VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ZƠRÂM BÊ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂY GIANG,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các

số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và

trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố

trong bất cứ công trình nào khác.

Quảng Nam, ngày tháng năm 2021

Tác giả

ZƠRÂM BÊ

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian tham gia khóa học Lớp cao học ngành Luật Hiến pháp và

Luật Hành chính khóa X, đợt 1/2019, chúng em đã được nhận sự chỉ bảo, hướng

dẫn của quý thầy, cô của Học viện Khoa học xã hội, đã không quản ngại khó

khăn trong khi đó tình hình dịch COVID-19 đang hoành hành trên diện rộng,

bão lũ thường xuyên xảy ra nhưng các thầy, cô và Nhà Trường sắp xếp thời gian

rất phù hợp, giảng dạy tận tình để truyền đạt đủ các nội dung, chương trình đào

tạo đến tận học viên.

Hoàn thành luận văn này nhờ sự quan tâm hướng dẫn của Cô: PGS.TS.

NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG, Học viện Khoa học xã hội vừa là giáo viên trực

tiếp giảng dạy. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ

quý báo này.

Do khả năng nghiên cứu lý luận và thực tiễn còn hạn chế một điều chắc

chắn trong bài viết này không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, mong

các thầy, cô và người đọc góp ý, chỉnh sửa để bản thân em tiếp tục hoàn thiện

luận văn.

Một lần nữa cho em gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến quý thầy, cô cùng lãnh

đạo Học viện Khoa học Xã hội mạnh khỏe, hạnh phúc và gặp mọi điều tốt lành

trong cuộc sống!

Học viên: Zơrâm Bê

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở

VIỆT NAM .......................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân

cấp huyện .............................................................................................................. 7

1.2. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ của

Uỷ ban nhân dân cấp huyện ............................................................................... 14

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp

huyện .................................................................................................................. 25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ

BAN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM............... 31

2.1. Các yếu tố đặc thù của huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam có ảnh hưởng

đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện ...................................... 31

2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang,

tỉnh Quảng Nam ................................................................................................. 36

2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện Tây

Giang, tỉnh Quảng Nam ..................................................................................... 54

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM ....................... 60

3.1. Quan điểm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp

huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam ..................................... 60

3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp

huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam ..................................... 62

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 UBHC Ủy ban hành chính

2 HĐND Hội đồng nhân dân

3 UBND Ủy ban nhân dân

4 XHCN Xã hội chủ nghĩa

5 CQĐP Chính quyền địa phương

6 THCS Trung học cơ sở

7 THPT Trung học phổ thông

8 VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật

9 QLNN Quản lý nhà nước

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu Tên hình Trang hình

2.1 Bản đồ huyện Tây Giang 31

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,

do Nhân dân, vì Nhân dân đòi hỏi phải có sự đổi mới và tiếp tục cải cách mạnh

mẽ bộ máy Nhà nước, trong đó có chính quyền địa phương nói chung, Ủy ban

nhân dân nói riêng.

Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng

trong các lĩnh vực cải cách bộ máy nhà nước. Mặc dù vậy, trong công tác cải

cách tổ chức bộ máy nhà nước đã xác nhận, hệ thống chính quyền địa phương

trong thực tiễn cải cách vẫn còn chưa được chú trọng đúng mức. Việc đề ra giải

pháp vẫn chưa tạo đột phá trong đổi mới về tổ chức hoạt động chính quyền các

cấp ở địa phương.

Nhìn tổng quát, hệ thống tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền địa

phương hiện tại có thể còn ít nhiều phù hợp với tính chất và trình độ phát triển

của đơn vị hành chính, lãnh thổ, nhưng sẽ bất cập khi nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa thật sự được xây dựng và vận hành theo đúng quy luật

khánh quan của nó và Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì

Nhân dân được xác lập được các cơ sở của mình trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế và toàn cầu hóa.

Về cơ cấu UBND cấp huyện hiện có 13 cơ quan chuyên môn trực thuộc,

được tổ chức thực hiện theo Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 về việc

quy định tổ chức những cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; Nghị

định 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 về sửa đổi, bổ sung một số Điều tại Nghị

định 34/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 về việc quy định tổ chức

những cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện... Như vậy, cho thấy nếu

thực hiện theo tinh thần Văn kiện Hội nghị Trung ương lần VI, BCH TW khóa

XII về “một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống

1

chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Thế thì xét thấy cơ quan

chuyên môn thuộc UBND còn nhiều, trong 13 phòng, ban chuyên môn nên tổ

chức giải thể Phòng Y tế huyện còn lại 12 Phòng, ban là hợp lý nhất và tiếp tục

tinh giản biên chế theo quy định.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, đề tài khoa học, các luận

văn Thạc sỹ, các bài báo khoa học liên quan đến việc nghiên cứu về tổ chức và

hoạt động của UBND các cấp nói chung, tổ chức và hoạt động của UBND cấp

huyện nói riêng đã được công nhận như: Đề tài mã số: 60.38.01.02 của Bùi Hữu

Phát về tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu, năm 2015, do PGS.TS. Vũ Trọng Hách người hướng dẫn khoa học.

Đăc biệt là các Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học “Tổ chức chính quyền địa

phương: Quy định pháp luật thực tiễn cuả Pháp và Việt Nam” có nhiều bài viết

về một số vấn đề về tổ chức chính quyền địa phương của Việt Nam”. PGS. TS.

Vũ Thư, Viện Nhà nước và pháp luật “ Những vấn đề cơ bản trong quy định về

chính quyền địa phương của Hiến pháp sửa đổi”; PGS. TS. Vũ Hồng Anh, Viện

nghiên cứu lập pháp “Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị và

chính địa phương ở nông thôn”; TS. Bùi Thị Mừng (Trường Đại học Luật Hà

Nội) với bài tham luận “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chính

quyền địa phương ở bối cảnh thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa phương

2015”; Ths. Vũ Thu Hằng, Khoa Nhà nước và pháp luật Đại học Nội vụ Hà Nội

“Phát huy vai trò của Nhân dân trong xây dựng và giám sát hoạt động của chính

quyền địa phương”; Ths. Đỗ Thị Thanh Nga, Khoa Hành chính học Đại học Nội

vụ Hà Nội “Một số điểm mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân

dân và Ủy ban nhân dân theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015”;

Ths. Trương Quốc Việt, Khoa Hành chính học Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

“Sự phát triển của của chế định chính quyền địa phương qua các bản Hiến

pháp”; Ths. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Khoa Nhà nước và pháp luật Đại học Nội

2

vụ Hà Nội “Một số đểm mới của Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015”.

Những công trình tài liệu nghiên cứu đã được nêu trên nhìn chung đã khái

quát được bức tranh về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương, trong đó

có Ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó cần làm rõ thêm sự giống nhau và khác nhau

giữa chính quyền địa phương ở đô thị và chính quyền địa phương ở nông thôn.

Tuy nhiên, pháp luật có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính

quyền địa phương ở nông thôn rất cụ thể nhưng xét về mặt địa giới hành chính

thì có sự khác nhau. Ví dụ như: Giữa huyện Đông Giang và huyện Tây Giang có

sự khác biệt nhau đó là Tây Giang có 08 xã biên giới nên yêu cầu pháp luật phải

có sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ và quyền này nhất là về công tác đối

ngoại. v.v…

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng căn cứ lý luận và căn cứ

thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt

động của UBND cấp huyện ở Việt Nam nói chung, của UBND huyện Tây

Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức chính quyền địa

phương và chính quyền địa phương cấp huyện tại Việt Nam. Tập trung luận

chứng về vai trò, vị trí, tính chất, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của UBND cấp huyện;

- Phân tích các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của UBND cấp

huyện ở Việt Nam. Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của

UBND cấp huyện ở Việt Nam;

- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của UBND cấp

huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, phát hiện những ưu điểm, hạn chế và

3

nguyên nhân của thực trạng đó;

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức

và hoạt động của UBND cấp huyện ở Việt Nam nói chung, ở huyện Tây Giang,

tỉnh Quảng Nam nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các quan điểm khoa học về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương cấp huyện;

- Hệ thống các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của UBND

cấp huyện;

- Thực tiễn tổ chức và hoạt động của UBND huyện Tây Giang, tỉnh

Quảng Nam;

- Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện tại một số

huyện có điều kiện tương đồng với huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu trực diện các vấn đề có liên

quan đến tổ chức và hoạt động của UBND huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam.

- Phạm vi không gian nghiên cứu: tại huyện Tây Giang thuộc tỉnh

Quảng Nam. Trong quá trình nghiên cứu, có sự so sánh nhất định với một số địa

phương cấp huyện có điều kiện tương đồng với huyện Tây Giang, tỉnh Quảng

Nam.

- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2006

đến nay ( từ khi Luật Tổ chức Chính quyền năm 2015 có hiệu lực trên thực tế).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về tổ chức bộ máy nhà

4

nước dân chủ, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.

Luận văn cũng tiếp thu và vận dụng một số quan điểm trong các học

thuyết được áp dụng phổ biến trên thế giới: Học thuyết phân quyền, Học thuyết

Nhà nước pháp quyền, Học thuyết Quản trị nhà nước, Học thuyết Quyền con

người, ….

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu hiện đại, được áp

dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học pháp lý và khoa học xã hội nói chung

như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử, nghiên cứu tài

liệu thứ cấp và tham khảo ý kiến chuyên gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần xây dựng cơ sở nhận thức lý

luận đầy đủ hơn về vai trò, vị trí, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền

hạn của chính quyền địa phương nói chung, của UBND và UBND cấp huyện

nói riêng ở Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cấp uỷ

Đảng, chính quyền và các thiết chế trong hệ thống chính trị tại huyện Tây Giang,

tỉnh Quảng Nam trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; chính

sách, pháp luật của Nhà nước ta về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương tại những địa bàn có tính đặc thù.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài

liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo thuộc lĩnh vực luật học và quản

lý hành chính công.

7. Kết cấu của luận văn

Bên cạnh những phần như phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu

tham khảo nghiên cứu, thì kết cấu nội dung của luận văn được chia thành 3

5

chương cơ bản dưới đây:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở Việt Nam

Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện

Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

Chương 3. Quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động

6

của Uỷ ban nhân dân cấp huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tổ chức và hoạt động của Uỷ ban

nhân dân cấp huyện

1.1.1. Khái quát về bộ máy chính quyền địa phương ở Việt Nam

Khái niệm về chính quyền địa phương tuy được giới nghiên cứu luật học

và những nhà quản lý hiểu theo nhiều góc nhìn, song điểm chung nhất ở chỗ là

xem chính quyền địa phương là cơ quan do nhân dân địa phương lập ra (mà

không phải cơ quan tản quyền) nhằm quản lý điều hành các công việc tại địa

phương.

Đối với nước ta, một cấp chính quyền ở địa phương thường có cả Hội đồng

nhân dân và Ủy ban nhân dân (hoặc tên gọi khác), nhưng cũng có thể chỉ có cơ

quan hành chính nhà nước. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến

pháp đã xác định tên gọi mới thể hiện ở “Chương IX. Chính quyền địa phương”

(gồm 7 điều, từ Điều 110 đến Điều 116). Chương IX của Hiến pháp sửa đổi, quy

định nhiều mặt khác nhau của chính quyền địa phương, tại Điều 110 Hiến pháp

này đã quy định rõ về đơn vị hành chính của nước ta, cụ thể là:

“1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo sự

phân định sau:

Nước được chia ra thành các tỉnh và thành phố trực thuộc TW (gọi chung

cấp tỉnh); tỉnh được chia ra thành các huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã (gọi

chung cấp huyện); thành phố trực thuộc TW được chia ra thành quận, thị xã,

huyện và đơn vị hành chính tương đương;

Huyện được chia ra thành các xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh và thị xã

được chia ra thành các phường và xã; quận được chia ra thành các phường.

Đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt thì do Quốc hội nhà nước ta

7

thành lập.

2. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành

chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật

định”.

Với cách phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ đó có nhiều nét tương đối

giống với những quy định trước đó, song dù vậy có một số điểm đáng chú ý:

Một là, loại đơn vị hành chính cấp huyện được mở rộng thêm thông qua

việc bổ sung “đơn vị hành chính tương đương, mà cụ thể Hiến pháp đã đề cập

“đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” thì do Quốc hội nước ta thành lập. Như

vậy, có thể hiểu đây chính là một đơn vị hành chính tương đương, cùng tương

đương với cấp huyện (mà không thể là tương đương với cấp xã hoặc cấp tỉnh);

Hai là, quy định tại khoản 2, đó là: Việc giải thể, thành lập, điều chỉnh,

chia, nhập về địa giới đơn vị hành chính là phải trưng cầu ý kiến Nhân dân địa

phương và thực hiện theo luật định về trình tự thủ tục. Đây chính là điểm đổi

mới tiến bộ, phù hợp với xã hội dân chủ - khi quyền của người dân được tham

gia quyết định về vấn đề đơn vị hành chính lãnh thổ đã được ghi nhận ở Hiến

pháp.

Trước khi sửa đổi, Hiến pháp 1992 đã liên kết ngay trong quy định về đơn

vị hành chính là: “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các

đơn vị hành chính do luật định” (Điều 108). Thì tại Điều 111 của Hiến pháp sửa

đổi này đã quy định một điều riêng về mối liên kết trong Khoản 1 và Khoản 2

thuộc Điều 111, cụ thể là: (1). Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn

vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2). Cấp chính

quyền địa phương được cơ cấu gồm HĐND và UBND cùng cấp và được tiến

hành tổ chức trên cơ sở phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn, hải đảo và đơn

vị hành chính - kinh tế đặc biệt do pháp luật quy định” .

Trong quy định của Hiến pháp sửa đổi, việc tổ chức chính quyền địa

phương được định hướng rõ rệt hơn. Ở đó, có sự phân biệt hai khái niệm “chính

8

quyền địa phương” và “cấp chính quyền địa phương”. Tại Khoản 1 đã ghi:

“Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính”; đây là logic

để dẫn dắt quy định tại khoản 2: “Cấp chính quyền địa phương được cơ cấu gồm

HĐND và UBND cùng cấp và được tiến hành tổ chức trên cơ sở phù hợp với

đặc điểm đô thị, nông thôn, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do

pháp luật quy định” (Tức là không nhất thiết đơn vị hành chính nào cũng phải là

một cấp chính quyền với hai loại cơ quan kể trên).

Việc tổ chức cấp chính quyền như thế nào tùy thuộc vào các đặc điểm các

yếu tố địa lý, kinh tế - xã hội, quan niệm về bộ máy nhà nước, kinh nghiệm thực

tiễn, cải cách... hiện tập trung trong các quy định tại các điều 112, 113, 114 của

Hiến pháp sửa đổi. Điều 112 đã quy định rằng: “Chính quyền địa phương các

cấp được tổ chức và đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương;

quyết định đối với những vấn đề của địa phương do pháp luật quy định; và chịu

sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan nhà nước cấp trên.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ

sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa

phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực

hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm

thực hiện nhiệm vụ đó”. Xét khía cạnh hình thức, với quy định được nêu tại 03

khoản nói trên đã có nhiều dấu hiệu tương tự giống với những quy định của các

quốc gia về tự quản địa phương (hay chính quyền địa phương tự quản), cụ thể

là:

Một là, chính quyền địa phương các cấp quyết định đối với những vấn đề

và công việc của địa phương trên cơ sở pháp luật quy định;

Hai là, việc xác định quyền hạn và nhiệm vụ của địa phương dựa trên sự

phân định về thẩm quyền đối với từng cấp chính quyền từ TW tới địa phương cơ

9

sở;

Ba là, từng cấp chính quyền địa phương thực hiện một số nhiệm vụ do cơ

quan nhà nước cấp trên ủy thác với điều kiện phải đảm bảo thực hiện tốt các

nhiệm vụ tương ứng.

Bốn là, năng lực giám sát, kiểm tra của các cơ quan nhà nước cấp trên đối

với hoạt động của chính quyền các cấp ở địa phương.

Tuy nhiên, những dấu hiệu đó không là cơ sở để đi đến kết luận rằng chính

quyền địa phương được quy định trong Hiến pháp sửa đổi khác biệt về chất so

với chính quyền địa phương tại Hiến pháp trước sửa đổi hoặc xem đó là chính

quyền địa phương tự quản theo quan niệm chung hiện nay. Nếu quan niệm một

cách khái quát có hai loại chính quyền địa phương, một loại chính quyền địa

phương được xem là một bộ phận cấu thành thống nhất có khuynh hướng chủ

đạo là tập quyền, tập trung (có ít nhiều có tính dân chủ) và loại chính quyền địa

phương được gọi là tự quản thì giữa chúng có sự khác nhau căn bản. Đối với

loại thứ nhất, chính quyền địa phương không có “chủ quyền” (hiểu chủ quyền

theo nghĩa về phân định thẩm quyền rạch ròi và dứt khoát trong luật), nói chung,

nó phải chịu sự tác động (chỉ đạo, mệnh lệnh) của chính quyền, cơ quan nhà

nước cấp trên, không có tính độc lập đáng kể. Trái lại, đối với loại thứ hai, chính

quyền địa phương có “chủ quyền” trong việc quyết định các mối quan hệ theo

chiều dọc với bộ máy hành chính nhà nước.

1.1.2. Khái niệm tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Ở Việt Nam, Uỷ ban nhân dân là khái niệm được dùng từ khi có Hiến pháp

năm 1980 đến nay, còn theo Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1946 cơ

quan này được gọi là Uỷ ban hành chính. Theo pháp luật hiện hành UBND do

HĐND cùng cấp tiến hành bầu nên, gồm có chủ tịch UBND, những phó chủ tịch

UBND và uỷ viên UBND. Chủ tịch UBND phải là đại biểu HĐND (đại biểu dân

cử), các thành viên còn lại của UBND thì không hoàn toàn nhất thiết là đại biểu

10

HĐND. Kết quả về việc bầu thành viên UBND phải do Chủ tịch UBND cấp trên

trực tiếp phê duyệt; đối với kết quả bầu thành viên UBND cấp tỉnh thì phải do

Thủ tướng chính phủ trực tiếp phê chuẩn. Như vậy, theo luật định hiện hành có

thể xác định: Uỷ ban nhân dân cấp huyện trực tiếp do Hội đồng nhân dân cấp

huyện bầu nên, đây là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cấp huyện, là

cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện, nên phải chịu trách nhiệm chấp hành

Hiến pháp, các đạo luật, những VBQPPL của các cơ quan nhà nước cấp trên và

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước ở địa

phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh...

Uỷ ban nhân dân họp mỗi tháng ít nhất một lần do Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân triệu tập và chủ toạ. Những quyết định của UBND phải được hơn 50% tổng

số thành viên của UBND biểu quyết tán thành. Chủ tịch UBMTTQVN và người

đứng đầu những tổ chức chính trị xã hội hợp pháp ở địa phương được mời tham

dự những phiên họp UBND cùng cấp một khi bàn bạc các vấn đề có liên quan.

UBND thảo luận tập thể và quyết định theo nguyên tắc đa số đối với những vấn

đề quan trọng huyết mạch thuộc thẩm quyền của mình do pháp luật quy định

thông qua những phiên họp, cụ thể là: Chương trình việc làm của UBND; quyết

toán và dự toán ngân sách thường niên, quỹ dự trữ của địa phương để trình

HĐND cùng cấp; báo cáo của UBND trước HĐND cùng cấp để thông qua; Kế

hoạch phát triển KT-XH; những biện pháp thực thi nghị quyết HĐND về KT-

XH; Đề án về việc thành lập mới, giải thể/ sáp nhập những cơ quan chuyên môn

trực thuộc UBND và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính tại

địa phương.

