BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

................/............... ......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN HỒNG PHONG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

................/............... ......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN HỒNG PHONG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình” là do tôi viết. Đây là công trình

nghiên cứu khoa học của tác giả dựa trên sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ

Trọng Hách. Các tài liệu tham khảo và kết quả nghiên cứu thực tế có nguồn

gốc rõ ràng, trung thực. Nội dung và số liệu thể hiện trong đề tài là kết quả

nghiên cứu của tác giả. Tôi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Trần Hồng Phong

LỜI CẢM ƠN

Việc viết nên Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở

nhà trường, với sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cô

Học viện Hành chính quốc gia, kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình thực

tiễn công tác và sự cố gắng nỗ lực của bản thân.

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới

PGS.TS Vũ Trọng Hách đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình chỉ dạy

cho tôi về kiến thức cũng như phương pháp nghiên cứu trong thời gian thực

hiện đề tài.

Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo Học viện Hành chính

quốc gia Hà Nội và phân viện Miền Trung; cô giáo chủ nhiệm lớp LH3 - T2,

bạn bè đồng môn và anh chị em cơ quan đã giúp đỡ tôi trong quá trình học

tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.

Mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn sẽ không

tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các

Thầy Cô, đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn !

Học viên

Trần Hồng Phong

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết

Danh mục bảng, biểu đồ

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ ............ 10

1.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ ...................................................................................................... 10

1.2. Vai trò của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ................ 16

1.3. Đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ ................................................................................................................. 18

1.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ ...................................................................................................... 23

1.5. Các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ ............................................................................................ 26

1.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ........................................................ 33

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 35

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH

QUẢNG BÌNH ........................................................................................... 37

2.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức thực hiện pháp luật về trật tư, an

toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ............................................... 37

2.2. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ........................................................................ 41

2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ ............................................................................................ 59

2.4. Nguyên nhân của những kết quả đạt được và hạn chế ............................ 67

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 73

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT

TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .......................................... 74

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ........................................................ 74

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ ............................................................. 77

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 98

KẾT LUẬN ................................................................................................. 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATGT An toàn giao thông

ATGTĐB An toàn giao thông đường bộ

TT,ATGT Trật tự, an toàn giao thông

TT,ATGTĐB Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

ATGT An toàn giao thông

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình ............ 37

Bảng 2.2: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ tỉnh Quảng Bình ................................................................. 41

Bảng 2.3: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình qua các

năm .............................................................................................................. 64

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1.Tuần tra kiểm soát An toàn giao thông ...................................... 54

Biểu đồ 2.2 : Tai nạn giao thông đường bộ tại các địa bàn tỉnh năm 2014 .... 64

Biểu đồ 2.3 : Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2015 ........................ 65

Biểu đồ 2.4. Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2016 ......................... 65

Biểu đồ 2.5: Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2017 ......................... 66

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giao thông vận tải có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển

kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của quốc gia. Giao thông vận tải nói

chung và giao thông đường bộ nói riêng tạo nên sự kết nối giao thương giữa

các miền, vùng và khu vực trên thế giới cũng như đáp ứng nhu cầu đi lại, sinh

hoạt của người dân, từ đó, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt trong đời sống xã

hội. Trong giao thông, vấn đề đảm bảo trật tự, an toàn giao thông là yêu cầu

hàng đầu và là chiến lược phát triển của bất kì quốc gia nào trên thế giới.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương,

giải pháp chỉ đạo quyết liệt nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp

luật, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Dưới sự tổ chức thực hiện

trực tiếp của các lượng lượng chủ chốt như Công an giao thông, Thanh tra

giao thông, Cảnh sát trật tự đô thị...hoạt động giao thông đường bộ có nhiều

chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển đất

nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc

tế. Tuy vậy, tình hình tai nạn giao thông đường bộ, mất mĩ quan trong giao

thông vẫn xảy ra thường xuyên ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Tai nạn

giao thông, ùn tắc giao thông đang là vấn đề nóng, gây hậu quả to lớn đối với

tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người và sự phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó nguyên

nhân quan trọng là công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông chưa hiệu quả. Thực tiễn chứng minh rằng, ở đâu công tác tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ tốt thì ở đó tai nạn

giao thông đường bộ ít xảy ra và kinh tế, xã hội phát triển mạnh mẽ.

Ở tỉnh Quảng Bình, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ đã được các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm.

Trong những năm vừa qua, tỉnh Quảng Bình đã chú trọng công tác xây dựng,

1

ban hành, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông nhằm cụ thể hóa Luật An toàn giao thông đường bộ, các Quyết định,

Chỉ thị của Bộ Giao thông Vận tải, Ban An toàn giao thông Quốc gia...Bên

cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ, công tác tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm cũng được

triển khai quyết liệt góp phần kiềm chế tai nạn giao thông đường bộ. Theo số

liệu báo cáo của Ban an toàn giao thông Quốc gia, năm 2016, tỉnh Quảng

Bình xếp thứ 14/63 tỉnh, thành phố về giảm tai nạn giao thông. Mặc dù vậy,

tai nạn giao thông đường bộ vẫn liên tục xảy ra, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó

lường, trật tự, an toàn giao thông, an toàn xã hội chưa được đảm bảo. Công

tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa

đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực

trạng tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở

tỉnh Quảng Bình, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động tổ chức, thực hiện pháp luật, góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông

đường bộ, ổn định trật tự xã hội mang tính cấp thiết. Xuất phát từ lý do đó,

học viên chọn đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp cao học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ là nhiệm vụ trọng yếu,

thường xuyên của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Trong đó, tổ chức thực

hiện pháp luật về giao thông đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều

chỉnh hành vi, thái độ của người tham gia giao thông. Liên quan đến vấn đề

trật tự, an toàn giao thông đường bộ như ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông,

ý thức tham gia giao thông, tổ chức thực hiện pháp luật luôn là đề tài thu hút

nhiều nhà khoa học nghiên cứu.

Ở nước ngoài có các công trình nghiên cứu sau:

“Báo cáo - “Báo cáo về tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở các

quốc gia trên thế giới” do Tổ chức y tế thế giới công bố vào năm 2013. Trên

2

cơ sở nghiên cứu tình hình tai nạn giao thông trên thế giới, Tổ chức y tế thế

giới cho rằng, vấn đề an toàn giao thông đường bộ đã trở thành vấn nạn toàn

cầu khi cướp đi mạng sống và để lại thương tật suốt đời cho hàng triệu người

mỗi năm. Hơn 90% các ca tử vong do tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ở

các quốc gia có thu nhập thấp và thu nhập trung bình chủ yếu trong độ tuổi

khoảng từ 15 đến 44 chiếm 59% số ca tử vong do tai nạn giao thông gây ra.

Chính vì vậy, một trong các một tiêu phát triển bền vững của WHO là đến

năm 2020 giảm một nữa số tử vong và chấn thương do tai nạn giao thông

đường bộ.

Năm 2009, tác giả Golovko Vladimir Vladimrovich xuất bản cuốn

“Hoạt động hành chính pháp lý của cơ quan quản lý đường bộ”. Cuốn sách

nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý hành chính nhà nước về giao thông

đường bộ trong việc giảm thiểu tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, phân

tích các hoạt động quản lý hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

Năm 2011, tác giả Adil Aybek Nasirovich xuất bản cuốn “Về mặt lý

thuyết, khuôn khổ pháp lý và thể chế nâng cao hiệu quả làm việc của cảnh sát

trật tự công cộng tại nước Cộng hòa Kyrgyzstan”. Thông qua việc phân tích

thực trạng giao thông công cộng tại nước Cộng hòa Kyrgyzstan và vai trò của

Cảnh sát đối với việc đảm bảo trật tự, an toàn giao thông công cộng, tác giả

đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cảnh sát trật tự

công cộng tại nước Cộng hòa Kyrgyzstan.

Ở Việt Nam, liên quan đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ có

nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết được công bố trên các tạp chí, hội

thảo dưới các góc độ khác nhau.

Năm 2008, tác giả Hoàng Long biên soạn cuốn “Các giải pháp khắc

phục những tồn tại trong việc thực hiện Luật giao thông đường bộ”. Cuốn

sách đánh giá việc thực hiện Luật giao thông đường bộ ở thành phố Hà Nội và

đề xuất các giải pháp phòng, chống ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông.

3

Năm 2003, TS. Trần Văn Luyện, Kỹ sư Trần Sơn, Cử nhân Nguyễn

Văn Chính xuất bản cuốn “Trật tự, an toàn giao thông đường bộ - Thực trạng

và giải pháp”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Từ thực trạng giao

thông như tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông trong nước, tác giả đề xuất

các giải pháp nhằm hạn chế tai nạn giao thông đường bộ. Đặc biệt, cuốn sách

phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng giao thông đường bộ ở nước ta

hiện nay, chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản có liên quan đến công

tác tổ chức, thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, trong

đó nhấn mạnh đến công tác xây dựng, ban hành văn bản, công tác quản lí,

điều hành, công tác xây dựng phát triển lực lượng thực thi công vụ...

Năm 2014, tập thể tác giả gồm Đại tá, PGS,TS. Phạm Đình Xinh;

Thượng tá, ThS. Phùng Xuân Hào; Thiếu tá, TS. Lê Huy Trí; Đại úy, TS.

Nguyễn Thành Trung; Đại úy, ThS. Đặng Đức Minh; Trung úy, ThS. Nguyễn

Đức Khiêm; Trung úy, ThS. Nguyễn Thế Anh và cán bộ Trung tâm Nghiên

cứu ATGT, Học viện Cảnh sát nhân dân xuất bản cuốn sách “Trật tự, an toàn

giao thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương - Thực

trạng và giải pháp”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Qua việc

nghiên cứu thực tiễn tình hình giao thông đường bộ trên 5 địa bàn thành phố

trực thuộc trung ương (Thành phố Hà Nội, Thành phố Hải Phòng, Thành phố

Đà Nẵng, Thành phố Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh), nhóm tác giả đề

xuất các giải pháp nhằm đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên cả

nước nói chung và trên các địa bàn nghiên cứu nói riêng.

Ngoài các công trình nghiên cứu khoa học trên, còn có rất nhiều Hội

thảo khoa học, các bài nghiên cứu khoa học đăng ở các Tạp chí đã góp phần

làm sáng tỏ cơ sở lý luận về giao thông đường bộ dưới nhiều góc độ khác

nhau. Tiêu biểu có Hội thảo về cơ sở dữ liệu an toàn giao thông đường bộ

giữa các nước APEC do Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Uỷ ban An toàn

giao thông quốc gia Việt Nam, Cục An toàn đường bộ Bộ Giao thông vận tải

Hoa Kỳ và Nhóm công tác Giao thông Vận tải APEC tổ chức ngày 5-

4

7/9/2012. Hội thảo đã nêu bật được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở

dữ liệu an toàn giao thông đường bộ giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định

chính sách xác định được chính xác các nguyên nhân gây tai nạn giao thông

đường bộ để từ đó đưa ra các chính sách và biện pháp hiệu quả trong phòng

chống và giảm thiểu tai nạn giao thông.

Ngày 4/8/2016 Bộ Giao thông Vận tải phối hợp với Tổ chức y tế Thế

giới tổ chức Hội thảo khoa học “Một số quy định của pháp luật về bảo đảm

trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong Luật giao thông đường bộ”. Hội

thảo đã tổng kết, đánh giá một số quy định của pháp luật liên quan đến bảo

đảm trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đề xuất

một số kiến nghị, bổ sung.

Ngày 28/12/2016 Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia phối hợp với

Báo nhân dân tổ chức Hội thảo quốc gia: “Văn hóa giao thông - Trách nhiệm

thuộc về ai?”. Hội thảo khẳng định văn hóa giao thông chính là nền tảng để

tạo nên một môi trường giao thông an toàn, thân thiện và nhân ái. Việc nâng

cao văn hóa giao thông không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi nhận thức và tự

giác của người tham gia giao thông mà còn phải có sự tác động thường xuyên,

liên tục của những người thực thi công vụ để tạo ra môi trường giao thông

thật sự văn minh, an toàn bền vững cho người dân. Hội thảo đã đặt ra mục

tiêu năm 2017 kéo giảm số người chết vì tai nạn giao thông xuống dưới 8000

người.

Về luận văn năm 2010 có luận văn khoa học của tác giả Nguyễn Quang

Huy “Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ

ở Thái Nguyên”. Luận văn phân tích thực trạng giao thông đường bộ ở Thái

Nguyên từ đó đề xuất một số giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông đường

bộ ở Thái Nguyên hiện nay.

Ở Quảng Bình, năm 2010, nhóm tác giả Nguyễn Minh Lê, Sở Khoa học

Công nghệ tỉnh Quảng Bình có bài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trượt

lỡ đất, đá trên sườn dốc đường giao thông miền núi tỉnh Quảng Bình. Trên cơ

5

sở nghiên cứu, khảo sát 197 điểm trượt lở thuộc tuyến đường TL10, TL11,

đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 12A, đề tài đi sâu tìm hiểu các yếu tố dẫn đến

trượt lỡ đất, đá trên sườn dốc miền núi và những hệ lụy của hiện tượng trượt

lở đất, đá đối với giao thông đường bộ tại các xã miền núi.

Năm 2013 tác giả Đặng Quang Tuân nghiên cứu đề tài khoa học « Phổ

biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông - qua thực tiễn tỉnh Quảng

Bình ». Công trình nêu bật vị trí, vai trò, mục đích của phổ biến, giáo dục

pháp luật, thực tiễn công tác giáo dục pháp luật giao thông ở Quảng Bình và

đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình.

Tất cả các nghiên cứu trên đã phản ánh tính đa chiều trong lĩnh vực

giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay. Quá trình nghiên cứu, tác giả nhận

thấy cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng

Bình. Tuy vậy, các đề tài khoa học, các bài báo, hội thảo như trích dẫn ở trên

đã góp phần gợi mở cho tác giả nhiều vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu hoạt động tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự an toàn, giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình.

- Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát các số liệu thống kê liên quan

đến thực trạng công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ từ năm 2014 đến năm tháng 8/2017.

6

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

4.1. Mục đích

Mục đích của đề tài là qua việc nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình, phân

tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật,

từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình.

4.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:

- Làm rõ cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự an toàn

giao thông đường bộ.

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình.

- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của đề tài là căn cứ vào các điều luật trong bộ Luật giao

thông, quan điểm chỉ đạo và chiến lược phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh

Quảng Bình; Báo cáo của Ban An toàn Quốc gia và Ban An toàn giao thông

Quảng Bình, Báo cáo công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ

của Công an giao thông, Thanh tra giao thông ở tỉnh Quảng Bình.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp duy vật vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học

Mác-Lênin

Đề tài sử dụng phương pháp này nhằm thấy được sự tác động, ảnh

hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, các chủ thể thực thi pháp luật trong lĩnh vực

giao thông đường bộ, thấy được những thay đổi trong việc thực thi pháp luật

7

giao thông đường bộ do sự tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội. Từ đó, đề

xuất các giải pháp toàn diện, cụ thể hơn.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thu thập thông tin liên quan

đến đề tài qua việc phân tích tài liệu có sẵn để xây dựng cơ sở lý luận cho đề

tài nghiên cứu. Qua đó đã xác định được các khái niệm, các văn bản pháp luật

về lĩnh vực giao thông đường bộ.

- Phương pháp quan sát

Trên cơ sở đi thực tế các tuyến giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

để quan sát, đánh giá khách quan về thực trạng trật tự, an toàn giao thông

đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn. Từ đó, đề xuất các

giải pháp mang tính khả thi.

Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như

phương pháp so sánh, thống kê toán học nhằm mục đích hỗ trợ cho việc xử lý

số liệu điều tra.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

6.1. Đóng góp về mặt lý luận

Đề tài là công trình nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình một cách có hệ

thống. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú hơn lý luận về

tổ chức, thực hiện pháp luật an toàn giao thông đường bộ. Đồng thời, đưa ra

các cơ sở khoa học để đánh giá mức độ thực thi pháp luật giao thông đường

bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó, đề tài là tài liệu tham khảo

cho việc nghiên cứu và giảng dạy, tuyên truyền về pháp luật giao thông

đường bộ ở tỉnh Quảng Bình.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua các hoạt động nghiên cứu đề tài như điều tra, phỏng vấn,

góp phần truyền thông về việc chấp hành pháp luật giao thông đường bộ tại

8

địa phương. Ngoài ra, đề tài còn cung cấp cho chính quyền địa phương những

tư liệu cần thiết nhằm đánh giá chính xác hơn về công tác tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn nghiên cứu.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ

Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng

Bình

9

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ

1.1.1. Khái niệm giao thông đường bộ và trật tự, an toàn giao thông

đường bộ

Giao thông nói chung và giao thông đường bộ (GTĐB) nói riêng là một

trong những nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống, là thước đo văn

minh của mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa đến

nay đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông mà trước hết là giao thông

đường bộ. Dưới góc độ kinh tế, giao thông đường bộ được ví là huyết mạch

kinh tế của quốc gia, là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước cũng như năng lực tổ chức quản lý và văn minh

của một quốc gia. Vì vậy, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông là chiến lược của

bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Đường bộ là đường đi trên đất liền dùng

cho người và xe cộ” [16; tr 346]. Điều 3, Luật giao thông đường bộ 2008 quy

định: "Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường

bộ" [23; tr 1]. Như vậy, giao thông đường bộ được hiểu là việc đi lại từ nơi

này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu

đường bộ,hầm đường bộ, bến phà qua sông, suối nối đường bộ.

Về khái niệm trật tự, an toàn giao thông đường bộ (TT, ATGTĐB) cho

đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau. Trong cuốn “An toàn giao thông

đường ô tô” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Hữu Dũng, nhà

xuất bản Xây dựng năm 2011 định nghĩa trật tự, an toàn giao thông đường bộ

10

“là một hệ thống đường - xe cộ - người lái dưới sự tác động của quá trình xây

dựng đường, luật giao thông, điều kiện thời tiết và mức độ an toàn của các

phương tiện giao thông” [14, tr 14]. Định nghĩa này nhấn mạnh các yếu tố tác

động tạo nên an toàn trong lưu thông trên đường bộ.

Tiếp cận dưới góc độ trật tự an toàn xã hội, Đề án tăng cường bảo đảm

trật tự, an toàn giao thông giai đoạn 1999 - 2005 của Bộ Giao thông vận tải

định nghĩa: “Trật tự, an toàn giao thông đường bộ là một mặt của trật tự, an

toàn xã hội. Là việc các đối tượng tham gia giao thông thực hiện nghiêm chỉnh

các quy định pháp luật về giao thông đường bộ do Nhà nước ban hành nhằm

đảm bảo giao thông đường bộ được thông suốt; người, hàng hóa, phương tiện

tham gia giao thông không bị xâm hại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn

hóa và nhu cầu đi lại của nhân dân, góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp

luật, đấu tranh phòng chống tội phạm trên các tuyến đường và ở từng địa bàn”

[2; tr 23]. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì trật tự, an toàn giao

thông đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều

chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng

mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao

thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây

thiệt hại về người và tài sản [12; tr.130].

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ nhưng đều có những điểm chung. Đó là trật tự, an toàn giao thông

đường bộ thể hiện mọi hoạt động giao thông diễn ra ở đường bộ nhanh chóng,

thuận tiện; bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, không bị ùn tắc, không có tai nạn, vệ

sinh môi trường, mĩ quan đô thị được bảo đảm. Xã hội càng hiện hiện đại, văn

minh thì yêu cầu về trật tự, an toàn giao thông đường bộ càng cao.

Trật tự, an toàn giao thông nói chung và trật tự, an toàn giao thông

đường bộ nói riêng của mỗi quốc gia vừa là hiệu quả của nhiều hoạt động

11

khác nhau trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vừa phản

ánh sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Sự hình thành, tồn tại, phát

triển của mỗi quốc gia nói chung và vùng đô thị hay mỗi khu kinh tế nói riêng

đều phụ thuộc vào quy mô tổ chức hoạt động giao thông, đảm bảo trật tự, an

toàn giao thông.

Trên cơ sở đó, trật tự, an toàn giao thông đường bộ được hiểu là trạng

thái giao thông tiện lợi, thông suốt, có tính mĩ quan, an toàn cho người và tài

sản khi tham gia giao thông.

1.1.2. Khái niệm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Hoạt động giao thông bao giờ cũng mang tính pháp lý vì nó được điều

chỉnh bằng hệ thống quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi chủ thể khi tham gia

giao thông phải tuân theo. Ở Việt Nam, trật tự, an toàn giao thông đường bộ

luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhà nước và xã hội. Hàng hoạt các

văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm xây dựng khung pháp lý

đồng bộ, toàn diện nhằm góp phần thiết lập trật tự, an toàn giao thông đường

bộ.

Pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các quy

tắc xử sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao thông đường bộ, góp phần đảm

bảo trật tự, an toàn giao thông. Dưới tác động điều chỉnh của những quy phạm

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ thì các quan hệ xã hội phát

sinh trong lĩnh vực giao thông đường bộ được thiết lập có trật tự, theo ý chí

của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các

hoạt động trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên quy mô

toàn quốc, từng địa bàn, từng khu vực, đảm bảo giao thông được vận hành

thông suốt và sự an toàn của con người được bảo vệ.

12

Để quản lý xã hội, Nhà nước phải ban hành pháp luật và để pháp luật đi

vào cuộc sống cần phải tổ chức thực hiện pháp luật. Thực tiễn chứng minh

rằng, quản lý nhà nước chỉ được đánh giá là có hiệu quả khi pháp luật đi

vào cuộc sống, hay nói cách khác pháp luật phải được tổ chức, thực hiện hiệu

quả trong thực tế. Tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động đặc biệt quan

trọng vì nhờ đó pháp luật đi vào thực tế cuộc sống. Với ý nghĩa đó, tổ chức

thực hiện pháp luật về an toàn giao thông đường bộ là hoạt động không thể

thiếu trong quá trình thiết lập trật tự pháp luật. Đó là trách nhiệm của Đảng,

các cơ quan, tổ chức, cá nhân từ trung ương đến địa phương, trong đó trực

tiếp nhất là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thuộc lĩnh vực giao

thông mà trước hết là cảnh sát giao thông, cảnh sát 113, Thanh tra giao thông,

đội quy tắc đô thị... bằng các hình thức, phương pháp phù hợp nhằm tổ chức

cho các đối tượng liên quan thực hiện các quy định pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ. Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ là hoạt động có mục đích, có định hướng của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền với sự phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành và chính quyền

địa phương các cấp; là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực về con

người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất nhằm triển khai thực hiện các văn bản

pháp luật về giao thông đường bộ. Dưới sự tổ chức thực hiện và quản lý của

các lực lượng chức năng như ban an toàn giao thông, công an giao thông,

thanh tra giao thông...các chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo

và xử sự có văn hóa nhằm bảo đảm an toàn cho người và tài sản khi tham gia

giao thông; hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông (TNGT) và ùn tắc

giao thông, bảo đảm giao thông được tiện lợi và thông suốt.

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là

hoạt động của các cơ quan chức năng thuộc lĩnh vực giao thông đường bộ

trong quá trình quản lý, điều hành và triển khai thực hiện các quy định về trật

13

tự, an toàn giao thông đường bộ, thiết lập, duy trì trật tự, an toàn giao thông

đường bộ, xây dựng văn hóa giao thông, bảo đảm giao thông đường bộ thông

suốt, an toàn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng,

an ninh và hội nhập quốc tế. Đây là hoạt động tiếp nối sau khi ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật về an toàn giao thông đường bộ. Trên thực tế,

việc tổ chức thực hiện pháp luật là giai đoạn quan trọng của thực hiện pháp

luật. Ở giai đoạn này cần tiến hành những hoạt động có tính tổ chức, kĩ thuật,

điều hành nhằm đảm bảo về mặt vật chất, kĩ thuật cho việc thực hiện đúng

đắn các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành và có hiệu lực thi

hành. Trên cơ sở các quy định pháp luật ban hành văn bản áp dụng pháp luật

trong lĩnh vực trật tự, giao thông đường bộ và tổ chức thi hành, tổ chức, cá

nhân có liên quan trong thời hạn quy định của pháp luật tiến hành tổ chức,

thực hiện văn bản áp dụng pháp luật đó. Đồng thời, ở giai đoạn này cần tiến

hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành quyết định áp dụng pháp

luật giao thông đường bộ, giám sát các hoạt động mang tính pháp lý và các

hoạt động khác nhằm tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ. Đó là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm pháp

luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

Như vậy, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ là hoạt động có mục đích, có định hướng của các cơ quan hành

chính nhà nước có thẩm quyền nhằm triển khai và thực thi các quy định pháp

luật trong thực tế đời sống xã hội.

