VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI 

LÊ THỊ THU HẰNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI 

LÊ THỊ THU HẰNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ SỸ SƠN

Tp. Hồ Chí Minh, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của

cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ và

trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Lê Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN

HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ............................................. 7

1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác ......................................................................................... 7

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................... 19

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN

TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.................................. 23

2.1. Quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với người dưới 18

tuổi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác ................................................................................... người dưới 18 tuổi 23

2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18

tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................... 38

Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG

TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 55

DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ................................................ 55

3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực

hiện .................................................................................................................. 55

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18

tuổi thực hiện ................................................................................................... 60

KẾT LUẬN .................................................................................................... 69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

CYGTT

Cố ý gây thương tích

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng Hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

QĐHP

Quyết định hình phạt

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, được pháp luật

quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia thừa nhận, ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ vô

điều kiện; còn quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong các quyền cơ bản của

con người, của công dân. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, nhà làm luật nước ta

cũng quy định rằng mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được

pháp luật bảo hộ về sức khỏe, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay

bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, sức khỏe.

Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực,

tinh thần, trí tuệ và nhân cách; có sự hạn chế về kinh nghiệm sống, kiến thức

pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều kiện sống; thích bắt chước, đua đòi,

muốn chứng tỏ bản thân, dễ nổi nóng, không kiềm chế được hành vi của mình.

Nếu không được sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ từ gia đình, nhà

trường, nhà nước và xã hội dễ dẫn đến việc đối tượng này nhận thức lệch lạc,

trong quá trình giao lưu xã hội sẽ dễ bị các đối tượng xấu lôi kéo, kích động, sa

ngã, tham gia vào các băng nhóm tội phạm và vi phạm pháp luật.

Thành phố Biên Hòa là đô thị loại I thuộc tỉnh Đồng Nai, có tốc độ đô thị

hóa cao, kinh tế phát triển với nhiều khu công nghiệp đã thu hút đông đảo người

lao động đến sinh sống và làm việc. Điều này đã làm cho dân số tại thành phố

Biên Hòa tăng cơ học nhanh [1, tr1]. Trong những năm gần đây, bên cạnh những

chuyển biến tích cực về kinh tế, xã hội thì tình hình tội phạm diễn ra trên địa bàn

thành phố cũng rất phức tạp, trong đó có tội cố ý gây thương tích là tội phạm trực

tiếp xâm hại đến sức khỏe của con người, gây mất an ninh, trật tự xã hội, là loại

tội phạm điển hình và phổ biến. Đặc biệt là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập,

mâu thuẫn, gây thương tích cho nhau hoặc cho người khác đang là vấn đề mà các

cơ quan bảo vệ pháp luật và chính quyền thành phố Biên Hòa lưu ý, quan tâm.

1

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có quy định về “Tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại Điều 134, đồng thời

dành một chương về “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” -

Chương X. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý người

dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này cho thấy vẫn còn những vấn đề nhận thức

khác nhau do có một số quy định còn chưa thống nhất và chưa phù hợp với thực

tiễn. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp

luật hình sự Việt Nam hiện hành về “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác” và “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, thực

tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học cũng như đề xuất các giải pháp hoàn

thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý

nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng mà còn là vấn đề cần thiết. Đây cũng là lý do

luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước hết cần nhấn mạnh rằng, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện được phân biệt với tội CYGTT

do người đã thành niên thực hiện chủ yếu bởi độ tuổi của chủ thể thực hiện tội

phạm. Bởi vậy, có một số điểm khác biệt trong định tội danh (theo CTTP mà ở

đó chủ thể phải chịu TNHS) và trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện là đề tài ít được nghiên cứu. Trong khi đó, tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác (gắn với địa bàn cụ thể), lại được đề cập nghiên cứu

khá nhiều trong các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Trước tiên, đó

là công trình nghiên cứu của GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật Hình sự

Việt Nam (Phần các tội phạm), Ths.Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật Hình sự

năm 2015 (Phần thứ nhất về những quy định chung; Phần thứ hai về các tội

2

phạm Chương XIV: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự

của con người). Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn

thạc sĩ, điển hình như: Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại

sức khỏe của người khác trong Luật Hình sự Việt Nam; Dương Mai Phương

(2017), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Học viện Khoa học xã hội; Bùi

Mạnh Trung (2016), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Học viện Khoa

học xã hội;…

Theo khảo sát của tác giả, các công trình nghiên cứu này đã phân tích những

vấn đề lý luận, thực trạng quy định và thực trạng áp dụng pháp luật về tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các địa bàn khác nhau,

nhưng không phải tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Rõ ràng, tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chưa được đề cập nghiên cứu.

Tuy nhiên, những kiến thức, cách tiếp cận nghiên cứu, những vấn đề được đề cập

nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu nói trên được tác giả tiếp thu để thực

hiện các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn hướng mục đích vào làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đề

xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3

Để thực hiện luận văn, tác giả cần nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau

đây:

- Trình bày và phân tích những vấn đề lý luận về tội danh CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Phân tích quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội danh này; về xử

lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (gồm: khái niệm; các dấu hiệu pháp lý

của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, như: khách thể,

mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan; những điểm giống nhau và khác nhau

giữa tội này với một số tội khác được quy định tại BLHS hiện hành;…) và thực

tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (có so sánh với các quy

định tương ứng của BLHS năm 1999).

4

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện có nhiều nội dung.

Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ vốn bị giới hạn bởi số trang thực

hiện, nên luận văn này chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính của xét xử sơ

thẩm vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới

18 tuổi thực hiện, là định tội danh và QĐHP đối với người chưa thành niên phạm

tội này.

Các số liệu xét xử (về định tội danh và quyết định hình phạt) phục vụ cho

việc nghiên cứu, được thu thập từ thực tiễn xét xử của TAND thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh;

Chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước về tội

phạm, hình phạt, phòng, chống tội phạm, công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, tư pháp, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu khác như: so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp hoặc nghiên cứu án điển

hình…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất

trong giới khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hình sự nói riêng về

những vấn đề lý luận và pháp luật về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội này, từ

5

đó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu

khoa học pháp lý hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các

quy định pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta. Ngoài ra, kết quả nghiên

cứu của luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh

viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, các cơ quan chức năng, cán bộ chuyên

ngành tư pháp hình sự trong quá trình nghiên cứu, đào tạo cũng như trong thực

tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các nội dung như: mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo

thì kết cấu của Luận văn gồm có:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình

sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

1.1. Những lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Để có thể xây dựng khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác, trước hết cần nhận thức thế nào là tội phạm. Tại khoản 1 Điều 8

BLHS năm 2015, nhà làm luật nước ta đã xác định khái niệm “Tội phạm là hành

vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS

hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc

lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính

trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,

quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã

hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [3, tr.13].

Tại khoản 2 của Điều luật trên đây, nhà làm luật quy định: “Những hành vi

tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng

kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [3, tr.13].

Như vậy, BLHS năm 2015 ghi nhận khái niệm tội phạm với các dấu hiệu mang

tính nội dung và các dấu hiệu mang tính hình thức của tội phạm bao gồm tính

nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính

phải chịu hình phạt [10, tr.62], đồng thời từ nội hàm của khái niệm này đã giúp

phân biệt những hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là tội phạm với những

hành vi không phải là tội phạm.

7

Con người với tư cách là một thực thể tự nhiên và với tư cách là một cá

nhân được đặt trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Con người là vốn quý, là

giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. “Con

người với tư cách nói trên có các quyền và tự do nhất định. Các quyền và tự do

đó được Nhà nước bảo hộ và bảo vệ. Trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới

ngày 10/12/1948, tại Điều 3 quy định: “Mọi người đều có quyền sống, được tự

do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta cũng thống nhất

thể hiện việc bảo hộ và bảo vệ này thông qua các quy định tại Chương II về

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; trong đó đặc biệt nhấn

mạnh “mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.

Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Bên cạnh đó, Điều 20 Hiến

pháp năm 2013 cũng quy định rằng: “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về

thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị

tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm

phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”…”[19, tr. 56].

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) đã dành một chương riêng tiếp sau chương các tội xâm phạm an ninh

quốc gia quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự

của con người, trong đó tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác được quy định tại Điều 134, Chương XIV. Mặc dù vậy, BLHS nước ta vẫn

chưa đưa ra khái niệm thế nào là tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Trong khi đó, trong khoa học luật hình sự nước ta có khá nhiều quan

niệm về tội này. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể

của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp luật định” [6, tr.96,97].

Theo một quan điểm khác, thì “Tội CYGTT là hành vi cố ý l à m cho người khác

bị thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi

8

CYGTT bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại BLHS” [4, tr.44]. Cũng

có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại

đến sức khỏe” [9, tr.126].

Từ những điều phân tích trên đây, kết hợp trong một tổng thể các quan niệm

của các nhà khoa học, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về khái niệm tội

phạm nói chung và về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

có thể hiểu “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành

vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người đủ độ tuổi và có

năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật thực hiện một cách cố

ý xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người, công dân, gây ra những

thiệt hại nhất định về sức khỏe cho họ”.

Với tính cách là tội phạm (nói chung), tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác có các dấu hiệu cơ bản của một tội phạm, đó là: tính nguy

hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải

chịu hình phạt. Là một tội phạm cụ thể, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác còn có những dấu hiệu pháp lý riêng của mình, cụ thể là:

- Về khách thể:

“Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo

vệ và bị tội phạm xâm hại”. Khách thể của tội phạm là yếu tố bắt buộc của tội

phạm. Không có khách thể bị xâm hại thì không thể có tội phạm [18, tr.131].

Theo cách hiểu này, khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác đó là quyền bất khả xâm phạm, quyền được tôn trọng và

quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Với tư cách là thực thể tự nhiên

và chủ thể xã hội, người đang sống và tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan

chính là đối tượng tác động của tội phạm này.

- Về mặt khách quan:

“Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là

9

những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan, bao gồm: hành vi nguy

hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã hội,

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi

đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn, phương

tiện phạm tội…” [18, tr.131]. Theo đó, bất kỳ tội phạm nào cũng đều có những

mặt biểu hiện bên ngoài ra thế giới khách quan, nếu không có những mặt biểu

hiện bên ngoài thì không thể có tội phạm.

Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác vì vậy được hiểu là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm với các dấu hiệu

đặc trưng là: hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; hậu quả nguy hiểm cho

xã hội của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm

cho xã hội của tội phạm; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện, công cụ

phạm tội,…

+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là hành vi gây thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại

đến sức khỏe của con người. Hành vi đó có thể là hành động hoặc không hành

động, có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không có

công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người

khác nhằm đạt được mục đích mong muốn. Hành vi khách quan của tội phạm này

có 03 đặc điểm, đó là: có tính nguy hiểm cho xã hội; có ý thức, có ý chí và trái

pháp luật hình sự.

+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác chủ yếu gây ra thiệt hại về sức khỏe của nạn nhân, nhưng

cũng có một số trường hợp gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần cho nạn nhân.

Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hậu

quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người

khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc

dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp do BLHS quy định thì vẫn bị

10

truy cứu TNHS theo khoản 1 của Điều luật này.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của

tội phạm là “mối quan hệ khách quan giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu

quả đã xảy ra, trong đó hành vi nguy hiểm cho xã hội, xét về mặt thời gian xảy ra

trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội, chuẩn bị và xác định khả năng thực tế bên

trong làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và là nguyên nhân chính và

trực tiếp tất yếu gây ra hậu quả đó”[18, tr.174, 175]. Theo đó, mối quan hệ giữa

hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu

quả xảy ra là nạn nhân bị thương tích hay bị tổn hại đến sức khỏe với tỷ lệ nhất

định và theo quy định của pháp luật hình sự.

Do tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cấu thành

tội phạm vật chất nên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích, gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của

CTTP này. Điều đó có nghĩa là phải xác định chính hành vi gây thương tích, gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác đã gây ra thương tích hoặc tổn hại đó; nói

cách khác, giữa hành vi khách quan gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với hậu quả của tội phạm này luôn có mối quan hệ mật thiết với

nhau, hỗ trợ lẫn nhau; hành vi nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là nguyên nhân

và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là kết quả; hành vi phạm tội phải

xảy ra trước hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, đồng thời hậu quả

thương tích hoặc tổn hại sức khỏe xảy ra phải phù hợp với khả năng thực tế của

hành vi làm phát sinh hậu quả đó.

