chương 2
THỰC TIỄN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. Thực tiễn phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở Việt Nam
2.1.1. Phổ biến, giáo dục quyền trẻ em trên Thế giới
Trong nhiều thế kỷ, cùng với quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu đã dẫn dến
tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến, hàng triệu trẻ em vào hoàn
cảnh cùng khổ. Phải đến năm 1924, vấn đề bảo vệ “quyền trẻ em” mới chính thức
được pháp luật bảo vệ thông qua Tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em. Tiếp đó, năm
1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó
trẻ em được thừa nhận là chủ thể được thừa hưởng đầy đủ các quyền con người,
được bình đẳng như các thành viên trong xã hội khác. Năm 1959, Liên Hợp quốc ra
Tuyên bố thứ hai về quyền trẻ em, khẳng định: trẻ em, do chưa trưởng thành về tinh
thần và thể lực cần có sự bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ về pháp
lý thích hợp, trước cũng như sau khi sinh. Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ
em những điều tốt đẹp nhất. Đồng thời kêu gọi các bậc cha mẹ, đàn ông và phụ nữ
với tư cách là những cá nhân, kêu gọi các tổ chức tình nguyện, giới cầm quyền địa
phương và chính phủ các nước công nhận những quyền của trẻ em và phấn đấu để
thực hiện bằng luật pháp và những biện pháp khác theo 10 nguyên tắc và những
nguyên tắc này như là 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ em.
Chính nhờ những văn bản pháp luật đầu tiên, mang tính chất quyết định, mà
thế giới đã bắt đầu nhận thức được vị trí và vai trò của trẻ em trong xã hội, để quan
tâm, chăm sóc và bảo vệ quyền của trẻ em. Có nhiều cách để thực hiện điều đó,
nhưng cách tốt nhất vẫn là hợp thức hóa quyền trẻ em thông qua các văn bản pháp
luật, theo đó quy định rõ ràng quyền của trẻ em; cách thức bảo vệ quyền trẻ em; và
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để kêu gọi mọi người chung tay và cùng lan
tỏa pháp luật bảo vệ quyền trẻ em rộng ra toàn thế giới.
43
Năm 1989, Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC).
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một văn bản quốc tế đề cập toàn diện về
quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và mang tính pháp lý cao,
làm cơ sở cho việc thúc đẩy chăm sóc và bảo vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một
tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực đã được ghi nhận, bảo đảm cho trẻ
em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể
chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Không chỉ đề cập đến trẻ em nói chung,
CRC còn đề cập đến việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt (gồm: trẻ em tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...).
Đồng thời, xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa
nghiêm trọng cuộc sống của nhiều trẻ em. CRC được coi là văn kiện pháp lý quốc tế
cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Để bổ sung cho
CRC, Liên Hợp quốc còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến việc cấm
sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và cấm buôn bán trẻ em, mại dâm
trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Việt Nam đã phê chuẩn 2 Nghị định thư
này). Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 196 quốc gia, trong đó có Việt Nam, phê
chuẩn Công ước này.
Đồng thời, đến nay đã có trên 80 văn kiện quốc tế liên quan đến quyền trẻ em
được ban hành để bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em như: Hướng dẫn của Liên Hợp
quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Hướng dẫn Riát 1990);
Quy tắc của Liên Hợp quốc về Bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do
(1990); Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em (1990).
Tuyên bố về chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Chương
trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996);
Công ước 182 về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất và Khuyến nghị 190 về loại bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất (1999); Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm
buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nhận con nuôi quốc tế (1993).
44
Để đạt được thành công đó, không thể phủ nhận rằng công tác tuyên truyền,
PBGDPL về quyền trẻ em đã đạt được hiệu quả ngoài mong đợi.
Không những thế, hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em còn phát huy được
hiệu quả thông qua sức lan tỏa của nó đến với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và
được chứng minh bằng các chương trình, các hành động cụ thể, mang tính đặc thù
phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia. Cụ thể:
Các quốc gia như Thụy Điển, Na Uy, Nga, Úc, Anh, Đức đặc biệt quan tâm
đến xây dựng khuôn khổ pháp lý thân thiện với trẻ em và xây dựng hệ thống phúc
lợi xã hội, mạng lưới công tác xã hội mang tính chuyên nghiệp. Việc bảo vệ trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt được thực hiện chủ yếu bởi các trung tâm công tác xã hội và
các cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và một phần công việc sẽ được ủy quyền
cho các tổ chức phi chính phủ.
Các quốc gia châu Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Xinhgapo,
Malaixia, Philippin) tùy theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia mà việc
bảo vệ trẻ em được thực hiện theo những mô hình khác nhau. Ngày nay, hầu hết các
quốc gia này đều hướng tới việc xây dựng “hệ thống bảo vệ trẻ em”; hình thành đội
ngũ cán bộ xã hội và các cơ sở bảo trợ trẻ em, xây dựng mô hình gia đình thay thế
cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Malaixia và Hồng Kông (Trung Quốc) đặc biệt
quan tâm tới mô hình gia đình chăm sóc thay thế, trung tâm công tác xã hội với trẻ
em; trung tâm trẻ em đường phố, trung tâm phục hồi trẻ em nghiện ma túy. Thái
Lan và Philippin lại chú trọng nhiều hơn vào các mô hình trợ giúp trẻ em và hỗ trợ
gia đình có trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Luật Trẻ em và người trẻ tuổi của Singapo năm 1993 có nội dung chủ yếu đề
cập đến vấn đề bảo vệ trẻ em quy định trẻ em là người dưới 14 tuổi, với 9 nhóm đối
tượng cần sự bảo vệ đặc biệt, gồm: Trẻ không có bố mẹ hoặc người bảo hộ; Trẻ em
bị bỏ rơi; cha, mẹ, người bảo hộ không phù hợp, không có khả năng chăm sóc, sao
nhãng làm cho trẻ em rơi vào tình trạng có những mối quan hệ xấu, đe doạ đến đạo
đức hoặc không thể chế ngự được; Trẻ đã bị hoặc có nguy cơ cao bị đối xử tồi tệ;
Trẻ em cần được khám, điều trị để bảo đảm sức khoẻ hoặc sự phát triển nhưng cha,
45
mẹ hoặc người bảo hộ sao nhãng hoặc từ chối làm những công việc đó; Trẻ có hành
vi và nhân cách gây nguy hiểm cho bản thân người khác mà cha, mẹ, người bảo hộ
không thể hoặc không muốn hoặc thất bại trong việc hỗ trợ trẻ; Trẻ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng bởi những mâu thuẫn dai dẳng giữa trẻ và cha, mẹ, người bảo hộ hoặc
giữa cha, mẹ hoặc người bảo hộ hoặc những mâu thuẫn, đổ vỡ trong gia đình dẫn
đến thương tổn về tình cảm; Trẻ sống trong môi trường hoặc có liên quan, bị ảnh
hưởng bởi người phạm tội hoặc những hành vi phạm tội; Trẻ sống lang thang không
nơi ở, không nguồn sống, trẻ xin ăn, hát rong, bán xổ số, bán hàng rong, đánh bạc,
sử dụng các thuốc kích thích.
Luật Trẻ em của Malaixia không định nghĩa trẻ em nhưng lại quy định cụ thể
độ tuổi của trẻ em khi gửi đến các dịch vụ, trung tâm, trường học. Chẳng hạn như
trẻ em dưới 10 tuổi thì không được đưa vào các trường giáo dưỡng; trẻ em dưới 14
tuổi thì không được đưa vào trường cách ly hoặc giam giữ trẻ em vi phạm pháp luật.
Luật của Malaixia phân loại các nhóm trẻ em cần được bảo vệ theo các nhóm mức
độ gây tổn hại cho trẻ, gồm: Nhóm có nguy cơ cần được chăm sóc bảo vệ ;Nhóm trẻ
cần được bảo vệ và phục hồi; Nhóm trẻ vượt quá tầm khống chế ; Nhóm trẻ em bị
buôn bán, bắt cóc.
Như vậy, có thể thấy rằng, thế giới đã rất quan tâm và đặc biệt chú trọng đến
bảo vệ quyền của trẻ em. Điều đó được thể hiện thông qua hệ thống quy phạm pháp
luật của thế giới, của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, về vấn đề quyền trẻ em
không những tăng nhanh về số lượng, mà nội dung bên trong còn rất đa dạng, cụ thể
hóa, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ toàn diện các quyền mà mình đáng được
hưởng. Sức lan tỏa, sự ảnh hưởng của nó đến thực tiễn đời sống xã hội, chính là kết
quả của công tác tuyên truyền, PBGDPL của các tổ chức quốc tế, của mỗi quốc gia
và toàn nhân loại.
46
2.1.2. Phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở Việt Nam
2.1.2.1. Thành tựu đạt được
Giai đoạn 2012 đến nay là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mới của công tác
PBGDPL trong cả nước, trong đó có công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em và đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Một là, hệ thống luật pháp, chính sách luôn quan tâm, chú trọng và không
ngừng kiện toàn theo hướng tiếp cận toàn diện dựa trên quyền trẻ em.
Trong những năm qua, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được xây
dựng nhằm giải quyết những khía cạnh khác nhau trong vấn đề bảo vệ quyền trẻ
em. Kể từ ngày Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 được ban hành
(có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2005), Chính phủ ban hành 10 Nghị định;
Thủ tướng Chính phủ ban hành 12 Quyết định; Ban hành 12 Thông tư và Thông tư
liên tịch; 01 Quyết định của Bộ trưởng; 02 kế hoạch liên ngành Theo báo cáo tổng
kết 10 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của 63 tỉnh, thành
phố, các địa phương đã tham mưu cho Tỉnh ủy ký ban hành 82 văn bản; Hội đồng
nhân dân (HĐND) ban hành 46 nghị quyết, kế hoạch; Ủy ban nhân dân (UBND)
các tỉnh ban hành 860 quyết định, kế hoạch, công văn và trên 110 văn bản, kế hoạch
liên tịch giữa các ngành ở địa phương để triển khai, thực hiện công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em.
Chỉ tính trong giai đoạn từ năm 2012 đến nay, có rất nhiều văn bản pháp luật
về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được ban hành, như: Chỉ thị số 20-
CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới; Chỉ thị số
1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác
bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Một số chương trình đã được xây dựng và triển khai nhằm
giúp đỡ đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó phải kể đến các chương
trình, chính sách đã được Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt như: Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Chương trình quốc gia bảo vệ
trẻ em giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch triển khai thực hiện Khuyến nghị của Ủy
47
ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc; Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ
em bị bệnh tim bẩm sinh; Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em
giai đoạn 2013 - 2015; Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS giai đoạn 2014 - 2020. Năm 2015, đã và đang tiếp tục hoàn thiện 04
chương trình, đề án để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt; nghiên cứu,
xây dựng các chương trình liên quan đến trẻ em giai đoạn 2016 - 2020.
Ngày 05/4/2016, Luật Trẻ em được thông qua, thay thế cho Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em từ ngày 01/06/2017, đã tạo hành lang pháp lý mới cho việc
thực hiện các quyền trẻ em, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em theo hướng tiếp cận dựa trên quyền trẻ em. Luật quy định cụ
thể các quyền và bổn phận của trẻ em; sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ
em; các biện pháp bảo vệ trẻ em ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp); chăm
sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em; các hành vi vi phạm
quyền trẻ em bị nghiêm cấm. Đặc biệt, ghi nhận đầy đủ, toàn diện các quyền trẻ em,
Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em của Nhà nước, gia đình và xã hội; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi,
bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi vi phạm quyền trẻ em;
bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Việt
Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có cam kết
chính trị mạnh mẽ và các biện pháp tích cực về xây dựng pháp luật, chính sách,
chương trình quốc gia thực hiện Công ước về quyền trẻ em.
Bên cạnh việc tạo ra một bộ khung pháp lý quy định rõ ràng để bảo vệ tuyệt
đối quyền của trẻ em, thì việc PBGDPL để đưa hệ thống pháp luật về các quyền đó
đến với tất thảy mọi tầng lớp trong xã hội, để được ghi nhận và thực hiện, đòi hỏi
công tác PBGDPL cần phải được tiến hành một cách đồng bộ, khoa học và hiệu
quả.
Quốc hội đã thông qua Luật Phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn
bản quy định chi tiết thi hành, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho bước chuyển mới, căn
bản trong công tác này. Việc chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc triển khai công
48
tác PBGDPL được quan tâm thực hiện. Ngay từ đầu năm, Bộ Tư pháp đã ban hành
theo thẩm quyền và tham mưu Hội đồng phối hợp giáo dục, phổ biến pháp luật
trung ương ban hành Kế hoạch công tác năm. Việc PBGDPL đối với các luật, pháp
lệnh được chú trọng ngay từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến; tập trung vào những
vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận. Đồng thời, các Bộ,
ngành cũng tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác PBGDPL cho
các nhóm đối tượng, địa bàn đặc thù thông qua triển khai thực hiện các chương
trình, đề án về PBGDPL và các chương trình phối hợp về PBGDPL cho một số
nhóm đối tượng đặc thù. Các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng ở trung
ương như: Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đã dành thời
lượng thỏa đáng để tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhóm đối tượng này qua
nhiều chương trình, chuyên mục, tin bài, phóng sự, tiểu phẩm.
Như vậy, qua đây có thể thấy rằng, mặc dù chưa có một văn bản pháp luật nào
điều chỉnh cụ thể, riêng biệt công tác PBGDPL về quyền trẻ em, nhưng việc hoàn
thiện hóa thể chế pháp lý trong mỗi lĩnh vực, cả trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em; cả trong lĩnh vực PBGDPL chung cho tất cả các ngành luật, được
thực hiện một cách tổng quát đến đầy đủ, cụ thể, chi tiết đã hỗ trợ, tác động và dung
hòa lẫn nhau, tất cả đều làm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt được hiệu
quả như mong muốn.
Hai là, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có quyền trẻ em
được tiến hành đồng nhất, từ Trung ương đến địa phương, dưới hình thức
truyền thống và cả các hình thức mới, linh động với từng địa phương cụ thể.
- Về phía Cơ quan hành chính Nhà nước ở cấp Trung ương: đã có sự phối
hợp chặt chẽ và phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa Chính phủ với các Bộ và cơ quan
ngang Bộ trong công tác bảo đảm và bảo vệ quyền trẻ em, cũng như chú trọng
PBGDPL về quyền trẻ em.
Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ đã quy định chi
tiết việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, giao trách nhiệm cho
Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc đảm bảo các kế hoạch bảo vệ,
49
chăm sóc và giáo dục trẻ em được lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế hàng
năm và dài hạn, có cơ chế để huy động nguồn lực tài chính cho công tác này. Thành
lập và quản lý các quỹ cứu trợ trẻ em hiện đã và đang được thành lập từ cấp trung
ương tới cấp huyện dưới dự quản lý của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Các nguồn ngân sách riêng cho việc cung cấp các dịch vụ y tế miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi đã được lồng vào kế hoạch hàng năm của Bộ Y tế và UBND các cấp
đã được tính toán vào trong nguồn ngân sách hàng năm của Chính phủ.
Kể từ năm 2013, Ngày Pháp luật Việt Nam cũng đã được triển khai đồng bộ
trên cả nước với hình thức phong phú, đa dạng, gắn với phát động và tổng kết cuộc
thi tìm hiểu Hiến pháp và pháp luật. Giai đoạn 2014 - 2015, Bộ Tư pháp đã tổ chức
Cuộc thi tìm hiểu Hiến pháp và pháp luật đã thu hút lượng người tham gia đông
nhất, với thành phần, đối tượng đa dạng nhất từ trước đến nay, có sức lan tỏa, tạo
nên một phong trào sôi nổi, động viên, khích lệ người dân tích cực học tập, tìm hiểu
và thực hiện Hiến pháp và pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến trẻ em và
bảo vệ quyền của trẻ em. Ngày Pháp luật Việt Nam đã thực sự trở thành sự kiện
chính trị, pháp lý, góp phần nâng cao ý thức của cán bộ, nhân dân sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật; ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức,
viên chức và nhân dân từng bước được nâng lên, góp phần tích cực vào việc phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Bên cạnh đó, một số hình thức PBGDPL mới, có hiệu quả được áp dụng như:
Giải đáp pháp luật qua thư điện tử, thực hiện các buổi giao lưu trực tuyến trên mạng
Internet; giải đáp vướng mắc người dân trên cổng thông tin điện tử, qua điện thoại;
Hằng năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành, tổ
chức triển khai các chiến dịch truyền thông, phát động phong trào để thúc đẩy xã
hội thực hiện bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Tháng hành động vì trẻ em được phát động
từ Trung ương đến địa phương; Diễn đàn trẻ em các cấp được tổ chức hằng năm;
Chương trình truyền hình Vì trẻ em, An sinh xã hội, các phóng sự ngắn liên quan
đến trẻ em được tổ chức sản xuất và phát sóng trên kênh VTV1, VTV2. Đặc biệt là
50
Đường dây Tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567 duy trì hoạt động 24/7 và tiếp nhận
trên 300.000 cuộc gọi mỗi năm, mới đây nhất đã được đổi thành Đường dây nóng
111- sẽ tiếp nhận, cung cấp, giải đáp thông tin cho trẻ em và cha mẹ về các vấn đề
của trẻ em; tư vấn sâu về tâm lý, kết nối can thiệp, bảo vệ trẻ em; hỗ trợ miễn phí
cho trẻ em bị khủng hoảng nặng về tâm lý do bị xâm hại tình dục, bạo lực, trẻ bị
mua bán và bị các rối nhiễu về tâm lý; đường dây nóng 111 đặt trung tâm tiếp nhận,
xử lý thông tin tại 3 địa phương: Hà Nội, Đà Nẵng và An Giang, các trung tâm này
sẽ tiếp nhận các cuộc gọi ở khu vực phía Bắc, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và TP.HCM; đường dây nóng 111 sẽ
hoạt động 24/24 giờ; các cuộc gọi vào ca đêm ở Đà Nẵng và An Giang sẽ được tự
động chuyển về 111 Hà Nội để xử lý, giải quyết.
- Ở các địa phương cơ sở, các hình thức PBGDPL truyền thống tiếp tục được
duy trì, đẩy mạnh.
Công tác PBGDPL trực tiếp thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm, các lớp tập
huấn. Các chuyên trang, chuyên mục pháp luật về trẻ em trên các loại báo chí được
cải tiến, tăng về số lượng, cách trình bày hấp dẫn dưới nhiều dạng hỏi - đáp, tình
huống, tiểu phẩm, phóng sự, giới thiệu văn bản, nghiên cứu, trao đổi với nội dung
thiết thực. Tài liệu PBGDPL đã được biên soạn theo hướng phù hợp hơn với nhu
cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn. Hình thức thi tìm hiểu pháp luật, giao lưu,
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ cũng được chú trọng, phát triển đa dạng. Công tác
truyên truyền về bảo vệ, chăm sóc trẻ em được đẩy mạnh trên các phương tiện
thông tin đại chúng thông qua các đợt chiến dịch nhân Tháng hành động vì trẻ em.
Phong trào vận động toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc trẻ em thông qua nhiều
hoạt động khác nhau như: Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc phát động phong trào "Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan" về bảo vệ
trẻ em trong gia đình, đặc biệt là trẻ em gái; hàng năm phát động ngày "Toàn dân
đưa trẻ đến trường", các đợt tiêm chủng mở rộng, tết Trung thu, ngày quốc tế thiếu
nhi 1/6… mang lại lợi ích thiết thực cho trẻ em. Thông qua các cuộc vận động và
phong trào lớn như “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ
51
em bỏ học”; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây
dựng gia đình hạnh phúc”; Hội phụ nữ đã có nhiều hoạt động thiết thực chăm lo
cho quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Các Chương trình phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em, chương trình bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,
xây dựng “Quỹ học bổng Nguyễn Thị Định” giúp trẻ em hiếu học, vận động trẻ em
bỏ học trở lại trường, phối hợp với ngành giáo dục mở lớp học xoá mù chữ cho phụ
nữ và trẻ em gái vùng dân tộc. Ở một số xã, phường, bước đầu các cấp ủy Đảng đã
lãnh đạo các ngành, đoàn thể kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, các chính
sách của Nhà nước, giáo dục ý thức trách nhiệm của gia đình đối với trẻ em, phát
động phong trào “Toàn xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” có hiệu quả.
Trách nhiệm, nghĩa vụ của người công dân đối với trẻ em được thể hiện rõ nét và có
hiệu quả thiết thực qua việc thực hiện mục tiêu vì trẻ em tại từng cơ sở.
Qua đó, các nhà quản lý, cộng đồng và bản thân trẻ em nhận thức được tầm
quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và tham gia tích cực vào công tác
này, đặc biệt là sự tham gia của các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân Việt Nam, Hội bảo vệ quyền trẻ em, các tổ chức phi
chính phủ trong nước và quốc tế. Các tổ chức đã tích cực tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật trong và ngoài nước về quyền trẻ em. Nhiều thành viên của các
tổ chức đoàn thể tích cực, nhiệt tình tham gia công tác PBGDPL về quyền trẻ em ở
địa phương mình; nhiều người tham gia vào tổ hoà giải, góp phần làm giảm sự tan
vỡ của nhiều gia đình, phòng ngừa sự thiệt thòi có thể xảy ra đối với trẻ em, ngăn
chặn các nguy cơ trẻ em bỏ nhà đi lang thang hoặc sa vào các tệ nạn xã hội; phát
động và tham gia các phong trào bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cộng đồng.
Ba là, đẩy mạnh trợ giúp pháp lý cho trẻ em.
