VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HẰNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Tp. Hồ Chí Minh, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HẰNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ SỸ SƠN
Tp. Hồ Chí Minh, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ............................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ......................................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................... 19
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.................................. 23
2.1. Quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ................................................................................... người dưới 18 tuổi 23
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................... 38
Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 55
DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ................................................ 55
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực
hiện .................................................................................................................. 55
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện ................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
CTTP
Cấu thành tội phạm
CYGTT
Cố ý gây thương tích
HĐXX
Hội đồng xét xử
TAND
Tòa án nhân dân
THTT
Tiến hành tố tụng
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
Tố tụng Hình sự
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
QĐHP
Quyết định hình phạt
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, được pháp luật
quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia thừa nhận, ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ vô
điều kiện; còn quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong các quyền cơ bản của
con người, của công dân. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, nhà làm luật nước ta
cũng quy định rằng mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, sức khỏe.
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực,
tinh thần, trí tuệ và nhân cách; có sự hạn chế về kinh nghiệm sống, kiến thức
pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều kiện sống; thích bắt chước, đua đòi,
muốn chứng tỏ bản thân, dễ nổi nóng, không kiềm chế được hành vi của mình.
Nếu không được sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ từ gia đình, nhà
trường, nhà nước và xã hội dễ dẫn đến việc đối tượng này nhận thức lệch lạc,
trong quá trình giao lưu xã hội sẽ dễ bị các đối tượng xấu lôi kéo, kích động, sa
ngã, tham gia vào các băng nhóm tội phạm và vi phạm pháp luật.
Thành phố Biên Hòa là đô thị loại I thuộc tỉnh Đồng Nai, có tốc độ đô thị
hóa cao, kinh tế phát triển với nhiều khu công nghiệp đã thu hút đông đảo người
lao động đến sinh sống và làm việc. Điều này đã làm cho dân số tại thành phố
Biên Hòa tăng cơ học nhanh [1, tr1]. Trong những năm gần đây, bên cạnh những
chuyển biến tích cực về kinh tế, xã hội thì tình hình tội phạm diễn ra trên địa bàn
thành phố cũng rất phức tạp, trong đó có tội cố ý gây thương tích là tội phạm trực
tiếp xâm hại đến sức khỏe của con người, gây mất an ninh, trật tự xã hội, là loại
tội phạm điển hình và phổ biến. Đặc biệt là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập,
mâu thuẫn, gây thương tích cho nhau hoặc cho người khác đang là vấn đề mà các
cơ quan bảo vệ pháp luật và chính quyền thành phố Biên Hòa lưu ý, quan tâm.
1
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có quy định về “Tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại Điều 134, đồng thời
dành một chương về “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” -
Chương X. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý người
dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này cho thấy vẫn còn những vấn đề nhận thức
khác nhau do có một số quy định còn chưa thống nhất và chưa phù hợp với thực
tiễn. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành về “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác” và “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, thực
tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học cũng như đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng mà còn là vấn đề cần thiết. Đây cũng là lý do
luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước hết cần nhấn mạnh rằng, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện được phân biệt với tội CYGTT
do người đã thành niên thực hiện chủ yếu bởi độ tuổi của chủ thể thực hiện tội
phạm. Bởi vậy, có một số điểm khác biệt trong định tội danh (theo CTTP mà ở
đó chủ thể phải chịu TNHS) và trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện là đề tài ít được nghiên cứu. Trong khi đó, tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác (gắn với địa bàn cụ thể), lại được đề cập nghiên cứu
khá nhiều trong các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Trước tiên, đó
là công trình nghiên cứu của GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), Ths.Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật Hình sự
năm 2015 (Phần thứ nhất về những quy định chung; Phần thứ hai về các tội
2
phạm Chương XIV: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người). Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn
thạc sĩ, điển hình như: Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại
sức khỏe của người khác trong Luật Hình sự Việt Nam; Dương Mai Phương
(2017), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Học viện Khoa học xã hội; Bùi
Mạnh Trung (2016), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Học viện Khoa
học xã hội;…
Theo khảo sát của tác giả, các công trình nghiên cứu này đã phân tích những
vấn đề lý luận, thực trạng quy định và thực trạng áp dụng pháp luật về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các địa bàn khác nhau,
nhưng không phải tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Rõ ràng, tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chưa được đề cập nghiên cứu.
Tuy nhiên, những kiến thức, cách tiếp cận nghiên cứu, những vấn đề được đề cập
nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu nói trên được tác giả tiếp thu để thực
hiện các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng mục đích vào làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đề
xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để thực hiện luận văn, tác giả cần nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau
đây:
- Trình bày và phân tích những vấn đề lý luận về tội danh CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Phân tích quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội danh này; về xử
lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (gồm: khái niệm; các dấu hiệu pháp lý
của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, như: khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan; những điểm giống nhau và khác nhau
giữa tội này với một số tội khác được quy định tại BLHS hiện hành;…) và thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (có so sánh với các quy
định tương ứng của BLHS năm 1999).
4
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện có nhiều nội dung.
Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ vốn bị giới hạn bởi số trang thực
hiện, nên luận văn này chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính của xét xử sơ
thẩm vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới
18 tuổi thực hiện, là định tội danh và QĐHP đối với người chưa thành niên phạm
tội này.
Các số liệu xét xử (về định tội danh và quyết định hình phạt) phục vụ cho
việc nghiên cứu, được thu thập từ thực tiễn xét xử của TAND thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh;
Chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước về tội
phạm, hình phạt, phòng, chống tội phạm, công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, tư pháp, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp hoặc nghiên cứu án điển
hình…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất
trong giới khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hình sự nói riêng về
những vấn đề lý luận và pháp luật về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội này, từ
5
đó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta. Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh
viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, các cơ quan chức năng, cán bộ chuyên
ngành tư pháp hình sự trong quá trình nghiên cứu, đào tạo cũng như trong thực
tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các nội dung như: mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
thì kết cấu của Luận văn gồm có:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình
sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Để có thể xây dựng khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, trước hết cần nhận thức thế nào là tội phạm. Tại khoản 1 Điều 8
BLHS năm 2015, nhà làm luật nước ta đã xác định khái niệm “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [3, tr.13].
Tại khoản 2 của Điều luật trên đây, nhà làm luật quy định: “Những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [3, tr.13].
Như vậy, BLHS năm 2015 ghi nhận khái niệm tội phạm với các dấu hiệu mang
tính nội dung và các dấu hiệu mang tính hình thức của tội phạm bao gồm tính
nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính
phải chịu hình phạt [10, tr.62], đồng thời từ nội hàm của khái niệm này đã giúp
phân biệt những hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là tội phạm với những
hành vi không phải là tội phạm.
7
Con người với tư cách là một thực thể tự nhiên và với tư cách là một cá
nhân được đặt trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Con người là vốn quý, là
giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. “Con
người với tư cách nói trên có các quyền và tự do nhất định. Các quyền và tự do
đó được Nhà nước bảo hộ và bảo vệ. Trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
ngày 10/12/1948, tại Điều 3 quy định: “Mọi người đều có quyền sống, được tự
do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta cũng thống nhất
thể hiện việc bảo hộ và bảo vệ này thông qua các quy định tại Chương II về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; trong đó đặc biệt nhấn
mạnh “mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Bên cạnh đó, Điều 20 Hiến
pháp năm 2013 cũng quy định rằng: “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”…”[19, tr. 56].
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đã dành một chương riêng tiếp sau chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người, trong đó tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 134, Chương XIV. Mặc dù vậy, BLHS nước ta vẫn
chưa đưa ra khái niệm thế nào là tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Trong khi đó, trong khoa học luật hình sự nước ta có khá nhiều quan
niệm về tội này. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể
của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp luật định” [6, tr.96,97].
Theo một quan điểm khác, thì “Tội CYGTT là hành vi cố ý l à m cho người khác
bị thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi
8
CYGTT bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại BLHS” [4, tr.44]. Cũng
có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại
đến sức khỏe” [9, tr.126].
Từ những điều phân tích trên đây, kết hợp trong một tổng thể các quan niệm
của các nhà khoa học, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về khái niệm tội
phạm nói chung và về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
có thể hiểu “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người đủ độ tuổi và có
năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật thực hiện một cách cố
ý xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người, công dân, gây ra những
thiệt hại nhất định về sức khỏe cho họ”.
Với tính cách là tội phạm (nói chung), tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác có các dấu hiệu cơ bản của một tội phạm, đó là: tính nguy
hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải
chịu hình phạt. Là một tội phạm cụ thể, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác còn có những dấu hiệu pháp lý riêng của mình, cụ thể là:
- Về khách thể:
“Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại”. Khách thể của tội phạm là yếu tố bắt buộc của tội
phạm. Không có khách thể bị xâm hại thì không thể có tội phạm [18, tr.131].
Theo cách hiểu này, khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác đó là quyền bất khả xâm phạm, quyền được tôn trọng và
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Với tư cách là thực thể tự nhiên
và chủ thể xã hội, người đang sống và tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan
chính là đối tượng tác động của tội phạm này.
- Về mặt khách quan:
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là
9
những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan, bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi
đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn, phương
tiện phạm tội…” [18, tr.131]. Theo đó, bất kỳ tội phạm nào cũng đều có những
mặt biểu hiện bên ngoài ra thế giới khách quan, nếu không có những mặt biểu
hiện bên ngoài thì không thể có tội phạm.
Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác vì vậy được hiểu là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm với các dấu hiệu
đặc trưng là: hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện, công cụ
phạm tội,…
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi gây thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại
đến sức khỏe của con người. Hành vi đó có thể là hành động hoặc không hành
động, có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không có
công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người
khác nhằm đạt được mục đích mong muốn. Hành vi khách quan của tội phạm này
có 03 đặc điểm, đó là: có tính nguy hiểm cho xã hội; có ý thức, có ý chí và trái
pháp luật hình sự.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chủ yếu gây ra thiệt hại về sức khỏe của nạn nhân, nhưng
cũng có một số trường hợp gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần cho nạn nhân.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hậu
quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc
dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp do BLHS quy định thì vẫn bị
10
truy cứu TNHS theo khoản 1 của Điều luật này.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm là “mối quan hệ khách quan giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả đã xảy ra, trong đó hành vi nguy hiểm cho xã hội, xét về mặt thời gian xảy ra
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội, chuẩn bị và xác định khả năng thực tế bên
trong làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và là nguyên nhân chính và
trực tiếp tất yếu gây ra hậu quả đó”[18, tr.174, 175]. Theo đó, mối quan hệ giữa
hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu
quả xảy ra là nạn nhân bị thương tích hay bị tổn hại đến sức khỏe với tỷ lệ nhất
định và theo quy định của pháp luật hình sự.
Do tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cấu thành
tội phạm vật chất nên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của
CTTP này. Điều đó có nghĩa là phải xác định chính hành vi gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đã gây ra thương tích hoặc tổn hại đó; nói
cách khác, giữa hành vi khách quan gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với hậu quả của tội phạm này luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau; hành vi nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là nguyên nhân
và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là kết quả; hành vi phạm tội phải
xảy ra trước hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, đồng thời hậu quả
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe xảy ra phải phù hợp với khả năng thực tế của
hành vi làm phát sinh hậu quả đó.