Nội dung pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ được tổ

chức thực hiện bao gồm các quy định pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ, trong đó quan trọng nhất là Luật Giao thông đường bộ. Luật Giao

thông đường bộ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008. Luật bao gồm 8 chương

14

có 89 điều bao gồm những quy định chung, quy định nguyên tắc giao thông

đường bộ, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện giao thông

đường bộ. Để triển khai thi hành các văn bản luật, Chính phủ đã ban hành 17

nghị định; Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành 35 thông tư; 07 Thông tư liên

tịch liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tiêu biểu như Nghị

quyết số 88/CP-NQ ngày 24/8/2011 của Chính phủ về tăng cường các giải

pháp trọng tâm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, Nghị định số 46/2016/NĐ-

CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ và đường sắt; Nghị định số 24/2015/NĐ-CP của Chính phủ

quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật giao thông đường

thủy nội địa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giao thông đường

thủy nội địa; Thông tư số 01/2016/TT-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an Quy

định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao thông

đường bộ của Cảnh sát giao thông; Thông tư số 02/2016/TT-BCA của Bộ

trưởng Bộ Công an quy định quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông;

Thông tư số 41/2016/TT-BCA ngày 12/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Công an

quy định quy trình đăng ký xe... Ở Quảng Bình, ngày 2/5/2013, Uỷ Ban nhân

dân (UBND) tỉnh ban hành Quyết định số 970/QĐ-UBND về việc phê duyệt

Chiến lược bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ một cách bền vững

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Chiến

lược có những nội dung chính như giảm tai nạn giao thông trên cả ba tiêu chí

số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương; tránh ùn tắc giao thông,

phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; xóa bỏ 100% các điểm đen, các vị trí có

nguy cơ tiềm ẩn tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh; giáo dục, truyên truyền

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong trường học, trong khu dân cư,

cho lái xe. Ngoài ra, UBND tỉnh Quảng Bình cũng đã ban hành nhiều văn bản

15

khác nhau điều chỉnh quan hệ pháp luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ

trên địa bàn.

1.2. Vai trò của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các hành vi của các chủ thể

trong xã hội nên có vai trò rất lớn lớn trong việc thiết lập trật tự, an toàn giao

thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng.

Một là, pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà các chủ thể tham gia

giao thông đường bộ và các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ phải thực hiện.

Pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ quy định các quy tắc

xử sự mà các chủ thể phải thực hiện khi tham gia giao thông và tổ chức thực

hiện pháp luật. Pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ với tư cách

là công cụ điều chỉnh và điều tiết hành vi của các thành viên trong xã hội

hướng các hành vi của các chủ thể đi vào khuôn khổ, thiết lập trật tự, đảm bảo

giao thông đường bộ được thông suốt, an toàn và thuận lợi. Pháp luật quy

định các chế tài hình sự, hành chính, kinh tế buộc các tổ chức, cá nhân phải

thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc đảm bảo trật tự, an toàn

giao thông. Bằng các chế tài cụ thể, pháp luật về trật tự, an toàn giao thông xử

phạt các chủ thể có hành vi vi phạm, ngăn ngừa, cải tạo và giáo dục họ. Ngoài

ra, các chế tài còn có tác dụng răn đe, giáo dục các chủ thể khác khiến họ phải

tôn trọng và tuân theo các quy tắc xử sự đã được quy định trong quy phạm

pháp luật về trật tự, an toàn, giao thông, ngăn ngừa các hành vi vi phạm, đảm

bảo hiêu lực quản lý nhà nước về giao thông đường bộ.

Hai là, pháp luật góp phần hình thành ý thức nghiêm chỉnh chấp hành

pháp luật của người tham gia giao thông và những chủ thể tổ chức thực hiện

pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

16

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông cùng với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao

thông đường bộ được triển khai thực hiện thường xuyên, trên diện rộng với

nhiều hình thức đã hình thành ý thức pháp luật về giao thông. Đây là một

trong những nhiệm vụ quan trọng vừa cấp bách vừa mang tính cơ bản lâu dài

nhằm hình thành nếp sống văn minh, ý thức chấp hành pháp luật, tạo thói

quen cho người tham gia giao thông đường bộ chấp hành đúng quy định của

pháp luật.

Ba là, pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ góp phần thúc

đẩy sự phát triển của ngành giao thông đường bộ và nền kinh tế đất nước.

Luật Giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo

cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng, triển khai thực hiện chiến lược, quy

hoạch phát triển giao thông đường bộ; tạo hành lang pháp lý để quản lý, thúc

đẩy sự phát triển của ngành, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước. Công tác bảo trì

đường bộ được chú trọng, hệ thống báo hiệu đường bộ đã được hoàn chỉnh

theo hướng hiện đại, ứng dụng vật liệu mới; công tác tổ chức quản lý, bảo vệ

công trình, hành lang an toàn đường bộ, xử lý điểm đen, cải thiện các yếu tố

kỹ thuật của cầu đường đã được chú trọng giải quyết. Khối lượng vận tải hành

khách và hàng hóa tăng nhanh, ổn định. Khuôn khổ pháp lý và trật tự, an toàn

giao thông thúc đẩy phương tiện giao thông cơ giới đường bộ phát triển

mạnh. Tăng cường công tác quản lý người lái xe, thực hiện xã hội hóa công

tác đào tạo. Công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe đã được áp dụng

công nghệ thông tin, tự động hóa và tăng cường theo hướng nâng cao trách

nhiệm, kỷ cương, công khai, minh bạch, chịu sự giám sát của người học, của

dư luận xã hội, của cơ quan quản lý nhà nước.

17

1.3. Đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ

Thứ nhất, quan hệ pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ rất

đa dạng với nhiều chủ thể tham gia thuộc mọi đối tượng, mọi tầng lớp; nhiều

phương tiện tham gia từ thô sơ đến ô tô, xe tải trong không gian rộng lớn bao

gồm cả thành thị, nông thôn, đồng bằng và miền núi với thời gian không giới

hạn. Tính đa dạng này đồng thời cũng hàm chứa nhiều sự phức tạp dẫn đến

đường bộ xảy ra nhiều tai nạn giao thông nhất.

Thứ hai, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ rất đa dạng nhưng chủ yếu là các cơ quan, cán bộ, công chức

trong bộ máy hành chính nhà nước. Các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ bao gồm hệ thống cơ

quan quản lý chung gồm Chính phủ và UBND các cấp; hệ thống cơ quan

chuyên môn có trách nhiệm trực tiếp tổ chức, thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ là hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giao

thông, trong đó chủ yếu là Bộ Công an với hệ thống cơ quan công an từ Trung

ương đến địa phương mà chủ yếu là cảnh sát giao thông; tiếp đến là Bộ Giao

thông vận tải, Sở giao thông vận tải với các cơ quan chuyên môn như Thanh

tra giao thông, cơ quan đăng kiểm; hệ thống các cơ quan liên quan như Bộ

quốc phòng, các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác trong phạm vi chức năng

nhiệm vụ của mình. Theo quy định tại điều 85 Luật Giao thông đường bộ

2008 thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Bộ

Giao thông vận tải chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về giao thông đường bộ. Bộ Công an thực hiện các nhiệm vụ quản lý

nhà nước về giao thông đường bộ theo quy định của Luật và các quy định

khác của pháp luật có liên quan; thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an

toàn giao thông; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải bảo vệ kết cấu hạ tầng

18

giao thông đường bộ. Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm phối

hợp trong việc cung cấp số liệu đăng ký phương tiện giao thông đường bộ, dữ

liệu về tai nạn giao thông và cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe. Bộ Quốc

phòng thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giao thông đường bộ theo

quy định của pháp luật. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thực hiện

quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Ủy ban nhân dân các cấp trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện quản lý nhà nước

về giao thông đường bộ theo quy định của pháp luật trong phạm vi địa

phương. Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia được thành lập nhằm giúp Thủ

tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các chiến lược,

đề án quốc gia về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và triển khai các giải

pháp liên ngành nhằm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong phạm vi cả

nước. Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia là tổ chức phối hợp liên ngành, có

nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ kế hoạch tổ chức

thực hiện các chiến lược, đề án quốc gia, các giải pháp phối hợp liên ngành về

bảo đảm trật tự, an toàn giao thông để phát huy tính hiệu quả, đồng bộ trong

công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông. Hướng dẫn các Bộ, ngành, địa

phương phối hợp thực hiện sau khi được phê duyệt và các nhiệm vụ khác theo

quy định Quyết định 22/2017/QĐ-TTg về tổ chức và hoạt động của Ủy ban

An toàn giao thông Quốc gia và Ban An toàn giao thông các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương. Ban An toàn giao thông tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Chủ tịch Ủy

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc phối hợp

thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và khắc phục ùn

tắc giao thông trên địa bàn.

19

Lãnh đạo và các thành viên Ban ATGT hoạt động theo Quyết định số

22/2017QĐ-TTg ngày 22/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt

động của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia và Ban An toàn giao thông các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các văn bản quy định hiện hành. Cụ

thể, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban An toàn giao thông tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương được quy định bao gồm:

1. Đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

a) Kế hoạch và biện pháp phối hợp các ban, ngành và chính quyền các

cấp trong việc thực hiện các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và

khắc phục ùn tắc giao thông.

b) Chủ trương kiện toàn Ban An toàn giao thông cấp huyện, để triển

khai có hiệu quả công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.

2. Giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương chỉ đạo và đôn đốc việc phối hợp hoạt động của các ngành, tổ chức và

các đoàn thể trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và khắc phục

ùn tắc giao thông trên địa bàn.

3. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân trên địa

bàn về các quy định của pháp luật, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ và quy định của các Bộ, ngành liên quan đến công tác bảo đảm trật tự, an

toàn giao thông.

4. Báo cáo khẩn cấp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương và Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia về tai nạn giao thông đặc biệt

nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn; phối hợp chỉ đạo công tác cứu hộ, cứu nạn,

khắc phục, hạn chế hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, chỉ đạo cơ quan

chức năng xác định nguyên nhân và đề xuất kịp thời biện pháp ngăn chặn;

thực hiện chế độ báo cáo định kỳ (hàng tháng, quý, năm) hoặc đột xuất về

tình hình trật tự, an toàn giao thông, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.

20

5. Quy định chế độ, phạm vi trách nhiệm của các cơ quan thành viên và

từng thành viên của Ban; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của Văn phòng Ban.

6. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương giao.

Ngày 28/9/2017, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số

3402/QĐ-UBND về việc quy định thành phần, nhiệm vụ và quyền hạn của

Ban An toàn giao thông các huyện, thị xã thành phố. Theo đó, Ban An toàn

giao thông các huyện, thị xã, thành phố do Chủ tịch UBND các huyện, thị xã

thành phố làm trưởng ban và đại diện lãnh đạo các phòng ban, cơ quan tổ

chức cấp huyện làm thành viên. Ban An toàn giao thông các huyện, thị xã,

thành phố có nhiệm vụ báo cáo khẩn cấp cho UBND các huyện, thị xã, thành

phố và Ban An toàn giao thông tỉnh về tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm

trọng xảy ra trên địa bàn, phối hợp chỉ đạo công tác cứu hộ, cứu nạn khắc

phục, hạn chế hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, chỉ đạo cơ quan chức

năng xác định nguyên nhân cũng như đề xuất kịp thời thời các biện pháp ngăn

chặn đảm bảo trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn quản lý.

Nếu như việc xây dựng pháp luật thuộc chức năng của cơ quan lập

pháp thì việc tổ chức thực hiện pháp luật thuộc về trách nhiệm, chức năng của

cơ quan hành pháp. Hai yếu tố này cùng tồn tại tác động qua lại lẫn nhau,

cùng bổ sung cho nhau. Trong đó, tổ chức thực hiện pháp luật được hiểu là

quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực như yếu tố con người, tổ chức bộ

máy, cơ sở vật chất để thực hiện từng văn bản pháp luật, đảm bảo sẵn sàng,

phù hợp, kịp thời và có hiệu quả.

Thứ ba, phương pháp tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ gồm phương pháp giáo dục thuyết phục, phương pháp

hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp cưỡng chế. Các phương

21

pháp được các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật áp dụng căn cứ vào các

trường hợp cụ thể phù hợp với quy định của pháp luật. Phương pháp giáo dục

thuyết phục được áp dụng khi tiến hành giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ, khi hướng dẫn hành vi thực hiện pháp luật. Phương

pháp hành chính được các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sử dụng trong việc

tổ chức thực hiện liên quan đến cấp giấy phép lái xe, kiểm tra hành chính các

hành vi tham gia giao thông của các phương tiện lưu thông trên đường

bộ....Phương pháp kinh tế áp dụng đối với việc tuyên truyền, phổ biến pháp

luật, áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ...Phương pháp cưỡng chế được sử dụng khi các cá nhân, tổ

chức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ hay vượt quá

phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình, khi cần phải áp dụng các biện pháp để

ngăn chặn, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật...

Thứ tư, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ có mục đích triển khai các văn bản pháp luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật của người dân cũng như đảm bảo an toàn cho mọi

cá nhân, gia đình trong cuộc sống. Tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện

pháp luật giống nhau về mục đích nhưng lại khác nhau về nội dung, đối tượng

tham gia. Mục đích của hai hoạt động này là làm cho pháp luật đi vào cuộc

sống, giúp cho xã hội trật tự, ổn định và phát triển. Trong đó, chủ thể thực

hiện pháp luật là mọi người dân, còn tổ chức thực hiện pháp luật chủ yếu là

công việc hành chính của các cơ quan hành pháp có thẩm quyền, các tổ chức,

lực lượng chức năng. Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục

đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành

những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp

luật là hoạt động tiếp nối sau khi văn bản pháp luật được ban hành nhằm

làm cho các qui định của pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành quy tắc

22

xử sự của các chủ thể pháp luật. Xét về mặt thời gian, tổ chức thực hiện pháp

luật là hoạt động xảy ra trước, thực hiện pháp luật là hoạt động xảy ra sau. Tổ

chức thực hiện pháp luật tốt thì thực hiện pháp luật mới có hiệu quả.

Thứ năm, tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động mang tính phối hợp

cao, đòi hỏi sự tham gia của tất cả các cơ quan, tổ chức có liên quan và các cá

nhân có thẩm quyền. Đây là hoạt động thể hiện trách nhiệm, năng lực, tâm

huyết rất cao của các cá nhân, tổ chức có liên quan. Đồng thời hoạt động này

được thực hiện với sự tham gia hỗ trợ tích cực của hệ thống chính trị và cộng

đồng xã hội.

Thứ sáu, tổ chức thực hiện pháp luật dựa trên sự phân quyền, vị trí,

chức năng của các cá nhân có liên quan dựa trên cơ sở của pháp luật và theo

pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật vừa thể hiện sự phân công quyền lực

nhà nước theo các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đồng thời thể hiện

sự phối kết hợp đầy trách nhiệm của các cơ quan trên nhằm làm cho pháp luật

được thượng tôn; phát huy hiệu quả của pháp luật, thúc đẩy sự phát triển xã

hội.

1.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

được tiến hành với nhiều giai đoạn khác nhau, bao gồm:

+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, trong đó chứa

đựng các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông hình thức ban hành văn bản

quy phạm pháp luật là hình thức hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền

23

mà chủ yếu ở địa phương là của Uỷ ban nhân dân tỉnh nhằm triển khai và thi

hành các văn bản pháp luật cấp trên. Thông qua hoạt động ban hành văn bản

quy phạm pháp luật các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông cụ thể hóa các quy tắc xử sự chung thành các hành vi ứng xử thực

tế.

+ Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện pháp luật về trật tự an toàn

giao thông đường bộ. Kế hoạch là cơ sở để các cơ quan chức năng triển khai

các bước với những nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức thực hiện cụ

thể. Đây là giai đoạn quan trọng đảm bảo hiện thực hóa pháp luật trong đời

sống xã hội.

+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là giai đoạn có ý

nghĩa đặc biệt đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật, là kênh chuyển tải

kiến thức, tình cảm, thái độ đúng đắn của các chủ thể đối với pháp luật, từ đó

thúc đẩy hành tự giác tuân theo pháp luật. Các hoạt động tuyên truyền, giáo

dục, phổ biến, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật có vai trò tạo tiền

đề cho việc thực hiện pháp luật. Những hoạt động này giúp các chủ thể nhận

thức được quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật.

Chủ thể tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao

thông đường bộ là các cán bộ làm công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục

pháp luật về an toàn giao thông như Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao

thông, giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà trường, phóng viên, các

luật gia đang công tác tại cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Tư pháp, các tổ chức

nghề nghiệp (Hội luật gia, Đoàn luật sư, Tư vấn pháp lý, đài phát thanh, vô

tuyến truyền hình,...). Còn khách thể tức là đối tượng để tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông đường bộ là cán bộ, công nhân

viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước, doanh

24

nghiệp; học sinh, sinh viên; cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang; đoàn

viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội; các tầng lớp nhân

dân; đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa và cả những người

tham gia đảm bảo an toàn giao thông như lực lượng Công an, Thanh tra…Nội

dung công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn

giao thông đường bộ là tổ chức tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho nhân

dân chấp hành Luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt

động vận tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

của các đối tượng tham gia giao thông đường bộ nhất là đội ngũ lái xe, chủ

xe, chủ hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ; các thông tin về tổ

chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông, quyền, nghĩa vụ

pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong

tham gia giao thông. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TT,ATGTĐB là

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần tăng cường công tác quản lý

nhà nước về đảm bảo TT,ATGTĐB, đóng vai trò rất quan trọng trong việc

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ của người tham

gia giao thông, từng bước kiềm chế, giảm thiểu TNGT, bảo đảm

TT,ATGTĐB. Do vậy, đây là bước tổ chức thực hiện pháp luật quan trọng.

+ Ban hành văn bản áp dụng pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ

Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản thi hành của văn bản quy phạm

pháp luật, văn bản này được ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật

nhằm giải quyết các công việc liên quan đến cá nhân, tổ chức. Hình thức ban

hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức chủ yếu của chủ thể tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông sử dụng để giải quyết các công

việc cụ thể hàng ngày.

25

+ Thực hiện những hoạt động mang tính chất pháp lý và áp dụng những

biện pháp tổ chức trực tiếp

Những hoạt động mang tính chất pháp lý là những hoạt động do các

chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được quy định trước, trong

các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng

pháp luật. Những hoạt động mang tính pháp lý bao gồm rất nhiều các hoạt

động cụ thể khác nhau như cấp giấy phép lái xe, lập văn bản vi phạm hành

chính...

Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức hoạt động

không mang tính pháp lý do chủ thể tiến hành nhằm mục đích tạo điều kiện

thuận lợi để ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Tiến hành

các hoạt động tổ chức thực hiện gồm các hoạt động nghiên cứu, tổng kết và

phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm

ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào quản lý, tổ chức kiểm tra,

điều phối hoạt động, tổ chức hội thảo….

+ Thanh tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ. Thanh tra, kiểm soát là giai đoạn quan trọng trong quá

trình tổ chức thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi trên

thực tế và các hoạt động giao thông diễn ra thuận lợi, an toàn, trật tự.

1.5. Các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ

Hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật phụ thuộc rất nhiều

yếu tố, bao gồm các yếu tố sau:

Thứ nhất, hoạt động chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ

26

Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật là yếu tố quan trọng đảm

bảo pháp luật được tổ chức thực hiện hiệu quả trên thực tế. Khi các cơ quan

lãnh đạo, các nhà quản lý quan tâm chỉ đạo sâu sát, tích cực và thường xuyên

đôn đốc các cơ quan chức năng thông qua ban hành các văn bản, hướng dẫn

thực hiện đồng thời nắm bắt thực tế để có định hướng phù hợp thì hoạt động

tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông sẽ đảm bảo thực thi

đầy đủ, nghiêm minh. Ngược lại, nếu sự chỉ đạo không thường xuyên, không

kịp thời hoặc không phù hợp với yêu cầu thực tế thì việc tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ sẽ không đảm bảo yêu cầu

và an toàn, giao thông đường bộ sẽ không được thông suốt và hiệu quả.

Thứ hai, trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống

của đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông

Chất lượng của văn bản pháp luật và việc tổ chức thực hiện pháp luật

có hiệu quả hay không đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực, phẩm

chất chính trị, đạo đức lối sống của đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi lẽ nếu

người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực

chuyên môn thì họ không những chấp hành, tuân thủ pháp luật nghiêm

minh mà trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật họ luôn khách quan, công

tâm, dựa trên pháp luật và đúng pháp luật, không tư lợi. Thực tế cho thấy,

người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách

mạng trong sáng thì nhân cách, phẩm giá, lương tâm của họ sẽ đạt được các

giá trị chuẩn mực phù hợp với yêu cầu thực hiện pháp luật. Bản thân họ với

những giá trị ấykhông những không làm gì trái pháp luật mà còn tích cực

chủ động, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện pháp

luật trong lĩnh vực được giao. Ngược lại, những cán bộ, công chức phai nhạt

lý tưởng, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống sẽ dễ buông thả, vi phạm

27

pháp luật, thậm chí tiếp tay, bao che cho các hành vi vi phạm pháp luật, lợi

dụng chức quyền vi phạm pháp luật để trục lợi thì cũng không thể đảm bảo tổ

chức thực hiện tốt pháp luật. Việc xác định một quy trình làm việc không rõ

ràng cũng sẽ dẫn đến tình trạng việc tổ chức thực hiện công việc kém hiệu

quả. Các công chức, viên chức trong chuỗi quy trình ra quyết định của tổ chức

nếu không rõ mình phải làm gì, trong giai đoạn nào, các đầu vào, đầu ra đối

với công việc của mình ra sao thì rõ ràng hiệu quả công việc sẽ không đảm

bảo hoặc thậm chí, quy trình công việc không thể vận hành. Thực tế đã cho

thấy có nhiều trường hợp do thiếu các quy định hướng dẫn về quy trình, thủ

tục tiến hành công việc mà một số cơ quan nhà nước đã từ chối tiếp nhận việc

thực hiện các quy định của pháp luật.

Một vấn đề khác liên quan rất lớn đến động lực tổ chức thực hiện công

việc của các công chức, viên chức chính là lợi ích của các công chức, viên

chức trong quá trình tổ chức thực hiện. Lợi ích chính là động lực trực tiếp của

người lao động. Lợi ích của cán bộ công chức có nhiệm vụ tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông được bảo đảm và các thủ tục hạn chế

tối đa khả năng việc trục lợi cùng với cơ chế kiểm soát chặt chẽ hành vi công

vụ sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho việc tổ chức thực hiện pháp luật.

Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính

hệ thống

Để đảm bảo tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật, quy trình

và kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu

cầu nhất định.

Trước hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải được

tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục tiêu

chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính sách

cũng chính là thiết lập tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức thực hiện

28

pháp luật về sau. Qua đó, những hành vi của các chủ thể cần điều chỉnh sẽ

được xác định với những định hướng cụ thể.

Với mục tiêu điều chỉnh các hành vi, các quy phạm pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông phải xác định rõ các yếu tố của hành vi như chủ thể thực

hiện hành vi, điều kiện thực hiện hành vi. Đây chính là những thông tin cơ

bản để các chủ thể có trách nhiệm thực hiện tốt pháp luật giao thông nói

chung và Luật giao thông đường bộ nói riêng. Các quy định cụ thể, rõ ràng,

gắn với trách nhiệm pháp lý sẽ tạo điều kiện cho việc tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông diễn ra thông suốt, có hiệu quả. Mục đích

của việc ban hành pháp luật về giao thông là nhằm điều chỉnh các hành vi của

các chủ thể trong tham gia giao thông. Mong muốn của nhà lập pháp là khuôn

mẫu hành vi đó sẽ được các đối tượng tuân thủ nghiêm minh. Do vậy, yêu cầu

đặt ra đối với hành vi không chỉ rõ ràng mà phải phù hợp với thực tiễn, khoa

học và phát triển.

Thứ tư, có cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách

chặt chẽ

Tổ chức giám sát và đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng là

một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Ở góc độ từng văn bản cụ thể, giám sát

và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu quả của việc tổ

chức thực hiện pháp luật. Đó là công cụ để kiểm soát việc thực hiện pháp luật

và đặc biệt là để hạn chế sự lạm quyền của các công chức, viên chức trong

quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Giám sát và đánh

giá cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm tổ chức thực

hiện pháp luật phải thực hiện theo đúng bổn phận của mình, tránh trường hợp

lơ là trong việc thực hiện nhiệm vụ. Giám sát, đánh giá cũng là công cụ để thu

29

thập phản hồi nhằm điều chỉnh bản thân các quy định của văn bản quy phạm

pháp luật.