Hoạt động Trợ giúp pháp lý (TGPL) được hình thành và phát triển từ Quyết
định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ
chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đến nay, các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và quy
định về trợ giúp pháp lý cho trẻ em cũng nằm trong quy luật đó. Theo quy định tại
52
Thông tư liên tịch 52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH ngày 14/01/1998 của Bộ Tư
pháp - Tổ chức cán bộ Chính phủ - Tài chính - Lao động, Thương binh và Xã hội
hướng dẫn thi hành Quyết định số 734 của Thủ tướng Chính phủ thì trẻ em chưa
phải là một diện đối tượng riêng trong Luật TGPL. Cho đến khi Luật Trợ giúp pháp
lý năm 2006 ra đời thì trẻ em không nơi nương tựa là người được TGPL. Và đặc
biệt, mới đây nhất trong Luật TGPL năm 2017 được Quốc hội thông qua ngày
20/06/ 2017 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018, trẻ em trở thành đối tượng chính
thức được TGPL, điều này chứng tỏ sự quan tâm và quyết liệt trong hành động của
Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ quyền của Trẻ em.
Cho đến nay, Ở Trung ương có Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp, ở cấp tỉnh trong
cả nước đã có 63 Trung tâm TGPL, 199 Chi nhánh của Trung tâm đặt tại cấp huyện
và liên huyện, 4345 Câu lạc bộ TGPL, ở một số tỉnh có mạng lưới Tổ hoặc Điểm
TGPL ở cấp huyện để kịp thời đáp ứng nhu cầu TGPL, giúp đỡ pháp luật cho trẻ em
ngay tại địa bàn các em sinh sống. Tại các Trung tâm, Chi nhánh của Trung tâm, trẻ
em được thực hiện TGPL bằng tất cả các hình thức: tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện tố tụng và các hình thức TGPL khác. Các Câu lạc bộ TGPL tại địa
phương được lập ra để các em trao đổi những vướng mắc pháp luật.
Ngoài ra, một số Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm cũng đã chủ
động phối hợp với Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu các trường Trung học phổ
thông, Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh tổ chức các buổi trợ giúp pháp lý lưu động,
nói chuyện chuyên đề về các quy định của pháp luật liên quan đến trẻ em qua đó
góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, giảm thiểu các hành vi vi
phạm pháp luật do thiếu hiểu biết của các em. Một số Trung tâm khác thì phối hợp
với các cơ sở bảo trợ xã hội để chủ động tiếp cận, tiếp nhận các trường hợp có
vướng mắc pháp luật cần được trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các em.
Trong những năm qua, Cục Trợ giúp pháp lý đã tổ chức biên soạn, in ấn, cấp
phát hàng chục ngàn tờ gấp giới thiệu quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc
trẻ em và quyền được TGPL của trẻ em để cấp phát cho các Trung tâm TGPL Nhà
53
nước để phát miễn phí đến trẻ em, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, có nguy
cơ vi phạm pháp luật cao hoặc dễ bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm pháp luật.
Đồng thời mở chuyên mục “Trợ giúp pháp lý cho trẻ em” trên Trang thông tin điện
tử của Cục Trợ giúp pháp lý để trao đổi, phổ biến kinh nghiệm về TGPL cho trẻ em.
Tại 09 tỉnh, thành phố nằm trong diện triển khai thực hiện thí điểm thực hiện
Kế hoạch tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý cho trẻ em theo Quyết định số
11/QĐ-TGPL ngày 26/3/2010 của Cục Trợ giúp pháp lý, công tác truyền thông về
quyền trẻ em và pháp luật về TGPL cho trẻ em đã được thực hiện nghiêm túc, có
chất lượng và đạt hiệu quả cao thông qua các hoạt động như: Cấp phát trên 40.000
tờ rơi, tờ gấp giới thiệu các quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em và
quyền được TGPL của trẻ em đến với trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
Phối hợp với Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu các trường (tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông); các cơ quan tiến hành tố tụng, Đoàn Luật sư, Đài Truyền
hình, Đài Phát thanh, các cơ quan báo chí, cơ sở bảo trợ trẻ em; các trường giáo
dưỡng và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội để có kế hoạch truyền thông về
quyền TGPL của trẻ em cũng như mở các chuyên mục trên các phương tiện thông
tin, báo chí để tư vấn, giải đáp các câu hỏi liên quan đến pháp luật về trẻ em, giới
thiệu các Công ước quốc tế và các văn bản pháp luật về quyền của trẻ em; Mở
đường dây nóng về TGPL cho trẻ em để các cơ quan, tổ chức, cá nhân và trẻ em
được giải đáp kịp thời khi có vướng mắc về pháp luật liên quan đến trẻ em.
Sau 10 năm thực hiện cung cấp dịch vụ TGPL cho trẻ em (2004 – 2014), toàn
quốc đã có 56.979 vụ việc TGPL được thực hiện (năm 2004: 9473 vụ việc; năm
2005: 5371 vụ việc; năm 2006: 7445 vụ việc; năm 2007: 5486 vụ việc; năm 2008:
6686 vụ việc; năm 2009: 5144 vụ việc; năm 2010: 2766 vụ việc; năm 2011: 2870
vụ việc; năm 2012: 3065 vụ việc; năm 2013: 4435 vụ việc; năm 2014: 4238 vụ
việc).
Nhìn chung, số lượng vụ việc TGPL cho trẻ em còn khá khiêm tốn so với số
vụ việc TGPL đã thực hiện (chỉ chiếm 4,2% tổng số vụ việc được thực hiện) và
chưa có con số thống kê chính xác cho những năm gần đây. Tuy nhiên, hầu hết các
54
vụ việc đã giúp trẻ em là người được TGPL bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp
pháp được pháp luật quy định. Một số vụ việc được dư luận xã hội quan tâm, ủng
hộ và đánh giá cao.
Qua công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL của Cục Trợ giúp
pháp lý hằng năm cho thấy, phần lớn các vụ việc TGPL cho trẻ em được thực hiện
đều đạt chất lượng tốt theo quy định của Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc
TGPL, đặc biệt, các vụ việc tham gia tố tụng đều được các Trung tâm phân công
các Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên là Luật sư có nhiều kinh nghiệm thực tế,
am hiểu tâm lý trẻ em để thực hiện việc TGPL. Qua công tác quản lý nhà nước và
quản lý chuyên ngành về chất lượng vụ việc TGPL cho thấy đến nay chưa có vụ
việc nào có khiếu nại, tố cáo hoặc phản ánh, kiến nghị về chất lượng vụ việc hoặc
có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bốn là, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em được lòng
ghép song song với công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường.
- Công tác PBGDPL trong nhà trường được chú trọng và tăng cường hơn,
ngày càng đi vào nền nếp. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo rà soát nội dung,
chương trình, giáo trình, tài liệu theo tinh thần đổi mới chương trình giáo dục; thực
hiện kiện toàn đội ngũ giáo viên dạy môn đạo đức, giáo dục công dân, giảng viên
dạy môn học pháp luật; kết hợp giáo dục chính khóa với các hoạt động ngoại khóa,
ngoài giờ lên lớp; lồng ghép PBGDPL thông qua các tiết học, hoạt động sinh hoạt
dưới cờ và nhiều hoạt động khác. Định kỳ hằng năm, tổ chức tập huấn kiến thức
pháp luật, kỹ năng PBGDPL cho giảng viên, giáo viên dạy môn pháp luật, môn giáo
dục công dân, cán bộ quản lý giáo dục. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với
Ngành Tư pháp và Bộ, ngành hữu quan thực hiện chuẩn hóa chương trình giáo dục
công dân ở bậc giáo dục phổ thông và chương trình giảng dạy pháp luật ở bậc đại
học; chương trình học được đổi mới, chỉnh lý, biên soạn tài liệu, sách giáo khoa
giảng dạy pháp luật chính khóa và ngoài giờ lên lớp; hoạt động ngoài giờ lên lớp đã
có cải tiến về nội dung và cách làm để gắn việc học pháp luật với thực tiễn thi hành
pháp luật, tạo hứng thú cho người học, qua đó nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL
55
về quyền trẻ em như: lồng ghép nhiều nội dung liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ
em như giáo dục kỹ năng sống, phòng HIV/AIDS, phòng chống tai nạn thương tích
trẻ em.
Năm là, tập trung mọi nguồn lực cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em,
cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền trẻ em.
Nguồn lực cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thông qua các
chương trình của Chính phủ, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và hỗ trợ về nguồn
lực của hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em từ trung ương đến địa phương trong thời gian
qua. Hàng năm Quỹ Bảo trợ trẻ em địa phương huy động trên 300 tỷ đồng giúp đỡ
cho hàng triệu trẻ em có nguy cơ bỏ học được đi học lại; hỗ trợ cho hơn 3.000 trẻ
em được phẫu thuật tim bẩm sinh và hơn 100 em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
được sang Hàn Quốc phẫu thuật; xây dựng hơn 34 trung tâm phục hồi chức năng
cho gần 3.000 trẻ em khuyết tật, nạn nhân chất độc màu da cam và phẫu thuật chỉnh
hình cho 4.871 trẻ em bị dị tật các cơ quan vận động; huy động phẫu thuật cho
20.735 ca trẻ em bị dị tật về mắt; 17.358 trẻ em hở môi hàm ếch và 600 trẻ em được
tham gia dự án ngôn ngữ trị liệu; cấp hơn 25.000 suất học bổng cho trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn; xây dựng được 03 trường học, 266 lớp học cho hơn 30.000
trẻ em được hưởng lợi; 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo, trẻ em
dân tộc thiểu số được trợ giúp pháp lý miễn phí khi gia đình có nhu cầu. Hàng năm
có trên 3 triệu lượt trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tặng quà, cấp
học bổng nhân dịp Tháng hàng động vì trẻ em và các dịp lễ, tết cổ truyền, tết Trung
thu, tết Thiếu nhi 1/6 hoặc trợ giúp đột xuất. Trên 50 nghìn trẻ em được hưởng lợi
từ Chương trình 6 triệu ly sữa do Quỹ bảo trợ trẻ em và Công ty cổ phần Vinamilk
phối hợp thực hiện.
Mặt khác, các Bộ, ngành, đoàn thể đã tích cực, cố gắng triển khai thực hiện
nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia công tác PBGDPL. Bộ Tư pháp phối
hợp với Bộ Tài chính đưa nội dung chi cho công tác PBGDPL theo Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật năm 2012 là một trong các nội dung hướng dẫn các địa phương
trong lập dự toán chi ngân sách địa phương năm 2015 và năm 2016. Một số Bộ,
56
ngành đã bố trí kinh phí riêng cho công tác PBGDPL cũng như cấp cho việc triển
khai thực hiện công tác PBGDPL hoặc các chương trình, đề án về PBGDPL.
Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng được hình
thành và đang từng bước được nghiên cứu, xây dựng, đưa vào vận hành như: Cổng
thông tin tích hợp điện tử về trẻ em; Bộ chỉ số xếp hạng địa phương về thực hiện
quyền trẻ em, Bộ chỉ số về bảo vệ trẻ em; Phần mềm quản lý trẻ em,...
2.1.2.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác PBGDPLvề quyền trẻ em trong
giai đoạn 2012 đến nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế:
Một là, giữa công tác chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em và công tác PBGDPL
còn có tách bạch, chưa có sự đồng nhất, kể cả về quy định pháp luật, các chính sách,
chương trình hành động đến kết quả đạt được. Mỗi công tác đều chỉ tập trung
chuyên sâu vào nhiệm vụ của mình. Một bên chỉ quan tâm, chăm lo đến công tác,
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em làm sao đạt được kết quả tốt nhất, hiệu quả
nhất, trẻ em được chăm lo toàn diện về thể chất, tinh thần, môi trường sống, và các
quyền của trẻ em được tôn trọng và bảo đảm. Một bên, thì chỉ chăm chăm thực hiện
công tác PBGDPL nói chung, làm sao cho tất cả các quy định của pháp luật, trong
tất cả các ngành luật được đi vào thực tiễn đời sống, được mọi tầng lớp nhân dân
tiếp nhận và thực hiện, đảm bảo cho pháp luật gần gũi với đời sống. Mà quên mất
rằng trong mối quan hệ tương quan của chúng, một khi pháp luật về quyền trẻ em
được phổ biến, giáo dục đúng cách, được mọi người hiểu đúng và hiểu sâu, thì
đương nhiên công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em sẽ được toàn xã hội
chung tay thực hiện một cách hiệu quả nhất; ngược lại, một khi trẻ em trong xã hội,
được quan tâm, chăm sóc, bảo vệ đúng cách và quyền trẻ em được đặt lên hàng đầu,
thì ắt hẳn, đó chính là thành công của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Công
tác bảo vệ quyền được ghi nhận bằng pháp luật và công tác, PBGDPL phải đi đôi
với nhau, hỗ trợ nhau, lồng ghép vào nhau là điều cần thiết không chỉ trong lĩnh vực
quyền của trẻ em mà còn trong tất cả các lĩnh vực chuyên biệt, có như thế mới đảm
57
bảo được tính hiệu quả của nó. Do đó, “phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ
em” là một phạm trù cần phải có và cần phải làm.
Hai là, công tác PBGDPL về quyền trẻ em mặc dù được tiến hành thống nhất,
từ trên xuống dưới với sự phân công trách nhiệm rõ ràng thông qua các chương
trình, dự án, kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên, về mặt nội dung PBGDPL về quyền trẻ
em, ở một số Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng
điểm, chưa sát với nhu cầu thực tiễn. Hình thức PBGDPL về quyền trẻ em ở một số
Bộ, ngành, địa phương chậm được đổi mới; đa phần, chỉ được tiến hành thông qua
các hình thức tọa đàm, hội nghị, cuộc thi tìm hiểu pháp luật, nên còn mang tính lý
thuyết sáo rỗng, thiếu tính thực tiễn, chưa khắc phục được tính hình thức trong hoạt
động PBGDPL. Các chương trình hành động được xây dựng theo từng giai đoạn,
khoảng thời gian tương đối dài, mà không xem xét đến yếu tố tác động hàng năm,
và chưa xác định được kết quả hàng năm, do đó dẫn đến tình trạng “nước đến chân
mới nhảy”, dẫn đến kết quả chỉ mang tính đối phó, thiếu vững chắc, tính hiệu quả
không cao. Việc tuyên truyền, giải thích một số chính sách, quy định mới thiếu kịp
thời, chính xác, dẫn đến nhận thức sai lệnh về pháp luật trong nhân dân, ảnh hưởng
đến hiệu quả của công tác PBGDPL sau đó.
Ba là, Quyền được TGPL của trẻ em tại một số địa phương, nhất là tại vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và trong một số trường hợp đặc biệt chưa
được bảo đảm thực hiện đầy đủ; tình trạng xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của trẻ em và hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em vẫn còn nhưng chậm
được phát hiện, xử lý kịp thời hoặc có giải pháp căn cơ để phòng ngừa, khắc phục.
Công tác truyền thông về quyền được TGPL của trẻ em chưa hiệu quả nên nhiều trẻ
em chưa biết được về quyền được TGPL; công tác phối hợp thông tin, truyền thông,
giới thiệu, hướng dẫn trẻ em thực hiện quyền được TGPL chưa thường xuyên.
Một số Trung tâm chưa bố trí Trợ giúp viên pháp lý, Cộng tác viên TGPL là
Luật sư làm TGPL chuyên trách thực hiện TGPL cho trẻ em. Công tác bồi dưỡng,
tập huấn kiến thức pháp luật mới, kỹ năng TGPL cho trẻ em, công tác chỉ đạo, sơ
kết, tổng kết nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến và rút kinh nghiệm, khắc phục
58
sai sót, vi phạm còn nhiều hạn chế; chế độ thống kê, báo cáo chưa được quan tâm,
chú trọng đúng mức. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức với Trung tâm,
nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ sở chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
còn chưa chặt chẽ, thiếu thường xuyên; việc lồng ghép các hoạt động bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em với hoạt động TGPL chưa được quan tâm đúng mức. Nhận
thức về quyền trẻ em còn hạn chế do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, hướng
dẫn việc phổ biến, giáo dục pháp luạt về quyền trẻ em, nhất là tại các địa phương
còn thiếu sát sao.
Bốn là, nguồn lực phục vụ công tác PBGDPL về quyền trẻ em còn nhiều hạn
chế.
Các chương trình, đề án về PBGDPL về quyền trẻ em nhiều, mục tiêu lớn
nhưng thiếu nguồn lực bảo đảm, nhất là tại các địa phương chưa tự cân đối được
ngân sách; tình trạng trùng lắp, chồng chéo vẫn còn; chính sách xã hội hóa
PBGDPL về quyền trẻ em chưa thu hút được nhiều nguồn lực tham gia hỗ trợ, tài
trợ; công tác PBGDPL cho các đối tượng đặc thù hiệu quả chưa cao.
Hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan còn yếu, chưa cập nhật kịp thời, đầy đủ được
tình hình, chế độ báo cáo, thống kê nhiều lúc còn chưa bảo đảm tiến độ, dẫn đến
tình trạng chậm trễ trong hoạch định chính sách, chiến lược thực hiện cũng như
chưa nắm bắt kết quả đạt được trong quá trình triển khai thực hiện.
Nguồn nhân lực còn thiếu, năng lực chuyên môn chưa phù hợp, chưa chuyên
sâu, hợp chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong tư vấn hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc triển khai công tác PBGDPL về quyền trẻ em . Một số thành viên chưa phát
huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm; sự phối hợp đôi khi thiếu chặt chẽ; Kinh phí bảo
đảm cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em còn hạn chế dẫn đến việc tiến hành còn
gặp nhiều khó khăn, trì trệ, hiệu quả không cao.
59
2.2. Thực tiễn phổ biến, giáo dục quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng Bình trong những năm gần đây.
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội tác động đến
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa,
tỉnh Quảng Bình.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em là một quá trình hoạt động có tính định
hướng, có tổ chức, có kế hoạch lâu dài, nhằm hình thành cho các nhóm đối tượng cụ
thể tri thức về quyền trẻ em và pháp luật có liên quan, từ đó đưa pháp luật đi vào
thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp. Chính vì thế mà nó
chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, điều kiện tự nhiên, đặc điểm
kinh tế, văn hóa, xã hội của từng vùng, miền có tác động rất lớn đến nhận thức - yếu
tố cốt lõi của PBGDPL.
- Về điều kiện tự nhiên:
Tuyên Hóa là một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Bình. Phía Bắc
gíáp các huyện Hương khê, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp
huyện Minh Hoá và nước bạn Lào, phía Nam giáp huyện Tuyên Hóa, phía Đông
giáp huyện Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình.
Huyện Tuyên Hóa nằm ở vùng núi có độ cao trung bình thấp (từ 800 -
1.500m), được hình thành trên macma axit biến chất, trầm tích hạt thô và cacbonát,
sống núi dạng răng cưa lượn sóng, độ chia cắt sâu (500 - 250m), sườn khá dốc, độ
dốc lớn, kèm theo địa hình khá phức tạp nên thường xảy ra hiện tượng sụt lở.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, luôn bị tác động bởi khí hậu của
phía Bắc, phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng
3 năm sau, lượng mưa trung bình năm lên đến 3631,3 mm, thời gian mưa tập trung
vào các tháng 9,10,11. Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 - 250C, 03 tháng có nhiệt độ cao nhất là các tháng 6,7,8. Nhiệt độ tối cao nhất tuyệt đối lên đến 41,60C; nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 5,00C. Độ ẩm trung bình năm
2016 ở mức 88,1%.
60
Tuyên Hóa diện tích tự nhiên 1128,694 km2, chiếm 1/7 diện tích tỉnh Quảng
Bình, trong đó được phân bố cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Phân bố đất trên địa bàn huyện Tuyên Hóa
Loại đất Diện tích (ha) Phần trăm (%)
Tổng 1 12869,4 100
Đất nông nghiệp 8655,0 7,67
Đất lâm nghiệp 92365,7 81,83
Đất ở 695,2 0,62
Đất chuyên dùng 2646,0 2,34
Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 58,6 0,05
Đất chưa sử dụng 3888,0 3,44
Đất phi nông nghiệp khác 4560,9 4,04
Nguồn: Niên giám Thống kê Huyện Tuyên Hóa năm 2016.
Như vậy, địa bàn Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình chủ yếu là đồi núi,
không có biển, dốc và hẹp nên người dân chủ yếu sống bằng lâm nghiệp hoặc nông
nghiệp nhỏ lẻ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của địa hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt,
hàng năm vào mùa khô thì khí hậu khô nóng, độ ẩm thấp, nên thường xuyên xảy ra
hạn hán, cháy rừng; mùa mưa thì lại xảy ra tình trạng mưa lớn, bão lũ, sạt lở xảy ra
thường xuyên, để lại thiệt hại hết sức nghiêm trọng. Do đó, đời sống ở đây chịu
không ít khó khăn, do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Và đương nhiên, với hoàn
cảnh suốt năm này qua năm khác phải đối mặt với thiên tai đã là một công cuộc khó
khăn, thì việc quan tâm đến pháp luật, am hiểu pháp luật lại vô cùng xa xôi, do đó,
ở những vùng có điều kiện như huyện Tuyên Hóa, thì Phổ biến, giáo dục pháp luật,
đặc biệt là PBGDPL về quyền trẻ em là một việc vô cùng khó.
- Về đặc điểm Kinh tế:
Tuyên Hóa có diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 7,67 % tổng diện tích, nên
đa phần người dân chỉ canh tác nông nghiệp với quy mô nhỏ lẻ, không thường
xuyên và thường xuyên chịu ảnh hưởng của thời tiết xấu, hạn hạn, bão lũ, nên, nên
61
sản lượng nông nghiệp thu được thấp, chất lượng không cao. Do đó, Nông nghiệp
không phải là thế mạnh của địa phương.