Ngoài các dấu hiệu đặc trưng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả do hành vi đó gây ra của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác thì mặt khách quan của tội phạm này còn có các biểu hiện bên
ngoài khác, như: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, phương tiện
phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội,...Tuy nhiên, những dấu hiệu đó
11
không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức không phải là dấu hiệu định tội) của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Về chủ thể:
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là thể nhân hoặc
pháp nhân thương mại có đủ yếu tố của chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, đối với
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chủ thể của tội phạm
chỉ là thể nhân - con người cụ thể đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm trong tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ
tuổi nhất định do pháp luật quy định. Bởi vậy, học viên chia sẻ với quan điểm
cho rằng: “Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ
thể của tội phạm, mà chỉ những người có năng lực TNHS mới là chủ thể của tội
phạm” [8, tr.46]. Nói cách khác, năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định theo
luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người là chủ thể của tội phạm hay
không. Vậy năng lực TNHS là gì? Đó là “Khả năng của một người ở thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi đó” [18,
tr.182]. Để có thể là người có năng lực TNHS, người đó phải là người không mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều
chỉnh hành vi của mình, tức là người đó phải nhận thức được tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện, biết được hành vi đó là đúng hay
sai, có phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy,
thông qua lao động, học tập, khả năng nhận thức của con người được hình thành,
còn qua quá trình phát triển cơ thể của con người (tức phải ở độ tuổi nhất định)
thì con người mới có khả năng điều khiển hành vi của chính mình. Như vậy, phải
đạt đến độ tuổi nhất định thì con người mới có khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình.
Về tuổi chịu TNHS của chủ thể của tội phạm là cá nhân (thể nhân), tại Điều
12
12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có
quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều: 123; 134; 141; 142; 143; 144; 150; 151; 168; 169; 170; 171; 173; 178;
248; 249; 250; 251; 252; 265; 266; 286; 287; 289; 290; 299; 303 và 304 [10,
tr.85].
Từ quan điểm của nhà làm luật về chủ thể của tội phạm như nêu trên, có thể
xác định chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phải là
người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật quy định, nghĩa là người đó
không mắc bệnh tâm thần hay các loại bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức,
khả năng điều khiển hành vi của mình, đồng thời phải đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi
trở lên thì mới phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội do mình gây ra, hoặc đạt
độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi mà phạm tội thì chỉ phải chịu TNHS được quy
định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 134, còn những người dưới 16 tuổi
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 của Điều luật
này thì không phải chịu TNHS.
- Về mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu là“mặt bên trong của tội phạm, là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ
thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng
gây ra hậu quả đó” [18, tr.197], bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tội.
+ Lỗi được hiểu là “thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội, đối với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc khả năng
gây ra hậu quả đó, được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý” [18, tr.200]. Lỗi
của người CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là lỗi cố ý. Khi
13
thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người
phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật
hình sự cấm bằng nguy cơ áp dụng hình phạt, gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm nhất định, song vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra (cố ý
trực tiếp) hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).
+ Trong luật hình sự Việt Nam, động cơ phạm tội là “động lực bên trong
được quyết định bởi các nhu cầu và lợi ích đã được nhận thức thúc đẩy người
phạm tội thực hiện tội phạm” [18, tr.212].
+ Mục đích phạm tội là “quan niệm của người phạm tội về những thay đổi
trong thế giới khách quan mà người đó muốn đạt được bằng việc thực hiện tội
phạm” [18, tr.212].
Khác với dấu hiệu lỗi, trong cấu thành tội phạm tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ phạm tội và dấu hiệu mục
đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức dấu hiệu định tội của CTTP.
1.1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với một số tội cụ thể khác
1.1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, việc phân biệt tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội giết người là rất phức tạp; mỗi
nơi áp dụng một kiểu và ngay trong cùng một cơ quan THTT thì người này có
quan điểm giết người, còn người khác cho rằng chỉ CYGTT.
Ngày 06/4/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số
220/QĐ-CA công bố án lệ vụ án về tội giết người và tội CYGTT dẫn đến chết
người đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua tại Án lệ số
01/2016/AL. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống hai tội phạm này cũng
còn nhiều vấn đề chưa được lý giải, nhiều vụ án vẫn còn ý kiến khác nhau giữa
các cơ quan THTT, người THTT và người bào chữa.
14
Vì vậy, việc nghiên cứu và phân biệt giữa tội giết người quy định tại Điều
123 với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại
Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng của
tội giết người và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trường hợp làm chết người, chúng ta có thể nhận định sự giống nhau và khác
nhau cơ bản giữa hai tội này.
* Về sự giống nhau, ở hai tội này, người phạm tội đều thực hiện hành vi là
do cố ý; đều thực hiện hành vi (hành động) tương tự như nhau (bắn, đâm, chém,
đánh, đấm, đá,…); có hậu quả là nạn nhân chết.
* Về sự khác nhau của hai tội này được thể hiện như sau:
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người
phạm tội chỉ cố ý làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ
người phạm tội không mong muốn cho nạn nhân bị chết hay bỏ mặc cho nạn
nhân chết, muốn ra sao thì ra; còn việc nạn nhân chết là ngoài ý thức chủ quan
của người phạm tội.
Đối với tội giết người, người phạm tội cố ý tước đoạt tính mạng của nạn
nhân. Nếu không phải là do cố ý trực tiếp (cố ý có dự mưu, cố ý xác định) thì
cũng là cố ý gián tiếp (cố ý đột xuất hoặc cố ý không xác định), tức là không cần
quan tâm đến hậu quả, bỏ mặc cho nạn nhân chết cũng được, không chết cũng
mặc.
Hành vi tấn công của người phạm tội đối với tội giết người quyết liệt hơn,
cường độ tấn công mạnh hơn, nhằm vào những nơi xung yếu của cơ thể như:
vùng đầu (sọ não, gáy), ngực, ổ bụng…Còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, người phạm tội tấn công nạn nhân không quyết
liệt, mà nếu có quyết liệt thì cũng chỉ tấn công vào những nơi khó gây ra cái chết
cho nạn nhân như: chân, tay, mông, nếu có tấn công vào nơi xung yếu của cơ thể
thì cũng chỉ tấn công vào nơi đã định như mắt, mũi, tai, miệng.
15
Thực tiễn, nhiều trường hợp người phạm tội chỉ khai không muốn làm nạn
nhân chết. Do đó, phải kết hợp với ý thức chủ quan của họ để xác định là giết
người hay CYGTT, đồng thời phải căn cứ vào biên bản giám định pháp y về
nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân.
1.1.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ
Tại Điều 137 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhà làm luật
quy định tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Qua nghiên cứu tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành
công vụ, dựa vào các yếu tố CTTP, chúng ta có thể phân biệt những điểm giống
và khác nhau giữa hai tội phạm này. Hai tội này giống nhau về khách thể của tội
phạm và về lỗi của người phạm tội. Sự khác nhau của hai tội này thể hiện ở chủ
thể của tội phạm, hành vi khách quan, hậu quả gây ra và động cơ phạm tội, cụ thể
là:
- Chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ khác với chủ thể của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác ở chỗ phải là người đang trong khi thi hành
công vụ và đã thực hiện hành vi phạm tội do có hành vi trái pháp luật của nạn
nhân.
- Hành vi khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ khác với hành vi khách quan của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đó là dùng vũ lực ngoài
16
những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ khác với hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được thể hiện ở chỗ chỉ làm cho người bị hại bị thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị hại có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% trở lên mà không làm chết người hoặc không dẫn đến chết người.
- Động cơ phạm tội của hai tội này khác nhau. Đối với tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, động cơ của
người phạm tội là bảo vệ các lợi ích khác nhau trước sự xâm phạm của hành vi
trái pháp luật của nạn nhân, còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức dấu
hiệu định tội).
1.1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với các tội phạm khủng bố
Tại Điều 299 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội
khủng bố, đó là: “hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công
chúng hoặc xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính
mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm
gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc có những hành vi khác uy
hiếp tinh thần người khác” [19, tr.452].
Dựa vào những dấu hiệu pháp lý trong CTTP đối với tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội khủng bố, có thể đưa ra những điểm
giống nhau và những điểm khác nhau như sau:
* Những điểm giống nhau: gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu chủ thể của tội
phạm. Đối với dấu hiệu lỗi, cả hai tội phạm này đều có lỗi cố ý. Về chủ thể của
17
tội phạm, hai tội này đều do bất kỳ ai là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
luật định thực hiện hành vi phạm tội.
* Những điểm khác nhau:
Sự khác nhau trước hết thể hiện ở khách thể của tội phạm. Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo
hộ về sức khỏe của con người; còn tội khủng bố xâm phạm an toàn công cộng,
tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, danh dự của con người, xâm phạm quan hệ
sở hữu của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Sự khác nhau còn thể hiện ở mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách
quan của người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
có tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi khách quan của tội khủng bố.
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì hành vi
khách quan của tội phạm là hành vi tác động vào cơ thể của người khác làm cho
người đó bị thương tích hoặc bị tổn hại về sức khỏe chứ không làm cho nạn nhân
bị chết; nếu nạn nhân chết là ngoài ý muốn của người phạm tội. Đối với tội phạm
khủng bố, hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các hành vi như: xâm
phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng; xâm phạm tự do thân
thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công
chúng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần của người khác.
Hai tội nói trên còn khác nhau về mục đích phạm tội. Mục đích của người
phạm tội khủng bố là nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, còn
mục đích của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là làm
cho nạn nhân bị tổn thương, làm mất hoặc suy giảm chức năng một bộ phận cơ
thể hay làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.
18
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tại Điều 134 với nhiều nội dung,
tình tiết mới so với Điều 104 BLHS năm 1999. Cụ thể: Điều 104 BLHS năm
1999 quy định 4 khoản với 4 định mức tỷ lệ thương tật, đó là dưới 11%, từ 11%
đến 30%, từ 31% đến 60%, trên 61%; còn Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) tuy vẫn giữ nguyên việc chia định mức tỷ lệ thương tật nhưng
đã được chia ra làm 6 khoản trong đó sửa đổi và bổ sung một số điểm mới để
hoàn thiện hơn những quy định về tội này. Ngoài ra, nội dung chính của Điều
134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là cơ cấu lại số khung hình
phạt so với Điều 104 BLHS năm 1999 và thay đổi mức hình phạt của từng khung
cho phù hợp với sự thay đổi của số khung, đồng thời sửa đổi, bổ sung các tình
tiết định khung tăng nặng từ khoản 2 đến khoản 5, pháp điển hóa các hướng dẫn
tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao (về các tình tiết quy định tại Điều 104 BLHS 1999) nhằm đảm bảo
các quy định này được rõ ràng và thống nhất khi áp dụng vào thực tiễn. Mặc dù
trong Điều 134 tăng về số lượng 02 khung hình phạt so với Điều 104 BLHS 1999
nhưng mức hình phạt thấp nhất và cao nhất không thay đổi.
Theo đó, đối chiếu với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 thì Điều 134 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm mới hơn, đó là:
Thứ nhất, so với khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 thì khoản 1 Điều 134
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm một số tình tiết
đó là: “dùng vũ khí, vật liệu nổ hoặc dùng a xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc” hay quy định thêm các tình tiết khác như “gây thương
19
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê, đối với người
chữa bệnh cho mình”; sửa đổi các tình tiết: “Đối với trẻ em” thành “Đối với
người dưới 16 tuổi”; “phụ nữ đang có thai” thành “phụ nữ mà biết là có
thai”;“Để cản trở người thi hành công vụ” thành “Đối với người đang thi hành
công vụ”. Những quy định này đã thể hiện sự tiến bộ rõ rệt của pháp luật hình sự
nhằm quy định rõ những định nghĩa mà trước nay vẫn còn chung chung.
Thứ hai, về khoản 2, khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999, đã được chia
thành 04 khoản riêng biệt trong điều luật mới. Như vậy, khung hình phạt cũng
được quy định cụ thể, không còn gộp chung như trước. Việc quy định này tạo
điều kiện cho Tòa án, Viện kiểm sát thuận lợi, dễ dàng hơn trong việc định tội
danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Ngoài ra, quy định này cũng
đã chia giới hạn giữa tỷ lệ thương tật với các tình tiết tăng nặng trong CTTP đó là
tuy tỷ lệ thương tật thấp nhưng nếu có tình tiết tăng nặng thì vẫn quy đồng với
mức tỷ lệ thương tật cao hơn.
Thứ ba, khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã
cụ thể hóa khoản 4 Điều 104 BLHS năm 1999, như: tình tiết định tính “chết
nhiều người”, “đặc biệt nghiêm trọng khác” đã được quy định thành từng điểm
rõ ràng: “Làm chết 02 người trở lên” hay “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở
lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến
điểm k khoản 1 Điều này”.