Thực tế cho thấy có những bài học thành công trong việc tổ chức thực

hiện pháp luật nhờ thực hiện việc giám sát một cách chặt chẽ công tác tổ chức

thực hiện pháp luật. Chẳng hạn quy định về đội mũ bảo hiểm được thực thi

khá nghiêm chỉnh ở nước ta một phần là do cơ chế giám sát chặt chẽ từ trên

xuống trong hệ thống hành chính với việc xác định trách nhiệm rất rõ ràng. Ở

góc độ vĩ mô, cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật gắn liền với

việc cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh của quyền lực nhà nước. Kiểm

soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền được hiểu là một hệ

thống những cơ chế được thực hiện bởi Nhà nước và xã hội nhằm giữ cho

việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.

Thứ năm, đảm bảo sự độc lập của cơ quan tư pháp

Một trong những đòi hỏi của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền là

phải độc lập trước các nhánh quyền lực khác của Nhà nước. Tính độc lập của

tư pháp cho phép Tòa án đưa ra những phán quyết đúng đắn, chống lại sự tùy

tiện của các nhánh quyền lực khác.

Sự độc lập của cơ quan tư pháp là điều kiện cần thiết để các chủ thể

trong xã hội có thể tiếp cận được với công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của

pháp luật. Điều này sẽ nâng cao trách nhiệm cho các chủ thể tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ đồng thời đảm bảo các hành

vi lạm quyền hoặc hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông có

dấu hiệu phạm tội sẽ bị khởi tố và xét xử nghiêm minh, làm tăng niềm tin của

người dân vào hệ thống pháp luật nói chung và việc thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông nói riêng. Đây có thể nói là một trong những yếu tố

cơ bản nhất làm tăng ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể trong xã hội, là

cơ sở cho việc thực hiện pháp luật có hiệu quả.

30

Bên cạnh đó, khi được tổ chức một cách độc lập và có thẩm quyền tài

phán đầy đủ, Toà án cũng có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy công tác tổ

chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước. Và nếu quyền khởi kiện

của công dân lên Toà án để bảo đảm quyền, lợi ích của mình được ghi nhận

thì đó sẽ là những áp lực rất lớn đối với các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức

thực hiện pháp luật, tránh sự tuỳ tiện và đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp

luật phải được thực hiện theo đúng quy định pháp luật.

Thứ sáu, phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng

Trình độ phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng của một đất nước là yếu tố

ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm thực hiện pháp luật. Trong điều kiện sản

xuất nhỏ một người tự mình thực hiện tất cả các công đoạn của quá trình lao

động tạo ra sản phẩm thì dễ tùy tiện vì không có gì ràng buộc chủ thể,

nhưng trong dây chuyền và quy trình sản xuất công nghiệp, mỗi người chỉ

đảm nhiệm một khâu của quá trình sản xuất thì bắt buộc phải tuân theo

những quy định, tiêu chuẩn nhất định. Trình độ phát triển cao của lực

lượng sản xuất đặt ra yêu cầu và rèn giũa tác phong công nghiệp thói quen

tuân thủ các quy định. Như vậy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội tạo ra đòi

hỏi về kinh tế - kỹ thuật, rèn luyện tác phong, lối sống có kỷ cương, tuân thủ

pháp luật. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng còn tạo ra cơ

sở vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp

luật. Bất kỳ một văn bản pháp luật nào khi triển khai thực hiện cũng đòi hỏi

những chi phí cần thiết cho việc tuyên truyền, phổ biến, in ấn tài liệu, biểu mẫu,

tổng hợp và phổ biến thông tin có liên quan v.v... Trình độ phát triển kinh tế

- xã hội giao thông, thông tin liên lạc tạo thuận lợi cho các hoạt động nêu

trên.

Thứ bảy, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật

Pháp luật được nhận thức đầy đủ và tự giác thi hành hay không phụ

31

thuộc vào trình độ văn hóa và ý thức pháp luật của công dân. Thực tiễn cho

thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, không chấp hành, tuân thủ pháp

luật là do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận

nhân dân. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận công dân có trình độ văn hóa nhất

định, hiểu biết pháp luật nhưng đạo đức, nhân cách thấp kém nên vẫn cố tình

vi phạm pháp luật, có những hành vi xử sự không đúng với yêu cầu của pháp

luật. Nhưng nhìn chung trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của nhân

dân ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng

cao ý thức pháp luật của nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có

thể tiếp thu, nhận thức nâng cao hiểu biết về pháp luật, xây dựng tình cảm,

lòng tin vào pháp luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo

yêu cầu của pháp luật. Mặt khác, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của nhân

dân được nâng cao tạo cơ sở thuận lợi để nhân dân tham gia các hoạt động

giám sát và phản biện xã hội đối với quá trình thực hiện pháp luật của các cơ

quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước góp phần bảo đảm thực hiện pháp

luật đúng đắn trong toàn xã hội.

Thứ tám, kinh phí vật chất đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi

hỏi phải có những chi phí và điều kiện vật chất nhất định. Những chi phí

này bao gồm chi phí cho công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp

luật; chi phí cho các cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện pháp

luật, xử lý vi phạm pháp luật. Kinh phí và điều kiện vật chất phục vụ cho các

hoạt động này do ngân sách Nhà nước đài thọ. Mức độ chi phí và điều kiện

vật chất cần thiết cho việc thực hiện các văn bản pháp luật cũng rất khác

nhau. Có những văn bản pháp luật đòi hỏi mức độ kinh phí và điều kiện vật

chất không lớn, trái lại có những văn bản pháp luật, nếu triển khai thực hiện

đòi hỏi kinh phí và điều kiện vật chất rất lớn. Chẳng hạn, thực hiện pháp luật

32

về thi hành án phạt tù phải chi phí rất lớn cho việc xây dựng cơ sở cải tạo,

giam giữ, chế độ ăn, ở cho người thi hành án phạt tù v.v... hoặc khi thay đổi

chế độ lương, phụ cấp cho cán bộ, công chức cũng đòi hỏi ngân sách Nhà

nước phải chi những khoản lớn v.v... ở nhiều nước khi ban hành văn bản

pháp luật ngoài việc dành thời gian cho công tác phổ biến, tuyên truyền đến

đối tượng hữu quan, họ còn tính toán cụ thể chi phí cho việc tuyên truyền,

phổ biến, tổ chức thực hiện, xử lý vi phạm.

1.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Hiệu quả, theo V.I.Lênin, là khả năng thu được kết quả nhiều nhất,

vững chắc nhất mà lại ít tốn sức nhất. Theo từ điển Tiếng Việt, hiệu quả là

"kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại" [34, tr.440]. Thực tế cho thấy,

mỗi tác động của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ mang lại không chỉ một mà là một số kết quả. Kết quả này biểu

hiện ở cả trong ý thức và hành vi của con người, trong tất cả các lĩnh vực của

hiện thực mà con người với tư cách là đối tượng chịu sự tác động từ hoạt động tổ

chức thực hiện pháp luật. Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, sự đánh giá tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ phải trải qua

một quá trình và với những tiêu chí nhất định trên cơ sở xem xét cả nhận thức,

thái độ, hành vi và kỹ năng của đối tượng tác động.

Trên cơ sở lý luận và khái quát thực tiễn, có thể hiểu hiệu quả tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là mức độ đạt được

từ sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi thực hiện pháp luật của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân qua việc triển khai thực thi các quy định pháp luật

TT,ATGTĐB trên thực tế với chi phí thấp nhất tương ứng.

Để đánh giá hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ cần căn cứ vào những tiêu chí nhất định để định lượng

33

và phản ánh các thuộc tính, các quan hệ nội tại khách quan tạo nên bản chất hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật. Những tiêu chí này bao gồm:

+ Số lượng các quy định pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

được triển khai thực hiện. Đây là tiêu chí quan trọng thể hiện hiệu quả công tác

tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Số lượng các

văn bản quy phạm pháp luật được triển khai, thi hành ít hay nhiều, đầy đủ hay

không phản ánh tính hiệu quả của hoạt động tổ chức thực hiện.

+ Mức độ thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chí quan trọng

thể hiện rõ nét tính hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật

tự, an toàn giao thông đường bộ. Pháp luật có được thực hiện nghiêm minh

hay không, mọi người thực hiện có tích cực, chủ động, tự giác hay không

được xem là yếu tố đánh giá tính hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện

pháp luật.

+ Công khai, minh bạch trong tổ chức thực hiện pháp luật, sự đồng

thuận, thái độ, niềm tin của người thực hiện pháp luật. Tiêu chí này phản ánh

kết quả cao nhất khi tổ chức thực hiện pháp luật về trật tư, an toàn giao thông

đường bộ. Trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, công khai, minh bạch được

thể hiện thông qua việc công khai, minh bạch chính sách, pháp luật cũng như

cách thức tổ chức thực hiện chính sách pháp luật trừ những nội dung thuộc bí

mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ

công khai, minh bạch hoạt động của bộ máy nhà nước gắn liền với việc tạo

điều kiện thuận lợi để công dân tiếp cận các thông tin về hoạt động của bộ

máy nhà nước một cách dễ dàng. Sự thông suốt về mặt thông tin là điều kiện

để việc tổ chức thực hiện pháp luật được hiệu quả. Những thông tin về các

chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, địa điểm, thời gian tổ

chức công việc là những thông tin hữu ích giúp cho việc tổ chức thực hiện

pháp luật trở nên dễ dàng hơn. Niềm tin vào việc thực hiện pháp luật của

34

người dân cũng là chỉ số khẳng định tính hiệu quả của công tác tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Nếu một người không

tuân thủ pháp luật về giao thông hoặc người vi phạm không chịu nộp phạt vì

họ nghĩ rằng bao nhiêu người vi phạm cũng chẳng ai phạt thì bản thân họ

cũng vậy. Điều này gây trở ngại lớn cho việc tổ chức thực hiện pháp luật.

+ Chi phí tổ chức thực hiện pháp luật về trật tư, an toàn giao thông đường

bộ. Mức chi phí cho việc tổ chức thực hiện pháp luật là chi phí mà xã hội bỏ

ra. Cách thức này được sử dụng để đánh giá phương án tổ chức thực hiện

được lựa chọn có phải là đã tạo ra lượng chi phí ít nhất hay không.

Tóm tắt chương 1

Trật tự, an toàn giao thông đường bộ được hiểu là trạng thái giao thông

tiện lợi, thông suốt, có tính mĩ quan, an toàn cho người và tài sản khi tham gia

giao thông. Nhằm bảo đảm giao thông đường bộ được thông suốt và trật tự,

các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này đã được nhà nước điều chỉnh

bởi các quy phạm pháp luật. Pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

là hệ thống các quy tắc xử sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao thông

đường bộ, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là hoạt động có mục đích, có

định hướng của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền nhằm triển

khai và thực thi các quy định pháp luật trong thực tế đời sống xã hội.

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ có

những đặc trưng riêng về chủ thể, hình thức, phương pháp tổ chức và mục

đích của hoạt động. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp

luật còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố đặc biệt là chất lượng của hoạt động

lập pháp - ban hành luật và giám sát thực hiện luật cũng như sử dụng cưỡng

35

chế nhà nước. Ngoài ra, trình độ dân trí, yếu tố truyền thông, các tổ chức kinh

tế, xã hội, công dân khi các chủ thể này tổ chức thực hiện phản biện và giám

sát xã hội, thực hiện quyền kiến nghị, phát hiện, tố cáo, khiếu nại ...,cũng như

mức độ tuân thủ và chấp hành pháp luật khi thực thi các quyền và nghĩa vụ

của chủ thể trong đời sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác

tổ chức, thực hiện pháp luật. Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ được xác định dựa trên số lượng, mức độ thực

thi các quy định pháp luật, tính công khai, minh bạch trong công tác tổ chức

và niềm tin của người dân trong việc thực hiện pháp luật cùng với chi phí tổ

chức thực hiện pháp luật phù hợp. Hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện

pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố đặc biệt là chất lượng của hoạt động

lập pháp - ban hành luật và giám sát thực hiện luật cũng như sử dụng cưỡng

chế nhà nước. Ngoài ra, trình độ dân trí, yếu tố truyền thông, các tổ chức kinh

tế, xã hội, công dân khi các chủ thể này tổ chức thực hiện phản biện và giám

sát xã hội, thực hiện quyền kiến nghị, phát hiện, tố cáo, khiếu nại ...,cũng như

mức độ tuân thủ và chấp hành pháp luật khi thực thi các quyền và nghĩa vụ

của chủ thể trong đời sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác

tổ chức, thực hiện pháp luật.

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là

hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật trên thực tế, bảo

đảm lưu thông của giao thông được thông suốt, hiệu quả không những tạo

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội mà còn bảo vệ quyền

được đi lại của con người.

36

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ,

AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức thực hiện pháp luật về trật tư,

an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội

Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc - Trung bộ Việt

Nam. Phía Bắc giáp Hà Tĩnh; phía Nam giáp Quảng Trị; phía Đông giáp biển

Đông; phía Tây giáp Lào. Quảng Bình có vị trí chiến lược quan trọng về kinh

tế, an ninh, quốc phòng nằm trên hành lang kinh tế Đông - Tây của Việt Nam,

có vị trí tiếp giáp với hành lang phát triển kinh tế của tiểu vùng sông Mêkông

mở rộng nối liền ba nước Việt Nam, Lào và Thái Lan.

Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.065,3 km2, dân số năm 2017 là

877.702 người, chiếm 2,45% về diện tích và 1,02% dân số cả nước. Quảng

Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện; có 159 đơn vị hành chính cấp xã

gồm: 01 Thành phố, 01 thị xã, 6 huyện, 10 phường, 08 thị trấn và 141 xã.

Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình

TT Tên Dân số

1Thành phố Đồng Hới 2Huyện Minh Hóa 3Huyện Tuyên Hóa 4Huyện Quảng Trạch 5Thị xã Ba Đồn 6Huyện Bố Trạch 7Huyện Quảng Ninh 8Huyện Lệ Thủy Tổng số Diện tích 156 1.394 1.129 448 162 2.115 1.194 1.402 8.000 Mật độ 755 36 70 238 656 87 76 102 110

117.856 50.203 79.469 106.472 106.291 183.960 90.389 143.062 877.702 Đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km²

(Nguồn : Niên giám Thống kê Quảng Bình năm 2017)

37

Cấu tạo địa hình của tỉnh Quảng Bình là bán sơn địa, có cả đồng bằng,

cát ven biển, đồi trung du và núi cao. Dải đất Quảng Bình như một bức tranh

hoành tráng, có rừng có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp như

Vũng Chùa - Đảo Yến (nơi yên nghỉ của cố Đại tướng huyền thoại Võ

Nguyên Giáp), bãi biển Nhật Lệ, Đá Nhảy, Bão Ninh, Hải Ninh. Đặc biệt,

Quảng Bình có di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ

Bàng với những hang động tuyệt đẹp nổi tiếng như động Phong Nha, động

Thiên Đường và Sơn Đoòng, nơi chứa đựng các giá trị nổi bật toàn cầu về

tính đa dạng sinh học và các hệ sinh thái tự nhiên. Hiện nay, tỉnh Quảng Bình

đã và đang huy động các nguồn lực để từng bước xây dựng tỉnh hiện đại,

xứng đáng là trung tâm du lịch của khu vực Bắc Trung bộ và cả nước. Trong

những năm qua, nhờ sự chuyển biến tích cực của ngành du lịch và sự phát

triển của các thành phần kinh tế, tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh có sự tăng

trưởng đáng kể. Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 6 tháng đầu

năm 2017 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP tăng 6,25% so với cùng kì (kế

hoach cả năm tăng 6,5% thực hiện cùng kì 5,5%). Thu ngân sách trên địa bàn

1.636 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kì, đạt 50,3% dự toán địa phương (dự

toán cả năm 3.250 tỷ đồng), giải quyết việc làm cho 20.232 lao động, đạt

57,8% kế hoạch (kế hoạch cả năm 3,5 vạn lao động). Sự phát triển kinh tế, gia

tăng lực lượng lao động đồng thời cũng tạo áp lực về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ. Bên cạnh đó, trình độ dân trí tính theo mặt bằng chung chưa

cao, ý thức pháp luật của nhiều người dân vẫn còn thấp, kết cấu cơ sở hạ tầng

nhất là vùng nông thôn, miền núi vẫn còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn nhiều nguy

cơ mất an toàn.

2.1.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ

Quảng Bình có hệ thống giao thông vận tải thuận lợi cho việc giao

thương với các vùng miền, khu vực trên thế giới, có sân bay Đồng Hới, tuyến

38

đường sắt bắc nam, quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh đi qua hầu hết các vùng

dân cư, quốc lộ 12A nối Quảng Bình với Lào và đông bắc Thái Lan. Vận tải

bằng đường biển và đường sông cũng là lợi thế của tỉnh. Quảng Bình có 5 cửa

sông, đặc biệt cảng biển Hòn La là nơi có mực nước sâu, mặt nước rộng lớn,

xung quanh là quần thể đảo che chắn gió tạo điều kiện thuận lợi cho tàu trọng

tải lớn ra vào, neo đậu.

Đặc biệt, Quảng Bình là nơi hội đủ các yếu tố về giao thông đường bộ.

Trên địa bàn tỉnh có 822km đường quốc lộ, 438km đường tỉnh, 1.346km đường

huyện và đường nội thị, 9.455km đường giao thông nông thôn, 230km đường

thủy nội địa, đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về giao thông vận tải. Hệ thống

đường bộ của tỉnh bao gồm:

- Quốc lộ 1: Từ km 595+500 xã Quảng Đông - Quảng Trạch đến km

17+500 xã Sen Thủy - Lệ Thủy Quảng Bình.

- Quốc lộ 12 A: xuất phát tại Ba Đồn (km 621 +100/QL1 đến thị trấn

Đồng Lê - Hồng Hóa - thị trấn Quy Đạt - ngã ba Pheo (Km 898 + 050/

ĐHCM) đi chung với đường Hồ Chí Minh đến ngã ba Khe Ve (Km

873+400/ĐHCM) đi theo Quốc lộ 12A hiện tại và kết thúc tại km 142+500

của khẩu Cha Lo.

- Quốc lộ 12C: Xuất phát từ cảng Vũng Áng - Quốc lộ 1 (Km 573 +

420/QL1) đi chung với quốc lộ 1 đến Km 565 +100/QL1 (thị trấn Kì Anh) đi

theo tuyến mới đến Đồng Lê- đi chung với quốc lộ 12A đến ngã ba Hồng Hóa

- Hóa Tiến kết thúc tại ngã ba giao cắt với đường Hồ Chí Minh tại Km

879+800/Đường Hồ Chí Minh.

- Đường Hồ Chí Minh: đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, đường Hồ

Chí Minh nhánh Tây.

- Quốc lộ 15 dài 69 km, xuất phát từ xã Hương Hóa - Tân Ấp huyện

Tuyên Hóa đến xã Trường Thủy huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.

39

- Quốc lộ 9B: Xuất phát từ thị trấn Quán Hàu giáp quốc lộ 1 đến xã

Trường Sơn đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.

- Quốc lộ 9C: Xuất phát từ xã Cam Thủy huyện Lệ Thủy giáp Quốc lộ 1

đến bản làng Ho giáp đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.

- Hệ thống tỉnh lộ: gồm có 14 tuyến có tổng chiều dài 364 km, có 29

cầu các loại với tổng chiều dài là 401m, 3 ngầm có chiều dài 205 m.

- Đường nội thị thành phố Đồng Hới.

- Đường huyện xã có: 744 km đường huyện và 2.647 km đường xã, đến

nay đã được bê tông hóa 100%.

Nhìn chung, hệ thống giao thông cơ bản hoàn thiện, kết nối được các

trọng điểm kinh tế lớn của tỉnh với các địa phương khác. Thời gian qua, trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình có nhiều công trình lớn mang tính kết nối cao, phục

vụ cho các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của tỉnh đã và đang được

đầu tư xây dựng, kết nối Quảng Bình với cả nước và các nước trong khu vực,

góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặc

dù vậy, so với nhu cầu sự phát triển của hệ thống giao thông chưa tạo được

bước đột phá cho nền kinh tế, nhiều công trình vẫn còn ở cấp kỹ thuật thấp,

một số địa bàn việc đi lại của người dân vẫn còn gặp khó khăn.

Những đặc điểm kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng giao thông ở Quảng

Bình đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về trật

tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn.

Ngoài ra, hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông

đường bộ nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu

tố khác như công tác điều hành quản lý, công tác xây dựng, thực thi văn quy

phạm pháp luật giao thông đường bộ, công tác tổng kết, đánh giá và rút ra bài

học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

40

thông đường bộ, công tác tuần tra, thanh tra, kiểm soát. Những nội dung này

sẽ được tác giả phân tích rõ hơn ở mục 2.2.

2.2. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Xây dựng ban hành văn bản pháp luật

Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về đảm bảo trật tự, an toàn giao

thông đường bộ trước hết căn cứ vào Luật giao thông đường bộ và các văn

bản quy phạm pháp luật khác. Cho đến nay, ngoài Luật giao thông đường bộ

năm 2008, Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an và các bộ ngành

có liên quan, Ủy Ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã

xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật với 20 Nghị

định của Chính phủ, 01 quyết định của Thủ tướng chính phủ, 138 thông tư và

thông tư liên tịch. Hệ thống văn bản pháp luật đa dạng đã tạo cơ sở pháp lý thuận

lợi cho công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ trên địa bàn tỉnh. Đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban

nhân dân tỉnh đã cụ thể hóa các nội dung quy định của văn bản cấp trên đáp

ứng yêu cầu giảm thiểu tai nạn giao thông hiện nay [19; tr 44]. Nhằm tổ chức

thực hiện các văn bản pháp luật trên một cách hiệu quả, phù hợp với thực tiễn,

UBND tỉnh Quảng Bình và các cơ quan chức năng đã ban hành và tham mưu

ban hành nhiều văn bản pháp luật.

Bảng 2.2: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ tỉnh Quảng Bình

Năm UBND Ban Sở Công an Các sở ban, Tổng

Tỉnh ATGT GTVT Tỉnh ngành khác

32 90 19 170 349 58 2014

26 150 22 117 376 61 2015

22 165 29 178 457 63 2016

41

2017 43 160 65 31 164 473

(Nguồn: Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình các năm 2014; 2015;

2016, 2017)

Bảng số liệu trên cho thấy, tùy vào tính chất công việc triển khai tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự an toàn giao thông hàng năm mà các cơ

quan, tổ chức ban hành số lượng văn bản khác nhau. Thực tế cho thấy, các

đơn vị, địa phương đã quyết liệt trong việc gắn trách nhiệm người đứng đầu

cũng như tham mưu cho cấp ủy và lãnh đạo ban hành nhiều văn bản chỉ đạo

với nhiều giải pháp trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường

bộ trên địa bàn.