Tuyên Hóa trên 82573 ha rừng tự nhiên, 9775,3 ha rừng trồng và 17,4 ha đất
ươm giống. Rừng tự nhiên của Tuyên Hoá có trữ lượng gỗ tương đối lớn, khoảng 3
triệu m3, với nhiều loại lâm thổ sản, gỗ quý như dạ hương, huệ mộc, cánh kiến, lim,
gõ, mun, dổi...Ngoài gỗ, còn có nhiều loại tre, nứa, song, mây và nhiều loại thảo
dược quý như sa nhân, sâm, trầm hương, hà thủ ô và nhiều loại rau quả. Do đó, mà
lâm nghiệp tương đối phát triển, và là ngành mang lại thu nhập chính.
Bên cạnh đó, xen lẫn giữa những núi đồi, sông suối là những đồng cỏ, đây là
môi trường lý tưởng cho chăn nuôi đại gia súc. Núi rừng Tuyên Hoá cũng là nơi
sinh sống của hàng trăm loài chim thú, một vài nơi còn có nhiều loại động vật quý
hiếm như gấu, bò tót, hổ, mang lớn, nhím, vượn má hung, voọc vá chân nâu, khỉ
đuôi lợn, khỉ mốc… Với 15800 ha đất vùng gò đồi, Tuyên Hoá còn có tiềm năng
lớn để phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả như tiêu, vải thiều, bưởi và
chăn nuôi đại gia súc. Mạng lưới sông suối của vùng tương đối dày, với dòng sông
Gianh, Tuyên Hoá còn có điều kiện để phát triển nghề nuôi cá lồng bè và đảm bảo
khả năng cung cấp nước ngọt cho toàn huyện.
Ngoài tiềm năng phát triển mạnh nghề rừng và nuôi trồng thủy sản, với hàng
tỷ m3 đá vôi đã tạo điều kiện cho huyện phát triển ngành công nghiệp xi măng và
sản xuất vật liệu xây dựng, tiêu biểu là nhà máy xi măng Sông Gianh với công suất
1,4 triệu tấn/năm.
Tuyên Hóa có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2012-
2016 tăng đạt 12%/năm; Đến năm 2016, tổng sản lượng lương thực đạt 18.500 tấn,
thu nhập bình quân đầu người đạt 19 triệu đồng/năm. Cơ cấu kinh tế đến năm 2016:
nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 39,2%; công nghiệp - xây dựng 26,43%; dịch vụ
34,37%.
Như vậy, về kinh tế, Tuyên Hóa còn là một huyện miền núi khó khăn khi mà
có đến 12/20 xã thị trấn thuộc danh mục các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn theo Quyết định số 2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ
62
phê duyệt danh sách các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện
đầu tư của Chương trình 135 năm 2014 và năm 2015. Huyện có cơ cấu kinh tế
không đều và còn ở mức thấp, tốc độ phát triển chậm, hay nói cách khác đây là địa
bàn có điều kiện kinh tế kém phát triển. Trong khi, yếu tố kinh tế, là yếu tố tác động
rất lớn đến công tác PBGDPL về quyền trẻ em. Bởi lẽ, khi kinh tế phát triển, đời
sống vật chất và tinh thần người dân nâng cao, sẽ có điều kiện để mua sắm các
phương tiện nghe, nhìn, có điều kiện tiếp xúc với thông tin pháp luật nhiều hơn, tốt
hơn; khi đó các chương trình PBGDPL sẽ dễ dàng đến được với đông đảo nhân dân;
nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật trở thành nhu cầu tự giác,
thường trực trong suy nghĩ và hành động của họ. Ngược lại, khi kinh tế chậm phát
triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia tăng, lợi ích kinh tế không được đảm
bảo, cơ sở vật chất yếu kém, đời sống nhân dân khó khăn, thì tư tưởng sẽ diễn biến
phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu cực đến ý thức tiếp thu pháp luật.
Do đó, sẽ rất khó khăn cho công tác, PBGDPL về quyền trẻ em ở một huyện miền
núi có điều kiện kinh tế còn thấp như Tuyên Hóa.
- Về đặc điểm văn hóa – xã hội:
Tính đến thời điểm 31/12/2016 dân số toàn huyện Tuyên Hóa là 79 469 người, phân bố trên 19 xã, 1 thị trấn; mật độ dân số là 68,4 người/km2 trong đó ở thành thị là 4,4 người/km2, ở nông thôn là 64,04 người/km2. Với lượng dân số
tương đối đông và tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn như vậy nên bình quân đất
trên đầu người ở nông thôn càng ngày càng giảm, diện tích đất canh tác theo đó mà
ít đi, dẫn đế thu nhập thấp, trình độ dân trí lạc hậu, nạn thất nghiệp càng ngày càng
tăng, đòi hỏi tầng lớp lao động phải rời quê đến thành phố để kiếm việc làm; do đó,
dân số còn lại trên thực tế của địa phương chủ yếu là người già và trẻ em - những
người mà trong nhận thức của họ còn cố chấp, lạc hậu khó thay đổi; hoặc chưa đủ
trưởng thành để nhận thức đầy đủ vấn đề.
Mặc dù dân cư trên địa bàn Huyện Tuyên Hóa đa số là người dân tộc Kinh,
người dân tộc thiểu số chiếm rất ít, chủ yếu người Mã Liềng sống quy tụ trong 5
bản của 2 xã Thanh Hoá, Lâm Hoá gồm 113 hộ, 462 khẩu (chiếm 0,6% dân số),
63
nhưng chủ yếu vẫn là dân thổ cư, sinh sống lâu năm, nên lối sống, lao động và sinh
hoạt của họ chủ yếu vẫn chịu ảnh hưởng bởi lề lối, phong tục tập quán của địa
phương, luôn trong tư tưởng “phép vua thua lệ làng”, nên chắc chắn công tác
PBGDPL về quyền trẻ em sẽ gặp không ít trở ngại.
Là huyện miền núi còn nhiều khó khăn, nên việc tiếp xúc với các tư tưởng
mới, tiến bộ gặp nhiều hạn chế. Trong dân cư các hủ tục phong kiến, lạc hậu vẫn
diễn ra, cho nên việc họ nhận thức và hành động trong cách nuôi dạy con cái, đặc
biệt là trẻ em còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các tư tưởng lỗi thời như “trọng nam
khinh nữ”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”,...và họ mặc định điều đó là đúng, dẫn đến
vô tình xâm hại đến những quyền cơ bản của trẻ em mà họ không hề hay biết. Do
đó, việc thay đổi được nhận thức của họ là rất khó khăn, đòi hỏi công tác PBGDPL
nói chung và công tác PBGDPL về quyền trẻ em nói riêng, phải có những biện pháp
đặc thù khi đó mới mang lại hiệu quả thật sự.
Vậy nên, có thể nhận thức rằng các yếu tố văn hóa, nó gắn liền với một phạm
vi không gian, xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng cùng nhau tạo dựng,
thừa nhận và chia sẻ giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán,... sự biểu hiện của
nó qua những mặt, những khía cạnh nhân định, sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá
trình PBGDPL về quyên trẻ em, đưa pháp luật tới gần hơn với cuộc sống. Các
phong tục tập quán, lối sống trong cộng đống dân cư nó sẽ tác động đến ý thức pháp
luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện rõ nét ở khu vực miền núi như huyện Tuyên
Hóa. Bên cạnh những ưu điểm că bản, thì bên cạnh đó vẫn bộc lộ những nhược
điểm nhất định như trình độ dân trí còn thấp, còn chịu ảnh hưởng bởi các hủ tục
phong kiến, lạc hậu, khó thay đổi.
2.2.2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em ở huyện Tuyên
Hóa, tỉnh Quảng Bình
2.2.2.1. Tình hình trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng Bình
64
Bảng 2.2: Thống kê số lượng trẻ em qua các năm
ĐVT: người
Năm Tổng dân số (người) Số lượng trẻ em Tỷ lệ phần trăm
(người) (%)
78256 19015 24,3 2012
78341 19972 25,5 2013
78425 20348 25,9 2014
78755 21221 26,9 2015
79469 21557 27,1 2016
Nguồn: Niên giám Thống kê Huyện Tuyên Hóa năm 2016.
Trên địa bàn Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, trẻ em khá đông, trung bình
mỗi năm đều chiếm từ 25% dân số trở lên, tăng đều qua các năm và số lượng tăng
tương đối lớn, trong vòng 5 năm ( từ 2012 đến 2016) tăng thêm 2542 trẻ em ( từ
19015 lên 21557). Do đó, công tác chăm sóc,bảo vệ, giáo dục trẻ em, cũng như việc
đảm bảo được quyền cho trẻ em là điều vô cùng cần thiết, đồng thời cũng là một
thách thức lớn với một Huyện miền núi còn khó khăn như huyện Tuyên Hóa.
Trong những năm qua, về cơ bản Huyện cũng đã đáp ứng được một số quyền
cơ bản của trẻ em trong một mức độ nhất định.
Tỷ lệ sinh (‰)
Tỷ lệ sinh (‰)
25.00 20.00 15.00 10.00 5.00 0.00
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Sơ đồ 2.1: Tỷ lệ sinh
Nguồn: Niên giám Thống kê Huyện Tuyên Hóa năm 2016
65
Bảng 2.3: Thống kê số trẻ em được sinh ra
ĐVT: người
Năm 2012 2013 2014 2015 2016
Số lượng trẻ em sinh ra 900 1315 1658 1526 1650
Nguồn: Niên giám Thống kê Huyện Tuyên Hóa năm 2016
Hàng năm, Huyện Tuyên Hóa có số trẻ em được sinh ra khá lớn, những vẫn
đảm bảo được 100% số trẻ em sinh ra được khai sinh đầy đủ. Các cơ quan chức
năng, đảm bảo công tác hướng dẫn, giải thích rõ ràng và thực hiện thủ tục đăng ký,
làm giấy khai sinh cho nhân dân một cách nhanh chóng. Đặc biệt, đối với người dân
tộc Mã Liềng ở 2 xã Thanh Hóa, Lâm Hóa, đường sá đi lại khó khăn, trình độ nhận
thức còn hạn chế, nên mỗi khi có trẻ em sinh ra, cán bộ tư pháp xã được cử đến tận
nhà để giải thích tầm quan trọng của giấy khai sinh, vận động và hướng dẫn đồng
bào thực hiện kịp thời.
Trẻ em được sinh ra được sống trong sự yêu thương, đùm bọc của cha mẹ và
người thân trong gia đình. Toàn Huyện chỉ duy nhất một trường hợp của em
Nguyễn Thi Kim Hồng (sinh năm 2002) là trẻ em mồ côi khi mới 6 tuổi và hiện nay
đang sống cùng ông bà ngoại. Các cơ quan chức năng và nhân dân, luôn cố gắng hết
sức để 100% trẻ em được đảm bảo có cuộc sống bình thường, được đáp ứng đủ các
nhu cầu cơ bản để phát triển thể chất, được có nơi ăn, chốn ở ổn định.
Huyện Tuyên Hóa, luôn chú trọng đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa
học, công nghệ vào việc khám, chữa bệnh, không ngừng nâng cao năng lực chuyên
môn và y đức của đội ngũ bác sỹ, nhân viên y tế; đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết
bị các cơ sở y tế; thiện tốt các chương trình y tế quốc gia, y tế dự phòng, chương
trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân và đặc biệt là trẻ em. Trẻ em được
chăm sóc sức khỏe từ khi còn trong bụng mẹ cho đến khi sinh ra, đến năm 2015, tỷ
lệ phụ nữ có thai được tiêm phòng 100%; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng
100%. Trẻ em từ khi sinh ra đến dưới 16 tuổi, được tiêm chủng đầy đủ 9 mũi với 4
loại vắc-xin (viêm gan B, Sởi, BCG, HIB), riêng trẻ em nữ được tiêm thêm 3 mũi
66
vắc xin uốn ván. 100% trẻ em dưới 6 tuổi được hưởng BHXH miễn phí, đối tượng
trẻ em trên 6 tuổi được hưởng bảo hiểm y tế theo quy định của Luật Bảo hiểm Y tế.
Bảng 2.4: Thống kê số lượng trẻ em theo độ tuổi
ĐVT: người
Độ tuổi Năm 0 – dưới 6 6 – dưới 12 12 - dưới 16
6364 5400 6351 2012
6309 5168 7180 2013
6263 5151 7576 2014
6333 5110 8252 2015
6335 4922 8650 2016
Nguồn: : Niên giám Thống kê Huyện Tuyên Hóa năm 2016
Trong công tác giáo dục, toàn Huyện Tuyên Hóa hiện nay có 25 trường mẫu
giáo, 26 trường tiểu học, 17 trường trung học cơ sở, 1 trung tâm giáo dục thường
xuyên và 1 trường dạy nghề; đảm bảo công tác giáo dục cho trẻ em từ 3 đến dưới 16
tuổi, toàn diện về mọi mặt, từ văn hoá đến tinh thần, đạo đức, thể dục thể thao. Mỗi
một độ tuổi lại có một phương pháp, cách thức và nội dung giáo dục riêng. Ở cấp
giáo dục mầm non luôn chú trọng đổi mới hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm
non theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm; giáo dục tiểu học và trung học
cơ sở tập trung đổi mới phương thức dạy học, chú trọng việc học đi đôi với hành,
giáo dục nhà trường gắn với giáo dục gia đình và cộng đồng; giáo dục thường
xuyên và đào tạo nghề thực hiện đa dạng hóa nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân, góp phần xây dựng xã hội
học tập và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã hội. Trên cơ sở đó, công tác giáo
dục ở huyện Tuyên Hóa đến năm 2016 đã huy động được100% số cháu 5 tuổi vào
học mẫu giáo, trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%, học sinh hoàn thành chương trình tiểu
học vào lớp 6 đạt 100%, học sinh tốt nghiệp THCS 85% trở lên.
67
Tình hình trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa vi phạm pháp luật hình sự và
bị xâm hại trong các vụ án hình sự trong những năm gần đây được thống kê qua
bảng số liệu sau:
Bảng 2.5: Trẻ em với các vụ án hình sự
ĐVT: Vụ
Năm Trẻ em là người bị hại Trẻ em là bị can, bị cáo
0 3 2012
0 5 2013
0 6 2014
1 4 2015
0 4 2016
0 2 Đến 09/2017
Nguồn: Báo cáo kết hoạt động Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Tuyên Hóa các
năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 và sáu tháng đầu năm 2017.
Nhìn chung thì trên địa bàn Huyện Tuyên Hóa, thì việc trẻ em vi phạm pháp
luật hình sự vẫn còn xảy ra, đa phần ở các tội như : vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác, tội trộm cắp tài sản,...đối tượng trẻ em vi phạm các tội này
thường từ 14 tuổi trở lên. Trên địa bàn huyện các vụ án trẻ em bị xâm hại tương đối
thấp; trong các vụ án này thì trẻ em bị xâm hại thường là trẻ em gái, bị xâm hại về
bạo lực và tình dục là chủ yếu, các đối tượng xâm hại đến trẻ em ở đây thường
thường là những đối tượng có trình độ văn hóa, hiểu biết kém. Do đó, để xóa bỏ
hoàn toàn tình trạng này, đòi hỏi công tác PBGDPL về quyền trẻ em cho các đối
tượng này là một điều vô cùng cần thiết.
Nhằm coi trẻ em là một bộ phận cần được đặc biệt quan tâm và quyền trẻ em
là quyền ưu tiên hàng đầu cần được bảo vệ, Huyện Tuyên Hóa trong những năm
gần đây đã có rất nhiều chính sách, chương trình dự án để chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em một cách toàn diện.
68
- Dưới sự phát động của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình, Huyện Tuyên Hóa
tích cực huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh thực hiện Chương trình bảo vệ trẻ em
tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016- 2020 theo Quyết định Số: 1242/QĐ-UBND ngày
27 tháng 4 năm 2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình, với mục tiêu “Xây
dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện cho mọi trẻ em, thực hiện
ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các
nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; hỗ trợ phục hồi, hòa nhập cho trẻ em hoàn cảnh
đặc biệt, trẻ em bị xâm hại”, theo đó tập trung truyền thông, giáo dục, vận động xã
hội về các quyền cơ bản của trẻ em; củng cố hệ thống tổ chức, nhân lực và nâng cao
năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em; duy trì và phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; bảo
vệ trẻ em và người chưa thành niên trong quá trình tố tụng dân sự, hình sự và xử lý
vi phạm hành chính. Bước đầu đã gặt hái được những thành quả nhất định.
- Các cơ quan chức năng trên địa bàn huyện thường xuyên phối kết hợp với
Quỹ bảo trợ trẻ em Tỉnh Quảng Bình thực hiện các chương trình: Chăm sóc sức
khỏe, dinh dưỡng cho trẻ em; Hỗ trợ học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học; Hỗ trợ
đột xuất cho trẻ em bị rủi ro, thiên tai, dịch bệnh; Hỗ trợ xây dựng trường mẫu giáo,
điểm vui chơi cho trẻ em các xã khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
- Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi huyện Tuyên Hóa, thực hiện
các chương trình: dạy nghề tạo việc làm cho người khuyết tật, trẻ mồ côi; phẩu
thuật thay thủy tinh thể, đem lại ánh sáng cho người mù nghèo và trẻ em mù; phẫu
thuật, phục hồi chức năng cho người khuyết tật; Chương trình cấp xe lăn, xe lắc, xe
bại não cho người khuyết tật hệ vận động; cấp xe đạp cho trẻ mồ côi, con thương
binh, con liệt sỹ; hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật, trẻ mồ côi tại các xã xây dựng
nông thôn mới.
- Ngoài ra, định kỳ hàng năm, tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa
văn nghệ trên phạm vi toàn huyện như: chương trình trung thu, quốc tế thiếu nhi
20/10, tổ chức trao học bổng cho trẻ em ngheo vượt khó; các hoạt động, thăm hỏi,
tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhân các dịp lễ, tết.. đã nhận được sự
69
ủng hộ nhiệt tình, giúp đỡ của các đơn vị, tổ chức, các mạnh thường quân và nhân
dân địa phương. Mang lại cho trẻ em sự quan tâm chăm sóc, và cũng là động lực để
các em cố gắng hơn nữa.
Đánh giá chung về tình hình chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trên địa
bàn Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Nhìn chung, Huyện Tuyên Hóa đã có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí
và tầm quan trọng của trẻ em trong xã hội. Từ đó, có sự quan tâm cả trong đường
lối, chính sách chỉ đạo, lẫn các chương trình hành động một cách cụ thể và thiết
thực. Đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất, môi trường tốt nhất để trẻ em được học tập,
vui chơi và phát triển lành mạnh. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế - xã hội tại địa
phương còn nhiều khó khăn, nên trẻ em chỉ được đảm bảo được các quyền cơ bản,
thiết yếu nhất cho cuộc sống trong nhóm Quyền được sống còn (như quyền được
sống cuộc sống bình thường, được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và
phát triển thể chất, đó là có mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc
sức khoẻ, được khai sinh ngay sau khi ra đời) và một số ít trong nhóm Quyền được
phát triển (như: được tạo điều kiện để có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần
và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hoá, tiếp
nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo, nhận được tình sự yêu
thương và cảm thông của cha mẹ và người lớn để có thể phát triển hài hoà). Còn lại,
các nhóm Quyền được bảo vệ và nhóm Quyền được tham gia vẫn còn nhiều hạn chế
và chưa được tạo điều kiện tối đa, chẳng hạn: chưa thực sự có những quy định,
nhằm bảo vệ trẻ em trước các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình
dục, lạm dụng ma tuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán; trẻ em vẫn
chưa được quan tâm bảo vệ trong sự riêng tư của mình; hay vẫn chưa có một chế
định nào để bảo vệ trẻ em không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng trong trường hợp
trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ; trẻ em vẫn chưa được tự do bày tỏ quan
điểm và ý kiến về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em còn
gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc kết bạn, giao lưu và hội họp hoà bình,
được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp,... Do
70
đó, đòi hỏi trong thời gian tới, Huyện Tuyên Hóa cần phải chú trọng nhiều hơn nữa,
cố gắng hơn nữa để quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được toàn diện và hiệu
quả.
2.2.2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trên địa bàn
huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
a. Cơ sở pháp lý của công tác phổ biến,giáo dục pháp luật về quyền trẻ em
trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
Xuất phát từ nhận thức về về vai trò của hoạt động PBGDPL trong quản lý
nhà nước và quản lý xã hội. Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của trẻ em và
công tác PBGDPL về quyền trẻ em đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân huyện
nhà, trong thời gian qua các cấp ủy Đảng và chính quyền huyện Tuyên Hóa luôn coi
trọng công tác PBGDPL về quyền trẻ em, coi đây là một nhiệm vụ hàng đầu và
thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Triển khai thi hành các chủ trương, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật
của Nhà nước và lãnh đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt công tác PBGDPL nói
chung và công tác PBGDPL về quyền trẻ em nói riêng, trong những năm qua,
huyện Tuyên Hóa luôn xác định rõ ba mục tiêu sau:
- Tăng cường sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp huyện với các ngành, đoàn thể,
tổ chức triển khai việc tuyên truyền, PBGDPL rộng rãi trong cán bộ và nhân dân
các văn bản pháp luật thiết thực với đời sống xã hội.