Thứ tư, tại khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
còn quy định thêm về hành vi chuẩn bị phạm tội, cụ thể là: người chuẩn bị vũ
khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc
thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
20
Thứ năm, trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối
với tội quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều 134 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu TNHS ở các khoản 3 và khoản 4 của Điều 104 BLHS năm
1999 trong khi họ phải chịu TNHS tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 134 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Nhìn chung, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã sửa đổi, bổ
sung đầy đủ, rõ ràng về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác,
giúp cho việc thi hành pháp luật hình sự được chính xác hơn trong việc bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người.
21
Kết luận Chương 1
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi trái
pháp luật của người có năng lực TNHS tác động đến thân thể của người khác làm
cho người đó bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
theo luật định
Tại Chương 1, tác giả đã trình bày và phân tích khái niệm, các dấu hiệu cơ
bản của tội phạm nói chung và của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nói riêng; trên cơ sở đó, phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm
chết người với tội giết người, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ hay phân biệt tội này với các tội khủng bố.
Ngoài ra, tác giả còn phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về tội danh này, trong đó làm rõ những quy định mới được bổ sung so với
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được quy định
trong BLHS Việt Nam năm 1999.
Về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sẽ được trình bày trong Chương
2 của luận văn này.
22
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
2.1.1. Quy định về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện
Trong lý luận và thực tiễn, định tội danh được hiểu là một quá trình logic
nhất định, một hoạt động xác nhận và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm
tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một CTTP được quy định trong quy
phạm pháp luật hình sự thuộc Phần các tội phạm của BLHS; hay, định tội danh là
việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với một hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Trong khái niệm về định tội danh, hai nghĩa này có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Vì vậy, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm định tội danh.
Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, chúng tôi chia sẻ với quan điểm của
GS.TS Võ Khánh Vinh về khái niệm định tội danh, đó là “một dạng hoạt động
nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan
trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội
được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định
CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu CTTP với các tình
tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai
đoạn nhất định” [17, tr.26, 27].
Là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, định tội danh được tiến
hành đồng thời bởi ba quá trình:
23
Thứ nhất, cần phải xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ
án.
Để giải quyết một vụ án hình sự, các cơ quan THTT cần phải xác định tất cả
tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Muốn đạt được
điều này, cần phải áp dụng những biện pháp hợp pháp được BLTTHS cho phép
và không được dùng những biện pháp trái pháp luật để thu thập chứng cứ. Sau
khi thu thập được các chứng cứ của vụ án (chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội,
chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc, chứng cứ sao chép, lời khai, vật chứng,…), các
cơ quan THTT phải nghiên cứu, đánh giá, phân tích các chứng cứ đó một cách vô
tư, không định kiến, suy diễn để tìm kiếm chân lý khách quan, chân lý vật chất về
vụ án - tức là xác định đầy đủ và chính xác các tình tiết cần thiết của hành vi
phạm tội.
Thứ hai, cần phải nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS
liên quan đến tội phạm đã thực hiện.
Cần nhấn mạnh rằng việc nhận thức đúng nội dung của BLHS quy định về
từng loại tội và từng tội phạm cụ thể có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật chỉ được coi là tội phạm nếu được quy định trong
BLHS, tuy nhiên, không phải tất cả quy phạm pháp luật trong BLHS đều chi tiết
và phản ánh được hết các mặt của đời sống xã hội mà chỉ phản ánh những nét đặc
trưng của nó. Bởi vậy, khi giải quyết một vụ án hình sự, người THTT cần phải áp
dụng đúng quy phạm pháp luật hình sự. Điều này đòi hỏi hoạt động lập pháp và
hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan THTT phải luôn chính xác và đúng
đắn.
Để bảo đảm các nguyên tắc của luật hình sự, nhất là nguyên tắc công bằng,
định tội danh phải đúng. Muốn định tội danh đúng, người THTT phải lựa chọn
đúng quy phạm pháp luật và đối chiếu, so sánh đầy đủ, chính xác các dấu hiệu tội
phạm đã được quy định trong điểm, khoản của điều luật với các tình tiết của hành
vi phạm tội đã thực hiện. Qua đối chiếu, so sánh, nếu có sự phù hợp giữa các tình
24
tiết của sự việc với các dấu hiệu của cấu thành được quy định trong luật thì có thể
kết luận sự việc đã xảy ra phải được định theo điểm, khoản của điều luật đó.
Song, trong một số trường hợp, các bước này được thực hiện đồng thời trong
hoạt động nhận thức của người áp dụng pháp luật có khi không thể tách rời một
cách độc lập, rõ ràng. Không chỉ xác định đúng điểm, khoản, điều luật tương ứng
cần áp dụng đối với hành vi phạm tội, người THTT còn phải xem xét các yếu tố
khác của hành vi đó như hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội
có tổ chức hay đồng phạm,…để áp dụng các quy phạm pháp luật tương ứng khi
định tội danh.
Việc định tội danh phải đầy đủ những hành vi phạm tội được thực hiện, tức
là phải định tội danh đối với từng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện do các điều luật của BLHS quy định là tội phạm. Khi định tội danh, người
THTT không được thu hút hành vi phạm tội này vào hành vi phạm tội khác, hoặc
coi hành vi phạm tội này là tình tiết tăng nặng của tội phạm kia nhằm tránh tình
trạng đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ ba, cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mối liên hệ giữa các tình
tiết thực tế của hành vi và các dấu hiệu của CTTP được quy định trong luật.
Định tội danh là hoạt động của các cơ quan THTT nhằm thu thập, kiểm tra,
đánh giá các chứng cứ xác định các tình tiết thực tế của vụ án và tìm hiểu, phân
tích các quy phạm pháp luật hình sự để nhận thức đúng đắn nội dung của nó. Quá
trình định tội danh được tiến hành trên cơ sở so sánh, đối chiếu các tình tiết thực
tế của vụ án đã được xác định với các dấu hiệu được chỉ ra trong quy phạm pháp
luật hình sự quy định về CTTP. Theo đó, quá trình định tội danh phải trải qua ba
- Giai đoạn thứ nhất, khi đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
giai đoạn sau đây:
tội, có thể dựa vào các căn cứ như: tính chất của phương pháp, thủ đoạn,
công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm; tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi gây ra; hoặc tính chất của động cơ hay mức độ lỗi, nhân thân người
25
- Giai đoạn thứ hai, những người tiến hành định tội danh làm rõ các dấu hiệu
phạm tội.
của hành vi phạm tội, làm rõ hành vi đó thuộc loại tội phạm nào và được quy
- Giai đoạn thứ ba, chỉ rõ CTTP về tội cụ thể nào được áp dụng: cấu thành cơ
định ở chương nào của BLHS.
bản, cấu thành giảm nhẹ hay cấu thành tăng nặng trong giới hạn của một điều
luật nào đó đã được lựa chọn.
Cả ba giai đoạn trên có thể được thực hiện độc lập hoặc thực hiện đồng thời
với nhau, không phân chia được trong hoạt động nhận thức của người định tội
danh.
Từ những điều phân tích khái quát trên đây, có thể đưa ra khái niệm định tội
danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới
18 tuổi thực hiện là hoạt động điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được một
cách đầy đủ, khách quan và toàn diện trong sự so sánh, đối chiếu với các dấu
hiệu pháp lý của CTTP tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong các quy định của pháp luật hình sự để xác định có hay không có tội
phạm và người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi đó để xử lý.
Các giai đoạn của quá trình định tội danh, cơ sở của định tội danh, các
trường hợp định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng tương tự như định tội danh tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người từ đủ 18 tuổi trở
lên thực hiện. Tuy nhiên, khi định tội danh đối với người dưới 18 tuổi, cần đặc
biệt lưu ý đến tuổi chịu TNHS.
Người dưới 18 tuổi là người đang trong giai đoạn hình thành và phát triển
về thể lực, trí lực và nhân cách, chưa có suy nghĩ chín chắn về các hành vi mà họ
làm cũng như chưa có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm của
hành vi mà họ gây ra cho xã hội. Ngoài ra, tâm lý của họ rất dễ bị tổn thương,
26
nhất là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án. Do đó, chính
sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Nhà nước ta chủ yếu là giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm, đồng thời tạo điều kiện để họ phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tuổi
chịu TNHS, cụ thể như sau: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại 28 điều luật của BLHS, trong đó có tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134).
Trên cơ sở quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), trong hoạt động xét xử, khi định tội danh đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì cơ quan Tòa án
phải xác định tuổi chịu TNHS của đối tượng này để từ đó xác định năng lực chịu
TNHS của chủ thể của tội phạm. Như vậy, trường hợp chủ thể thực hiện hành vi
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà chủ thể đó được xác
định có độ tuổi dưới 14 tuổi thì họ không phải chịu TNHS về hành vi phạm tội
của mình; trường hợp chủ thể thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà chủ thể đó có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thì phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, đồng
thời khi đó Tòa án phải xác định tiếp tội mà chủ thể đó đã phạm thuộc khoản nào
và khung hình phạt của khoản đó tương ứng với loại tội phạm nào theo quy định
tại Điều 9 BLHS về phân loại tội phạm; chỉ khi tội phạm được thực hiện thuộc
loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì họ mới phải chịu
TNHS. Ngoài ra, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên thực hiện tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
27
2.1.2. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Quyết định hình phạt (QĐHP) là một trong những giai đoạn cơ bản và
chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Khi QĐHP, Tòa
án nhân danh Nhà nước tuyên bố áp dụng hình phạt cụ thể đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ về
việc thực hiện tội phạm, đồng thời trừng trị họ.
QĐHP là một hoạt động pháp lý tố tụng hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất
định. Để QĐHP, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn TTHS trước đó
và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử, bao gồm kết quả điều tra, kết
quả buộc tội, kết quả thẩm vấn, tranh luận; sau khi có được các kết quả này,
những người QĐHP sẽ đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cụ thể với
các dấu hiệu của một CTTP cụ thể gắn liền với việc đánh giá con người cụ thể đã
thực hiện tội phạm để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất
trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
QĐHP thể hiện ở hai nội dung sau đây:
Một là, Tòa án lựa chọn một trong các hình phạt cụ thể được quy định trong
khoản của điều luật được áp dụng để quyết định đối với bị cáo. Hoạt động này
được gọi là xác định loại hình phạt.
Hai là, Tòa án xác định một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.
Hai nội dung này được tiến hành theo trình tự trên, đồng thời được thực
hiện khi áp dụng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Loại và mức hình phạt
được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải được thể hiện trong bản án của Tòa
án và được công bố công khai khi tuyên án.
Trong mọi trường hợp, QĐHP của Tòa án phải đúng pháp luật, bảo đảm
công bằng và cá thể hóa; đồng thời hình phạt được tuyên phải tương xứng với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, với các đặc điểm
28
về nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, dư
luận của xã hội về vụ án và ý thức pháp luật của người phạm tội. Ngoài ra, hình
phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo còn phải bảo đảm tính xác định, tính
lập luận và bắt buộc có lý do.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về QĐHP. Xét trên nhiều phương
diện, chúng tôi chia sẻ quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh về QĐHP, đó là
"một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa
án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản
điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện
trong bản án buộc tội" [18, tr.386].
Từ những lý luận về QĐHP nêu trên, có thể kết luận rằng: QĐHP đối với
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện là việc Tòa án (HĐXX) lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được
quy định trong khoản điều luật để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi đã thực
hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng hay phạm tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói chung, Tòa án không
chỉ tuân thủ các nguyên tắc QĐHP như pháp chế xã hội chủ nghĩa, công bằng, cá
thể hóa, nhân đạo, căn cứ vào các nguyên tắc xử lý chung đối với người phạm tội
được quy định tại Điều 3 mà còn phải căn cứ vào Điều 50 (căn cứ QĐHP) và các
quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể là:
Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng, công minh, theo đúng pháp luật [3, tr.7].
Phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật đối với
mọi hành vi phạm tội không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh chống tội
phạm mà còn có ý nghĩa trong việc phòng ngừa. Trên thực tế, có một số hành vi
phạm tội do được phát hiện kịp thời nên đã ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại do
29
tội phạm gây ra. Mặt khác, việc phát hiện kịp thời hành vi phạm tội còn có ý
nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân về công tác phòng ngừa tội phạm,
cảnh cáo người đang có ý định thực hiện tội phạm hãy từ bỏ ý định phạm tội nếu
không sẽ bị trừng trị. Phát hiện kịp thời tội phạm còn có tác dụng chống những
nghi ngờ vào tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội, làm cho mọi người yên
tâm lao động sản xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ
pháp luật [8, tr.15, 16].
Như vậy, theo nguyên tắc này, trường hợp người dưới 18 tuổi thực hiện tội
phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì các cơ quan
THTT phải có trách nhiệm phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh,
đúng pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật của họ.
Thứ hai, mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội [3, tr.7].
Nội dung của nguyên tắc trên thể hiện rõ tính công bằng trong việc xử lý
người phạm tội. Theo nguyên tắc này, khi xử lý hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện thì các cơ quan
THTT, người THTT cần phải có thái độ bình đẳng, công bằng đối với người
phạm tội, đó là bình đẳng, công bằng trong việc vận dụng các dấu hiệu CTTP đối
với hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về
người phạm tội; tuyệt đối không được phân biệt đối xử giữa những người phạm
tội là người dưới 18 tuổi nhưng có thành phần gia đình, địa vị xã hội, tôn giáo, tín
ngưỡng, giới tính khác nhau.
Thứ ba, nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối,
côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội [3, tr.8].
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta đối với
những đối tượng cần phải nghiêm trị, được liệt kê; đó là: người phạm tội là người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Như vậy, nếu người dưới
30
18 tuổi thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác thuộc những đối tượng được liệt kê tại điểm c khoản 1, Điều 3 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cần phải nghiêm trị.
Thứ tư, nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có
tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng
đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công
chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội
phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại gây ra [3, tr.8].
Nội dung của nguyên tắc nói lên tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội,
quy mô của việc thực hiện tội phạm có đồng phạm và hậu quả do hành vi thực
hiện tội phạm gây ra cho xã hội, chứ không phải đối với người phạm tội. Theo
nguyên tắc này, khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng thì Tòa án cần phải cân nhắc loại và mức hình phạt để áp dụng cho phù hợp
nhằm răn đe, phòng ngừa, cảnh báo cho mọi người biết, nếu cố tình phạm tội
thuộc các trường hợp trên thì sẽ bị nghiêm trị; đồng thời áp dụng chính sách
khoan hồng của Nhà nước đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố
giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối
cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Thứ năm, đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp
dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình
giám sát, giáo dục [3, tr.8].
Đây là nguyên tắc được cụ thể hóa từ nguyên tắc khoan hồng, tuy nhiên
nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng. Đối
với người dưới 18 tuổi lần đầu thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho
31
sức khỏe của người khác nhưng ít nghiêm trọng thì Tòa án cần phải quan tâm đến
nguyên tắc trong quá trình QĐHP, không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù, mà
có thể áp dụng các loại hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù như tuyên người
phạm tội được hưởng án treo hay áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải
tạo không giam giữ đối với họ.
Thứ sáu, đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại
các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội;
nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện [3, tr.8].
Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người đã bị kết án và bị phạt tù giam.
Theo nguyên tắc này, nếu người dưới 18 tuổi đã bị kết án và bị phạt tù giam do
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuy bị hạn
chế quyền tự do nhưng họ vẫn được hưởng các quyền con người của mình, đó là
được lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến
bộ thì được xét giảm việc chấp hành hình phạt tù để sớm trở về gia đình, hòa
nhập với cộng đồng xã hội.
Thứ bảy, người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn,
sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định
thì được xóa án tích [3, tr.8].
Đây cũng là nguyên tắc nhân đạo xã hội đối với người bị kết án, họ không
bị xã hội thành kiến đối với tội lỗi mà họ đã phạm. Theo đó, người dưới 18 tuổi
bị kết án do thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, sau khi đã chấp hành xong hình phạt, họ được Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, được xóa án tích khi
có đủ điều kiện theo quy định pháp luật hình sự để xóa đi mặc cảm với chính bản
thân họ. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua, không ít cơ quan, tổ chức không
muốn nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt vào làm việc, nhiều nơi
vẫn còn kỳ thị với người bị kết án, không tạo điều kiện để họ hòa nhập cộng
32
đồng. Do đó, để nguyên tắc này đi vào cuộc sống thì trước hết các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải thật sự loại bỏ tư tưởng kỳ thị đối
với người bị kết án; Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích đối với các
đơn vị, các tổ chức kinh tế nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù
vào đơn vị, doanh nghiệp mình làm việc.
Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về
căn cứ QĐHP, khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án phải dựa vào các quy định
của BLHS của cả phần chung và phần các tội phạm có liên quan đến tội phạm
này mà người dưới 18 tuổi đã phạm; cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện thông qua các yếu tố CTTP (khách
thể bị xâm hại, hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, yếu tố lỗi,
động cơ, mục đích,… của người phạm tội) để làm căn cứ phân loại tội phạm, xác
định khung hình phạt tương xứng; xem xét các yếu tố về nhân thân người phạm
tội (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, quá trình công tác, hoàn cảnh gia đình,…) vì
trong một số trường hợp các yếu tố này là yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt,
định tội, định khung hình phạt,…và phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc
tình tiết tăng nặng TNHS để lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt buộc người
bị kết án phải chấp hành.
Không chỉ căn cứ Điều 3, Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, Tòa án còn phải căn cứ các điều luật tại Chương
XII của Bộ luật này, mà trong đó quan trọng là Điều 91 quy định về các nguyên
tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể là:
Thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức
33
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và
điều kiện gây ra tội phạm [3, tr.81].
Theo nguyên tắc này, trong mọi tình huống, mọi trường hợp, cơ quan THTT
và người THTT phải tạo mọi điều kiện và áp dụng các biện pháp phi hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phải xác định độ tuổi của người phạm tội
khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. Thực tế cho thấy, tuổi càng ít thì khả năng
nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, thậm chí với những
người cùng độ tuổi nhưng không phải người nào cũng có khả năng nhận thức như
nhau, người ở thành phố nhận thức khác người ở vùng sâu, vùng xa, người có
trình độ văn hóa cao nhận thức khác người có trình độ văn hóa thấp …
Nội dung quan trọng của nguyên tắc này còn đòi hỏi cơ quan THTT phải
xác định nguyên nhân và điều kiện khiến người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi
phạm tội. Yêu cầu của nguyên tắc này là phải giáo dục, giúp đỡ người dưới 18
tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội. Vì thế, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cũng phải bảo đảm mục đích giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, chứ không nhằm trừng
trị. Do đó, ngay từ khi khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các
biện pháp pháp lý có lợi nhất mà còn phải quán triệt tinh thần là nếu không cần
thiết bắt giữ, tạm giữ, tạm giam đối với họ thì không được áp dụng các biện pháp
này; đồng thời phải bảo đảm các quyền theo quy định của BLTTHS đối với họ
như: phải có người bào chữa ngay từ khi bị bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ
để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo
lĩnh hoặc thấy việc cho tại ngoại không gây ảnh hưởng cho xã hội thì cương
quyết phải cho tại ngoại.
Thứ hai, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được
34
miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương
này[3, tr.81, 82].
Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các trường
hợp được miễn hoặc có thể được miễn TNHS đối với bất cứ người nào không
phân biệt người dưới 18 tuổi hay trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người dưới 18
tuổi thì việc miễn TNHS, ngoài các quy định tại Điều 29 của Bộ luật này thì cơ
quan THTT còn phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.
Các trường hợp mà người dưới 18 tuổi có thể được miễn TNHS gồm: người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng,
trừ trường hợp quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252
của BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy
định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS, trừ trường hợp quy định tại các điều 123,
134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS;
người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ
án.
Thứ ba, việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội
phạm [3, tr.82].
Nguyên tắc này đã được quy định tại BLHS năm 1985. Do đó, nếu hành vi
phạm tội của họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy việc
áp dụng các biện pháp giáo dục, tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để
phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung thì mới tiến hành truy cứu TNHS.
Thứ tư, khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp quy
định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy
định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa [3,
tr.83].
35
Theo nguyên tắc này, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS hoặc áp dụng một trong các biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hay tại trường giáo dưỡng nhưng không có
hiệu quả. Như vậy, trước khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội thì Tòa án phải áp dụng các biện pháp không phải là hình phạt trước. Thế
nhưng, trên thực tế, Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất, mức độ của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định áp dụng hay không áp
dụng hình phạt. Trong trường hợp xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì Tòa
án mới áp dụng các biện pháp giáo dục khác.
Thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18
tuổi phạm tội [3, tr.83].
Nguyên tắc xử lý này đã được quy định từ BLHS năm 1985 và được nhắc
lại tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, thể hiện thái độ của Nhà nước ta dứt
khoát không áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, không lấy trừng trị là mục đích của hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Thứ sáu, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác
dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18
tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18
tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp
dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội [3, tr.83].
Đây không chỉ là nguyên tắc xử lý mà còn là căn cứ QĐHP đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc này có nội dung giống như nguyên tắc quy
định tại khoản 4 Điều 91 BLHS; tuy nhiên, đây là căn cứ để Tòa án áp dụng hình
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
36
Từ nguyên tắc này cho thấy, BLHS 2015 đã quy định rõ hơn trường hợp
nào thì cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và
trường hợp nào không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Thứ bảy, án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính
để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm [3, tr.83].
Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuổi bị coi là tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm cũng là thể hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục
đích của hình phạt đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát
triển bình thường trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 92 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn
TNHS và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại
diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.
Đồng thời, tại Điều 96 của Bộ luật này cũng quy định Tòa án có thể áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do
nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ
chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
Để QĐHP chính xác đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện, Tòa án không chỉ phải tuân theo các
nguyên tắc, những căn cứ về QĐHP đã được quy định trong BLHS mà còn phải
xem xét, cân nhắc đến các điều kiện, yếu tố khác như tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các
yếu tố khác có liên quan đến việc QĐHP.
37
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Thực trạng định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1.1. Khái quát tình hình định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Từ năm 2015 - 2019, TAND thành phố Biên Hòa đã thụ lý 374 vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong đó có 32 vụ do
người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm (chiếm tỷ lệ 8,55% tổng số vụ án CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thụ lý xét xử trên địa bàn).
Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau đây:
Bảng 2.1: Tỷ lệ số vụ án và số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện so với tổng số vụ
án và bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được thụ lý tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
38
Loại tội CYGTT hoặc gây tổn CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hại cho sức khỏe của người khác do người Tỷ lệ % người khác Năm dưới 18 tuổi thực hiện (1)/(3)
Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
(1) (2) (3) (4)
5 11 61 110 8,2 2015
9 10 151 10,6 85 2016
2017 13 30 86 161 15,1
3 20 69 132 4,3 2018
2 9 73 99 2,7 2019
80 Tổng 32 374 653 8,55
(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)
Qua bảng thống kê 2.1 nêu trên đã phản ánh số vụ án CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện có xu
hướng tăng, giảm không theo quy luật nhưng phần nào cũng cho thấy số lượng
người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này là tương đối nhiều.
39
Bảng 2.2. Tình hình định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện
Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Ghi Năm Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị chú
vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo
2015 3 4 6 1 1 1
2016 8 9 1 1
2017 11 23 7 2
2018 2 11 9 1
2019 1 1 8 1 0 0
6 1 Tổng 25 48 31 1
(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)
Qua thống kê tại bảng 2.2 cho thấy có 48/80 bị cáo là người dưới 18 tuổi
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được TAND
thành phố Biên Hòa đưa ra xét xử, định tội danh theo khoản 1 và áp dụng hình
phạt tù từ 03 năm trở xuống (chiếm tỷ lệ 60%), có 31/80 bị cáo bị Tòa án định tội
danh theo khoản 2 Điều 134 BLHS và áp dụng hình phạt tù từ trên 03 năm đến
07 năm (chiếm tỷ lệ 38,75%) và có 1/80 bị cáo bị định tội danh theo khoản 3,
(chiếm 1,25%). Đại đa số các trường hợp phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện được TAND thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai định tội danh đúng. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường
hợp phạm tội này được định tội danh không chính xác. Thực trạng đó sẽ được
học viên trình bày ở tiểu mục tiếp theo.
40
2.2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai
Trước hết, đó là định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện theo cấu thành tội phạm cơ bản.
Theo số liệu thống kê tại bảng 2.2 nêu trên thì từ năm 2015 đến năm 2019,
TAND thành phố Biên Hòa đã tiến hành định tội danh theo khoản 1 đối với 48 bị
cáo dưới 18 tuổi phạm tội nói trên. Nhìn chung, TAND thành phố Biên Hòa đã
định tội danh đúng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo. Vụ án dưới đây là
một thí dụ. Nội dung vụ án này như sau: Do nghi ngờ nhóm Sú Say Váy đánh
Huỳnh Đại Nhân là người em trong xóm, anh Phạm Văn Ngà tìm nhóm Váy để
hỏi rõ sự việc, dẫn đến hai bên lời qua tiếng lại với nhau. Anh Phạm Văn Ngà
cầm một vỏ chai nước ngọt bằng thủy tinh đi tới đánh Sú Say Váy nhưng Váy
tránh được và trong lúc xô xát Váy định chạy theo Bằng Kim Long, Nguyễn Kim
Thông đuổi đánh Huỳnh Đại Nhân, anh Ngà dùng tay kéo lại thì bị Váy quay
người lại dùng con dao tự chế dài 30cm mà đối tượng tên Hải (chưa rõ nhân thân,
lai lịch) đã đưa cho Váy trước đó, chém 01 nhát trúng vào tay phải của Ngà rồi
tiếp tục đuổi theo đánh Nhân. Trong lúc Váy, Long và Thông đuổi theo Nhân thì
Ngà bị một đối tượng (chưa rõ nhân thân) ném một cục đá trúng vào vùng cổ trái
làm Ngà bất tỉnh. Hậu quả gây thương tích cho anh Phạm Văn Ngà với tỷ lệ
thương tật 30%. Tại phiên tòa, HĐXX cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ
TNHS đối với bị cáo Sú Say Váy như: phạm tội do hành vi trái pháp luật của
người bị hại gây ra, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội chưa đủ 18
tuổi. Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, tại
Bản án số 248/2017/HS-ST ngày 19/9/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [11],
HĐXX đã tuyên bố bị cáo Sú Say Váy phạm tội “Cố ý gây thương tích” được
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999; xử phạt bị cáo Sú Say
Váy với mức án 10 tháng tù. Theo hồ sơ vụ án và kết luận của HĐXX như trên
41
thì việc định tội danh và áp dụng khung hình phạt cơ bản đối với bị cáo Sú Say
Váy là đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng tiến hành
định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện theo cấu thành tội phạm tăng nặng, trong đó có 31 bị cáo
bị định tội danh theo khoản 2 và 01 bị cáo bị định tội danh theo khoản 3 Điều
134 BLHS năm 2015 (và Điều luật tương ứng trong BLHS năm 1999). Vụ án sau
đây là một thí dụ. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày
05/11/2018, anh Huỳnh Tấn Đô - chủ nhà nghỉ Mai Linh, khu phố 6, phường
Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa – đã yêu cầu Từ Hữu Hương cùng một số người
khác dừng đánh bạc tại nhà nghỉ và báo Công an phường Tam Hiệp đến xử lý.
Từ Hữu Hương liền bỏ chạy ra ngoài thì bị anh Đô giữ lại nên bị cáo đã dùng dao
bằng kim loại (loại dao gấp trong đồ bấm móng tay) dài khoảng 05 cm, rộng
1,5cm đâm trúng gò má trái và vai trái của anh Đô gây thương tích với tỷ lệ 17%.
HĐXX đã nhận định: hành vi của bị cáo Từ Hữu Hương là nguy hiểm cho
xã hội, trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật công nhận
và bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương; khi thực
hiện hành vi phạm tội, bị cáo 17 tuổi; chưa có tiền án, tiền sự. Đồng thời, HĐXX
xem xét giảm nhẹ một phần TNHS cho bị cáo do có các tình tiết giảm nhẹ như:
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và
người bị hại đã có đơn bãi nại, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có
cha là ông Từ Xuân An tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng
Huy chương kháng chiến hạng nhất. Do đó, tại Bản án số 131/2019/HS-ST ngày
21/3/2019 của TAND thành phố Biên Hòa [12], HĐXX đã tuyên bị cáo Từ Hữu
Hương phạm tội “cố ý gây thương tích” và áp dụng điểm a khoản 1 và điểm đ
khoản 2 Điều 134, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Từ Hữu Hương 01 năm 03
tháng tù, thời hại tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
42
Từ nội dung vụ án trên cho thấy, HĐXX đã xem xét các yếu tố CTTP của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (như khách thể bị xâm
hại, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi phạm tội gây ra, lỗi của bị cáo, nhân thân người phạm tội, độ
tuổi chịu TNHS, …) và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS để định
tội danh đối với bị cáo Từ Hữu Hương. Như vậy, việc định tội danh này là đúng
pháp luật hình sự.
Bên cạnh việc định tội danh đúng, thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện của
TAND thành phố Biên Hòa cũng cho thấy có trường hợp TAND thành phố Biên
Hòa áp dụng sai pháp luật trong định tội danh dẫn đến hệ quả là bản án bị kháng
nghị. Nội dung vụ án (được thể hiện tại Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2019/HS-
ST ngày 05/4/2019 của TAND thành phố Biên Hòa [13]) như sau:
Nguyễn Phi Hùng và Vũ Thiện Hoàng Long được đối tượng tên Liễu (chưa
rõ nhân thân, lai lịch) thuê đánh bà Phạm Thị Hoan với số tiền 800.000 đồng.
Khoảng 11 giờ ngày 02/4/2018, Long điều khiển xe mô tô chở Hùng cầm theo 01
cây sắt (cây ba khúc) dài khoảng 70cm giấu trong người, đến đầu hẻm thuộc khu
phố 6, phường Tân Phong thì thấy bà Hoan điều khiển xe mô tô chạy vào hẻm.
Long điều khiển xe chở Hùng đuổi theo vượt lên trên chặn đầu xe và ép xe mô tô
của bà Hoan, làm bà Hoan cùng xe ngã xuống đường. Hùng và Long xuống xe
xông đến, Long dùng tay đánh 02 cái trúng vào người bà Hoan; còn Hùng rút cây
sắt (cây ba khúc) đánh 03 cái trúng vào vùng đầu, cẳng tay và bàn tay trái của bà
Hoan gây thương tích cho bà Hoan với tỷ lệ 03% (theo Giấy chứng nhận thương
tích số 0215/2018/CN ngày 03/5/2018 của Bệnh viện 7B thuộc Cục Hậu cần –
Quân khu 7 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số
0360/GĐPY/2018 ngày 15/5/2018 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh
Đồng Nai).
43
Tại phiên tòa, HĐXX nhận định: hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến
sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương;
hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố CTTP cố ý gây thương tích đúng như cáo
trạng của VKSND thành phố Biên Hòa; đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Hùng
là người được đối tượng Liễu thuê, sau đó rủ rê Long cùng đi đánh bà Hoan, tuy
nhiên bị cáo Hùng có các tình tiết giảm nhẹ TNHS (thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải; người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội nhưng gây thiệt
hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) và có nơi
cư trú rõ ràng nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội; bà Hoan đã rút yêu
cầu khởi tố hình sự đối với bị cáo Long trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, đồng
thời VKSND thành phố Biên Hòa đã rút quyết định truy tố đối với bị cáo Long;
đối với đối tượng Liễu chưa rõ lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành
phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau. Theo đó, HĐXX tuyên bố:
đình chỉ xét xử đối với bị cáo Long bị VKSND thành phố Biên Hòa truy tố về tội
“cố ý gây thương tích” theo điểm a, h khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội “cố ý
gây thương tích”; bị hại đã rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Long thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức; đồng
thời, tuyên bố bị cáo Hùng phạm tội “cố ý gây thương tích”.
Không đồng ý với bản án nêu trên, Viện trưởng VKSND thành phố Biên
Hòa đã có Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm thay đổi hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo
Hùng thành hình phạt tù giam, và Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-
VKSBH ngày 24/4/2019 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ phần nội dung
tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội CYGTT của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, người được Tòa án tuyên không có tội nhưng có
căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội, bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng
44
trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm
sửa bản án theo quy định tại Điều 357 BLTTHS; do đó phải hủy toàn bộ bản án
để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.
Từ vụ án nêu trên cho thấy nhận định của HĐXX phúc thẩm là đúng pháp
luật, bởi vì:
+ Theo khoản 2 Điều 155 và khoản 2 Điều 299 BLTTHS năm 2015 quy
định về việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và đình chỉ giải quyết vụ án hình
sự, không có quy định về việc rút yêu cầu khởi tố và đình chỉ đối với bị can, bị
cáo. Nhận định này của cấp phúc thẩm cũng phù hợp với hướng dẫn tại Công văn
số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao, mục 27 của Công văn
số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 và Công văn số 2109/VKSTC-V14 ngày
21/5/2019 của VKSND tối cao; do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử
đối với bị cáo Long là không có căn cứ.
+ BLTTHS không quy định trường hợp đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu
cầu khởi tố vụ án thì Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Bị cáo Long đến tuổi
chịu TNHS, vụ án còn thời hiệu truy cứu TNHS, có sự việc phạm tội xảy ra và
bản án sơ thẩm cũng đã xác định hành vi của các bị cáo đã CTTP “cố ý gây
thương tích”; do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long
không phạm tội là không có căn cứ.
+ Vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, bà Hoan có mặt tại
phiên tòa; tuy nhiên, HĐXX sơ thẩm không điều khiển để người bị hại trình bày
lời buộc tội tại phiên tòa là vi phạm tố tụng, theo quy định tại khoản 3 Điều 62 và
khoản 4 Điều 320 BLTTHS.
45
2.2.2. Thực trạng quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện
tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt
Trong hoạt động xét xử, sau khi định tội danh chính xác, Tòa án tiến hành
lựa chọn hình phạt, mức hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Việc lựa
chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội của bị cáo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ hoặc quan điểm của
những người tham gia tố tụng hay nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS không chỉ thể hiện được sự răn đe, giáo dục người phạm tội mà còn thể
hiện được sự nhân đạo của Nhà nước ta. Từ năm 2015-2019, việc QĐHP của
TAND thành phố Biên Hòa đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thể hiện thông qua bảng
thống kê sau đây:
Bảng 2.3: Kết quả QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Các hình phạt được áp dụng
Năm
Tổng số bị cáo
Cảnh cáo
Phạt tiền
Ghi chú
Phạt tù đến 3 năm
Cải tạo không giam giữ
Phạt tù trên 3 năm đến 7 năm
Phạt tù trên 7 năm đến 15 năm
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
11 10 30 20 9 80
4 7 25 19 8 63
0 2 5 1 0 8
0 1 0 0 0 1
0 0 2 0 1 3
0 0 0 0 0 0 0%
0 0 0 0 0 0 0%
Phạt tù trên 15 năm đến dưới 18 năm 0 0 0 0 0 0 0%
Tỷ lệ % 100%
3,75% 78,75% 10% 1,25%
46
(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)
Bảng 2.4: Số liệu các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị và kết quả phúc
thẩm
Kết quả xét xử phúc thẩm
Tổng số vụ án
bị kháng cáo,
Năm
Tăng
Giảm
Y án
kháng nghị
hình phạt
hình phạt
2015 0 0 0 0
2016 3 3 0 0
2017 2 2 0 0
2018 2 1 1 0
2019 2 1 1 0
Tổng 9 7 2 0
(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)
Qua bảng thống kê 2.3 và 2.4 cho thấy trong 05 năm (từ năm 2015-2019),
TAND thành phố Biên Hòa đã QĐHP đối với 75/80 bị cáo là người dưới 18 tuổi
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong đó có
3/80 bị cáo (chiếm tỷ lệ 3,85%) bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ;
63/80 bị cáo (chiếm tỷ lệ 78,75) bị phạt tù từ 03 năm trở xuống; 8/80 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 10,0%) bị phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm; 01 bị cáo (chiếm tỷ lệ
1,25%) bị phạt tù trên 7 năm trở lên đến dưới 15 năm và không có bị cáo nào
được miễn hình phạt. Như vậy, số bị cáo bị áp dụng khoản 1 là nhiều nhất trong
tổng số bị cáo thực hiện tội phạm này. Ngoài ra, trong tổng số 32 vụ án được
TAND thành phố Biên Hòa đưa ra xét xử, có 07 bản án bị kháng cáo (trong đó,
TAND tỉnh Đồng Nai giữ nguyên án sơ thẩm đối với 07 bản án bị kháng cáo); 02
bản án bị kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo so với hình phạt
mà TAND thành phố Biên Hòa đã tuyên tại bản án sơ thẩm và 05 vụ án bị đình
chỉ do TAND thành phố Biên Hòa trả hồ sơ vụ án cho VKSND thành phố Biên
Hòa để điều tra, xác minh lại.
47
2.2.2.2. Thực trạng quyết định hình phạt theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm
2015 và khoản tương ứng của BLHS năm 1999
Theo bảng thống kê 2.2 nêu trên thể hiện, từ năm 2015-2019 có 25 vụ án
với 48 bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác bị TAND thành phố Biên Hòa QĐHP theo khoản 1
Điều 134 BLHS năm 2015 và khoản tương ứng của BLHS năm 1999. Khi áp
dụng khung hình phạt này, Tòa án phải căn cứ vào các quy định ở cả phần chung
và phần quy định về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
tại Điều 104 BLHS năm 1999, còn người phạm tội bị Tòa án áp dụng khung hình
phạt này nếu tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS. Vụ án đã bị
xét xử với bản án số 52/2016/HS-ST ngày 28/6/2016 của TAND thành phố Biên
Hòa [14] sau đây là một thí dụ. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 14 giờ ngày
07/4/2016, Nguyễn Anh Tuấn điều khiển xe mô tô đi tìm Trần Tuấn Anh để đòi
lại số tiền 03 triệu đồng mà Nguyễn Anh Tuấn đã cho Trần Tuấn Anh vay từ năm
2014. Trên đường đi, Nguyễn Anh Tuấn phát hiện thấy Trần Tuấn Anh đi bộ
ngược chiều với mình, liền quay đầu xe mô tô lại và dừng xe, rút con dao bấm
dài khoảng 25cm mang theo từ trước và mở lưỡi dao ra, cầm trong tay để sau
lưng, tiến về phía Trần Tuấn Anh để đòi nợ. Hai bên lời qua, tiếng lại, Nguyễn
Anh Tuấn lao đến đâm 01 nhát dao vào phía nách phải của Trần Tuấn Anh rồi
điều khiển xe của mình bỏ đi. Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số
554/2016/GĐPY ngày 19/5/2016 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế Đồng Nai
kết luận mức độ tổn hại sức khỏe của Trần Tuấn Anh với tỷ lệ 02%. Quá trình
xét xử, TAND thành phố Biên Hòa đã xét nhân thân, tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS, thấy rằng: bị cáo Nguyễn Anh Tuấn là người có nhân thân xấu, từng có
tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra thấy rằng hành vi của bị cáo là nguy hiểm
48
cho xã hội, giữa bị cáo và người bị hại Trần Tuấn Anh có mâu thuẫn do người bị
hại không chịu trả nợ, nhưng do bản chất coi thường tính mạng, sức khỏe của
người khác, bị cáo đã dùng dao gây thương tích cho người bị hại. Tại cơ quan
điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; một phần do người bị hại
cũng có lỗi, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm
p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Về tình tiết tăng nặng đã áp dụng là tình tiết
định khung. Vì vậy, HĐXX đã áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 104; điểm p
khoản 1 Điều 46 của BLHS năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Tuấn mức án
là 08 tháng tù giam.
Từ vụ án trên cho thấy, HĐXX đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình
tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS và các điều kiện khác theo đúng quy định
pháp luật để quyết định hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.
2.2.2.3. Thực trạng quyết định hình phạt theo các khoản tăng nặng (cấu
thành tội phạm tăng nặng: khoản 2, khoản 3, khoản 4) và quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm
QĐHP theo các khoản tăng nặng (theo các CTTP tăng nặng) là QĐHP trong
trường hợp tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã xảy ra
có tình tiết định khung tăng nặng ghi nhận tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của
Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy thuộc vào từng
trường hợp (CTTP tăng nặng) cụ thể mà Tòa án quyết định hình phạt đối với
người phạm tội. Vụ án đã bị xét xử có bản án số 206/2017/HS-ST ngày
29/5/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [15] là một minh chứng. Nội dung vụ
án như sau: Sau khi nghe Trương Tuấn Kiệt kể về việc Kiệt có mâu thuẫn với em
Nguyễn Duy Lâm, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 09/8/2016, Trương Tuấn Vũ rủ
Trần Quang Anh Khải, Trần Quốc Bảo, Nguyễn Tấn Phong, Bè (không rõ lai
lịch), cu Lì (không rõ lai lịch) và Nguyễn Hà Xuân Phú (sinh ngày 18/01/2002)
đi tìm em Lâm để đánh trả thù. Trước khi đi, Vũ mang theo 01 chiếc kéo mũi
49
nhọn dài khoảng 20cm, Khải mang theo 01 con dao dài khoảng 18cm và cả nhóm
điều khiển 03 xe mô tô (không rõ biển số) đi đến đoạn đường hẻm thuộc khu phố
4, phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa thì thấy Lâm đang đứng chơi cùng một
số người bạn. Phong giữ xe để Vũ, Khải, Bảo, Phú, Bè và cu Lì xông vào dùng
tay đánh em Lâm. Lâm bỏ chạy. Vũ và Khải rượt đuổi theo Lâm. Vũ dùng kéo
đâm nhiều nhát trúng vào khuỷu tay trái, vùng lưng, vai phải và vai trái của em
Lâm, còn Khải dùng dao đâm một nhát trúng vào vùng bụng trái của em Lâm gây
thương tích. Sau đó, Vũ, Khải, Bảo, Phong, Phú, Bè và cu Lì bỏ đi. Em Lâm
được những người xung quanh đưa đi cấp cứu với tỷ lệ thương tật là 23% (theo
Giấy chứng nhận thương tích số 158 ngày 30/8/2016 của Bệnh viện đa khoa
Thống Nhất và bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0819/GĐPY
ngày 22/9/2016 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế Đồng Nai).
Tại phiên tòa, HĐXX đã nhận định: khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị
cáo đều chưa đủ 18 tuổi; đây là vụ án đồng phạm giản đơn, vai trò của các bị cáo
trong vụ án thể hiện như sau:
Bị cáo Vũ: có vai trò là người rủ rê; bị cáo có các tình tiết tăng nặng (như:
phạm tội với người dưới 16 tuổi, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội) và có các
tình tiết giảm nhẹ (như: đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo).
Bị cáo Khải: là người thực hiện hành vi tích cực, đã dùng dao đâm vào bụng
người bị hại. Bị cáo có các tình tiết tăng nặng (như: phạm tội với người dưới 16
tuổi; bị cáo còn đang bị xử lý khác) và có các tình tiết giảm nhẹ (đó là: đã tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo,
đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo).
Bị cáo Bảo: là người tích cực thực hiện hành vi phạm tội; đã phạm tội với
người dưới 16 tuổi; nhưng đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
50
phục hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Phong: là người giúp sức, trông xe cho các bị cáo Vũ, Khải, Bảo
thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có tình tiết tăng năng là phạm tội với người
dưới 16 tuổi; có các tình tiết giảm nhẹ (như: đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại
có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo). Trong vụ án này, bị cáo Phong là
người có vai trò không đáng kể nên mức án của bị cáo sẽ thấp hơn các bị cáo
khác trong cùng vụ án và không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.
Đối với Bè và cu Lì, do không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều
tra Công an thành phố Biên Hòa tách các đối tượng này ra khỏi vụ án để xác
minh làm rõ là phù hợp.
Đối với Nguyễn Hà Xuân Phú, sinh ngày 08/01/2002, khi thực hiện hành vi
phạm tội, Phú chưa đủ tuổi chịu TNHS nên cơ quan công an thành phố Biên Hòa
đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.
Từ nhận định trên, tại Bản án số 206/2017/HS-ST ngày 29/5/2017, HĐXX
của TAND thành phố Biên Hòa đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cố ý gây
thương tích” và áp dụng khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 để QĐHP đối với
các bị cáo, cụ thể là: xử phạt bị cáo Trương Tuấn Vũ 02 năm 02 tháng tù; bị cáo
Trần Quang Anh Khải 02 năm tù; bị cáo Trần Quốc Bảo 14 tháng tù; bị cáo
Nguyễn Tấn Phong 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Qua vụ án trên cho thấy, khi QĐHP, HĐXX đã xét đến tính chất của đồng
phạm, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng đồng phạm,
nhân thân, tuổi chịu TNHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị
cáo cũng như các điều kiện khác một cách đầy đủ, khách quan và đúng quy định
pháp luật. Do đó, mức hình phạt mà HĐXX đã tuyên đối với các bị cáo là hoàn
toàn phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo
với vai trò là người đồng phạm.
51
Cũng như định tội danh, QĐHP của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện vẫn còn những vi phạm, sai lầm mà nguyên nhân chính là
do TAND thành phố Biên Hòa không xem xét kỹ lưỡng, đúng quy định pháp
luật, không đánh giá đúng vai trò, hành vi, tính chất, mức độ của hành vi phạm
tội của từng bị cáo trong trường hợp là đồng phạm. Điển hình là vụ án đã bị xét
xử với bản án hình sự sơ thẩm số 153/2019/HS-ST ngày 05/4/2019 của TAND
thành phố Biên Hòa [13] đã được học viên trình bày ở tiểu mục định tội danh.
Vấn đề là ở chỗ, HĐXX sơ thẩm đã đình chỉ xét xử đối với bị cáo Long, tuyên bố
Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội “cố ý gây thương tích” do người bị hại
(bà Phạm Thị Hoan) đã rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Long; đồng thời, tuyên
bố bị cáo Hùng phạm tội “cố ý gây thương tích” và xử phạt bị cáo Hùng 02 năm
cải tạo không giam giữ.
Không đồng ý với bản án nêu trên, Viện trưởng VKSND thành phố Biên
Hòa đã có Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm thay đổi hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo
Hùng thành hình phạt tù giam, và Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-
VKSBH ngày 24/4/2019 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ phần nội dung
tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội CYGTT của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, HĐXX phúc thẩm nhận định: việc Tòa án cấp sơ thẩm đình
chỉ xét xử đối với bị cáo Long và tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm
tội “cố ý gây thương tích” là không có căn cứ; cấp sơ thẩm cần phải xác định lại
bị hại có rút yêu cầu khởi tố vụ án hay không; trường hợp phải xét xử, vụ án có
đồng phạm nên cần phải đánh giá vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt
cho phù hợp; hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp
đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính băng nhóm tội
phạm, sẵn sàng cùng nhau gây thương tích cho người khác khi được thuê, rất
xem thường pháp luật, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương và gây hoang
52
mang trong quần chúng nhân dân; do đó, cấp sơ thẩm phải có quyết định về hình
phạt thật nghiêm, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Vì vậy, HĐXX phúc thẩm đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với
kháng nghị tại Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 và
Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-VKSBH ngày 24/4/2019 của Viện
trưởng VKSND thành phố Biên Hòa; hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số
153/2019/HS-ST ngày 05/4/2019 của TAND thành phố Biên Hòa; chuyển toàn
bộ hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Biên Hòa để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục
chung.
53
Kết luận Chương 2
Định tội danh và QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hai hoạt động của Tòa án trong quá
trình áp dụng pháp luật hình sự để xử lý tội phạm và người phạm tội.
Từ thực tiễn định tội danh và QĐHP về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019, các cơ quan THTT đã vận dụng đúng
các lý luận về định tội danh vào thực tiễn để từ đó QĐHP chính xác, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy vẫn còn một số vướng mắc trong thực
tiễn nhưng cơ bản việc xét xử đối với tội phạm này cũng không quá phức tạp, khả
năng dẫn đến vi phạm, sai lầm là không cao. Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật
hình sự trong quá trình định tội danh và QĐHP của các cơ quan THTT, trong đó
có TAND thành phố Biên Hòa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm này nói riêng trên địa bàn
thành phố.
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong chương 3 của Luận
văn, tác giả sẽ nêu ra những yêu cầu và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội danh này.
54
Chương 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc thì “Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho
phép và tự do cơ bản của con người” [5, tr.37].
Ở Việt Nam, từ khi thành lập cho đến nay, Nhà nước ta luôn coi trọng các
quyền con người, coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật của
nhà nước [20, tr.51]. Bằng quy định trong Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến ở nước ta, nguyên tắc tôn trọng các quyền con người được
khẳng định trong đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi
nhận và đảm bảo thực hiện tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đồng
thời đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó
có pháp luật hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản
của công dân. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) ngoài việc đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công
dân, xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền công dân thì
cũng cần được nghiên cứu, sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để
người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng
55
quyền con người, quyền công dân vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn
diện; người dân chưa thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống vì trong xã
hội vẫn còn xảy ra những vụ CYGTT rất nghiêm trọng, liều lĩnh hay những vụ
giết người dã man, cướp của tàn bạo đã gây chấn động dư luận và gây tâm lý
hoang mang, lo sợ trong nhân dân; người dân chưa thực sự yên tâm phát huy tính
sáng tạo trong lao động, sản xuất hay tích cực, chủ động tham gia các phong trào
đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ở địa phương phát động. Ngoài ra, hiện nay, việc xóa án tích đối
với người bị kết án rất phức tạp, thủ tục rườm rà nên chưa tạo điều kiện thuận lợi
cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS cần phải tiếp tục được hoàn thiện
để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ môi trường sống an
lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ
của công dân; động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân an tâm lao động,
sản xuất, sáng tạo khoa học và tích cực hưởng ứng, tham gia đấu tranh phòng,
chống tội phạm nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và phát triển nền kinh tế của đất nước.
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp
Thực tiễn cho thấy hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói
riêng là công cụ sắc bén để bảo vệ Đảng, Nhà nước và các quyền, lợi ích hợp
pháp của tập thể, cá nhân; đồng thời được xem là nội dung quan trọng trong
chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện
thông qua việc Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết liên quan đến cải cách tư
pháp, như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
56
Trên cơ sở các Nghị quyết này, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung
nhiều văn bản pháp luật liên quan đến tố tụng như Hiến pháp năm 2013; Luật tổ
chức VKSND năm 2014; Luật tổ chức TAND năm 2014; Luật tổ chức cơ quan
điều tra năm 2015; BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); BLTTHS năm
2015 và các đạo luật tư pháp khác..., trong đó xác định rõ và đầy đủ hơn chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư
pháp. Trong các văn bản pháp luật này, có thể nói rằng BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) đã phần nào thể chế hóa những quan điểm và chủ trương của
Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, đó là:
"Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ
áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung
hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình
sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm
đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế” [2].
3.1.3. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội phạm
Hiện nay, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội và những thành tựu về
khoa học, kỹ thuật thì tình hình tội phạm, tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực
hiện nói riêng cũng diễn ra hết sức phức tạp, có nơi trong tình trạng báo động.
Có thể thấy rằng tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng đã xâm hại tới tính
mạng, sức khỏe, là thứ quý giá nhất của con người. Hành vi này đã xâm phạm tới
một trong những quyền cơ bản của công dân, đó là quyền được sống và quyền
57
được đảm bảo về sức khỏe. Loại tội phạm này tuy không có những thủ đoạn tinh
vi như các loại tội phạm khác nhưng lại ẩn chứa hiểm họa sâu sắc, ngày càng
manh động và ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, yêu cầu phòng
ngừa tình hình tội phạm, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng được coi là
biện pháp hiệu quả nhất trong công cuộc duy trì trật tự, an ninh xã hội, không chỉ
là trách nhiệm riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội;
đồng thời Nhà nước phải có những chính sách, pháp luật đúng đắn nhằm ngăn
chặn, giảm thiểu mức độ, hậu quả mà tội phạm gây ra đối với xã hội, ngăn chặn
không để cho bất kỳ cá nhân nào phạm tội và phải chịu TNHS. Áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác sẽ tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người phạm tội, tạo điều kiện tốt cho
họ tự tích cực cải tạo, giáo dục trở thành người lương thiện, không phạm tội mới,
đồng thời tác động tốt đến ý thức pháp luật của mọi người trong xã hội, qua đó
thực hiện phòng ngừa chung. Rõ ràng, áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
phạm nói chung và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng góp phần to lớn vào phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta hiện nay.
3.1.4. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài và có
nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ
giữa con người với con người. Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải có
mối liên kết chặt chẽ với nhau. Ở phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát triển
thì phải liên kết với các quốc gia khác. Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển
của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng và hình thành thị trường
khu vực cũng như quốc tế [16].
Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường
58
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta, Việt Nam đã có những
phát triển nhanh chóng vượt bậc về tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của
công nghệ thông tin, bọn tội phạm đã triệt để lợi dụng những yếu tố này để hoạt
động với nhiều thủ đoạn, hành vi khác nhau (như tổ chức cá độ, cho vay tiền, thế
chấp tài sản,…trên mạng) dẫn đến tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến ngày
càng phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng như tội phạm về
môi trường, buôn bán người qua biên giới, buôn bán ma túy xuyên quốc gia, rửa
tiền, sử dụng công nghệ cao,…
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, tình trạng tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện ngày càng nhiều cả về số lượng và mức độ phạm tội, trong đó
có tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mà một
trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm đó là do sự phát triển của công
nghệ thông tin, công nghệ điện tử, giải trí với các sản phẩm mang xu hướng bạo
lực đã tác động tiêu cực đến suy nghĩ và hành động của người dưới 18 tuổi; từ
đó, họ sẵn sàng sử dụng bạo lực hoặc hung khí để giải quyết mâu thuẫn với nhau.
Thủ đoạn phạm tội của nhóm đối tượng này tuy không tinh vi như các loại tội
phạm nêu trên và cũng không chỉ là sự bộc phát tức thời mà ngày càng manh
động, thậm chí thông qua các trang mạng xã hội, nhóm đối tượng này đã hình
thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao gây ra những hậu quả
nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm xôn xao dư luận xã
hội. Vì vậy, để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bên cạnh việc
tham gia các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm, ký các hiệp định với
các nước trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống tội phạm,… thì việc xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và áp dụng đúng pháp luật hình sự
trên cơ sở nội luật hóa hơn nữa các điều ước quốc tế và học tập kinh nghiệm lập
pháp hình sự nước ngoài về xử lý hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo
vệ tốt hơn các quan hệ xã hội khỏi sự xâm phạm của tội phạm nói chung và tội
59
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, duy trì và củng cố tốt trật tự xã hội, đem
lại sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào nền tư pháp hình sự nước ta.
Rõ ràng áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các loại tội phạm nói chung và
tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới
18 tuổi thực hiện nói riêng là một trong những yêu cầu cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình
sự
* Đối với pháp luật hình sự
- Về tuổi chịu TNHS, tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,
141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [3, tr.15].
Như vậy, theo quy định tại Điều luật này thì tuổi chịu TNHS là từ đủ 14
tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại 28 điều luật, trong đó
có Điều 134 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Thực tiễn hiện
nay, có một số vụ án rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng về tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 14 tuổi gây ra
nhưng không thể xử lý bằng hình sự được. Hay cũng có một số vụ án do người
dưới 18 tuổi phạm tội nhưng không thể đưa ra xét xử được vì các đối tượng này
mới chỉ ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16 tuổi nhưng chỉ phạm các tội ít nghiêm trọng
60
hoặc nghiêm trọng, thì cho dù họ có phạm tội cũng chỉ xử lý hành chính, chứ
không thể xử lý bằng hình sự.
Mặt khác, việc quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu
TNHS trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Điều 134 của BLHS này là không phù hợp với thực tế tình hình tội
phạm. Việc quy định như vậy, sẽ tạo ra kẽ hở cho các đối tượng phạm tội sử
dụng người dưới 18 tuổi vào việc thực hiện tội phạm .
Chính những bất cập này đã là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dưới
18 tuổi phạm tội nhiều nhưng số lượng được đưa ra xét xử lại rất ít và đó cũng
chính là nguyên nhân chưa nâng cao được hiệu quả phòng ngừa người dưới 18
tuổi phạm tội thông qua công tác xét xử của Tòa án.
- Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng là những bất cập hiện nay làm hạn chế hiệu
quả phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua công tác xét xử các vụ án
hình sự của Tòa án, đó chính là những quy định tại các Điều 101 và 103 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt tù đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể là:
+ Tại Điều 101 quy định về “Tù có thời hạn” như sau: “1) Đối với người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định
hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. 2) Đối với người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định
hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định” [3, tr.87].
+ Tại Điều 103 quy định về “Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội, trong đó thể hiện nội dung: “Nếu hình phạt chung là cải tạo không
giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình
61
phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không
được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội
và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội” [3, tr.88].
Như vậy, quy định về việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo Điều 101 và tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
theo Điều 103 như BLHS hiện hành là không phù hợp. Mặc dù, mục đích của
hình phạt nói chung không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội
trở thành người có ích cho xã hội, còn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì
mục đích của Nhà nước là chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm
chứ không phải là mang tính trừng trị, song hiện nay rõ ràng việc người dưới 18
tuổi phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nên những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng không còn là cá biệt mà đang có chiều hướng gia tăng thì mức hình
phạt như quy định hiện nay là không phù hợp.
Từ những bất cập nêu trên, quan điểm của tác giả về vấn đề áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Về độ tuổi chịu TNHS thì theo Công ước quốc tế cũng không bắt buộc mà
việc quy định về độ tuổi chịu TNHS hay độ tuổi dưới 18 là tùy theo quy định của
mỗi quốc gia thành viên. Do đó, thiết nghĩ không cần phải hạ độ tuổi chịu TNHS
hay hạ độ tuổi người dưới 18 tuổi, mà nên sửa đổi BLHS theo hướng tăng mức
hình phạt khi xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, mặc dù hiện cũng có
nhiều quan điểm không đồng ý, song với thực trạng người dưới 18 tuổi phạm tội
hiện nay, Nhà nước ta cũng cần có sự thay đổi về chính sách hình sự theo hướng
nghiêm khắc hơn cho phù hợp với tình trạng gia tăng người dưới 18 tuổi phạm
tội hiện nay. Điều đó cũng không trái với nội dung của các Công ước quốc tế. Để
khắc phục tình trạng trên, cần nâng mức hình phạt nếu tới tử hình thì độ tuổi từ
đủ 16 đến dưới 18 phải là 20 năm và độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 phải là 18 năm
và khi tổng hợp hình phạt cũng nên tổng hợp theo trường hợp bình thường là đến
30 năm. Đồng thời, theo pháp luật của Việt Nam, trong quá trình cải tạo thì người
62
bị kết án vẫn có cơ hội được giảm án và phóng thích trước thời hạn; vì thế, việc
tăng mức hình phạt là cần thiết và phù hợp với tình hình gia tăng tình trạng người
dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay và mới đủ sức để răn đe cũng như nâng cao được
hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người người dưới 18 tuổi gây ra thông qua
công tác xét xử của Tòa án và không trái với các Công ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia.
* Đối với pháp luật tố tụng hình sự
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về tinh thần và thể chất.
Đồng thời trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế và rất dễ bị
kích động, rủ rê, lôi kéo vào những hoạt động của người lớn. Trên thực tế, có
những đối tượng sau khi phạm tội thì tỏ vẻ lo sợ, hối hận về hành vi vi phạm
pháp luật của mình, nhưng cũng có đối tượng sau khi phạm tội thì cố tạo ra vẻ
bất cần, không sợ hãi,…Tuy nhiên, những biểu hiện này cũng chỉ là những phản
ứng rất bình thường của lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân cách; bởi
vậy, đòi hỏi các quy định của pháp luật phải làm sao vừa mang tính răn đe, vừa
mang tính giáo dục hiệu quả nhất và một trong những biện pháp quan trọng nhất
đó là việc thay đổi từ các quy định của BLTTHS. Trong BLTTHS hiện hành,
mặc dù đã có một chương riêng quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội (Chương XXVIII), thế nhưng đó cũng chỉ là những quy định
mang tính chung nhất, chưa cụ thể và phù hợp với hoạt động tố tụng của các cơ
quan và người THTT đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như đã phân tích về
đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên ở trên, thì các quy định của
BLTTHS cần quy định cụ thể và riêng biệt hơn nữa đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Mặc dù hiện nay, hệ thống Tòa án đã thành lập các Tòa gia đình và người
dưới 18 tuổi để xét xử với các phòng xét xử thân thiện nhưng các cơ quan THTT
cũng chưa có đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán riêng biệt được
trang bị những kiến thức cần thiết về tâm lý học cũng như về khoa học giáo dục
63
khi xét xử đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi. Mặt khác, các Thẩm phán khi
xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng chính là Thẩm phán xét xử đối
với người thành niên, thậm chí trong cùng một phiên tòa có khi vừa xử vụ án đặc
biệt nghiêm trọng đối với người thành niên nhưng lại tiếp tục xét xử đối với
người dưới 18 tuổi dẫn đến tình trạng Thẩm phán đó vẫn giữ nguyên thái độ như
khi xét xử với người thành niên, có trường hợp còn lớn tiếng hoặc có những lời lẽ
không phù hợp với tâm lý của bị cáo là người dưới 18 tuổi, câu hỏi đôi khi không
mang tính giáo dục mà còn mang tính quy chụp, buộc tội, không có tính thân
thiện, hòa nhã nên đã khiến cho bị cáo là người dưới 18 tuổi sợ hãi, căng thẳng
và có cảm giác bị kỳ thị, từ đó có thể dẫn đến tình trạng tiêu cực từ phía bị cáo là
người dưới 18 tuổi sau phiên tòa hoặc sau khi được về với gia đình thì họ liều
lĩnh và nguy hiểm hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho hiệu quả phòng
ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội, thông qua công tác xét xử của Tòa án không
cao.
Để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS về mô hình của Tòa án
và đội ngũ xét xử các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay, theo tác
giả, cùng với việc thành lập Tòa án gia đình và người dưới 18 tuổi, thì các cơ
quan THTT cũng cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ những người THTT, kể cả
Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán riêng biệt sao cho họ được trang bị
những kiến thức cần thiết về tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi, đồng thời nên có
những phòng điều tra thân thiện đối với người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm quyền
của trẻ em. Bên cạnh đó, các cơ quan và người THTT cần phải chấp hành nghiêm
các quy định trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội ở các giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử tại Chương XXVIII và Điều 76 BLTTHS năm 2015, Nghị
quyết số 03/2004/NQHĐTP ngày 02/10/2004 của TAND tối cao và một số văn
bản khác liên quan đến việc bảo đảm quyền cũng như đường lối xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
64
3.2.2. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật; hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện
3.2.2.1. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật
Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện là hoạt động
của các cơ quan pháp luật (trong đó có cơ quan THTT) tổng kết những kết quả
đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội này, như: nêu lên các vụ án tiêu biểu; đường lối xử lý vụ án đúng đắn
và nhanh chóng; các văn bản thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước (bản án,
quyết định,...) có tính chuẩn mực và chính xác cao nhằm làm tiêu chí để các chủ
thể khác học tập. Mặt khác, thông qua tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, các cơ quan pháp luật còn nêu lên những kết quả cụ thể trong công tác phối
hợp liên ngành giữa các cơ quan hoặc giữa các quốc gia trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
do người dưới 18 tuổi thực hiện, hoặc là chỉ ra những sai lầm, vướng mắc trong
việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện.
Từ việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện sẽ giúp
phản ánh được những vấn đề chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật hình sự
khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết vụ án; trên cơ sở đó, các nhà làm luật sẽ
phân tích, đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp này và đề xuất các
kiến nghị, giải pháp sửa đổi các quy phạm pháp luật hình sự sao cho phù hợp với
tình hình thực tế, đồng thời đảm bảo tính khả thi cao của các quy phạm pháp luật
hình sự khi được áp dụng để giải quyết vụ án hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.
65
3.2.2.2. Về hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
Để việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đạt hiệu quả cao
thì cần phải có các hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này. Hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật
hình sự đó có thể là hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp
luật hình sự của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay là những hoạt động
khác nhằm đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào thực tiễn, như: tổ chức các
lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho những người THTT; chỉ dẫn và
thực hiện các đường lối giải quyết kiểu mẫu trong một số vụ án hình sự cụ thể,...
nhằm nâng cao nghiệp vụ và khả năng áp dụng pháp luật của những người thực
hiện pháp luật trong ngành, hoặc là các hoạt động trao đổi thông tin hay kinh
nghiệm giữa các ngành hoặc các cơ quan THTT với nhau nhằm tìm ra đường lối
chung nhất để giải quyết những vụ án hình sự phức tạp về tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện mà trong
thực tiễn vẫn còn nhiều quy phạm pháp luật hình sự hướng dẫn chưa rõ ràng hoặc
chưa có hướng dẫn cụ thể.
3.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp của người áp dụng và người tham gia áp dụng pháp luật hình sự về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện
Có thể thấy rằng chất lượng xử lý tội phạm hình sự nói chung và tội phạm
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện nói riêng của các cơ quan pháp luật phụ thuộc rất lớn vào năng lực,
trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ pháp luật, mà ở đây
chủ yếu là những người THTT và những người tham gia áp dụng pháp luật. Nếu
các chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là những người thiếu năng lực, chuyên
môn hoặc yếu kém trong việc vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào giải
66
quyết vụ án hình sự trong thực tiễn thì dễ dẫn đến việc các vụ án hình sự được
giải quyết chậm trễ, không chính xác hoặc thậm chí có oan sai. Không những thế,
đối với những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề
nghiệp cũng sẽ là một trong những nguyên nhân làm cho việc giải quyết vụ án
không được công bằng, khách quan. Vì vậy, để giải quyết các vụ án hình sự về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện đạt chất lượng cao, nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
thì những người THTT, kể cả những người tham gia áp dụng pháp luật hình sự
phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chủ động
nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng như phải thường
xuyên trau dồi kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng áp dụng pháp luật, bản lĩnh chính
trị, đạo đức nghề nghiệp của mình; phải tôn trọng, tậm tâm, tận tụy phục vụ nhân
dân, tuyệt đối không được có thái độ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu,
gây phiền hà đối với nhân dân hoặc có các hành vi tham nhũng, đồng thời phải
luôn có tinh thần trách nhiệm, phối hợp tốt với đồng nghiệp trong quá trình tác
nghiệp thực hiện nhiệm vụ.
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho áp dụng pháp
hình sự
Để thực hiện giải pháp này, Nhà nước cần phải quan tâm bố trí trụ sở làm
việc, đầu tư các phương tiện, máy móc, thiết bị hiện đại cho các cơ quan THTT,
người THTT nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ có địa điểm làm việc thoáng
mát, sạch sẽ, có những phương tiện, trang thiết bị tốt nhất phục vụ cho nhiệm vụ
chuyên môn. Có như vậy mới giúp cho việc giải quyết vụ án hình sự về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện đạt được độ chính xác cao, vừa rút ngắn thời gian hoàn thành quá trình
giải quyết ở mỗi giai đoạn tố tụng và vừa rút ngắn tổng thể thời gian giải quyết
vụ án.
67
Kết luận Chương 3
Trong Chương 3 của luận văn, tác giả đã tập trung phân tích về yêu cầu
bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện, như: yêu cầu bảo
vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu cải cách tư pháp; yêu cầu phòng
ngừa tình hình tội phạm, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng; yêu cầu hội
nhập quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm
việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong xử lý người dưới 18
tuổi thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Đây là các yêu cầu và giải pháp cần thiết, thiết nghĩ nếu được áp dụng vào xây
dựng hoàn thiện pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong xử lý hành vi
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới
18 tuổi thực hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
68
KẾT LUẬN
Đấu tranh phòng, chống tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng trên địa
bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan
bảo vệ pháp luật mà còn là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
thành phố Biên Hòa. Cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này sẽ có tác dụng
thuyết phục và tạo niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, vào
sự lãnh đạo của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật của thành phố.
Thành công của cuộc đấu tranh này sẽ góp phần vào việc bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, là điều kiện tốt cho sự phát triển các lĩnh vực của thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Quá trình nghiên cứu thực tiễn các vụ án về tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại TAND thành
phố Biên Hòa, tác giả nhận thấy đa số các vụ án đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai và hầu hết các vụ án đều được nhân dân
đồng tình, ủng hộ. Trong luận văn, tác giả đã bước đầu tiếp cận, khái quát, đưa ra
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động định tội danh và
QĐHP đối với tội này theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Qua thống kê, đánh giá tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn
thành phố Biên Hòa trong thời gian qua cho thấy TAND thành phố Biên Hòa
luôn chú trọng đến hiệu quả của công tác xét xử. Điều này thể hiện đa số vụ án
không có kháng cáo, kháng nghị và có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
Để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”, tác giả đã cố gắng sưu tầm tài liệu,
nghiên cứu, vận dụng lý luận và thực tiễn; đồng thời đưa ra những giải pháp
69
nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện. Tuy nhiên, do
luận văn được thực hiện trong thời gian ngắn và do bước đầu làm quen với việc
nghiên cứu khoa học, đồng thời bản thân còn nhiều hạn chế về trình độ kiến thức,
khả năng diễn đạt cũng như kinh nghiệm thực tiễn,… nên luận văn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy cô, các bạn học viên,… để tác giả hoàn thiện luận văn này./.
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (khóa XI), Báo cáo chính trị
trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Biên Hòa lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 -
2025.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Trần Văn Hà (2018), Chỉ dẫn tra cứu áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
4. Học viện Khoa học Xã hội (2013), “Tìm hiểu pháp luật về tội cố ý gây
thương tích”, Tạp chí Khoa học Xã hội, (số 5), tr.44.
5. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp
luật về quyền con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Khoa Luật Hình sự - Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm (quyển 1), Nxb Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh.
7. Quốc hội, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
8. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ
nhất: Những quy định chung (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội.
9. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ
hai: Các Tội phạm - Chương XIV: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội.
10. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật Hình sự so sánh (sách chuyên khảo), Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
11. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 248/2017/HS-ST ngày
19/9/2017.
71
12. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 131/2019/HS-ST ngày
21/3/2019.
13. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 153/2019/HS-ST ngày
05/4/2019.
14. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 52/2016/HS-ST ngày
28/6/2016.
15. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 206/2017/HS-ST ngày
29/5/2017.
16. Trần Anh Tuấn – Vụ Pháp luật quốc tế, Khái quát chung về hội nhập
quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Trang thông tin điện tử Pháp luật quốc tế,
https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/thuong-mai-tai-chinh.aspx?ItemID=5, ngày
04/10/2018.
17. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh (Giáo trình sau
đại học), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần
chung, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các
tội phạm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Võ Khánh Vinh (2015), Quyền con người (Giáo trình sau Đại học), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.