Một trong những văn bản có ý nghĩa chiến lược, định hướng về công tác

đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ của tỉnh là Quyết định số 970/QĐ-

UBND “Chiến lược đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ tỉnh Quảng

Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” do Ủy ban nhân dân tỉnh ban

hành vào ngày 02 tháng 5 năm 2013 đã đặt ra mục tiêu đảm bảo hiệu quả trật

tự, an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn. Trên cơ sở chiến lược này, hằng

năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Ban An toàn giao thông tỉnh, các huyện

thị triển khai thực hiện bằng các chủ đề cụ thể. Chẳng hạn, chủ đề an toàn

giao thông năm 2014, là “Siết chặt quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải

trọng phương tiện” với các nội dung, mục tiêu cụ thể như đổi mới công tác

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông tới mọi tầng

lớp nhân dân. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền ATGT trên các phương

tiện thông tin đại chúng. Đồng thời UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số

02/2010/CT-UBND ngày 5/2/2010 về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp

cấp bách nhằm hạn chế tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng Bình;

Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 20 tháng 9 năm 2017 của UBND Tỉnh

Quảng Bình ban hành quy chế phối hợp trong công tác quản lý, bảo vệ và xử lý

42

các vi phạm về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình... Nhằm nâng cấp hệ thống giao thông, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông

trên địa bàn, ngày 13/3/2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số

540/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải

tỉnh Quảng Bình đến năm 2020. Phấn đấu đến năm 2030 toàn bộ các tuyến

quốc lộ và đường tỉnh phải được đưa vào đúng cấp kỹ thuật. Mở rộng và nâng

cấp Quốc lộ 12A, Quốc lộ 9B trong đó ưu tiên việc cải tạo, nâng cấp quốc lộ

9B kết nối mới sang Lào qua cửa khẩu Chút Mút - Lã Vơn, từ đó hình thành

tuyến vận tải từ Xa Vẳn Na Khẹt về cảng Hòn La. Từng bước xây dựng tuyến

đường bộ cao tốc Bắc- Nam, từ ngả ba Vũng Áng - Hà Tĩnh đến cầu Bùng

giáp đường HCM nhánh đông xã Phú Định Bố Trạch, tuyến đường bộ ven

biển nhằm tạo bước đột phá trong việc kết nối, khai thác tiềm năng du lịch

cũng như nâng cao năng lực phòng thủ. Bên cạnh đó, tỉnh đầu tư xây dựng

đường nối từ cầu Nhật Lệ 2 đến đường Hồ Chí Minh, đầu tư cầu và đường nối

phía bắc huyện Quảng Trạch với Xuân Trạch, Bố Trạch đến Phong Nha- Kẻ

Bàng để phát triển đô thị, tạo điều kiện liên kết các khu du lịch trong điểm của

tỉnh. Xây dựng, nâng cấp một số trục đường chính có ý nghĩa chiến lược về

phát triển thành phố Đồng Hới, cải tạo các nút giao thông lớn nội thành để

bảo đảm mỹ quan đô thị, hạn chế tai nạn giao thông. Nâng cao tỷ lệ cứng hóa

đường giao thông nông thôn toàn tỉnh, phấn đấu đến năm 2020 có tối thiểu

50% số xã trên địa bàn toàn tỉnh hoàn thành tiêu chí 2 về nông thôn mới. Xây

dựng hệ thống cầu dân sinh với mục tiêu đến năm 2020 giải quyết cơ bản

không còn tình trạng thôn bản cô lập về giao thông do chưa có cầu.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng đã xây dựng nhiều kế hoạch tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Ban An toàn giao

thông tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số 16/QĐ-ATGT, ngày 01 tháng 3

43

năm 2017 về Kế hoạch phát động phong trào thi đua đảm bảo trật tự, an toàn

giao thông năm 2017.

Trên cơ sở Kế hoạch số 500/KH-UBATGTQG ngày 30/12/2013 của Ủy

ban ATGT Quốc gia về triển khai công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông

năm An toàn giao thông 2014, với chủ đề “Siết chặt quản lý kinh doanh vận

tải và kiểm soát tải trọng phương tiện” ngày 31/12/2013, Ban ATGT tỉnh ban

hành Kế hoạch số 178/KH-BATGT về triển khai công tác bảo đảm TTATGT

năm 2014; Kế hoạch số 14/KH-UBATGTQG ngày 15/01/2015 của Ủy ban

ATGT Quốc gia về triển khai công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông năm An

toàn giao thông 2015, với mục tiêu “Tính mạng con người là trên hết” ngày

31/12/2014, Ban ATGT tỉnh ban hành Kế hoạch số 165/KH-BATGT về triển khai

năm ATGT 2015. Thực hiện Kế hoạch số 594/KH-UBATGTQG ngày

31/12/2015 của Ủy ban ATGT Quốc gia về triển khai năm An toàn giao thông

2016, với chủ đề “Xây dựng văn hóa giao thông gắn với nâng cao trách nhiệm,

siết chặt kỷ cương của người thực thi công vụ” với mục tiêu “Tính mạng con

người là trên hết” ngày 19/01/2016, Ban ATGT tỉnh ban hành Kế hoạch số

13/KH-BATGT về triển khai năm ATGT 2016. Ngày 25 tháng 1 năm 2017, Ban

An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình đã ban hành Kế hoạch số 12/KH-

BATGT về thực hiện Năm An toàn giao thông 2017 với chủ đề “Xây dựng

văn hoá giao thông trong Thanh, Thiếu niên” với mục tiêu “Tính mạng con

người là trên hết”. Đồng thời cơ quan cảnh sát giao thông, cơ quan thanh tra

giao thông trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình đã xây dựng các kế hoạch tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông hằng năm và theo chuyên

đề, đảm bảo các hoạt động giao thông thuận lợi và an toàn. Hằng năm, Công an

Quảng Bình và Sở Giao thông Giao thông vận tải đã xây dựng kế hoạch thực hiện

tuần tra kiểm soát, xử lý hành vi vi phạm chở hàng quá trọng tải của ô tô vận

chuyển hàng hóa trên đường bộ.

44

Mặc dù xét về số lượng các văn bản pháp luật được các cơ quan có

thẩm quyền ở Quảng Bình ban hành đầy đủ và kịp thời song một số văn bản

còn mang tính hình thức. Nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, có một

số quy định còn chồng chéo, chưa quy định cụ thể nhiệm vụ và các biện pháp

thiết thực nhằm đảm bảo thực hiện tốt pháp luật về trật tự, an toàn giao thông.

Việc coi trọng quy định về quản lý giao thông mà không coi trọng quy định

về quy tắc an toàn giao thông dẫn đến khó khăn trong việc vận dụng, thực

hiện các quy tắc tham gia giao thông. Các kế hoạch được xây dựng nhiều khi

còn mang tính chiếu lệ, các biện pháp đề ra trong kế hoạch còn chung chung,

khi triển khai thực tế chưa hiệu quả.

2.2.2. Công tác chỉ đạo, điều hành việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật

tự, an toàn giao thông đường bộ

Trong thời gian qua, công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm,

chú trọng. Cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, địa phương đã chỉ đạo, tổ

chức triển khai quyết liệt các giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự an toàn giao

thông nên tình hình TT,ATGT trên địa bàn tỉnh cơ bản được giữ vững; góp phần

giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, Tỉnh

ủy đã ban hành Chương trình hành động số 15-CTr/TU ngày 14/11/2012 của

Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày

04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường

sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông; Ngày 07/2/2017 Ban

ATGT tỉnh ban hành Kế hoạch số 19/KH – BATGT về phát động phong trào

thi đua bảo đảm TT, ATGT năm 2017; chỉ thị về việc tăng cường công tác đảm

bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các

văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn

45

giao thông trên phạm vi toàn tỉnh. Đồng thời, để tổ chức thực hiện các văn bản

pháp luật của Bộ giao thông vận tải cũng như Ban An toàn giao thông quốc

gia, UBND tỉnh chỉ đạo Ban An toàn giao thông, Sở Giao thông Vận tải,

Công an tỉnh ban hành nhiều văn bản pháp luật cụ thể hóa, phù hợp với điều

kiện thực tiễn. Khi triển khai thực hiện đã chú trọng đến công tác phối hợp

liên ngành. Một số địa phương đã quyết liệt trong việc gắn trách nhiệm người

đứng đầu trong công tác đảm bảo TT,ATGT, cũng như tham mưu cho cấp ủy và

lãnh đạo ban hành nhiều văn bản chỉ đạo với những giải pháp thiết thực trong

công tác bảo đảm TT,ATGT, gắn với tình hình địa phương, như huyện Quảng

Ninh, huyện Quảng Trạch, huyện Bố Trạch, thị xã Ba Đồn, huyện Tuyên

Hóa…Nội dung chỉ đạo, điều hành tập trung vào việc tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; kiểm tra, rà

soát các điều kiện an toàn giao thông đường bộ, tổ chức giao thông trên các

tuyến đường, kịp thời phát hiện khắc phục những yếu tố gây mất an toàn giao

thông; chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra, tuần

tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự, an toàn

giao thông đường bộ; đẩy nhanh tiến độ, siết chặt quản lý chi phí và chất

lượng các hoạt động đầu tư xây dựng, bảo trì, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng giao

thông. Hướng dẫn nghiên cứu, tổ chức giao thông khoa học, hợp lý, phù hợp

với cơ sở hạ tầng giao thông; đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch lập lại trật

tự hành lang an toàn đường bộ, đường sắt; nâng cao năng lực, chất lượng dịch

vụ và giảm giá cước vận tải; chú trọng phát triển vận tải hành khách công

cộng trong đô thị và vận tải kết nối các đô thị trung tâm tỉnh với trung tâm

huyện, các khu công nghiệp, cụm dân cư nông thôn và đẩy mạnh công tác

thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật về TT,ATGT.

Công tác chỉ đạo, điều hành đã thúc đẩy các hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ diễn ra thông suốt và

46

đảm bảo kịp thời. Tuy vậy, hoạt động chỉ đạo, điều hành nhiều lúc vẫn chưa

thường xuyên, kịp thời, thiếu sự đôn đốc và đôi lúc còn thiếu quyết liệt, đặc biệt

đối với một số sự việc có tính chất phức tạp nên công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ gặp những khó khăn nhất định.

2.2.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có mục đích do

tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các hình thức nhất định nhằm nâng cao

hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho tổ chức, cá nhân được phổ

biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà

nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

là một trong những hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật phổ biến. Trong

quá trình triển khai thực hiện đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng

chức năng. Nội dung công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

an toàn giao thông đường bộ là tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho nhân

dân chấp hành luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt

động vận tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

của các đối tượng tham gia giao thông đường bộ, nhất là đội ngũ lái xe, chủ

xe, chủ hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ. Đồng thời, phổ

biến các thông tin về tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao

thông, quyền, nghĩa vụ pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp trong tham gia giao thông.

Trong thời gian qua các cơ quan chức năng ở tỉnh Quảng Bình đã tiến

hành tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với từng đối tượng người nghe. Ban

ATGT tỉnh phối hợp với Tạp chí sinh hoạt Chi bộ mỗi số dành một trang cho

47

chuyên mục “An toàn giao thông”, nội dung đăng tải do Văn phòng Ban

ATGT tỉnh đảm nhận; đưa nội dung ATGT vào tất cả các cuộc sinh hoạt chi

bộ, đến từng đảng viên. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh thực hiện

phong trào “Toàn dân tham gia bảo đảm trật tự, ATGT”. Ban ATGT tỉnh ký

các Chương trình phối hợp với Hội Nông dân tỉnh về đẩy mạnh cuộc vận động

“Nông dân tham gia bảo đảm TT,ATGT”; với Hội Liên hiệp phụ nữ về cuộc

vận động “Phụ nữ tham gia bảo đảm TT,ATGT vì hạnh phúc của mỗi gia

đình”; với Sở Y tế về “Tăng cường công tác y tế nhằm giảm thiểu thiệt hại

TNGT”; với Hội Cựu chiến binh về thực hiện cuộc vận động “Cựu chiến binh

Việt Nam tham gia giữ gìn TT,ATGT”; với Sở Giáo dục và Đào tạo về “Tăng

cường công tác giáo dục kiến thức ATGT trong trường học giai đoạn 2013 -

2018”; với tỉnh Đoàn về “đẩy mạnh công tác giáo dục an toàn giao thông

trong đoàn viên, thanh thiếu nhi, học sinh, sinh viên giai đoạn 2012 - 2017”.

Đặc biệt, các cơ quan chức năng đã tập trung tuyên truyền vào đối tượng có

nguy cơ gây tai nạn giao thông cao như lái xe khách, thanh thiếu niên trên địa

bàn nông thôn, góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa giao thông cho người

dân trên địa bàn. Trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

TT,ATGTĐB lực lượng Cảnh sát giao thông giữ vai trò hết sức quan trọng.

Cảnh sát giao thông hằng năm tổ chức thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền

với những nội dung, hình thức, phù hợp với từng điều kiện cụ thể để triển

khai thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng và Chính phủ, các kế

hoạch phương án của Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an về công tác đảm

bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Việc triển khai được thực hiện đến

từng đối tượng cụ thể như học sinh, sinh viên các trường học trên địa bàn

tỉnh, bằng và thông qua các hội thi tìm hiểu Luật Giao thông đường bộ, hội thi

lái xe an toàn....Trong năm 2017, Ban ATGT tỉnh, Sở GTVT đã cấp phát

1.500 tờ gấp và 5.000 tờ rơi tuyên truyền , 1.000 cuốn cẩm nang “An toàn

48

giao thông nông thôn”, 1.720 áp phích, 100 cuốn “Sổ tay hướng dẫn nghiệp

vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về tải trọng phương tiện đường bộ”,

3.000 cuốn “Cẩm nang phòng chống tai nạn giao thông do uống rượu, bia”;

1.000 tờ rơi tuyên truyền tháng cao điểm an toàn giao thông cho học sinh đến

trường ; 2.360 cuốn “ Làm quen với Luật giao thông cho học sinh từ lớp 1

đến lớp 9”; tặng 350 mũ bảo hiểm cho học sinh trường Tiểu học Tân Ninh –

huyện Quảng Ninh; phối hợp với Sở Thông tin và truyền thông, Công an tỉnh,

Đài phát thanh và truyền hình, Báo Quảng Bình xây dựng và sóng 26 chuyên

mục, 16 phóng sự, 92 tin, duy trì và thực hiện điểm tin TT, ATGT hằng ngày

trên sóng phát thanh truyền hình tỉnh, hàng số, hàng tháng trên báo Quảng

Bình [3; tr2]. Nhìn chung các địa phương, đơn vị đã tích cực đẩy mạnh công

tác, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về TT, ATGT trên địa bàn. Quá

trình thực hiện, đã có nhiều hình thức tuyên truyền thực hiện có hiệu quả góp

phần thay đổi nhận thức và thái độ của nhân dân về trật tự, an toàn giao

thông.Với việc triển khai tích cực các biện pháp tuyên truyền nên tình hình

trật tự, an toàn giao thông (TT,ATGT) trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích

cực, ý thức chấp hành luật giao thông của cán bộ, học sinh và nhân dân ngày

càng được nâng lên, các hành vi vi phạm luật giao thông giảm dần. Trong 5

năm liền, Quảng Bình là một trong những tỉnh giảm tai nạn giao thông trên cả

ba tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.

Bên cạnh những mặt tích cực hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật về TT, ATGTĐB vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là hoạt động

diễn ra chưa thường xuyên, có lúc còn mang tính chiếu lệ, còn thiên về tuyên

truyền, phổ biến, chưa chú ý đúng mức việc phổ biến, hướng dẫn, giáo dục

pháp luật, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Các đối tượng thanh thiếu niên ít

tham dự các buổi tuyên truyền tại địa phương. Đội ngũ thực hiện công tác phổ

biến giáo dục pháp luật (báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ, công chức

49

liên quan đến công tác này) số lượng quá ít, kiêm nhiệm, không ổn định, ít

được tập huấn bài bản về nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật về ATGT;

phương tiện, công cụ, tài liệu, sách báo, có nơi chưa được cung cấp, trang bị

đầy đủ. Hình thức tuyên truyền, phổ biến tuy phong phú nhưng vẫn nặng về lý

thuyết, phương pháp chủ yếu thuyết trình. Đặc biệt hoạt động mới chỉ dừng

lại ở nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự, an toàn GTĐB mà

chưa chú trọng giáo dục pháp luật, giáo dục về tiêu chí “Văn hóa giao thông”

đến người tham gia giao thông chưa hiệu quả. Hoạt động còn thiếu trang bị

các kỹ năng cần thiết để người tham gia giao thông có thể phòng tránh tai nạn,

giảm thiểu hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ.

2.2.4. Đội ngũ cán bộ tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ

Con người là nhân tố quyết định hiệu quả công việc. Nhận thức sâu sắc

điều đó, trong thời gian qua đội ngũ làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật

về TT, ATGTĐB đã được chú trọng kiện toàn. Để hoạt động có hiệu quả, các

ban ngành đã chủ động củng cố tổ chức bộ máy; tăng cường giáo dục chính trị

tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp; nâng cao năng lực nghiệp

vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tổ

chức các cuộc thi tìm hiểu Luật An toàn giao thông, cử cán bộ tập huấn nghiệp

vụ nâng cao năng lực nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp

ứng yêu cầu đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn công

tác. Đặc biệt, để công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ diễn ra

có tính kế hoạch, có mục đích và có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ

đạo Ban an toàn giao thông tỉnh luôn kiện toàn tổ chức bộ máy đủ mạnh, có

tính trách nhiệm cao. Ngày 04/8/2017, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình đã

ban hành Quyết định số 2796/QĐ-UBND về việc kiện toàn Ban ATGT tỉnh.

Ban ATGT tỉnh có 24 cơ quan thành viên và 27 đồng chí thành viên, trong đó

50

trưởng ban là chủ tịch tỉnh, phó trưởng ban thường trực là Giám đốc sở giao

thông vận tải, phó trưởng ban là Phó giám đốc công an tỉnh, các Ủy viên là

đại diện Lãnh đạo các sở, ban, ngành và đại diện tham gia thành viên gồm

Lãnh đạo các cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; Liên đoàn

Lao động tỉnh; Hội Nông dân tỉnh; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; tỉnh Đoàn; Hội

Chữ Thập đỏ tỉnh; Hội cựu chiến binh tỉnh. Trong những năm vừa qua, Ủy

ban nhân dân tỉnh đã chủ động tổ chức thực hiện và phối hợp chặt chẽ với các

Bộ, ngành trong việc triển khai các giải pháp đảm bảo trật tự, an toàn giao

thông đường bộ. Ban an toàn giao thông tỉnh luôn bám sát chỉ đạo của Thủ

tướng Chính phủ, Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia, Ủy ban nhân dân

tỉnh... để thường xuyên tham mưu, chỉ đạo các đơn vị, địa phương triển khai

thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự, an toàn

giao thông đường bộ.

Tuy mạng lưới đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ đã phủ

khắp toàn tỉnh, từ tỉnh đến huyện, thị xã, tuy nhiên lực lượng thực thi còn

mỏng, vẫn còn trình trạng buông lỏng quản lý, tiêu cực trong công việc. Đội

ngũ làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TT, ATGTĐB vẫn còn thiếu

tính chủ động trong thực thi pháp luật. Trong quá trình và trong phạm vi thực

thi công vụ nhiều cán bộ chưa giải đáp pháp luật cho nhân dân. Việc giải

thích các quy định của pháp luật, hướng dẫn nhân dân thực hiện các quyền và

nghĩa vụ trong phạm vi thẩm quyền vẫn còn chưa được tiến hành đầy đủ,

thậm chí có người do chưa nắm rõ các quy định còn giải thích tù mù hoặc sai

sót. Một số cán bộ vẫn còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức

pháp luật chuyên ngành, còn nhiều hạn chế trong ứng xử theo pháp luật,

không thường xuyên cập nhật các văn bản mới ban hành nên nhiều khi giải

quyết công việc của dân còn vi phạm pháp luật. Một bộ phận không nhỏ cán

bộ, công chức còn gây khó khăn, sách nhiễu cho dân; tình trạng vi phạm đạo

51

đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật của một số cán bộ làm công tác tổ chức

thực hiện pháp luật về TT, ATGTĐB đã làm giảm lòng tin của Nhân dân.

2.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, tuần tra, kiểm soát

Ban ATGT tỉnh, Công an tỉnh, Sở GTVT đã chỉ đạo cảnh sát giao

thông, thanh tra giao thông, Công an các địa phương huy động tối đa lực

lượng, phương tiện, trang thiết bị tăng cường tuần tra, kiểm soát... tiếp tục

nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ, trọng điểm là tuyến Quốc lộ 1, đường Hồ Chí

Minh, Quốc lộ 12A, đường giao thông nông thôn...Theo Báo cáo tổng kết của

Ban an toàn giao thông tỉnh, năm 2014 lực lượng chức năng đã tổ chức được

14.910 ca tuần tra, kiểm soát, với 49.285 lượt cán bộ chiến sĩ (CBCS) tham

gia; ra quyết định xử phạt 32.460 trường hợp, thu tiền qua Kho bạc Nhà nước

31.622.000.000 đồng; tạm giữ 5.284 phương tiện (348 ô tô, 4.896 mô tô, 40

xe đạp điện); tước giấy phép lái xe có thời hạn 3.627 trường hợp, tổ chức

kiểm tra lại Luật Giao thông đường bộ cho các trường hợp bị tước giấy phép

lái xe 60 ngày là 85 trường hợp. Thông báo vi phạm đến cơ quan, đơn vị, nơi

cư trú, trên Đài Phát thanh tuyền hình tỉnh và Báo Quảng Bình số người vi

phạm là 3.399 trường hợp. Năm 2015, lực lượng chức năng đã tổ chức được

16.694 ca TTKS, với 58.644 lượt CBCS tham gia. Năm 2016, các lực lượng

chức năng đã tổ chức 22.294 ca tuần tra, kiểm soát, trong đó tuần tra giao

thông đường bộ với 15.529 ca. Năm 2017, lực lượng chức năng tổ chức được

24.908 ca tuần tra, kiểm soát với 71.399 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia , ra

quyết định xử phạt 21.042 trường hợp, thu tiền qua Kho bạc Nhà nước 31 tỷ

đồng, tạm giữ 5.969 phương tiện, tước giấy phép lái xe có thời hạn 2.703

trường hợp. Trong đó lực lượng chức năng đã tổ chức 16.146 ca tuần tra,

kiểm soát đường bộ với 66.646 lươtcj cán bộ chiến sĩ tham gia, ra quyết định

xử phạt 20.939 trường hợp, thu tiền qua Kho bạc Nhà nước hơn 30,9 tỷ đồng,

52

tạm giữ 5.969 phương tiện.[3; tr2]. Bên cạnh công tác tuần tra, kiểm tra

thường xuyên, lực lượng chức năng đã tiến hành tuần tra, kiểm soát theo từng

chuyên đề như kiểm tra nồng độ cồn, tổng kiểm soát xe ô tô chở khách sau tết

Nguyên đán... góp phần quan trọng giữ vững trật tự, an toàn giao thông, nhất

là trong những thời gian cao điểm của năm. Hoạt động này góp phần rất lớn

vào việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ của người tham gia giao thông. Việc tuần tra, kiểm soát của cảnh

sát giao thông, thanh tra giao thông góp phần tích cực nâng cao ý thức tuân

thủ pháp luật cho người tham gia giao thông. Mặt khác, thông qua hoạt động

tuần tra, kiểm soát lực lượng chức năng kịp thời phát hiện các hành vi vi

phạm góp phần thiết lập trật tự, nền nếp của người tham gia giao thông đường

bộ. Không những thế, các cơ quan chức năng đã tăng cường chỉ đạo, siết chặt

quản lý kinh doanh vận tải, bảo đảm an toàn vận tải phục vụ các dịp lễ, tết. Sở

Giao thông vận tải tăng cường kiểm tra chặt chẽ phương tiện và người lái về các

điều kiện an toàn trước khi xuất bến, điều kiện kinh doanh, về việc chấp hành các

quy định về ATGT, các bộ phận an toàn giao thông và người điều hành vận tải.

Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và

UBND tỉnh về tăng cường thực hiện kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ,

cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông đã tiến hành tuần tra, kiểm soát, bảo

đảm hạ tầng giao thông, bảo đảm an toàn giao thông, tiến độ thi công các dự

án, giải phóng mặt bằng Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 và các dự án

giao thông trên địa bàn. Chủ động xây dựng phương án bảo đảm an toàn giao

thông trong mùa mưa lũ, đặc biệt tích cực ứng dụng công nghệ trong phát

hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật giao thông; bảo đảm trật tự ATGT

trong các ngày lễ lớn và ngày tết.

53

Biểu 2.1.Tuần tra kiểm soát An toàn giao thông

Nguồn: Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

Bên cạnh đó, thực hiện chỉ thị số 32/TC-TTg ngày 25 tháng 11 năm

2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm soát tải

trọng phương tiện giao thông, Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình đã có

văn bản chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải, Công an giao thông và các lực lượng

chức năng khác phối kết hợp thực hiện tuần tra, kiểm soát xử lý nghiêm minh

hành vi chở quá tải trọng của ô tô vận chuyển hàng hóa trên đường bộ. Đối

tượng kiểm tra là các xe ô tô tải, ô tô đầu kéo rơ mooc, xe ô tô chở container

vượt tải trọng thiết kế được được ghi trong giấy chứng nhận đăng kí hoặc sổ

chứng nhận kiểm định an toàn kĩ thuật và bảo vệ môi trường hoặc chở hàng

vượt tải trọng, quá khổ giới hạn cầu đường, xe ô tô vận chuyển hàng siêu

trường, siêu trọng tham gia giao thông vận tải trên các tuyến quốc lô đi qua

địa bàn tỉnh Quảng Bình và hệ thống đường bộ địa phương. Hiện nay, tỉnh

Quảng Bình vẫn đang duy trì hoạt động 24/24h của trạm cân lưu động quốc lộ

1 và Tổ liên ngành tập trung kiểm soát xe trên quốc lộ 12A, đường Hồ Chí

Minh và khu vực tập trung các mỏ vật liệu. Phối hợp với lực lượng Cảnh sát

giao thông phân luồng hướng dẫn các phương tiện trong các đợt thiên tai, lũ

54

lụt, ùn tắc giao thông bảo đảm an toàn cho người, phương tiện qua lại các

tuyến đường trên địa bàn tỉnh. Triển khai thực hiện công tác đảm bảo an toàn

giao thông trong quá trình thi công Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 đoạn

đi qua tỉnh Quảng Bình; thường xuyên trực phân luồng, điều tiết giao thông,

phục vụ tốt nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá của nhân dân.