- Tổ chức biên soạn, in ấn, phát hành đề cương tuyên truyền các văn bản luật
đến các ngành, các địa phương làm tài liệu để những đơn vị này nhân ra diện rộng.
- Tổ chức khảo sát nắm tình hình về công tác PBGDPL, nhu cầu hiểu biết, khả
năng nhận thức về pháp luật trong cán bộ và nhân dân để trên cơ sở đó xác định
phương pháp và hình thức phù hợp với từng đối tượng.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên UBND huyện đã tổ chức Hội nghị cán
bộ chủ chốt nhằm quán triệt cũng như chỉ đạo triển khai các văn bản trong công tác
PBGDPL và công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em của Trung ương và của tỉnh
như: Quyết định số:705/QĐ-TTg ngày 25/05/2017 Ban hành chương trình Phổ biến
71
giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021; Chương trình PBGDPL của UBND tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2012 - 2017; Kế hoạch số 1437/KH-UBND về việc triển khai
thực hiện Chương trình PBGDPL giai đoạn 2017 – 2021; Chương trình bảo vệ trẻ
em tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016- 2020 và hệ thống các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp.
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai của các cấp ủy Đảng, chính quyền
đối với công tác PBGDPL về quyền trẻ trên địa bàn huyện còn được khẳng định bởi
việc ban hành hệ thống các văn bản nhằm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện.
Giai đoạn 2012 đến nay, Huyện ủy, UBND huyện, và các tổ chức, đoàn thể,
hội, nhóm trên địa bàn huyện Tuyên Hóa đã trực tiếp ban hành 41 văn bản và chỉ
đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và các xã, thị trấn ban hành rất
nhiều văn bản nhằm triển khai thực hiện công tác PBGDPL, trong đó có công tác
PBGDPL về quyền trẻ em. Cụ thể có: Thông tri về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân địa phương; Quyết định phê duyệt chương trình PBGDPL huyện Tuyên
Hóa giai đoạn từ năm 2017-2021; Kế hoạch cấp phát tài liệu cho cán bộ làm công
tác PBGDPL cấp xã giai đoạn 2015 - 2017; Kế hoạch PBGDPL qua các năm;
Chương trình PBGDPL cụ thể hàng quý, hàng tháng; Kế hoạch tổ chức các hội thi,
cuộc thi tìm hiểu pháp luật; Kế hoạch tuyên truyền công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em
năm 2017 trên địa bàn huyện; hệ thống văn bản của các tổ chức xã hội trong thực
hiện các hoạt động chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em khuyết tật, trẻ em mồ côi, trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,.. công văn tăng cường hoạt động trợ giúp pháp
lý, xây dựng và khai thác Tủ sách pháp luật;... Các văn bản này nhằm nâng cao
nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, trách nhiệm
của mỗi công dân và tập thể trong công tác PBGDPL nói chung và trong công tác
bảo vệ những quyền cơ bản của trẻ em trong xã hội nói riêng. Đồng thời, xác định
rõ trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và cán bộ, đảng viên trong
chỉ đạo và thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên
Hóa.
72
Trên cơ sở đó, UBND Tuyên Hóa cũng đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể
của huyện và UBND các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch triển khai công tác
PBGDPL của đơn vị mình với các hình thức và nội dung phù hợp đối với từng đối
tượng, đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện có chiều sâu và
hiệu quả.
b. Đội ngũ làm công tác của công tác phổ biến,giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
Với tinh thần huy động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia vào công tác chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, đồng thời phát huy công tác PBGDPL để đẩy mạnh
tính hiệu quả khi thực hiện pháp luật bảo vệ quyền của trẻ em vào thực tế cuộc
sống, đến nay đội ngũ làm công tác PBGDPL trên địa bàn huyện đã được củng cố
ngày càng tốt hơn cả về chất lượng lẫn số lượng.
- Hội Luật gia huyện Tuyên Hóa (bao gồm 07 chi hội là Huyện ủy và Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam huyện, HĐND và UBND huyện, VKSND - TAND - Chi cục
THADS huyện, Hạt kiểm lâm huyện và 2 đơn vị là xã Tiến Hóa và thị trấn Đồng
Lê) đã thực hiện tốt nhiệm vụ hàng đầu của mình trong công tác tuyên truyền
PBGDPL, nâng cao ý thức pháp luật về quyền trẻ em cho hội viên, cán bộ, công
chức, viên chức và nhân dân. Hội thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo,
buổi nói chuyện tại các trường học, nhằm giúp giáo viên và học sinh, nhận thức
được vị trí vai trò của trẻ em trong đời sống; tuyên truyền, PBGDPL bằng các hình
thức hài hước, gần gũi với đặc trưng của môi trường trường học, để phát huy tối đa
hiệu quả .
- Một thành phần quan trọng trong đội ngũ làm công tác PBGDPL của huyện
tại các xã, thị trấn không thể không kể đến là đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch,
gồm có 25 đồng chí đều có trình độ đại học Luật trở lên. Họ là những người trực
tiếp thực hiên công tác pháp luật và theo dõi, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy
phạm pháp luật; là những người trực tiếp tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch
PBGDPL; tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở, bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên Tổ hoà giải trên địa
73
bàn,... do đó, công tác PBGDPL về quyền trẻ em có thành công và hiệu quả trên địa
bàn huyện Tuyên Hóa, chắc chắn sẽ không thể thiếu được đội ngũ cán bộ Tư pháp,
hộ tịch cấp xã, cấp huyện.
- Số lượng giáo viên giảng dạy môn đạo đức và giáo dục công dân nói riêng và
các giáo viên nói chung, tại các trường mầm non, trường tiểu học và trung học cơ
sở trên địa bàn huyện cũng là lực lượng tích cực trong công tác PBGDPL về quyền
trẻ em. Bởi lẽ, họ là những người gần gũi, gắn bó với trẻ em nhiều nhất, và cũng là
những người giáo dục các em từ văn hóa, nhân cách, đến hiểu biết, là người nắm bắt
tâm sinh lý của trẻ em tốt nhất. Bằng nghiệp vụ và thông qua các chương trình đào
tạo theo quy định của bộ Giáo dục và đào tạo, các chương trình ngoại khóa, các
buổi sinh hoạt, trò chuyện ở trường, đội ngũ giáo viên hoàn toàn có thể truyền đạt
pháp luật liên quan đến quyền trẻ em một cách hiệu quả và đây cũng là kênh tốt
nhất để trẻ em hiểu được vị trí của mình và quyền của mình trong xã hội.
- Đội ngũ cán bộ, nhân viên trực thuộc Quỹ bảo trợ trẻ em, Hội bảo trợ người
khuyết tật và trẻ em mồ côi trên địa bàn huyện là những người chịu trách nhiệm
thực hiện các hoạt động, chương trình nhằm chăm sóc, giáo dục và bảo trợ trẻ em,
đồng thời cũng là những người hoạt động thường xuyên và có chuyên môn trong
lĩnh vực này. Thông qua các hoạt động và các chương trình đưa ra để tuyên truyền,
PBGDPL về quyền trẻ em đến đúng các đối tượng mà nhóm quyền này hướng đến
và bảo vệ.
- Cán bộ tại trung tâm Trợ giúp pháp lý huyện Tuyên Hóa, là những người
thường xuyên và trực tiếp lắng nghe các ý kiến, vướng mắc và nguyện vọng của
nhân dân, để từ đó xác định thực hiện trách nhiệm trợ giúp, giải thích, hướng dẫn
cho nhân dân năm được các quy định của pháp luật về quyền trẻ em và các quy định
pháp luật có liên quan một cách dễ hiểu và thiết thực nhất. Từ đó giúp cho họ thực
hiện đúng pháp luật về quyền trẻ em. Hiện nay, Huyện có 05 cán bộ TGPL có trình
độ Cử nhân luật trở lên, có khả năng truyền đạt tốt, nhiệt tình và có tinh thần trách
nhiệm với nhân dân.
74
- Ngoài ra, lực lượng làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em ở các xã, thị trấn
còn có các tuyên truyền viên pháp luật với 266 người và trên 800 tổ viên tổ hòa giải
của các tổ hòa giải đến từ các thôn, bản, tiểu khu của các xã, thị trấn. Số tuyên
truyền viên và hòa giải viên ở cơ sở có trình độ chuyên môn luật cũng như trình độ
chuyên môn khác ngày càng tăng lên đáng kể.
c. Nội dung, đối tượng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ
em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
- Nội dung PBGDPL về quyền trẻ đã được chú trọng, gắn với từng nhóm đối
tượng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương. Tập trung
chính vào pháp luật về các nhóm quyền của trẻ em và công tác bảo vệ quyền của trẻ
em cho các đối tượng. Thời gian qua, nội dung PBGDPL về quyền trẻ em trên địa
bàn huyện chủ yếu tập trung vào những nhóm cơ bản sau:
+ Đối với các văn bản pháp luật có tác động trực tiếp, liên quan thiết thực đến
quyền của trẻ em, quyền và nghĩa vụ của những đối tượng có liên quan đến bảo vệ
quyền của trẻ em. Bao gồm các văn bản luật, văn bản dưới luật và hệ thống các văn
bản QPPL do HĐND, UBND tỉnh, huyện ban hành. Đối với các nội dung trong
phạm vi này được cán bộ làm công tác PBGDPL và các đối tượng có liên quan triển
khai tuyên truyền, phổ biến một cách thường xuyên, mang tính ổn định bằng tất cả
các hình thức PBGDPL tùy theo đối tượng, độ tuổi và điều kiện cụ thể.
+ Đối với các văn bản pháp luật vừa mới được cơ quan có thẩm quyền ban
hành sắp có hiệu lực hay vừa mới có hiệu lực. Thường được quán triệt, triển khai
đồng loạt trên cơ sở kế hoạch của UBND tỉnh, UBND huyện. Hình thức chủ yếu
đầu tiên là mở hội nghị triển khai từ huyện, xã đến các thôn, bản, tiểu khu cho các
đối tượng từ đội ngũ cán bộ cốt cán cấp huyện, cấp xã đến toàn thể cán bộ và nhân
dân trong toàn huyện. Sau đó, tùy theo điều kiện, nhu cầu ở từng cấp, từng ngành,
từng địa phương để tiếp tục xây dựng chương trình tuyên truyền, phổ biến phù hợp
và có hiệu quả.
- Trong thời gian qua, các chủ thể thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ
em ở các xã, thị trấn luôn chú trọng xây dựng kế hoạch, chương trình hàng năm,
75
hàng quý, hàng tháng nhằm bao quát hết các nội dung; trên cơ sở đó điều chỉnh cân
bằng giữ các nội dung tùy theo từng thời điểm xác định và đặc biệt là phù hợp với
từng nhóm đối tượng xác định. Cụ thể:
Xác định cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và cán bộ chính quyền cơ sở
là lực lượng tham gia quản lý xã hội, thực thi công vụ, giải quyết công việc phục vụ
nhân dân, trong đó có công tác quản lý và giải quyết các công việc liên quan đến trẻ
em. Vì vậy, các ban, ngành, đoàn thể của huyện đã đặc biệt chú ý và chủ động
thường xuyên phổ biến, quán triệt các văn bản pháp luật cho cán bộ, công chức học
tập, nghiên cứu nhằm nâng cao kiến thức pháp luật về quyền trẻ em, cũng như khả
năng vận dụng pháp luật vào giải quyết công tác chuyên môn.
Phòng Tư pháp đã phối hợp đơn vị trong huyện xây dựng và ký kết Chương
trình phối hợp về việc PBGDPL trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa
bàn huyện Tuyên Hóa giai đoạn 2014-2016; hàng năm đều phối hợp tổ chức 01 đến
03 lớp tập huấn hoặc các buổi tọa đàm cho cán bộ, nhân viên trong các tổ chức, đơn
vị trên địa bàn huyện, nhằm tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật liên quan
đến quyền và lợi ích của trẻ em như : Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế, Luật
Bảo hiểm xã hội, Luật trẻ em. Từ đó, lấy ý kiến, nhận xét của họ để tổng hợp, đóng
góp vào quá trình xây dựng các quy định pháp luật về quyền trẻ em thiết thực và
gần gũi hơn với thực tế cuộc sống. Đồng thời, trao đổi để đưa ra biện pháp, cách
thức thực hiện các quy định đó một cách hiệu quả nhất. Phối hợp biên soạn tài liệu
về PBGDPL cho các đối tượng như sổ tay trẻ em, phát hành tờ rơi về quyền trẻ em,
quyền và nghĩa vụ của người lớn trong việc bảo vệ quyền trẻ em.
Hội Liên hiệp phụ nữ huyện là tổ chức thực hiện các công tác có liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình và trẻ em, đã thực hiện
đưa nội dung chương trình PBGDPL của Chính phủ vào việc xây dựng các chương
trình công tác và kế hoạch tuyên truyền pháp luật theo từng năm hoặc từng đợt cụ
thể; lồng ghép vào nội dung chương trình hoạt động toàn khóa; xây dựng kế hoạch
chỉ đạo điểm các hình thức PBGDPL; tạo điều kiện cho chi hội viên có sự hiểu biết
pháp luật cần thiết để tham gia quản lý nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội
76
ở địa phương. Kết quả, đã tổ chức tuyên truyền pháp luật liên quan đến quyền trẻ
em cho hàng ngàn lượt hội viên .
UBND huyện đã chỉ đạo các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác PBGDPL về
quyền trẻ em cho cán bộ, nhân dân đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu
số, đặc biệt là các vùng chưa có hệ thống điện lưới quốc gia, chưa được phủ sóng
truyền hình như địa bàn xã Lâm Hóa, Thanh Hóa - nơi mà nhận thức của họ về pháp
luật còn rất hạn chế. Đồng thời, chủ động triển khai, lựa chọn nội dung, hình thức
phù hợp với từng nhóm đối tượng trên địa bàn, góp phần đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của nhân dân, từng bước nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật về quyền trẻ em, ngăn chặn và hạn chế vi phạm
pháp luật và các hành vi xâm hại đến quyền trẻ em trên địa bàn.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em cho thanh thiếu niên; sinh viên, học sinh
trong các trường học được chú trọng và quan tâm. Huyện đoàn Tuyên Hóa đã phối
hợp với Phòng Giáo dục và đào tạo, Phòng Tư pháp và các ngành, các đoàn thể liên
quan PBGDPL cho thanh thiếu niên của huyện nhà về quyền và nghĩa vụ của công
dân; quyền trẻ em; về hôn nhân và gia đình; an toàn giao thông; phòng, chống ma
túy; phòng, chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội. Lồng ghép nội dung tuyên truyền,
PBGDPL trong hoạt động của các mô hình sinh hoạt đoàn, đội, hội như Câu lạc bộ
tuổi trẻ phòng chống tội phạm, diễn đàn pháp luật, tọa đàm, giao lưu, tổ chức các
đợt thanh niên tình nguyện xuống cơ sở.
Ngoài ra, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em còn nhận
được sự tham gia tích cực, chủ động của các tầng lớp nhân dân trong địa phương.
Thúc đẩy phạm vi PBGDPL về quyền trẻ em được nhân rộng, có tầm ảnh hưởng to
lớn hơn.
d. Hình thức của công tác phổ biến,giáo dục pháp luật về quyền trẻ em trên
địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Các hình thức PBGDPL về quyền trẻ em được lựa chọn và áp dụng tại huyện
Tuyên Hóa khá phong phú và đa dạng phù hợp với đặc điểm, tình hình và điều kiện
77
ở mỗi địa phương, mỗi nhóm đối tượng trên địa bàn. Trong đó có một số hình thức
PBGDPL về quyền có hiệu quả, thu hút được nhiều đối tượng tham gia như sau:
Một là, tuyên truyền miệng:
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà người nói
trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực pháp luật, trong đó chủ yếu là phổ biến,
giới thiệu các quy định pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người
nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật. Tuyên
truyền miệng là hình thức PBGDPL khá đặc biệt bởi lẽ đây là một công đoạn không
thể thiếu trong phần lớn các hình thức tuyên truyền khác.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng như
hiện nay, công tác tuyên truyền miệng vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động
PBGDPL bởi nó có thể thực hiện được ở mọi nơi, mọi lúc, đưa thông tin pháp luật
đến với người dân trong mọi hoàn cảnh, điều kiện mà không bị phụ thuộc vào công
cụ, không gian và thời gian. Chính vì vậy, trong những năm qua, hình thức tuyên
truyền miệng luôn được chú trọng và sử dụng khá phổ biến trong hoạt động
PBGDPL về quyền trẻ em ở huyện Tuyên Hóa.
Trong giai đoạn 2012-2017, huyện Tuyên Hóa đã tổ chức được gần 30 hội
nghị, hội thảo, tọa đàm, các buổi nói chuyện nhằm PBGDPL về quyền trẻ em với sự
tham gia của hàng chục nghìn người, ở nhiều độ tuổi và vị trí khác nhau. Đã phần
nào đưa pháp luật bảo vệ trẻ em đến gần hơn với đời sống thực tiễn.
Hai là, PBGDPL về quyền trẻ em qua Đài Truyền thanh – truyền hình
huyện và hệ thống loa truyền thanh cơ sở
Thấy rõ được lợi thế của phương tiện thông tin đại chúng trong công tác
PBGDPL, thời gian qua, trên địa bàn huyện đã tăng cường PBGDPL nói chung và
PBGDPL về quyền trẻ em nói riêng, trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà
chủ yếu là qua Đài Truyền thanh huyện và hệ thống loa truyền thanh cơ sở tại các
xã, thị trấn. Chương trình Pháp luật và đời sống trên sóng phát thanh đều đặn mỗi
tháng 01 chuyên đề, theo đó chuyên đề pháp luật về quyền trẻ em được phát sóng
tương ứng với từ 02 - 04 chuyên đề, mỗi lần phát với thời lượng 20 đến 30 phút,
78
phát 02 lần trong tuần. Chương trình đã thông tin, giới thiệu cụ thể một cách kịp
thời các văn bản pháp luật mới, quan trọng, mang tính thời sự và liên quan trực tiếp
về quyền trẻ em. Ngoài ra, Đài Truyền thanh huyện hàng tuần đều có chương trình
điểm tin pháp luật được nhiều người dân quan tâm; qua đó thông tin đến người nghe
những văn bản mới được ban hành, phản ánh hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, nêu gương người tốt việc tốt, đồng thời lên án, phê phán những hành vi vi
phạm pháp luật liên quan đến quyền trẻ em; thhời lượng của chương trình là 25 đến
30 phút. Các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về quyền trẻ có quy mô toàn huyện hay
được tổ chức tại các xã, thị trấn đều được Đài Truyền Thanh huyện đưa tin với đầy
đủ nội dung, ý nghĩa hội thi đã có tác dụng PBGDPL về quyền trẻ em đến nhiều
tầng lớp nhân dân.
Các cá nhân, tổ chức thuộc các cơ quan, đơn vị tổ chức, thực hiện công tác
PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn đều thường xuyên viết các tin, bài liên quan
đến pháp luật, phối hợp với Đài Truyền thanh - truyền hình huyện để phát thanh,
góp phần khai thác tối đa hiệu quả PBGDPL về quyền trẻ em .
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em trong nhân dân còn được thực hiện qua hệ
thống loa truyền thanh cơ sở. Hiện tại, 20/20 xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã được
trang bị hệ thống loa truyền thanh làm cầu nối từ trung tâm xã, thị trấn đến các thôn,
bản, tiểu khu. Tùy theo từng địa bàn cụ thể, sẽ định kỳ phát thanh hệ thống băng
đĩa, phóng sự, bản tin liên quan đến pháp luật về quyền trẻ em, để nhân dân có thể
tiếp thu pháp luật về quyền trẻ em thường xuyên, liên tục.
Có thể nói, công tác PBGDPL về quyền trẻ em qua Đài Truyền thanh - truyền
hình huyện và hệ thống loa truyền thanh cơ sở là hình thức PBGDPL ít tốn kém
nhất nhưng lại khá hiệu quả vì với hình thức này đảm bảo được tính kịp thời và
cùng một lúc PBGDPL về quyền trẻ em được cho nhiều người, nhất là ở địa bàn
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. UBND huyện sẽ luôn chú trọng đầu tư và tiếp tục
phát huy hiệu quả của hình thức PBGDPL này trong thời gian tới.
79
Ba là, PBGDPL về quyền trẻ em thông qua tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp
luật.
Thi tìm hiểu pháp luật cũng là một hình thức PBGDPL có hiệu quả mà huyện
Tuyên Hóa đã áp dụng khá thành công trong thời gian qua. Từ năm 2012 đến nay,
toàn huyện đã tổ chức, phát động, hưởng ứng được 70 cuộc thi tìm hiểu pháp luật,
bao gồm cả thi viết, thi vấn đáp và bằng hình thức sân khấu hóa, trong đó liên quan
đến quyền trẻ em có 12 cuộc thi. Có cuộc thi được triển khai từ cơ sở đến huyện,
nhưng cũng có cuộc thi do điều kiện, tính đặc trưng chỉ được tổ chức riêng ở cấp
huyện hoặc cấp xã. Các cuộc thi đã tập trung vào các chủ đề trẻ em và quyền trẻ em
dưới góc nhìn gần gũi, thiết thực, được đông đảo người dân quan tâm. Điển hình có
các cuộc thi như: Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai, Trẻ em với xã hội, Hội thi tìm
hiểu Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cuộc thi tìm hiểu Luật Trẻ em 2017.
