intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học: Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý...)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

54
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng đến mục đích tiếp cận mang tính bước đầu với các tác phẩm từ truyền thống đến đương đại viết về Hà Nội, một trong nhiều đề tài làm nên sự phong phú của nền văn học Việt Nam. Từ đó nhận biết được mối quan hệ giữa dòng văn học viết về Hà Nội, thấy được sự tồn tại có mối liên kết chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học: Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý...)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------- LÊ NGỌC HÀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRONG TẢN VĂN CỦACÁC NHÀ VĂN HÀ NỘI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ, ĐỖ PHẤN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ...) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lý luận văn học Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------- LÊ NGỌC HÀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRONG TẢN VĂN CỦACÁC NHÀ VĂN HÀ NỘI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ, ĐỖ PHẤN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ...) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60220120 Người hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam Hà Nội - 2015
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3 3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu................................................ 5 4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 6 5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. VĂN CHƢƠNG VIẾT VỀ HÀ NỘI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN, NGUYỄN VIỆT HÀ, NGUYỄN NGỌC TIẾN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ ................................................................. 8 1.1. Truyền thống văn chương viết về Hà Nội.............................................. 8 1.1.1. Từ trong truyền thống ..................................................................... 8 1.1.2. Trong văn học trước 1945............................................................. 17 1.1.3. Trong văn học kháng chiến ........................................................... 23 1.2. Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến và Nguyễn Trương Quý trong góc nhìn văn chương viết về Hà Nội thời kỳ đổi mới ....................... 26 CHƢƠNG 2. BỨC TRANH ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TẢN VĂN VIẾT VỀ HÀ NỘI ......................................................................................... 31 2.1. Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa......................................... 31 2.2. Vẻ đẹp của đời sống đô thị thời kỳ đổi mới ......................................... 37 2.3. Nguy cơ đánh mất bản sắc ................................................................... 46 2.4. Sự xuống cấp về văn hóa và lối sống ................................................... 49 2.5. Đô thị hiện đại và sự cô đơn của con người......................................... 52 CHƢƠNG 3. ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ............... 56 3.1. Ngôi kể và điểm nhìn ........................................................................... 56 3.1.1. Ngôi kể........................................................................................... 56 3.1.2. Điểm nhìn ...................................................................................... 60 3.2. Ngôn ngữ giọng điệu............................................................................ 64 3.2.1. Giọng hoài niệm trữ tình ............................................................... 65