Tuy nhiên, việc tuần tra, kiểm soát có thời điểm chưa được thường

xuyên dẫn đến nhiều hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ xảy ra. Tình trạng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong quá trình kiểm tra,

kiểm soát. Do lực lượng mỏng, thiết bị phục vụ cân kiểm soát tải trọng thiếu,

nhiều hiện tượng lái xe chống đối, gây gổ tạo sức ép và gây khó khăn cho lực

lượng liên ngành khi thực hiện kiểm tra tải trọng công tác kiểm soát.

2.2.6. Tổ chức thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý và các biện pháp

tổ chức trực tiếp

Tổ chức thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý là hình thức tổ chức

thực hiện pháp luật về TT, ATGTĐB quan trọng. Hiện nay, cùng với sự phát

triển mọi mặt trong đời sống xã hội, hoạt động giao thông vận tải nói chung

và giao thông đường bộ nói riêng đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhất là cơ

sở hạ tầng và phương tiện tham gia giao thông, vì vậy, các hoạt động tổ chức

thực hiện pháp luật dưới hình thức tổ chức đăng ký xe, chuyển đổi chủ sở

hữu, sát hạch, cấp giấy phép lái xe...trở nên thường xuyên. Năm 2014 cơ quan

chức năng đã tổ chức đăng ký mới 2.462 ô tô; 28.755 mô tô, xe máy nâng

tổng số phương tiện đang quản lý là 15.854 ô tô; 346.682 mô tô, xe máy.

Thực hiện kiểm định 15.506 lượt phương tiện, cấp 11.909 giấy chứng nhận

An toàn kỹ thuật và Bảo vệ môi trường cho các phương tiện đạt tiêu chuẩn an

toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tham gia giao thông. Giám định kỹ thuật

xe tai nạn giao thông 06 chiếc, sát hạch 74 khóa, cấp mới 15.771 giấy phép lái

xe mô tô hạng A1, A2, sát hạch 21 khóa, cấp mới 2.836 giấy phép lái xe ô tô

55

hạng B1, B2, C và cấp đổi được 4.812 giấy phép lái xe hạng mô tô và 6.607

giấy phép lái xe hạng ô tô. Năm 2015, Sở Giao thông vận tải đã cấp 179 Giấy

phép kinh doanh vận tải hành khách; đăng ký mới 2.449 ô tô; 26.607 mô tô, xe

máy với tổng số phương tiện đang quản lý là 20.206 ô tô; 373.302 mô tô, xe máy.

Năm 2016, Sở Giao thông vận tải đã cấp 111 Giấy phép đăng ký kinh doanh vận

tải bằng xe ô tô với tổng số phương tiện là 1.048 xe (gồm: 47 xe công ten nơ, 279

xe đầu kéo, 533 xe trên 10 tấn, 153 xe 7-10 tấn và 36 xe 3,5-7 tấn); cấp đổi 316

Giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô (gồm: 206 Giấy phép kinh doanh vận

tải hành khách và 110 Giấy phép kinh doanh vận tải hàng hóa); 992 Giấy phép

liên vận Việt Nam - Lào; 1.085 phù hiệu vận tải các loại, gồm: 85 phù hiệu xe hợp

đồng, 108 phù hiệu xe taxi, 724 phù hiệu xe tải, 33 phù hiệu xe buýt, 05 phù hiệu

xe container, 135 phù hiệu xe đầu kéo. thực hiện kiểm định 18.638 lượt phương

tiện, cấp 15.025 giấy chứng nhận An toàn kỹ thuật và Bảo vệ môi trường cho các

phương tiện đạt tiêu chuẩn tham gia giao thông. Sát hạch 40 khóa, cấp mới 13.660

giấy phép lái xe mô tô hạng A1, A2. Sát hạch 40 khóa, cấp mới 3.463 giấy phép

lái xe ô tô hạng B1, B2, C. Cấp đổi được 43.228 giấy phép lái xe hạng mô tô và

3.209 giấy phép lái xe hạng ô tô [1; tr 5].

Tuy đạt được nhiều mặt tích cực, các hình thức tổ chức thực hiện pháp

luật về TT, ATGTĐB thông qua các hoạt động pháp lý và áp dụng các biện

pháp trực tiếp vẫn còn những hạn chế nhất định. Công tác tổ chức đăng ký xe

còn chậm so với yêu cầu của thực tiễn, thủ tục còn chưa thông suốt, đôi lúc

còn thiếu minh bạch, thái độ phục vụ có khi còn chưa chu đáo nên gây ra tâm

lý e ngại cho người dân dẫn đến phần nhiều người dân ủy thác công việc này

cho bên bán xe hoặc sử dụng các dịch vụ bên ngoài, làm tốn thêm chi phí,

thiệt thòi cho người dân. Công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe còn

một số tồn tại như: năng lực đội ngũ giáo viên dạy lái xe chưa đồng đều; tình

trạng cắt xén nội dung, chương trình đào tạo khá phổ biến; sát hạch lái xe mô

56

tô còn thủ công, phân tán, còn biểu hiện tùy tiện, nể nang, ở nhiều nơi chất

lượng còn thấp; thậm chí còn một số tiêu cực xảy ra.

Công tác quản lý, giáo dục lái xe chưa được chủ sử dụng lao động chú

ý; chưa tổ chức phổ biến, cập nhật kiến thức mới thường xuyên, tuyên truyền

pháp luật định kỳ cho lái xe, chưa bảo đảm điều kiện, thời gian làm việc, nghỉ

ngơi, chăm sóc sức khỏe, các chế độ bảo hiểm cho lái xe theo quy định. Vì

vậy, tình trạng không ít lái xe coi thường kỷ cương pháp luật, nghiện hút ma

túy, cá biệt có lái xe chống người thi hành công vụ. Công tác quản lý hoạt

động vận tải, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho người tham gia giao thông

cũng như chất lượng đào tạo, sát hạch cấp giấy phép điều khiển phương tiện

giao thông còn nhiều hạn chế, công tác quản lý còn thiếu chặt chẽ.

2.2.7. Xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi

phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm

và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Xử phạt vi phạm hành chính là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng

hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực

hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ hiện nay được quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP của Chính

phủ thay thế cho Nghị định 171/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

Xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong

thời gian qua luôn được các cơ quan chức năng chú trọng. Các hành vi vi

phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông, nhất là các lỗi trực tiếp gây tai

nạn giao thông như vi phạm về nồng độ cồn, tốc độ, phần đường, làn đường,

vi phạm về mũ bảo hiểm, xe 3 bánh, xe 4 bánh gắn động cơ và mô tô, xe máy

chở hàng cồng kềnh, quá khổ, quá tải trái quy định, phương tiện giao thông

57

đường bộ hết niên hạn sử dụng, quá hạn kiểm định; siết chặt quản lý hoạt

động vận tải của xe thô sơ, xe gắn máy, xe mô tô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh...bị

xử lý nghiêm. Theo Báo cáo tổng kết của Ban an toàn giao thông tỉnh, năm

2016, các lực lượng chức năng đã ra quyết định xử phạt 25.373 trường hợp,

thu vào kho bạc nhà nước 28 tỷ đồng, trong đó, chủ yếu là vi phạm giao thông

đường bộ. Thông qua công tác tuần tra, kiểm sát lực lượng chức năng đã tạm

giữ 1103 phương tiện, tước giấy phép lái xe có thời hạn 1161 trường hợp. Đặc

biệt, từ ngày 16/5/2017, hệ thống camera giám sát xử lý vi phạm đi vào hoạt

động đã phát hiện ghi nhận được 2164 trường hợp vi phạm, đón dừng lập biên

bản 1199 trường hợp, thu vào Kho bạc Nhà nước 2,1 tỷ đồng, đã gửi 965

thông báo vi phạm hành chính đến chủ phương tiện, tước Giấy phép lái xe có

thời hạn 4.845 trường hợp. Phát hiện và xử lý 63 trường hợp, phạt tiền 84,8 triệu

đồng đối với xe hoạt động không gắn phù hiệu, dừng đỗ, đón trả khách không

đúng nơi quy định, chạy không đúng tuyến đường, lịch trình, hành trình quy định.

Kiểm tra các dự án, công trình thi công, phát hiện và lập biên bản xử phạt vi phạm

hành chính trên đường bộ là 9 trường hợp, phạt tiền 50 triệu đồng. Các hành vi vi

phạm hành chính chủ yếu như điều khiển phương tiện chạy quá tốc độ; đi sai

phần đường, không đội mũ bảo hiểm; không mang theo giấy chứng nhận sở

hữu phương tiện; người điều khiển không có giấy phép lái xe; sử dụng bia,

rượu khi điều khiển phương tiện; vi phạm quy định về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho người đi bộ; người điều khiển xe ô tô chở hành

khách, chở người, ô tô vận chuyển hàng hóa vi phạm quy định về vận tải

đường bộ...Theo đánh giá chung của Ban Pháp chế HĐND tỉnh, công tác xử

lý vi phạm hành chính bảo đảm đúng thẩm quyền, đúng mức phạt pháp luật

quy định. Vì vậy, không có đơn khiếu nại, tố cáo về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

58

Thực tiễn công tác tổ chức thực hiện pháp luật qua việc xử lí vi phạm

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ bên cạnh những mặt đã đạt

được còn tồn tại một số hạn chế như công tác tuần tra, kiểm soát chủ yếu theo

phương thức kiểm soát tại một điểm trên đường giao thông nên hiệu quả răn

đe, giáo dục chưa cao. Trong khi việc sử dụng phương thức tuần tra, kiểm

soát cơ động chưa nhiều, chưa kiểm soát hết địa bàn nên việc phát hiện hành

vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông còn nhiều hạn chế. Việc xử

lý vi phạm nhiều lúc chưa nghiêm, vẫn còn tình trạng nể nang, bỏ qua cho

hành vi vi phạm. Cá biệt, việc xử lý không thực hiện được đến cùng do có sự

can thiệp từ bên ngoài. Trong một số trường hợp nhất định việc xử lý vi phạm

pháp luật về TT,ATGTĐB vẫn còn có hiện tượng tiêu cực làm hạn chế hiệu

quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Ngoài ra, do thường xuyên bị

quá tải bởi một khối lượng công việc lớn, cán bộ xử lý khi ra quyết định xử

phạt thường đề xuất lãnh đạo hoặc ra quyết định xử phạt ở mức trung bình

của khung phạt tiền mà ít chú ý đến việc xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ để quyết định hình thức và mức phạt cho phù hợp, dẫn đến một số trường

hợp cần phạt nặng và áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung để răn đe thì lại

không được áp dụng, khiến cho công tác xử lý vi phạm mới chỉ chạy theo số

lượng, chưa đi vào chiều sâu, do đó hiệu quả ngăn ngừa vi phạm và tái vi

phạm đạt được chưa cao.

2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ

Kết quả đạt được dưới sự tác động của hoạt động tổ chức thực hiện

pháp luật về TT, ATGTĐB thể hiện ở mức độ thiết lập trật tự và an toàn về

giao thông đường bộ, ở sự thay đổi của đối tượng tác động về tri thức, ý thức

và hành vi thực hiện pháp luật. Để rút ra những kết luận có cơ sở, thiết thực

nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TT,

59

ATGTĐB ngoài việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp

luật nhất thiết phải xem xét kết quả đạt được của công tác này trong thời gian

qua. Đây là vấn đề phức tạp vì kết quả của việc tổ chực thực hiện pháp luật

không phải xác định được một cách cụ thể, rõ ràng trong thời gian ngắn. Hơn

nữa, trong nhiều trường hợp mối quan hệ giữa công tác tổ chức thực hiện pháp

luật với mức độ đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đờng bộ không phải theo

chiều thuận hay theo chiều nghịch mà phụ thuộc nhiều vào tác động của điều

kiện khách quan. Tuy vậy, qua nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động tổ chức thực hiện

pháp luật về TT, ATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua có thể rút ra

những kết quả như sau:

2.3.1. Những kết quả tích cực trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TT,ATGTĐB đã đạt được

nhiều mặt tích cực. Pháp luật về TT,ATGTĐB được triển khai và thực hiện

rộng khắp trên phạm vi địa bàn. Tai nạn giao thông đường bộ giảm trên cả ba

tiêu chí là số vụ tai nạn; số người chết; số người bị thương. Công tác tổ chức

thực hiện pháp luật về TT,ATGTĐB đã góp phần tạo lập thói quen và ý thức

chấp hành pháp luật về an toàn giao thông của người tham gia giao thông,

trước hết là người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; phát triển văn

hóa giao thông cộng đồng. Xóa bỏ nhiều điểm đen, các vị trí có nguy cơ tiềm

ẩn tai nạn giao thông cao trên hệ thống đường bộ của tỉnh. Hoàn chỉnh hệ

thống quản lý đăng kí, đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ

của tỉnh; nâng cấp hệ thống đào tạo (các trung tâm trường nghề) sát hạch cấp

giấy phép lái xe đạt tiêu chuẩn quốc gia. Các ngành, đơn vị liên quan của tỉnh

tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng trang thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao

hiệu quả và tính minh bạch trong giám sát, xử phạt vi phạm hành chính.

Trong những năm gần đây, lực lượng chức năng đã triển khai nhiều kế hoạch,

60

hoạt động như tăng cường công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm hành

chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông

nông thôn...đảm bảo cơ bản tình hình trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn.

Cho đến nay tỉnh Quảng Bình đã có đầy đủ các loại hình giao thông vận

tải, các tuyến giao thông trên địa bàn được đầu tư hiện đại hơn. Hệ thống accs

tuyến đường quốc lộ 1ª, 12ª được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Hệ thống các

tuyến đường đô thị được quy hoạch lại, xây dựng vỉa hè, lắp đặt đèn đường

nhiều hơn. Hệ thống giao thông nông thôn ngày càng được bê tông chuẩn hóa,

đồng bộ hơn về kết cấu hạ tầng giao thông. Công tác chỉ đạo điều hành đạt

nhiều kết quả tốt như kịp thời quán triệt trong các tổ chức đảng và triển khai

thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật cấp trên đồng thời kịp thời ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật cũng như tổ chức, triển khai thực hiện

trong cuộc sống. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TT,

ATGT từ tỉnh đến cơ sở đã được đẩy mạnh, thu hút sự tham gia tích cực của

các cơ quan thông tấn báo chí. Quan tâm phát động phong trào, xây dựng

nhiều mô hình hiệu quả về đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ ví dụ

như mô hình địa bàn an toàn giao thông tại các thôn, xã, thôn văn hóa giao

thông, đoạn đường em chăm...Thực hiện tốt công tác quản lý vận tải, phương

tiện, người điều khiển phương tiện. Công tác đăng ký, quản lý phương tiện

được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, đẩy mạnh cải cách hành chính

giảm phiền hà cho nhân dân.

Hoạt động tuần tra, kiểm soát luôn được đổi mới về phuwong pháp và

chiến thuật tuần tra, kiểm soát , sử dụng các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ , ứng

dụng công nghệ tiên tiến vào giám sát đã phát hiện nhiều trường hợp vi pháp

luật về giao thông đường bộ. Thời gian gần đây, tỉnh đã đầu tư xây lắp hệ

61

thống camera giám sát trên quốc lộ 1ª đã góp phần nâng cao hiệu quả phát

hiện và xử lý vi phạm TT, ATGT đường bộ trên địa bàn.

Công átc thanh tra, kiểm soát, kiểm tra được thực hiện thường xuyên và

có hiệu quả hơn. Kết hợp hiệu quả giữa đảm bảo TT, ATGT với công tác đấu

tranh, phòng chống tội phạm trên tuyến giao thông. Đơn cử, qua thanh tra,

kiểm soát giao thông, lực lượng chức năng đã phát hiện và phối hợp bắt giữ

17 đối tượng phạm pháp hình sự , 01 đối tượng sử dụng tài liệu, con dấu giả,

107 vụ vận chuyển hàng hóa trái phép, 04 vụ vận chuyển chất ma túy [19;tr4].

Những kết quả đạt được trên đây cho thấy công tác tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình cơ bản đã

đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giao thông trên địa bàn, Tuy nhiên vẫn còn

nhiều yếu tố cản trở hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình do đó cần đẩy mạnh hơn nữa

công tác tổ chức và thực thi pháp luật giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình.

2.3.2. Những hạn chế trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ

Bên cạnh những mặt tích cực, kết quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về TT,ATGTĐB vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Mặc dù công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác tuần tra,

kiểm soát được tăng cường, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm song trên

thực tế, vi phạm vẫn diễn ra khá phổ biến, nhất là ở các vùng nông thôn, miền

núi dẫn đến tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng. Các hành vi như

đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ (bao gồm đường

bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ

đường, cọc tiêu, rào chắn, dải phân cách, cột cây số, tường, kè, hệ thống thoát

nước, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí và các công trình, thiết bị phụ

62

trợ đường bộ khác) vẫn còn. Hành vi tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai

lệch, che khuất hoặc phá huỷ biển báo hiệu, các thiết bị an toàn giao thông

đường bộ bao gồm đèn tín hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu, rào chắn, tường bảo

vệ, đảo giao thông, dải phân cách, gương cầu và các thiết bị phụ trợ khác

nhằm bảo đảm an toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra. Việc lấn chiếm,

chiếm dụng vỉa hè, lòng đường bao gồm cả các hành vi sử dụng lòng đường,

lề đường, hè phố trái phép như buôn bán, giữ xe dưới lòng đường..., lấn chiếm

hành lang bảo vệ đường bộ như hành vi sử dụng trái phép đất hành lang an

toàn đường bộ vẫn còn nhiều. Các hành vi phạm quy định về bảo đảm an toàn

giao thông khi thi công trên đường bộ gồm các hành vi không đặt biển báo,

rào chắn hoặc đặt biển báo, rào chắn không đúng quy định khi thi công trên

đường bộ; không thu dọn ngay các biển báo hiệu, rào chắn, phương tiện thi

công, các vật liệu khác hoặc không hoàn trả phần đường theo nguyên trạng

khi thi công xong đang có dấu hiệu gia tăng. Tình trạng người điều khiển

phương tiện cơ giới đường bộ sau khi sử dụng rượu, bia còn phổ biến, đây là

một trong những nguy cơ gây tai nạn giao thông. Tình trạng xe dù, bến cóc, xe

taxi, xe ô tô cá nhân dừng đỗ trên đường giao thông công cộng, hành lang

đường bộ còn xảy ra, gây mất TT,ATGT và ảnh hưởng mỹ quan đô thị. Xe

khách giường nằm, xe ô tô tải, xe sơ mi rơ mooc, xe chuyên dụng vi phạm các

điều kiện an toàn giao thông, chở hàng hóa quá tải trọng... vẫn tồn tại kéo dài.

Người tham gia giao thông còn vi phạm các lỗi như không đội mũ bảo hiểm,

tốc độ; sử dụng rượu, bia trong quá trình tham gia giao thông; chở ba, chở

bốn, không đủ tuổi điều khiển xe máy… tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất

TT,ATGT trên địa bàn nông thôn là rất cao. Đặc biệt, tai nạn giao thông vẫn

nhiều và nghiêm trọng. Theo số liệu từ Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Quảng

Bình, từ ngày 16/12/2015 đến ngày 15/12/2016 toàn tỉnh xảy ra 251 vụ tại

nạn giao thông, làm chết 108 người, làm bị thương 238 người. Trong đó, riêng tai

63

nạn giao thông đường bộ xảy ra 247 vụ, làm chết 105 người, làm bị thương 235

người. Tính đến ngày 15/8/2017, toàn tỉnh xảy ra 163 vụ tai nạn làm chết 81

người và bị thương 130 người [18 ; tr1]

Bảng 2.3: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ

Năm

Số vụ

Tăng (+)

Người

Tăng (+)

Bị

Tăng (+)

giảm (-)

chết

giảm (-)

thương

giảm (-)

01/12/2013

-255( -30,8%)

-42 (20,1%)

295

-325( -37%)

421

212

2014

312

- 125 vụ(-

130

-11 (-8%)

280

- 196 (-41%)

28%)

2015

248

- 63 vụ(-20%)

112

- 11 (14%)

239

-4 (-15%)

2016

247

- 1 (-1%)

105

-7 (6%)

235

- 4(-2%)

2017

225

103

- 22 vụ (-9%)

-2 (- 2%)

191

- 44 (-19%)

ở tỉnh Quảng Bình qua các năm

(Nguồn: Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình)

Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình tai nạn giao thông vẫn rất phức

tạp, tỷ lệ giảm chưa nhiều, số vụ và số người chết vẫn cao, nhất là ở tuyến

đường nội thành thành phố Đồng Hới.

Biểu đồ 2.2 : Tai nạn giao thông đường bộ tại các địa bàn tỉnh năm 2014

Nguồn : Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

64

Biểu đồ 2.3 : Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2015

Nguồn : Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

Biểu đồ 2.4. Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2016

Nguồn : Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

65

57

60

54

51

48

50

40

29

27

30

26

22

18

18

17

20

16

15

15

14

13

12

12

11

11

10

9

7

7

10

0

Quảng Ninh

Tuyên Hóa

Ba Đồn

Bố Trạch

Quảng Trạch

Đồng Hới

Lệ Thủy

Minh Hóa

Số vụ

Số người chết

Số người bị thương

Biểu đồ 2.5: Tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh năm 2017

Nguồn : Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

Nghiên cứu bảng số liệu trên cho thấy tình trạng an toàn giao thông

đường bộ vẫn diễn biến phức tạp. Phân tích tai nạn giao thông ở tỉnh Quảng

Bình trong năm 2017 cho thấy tai nạn xảy ra chủ yếu ở các tuyến quốc lộ

(154/225 vụ), tiếp đến là đường nội thị 27/225 vụ. Địa phương xảy ra tai nạn

nhiều nhất là thành phố Đồng Hới (57/225 vụ, huyện Bố Trạch (51/225 vụ),

địa phương ít xảy ra tai nạn nhất là thị xã Ba Đồn (12/225 vụ). Phương tiện

gây ra tai nạn chủ yếu là ô tô (111/225 trường hợp) tiếp đến là mô tô (110/225

trường hợp), các phương tiện khác 04 trường hợp. Nhóm độ tuổi gây tai nạn

nhiều nhất là độ tuổi 27 đến 55 (127/225 vụ) tiếp đến là độ tuổi 18 đến 27

(77/225 vụ), trên 55 tuổi (15/225 vụ), độ tuổi ít gây tai nạn nhất là dưới 18

tuổi (6/225 vụ). Thời gian xảy ra tai nạn nhiều nhất là từ 12 đến 24 giờ trong

đó, nguyên nhân dẫn đến tai nạn do đi sai làn đường chiếm nhiều nhất tiếp đó

là tránh vượt không đúng quy định, vượt quá nồng độ cồn cho phép.

66

Từ thực tế có thể nhận thấy, mặc dù với sự vào cuộc của cả hệ thống

chính trị, các cấp, các ngành, địa phương, việc tổ chức triển khai thực hiện

pháp luật đã được chú trọng, tình hình TT,ATGT trên địa bàn tỉnh cơ bản

được giữ vững; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội

trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tế thì hiệu quả của

công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ chưa cao, trật tự, an toàn giao thông đường bộ vẫn chưa thực sự

được đảm bảo, chưa tạo được sự yên tâm cho nhân dân khi tham gia giao

thông.