1.1.3. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Tại Điều 2 của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003

có quy định rằng: UBND là cơ quan do HĐND bầu ra, đây là cơ quan chấp hành

11

của HĐND cùng cấp và là cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, nên

UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và đối với cơ quan nhà nước

cấp trên[39].

Theo Khoản 1 thuộc Điều 8 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương

2015 đã quy định rõ: “UBND do HĐND cùng cấp bầu ra, đây là cơ quan chấp

hành của HĐND cùng cấp và là cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương,

nên UBND chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và

đối với cơ quan nhà nước cấp trên.

- UBND cấp huyện là cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện, nên nó

mang đặc điểm chung của cơ quan hành chính nhà nước. Đó là: Thực hiện chức

năng chấp hành và điều hành đối với mọi mặt lĩnh vực trong đời sống xã hội; Tổ

chức thực thi trong thực tiễn đối với các nội dung đã được ban hành trong các

văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và của

cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; Kiểm tra và thanh tra, chỉ đạo quá trình

thực thi pháp luật của những cơ quan thuộc thẩm quyền của mình và kể cả đối

với cá nhân, tổ chức tuy không trực thuộc khối cơ quan hành chính nhà nước.

So với các hệ thống của những cơ quan nhà nước khác, thì khối cơ quan

hành chính nhà nước là một hệ thống khá phức tạp, có số lượng cơ quan trực

thuộc và đội ngũ cán bộ, công chức đông nhất.

1.1.4. Vai trò tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Ủy ban nhân dân huyện (sau đây viết tắt là UBND huyện) do Hội đồng

nhân dân huyện bầu; là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân huyện (sau

đây viết tắt là HĐND huyện), cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu

trách nhiệm trước Nhân dân huyện, HĐND huyện và cơ quan hành chính nhà

nước cấp trên.

UBND cấp huyện trong quá trình hoạt động phải chấp hành và chịu trách

nhiệm trước Hiến pháp, các đạo Luật, những văn bản quy phạm pháp luật của cơ

12

quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết HĐND cùng cấp để đảm bảo thực thi các

chính sách, các biện pháp về phát triển KT-XH, củng cố an ninh quốc phòng

trên địa bàn cấp huyện.

UBND cấp huyện thực hiện chức năng QLNN tại địa phương mình, đóng

góp vào việc đảm bảo sự quản lý, chỉ đạo thống nhất từ trên xuống trong hệ

thống tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ cấp Trung ương tới cấp xã.

UBND huyện tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp

luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa bảo đảm phát huy vai trò lãnh

đạo của tập thể UBND huyện, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, các

Phó Chủ tịch và Ủy viên UBND huyện.

Giải quyết công việc theo quy định của pháp luật, sự chỉ đạo, điều hành

của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh; bảo đảm sự lãnh đạo của Huyện ủy, sự

giám sát của HĐND huyện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện trong việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Trong quá trình phân công về việc giải quyết công vụ, thì mỗi công việc

chỉ được phân công giao cho một đơn vị, cơ quan, một người phụ trách (quy về

một đầu mối) và chịu trách nhiệm chính. Đối với tập thể thì không được làm

thay công việc của cá nhân, đối với cấp trên thì không được làm thay công việc

của cấp dưới; và ngược lại. Người đứng đầu cơ quan đơn vị (Thủ trưởng cơ

quan đơn vị) đối với nhóm công việc được phân công phụ trách, thì họ phải chịu

trách nhiệm về kết quả các công việc được giao và tiến độ thực hiện.

Phải đảm bảo kế hoạch, chương trình và Quy chế làm việc; và tuân thủ

pháp luật hiện hành quy định về thủ tục, trình tự và thời hạn giải quyết công

việc.

Bảo đảm phát huy sở trường và năng lực của các cán bộ, công chức; đề

13

cao cơ chế phối hợp liên thông trong công tác, tăng cường trao đổi chia sẻ thông

tin trong quá trình giải quyết công việc và trong việc thực hiện các hoạt động

theo nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn đã được luật định.

Đảm bảo mọi hoạt động được thực hiện dân chủ, minh bạch, hiện đại, hiệu

quả; và chịu sự giám sát của nhân dân, đề cao tinh thần thái độ tận tụy phục vụ

sự hài lòng của Nhân dân.

1.2. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan

hệ của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo pháp luật Việt

Nam: Quá trình điều chỉnh pháp luật về Ủy han nhân dân cấp huyện ở nước ta từ

năm 1945 đến nay:

1.2.2. Ủy ban nhân dân huyện theo sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945,

Sắc lệnh số 77/SL ngày 21/12/1945, sắc lệnh số 11 /SL ngày 24/11/1946 và

Hiến pháp năm 1946

Kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, căn cứ pháp lý đầu tiên đối

với chính quyền địa phương là 02 sắc lệnh, cụ thể: Sắc lệnh 63/SL ngày 22

tháng 11 năm 1945 về việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính

kỳ, tỉnh, huyện, xã; và Sắc lệnh 77/SL ngày 21 tháng 12 năm 1945 về việc tổ

chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính thành phố và khu phố. Như vậy,

Ủy ban hành chính cấp huyện (theo Sắc lệnh 63/SL và Sắc lệnh 77/SL này) chỉ

là cấp trung gian. Cấp huyện chỉ tiến hành tổ chức nên Ủy ban hành chính do

đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra, gồm có: Chủ tịch ủy ban hành chính;

Phó chủ tịch Ủy ban hành chính; Thư ký Ủy ban hành chính; và 02 Ủy viên dự

khuyết của Ủy ban này. Tại Điều 78 Sắc lệnh 63/SL xác định rằng: “Ủy ban

hành chính cấp huyện có nhiệm vụ thi hành và kiểm soát việc thi hành mệnh

14

lệnh của cấp trên, kiểm soát Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cấp xã;

có nhiệm vụ giải quyết những công việc thuộc phạm vi cấp huyện, điều khiển

đội cảnh binh cấp huyện nhằm lo công việc tuần phòng, trị an ở cấp huyện

"[05]. Còn tại Điều 3 và Điều 4 của Sắc lệnh 77/SL có quy định rằng: Khác với

tỉnh, việc tổ chức chính quyền thành phố bao gồm 02 cấp, đó là: thành phố và

khu phố. Song trong đó, cấp thành phố mới gồm có cả Hội đồng nhân dân và Ủy

ban hành chính; trong khi cấp khu phố chỉ có duy nhất là Ủy ban hành chính.

Ngoại trừ thành phố Đà Lạt thì không có cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành

chính thành phố, mà chỉ duy nhất có Ủy ban hành chính khu phố. Ủy ban hành

chính khu phố là cơ quan do cử tri của khu phố trực tiếp bầu nên (cũng tương tự

với Uỷ ban hành chính các cấp khác), Ủy ban hành chính khu phố có trách

nhiệm thi hành mệnh lệnh của cấp trên và có nhiệm vụ giải quyết những công

việc trên địa bàn khu phố mình.[06]

Sắc lệnh 11/SL được Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ngày 24/01/1946

quy định đối với việc tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã. Theo đó,

những thị xã lớn được chia thành nhiều khu; với mỗi khu tương ứng có một Ủy

ban hành chính. Việc phân chia khu được Ủy ban hành chính kỳ định (trong

Điều 1); về cách thức tổ chức chính quyền nhân dân được tổ chức theo cách

thức đã định trong sắc lệnh 77/SL áp dụng đối với các thành phố; chỉ có điểm

khác ở chỗ là, trong hoạt động kiểm soát thì tỉnh sẽ làm thay và kỳ sẽ làm thay

Chính phủ (trong Điều 2). Mặt khác, Sắc lệnh 11/SL cũng tạm thời quy định lại

đối với những thành phố Vinh - Bến Thủy, Nam Định, Đà Nẵng, Huế là thị xã.

Nhìn chung, về cơ bản chính quyền địa phương theo Hiến pháp 1946 được

tổ chức theo quy định của các sắc lệnh: Sắc lệnh 77/SL; và sắc lệnh sửa đổi bổ

sung sắc lệnh 63 và sắc lệnh 77 nhằm phù hợp sự nghiệp kháng chiến. Ở giai

đoạn này, có sự khác nhau về bộ máy giữa chính quyền nông thôn và đô thị

trong việc quản lý và tổ chức chính quyền địa phương. Tại Điều 58 của Hiến

15

pháp năm 1946, Ủy ban hành chính huyện là cơ quan do Hội đồng nhân các xã

bầu nên. Tại Điều 59 của Hiến pháp năm 1946 quy định: Trách nhiệm của Ủy

ban hành chính, đó là thi hành mệnh lệnh cấp trên; và thi hành những nghị quyết

Hội đồng nhân của địa phương mình; đồng thời chỉ huy điều hành công việc

hành chính tại địa phương, sau khi đã được cấp trên phê chuẩn.

Ủy ban hành chính vừa chịu trách nhiệm trước Ủy ban hành chính cấp trên,

vừa chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân cùng cấp. Mặc dù tại Điều 62 của

Hiến pháp năm 1946 có định hướng đến việc ra một đạo luật nhằm xác định rõ

về chi tiết tổ chức đối với Hội đồng nhân và Ủy ban hành chính, song do lịch sử

giai đoạn cao trào của sự nghiệp kháng chiến toàn quốc nên chưa thể có điều

kiện để thực thi. Vì vậy, chính quyền cấp huyện bao gồm cả Ủy ban hành chính

cùng cấp được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của hai sắc lệnh: Sắc lệnh 63/SL

và Sắc lệnh 77/SL. Vai trò quan trọng của chính quyền cấp huyện, cũng như

chính quyền các cấp trong giai đoạn này là thực hiện các mệnh lệnh, chỉ thị của

Chính phủ, tổ chức vận động Nhân dân thực hiện nhiệm vụ của hậu phương,

đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.

1.2.3. Ủy ban nhân dân huyện theo Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ

chức HĐND và Ủy ban hành chính 1962

Trong Chương VII của Hiến pháp 1959 có quy định khá cụ thể về Hội

đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương. Tại Điều 78 của Hiến pháp

1959 quy định rằng: Nước được chia ra thành thành phố trực thuộc TW, tỉnh và

khu tự trị; tỉnh được chia ra thành thành phố thuộc tỉnh, thị xã và huyện; huyện

được chia ra thành thị trấn và các xã; và các cấp này đều tổ chức cơ cấu gồm

Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cùng cấp (theo Điều 79). “Hội đồng

nhân dân là cơ quan bầu ra Ủy ban hành chính, Hội đồng nhân dân có quyền bãi

miễn đối với những thành viên của Ủy ban hành chính” (Điều 84). Ở Điều 1 của

Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp 1962 quy định:

“Thành phố được chia ra thành các huyện ở ngoại thành và các khu phố ở nội

16

thành”; và “những đơn vị hành chính này đều gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy

ban hành chính”[39]. Quy định này đồng nghĩa là, chính quyền cấp huyện được

thiết lập là một cấp hành chính cơ bản với tổ chức cơ cấu gồm có Hội đồng nhân

dân và Ủy ban hành chính cùng cấp. Đây là lần đầu tiên quy định đã được luật

hóa theo tinh thần Hiến pháp năm 1959: Ủy ban hành chính vừa là cơ quan chấp

hành của Hội đồng nhân dân, và vừa là cơ quan hành chính nhà nước của địa

phương (Điều 87).

Cũng ở thời kỳ này, cơ cấu Ủy ban hành chính cấp huyện bao gồm: Chủ

tịch Ủy ban hành chính, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính, uỷ

viên thư ký và những uỷ viên Ủy ban hành chính cấp huyện. Nhiệm kỳ hoạt

động của Ủy ban hành chính cấp huyện có cùng thời gian với nhiệm kỳ Hội

đồng nhân dân cùng cấp. Mọi hoạt động của Uỷ ban hành chính cấp huyện phải

chấp hành mệnh lệnh, nghị quyết của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và

chấp hành nghị quyết Hội đồng nhân dân cùng cấp; đồng thời báo cáo công tác

và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cấp mình và đối với cơ quan hành

chính nhà nước cấp trên trực tiếp; Uỷ ban hành chính cấp huyện thực hiện

quyền quản lý điều hành công tác hành chính tại địa phương mình.

Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp 1962 cũng

đưa ra quy định về sự phân biệt tổ chức bộ máy giữa chính quyền cấp huyện ở

nông thôn với chính quyền ở đô thị. Bên cạnh đó, Luật Tổ chức Hội đồng nhân

dân và Ủy ban hành chính các cấp 1962 cũng có một số quy định riêng về nhiệm

vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính của thành

phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện, khu phố. Trong đó, nhiệm vụ và quyền hạn của

Ủy ban hành chính cấp huyện, đó là: Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thị trấn và

các xã trong việc xây dựng và chấp hành kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội và

ngân sách của thị trấn, xã; quản lý công tác tổ chức, biên chế và cán bộ; chỉ đạo

đối với thị trấn, các xã việc củng cố, phát triển hợp tác xã, phát triển sản xuất

nông nghiệp và thủ công nghiệp, những ngành nghề khác; chỉ đạo tuyến xã, thị

17

trấn trong việc phát triển những công trình giao thông, vận tải, thuỷ lợi và sự

nghiệp hoạt động văn hoá, giáo dục, xã hội mang tính liên xã; chỉ đạo thị trấn và

các xã về việc thu mua, thu nợ, thu thuế; quản lý điều hành tài chính cấp huyện;

đôn đốc, kiểm tra quá trình thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch của ngân hàng;

chỉ đạo, lãnh đạo công tác củng cố, phát triển những loại hình hợp tác xã vay

mượn và quỹ tín dụng; quản lý công tác giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể

thao; quản lý các hoạt động bưu điện, truyền thanh; quản lý điều hành những xí

nghiệp, bệnh xá, trường phổ thông, sự nghiệp lợi ích công cộng của huyện; gìn

giữ an ninh trật tự - trị an, bảo vệ công sản; xây dựng các lực lượng hậu bị, tự

vệ, dân quân và thi hành các nhiệm vụ quân sự khác; và quản lý những công tác

khác do cấp trên giao (theo Điều 45).

Xét tổng thể, giai đoạn này là địa vị của Ủy ban hành chính cấp huyện

được tăng cường; quy định khá cụ thể về quyền hạn và chức năng, nhiệm vụ của

tổ chức này.

1.2.4. Ủy ban nhân dân huyện theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ

chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 và năm 1989 (sửa

đổi)

Hiến pháp năm 1980 đã quy định, đơn vị hành chính đối với tỉnh được chia

ra thành thành phố thuộc tỉnh, thị xã và huyện; còn đối với thành phố trực thuộc

TW được chia ra thành quận, thị xã và huyện. Cơ cấu chính quyền của những

đơn vị hành chính nêu trên đều gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

[40,tr. 119]. Theo Điều 121 của Hiến pháp 1980; và tại Điều 3 của Luật Tổ chức

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1983 đã quy định rằng: “Uỷ ban nhân

dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân; và là cơ quan hành chính nhà

nước tại địa phương”. Uỷ ban nhân dân huyện có nhiệm vụ (Điều 46 của Luật

này), đó là: Chuẩn bị các kỳ họp Hội đồng nhân dân huyện, phối hợp với các

Ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân cùng cấp để xây dựng những đề án để

18

trình Hội đồng nhân dân huyện xem xét, quyết định; chỉ đạo và tổ chức thực thi

nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện và những nghị định, nghị quyết, quyết

định, thông tư, chỉ thị của hệ thống cơ quan nhà nước cấp trên; chỉ đạo các cấp,

các ngành thuộc thẩm quyền của mình về thực hiện kế hoạch ngân sách, phát

triển KT-XH, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, TTATXH và chăm lo cải

thiện đời sống người dân ở địa phương; mặt khác, phải đảm bảo công tác QLNN

được thống nhất từ TW tới cơ sở... Cơ cấu Uỷ ban nhân dân cấp huyện bao gồm:

Chủ tịch UBND, các Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên thư ký và những Ủy viên

UBND khác; cơ cấu số lượng thành viên Uỷ ban nhân dân cấp huyện từ 09-13

đồng chí và phải là đại biểu dân cử cùng cấp. Nhiệm kỳ của Uỷ ban nhân dân

cấp huyện hoạt động có cùng thời hạn như nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân cùng

cấp, cụ thể là 02 năm. Do đó, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền hạn và

nhiệm vụ cũng như những lĩnh vực hoạt động của nó được mở rộng, nhất là về

kinh tế. Chẳng hạn, Uỷ ban nhân dân huyện trực tiếp phân cấp, chỉ đạo và quản

lý với cấp xã, các xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan nhà

nước khác; Uỷ ban nhân dân huyện vừa có chức năng quản lý hành chính - lãnh

thổ, vừa có chức năng trực tiếp SX-KD... (Nghị quyết 50 - HĐBT ngày

17/5/1983).

Đến năm 1989, theo quy định của Nghị quyết Quốc hội về việc sửa đổi một

số điều Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân

dân 1989 sửa đổi: Thường trực Uỷ ban nhân dân cấp huyện bị bãi bỏ, còn các

quyền hạn và nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân huyện phải được trao đổi thảo luận

tập thể và quyết định theo nguyên tắc đa số trong phiên họp toàn thể của Uỷ ban

nhân dân. Tuy vậy, do chế độ làm việc tập thể khó quy về trách nhiệm thuộc

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên của Uỷ ban nhân dân... Mặt khác,

trong thời kỳ này theo quy định hiện hành, Uỷ ban nhân dân cấp huyện luôn phụ

19

thuộc vào mối quan hệ với Hội đồng nhân dân cùng cấp. Nên cơ quan hành

chính nhà nước cấp trên không có quyền tác động trực tiếp, không thực hiện chỉ

thị mệnh lệnh của cấp trên, dẫn đến Uỷ ban nhân dân huyện hoạt động ở giai

đoạn này đối mặt với nhiều khó khăn…

1.2.5. Ủy ban nhân dân huyện theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ

chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 và năm 2003

Theo Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân

dân 1994 và 2003 quy định, cơ cấu tổ chức chính quyền cấp huyện gồm có Hội

đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp; trong đó, Uỷ ban nhân dân cấp

huyện là cơ quan do HĐND cùng cấp bầu nên, là cơ quan chấp hành của HĐND

cùng cấp và là cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, thực hiện chức

năng quản lý nhà nước ở địa phương phụ trách, đóng góp vào việc đảm bảo sự

quản lý chỉ đạo thống nhất trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước từ TW

đến cơ sở. Quyền hạn và nhiệm vụ của UBND cấp huyện (còn tùy thuộc vào

khu vực nông thôn hay đô thị) được thể hiện rõ hơn về tính đặc thù. Nhiệm kỳ

hoạt động của UBND huyện có cùng thời gian với nhiệm kỳ HĐND cùng cấp,

cụ thể là 5 năm (chứ không còn hai năm như trước); quyền hạn và nhiệm vụ của

UBND huyện được quy định từ các điều từ: Điều 97 tới Điều 107. Ở giai đoạn

này, địa vị pháp lý của Chủ tịch UBND đã được tăng cường và đề cao hơn (nếu

so với các Hiến pháp ở thời kỳ trước). Điểm mới khác biệt của Luật Tổ chức

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1994 và 2003 là quy định cụ thể những

vấn đề nhất thiết phải thảo luận tập thể, quyết định theo đa số tại phiên họp của

UBND, những vấn đề khác Chủ tịch UBND có toàn quyền quyết định, hoặc

phân công các Phó Chủ tịch, các thành viên khác UBND thực hiện và chịu trách

nhiệm về các quyết định này. Các cơ quan giúp việc của UBND được tổ chức lại

và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ theo hướng quản lý nhà nước đa ngành, đa

lĩnh vực ở địa phương, phù họp với những điều chỉnh các bộ, ngành trung ương,

số lượng các phòng, ban ở huyện từ 20 đến 27, xuống còn 10 đến 15 đầu mối

20

[02]. Có thể khẳng định, tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện trong thời

kỳ đổi mới đã thể hiện rõ sự linh hoạt trong việc quy định cơ cấu tổ chức và

phương thức tổ chức hoạt động; mô hình tổ chức bộ máy gọn nhẹ, chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể, phù họp với điều kiện thực tiễn. Sự

tiến bộ này đã đóng góp làm cho UBND cấp huyện hoạt động có hiệu quả hơn.

1.2.6. Ủy ban nhân dân huyện theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015

Trước hết, khác với các bản Hiến pháp trước đó, khi tên chương về chính

quyền địa phương dùng cụm từ chỉ 2 cơ quan cụ thể ở chính quyền địa phương

là HĐND và UBND hoặc UBHC, Hiến pháp 2013 sử dụng cụm từ “chính quyền

địa phương” làm tên Chương (Chương IX), đồng thời quy định vị trí, nhiệm vụ,

quyền hạn của chính quyền địa phương. Điều này thể hiện rõ tinh thần mở của

Hiến pháp trong việc đẩy mạnh chủ trương phân cấp, phân quyền giữa địa

phương và các cấp chính quyền địa phương với nhau (Điều 112 Hiến pháp

2013).

Về các cấp đơn vị hành chính: Hiến pháp 2013 không quy định cứng chính

quyền địa phương chỉ có 3 cấp: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã mà còn có các đơn

vị hành chính đặc biệt do Quốc hội quy định (Điều 110,111 Hiến pháp 2013).

Quy định này đã để mở cho việc tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với

từng loại đơn vị hành chính đặc biệt, để phân tách chính quyền đô thị với chính

quyền nông thôn, miền núi, hải đảo,… Điều này là phù hợp với lý thuyết phân

cấp, phân quyền trong khoa học tổ chức Nhà nước nhằm phát huy thế mạnh

vùng, miền và tăng trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã quy định rõ: Ủy ban nhân

dân là cơ quan do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu nên, đây là cơ quan chấp

hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp và là cơ quan hành chính nhà nước tại địa

phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Nhân dân ở địa

phương, đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp

21

trên. Cơ cấu Ủy ban nhân dân gồm có Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và

các Ủy viên UBND; cụ thể số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp do Chính phủ

căn cứ vào Điều 8 của Luật này để quy định. Đối với huyện loại I, Ủy ban nhân

dân cấp huyện có không quá 03 Phó Chủ tịch UBND; đối với huyện loại III và

loại II có không quá 02 Phó Chủ tịch UBND. Chiếu theo quy định này và căn cứ

Quyết định 1841/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2008 về việc phân loại đơn vị

hành chính tỉnh Quảng Nam, thì huyện Tây Giang thuộc đơn vị hành chính loại

II.

Đối với ủy viên Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm có những Ủy viên là

người có chức danh đứng đầu cơ quan đơn vị chuyên môn trực thuộc Ủy ban

nhân dân cấp huyện, 01 Ủy viên phụ trách công an và 01 Ủy viên phụ trách

quân sự.

Như vậy, áp dụng vào Quyết định số 680/QĐ-BNV ngày 18/6/2008 của Bộ

Nội vụ phân loại đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Nam, kết quả,

có 06 đơn vị hành chính loại 1: Thành phố Tam Kỳ, thành phố Hội An, thị xã

Điện Bàn, huyện Thăng Bình, huyện Núi Thành; có 09 đơn vị hành chính cấp

huyện loại 2 gồm: Huyện Duy Xuyên, huyện Quế Sơn, huyện Tiên Phước,

huyện Bắc Trà My, huyện Phước Sơn, huyện Nam Giang, huyện Tây Giang,

huyện Đông Giang; 02 đơn vị hành chính cấp huyện loại 3 gồm: Huyện Hiệp

Đức, huyện Phú Ninh. Thế thì Ủy ban nhân dân huyện Tây Giang được cơ cấu

với số lượng là 01 Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch. Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện

gồm các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân huyện, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. Nhiệm kỳ

của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân theo

nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp (khoản 3, Điều 10 Luật Tổ chức

chính quyền địa phương 2015. Các cơ quan chuyên môn là một bộ phận cấu

22

thành Ủy ban nhân dân huyện. UBND huyện hiện có 13 cơ quan chuyên môn

trực thuộc và được tổ chức trên cơ sở Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng

5 năm 2014; Nghị định 108/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020.

Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang ban hành quyết định về thành lập 13 cơ

quan chuyên môn. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để công

tác tham mưu cấp trên được chủ động. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy

các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND huyện để hoạt động ổn định, hiệu lực,

hiệu quả.

- Cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn: Mỗi cơ quan chuyên môn

được bố trí 01 Trưởng phòng, mỗi phòng có 01 hoặc 02 Phó Trưởng phòng và

công chức chuyên môn (đối với vị trí Phó Trưởng phòng căn cứ số lượng phòng

chuyên môn được thành lập và tổng số lượng Phó Trưởng phòng, Ủy ban nhân

dân cấp huyện quyết định cụ thể số lượng Phó Trưởng phòng của từng phòng

chuyên môn cho phù hợp).

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Trưởng phòng, Phó trưởng phòng do Chủ tịch

UBND huyện quyết định (riêng Chánh Thanh tra huyện phải có văn bản của

Chánh Thanh tra tỉnh Quảng Nam). Văn phòng HĐND&UBND; Phòng Nội vu;

Phòng LĐTB&XH; Phòng Thanh tra huyện; Phòng TC – KH; Phòng Kinh tế-

Hạ tầng; Phòng Tài nguyên-MT; Phòng Tư pháp; Phòng Văn hóa và TT; Phòng

GD&ĐT; Phòng Y tế; Phòng Dân tộc; Phòng NN&PTNT.

1.2.7. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

- Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân huyện quyết định các nội theo quy

định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình Hội đồng nhân dân phê

duyệt:

+ Tham mưu trong việc ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc quyền

hạn và nhiệm vụ của HĐND cấp huyện;

+ Quyết định những biện pháp về việc tổ chức thực thi nhiệm vụ an ninh -

quốc phòng; các biện pháp về đấu tranh phòng chống đối với tội phạm và những

23

hành vi phạm pháp khác; các biện pháp về bảo đảm an ninh TTATXH; biện

pháp về phòng, chống tham nhũng, quan liêu ở phạm vi được phân quyền; biện

pháp về bảo vệ công sản, bảo hộ tính mạng danh dự, nhân phẩm,, tự do, tài sản

và những quyền lợi hợp pháp và chính đáng khác của công dân ở địa bàn huyện

theo luật định.

+ Quyết định các biện pháp nhằm thực hiện quyền hạn và những nhiệm vụ

theo sự phân cấp và được ủy quyền.

+ Quyết định về việc thành lập hay bãi bỏ cơ quan chuyên môn trực thuộc

UBND cấp huyện.

- Quy định về tổ chức bộ máy và quyền hạn, các nhiệm vụ cụ thể của cơ

quan chuyên môn trực thuộc UBND cấp huyện.

- Tổ chức triển khai việc thực hiện ngân sách nhà nước cấp huyện; tổ chức

thực thi các nhiệm vụ phát triển KT-XH, phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch,

công nghiệp - xây dựng, nông - lâm – ngư nghiệp, thủy hải sản, mạng lưới thủy

lợi, giao thông, xây dựng khu/ điểm dân cư nông thôn; quản lý và sử dụng đất,

tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, các nguồn lợi vùng

biển và tài nguyên thiên nhiên khác; bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện theo

luật định.

- Thực hiện những nhiệm vụ bảo đảm trong quá trình thi hành Hiến pháp

và pháp luật, trong lĩnh vực xây dựng chính quyền và địa giới hành chính, lĩnh

vực khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, lao động, văn hóa, thông tin,

thể dục thể thao, chính sách xã hội, hành chính tư pháp, tôn giáo, dân tộc, an

ninh, quốc phòng, TTATXH, bổ trợ tư pháp và những quyền hạn, nhiệm vụ

khác theo luật định.

- Thực hiện quyền hạn và những nhiệm vụ đã được cơ quan nhà nước cấp

trên phân cấp và ủy quyền.

- Tiến hành phân cấp và ủy quyền cho UBND cấp xã và cơ quan, tổ chức

24

khác thực hiện quyền hạn và những nhiệm vụ của UBND cấp huyện.

1.2.8. Các mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân

cấp huyện

Trong hoạt động của mình, UBND huyện giữ mối liên hệ thường xuyên

với UBND tỉnh, các Sở, ngành có liên quan của tỉnh, các cơ quan của Đảng,

HĐND huyện, Viện Kiểm sát Nhân dân, Toà án Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các đoàn thể huyện.

UBND huyện phối hợp chặt chẽ với Thường trực HĐND huyện trong việc

chuẩn bị chương trình, nội dung làm việc của kỳ họp HĐND huyện, các báo

cáo, đề án trình HĐND; giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực

hiện Nghị quyết của HĐND huyện về nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương;

nghiên cứu giải quyết theo thẩm quyền các kiến nghị của HĐND huyện, các

Ban của HĐND huyện; trả lời chất vấn của đại biểu HĐND huyện.

UBND huyện phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các đoàn thể huyện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của

Nhân dân, vận động Nhân dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền vững

mạnh, tự giác thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

UBND huyện có trách nhiệm thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa

phương và có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương

về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

UBND huyện phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân

huyện trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hành vi vi phạm Hiến

pháp và pháp luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương hành chính, tuyên truyền giáo dục

pháp luật; thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội và các chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân

25

dân cấp huyện

1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về mô hình tổ chức chính

quyền địa phương và vị trí, vai trò của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong bộ

máy nhà nước ở nước ta

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 157/2007/NĐ - CP ngày 27/10/2007

về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thi hành nhiệm vụ,

công vụ. Các quy định có tính phân biệt về nhiệm vụ, quyền hạn giữa UBND và

Chủ tịch UBND trong Luật năm 2015, đặc biệt là các quy định về hoạt động của

UBND tại các Điều 121, 122, 123 đã thể hiện tinh thần đó. Tuy nhiên, quy định

này phải được cụ thể hóa trong văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và

trong quy chế làm việc của UBND các cấp nhất là những nội dung liên quan đến

mối quan hệ công tác và trách nhiệm trong hoạt động của các thành viên của

UBND, trong đó, chú trọng chức danh Chủ tịch UBND. Trong thực tế, để khẳng

định được vị trí, vai trò thì Chủ tịch UBND phải là người có năng lực, trình độ,

phẩm chất chính trị cũng như nắm vững chủ trương, đường lối chính sách, pháp

luật của Đảng và Nhà nước, có năng lực quản lý và phẩm chất dám nghĩ, dám

làm, dám chịu trách nhiệm.

1.3.2. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật

Xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy

phạm pháp luật (VBQPPL) theo quy định. Theo đó, sản phẩm của quá trình xây

dựng pháp luật là các VBQPPL, tạo lập hệ thống VBQPPL điều chỉnh tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi nói đến chất lượng xây dựng pháp luật cần nói

đến các tiêu chí đánh giá chất lượng xây dựng pháp luật được quy định tại Hiến

pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-

CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi

hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Đó là các tiêu chí về tính hợp pháp,

hợp lý, tính khả thi, dân chủ, minh bạch và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Để bảo

26

đảm chất lượng xây dựng pháp luật cần có các yếu tố sau đây:

Một là, yếu tố chính trị. Trong xây dựng pháp luật, yếu tố chính trị thể hiện

ở sự ổn định bền vững của thể chế chính trị và môi trường chính trị đã tạo điều

kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của

Đảng; tạo niềm tin của các cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và người

dân đối với Đảng, Nhà nước, từ đó quán triệt, tin tưởng và nghiêm chỉnh thực

hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh đó, bảo đảm mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với

chiến lược xây dựng pháp luật, xây dựng pháp luật cho từng lĩnh vực phải được

đề ra kịp thời, phù hợp yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn quản lý

của Nhà nước, bởi đây là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành các quy định

pháp luật. Mặt khác, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ

thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà

nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân chung tay tham gia

góp ý kiến, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước trong công tác xây dựng

pháp luật. Về ý thức chính trị thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền xây dựng quy phạm pháp luật phải quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ

chính trị của mình, các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát

từng giai đoạn trong quy trình xây dựng pháp luật. Qua đó sẽ giúp cho hoạt

động xây dựng pháp luật đạt chất lượng, hiệu quả cao, góp phần tạo niềm tin,

tạo ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể khác trong quá trình xây dựng

pháp luật. Về sự ảnh hưởng của dân chủ XHCN trong hoạt động xây dựng pháp

luật. Khi xã hội có nền dân chủ rộng rãi, người dân được tiếp cận thông tin đa

dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn

của quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến

của người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến

về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu.

27

Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp

luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ

quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng VBQPPL bảo đảm đáp ứng

yêu cầu từ thực tiễn, phản ảnh được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.

Hai là, yếu tố pháp luật. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, yếu tố pháp luật

được hiểu là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của mỗi quốc gia, đó

là hệ thống pháp luật, các quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp

luật, v.v.. Trong xây dựng pháp luật, sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật đến chất

lượng xây dựng pháp luật thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Hệ thống các quy định của pháp luật về xây dựng pháp luật, như các quy

định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan

nhà nước, trách nhiệm cá nhân có thẩm quyền xây dựng và ban hành VBQPPL.

Ngoài ra, các quy định pháp luật ghi nhận, bảo đảm các quyền tham gia xây

dựng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và người dân. Ở Việt Nam, hoạt động

xây dựng pháp luật phải căn cứ các quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Ban

hành VBQPPL năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trường hợp các

văn bản đó quy định khoa học, lôgíc, chặt chẽ, hợp lý sẽ làm cho quy trình xây

dựng pháp luật được bảo đảm, các quy phạm pháp luật ra đời có tính khả thi,

hợp hiến, hợp pháp..., ngược lại sẽ ảnh hưởng tới chất lượng xây dựng pháp

luật.

- Sự ảnh hưởng của văn hóa pháp luật đối với xây dựng pháp luật thể hiện

thông qua hành vi pháp luật, sự tuân thủ pháp luật của từng chủ thể có thẩm

quyền trong quá trình xây dựng pháp luật, đó là sự nghiêm chỉnh thực hiện

đúng, đủ, kịp thời các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng và ban

hành VBQPPL. Bên cạnh đó, các yếu tố cổ hủ lạc hậu, sự tồn tại tư tưởng thờ ơ

hoặc coi thường pháp luật ở một số nơi, một số người sẽ có tác động tiêu cực tới

hoạt động xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, ý thức, niềm

28

tin của người dân đối với pháp luật, đối với hoạt động của các cơ quan nhà

nước, cá nhân có thẩm quyền cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động

xây dựng pháp luật nói chung và chất lượng xây dựng pháp luật nói riêng.

Ba là, yếu tố nguồn nhân lực (yếu tố con người). Nguồn nhân lực trong xây

dựng pháp luật là các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, gồm:

các cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan có thẩm quyền và các cá nhân

có thẩm quyền xây dựng và ban hành VBQPPL theo quy định. Ngoài ra, các cá

nhân là những đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, các chuyên gia trong từng

lĩnh vực và người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật ở từng giai

đoạn nhất định. Để bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật, các chủ thể trên

phải đáp ứng các yêu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với

từng giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật, như yêu cầu về biên chế và vị

trí việc làm được duyệt, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về tính chuyên

nghiệp, mẫn cán và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mỗi chủ thể v.v..

Bốn là, các yếu tố chi phí lợi ích và cơ sở vật chất. Trong mọi hoạt động

của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều cần có kinh phí và cơ sở vật chất để

tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, các yếu tố này ảnh hưởng lớn tới

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan. Đối với xây dựng pháp luật, yếu

tố kinh phí và cơ sở vật chất có tác động lớn tới chất lượng xây dựng pháp luật

của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền bởi nếu kinh phí, cơ sở vật

chất không đủ, không phù hợp thì các chủ thể có thẩm quyền khó có thể bảo

đảm tiến độ triển khai nhiệm vụ, cũng như các cơ quan, tổ chức và người dân

khó có thể thực hiện quyền tham gia xây dựng pháp luật theo quy định. Riêng

huyện miền núi nói về đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật

phục công tác của UBND huyện còn thiếu thốn, điện lưới quốc gia một số xã

chưa được hạ thế, mạng internet có lúc chập chờn, sóng điện thoại di động có

29

nơi chưa phủ sóng.

Tiểu kết chương 1

Như vậy, có thể thấy, chế định chính quyền địa phương qua các bản Hiến

pháp Việt Nam từ năm 1946 cho tới nay luôn có sự kế thừa tinh thần lập hiến

của các bản Hiến pháp trước đó, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và chọn lọc tinh

hoa lập hiến của thế giới đã xây dựng được khung pháp lý nền tảng cho hoạt

động của chính quyền địa phương đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì

Nhân dân. Tuy nhiên, qua phân tích cho thấy một số bất cập đó là: Hoạt động

của Hội đồng nhân dân cấp huyện có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả hoạt

động chưa cao; chất lượng đại biểu có mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu

cầu. Cơ cấu đại biểu chưa hợp lý, còn nhiều người đứng đầu cơ quan hành chính

nhà nước tham gia hội đồng nhân dân. Số lượng cấp phó còn nhiều, tỷ lệ người

phục vụ ở bộ phận văn phòng còn cao. Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ

cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt yêu cầu đề ra. Cải cách

hành chính còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục hành chính trong một số

lĩnh vực còn rườm rà, chậm được khắc phục, nhất là đối với người dân và doanh

30

nghiệp.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN

DÂN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Các yếu tố đặc thù của huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam có ảnh

hưởng đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội

31

Hình 2.1. Bản đồ Huyện Tây Giang

Huyện Tây Giang nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Nam, cách Thành

phố Tam kỳ khoảng 180Km, cách Thành phố Đà Nẵng 125 Km. Là huyện miền

núi, vùng sâu, vùng xa, được tái lập theo Nghị định 72/2003/CP, ngày 20/6/2003

của Chính phủ.

Huyện Tây Giang có vị trí địa lý từ 15045’ đến 16005’ độ vĩ Bắc, từ

107005’ đến 107035’ độ kinh Đông; phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía

Nam giáp huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, phía Tây giáp tỉnh Xê Kông

nước Lào, phía Đông giáp Huyện Đông Giang

Về tổ chức hành chính, đến nay huyện có 10 xã: Axan, Ga ri, Tr’hy,

Ch’ơm, Bhalê, Lăng, Avương, Anông, Atiêng, Dang. Dân số bình quân 18.520

người, đa số là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 93,64%, dân tộc kinh là

chiếm tỷ lệ 6,17%, còn lại là các đồng bào dân tộc thiểu số khác.

Huyện Tây Giang là huyện nghèo trong 63 huyện nghèo trên toàn quốc, là

huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt

khó khăn, có 08 xã biên giới giáp với Lào, Nhân dân ở đây đa số là người đồng

bào dân tộc thiểu số (Cơtu) chiếm triên 93% dân số toàn huyện, đa số người dân

sinh sống và phát triển kinh tế từ nông, lâm nghiệp, làm nương rẫy, tỷ lệ hộ

nghèo còn cao, đa số dựa vào sự trợ cấp từ nhà nước, riêng chính sách an sinh

xã hội về chăm sóc sức khỏe cho người dân được ngân sách nhà nước hỗ trợ

100% và chiếm 80%-96% dân số được cấp thẻ BHYT để được chăm sóc sức

khỏe ban đầu và Khám chữa bệnh.

Huyện Tây Giang có tổng diện tích tự nhiên là 91.368 ha (năm 2017).

Diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỉ lệ lớn nhất (77,02%). Sau đó là đất sản xuất

nông nghiệp là 12,18 % còn lại đất khác cho thấy có tiềm năng về bảo vệ và cải

thiện môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái trên địa bàn huyện nói riêng,

toàn tỉnh nói chung. Hiện nay, huyện đang tập trung khai thác hiệu quả tiềm

năng, thế mạnh của miền núi và huy động hiệu quả các nguồn lực để phát triển

32

toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội. Ưu tiên tập trung triển khai thực hiện việc

bố trí, sắp xếp dân cư, phát triển sản xuất gắn với quy hoạch, xây dựng nông

thôn mới; tăng cường cải thiện sinh kế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho

người dân miền núi gắn với giảm nghèo bền vững, bảo vệ rừng, môi trường sinh

thái, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.

Phấn đấu đến năm 2020, các huyện miền núi đạt được các chỉ tiêu chủ yếu

về kinh tế - xã hội đảm bảo theo mục tiêu Nghị quyết số 12/2017/NQ-HĐND

ngày 19/4/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam đã đề ra.

Tại huyện Tây Giang, các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Cơtu

được chú trọng; sưu tầm, hoàn thiện bộ chữ viết Cơtu và tổ chức dạy tiếng Cơtu

cho cán bộ, giáo viên; phục dựng và tổ chức thường niên Lễ khai năm tạ ơn

rừng; tăng cường các hoạt động giao lưu, quảng bá văn hóa, khảo sát, tôn tạo, đề

nghị công nhận các di tích lịch sử văn hóa, các danh lam thắng cảnh, di tích văn

hóa vật thể và phi vật thể, Tham gia Ngày hội văn hóa các dân tộc miền Trung

tại tỉnh Nghệ An và các hoạt động nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng tám

và Ngày truyền thống ngành Văn hóa tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc

Việt Nam; đăng cai tổ chức Ngày hội trình diễn nghi thức dựng cây Nêu và giao

lưu văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trong chương trình Festival Di sản

Quảng Nam lần thứ VI-2017; tham gia chương trình “Đêm văn hóa Cơtu” tại

thành phố Hội An. “Điệu múa Tân’tung Da’dă” và nghề “Dệt thổ cẩm của người

Cơtu”, “Nói lý, hát lý của người Cơtu” đã được Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL

chứng nhận và được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;

Làng truyền thống Cơtu huyện đã được Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam

chứng nhận là địa danh có giá trị lịch sử, văn hóa và giáo dục truyền thống;

Đường mòn Hồ Chí Minh đoạn qua huyện được công nhận là di tích cấp quốc

gia đặc biệt. Toàn huyện có 1.598 cây được công nhận là cây di sản gồm: 1.146

cây Pơmu, 16 cây đa sộp, 01 cây dỗi, 435 cây đỗ quyên... Phong trào “Toàn dân

33

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thực hiện thường xuyên, hiệu quả; cơ sở

vật chất từng bước hoàn thiện, phục vụ tốt các hoạt động văn hóa ở cơ sở, cơ

bản đáp ứng đời sống tinh thần của Nhân dân.

2.1.2. Hệ thống chính trị huyện Tây Giang

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức có chuyển biến

tích cực. Phương thức lãnh đạo của Huyện ủy, các cấp ủy đảng tiếp tục đổi mới.

Việc học tập, quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện các nghị

quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng triển khai kịp thời, nội dung cơ bản phù hợp

với tình hình thực tiễn, đảm bảo chuyển tải đầy đủ chủ trương, định hướng của

Đảng đến với đảng viên và Nhân dân. Thực hiện thường xuyên, chặt chẽ việc

rèn luyện, nâng cao chất lượng đảng viên, ngăn ngừa, đấu tranh chống các biểu

hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa” trong nội bộ; chủ động theo dõi, nắm bắt và giải quyết kịp thời vấn đề tư

tưởng đảng viên, dư luận xã hội, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng

viên, tình hình tư tưởng trong Đảng và trong Nhân dân ổn định, không có điểm

nóng xảy ra.

Công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ đạt kết quả khá tốt; tỷ lệ tổ

chức cơ sở đảng và đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm ở mức

cao (bình quân 92,15%); kết nạp đảng vượt chỉ tiêu, các hoạt động nghiệp vụ

đảng viên đảm bảo quy định. Công tác củng cố, kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng,

nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thực hiện thường xuyên, kịp thời, đến nay

toàn đảng bộ huyện có 47 TCCS đảng với 2.015 đảng viên[28]. Chủ động sáp

nhập các cơ quan, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ tương đồng và chia tách, sáp

nhập, đổi tên thôn gắn với củng cố các chức danh ở thôn . Công tác quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt nhiều kết quả, chất lượng cán bộ, công chức được

nâng lên, trưởng thành nhiều mặt, nhất là cán bộ người Cơtu . Công tác điều

động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy hoạch, đa số phát huy

34

vai trò nhiệm vụ được giao.

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng từng bước đi vào nền nếp, thực

hiện đảm bảo quy định Điều lệ Đảng; cấp ủy kiểm tra 113 tổ chức đảng và 259

đảng viên, giám sát 68 tổ chức đảng và 115 đảng viên; UBKT kiểm tra khi có

dấu hiệu vi phạm 06 tổ chức, 09 đảng viên, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm

tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong đảng 78 tổ chức đảng, kiểm tra tài chính

đảng 62 tổ chức đảng, giám sát chuyên đề 49 tổ chức đảng, 142 đảng viên; xử lý

kỷ luật 36 đảng viên vi phạm[28]. Ban Thường vụ Huyện ủy kịp thời ban hành

05 Quy chế phối hợp về kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; Quy định

về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện cấp ủy các cấp

trong huyện quản lý; sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của UBKT Huyện uỷ;

ban hành Quy trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cho cấp ủy, UBKT cơ sở,

góp phần quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời chấn chỉnh, xử lý những

trường hợp vi phạm, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Công tác dân vận của Đảng tiếp tục thực hiện theo chiều sâu, nhất là vận

động, tuyên truyền người dân tham gia xây dựng nông thôn mới, giải phóng mặt

bằng sắp xếp dân cư, sắp xếp thôn; dân chủ cơ sở cơ bản phát huy, những bức

xúc trong dân được tập trung vận động, tuyên truyền, không phát sinh đơn thư

khiếu kiện đông người, không có cơ quan, đơn vị mất đoàn kết nội bộ.

Hoạt động HĐND các cấp đi vào nền nếp, đúng luật, chất lượng ban hành

nghị quyết ngày càng tăng; đại biểu HĐND phát huy vai trò, trách nhiệm trong

tiếp xúc cử tri, thực hiện hoạt động giám sát, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử

tri.

Công tác quản lý, điều hành của UBND các cấp có chuyển biến tích cực;

hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước từng bước nâng cao; triển khai tốt nhiệm vụ

trên các lĩnh vực, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng luôn

đảm bảo, giải quyết kịp thời những nhiệm vụ phát sinh.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung,

35

phương thức hoạt động theo hướng sát cơ sở, bám sát các nhiệm vụ chính trị để

tuyên truyền, vận động; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu ý kiến Nhân

dân. Chức năng giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng,

chính quyền bước đầu triển khai có hiệu quả, đúng quy định. Qua Đại hội hết

nhiệm kỳ Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể trong huyện đã củng

cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được

giao.

2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện Tây

Giang, tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Tình hình cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang

Số lượng, cơ cấu, chất lượng thành viên UBND cấp huyện, cấp xã được

thực hiện đúng quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày

19/6/2015; Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính phủ về

Quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn

nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên UBND. Cụ thể:

* Cấp huyện[60]:

- Chức danh Chủ tịch: 01 đồng chí, kiêm Phó Bí thư đảng bộ huyện, tuổi từ

35-50, trình độ chuyên môn sau đại học và cao cấp lý luận chính trị.

- Phó Chủ tịch: 02 đồng chí, được tái cử sau nhiệm kỳ trước, tuổi từ 35-50,

trình độ chuyên môn sau đại học và đã qua đào tạo lý luận cao cấp chính trị

- Thành viên ủy ban nhân dân: 13 đồng chí trong đó nữ 01 đồng chí, các

đồng chí trong thành viên được tái cử nhiệm kỳ trước 03 đồng chí, trình độ Đại

học 11 đồng chí, sau đại học 02 đồng chí, Trình độ cao cấp chính trị: 13 đồng

chí.

* Cấp xã[60]:

- Chức danh chủ tịch: 10 thành viên là người dân tộc thiểu số (trong đó nữ

01 đồng chí), cao cấp lý luận chính trị: 02 đồng chí, Trung cấp lý luận chính trị

36

08 đồng chí.

- Phó chủ tịch: 18 đồng chí (người dân tộc thiểu số: 17, nữ 06 đồng chí),

trình độ chuyên môn đại học 17 đồng chí, sau đại học 01 đồng chí. Trung cấp lý

luận chính trị 18 đồng chí.

- Thành viên Ủy viên ủy ban nhân dân: 18 đồng chí trong đó người dân tộc

thiểu số là 15 đồng chí, trình độ chuyên môn đại học 14 đồng chí, cao đẳng 04

đồng chí, trung cấp lý luận chính trị 18 đồng chí

Những đồng chí này về tuổi đời chủ yếu ở tuổi từ 35-50 tuổi và đã qua

trình độ chuyên môn đại học và sau đại đọc trở lên.

Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và các chức

danh chuyên môn của UBND cấp xã

Hiện nay UBND huyện có 13 cơ quan chuyên môn trực thuộc, được tổ

chức thực hiện theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính

phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh; Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của

Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày

05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương.

Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang ban hành quyết định về thành lập 13 cơ

quan chuyên môn. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để công

tác tham mưu cấp trên được chủ động. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy

các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND huyện để hoạt động ổn định, hiệu lực,

hiệu quả.

Cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn: Mỗi cơ quan chuyên môn

được bố trí 01 Trưởng phòng, mỗi phòng có 01 hoặc 02 Phó Trưởng phòng và

công chức chuyên môn (đối với vị trí Phó Trưởng phòng căn cứ số lượng phòng

37

chuyên môn được thành lập và tổng số lượng Phó Trưởng phòng, Ủy ban nhân

dân cấp huyện quyết định cụ thể số lượng Phó Trưởng phòng của từng phòng

chuyên môn cho phù hợp).

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Trưởng phòng, Phó trưởng phòng do Chủ tịch

UBND huyện quyết định (riêng Chánh Thanh tra huyện phải có văn bản của

Chánh Thanh tra tỉnh Quảng Nam).

Việc bố trí các chức danh chuyên môn ở xã được thực hiện theo quy định

tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh,

số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị

trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Thông tư số

13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn một số quy

định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã, ở thôn, tổ dân phố.

2.2.2. Tình hình xây dựng và xử lý các mối quan hệ trong quá trình tổ

chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang

Từ đầu nhiệm kỳ, UBND huyện đã kịp thời ban hành Quy chế làm việc; và

mọi hoạt động của UBND huyện đã được thực hiện nghiêm túc theo Quy chế

này. Cũng theo Quy chế làm việc hiện hành của UBND huyện Tây Giang về cơ

bản đã được thực hiện đúng theo Luật định, không chồng chéo trong điều hành

và chỉ đạo; qua đó đã góp phần phân định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của

UBND huyện và Chủ tịch UBND cùng cấp. Mặt khác, việc phân công thành

viên phụ trách các lĩnh vực, nội dung rõ ràng, Ủy viên UBND hiện nay là người

đứng đầu các cơ quan chuyên môn trực thuộc, Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự

và Trưởng Công an huyện để đảm bảo nguyên tắc làm việc tập thể của UBND

bao quát tất cả các lĩnh vực chuyên môn. Hơn nữa, UBND huyện Tây Giang đã

chú trọng hơn về việc xây dựng chương trình công tác một cách cụ thể và đưa ra

tập thể UBND huyện bàn bạc quyết định để triển khai thực hiện cũng như tiến

hành tổ chức đánh giá kết quả đã đạt được, kiểm điểm những vấn đề còn tồn tại

38

để rút kinh nghiệm. Nhờ vậy, công tác điều hành hoạt động của UBND huyện

Tây Giang được thuận tiện. Đồng thời tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND

với UBND cùng cấp thông qua cơ chế tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với

thành viên UBND.

Trong công tác điều hành của UBND huyện đã có tính chủ động, sáng tạo

và năng động, khi có những công việc đột xuất đã kịp thời có kế hoạch triển

khai thực hiện. Đề xuất với UBND tỉnh và các ngành chức năng của tỉnh giúp

huyện tháo gỡ khó khăn trong chỉ đạo phát triển kinh tế, xã hội ngoài thẩm

quyền của huyện; góp ý để khắc phục, sửa đổi những tồn tại, hạn chế phát sinh

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhờ đó, công tác chỉ đạo điều hành của

UBND huyện Tây Giang trong phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng

trên địa bàn huyện một cách toàn diện và đồng bộ. Chủ động và phối hợp lập

nhiều dự án cơ hội để đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; quan hệ rộng rãi với các

tổ chức phi Chính phủ nước ngoài để đầu tư được nhiều công trình phục vụ dân

sinh, đem lại kết quả thiết thực. Đẩy mạnh phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp

như các loại dược liệu (ba kích, đảng sâm, táo mèo …) mang lại hiệu quả kinh

tế cao góp phần ổn định đời sống người dân và khẳng định được thương hiệu

riêng của huyện nhà.

Kết quả thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ qua cụ thể như sau:

2.2.2.1.Về công tác cải cách hành chính, phân cấp quản lý hành chính và

thực hiện quy chế làm việc của UBND các cấp

Thực hiện triển khai, quán triệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính

Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của

tỉnh ở từng thời điểm đều được các cơ quan, đơn vị, địa phương ngành thực hiện

nghiêm túc, kịp thời và đạt được kết quả tích cực. Hầu hết các xã, thủ trưởng các

cấp, các ngành đều nhận thức rõ hơn về mục đích ý nghĩa, vai trò, nhiệm vụ và

tầm quan trọng của công tác cải cách hành chính. Thông qua đó, đã giúp đội ngũ

cán bộ, công chức nắm vững 07 nội dung cải cách hành chính trong thực thi

39

nhiệm vụ có chuyển biến hơn, từng cán bộ, công chức đã có sự nỗ lực phấn đấu

đổi mới phương pháp, lề lối làm việc, không ngừng học tập nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong thực

hiện cải cách hành chính, mức độ hài lòng của tổ chức, công dân, doanh nghiệp

được nâng cao.

* Cải cách thể chế:

Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền: không có

văn bản trái pháp luật; số văn bản được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi

bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát: 06 văn bản. Công bố văn bản quy phạm pháp

luật hết hiệu lực, ngưng hiệu lực theo định kỳ hằng năm: 21 văn bản.

Tình hình theo dõi thi hành pháp luật theo lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư

pháp; các hoạt động về thu thập, thông tin về tình hình thi hành pháp luật; hoạt

động kiểm tra liên ngành về tình hình thi hành pháp luật; điều tra, khảo sát tình

hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm: Ủy ban nhân dân huyện triển

khai thực hiện tốt việc đăng tải kết quả hệ thống hóa văn bản lên Cổng thông tin

điện tử của huyện. Thực hiện niêm yết Danh mục văn bản hết hiệu lực, ngưng

hiệu lực ở cấp huyện và xã tại trụ sở cơ quan.

Hằng năm UBND huyện kiểm tra, theo dõi chung tình hình thi hành văn

bản quy phạm pháp luật trên địa bàn huyện. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ

về theo dõi thi hành pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý đối với cơ quan chuyên

môn thuộc UBND huyện và công chức chuyên môn UBND các xã.

Thường xuyên chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện theo

dõi các hoạt động về thu thập, thông tin, kiểm tra liên ngành về tình hình thi

hành pháp luật; điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực

trọng tâm trên địa bàn huyện để tổng hợp, báo cáo tình hình thi hành văn bản

quy phạm pháp luật và kiến nghị các biện pháp giải quyết những khó khăn,

vướng mắc trong thi hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn huyện.

40

* Cải cách thủ tục hành chính:

Việc tổ chức giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa

liên thông chuyển biến ngày càng tích cực, có 02/10 xã đã rà soát, ban hành các

văn bản kiện toàn tổ chức và quy chế hoạt động của Bộ phận Một cửa theo quy

định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ để triển khai thực hiện.

Đến cuối năm 2019, 10 xã triển khai thành lập Một văn phòng giúp việc chung

cho HĐND, UBND cấp xã. Thường xuyên rà soát, cập nhật niêm yết công khai

Danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết, danh mục thủ tục

hành chính tiếp nhận tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả huyện, xã và tại các

cơ quan, đơn vị.

Hàng năm, ban hành Kế hoạch rà soát thủ tục hành chính thuộc thẩm

quyền giải quyết của cấp huyện và cấp xã, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ

quan, đơn vị chủ trì và phối hợp thực hiện, báo cáo theo quy định. Đồng thời,

chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn, UBND các xã xây dựng kế hoạch lựa chọn

các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết gây vướng mắc, bất cập

trong quá trình triển khai thực hiện để đề nghị cấp có thẩm quyền thực hiện đơn

giản hóa thủ tục hành chính. Kết quả rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính

hàng năm được UBND huyện báo cáo định kỳ theo quy định.

Tất cả các Quyết định công bố Danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm

quyền giải quyết của cấp huyện, cấp xã đều được cập nhật và đăng tải trên Cổng

thông tin điện tử huyện để tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị, địa phương

khai thác, áp dụng kịp thời. Hình thức công khai được các đơn vị thực hiện phù

hợp với điều kiện cụ thể của từng cơ quan, đơn vị, địa phương như: Niêm yết tại

Bộ phận Một cửa, tại cơ quan, đơn vị và trên Cổng thông tin điện tử huyện.

UBND huyện đã triển khai thực hiện cung ứng dịch vụ công mức độ 3, 4 bằng

nhiều giải pháp hiệu quả: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho tổ chức, công

dân trên địa bàn biết về sự thuận lợi và tiết kiệm chi phí khi tham gia dịch vụ

công trực tuyến; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của

41

cơ quan hành chính Nhà nước; tổ chức, quản lý, đưa vào sử dụng phần mềm xử

lý hồ sơ Một cửa điện tử, phần mềm quản lý văn bản để trao đổi thông tin, kết

nối liên thông từ cấp xã đến cấp huyện và tỉnh; thực hiện tích hợp vào phần

mềm quản lý văn bản và điều hành để thực hiện ký số phục vụ trao đổi liên

thông văn bản giữa các cơ quan, đơn vị trên môi trường mạng.

Nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, UBND huyện đã chỉ đạo Văn

phòng HĐND&UBND huyện phối hợp với các phòng, ban ngành có thủ tục

hành chính thực hiện tiếp nhận qua Bưu chính công ích, tăng cường tuyên

truyền các văn bản quy định và Danh mục thủ tục hành chính thực hiện qua dịch

vụ Bưu chính công ích. Bên cạnh đó, UBND huyện đăng tải công khai các thủ

tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết trên Cổng thông tin điện tử huyện,

tuyên truyền, khuyến khích người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ công trực

tuyến mức độ 3, 4 trong giải quyết thủ tục hành chính.

* Cải cách tổ chức bộ máy hành chính:

Triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Nghị định số

37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan

chuyên môn trực thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh;

Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ

quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Kế hoạch số 2275/KH-

UBND ngày 07/5/2018 của UBND tỉnh về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ

máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực; Kế hoạch số 2276/KH-

UBND ngày 07/5/2018 của UBND tỉnh về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,

nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị

định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Nghị quyết số 42/NĐ-HĐND ngày 06/12/2018 của

42

HĐND tỉnh Quảng Nam về thành lập, đổi tên thôn, tổ dân phố thuộc các xã,

phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh và Quyết định số 179/QĐ-UBND ngày

18/01/2019 của UBND tỉnh về thành lập, đổi tên thôn, tổ dân phố thuộc các xã,

phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Huyện Tây Giang[60] đã chỉ đạo tổ chức sắp xếp các cơ quan chuyên môn

huyện còn 13 phòng chuyên môn, 04 đơn vị sự nghiệp công lập (giảm 04 đơn

vị), 04 hội đặc thù (giảm 01 hội); sắp xếp, tổ chức lại 25 thôn để thành lập 14

thôn, đổi tên 21 thôn. Sau khi sắp xếp, tổ chức lại huyện Tây Giang có 10 xã/63

thôn. Công tác theo dõi, quản lý và sử dụng biên chế được thực hiện theo đúng

quy định tỉnh giao, từ năm 2015 - 2018 biên chế hành chính, gồm: 100 chỉ tiêu;

năm 2019: 93 chỉ tiêu; năm 2020 còn 92 chỉ tiêu. Tính đến năm 2019, biên chế

viên chức sự nghiệp: 569 chỉ tiêu.

Tình hình triển khai thực hiện Quy chế làm việc; thực hiện Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015: Ủy ban nhân dân huyện triển khai, thực hiện

các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Luật. Ủy ban nhân dân cấp huyện,

cấp xã ban hành Quy chế làm việc nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2021

đảm bảo theo quy định.

* Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức:

Về cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc làm: Ủy ban nhân dân

huyện đã hoàn thành xây dựng và triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm và

cơ cấu công chức trong cơ quan hành chính theo Quyết định số 2804/QĐ-

UBND ngày 17/9/2018 về phê duyệt Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công

chức của Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố.

Việc xác định vị trí việc làm và cơ cấu viên chức được thực hiện theo đúng

quy định tại Thông tư số 14/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 của Bộ Nội vụ.

Nội dung Đề án thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị định số 41/2012/NĐ-CP

ngày 08/5/2012 quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập;

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn

43

vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy định

cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số

141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp

công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.

Việc thực hiện công tác tuyển dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức

đúng quy định hiện hành.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ,

công chức, đạo đức nghề nghiệp của viên chức.

* Cải cách tài chính công:

Các chính sách về thuế được công khai, minh bạch, Kinh phí tiền lương,

phụ cấp, các khoản đóng góp và kinh phí chi thường xuyên của cán bộ, công

chức, viên chức, người lao động phân bổ theo định mức khác nhau, phù hợp cho

từng đối tượng. Dự toán kinh phí của các cơ quan, đơn vị, địa phương được

phân bổ trên các phần mềm nhanh, kịp thời, chính xác, giúp kiểm soát và điều

hành linh hoạt. Đến nay, huyện có 13/13 phòng chuyên môn 10/10 đơn vị hành

chính cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và

Nghị định số 117/2013/NĐ-CP của Chính phủ; 04/04 đơn vị sự nghiệp công lập

tự chủ theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ.

Tăng cường đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động toàn xã hội

chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình, thể

dục, thể thao.

Đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo

hình thức công - tư (PPP) đối với việc cung cấp dịch vụ công trong y tế, giáo

dục, đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng.

Tích cực triển khai thực hiện các quy hoạch chiến lược, thu hút đầu tư để

phát triển hạ tầng, kỹ thuật, y tế, giáo dục; trùng tu, tôn tạo phát huy giá trị di

sản hiện có.

44

* Về hiện đại hóa hành chính:

Để thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt

động công vụ, hàng năm UBND huyện đều ban hành Kế hoạch ứng dụng công

nghệ thông tin. Hiện nay, tất cả các văn bản đều được các cơ quan, đơn vị, địa

phương cập nhật trên phần mềm Q-Office để trao đổi, thông tin.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, trong những năm qua, huyện đã

quan tâm đầu tư cơ sở, vật chất và trang bị phục vụ làm việc cho cán bộ, công

chức, viên chức nhất là hệ thống thiết bị vi tính để tác nghiệp chuyên môn. Hạ

tầng kỹ thuật công nghệ thông tin được đầu tư, đáp ứng nhu cầu công vụ, như:

hệ thống wifi interrnet tốc độ cao.

Số đơn vị có mạng WAN, LAN, số đơn vị kết nối vào mạng truyền số liệu

chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước: 24 cơ quan, đơn vị, địa phương

có mạng nội bộ (LAN), mạng WAN đường truyền số liệu chuyên dùng có chức

năng truyền lửa để bảo vệ an toàn mạng thông tin; 10% máy tính được kết nối

Internet, 100% cán bộ, công chức, viên chức được trang bị máy tính phục vụ

công việc.

Số lượng chữ ký số được cấp cho cán bộ, công chức: Tổng số chữ ký số do

Sở Thông tin và Truyền thông cấp là: 87 chữ ký số.

Cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh

nghiệp, đặc biệt là cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4:

Huyện đã triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4

nhưng số lượng dịch vụ trực tuyến còn ít.

2.2.2.2. Về công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của UBND cấp dưới

UBND huyện thường xuyên chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện

kiểm tra, giám sát theo từng lĩnh vực được giao. Tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị trong công tác phòng, chống

tham nhũng. Chỉ đạo Thanh tra huyện tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra, nếu

phát hiện sai phạm sẽ tiến hành xử lý, chấn chỉnh theo quy định. Hằng năm, đều

45

triển khai thực hiện kê khai và báo cáo kết quả kê khai tài sản thu nhập.

Qua công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần khắc phục kịp thời một số hạn

chế, yếu kém; từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng sai phạm,

nhũng nhiễu trong công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực. Củng cố niềm

tin cho Nhân dân, hạn chế tối đa những sai phạm của lãnh đạo góp phần xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, chính quyền địa

phương ngày càng được củng cố và phát huy vai trò.

2.2.3. Một số kết quả kinh tế - chính trị - xã hội huyện đã đạt được

2.2.3.1. Về kinh tế

Tổng giá trị sản xuất bình quân hằng năm tăng 8,39%/năm (tính theo giá so

sánh năm 2010), đạt 93,42%; trong đó: nông-lâm nghiệp tăng 8,50%; công

nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng 14,17%; thương mại-dịch vụ tăng

5,55%.[28]

Tổng thu phát sinh kinh tế trên địa bàn là 118.574,87 triệu đồng, đạt

148,2%; trong đó: thu nội địa là 118.134 triệu đồng, thu để lại quản lý qua ngân

sách là 4.500 triệu đồng.[28]

Nông-lâm nghiệp, dược liệu, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương

mại-dịch vụ, cơ sở hạ tầng được chú trọng đầu tư. Khoa học công nghệ tiếp tục

quan tâm thực hiện, từng bước đưa ứng dụng vào công tác và lao động sản xuất,

góp phần nâng cao chất lượng công việc, tăng năng suất cây trồng, con vật nuôi.

Nông nghiệp, lâm nghiệp, dược liệu tiếp tục được xác định là lĩnh vực chủ

lực, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế của huyện. Một số xã triển khai

trồng cây ăn quả, chăn nuôi tập trung, mở ra hướng phát triển mới cho ngành

nông nghiệp của huyện. Trong nhiệm kỳ 2016-2021[28], đã tập trung đầu tư hỗ

trợ sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường khuyến nông,

khuyến lâm, chuyển giao khoa học-kỹ thuật; diện tích lúa nước tiếp tục duy trì,

năng suất tăng (tổng sản lượng lương thực có hạt bình quân hằng năm 4.039,48

tấn, đạt 75,83%; tổng đàn gia súc bình quân hằng năm 9.976 con, đạt 76,74%).

46

Đặc biệt huyện phát triển mạnh cây dược liệu bản địa (ba kích, đảng sâm); hiện

trồng mới 364,30ha bakích, đạt 121,43%; 494,55ha đảng sâm, đạt 98,91%;

2.110,85 ha nguyên liệu giấy, đạt 131,93%; một số sản phẩm nông nghiệp đặc

trưng, mang thương hiệu Tây Giang, có sức cạnh tranh trên thị trường hình

thành. Có 5 sản phẩm từ dược liệu tham gia OCOP đạt chuẩn theo quy định: 02

sản phẩm đạt 4 sao (Cao đảng sâm, trà túi lọc đảng sâm), 03 sản phẩm đạt 3 sao

(02 sản phẩm rượu, 01 sản phẩm măng điền trúc sấy khô).

Tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống tiếp tục đầu tư, khôi phục,

từng bước phát triển; hoàn thành hồ sơ pháp lý cụm công nghiệp chế biến mủ

cao su tại thôn Achiing, xã Atiêng, với 6,0ha và cụm công nghiệp tại xã Bhalêê

với diện tích khoảng 2,0ha. Thương mại-dịch vụ có bước phát triển mới, hệ

thống chợ nông thôn, cơ sở dịch vụ, buôn bán lẻ cơ bản đáp ứng nhu cầu mua

sắm, tiêu dùng của Nhân dân. Kinh tế HTX được tập trung chỉ đạo, hình thành

09 HTX (gồm 8 HTX nông nghiệp và 01 HTX du lịch dịch vụ), góp phần phát

triển thương mại dịch vụ, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

Mạng lưới thông tin liên lạc cơ bản phủ khắp địa bàn, tạo điều kiện phục

vụ nhiệm vụ chính trị, giúp người dân tiếp cận khoa học, kỹ thuật, nâng cao đời

sống tinh thần 10 xã có sóng di động; 01 Bưu điện huyện và 01 điểm Bưu điện

xã; 03 trạm phát sóng truyền hình, 06 trạm truyền thanh không dây. Dịch vụ tài

chính, tín dụng hoạt động ổn định, đáp ứng nhu cầu giao dịch và cho vay, tổng

dư nợ đạt 332.387,3 triệu đồng, tăng bình quân 17,23%. Chi nhánh Ngân hàng

NN&PTNT huyện: 190.000 triệu đồng, tăng bình quân 21,41%; Phòng Giao

dịch Ngân hành chính sách xã hội huyện: 142.387,3 triệu đồng, tăng bình quân

hằng năm 12,76%.

Lĩnh vực xúc tiến đầu tư, phát triển du lịch thực hiện thường xuyên, nhất là

công tác khảo sát, quy hoạch; kêu gọi, liên kết hình thành các sản phẩm du lịch;

tổ chức hoạt động văn hóa để quảng bá, thu hút du khách, đến nay một số điểm

47

du lịch cơ bản hình thành, tạo điểm nhấn cho huyện, lượng du khách đến huyện

tăng dần qua các năm. Tổng khách 05 năm: hơn 44.400 lượt (Năm 2015: 1.700

lượt; năm 2016: 8.000 lượt; năm 2017: 10.000 lượt; năm 2018: 11.850 lượt;

năm 2019: 12.850 lượt).

Cơ sở hạ tầng được tập trung đầu tư, hoàn thành bê tông hóa giao thông

liên xã; cơ bản hoàn thành giao thông liên thôn; các thôn đều có mặt bằng bố trí

dân cư ổn định gắn với sản xuất, hợp văn hóa truyền thống Cơtu, đến năm 2020:

10/10 xã có đường ô tô đến xã được thảm nhựa hoặc bê tông; và 62/63 thôn có

đường ôtô đi được bốn mùa đạt 98,41%, với tổng chiều dài 456,7km (trừ thôn

A’ur thuộc xã Avương chưa có đường ô tô đi lại), trong đó có 264,5 km được

cứng hóa; san ủi 115 điểm dân cư, với tổng diện tích gần 370,50ha và từng bước

chỉnh trang, mở rộng phù hợp nhu cầu phát triển. Hiện có 63/63 thôn (115 điểm

dân cư) có mặt bằng ổn định; 5.018/5.075 hộ dân (98,93%) sử dụng điện sinh

hoạt ổn định (87,58% sử dụng điện lưới quốc gia, 11,35% sử dụng điện khác).

Hạ tầng công nghệ thông tin được đầu tư cơ bản; triển khai ứng dụng công

nghệ thông tin trong cải cách hành chính, hoạt động của các cơ quan, đơn vị;

10/10 xã đều sử dụng điện lưới, có mạng internet, trang bị máy vi tính, máy in

phục vụ công việc.

2.2.3.2. Về xã hội

Chất lượng giáo dục, đào tạo từng bước nâng lên, tỷ lệ học sinh khá, giỏi

ngày càng tăng, học sinh đỗ tốt nghiệp THPT hằng năm đều ở mức cao; đội ngũ

cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên tăng lên về chất lượng, cơ bản đảm bảo số

lượng. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục huyện: 591

người (Phòng GD&ĐT được giao: 09; viên chức sự nghiệp giáo dục: 516 người;

Trường THPT Tây Giang: 39 người; Trường THPT Võ Chí Công: 27 người).

Mạng lưới trường, lớp học tiếp tục đầu tư, nâng cấp, sắp xếp cơ bản hợp lý; toàn

huyện có 23 trường (02 trường THPT thuộc tỉnh; 21 trường thuộc huyện) trong

số 21 trường thuộc huyện có 9 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ I, 01 trường

48

đạt chuẩn Quốc gia mức độ II, 9 trường đạt chuẩn về cơ sở vật chất, 9 trường

đạt chuẩn Quốc gia mức độ I: TH Anông, TH Atiêng, MN Atiêng, TH Axan,

MN xã Lăng, PTDTNT THCS huyện, THCSBT Nguyễn Bá Ngọc, TH Avương,

TH xã Lăng. 9 trường đạt chuẩn về cơ sở vật chất: TH Anông, TH Axan, TH

Atiêng, MN Atiêng, MN Lăng, PTDTNT THCS huyện, TH Lăng, THCSBT

Nguyễn Bá Ngọc, TH Avương.Tổng nguồn vốn ngân sách đầu tư cho giáo dục

đào tạo 5 năm là 57,69 tỷ đồng; các tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp hỗ trợ

10,423 tỷ đồng đầu tư 21 phòng học, hỗ trợ 9,1 tỷ đồng để nâng cao năng lực

cho giáo viên và học sinh.[28]

Giải quyết việc làm cho 1.027 lao động đạt 102,7%; giảm tỷ lệ hộ nghèo

bình quân hằng năm 2,14% đạt 35,67%, đến 31/12/2019 còn 38,07% hộ nghèo.

Điều tra theo hướng tiếp cận đa chiều, thu nhập bình quân đầu người 23,69 triệu

đồng/người/năm, đạt 112,81%[28]. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân

có chuyển biến tích cực, chất lượng khám chữa bệnh từng bước nâng lên. Mạng

lưới cơ sở khám chữa bệnh, trang thiết bị y tế tiếp tục đầu tư. Tỷ suất sinh thô

giảm bình quân 0,78‰/năm (chỉ tiêu: giảm 0,7‰/năm); tỷ lệ trẻ em suy dinh

dưỡng 14,6% (chỉ tiêu: 14%); 9/21 trường thuộc huyện đạt chuẩn Quốc gia mức

độ I, tỷ lệ 42,8% (chỉ tiêu 40%); 9/21 trường đạt chuẩn cơ sở vật chất, đạt

42,8%; 06/10 Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia (đạt 60% chỉ tiêu); xây mới 01

phòng khám khu vực phục vụ các xã vùng cao biên giới và nhân dân Lào giáp

biên; Trung tâm y tế huyện được công nhận là Bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện

Đà Nẵng, qua đó giúp y, bác sỹ của huyện trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm, tiến bộ

kỹ thuật từ bệnh viện lớn, nhất là áp dụng kỹ thuật cao trong điều trị một số

bệnh. Công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh triển khai thường xuyên,

có hiệu quả, không phát sinh dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Công tác gia đình,

trẻ em đạt kết quả khá tốt, tỷ lệ trẻ em dưới 01 tuổi được tiêm chủng đạt trên

87,8%; trẻ em suy dinh dưỡng giảm bình quân 0,44%/năm (còn 14,6%).

49

2.2.3.3. Về văn hóa, xã hội

Văn hóa, xã hội được chú trọng, đời sống tinh thần của người dân từng

bước nâng lên. Công tác bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của

dân tộc Cơtu được chú trọng; sưu tầm, hoàn thiện bộ chữ viết Cơtu và tổ chức

dạy tiếng Cơtu cho cán bộ, giáo viên; phục dựng và tổ chức thường niên Lễ khai

năm tạ ơn rừng; tăng cường các hoạt động giao lưu, quảng bá văn hóa, khảo sát,

tôn tạo, đề nghị công nhận các di tích lịch sử văn hóa, các danh lam thắng cảnh,

di tích văn hóa vật thể và phi vật thể, Tham gia Ngày hội văn hóa các dân tộc

miền Trung tại tỉnh Nghệ An và các hoạt động nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng

Tháng tám và Ngày truyền thống ngành Văn hóa tại Làng Văn hóa – Du lịch các

dân tộc Việt Nam; đăng cai tổ chức Ngày hội trình diễn nghi thức dựng cây Nêu

và giao lưu văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trong chương trình Festival

Di sản Quảng Nam lần thứ VI-2017; tham gia chương trình “Đêm văn hóa

Cơtu” tại thành phố Hội An. “Điệu múa Tân’tung Da’dă” và nghề “Dệt thổ cẩm

của người Cơtu”, “Nói lý, hát lý của người Cơtu” đã được Bộ trưởng Bộ VH-

TT&DL chứng nhận và được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc

gia; Làng truyền thống Cơtu huyện đã được Liên hiệp các hội UNESCO Việt

Nam chứng nhận là địa danh có giá trị lịch sử, văn hóa và giáo dục truyền

thống; Đường mòn Hồ Chí Minh đoạn qua huyện được công nhận là di tích cấp

quốc gia đặc biệt. Toàn huyện có 1.598 cây được công nhận là cây di sản gồm:

1.146 cây Pơmu, 16 cây đa sộp, 01 cây dỗi, 435 cây đỗ quyên... Phong trào

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thực hiện thường xuyên, hiệu

quả; cơ sở vật chất từng bước hoàn thiện, phục vụ tốt các hoạt động văn hóa ở

cơ sở, cơ bản đáp ứng đời sống tinh thần của Nhân dân.

Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền

vững giai đoạn 2015-2020 được tập trung chỉ đạo quyết liệt, tạo chuyển biến rõ

nét.

Xã Anông, Lăng được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 20%. Xã

50

Atiêng đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận đạt chuẩn nông thôn mới trong

năm 2020. Có 63/63 thôn phát động thôn văn hóa, thôn nông thôn mới, trong đó

52 thôn được công nhận thôn văn hóa, tỷ lệ 82,5% (vượt 2,5%); 3.366/5.075 hộ

gia đình được công nhận gia đình văn hóa, tỷ lệ 66,3% (chỉ tiêu: trên 90%);

35/83 cơ quan đạt chuẩn văn hóa, tỷ lệ 42,16% (chỉ tiêu: 90%); 55 thôn có Gươl

truyền thống, tỷ lệ 87,3% và 7 xã có Gươl xã, tỷ lệ 70%. Đến nay, toàn huyện có

02 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 01 xã đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận

đạt chuẩn nông thôn mới trong năm 2020, bình quân 11,7 tiêu chí/xã, tăng 2,6

tiêu chí so với đầu nhiệm kỳ. Nhóm đạt 15-18 tiêu chí: 03 xã, nhóm đạt 10-14

tiêu chí: 02 xã, nhóm đạt từ 05 đến 09 tiêu chí: 5 xã; xây dựng 07 thôn nông

thôn mới kiểu mẫu, 13 thôn nông thôn mới theo Quyết định 1385/QĐ-TTg[28].

Đặc biệt, qua triển khai xây dựng thôn nông thôn mới theo Nghị quyết 14-

NQ/HU ngày 28/10/2013 của Huyện ủy đạt kết quả khá tốt, tăng dần “9 có”,

giảm dần “5 không”; tư tưởng, nhận thức của người dân thay đổi khá mạnh, các

tập tục lạc hậu dần được xóa bỏ; giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và

phát huy; đời sống người dân có bước phát triển đáng kể. Giai đoạn 2015-2020,

tổng vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện là 169.723 triệu

đồng. Vốn NSNN: 91.632 triệu đồng; vốn tín dụng: 53.542 triệu đồng, nhân dân

đóng góp (quy ra giá trị): 14.558 triệu đồng.[28]

Công tác giảm nghèo được lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao,

giải pháp cụ thể, trong đó xác định vận động người dân học nghề, giải quyết

việc làm, tham gia xuất khẩu lao động là một trong các giải pháp quan trọng.

Đồng thời, lồng ghép nhiều nguồn vốn để hỗ trợ sản xuất, đầu tư cây, con có giá

trị kinh tế cao như ba kích, đảng sâm, cam, các giống lúa, heo địa phương..; xây

dựng hạ tầng phục vụ dân sinh, sản xuất, chăn nuôi; tăng cường hỗ trợ kỹ thuật,

tập huấn, hướng dẫn, từng bước thay đổi tập quán lao động, sản xuất của người

dân. Tổng nguồn vốn hỗ trợ sản xuất 5 năm là 87.972 triệu đồng; giải quyết việc

51

làm cho 1.027 lao động; thu nhập bình quân đầu người đạt 23,69 triệu đồng/năm

(tăng 5,88 triệu đồng so với đầu nhiệm kỳ, đạt 112,81% chỉ tiêu); tỷ lệ hộ nghèo

giảm còn 38,07%, trung bình giảm 2,14%/năm.

2.2.3.4. Về tài nguyên, môi trường và đô thị

Tỷ lệ che phủ rừng đạt 72,49% (vượt 12,49%); xây dựng 01 điểm xử lý rác

thải đạt chuẩn về môi trường; 98% hộ gia đình dùng nước sinh hoạt hợp vệ

sinh.[28]

Công tác quy hoạch, quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thực hiện

chặt chẽ, cơ bản đảm bảo đúng quy định; tình trạng khai thác lâm, khoáng sản

trái phép ít xảy ra hoặc xảy ra ở dạng nhỏ lẻ, được phát hiện, xử lý kịp thời.

Trong 2 năm 2015-2016, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên

nước và khoáng sản 05 trường hợp, xử phạt 100 triệu đồng. Từ năm 2017-2019,

trên địa bàn huyện không còn tình trạng khai thác khoáng sản trái phép xảy ra.

Phát hiện và xử lý 59 vụ vi phạm, tịch thu 98,00 m3 gỗ các loại, nộp ngân sách

563 triệu đồng.

Công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng, chống cháy rừng được triển khai

thường xuyên, quyết liệt. Hoàn thành giao 693.000 ha đất lâm nghiệp cho tổ

chức, cá nhân, cộng đồng làng quản lý, bảo vệ, chăm sóc; thực hiện tốt chi trả

dịch vụ môi trường rừng. Quản lý nghiêm ngặt, bảo tồn khá nguyên vẹn các khu

rừng đặc dụng, rừng nguyên sinh như lim, dổi, pơmu, thông,...; hằng năm xây

dựng phương án trồng cây gỗ lớn, rừng sản xuất, rừng phòng hộ, nâng độ che

phủ rừng lên 72,49%.

2.2.3.5. Về xây dựng đảng, quốc phòng-an ninh

92,15% tổ chức cơ sở đảng hằng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt

122,86%; kết nạp 572/500 đảng viên, đạt 114,40%. 8/10 xã vững mạnh toàn

diện; 10/10 xã vững mạnh về quốc phòng-an ninh.[28]

Công tác nội chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí triển khai nghiêm

52

túc. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị thực hiện

khá tốt, đa số được giải quyết, trả lời kịp thời, không phát sinh khiếu kiện, khiếu

nại kéo dài, đông người. Triển khai thực hiện tốt Quy định số 11-QĐ/TW, ngày

18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm người đứng đầu trong việc tiếp

công dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của

dân. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý thực hiện

thường xuyên, hòa giải ở cơ sở đạt kết quả tốt; hoàn thành 17 cuộc thanh tra

kinh tế xã hội, qua thanh tra đã phát hiện và xử lý, chấn chỉnh vi phạm đảm bảo

quy định. Qua thanh tra, phát hiện sai phạm số tiền 1.773.065.000 đồng (Chấn

chỉnh: 777.672.000 đồng; thu hồi 744.769.000 đồng; giảm trừ quyết toán:

250.624.000 đồng)[60]. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí thực hiện

thường xuyên, kịp thời; đẩy mạnh công khai, minh bạch trong hoạt động của các

cơ quan, đơn vị, các thủ tục hành chính; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành

chính, chấp hành chế độ công vụ của cán bộ, đảng viên.

Quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện được đảm bảo. Tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững, giải quyết tốt vấn đề an ninh tôn giáo,

dân tộc. Giải quyết ổn định việc Nhân dân nghi ngờ 1 người sử dụng bùa ngãi;

trả lời 2 trường hợp xin sinh hoạt đạo Thiên chúa tập trung; thu hồi 179 đĩa

VCD, 184 quyển sách về tôn giáo không có giấy phép, 35 đài Radio gắn thẻ nhớ

có nội dung liên quan đến Phật giáo, 06 dây chuyền có hình Phật, 67 mũ tai bèo

72 áo thun in thông tin tôn giáo, 74 thẻ tình nguyện viên do các tổ chức, cá nhân

tặng kèm khi tặng quà từ thiện. Xử lý 01 đối tượng đưa tin sai sự thật về tình

hình dịch Covid 19 trên mạng xã hội. Xảy ra 51 vụ xâm phạm TTXH, bị thương

10 người, thiệt hại trên 1,5 tỷ đồng, 15 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 7

người chết, 16 người bị thương, thiệt hại hơn 160 triệu đồng; phát hiện, xử phạt

hành chính, đẩy đuổi 2 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; lập hồ sơ đưa

02 đối tượng vào Trường giáo dưỡng, giáo dục tại xã 03 đối tượng; tiếp nhận và

bắt 02 đối tượng truy nã. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực

53

hiện đúng quy định pháp luật, không có oan sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác quản

lý hộ khẩu, vận động người dân giao nộp vũ khí, công cụ hỗ trợ, đảm bảo an

toàn giao thông đạt nhiều kết quả.

Hoạt động hợp tác trong quản lý, bảo vệ rừng, liên kết phát triển du lịch

với các huyện giáp ranh thực hiện thường xuyên; định kỳ tổ chức giao ban Ban

Thường vụ Huyện ủy 3 huyện Tây Bắc Quảng Nam. Giao ban thường niên với

các huyện Kạ Lừm, Đắc Chưng (tỉnh Sê Kông, Lào); vận động quỹ “Nghĩa tình

biên giới”, xây dựng Đề án hỗ trợ, giúp đỡ Nhân dân các bản giáp biên của

huyện Kạ Lừm; thường xuyên phối hợp, trao đổi thông tin, hỗ trợ nghiệp vụ,

giải quyết tốt vướng mắc phát sinh, an ninh biên giới ổn định. Tổ chức lễ công

bố quyết định của Chủ tịch nước về việc cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với

06 trường hợp người Lào kết hôn với người Việt Nam.

2.2.3.6. Về hoạt động của chính quyền có nhiều đổi mới, phát huy hiệu lực,

hiệu quả trong quản lý, điều hành

Hoạt động HĐND các cấp đi vào nền nếp, đúng luật, chất lượng ban hành

nghị quyết ngày càng tăng; đại biểu HĐND phát huy vai trò, trách nhiệm trong

tiếp xúc cử tri, thực hiện hoạt động giám sát, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử

tri.

Công tác quản lý, điều hành của UBND các cấp có chuyển biến tích cực;

hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước từng bước nâng cao; triển khai tốt nhiệm vụ

trên các lĩnh vực, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng luôn

đảm bảo, giải quyết kịp thời những nhiệm vụ phát sinh.

2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân

huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân

Hoạt động của UBND huyện được thực hiện theo Quy chế đã đề ra; xây

dựng chương trình công tác cụ thể và đưa ra tập thể UBND huyện bàn bạc quyết

định để triển khai thực hiện và tổ chức đánh giá kết quả đã đạt được, kiểm điểm

54

những vấn đề còn tồn tại để rút kinh nghiệm.

Trong công tác điều hành của UBND huyện đã có tính chủ động, sáng tạo

và năng động, khi có những công việc đột xuất đã kịp thời có kế hoạch triển

khai thực hiện. Đề xuất với UBND tỉnh và các ngành chức năng của tỉnh giúp

huyện tháo gở khó khăn trong chỉ đạo phát triển kinh tế, xã hội ngoài thẩm

quyền của huyện; góp ý để khắc phục, sửa đổi những tồn tại, hạn chế phát sinh

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Chủ động và phối hợp lập nhiều dự án cơ hội để đầu tư phát triển kinh tế,

xã hội; quan hệ rộng rãi với các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài để đầu tư

được nhiều công trình phục vụ dân sinh, đem lại kết quả thiết thực. Đẩy mạnh

phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp như các loại dược liệu (ba kích, đảng sâm,

táo mèo …) mang lại hiệu quả kinh tế cao góp phần ổn định đời sống người dân

và khẳng định được thương hiệu riêng của huyện nhà.

Nhiệm vụ và quyền hạn của UBND và Chủ tịch UBND được phân định rõ

ràng và thực hiện đúng theo Luật định, không chồng chéo trong điều hành và chỉ

đạo. Theo quy định hiện nay, Ủy viên UBND là người đứng đầu các cơ quan

chuyên môn trực thuộc, Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự và Trưởng Công an

huyện để đảm bảo nguyên tắc làm việc tập thể của UBND bao quát tất cả các

lĩnh vực chuyên môn. Đồng thời tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND với

UBND cùng cấp thông qua cơ chế tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với thành

viên UBND.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

- Một là: Công tác điều hành chỉ đạo của UBND huyện nhìn chung trong

triển khai cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy và HĐND cùng cấp

còn chậm. Hàng năm vẫn còn một số chỉ tiêu đạt thấp so với Nghị quyết HĐND

của huyện Tây Giang đã đề ra; việc tổ chức hội họp của UBND còn nhiều (thậm

chí phải dành rất nhiều thời gian tham dự các cuộc họp do cấp tỉnh triệu tập,

nên việc đầu thời gian cho xử lý công việc, đi cơ sở nắm tình hình còn có mặt

55

hạn chế), khiến chất lượng và hiệu quả công việc của UBND huyện chậm được

nâng lên. Một số cuộc họp thành viên UBND có nhiều nội dung, song chậm

chưa gửi trước để nghiên cứu, nên khi vào họp buộc phải dành nhiều thời gian

chiếm dụng để đọc tài liệu tại chỗ, khiến thời gian bàn bạc - thảo luận bị hạn

chế, nên chất lượng cuộc họp để hoàn thiện các báo cáo cũng bị hạn chế theo.

- Hai là: Trong khi bộ máy của UBND cấp huyện còn chưa tinh gọn, thì

vẫn chưa có cơ chế ràng buộc gắn kết trách nhiệm với quyền hạn; sự phân định

trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân người đứng đầu cũng chưa cụ thể, rành

mạch. Nói cách khác, trong hoạt động của UBND thực tế rất khó xem xét và

định rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu UBND và tập thể UBND. Điều này

khiến cho một số quyết định UBND huyện Tây Giang trên thực tế chưa hoàn

toàn tập trung được trí tuệ tập thể, vì chủ yếu khởi nguồn từ quyền hạn và sự

quyết định của Thường trực UBND huyện, còn các ủy viên tham gia chỉ có mức

độ hạn chế. Nói cách khác, chế độ hoạt động tập thể của UBND huyện Tây

Giang còn thiên về tính thông báo nhiều hơn.

- Ba là: UBND huyện cũng chưa phối hợp đồng bộ với Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp.

- Bốn là: Pháp luật hiện hành ở lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước

có tính đồng bộ chưa cao. Việc thực hiện phân cấp quản lý hành chính giữa cấp

tỉnh và cấp huyện cũng chưa rõ, dẫn đến thẩm quyền và trách nhiệm chưa được

xác định một cách tương xứng. Quan hệ giữa UBND huyện với UBND tỉnh vẫn

còn bị cơ chế “xin-cho” chi phối nhất định.

- Năm là: Việc minh bạch hóa, công khai hóa và giải trình trách nhiệm

của UBND huyện cũng có nhiều bất cập/ hạn chế.

Từ một số hạn chế và nguyên nhân của nó đã khiến cho thực trạng: Tốc

độ tăng trưởng kinh tế của các ngành trên địa bàn huyện Tây Giang chưa đạt chỉ

tiêu Nghị quyết đề ra. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, nguồn thu ngân sách thấp,

việc xác định lĩnh vực kinh tế chủ lực còn lúng túng, chưa rõ nét; chuyển dịch

56

cơ cấu kinh tế và cơ cấu cây trồng, con vật nuôi thực hiện còn chậm; sản xuất

còn manh mún, nhỏ lẻ; việc áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất còn hạn

chế. Kết cầu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế tuy được đầu tư nhiều nhưng một

số nơi chưa đồng bộ nên khó khăn trong phát triển kinh tế, đặc biệt là khâu thu

hút, mời gọi doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn.

Sản xuất nông-lâm nghiệp chưa hình thành được vùng chuyên canh quy

mô lớn; các mô hình chăn nuôi tập trung mới dừng lại ở quy mô gia trại, trang

trại nhỏ chưa đạt tiêu chuẩn trang trại theo quy định; một số diện tích đồng

ruộng được khai hoang chưa được sử dụng, khai thác kém hiệu quả, còn để

hoang hóa; chưa thực hiện tốt việc liên kết, hỗ trợ nông dân trong tiêu thụ hàng

hóa nông, lâm nghiệp.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tuy chiếm tỷ trọng lớn nhưng giá trị và

quy mô sản xuất còn nhỏ; nhà máy chế biến mủ cao su, nhà máy chế biến dược

phẩm chưa được đầu tư xây dựng; một số ngành, nghề thủ công, mỹ nghệ truyền

thống, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương như: rèn, đan lát, điêu

khắc, dệt thổ cẩm,…chưa được phát huy. Trên địa bàn chưa có các cơ sở công

nghiệp quy mô lớn, thu hút nhiều lao động.

Tiến độ triển khai xây dựng Nông thôn mới còn chậm so với mục tiêu đặt

ra; công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc duy trì và nâng cao chất lượng đối với xã đạt

chuẩn Nông thôn mới chưa đạt yêu cầu. Trong thực hiện các nội dung xây dựng

Nông thôn mới, mới tập trung cao cho xây dựng cơ sở hạ tầng, các nội dung về

phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa,

cải thiện môi trường…chưa được quan tâm chỉ đạo và đầu tư đúng mức. Phần

lớn tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của cấp xã,

thiếu sự quan tâm, chỉ đạo và cơ chế thực hiện các nhiệm vụ của cộng đồng và

hộ gia đình. Việc tham gia của người dân còn ít, chưa thường xuyên, chưa phát

huy hết vai trò chủ thể trong tiến trình xây dựng thôn, xã Nông thôn mới.

Chất lượng giáo dục so với mặt bằng chung của tỉnh còn thấp, học sinh bỏ

57

học, đi học không chuyên cần còn xảy ra; chưa đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất,

trang, thiết bị phục vụ dạy và học nên các trường mầm non, tiểu học, THCS nằm

trong kế hoạch xây dựng đạt chuẩn quốc gia còn thiếu cơ sở vật chất phục vụ

cho công tác giảng dạy và sinh hoạt của học sinh và đội ngũ giáo viên.

Lĩnh vực y tế tuy được quan tâm đầu tư về con người và cơ sở vật chất

nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu; chất lượng công tác

khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe Nhân dân tuy được cải thiện nhưng chưa đáp

ứng nhu cầu.

Công tác quản lý, bảo vệ rừng, tài nguyên khoáng sản có lúc chưa chặt chẽ,

còn để xảy ra một số trường hợp khai thác lâm, khoáng sản trái phép; tiềm năng,

thế mạnh của rừng nhiều nhưng chưa được phát huy. Giải quyết chồng lấn địa

giới hành chính theo bản đồ 364 và đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất ở, đất rừng, đất sản xuất cho người dân trên địa bàn huyện triển khai chậm,

tồn đọng nhiều, một số tranh chấp về đất đai còn xảy ra. Diện tích đất sản xuất

bỏ hoang hóa, chưa được khai thác, sử dụng còn nhiều.

Quốc phòng, an ninh có mặt còn tồn tại, hạn chế, tiềm ẩn nguy cơ đe doạ

đến an ninh trật tự. Việc quán triệt và thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, quân

sự địa phương chưa thật đồng bộ, một số nội dung hiệu quả còn hạn chế.

Tiểu kết chương 2

Trong nhiệm kỳ qua, UBND các cấp đã đạt được kết quả cao trong công

tác chỉ đạo, điều hành trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,

an ninh, quốc phòng.

Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, sự giám sát chặt chẽ của HĐND, sự phối

hợp thường xuyên tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, cùng sự nỗ

lực, phấn đấu của Nhân dân; UBND các cấp (huyện, xã) luôn linh hoạt, quyết

đoán, tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quyết liệt, vượt qua nhiều khó

khăn, thách thức, hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội: tốc độ

58

tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm được giữ vững, duy trì mức hợp lý; các

lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực; an ninh, quốc

phòng được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân ngày càng cải

thiện và nâng cao.

Trong quá trình chỉ đạo, điều hành UBND huyện đã quán triệt sâu sắc,

thực hiện nghiêm túc và vận dụng linh hoạt các chủ trương, chính sách của

Đảng và pháp luật Nhà nước, của UBND cấp trên và cơ quan chuyên môn, các

Nghị quyết của Huyện ủy và HĐND huyện. Trên cơ sở đó, UBND đã ban hành

và triển khai đồng bộ các biện pháp quản lý, điều hành, phù hợp với từng lĩnh

vực kinh tế, xã hội. UBND đã dành nhiều thời gian, tập trung giải quyết những

vấn đề lớn, vấn đề khó có tính phức tạp, những vấn đề trọng điểm có tính quyết

định đến sự phát triển của địa phương trước mắt cũng như lâu dài như: xây dựng

cơ sở hạ tầng, giao thông, thu hút vốn đầu tư, đào tạo bồi dưỡng, xây dựng

Nông thôn mới, phát triển kinh tế dược liệu, luôn ổn định an ninh vùng biên

giới...Bên cạnh đó, UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện cũng tập trung xử lý

có hiệu quả những vấn đề đột xuất, phát sinh như phòng, chống thiên tai, dịch

bệnh; những khiếu nại, tố cáo của người dân, thực hiện tốt các chính sách an

sinh xã hội....UBND huyện chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động theo Quy chế làm

việc; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao trách nhiệm của Chủ tịch,

các Phó Chủ tịch và các ủy viên UBND; tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong

nội bộ.

Tổ chức bộ máy chính quyền được sắp xếp theo hướng tinh gọn, tinh giản;

đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức được nâng cao; thực hiện tinh giản biên

59

chế đúng theo lộ trình quy định.

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Quan điểm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban

nhân dân cấp huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

3.1.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính

quyền địa phương

Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính quyển địa

phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông

thôn, hải đảo đơn vị hành chính - kinh tê đặc biệt; chủ động thí điểm ở những

nơi có đủ điều kiện. Nghiên cứu thực hiện giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp và giảm đại biểu Hội đồng nhân dân công tác ở các cơ

quan quản lý nhà nước; giảm số lượng phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,

cấp huyện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động để thực hiện từ nhiệm kỳ 2021 - 2026.

3.1.2. Quy định khung số lượng các cơ quan trực thuộc Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và khung số lượng cấp phó

của các cơ quan này

Căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Trung ương, cấp

ủy địa phương lãnh đạo việc sắp xếp, bố trí cho phù hợp. Rà soát, sắp xếp tổ

chức bên trong của các sở, ngành theo hướng tinh gọn đầu mối, kiên quyết cắt

giảm số lượng, sắp xếp lại phòng, chi cục, trung tâm, ban quản lý dự án và đơn

vị sự nghiệp thuộc sở, ngành.

3.1.3. Rà soát, điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động

của chính quyền địa phương; kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức khối Ủy

60

ban nhân dân huyện

Rà soát, điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của chính

quyền địa phương phải gắn với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải

cách thủ tục hành chính theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên

nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả mô hình trung tâm phục vụ hành chính

công, cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở các cấp.

Đối với huyện Tây Giang, cần: Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào

tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng DTTS... (như định hướng của Đảng

ta tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của BCHTW khóa XI). Trong quá trình

tiếp tục đổi mới và tái sắp xếp về tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo

hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả và hiệu lực, đối với khối UBND từ huyện

đến xã trực thuộc, cần tập trung chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ là dân tộc

thiểu số tại chỗ có đủ cả phẩm chất, năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển

của địa phương. Cần tăng tỉ lệ người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ

trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo, trong cơ cấu cấp ủy.

3.1.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy của Mặt trận Tô quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội

- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của Mặt trận Tô quốc và các đoàn

thể chính trị - xã hội gắn với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo

hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó vối đoàn viên, hội viên, từng bước khắc phục

“hành chính hóa” hoạt động và “công chức hóa” cán bộ; tăng cường phối hợp

công tác giữa Mặt trận Tổ quôc, các đoàn thể chính trị - xã hội với các cơ quan,

tổ chức có liên quan; tích cực tổ chức triển khai và nâng cao chất lượng giám

sát, phản biện xã hội.

- Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối bên trong gắn với

hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác

của từng tổ chức; kiên quyết cắt giảm số lượng ban, phòng có chức năng, nhiệm

vụ trùng lắp, chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả; sắp xếp, tổ chức lại hoặc giải

61

thể các đơn vị sự nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tinh giản biên chế, cơ cấu

lại đội ngũ cán bộ chuyên trách các cấp gắn với đổi mới cơ chế phân bổ ngân

sách nhà nước và quản lý tài chính; nghiêm túc thực hiện việc khoán kinh phí để

phát huy tích cực, chủ động và tự chủ, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động cảu Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng cường sử

dụng đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên. [văn kiện HN lần thứ VI, BCH

TW khóa XII, tr 132-136].

3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân

dân cấp huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

3.2.1.1. Về chế độ hoạt động của Ủy ban nhân dân

Để khắc phục sự không hoàn thiện trong các quy định về hoạt động của

UBND các cấp theo Luật năm 2003, Luật năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể

thủ tục tiến hành phiên họp của tập thể UBND, đặc biệt là cách thức biểu quyết;

đã xác định phạm vi, trách nhiệm giải quyết công việc của Chủ tịch UBND, của

Phó Chủ tịch, các Ủy viên. Đặc biệt, Luật năm 2015 quy định về hoạt động trao

đổi, đối thoại giữa UBND với nhân dân. Tại khoản 4 Điều 5 của Luật năm 2015

xác định UBND hoạt động theo chế độ tập thể UBND kết hợp với trách nhiệm

của Chủ tịch UBND. Quy định này khác với Luật năm 2003 chỉ quy định các

vấn đề thuộc tập thể UBND và vấn đề thuộc trách nhiệm cá nhân mà trong thực

tế được thực hiện không rõ ràng, thường bị lẫn lộn.

Tuy nhiên, hoạt động của UBND kết hợp cả hoạt động tập thể và hoạt

động của người đứng đầu có thể chỉ là bước chuyển giao từ chỗ coi trọng chế độ

hoạt động tập thể của UBND sang chế độ thủ trưởng. Trong quản lý hành chính

nhà nước, chế độ thủ trưởng mang lại kết quả hoạt động tốt hơn bởi các quyết

định được ban hành nhanh nhạy phù hợp với sự biến động không ngừng của đời

sống xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì vậy, cần xem xét nghiêm túc,

có sự đổi mới tư duy về khả năng thiết lập cơ quan hành chính nhà nước địa

62

phương được tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng cách thức tổ chức

hành chính nhà nước như vậy đã từng tồn tại trong lịch sử nhà nước Việt Nam

và hiện nay tương đối phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Cần nhấn mạnh

thêm rằng, quy định chế độ làm việc tập thể với trách nhiệm của Chủ tịch

UBND vốn đã có những phức tạp, mâu thuẫn nội tại. Chủ tịch UBND chịu trách

nhiệm về lãnh đạo, điều hành công việc của Ủy ban, nhưng không chi phối được

quyết định của tập thể UBND là bất cập. Thực hiện chế độ thủ trưởng cũng góp

phần khắc phục tình trạng không rõ trách nhiệm cá nhân của các thành viên

UBND như là yếu tố vốn có của chế độ làm việc tập thể.

Trước một số tồn tại hạn chế đang còn diễn ra ở huyện Tây Giang:

- Để tăng cường chất lượng và hiệu quả thực chất trong thực thi chế độ

làm việc tập thể của UBND huyện và quyết định theo nguyên tắc đa số, cần luật

hóa quy định về cơ chế ràng buộc gắn kết trách nhiệm với quyền hạn để phân

định cụ thể về trách nhiệm giữa tập thể UBND huyện và cá nhân người đứng

đầu UBND cùng cấp. Đồng thời, cần phải xác lập chính thức cơ chế pháp lý về

giải trình trách nhiệm của UBND huyện, nhất là về giải trình trách nhiệm đối

với cá nhân người đứng đầu UBND huyện (phòng tránh các quyết định UBND

huyện phụ thuộc quá lớn vào quyền hạn và sự quyết định của Thường trực

UBND huyện), nhằm khắc phục triệt để tình trạng đang diễn ra xu hướng né

tránh/ đùn đẩy trách nhiệm trong công tác quản lý hành chính nhà nước.

- Mặt khác, cần chú trọng tăng cường nâng cao năng lực giám sát của

HĐND cấp huyện đối với mọi hoạt động của UBND cùng cấp.

- Ngoài ra, cần kết hợp với việc chú trọng mở rộng thực hiện các kênh

giám sát ngoài từ cộng đồng người dân và doanh nghiệp trên địa bàn huyện Tây

Giang đối với các hoạt động của UBND huyện và các xã. Qua đó góp phần đẩy

mạnh cơ chế công khai hóa và minh bạch hóa công tác của UBND.

- Để giảm thiểu cơ chế “xin-cho” chi phối trong quan giữa UBND huyện

với UBND tỉnh, Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện và đồng bộ hóa dần đối với

63

các quy định của pháp luật về lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước. Mặt

khác, chú trọng tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính giữa

cấp tỉnh và cấp huyện để xác lập rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp

UBND ở địa phương.

3.2.1.2. Nâng cao chất lượng phiên họp của Ủy ban nhân dân

Theo các quy định của Luật tổ chức CQĐP về phiên họp của UBND các

cấp, cần chú ý một thực tế là, UBND mỗi tháng họp ít nhất một lần, không kể

các phiên họp theo yêu cầu của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước

cấp trên trực tiếp, hoặc theo yêu cầu của 1/3 số thành viên UBND hoặc bất

thường do Chủ tịch UBND quyết định (liên quan đến công việc khẩn cấp như lũ

lụt, tai nạn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường,…). Tuy nhiên,

vẫn có tình trạng một số UBND tổ chức nhiều cuộc họp nội dung không cần

thiết hoặc hình thức, chất lượng cuộc họp không cao.

Vì vậy, Chính phủ cần có các quy định mẫu về quy chế làm việc của

UBND các cấp, trong đó xác định yêu cầu đối với việc họp và đặc biệt, trong

quy định về thẩm quyền của Chủ tịch UBND quyết định họp bất thường.

Đối với trường hợp họp theo đề nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các đoàn thể chính trị - xã hội về những việc liên quan đến các tổ chức này, cần

có quy định ràng buộc về cơ chế phối hợp giữa UBND huyện với Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp.

3.2.1.3. Nâng cao trách nhiệm hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân

các cấp

Chủ tịch UBND là người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND, có

vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của UBND. Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 157/2007/NĐ - CP ngày 27/10/2007 về trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thi hành nhiệm vụ, công vụ. Các quy định

có tính phân biệt về nhiệm vụ, quyền hạn giữa UBND và Chủ tịch UBND trong

Luật năm 2015, đặc biệt là các quy định về hoạt động của UBND tại các Điều

64

121, 122, 123 đã thể hiện tinh thần đó. Tuy nhiên, quy định này phải được cụ

thể hóa trong văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và trong quy chế làm

việc của UBND các cấp nhất là những nội dung liên quan đến mối quan hệ công

tác và trách nhiệm trong hoạt động của các thành viên của UBND, trong đó, chú

trọng chức danh Chủ tịch UBND. Trong thực tế, để khẳng định được vị trí, vai

trò thì Chủ tịch UBND phải là người có năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị

cũng như nắm vững chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước, có năng lực quản lý và phẩm chất dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách

nhiệm.

Cần luật hóa quy định về cơ chế ràng buộc gắn kết trách nhiệm với quyền

hạn để phân định cụ thể về trách nhiệm giữa tập thể UBND huyện và cá nhân

người đứng đầu UBND cùng cấp. Đồng thời, cần phải xác lập chính thức cơ chế

pháp lý về giải trình trách nhiệm đối với cá nhân người đứng đầu UBND huyện.

3.2.1.4. Nâng cao chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công

chức

Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, UBND

các cấp cần sắp xếp lại hay là tái cấu trúc đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng

yêu cầu về tinh giản biên chế, thực hiện việc luân chuyển, điều động công

chức… Hiện nay, trong bộ máy nhà nước nói chung, UBND các cấp nói riêng

đang rất cần những người có kiến thức và kỹ năng tốt để thực thi công vu,

nhiệm vụ. Vì vậy, cần có cơ chế, biện pháp thích hợp để có thể tuyển dụng, thu

hút những người có trình độ, được đào tạo cơ bản về công tác tại các cơ quan

quản lý nhà nước các cấp một cách hiệu quả. Đây là giải pháp quan trọng để đạt

được mục tiêu chung mà Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước

giai đoạn 2021-2026 đề ra là đến năm 2030, đội ngũ cán bộ, công chức có số

lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ sự

nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.

Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiêu chuẩn các chức danh cán bộ,

65

công chức đồng thời với việc xây dựng hệ thống vị trí việc làm khoa học. Hiện

nay, đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước nói chung, UBND các

cấp nói riêng phần lớn được tuyển dụng theo cách cũ, chủ yếu dựa vào tiêu

chuẩn bằng cấp, chưa chú ý đến việc đáp ứng những yêu cầu về công việc của

bộ máy quản lý cũng như năng lực và thành tích công tác. Đây là một trong

những nguyên nhân khiến cho việc đổi mới chất lượng hoạt động của UBND

chưa có chuyển biến đáng kể.

Để nâng cao hiệu quả việc kiểm soát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công

chức, cần xây dựng cơ chế kiểm tra, đánh giá năng lực thực thi công vụ của cán

bộ, công chức, trọng tâm là đánh giá cán bộ, công chức theo kết quả thực hiện

công việc, tức là đánh giá căn cứ vào thành tích. Ngoài ra, đã hoàn thiện chế độ

công vụ cần nghiên cứu xây dựng Luật thanh tra công vụ nhằm tạo cơ chế pháp

lý, việc xem xét toàn bộ các hoạt động bầu, tuyển dụng, bãi miễn, luân chuyển,

sử dụng, đánh giá cũng như kiểm tra hoạt động của cán bộ, công chức là khâu

yếu trong chế độ cán bộ, công chức hiện nay. Kỷ cương, kỷ luật và chất lượng,

hiệ quả làm việc của cán bộ, công chức chỉ có thể được nâng lên khi hoạt động

của đội ngũ này được kiểm soát hiệu quả.

3.2.2. Nhóm giải pháp dành riêng cho huyện Tây Giang, tỉnh Quảng

Nam

3.2.2.1. Tăng cường thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

Nông thôn mới, đẩy mạnh công tác giảm nghèo và chủ động triển khai Đề án

tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,

giai đoạn 2021-2030.

Tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch nông thôn mới toàn

huyện gắn với xây dựng lộ trình nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, trong đó

quyết tâm giữ vững, nâng cao chất lượng tiêu chí đã đạt, nâng dần tiêu chí ở các

xã còn lại, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ toàn huyện có 5/10 xã đạt chuẩn nông

thôn mới, không còn xã dưới 10 tiêu chí. Tập trung xây dựng khu dân cư nông

66

thôn mới kiểu mẫu, thôn nông thôn mới theo Nghị quyết 14 của Huyện ủy và

Quyết định 1385 của Thủ tướng Chính phủ; gắn xây dựng nông thôn mới với

bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống Cơtu, phát huy vai trò chủ thể của người

dân.

Đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, chính sách giảm

nghèo, thay đổi phương thức đầu tư theo hướng giảm dần hỗ trợ trực tiếp, tăng

cường sự tham gia đóng góp của người dân để hạn chế tư tưởng trông chờ vào

sự hỗ trợ của Nhà nước. Giao cán bộ, đảng viên kèm cặp, giúp đỡ, động viên

các hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo; đa dạng các kênh hỗ trợ người dân thoát

nghèo, trong đó ưu tiên thoát nghèo tại chỗ bằng tăng cường hỗ trợ sản xuất, tạo

sinh kế, hỗ trợ kỹ thuật, khởi nghiệp sáng tạo; hình thành hợp tác xã, tổ hợp tác

liên kết phát triển; tăng cường vận động thành viên các hộ nghèo học nghề, làm

nghề, tham gia lao động trong và ngoài nước, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ

4-5%/năm.

Tổ chức quán trịệt, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết

12/2020/NQ-CP ngày 15/02/2020 của Chính phủ triển khai Nghị quyết số

88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát

triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-

2030 gắn với thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 17/8/2016 của Tỉnh ủy

Quảng Nam và các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế xã hội miền núi.

3.2.2.2. Quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, tăng cường bảo

vệ môi trường

Quản lý chặt chẽ, khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Phối hợp rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng phù hợp với quy hoạch phát

triển lâm nghiệp nhằm quản lý, bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, nhất là rừng

pơmu, rừng lim, rừng đỗ quyên; xử lý nghiêm các hành vi khai thác lâm khoáng

sản, dược liệu, săn bắt động vật hoang dã trái phép. Tăng cường trồng rừng thay

thế, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng lấy gỗ làm nhà, hạn chế thấp nhất việc tác

67

động vào rừng tự nhiên; xây dựng một số đề án phát triển lâm nghiệp kết hợp

với nông-ngư nghiệp, dược liệu, khai thác có hiệu quả tiềm năng dưới tán rừng,

tiềm năng mặt nước sông suối, ao hồ, thủy điện, như: Đề án phát triển cây dược

liệu; Đề án phát triển cây ăn quả; Đề án trồng rừng gỗ lớn, trồng rừng lấy gỗ

làm nhà, giai đoạn 2020-2025,…; thực hiện tốt việc giao rừng và chi trả dịch vụ

môi trường rừng, tạo điều kiện cho người dân giữ rừng và hưởng lợi từ rừng.

Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức của toàn dân trong bảo vệ môi

trường, không chăn thả gia súc trong khu dân cư, thu gom, xử lý rác thải tại nhà,

sử dụng công trình vệ sinh, hạn chế sử dụng bao ni lông, rác thải nhựa. Quản lý,

bảo vệ và khai thác hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước sinh hoạt; đầu tư nhà máy

nước trung tâm huyện và các xã, đảm bảo 100% người dân được sử dụng nước

sinh hoạt hợp vệ sinh. Đầu tư nâng cấp nhà máy xử lý rác thải của huyện và các

điểm xử lý rác ở khu dân cư, các xã, đơn vị trường học, thực hiện thường xuyên

việc thu gom, xử lý rác thải. Thường xuyên kiểm tra, xử lý nghiêm các trường

hợp vi phạm.

3.2.2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, thực hiện tốt công tác

chăm sóc sức khỏe Nhân dân

Tiếp tục triển khai các chủ trương của Trung ương, của tỉnh về đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập

giáo dục ở các cấp học, bậc học, triển khai có chất lượng chương trình giáo dục

phổ thông mới; chú trọng giáo dục đạo đức, truyền thống cách mạng, văn hóa,

chữ viết dân tộc Cơtu. Đẩy mạnh phân luồng, hướng nghiệp dạy nghề cho học

sinh sau THCS, THPT; ưu tiên nguồn vốn đầu tư nâng cấp, mở rộng trường lớp,

cải thiện điều kiện dạy và học, ăn ở của giáo viên và học sinh; xây dựng trường

học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I, II và trường học đạt chuẩn về cơ sở vật chất

theo lộ trình. Xúc tiến thành lập trung tâm Ngoại ngữ-Tin học ngoài công lập tại

huyện; triển khai giảng dạy chữ Cơtu cho học sinh, cán bộ, công chức và Nhân

68

dân trên địa bàn huyện.

Tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân; làm tốt công tác y tế

dự phòng, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm. Huy động tài trợ,

đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tại Trung tâm y tế huyện, phòng

khám đa khoa và các trạm y tế xã; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho

đội ngũ y bác sỹ, chú trọng liên kết với các cơ sở y tế chất lượng cao để giúp

đào tạo kỹ năng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào khám chữa bệnh. Hoàn thành

lộ trình xây dựng Trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia (100%). Phát triển, sử dụng cây

dược liệu, cây thuốc truyền thống của đồng bào Cơtu vào chăm sóc, chữa bệnh

theo phương pháp cổ truyền. Tùy khả năng của địa phương tiếp nhận cứu chữa

bệnh nhân nặng là nhân dân Lào giáp biên.

3.2.2.4. Phát huy tốt các giá trị văn hóa truyền thống, đảm bảo an sinh xã

hội

Duy trì, khôi phục, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của

đồng bào Cơtu; tiếp tục vận động, tuyên truyền Nhân dân thực hiện tốt “9 có, 5

không”, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, ngăn chặn sự xâm nhập của văn hoá độc hại.

Triển khai thực chất phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô

thị văn minh”, xây dựng thôn văn hóa, gia đình văn hóa. Đẩy mạnh các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, kết nối văn hóa vùng miền, các hoạt

động văn hóa truyền thống để bảo tồn và phát huy.

Thực hiện tốt chính sách đối với người có công cách mạng, đối tượng

chính sách xã hội, bảo hiểm y tế, bảo đảm mọi người đều bình đẳng, có cơ hội

và điều kiện phát triển. Tăng cường công tác dân số, gia đình; bảo vệ và chăm

sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội; kiên quyết

ngăn chặn tình trạng tảo hôn, thực hiện tốt Nghị quyết số 14-NQ/HU, ngày

28/10/2013 của Huyện ủy về xây dựng Thôn nông thôn mới trên địa bàn huyện

Tây Giang, từ nay đến năm 2023.

3.2.2.5. Đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và

69

tăng cường đối ngoại

Thực hiện nghiêm Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong

tình hình mới”. Tăng cường phối hợp giữa quân sự, công an, biên phòng trong

tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc giới Quốc gia, giữ vững chủ quyền Tổ quốc,

đảm bảo trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt công tác kết nghĩa, giúp đỡ các bản

giáp biên của huyện Kạ Lừm, Đắc Chưng (Lào).

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày

10/10/2017 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 137-KH/TU ngày 27/02/2018 của

Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày

10/10/2017 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội các xã biên giới đất liền

kết hợp với tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Thực hiện tốt công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, an ninh mạng, bảo vệ

chính trị nội bộ, ngăn chặn có hiệu quả những thông tin xấu độc gây ảnh hưởng

đến an ninh trật tự; thực hiện chặt chẽ việc quản lý hành chính về trật tự xã hội,

đảm bảo an toàn giao thông, phòng, chống tội phạm; chủ động giải quyết các

vấn đề liên quan đến tôn giáo, dân tộc.

3.2.2.6. Triển khai đồng bộ các giải pháp về nội chính; phòng, chống

tham nhũng; cải cách tư pháp

Triển khai có hiệu quả các chỉ thị, kết luận của Trung ương, tỉnh trong

lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp. Đổi mới

phương thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật theo hướng sát thực tiễn, đảm bảo

mỗi người dân đều biết và chấp hành. Thực hiện tốt quy định về phòng, chống

tham nhũng, lãng phí, khuyến khích Nhân dân tham gia giám sát cán bộ, đảng

viên. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, đối thoại, tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo, không để xảy ra khiếu nại, khiếu kiện đông người. Lãnh đạo, chỉ đạo

triển khai tốt các quy định về cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng điều tra,

70

truy tố, xét xử, thi hành án.

3.2.2.7. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm quyền làm

chủ của Nhân dân

Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp Nhân

dân, tạo đồng thuận xã hội; phát huy quyền làm chủ, tạo điều kiện cho Nhân dân

bày tỏ ý kiến, kiến nghị với cấp ủy đảng, chính quyền. Mặt trận, các đoàn thể

tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng sát cơ sở, lấy địa

bàn thôn, khu dân cư làm địa bàn hoạt động chủ yếu, hạn chế hành chính hóa

công tác vận động; kịp thời nhân rộng các điển hình tiên tiến, nhân tố mới tích

cực. Thực hiện thường xuyên, có hiệu quả việc giám sát, phản biện xã hội, tham

gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Kịp thời kiện toàn, phát huy hiệu quả

hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng trong

giám sát các hoạt động ở cơ sở.

3.2.2.8. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp;

đẩy mạnh cải cách hành chính; tinh giản biên chế và cơ cấu lại tổ chức bộ máy

Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND các cấp, đẩy mạnh chất lượng

ban hành nghị quyết đúng luật, sát thực tiễn, có tính khả thi cao. Tăng cường

giám sát việc chấp hành nghị quyết của HĐND, chính sách, pháp luật. Tổ chức

tốt việc tiếp xúc cử tri, kịp thời giải quyết các vấn đề bức xúc, chính đáng của cử

tri.

UBND các cấp nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tăng cường trách

nhiệm, thái độ phục vụ Nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật hành chính,

thời gian làm việc. Mặt khác, để nâng cao chất lượng việc tổ chức hội họp của

UBND huyện Tây Giang, cần chú trọng chuẩn hóa quy trình tổ chức cuộc họp

của UBND, trong đó yêu cầu: (1) bước chuẩn bị trước cuộc họp phải đảm bảo

việc gửi dự thảo báo cáo trước cho các ủy viên UBND để có đủ thời gian nghiên

cứu (cần ấn định khoảng 2 ngày làm việc trước, trừ trường hợp đặc biệt thì trước

đó ít nhất là 01 ngày làm việc); (2) Đề cao vai trò trách nhiệm điều phối cuộc

71

họp của người chủ trì (thành viên trong Thường trực UBND được phân công) và

ưu tiên thời gian để tập thể UBND bàn bạc - thảo luận để đi đến kết luận. Đồng

thời, lãnh đạo UBND huyện cần đầu tư thời gian đi các xã để cập nhật, nắm

chắc tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả

của các cuộc họp UBND huyện.

Đối với tính đặc thù của huyện Tây Giang, cần tập chú trọng vào việc xây

dựng kiện toàn và chất lượng cơ cấu đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số

của khối UBND huyện (kể cả trong chiến lược tạo nguồn cán bộ của huyện)

phải trên cơ sở hạch toán lồng ghép tốt: (1) Về đặc điểm địa chính trị, chiến

lược an ninh quốc phòng, đối ngoại và vấn đề biên giới; (2) Về vấn đề củng cố

đoàn kết dân tộc xuất phát từ tính đa dạng quan hệ tộc người, đa dạng văn hóa

của khu vực miền núi và tính nhạy cảm về vấn đề tôn giáo... nhằm nâng cao tinh

thần cảnh giác, bản lĩnh, kiên định để đấu tranh làm thất bại các âm mưu của các

thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại/ chia rẽ khối đại

đoàn kết dân tộc, góp phần đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, củng cố quốc

phòng vững chắc đối với các khu vực địa bàn xung yếu giáp biên giới của huyện

Tây Giang.

Triển khai mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một

cửa, một cửa liên thông; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công

việc, thường xuyên họp trực tuyến, giảm dần phát hành văn bản giấy và các

cuộc họp không cần thiết. Phát huy hiệu quả Cổng thông tin điện tử huyện,

website của các xã nhằm phục vụ công tác quản lý, điều hành, giới thiệu tiềm

năng, lợi thế của địa phương. Duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của Văn phòng xã tại 10/10 xã. Tiếp tục triển khai sắp xếp bộ máy, tinh giản

biên chế theo quy định; tuyển dụng nhân sự mới có chất lượng, đáp ứng yêu cầu

72

nhiệm vụ trong điều kiện hiện nay.

Tiểu kết chương 3

Dự báo 5 năm đến, tình hình kinh tế cả nước và tỉnh Quảng Nam tiếp tục

có bước phát triển, nền kinh tế chuyển dịch mạnh sang phát triển công nghiệp,

dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao; chính trị xã hội ổn định; đời sống

vật chất, tinh thần của Nhân dân tiếp tục nâng lên. Đối với miền núi, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số sẽ tiếp tục thụ hưởng những cơ chế, chính sách đặc thù của

Trung ương, tỉnh đang triển khai. Đồng thời, khi Chương trình mục tiêu Quốc

gia phát triển kinh tế xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn

2021-2030 triển khai, với những cơ chế, chính sách vượt trội sẽ tạo bước đột

phá mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển, đời sống người dân tăng lên, công tác giảm

nghèo đạt kết quả, mục tiêu thoát nghèo bền vững của huyện khả năng hoàn

thành cao.

Tuy nhiên, trước diễn biến khó lường của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi

khí hậu và sự chống phá của các thế lực thù địch, tình hình tội phạm ngày càng

gia tăng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định, phát triển chung; tự do thương

mại vừa mở ra cơ hội phát triển nhưng cũng là nguy cơ làm sụt giảm nguồn thu

ngân sách, sẽ tác động lớn đến đầu tư phát triển miền núi, trong đó có Tây

Giang.

Bối cảnh đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân toàn huyện tiếp

tục nỗ lực hơn nữa, đoàn kết, vượt khó, phát huy nội lực, tận dụng tốt thời cơ để

thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025.

Xây dựng đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh; phát huy tối đa tiềm

năng, lợi thế, huy động tốt các nguồn lực đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng, phát

triển nông nghiệp theo hướng tập trung, chuyên canh; tăng cường quản lý, bảo

vệ rừng; giữ gìn bản sắc văn hoá Cơtu gắn với phát triển dịch vụ-du lịch; thực

hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, từng

bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh,

73

tăng cường đối ngoại; nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền,

hiệu quả vận động, tuyên truyền của mặt trận, các đoàn thể để thoát nghèo bền

vững. Phấn đấu đến năm 2030, Tây Giang nằm trong nhóm phát triển của các

74

huyện miền núi Quảng Nam.

KẾT LUẬN

Nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,

do Nhân dân, vì Nhân dân đòi hỏi phải có sự đổi mới và tiếp tục cải cách mạnh

mẽ bộ máy Nhà nước, trong đó có chính quyền địa phương nói chung, Ủy ban

nhân dân nói riêng. Đối với Uỷ ban nhân dân cấp huyện là cơ quan trực tiếp do

Hội đồng nhân dân cấp huyện bầu nên, đây là cơ quan chấp hành của Hội đồng

nhân dân cấp huyện, là cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện, nên phải chịu

trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, các đạo luật, những VBQPPL của các cơ

quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Trên cơ sở làm rõ đặc điểm và vai trò tổ chức và hoạt động của UBND cấp

huyện; đồng thời phân tích cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

các mối quan hệ của UBND cấp huyện; làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến tổ

chức và hoạt động của UBND cấp huyện. Đây chính là cơ sở hình thành khung

lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện để nghiên

cứu thực trạng tình hình tổ chức và hoạt động của UBND huyện Tây Giang, tỉnh

Quảng Nam.

Từ việc làm rõ những yếu tố đặc thù của huyện Tây Giang, tỉnh Quảng

Nam có ảnh hưởng tới tổ chức và hoạt động của UBND huyện, luận văn phân

tích cụ thể thực tiễn tình hình tổ chức và hoạt động của UBND huyện Tây

Giang, tập trung ở hai khía cạnh: (1) Tình hình cơ cấu tổ chức của UBND

huyện; (2) Tình hình xây dựng và xử lý các mối quan hệ trong quá trình tổ chức

và hoạt động của UBND huyện Tây Giang. Qua đó, luận văn đi đến đánh giá

chung về tổ chức và hoạt động của UBND huyện Tây Giang cả hai mặt ưu điểm

và hạn chế cùng nguyên nhân của nó. Trong đó, đáng lưu ý đến mặt hạn chế và

nguyên nhân của nó:

- Một là: Công tác điều hành chỉ đạo của UBND huyện nhìn chung trong

triển khai cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy và HĐND cùng cấp

75

còn chậm. Hàng năm vẫn còn một số chỉ tiêu đạt thấp so với Nghị quyết HĐND

của huyện Tây Giang đã đề ra; việc tổ chức hội họp của UBND còn nhiều (thậm

chí phải dành rất nhiều thời gian tham dự các cuộc họp do cấp tỉnh triệu tập,

nên việc đầu tư thời gian cho xử lý công việc, đi cơ sở nắm tình hình có mặt hạn

chế), khiến chất lượng và hiệu quả công việc của UBND huyện chậm được nâng

lên. Một số cuộc họp thành viên UBND có nhiều nội dung, song chậm chưa gửi

trước để nghiên cứu, nên khi vào họp buộc phải dành nhiều thời gian chiếm

dụng để đọc tài liệu tại chỗ, khiến thời gian bàn bạc - thảo luận bị hạn

chế, nên chất lượng cuộc họp để hoàn thiện các báo cáo cũng bị hạn chế theo.

- Hai là: Trong khi bộ máy của UBND cấp huyện còn chưa tinh gọn, thì

vẫn chưa có cơ chế ràng buộc gắn kết trách nhiệm với quyền hạn; sự phân định

trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân người đứng đầu cũng chưa cụ thể, rành

mạch.. Nói cách khác, trong hoạt động của UBND thực tế rất khó xem xét và

định rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu UBND và tập thể UBND. Điều này

khiến cho một số quyết định UBND huyện Tây Giang trên thực tế chưa hoàn

toàn tập trung được trí tuệ tập thể, vì chủ yếu khởi nguồn từ quyền hạn và sự

quyết định của Thường trực UBND huyện, còn các ủy viên tham gia chỉ có mức

độ hạn chế. Nói cách khác, chế độ hoạt động tập thể của UBND huyện Tây

Giang còn thiên về tính thông báo nhiều hơn.

- Ba là: Việc minh bạch hóa, công khai hóa và giải trình trách nhiệm của

UBND huyện cũng có nhiều bất cập/ hạn chế.

- Bốn là: UBND huyện cũng chưa phối hợp đồng bộ với Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp.

- Năm là: Pháp luật hiện hành ở lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước

có tính đồng bộ chưa cao. Việc thực hiện phân cấp quản lý hành chính giữa cấp

tỉnh và cấp huyện cũng chưa rõ, dẫn đến thẩm quyền và trách nhiệm chưa được

xác định một cách tương xứng. Quan hệ giữa UBND huyện với UBND tỉnh vẫn

76

còn bị cơ chế “xin-cho” chi phối nhất định.

Từ thực trạng nêu trên, luận văn đề xuất một số nội dung của các quan

điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện

từ thực tiễn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam (như đã trình bày trong luận

văn). Hầu mong đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong tổ

77

chức và hoạt động của UBND cấp huyện từ thực tiễn huyện Tây Giang.../.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Hồng Anh, Viện nghiên cứu lập pháp “Về mô hình tổ chức chính

quyền địa phương ở đô thị và chính quyền địa phương ở nông thôn”;

2. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2000NĐ-CP quy định về cơ cấu các cơ

quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.

3. Chính phủ (2010), Nghị định số 12/2010/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một

số điều của Nghị định số Nghị định số 14/2000NĐ-CP quy định về cơ cấu

các cơ quan chuyên môn thuộc huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

4. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP về ban hành chương trình tổng

thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020

5. Chủ tịch lâm thời Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh số

63/SL ngày 23/11 về tổ chức chính quyền địa phương nông thôn.

6. Chủ tịch lâm thời Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh số

77/SL ngày 21/12 về tổ chức chính quyền địa phương ở các đô thị.

7. Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 11/SL về tổ

chức chính quyền nhân dân các thị xã.

8. Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1947), Sắc lệnh số 91/SL ngày

02/10 quy định Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính.

9. Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1947), Sắc lệnh 150/SL ngày

25/3 quy định nhiệm vụ và cải cách tổ chức của Hội đồng Chủ tịch Nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa (1947); Sắc lệnh 151/SL ngày 25/03 quy định

thành phần Ủy ban kháng chiến hành chính.

10. Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948), Sắc lệnh 149 SL ngày

29/03 quy định về việc đổi tên các Ủy ban hành chính.

11. Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948), Sắc lệnh số 254/SL

ngày 19/11 về việc tổ chức lại chính quyền trong thời chiến.

12. Chi cục thống kê huyện Tây Giang (2019), Niên giám thống kê năm 2019

của huyện, Tây Giang.

13. Nguyễn Đăng Dung (1996), Tổ chức Chính quyền Nhà nước ở địa phương

(Lịch sử và hiện đại), Nxb Đồng Nai.

14. Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai

đoạn hiện nay. NXB Tư pháp. Hà Nội.

15. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, 1 Hà Nội.

17. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, I Hà Nội.

18. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2017), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

25. Nguyễn Duy Gia (1996), Cải cách nền hành chính ở nước ta, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

26. Trần Minh Hương và các tác giả (2001), Giáo trình Luật Hành chính Việt

Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân.

27. Vũ Thu Hằng, Khoa Nhà nước và pháp luật Đại học Nội vụ Hà Nội “Phát

huy vai trò của Nhân dân trong xây dựng và giám sát hoạt động của chính

quyền địa phương”;

28. Huyện ủy Tây Giang khóa XVII (2020), Báo cáo chính trị của Ban chấp

hành Đảng bộ khóa XVII, nhiệm kỳ 2020 -2025, Tây Giang.

29. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam (2017), Nghị quyết số 12/2017/NQ-

HĐND 19/4/2017 của HĐND tỉnh Quảng Nam về phát triển kinh tế - xã

hội miền núi tỉnh, Quảng Nam.

30. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Khoa Nhà nước và pháp luật Đại học Nội vụ Hà

Nội, “Một số điểm mới của Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015”.

31. Trương Đắc Linh (2000), Bàn thêm về thẩm quyền phê chuẩn kết quả bầu

cử thành viên Ủy ban nhân các cấp, Đặc san khoa học pháp lý, số 4/2000,

tr 10.

32. VI. Lênin (1977), Bàn về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

33. Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giải pháp nâng cao hiệu

quả hoạt động của chính quyền địa phương trong bối cảnh thực thi Luật tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015”.

34. Đỗ Thị Thanh Nga, Khoa Hành chính học Đại học Nội vụ Hà Nội, “Một

số điểm mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy

ban nhân dân theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015”.

35. Quốc hội (1946). Hiến pháp nuớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Hà Nội.

36. Quốc hội (1958) Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 1958, Hà Nội.

37. Quốc hội (1959), Hiến pháp Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa khoá thứ

nhất, kỳ họp thứ 11, Hà Nội.

38. Quốc hội (1962), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính

1962, Hà Nội.

39. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hà Nội.

40. Quốc hội (1983). Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

1983, Hà Nội.

41. Quốc hội (1989), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

1989, Hà Nội.

42. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

43. Quốc hội (1994), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

1994, Hà Nội.

44. Quốc hội (2001), Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12 về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.

45. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

2003, Hà Nội.

46. Quốc hội (2004), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng

nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.

47. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

48. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Hà Nội.

49. Phạm Hồng Thái (1994), Tổ chức và hoạt động của các cơ quan chính

quyền địa phương, trong tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ

máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Thái Vĩnh Thắng (2002), Tổ chức chính quyền địa phương cùa nước cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam — quá trình hình thành và phát triển,

những bất cập và phương hướng đổi mới, Tạp chí Luật học, (số 4/2002).

51. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (đồng chủ biên) (2002), Những vấn đề

lý luận và thực tiễn về Chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

52. Lê Minh Thông (2005), Cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương đáp ứng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân, vì dân, Đề tài cấp nhà nước KX.04.

53. Văn Tất Thu (2008), chủ trương, quan điểm của Đảng và nhà nước về tổ

chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta, Tạp chí quản lý nhà nước,

(số 12).

54. Vũ Thư (2009), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý cho

chính quyền địa phương ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số

4/2009).

55. Vũ Thư, Viện Nhà nước và pháp luật “ Những vấn đề cơ bản trong quy

định về chính quyền địa phương của Hiến pháp sửa đổi”;

56. Tỉnh ủy Quảng Nam khóa XXI (2020), Quy định số 05-QĐ/TU của BTV

Tỉnh ủy về tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh

ủy quản lý, Quảng Nam.

57. Tỉnh ủy Quảng Nam khóa XXI (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày

17/8/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam về các chính sách liên quan đến phát

triển kinh tế xã hội miền núi, Quảng Nam.

58. Đào Trí Úc (chủ biên) (2005), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - Những

thành tựu chủ yếu của 60 năm xây dựng và phát triển, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, (số 9).

59. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

60. Ủy ban nhân dân huyện Tây Giang (2021), Báo cáo số 15/BC-UBND ngày

25/01/2021 về tổng kết hoạt động của UBND các cấp, nhiệm kỳ 2016 -

2021 phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tây Giang.

61. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009). Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12

ngày 16/01/2009 quy định về danh sách các huyện, quận, phường của các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức

Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Hà Nội.

62. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009). Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12

ngày 16/01/2009 quy định về việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn cua Hội

đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và

quy đinh nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân

huyện, quận, phường nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận

phường, Hà Nội.

63. Trương Quốc Việt, Khoa Hành chính học Trường Đại học Nội vụ Hà Nội,

“Sự phát triển của của chế định chính quyền địa phương qua các bản Hiến

pháp”.