Ngoài các dấu hiệu đặc trưng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả

nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội

và hậu quả do hành vi đó gây ra của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác thì mặt khách quan của tội phạm này còn có các biểu hiện bên

ngoài khác, như: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, phương tiện

phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội,...Tuy nhiên, những dấu hiệu đó

11

không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức không phải là dấu hiệu định tội) của tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Về chủ thể:

Theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là thể nhân hoặc

pháp nhân thương mại có đủ yếu tố của chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, đối với

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chủ thể của tội phạm

chỉ là thể nhân - con người cụ thể đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

được BLHS quy định là tội phạm trong tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ

tuổi nhất định do pháp luật quy định. Bởi vậy, học viên chia sẻ với quan điểm

cho rằng: “Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ

thể của tội phạm, mà chỉ những người có năng lực TNHS mới là chủ thể của tội

phạm” [8, tr.46]. Nói cách khác, năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định theo

luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người là chủ thể của tội phạm hay

không. Vậy năng lực TNHS là gì? Đó là “Khả năng của một người ở thời điểm

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã

hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi đó” [18,

tr.182]. Để có thể là người có năng lực TNHS, người đó phải là người không mắc

bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều

chỉnh hành vi của mình, tức là người đó phải nhận thức được tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện, biết được hành vi đó là đúng hay

sai, có phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy,

thông qua lao động, học tập, khả năng nhận thức của con người được hình thành,

còn qua quá trình phát triển cơ thể của con người (tức phải ở độ tuổi nhất định)

thì con người mới có khả năng điều khiển hành vi của chính mình. Như vậy, phải

đạt đến độ tuổi nhất định thì con người mới có khả năng nhận thức và khả năng

điều khiển hành vi của mình.

Về tuổi chịu TNHS của chủ thể của tội phạm là cá nhân (thể nhân), tại Điều

12

12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Người từ đủ 16 tuổi

trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có

quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong

các điều: 123; 134; 141; 142; 143; 144; 150; 151; 168; 169; 170; 171; 173; 178;

248; 249; 250; 251; 252; 265; 266; 286; 287; 289; 290; 299; 303 và 304 [10,

tr.85].

Từ quan điểm của nhà làm luật về chủ thể của tội phạm như nêu trên, có thể

xác định chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phải là

người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật quy định, nghĩa là người đó

không mắc bệnh tâm thần hay các loại bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức,

khả năng điều khiển hành vi của mình, đồng thời phải đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi

trở lên thì mới phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội do mình gây ra, hoặc đạt

độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi mà phạm tội thì chỉ phải chịu TNHS được quy

định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 134, còn những người dưới 16 tuổi

phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 của Điều luật

này thì không phải chịu TNHS.

- Về mặt chủ quan:

Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu là“mặt bên trong của tội phạm, là

thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ

thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng

gây ra hậu quả đó” [18, tr.197], bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ phạm tội và

mục đích phạm tội.

+ Lỗi được hiểu là “thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy

hiểm cho xã hội, đối với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc khả năng

gây ra hậu quả đó, được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý” [18, tr.200]. Lỗi

của người CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là lỗi cố ý. Khi

13

thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người

phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật

hình sự cấm bằng nguy cơ áp dụng hình phạt, gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả

nguy hiểm nhất định, song vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra (cố ý

trực tiếp) hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).

+ Trong luật hình sự Việt Nam, động cơ phạm tội là “động lực bên trong

được quyết định bởi các nhu cầu và lợi ích đã được nhận thức thúc đẩy người

phạm tội thực hiện tội phạm” [18, tr.212].

+ Mục đích phạm tội là “quan niệm của người phạm tội về những thay đổi

trong thế giới khách quan mà người đó muốn đạt được bằng việc thực hiện tội

phạm” [18, tr.212].

Khác với dấu hiệu lỗi, trong cấu thành tội phạm tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ phạm tội và dấu hiệu mục

đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức dấu hiệu định tội của CTTP.

1.1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với một số tội cụ thể khác

1.1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người

Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, việc phân biệt tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội giết người là rất phức tạp; mỗi

nơi áp dụng một kiểu và ngay trong cùng một cơ quan THTT thì người này có

quan điểm giết người, còn người khác cho rằng chỉ CYGTT.

Ngày 06/4/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số

220/QĐ-CA công bố án lệ vụ án về tội giết người và tội CYGTT dẫn đến chết

người đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua tại Án lệ số

01/2016/AL. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống hai tội phạm này cũng

còn nhiều vấn đề chưa được lý giải, nhiều vụ án vẫn còn ý kiến khác nhau giữa

các cơ quan THTT, người THTT và người bào chữa.

14

Vì vậy, việc nghiên cứu và phân biệt giữa tội giết người quy định tại Điều

123 với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại

Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có ý nghĩa rất quan trọng

trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng của

tội giết người và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong

trường hợp làm chết người, chúng ta có thể nhận định sự giống nhau và khác

nhau cơ bản giữa hai tội này.

* Về sự giống nhau, ở hai tội này, người phạm tội đều thực hiện hành vi là

do cố ý; đều thực hiện hành vi (hành động) tương tự như nhau (bắn, đâm, chém,

đánh, đấm, đá,…); có hậu quả là nạn nhân chết.

* Về sự khác nhau của hai tội này được thể hiện như sau:

Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người

phạm tội chỉ cố ý làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ

người phạm tội không mong muốn cho nạn nhân bị chết hay bỏ mặc cho nạn

nhân chết, muốn ra sao thì ra; còn việc nạn nhân chết là ngoài ý thức chủ quan

của người phạm tội.

Đối với tội giết người, người phạm tội cố ý tước đoạt tính mạng của nạn

nhân. Nếu không phải là do cố ý trực tiếp (cố ý có dự mưu, cố ý xác định) thì

cũng là cố ý gián tiếp (cố ý đột xuất hoặc cố ý không xác định), tức là không cần

quan tâm đến hậu quả, bỏ mặc cho nạn nhân chết cũng được, không chết cũng

mặc.

Hành vi tấn công của người phạm tội đối với tội giết người quyết liệt hơn,

cường độ tấn công mạnh hơn, nhằm vào những nơi xung yếu của cơ thể như:

vùng đầu (sọ não, gáy), ngực, ổ bụng…Còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác, người phạm tội tấn công nạn nhân không quyết

liệt, mà nếu có quyết liệt thì cũng chỉ tấn công vào những nơi khó gây ra cái chết

cho nạn nhân như: chân, tay, mông, nếu có tấn công vào nơi xung yếu của cơ thể

thì cũng chỉ tấn công vào nơi đã định như mắt, mũi, tai, miệng.

15

Thực tiễn, nhiều trường hợp người phạm tội chỉ khai không muốn làm nạn

nhân chết. Do đó, phải kết hợp với ý thức chủ quan của họ để xác định là giết

người hay CYGTT, đồng thời phải căn cứ vào biên bản giám định pháp y về

nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân.

1.1.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong khi thi hành công vụ

Tại Điều 137 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhà làm luật

quy định tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi

hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép

trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.

Qua nghiên cứu tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành

công vụ, dựa vào các yếu tố CTTP, chúng ta có thể phân biệt những điểm giống

và khác nhau giữa hai tội phạm này. Hai tội này giống nhau về khách thể của tội

phạm và về lỗi của người phạm tội. Sự khác nhau của hai tội này thể hiện ở chủ

thể của tội phạm, hành vi khách quan, hậu quả gây ra và động cơ phạm tội, cụ thể

là:

- Chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong khi thi hành công vụ khác với chủ thể của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác ở chỗ phải là người đang trong khi thi hành

công vụ và đã thực hiện hành vi phạm tội do có hành vi trái pháp luật của nạn

nhân.

- Hành vi khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong khi thi hành công vụ khác với hành vi khách quan của tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đó là dùng vũ lực ngoài

16

những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong khi thi hành công vụ khác với hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác được thể hiện ở chỗ chỉ làm cho người bị hại bị thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị hại có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ

31% trở lên mà không làm chết người hoặc không dẫn đến chết người.

- Động cơ phạm tội của hai tội này khác nhau. Đối với tội CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, động cơ của

người phạm tội là bảo vệ các lợi ích khác nhau trước sự xâm phạm của hành vi

trái pháp luật của nạn nhân, còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức dấu

hiệu định tội).

1.1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với các tội phạm khủng bố

Tại Điều 299 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội

khủng bố, đó là: “hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài

sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công

chúng hoặc xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài

sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính

mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm

gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc có những hành vi khác uy

hiếp tinh thần người khác” [19, tr.452].

Dựa vào những dấu hiệu pháp lý trong CTTP đối với tội CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội khủng bố, có thể đưa ra những điểm

giống nhau và những điểm khác nhau như sau:

* Những điểm giống nhau: gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu chủ thể của tội

phạm. Đối với dấu hiệu lỗi, cả hai tội phạm này đều có lỗi cố ý. Về chủ thể của

17

tội phạm, hai tội này đều do bất kỳ ai là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi

luật định thực hiện hành vi phạm tội.

* Những điểm khác nhau:

Sự khác nhau trước hết thể hiện ở khách thể của tội phạm. Tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo

hộ về sức khỏe của con người; còn tội khủng bố xâm phạm an toàn công cộng,

tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, danh dự của con người, xâm phạm quan hệ

sở hữu của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Sự khác nhau còn thể hiện ở mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách

quan của người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

có tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi khách quan của tội khủng bố.

Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì hành vi

khách quan của tội phạm là hành vi tác động vào cơ thể của người khác làm cho

người đó bị thương tích hoặc bị tổn hại về sức khỏe chứ không làm cho nạn nhân

bị chết; nếu nạn nhân chết là ngoài ý muốn của người phạm tội. Đối với tội phạm

khủng bố, hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các hành vi như: xâm

phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá

nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng; xâm phạm tự do thân

thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài

sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công

chúng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần của người khác.

Hai tội nói trên còn khác nhau về mục đích phạm tội. Mục đích của người

phạm tội khủng bố là nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, còn

mục đích của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là làm

cho nạn nhân bị tổn thương, làm mất hoặc suy giảm chức năng một bộ phận cơ

thể hay làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.

18

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tại Điều 134 với nhiều nội dung,

tình tiết mới so với Điều 104 BLHS năm 1999. Cụ thể: Điều 104 BLHS năm

1999 quy định 4 khoản với 4 định mức tỷ lệ thương tật, đó là dưới 11%, từ 11%

đến 30%, từ 31% đến 60%, trên 61%; còn Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) tuy vẫn giữ nguyên việc chia định mức tỷ lệ thương tật nhưng

đã được chia ra làm 6 khoản trong đó sửa đổi và bổ sung một số điểm mới để

hoàn thiện hơn những quy định về tội này. Ngoài ra, nội dung chính của Điều

134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là cơ cấu lại số khung hình

phạt so với Điều 104 BLHS năm 1999 và thay đổi mức hình phạt của từng khung

cho phù hợp với sự thay đổi của số khung, đồng thời sửa đổi, bổ sung các tình

tiết định khung tăng nặng từ khoản 2 đến khoản 5, pháp điển hóa các hướng dẫn

tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao (về các tình tiết quy định tại Điều 104 BLHS 1999) nhằm đảm bảo

các quy định này được rõ ràng và thống nhất khi áp dụng vào thực tiễn. Mặc dù

trong Điều 134 tăng về số lượng 02 khung hình phạt so với Điều 104 BLHS 1999

nhưng mức hình phạt thấp nhất và cao nhất không thay đổi.

Theo đó, đối chiếu với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 thì Điều 134 BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm mới hơn, đó là:

Thứ nhất, so với khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 thì khoản 1 Điều 134

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm một số tình tiết

đó là: “dùng vũ khí, vật liệu nổ hoặc dùng a xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm;

lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc” hay quy định thêm các tình tiết khác như “gây thương

19

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê, đối với người

chữa bệnh cho mình”; sửa đổi các tình tiết: “Đối với trẻ em” thành “Đối với

người dưới 16 tuổi”; “phụ nữ đang có thai” thành “phụ nữ mà biết là có

thai”;“Để cản trở người thi hành công vụ” thành “Đối với người đang thi hành

công vụ”. Những quy định này đã thể hiện sự tiến bộ rõ rệt của pháp luật hình sự

nhằm quy định rõ những định nghĩa mà trước nay vẫn còn chung chung.

Thứ hai, về khoản 2, khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999, đã được chia

thành 04 khoản riêng biệt trong điều luật mới. Như vậy, khung hình phạt cũng

được quy định cụ thể, không còn gộp chung như trước. Việc quy định này tạo

điều kiện cho Tòa án, Viện kiểm sát thuận lợi, dễ dàng hơn trong việc định tội

danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Ngoài ra, quy định này cũng

đã chia giới hạn giữa tỷ lệ thương tật với các tình tiết tăng nặng trong CTTP đó là

tuy tỷ lệ thương tật thấp nhưng nếu có tình tiết tăng nặng thì vẫn quy đồng với

mức tỷ lệ thương tật cao hơn.

Thứ ba, khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã

cụ thể hóa khoản 4 Điều 104 BLHS năm 1999, như: tình tiết định tính “chết

nhiều người”, “đặc biệt nghiêm trọng khác” đã được quy định thành từng điểm

rõ ràng: “Làm chết 02 người trở lên” hay “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở

lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến

điểm k khoản 1 Điều này”.

Thứ tư, tại khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

còn quy định thêm về hành vi chuẩn bị phạm tội, cụ thể là: người chuẩn bị vũ

khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc

thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc

phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

20

Thứ năm, trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối

với tội quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều 134 BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

tuổi chỉ phải chịu TNHS ở các khoản 3 và khoản 4 của Điều 104 BLHS năm

1999 trong khi họ phải chịu TNHS tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 134 BLHS năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nhìn chung, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã sửa đổi, bổ

sung đầy đủ, rõ ràng về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác,

giúp cho việc thi hành pháp luật hình sự được chính xác hơn trong việc bảo vệ

tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người.

21

Kết luận Chương 1

Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi trái

pháp luật của người có năng lực TNHS tác động đến thân thể của người khác làm

cho người đó bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe mà tỷ lệ tổn thương cơ thể

theo luật định

Tại Chương 1, tác giả đã trình bày và phân tích khái niệm, các dấu hiệu cơ

bản của tội phạm nói chung và của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác nói riêng; trên cơ sở đó, phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm

chết người với tội giết người, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong khi thi hành công vụ hay phân biệt tội này với các tội khủng bố.

Ngoài ra, tác giả còn phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện

hành về tội danh này, trong đó làm rõ những quy định mới được bổ sung so với

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được quy định

trong BLHS Việt Nam năm 1999.

Về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sẽ được trình bày trong Chương

2 của luận văn này.

22

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI

CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TẠI

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác

2.1.1. Quy định về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện

Trong lý luận và thực tiễn, định tội danh được hiểu là một quá trình logic

nhất định, một hoạt động xác nhận và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm

tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một CTTP được quy định trong quy

phạm pháp luật hình sự thuộc Phần các tội phạm của BLHS; hay, định tội danh là

việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với một hành vi nguy hiểm cho xã

hội. Trong khái niệm về định tội danh, hai nghĩa này có mối liên hệ mật thiết với

nhau. Vì vậy, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm định tội danh.

Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, chúng tôi chia sẻ với quan điểm của

GS.TS Võ Khánh Vinh về khái niệm định tội danh, đó là “một dạng hoạt động

nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan

trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội

được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định

CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu CTTP với các tình

tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai

đoạn nhất định” [17, tr.26, 27].

Là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, định tội danh được tiến

hành đồng thời bởi ba quá trình:

23

Thứ nhất, cần phải xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ

án.

Để giải quyết một vụ án hình sự, các cơ quan THTT cần phải xác định tất cả

tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Muốn đạt được

điều này, cần phải áp dụng những biện pháp hợp pháp được BLTTHS cho phép

và không được dùng những biện pháp trái pháp luật để thu thập chứng cứ. Sau

khi thu thập được các chứng cứ của vụ án (chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội,

chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc, chứng cứ sao chép, lời khai, vật chứng,…), các

cơ quan THTT phải nghiên cứu, đánh giá, phân tích các chứng cứ đó một cách vô

tư, không định kiến, suy diễn để tìm kiếm chân lý khách quan, chân lý vật chất về

vụ án - tức là xác định đầy đủ và chính xác các tình tiết cần thiết của hành vi

phạm tội.

Thứ hai, cần phải nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS

liên quan đến tội phạm đã thực hiện.

Cần nhấn mạnh rằng việc nhận thức đúng nội dung của BLHS quy định về

từng loại tội và từng tội phạm cụ thể có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh.

Mọi hành vi vi phạm pháp luật chỉ được coi là tội phạm nếu được quy định trong

BLHS, tuy nhiên, không phải tất cả quy phạm pháp luật trong BLHS đều chi tiết

và phản ánh được hết các mặt của đời sống xã hội mà chỉ phản ánh những nét đặc

trưng của nó. Bởi vậy, khi giải quyết một vụ án hình sự, người THTT cần phải áp

dụng đúng quy phạm pháp luật hình sự. Điều này đòi hỏi hoạt động lập pháp và

hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan THTT phải luôn chính xác và đúng

đắn.

Để bảo đảm các nguyên tắc của luật hình sự, nhất là nguyên tắc công bằng,

định tội danh phải đúng. Muốn định tội danh đúng, người THTT phải lựa chọn

đúng quy phạm pháp luật và đối chiếu, so sánh đầy đủ, chính xác các dấu hiệu tội

phạm đã được quy định trong điểm, khoản của điều luật với các tình tiết của hành

vi phạm tội đã thực hiện. Qua đối chiếu, so sánh, nếu có sự phù hợp giữa các tình

24

tiết của sự việc với các dấu hiệu của cấu thành được quy định trong luật thì có thể

kết luận sự việc đã xảy ra phải được định theo điểm, khoản của điều luật đó.

Song, trong một số trường hợp, các bước này được thực hiện đồng thời trong

hoạt động nhận thức của người áp dụng pháp luật có khi không thể tách rời một

cách độc lập, rõ ràng. Không chỉ xác định đúng điểm, khoản, điều luật tương ứng

cần áp dụng đối với hành vi phạm tội, người THTT còn phải xem xét các yếu tố

khác của hành vi đó như hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội

có tổ chức hay đồng phạm,…để áp dụng các quy phạm pháp luật tương ứng khi

định tội danh.

Việc định tội danh phải đầy đủ những hành vi phạm tội được thực hiện, tức

là phải định tội danh đối với từng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực

hiện do các điều luật của BLHS quy định là tội phạm. Khi định tội danh, người

THTT không được thu hút hành vi phạm tội này vào hành vi phạm tội khác, hoặc

coi hành vi phạm tội này là tình tiết tăng nặng của tội phạm kia nhằm tránh tình

trạng đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ ba, cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mối liên hệ giữa các tình

tiết thực tế của hành vi và các dấu hiệu của CTTP được quy định trong luật.

Định tội danh là hoạt động của các cơ quan THTT nhằm thu thập, kiểm tra,

đánh giá các chứng cứ xác định các tình tiết thực tế của vụ án và tìm hiểu, phân

tích các quy phạm pháp luật hình sự để nhận thức đúng đắn nội dung của nó. Quá

trình định tội danh được tiến hành trên cơ sở so sánh, đối chiếu các tình tiết thực

tế của vụ án đã được xác định với các dấu hiệu được chỉ ra trong quy phạm pháp

luật hình sự quy định về CTTP. Theo đó, quá trình định tội danh phải trải qua ba

- Giai đoạn thứ nhất, khi đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

giai đoạn sau đây:

tội, có thể dựa vào các căn cứ như: tính chất của phương pháp, thủ đoạn,

công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm; tính chất và mức độ thiệt hại do

hành vi gây ra; hoặc tính chất của động cơ hay mức độ lỗi, nhân thân người

25

- Giai đoạn thứ hai, những người tiến hành định tội danh làm rõ các dấu hiệu

phạm tội.

của hành vi phạm tội, làm rõ hành vi đó thuộc loại tội phạm nào và được quy

- Giai đoạn thứ ba, chỉ rõ CTTP về tội cụ thể nào được áp dụng: cấu thành cơ

định ở chương nào của BLHS.

bản, cấu thành giảm nhẹ hay cấu thành tăng nặng trong giới hạn của một điều

luật nào đó đã được lựa chọn.

Cả ba giai đoạn trên có thể được thực hiện độc lập hoặc thực hiện đồng thời

với nhau, không phân chia được trong hoạt động nhận thức của người định tội

danh.

Từ những điều phân tích khái quát trên đây, có thể đưa ra khái niệm định tội

danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới

18 tuổi thực hiện là hoạt động điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát và Tòa án trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được một

cách đầy đủ, khách quan và toàn diện trong sự so sánh, đối chiếu với các dấu

hiệu pháp lý của CTTP tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trong các quy định của pháp luật hình sự để xác định có hay không có tội

phạm và người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi đó để xử lý.

Các giai đoạn của quá trình định tội danh, cơ sở của định tội danh, các

trường hợp định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng tương tự như định tội danh tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người từ đủ 18 tuổi trở

lên thực hiện. Tuy nhiên, khi định tội danh đối với người dưới 18 tuổi, cần đặc

biệt lưu ý đến tuổi chịu TNHS.

Người dưới 18 tuổi là người đang trong giai đoạn hình thành và phát triển

về thể lực, trí lực và nhân cách, chưa có suy nghĩ chín chắn về các hành vi mà họ

làm cũng như chưa có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm của

hành vi mà họ gây ra cho xã hội. Ngoài ra, tâm lý của họ rất dễ bị tổn thương,

26

nhất là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án. Do đó, chính

sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Nhà nước ta chủ yếu là giáo

dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm, đồng thời tạo điều kiện để họ phát triển

lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tuổi

chịu TNHS, cụ thể như sau: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi

tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; người từ đủ 14

tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng quy định tại 28 điều luật của BLHS, trong đó có tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134).

Trên cơ sở quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), trong hoạt động xét xử, khi định tội danh đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì cơ quan Tòa án

phải xác định tuổi chịu TNHS của đối tượng này để từ đó xác định năng lực chịu

TNHS của chủ thể của tội phạm. Như vậy, trường hợp chủ thể thực hiện hành vi

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà chủ thể đó được xác

định có độ tuổi dưới 14 tuổi thì họ không phải chịu TNHS về hành vi phạm tội

của mình; trường hợp chủ thể thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà chủ thể đó có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

thì phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, đồng

thời khi đó Tòa án phải xác định tiếp tội mà chủ thể đó đã phạm thuộc khoản nào

và khung hình phạt của khoản đó tương ứng với loại tội phạm nào theo quy định

tại Điều 9 BLHS về phân loại tội phạm; chỉ khi tội phạm được thực hiện thuộc

loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì họ mới phải chịu

TNHS. Ngoài ra, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017), nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên thực hiện tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm.

27

2.1.2. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Quyết định hình phạt (QĐHP) là một trong những giai đoạn cơ bản và

chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Khi QĐHP, Tòa

án nhân danh Nhà nước tuyên bố áp dụng hình phạt cụ thể đối với người hoặc

pháp nhân thương mại phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ về

việc thực hiện tội phạm, đồng thời trừng trị họ.

QĐHP là một hoạt động pháp lý tố tụng hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất

định. Để QĐHP, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn TTHS trước đó

và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử, bao gồm kết quả điều tra, kết

quả buộc tội, kết quả thẩm vấn, tranh luận; sau khi có được các kết quả này,

những người QĐHP sẽ đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cụ thể với

các dấu hiệu của một CTTP cụ thể gắn liền với việc đánh giá con người cụ thể đã

thực hiện tội phạm để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất

trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

QĐHP thể hiện ở hai nội dung sau đây:

Một là, Tòa án lựa chọn một trong các hình phạt cụ thể được quy định trong

khoản của điều luật được áp dụng để quyết định đối với bị cáo. Hoạt động này

được gọi là xác định loại hình phạt.

Hai là, Tòa án xác định một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.

Hai nội dung này được tiến hành theo trình tự trên, đồng thời được thực

hiện khi áp dụng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Loại và mức hình phạt

được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải được thể hiện trong bản án của Tòa

án và được công bố công khai khi tuyên án.

Trong mọi trường hợp, QĐHP của Tòa án phải đúng pháp luật, bảo đảm

công bằng và cá thể hóa; đồng thời hình phạt được tuyên phải tương xứng với

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, với các đặc điểm

28

về nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, dư

luận của xã hội về vụ án và ý thức pháp luật của người phạm tội. Ngoài ra, hình

phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo còn phải bảo đảm tính xác định, tính

lập luận và bắt buộc có lý do.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về QĐHP. Xét trên nhiều phương

diện, chúng tôi chia sẻ quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh về QĐHP, đó là

"một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa

án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản

điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện

trong bản án buộc tội" [18, tr.386].

Từ những lý luận về QĐHP nêu trên, có thể kết luận rằng: QĐHP đối với

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện là việc Tòa án (HĐXX) lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được

quy định trong khoản điều luật để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi đã thực

hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng hay phạm tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói chung, Tòa án không

chỉ tuân thủ các nguyên tắc QĐHP như pháp chế xã hội chủ nghĩa, công bằng, cá

thể hóa, nhân đạo, căn cứ vào các nguyên tắc xử lý chung đối với người phạm tội

được quy định tại Điều 3 mà còn phải căn cứ vào Điều 50 (căn cứ QĐHP) và các

quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể là:

Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp

thời, xử lý nhanh chóng, công minh, theo đúng pháp luật [3, tr.7].

Phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật đối với

mọi hành vi phạm tội không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh chống tội

phạm mà còn có ý nghĩa trong việc phòng ngừa. Trên thực tế, có một số hành vi

phạm tội do được phát hiện kịp thời nên đã ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại do

29

tội phạm gây ra. Mặt khác, việc phát hiện kịp thời hành vi phạm tội còn có ý

nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân về công tác phòng ngừa tội phạm,

cảnh cáo người đang có ý định thực hiện tội phạm hãy từ bỏ ý định phạm tội nếu

không sẽ bị trừng trị. Phát hiện kịp thời tội phạm còn có tác dụng chống những

nghi ngờ vào tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội, làm cho mọi người yên

tâm lao động sản xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ

pháp luật [8, tr.15, 16].

Như vậy, theo nguyên tắc này, trường hợp người dưới 18 tuổi thực hiện tội

phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì các cơ quan

THTT phải có trách nhiệm phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh,

đúng pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật của họ.

Thứ hai, mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân

biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội [3, tr.7].

Nội dung của nguyên tắc trên thể hiện rõ tính công bằng trong việc xử lý

người phạm tội. Theo nguyên tắc này, khi xử lý hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện thì các cơ quan

THTT, người THTT cần phải có thái độ bình đẳng, công bằng đối với người

phạm tội, đó là bình đẳng, công bằng trong việc vận dụng các dấu hiệu CTTP đối

với hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về

người phạm tội; tuyệt đối không được phân biệt đối xử giữa những người phạm

tội là người dưới 18 tuổi nhưng có thành phần gia đình, địa vị xã hội, tôn giáo, tín

ngưỡng, giới tính khác nhau.

Thứ ba, nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối,

côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội [3, tr.8].

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta đối với

những đối tượng cần phải nghiêm trị, được liệt kê; đó là: người phạm tội là người

chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm

nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Như vậy, nếu người dưới

30

18 tuổi thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác thuộc những đối tượng được liệt kê tại điểm c khoản 1, Điều 3 BLHS năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cần phải nghiêm trị.

Thứ tư, nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có

tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng

đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công

chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội

phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa

hoặc bồi thường thiệt hại gây ra [3, tr.8].

Nội dung của nguyên tắc nói lên tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội,

quy mô của việc thực hiện tội phạm có đồng phạm và hậu quả do hành vi thực

hiện tội phạm gây ra cho xã hội, chứ không phải đối với người phạm tội. Theo

nguyên tắc này, khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà dùng thủ đoạn xảo

quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng thì Tòa án cần phải cân nhắc loại và mức hình phạt để áp dụng cho phù hợp

nhằm răn đe, phòng ngừa, cảnh báo cho mọi người biết, nếu cố tình phạm tội

thuộc các trường hợp trên thì sẽ bị nghiêm trị; đồng thời áp dụng chính sách

khoan hồng của Nhà nước đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố

giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm

trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối

cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.

Thứ năm, đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp

dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình

giám sát, giáo dục [3, tr.8].

Đây là nguyên tắc được cụ thể hóa từ nguyên tắc khoan hồng, tuy nhiên

nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng. Đối

với người dưới 18 tuổi lần đầu thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho

31

sức khỏe của người khác nhưng ít nghiêm trọng thì Tòa án cần phải quan tâm đến

nguyên tắc trong quá trình QĐHP, không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù, mà

có thể áp dụng các loại hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù như tuyên người

phạm tội được hưởng án treo hay áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải

tạo không giam giữ đối với họ.

Thứ sáu, đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại

các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội;

nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn

chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện [3, tr.8].

Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người đã bị kết án và bị phạt tù giam.

Theo nguyên tắc này, nếu người dưới 18 tuổi đã bị kết án và bị phạt tù giam do

phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuy bị hạn

chế quyền tự do nhưng họ vẫn được hưởng các quyền con người của mình, đó là

được lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến

bộ thì được xét giảm việc chấp hành hình phạt tù để sớm trở về gia đình, hòa

nhập với cộng đồng xã hội.

Thứ bảy, người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn,

sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định

thì được xóa án tích [3, tr.8].

Đây cũng là nguyên tắc nhân đạo xã hội đối với người bị kết án, họ không

bị xã hội thành kiến đối với tội lỗi mà họ đã phạm. Theo đó, người dưới 18 tuổi

bị kết án do thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác, sau khi đã chấp hành xong hình phạt, họ được Nhà nước và xã hội tạo điều

kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, được xóa án tích khi

có đủ điều kiện theo quy định pháp luật hình sự để xóa đi mặc cảm với chính bản

thân họ. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua, không ít cơ quan, tổ chức không

muốn nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt vào làm việc, nhiều nơi

vẫn còn kỳ thị với người bị kết án, không tạo điều kiện để họ hòa nhập cộng

32

đồng. Do đó, để nguyên tắc này đi vào cuộc sống thì trước hết các cơ quan nhà

nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải thật sự loại bỏ tư tưởng kỳ thị đối

với người bị kết án; Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích đối với các

đơn vị, các tổ chức kinh tế nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù

vào đơn vị, doanh nghiệp mình làm việc.

Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về

căn cứ QĐHP, khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án phải dựa vào các quy định

của BLHS của cả phần chung và phần các tội phạm có liên quan đến tội phạm

này mà người dưới 18 tuổi đã phạm; cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện thông qua các yếu tố CTTP (khách

thể bị xâm hại, hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, yếu tố lỗi,

động cơ, mục đích,… của người phạm tội) để làm căn cứ phân loại tội phạm, xác

định khung hình phạt tương xứng; xem xét các yếu tố về nhân thân người phạm

tội (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, quá trình công tác, hoàn cảnh gia đình,…) vì

trong một số trường hợp các yếu tố này là yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt,

định tội, định khung hình phạt,…và phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc

tình tiết tăng nặng TNHS để lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt buộc người

bị kết án phải chấp hành.

Không chỉ căn cứ Điều 3, Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác, Tòa án còn phải căn cứ các điều luật tại Chương

XII của Bộ luật này, mà trong đó quan trọng là Điều 91 quy định về các nguyên

tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể là:

Thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt

nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa

chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc

xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức

33

của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và

điều kiện gây ra tội phạm [3, tr.81].

Theo nguyên tắc này, trong mọi tình huống, mọi trường hợp, cơ quan THTT

và người THTT phải tạo mọi điều kiện và áp dụng các biện pháp phi hình phạt

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phải xác định độ tuổi của người phạm tội

khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. Thực tế cho thấy, tuổi càng ít thì khả năng

nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, thậm chí với những

người cùng độ tuổi nhưng không phải người nào cũng có khả năng nhận thức như

nhau, người ở thành phố nhận thức khác người ở vùng sâu, vùng xa, người có

trình độ văn hóa cao nhận thức khác người có trình độ văn hóa thấp …

Nội dung quan trọng của nguyên tắc này còn đòi hỏi cơ quan THTT phải

xác định nguyên nhân và điều kiện khiến người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi

phạm tội. Yêu cầu của nguyên tắc này là phải giáo dục, giúp đỡ người dưới 18

tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích

cho xã hội. Vì thế, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

cũng phải bảo đảm mục đích giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, chứ không nhằm trừng

trị. Do đó, ngay từ khi khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các

biện pháp pháp lý có lợi nhất mà còn phải quán triệt tinh thần là nếu không cần

thiết bắt giữ, tạm giữ, tạm giam đối với họ thì không được áp dụng các biện pháp

này; đồng thời phải bảo đảm các quyền theo quy định của BLTTHS đối với họ

như: phải có người bào chữa ngay từ khi bị bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ

để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo

lĩnh hoặc thấy việc cho tại ngoại không gây ảnh hưởng cho xã hội thì cương

quyết phải cho tại ngoại.

Thứ hai, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu

không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được

34

miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương

này[3, tr.81, 82].

Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các trường

hợp được miễn hoặc có thể được miễn TNHS đối với bất cứ người nào không

phân biệt người dưới 18 tuổi hay trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người dưới 18

tuổi thì việc miễn TNHS, ngoài các quy định tại Điều 29 của Bộ luật này thì cơ

quan THTT còn phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.

Các trường hợp mà người dưới 18 tuổi có thể được miễn TNHS gồm: người

từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng,

trừ trường hợp quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252

của BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy

định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS, trừ trường hợp quy định tại các điều 123,

134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS;

người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ

án.

Thứ ba, việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường

hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội

phạm [3, tr.82].

Nguyên tắc này đã được quy định tại BLHS năm 1985. Do đó, nếu hành vi

phạm tội của họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy việc

áp dụng các biện pháp giáo dục, tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để

phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung thì mới tiến hành truy cứu TNHS.

Thứ tư, khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp quy

định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy

định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa [3,

tr.83].

35

Theo nguyên tắc này, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18

tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS hoặc áp dụng một trong các biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hay tại trường giáo dưỡng nhưng không có

hiệu quả. Như vậy, trước khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội thì Tòa án phải áp dụng các biện pháp không phải là hình phạt trước. Thế

nhưng, trên thực tế, Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất, mức độ của hành

vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ

TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định áp dụng hay không áp

dụng hình phạt. Trong trường hợp xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì Tòa

án mới áp dụng các biện pháp giáo dục khác.

Thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18

tuổi phạm tội [3, tr.83].

Nguyên tắc xử lý này đã được quy định từ BLHS năm 1985 và được nhắc

lại tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, thể hiện thái độ của Nhà nước ta dứt

khoát không áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội, không lấy trừng trị là mục đích của hình phạt đối với người dưới 18

tuổi phạm tội.

Thứ sáu, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18

tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác

dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18

tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18

tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp

dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội [3, tr.83].

Đây không chỉ là nguyên tắc xử lý mà còn là căn cứ QĐHP đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc này có nội dung giống như nguyên tắc quy

định tại khoản 4 Điều 91 BLHS; tuy nhiên, đây là căn cứ để Tòa án áp dụng hình

phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

36

Từ nguyên tắc này cho thấy, BLHS 2015 đã quy định rõ hơn trường hợp

nào thì cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và

trường hợp nào không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội.

Thứ bảy, án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính

để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm [3, tr.83].

Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuổi bị coi là tái phạm hoặc

tái phạm nguy hiểm cũng là thể hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục

đích của hình phạt đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát

triển bình thường trong cuộc sống hiện tại và tương lai.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 92 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn

TNHS và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp

giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại

diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.

Đồng thời, tại Điều 96 của Bộ luật này cũng quy định Tòa án có thể áp dụng biện

pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới

18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do

nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ

chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

Để QĐHP chính xác đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện, Tòa án không chỉ phải tuân theo các

nguyên tắc, những căn cứ về QĐHP đã được quy định trong BLHS mà còn phải

xem xét, cân nhắc đến các điều kiện, yếu tố khác như tình hình chính trị, kinh tế,

xã hội của địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các

yếu tố khác có liên quan đến việc QĐHP.

37

2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.1. Thực trạng định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.1.1. Khái quát tình hình định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Từ năm 2015 - 2019, TAND thành phố Biên Hòa đã thụ lý 374 vụ án

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong đó có 32 vụ do

người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm (chiếm tỷ lệ 8,55% tổng số vụ án CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thụ lý xét xử trên địa bàn).

Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau đây:

Bảng 2.1: Tỷ lệ số vụ án và số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện so với tổng số vụ

án và bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

được thụ lý tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

38

Loại tội CYGTT hoặc gây tổn CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hại cho sức khỏe của người khác do người Tỷ lệ % người khác Năm dưới 18 tuổi thực hiện (1)/(3)

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

(1) (2) (3) (4)

5 11 61 110 8,2 2015

9 10 151 10,6 85 2016

2017 13 30 86 161 15,1

3 20 69 132 4,3 2018

2 9 73 99 2,7 2019

80 Tổng 32 374 653 8,55

(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)

Qua bảng thống kê 2.1 nêu trên đã phản ánh số vụ án CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện có xu

hướng tăng, giảm không theo quy luật nhưng phần nào cũng cho thấy số lượng

người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này là tương đối nhiều.

39

Bảng 2.2. Tình hình định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện

Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Ghi Năm Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị chú

vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo

2015 3 4 6 1 1 1

2016 8 9 1 1

2017 11 23 7 2

2018 2 11 9 1

2019 1 1 8 1 0 0

6 1 Tổng 25 48 31 1

(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)

Qua thống kê tại bảng 2.2 cho thấy có 48/80 bị cáo là người dưới 18 tuổi

phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được TAND

thành phố Biên Hòa đưa ra xét xử, định tội danh theo khoản 1 và áp dụng hình

phạt tù từ 03 năm trở xuống (chiếm tỷ lệ 60%), có 31/80 bị cáo bị Tòa án định tội

danh theo khoản 2 Điều 134 BLHS và áp dụng hình phạt tù từ trên 03 năm đến

07 năm (chiếm tỷ lệ 38,75%) và có 1/80 bị cáo bị định tội danh theo khoản 3,

(chiếm 1,25%). Đại đa số các trường hợp phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện được TAND thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai định tội danh đúng. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường

hợp phạm tội này được định tội danh không chính xác. Thực trạng đó sẽ được

học viên trình bày ở tiểu mục tiếp theo.

40

2.2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai

Trước hết, đó là định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện theo cấu thành tội phạm cơ bản.

Theo số liệu thống kê tại bảng 2.2 nêu trên thì từ năm 2015 đến năm 2019,

TAND thành phố Biên Hòa đã tiến hành định tội danh theo khoản 1 đối với 48 bị

cáo dưới 18 tuổi phạm tội nói trên. Nhìn chung, TAND thành phố Biên Hòa đã

định tội danh đúng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo. Vụ án dưới đây là

một thí dụ. Nội dung vụ án này như sau: Do nghi ngờ nhóm Sú Say Váy đánh

Huỳnh Đại Nhân là người em trong xóm, anh Phạm Văn Ngà tìm nhóm Váy để

hỏi rõ sự việc, dẫn đến hai bên lời qua tiếng lại với nhau. Anh Phạm Văn Ngà

cầm một vỏ chai nước ngọt bằng thủy tinh đi tới đánh Sú Say Váy nhưng Váy

tránh được và trong lúc xô xát Váy định chạy theo Bằng Kim Long, Nguyễn Kim

Thông đuổi đánh Huỳnh Đại Nhân, anh Ngà dùng tay kéo lại thì bị Váy quay

người lại dùng con dao tự chế dài 30cm mà đối tượng tên Hải (chưa rõ nhân thân,

lai lịch) đã đưa cho Váy trước đó, chém 01 nhát trúng vào tay phải của Ngà rồi

tiếp tục đuổi theo đánh Nhân. Trong lúc Váy, Long và Thông đuổi theo Nhân thì

Ngà bị một đối tượng (chưa rõ nhân thân) ném một cục đá trúng vào vùng cổ trái

làm Ngà bất tỉnh. Hậu quả gây thương tích cho anh Phạm Văn Ngà với tỷ lệ

thương tật 30%. Tại phiên tòa, HĐXX cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ

TNHS đối với bị cáo Sú Say Váy như: phạm tội do hành vi trái pháp luật của

người bị hại gây ra, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội chưa đủ 18

tuổi. Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, tại

Bản án số 248/2017/HS-ST ngày 19/9/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [11],

HĐXX đã tuyên bố bị cáo Sú Say Váy phạm tội “Cố ý gây thương tích” được

quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999; xử phạt bị cáo Sú Say

Váy với mức án 10 tháng tù. Theo hồ sơ vụ án và kết luận của HĐXX như trên

41

thì việc định tội danh và áp dụng khung hình phạt cơ bản đối với bị cáo Sú Say

Váy là đúng pháp luật.

Bên cạnh đó, TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng tiến hành

định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện theo cấu thành tội phạm tăng nặng, trong đó có 31 bị cáo

bị định tội danh theo khoản 2 và 01 bị cáo bị định tội danh theo khoản 3 Điều

134 BLHS năm 2015 (và Điều luật tương ứng trong BLHS năm 1999). Vụ án sau

đây là một thí dụ. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày

05/11/2018, anh Huỳnh Tấn Đô - chủ nhà nghỉ Mai Linh, khu phố 6, phường

Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa – đã yêu cầu Từ Hữu Hương cùng một số người

khác dừng đánh bạc tại nhà nghỉ và báo Công an phường Tam Hiệp đến xử lý.

Từ Hữu Hương liền bỏ chạy ra ngoài thì bị anh Đô giữ lại nên bị cáo đã dùng dao

bằng kim loại (loại dao gấp trong đồ bấm móng tay) dài khoảng 05 cm, rộng

1,5cm đâm trúng gò má trái và vai trái của anh Đô gây thương tích với tỷ lệ 17%.

HĐXX đã nhận định: hành vi của bị cáo Từ Hữu Hương là nguy hiểm cho

xã hội, trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật công nhận

và bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương; khi thực

hiện hành vi phạm tội, bị cáo 17 tuổi; chưa có tiền án, tiền sự. Đồng thời, HĐXX

xem xét giảm nhẹ một phần TNHS cho bị cáo do có các tình tiết giảm nhẹ như:

thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và

người bị hại đã có đơn bãi nại, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có

cha là ông Từ Xuân An tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng

Huy chương kháng chiến hạng nhất. Do đó, tại Bản án số 131/2019/HS-ST ngày

21/3/2019 của TAND thành phố Biên Hòa [12], HĐXX đã tuyên bị cáo Từ Hữu

Hương phạm tội “cố ý gây thương tích” và áp dụng điểm a khoản 1 và điểm đ

khoản 2 Điều 134, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Từ Hữu Hương 01 năm 03

tháng tù, thời hại tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

42

Từ nội dung vụ án trên cho thấy, HĐXX đã xem xét các yếu tố CTTP của

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (như khách thể bị xâm

hại, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả nguy hiểm cho

xã hội do hành vi phạm tội gây ra, lỗi của bị cáo, nhân thân người phạm tội, độ

tuổi chịu TNHS, …) và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS để định

tội danh đối với bị cáo Từ Hữu Hương. Như vậy, việc định tội danh này là đúng

pháp luật hình sự.

Bên cạnh việc định tội danh đúng, thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện của

TAND thành phố Biên Hòa cũng cho thấy có trường hợp TAND thành phố Biên

Hòa áp dụng sai pháp luật trong định tội danh dẫn đến hệ quả là bản án bị kháng

nghị. Nội dung vụ án (được thể hiện tại Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2019/HS-

ST ngày 05/4/2019 của TAND thành phố Biên Hòa [13]) như sau:

Nguyễn Phi Hùng và Vũ Thiện Hoàng Long được đối tượng tên Liễu (chưa

rõ nhân thân, lai lịch) thuê đánh bà Phạm Thị Hoan với số tiền 800.000 đồng.

Khoảng 11 giờ ngày 02/4/2018, Long điều khiển xe mô tô chở Hùng cầm theo 01

cây sắt (cây ba khúc) dài khoảng 70cm giấu trong người, đến đầu hẻm thuộc khu

phố 6, phường Tân Phong thì thấy bà Hoan điều khiển xe mô tô chạy vào hẻm.

Long điều khiển xe chở Hùng đuổi theo vượt lên trên chặn đầu xe và ép xe mô tô

của bà Hoan, làm bà Hoan cùng xe ngã xuống đường. Hùng và Long xuống xe

xông đến, Long dùng tay đánh 02 cái trúng vào người bà Hoan; còn Hùng rút cây

sắt (cây ba khúc) đánh 03 cái trúng vào vùng đầu, cẳng tay và bàn tay trái của bà

Hoan gây thương tích cho bà Hoan với tỷ lệ 03% (theo Giấy chứng nhận thương

tích số 0215/2018/CN ngày 03/5/2018 của Bệnh viện 7B thuộc Cục Hậu cần –

Quân khu 7 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số

0360/GĐPY/2018 ngày 15/5/2018 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh

Đồng Nai).

43

Tại phiên tòa, HĐXX nhận định: hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến

sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương;

hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố CTTP cố ý gây thương tích đúng như cáo

trạng của VKSND thành phố Biên Hòa; đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Hùng

là người được đối tượng Liễu thuê, sau đó rủ rê Long cùng đi đánh bà Hoan, tuy

nhiên bị cáo Hùng có các tình tiết giảm nhẹ TNHS (thành khẩn khai báo, ăn năn

hối cải; người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội nhưng gây thiệt

hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) và có nơi

cư trú rõ ràng nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội; bà Hoan đã rút yêu

cầu khởi tố hình sự đối với bị cáo Long trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, đồng

thời VKSND thành phố Biên Hòa đã rút quyết định truy tố đối với bị cáo Long;

đối với đối tượng Liễu chưa rõ lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành

phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau. Theo đó, HĐXX tuyên bố:

đình chỉ xét xử đối với bị cáo Long bị VKSND thành phố Biên Hòa truy tố về tội

“cố ý gây thương tích” theo điểm a, h khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội “cố ý

gây thương tích”; bị hại đã rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Long thì không có

quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức; đồng

thời, tuyên bố bị cáo Hùng phạm tội “cố ý gây thương tích”.

Không đồng ý với bản án nêu trên, Viện trưởng VKSND thành phố Biên

Hòa đã có Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 đề nghị

Tòa án cấp phúc thẩm thay đổi hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo

Hùng thành hình phạt tù giam, và Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-

VKSBH ngày 24/4/2019 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ phần nội dung

tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội CYGTT của bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng, người được Tòa án tuyên không có tội nhưng có

căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội, bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng

44

trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm

sửa bản án theo quy định tại Điều 357 BLTTHS; do đó phải hủy toàn bộ bản án

để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.

Từ vụ án nêu trên cho thấy nhận định của HĐXX phúc thẩm là đúng pháp

luật, bởi vì:

+ Theo khoản 2 Điều 155 và khoản 2 Điều 299 BLTTHS năm 2015 quy

định về việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và đình chỉ giải quyết vụ án hình

sự, không có quy định về việc rút yêu cầu khởi tố và đình chỉ đối với bị can, bị

cáo. Nhận định này của cấp phúc thẩm cũng phù hợp với hướng dẫn tại Công văn

số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao, mục 27 của Công văn

số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 và Công văn số 2109/VKSTC-V14 ngày

21/5/2019 của VKSND tối cao; do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử

đối với bị cáo Long là không có căn cứ.

+ BLTTHS không quy định trường hợp đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu

cầu khởi tố vụ án thì Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Bị cáo Long đến tuổi

chịu TNHS, vụ án còn thời hiệu truy cứu TNHS, có sự việc phạm tội xảy ra và

bản án sơ thẩm cũng đã xác định hành vi của các bị cáo đã CTTP “cố ý gây

thương tích”; do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long

không phạm tội là không có căn cứ.

+ Vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, bà Hoan có mặt tại

phiên tòa; tuy nhiên, HĐXX sơ thẩm không điều khiển để người bị hại trình bày

lời buộc tội tại phiên tòa là vi phạm tố tụng, theo quy định tại khoản 3 Điều 62 và

khoản 4 Điều 320 BLTTHS.

45

2.2.2. Thực trạng quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện

tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt

Trong hoạt động xét xử, sau khi định tội danh chính xác, Tòa án tiến hành

lựa chọn hình phạt, mức hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Việc lựa

chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội của bị cáo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ hoặc quan điểm của

những người tham gia tố tụng hay nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

TNHS không chỉ thể hiện được sự răn đe, giáo dục người phạm tội mà còn thể

hiện được sự nhân đạo của Nhà nước ta. Từ năm 2015-2019, việc QĐHP của

TAND thành phố Biên Hòa đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thể hiện thông qua bảng

thống kê sau đây:

Bảng 2.3: Kết quả QĐHP đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Các hình phạt được áp dụng

Năm

Tổng số bị cáo

Cảnh cáo

Phạt tiền

Ghi chú

Phạt tù đến 3 năm

Cải tạo không giam giữ

Phạt tù trên 3 năm đến 7 năm

Phạt tù trên 7 năm đến 15 năm

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

11 10 30 20 9 80

4 7 25 19 8 63

0 2 5 1 0 8

0 1 0 0 0 1

0 0 2 0 1 3

0 0 0 0 0 0 0%

0 0 0 0 0 0 0%

Phạt tù trên 15 năm đến dưới 18 năm 0 0 0 0 0 0 0%

Tỷ lệ % 100%

3,75% 78,75% 10% 1,25%

46

(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)

Bảng 2.4: Số liệu các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị và kết quả phúc

thẩm

Kết quả xét xử phúc thẩm

Tổng số vụ án

bị kháng cáo,

Năm

Tăng

Giảm

Y án

kháng nghị

hình phạt

hình phạt

2015 0 0 0 0

2016 3 3 0 0

2017 2 2 0 0

2018 2 1 1 0

2019 2 1 1 0

Tổng 9 7 2 0

(Nguồn: Văn phòng TAND Tp. Biên Hòa)

Qua bảng thống kê 2.3 và 2.4 cho thấy trong 05 năm (từ năm 2015-2019),

TAND thành phố Biên Hòa đã QĐHP đối với 75/80 bị cáo là người dưới 18 tuổi

phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong đó có

3/80 bị cáo (chiếm tỷ lệ 3,85%) bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ;

63/80 bị cáo (chiếm tỷ lệ 78,75) bị phạt tù từ 03 năm trở xuống; 8/80 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 10,0%) bị phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm; 01 bị cáo (chiếm tỷ lệ

1,25%) bị phạt tù trên 7 năm trở lên đến dưới 15 năm và không có bị cáo nào

được miễn hình phạt. Như vậy, số bị cáo bị áp dụng khoản 1 là nhiều nhất trong

tổng số bị cáo thực hiện tội phạm này. Ngoài ra, trong tổng số 32 vụ án được

TAND thành phố Biên Hòa đưa ra xét xử, có 07 bản án bị kháng cáo (trong đó,

TAND tỉnh Đồng Nai giữ nguyên án sơ thẩm đối với 07 bản án bị kháng cáo); 02

bản án bị kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo so với hình phạt

mà TAND thành phố Biên Hòa đã tuyên tại bản án sơ thẩm và 05 vụ án bị đình

chỉ do TAND thành phố Biên Hòa trả hồ sơ vụ án cho VKSND thành phố Biên

Hòa để điều tra, xác minh lại.

47

2.2.2.2. Thực trạng quyết định hình phạt theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm

2015 và khoản tương ứng của BLHS năm 1999

Theo bảng thống kê 2.2 nêu trên thể hiện, từ năm 2015-2019 có 25 vụ án

với 48 bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác bị TAND thành phố Biên Hòa QĐHP theo khoản 1

Điều 134 BLHS năm 2015 và khoản tương ứng của BLHS năm 1999. Khi áp

dụng khung hình phạt này, Tòa án phải căn cứ vào các quy định ở cả phần chung

và phần quy định về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

tại Điều 104 BLHS năm 1999, còn người phạm tội bị Tòa án áp dụng khung hình

phạt này nếu tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một

trong các quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS. Vụ án đã bị

xét xử với bản án số 52/2016/HS-ST ngày 28/6/2016 của TAND thành phố Biên

Hòa [14] sau đây là một thí dụ. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 14 giờ ngày

07/4/2016, Nguyễn Anh Tuấn điều khiển xe mô tô đi tìm Trần Tuấn Anh để đòi

lại số tiền 03 triệu đồng mà Nguyễn Anh Tuấn đã cho Trần Tuấn Anh vay từ năm

2014. Trên đường đi, Nguyễn Anh Tuấn phát hiện thấy Trần Tuấn Anh đi bộ

ngược chiều với mình, liền quay đầu xe mô tô lại và dừng xe, rút con dao bấm

dài khoảng 25cm mang theo từ trước và mở lưỡi dao ra, cầm trong tay để sau

lưng, tiến về phía Trần Tuấn Anh để đòi nợ. Hai bên lời qua, tiếng lại, Nguyễn

Anh Tuấn lao đến đâm 01 nhát dao vào phía nách phải của Trần Tuấn Anh rồi

điều khiển xe của mình bỏ đi. Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số

554/2016/GĐPY ngày 19/5/2016 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế Đồng Nai

kết luận mức độ tổn hại sức khỏe của Trần Tuấn Anh với tỷ lệ 02%. Quá trình

xét xử, TAND thành phố Biên Hòa đã xét nhân thân, tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

TNHS, thấy rằng: bị cáo Nguyễn Anh Tuấn là người có nhân thân xấu, từng có

tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra thấy rằng hành vi của bị cáo là nguy hiểm

48

cho xã hội, giữa bị cáo và người bị hại Trần Tuấn Anh có mâu thuẫn do người bị

hại không chịu trả nợ, nhưng do bản chất coi thường tính mạng, sức khỏe của

người khác, bị cáo đã dùng dao gây thương tích cho người bị hại. Tại cơ quan

điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; một phần do người bị hại

cũng có lỗi, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm

p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Về tình tiết tăng nặng đã áp dụng là tình tiết

định khung. Vì vậy, HĐXX đã áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 104; điểm p

khoản 1 Điều 46 của BLHS năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Tuấn mức án

là 08 tháng tù giam.

Từ vụ án trên cho thấy, HĐXX đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình

tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS và các điều kiện khác theo đúng quy định

pháp luật để quyết định hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

2.2.2.3. Thực trạng quyết định hình phạt theo các khoản tăng nặng (cấu

thành tội phạm tăng nặng: khoản 2, khoản 3, khoản 4) và quyết định hình phạt

trong trường hợp đồng phạm

QĐHP theo các khoản tăng nặng (theo các CTTP tăng nặng) là QĐHP trong

trường hợp tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã xảy ra

có tình tiết định khung tăng nặng ghi nhận tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của

Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy thuộc vào từng

trường hợp (CTTP tăng nặng) cụ thể mà Tòa án quyết định hình phạt đối với

người phạm tội. Vụ án đã bị xét xử có bản án số 206/2017/HS-ST ngày

29/5/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [15] là một minh chứng. Nội dung vụ

án như sau: Sau khi nghe Trương Tuấn Kiệt kể về việc Kiệt có mâu thuẫn với em

Nguyễn Duy Lâm, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 09/8/2016, Trương Tuấn Vũ rủ

Trần Quang Anh Khải, Trần Quốc Bảo, Nguyễn Tấn Phong, Bè (không rõ lai

lịch), cu Lì (không rõ lai lịch) và Nguyễn Hà Xuân Phú (sinh ngày 18/01/2002)

đi tìm em Lâm để đánh trả thù. Trước khi đi, Vũ mang theo 01 chiếc kéo mũi

49

nhọn dài khoảng 20cm, Khải mang theo 01 con dao dài khoảng 18cm và cả nhóm

điều khiển 03 xe mô tô (không rõ biển số) đi đến đoạn đường hẻm thuộc khu phố

4, phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa thì thấy Lâm đang đứng chơi cùng một

số người bạn. Phong giữ xe để Vũ, Khải, Bảo, Phú, Bè và cu Lì xông vào dùng

tay đánh em Lâm. Lâm bỏ chạy. Vũ và Khải rượt đuổi theo Lâm. Vũ dùng kéo

đâm nhiều nhát trúng vào khuỷu tay trái, vùng lưng, vai phải và vai trái của em

Lâm, còn Khải dùng dao đâm một nhát trúng vào vùng bụng trái của em Lâm gây

thương tích. Sau đó, Vũ, Khải, Bảo, Phong, Phú, Bè và cu Lì bỏ đi. Em Lâm

được những người xung quanh đưa đi cấp cứu với tỷ lệ thương tật là 23% (theo

Giấy chứng nhận thương tích số 158 ngày 30/8/2016 của Bệnh viện đa khoa

Thống Nhất và bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0819/GĐPY

ngày 22/9/2016 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế Đồng Nai).

Tại phiên tòa, HĐXX đã nhận định: khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị

cáo đều chưa đủ 18 tuổi; đây là vụ án đồng phạm giản đơn, vai trò của các bị cáo

trong vụ án thể hiện như sau:

Bị cáo Vũ: có vai trò là người rủ rê; bị cáo có các tình tiết tăng nặng (như:

phạm tội với người dưới 16 tuổi, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội) và có các

tình tiết giảm nhẹ (như: đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục

hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin giảm

nhẹ hình phạt cho bị cáo).

Bị cáo Khải: là người thực hiện hành vi tích cực, đã dùng dao đâm vào bụng

người bị hại. Bị cáo có các tình tiết tăng nặng (như: phạm tội với người dưới 16

tuổi; bị cáo còn đang bị xử lý khác) và có các tình tiết giảm nhẹ (đó là: đã tự

nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo,

đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo).

Bị cáo Bảo: là người tích cực thực hiện hành vi phạm tội; đã phạm tội với

người dưới 16 tuổi; nhưng đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc

50

phục hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại có đơn xin

giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Phong: là người giúp sức, trông xe cho các bị cáo Vũ, Khải, Bảo

thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có tình tiết tăng năng là phạm tội với người

dưới 16 tuổi; có các tình tiết giảm nhẹ (như: đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường

thiệt hại, khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, đồng thời gia đình người bị hại

có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo). Trong vụ án này, bị cáo Phong là

người có vai trò không đáng kể nên mức án của bị cáo sẽ thấp hơn các bị cáo

khác trong cùng vụ án và không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.

Đối với Bè và cu Lì, do không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều

tra Công an thành phố Biên Hòa tách các đối tượng này ra khỏi vụ án để xác

minh làm rõ là phù hợp.

Đối với Nguyễn Hà Xuân Phú, sinh ngày 08/01/2002, khi thực hiện hành vi

phạm tội, Phú chưa đủ tuổi chịu TNHS nên cơ quan công an thành phố Biên Hòa

đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

Từ nhận định trên, tại Bản án số 206/2017/HS-ST ngày 29/5/2017, HĐXX

của TAND thành phố Biên Hòa đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cố ý gây

thương tích” và áp dụng khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 để QĐHP đối với

các bị cáo, cụ thể là: xử phạt bị cáo Trương Tuấn Vũ 02 năm 02 tháng tù; bị cáo

Trần Quang Anh Khải 02 năm tù; bị cáo Trần Quốc Bảo 14 tháng tù; bị cáo

Nguyễn Tấn Phong 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Qua vụ án trên cho thấy, khi QĐHP, HĐXX đã xét đến tính chất của đồng

phạm, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng đồng phạm,

nhân thân, tuổi chịu TNHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị

cáo cũng như các điều kiện khác một cách đầy đủ, khách quan và đúng quy định

pháp luật. Do đó, mức hình phạt mà HĐXX đã tuyên đối với các bị cáo là hoàn

toàn phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo

với vai trò là người đồng phạm.

51

Cũng như định tội danh, QĐHP của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện vẫn còn những vi phạm, sai lầm mà nguyên nhân chính là

do TAND thành phố Biên Hòa không xem xét kỹ lưỡng, đúng quy định pháp

luật, không đánh giá đúng vai trò, hành vi, tính chất, mức độ của hành vi phạm

tội của từng bị cáo trong trường hợp là đồng phạm. Điển hình là vụ án đã bị xét

xử với bản án hình sự sơ thẩm số 153/2019/HS-ST ngày 05/4/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa [13] đã được học viên trình bày ở tiểu mục định tội danh.

Vấn đề là ở chỗ, HĐXX sơ thẩm đã đình chỉ xét xử đối với bị cáo Long, tuyên bố

Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội “cố ý gây thương tích” do người bị hại

(bà Phạm Thị Hoan) đã rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Long; đồng thời, tuyên

bố bị cáo Hùng phạm tội “cố ý gây thương tích” và xử phạt bị cáo Hùng 02 năm

cải tạo không giam giữ.

Không đồng ý với bản án nêu trên, Viện trưởng VKSND thành phố Biên

Hòa đã có Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 đề nghị

Tòa án cấp phúc thẩm thay đổi hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo

Hùng thành hình phạt tù giam, và Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-

VKSBH ngày 24/4/2019 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ phần nội dung

tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm tội CYGTT của bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa, HĐXX phúc thẩm nhận định: việc Tòa án cấp sơ thẩm đình

chỉ xét xử đối với bị cáo Long và tuyên bố Vũ Thiện Hoàng Long không phạm

tội “cố ý gây thương tích” là không có căn cứ; cấp sơ thẩm cần phải xác định lại

bị hại có rút yêu cầu khởi tố vụ án hay không; trường hợp phải xét xử, vụ án có

đồng phạm nên cần phải đánh giá vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt

cho phù hợp; hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp

đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính băng nhóm tội

phạm, sẵn sàng cùng nhau gây thương tích cho người khác khi được thuê, rất

xem thường pháp luật, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương và gây hoang

52

mang trong quần chúng nhân dân; do đó, cấp sơ thẩm phải có quyết định về hình

phạt thật nghiêm, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Vì vậy, HĐXX phúc thẩm đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với

kháng nghị tại Quyết định kháng nghị số 2304/QĐ-VKSBH ngày 18/4/2019 và

Quyết định kháng nghị bổ sung số 2439/QĐ-VKSBH ngày 24/4/2019 của Viện

trưởng VKSND thành phố Biên Hòa; hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số

153/2019/HS-ST ngày 05/4/2019 của TAND thành phố Biên Hòa; chuyển toàn

bộ hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Biên Hòa để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục

chung.

53

Kết luận Chương 2

Định tội danh và QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hai hoạt động của Tòa án trong quá

trình áp dụng pháp luật hình sự để xử lý tội phạm và người phạm tội.

Từ thực tiễn định tội danh và QĐHP về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019, các cơ quan THTT đã vận dụng đúng

các lý luận về định tội danh vào thực tiễn để từ đó QĐHP chính xác, không bỏ lọt

tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy vẫn còn một số vướng mắc trong thực

tiễn nhưng cơ bản việc xét xử đối với tội phạm này cũng không quá phức tạp, khả

năng dẫn đến vi phạm, sai lầm là không cao. Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật

hình sự trong quá trình định tội danh và QĐHP của các cơ quan THTT, trong đó

có TAND thành phố Biên Hòa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã góp phần nâng cao hiệu quả đấu

tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm này nói riêng trên địa bàn

thành phố.

Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18

tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong chương 3 của Luận

văn, tác giả sẽ nêu ra những yêu cầu và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp

dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội danh này.

54

Chương 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN

3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18

tuổi thực hiện

3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc thì “Quyền con người là những

bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại

những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho

phép và tự do cơ bản của con người” [5, tr.37].

Ở Việt Nam, từ khi thành lập cho đến nay, Nhà nước ta luôn coi trọng các

quyền con người, coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật của

nhà nước [20, tr.51]. Bằng quy định trong Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên

trong lịch sử lập hiến ở nước ta, nguyên tắc tôn trọng các quyền con người được

khẳng định trong đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi

nhận và đảm bảo thực hiện tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đồng

thời đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó

có pháp luật hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản

của công dân. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017) ngoài việc đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công

dân, xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền công dân thì

cũng cần được nghiên cứu, sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và

tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để

người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng

55

quyền con người, quyền công dân vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn

diện; người dân chưa thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống vì trong xã

hội vẫn còn xảy ra những vụ CYGTT rất nghiêm trọng, liều lĩnh hay những vụ

giết người dã man, cướp của tàn bạo đã gây chấn động dư luận và gây tâm lý

hoang mang, lo sợ trong nhân dân; người dân chưa thực sự yên tâm phát huy tính

sáng tạo trong lao động, sản xuất hay tích cực, chủ động tham gia các phong trào

đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật do cơ quan nhà nước

có thẩm quyền ở địa phương phát động. Ngoài ra, hiện nay, việc xóa án tích đối

với người bị kết án rất phức tạp, thủ tục rườm rà nên chưa tạo điều kiện thuận lợi

cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS cần phải tiếp tục được hoàn thiện

để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ môi trường sống an

lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ

của công dân; động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân an tâm lao động,

sản xuất, sáng tạo khoa học và tích cực hưởng ứng, tham gia đấu tranh phòng,

chống tội phạm nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

và phát triển nền kinh tế của đất nước.

3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp

Thực tiễn cho thấy hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói

riêng là công cụ sắc bén để bảo vệ Đảng, Nhà nước và các quyền, lợi ích hợp

pháp của tập thể, cá nhân; đồng thời được xem là nội dung quan trọng trong

chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện

thông qua việc Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết liên quan đến cải cách tư

pháp, như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.

56

Trên cơ sở các Nghị quyết này, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung

nhiều văn bản pháp luật liên quan đến tố tụng như Hiến pháp năm 2013; Luật tổ

chức VKSND năm 2014; Luật tổ chức TAND năm 2014; Luật tổ chức cơ quan

điều tra năm 2015; BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); BLTTHS năm

2015 và các đạo luật tư pháp khác..., trong đó xác định rõ và đầy đủ hơn chức

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư

pháp. Trong các văn bản pháp luật này, có thể nói rằng BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) đã phần nào thể chế hóa những quan điểm và chủ trương của

Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, đó là:

"Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, đề cao

hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm

hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ

đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ

áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung

hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình

sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm

đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế” [2].

3.1.3. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội phạm

Hiện nay, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội và những thành tựu về

khoa học, kỹ thuật thì tình hình tội phạm, tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực

hiện nói riêng cũng diễn ra hết sức phức tạp, có nơi trong tình trạng báo động.

Có thể thấy rằng tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng đã xâm hại tới tính

mạng, sức khỏe, là thứ quý giá nhất của con người. Hành vi này đã xâm phạm tới

một trong những quyền cơ bản của công dân, đó là quyền được sống và quyền

57

được đảm bảo về sức khỏe. Loại tội phạm này tuy không có những thủ đoạn tinh

vi như các loại tội phạm khác nhưng lại ẩn chứa hiểm họa sâu sắc, ngày càng

manh động và ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, yêu cầu phòng

ngừa tình hình tội phạm, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng được coi là

biện pháp hiệu quả nhất trong công cuộc duy trì trật tự, an ninh xã hội, không chỉ

là trách nhiệm riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội;

đồng thời Nhà nước phải có những chính sách, pháp luật đúng đắn nhằm ngăn

chặn, giảm thiểu mức độ, hậu quả mà tội phạm gây ra đối với xã hội, ngăn chặn

không để cho bất kỳ cá nhân nào phạm tội và phải chịu TNHS. Áp dụng đúng

pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác sẽ tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người phạm tội, tạo điều kiện tốt cho

họ tự tích cực cải tạo, giáo dục trở thành người lương thiện, không phạm tội mới,

đồng thời tác động tốt đến ý thức pháp luật của mọi người trong xã hội, qua đó

thực hiện phòng ngừa chung. Rõ ràng, áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

phạm nói chung và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do

người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng góp phần to lớn vào phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta hiện nay.

3.1.4. Yêu cầu hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài và có

nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ

giữa con người với con người. Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải có

mối liên kết chặt chẽ với nhau. Ở phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát triển

thì phải liên kết với các quốc gia khác. Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển

của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng và hình thành thị trường

khu vực cũng như quốc tế [16].

Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường

58

định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta, Việt Nam đã có những

phát triển nhanh chóng vượt bậc về tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên,

do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của

công nghệ thông tin, bọn tội phạm đã triệt để lợi dụng những yếu tố này để hoạt

động với nhiều thủ đoạn, hành vi khác nhau (như tổ chức cá độ, cho vay tiền, thế

chấp tài sản,…trên mạng) dẫn đến tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến ngày

càng phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng như tội phạm về

môi trường, buôn bán người qua biên giới, buôn bán ma túy xuyên quốc gia, rửa

tiền, sử dụng công nghệ cao,…

Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, tình trạng tội phạm do người dưới

18 tuổi thực hiện ngày càng nhiều cả về số lượng và mức độ phạm tội, trong đó

có tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mà một

trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm đó là do sự phát triển của công

nghệ thông tin, công nghệ điện tử, giải trí với các sản phẩm mang xu hướng bạo

lực đã tác động tiêu cực đến suy nghĩ và hành động của người dưới 18 tuổi; từ

đó, họ sẵn sàng sử dụng bạo lực hoặc hung khí để giải quyết mâu thuẫn với nhau.

Thủ đoạn phạm tội của nhóm đối tượng này tuy không tinh vi như các loại tội

phạm nêu trên và cũng không chỉ là sự bộc phát tức thời mà ngày càng manh

động, thậm chí thông qua các trang mạng xã hội, nhóm đối tượng này đã hình

thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao gây ra những hậu quả

nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm xôn xao dư luận xã

hội. Vì vậy, để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bên cạnh việc

tham gia các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm, ký các hiệp định với

các nước trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống tội phạm,… thì việc xây

dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và áp dụng đúng pháp luật hình sự

trên cơ sở nội luật hóa hơn nữa các điều ước quốc tế và học tập kinh nghiệm lập

pháp hình sự nước ngoài về xử lý hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo

vệ tốt hơn các quan hệ xã hội khỏi sự xâm phạm của tội phạm nói chung và tội

59

phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, duy trì và củng cố tốt trật tự xã hội, đem

lại sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào nền tư pháp hình sự nước ta.

Rõ ràng áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các loại tội phạm nói chung và

tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới

18 tuổi thực hiện nói riêng là một trong những yêu cầu cần thiết trong giai đoạn

hiện nay.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình

sự

* Đối với pháp luật hình sự

- Về tuổi chịu TNHS, tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về

mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm

trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,

141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,

252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [3, tr.15].

Như vậy, theo quy định tại Điều luật này thì tuổi chịu TNHS là từ đủ 14

tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại 28 điều luật, trong đó

có Điều 134 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Thực tiễn hiện

nay, có một số vụ án rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng về tội CYGTT

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 14 tuổi gây ra

nhưng không thể xử lý bằng hình sự được. Hay cũng có một số vụ án do người

dưới 18 tuổi phạm tội nhưng không thể đưa ra xét xử được vì các đối tượng này

mới chỉ ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16 tuổi nhưng chỉ phạm các tội ít nghiêm trọng

60

hoặc nghiêm trọng, thì cho dù họ có phạm tội cũng chỉ xử lý hành chính, chứ

không thể xử lý bằng hình sự.

Mặt khác, việc quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu

TNHS trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

quy định tại Điều 134 của BLHS này là không phù hợp với thực tế tình hình tội

phạm. Việc quy định như vậy, sẽ tạo ra kẽ hở cho các đối tượng phạm tội sử

dụng người dưới 18 tuổi vào việc thực hiện tội phạm .

Chính những bất cập này đã là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dưới

18 tuổi phạm tội nhiều nhưng số lượng được đưa ra xét xử lại rất ít và đó cũng

chính là nguyên nhân chưa nâng cao được hiệu quả phòng ngừa người dưới 18

tuổi phạm tội thông qua công tác xét xử của Tòa án.

- Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng là những bất cập hiện nay làm hạn chế hiệu

quả phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua công tác xét xử các vụ án

hình sự của Tòa án, đó chính là những quy định tại các Điều 101 và 103 BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt tù đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể là:

+ Tại Điều 101 quy định về “Tù có thời hạn” như sau: “1) Đối với người từ

đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định

hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng

không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp

dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. 2) Đối với người

từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định

hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng

không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp

dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định” [3, tr.87].

+ Tại Điều 103 quy định về “Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm

nhiều tội, trong đó thể hiện nội dung: “Nếu hình phạt chung là cải tạo không

giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình

61

phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không

được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội

và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội” [3, tr.88].

Như vậy, quy định về việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội theo Điều 101 và tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

theo Điều 103 như BLHS hiện hành là không phù hợp. Mặc dù, mục đích của

hình phạt nói chung không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội

trở thành người có ích cho xã hội, còn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì

mục đích của Nhà nước là chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm

chứ không phải là mang tính trừng trị, song hiện nay rõ ràng việc người dưới 18

tuổi phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nên những hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng không còn là cá biệt mà đang có chiều hướng gia tăng thì mức hình

phạt như quy định hiện nay là không phù hợp.

Từ những bất cập nêu trên, quan điểm của tác giả về vấn đề áp dụng hình

phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:

Về độ tuổi chịu TNHS thì theo Công ước quốc tế cũng không bắt buộc mà

việc quy định về độ tuổi chịu TNHS hay độ tuổi dưới 18 là tùy theo quy định của

mỗi quốc gia thành viên. Do đó, thiết nghĩ không cần phải hạ độ tuổi chịu TNHS

hay hạ độ tuổi người dưới 18 tuổi, mà nên sửa đổi BLHS theo hướng tăng mức

hình phạt khi xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, mặc dù hiện cũng có

nhiều quan điểm không đồng ý, song với thực trạng người dưới 18 tuổi phạm tội

hiện nay, Nhà nước ta cũng cần có sự thay đổi về chính sách hình sự theo hướng

nghiêm khắc hơn cho phù hợp với tình trạng gia tăng người dưới 18 tuổi phạm

tội hiện nay. Điều đó cũng không trái với nội dung của các Công ước quốc tế. Để

khắc phục tình trạng trên, cần nâng mức hình phạt nếu tới tử hình thì độ tuổi từ

đủ 16 đến dưới 18 phải là 20 năm và độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 phải là 18 năm

và khi tổng hợp hình phạt cũng nên tổng hợp theo trường hợp bình thường là đến

30 năm. Đồng thời, theo pháp luật của Việt Nam, trong quá trình cải tạo thì người

62

bị kết án vẫn có cơ hội được giảm án và phóng thích trước thời hạn; vì thế, việc

tăng mức hình phạt là cần thiết và phù hợp với tình hình gia tăng tình trạng người

dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay và mới đủ sức để răn đe cũng như nâng cao được

hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người người dưới 18 tuổi gây ra thông qua

công tác xét xử của Tòa án và không trái với các Công ước quốc tế mà Việt Nam

tham gia.

* Đối với pháp luật tố tụng hình sự

Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về tinh thần và thể chất.

Đồng thời trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế và rất dễ bị

kích động, rủ rê, lôi kéo vào những hoạt động của người lớn. Trên thực tế, có

những đối tượng sau khi phạm tội thì tỏ vẻ lo sợ, hối hận về hành vi vi phạm

pháp luật của mình, nhưng cũng có đối tượng sau khi phạm tội thì cố tạo ra vẻ

bất cần, không sợ hãi,…Tuy nhiên, những biểu hiện này cũng chỉ là những phản

ứng rất bình thường của lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân cách; bởi

vậy, đòi hỏi các quy định của pháp luật phải làm sao vừa mang tính răn đe, vừa

mang tính giáo dục hiệu quả nhất và một trong những biện pháp quan trọng nhất

đó là việc thay đổi từ các quy định của BLTTHS. Trong BLTTHS hiện hành,

mặc dù đã có một chương riêng quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới

18 tuổi phạm tội (Chương XXVIII), thế nhưng đó cũng chỉ là những quy định

mang tính chung nhất, chưa cụ thể và phù hợp với hoạt động tố tụng của các cơ

quan và người THTT đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như đã phân tích về

đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên ở trên, thì các quy định của

BLTTHS cần quy định cụ thể và riêng biệt hơn nữa đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Mặc dù hiện nay, hệ thống Tòa án đã thành lập các Tòa gia đình và người

dưới 18 tuổi để xét xử với các phòng xét xử thân thiện nhưng các cơ quan THTT

cũng chưa có đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán riêng biệt được

trang bị những kiến thức cần thiết về tâm lý học cũng như về khoa học giáo dục

63

khi xét xử đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi. Mặt khác, các Thẩm phán khi

xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng chính là Thẩm phán xét xử đối

với người thành niên, thậm chí trong cùng một phiên tòa có khi vừa xử vụ án đặc

biệt nghiêm trọng đối với người thành niên nhưng lại tiếp tục xét xử đối với

người dưới 18 tuổi dẫn đến tình trạng Thẩm phán đó vẫn giữ nguyên thái độ như

khi xét xử với người thành niên, có trường hợp còn lớn tiếng hoặc có những lời lẽ

không phù hợp với tâm lý của bị cáo là người dưới 18 tuổi, câu hỏi đôi khi không

mang tính giáo dục mà còn mang tính quy chụp, buộc tội, không có tính thân

thiện, hòa nhã nên đã khiến cho bị cáo là người dưới 18 tuổi sợ hãi, căng thẳng

và có cảm giác bị kỳ thị, từ đó có thể dẫn đến tình trạng tiêu cực từ phía bị cáo là

người dưới 18 tuổi sau phiên tòa hoặc sau khi được về với gia đình thì họ liều

lĩnh và nguy hiểm hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho hiệu quả phòng

ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội, thông qua công tác xét xử của Tòa án không

cao.

Để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS về mô hình của Tòa án

và đội ngũ xét xử các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay, theo tác

giả, cùng với việc thành lập Tòa án gia đình và người dưới 18 tuổi, thì các cơ

quan THTT cũng cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ những người THTT, kể cả

Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán riêng biệt sao cho họ được trang bị

những kiến thức cần thiết về tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi, đồng thời nên có

những phòng điều tra thân thiện đối với người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm quyền

của trẻ em. Bên cạnh đó, các cơ quan và người THTT cần phải chấp hành nghiêm

các quy định trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội ở các giai đoạn điều

tra, truy tố, xét xử tại Chương XXVIII và Điều 76 BLTTHS năm 2015, Nghị

quyết số 03/2004/NQHĐTP ngày 02/10/2004 của TAND tối cao và một số văn

bản khác liên quan đến việc bảo đảm quyền cũng như đường lối xử lý đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội.

64

3.2.2. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật; hướng dẫn áp

dụng thống nhất pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện

3.2.2.1. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật

Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện là hoạt động

của các cơ quan pháp luật (trong đó có cơ quan THTT) tổng kết những kết quả

đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để xử lý người dưới 18 tuổi

phạm tội này, như: nêu lên các vụ án tiêu biểu; đường lối xử lý vụ án đúng đắn

và nhanh chóng; các văn bản thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước (bản án,

quyết định,...) có tính chuẩn mực và chính xác cao nhằm làm tiêu chí để các chủ

thể khác học tập. Mặt khác, thông qua tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự, các cơ quan pháp luật còn nêu lên những kết quả cụ thể trong công tác phối

hợp liên ngành giữa các cơ quan hoặc giữa các quốc gia trong quá trình đấu tranh

phòng, chống tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

do người dưới 18 tuổi thực hiện, hoặc là chỉ ra những sai lầm, vướng mắc trong

việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện.

Từ việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện sẽ giúp

phản ánh được những vấn đề chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật hình sự

khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết vụ án; trên cơ sở đó, các nhà làm luật sẽ

phân tích, đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp này và đề xuất các

kiến nghị, giải pháp sửa đổi các quy phạm pháp luật hình sự sao cho phù hợp với

tình hình thực tế, đồng thời đảm bảo tính khả thi cao của các quy phạm pháp luật

hình sự khi được áp dụng để giải quyết vụ án hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.

65

3.2.2.2. Về hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật

Để việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong xử lý người dưới 18 tuổi

phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đạt hiệu quả cao

thì cần phải có các hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự đối với người

dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này. Hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật

hình sự đó có thể là hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp

luật hình sự của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay là những hoạt động

khác nhằm đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào thực tiễn, như: tổ chức các

lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho những người THTT; chỉ dẫn và

thực hiện các đường lối giải quyết kiểu mẫu trong một số vụ án hình sự cụ thể,...

nhằm nâng cao nghiệp vụ và khả năng áp dụng pháp luật của những người thực

hiện pháp luật trong ngành, hoặc là các hoạt động trao đổi thông tin hay kinh

nghiệm giữa các ngành hoặc các cơ quan THTT với nhau nhằm tìm ra đường lối

chung nhất để giải quyết những vụ án hình sự phức tạp về tội CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện mà trong

thực tiễn vẫn còn nhiều quy phạm pháp luật hình sự hướng dẫn chưa rõ ràng hoặc

chưa có hướng dẫn cụ thể.

3.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp của người áp dụng và người tham gia áp dụng pháp luật hình sự về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người

dưới 18 tuổi thực hiện

Có thể thấy rằng chất lượng xử lý tội phạm hình sự nói chung và tội phạm

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện nói riêng của các cơ quan pháp luật phụ thuộc rất lớn vào năng lực,

trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ pháp luật, mà ở đây

chủ yếu là những người THTT và những người tham gia áp dụng pháp luật. Nếu

các chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là những người thiếu năng lực, chuyên

môn hoặc yếu kém trong việc vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào giải

66

quyết vụ án hình sự trong thực tiễn thì dễ dẫn đến việc các vụ án hình sự được

giải quyết chậm trễ, không chính xác hoặc thậm chí có oan sai. Không những thế,

đối với những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề

nghiệp cũng sẽ là một trong những nguyên nhân làm cho việc giải quyết vụ án

không được công bằng, khách quan. Vì vậy, để giải quyết các vụ án hình sự về

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện đạt chất lượng cao, nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật

thì những người THTT, kể cả những người tham gia áp dụng pháp luật hình sự

phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chủ động

nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng như phải thường

xuyên trau dồi kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng áp dụng pháp luật, bản lĩnh chính

trị, đạo đức nghề nghiệp của mình; phải tôn trọng, tậm tâm, tận tụy phục vụ nhân

dân, tuyệt đối không được có thái độ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu,

gây phiền hà đối với nhân dân hoặc có các hành vi tham nhũng, đồng thời phải

luôn có tinh thần trách nhiệm, phối hợp tốt với đồng nghiệp trong quá trình tác

nghiệp thực hiện nhiệm vụ.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho áp dụng pháp

hình sự

Để thực hiện giải pháp này, Nhà nước cần phải quan tâm bố trí trụ sở làm

việc, đầu tư các phương tiện, máy móc, thiết bị hiện đại cho các cơ quan THTT,

người THTT nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ có địa điểm làm việc thoáng

mát, sạch sẽ, có những phương tiện, trang thiết bị tốt nhất phục vụ cho nhiệm vụ

chuyên môn. Có như vậy mới giúp cho việc giải quyết vụ án hình sự về tội

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện đạt được độ chính xác cao, vừa rút ngắn thời gian hoàn thành quá trình

giải quyết ở mỗi giai đoạn tố tụng và vừa rút ngắn tổng thể thời gian giải quyết

vụ án.

67

Kết luận Chương 3

Trong Chương 3 của luận văn, tác giả đã tập trung phân tích về yêu cầu

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện, như: yêu cầu bảo

vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu cải cách tư pháp; yêu cầu phòng

ngừa tình hình tội phạm, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng; yêu cầu hội

nhập quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm

việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong xử lý người dưới 18

tuổi thực hiện tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Đây là các yêu cầu và giải pháp cần thiết, thiết nghĩ nếu được áp dụng vào xây

dựng hoàn thiện pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong xử lý hành vi

phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới

18 tuổi thực hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.

68

KẾT LUẬN

Đấu tranh phòng, chống tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác nói chung và do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng trên địa

bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan

bảo vệ pháp luật mà còn là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân

thành phố Biên Hòa. Cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này sẽ có tác dụng

thuyết phục và tạo niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, vào

sự lãnh đạo của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật của thành phố.

Thành công của cuộc đấu tranh này sẽ góp phần vào việc bảo đảm an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội, là điều kiện tốt cho sự phát triển các lĩnh vực của thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quá trình nghiên cứu thực tiễn các vụ án về tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện tại TAND thành

phố Biên Hòa, tác giả nhận thấy đa số các vụ án đảm bảo xét xử đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai và hầu hết các vụ án đều được nhân dân

đồng tình, ủng hộ. Trong luận văn, tác giả đã bước đầu tiếp cận, khái quát, đưa ra

có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động định tội danh và

QĐHP đối với tội này theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017). Qua thống kê, đánh giá tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn

thành phố Biên Hòa trong thời gian qua cho thấy TAND thành phố Biên Hòa

luôn chú trọng đến hiệu quả của công tác xét xử. Điều này thể hiện đa số vụ án

không có kháng cáo, kháng nghị và có xu hướng giảm trong những năm gần đây.

Để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”, tác giả đã cố gắng sưu tầm tài liệu,

nghiên cứu, vận dụng lý luận và thực tiễn; đồng thời đưa ra những giải pháp

69

nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện. Tuy nhiên, do

luận văn được thực hiện trong thời gian ngắn và do bước đầu làm quen với việc

nghiên cứu khoa học, đồng thời bản thân còn nhiều hạn chế về trình độ kiến thức,

khả năng diễn đạt cũng như kinh nghiệm thực tiễn,… nên luận văn sẽ không

tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý

thầy cô, các bạn học viên,… để tác giả hoàn thiện luận văn này./.



70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (khóa XI), Báo cáo chính trị

trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Biên Hòa lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 -

2025.

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Trần Văn Hà (2018), Chỉ dẫn tra cứu áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

4. Học viện Khoa học Xã hội (2013), “Tìm hiểu pháp luật về tội cố ý gây

thương tích”, Tạp chí Khoa học Xã hội, (số 5), tr.44.

5. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp

luật về quyền con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Khoa Luật Hình sự - Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình

Luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm (quyển 1), Nxb Hồng Đức, Thành

phố Hồ Chí Minh.

7. Quốc hội, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

8. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ

nhất: Những quy định chung (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thông tin và Truyền

thông, Hà Nội.

9. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ

hai: Các Tội phạm - Chương XIV: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con người (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thông tin và Truyền

thông, Hà Nội.

10. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật Hình sự so sánh (sách chuyên khảo), Nxb

Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

11. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 248/2017/HS-ST ngày

19/9/2017.

71

12. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 131/2019/HS-ST ngày

21/3/2019.

13. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 153/2019/HS-ST ngày

05/4/2019.

14. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 52/2016/HS-ST ngày

28/6/2016.

15. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Bản án số 206/2017/HS-ST ngày

29/5/2017.

16. Trần Anh Tuấn – Vụ Pháp luật quốc tế, Khái quát chung về hội nhập

quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Trang thông tin điện tử Pháp luật quốc tế,

https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/thuong-mai-tai-chinh.aspx?ItemID=5, ngày

04/10/2018.

17. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh (Giáo trình sau

đại học), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

18. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần

chung, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

19. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các

tội phạm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20. Võ Khánh Vinh (2015), Quyền con người (Giáo trình sau Đại học), Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

72