2.4. Nguyên nhân của hững kết quả đạt được và hạn chế

2.4.1 Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, địa

phương đã chỉ đạo cùng với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp

trọng tâm, tình hình TT, ATGT tr ở tỉnh Quảng Bình đã giảm trên cả ba tiêu

chí số vụ, số người chết và số người bị thương, giữ vững, góp phần đảm bảo

an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nguyên nhân của những thành tựu

trên trước hết nhờ vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban An

toàn giao thông, Công an tỉnh và các đơn vị, cơ quan chủ lực khác. Công tác

tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ của tỉnh

chú trọng việc gắn trách nhiệm của người đứng đầu và các cơ quan, tổ chức

có thẩm quyền cũng như có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. Chú

trọng công tác tổ chức đào tạo đội ngũ, không ngừng xây dựng đội ngũ ngày

càng lớn mạnh, có nhận thức, hiểu biết sâu sắc về pháp luật ATGT, đáp ứng

tốt yêu cầu tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong

nhân dân, thường xuyên, kịp thời phản ánh phản ánh tình hình TT, ATGT

67

cũng như tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, tổ chức duy trì và phối

hợp có hiệu quả hoạt động của đường dây nóngtrong việc xử lý kịp thời các ý

kiến phản ánh về tình hình trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Công tác sơ kết, tổng kết hoạt động thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ trên địa bàn được duy trì thường xuyên. Qua đó rút

ra những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế để đề ra biện pháp

khắc phục, rút kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền trong thời gian tiếp

theo. Đồng thời, qua sơ kết, tổng kết phát hiện những tập thể, cá nhân có

thành tích xuất sắc để đề xuất khen thưởng, động viên kịp thời, nhân rộng các

mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

về trật tự, ATGT.

2.4.2 Nguyên nhân của những hạn chế

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những công tác tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông chưa có hiệu quả, có thể kể đến:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện, với nhiều

tầng nấc, có hiệu lực pháp lý khác nhau, hình thức rất đa dạng, do nhiều cơ

quan nhà nước ban hành về một vấn đề, lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung

thay thế, chưa đồng bộ, vẫn còn có những mâu thuẫn, chồng chéo. Văn bản

quy phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông vẫn còn một số quy định

chưa khả thi, khó thực hiện do chưa được nghiên cứu, bám sát thực tiễn đời

sống xã hội. Việc ban hành, sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật về

giao thông còn chậm, chưa đáp ứng được tình hình phát triển của giao thông

hiện nay. Chưa có văn bản quy định các chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các

hành vi lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường bộ, chưa quy định về

đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cho người tàn tật.... Chất lượng một số

văn bản chưa cao, chưa sát thực tế nên phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần như

Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ,

68

Nghị định về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ôtô gây khó khăn cho việc áp

dụng, triển khai trên thực tế. Thiếu các quy định về chế độ đối với những

chiến sĩ cảnh sát, thanh tra giao thông hy sinh hoặc bị thương khi làm nhiệm

vụ. Điều đặc biệt là khi văn bản luật chuyên ngành đã được ban hành nhưng

các địa phương vẫn chờ văn bản hướng dẫn thi hành, từ đó làm cho văn bản

luật kém hiệu lực, hệ thống pháp luật rườm rà, số lượng quá lớn, khó tiếp cận,

khó vận dụng và kiểm soát. Yếu tố lợi ích của mọi tầng lớp xã hội vẫn chưa

được tính toán đầy đủ, chi tiết nên nhiều khi pháp luật chưa trở thành đại

lượng dung hoà các lợi ích chung của các giai tầng trong xã hội, người dân

vẫn chưa thấy được pháp luật thể hiện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của

mình. Một số văn bản luật đánh giác tác động, chưa xuất phát từ tính đặc thù

của loại quan hệ xã hội cần điều chỉnh, thiếu tính thực tiễn của cuộc sống,

chưa dự báo tốt nên phải sửa đổi, bổ sung ngay sau khi ban hành do không dự

liệu hết những khả năng có thể xảy ra cũng như dự báo những hiệu ứng, tác

động của luật đối với xã hội. Các quy định về chế độ, chính sách đối với

những người có công, bị thương, hi sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, an

toàn giao thông chưa đầy đủ; việc xây dựng, triển khai các đề án, dự án đầu tư

mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, giám định phục vụ công tác còn chưa đáp ứng

được yêu cầu đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả công tác bảo đảm trật tự,

an toàn giao thông. Nhiều quy định pháp luật chưa phù hợp. Cụ thể tại khoản

2 Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính không quy định Trạm trưởng, Đội

trưởng của chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành nhiệm vụ được áp dụng

biện pháp khắc phục hậu quả. Trong thực tế khi phát hiện vi phạm, thì những

người này không thể ra quyết định khắc phục hậu quả như buộc phải hạ tải

ngay phần quá tải, dỡ phần quá khổ… Do đó, sau khi lập biên bản vi phạm

xong các đối tượng vẫn chở quá tải hoặc quá khổ, không bảo đảm tính nghiêm

minh của pháp luật. Cơ chế trao đổi, phối hợp trong công tác xây dựng pháp

69

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa nhịp nhàng, thông suốt do

tình trạng chỉ quan tâm đến lợi ích bộ, ngành mình khi xây dựng pháp luật,

hoặc khi có những nội dung chưa thống nhất trong quá trình xây dựng văn

bản chưa có cơ chế cụ thể, hiệu quả để giải quyết vướng mắc; vì vậy, đã ảnh

hưởng đến tiến độ và chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông nói chung và trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói

riêng.

Thứ hai, ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Nhiều

người dân không tự giác thực hiện pháp luật, chỉ trong trường hợp thấy có

cảnh sát giao thông hoặc thanh tra thì mới tuân thủ pháp luật. Một điều tra gần

đây cho thấy, có đến 71,8% người được hỏi cho biết họ vi phạm pháp luật

pháp luật về giao thông đường bộ là do không nhìn thấy công an canh gác [30

tr2]. Nhận thức của nhân dân, bao gồm cả cán bộ, công chức về tầm quan

trọng của pháp luật còn thấp, ảnh hưởng của thói quen trọng “lệ” hơn trọng

“luật” vẫn còn tồn tại, điều kiện thông tin chưa thuận lợi khiến cho người dân

khó có thể nắm bắt thông tin pháp luật thiết yếu để áp dụng vào thực tiễn cuộc

sống. Tâm lý không tôn trọng pháp luật, thậm chí coi thường pháp luật nhiều

nơi trở thành thói quen, nhiều người, thậm chí ở cả công chức, viên chức chỉ

“sợ cán bộ hoặc sợ chính quyền” mà không “sợ” pháp luật vẫn còn tiềm ẩn.

Nhiều người dân khu vực nông thôn hiểu biết về Luật giao thông đường bộ

còn hạn chế, vô tư điều khiển phương tiện khi chưa có bằng lái, chở quá số

người quy định, sử dụng rượu bia, không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy.

Ngoài ra, tình trạng lấn chiếm hành lang an toàn giao thông diễn ra mọi lúc,

mọi nơi, ở mọi tuyến đường gây không ít khó khăn cho công tác bảo đảm an

toàn giao thông đường bộ. Đặc biệt, vì lợi nhuận và ý thức pháp luật thấp

nhiều chủ hàng, chủ xe và lái xe tìm cách trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát

của lực lượng chức năng. Một số lái xe, chủ hàng có hành vi kích động, phản

70

ứng, thậm chí đe dọa lực lượng thanh tra, gây khó khăn cho cơ quan chức

năng khi làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tải trọng xe.

Hoạt động xác minh, xử lý những người vi phạm pháp luật giao thông

có khi chưa phù hợp, việc phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử thiếu kịp thời,

nhiều vụ kéo dài làm người dân nghi ngờ tính nghiêm minh, cá biệt có trường

hợp bỏ lọt tội phạm, người vi phạm không bị xử lý; nhiều cán bộ, nhiều địa

phương “nhờn” pháp luật.

Thứ ba, chưa có cơ chế hữu hiệu giám sát việc tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Cơ chế giám sát việc tổ chức

thực hiện pháp luật, giám sát việc thực thi quyền lực là yếu tố quan trọng đặc

biệt bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ. Tuy nhiên trong thời gian qua, hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu.

Đặc thù của nhiều hoạt động thực thi pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn

giao thông đường bộ là di chuyển hoặc tổ chức thực hiện ở các địa điểm khác

nhau, tại những khu vực khác nhau và không gian cũng khác nhau nên việc

giám sát càng trở nên khó khăn hơn. Việc phân công trách nhiệm quản lý nhà

nước về giao thông và trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa phù hợp,

nhiều quy định chồng chéo nên trách nhiệm quản lý của nhà nước về trật tự,

an toàn giao thông được cho là trách nhiệm chung, không có ngành nào chịu

trách nhiệm chính, xuất hiện tình trạng đùn đẩy việc, né tránh trách nhiệm.

Công tác quản lý hoạt động vận tải, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho người

tham gia giao thông, chất lượng đào tạo, sát hạch cấp giấy phép điều khiển

phương tiện giao thông còn nhiều bất cập, bị buông lỏng quản lý. Tình trạng

tiêu cực trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ vẫn xảy ra nhưng chưa có cơ chế xử lý hiệu quả. Đây cũng

71

chính là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trong công tác tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Thứ tư, nguồn lực, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác đưa

pháp luật vào cuộc sống vẫn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa

tương xứng, nếu so sánh với nguồn lực đã bỏ ra trong công tác xây dựng pháp

luật. Kinh phí dành cho hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật thiếu thực tế,

không có mục ngân sách riêng, thiếu ổn định, chủ yếu được cấp thông qua các

hoạt động kinh tế - xã hội khác, với mức cao thấp do nhận thức của từng cấp,

từng ngành cụ thể, nên phần nào làm giảm khả năng, giảm trách nhiệm và

tính chủ động của cơ sở trong việc tổ chức thực hiện pháp luật. Phương tiện

vật chất bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật chưa bảo đảm, nhiều loại

phương tiện còn lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn như phương tiện truy bắt các

đối tượng vi phạm có tốc độ chậm hơn nhiều so với xe ô tô, mô tô của người

vi phạm. Cơ sở hạ tầng ngày càng xuống cấp hoặc chưa phù hợp về điều kiện

bảo đảm an toàn giao thông. Nguồn vốn bố trí cho công tác quản lý, bảo

dưỡng thường xuyên mới chỉ đáp ứng được khoảng 40-45% nên việc thực

hiện công tác bảo dưỡng thường xuyên gặp rất nhiều khó khăn, nhiều trường

hợp công trình xuống cấp không có nguồn vốn để thực hiện kịp thời. Có thể

thấy, phong trào xây dựng nông thôn mới đã góp phần nâng cấp hệ thống giao

thông nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại. Tuy nhiên, có

một thực tế là mặc dù đã được cải tạo, mở rộng, nâng cấp, bê tông hóa nhưng

nền đường giao thông nông thôn còn nhỏ hẹp, thiếu hệ thống chiếu sáng, biển

báo, thiết bị đảm bảo an toàn giao thông, tầm nhìn tại các điểm giao cắt bị che

khuất bởi nhà cửa, cây cối. Hơn thế nữa nhiều tuyến đường vừa mới làm xong

đã xuống cấp, bụi mù về mùa nắng, lầy lội về mùa mưa trong khi phương tiện

lưu thông bằng xe máy ngày càng tăng khiến cho công tác đảm bảo trật tự, an

toàn giao thông gặp rất nhiều khó khăn.

72

Tóm tắt chương 2

Quảng Bình là tỉnh ven biển duyên hải miền Trung, có vị trí thuận tiện

cho việc giao thương với các miền, các khu vực, là nơi hội đủ các yếu tố về

giao thông đường bộ. Trong thời gian qua công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình đã đạt điều

nhiều kết quả tích cực qua việc ban hành văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý

cho việc thực thi pháp luật, qua việc xây dựng đội ngũ, qua công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật, qua các hoạt động tổ chức mang tính pháp lý và

các hoạt động áp dụng trực tiếp. Nghiên cứu thực tiễn cho thấy, công tác tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ đã góp phần

hạn chế tình trạng vi phạm an toàn giao thông trên địa bàn, phòng ngừa, làm

giảm tai nạn giao thông, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật giao

thông của người tham gia giao thông, đưa hoạt động tham gia giao thông của

người dân dần đi vào nền nếp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đánh giá cho thấy

quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường

bộ trong xu thế phát triển, tai nạn giao thông và vi phạm hành chính về trật tự,

an toàn giao thông vẫn diễn biến phức tạp, tạo nên sự bất ổn trong xã hội, đòi

hỏi cần có những giải pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

73

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ

AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là yêu cầu

quan trọng nhằm hiện thực hóa pháp luật trong đời sống xã hội, đảm bảo an

toàn giao thông và trật tự xã hội. Phương hướng tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong thời gian tới bao gồm:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà

nước đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật về rật tự an toàn giao

thông đường bộ.

Hoạt động tổ chức, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn

giao thông đường bộ phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm chỉ đạo sát sao của

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương từ trung ương đến cơ sở. Vì thế, tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật trong

lĩnh vực đảm bảo trật tự, ATGTĐB có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm

bảo hoạt động đi đúng hướng, có hiệu quả, góp phần kiềm chế tai nạn giao

thông. Điều này đòi hỏi công tác bảo đảm trật tự, ATGTĐB phải đặt dưới sự

lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy đảng; sự quản lý, điều

hành thống nhất, chặt chẽ, quyết liệt của chính quyền các cấp; sự phối hợp

đồng bộ, hiệu quả của các ban, ngành, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn thể

chính trị - xã hội và sự tham gia tích cực, chủ động, tự giác của cán bộ, đảng

viên và Nhân dân. Đồng thời, nâng cao năng lực hiệu quả quản lý nhà nước

trong lĩnh vực bảo đảm TT,ATGTĐB; tăng cường kiểm tra các điều kiện bảo

74

đảm ATGT của các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đang khai thác và

trong quá trình thi công nâng cấp, bảo trì, sửa chữa. Các hoạt động tổ chức

thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ phải trên cơ sở chủ

trương, đường lối của Đảng về trật tự, ATGTĐB và hệ thống văn bản pháp

luật được ban hành nhằm quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ. Các văn bản pháp luật được Nhà nước ban hành phải thể chế hóa

các quan điểm, đường lối của Đảng.

Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ song song với phát triển cơ sở hạ tầng đường bộ.

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an tòan giao thông đường bộ

muốn hiệu quả phải gắn với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Đầu tư phát triển

kết cấu hạ tầng giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia

giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông đồng thời bảo đảm triển khai thực

hiện pháp luật thông suốt. Cơ sở hạ tầng hiện đại, được xây dựng khao học,

hợp lý, bền vững sẽ bảo đảm giao thông thông suốt, hạn chế các hành vi vi

phạm giao thông, trật tự và an toàn giao thông được tăng cường. Thường

xuyên kiểm tra, duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng các đoạn đường bị sạt, sụt, sửa

chữa mặt cầu, mặt đường và bổ sung điều chỉnh hệ thống cọc tiêu, biển báo

bảo đảm giao thông an toàn, lưu thông ổn định. Phát triển phương tiện giao

thông công cộng, nhất là các tuyến xe buýt từ thành phố Đồng Hới đến trung

tâm các huyện, thị xã, khu du lịch, không để xảy ra ùn tắc giao thông.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ đáp ứng nhu cầu phát triển, hội nhập theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bảo đảm tuân thủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là thành viên, đồng thời vận dụng quy định của các điều ước, tập

quán quốc tế và luật nước ngoài phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật

75

Việt Nam và xu thế, thực tiễn của hoạt động giao thông vận tải đường bộ

trong nước.

Thứ tư, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh

Pháp luật là đại lượng bình đẳng và phổ biến. Việc tổ chức thực hiện

pháp luật về TT,ATGTĐB cũng đòi hỏi phải đảm bảo tuyệt đối yêu cầu về sự

công bằng, bình đẳng, nghiêm minh và nhất quán. Điều này thể hiện trước hết

ở tính nhất quán trong thái độ ứng xử mà Nhà nước dành cho các chủ thể khác

nhau trong điều kiện, hoàn cảnh và tình huống pháp lý giống nhau. Trong Nhà

nước pháp quyền, chỉ có một hệ thống pháp luật cho tất cả thành viên, không

phân biệt người giàu nghèo, giới tính, địa vị xã hội, địa vị kinh tế, nghề

nghiệp, người lãnh đạo, quản lý hay người dân thường... Mặt khác, pháp luật

là chuẩn mực cao nhất và không thể bị lấn át bởi bất kỳ chuẩn mực nào khác

trong việc chi phối hành vi xã hội của công dân. Vì vậy, trong mọi trường hợp

công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TT,ATGTĐB phải đảm bảo sự công

bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh. Đây là yếu tố hết sức cần thiết

để bảo đảm ý thức tuân thủ pháp luật của người dân và cũng là điều kiện cần

thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như đảm bảo sự phát triển của

một quốc gia.

Thứ năm, tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông

đường bộ hướng tới sự công khai, minh bạch của nền hành chính

Công khai, minh bạch là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng để

tạo dựng niềm tin và là điều kiện để đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ có hiệu quả. Sự rõ ràng, rành mạch thể

hiện ai cũng có thể tiếp cận, ai cũng có thể biết và ai cũng có thể hiểu. Trong

việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông, công khai,

minh bạch được thể hiện thông qua việc công khai, minh bạch chính sách,

76

pháp luật, thủ tục, cách thức tổ chức thực hiện pháp luật. Trừ những nội dung

thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của pháp luật

còn những nội dung liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà

nước, của cán bộ, công chức, liên quan đến quyền và lợi ích của công dân đòi

hỏi phải công khái rõ ràng, trong đó chú trọng công khai các hoạt động của

các cơ quan chức năng. Nghĩa vụ công khai, minh bạch hoạt động của bộ

máy nhà nước gắn liền với việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân tiếp cận

các thông tin về hoạt động của bộ máy nhà nước một cách dễ dàng. Sự thông

suốt về mặt thông tin là điều kiện để việc tổ chức thực hiện pháp luật được

hiệu quả. Những thông tin về các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện

pháp luật, địa điểm, thời gian tổ chức công việc sẽ là những thông tin hữu ích

giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường

bộ trở nên dễ dàng hơn.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

3.2.1. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ

Để hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả, việc hoàn thiện

hành lang pháp lý bảo đảm cho hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, góp

phần thúc đẩy giao thông vận tải được thông suốt, an toàn, đem lại hiệu quả

kinh tế cao…là giải pháp đặc biệt quan trọng. Pháp luật về TT,ATGTĐB phải

bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, khách

quan, tính dự báo và phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước là cần thiết để

bảo đảm các quan hệ xã hội cơ bản, chủ yếu gắn với các quyền và lợi ích hợp

pháp của mọi tầng lớp công dân đều được điều chỉnh bởi các bộ luật, luật, hạn

chế việc ban hành các văn bản dưới luật. Để đạt được yêu cầu đó, quy trình và

kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu cầu

77

nhất định. Trước hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải

được tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục

tiêu chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính

sách cũng chính là thiết lập các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức

thực hiện pháp luật về sau. Qua đó, những hành vi của các chủ thể cần điều

chỉnh sẽ được xác định với những định hướng cụ thể. Về quy trình, cần công

khai, minh bạch hoá việc xây dựng ngay từ khâu sáng kiến lập pháp đến khâu

góp ý, lấy ý kiến các đối tượng cụ thể và thông qua văn bản; các văn bản

hướng dẫn phải đồng thời được xây dựng cùng văn bản chính để sắp xếp theo

logic các vấn đề cần giải quyết trong một tổng thể chung. Huy động sự tham

gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cá nhân đại diện cho các

nhóm lợi ích khác nhau vào quá trình xây dựng pháp luật. Tạo cơ chế để nhân

dân tham gia góp ý trực tiếp, cụ thể vào văn bản pháp luật, hạn chế việc phải

hướng dẫn luật. Về nội dung, trước hết cần xây dựng, ban hành các văn bản

quy phạm pháp luật thuộc Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật của Bộ Công an, gồm 04 văn bản thuộc Chương trình chính thức là

Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về phân cấp trách nhiệm và

quan hệ phối hợp trong công tác bảo đảm trật tự và trật tự an toàn giao thông

trên tuyến đường cao tốc; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ

sung Thông tư số 17/2014/TT-BCA ngày 24/4/2014 của Bộ trưởng Bộ Công

an quy định về vận hành, quản lý, bảo trì, bảo vệ hệ thống giám sát, xử lý vi

phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công

an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 53/2015/TT-BCA ngày 20/10/2015 của Bộ

trưởng Bộ Công an về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong Công an

nhân dân; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về lắp đặt, sử dụng

và cấp giấy phép sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên và

05 văn bản thuộc Chương trình chuẩn bị gồm Nghị định về công tác thống kê,

78

báo cáo, chia sẻ dữ liệu tai nạn giao thông; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công

an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 73/2012/TT-BCA ngày 05/12/2012 của Bộ

trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn giao thông

đường thủy của lực lượng Cảnh sát đường thủy; Thông tư của Bộ trưởng Bộ

Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 77/2012/TT-BCA ngày 28/12/2012 của

Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao

thông đường bộ của Cảnh sát giao thông đường bộ; Thông tư của Bộ trưởng

Bộ Công an quy định về đăng ký xe; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an quy

định tiêu chuẩn kỹ thuật hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao

thông đường bộ. Đồng thời rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp

luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và các lĩnh vực khác có liên quan.

Qua đó, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an toàn

giao thông, giao thông tĩnh, về đường ngang đường sắt, quản lý tăng cường

giao thông công cộng, tổ chức giao thông và trách nhiệm của chính quyền cấp

huyện, cấp xã cũng như kinh phí bảo đảm trật tự, an toàn giao thông lâu dài.

Luật xử lý vi phạm hành chính cần bổ sung quy định Trạm trưởng, Đội

trưởng của chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành nhiệm vụ được áp dụng

biện pháp khắc phục hậu quả. Trong định hướng sửa đổi, bổ sung pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ nên chú trọng hợp tác quốc tế về chuyển

giao công nghệ trong sản xuất, lắp ráp phương tiện, xây dựng hạ tầng phục vụ

giao thông; đào tạo đội ngũ nhân viên hướng dẫn, cưỡng chế giao thông. Bên

cạnh đó, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường

bộ hiện nay diễn ra rất nhiều và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã

hội. Chính vì vậy, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh mọi vi phạm là yêu

cầu của việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực giao thông. Tuy

nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật vẫn mang tính giáo dục, thuyết

phục chưa thể hiện sự răn đe các chủ thể vi phạm, nhiều lỗi vi phạm trật tự,

79

an toàn GTĐB chế tài xử phạt vẫn mang tính hình thức, xử phạt hành chính là

chủ yếu bởi vậy các chủ thể vẫn ngang nhiên vi phạm. Điều này đòi hỏi các

hành vi vi phạm phải được xử lí bằng các chế tài nghiêm khắc hơn để đảm

bảo đủ độ răn đe đối với các chủ thể vi phạm. Song song với quá trình đó

cần xây dựng cơ chế nộp phạt, thủ tục xử lý đơn giản, nhanh chóng và cớ cơ

chế kiểm soát chặt chẽ để ngăn ngừa các hành vi tiêu cực khi xử phạt hành vi

vi phạm giao thông đường bộ.

Đồng thời nâng cao chất lượng ban hành văn bản pháp luật của các cơ

quan nhà nước ở địa phương. Các văn bản pháp luật được ban hành phải bảo

đảm tính phù hợp, thống nhất với Hiến pháp, Luật Giao thông đường bộ và

các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về trật tự, an toàn giao thông và

phù hợp với thực tiễn địa phương. Xây dựng hệ thống pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ toàn diện, đồng bộ, phù hợp là giải pháp mang tính

chiến lược, bảo đảm hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật.

3.2.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan, công chức hành

chính, đặc biệt trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức thi hành,

áp dụng pháp luật là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác tổ

chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Cán bộ,

công chức có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật phải nắm bắt và hiểu biết

sâu sắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông

đường bộ. Những chủ thể này phải là những người không chỉ giỏi về chuyên

môn, nghiệp vụ mà còn có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề nghiệp,

trung thực, khách quan, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, biết đặt pháp luật lên

hàng đầu khi thi hành nhiệm vụ. Giải pháp này đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ

từ khi tuyển dụng, đặc biệt đối với ngành công an, phải quán triệt ngay từ khi

80

tuyển sinh đến quá trình đào tạo và quá trình công tác. Đồng thời thường

xuyên bồi dưỡng, trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản liên quan đến

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức để người thực thi công

vụ hiểu pháp luật và giải quyết công việc trên cơ sở pháp luật. Cán bộ, công

chức có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đến với Nhân dân. Phát huy tính chủ động

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà

nước trong việc lấy pháp luật làm nền tảng ứng xử trong việc giải quyết các

mối quan hệ xã hội. Đối với lực lượng công an thực hiện có hiệu quả công tác

xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông trong sạch vững mạnh, nhất là thực

hiện Quyết định số 607/QĐ-BCA của Bộ Công an quy định về tiêu chuẩn đạo

đức của Cảnh sát giao thông, những việc cần phải “Xây” và “Chống”. Quan

tâm, thực hiện tốt công tác đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ chiến sĩ, tăng

cường biên chế, trang thiết bị cho lực lượng Cảnh sát giao thông đủ sức đáp

ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới. Đẩy mạnh phong trào chống tiêu

cực trong thi hành công vụ, tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán bộ, công

chức, viên chức, chiến sĩ và lực lượng thanh tra chuyên ngành nâng cao tinh

thần trách nhiệm, tính chuyên nghiệp trong thực thi nhiệm vụ bảo đảm trật tự

an toàn giao thông; có chính sách khuyến khích, khen thưởng đối với cá nhân,

tập thể có thành tích và phê bình các cá nhân, đơn vị chưa hoàn thành nhiệm

vụ.

Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong công tác tổ chức

thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống trong quá trình thực thi công

vụ, nâng cao trách nhiệm của hoạt động công vụ, cũng như tính gương mẫu

chấp hành pháp luật của cán bộ công chức nhà nước, đảng viên và của các cá

nhân tiêu biểu ở cộng đồng dân cư. Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ, công

chức trong quá trình giải quyết công việc của Nhân dân, của tổ chức, gắn

81

trách nhiệm với quyền lợi, với công việc chuyên môn của từng cán bộ, công

chức trên cơ sở đầu việc được giao. Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh

giá chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức kết hợp với chế độ

khen thưởng, bổ nhiệm và kỷ luật phù hợp. Coi trọng lợi ích chính đáng của

cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an

toàn giao thông đường bộ để họ chuyên tâm vào công việc. Chính sách đãi

ngộ bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần đối với lực lượng này

có ý nghĩa quyết định đến tinh thần và chất lượng của đội ngũ cán bộ. Vì

thế, trong thời gian tới cần thiết phải hoàn thiện chế độ, chính sách đặc thù

đối với cán bộ làm công tác chuyên trách, trực tiếp, kiêm nhiệm và những

người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công tác đảm bảo

trật tự ATGT; chế độ khen thưởng, tôn vinh đối với người có thành tích

đặc biệt xuất sắc; hỗ trợ kịp thời đối với người bị thương hoặc thân nhân

người bị hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ.

3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật quan trọng nhằm từng bước nâng cao ý

thức và dân trí pháp lý, nâng cao năng lực thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh

pháp luật, xác lập kỷ cương, phát huy dân chủ, ổn định chính trị xã hội. Việc

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao

thông đường bộ cần quán triệt Chỉ thị số 32 -CT/TW ngày 09/12/2003 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng

cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Đặc biệt chú trọng

nghiên cứu nội dung tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, cần tập trung

vào các đối tượng học sinh, thiếu niên, thanh niên; người sử dụng môtô, xe

máy; người điều khiển xe thô sơ; người lái ôtô, phương tiện có tốc độ cao;

cán bộ công nhân viên chức ở các quan xí nghiệp, nhân dân sống ven hành

82

lang giao thông. Hình thức, phương pháp tuyên truyền cần đa dạng, phong

phú, thiết thực. Trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, nhất là các

trang mạng xã hội hiện nay, nên nghiên cứu, tăng cường hình thức tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên mạng

xã hội bảo đảm người nào sử dụng điện thoại di động thông minh, các thiết

bị kết nối mạng Internet đều có thể tìm hiểu và tra cứu dễ dàng. Huy động

các lực lượng xã hội tham gia cùng với Nhà nước trong việc phổ biến, giải

thích pháp luật đến từng người dân, từng cán bộ, công chức nhà nước và các

cán bộ của tổ chức đoàn thể xã hội, tạo nhận thức và ý thức chấp hành pháp

luật một cách tự giác của mỗi người dân. Đa dạng hoá các loại hình đưa pháp

luật vào cuộc sống, từ việc ứng dụng công nghệ thông tin đến loại báo hình,

báo viết (Công báo, các phương tiện truyền thông, Internet...). Việc giáo dục

pháp luật trong các trường học, cơ sở nghiên cứu, đào tạo cần được thiết kế

phù hợp theo độ tuổi, ngành nghề và vùng miền... cần có trọng tâm, theo

phân loại đối tượng và phát huy tối đa các lợi thế của các phương tiện thông

tin đại chúng và các thiết chế văn hóa - thông tin. Phát triển các hình thức

dịch vụ pháp lý bao gồm cả thu phí và miễn phí, bảo đảm sự cân đối, hài hoà

giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng có tính đến đặc điểm của từng vùng miền,

điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý... nhằm tạo cơ hội cho nhân dân tìm hiểu

pháp luật nói chung và pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói

riêng. Đa dạng hoá các chủ thể thực hiện cung ứng dịch vụ pháp lý, bao gồm

thành phần của Nhà nước, của xã hội và của tư nhân. Mở rộng và phát triển

các thành phần cung ứng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí để phục vụ cho

mọi tầng lớp nhân dân, trong đó tập trung phục vụ cho những nhóm người

thuộc diện Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ mà xã hội không có điều kiện thực hiện

đồng thời, xã hội hoá các dịch vụ pháp lý mà xã hội có thể tự tổ chức như

đăng kiểm, đi đôi với tăng cường công tác quản lý nhà nước, bảo đảm nhân

83

dân có nhu cầu đều nhận được dịch vụ có chất lượng.

Chú trọng công tác giáo dục ý thức pháp luật nhằm hình thành và

nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho nhân dân; trau dồi thái độ và bồi

dưỡng tình cảm, niềm tin đúng đắn đối với Hiến pháp, pháp luật; xây

dựng động cơ và thói quen xử sự tích cực, hợp pháp của mọi công dân;

hình thành công luận, dư luận xã hội lành mạnh, biết phân biệt phải trái và

tôn trọng pháp luật. Nâng cao dân trí, khắc phục xu hướng thờ ơ về chính trị,

pháp luật của quần chúng nhân dân là việc làm có ý nghĩa quyết định để

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn GTĐB.

Đồng thời giáo dục tính cách, ý thức, trách nhiệm đạo đức, ứng xử văn hóa

và kỹ năng tham gia giao thông, đặc biệt đối với người trẻ tuổi là nam giới,

đạo đức nghề nghiệp cho các tài xế ô tô, tắc xi. Trong lĩnh vực giao thông,

bên cạnh sự hiểu biết các quy định pháp luật thì các yếu tố thái độ, tình cảm

đạo đức, ý thức trách nhiệm về hành vi của bản thân, nếp sống và tính cách

của con người có ảnh hưởng vô cùng quan trọng. Các phẩm chất này nếu

được xây dựng, điều chỉnh thường xuyên bằng những biện pháp phù hợp

chắc chắn sẽ góp phần tích cực trong việc giảm thiểu ùn tắc giao thông và

đặc biệt là sự vi phạm các quy định pháp luật gây thiệt hại về sức khoẻ,

tính mạng con người và tài sản.

Hằng năm các cơ quan chức năng, đặc biệt cảnh sát giao thông xây

dựng kế hoạch tuyên truyền cụ thể có định hướng theo chủ đề ứng với

từng thời gian phù hợp. Hướng mạnh tuyên truyền đến cơ sở, tuyên truyền

sâu rộng đến từng gia đình, từng người dân nhằm nâng cao ý thức chấp

hành luật về trật tự, an toàn GTĐB, xây dựng nếp sống văn hóa giao

thông. Với các chương trình phong phú như:

+ Xây dựng kế hoạch giáo dục, tuyên truyền việc thực hiện pháp

luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ phù hợp với từng đối

84

tượng, từng địa bàn.

+ Tăng cường công tác truyền thông trực tiếp. Đưa nội dung giáo

dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ vào hoạt động của các

nhà văn hóa thông tin, trung tâm thông tin - triển lãm, các đội thông tin lưu

động, các đội tuyên truyền xung kích, các câu lạc bộ. Coi trọng các hình

thức văn nghệ nhỏ như: kịch ngắn, tiểu phẩm, tấu, hề chèo, ngâm thơ, tranh

châm biếm…Củng cố hệ thống truyền thanh ở xã, phường, thị trấn, nông

lâm trường, xí nghiệp, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang nhân dân để

tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách, pháp luật về trật tự, an

toàn ATGTĐB.

+ Tổ chức các cuộc thi sáng tác nghệ thuật, điện ảnh, âm nhạc, hội

họa, sân khấu về chủ đề pháp luật về trật tự, an toàn ATGTĐB. Tổ chức các

cuộc triển lãm về chủ đề này để phổ biến rộng rãi trong nhân dân.

+ Ban ATGT tỉnh định kỳ phối hợp với các huyện, thành phố, thị

xã lên kế hoạch tổ chức các cuộc thi tìm hiểu luật giao thông đường bộ

và lái xe an toàn. Trong đó tập trung chính vào các quy tắc giao thông, ý

thức tự giác chấp hành luật giao thông, ứng xử có văn hóa khi tham gia giao

thông cho người đi bộ, đi xe đạp, mô tô xe gắn máy.

Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần lựa chọn những vẫn đề

gần gũi, thiết thực phù hợp với từng đối tượng. Tránh ôm đồm nội dung, kết

hợp trang bị kiến thức với hướng dẫn các kỹ năng phòng tránh tai nạn giao

thông, kỹ năng xử lý các tình huống pháp luật. Đặc biệt, chú trọng giáo dục

văn hoá giao thông, nhất là đối với thế hệ trẻ. Việc giáo dục văn hoá giao

thông gắn liền với giáo dục ý thức tôn trọng tính mạng con người, coi trọng

bản thân và người khác. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, bởi hiện nay một

bộ phân dân cư, trong đó phần nhiều là thanh niên coi thường tính mạng bản

thân và tính mạng của người khác. Khi tham gia giao thông họ bất chấp luật

85

lệ, thường xuyên thực hiện những hành vi nguy hiểm, phóng nhanh, vượt ẩu,

lạng lách tốc độ cao dẫn đến rất nhiều trường hợp người dân tham gia giao

thông đúng pháp luật những vẫn bị tai nạn nguy hiểm.

Đối tượng giáo dục, tuyên truyền cần xác định bao gồm những người

tham gia giao thông bởi tham gia giao thông là nhu cầu tất yếu của đông

đảo các tầng lớp nhân dân với các phương tiện tham gia giao thông rất

đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay chú trọng tuyên

truyền, giáo dục cho thanh thiếu niên. Theo số liệu thống kê đối tượng người

trẻ nạn nhân tai nạn giao thông chiếm khoảng 40% và theo báo cáo Đại hội

đồng Liên hợp quốc tai nạn giao thông là nguyên nhân số một dẫn đến tử

vong của người trẻ (trong độ tuổi dưới 27) [7;tr5]. Cần chú trọng giáo dục

pháp luật hơn là tuyên truyền, phổ biến. Trong giáo dục nhấn mạnh giáo dục

các kỹ năng phòng tránh tai nạn, kỹ năng xử lsy ácc tình huống nguy hiểm,

kỹ năng lái xe an toàn...

Đồng thời tổ chức các hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở

định kỳ và thường xuyên nhằm thông tin thời sự tình hình trật tự an toàn giao

thông trong thành phố và của địa phương, cơ sở; hướng dẫn cho người điều

khiển phương tiện giao thông những biện pháp chủ yếu nhằm bảo đảm và

nâng cao chất lượng điều khiển như tự giác rèn luyện tay nghề thông qua các

trung tâm sát hạch lái xe; chấp hành và ủng hộ các biện pháp cưỡng chế thực

hiện pháp luật nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông, nhất là quy định bắt

buộc đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe môtô, xe máy; vận động nhân dân

tham gia các mô hình tiên tiến về trật tự an toàn giao thông, nhân rộng trong

thực tiễn các mô hình cung đường, đoạn đường thanh niên tự quản, cựu

chiến binh tự quản, phụ nữ tự quản…; động viên, cổ vũ, nêu gương những

người điều khiển phương tiện giao thông giỏi, an toàn tham gia các hội thi để

biểu dương, khen thưởng kịp thời.

86

Đặc biệt, tuyên truyền giáo dục pháp luật gắn liền với vận động nhân

dân đóng góp sức người, sức của xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng giao thông

vùng ven, nông thôn; tham gia vệ sinh đường phố, tự quản đường và hè phố,

chỉnh trang đô thị; phát hiện sớm và tham gia khắc phục những yếu tố có thể

gây tai nạn giao thông tại khu vực dân cư; ký cam kết không vi phạm quy

định về trật tự vỉa hè, đường phố, đường dân sinh cắt qua đường sắt, đường

thủy sông, biển; kịp thời phát hiện những điểm đen gây mất trật tự an toàn

giao thông để sớm khắc phục và cảnh báo cho người tham gia giao thông.

Vận động nhân dân giám sát các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng giao

thông và thực thi pháp luật trật tự an toàn giao thông của các cơ quan chức

năng nhà nước; kịp thời phát hiện, ngăn chặn mọi biểu hiện tham nhũng,

lãng phí, tiêu cực, góp phần bảo đảm đúng chất lượng và tiến độ các công

trình giao thông ở địa phương, cơ sở; phát hiện và kiến nghị các cấp khắc

phục mọi biểu hiện buông lỏng quản lý hoặc lạm quyền trong thực thi Luật

Giao thông. Vận động nhân dân không sở hữu, sử dụng và kinh doanh vận

tải bằng các phương tiện quá hạn sử dụng; vận động chủ phương tiện vận tải,

nhất là các phương tiện vận tải hành khách đường bộ phải thực hiện kiểm tra

an toàn kỹ thuật định kỳ, trang bị đầy đủ các tiết bị an toàn, bảo hiểm cho

hành khách; tổ chức để nhân dân tham gia bảo vệ các công trình giao thông,

nhất là hệ thống đường ray, đèn tín hiệu giao thông, chấm dứt nạn rải đinh

trên đường; vận động nhân dân ủng hộ, giúp đỡ các lực lượng chức năng

ngăn chặn tụ tập đua xe, lạng lách, đáng võng…Không những thế cần tăng

cường vận động nhân dân nói không với tiêu cực trong lĩnh vực giao thông;

hiểu rõ quy định của pháp luật về xử phạt hành vi đưa hối lộ. Và vận động

nhân dân tham gia các hoạt động cứu hộ, cứu nạn khắc phục hậu quả tai nạn

giao thông tại địa bàn như cứu giúp người bị nạn, trợ giúp phương tiện vận

chuyển, trợ giúp tiền và thuốc men trong khả năng cho phép; nhất là huy

87

động nhiều nguồn lực tập trung của nhân dân để cùng với nhà nước cứu giúp

nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông.

3.2.4. Đổi mới hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật mang tính pháp lý và

các biện pháp tổ chức trực tiếp

Đổi mới hình thức tổ chức mang tính chất pháp lý và các biện pháp tổ

chức trực tiếp như kiểm tra giấy phép lái xe, cấp giấy phép lái xe, đăng kiểm,

ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, lập văn bản vi phạm hành chính,

hoạt động nghiên cứu, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, áp

dụng các biện pháp cụ thể nhằm ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật

vào quản lý, tổ chức kiểm tra, điều phối hoạt động, tổ chức hội thảo….góp

phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Các hoạt động cần được tiến

hành nghiêm túc và thực chất. Đồng thời cải cách thủ tục hành chính, công

khai minh bạch các thủ tục, tăng cường đưa khoa học công nghệ vào việc

giám sát người tham gia giao thông cũng như những người làm nhiệm vụ tổ

chức thực thi pháp luật.

Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng việc ban hành các văn bản áp

dụng pháp luật. Việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong quá trình tổ

chức thực hiện pháp luật phải đúng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy

định, phù hợp với thực tế, và căn cứ trên những quy định pháp luật cụ thể. Bất

cứ văn bản áp dụng pháp luật nào được ban hành trong quá trình tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ cũng đều phải đảm bảo

tính hợp pháp và phù hợp với thực tế. Nội dung của văn bản áp dụng pháp

luật được thể hiện ở việc các mệnh lệnh đưa ra phù hợp với các quy phạm

pháp luật về nội dung và mục đích điều chỉnh.

Một hoạt động quan trọng nữa là cần tăng cường kiểm tra ngăn chặn vi

phạm về tải trọng ngay tại các bến bãi bốc xếp hàng hóa. Tăng cường công

88

tác thanh tra, kiểm tra bảo đảm chất lượng đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép

cho người điều khiển phương tiện giao thông, công tác kiểm định an toàn kỹ

thuật của các phương tiện tham gia giao thông. Đồng thời kiểm tra các điều

kiện về kinh doanh vận tải, đẩy mạnh khai thác dữ liệu từ thiết bị giám sát

hành trình của xe ô tô nhằm tăng cường giám sát và xử lý vi phạm đối với chủ

xe, lái xe. Thường xuyên rà soát, sắp xếp tổ chức giao thông trên địa bàn tỉnh

một cách hợp lý, khai thác hiệu quả hạ tầng giao thông hiện có gắn liền với

đầu tư, nâng cấp hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại; thúc đẩy phát triển

phương tiện giao thông công cộng; hạn chế tối đa việc xây dựng các khu dân

cư, trường học, chợ trên các trục đường chính, tỉnh lộ. Củng cố, duy trì chất

lượng kết cấu hạ tầng giao thông, rà soát, điều chỉnh, lắp đặt bổ sung hoàn

thiện hệ thống biển báo giao thông, đèn tín hiệu giao thông; lắp đặt dãy phân

cách giữa làn xe ôtô và xe 2 bánh gắn máy trên 12 tuyến đường. Nâng cao

chất lượng đào tạo, sát hạch cấp giấy phép, cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn

cho người điều khiển phương tiện giao thông. Tăng cường hiệu quả và chất

lượng kiểm định phương tiện.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng vận dụng linh hoạt, có hiệu quả

các biện pháp nghiệp vụ để nắm chắc và dự báo đúng tình hình, chú trọng

nâng cao chất lượng công tác điều tra cơ bản, thu thập thông tin về

TT,ATGTĐB phục vụ công tác tham mưu, đề xuất đối với lãnh đạo các cấp.

Xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để phối hợp với các ngành chức năng

ứng phó, giải quyết nhanh chóng và hiệu quả đối với những vấn đề đột xuất

xảy ra, như thiên tai, lũ lụt, ùn tắc và tai nạn giao thông đường bộ. Trong đó,

cần coi trọng việc tổ chức thực hiện các nội dung công tác chuyên môn của

lực lượng tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cảnh sát giao thông và thanh tra

giao thông. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chương

89

trình công tác để đánh giá đúng tình hình, kịp thời phát hiện mặt hạn chế,

khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Song song với quá trình đó cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ

quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông để tránh

tình trạng quản lý chồng chéo lên nhau hoặc đùn đẩy, né tránh làm giảm hiệu

quả bảo đảm trật tự, an toàn giao thông bằng pháp luật. Xây dựng cơ chế

phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các Bộ, các Sở, các phòng chuyên môn có

chức năng quản lý như cơ quan giao thông vận tải, công an, cơ quan tài

chính, công thương, giáo dục và đào tạo, thông tin và truyền thông, lao động,

thương binh và xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ủy ban nhân dân các

cấp trong giải quyết các vấn đề như xây dựng công trình giao thông, phân

luồng, phân tuyến, xử lý vi phạm pháp luật về giao thông; phối hợp chặt chẽ

trong việc quản lý nhập khẩu phương tiện vận tải đường bộ, chủng loại

phương tiện được nhập khẩu trên cơ sở tiêu chuẩn, kỹ thuật và tình hình cầu

đường.

3.2.5. Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát việc thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Trật tự, an toàn GTĐB là một lĩnh vực hoạt động đông đảo về chủ thể,

phong phú về hành vi, đa dạng về không gian, thời gian. Vì vậy, bên cạnh

việc giáo dục ý thức tự giác cho các chủ thể tham gia trong hoạt động GTĐB

thì một trong những yếu tố cơ bản để đảm bảo tổ chức thực hiện hiệu

quả pháp luật về trật tự, ATGTĐB đó chính là công tác kiểm tra, thanh

tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong thực tế. Tổ chức tốt công tác

kiểm tra, xử lý thường xuyên, tập trung lực lượng kiểm tra, xử lý trên các tuyến

đường, các vị trí giao thông phức tạp, đồng thời mở các điểm cao điểm về

kiểm soát, xử lý nghiêm khắc các vi phạm về trật tự ATGT. Kết hợp cưỡng

chế với tuyên truyền giác ngộ, giáo dục người vi phạm luật giao thông.

90

Đặc biệt cần trang bị các công cụ, phương tiện hiện đại cho các cơ

quan thanh tra giao thông, cảnh sát giao thông, nhằm phục vụ có hiệu quả

công tác tuần tra, kiểm soát và xử lí vi phạm pháp luật về trật tự, ATGTĐB.

Triển khai mạnh mẽ, quyết liệt đồng bộ việc thực hiện giai đoạn II

Quyết định 1856/QĐ-TTG về giải tỏa hành lang đường bộ, đường sắt. Xây

dựng kế hoạch xử lý các điểm đen tiềm ẩn nguy cơ TNGT trên toàn địa

bàn, trình Ủy ban nhân dân tỉnh sớm có quyết định phê duyệt và triển khai

thực hiện.

Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát của cảnh sát giao thông,

phát hiện xử lí nghiêm hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn. Nâng cao

chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm trật tự AT, GTĐB có

nguyên nhân từ hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn. Không lấy việc đền

bù, khắc phục thiệt hại của người có lỗi với nạn nhân để miễn truy cứu trách

nhiệm hình sự. Hàng năm đưa một số vụ tai nạn giao thông đường bộ điển

hình ở các địa phương ra xét xử lưu động, nhất là những vụ có nguyên nhân

từ hành vi uống rượu, bia quá nồng độ cồn quy định gây hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng về người và tài sản nhằm mục đích giáo dục chung.

Đồng thời, thực hiện tốt Nghị định 27/CP của Chính phủ, Thông tư số

47/2011/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số

27/CP quy định việc huy động các lực lượng Cảnh sát khác và Công an xã

phối hợp với Cảnh sát giao thông tham gia tuần tra, kiểm soát TT,ATGTĐB

trong trường hợp cần thiết, nhất là việc huy động lực lượng Công an xã tham

gia đảm bảo TT,ATGTĐB từ cơ sở, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong ý

thức tự giác chấp hành các quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn giao

thông tại địa bàn khu dân cư ở nông thôn. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành

vi vi phạm có nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông cao như chạy quá tốc độ quy

định, đi không đúng phần đường, làn đường, vượt không đúng quy định, sử

91

dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông, không có giấy phép lái

xe… Phối hợp với lực lượng tự quản tham gia quản lý TT,ATGTĐB ở từng

địa bàn cơ sở; xây dựng phong trào quần chúng giữ gìn TT,ATGTĐB trong

khu vực dân cư, từng tuyến phố và chính quyền cơ sở để giải quyết triệt để

các vi phạm lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, buôn bán, họp chợ, xây dựng công

trình, nhà ở, lều quán… hạn chế tầm nhìn, cản trở giao thông hoặc vi phạm

hành lang bảo vệ công trình giao thông.

Trong qúa trình kiểm tra kiên quyết đình chỉ hoạt động đối với các loại

phương tiện hết niên hạn sử dụng, không đảm bảo an toàn kỹ thuật, nghiêm

cấm các loại xe tự chế tham gia giao thông. Chấn chỉnh hoạt động vận tải

hành khách công cộng, kiểm tra quản lý chặt chẽ đối với xe khách chạy các

tuyến đường dài liên tỉnh, đặc biệt là độ ngũ lái, phụ xe nhằm đảm bảo an toàn

cho khách.

3.2.6. Xây dựng cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự,

an toàn giao thông đường bộ một cách chặt chẽ

Tổ chức giám sát và đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật là một

trong những giải pháp quan trọng. Giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là cơ chế hữu hiệu để đảm bảo việc tổ

chức thực hiện đúng pháp luật, đạt được các mục tiêu đề ra. Ở góc độ từng

văn bản cụ thể, giám sát và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng

cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là công cụ để kiểm soát

việc thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế sự lạm quyền của các công

chức, viên chức trong quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp

luật. Giám sát và đánh giá cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách

nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phải thực hiện theo đúng bổn phận của

mình, tránh trường hợp trễ nải hoặc tiêu cực trong việc thực hiện nhiệm vụ.

92

Và giám sát, đánh giá cũng là công cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh

các quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

Cơ chế kiểm soát việc tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ được xây dựng trên cơ sở cơ chế kiểm soát trong. Đó là

sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cụ thể đó là sự giám sát

của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, của Viện kiểm sát, của thanh tra

nhà nước, thanh tra Bộ đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Hình

thức giám sát được thực hiện thông qua giám sát tại các kỳ họp Quốc hội, Hội

đồng nhân dân các cấp, qua việc chất vấn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp tại kỳ họp; qau hoạt động giám sát theo chuyên đề,

hoạt động của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, qua các đợt thanh tra

của thanh tra nhà nước, thanh tra Bộ. Để thực hiện tốt công tác này cần tăng

cường sự giám sát của đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân và đại

biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban nhân các cấp, thanh tra Bộ về việc

thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự, ATGTĐB trên địa bàn

tỉnh theo định kỳ.