Thi tìm hiểu pháp luật là hình thức phổ biến pháp luật cần sự đầu tư kinh phí
không lớn, nhưng bằng nhiều loại hình hấp dẫn, dễ dàng mở rộng được phạm vi đối
tượng tuyên truyền nên thu hút được đông đảo người dân tham gia, hiệu quả
PBGDPL cao. Qua các cuộc thi, người dân tìm hiểu pháp luật một cách hào hứng,
phấn khởi, sâu sắc. Bằng hình thức này, các quy định pháp luật tưởng như khô khan
trên văn bản có điều kiện lan tỏa, dễ dàng đi vào cuộc sống của mỗi cán bộ, nhân
dân, phát huy hiệu quả tốt hơn. Đây vừa là yêu cầu, là đòi hỏi và cũng chính là vai
trò của thi tìm hiểu pháp luật mà những người làm công tác PBGDPL về quyền trẻ
em ở huyện Tuyên Hóa luôn hướng đến.
Bốn là, PBGDPL về quyền trẻ em thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
Trong những năm qua, thông qua hoạt động TGPL với nhiều hình thức hết sức
đa dạng như: Tư vấn pháp luật, TGPL lưu động, TGPL về quyền trẻ qua đường dây
nóng, những người làm công tác TGPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên
Hóa đã PBGDPL về quyền trẻ em cho người được TGPL, giúp họ nâng cao trình độ
hiểu biết pháp luật để xử sự phù hợp và biết vận dụng pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của con em mình và trẻ em nói chung khi có thắc mắc, khi bị xâm
phạm. Khác với các hình thức PBGDPL vẫn thường được áp dụng như tuyên truyền
80
miệng về pháp luật, PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng... mang tính
chất đại trà, hướng vào số đông, PBGDPL thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở
huyện Tuyên Hóa có những đặc điểm sau đây:
- Chủ thể thực hiện chủ yếu là cán bộ và cộng tác viên Trung tâm Trợ giúp
pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình; cán bộ Chi nhánh Trợ giúp pháp lý đặt tại
huyện; những người đang thực hiện những công việc chuyên môn liên quan đến
pháp luật thực hiện PBGDPL; cán bộ Phòng Tư pháp từ huyện đến cơ sở; cán bộ
làm công tác tiếp công dân tại bộ phận tiếp công dân của huyện, các xã, thị trấn.
- Đối tượng hướng đến là một con người (cá nhân) cụ thể, phần lớn là những
người nghèo ở vào hoàn cảnh khó khăn, trình độ dân trí thấp, khả năng giao tiếp hạn
chế, nắm bắt vấn đề chậm; người có công với cách mạng trên địa bàn huyện, đối
tượng là trẻ em hoặc gia đình trẻ em đang bị xâm phạm về quyền trẻ em.
Thời gian qua, công tác TGPL liên quan đến quyền trẻ em ngày càng được chú
trọng, quan tâm đặc biệt ở huyện Tuyên Hóa. Những năm gần đây, việc TGPL về
quyền trẻ được thực hiện chủ yếu thông qua các hình thức như: Phối hợp với Trung
tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình tổ chức các chuyến TGPL lưu
động tại các xã, thị trấn; hoạt động TGPL cá biệt tại trụ sở các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể thông qua hoạt động chuyên môn khi nhân dân có nhu cầu đến giao dịch,
hoạt động TGPL về quyền trẻ em cho các đối tượng qua điện thoại.
Hàng năm, các chuyến trợ giúp pháp lý lưu động đến với đồng bào các xã, thị
trấn; đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được tổ chức
thường xuyên. Trong những năm qua, nhân dân ở 20 xã, thị trấn của huyện đều
được luân phiên TGPL lưu động. Bình quân, mỗi năm có từ 05 đến 07 chuyến
TGPL lưu động, mỗi chuyến trợ giúp được khoảng 40 đến 50 đối tượng, trong đó
hoạt động TGPL về quyền trẻ em chiếm trên 20%. Sự ra đời của Chi nhánh Trợ
giúp pháp lý Nhà nước đặt tại địa bàn huyện đã là điều kiện thuận lợi cho công tác
PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện có hiệu quả.
Một phương thức TGPL có hiệu quả khác mang tính chủ động hơn đó chính là
hoạt động TGPL về quyền trẻ em của cơ quan, cán bộ các ngành tại trụ sở làm việc,
81
thông qua thực hiện công việc chuyên môn. Chẳng hạn như cán bộ Tư pháp - Hộ
tịch các xã, thị trấn khi hướng dẫn người dân quy trình thực hiện các thủ tục liên
quan đến trẻ em, đã đồng thời giảng giải, tư vấn cho người dân các quy định của
pháp luật liên quan. Bản chất việc làm trên chính là hoạt động TGPL - một hình
thức PBGDPL gắn liền với kết quả thực tế. Với phương thức này, có thể nói hàng
năm có hàng nghìn người dân huyện Tuyên Hóa được TGPL, cũng chính là được
PBGDPL trong đó có pháp luật về quyền trẻ em.
PBGDPL về quyền trẻ em thông qua hoạt động TGPL sẽ liên quan trực tiếp
đến những vướng mắc pháp luật hoặc những vụ việc cụ thể của người yêu cầu
TGPL nên có mức độ ảnh hưởng sâu sắc hơn tới bản thân người được trợ giúp,
đồng thời có sức lan tỏa tới những người xung quanh. PBGDPL về quyền trẻ em
thông qua hoạt động TGPL, hướng dẫn người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; giúp các bậc cha mẹ bảo vệ con
em mình theo quy định của pháp luật, đưa ra các giải pháp, phương hướng giải
quyết những vướng mắc để giúp các đối tượng liên quan ứng xử phù hợp với pháp
luật, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em khi
bị xâm phạm. Trợ giúp pháp lý - Thực sự là hình thức PBGDPL về quyền trẻ em có
hiệu quả.
Năm là, PBGDPL thông qua các cuộc vận động chấp hành pháp luật
Đi đôi với việc tăng cường công tác PBGDPL về quyền trẻ em thì các ngành,
các cấp ở tỉnh Quảng Bình nói chung, huyện Tuyên Hóa nói riêng cũng đã tích cực
tổ chức nhiều cuộc vận động có tác dụng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong
các tầng lớp nhân dân. Trong 05 năm (2012 - 2017) các cấp, các ngành ở huyện
Tuyên Hóa đã phát động trên 20 cuộc vận động có nội dung nêu cao ý thức chấp
hành pháp luật về quyền trẻ em. Điển hình là các cuộc vận động như: Toàn dân tích
cực tham gia phòng, chống tội phạm; phong trào quần chúng tham gia chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em; toàn dân tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội ở thanh
thiếu niên,.... Thực hiện tốt chính sách kế hoạch hóa gia đình; thực hiện nếp sống
văn minh; ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo…
82
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và ngành giáo dục huyện đã phát
động nhiều cuộc vận động chấp hành pháp luật trong đoàn viên, thanh niên, học
sinh có tác dụng tốt như: Thanh niên, học sinh nói không với ma túy, tránh xa các tệ
nạn xã hội; đoàn viên thanh niên, học sinh, sinh viên nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật an toàn giao thông; thanh niên, học sinh tham gia bảo vệ môi trường; nói không
với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục…Các cuộc vận động
này vừa có tác dụng nâng cao hiểu biết pháp luật, vừa góp phần nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật trong cán bộ và các tầng lớp nhân dân.
Sáu là, PBGDPL về quyền trẻ em thông qua các hình thức khác
Ngoài các thành tựu đạt được thông qua các hình thức chủ yếu nêu trên, kết
quả thực hiện công tác PBGDPL còn được thể hiện thông qua hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến hành vi xâm hại trẻ em; công tác nghiệp vụ của các
cơ quan chuyên môn; hoạt động tố tụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó
đáng lưu ý là các phiên tòa xét xử lưu động. Thời gian qua, Tòa án nhân dân huyện
đã phối hợp với UBND các xã, thị trấn và các ngành có liên quan tổ chức xét xử lưu
động nhiều vụ án hình sự liên quan đến đối tượng bị hại là trẻ em để trực tiếp tuyên
truyền, PBGDPL cho cán bộ và các tầng lớp nhân dân địa phương; góp phần nâng
cao hiểu biết pháp luật cho nhân nhân trên địa bàn huyện.
Ngoài ra, một số hình thức PBGDPL như thông qua pa-nô, áp phích, cấp phát
tài liệu pháp luật quyền trẻ em cũng đã mang lại những hiệu quả đáng ghi nhận.
2.3. Những tồn tại và nguyên nhân rút ra trong công tác giáo dục trẻ em ở
Việt Nam huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Tồn tại
Bên cạnh những kết quả to lớn của công tác PBGDPL về quyền trẻ em mà các
cấp, các ngành của huyện đã đạt được trong giai đoạn 2012- 20017 trên địa bàn
huyện Tuyên Hóa vẫn đang còn những tồn tại, những bất cập nhất định.
83
2.3.1.1. Về cơ sở pháp lý của công tác PBGDPL về quyền trẻ em
Có thể nói, công tác PBGDPL về quyền trẻ là khâu đầu tiên đặc biệt quan
trọng trong hoạt động thi hành pháp luật, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng pháp
luật và thực thi pháp luật.
Luật Trẻ em 2016 ra đời ngày 05/04/2016 chỉ mới có hiệu lực và thay thế cho
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 kể từ ngày 01/06/2017, nên tính đến
thời điểm này chỉ mới được chưa đến 04 tháng. Do đó, quá trình áp dụng và thực thi
pháp luật còn chưa được thể thực hiện triệt để và phụ thuộc rất lớn vào công tác
PBGDPL về Luật trẻ em; đòi hỏi công tác PBGDPL phải phát huy mọi nguồn lực,
mọi phương pháp để đưa pháp luật đến gần nhất với người dân một cách nhanh
chóng nhất, đồng thời phải nói lên được cái mới, cái thiết thực, cái hiệu quả hơn so
với văn bản Luật trước đây; đưa cho các đối tượng có cách nhìn nhân đúng đắn về
Luật trẻ em ngay từ ban đầu. Và đó ắt hẳn là một thách thức lớn đối với công tác
PBGDPL.
Mặt khác, ngày 20/6/2012 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Quốc
hội khóa XIII - kỳ họp thứ 3 thông qua. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu
lực pháp lý cao nhất về việc triển khai công tác PBGDPL, phù hợp với mục tiêu của
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều văn bản của Chính phủ hướng dẫn thi hành
Luật trẻ em và Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây cũng là một trong những hạn
chế cho công tác PBGDPL nói chung và công tác PBGDPL về quyền trẻ em tại địa
bàn huyện Tuyên Hóa nói riêng. Trong điều kiện văn bản pháp luật được ban hành
ngày càng nhiều, nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh nhiều loại quan hệ của đời
sống xã hội phục vụ tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; từ thực
tế nhận thấy công tác PBGDPL về quyền trẻ em chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
bức thiết trong tình hình mới. Chính vì thế cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể,
84
chi tiết để địa phương có định hướng và cơ sở pháp lý nhằm triển khai hoạt động
PBGDPL về quyền trẻ em có hiệu quả.
Chính là văn bản mới, lại chưa có chưa có hệ thống các văn bản hướng dẫn,
chỉ đạo nhất quán, đồng bộ và cụ thể nên việc hiểu và thực hiện sẽ không tránh khỏi
được những quan điểm khác nhau, dẫn đến mỗi nơi sẽ có một cách hiểu khác nhau,
làm mất đi tính đồng nhất của văn bản Luật; đồng thời các điều kiện khác đảm bảo
cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em sẽ găp không ít những khó khăn, hạn chế.
Chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng và đủ mạnh nên tùy ngành, tùy từng cấp chính quyền
nào quan tâm đến công tác PBGDPL về quyền trẻ em thì dự toán, cấp kinh phí phù
hợp cho công tác này và ngược lại dẫn đến sự không đồng đều trong mặt bằng giáo
dục pháp luật tại từng cấp chính quyền. Hiện nay, ở huyện Tuyên Hóa kinh phí, cơ
sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho công tác PBGDPL hầu như chưa tương
xứng với chức năng, nhiệm vụ theo quy định; nhất là ở các xã vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, những địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn như các xã Lâm Hóa, Thanh Hóa,
Kim Hóa,....
2.3.1.2. Về chủ thể, đối tượng PBGDPL về quyền trẻ em
Mặc dù đã có những thay đổi về mặt nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền
và của xã hội về công tác PBGDPL về quyền trẻ em, tuy nhiên vẫn còn chưa thật sự
đầy đủ, chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này. Vì vậy,
sự đầu tư cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em còn chưa được chú ý về mọi mặt,
trong đó có chủ thể thực hiện công tác này.
Hội Luật gia huyện Tuyên Hóa tổ chức hoạt động trên lĩnh vực pháp luật trên
địa bàn huyện, tuy nhiên mỗi tổ chức thành viên đều là các cơ quan chuyên môn,
có nhiệm vụ và công tác riêng biệt, nên việc phối hợp với nhau để thực hiện nhiệm
vụ PBGDPL về quyền trẻ em, còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Phòng Tư pháp huyện và Ban Tư pháp các xã, thị trấn có chức năng tham mưu
cho UBND cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác PBGDPL phối hợp
xây dựng và tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các chương trình, kế
hoạch, đề án về PBGDPL về quyền trẻ em đối với các ngành và địa phương. Nhưng
85
thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ tư pháp huyện hay các xã, thị trấn hầu như chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phòng Tư pháp chỉ bố trí một cán bộ
lãnh đạo chuyên trách công tác PBGDPL. Ở cấp xã, cán bộ Tư pháp - hộ tịch ở
phần lớn các địa phương chỉ có một đến hai người, lại phải đảm đương nhiều loại
công việc khác nhau, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên công tác PBGDPL về
quyền trẻ em ở cấp xã không có chất lượng. Thực trạng về nhân lực làm việc như
vậy đã tồn tại từ nhiều năm nay, làm cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em các
cấp gặp nhiều khó khăn, không tương xứng với yêu cầu công việc được giao.
Đội ngũ giáo viên giảng dạy tại các trường mầm non, trường tiểu học và trung
học cơ sở; đội ngũ cán bộ, nhân viên trực thuộc Quỹ bảo trợ trẻ em, Hội bảo trợ
người khuyết tật và trẻ em mồ côi; Cán bộ chi nhánh trung tâm Trợ giúp pháp lý
trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn còn hạn
chế và chưa đồng đều. Công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ PBGDPL
về quyền trẻ em, cung cấp tài liệu cho lực lượng này chưa được thường xuyên; cơ
chế quản lý, sử dụng chưa rõ ràng, vì thế hiệu quả hoạt động của đội ngũ này chưa
cao. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, Ủy ban
MTTQVN và các tổ chức xã hội trong PBGDPLvề quyền trẻ em còn nhiều bất cập,
thiếu tính chủ động, thống nhất nên đôi khi dẫn đến sự chồng chéo hoặc để ngõ nên
hiệu quả chưa cao.
Các chủ thể PBGDPL về quyền trẻ em còn ít, chưa bao quát, thiếu đi những
chủ thể vô cùng quan trọng như là gia đình, chưa có chủ thể chuyên trách cho công
tác này, dẫn đến hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em chưa đạt được hiệu quả thiết
thực cũng như thiếu tính gần gũi với thực tiễn đời sống nhân dân.
Đối tượng PBGDPL về quyền trẻ em tại địa bàn cũng mang tính đặc trưng
riêng. Huyện Tuyên Hóa có diện tích tự nhiên tương đối rộng, chủ yếu là miền núi,
rẻo cao, giao thông đi lại khó khăn, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
nhiều người không biết tiếng phổ thổng, trình độ dân trí thấp do đó khả năng tiếp
thu về pháp luật chưa được cao. Mặt khác, phần lớn dân cư sinh sống bằng nghề
nông, chưa có ý thức tìm hiểu pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Bản thân
86
một số đối tượng là cán bộ, thanh thiếu niên thiếu tu dưỡng rèn luyện, bị ảnh hưởng
bởi lối sống thực dụng, tha hóa, biến chất chính là hạn chế, bất cập của đối tượng
PBGDPL về quyền trẻ em.
2.3.1.3. Về nội dung, về hình thức, phương pháp PBGDPL về quyền trẻ em.
- Về nội dung:
Nội dung của công tác PBGDPL về quyền trẻ em mới chỉ thực hiện tương đối
có chất lượng ở cấp huyện, đối với các xã, thị trấn, còn ở các xã vùng cao, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số công tác PBGDPL về quyền trẻ em vẫn chưa chưa
phát huy được hiệu quả. Hầu hết nội dung pháp luật mới chỉ tuyên truyền, phổ biến
được đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, trưởng thôn, bản mà chưa thực sự đến
được với mọi người dân.
Nội dung PBGDPL về quyền trẻ em chưa mang tính toàn diện, ổn định. Các
văn bản pháp luật mới chủ yếu được quán triệt, triệt khai lúc vừa ban hành mà
không được tiếp tục tuyên truyền, phổ biến thường xuyên sau đó. Hoạt động phổ
biến, tuyên truyền không đồng đều tại tất cả các vùng, miền mà chủ yếu tập trung
tại một số địa phương vùng đồng bằng. Đa phần chỉ tập trung vào tuyên truyền, phổ
biến pháp luật, mà chưa chú trọng đến giáo dục pháp luật về lâu về dài.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền trẻ là một nhu cầu
rất lớn, mang tính thời sự. Tuy nhiên, thời gian qua nội dung này chưa thực sự gắn
với hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em tại các đơn vị, địa phương.
Hạn chế, bất cập về nội dung PBGDPL đã là một trong những yếu tố chủ yếu
quyết định chất lượng công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện.
- Về hình thức, phương pháp:
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em tại huyện Tuyên Hóa
tuy đã được quan tâm, cải thiện nhưng chưa mang tính đa dạng; ưu thế của mỗi hình
thức PBGDPL chưa được tận dụng khai thác triệt để. Chủ yếu sử dụng các hình
thức như: tổ chức hội nghị của các ngành cấp huyện, UBND huyện và các xã, thị
trấn còn mang biện pháp hành chính; do đó chưa thu hút được sự quan tâm của các
87
đối tượng cần PBGDPL về quyền trẻ em, đặc biệt là nhân dân ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nơi có trình độ dân trí thấp, nhiều người
không biết tiếng phổ thông.
Hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em chỉ cho các đối tượng người lớn, ít được
quan tâm PBGDPL về quyền trẻ em trực tiếp đến cho trẻ em. Hình thức tuy rất đa
dạng, phong phú nhưng thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa thường xuyên, chưa có
tính hệ thống. Phương pháp giáo dục pháp luật ngoại khóa chậm đổi mới, hoạt động
ngoại khóa tổ chức đơn điệu thiếu hấp dẫn, chất lượng và hiệu quả còn thấp.
Hình thức PBGDPL về quyền trẻ em qua các phương tiện thông tin đại chúng
như Đài Truyền thanh, hệ thống loa truyền thanh cơ sở còn ít, đơn điệu, chưa đổi
mới phương thức.
Chỉ tập trung đến các hình thức PBGDPL về quyền trẻ em truyền thống, mang
tính hàn lâm, lý thuyết, chứ chưa dám thử nghiệm, đẩy mạnh thực hiện các hình
thức PBGDPL mới.
2.3.1.4. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng.
Trong quá trình thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn
Huyện Tuyên Hóa, công tác kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng vẫn được
thực hiện định kỳ, tuy nhiên hiệu quả còn chưa cao; công tác kiểm tra, giám sát chỉ
được thực hiện theo từng đợt, thường là vào cuối của một phong trào hay cuối kỳ,
cuối năm; mà không được tiến hành thường xuyên, liên tục và song song với hoạt
động PBGDPL về quyền trẻ em; điều đó dẫn đến một hệ lụy là công tác PBGDPL
về quyền trẻ em thường chỉ hoạt động mang tính đột xuất, lý thuyết xuông và công
tác tổng kết để rút ra những kinh nghiệm sẽ rất chậm trễ, dẫn đến việc khắc phục
thiếu sót tồn tại chưa kịp thời, tính hiệu quả không cao. Mặt khác, hoạt động kiểm
tra, giám sát không được tiến hành đồng bộ rộng khắp, mà chỉ được thực hiện ở một
số địa bàn nhất định, chính điều này dẫn đến việc nắm bắt tình hình PBGDPL về
quyền trẻ em còn thiếu tính tổng thể, chưa đầy đủ, thiếu đi tính đặc thù của từng
đơn vị, do đó, giải pháp đưa ra không thể phù hợp được với tất cả các địa phương.
88
2.3.2. Nguyên nhân
Xuất phát từ thực hiện hoạt động thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em
ở huyện Tuyên Hóa nhận thấy có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan
dẫn đến những hạn chế, bất cập trong công tác này. Trong đó, có những nguyên
nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, cơ sở pháp lý của công tác PBGDPL về quyền trẻ em thiếu sự
hướng dẫn đồng bộ, cụ thể nên việc triển khai PBGDPL về quyền trẻ em gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt là chưa quy định cụ thể để xác định trách nhiệm và cơ chế phối
hợp, huy động nguồn lực có hiệu quả giữa các cơ quan liên quan trong PBGDPL về
quyền trẻ em.
Thứ hai, điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Tuyên Hóa nói chung, của các
địa phương, cộng đồng và gia đình nói riêng còn thấp, chưa đủ để thực hiện đầy đủ
một số quyền trẻ em, ví dụ như quyền học hành, quyền được khám chữa bệnh... và
càng chưa đủ để công tác PBGDPL về quyền trẻ em được thực hiện theo hướng hệ
thống, đồng bộ và hiệu quả.
Thứ ba, là về mặt nhận thức của cơ quan lãnh đạo, của nhiều người lớn, gia
đình, cộng đồng, người làm công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, người
thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em.
Các cơ quan lãnh đạo một số ban, ngành, đoàn thể, địa phương ở huyện chưa
nhận thức và ý thức đầy đủ về trách nhiệm của ngành, địa phương mình đối với
công tác PBGDPL về quyền trẻ em cũng như về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của
công tác này dẫn đến thiếu chủ động, không có tinh thần trách nhiệm trong việc tổ
chức và phối hợp tổ chức thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em.
Nhận thức của người lớn, công đồng, gia đình về việc thực hiện quyền trẻ em
còn khác biệt với những quyền của các em do luật pháp Việt Nam và công ước đề ra
do bị chi phối bởi những ứng xử văn hóa truyền thống và chuẩn mực giá trị về gia
đình. Ví dụ, thực hiện quyền trẻ em có thể mâu thuẫn với các truyền thống trong gia
đình Việt Nam như trẻ em phải vâng lời và phục tùng cha mẹ, ở trường phải vâng
lời và phục tùng thầy cô giáo; một số bậc cha mẹ cho rằng đánh trẻ em không phải
89
là vi phạm quyền trẻ em mà chỉ là một biện pháp giáo dục; một số cán bộ cho rằng
trẻ em lao động là tốt vì nó thể hiện lòng hiếu thảo của con cái muốn giúp đỡ cha
mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Chính điều đó, gây ra trở ngại vô cùng
khó khăn đối với công tác PBGDPL về quyền trẻ em.
Thứ tư, đối tượng hướng đến của công tác PBGDPL về quyền trẻ em còn
chưa được xác định đầy đủ và đúng đắn. Thay vì nên tập trung vào những đối tượng
thường xuyên tiếp xúc với trẻ em và chính bản thân trẻ em, thì công tác PBGDPL
về quyền trẻ em lại chỉ chú ý đến các đối tượng làm công tác PBGDPL về quyền trẻ
em và những người có học thức, có trình độ nhất định. Chính điều đó làm cho công
tác PBGDPL về quyền trẻ em chưa thực sự hiệu quả.
Thứ năm, việc huy động nguồn lực cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em
chưa được tiến hành một cách đồng bộ và rộng khắp. Tổ chức, nhân lực làm công
tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện còn thiếu và yếu.
Sự phối hợp thực hiện của các tổ chức, đơn vị, hội, đoàn thể trong công tác
PBGDPL về quyền trẻ em ở các cấp xã đều chưa được duy trì thường xuyên, đều
đặn; việc tổ chức hội họp để bàn kế hoạch triển khai hay rút kinh nghiệm trong quá
trình thực hiện còn mang tính hình thức, sơ sài, thậm chí tại một số địa phương
không thực hiện được. Việc đôn đốc, kiểm tra công tác này đôi khi còn chưa thực
sự được quan tâm đúng mức vì phải kiêm nhiệm quá nhiều việc.
Đội ngũ những người thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em là những
người làm công tác kiêm nhiệm nên về mặt nào đó chưa thật toàn tâm, toàn ý với
hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em. Một số người chưa vững về kiến thức pháp
luật, năng lực sư phạm, kỹ năng truyền đạt đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
PBGDPL về quyền trẻ em. Mặt khác, chế độ thù lao đối với những người làm công
tác này quá thấp, không ổn định, nên chưa khuyến khích thực hiện nhiệm vụ
PBGDPL về quyền trẻ em.
Kinh phí dành cho hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em còn quá hạn hẹp, mất
cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Cùng với điều kiện khó khăn về cơ sở
90
vật chất, máy móc thiết bị, phương tiện đi lại... cũng ảnh hưởng tới hiệu quả
PBGDPL về quyền trẻ em.
Thứ sáu, xuất phát từ đặc điểm của các đối tượng PBGDPL về quyền trẻ em
trên địa bàn huyện với hơn 92% dân số sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông
nghiệp, điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, đặc biệt ở khu vực
miền núi, vùng cao ít quan tâm đến pháp luật. Nhiều địa phương còn tồn tại những
phong tục, tập quán lạc hậu, tư tưởng tiểu nông, bảo thủ, khép kín nặng nề, thói
quen sống theo lệ làng đã ăn sâu trong tiềm thức một bộ phận dân cư nên việc
PBGDPL về quyền trẻ em gặp nhiều bất lợi.
Thứ bảy, nội dung PBGDPL về quyền trẻ em là hệ thống các quy định pháp
luật ở nước ta còn thiếu đồng bộ, việc hướng dẫn thực hiện không thống nhất,
chồng chéo hay bỏ ngõ đã gây khó khăn rất lớn cho những người thực hiện khi
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục cũng như làm người dân lúng túng khi tìm hiểu.
Nội dung chỉ dừng lại ở những văn bản luật, pháp lệnh; còn các văn bản hướng dẫn
thi hành ít được quan tâm phổ biến. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện mới dừng lại
ở việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục còn nội dung được triển khai như thế nào,
đối tượng nắm bắt đến đâu thì chưa có sự kiểm tra,đánh giá cụ thể. Vì vậy, ý thức
tiếp cận, nắm bắt nội dung PBGDPL về quyền trẻ em của các đối tượng chưa cao.
Thứ tám, hình thức PBGDPL về quyền trẻ em còn đơn điệu, không hấp dẫn
cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng. Hiện nay, hình thức chủ yếu vẫn là
tuyên truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ gấp, tờ rơi. Những
hình thức đó khi được sử dụng cũng chưa phát huy hiệu quả như mong muốn, chưa
tạo được sức hút, thói quen đối với người dân. Chất lượng dạy học môn Giáo dục
công dân ở các trường học còn thấp. Những hình thức PBGDPL khác như hòa giải
ở cơ sở, câu lạc bộ, hội thi thu hút được đông đảo người tham gia, nhưng ít có điều
kiện tổ chức.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm.
Qua thực tế thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm sau:
91
Thứ nhất, cơ quan, địa phương nào được cấp ủy Đảng quan tâm sâu sát, có kế
hoạch chỉ đạo, phân công cấp ủy phụ trách, theo dõi chặt chẽ công tác PBGDPL về
quyền trẻ em; xây dựng được kế hoạch thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ
em cụ thể hàng năm, trên cơ sở đó tổ chức thực hiện thì hiệu quả ở đó cao, trình độ
nhận thức pháp lý của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, tình hình vi phạm pháp luật và khiếu kiện
vượt cấp giảm hẳn.
Thứ hai, hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em là hoạt động phối hợp giữa các
ban, ngành, đoàn thể với vai trò nòng cốt là ngành Tư pháp. Do đó, muốn cho hoạt
động giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao thì phải có cơ chế phối hợp và phân công
trách nhiệm cụ thể từng đơn vị, qua đó có hình thức khen thưởng những đơn vị đạt
thành tích và có biện pháp chấn chỉnh đối với những đơn vị, địa phương không
quan tâm triển khai hoạt động theo kế hoạch. Việc xây dựng các kế hoạch, các
chương trình PBGDPL về quyền trẻ em liên tịch giữa các ngành phải có tính khả
thi trên cơ sở điều kiện đặc thù của từng ngành, cơ sở vật chất cũng như kinh phí,
năng lực của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó phải có sự đầu tư nghiên cứu kỹ để có
biện pháp tuyên truyền với nội dung và hình thức thích hợp, cụ thể; tránh việc xây
dựng kế hoạch theo kiểu chung chung, xây dựng nhưng không có khả năng thực
hiện.
Thứ ba, công tác PBGDPL về quyền trẻ em phải có sự kết hợp chặt chẽ với
hoạt động trợ giúp pháp lý, và với các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan trực
tiếp. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo tính đan
xen, liên tục, lâu dài thì mới có hiệu quả.
Thứ tư, đối với đội ngũ làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em phải được
quan tâm bổ sung, chuẩn hóa và thường xuyên có sự đầu tư tập huấn nghiệp vụ, rèn
luyện kỹ năng, nâng cao năng lực, giáo dục lòng nhiệt tình, sự tâm huyết với công
tác, trang bị đầy đủ tài liệu, đề cương PBGDPL về quyền trẻ em, đảm bảo chế độ
thù lao theo quy định; đặc biệt là đội ngũ trực tiếp làm công tác này.
92
Thứ năm, được đảm bảo về mặt kinh phí là điều kiện cần để thực hiện công
tác PBGDPL về quyền trẻ em có hiệu quả. Có kinh phí mới có chế độ đãi ngộ hợp
lý nhằm động viên, khuyến khích cán bộ làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em
chuyên tâm công tác, có sự gắn bó, đầu tư cho nghề nghiệp; có kinh phí mới tổ chức
được các hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em; có kinh phí mới đầu tư được trang
thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác PBGDPL về quyền trẻ em .
Thứ sáu, để công tác PBGDPL về quyền trẻ em gần gũi với mọi đối tượng
nhân dân, tạo điều kiện cho các quy định pháp luật dần đi vào cuộc sống thì phải
biết kết hợp công tác PBGDPL về quyền trẻ em, hoạt động PBGDPL về quyền trẻ
em với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, văn hóa truyền
thống.
Những bài học kinh nghiệm nói trên sẽ là kim chỉ nam cho các cấp, các ngành,
cho những người làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em tại huyện Tuyên Hóa
trong quá trình tìm hướng đi thích hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện
công tác trên địa bàn.
93
Tóm tắt chương 2
Trên cơ sở tiếp thu những giá trị tiêu biểu của công tác PBGDPL về quyền trẻ
em trên thế giới và những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật về bảo vệ
quyền trẻ em ở nước ta, công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Bằng sự
chủ động tham gia tích cực của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, cá nhân và gia đình,
những quy định của pháp luật về quyền trẻ em đã đến được gần hơn với mọi cá
nhân, gia đình và trẻ em, giúp cho mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội hiểu đúng,
hiểu đủ và nhận thức được vai trò quan trọng của trẻ em, cũng như bảo vệ quyền
của trẻ em trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, do điều kiện chính trị, kinh tế, xã
hội còn nhiều khó khăn nên công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện
nhà vẫn còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc. Do đó, các cơ quan, tổ chức, cá
nhân cần phải có cách nhìn tổng thể, để tổng kết, đánh giá lại những hoạt động của
công tác này, từ đó xác định nguyên nhân và rút ra được những bài học cần thiết, từ
đó có thể đưa ra những giải pháp phù hợp, thúc đẩy công tác PBGDPL về quyền trẻ
em đạt được hiệu quả.
94
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TRẺ EM Ở HUYỆN TUYÊN HÓA,
TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Phương hướng chung nhằm thúc đẩy phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em
Công tác PBGDPL ở nước ta hiện nay nói chung còn mang tính hình thức và
tính hiệu quả chưa cao, trong đó có PBGDPL về quyền trẻ em. Nhằm khắc phục
những hạn chế còn tồn tại trong công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn
Huyện Tuyên Hóa, cần có những biện pháp tích cực, hiệu quả, mang tính chủ động
lâu dài. Để đạt được điều đó, trước hết cần phải thực hiện đổi mới đồng bộ cả về
nhận thức, tư duy lẫn hành động trong công tác PBGDPL về quyền trẻ em.
3.1.1. Đổi mới nhận thức và tư duy phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
trẻ em.
Nhằm từng bước giải quyết tồn tại, hạn chế, nhanh chóng nâng cao hiệu quả
của công tác công tác PBGDPL về quyền trẻ em, trước hết chúng ta phải có cách
nhìn mới, quan niệm mới về PBGDPL về quyền trẻ em.
Để đổi mới được nhận thức và tư duy trong công tác PBGDPL về quyền trẻ
em, đòi hỏi đó là cả một quá trình đồng bộ, thống nhất, trong lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước ta, từ Trung ương đến địa phương, từ tổ chức đến cá nhân, từ người lớn
đến trẻ em trong toàn xã hội.
PBGDPL về quyền trẻ em cho tất cả các tầng lớp quần chúng nhân dân, để nó
được đi vào thực tiễn cuộc sống như một nét văn hóa, một thói quen hiển nhiên
trong cuộc sống của mọi người dân, thì đó là một bộ phận quan trọng trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới lối tư duy xưa
cũ, phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan trọng của trẻ em trong xã hội
và các quyền mà trẻ em xứng đáng được hưởng; để từ đó thông qua các văn kiện
của mình triển khai mạnh mẽ công tác PBGDPL về quyền trẻ em với nhiều hình
95
thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và
bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho
cán bộ và nhân dân; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động PBGDPL và
các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ
quan nhà nước và trong xã hội. Để nâng cao được chất lượng công tác PBGDPL về
quyền trẻ em đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng phải thực sự đúng thực
chất, phải được tiến hành xuyên suốt, có tính khoa học và tiết kiệm; giải quyết triệt
để các vấn đề cấp bách một cách kịp thời, hiệu quả.
Trong hoạt động quản lý và điều hành của các cơ quan Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương phải tích cực, chủ động trong việc tiếp thu sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng liên quan đến vấn đề này. Nhà nước cần chăm lo, phục vụ, bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của trẻ em theo tinh thần đổi mới và hội nhập, hướng đến
trẻ em tương lai với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương.
Đồng thời, không ngừng nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận
hành cụ thể, bảo đảm sự thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm
quyền của trẻ em được chú trọng quan tâm. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và nâng
cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật về quyền trẻ em, trước hết là quy trình
xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa,
tăng tính khả thi nhằm nhanh chóng đưa vào cuộc sống, có như thế công tác
PBGDPL về quyền trẻ em mới thực sự đạt được tính hiệu quả và tính thuyết phục.
Cần phải khắc phục, thay đổi quan niệm coi công tác PBGDPL về quyền trẻ
em đơn thuần chỉ là PBGDPL liên quan đến quyền trẻ em, mà phải nhận thức rằng
đó là một bộ phận của giáo dục chính trị- tư tưởng, giáo dục đạo đức cho trẻ em và
cho cộng đồng xã hội. Công tác PBGDPL về quyền trẻ em phải được thực hiện
đồng thời trong mối quan hệ biện chứng, gắn kết chặt chẽ với giáo dục chính trị- tư
tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác. Để từ đó hình thành nhân cách
96
cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ và giúp người lớn hình thành được ý thức, tình cảm tốt
đẹp về quyền của trẻ em.
Phải coi PBGDPL về quyền trẻ em là một dạng của giáo dục độc lập trong hệ
thống giáo dục quốc dân và phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Khắc phục tình
trạng chỉ thực hiện theo chương trình, dự án hoặc khi có kinh phí. Cần phải coi hoạt
động này như là một môn học độc lập trong chương trình chính khóa của hệ thống
giáo dục Việt Nam, từ cấp tiểu học đến đại học, để nhằm mục đích hình thành nên
nhận thức toàn diện, từ mọi cấp độ vừa thể hiện được vai trò của pháp luật đối với
thế hệ trẻ. Phải coi việc PBGDPL về quyền trẻ em trong hệ thống trường học là một
hình thức chủ yếu, quan trọng, phổ biến và có tính hiệu quả sâu rộng.
Đặc biệt, nhận thức được tầm quan trọng của Gia đình trong công tác
PBGDPL về quyền trẻ em. Gia đình là môi trường cơ bản cho sự phát triển toàn
diện của trẻ em, là nơi thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em và đồng thời cũng là
nơi bảo vệ được các quyền cho trẻ em tốt nhất. Chính vì vậy, PBGDPL về quyền trẻ
em cho Gia đình là điều cần thiết. Bởi lẽ:
- Một khi gia đình, là những người có quan hệ gần gũi nhất với từng trẻ em
trong xã hội, có tình yêu thương vô hạn đối với trẻ em, thì việc có được sự hiểu biết
về quyền trẻ em trong pháp luật, một cách rõ ràng cụ thể, thông suốt; sẽ giúp họ tự
động hình thành một cơ chế bảo vệ quyền trẻ em một cách đúng đắn, toàn diện và
có biện pháp để tự bảo vệ chính con em mình phù hợp và hiệu quả nhất.
- Gia đình cũng là môi trường tốt nhất cho trẻ em phát triển toàn diện, là nơi
giáo dục trẻ từ những khi còn rất nhỏ cho đến khi trưởng thành. Việc trẻ em hình
thành nhân cách như thế nào, có đúng đắn hay không, phụ thuộc rất lớn vào cách
thức giáo dục của mỗi một gia đình. Để tránh trường hợp trẻ em bị xâm hại đến
quyền của mình hoặc tự mình vi phạm pháp luật do thiếu nhận thức đúng đắn thì
việc để trẻ tự nhận thức được các quyền và nghĩa vụ của chính mình là điều vô cùng
cần thiết. Điều đó được thực hiện hiệu quả nhờ vào chính môi trường mà các em
được bao bọc, che chở và được hướng dẫn, giáo dục hằng ngày ngay từ khi còn nhỏ
- đó chính là gia đình.
97
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em phải tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả, nâng cao ý thức tự giác, tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật về quyền trẻ em của mọi người trong xã hội, từ người lớn đến trẻ nhỏ; Chọn
lọc, phát triển các mô hình biện pháp PBGDPL hiệu quả, phù hợp với đối từng đối
tượng cụ thể (tập trung vào chính chủ thể là trẻ em), từng đia bàn và nhu cầu hiểu
biết pháp luật về quyền trẻ em của nhân dân trong từng giai đoạn cụ thể.
Mặt khác, để công tác PBGDPL về quyền trẻ em thực sự đạt được hiệu quả thì
đòi hỏi các chủ thể thực hiện công tác này phải đổi mới tư duy và nhận thức của
mình không chỉ theo chiều dọc, chiều rộng mà còn cả chiểu sâu. Hay nói cách khác,
thay vì chỉ hướng đến làm gì, làm như thế nào trong từng giai đoạn, từng địa bàn,
thì còn phải nhìn nhận được công tác mình đang đảm nhiệm, đang chịu tác động bởi
những yếu tố nào, từ đó thay đổi nhận thức và có biện pháp khắc phục triệt để. Theo
đó, phải nhận thức được: quyền trẻ em có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển
xã hội, làm rõ mối quan hệ giữa quyền trẻ em và trách nhiệm pháp lý của người lớn,
giữa quyền và bổn phận của trẻ em; sự tác động của hệ thống chính sách, luật pháp
và các chương trình truyền thông của Nhà nước với việc thực hiện công tác
PBGDPL về quyền trẻ em; mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế - xã hội và công tác
PBGDPL quyền trẻ em; phải xác định được ý nghĩa của yếu tố văn hóa truyền
thống, văn hóa trong thời kỳ hội nhập đối với công tác PBGDPL về quyền trẻ em;
vai trò của gia đình, nhà trường, và xã hội đối với công tác này. Đồng thời, công tác
PBGDPL về quyền trẻ em cũng phải nêu ra được những giá trị giới liên quan đến sự
khác biệt về quyền và bổn phận của trẻ em trai, trẻ em gái, cũng như những rào cản
của khuôn mẫu giới đối với việc thực hiện quyền của một bộ phận trẻ em.
Như vậy, để hoạt động của công tác PBGDPL về quyền trẻ em khắc phục
được những tồn tại và ngày càng hiệu quả thì đòi hỏi phải đổi mới từ trong tư duy,
trong nhận thức về vấn đề này của toàn Đảng, toàn dân ta. Thay đổi nhận thức từ vị
trí, vai trò của trẻ em đối với đời sống xã hội để thay đổi nhận thức về những gì mà
trẻ em đáng được hưởng và tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền cho trẻ em. Từ
đó, giúp trẻ em Việt Nam được chăm sóc, giáo dục và bảo vệ toàn diện.
98
3.1.2. Đổi mới nội dung, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em.
Xuất phát từ thực tiễn huyện nhà và tính hiệu quả của công tác PBGDPL về
quyền trẻ em, đòi hỏi phải có những thay đổi, những chuyển biến tích cực trong quá
trình thực hiện công tác này, theo đó cần phải có nội dung, phương pháp và hình
thức PBGDPL về quyền trẻ em thích hợp với từng nhóm chủ thể, nhóm đối tượng.
Nội dung PBGDPL về quyền trẻ trong các văn bản luật, các văn bản hướng
dẫn và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan cần phải được chọn lọc cẩn
thận, tập trung đến những nội dung thường xảy ra trong thực tiễn và những nội dung
có thể xảy ra trong thời gian tới; tập trung vào trọng tâm, trọng điểm của từng chủ
đề, trong đó cần chú trọng nhấn mạnh các quyền của trẻ em đang là vấn đề nhức
nhối, là mối lo ngại của toàn xã hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế như: quyền
được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục; quyền được bảo vệ để không bị bóc lột
sức lao động; quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc; quyền được
bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; quyền được bảo vệ
khỏi chất ma túy; quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi
trường, xung đột vũ trang; quyền được bảo đảm an sinh xã hội; quyền của trẻ em
khuyết tật;.... Cần chấm dứt tình trạng PBGDPL về quyền trẻ em một cách đại trà,
với tất cả nội dung có trong các văn bản, dẫn đến hiện tượng qua loa đại khái, người
được phổ biến giáo dục bị nhàm chán, quá tải và không nắm được những vấn đề cốt
lõi, dẫn đến tình trạng PBGDPL về quyền trẻ em chỉ mang tính hình thức, mà thiếu
đi tính hiệu quả thực tế.
Đổi mới một cách căn bản phương pháp và hình thức PBGDPL về quyền trẻ
em. Trước mắt cần áp dụng các phương pháp PBGDPL mới, cần chuyền từ kiểu
truyền thống là truyền đạt theo một chiều, sang phương pháp “cùng tham gia”. Theo
phương pháp này, chủ thể thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em chỉ đóng
vai trò là người định hướng và hỗ trợ; khuyến khích các đối tượng tham gia thảo
luận, tìm tòi, suy nghĩ và đóng góp ý kiến liên quan đến nội dung cần phổ biến, giáo
dục. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng lần, từng nội dung và từng đối tượng, người
99
thực hiện phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng các kiến thức cần truyền đạt bằng các kỹ
thuật, công cụ khác nhau sát với thực tiễn, để làm sao cung cấp cho họ những thông
tin mà họ thực sự quan tâm.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em cần phải được thực hiện đồng thời bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và bên
ngoài xã hội, giữa các cơ quan chức năng với phương tiện thông tin đại chúng. Các
hình thức phải được đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật để tránh khô khan, nhàm
chán. Có thể sử dụng bảng biểu, tranh vẽ, xem phim ảnh, tư liệu, kết hợp giữa lý
thuyết với thực hành, đi thăm quan thực tế, làm bài tập tình huống về vẫn đề liên
quan đến quyền trẻ em trong cuộc sống hằng ngày, đóng kịch, tiểu phẩm ngắn liên
quan đến nội dung PBGDPL về quyền trẻ em, nhằm tạo nên lối tư duy sáng tạo, độc
lập suy nghĩ, tránh máy móc, sơ cứng.
3.1.3. Tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, thì đỏi hỏi
mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực đều phải chú trong quan tâm hội nhập, để vừa có cơ
hội tiếp thu những cái mới và giữ vững những giá trị vốn có để đạt được hiệu quả
tốt nhất, công tác PBGDPL về quyền trẻ em cũng vậy, cần có hiệu quả cao, chất
lượng tốt thì việc hội nhập, hợp tác quốc tế là điều không thể tránh khỏi.
- Tham gia các chương trình PBGDPL về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc.
Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó đặc biệt quan tâm đến bảo vệ
quyền của những nhóm ngưỡi dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em là mục tiêu
của Liên hợp quốc. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, Liên Hợp quốc đã có một hệ
thống tổ chức, bộ máy chuyên trách để thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ
em, có nhiều kinh nghiệm, phương pháp và đầy đủ nguồn lực cho việc trực tiếp và
hỗ trợ công tác này. Thời gian qua, Liên Hợp Quốc đã phát động và thực hiện rất
nhiều các chương trình, dự án mang phạm vi toàn cầu để bảo vệ quyền của trẻ em
và PBGDPL về quyền trẻ em trên thế giới, thông qua đó cũng đánh giá sơ bộ được
kết quả thực hiện PBGDPL về quyền trẻ em, để tìm ra nguyên nhân những tồn tại
và phương hướng phát triển trong thời gian tới. Vì thế, Việt Nam cần thiết phải tích
100
cực tham gia các chương trình, hoạt động, dự án của Liên Hợp Quốc trên cơ sở độc
lập, tự chủ của Việt Nam, để học hỏi những kinh nghiệm, phương pháp tiên tiến;
thông qua sự hỗ trợ của LHQ để đào tạo được đội ngũ cốt cán và nhận được sư hỗ
trợ nguồn lực cần thiết (chuyên gia, tài chính) cho hoạt động PBGDPL về quyền trẻ
em ở Việt Nam.
Tham gia hoạt động, chương trình của LHQ về PBGDPL quyền trẻ em, không
có nghĩa là rập khuôn một cách máy móc từ nội dung đến hính thức, mà cần phải
tiếp thu, chuyển hóa nội dung và phương pháp vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, sao cho phù hợp với yêu cầu PBGDPL về quyền trẻ em, phù hợp với văn
hóa của Việt Nam, phù hợp với điều kiện sống, sức lao động, trình độ nhận thức của
đối tượng được PBGDPL về quyền trẻ em ở Việt Nam. Sự tham gia này cần phải
thực hiện một cách chủ động, tích cực phù hợp với điều kiện và yêu cầu của Việt
Nam, không bị áp đặt, phụ thuộc và cần phải cảnh giác trước các thế lực thù địch,
các tổ chức phản động quốc tế và trong nước, lợi dụng để phổ biến, giáo dục lệch
lạc pháp luật về quyền trẻ em, nhằm thực hiện mưu đồ chính trị của họ.
Cần tham gia một cách tích cực, thường xuyên và chủ động để đóng góp quan
điểm và hình thành các quy định quốc tế về quyền trẻ em; cần chủ động phối hợp
với các cơ quan chuyên môn đề xuất sáng kiến cho việc thúc đẩy phát triển quyền
trẻ em trên thế giới, chủ động giới thiệu những thành tựu đã đạt được trong quá
trình đổi mới chính sách, quan điểm về quyền trẻ em của Đảng và Nhà nước ta.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức liên
chính phủ, tổ chúc phi chính phủ trong hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em.
Trong những năm vừa qua, khi mà Việt Nam đang trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, nước ta đã nhận được nhiều đóng góp của các tổ chức quốc tế, tổ
chức liên chính phủ, tổ chức chính phủ về PBGDPL về quyền con người nói chung
và công tác PBGDPL về quyền trẻ em nói riêng. Tham gia vào các tổ chức này có ý
nghĩa và hiệu quả rất thiết thực. Tuy nhiên, một mặt trái là khi tham gia vào các tổ
chức nói trên, dẫn đến chúng ta phụ thuộc vào các tổ chức này cả về chương trình,
nôi dung, phương pháp, tài liệu, tài chính và chỉ tập trung vào PBGDPL về Công
101
ước Quốc tế về quyền trẻ em. Điều đó làm sao nhãng đi việc tập trung vào
PBGDPL về quyền trẻ em trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam. Do đó,
trong quá trình hợp tác quốc tế cần phải có một cơ quan Nhà nước chuyên trách
thực hiện tiếp nhận và phối hợp với các tổ chức này để PBGDPL về quyền trẻ em.
Đồng thời, phải xác định được những vấn đề cần thiết và cần có sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế, để khắc phục được tình trạng nước ta đang thiếu về nguồn lực
bao gồm cả nhân lực (đội ngũ cốt cán làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em) và
tài lực (phương tiện kỹ thuật tài chính để thực hiện các chương trình, các dự án
quốc gia PBGDPL về quyền trẻ em). Vì thế, trong thời gian tới cần phải tăng cường
mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế trong công tác PBGDPL về quyền trẻ em
và tạo điều kiện dựa trên những nguyên tắc, những điều kiện nhất định cho các tổ
chức này hoạt động ở Việt Nam.
Việt Nam phải chủ động hội nhập với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức
liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực này, luôn sẵn sàng trở thành
bạn, là đối tác đáng tin cây của họ. Điều đó giúp học hỏi được những cái mới, cái
tiến bộ và kinh nghiệm trong việc thúc đẩy PBGDPL về quyền trẻ em đạt hiệu quả
cao; đồng thời cũng làm cho các nước bạn hiểu rõ được quan điểm, chính sách nhất
quán của Đảng, Nhà nước ta, tìm hiểu được lịch sử, đất nước, con người Việt Nam.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền trẻ em
Thời gian qua, công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên
Hóa đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác
này vẫn bộc lộ những mặt tồn tại cần phải khắc phục. Để nâng cao chất lượng công
tác PBGDPL về quyền trẻ em ở địa bàn huyện Tuyên Hóa trong thời gian tới, cần
phải có những giải pháp cụ thể, phù hợp.
3.2.1. Củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với công tác PBGDPL trên địa
bàn huyện Tuyên Hóa
Ở Trung ương: Luật Trẻ em 2016 chỉ mới có hiệu lực gần đây, chưa có văn
bản hướng dẫn thi hành nên việc quy định các nhóm quyền và bổn phận trẻ em còn
102
nhiều mới mẻ, khó tiếp cận, gây khó khăn cho công tác phổ biến, giáo dục. Sự ra
đời của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật tuy tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện công
tác PBGDPL nhưng vẫn còn mang tính chất chung của tất cả các ngành luật và chưa
có văn bản hướng dẫn, nên việc PBGDPL về quyền trẻ em – là một lĩnh vực riêng
biệt, có đối tượng đặc biệt là trẻ em, gặp phải những khó khăn trong việc kết hợp
hai luật này để đảm bảo cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em được triển khai
thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả. Do đó, nhất thiết phải có văn bản hướng dẫn thi
hành dành riêng cho lĩnh vực PBGDPL về quyền trẻ em nhanh chóng và kịp thời.
Ở địa phương: Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về quyền trẻ em và
PBGDPL, HĐND tỉnh Quảng Bình, HĐND huyện Tuyên Hóa và HĐND các xã, thị
trấn trên địa bàn cần xem xét, ban hành các nghị quyết, thông qua kế hoạch ngân
sách cần thiết, tương xứng giữa việc xây dựng các văn bản pháp luật với việc
PBGDPL về quyền trẻ em; xây dựng các nghị quyết về chế độ thù lao đối với đội
ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em, xây dựng các văn bản quy định
rõ ràng, cụ thể về chủ thể thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em. Ngoài ra,
trong nội dung Nghị quyết về Chương trình hoạt động 6 tháng, hàng năm, HĐND
các cấp cũng nên quy định về việc kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật và trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành đối với công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai công
tác PBGDPL về quyền trẻ em.
Theo đó, UBND các cấp phải có sự chỉ đạo thường xuyên, kịp thời công tác
PBGDPL về quyền trẻ em bằng hệ thống các văn bản như: Kế hoạch, chương trình,
chỉ thị, công văn phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ. Với các văn bản đã cụ thể hóa
trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị; yêu cầu tiến độ thực hiện; cân đối và đảm
bảo các điều kiện cần thiết (kinh phí, cơ chế tổ chức, điều hành…) tạo nền tảng cơ
sở pháp lý cho hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em có hiệu quả.
103
3.2.2. Kiện toàn tổ chức; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện về chủ thể và đối
tượng thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa
3.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền trong công
tác PBGDPL về quyền trẻ em.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL về quyền trẻ em ở huyện Tuyên
Hóa cần phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các của cấp ủy Đảng.
Đảng ủy các cấp cần quán triệt tốt hơn nữa các Nghị Quyết, Chỉ thị, Kế hoạch
của các cơ quan cấp trên, tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong nhận
thức, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Trên cơ sở đó, các cấp ủy Đảng
phải tiếp tục xây dựng kế hoạch, chương trình hành động PBGDPL về quyền trẻ em
của ngành mình, cấp mình; đồng thời kịp thời ban hành hệ thống các văn bản hướng
dẫn, đốc thúc thực hiện. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát công tác PBGDPL về quyền
trẻ em thường xuyên, đúng thực chất trong tất cả các giai đoạn thực hiện.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng của công tác PBGDPL về quyền trẻ
HĐND, UBND huyện Tuyên Hóa cũng như các xã, thị trấn cần làm tốt các vấn đề
sau:
- HĐND cần nâng cao chất lượng Nghị quyết được ban hành về công tác
PBGDPL về quyền trẻ em; phân bổ nguồn kinh phí hợp lý và quan trọng là phải
lãnh đạo, chỉ đạo tốt, đưa pháp luật về quyền trẻ em vào đời sống nhân dân. Cần tạo
điều kiện cho đại biểu HĐND nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật về quyền trẻ
em sẽ là điều kiện cần để các văn bản do HĐND ban hành mang tính khả thi - cơ sở
để hoạt động PBGDPLvề quyền trẻ em đạt kết quả tốt.
- UBND các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình PBGDPL về
quyền trẻ cụ thể từng quý, từng tháng phù hợp với tình hình thực tiễn của địa
phương mình. Định kỳ 6 tháng, hàng năm, UBND huyện cũng như các xã, thị trấn
cần chỉ đạo thực hiện tốt việc kiểm tra, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm và khen
thưởng kịp thời các đối tượng có thành tích xuất sắc trong công tác PBGDPL về
quyền trẻ em tại địa phương.
104
3.2.2.2. Cần thiết phải thành lập một cơ quan chuyên trách thực hiện công tác
PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn Huyện.
Một phần làm cho công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện hiện
nay còn gặp nhiều khó khăn, đó là do thiếu đi đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ
chuyên môn và kinh nghiệm để thực hiện công tác này. Do đó, đòi hỏi cần phải có
một cơ quan hoặc một tổ chức chuyên môn để thực hiện riêng biệt về lĩnh vực này.
Các cơ quan chức năng của huyện nên nghiên cứu để thành lập nên một đơn
vị để phối hợp thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em, giữa các cơ quan, đơn
vị, tổ chức có liên quan, để tạo ra một bộ máy chuyên môn làm việc đồng nhất và
hiệu quả trong phạm vi toàn huyện. Đơn vị này có thể có sự phối hợp thực hiện của
Đại diện lãnh đạo UBND huyện; đại diện lãnh đạo các ngành như: Tư pháp, Công
an, Đài Truyền phát thanh truyền hình huyện, Phòng Văn hóa - Thông tin, Phòng
Tài chính - Kế hoạch, UBMTTQVN huyện, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam huyện, Bệnh viện đa khoa, Trung tâm y tế dự phòng. .
Đơn vị này có thể được tạm gọi là Hội đồng phối hợp thực hiện công tác PBGDPL
(PHTH PBGBPL) về quyền trẻ em. Hội đồng này sẽ tổ chức phối hợp chỉ đạo thực
hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em giữa các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn
huyện; đề ra chương trình, kế hoạch PBGDPL về quyền trẻ em hàng năm; chỉ đạo,
hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị thực hiện nhiệm
vụ PBGDPL về quyền trẻ em; tiến hành sơ kết, tổng kết và tổ chức thi đua khen
thưởng về công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trên, Hội đồng PHTH PBGBPL về
quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa cần phải thường xuyên được củng cố,
kiện toàn về tổ chức và nhân sự; xây dựng quy chế hoạt động để phân công, phân
nhiệm cụ thể, rõ ràng. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan, đoàn thể và chính
quyền các cấp, triển khai PBGDPL về quyền trẻ em cho cán bộ và nhân dân. Các
thành viên tích cực tham gia góp ý vào các đề án, chương trình, kế hoạch và tham
gia các đoàn kiểm tra công tác PBGDPL về quyền trẻ em hàng năm để nắm bắt tình
hình triển khai thực hiện nhiệm vụ ở các địa phương, đơn vị; chỉ rõ những ưu,
105
nhược điểm, phổ biến các mô hình, các hình thức tuyên truyền PBGDPL về quyền
trẻ em hiệu quả cao để các đơn vị, địa phương rút kinh nghiệm, học tập.
3.2.2.3. Đào tạo đội ngũ chuyên trách thực hiện PBGDPL về quyền trẻ em
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em là một quá trình chuyển tải nội dung
những quy định của pháp luật về quyền trẻ em cho nhiều đối tượng khác nhau, rất
đa dạng, hoạt động này diễn ra trên phạm vi rộng lớn, thường xuyên, liên tục. Vì
vậy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất là vô cùng cần thiết.
Đội ngũ những người làm công các PBGDPL cần tuyển chọn những người có
phẩm chất, năng lực, trình độ, có khả năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt,
có lòng nhiệt tình, say mê với công việc PBGDPL về quyền trẻ em. Bên cạnh đó,
phải đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ. Trong thời gian
tới cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
- Cần bồi dưỡng và định hướng nội dung PBGDPL về quyền trẻ em thường
xuyên cho đội ngũ những người làm công tác này. Nhìn chung, đội ngũ này ở huyện
Tuyên Hóa thường là cán bộ các cấp, các ngành kiêm nhiệm công tác nên việc nắm
bắt văn bản pháp luật thường mang tính bao quát, chủ quan, họ không có thời gian
đi sâu nghiên cứu nội dung tất cả các văn bản pháp luật chuyên về quyền trẻ em,
vẫn còn trường hợp hiểu không đúng hoặc không thống nhất nội dung văn bản pháp
luật. Vì vậy, để đảm bảo tính chính xác, chuyên sâu và sự thống nhất thông tin trong
quá trình PBGDPL về quyền trẻ em.
- Đối với UBND huyện và các xã, thị trấn cần phải rà soát lại đội ngũ làm
công tác PBGDPL về quyền trẻ em hiện có trên địa bàn; từ đó phân loại trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ PBGDPL về quyền trẻ em để xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng.
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ những người làm
công tác PBGDPL về quyền trẻ em, cần chú trọng đào tạo song song cả về nội dung
lẫn kỹ năng, sẽ giúp họ không chỉ có kiến thức vững mà còn có khả năng thu hút
người nghe và truyền đạt có hiệu quả nội dung pháp luật.
106
- Nhà nước nên có chỉ tiêu biên chế cho những người làm công tác PBGDPL
về quyền trẻ em ở chính quyền cơ sở, bổ sung cán bộ là người dân tộc thiểu số để
giúp công tác PBGDPL về quyền ở các vùng dân tộc thuận lợi và đạt hiệu quả cao
hơn.
3.2.2.4. PBGDPL đặc thù cho Gia đình
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em cho Gia đình là một hoạt động tất yếu, cần
được quan tâm chú trọng hàng đầu, bởi chính tầm quan trọng của nó đối với việc
bảo vệ quyền trẻ em.
- Trong quá trình PBGDPL về quyền trẻ em cho Gia đình, thì những người
thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em cần:
Nắm bắt được tình hình thực tế của từng gia đình, các yếu tố tác động đến
hiệu quả của công tác PBGDPL về quyền trẻ em như: điều kiện kinh tế, hoàn cảnh
gia đình, trình độ văn hóa, khả năng nhận thức,... Từ đó, nắm bắt và phân loại theo
từng nhóm riêng biệt, để có phương thức phổ biến, giáo dục phù hợp.
Xây dựng một chương trình có nội dung, hình thức phù hợp với từng gia
đình, mang tính thực tiễn và cần chú trọng vào những quy định của pháp luật thực
sự cần thiết đối với gia đình và chính trẻ em đó.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để tiến hành thường xuyên,
mang tính định kỳ hàng tháng, hàng quý giúp mang lại cho họ những kiến thức đầy
đủ, bao quát và sâu sắc, hình thành một thói quen và một văn hóa hóa tôn trọng
pháp luật và bảo vệ quyền của trẻ em hiệu quả. Đồng thời, chú trọng hướng dẫn cho
họ cách thức, biện pháp để PBGDPL về quyền trẻ em hiệu quả cho chính con em
mình.
Các hình thức PBGDPL cần phải được cập nhật thường xuyên, áp dụng khoa
học công nghệ. Các hình thức đa dạng, phong phú, xoay vòng tạo nên tính hấp dẫn,
tránh nhàm chán như : các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về quyền trẻ em; thực hiện
thi đua giữa các hộ gia đình với nhau trong làng, xóm, xã phường; kết hợp
PBGDPL cho cha mẹ, phụ huynh trẻ em với trẻ em trong chính mỗi một làn tổ
chức;...
107
- Đối với các hộ Gia đình, khi PBGDPL về quyền trẻ em cho trẻ em thì cần
phải chú ý:
Chú ý, quan tâm đến những hành động và suy nghĩ của con em mình để có
thể biết được tâm sinh lý của từng đứa trẻ, từ đó xác định được cách thức, phương
pháp để PBGDPL về quyền trẻ em phù hợp nhất.
Nắm bắt đúng, đầy đủ những quy định của pháp luật về quyền trẻ em, vận
dụng linh hoạt để áp dụng trong các tình huống nhỏ trong cuộc sống thường ngày,
từ đó, giáo dục cho trẻ em về quyền của mình cũng như những cách xử lý khi có
hành vi xâm hại đến quyền của mình, giúp các em có thể tự bảo vệ mình trong
trường hợp cần thiết.
Quá trình PBGDPL về quyền trẻ em phải được tiến hành xuyên suốt, thường
xuyên; tương ứng với mỗi độ tuổi, mỗi giai đoạn để chọn lọc những nội dung cần
thiết phù hợp với giai đoạn, hoàn cảnh đó, để mang lại sự hiểu biết đúng đắn, phát
huy tối đa được hiểu quả của nó.
Cùng với Gia đình, Nhà nước cũng phải có nghĩa vụ trong hỗ trợ cho Gia
đình thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em. Quyền của trẻ em chỉ có ý nghĩa
trong môi trường gia đình và dưới trách nhiệm của cha mẹ đối với trẻ. Việc tăng
cường các quyền cho trẻ em trong gia đình không có nghĩa là tước bỏ các quyền của
cha mẹ các em. Ngược lại, sẽ củng cố được gia đình. Một gia đình vững mạnh, với
những cơ hội thoả mãn các nhu cầu cơ bản của trẻ, đến lượt mình lại góp phần xây
dựng một xã hội vững mạnh. Nghĩa vụ pháp lý của nhà nước là phải thực thi các
quyền trẻ em và tạo ra nhiệm vụ tương ứng cho cha mẹ. Nhà nước cũng có trách
nhiệm bảo vệ trẻ, thậm chí cả trong khuôn khổ gia đình, nếu cha mẹ không thực
hiện được trách nhiệm nuôi dạy con cái, hoặc thiếu quan tâm đến con cái.
3.2.3. Xác định đúng đắn nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL về
quyền trẻ em cho từng đối tượng trên địa bàn huyện Tuyên Hóa
Đối tượng PBGDPL về quyền trẻ em rất da dạng, mỗi đới tượng lại có những
điều kiện, khả năng khác nhau để tham gia, tiến nhận nội dung của dạng PBGDPL
về quyền trẻ em. Do đó, tương ứng với mỗi một nhóm đối tượng cụ thể cần phải
108
xây dựng một nội dung, hình thức và phương pháp riêng, thích hợp với điều kiện và
khả năng của họ.
3.2.3.1. Về nội dung
Nhược điểm lớn nhất trong hoạt động PBGDPL về quyền trẻ em nói chung,
trên địa bàn huyện Tuyên Hóa nói riêng chính là việc nặng về lý thuyết. Các chủ thể
thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em chủ yếu cung cấp cho đối tượng người
nghe những điều luật khô khan, cứng nhắc, đơn điệu; những quy định mang tính
chất chung chung dễ dẫn đến tâm lý nhàm chán. Mặt khác, việc chuẩn bị nội dung
của mỗi chủ thể thường tùy tiện theo quan điểm chủ quan của mình, chưa theo một
định hướng chung trọng tâm, chưa gắn với thực tế cuộc sống; vì vậy nội dung
PBGDPL về quyền trẻ em chưa đảm bảo, thiếu tính thiết thực là điều khó tránh
khỏi.
Nội dung PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện cần được đổi mới theo
hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật mà còn phải phù
hợp với địa bàn, mang tính thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nội dung
PBGDPL về quyền trẻ em phải đảm bảo trang bị cơ sở lý luận, phương pháp luận
cần thiết cho đối tượng nâng cao khả năng nhận thức, sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
vận dụng vào thực tiễn công tác, sinh hoạt.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em cần phải xây dựng các nội dung pháp luật
cụ thể cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục phù hợp với từng thời kỳ; có sự hướng
dẫn chung, thống nhất về nội dung; trên cơ sở nội dung giáo dục pháp luật đã được
cung cấp, cán bộ làm công tác PBGDPL về quyền trẻ em cũng phải viên biên soạn
lại cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ nhận thức, tính chất công việc
của từng đối tượng.
3.2.3.2. Về hình thức
Xác định đúng, đủ nội dung PBGDPL về quyền trẻ em cho từng đối tượng là
yếu tố có ý nghĩa quyết định cho việc đạt tới mục đích của giáo dục pháp luật. Tuy
nhiên, nội dung không thể tự thân đi vào nhận thức, tình cảm của người được giáo
dục mà phải qua các kênh truyền tải thông tin, các cách thức và biện pháp tác động
109
nhất định, phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Do đó, hiệu quả của công
tác PBGDPL về quyền trẻ em không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà còn phụ thuộc
vào các hình thức tuyên truyền.
Đối với địa miền núi như huyện Tuyên Hóa thì việc lựa chọn nhằm đổi mới
hình thức PBGDPL về quyền trẻ em phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hình
thức của công tác PBGDPL về quyền trẻ en phải tập trung phát huy những ưu thế
tổng hợp của tất cả các hình thức PBGDPL, theo đó:
- Trước hết là tăng cường PBGDPL về quyền trẻ em thông qua hình thức
tuyên truyền miệng. Đây là hình thức phổ thông, truyền thống nhưng đem lại hiệu
quả tốt; nó không chỉ truyền đạt thông tin mà còn qua đó truyền cảm xúc, thái độ,
sắc thái tình cảm sang người nghe, làm cho người nghe đón nhận vấn đề bằng cả lý
trí và tình cảm. Vì thế, cần đa dạng hóa cách thức thể hiện, không chỉ thông qua
buổi lên lớp mà bằng những cách thức sinh động, linh hoạt hơn như tổ chức tọa
đàm, đối thoại, các buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, lời ca, tiếng hát... Muốn
vậy, đòi hỏi những người thực hiện phải có sự đầu tư cho nội dung cần tuyên
truyền, phổ biến; rèn luyện kỹ năng truyền đạt; nâng cao khả năng xử lý tình huống
trong quá trình truyền đạt.
- Tăng cường PBGDPL về quyền trẻ em thông qua hoạt động trên các
phương tiện thông tin đại chúng cũng là một hình thức thiết thực. Trên địa bàn
huyện Tuyên Hóa, một số phương tiện thông tin nên khai thác như: Báo tỉnh, Đài
phát thanh và truyền hình tỉnh, Đài Truyền thanh – truyền hình huyện, hệ thống loa
truyền thanh ở cơ sở, các cuốn sách pháp luật do cơ quan tư pháp phối hợp với các
cơ quan, đơn vị khác để xuất bản... Công tác PBGDPL về quyền thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng cần phải mở rộng thêm chuyên trang pháp luật về
quyền trẻ em ; cần lựa chọn những chuyên đề có nội dung mang tính thời sự, tiêu
điểm mà đông đảo quần chúng nhân dân đang mong muốn được tìm hiểu tuyên
truyền.
110
- Xây dựng trang web riêng về công tác PBGDPL về quyền trẻ em để người
dân có thể cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm hướng giải quyết cho những
vấn đề bức xúc trong đời sống.
- Đối với trang thông tin điện tử của huyện cần thường xuyên rà soát văn bản
quy phạm pháp luật còn hiệu lực, cập nhật vào cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm
pháp luật để đăng tải nhằm kịp thời phục vụ nhu cầu tra cứu văn bản pháp luật.
- Cần chú ý đến các đối tượng đặc thù để có hình thức PBGDPL về quyền trẻ
em. Như đối với người dân tộc thiểu số, cần thiết phải dịch thuật sang tiếng nói,
ngôn ngữ của họ, đội ngũ làm công tác PBGDPL vè quyền trẻ em chính là già làng,
trưởng bản, những người dân tộc có trình độ học vấn nhất định. Hình thức có thể
thông qua hoạt động văn hóa của làng, xã bằng tranh, ảnh, panoo, áp phích, tờ rơi,
phim, kịch. Đối với vùng sâu, vùng xa, có điều kiện đi lại khó khăn, có thể in ấn tài
liệu, tranh ảnh có hình thức đẹp, dễ hiểu vào giao cho các đoàn thể quần chúng,
chính quyền địa phương phát cho từng hộ gia đình để họ có bước đầu tiếp cận và
làm quen.
Ngoài ra, công tác PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện tùy theo từng
địa bàn, với đối tượng cụ thể để có sự cân nhắc, lựa chọn và đầu tư hình thức tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, đánh
giá kết quả thực hiện để tìm ra hình thức PBGDPL về quyền trẻ em phù hợp nhất
cho từng nhóm đối tượng cụ thể.
3.2.3.3. Về phương pháp
Phương pháp PBGDPL về quyền trẻ em chính là tìm sự giao thoa, đồng cảm
giữa người thực hiện công tác này với đối tượng mà họ hướng đến. Để đạt được
mục đích đó trong phương pháp PBGDPL về quyền trẻ em cần:
- Xác định đúng trọng tâm nội dung, tìm các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan để làm rõ vấn đề, cần chú ý khai thác bản chất các quy định, tránh trình
bày quá dài dòng hay đọc nguyên bản văn bản pháp luật.
- Tăng cường sự trao đổi giữa chủ thể PBGDPL về quyền trẻ em với người
nghe. Trao đổi không nhất thiết là hỏi và trả lời, không chỉ là tranh luận, là thảo
111
luận mà có khi chỉ qua sự đồng cảm, sự chăm chú, ủng hộ… cũng chính là sự giao
lưu giữa người nói và người nghe. Với một câu nói dí dỏm, thu hút, một tình huống
thực tế, người PBGDPL có thể thăm dò được sự chú ý của người nghe, mức độ
đồng tình, ủng hộ của họ để từ đó điều chỉnh nội dung, phương pháp truyền đạt phù
hợp.
- Trong quá trình PBGDPL về quyền trẻ em cũng cần đặc biệt chú ý đến đặc
trưng từng nhóm đối tượng để lựa chọn, điều chỉnh và đổi mới phương pháp
PBGDPL về quyền trẻ em cho phù hợp.
3.2.4. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong
thực hiện PBGDPL về quyền trẻ em
Kiểm tra là một trong những biện pháp đảm bảo thực hiện công tác PBGDPL
về quyền trẻ em. Thông qua công tác kiểm tra để nắm tình hình, đánh giá việc thực
hiện của các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và UBND các xã, thị trấn; đồng thời
rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo của UBND huyện. Việc kiểm tra được tiến
hành trực tiếp thông qua báo cáo từ cơ sở; có thể thực hiện thường xuyên hoặc đột
xuất, kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra từng khâu, từng hoạt động, từng công việc cụ
thể.Việc kiểm tra trực tiếp phải tiến hành chặt chẽ trên cơ sở chương trình, kế hoạch
cụ thể.
Để đạt được kết quả kiểm tra cần phải xây dựng và xác lập chế độ thông tin,
báo cáo định kỳ về công tác PBGDPL về quyền trẻ em của các ban, ngành, đoàn thể
cấp huyện và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện; đồng thời làm tốt công tác
theo dõi, tổng hợp tình hình, đảm bảo tính hệ thống, khoa học.
Qua kiểm tra, phải có đánh giá, nhận xét đầy đủ, khách quan. Nếu phát hiện
những mặt tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện công tác PBGDPL về
quyền trẻ em phải chỉ đạo, hướng dẫn và đôn đốc khắc phục kịp thời; đồng thời tự
mình hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch, nội dung thực
hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức thực hiện có hiệu quả.
112
Công tác kiểm tra còn giúp cho việc rút kinh nghiệm trong chỉ đạo chung và là
căn cứ thực hiện công tác thi đua khen thưởng hàng năm, đột xuất nhằm biểu
dương, động viên, khuyến khích các cá nhân, tập thể có thành tích cao trong công
tác PBGDPL về quyền trẻ em.
3.2.5. Các giải pháp khác để nâng cao chất lượng PBGDPL về quyền trẻ em
trên địa bàn huyện Tuyên Hóa
3.2.5.1. Đưa PBGDPL về quyền trẻ em vào chương trình giáo dục quốc dân.
Theo số liệu thống kê của Huyện Tuyên Hóa, trẻ em chiếm trên 27% dân số
toàn huyện, trong số đó có trên 85% trẻ em thuộc sự quản lý của nhà trường. Hơn
nữa, môi trường giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng nhất, hiệu quả nhất
trong việc truyền thu kiến thức và xây dựng nhất cách con người. Vì vậy đưa
PBGDPL về quyền trẻ em vào hệ thống giáo dục quốc dân trở thành một môn học
chính thức là rất cần thiết và phát huy tối đa hiệu quả. Việc này vừa đảm bảo tính
thống nhất, tính liên thông của chương trình, vừa thường xuyên liên tục, rộng khắp
nước và mang tính chủ động, tránh phụ thuộc vào các chương trình, dự án,.... Mặt
khác, Giáo viên là những người được học sinh tôn trọng và quý mến, nên chẳng có
gì hiệu quả hơn khi chính giáo viên là người truyền đạt, giáo dục cho học sinh về
quyền của chính mình, của bạn bè mình.
Khi đưa PBGDPL về quyền trẻ em vào hệ thống giáo dục thì có thể lồng ghép,
tích hợp vào nội dụng giảng dạy các môn học khác có mối liên quan, hỗ trợ như
giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật,.... Do đó, việc cần thiết
ngay lúc này là phải hình thành một chương trình giáo dục phù hợp, trở thành một
môn học chính khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông. Bên cạnh đó cũng
phải có các chương trình, buổi tập huấn, để bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho
giáo viên thực hiện giảng dạy môn học này. Có như bậy thì công tác PBGDPL về
quyền trẻ em mới có được hiệu quả.
113
3.2.5.2. Bảo đảm các điều kiện kinh phí, vật chất đảm bảo phục vụ công tác
PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa.
Hiện nay, việc trang bị cơ sở vật chất chưa đầy đủ và bố trí nguồn kinh phí
phục vụ công tác PBGDPL về trẻ em còn hạn chế, là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến tình trạng công tác PBGDPL về quyền trẻ em tại địa bàn huyện
Tuyên Hóa chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, trong thời gian
tới, yêu cầu tất yếu là phải đầu tư cơ sở vật chất và nguồn kinh phí cần thiết cho
hoạt động này.
Cần trang bị cơ sở vật chất phục vụ công tác PBGDPL về quyền trẻ em bao
gồm các trang thiết bị, phương tiện như: Trụ sở, hội trường, máy vi tính kết nối
internet, băng hình, băng tiếng, đĩa CD, đĩa VCD, tủ sách pháp luật… nhằm tạo
điều kiện cho cán bộ thực hiện công tác PBGDPL về quyền trẻ em thực hiện tốt
nhiệm vụ.
Về kinh phí, cần phải thực hiện tốt việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đầu tư kinh phí nhằm
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ làm công
tác PBGDPL về quyền trẻ em; đảm bảo kinh phí để in ấn các tài liệu cần thiết, các
văn bản pháp luật mới, tờ rơi, tờ gấp,...
Để đảm bảo cơ sở vật chất và kinh phí cần thiết phục vụ công tác PBGDPL về
quyền trẻ em, tất yếu phải có sự quan tâm rất lớn từ phía HĐND và UBND huyện,
các xã, thị trấn để được bố trí, sắp xếp nguồn kinh phí hợp lý.
3.2.5.3. Các giải pháp hỗ trợ khác
Để đảm bảo nâng cao chất lượng PBGDPL về quyền trẻ em trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa thì ngoài những giải pháp cụ thể nêu trên còn có các giải pháp hỗ trợ
khác như:
- Tăng cường PBGDPL về quyền trẻ em không tách rời với việc nâng cao
trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho nhân dân. Song song với việc PBGDPL về
quyền trẻ em, Nhà nước cần có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo,
phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
114
- Xây dựng cơ chế chặt chẽ, hợp lý nhằm tiếp tục tăng cường sự phối hợp giữa
các cấp, các ngành trong công tác PBGDPL về quyền trẻ em. Sự phối hợp trên cơ
sở quy định của pháp luật, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rang buộc trách
nhiệm đối với từng cơ quan, đơn vị.
- Có sự quan tâm hợp lý và chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch
PBGDPL về quyền trẻ em thiết thực, linh hoạt, gắn với mỗi thời điểm, tình hình cụ
thể, không giáo điều, rập khuôn, cứng nhắc nhằm đảm bảo tính khả thi và hiệu quả
khi đưa vào triển khai trong thực tế.
- Kết hợp PBGDPL về quyền trẻ em với tổ chức thực hiện pháp luật về quyền
trẻ em nghiêm minh, triệt để; áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm
minh.
115
Tóm tắt chương 3
Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại trong công tác PBGDPL về quyền trẻ
em trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta nói chung; lãnh đạo,
các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và nhân dân địa phương nói riêng cần phải chung
sức, đồng lòng, quyết tâm, kiên quyết nhìn thẳng vào vấn đề để đưa công tác
PBGDPL về quyền trẻ em đạt được hiệu quả tối ưu. Theo đó, cần phải đổi mới tư
duy, thay đổi góc nhìn về quyền trẻ em, về công tác xây dựng pháp luật về quyền
trẻ em và công tác PBGDPL về quyền trẻ em; từ đó xác định được phương hướng
đúng đắn, hướng đi hiệu quả; cần đưa ra những giải pháp cụ thể, rõ ràng cho từng
chủ thể, từng đối tượng; quy định rõ quyền và nghĩa vụ của mọi người trong công
tác PBGDPL về quyền trẻ em; xác định đúng đắn được nội dung trọng tâm, thay đổi
hình thức và phương pháp để phát huy tối đa tính hiệu quả; đồng thời cần phải huy
động tối đa mọi nguồn lực, hợp lý và đúng đắn; một khi đã thực hiện được những
điều đó, thì công tác PBGDPL về quyền trẻ em sẽ đem lại những hiệu quả đáng
mong đợi.
116
KẾT LUẬN
Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em được xem như là nhiệm vụ quan
trọng nhất hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Nhận được sự ủng hộ và nhiệt tình
tham gia của mọi tổ chức và các nhân trong xã hội, từ hoạt động của tổ chức Đảng,
cơ quan Nhà nước đến các tổ chức kinh tế, tổ chức đoàn thể kinh tế, tổ chức đoàn
thể quần chúng và các tổ chức khác; bằng các hình thức, phương pháp đa dạng
phong phú, phù hợp với từng đối tượng cụ thể đã đưa pháp luật về quyền trẻ em đi
vào thực tiễn cuộc sống một cách nhẹ nhàng, góp phần nâng cao trình độ dân trí vào
nên văn hóa coi trọng trẻ em cho cán bộ và nhân dân. Đồng thời, xây dựng một xã
hội mà ở đó ý thức “thượng tôn pháp luật” được đặt lên hàng đầu, tất thảy mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội đều tự nguyện tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh, có
tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em hiện nay ở nước ta nói chung và trên địa
bàn huyện Tuyên Hóa nói riêng, là môt lĩnh vực còn nhiều mới mẻ và mang tính
đặc thù riêng, do đó gặp không ít khó khăn, hạn chế.
Để khắc phục những tồn tại vốn có và phát huy tối đa hiệu quả của công tác
PBGDPL về quyền trẻ em, cần sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương; phải có sự phối hợp thực hiện
đồng bộ của toàn thể các tổ chức, cơ quan ban ngành, các tổ chức đoàn thể và nhân
dân trong xã hội.
Công tác PBGDPL về quyền trẻ em là một quá trình lâu dài, liên tục, thường
xuyên; đòi hỏi phải được thực hiện từng bước, không chủ quan, nóng vội; phải tập
trung tạo ra chất lượng thực sự thay thế cho hoạt động chỉ mang tính hình thức,
thiếu hiệu quả trước đó. Phải nghiên cứu tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá
trình thực hiện. Kết hợp hài hòa giữa mục tiêu ổn định lâu dài với các nhiệm vụ cụ
thể trước mắt, trong đó không loại trừ việc thử nghiệm thông qua các “điểm chỉ
đạo”.
117
Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền trẻ em phải được tiến hành kịp thời, đầy
đủ những nội dung pháp luật, nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm bằng nhiều hình
thức và phương pháp khác nhau, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương,
và phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Đặc biệt quan tâm đến các đối tượng có điều
kiện, hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, những để tìm ra
được cách thức PBGDPL về quyền trẻ em đạt được hiệu quả tối ưu. Tạo mọi điều
kiện tốt nhất để những người làm công tác này và bản thân chính mỗi công dân, mỗi
trẻ em Việt Nam đều am hiểu pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, sử dụng pháp luật
làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước
và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân.
Tạo bước phát triển mới trong công tác PBGDPL về quyền trẻ em để hỗ trợ
tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ,
nhân dân; tạo một môi trường ổn định, vững chắc, an toàn cho sự phát triển toàn
diện cho trẻ em Việt Nam; góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; đưa pháp
luât bảo vệ quyền trẻ em trở thành một nếp sống văn hóa trong đời sống thường
nhật của mọi người dân; góp phần bảo vệ nguồn nhân lực cho tương lai của đất
nước trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện đại.
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2002), Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp
luật, chương trình phát triển LHQ, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2010), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng
luật phổ biến, giáo dục pháp luât.
4. Chi cục thống kê Huyện Tuyên Hóa (2016), Niên Giám thống kê Huyện
Tuyên Hóa 2016.
5. Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
6. Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05-11-2012, của Bộ Chính trị về Tăng cường
công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới.
7. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
8. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị(ICCPR),1966.
9. Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn
hóa(ICESCR),1966.
10. Công ước về quyền trẻ em, 1989.
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Hiến pháp Việt Nam năm 1946,1959,1980 và 1992, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001.
13. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
14. Hồ Ngọc Dũng (2012), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn
hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Hội Luật gia Huyện Tuyên Hóa (2016), Báo cáo công tác của Hội Luật gia
huyện Tuyên Hóa 2016 và phương hướng năm 2017.
16. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về
Quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
17. Nguyễn Ngọc Hưng (2013), Giáo dục quyền con người, quyền công dân ở
nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
18. Nguyễn Thị Như Quỳnh (2014), Ý thức pháp luật và hoạt động tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay, Khoa Luật Đại học
Quốc Gia Hà Nội .
19. Nguyễn Thị Thu Thủy (2013), Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các
trường Đại học ở Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội.
20. Phạm Tất Dong (2007),Chương trình nghiên cứu về trẻ em Việt Nam:
“Nghiên cứu vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong sự nghiệp bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam.
21. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
22. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý.
23. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động.
24. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
25. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính.
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013.
27. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình
28. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự.
30. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính quyền địa phương.
31. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em.
32. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý.
33. Thủ tướng Chính phủ (1997), Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ
chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
34. Trịnh Hòa Bình (2001), Hoạt động, tư vấn- xây dựng chương trình truyền
thông- vận động trẻ em giai đoạn 2001-2005.
35. Trung tâm y tế dự phòng Huyện Tuyên Hóa (2016), Báo cáo tổng kết hoạt
động năm 2016.
36. Từ điển Tiếng Việt (2009), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, 1959.
38. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền(UDHR),1948.
39. Ủy ban nhân dân huyện Tuyên Hóa (2012), Báo cáo tổng kết công tác Phổ
biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2002- 2016, Tuyên Hóa.
40. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Chương trình Phổ biến giáo dục
pháp luật giai đoạn 2012 – 2017.
41. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016),Chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2016- 2020.
42. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Kế hoạch số 1437/KH-UBND về
việc triển khai thực hiện Chương trình PBGDPL giai đoạn 2017 – 2021.
43. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017),Quyết định số:705/QĐ-TTg về
Ban hành chương trình Phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021.
44. Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Tuyên Hóa, Báo cáo kết hoạt động Viện
Kiểm sát nhân dân Huyện Tuyên Hóa sáu tháng đầu năm 2017.
45. Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Tuyên Hóa, Báo cáo tổng kết hoạt động
Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Tuyên Hóa các năm 2012, 2013, 2014,
2015, 2016.