  4. 3.2.2. Giọng suy tư, triết lý...................................................................... 69 3.2.3. Giọng trào lộng ............................................................................. 73 3.2.4. Giọng tự nhiên, dí dỏm.................................................................. 76 3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật ......................................................... 79 3.3.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 79 3.3.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93
  5. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Luận văn của chúng tôi lựa chọn đề tài Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý...) với các lý do sau: Thứ nhất: Hà Nội là thành phố có lịch sử lâu đời. Với chiều dài lịch sử lâu đời, Hà Nội mang trong mình những nét đẹp truyền thống của cả một dân tộc. Từ cảnh vật, kiến trúc đến con người, dường như ai đã từng đặt chân lên mảnh đất ngàn năm văn hiến này đều không thể quên. Người Hà Nội mang trong mình phẩm chất cao quý đặc trưng mà cái nổi lên rõ nhất là “thanh lịch”. Điều này không những thể hiện trong đời sống vật chất mà trong cả đời sống tinh thần của người Kinh kỳ. Đó là sự trang nhã, thanh cao trong tư duy, tình cảm, tâm hồn; là sự lịch lãm trong ứng xử mang tính văn hóa, chuẩn mực và tinh tế từ trong cuộc sống thường ngày cho đến những hoạt động văn hóa đỉnh cao. Cũng chính vì những nét văn hóa đặc trưng mà từ xưa đến nay, Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo văn chương. Ta có thể dễ dàng đọc được những câu thơ ca ngợi về mảnh đất Kinh kì trong thơ của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương; và cho đến tận bây giờ, trải qua hơn 1000 năm văn hiến, Hà Nội vẫn luôn dành được sự ưu ái của các nhà văn, nhà thơ. Hà Nội đã và đang thay đổi từng ngày cùng sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển về kinh tế ngoài việc góp phần làm thay đổi về trình độ học vấn còn tác động không nhỏ vào đời sống tinh thần của con người, nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc của toàn xã hội, đặc biệt là đối với những đô thị hiện đại như Hà Nội. Chính những điều này, bên cạnh những tác động mạnh mẽ và tích cực đưa cuộc sống tiến lên, đã vô hình thêm vào cuộc sống của con người những gì là ngột ngạt, xuống cấp về đạo đức. LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 1
  6. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Thứ hai: Tản văn viết về cuộc sống đô thị hiện đại của Hà Nội có những đặc sắc riêng về thể loại. Trước hết, khởi nguồn của tản văn bắt nguồn từ Trung Quốc, thể loại tản văn ra đời để phân biệt với vận văn và biền văn. Có nghĩa là những bài viết không phải thơ, từ, ca, phú, khúc đều có thể được gọi là tản văn. Còn theo từ điển thuật ngữ văn học: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc hoạ nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả... Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tuỳ ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả" [13; 293]. Ngay cả ranh giới của các thể loại như tản văn, tạp văn, tạp bút, tản mạn cũng đã nhoà dần, ngược lại cũng chính vì điều đó mà tản văn đã không bị gò bó, thậm chí đã nới rộng ranh giới thể loại, và làm phong phú đề tài chủ đề. Thể tản văn đã trở nên “quen thuộc” với người đọc. Họ tìm thấy ở tản văn những vấn đề của đời sống và con người đương đại: Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ quá khứ đến hiện tại, từ những khoảnh khắc bất chợt, thoáng chốc đến những vấn đề muôn thuở, từ những sự vật hiện hữu đến những ấn tượng vô hình trong thế giới của ý niệm, vùng mờ tâm linh. Hệ thống hình ảnh, chi tiết trong tản văn được sử dụng hết sức tinh lọc, súc tích với sự liên kết các chi tiết, bộc lộ thông điệp mà người viết gửi gắm. Do vậy, có thể nói, một trong những đặc thù của tản văn là tính chủ quan, cá nhân trong cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Là một thể văn có sự hòa trộn giữa tự sự và trữ tình, nên vai trò của sự thật đời sống trong tản văn chỉ như những vật liệu dùng để cụ thể hóa, hình tượng hóa cái chủ quan của tác giả, thể hiện trực tiếp cái tôi của người viết, là nơi chân dung tinh thần của chủ thể sáng tác hiện ra một cách trực diện và chân thực. Tản văn khi bước vào đời sống văn học Việt Nam đã chứng tỏ sự nhanh nhạy của mình. Những tác giả viết tản LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 2
  7. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội văn có thể kể đến Băng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đỗ Chu… Một góc phố nhỏ, một con đường trồng nhiều hoa muồng, Hồ Gươm một ngày xuân,… tất cả đều có thể được phản ánh trên tản văn. Tản văn nhanh chóng nắm bắt những góc cạnh trong đời sống, tâm lý, sinh hoạt con người Hà Nội trong thời kỳ đô thị hóa. Thứ ba: Khai thác chủ đề về cuộc sống đô thị ở Hà Nội, nhiều tác giả đã khẳng định được tên tuổi của mình bằng những tác phẩm có giá trị nghệ thuật, phản ánh chân thực bức tranh toàn cảnh về Hà Nội ở các góc độ khác nhau. Và có lẽ đối với những tác giả được sinh ra, lớn lên tại Hà Nội thì cảm xúc về Hà Nội, về những đổi thay của Hà Nội lại càng mãnh liệt. Những nhà văn như Băng Sơn, Đỗ Phấn, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Việt Hà đã có cái nhìn sâu sắc về Hà Nội đang biến đổi từng ngày, từng giờ. Hà Nội không chỉ là mảnh đất họ gắn bó trong cuộc sống, sinh hoạt mà còn là một thực thể có tâm hồn. Hà Nội trong những sáng tác của họ là một thủ đô đầy màu sắc, một đô thị vắt mình qua những biến đổi của lịch sử nhưng vẫn giữ cho mình phong thái của mảnh đất kinh kỳ. Chọn đề tài Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý...), chúng tôi tiến hành nghiên cứu, phân tích các tác phẩm viết về cuộc sống đô thị tại Hà Nội của các tác giả đã từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này để hiểu rõ hơn về nét văn hóa đặc trưng Hà Nội cũng như sự thay đổi của Hà Nội trong thời kỳ hiện đại hóa. 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu văn chương viết về Hà Nội được nhiều tác giả quan tâm và khai thác. Điển hình là các bài nghiên cứu của Lê Thu Yến, Huệ Chi, Vương Trí Nhàn… Trong bài nghiên cứu Thăng Long trong thơ xưa của Lê Thu Yến, in trong Hội thảo Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long, tháng 8/2010, LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 3
  8. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội do Hội Phật Giáo kết hợp với Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, tác giả đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quan về Thăng Long trong thơ xưa. Từ văn học dân gian đến văn học viết, Thăng Long - Hà Nội là đề tài rộng lớn. Bài viết là quá trình khảo cứu, thống kê chi tiết trong sáng tác của nhiều tác giả Trần Quang Khải, Trần Lâu, Vũ Mộng Nguyên, Trịnh Sâm, Nguyễn Công Trứ, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Bùi Huy Bích, Dương Khuê, Phạm Quý Thích, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh quan… Huệ Chi trong cuốn sách Gương mặt văn học Thăng Long (nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2010) cũng đã nhận diện văn học Thăng Long và nhóm tác giả trong giai đoạn này. So với nghiên cứu của Lê Thu Yến, Huệ Chi có biên độ nghiên cứu rộng hơn với cái nhìn tổng quan về văn học Thăng Long mười thế kỷ. Người đọc có thể nhận diện sự vận động của văn học Thăng Long trong suốt chiều dài của lịch sử với những giá trị mới được hình thành và những giá trị cũ được bảo lưu trong nền văn học nước nhà. Trong cuốn sách Một số nhà văn Việt Nam hôm nay với Hà Nội của Vương Trí Nhàn do nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1986, tác giả đã tìm hiểu văn chương hiện đại viết về Hà Nội giai đoạn từ trước 1945 đến nay. Cuốn sách đã nhận diện những nhà văn tiêu biểu cho mỗi giai đoạn với những tác phẩm gắn liền với Hà Nội. Vương Trí Nhàn đã thể hiện sức khám phá, nghiên cứu tỉ mỉ về văn chương hiện đại viết về Hà Nội. Như tên gọi của cuốn sách, tác giả đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của Hà Nội đối với đời sống các nhà văn Việt Nam hôm nay. Qua các tài liệu văn học sử cũng như qua các hồi ức, kỷ niệm của các nhà văn, và chủ yếu là qua chuyện trò trực tiếp với các nhà văn đang sống, tác giả cuốn sách có dịp trình bày tình cảm thiêng liêng của nhiều nhà văn với Hà Nội: đây là nơi họ học nghề, trưởng thành dần về nghề nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, đây là nơi họ có dịp tiếp xúc với các vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, từ đó xác định cho mình một hướng viết đúng đắn. Người đọc có thể tìm hiểu, biết thêm một số nét tiểu sử cũng như tác LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 4
  9. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội phẩm của hơn 50 nhà văn thuộc các thế hệ khác nhau viết về Hà Nội, từ Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, đến Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chính Hữu, Hồ Phương, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long tới Bùi Minh Quốc, Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa … Trong quá trình tìm hiểu của chúng tôi, chưa có công trình nghiên cứu lớn nào về Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội. 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Một số tản văn viết về đời sống đô thị Hà Nội hiện đại của các tác giả: Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến và Nguyễn Trương Quý... Ngoài ra, trong luận văn chúng tôi còn sử dụng, trích dẫn những công trình nghiên cứu khoa học, các bài tham luận về đề tài Thăng Long - Hà Nội; các sách lý luận văn học, từ điển văn học, giáo trình văn học, luận văn thạc sĩ. Ở quy mô nhỏ hơn là các bài tiểu luận nghiên cứu khoa học trên các tạp chí hoặc các trang mạng về các tác giả nêu trên. Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng đến mục đích tiếp cận mang tính bước đầu với các tác phẩm từ truyền thống đến đương đại viết về Hà Nội, một trong nhiều đề tài làm nên sự phong phú của nền văn học Việt Nam. Từ đó nhận biết được mối quan hệ giữa dòng văn học viết về Hà Nội, thấy được sự tồn tại có mối liên kết chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại. Đi sâu nghiên cứu Hà Nội - đô thị hiện đại, năng động nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp, giá trị truyền thống, cùng với đó là những tồn tại tiêu cực đang gây hại cho đời sống văn hóa đô thị hiện đại của Hà Nội qua những tản văn của các tác giả Đỗ Phấn, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý... Luận văn cũng hướng đến việc nhận diện phong cách văn chương một số tác giả Hà Nội trong các tác phẩm nổi bật về đề tài đô thị của họ. Do điều kiện thời gian làm luận văn có hạn nên chúng tôi không thể bao quát được những bài nghiên cứu, những bài báo đăng lẻ tẻ hoặc một số cuốn sách khác có LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 5
  10. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội những nội dung liên quan. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không bỏ sót các công trình, ý kiến, nhận định quan trọng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn cung cấp cho người đọc một luận văn thực sự có ý nghĩa khi nghiên cứu về tản văn viết về cuộc sống đô thị Hà Nội. Chúng tôi hi vọng, luận văn sẽ mang đến cho người đọc cái nhìn tổng quan về tản văn viết về cuộc sống đô thị Hà Nội với những phong cách sáng tác đặc thù. Phạm vi nghiên cứu: - Về mặt nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích bối cảnh Hà Nội hiện đại ở các tác phẩm và những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện của mỗi tác giả. - Về mặt tư liệu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực nghiên cứu của bản thân còn hạn chế nên chúng tôi chỉ xin nghiên cứu một số tập tản văn viết về Hà Nội của các tác giả trên như: Hà Nội thì không có tuyết (tác giả Đỗ Phấn); Con giai phố cổ (tác giả Nguyễn Việt Hà); Đi ngang Hà Nội (tác giả Nguyễn Ngọc Tiến), Ăn phở rất khó thấy ngon (tác giả Nguyễn Trương Quý)... 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê tài liệu có liên quan như sách, báo, các bài viết, nghiên cứu kết hợp với phương pháp tiểu sử để tiếp cận vấn đề một cách toàn diện. Trên cơ sở đó, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích và so sánh để tìm ra những điểm chung, điểm riêng trong tản văn viết về Hà Nội của từng tác giả. Trên bình diện thao tác, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích; ngoài ra, cũng phối hợp sử dụng các phương pháp thống kê, mô tả, tổng hợp, lư giải, phương pháp tiểu sử, phương pháp tiếp cận văn hóa... LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 6
  11. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Trong quá trình thực hiện, chúng tôi cố gắng có quan điểm khách quan, toàn diện và thống nhất cố gắng để đưa đến một cái nhìn có hệ thống về bức tranh đời sống đô thị Hà Nội trong tản văn của các tác giả đã lựa chọn. Bên cạnh đó, chúng tôi đưa ra những ý kiến riêng của mình nhằm hệ thống hóa các vấn đề đặt ra. Từ đó góp phần hữu ích cho việc phê bình nghiên cứu, giảng dạy và học tập, tham khảo. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn của chúng tôi được tổ chức thành ba chương: Chương 1: Văn chương viết về Hà Nội và hành trình sáng tác của Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trương Quý Chương 2: Bức tranh đời sống đô thị trong tản văn viết về Hà Nội Chương 3: Đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 7
  12. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội NỘI DUNG CHƢƠNG 1 VĂN CHƢƠNG VIẾT VỀ HÀ NỘI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN, NGUYỄN VIỆT HÀ, NGUYỄN NGỌC TIẾN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ 1.1. Truyền thống văn chƣơng viết về Hà Nội 1.1.1. Từ trong truyền thống Nguyễn Huệ Chi trong tác phẩm Gương mặt văn học Thăng Long đã đưa ra khái niệm về vùng văn học Thăng Long. Văn học Thăng Long hay văn học viết về Thăng Long - Hà Nội đều dựa trên đặc điểm về một vùng không gian địa lý đặc biệt. Hà Nội xưa vốn đã nổi bật với nền văn minh sông Hồng trù phú, có sự liên đới của cả văn hóa tiền Đông Sơn và văn hóa Đông Sơn. Thăng Long - Hà Nội có sức hút đặc biệt, lực “hút tâm” thu hút các vùng lân cận của xứ Đông, xứ Đoài, kể cả các vùng biên viễn được gọi là “trại”. Đặc biệt khi Lý Thánh Tông (1023 - 1072) quyết định cho xây dựng Văn Miếu năm 1070, Lý Nhân Tông (1066 - 1127) cho lập trường Quốc Tử Giám năm 1076, Thăng Long - Hà Nội trở thành trung tâm của chế độ khoa cử, thu hút nhân tài của đất nước tập trung về tham dự thi cử. Khi bộ máy hành chính trung ương của chế độ quân chủ được thiết lập với quy chế khoa cử nhằm tuyển lựa người tài thì việc bổ sung cho đội ngũ văn nhân nghệ sĩ của Thăng Long bằng nhân tài cả nước đã trở thành một cơ chế được vận hành như một tất yếu. Cùng với đó là các vị quan từng trải, học vấn uyên thâm, sau nhiều năm nhậm chức ở các địa phương, được Triều đình tuyển về làm quan tại Kinh đô và trở thành người Thăng Long một cách tự nguyện trong nếp sống cũng như trong sáng tác văn chương mới là vế đáng nói hơn nhiều. Chính điều này đã biến Thăng Long thành đối tượng cho các danh sĩ xưa sáng tác. Lực lượng sáng tác cũng trở nên đông đảo, không chỉ của những LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 8
  13. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội người sinh ra và lớn lên ở Thăng Long mà còn cả những danh sĩ đến học tập và làm việc ở mảnh đất Kinh kỳ. Thăng Long trở thành miền đất hứa thu hút các tinh hoa của mọi vùng miền trên cả nước. Điểm lại dòng chảy lịch sử, Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ (974 - 1028), là tác phẩm khởi đầu của văn học sáng tác về Thăng Long - Hà Nội. Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, đánh dấu bước ngoặt cho sự ra đời của Thủ đô nghìn năm văn hiến, cũng là khởi đầu cho dòng sáng tác về Hà Nội. Chiếu dời đô đã khắc họa một Hà Nội là trung tâm của cả nước, thuận lợi cho việc phát triển lâu dài của đất nước: “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” [28; 230]. Nối tiếp bước khởi đầu vững chắc, những danh sĩ các triều đại đã sáng tác những áng văn chương bất hủ về mảnh đất Kinh kỳ. Thăng Long thế kỉ XIII, XIV có sự góp mặt của đông đảo vua quan, danh sĩ triều Trần. Từ Trần Thái Tông (1218 - 1277), Trần Tung (1230 - 1291), Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300), Trần Quang Khải (1241 - 1294), Trần Thánh Tông (1240 - 1290), Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Trần Anh Tông (1276 - 1320), Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346), Chu Văn An (1292 - 1370), Trần Minh Tông (1300 - 1357), Trương Hán Siêu (? - 1354), Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), Trần Lâu (? - ?)... Văn học sáng tác về Thăng Long có sự hòa quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ lục, luận thuyết, thi ca…Từ một thời đã qua, đã xa, kinh thành Thăng Long vẫn là nơi hoài vọng của bao người. Những địa danh gắn với lịch sử như Chương Dương, Hàm Tử (trong thơ Trần Quang Khải, Trần Lâu). Trong tác phẩm Tòng giá hoàn kinh sư, Trần Quang Khải hồi tưởng về chiến trường xưa để liên hệ với bài học xây dựng đất nước: LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 9
  14. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Phiên âm: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm hồ Hàm Tử quan Thái bình tu nỗ lực Vạn cổ thử gian san. Bản dịch của Trần Trọng Kim: Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù Thái bình nên gắng sức Non nước vẫn nghìn thu [28; 320]. Trần Lâu trong Quá Hàm Tử quan từng bồi hồi khi đứng trước chiến trường xưa cũ đã lui vào dĩ vãng: Phiên âm: Thuyết trước sa trường cảm khái đa, Như kim Hàm Tử mạn kinh qua. Cổ chinh hung dũng triều thanh cấp, Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà. Vương đạo hồi xuân nùng cổ thụ, Hồ quân bão hận sấu hàn ba. Toa Đô thụ thủ tri hà xứ, Thuỷ lục sơn thanh nhập vọng xa Dịch nghĩa: Từng nghe trận đánh ở đây, lòng ta rất cảm khái, Đến nay ta mới đi qua chốn Hàm Tử này. LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 10
  15. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Tiếng sóng ồn ào như trống chiêng nổi dậy, Bóng tre nghiêng ngả như cờ quạt tung bay. Nhà vua trở về làm cây cối xuân tươi, Quân Hồ ôm hận rút lui giống làn sóng lạnh. Toa Đô nộp đầu chẳng biết nơi nào, Nước biếc non xanh trông vời xa ngút [9]. Thăng Long thế kỉ XV, có sự xuất hiện nổi bật của Nguyễn Trãi (1380 - 1442) và Lê Thánh Tông (1442 - 1497). Cả hai ngoài dấu ấn chính trị, đều là những tác giả kỳ tài, bậc nhất đương thời, góp phần làm giàu thơ Nôm dân tộc. Nguyễn Trãi ngoài đóng góp về việc tìm hiểu địa lý Hà Nội, các sáng tác của ông cũng mang dấu ấn của địa vật Hà Nội. Đông Quan (Hà Nội) được nhắc đến trong thơ ông trong quá trình sáng tác: “Góc thành Nam, lều một gian,/ No nước uống, thiếu cơm ăn”. Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn... Đứng đầu hội văn học Tao Đàn (Thập nhị Bát tú: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh…), Lê Thánh Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Các sáng tác ca ngợi “vua sáng tôi hiền”, “giang sơn cẩm tú”, trong đó có những tác phẩm sáng tác về cảnh vật, con người Hà Nội. Thăng Long thế kỉ XVIII có sự xuất hiện của một loạt tác giả sáng tác về mảnh đất Kinh kỳ. Đây là thời điểm rối ren của lịch sử với những cuộc binh biến, chiến tranh liên miên. Lê Hữu Trác (1720 - 1791) với Thượng Kinh ký sự, dòng họ Ngô Thì với Hoàng Lê nhất thống chí, Phạm Đình Hổ (1768 - LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 11
  16. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội 1839), Nguyễn Án (1770 - 1815) với Tang thương ngẫu lục vẽ lên bộ mặt kinh thành Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt Nam. Kinh thành Thăng Long hiện lên với những màu sắc đa diện của đời sống sinh hoạt, chính trị; những góc khuất của bộ mặt phong kiến thời kỳ suy tàn. Thăng Long thế kỉ XIX, xuất hiện đông đảo các tác giả sáng tác về mảnh đất Kinh kỳ. Nối tiếp dòng văn học trước, các tác giả thời kỳ này có cái nhìn chiêm nghiệm về mảnh đất nghìn năm văn hiến, trải qua bao cảnh dâu bể. Có thể kể đến những hạt nhân như Nguyễn Du (1756 - 1820), Phạm Quý Thích (1760 - 1825), Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), Cao Bá Quát (1809 - 1855),… và cũng lần đầu tiên xuất hiện những tác giả là nữ sĩ như nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), Bà Huyện Thanh Quan (1805 - 1848), Hồ Xuân Hương (1772-1822),… Nguyễn Du là người có tuổi thơ gắn chặt với Thăng Long do vậy ông am hiểu mảnh đất này hơn ai hết. Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình. Sau này, năm 1802, khi được mời ra làm quan cho triều Nguyễn ông có dịp trở lại Thăng Long. Lúc này không còn thành Thăng Long nữa, mà là một tòa thành mới xây. Nguyễn Du ngơ ngác trên đất cõi thành xưa, ông làm hai bài thơ về Thăng Long. Thăng Long bài 1 Phiên âm: Tân lĩnh lô giang tuế tuế đồng Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long Thiên niên cự thất thành quan đạo Nhất phiến tân thành một cố cung, Tương thức mỹ nhân khan bão tử Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 12
  17. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy Doãn địch thanh thanh minh nguyệt trung [26]. Dịch nghĩa: Núi Tản và sông Lô (tức sông Hồng) đời đời vẫn thế, ta đầu bạc rồi còn được thấy Thăng Long, nhưng dinh thự đồ sộ ngàn xưa nay đã bị san phẳng làm lối đi, một mẫu thành cỏn con (phiến) mới xây trên nền cố cung xưa, các co gái xinh đẹp quen biết nay đã con bế con bồng, các bạn hào hiệp lúc trẻ nay đã thành các ông lão, suốt đêm thao thức không ngủ được, văng vẳng nghe tiếng sáo giữa đêm thanh vắng. Thăng Long bài 2 Phiên âm: Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành Đô thị Thăng Long cựu đế kinh Cù hạng tứ khai mê cựu tích Quản huyền nhất biến tạp tân thanh Thiên niên phú quý cùng tranh đoạt Tảo tuế than bằng bán tử sinh Thế sự phù trầm hưu thán túc Tự gia đầu bạch việc tinh tinh [26]. Dịch nghĩa: Mảnh trăng sáng xưa kia rọi xuống tòa thành mới, đây vẫn là Thăng Long kinh đô của các triều vua trước; đường sá ngang dọc làm mất các dấu tích cũ, tiếng đàn sáo mới khác xưa âm thanh hỗ tạp, phú quý ngàn xưa như miếng mồi để tranh cướp, bạn bè thời trẻ nay nửa mất nửa còn, thôi cho qua đi sự đời chìm nổi, ngẫm nhìn mái tóc trên đầu đã lốm đốm bạc. Ngoài hai bài về Thăng Long, Nguyễn Du còn có bài Thăng Long cầm giả ca, gồm một bài phi lộ và 50 câu thơ, nói về việc sau 20 năm trở lại Thăng LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 13
  18. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Long, được nghe lại tiếng đàn của một ca nhi. Tâm sự là nội dung chủ đạo của bài thơ, chỉ có bốn câu thơ nói về Thăng Long đã thay đổi: Thành quách suy di nhiều sự cai Kỷ xứ tang điền biến thương hải Tây sơn cơ nghiệp tận tiêu vong Ca vũ không di nhất nhân tại Tạm dịch: Thành quách đổi người nay khác cả Bao nương dâu giờ hóa biển xanh Tây Sơn sự nghiệp tan tành Mà làng ca hát một mình còn suông [26]. Trong sáng tác của Nguyễn Du, có thể thống kê các bài viết về Thăng Long như sau: Số lần xuất hiện Tác phẩm 3 bài xuất hiện địa danh “Thăng Ngẫu hứng (bài 5) Long” Long Thành cầm giả ca Thăng Long (hai bài) 4 bài xuất hiện địa danh “Trường Sơn cư mạn hứng An”: Ký giang bắc Huyền Hư tử Giang Đình hữu cảm Ký hữu. 2 bài viết về các sự việc với những Đại nhân hý bút (bến sông Nhĩ địa danh cụ thể ở kinh đô: Thuỷ) LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 14
  19. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Mộng đắc thái liên (Hồ Tây) 3 bài phiếm chỉ Thăng Long bằng các U cư (bài 2) từ quốc, cố quốc: Độ Long Vĩ giang Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác. Trong ký ức của những người con Thăng Long, nơi đây từng ghi dấu những đổi thay lớn. Những tòa thành mới thay thế những cung điện cũ, là những đường cái quan ngang dọc xóa hết dấu vết của những ngôi nhà đồ sộ cũ là những vương cung, đế miếu có rồi mất… tất cả những điều đó dẫu sao cũng là niềm tự hào của đất Thăng Long. Bà Huyện Thanh Quan hơn ai hết thao thiết hoài niệm về một thời quá vãng đã khắc sâu trong tâm hồn bà cũng như đối với mỗi người trên đất Thăng Long: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Thăng Long hoài cổ) Câu thơ tiêu tao ấy gợi nhớ những gì xưa cũ với lối cũ rêu phong, với hồn thu thảo, với bóng tịch dương… Lâu đài, xe ngựa tượng trưng cho quyền lực và cơ đồ cao ngất của các tiên triều giờ chỉ còn chập chờn trong ảo mộng. Nguyễn Công Trứ cũng đã đi tìm thành quách, vương cung, đế miếu của một thời huy hoàng: Đất Trường An là cổ đế kinh Nước non một dải hữu tình LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 15
  20. Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội …Đã mấy độ sao dời vật đổi Nào vương cung đế miếu ở đâu nào? (Cảnh Hà Nội) Cao Bá Quát nặng lòng trước con đường xa giá vua đã từng qua bây giờ chỉ còn trơ lại mảnh đất không. Đàn tế giao xung quanh cây cỏ lấp đầy, mặc gió thu thổi tràn: Cờ quạt đường ngự đi, nay chỉ còn là mảnh đất không Cây cỏ ở đàn tế giao, mặc cho gió thu thổi (Quá Thiên Quang tự, thương Lê triều cố cung) Hay: Đây là kinh đô cũ, nơi phồn hoa bậc nhất xưa kia Núi Nùng, sông Nhị rất mực cao thanh Nghìn năm thành quách, từng qua mấy độ cổ kim Mười dặm phố phường, nối tiếp bao lớp người sống thác (Đăng Long Thành lãm thắng hữu cảm) Một thuở phồn hoa đông vui, tấp nập, ngựa xe như nước… ngày nào bây giờ không còn nữa, lòng người đau xót buồn rầu nhìn dương liễu héo hon, trúc gầy đi. Sắc cỏ xanh bên đường, vết xe thuở đó như còn đâu đây: Dương liễu héo hon, trúc gầy, khói như thuở nào Mấy chốn đình đài gạch ngói đổ nát Buồn rầu nhìn sắc cỏ xanh trên đường Như còn ghi lại rành rành vết xe thuở đó (Kinh quá Lý cố thành di chỉ - Miên Thẩm) LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2