Cơ chế giám sát quan trọng là giám sát ngoài do các tổ chức chính trị,

xã hội và nhân dân thực hiện. Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tiếp cận

thông tin, Luật Công an nhân dân... các tổ chức chính trị, xã hội và người dân

được quyền giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của cán bộ,

công chức. Để thực hiện tốt việc giám sát nhân dân phải nâng cao hiểu biết

pháp luật về phạm vi, quyền hạn của mình trong việc giám sát đồng thời các

cơ quan nhà nước, đặc biệt cảnh sát giao thông cần có kênh thông tin công

khai kế hoạch, chương trình làm việc của mình để nhân dân theo dõi. Tăng

cường sự giám sát của nhân dân thông qua các kênh thông tin, kênh báo chí

chính thống để phản ánh và xử lý kịp thời các sự việc tiêu cực xảy ra, đảm

93

bảo pháp luật được thực thi đúng đắn, qua đó bảo vệ quyền lợi chính đáng của

nhân dân.

Để xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu việc tổ chức thực hiện pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ cần minh bạch hóa, công khai hoạt

động tuần tra kiểm soát, xử lí vi phạm để người dân được biết. Việc minh

bạch, vừa tránh việc lạm quyền, sai thẩm quyền, tiêu cực vừa củng cố niềm

tin cho nhân dân. Đồng thời thường xuyên tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm,

công khai hoá các hành vi vi phạm trong việc tổ chức thực thi pháp luật, tạo

sự chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong việc tuân thủ pháp luật của cơ quan

nhà nước, tổ chức và cộng đồng dân cư.

Bên cạnh đó tạo cơ chế chủ động cho các chủ thể trong công khai hoá

các chủ trương, chính sách, pháp luật mới ban hành cũng như các công cụ

quản lý và các hành vi công vụ trong hoạt động cụ thể của các cơ quan nhà

nước cho người dân dễ giám sát. Từ đó, tạo cơ chế thông thoáng cho mọi cán

bộ, công chức và nhân dân nắm bắt được tình hình thi hành pháp luật, phát

hiện vi phạm và phản ánh kịp thời đến các cơ quan chức năng. Xây dựng cơ

chế hữu hiệu bảo vệ những người khiếu nại, tố cáo, tôn vinh những người có

trách nhiệm trong việc phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của những

chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Đặc biệt, cơ quan chức năng cần hướng dẫn công khai cách thức kiểm tra,

giám sát với những trường hợp có tính phổ biến, để vừa đảm bảo cho người

dân được kiểm tra, giám sát vừa không làm khó cảnh sát khi làm nhiệm vụ,

đồng thời ngăn chặn được trường hợp lạm quyền, giả danh cảnh sát.

3.2.7. Xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao

thông đường bộ

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông có hiệu quả

hay không, hiệu quả ở mức độ nào tuỳ thuộc rất nhiều vào độ nghiêm minh

94

của pháp luật, đặc biệt trong điều kiện ý thức tự giác, văn hoá giao thông của

nhân dân chưa cao đòi hỏi giải pháp xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cần

được chú trọng. Trước hết, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp

luật đều phải bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật không kể người vi

phạm là ai, ở cương vị nào.

Vi phạm pháp luật về trật tự, ATGTĐB hiện nay diễn ra còn khá phổ

biến, ở mọi lúc, mọi nơi và có khi xảy ra những hậu quả nghiêm trọng. Có vi

phạm pháp luật có nghĩa là pháp luật không được thực hiện nghiêm chỉnh,

triệt để, tổ chức thực hiện pháp luật chưa tốt. Chính vì vậy, ngăn chặn kịp

thời, xử lí nghiêm minh, đúng pháp luật mọi vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực trật tự, ATGTĐB là một cách thức quan trọng trong việc nâng cao hiệu

quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự,

ATGTĐB.

Muốn xử lí vi phạm pháp luật giao thông triệt để, nghiêm minh, kịp

thời cần phải có một số giải pháp sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật không còn phù

hợp, xác định những hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, ATGTĐB bằng

các quy phạm pháp luật cụ thể.

Hai là, xây dựng cơ chế quan hệ phối hợp, phân công, phân cấp,

giữa các ngành, các lực lượng nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực trật tự, ATGTĐB.

Ba là, cải cách trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt hành chính về

trật tự, ATGTĐB nhằm đảm bảo cho hoạt động xử phạt chính xác, kịp thời

mang lại hiệu quả tránh được những phiền hà không cần thiết đối với người

vi phạm. Về trình tự thủ tục các cơ quan có thẩm quyền sớm có những sửa

đổi theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, hiệu quả, tránh gây phiền phức cho

95

nhân dân phải đi lại nhiều lần tốn kém thời gian và tiền bạc. Để làm được

điều đó trước hết các cơ quan có thẩm quyền rà soát lại các thủ tục, biểu

mẫu có liên quan đến xử phạt loại bỏ những nội dung trùng lặp, rườm rà

mất thời gian, giảm thời gian Nhân dân phải đi lại khi chấp hành quyết

định xử phạt, mở rộng các điểm thu tiền phạt trên nhiều địa bàn. Về thẩm

quyền nâng cao thẩm quyền xử phạt cho chiến sĩ công an.

Bốn là, đầu tư phương tiện, trang thiết bị, triệt để khai thác sử dụng

có hiệu quả các phương tiện khoa học kĩ thuật để phục vụ việc xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, A T GTĐB. Để nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật về trật tự, ATGTĐB trước mắt cần phải đầu tư, bổ

sung thêm các máy ghi hình tốc độ, máy camera, máy ảnh kĩ thuật số đối

với lực lượng làm công tác tuần tra kiểm soát. Thông qua hoạt động ghi

hình nhằm xác định đối tượng, biển số phương tiện vi phạm để tiến hành

các thủ tục xử phạt tại chỗ hoặc tạo điều kiện hỗ trợ cho hình thức thông

báo về nơi cư trú để áp dụng biện pháp xử phạt do chính quyền địa phương

thực hiện. Đầu tư các thiết bị để tổ chức hợp lý hệ thống báo hiệu đường

bộ đảm bảo các điều kiện khoa học, hợp lý chủ động.

Thứ năm, lực lượng cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông phải

là nòng cốt xử phạt vi phạm hành chính; xử phạt theo từng chuyên đề như

vượt đèn đỏ, sử dụng rượu bia quá quy định nhằm chuyển đổi ý thức của

người tham gia giao thông. Huy động tổng lực toàn xã hội vào công tác

giữ gìn trật tự, ATGT.

Thứ sáu, chủ động và phối hợp thực hiện đo nồng độ cồn và chất kích

thích khác đối với người điều khiển phương tiện gây tai nạn giao thông; cùng

với việc trưng cầu giám định tử thi cần thực hiện việc trưng cầu giám định

thương tích, trưng cầu định giá tài sản theo đúng quy định pháp luật đối với

96

các vụ tai nạn giao thông có dấu hiệu gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe,

tài sản để xử lý đúng pháp luật.

Thứ bảy, công an tỉnh, Công an cấp huyện và Thanh tra Sở GTVT tổ

chức rà soát các trường hợp chưa thi hành quyết định xử phạt để có biện

pháp giải quyết dứt điểm các tồn đọng trong thi hành quyết định xử phạt vi

phạm hành chính; kịp thời cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng về

các trường hợp bị tạm giữ giấy tờ, hạn chế tình trạng xin cấp lại giấy tờ để

trốn tránh thi hành quyết định xử phạt.

Quyết liệt thực hiện công tác tuần tra xử phạt, áp dụng mức xử phạt cao

nhất đối với các lỗi trực tiếp gây tai nạn giao thông như vi phạm quy định và

nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông; vi phạm tốc độ; không đi

đúng làn đường, tránh vượt sai quy định; vượt đèn đỏ; chở quá tải, quá số

người quy định; dừng đỗ sai quy định; không đội mũ bảo hiểm khi tham gia

giao thông theo quy định; học sinh, sinh viên chưa đủ tuổi hoặc không có giấy

phép lái xe điều khiển xe môtô, gắn máy; người điều khiển phương tiện thủy

không có bằng, chứng chỉ chuyên môn phù hợp với loại điều khiển theo quy

định. Tịch thu phương tiện tham gia đua xe trái phép, các loại phương tiện

không được phép lưu hành theo quy định; thông báo đến nơi cư trú hoặc nơi

công tác học tập của người có hành vi vi phạm hành chính về trật tự an toàn

giao thông; xử lý nghiêm và công khai tên các doanh nghiệp vận tải hành

khách vi phạm pháp luật giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng;

kiên quyết xóa bỏ những điểm sản xuất, buôn bán mũ bảo hiểm không đảm

bảo chất lượng.

Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cùng với quyết tâm của

cả hệ thống chính trị, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ sẽ đạt được hiệu quả cao, góp phần ổn định xã hội, thúc

đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

97

Tóm tắt chương 3

Từ những yêu cầu khách quan và thực trạng ở Quảng Bình đặt ra cần

phải có các biện pháp nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về

trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Các giải pháp chú trọng hoàn thiện các

văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo

dục pháp luật, xây dựng đội ngũ có đạo đức và năng lực vững vàng, đổi mới

mạnh mẽ các hoạt động tổ chức mang tính pháp lý cùng các hoạt động tổ

chức trực tiếp. Đồng thời giải pháp xây dựng cơ chế giám sát tổ chức thực

hiện pháp luật về trật tự, an toàn xã hội cũng đặt ra yêu cầu phải công khai,

minh bạch các hoạt động của các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện pháp

luật, tăng cường sự giám sát của cơ quan quyền lực và thúc đẩy các hoạt

động giám sát của Nhân dân. Ngoài ra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi

phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông và các hành vi vi phạm khi thi

hành công vụ của cán bộ công chức có thẩm quyền thực thi pháp luật về trật

tự, an toàn giao thông cũng là giải pháp quan trọng đảm bảo nâng cao hiệu

quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật.

98

KẾT LUẬN

Giao thông đường bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự vận động

và phát triển của xã hội. Đảm bảo trật tự, an toàn, giao thông đường bộ là một

trong những nhiệm vụ hàng đầu của các quốc gia. Vì vậy, tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là hoạt động cơ bản nhằm

đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ là

hoạt động có tổ chức, có mục đích của các cơ quan chức năng thuộc lĩnh vực

giao thông đường bộ trong quá trình quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện

các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, thiết lập, duy trì trật tự,

an toàn giao thông đường bộ, xây dựng văn hóa giao thông, bảo đảm giao

thông đường bộ thông suốt, an toàn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa

- xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Tổ chức thực hiện pháp luật pháp luật là bước tiếp nối hoạt động xây

dựng pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, là kênh quan trọng để

đưa pháp luật vào cuộc sống. Tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ thuộc trách nhiệm của các cơ quan hành pháp, được thực

hiện dưới nhiều hình thức như ban hành văn bản pháp luật để triển khai, tổ

chức thực hiện văn bản pháp luật cấp trên; phổ biến, giáo dcuj pháp luật; tổ

chức các hoạt động mang tính pháp lý, các hoạt động áp dụng trực tiếp; thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Qua nghiên cứu thực tiễn ở Quảng Bình, hoạt động tổ chức thực hiện

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ đã đạt được nhiều kết quả

tích cực trên các mặt, góp phần tạo lập sự ổn định xã hội. Tuy nhiên hoạt

động này vẫn còn những hạn chế nhất định về chất lượng ban hành văn bản

pháp luật, về đội ngũ thực thi nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật, về công

99

tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, về

các hoạt động mang tính pháp lý cũng như hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử

lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông. Những hạn chế

đó dẫn đến tình hình vi phạm giao thông, tai nạn giao thông diễn biến phức

tạp, trật tự, an toàn giao thông và an toàn xã hội chưa được đảm bảo. Thực tế

này đòi hỏi cần phải có những giải pháp đồng bộ, bao gồm hoàn thiện hệ

thống pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; kiện toàn bộ máy;

nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đổi mới các

hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật trực tiếp; xử lý nghiêm minh các hành

vi vi phạm pháp luật cũng như xây dựng cơ chế hữu hiệu giám sát hoạt động

tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên không chỉ góp phần bảo đảm

trật tự, an toàn giao thông đường bộ mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã

hội của quốc gia.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2014, 2015, 2016), Báo cáo

Báo cáo công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

2. Bộ GTVT (1999), Đề án tăng cường bảo đảm trật tự, an toàn giao thông

giai đoạn 1999 - 2005 của Bộ Giao thông vận tải, Hà Nội.

3. Bộ GTVT (2016), Tài liệu hội nghị tập huấn nghiệp vụ thanh tra và xử

phạt vi phạm hành chính chuyên ngành giao thông vận tải, Hà Nội.

4. Bộ Giao thông Vận tải (2015), Quy định về tốc độ và khoảng cách an

toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ, Hà

Nội.

5. Bộ Giao thông Vận tải (2016), Quy định xử phạt vi phạm hành chính đối

với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Cẩm nang

dành cho Lực lượng làm công tác Thanh tra giao thông đường bộ), Nhà xuất

bản Giao thông Vận tải.

6. Bộ Giao thông Vận tải (2013), Các văn bản pháp luật về quản lý hoạt

động vận tải đường bộ, Hà Nội.

7. Bộ GTVT (2013), Thông tư 35/2013/TT-BGTVT ngày 20/10/2013 của

Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về việc xếp hàng hóa trên xe ô tô khi tham gia

giao thông đường bộ, Hà Nội.

8. Bộ GTVT (2016), Nghị định số 46/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày

01/8/2016 Quy định về xử lý vi phạm quá tải trọng xe, Hà Nội.

9. Đại hội đồng Liên hợp quốc (2013), Báo cáo về tình hình tai nạn giao

thông trên thế giới.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

11. Nguyễn Minh Đoan (2008), Hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Thông tin Nhà nước và pháp luật.

12. Hội đồng Quốc gia (2011), Từ điển bách khoa công an nhân dân, Nhà

xuất bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

13. Nguyễn Quang Huy (2010), Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trật

tự, an toàn giao thông đường bộ (qua thực tế tỉnh Thái Nguyên), Luận văn

cao học Luật, Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Hữu Dũng (2011), An toàn giao thông

đường ô tô, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội.

15. Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính (Đồng chủ biên),

(2003), Trật tự, an toàn giao thông đường bộ- Thực trạng và giải pháp, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Hoàng Phê (2010) Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Quyền (2016), Những bất cập và kiến nghị sửa đổi hoàn

thiện các văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ tại Việt Nam,

Ủy ban An toàn Quốc gia Hà Nội.

18. Hoàng Thị Kim Quế (2010), "Văn hóa pháp luật giao thông, những

giá trị chân - thiện - mỹ - ích", Nghiên cứu lập pháp.

19. Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2016) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.

20. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

21. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

22. Quốc hội (2001), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.

23. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.

24. Lê Ngọc Tiến (2004), Giáo dục pháp luật - Biện pháp quan trọng giảm

thiểu tai nạn giao đường bộ, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải.

25. Ngô Xuân Thắng (2007), Giao thông đường bộ Việt Nam thực trạng và

giải pháp, Diễn đàn Bộ giao thông vận tải.

26. Vũ Viết Thiệu (2007), "Mối quan hệ giữa xây dựng pháp luật và thực

hiện pháp luật", Nghiên cứu lập pháp, (107).

27. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016), Ban hành về chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng

Bình.

28. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2005), Quy chế hoạt động và nhiệm

vụ của các thành viên Ban an toàn giao thông, Quảng Bình.

29. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2010), Chỉ thị số 02 về tiếp tục thực

hiện các giải pháp cấp bách nhằm hạn chế tai nạn giao thông trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình.

30. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2013), Chiến lược bảo đảm trật tự

an toàn giao thông đường bộ tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến

năm 2030, Quảng Bình.

31. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Quyết định số 996/QĐ-

UBND ngày 29/3/2017 của UBND tỉnh về việc công bố thủ tục hành chính

trong lĩnh vực Giao thông vận tải thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp

xã trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, UBND ỉnh Quảng Bình.

32. Nguyễn Văn Yểu (2002), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Tạp chí Nghiên cứu Lập

pháp, số 1/2002.

33. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội.

43. Viện Ngôn ngữ, Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển Tiếng Việt,

Nxb Đà Nẵng.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn tỉnh Quảng Bình

So sánh

So sánh cùng

So sánh cùng

cùng kỳ

Số

kỳ năm 2013

kỳ năm 2013

Số

năm 2013

người

Địa bàn

Số

TT

người

(Năm 2014)

bị

vụ

Tăng/

Tăng/

Tăng/

chết

thương

Giảm

%

Giảm

%

Giảm

%

(+/-)

(+/-)

(+/-)

-12

-25

15

-5

-25

35

36

-15

-30

1 Lệ Thủy

20

+13

+185

57

56

+3

+6

-19

-25

2 Quảng Ninh

10

-41

-7

51

65

-6

-8

-22

-30

3 Đồng Hới

21

-38

-13

45

43

-93

-68

-114

-72

4 Bố Trạch

22

-53

-25

15

30

-37

-55

-37

-71

5 Quảng Trạch

11

0

0

12

17

0

0

0

0

6 Ba Đồn

14

+75

+6

16

25

-11

-30

-11

-41

7 Tuyên Hóa

17

+112

+9

49

40

-15

-60

+21

+75

8 Minh Hóa

Tổng

312

130

280

năm 2014 so với năm 2013.

+ Thời gian xảy ra tai nạn:

- 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h:

197 vụ 15 vụ 43 vụ 44 vụ 13 vụ

18 vụ 60 vụ 113 vụ 121 vụ

+ Tuyến đường xảy ra tai nạn: - QL: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: 125 t/h 211 t/h

+ Độ tuổi gây tai nạn: t/h

- Dưới 18 tuổi: 20 vụ - Từ 18 đến 27 tuổi: 145 vụ 12 32 vụ 107 vụ

- Từ 27 đến 55 tuổi: 123 vụ 24 vụ - Trên 55 tuổi: 32 vụ 31 vụ 11 vụ

- Phương tiện khác + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Thiếu chú ý quan sát: 13 vụ - Không nhường đường: 34 vụ vụ - Nồng độ cồn: 4 - Quy trình thao tác lái xe: 11 vụ 1 - Không GPLX: vụ 12 vụ - Do người đi bộ: 2 - Tự gây: vụ - Khác: 22 vụ (Nguồn: Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình)

Phụ lục 2:

Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2015 so với năm 2014.

TT Địa bàn Số vụ Số người chết % % % Số người bị thương

So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -16 -11 -11 -41 -17 -44 So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -12 -1 -1 -71 -10 -7 So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -22 +4 -7 -44 +8 -44 23 54 14 5 9 13 28 55 9

+8 -34 +47 -61 +2 -5 +18 -25 +11 +92 -67 -38 25 22 13 15 23 19

-7 -15 -19 -50 0 -6 0 -27 -7 -7 -20 -47 29 15 15 16 28 8

1 Minh Hóa 2 Đồng Hới 3 Tuyên Hóa 4 Ba Đồn 5 Quảng Ninh 6 Lệ Thủy 7 Quảng Trạch 8 Bố Trạch Tổng 66 +23 +53 -20 -63 248 +24 -14 69 239 +5 -18

+24 +53 26 -15 -42 112 (Xếp thứ tự từ địa phương có số người chết ít nhất đến nhiều nhất)

+ Thời gian xảy ra tai nạn:

- 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h:

170 vụ 27 vụ 21 vụ 23 vụ vụ 7 15 vụ 47 vụ 90 vụ 96 vụ

+ Tuyến đường xảy ra tai nạn: - QL: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: t/h 89 150 t/h

9

+ Độ tuổi gây tai nạn: - Dưới 18 tuổi: - Từ 18 đến 27 tuổi: - Từ 27 đến 55 tuổi: - Trên 55 tuổi:

t/h 21 vụ 80 vụ vụ 8 18 vụ 13 vụ 14 vụ 89 vụ 127 vụ 18 vụ

36 vụ vụ 2 24 vụ vụ 7 vụ 1 38 vụ

- Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Không nhường đường: - Sử dụng rượu, bia: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Dừng đỗ: - Khác: (Nguồn: Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình)

Phụ lục 3:

Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2016 so với năm 2015.

So sánh cùng kỳ năm 2015 TT Địa bàn Số vụ Số người chết % % % Số người bị thương So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-) Tăng/ Giảm (+/-) So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-)

-47 -7 -10 -53 1 -50 -11 9 8 11

-23 -3 -7 -78 2 -3 -21 2 10 11

-15 -15 -2 -4 -11 -14 -48 -20 -8 -10 -32 -15 12 55 11 22 17 56

-19 -3 0 0 5 0 0 8 13 15

-22 -2 +9 +60 +5 +100 -7 70 51 28 235 0 -4 -6 Quảng Ninh Tuyên Hóa 3 Ba Đồn 4 Bố Trạch Quảng Trạch 70 +16 +30 6 Đồng Hới +31 +9 7 Lệ Thủy 38 +26 +6 8 Minh Hóa 29 -1 -1 247 Tổng

+15 +27 7 +23 +82 24 0 10 -2 105 (Xếp thứ tự từ địa phương có tỷ lệ số vụ, số người chết, số người bị thương ít nhất

đến nhiều nhất)

+ Thời gian xảy ra tai nạn:

- 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h:

162 vụ 17 vụ 41 vụ 12 vụ 15 vụ 16 vụ 43 vụ 95 vụ 93 vụ

+ Tuyến đường xảy ra tai nạn: - Quốc lộ: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: - Khác: + Nguyên nhân: 104 t/h 130 t/h t/h 13 + Độ tuổi gây tai nạn:

- Dưới 18 tuổi: - Từ 18 đến 27 tuổi: - Từ 27 đến 55 tuổi: - Trên 55 tuổi:

36 vụ 68 vụ 12 vụ 12 vụ 14 vụ 11 vụ 88 vụ 133 vụ 15 vụ

26 vụ vụ 5 vụ 2 vụ 2 vụ 1 69 vụ

- Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Không nhường đường: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Không Giấy phép lái xe: - Sử dụng rượu, bia - Khác: (Nguồn: Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình)

Phụ lục 3: Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2017 so với

So sánh cùng

So sánh cùng

So sánh cùng

Địa bàn

Số

kỳ năm 2016

kỳ năm 2016

kỳ năm 2016

Số

(huyện, thị

Số

người

TT

Tăng/

Tăng/

Tăng/

người

xã, thành

vụ

bị

Giảm

%

Giảm

%

Giảm

%

chết

phố)

thương

(+/-)

(+/-)

(+/-)

-12

-32

-8

-33

-29

-57

1 Lệ Thủy

26

16

22

0

0

-3

-30

-1

-4

2 Minh Hóa

29

7

27

-5

-9

-4

-18

-7

-13

3 Bố Trạch

51

18

48

-5

-29

-1

-9

-3

-25

4 Ba Đồn

12

10

9

Quảng

5

+3

+20

+2

+15

+5

+62,5

15

13

18

Trạch

+4

+36

+3

+37,5

+2

+22

6 Quảng Ninh

15

11

11

+6

+55

+4

+40

+5

+250

7 Tuyên Hóa

17

14

7

-13

-19

+5

+71

-16

-23

8 Đồng Hới

57

12

54

-44

-2

-2

Tổng

225

-22

-9

103

191

-19

năm 2016

(Xếp thứ tự từ địa phương có tỷ lệ số người chết, số vụ, số người bị thương giảm nhiều nhất đến ít nhất và tăng).

+ Thời gian xảy ra tai nạn:

- 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h:

154 vụ 22 vụ 27 vụ 20 vụ vụ 2 18 vụ 40 vụ 71 vụ 96 vụ

+ Tuyến đường xảy ra tai nạn: - Quốc lộ: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: 111 t/h 110 t/h

4

+ Độ tuổi gây tai nạn: - Dưới 18 tuổi: - Từ 18 đến 27 tuổi: - Từ 27 đến 55 tuổi: - Trên 55 tuổi:

t/h 10 vụ 81 vụ vụ 2 18 vụ 12 vụ 6 vụ 77 vụ 127 vụ 15 vụ

23 vụ 15 vụ vụ 3 vụ 8 53 vụ

- Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Không nhường đường: - Quy trình thao tác lái xe: - Dừng, đỗ: - Do người đi bộ: - Khác: (Nguồn: Ban an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình)