ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––
LÊ THỊ HỒNG
MẠNG LƯỚI CHỢ NÔNG THÔN
Ở HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH (1986 - 2016)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––
LÊ THỊ HỒNG
MẠNG LƯỚI CHỢ NÔNG THÔN
Ở HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH (1986 - 2016)
Ngành: Lịch Sử Việt Nam
Mã số: 8229013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Loan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi về mạng
lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm
2016. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, dựa trên
nguồn tư liệu chính thức với độ tin cậy cao và chưa được công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Hồng
Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của giáo viên hướng dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Loan
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, làm luận văn, tôi đã nhận được sự hướng dẫn
tận tình của PGS.TS Nguyễn Thị Quế Loan. Vì vậy, những dòng đầu tiên em
muốn gửi tới cô lời cảm ơn chân thành sâu sắc.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Lịch Sử
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên - cơ sở đào tạo; Trung tâm GDNN -
GDTX Yên Phong - Bắc Ninh - nơi tôi công tác; Ủy ban nhân dân huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh, cán bộ, nhân dân nơi tôi điền dã lấy thông tin; các đồng
nghiệp, người thân đã giúp đỡ, cung cấp tư liệu, động viên để tôi hoàn thành
luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã hết sức cố gắng, song do trình độ
và thời gian còn hạn chế, nên luận văn còn nhiều thiếu sót. Tác giả kính mong
nhận được sự đóng góp của các Thầy, Cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2019
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lê Thị Hồng
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. iv
Danh mục các bảng .............................................................................................. v
Danh mục các sơ đồ ............................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................. 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................... 4
5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN PHONG VÀ MẠNG LƯỚI
CHỢ Ở HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1986 ....... 7
1.1. Khái quát về huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ........................................... 7
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .............................................................. 7
1.1.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển ................................................. 9
1.1.3. Tình hình dân cư, văn hóa, xã hội ........................................................... 11
1.1.4. Tình hình kinh tế ...................................................................................... 14
1.2. Vài nét về hệ thống Chợ ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh trước
năm 1986 ........................................................................................................... 16
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 21
Chương 2: CHỢ NÔNG THÔN Ở HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 2016 ...................................................................................... 22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.1. Phân loại chợ và đặc điểm các loại chợ ở huyện Yên Phong .................... 22
2.2. Thời gian họp và cơ sở vật chất của chợ .................................................... 27
2.3. Hoạt động mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong ......................... 37
2.3.1. Quá trình chuẩn bị, phương thức vận chuyển, cách thức đo lường,
hình thức mua bán hàng hóa .............................................................................. 37
2.3.2. Hàng hóa bày bán tại chợ ........................................................................ 40
2.3.3. Thành phần tham gia mua bán và tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh
tại chợ ................................................................................................................ 46
2.3.4. Hoạt động quản lí mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong .......... 50
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 55
Chương 3: VAI TRÒ CỦA CHỢ NÔNG THÔN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG,
KINH TẾ HUYỆN YÊN PHONG .................................................................. 56
3.1. Vai trò của chợ trong đời sống cư dân ....................................................... 56
3.2. Vai trò của chợ nông thôn đối với sự phát triển kinh tế ở huyện Yên Phong ... 60
3.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của chợ nông thôn ở huyện
Yên Phong ......................................................................................................... 68
3.4. Chủ trương phát triển và giải pháp phát huy hiệu quả mạng lưới chợ
nông thôn Yên Phong ........................................................................................ 72
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 80
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết là Đọc là
HĐND Hội đồng nhân dân
KCN Khu công nghiệp
KTX Kí túc xá
ST Siêu thị
TB Trung bình
TT Trung tâm
TTTM Trung tâm thương mại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Số lượng chợ ở huyện Yên Phong trước năm 1986 .......................... 17
Bảng 2.1 : Tiêu chí phân loại chợ ...................................................................... 24
Bảng 2.2: Phân loại chợ trên địa bàn huyện Yên Phong (tính đến tháng 6
năm 2016) ........................................................................................ 25
Bảng 2.3: Bảng thống kê các ngày họp chợ ...................................................... 29
Bảng 2.4: Bảng thống kê diện tích, cơ sở vật chất của các chợ ........................ 31
Bảng 2.5: Hệ thống giết mổ gia súc trên địa bàn huyện Yên Phong tính đến
năm 2016 .......................................................................................... 42
Bảng 3.1: Bảng thống kê số hộ buôn bán chuyên trong các chợ ...................... 57
Bảng 3.2: Bảng mức thuế hàng năm nộp được của từng chợ............................ 66
Bảng 3.3: Bảng số liệu qui hoạch hệ thống siêu thị trên địa bàn huyện Yên
Phong tính đến năm 2020 ................................................................. 74
Bảng 3.4: Bảng số liệu qui hoạch hệ thống chợ trên địa bàn Yên Phong đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm 2020 .......................................................................................... 76
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Chợ Chờ - thị trấn Chờ ..................................................................... 33
Sơ đồ 2.2: Chợ Bến - Xã Đông Tiến ................................................................. 34
Sơ đồ 2.3: Chợ Trai- Vọng Nguyệt ................................................................... 35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sơ đồ 2.4: Chợ thôn Đoài- Tam Giang.............................................................. 36
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử loài người, chợ ra đời từ rất sớm. Khi sản xuất sản phẩm
dư thừa, con người mang trao đổi trên thị trường để lấy một loại hàng hóa khác,
đó chính là hình thức ra đời sơ khai của chợ. Qua thời gian, sản phẩm ngày một
nhiều và nhu cầu trao đổi của con người ngày càng lớn, vì vậy, những nơi thuận
lợi cho việc đi lại như ngã ba sông, ngã ba đường, bến sông, ven đường… đã
hình thành nơi để mọi người trao đổi sản phẩm gọi là “chợ”. Về sau, tiền tệ
xuất hiện giúp cho việc thanh toán, đo lường giá trị hàng hóa, sản phẩm ở chợ
trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Cùng với sự phát triển của nhân loại, chợ cũng
ngày càng mở rộng với nhiều loại hình khác nhau. Không chỉ đơn thuần là nơi
mua bán, trao đổi hàng hóa, chợ còn là nơi gặp gỡ, tâm tình, biểu hiện sắc thái
văn hóa vùng đậm nét. Tìm hiểu sự phát triển của chợ nông thôn thấy được sự
phong phú, đa đạng của chợ. Cũng qua đó làm sáng tỏ thêm về đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân qua các hoạt động ở chợ; hiểu được kinh tế hàng
hóa trong các vùng nông thôn; mức sống của cư dân địa phương.
Huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh) có vị trí và điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển mạng lưới chợ làng, chợ liên làng. Nơi đây nằm gần quốc lộ 18, sân
bay Nội Bài, có sông Cầu chạy dọc huyện nối 2 huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang)
và Yên Phong (Bắc Ninh). Là huyện nông nghiệp, năm 2009 Yên Phong có khu
công nghiệp Sam Sung nên ảnh hưởng nhiều đến mức tiêu thụ hàng hóa tại các
chợ gần đó. Trong xu thế hội nhập với sự phát triển của các kênh bán hàng tiện
ích, trung tâm thương mại, siêu thị… mang lại nhiều sự lựa chọn cho người tiêu
dùng khi mua sắm. Nhiều người tiêu dùng chuyển dần thói quen mua sắm ở
chợ truyền thống sang siêu thị và các kênh bán hàng khác. Do vậy, nghiên cứu
về mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn. Qua nghiên cứu, tác giả mong muốn sẽ làm rõ về sự phát triển và thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trạng mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh từ năm
1986 đến năm 2016; vai trò, sự tiện dụng và đặc trưng văn hóa chợ nông thôn
đối với đời sống sinh hoạt của người dân huyện Yên Phong.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chợ có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong đời sống của con
người. Chính vì vậy, chợ cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Trong quá trình làm luận văn, tác giả đã tiếp cận được các công trình nghiên
cứu sau:
Dưới góc độ lịch sử, tác giả Nguyễn Thừa Hỷ phân tích nguyên nhân
xuất hiện, sự thành lập chợ, cấu trúc, qui mô các sản phẩm hàng hóa tại “Mạng
lưới chợ ở Thăng Long - Hà Nội trong những thế kỉ XVII- XVIII - XIX” Tạp chí
Nghiên cứu Lịch Sử, số 1/1983 [12]. Thông qua nguồn tài liệu bằng tiếng Pháp,
tác giả đã nghiên cứu cụ thể từ không gian, địa điểm họp chợ, các mặt hàng
buôn bán, cách thức mua bán và quan hệ của chợ với nhà nước phong kiến.
Vũ Thị Minh Hương trong nghiên cứu “Chợ gia súc và việc buôn bán
trâu bò ở Bắc Kì thời kì 1919 - 1939”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử số 1/2001
[11], đã đề cập đến nhiều khía cạnh của chợ gia súc thời kì cận đại ở Bắc Kì
như: Sự ra đời, tổ chức chợ, hoạt động của các chợ gia súc, nguồn gốc cung cấp
gia súc. Điều đặc biệt, các chợ này chỉ buôn bán mặt hàng chủ yếu là gia súc
trâu bò, dùng làm sức kéo hoặc giết mổ…
Tác giả Lê Thị Mai với công trình “Chợ quê trong quá trình chuyển đổi”,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003 [18], đã nghiên cứu một số chợ quê vùng
đồng bằng sông Hồng trong thời kì đổi mới bằng tiếp cận xã hội học.
Chợ còn là đề tài được nhiều tác giả nghiên cứu trong các khóa luận văn,
khóa luận tốt nghiệp được thực hiện tại Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội như: Vũ Thị Lý: “Sự phát triển
mạng lưới chợ nông thôn huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) từ 1945 đến nay” (1998)
[17]; Lê Thị Khuyên: “Chợ nông thôn huyện Ân Thi (Hưng Yên) từ 1945 đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nay”, 1999 [13]; Trần Văn Tùng: “Hoạt động của mạng lưới chợ ở huyện Hiệp
Hòa- tỉnh Bắc Giang từ 1945 đến năm 2010”, 2011 [31]; Nông Văn Quân:
“Mạng lưới chợ nông thôn ở miền Tây Cao Bằng trước năm 1945”, 2013 [26];
Mai Sinh Tuyên “Mạng lưới chợ nông thôn ở miền Đông tỉnh Hà Giang trước
năm 1945”, 2016 [32]. Trong nghiên cứu, các tác giả đã khái quát những hoạt
động chủ yếu về mạng lưới chợ nông thôn, hàng hóa được bày bán tại các chợ
nông thôn đa dạng, vai trò của các chợ đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa của
các chợ. Qua đó giúp chúng ta thấy được sự nhộn nhịp của các chợ làng quê và
bức tranh sinh động của chợ nông thôn ở các địa phương khác nhau.
Nghiên cứu về tỉnh Bắc Ninh có đề cập đến chợ Yên Phong cho đến nay
có một vài tác phẩm như: Truyền thống vùng đất văn hóa con người Yên Phong
do Phòng văn hóa thông tin - thể thao Yên Phong - Bắc Ninh xuất bản năm
2000; cuốn Địa chí Yên Phong do Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân huyện Yên Phong xuất bản năm 2002 [10]; Lịch Sử Đảng bộ huyện Yên
Phong (1928 - 2000) năm 2004 [9]; Niên giám thống kê Bắc Ninh (2013) xuất
bản năm 2014 [5]. Trong nghiên cứu, các tác giả khái quát về tình hình kinh tế,
xã hội, văn hóa huyện Yên Phongqua các thời kì lịch sử, truyền thống của nhân
dân huyện Yên Phong, qua đó, nhắc đến một vài chợ ở huyện Yên Phong.
Như vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về chợ làng, chợ huyện
nói chung ở các địa phương, giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu về mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2016. Vì vậy, tôi chọn vấn đề này nghiên
cứu. Những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quí
báu giúp tôi kế thừa, vận dụng và tham khảo trong luận văn.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh (1986 -2016)”, tác giả mong muốn:
- Khôi phục một cách chân thực, sinh động hoạt động tại các chợ nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thôn của huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2016.
- Nghiên cứu vị trí, vai trò, tác động của chợ đối với sự chuyển biến cơ
cấu kinh tế của các địa phương ở huyện Yên Phong, nhất là trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý, các hoạt động diễn ra tại chợ và liên quan đến chợ,
hiệu quả kinh tế xã hội của mạng lưới chợ ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu về mạng lưới chợ nông thôn trên địa
bàn huyện Yên Phong (các loại hình chợ, hoạt động của chợ, công tác quản lý
chợ). Qua đó, nhận xét, đánh giá về vai trò, ảnh hưởng của chợ đến đời sống,
kinh tế, văn hóa ở huyện Yên Phong.
- Về thời gian: Từ năm 1986 đến năm 2016.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu thành văn: Bao gồm các văn kiện, nghị quyết của Đảng bộ
huyện Yên Phong, các báo cáo của phòng Công thương, phòng Kinh tế…
Các sách, bài viết trong tạp chí nghiên cứu Lịch sử, luận văn, khóa luận…
- Tài liệu điền dã: Được thu thập trong quá trình điền dã qua quan sát,
phỏng vấn sâu, chụp ảnh tư liệu …
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp chủ đạo là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic để làm rõ sự phát triển cũng như thực trạng của
mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm
1986 đến năm 2016. Từ đó, thấy được mối quan hệ logic, sự tác động qua lại
giữa chợ với đời sống kinh tế, văn hóa của người dân trong lịch sử.
Cùng với 2 phương pháp trên, tác giả còn sử dụng phương pháp điền dã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân tộc học để thu thập tư liệu tại thực địa, quan sát hoạt động tại các chợ.
Ngoài ra, các phương pháp khác như: So sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp…
cũng được sử dụng trong luận văn nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu hệ thống về mạng lưới chợ
nông thôn ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (1986 - 2016).
Thông qua nghiên cứu, thấy được vai trò của chợ với sự phát triển kinh
tế, xã hội trong lịch sử. Tác động của mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên
Phong đến người dân. Luận văn là tài liệu tham khảo cho học tập và giảng dạy
các môn: Lịch sử, Cơ sở văn hóa, Dân tộc học, Lịch sử địa phương…
6. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm: Mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham
khảo và phụ lục. Phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Yên Phong và mạng lưới chợ ở huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh trước năm 1986.
Chương 2: Chợ nông thôn ở huyện Yên Phong từ năm 1986 đến năm 2016.
Chương 3: Vai trò của chợ nông thôn đối với đời sống, kinh tế huyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Yên Phong.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: yenphong.bacninh.gov.vn/ban-do
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN PHONG VÀ MẠNG LƯỚI CHỢ Ở
HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Khái quát về huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Yên Phong là huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Ninh trong vùng
đồng bằng châu thổ Sông Hồng. Trung tâm huyện cách thành phố Bắc Ninh
13km về phía Đông, diện tích tự nhiên rộng 111,92km2 [10, tr. 18], dân số
151,7 nghìn người [5, tr. 36]. Phía Bắc huyện Yên Phong giáp huyện Hiệp Hòa
và Việt Yên (tỉnh Bắc Giang); phía Nam giáp huyện Từ Sơn và huyện Tiên Du.
Phía Tây giáp huyện Đông Anh và huyện Sóc Sơn - Hà Nội; phía Đông giáp
thành phố Bắc Ninh.
Yên Phong có vị trí tương đối thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế-
xã hội. Trung tâm huyện cách thủ đô Hà Nội 25km, thành phố Bắc Ninh 13km,
quốc lộ 1A 8km, sân bay quốc tế Nội Bài 14km về phía Tây. Quốc lộ 18 đã
được xây dựng qua địa bàn huyện. Đây là tuyến đường chiến lược quan trọng
nối liền Quảng Ninh với khu chế xuất Đông Anh - Sóc Sơn - Sân bay Nội Bài,
các khu công nghiệp tập trung có công nghệ cao của các tỉnh thuộc vùng kinh
tế trọng điểm phía bắc. Với những điều kiện địa lí của mình Yên Phong có điều
kiện để phát huy tiềm năng về công, nông nghiệp, thương nghiệp cũng như các
nguồn lực khác cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Nằm trong vùng đồng bằng Sông Hồng, địa hình huyện Yên Phong
tương đối bằng phẳng. Địa hình có xu thế dốc từ Tây sang Đông khoảng dưới 3
độ. Độ cao trung bình so với mặt nước biển là 4,5 m. Cánh đồng cao nhất thuộc
xã Yên Phụ so với mặt nước biển cao 7m. Cánh đồng thấp nhất thuộc thôn Đại
Chu xã Long Châu cao 2,5 m so với mặt nước biển. Xung quanh huyện đều có
sông. Địa hình Yên Phong chia làm 2 vùng rõ rệt: Vùng ngoài đê đất hàng năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được phù sa bồi đắp nên rất màu mỡ. Vùng nội đồng hàng năm bị nước úng rửa
trôi ra sông nên độ dinh dưỡng của đất ngày càng nghèo đi, do mất hàng trăm
tấn đất bị hao mòn nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế của nhân dân Yên
Phong từ trước tới nay [10, tr. 18].
Đất Yên Phong được hình thành chủ yếu do quá trình bồi tụ phù sa của hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình, trực tiếp là 3 con sông: Sông Cầu, sông Cà
Lồ, sông Ngũ Huyện Khê. Phần rất ít còn lại được hình thành tại chỗ do sự phong
hóa trực tiếp từ đá mẹ. Yên Phong có 3 nhóm đất chủ yếu: Đất phù sa, đất bạc
màu, đất đồi núi đỏ vàng, chia ra làm 8 loại đất với tính chất hóa lí khác nhau.
Khí hậu ở Yên Phong nói riêng và toàn vùng đồng bằng sông Hồng nói
chung có thể chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa ít mưa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau, nhiệt độ trung bình tháng từ 16 đến 21 độ C, lượng mưa biến động từ
20-56 mm. Bình quân một năm có 2 đợt rét nhiệt độ dưới 13 độ c kéo dài 3
ngày. Mùa mưa, nóng từ tháng 4 đến tháng 10 với lượng mưa với lượng mưa
trung bình tháng từ 100 mm đến 312 mm. Các tháng mùa mưa có lượng mưa
chiếm 80% lượng mưa trong năm. Ở Yên Phong vào các tháng mùa hạ đôi khi
bị ảnh hưởng của gió bão kèm theo mưa lớn kéo dài trong nhiều ngày, gây ngập
úng cho các vùng thấp trũng trong huyện, làm thiệt hại không nhỏ cho sản xuất
nông nghiệp[10, tr. 25].
Yên Phong có hệ thống sông ngòi bao bọc xung quanh. Phía bắc huyện
là sông Cầu, phía Đông và phía Nam là sông Ngũ Huyện Khê, phía Tây là sông
Cà Lồ. Sông Cầu là con sông lớn chảy qua địa bàn từ xã Tam Giang đến xã
Hòa Long dài 21 km2, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Yên Phong và tỉnh Bắc
Giang. Hàng năm lũ xuất hiện vào khoảng tháng 6 cho đến tháng 9, mặt sông
rộng nước chảy xiết. Sông Cà Lồ chảy qua huyện từ xã Hòa Tiến đến xã Tam
Giang dài 7km, là ranh giới giữa huyện Yên Phong và Đông Anh - Hà Nội.
Ngoài các sông chính có lượng nước dồi dào trên, huyện Yên Phong còn có
hơn 410 ha ao hồ phân bố khắp các xã trong huyện, chứa một lượng nước khá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lớn góp phần cung cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân.
Yên Phong không có những mỏ khoáng sản lớn nhưng nhiều tài nguyên
thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội như tài nguyên đất, nước…
Như vậy Yên Phong có đặc điểm tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh
tế,lại nằm ở vị trí cách không xa Hà Nội, Hải Phòng…Đó là một trong những điều
kiện thuận lợi cho giao thương giữa Yên Phong và các địa phương khác. Do vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội, Yên Phong được xác định là một trong 3
huyện trọng điểm phát triển công nghiệp, đô thị và dịch vụ của tỉnh Bắc Ninh.
1.1.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Vào thời các vua Hùng mở nước - trong niên đại Đồng thau - sắt, nước ta
lúc bấy giờ gọi là Văn Lang, chia làm 15 bộ, kinh đô đóng ở miền Phong Châu
(Vĩnh Phú). Huyện Yên Phong nằm trong bộ Vũ Ninh - một bộ phận dân cư
quan trọng của quốc gia Văn Lang.
Yên Phong có 3 con sông cổ bao bọc xung quanh là: Sông Cà Lồ, sông
Nguyệt Đức (Sông Cầu) và sông Ngũ Huyện Khê. Trong khung cảnh địa lí của
vùng đồng bằng nhiều sông nước thuận tiện cho công tác nông nghiệp, từ rất
sớm cư dân Việt Cổ đã tràn xuống chiếm lĩnh, khai phá đồng ruộng, tạo dựng
xóm làng trên những gò nội ven các dòng sông cổ.
Những phát hiện khảo cổ mới đây cho thấy trên các vùng đất Yên Phong
còn lại nhiều di tích của cư dân thời Hùng Vương và tiền Hùng Vương. Đó là
những di chỉ thuộc thời đại Đồng thau - Sắt, sớm đã phát hiện và khai quật như:
di chỉ Đồng Bạch (Phong Khê), Nội Gầm (Dũng Liệt), Quả Cảm (Hòa Long),
Chi Long, Hàm Sơn…Trên địa bàn huyện, trong khoảng cách từ 1đến 3km, đã
tìm thấy đấu tích của văn hóa Đông Sơn, nền văn hóa Đồng thau, rực rỡ, đặc
trưng của thời đại Hùng Vương.
Cùng với những di tích, di vật cổ, các truyền thống dân gian được lưu
truyền ở mảnh đất này rất phong phú, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng
cổ truyền còn lưu lại trong lòng đất và người Yên Phong, cho ta có thể hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dung một phác đồ lịch sử của vùng đất này thời mở nước. Trong bộ Vũ Ninh
của các thế hệ ‘Con rồng - cháu tiên”, huyện Yên Phong là vùng đất có nhiều
bộ tộc, bộ lạc thời Rồng - Rắn làm vật tổ (bộ lạc Rồng). Tín ngưỡng tôn giáo cổ
đại này còn để lại tàn dư ở việc thờ thần Rắn, thờ Long Vương, cùng với nhiều
địa danh cổ và các truyền thuyết liên quan đến rồng rắn, thuồng luồng… ở một
số làng quê Yên Phong ngày nay.
Là một trong những điểm hội cư lớn từ thời Hùng Vương, cư dân ở đây
đã có nền nông nghiệp định cư khá phát triển. Họ đã biết trồng lúa nước, lúa
nương, săn bắt, đánh cá và thuần dưỡng thú vật để sinh sống. Trải qua hàng ngàn
năm vừa cần mẫn lao động, tạo dựng cuộc sống. Nhân dân ta luôn phải vươn lên
đoàn kết đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, giặc giã, chống giặc cướp, chống
giặc ngoại xâm để giữ gìn bờ cõi, trường tồn và phát triển [10, tr. 66].
Trong hơn 1000 năm phong kiến phương bắc đô hộ, vào thời kì thuộc
nhà Trần, Yên Phong là miền đất thuộc Tượng quận. Thời nhà Hán, Yên Phong
thuộc quận Giao Chỉ. Thời nhà Tấn, quận Giao Châu đổi thành quận Giao Chỉ,
Yên Phong thuộc quận Giao Chỉ. Thời nhà Đường, Yên Phong nằm trong quận
Đạo Châu thuộc An Nam đô hộ phủ.
Bước vào kỉ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc, dưới triều nhà Đinh, Yên
Phong nằm trong đạo Bắc Giang của nhà nước Đại Cồ Việt. Dưới triều nhà
Tiền Lê, đạo Bắc Giang đổi thành lộ Bắc Giang, Yên Phong nằm trong lộ B.
Bắc Giang. Dưới triều nhà Lý, các lộ vẫn được giữ nguyên, Yên Phong vẫn
nằm trong lộ Bắc Giang. Dưới triều nhà Trần, lộ Bắc Giang chia thành 2 lộ:
Bắc Giang thượng lộ, Bắc Giang hạ lộ,Yên Phong thuộc Bắc Giang hạ lộ, sau
đổi thành Như Nguyệt Giang lộ. Cái tên Yên Phong - là tên gọi của huyện có từ
thời nhà Trần (1225 -1400).
Dưới triều nhà Nguyễn, tên huyện là Yên Phong vẫn đươc giữ nguyên.
Năm Minh Mệnh thứ ba 1822, trấn Kinh Bắc được đổi thành trấn Bắc Ninh,
Yên Phong thuộc phủ Từ Sơn nằm trong trấn Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
12 (1831) trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh, Yên Phong thuộc phủ Từ sơn
của tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, thực dân Pháp lấy sông Cầu làm địa giới, chia
tỉnh Bắc Ninh làm 2 tỉnh, phía Bắc sông Cầu là tỉnh Bắc Giang, phía Nam sông
Cầu là tỉnh Bắc Ninh. Yên Phong thuộc phủ Từ Sơn nằm trong tỉnh Bắc Ninh.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, dưới chính thể Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, phủ Từ Sơn giải thể, Yên Phong là huyện độc lập thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa khóa hai ra nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang thành tỉnh
Hà Bắc, Yên Phong là một huyện độc lập của tỉnh Bắc Ninh.
Từ thời Trần đến nay, cương vực huyện Yên Phong có ít nhiều thay đổi.
Năm 1435, theo sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, Yên Phong có 52 xã. Năm
1483, theo Hồng Đức bản đồ, Yên Phong có 53 xã. Đến triều Nguyễn, thời Gia
Long, Yên Phong có 71 xã, thôn bởi có nhiều thôn nhỏ được tách ra thành xã.
Từ năm 1871 đến cuối thế kỉ XIX Yên Phong chỉ còn 69 xã. Từ năm 1905 đến
1945 Yên Phong còn 61 xã, vì một số xã của tổng Hương La (sau này là tổng
Phương La) chuyển về huyện Đông Ngàn, sau này là Đông Anh để lập ra tổng
Thư Lâm. Trong thời gian này, Yên Phong chỉ nhận được của tổng Tam Sơn
huyện Đông Ngàn hai xã: Yên Từ và Đông Mai, để cùng với các xã của tổng
Mẫn Xá chia ra làm 2 tổng Phong Quang và Ân Phú [10, tr. 45].
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, địa giới của huyện Yên Phong
tiếp tục được điều chỉnh. Năm 1954, hơn 10 xã của tổng Châm Khê được hoàn
trả về cho Yên Phong. Năm 1962, Yên Phong tiếp nhận 2 xã Đông Thọ và Văn
Môn của huyện Từ Sơn, đồng thời tách 2 xã Tương Giang và Phú Lâm thuộc
tổng Ân Phú trước đây nhập vào huyện Tiên Sơn. Từ đó đến nay cương vực
Yên Phong ổn định [10, tr. 46].
1.1.3. Tình hình dân cư, văn hóa, xã hội
Theo số liệu điều tra năm 2013, dân số của huyện Yên Phong khoảng
151,7 nghìn người [5, tr. 36], cư trú ở 89 làng thuộc 13 xã. Có 3 xã trên 10.000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người là: Thị trấn Chờ có 11.755 người, xã Tam Đa: 10.467 người, xã Tam
Giang: 10.184 người. Huyện Yên Phong có nhiều làng lớn như: Làng Yên Phụ
có 9.016 người làng Vọng Nguyệt có 3.500 người, làng Phú Mẫn 3.600
người… đó là những làng cổ và những làng nghề có nếp văn hóa, phong tục từ
lâu đời.
Yên Phong là một những huyện có mật độ dân số cao, năm 2013 là 1.567
người/km2, chỉ thấp hơn so với mật độ dân số trung bình của tỉnh Bắc Ninh
(2.200 người/ km2) [5. tr. 36]. Những xã có nghề thủ công truyền thống như:
Văn Môn, Phong Khê, Tam Đa, Yên Phụ, thị trấn Chờ và các xã ven thị trấn
Bắc Ninh như: Hòa Long, Vạn An, Khúc Xuyên có mật độ dân số cao hơn hẳn,
có xã như Văn Môn tới 2.015 người/km2 [10, tr. 38].
Trong tổng số lao động của Yên Phong, chủ yếu là lao động nông nghiệp
(chiếm tới 93,8%), lao động công nghiệp và dịch vụ chiếm 6,2%. Trong điều
kiện đất chật, người đông, lực lượng lao động chiếm tỉ trọng lớn, hiệu suất sử
dụng lao động thấp, sức ép của việc dư thừa lao động ngày càng tăng. Cho nên để
tạo việc làm cho người lao động Yên Phong, việc xây dựng các cơ sở công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển các làng nghề truyền thống là rất cần thiết.
Người dân Yên Phong có truyền thống hiếu học lâu đời. Từ khoa thi Quí
Sửu niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 đời Lê Thái Tổ (1433) đến khoa thi Kỉ Dậu
năm Tự Đức thứ 2 (1849), Yên Phong có 47 vị đỗ cao, trong đó: Thời Lê có 21,
thời Mạc có 16, thời Nguyễn có 27. Nếu lấy học vị đại khoa làm mốc để xét, thì
Yên Phong có số lượng đỗ khá nhiều so với nhiều địa phương trong tỉnh cũng
như trong nước; 8 làng trong huyện có người đỗ đạt cao điển hình là làng Vọng
Nguyệt (xã Tam Giang) có 9 người, làng Chân Lạc (xã Dũng Liệt) có 5 người,
có những dòng họ có 5 đời nối tiếp nhau đỗ cao như dòng họ Ngô ở Vọng
Nguyệt [10, tr. 9]. Sách Bắc Ninh dư địa chí chép: “Về văn hóa thì Vọng
Nguyệt khu Chóa và Phú Mẫn nhiều hơn cả, rồi đến Yên Phụ, Hương La, Như
Nguyệt” [34, tr. 173]. Hiện nay, huyện Yên Phong có 2 Giáo Sư, 19 phó Giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sư, 101 Tiến Sĩ, 296 Thạc Sĩ và 5533 người đạt trình độ đại học [36].
Yên Phong có nhiều loại hình nghệ thuật phong phú và sôi động với các
thể loại như tuồng cổ, ca trù, cải lương, kịch nói… Song tiêu biểu hơn cả vẫn là
hình thức sinh hoạt văn hóa quan họ, Yên Phong tự hào là nơi đất tổ sinh ra nền
dân ca quan họ Bắc Ninh, với 16 làng quan họ gốc như Hữu Chấp, Viêm xá,
Đông Mơi, Đông Yên, Đông Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Châm Khê, Đào
Xá…thuộc 5 xã: Hòa Long, Khúc Xuyên, Phong Khê, Trung Nghĩa, Đông
Phong. Các làng quan họ này quần tụ lại thành một vùng quê quan họ chủ yếu
nằm trên các điểm cư dân thuộc khu vực phía nam sông Ngũ Huyện Khê và
phía Đông khu vực sông Cầu, con sông của làng quan họ suốt đời “ nước chảy
lơ thơ”, một dòng sông của những sự tích anh hùng, của những nương dâu bát
ngát, của những lời hẹn ước giao duyên.
Mỗi làng có một vẻ, mỗi làng có một phong cách, sắc thái riêng, song lại
có chung một nguồn gốc, nên từ muôn đời nay đã gắn kết với nhau, giao duyên
kết bạn quan họ với nhau, để bảo tồn và phát triển những giá trị nhân văn tiêu
biểu của nền văn hóa quan họ xứ Bắc, ở đây người quan họ vẫn thường có câu:
“Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm”.
“Nghĩa người tôi để lên cân
Bên tình nặng chín, bên ân nặng người”
Vốn là miền quê của trai tài, gái sắc, những liền anh, liền chị quan họ
duyên dáng, đảm đang, hàng năm cứ mỗi độ thu đến, xuân về quê hương Yên
Phong lại rộn rã tiếng trống báo hiệu một mùa lễ hội, 65 hội làng hàng năm đã
trở thành nếp sống, phong tục tập quán của mỗi làng. Tuy nhiên, mỗi lễ hội có
những hình thức, sắc thái riêng nhưng có mục đích chung là để thỏa mãn nhu
cầu về văn hóa, nhu cầu sinh hoạt cho người lao động sau những ngày tháng lao
động mệt nhọc chuẩn bị cho một mùa lao động mới. Thông qua các lễ hội nhiều
môn nghệ thuật, trò chơi, diễn xướng được hình thành có tác động sâu sắc đến tình
cảm của quần chúng nhân dân, góp phần giáo dục truyền thống đạo lí “Uống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ đến người có công với dân với nước.
Cùng với hoạt động văn hóa dân gian, Yên Phong còn nhiều di sản văn
hóa quí giá. Do thời gian qua đi, cùng với khí hậu khắc nghiệt và chiến tranh
tàn phá, Yên Phong đã mất khá nhiều công trình kiến trúc đồ sộ, đẹp đẽ như
chùa Quốc Thanh ở Phù Cầm, chùa Quảng Báo ở Chân Lạc, chùa Sùng Khánh
Ở Đông Xuyên vào thời Lí, nay chỉ còn đôi dòng ghi chép của sử sách cũ.
“Đông Xuyên có bãi sân chầu
Có chùa Sùng Khánh, có lầu Bạch Vân”
Ngày nay trong huyện có 74 ngôi đình, 81 ngôi chùa, 22 ngôi đền, 303
bia đá, 551 câu đối, 317 bức hoành phi. Trong số đó được Nhà nước xếp hạng
công nhận 57 di tích lịch sử văn hóa có 13 di tích kiến trúc nghệ thuật, 30 di
tích lịch sử văn hóa, 3 di tích lưu niệm danh nhân, 1 di tích lịch sử tiêu biểu, 21
ngôi đình cổ, 42 ngôi chùa, nhiều ngôi có giá trị vẫn giữ nguyên được kiến trúc
cũ như đình Viêm Xá với bức cửa võng rực rỡ, được chạm khắc công phu, từ
xưa vẫn có câu:
“Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang Đình Diềm”
Truyền thống văn hóa lâu đời đã trở thành nền tảng, động lực để xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Yên Phong.
Sự phát triển văn hóa Yên Phong hôm nay và mai sau bắt nguồn từ nền tảng
truyền thống văn hóa, từ những giá trị di sản về đạo đức, tư tưởng, lối sống,
phong tục, tập quán… được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.4. Tình hình kinh tế
Cho tới nay, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo của
huyện Yên Phong. Vùng đất Yên Phong thuận lợi cho việc phát triển lương
thực, thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nghề ươm tơ dệt lụa, nghề làm cày
bừa ở thôn Đông Xuất (xã Đông Thọ)…Tất cả điều này đã tác động đến quá
trình giao lưu, trao đổi hàng hóa trên thị trường, chợ ngày càng hình thành
nhiều tạo nên mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong, đáp ứng đầy đủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của người dân nơi đây.
Về sản xuất nông nghiệp, năm 1995 Yên Phong có 7891,11 hec ta đất
nông nghiệp, từ mỗi năm gieo cấy 13.000 ha. Do tích cực làm thủy lợi tưới tiêu
hợp lí gắn liền với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mà diện tích trồng lúa
được tăng cao so với các năm trước đây, năm 1999 tổng diện tích gieo trồng
17.158 ha, trong đó, diện tích trồng lúa 13.669 ha [10, tr. 130].
Năng suất lúa trung bình cũng tăng hàng năm, năm 1991đạt 27 tạ/ha,
năm 1992: 33tạ/ha, năm 1993: 36 tạ/ha, năm 1995: 36,84 tạ/ha, năm 1996:
36,65 tạ/ha, năm 1997: 42,29 tạ/ha, năm 1998: 43 tạ/ha, năm 1999: năng suất
47,25 tạ/ha. Trong vòng 9 năm (1991 - 1999) năng suất tăng lên 20 - 25 tạ/ha
tăng 72,5% [10, tr. 132].
Yên Phong có nhiều làng nghề thủ công truyền thống từ rất lâu. Nghề
trồng dâu nuôi tằm và ươm tơ có ở hầu hết các làng ven sông Cầu, nổi tiếng là
xã Tam Giang, Dũng Liệt, Hòa Long. Nghề cày bừa thôn Đông Xuất xã Đông
Thọ, đây là thôn duy nhất của tỉnh Bắc Ninh có nghề làm cày bừa, cày bừa
Đông Xuất là sản phẩm nổi tiếng trong nước “ Cày bừa Đông Xuất, mía đường
tỉnh Thanh” (Tố Hữu). Nghề ép dầu ở thôn Đông xã Tam Giang, nghề nấu rượu
ở Đại Lâm nổi tiếng từ thời Lý:
“Tiếng Đại Lâm vang lừng đất Bắc
Rượu thơm ngon có tiếng dâng vua”
Nghề đan lát đồ làm tre nứa nổi tiếng ở xã Đông Tiến với các sản phẩm khác
nhau như đan nia, giần, sàng, đan cót, đan gầu tát nước. Đây là nghề truyền
thống của địa phương đã đi vào câu ca:
“Đất lề nghề khéo lắm tiền
Giần sàng nia cót của chuyên môn nhà”
Các sản phẩm thủ công nghiệp phục vụ cho mỗi gia đình, cho sản xuất
nông nghiệp và được bày bán ở các chợ. Hiện nay các làng nghề vẫn còn tồn tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và phát triển, cung cấp cho nhu cầu của nhân dân.
Năm 2005, khu công nghiệp Yên Phong được hình thành với tổng diện
tích 658.71 ha [38]. Công nhân các nơi tụ tập về đây rất đông làm thúc đẩy
mạnh nhu cầu mua bán ở đây. Chính vì vậy các chợ tạm, chợ cóc mọc lên làm
thay đổi cuộc sống của cư dân quanh khu vực KCN Yên Phong.
1.2. Vài nét về hệ thống Chợ ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh trước
năm 1986
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin năm 2004 "Chợ là
nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá, thực phẩm hàng
ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ phiên)" [tr.155].
Do điều kiện địa lí và kinh tế nên cư dân ở huyện Yên Phong sớm có sự
giao lưu trao đổi buôn bán, nơi mua bán chính là các chợ và hàng hóa chủ yếu
nông sản (thóc gạo, lạc đỗ, lợn gà, thuốc lào, các loại rau, củ, quả…); gia súc
gia cầm (trâu, bò, lợn, gà…); cụ sản xuất (cày, bừa, dao, cuốc…); hàng tiêu
dùng (vải, tơ, lụa, giấy dó, dầu lạc và các hàng đan lát từ tre nứa…). Ngoài
những mặt hàng chủ yếu trên, các chợ còn có những đặc trưng riêng biệt của
vùng quê.
Chợ ban đầu là những tụ điểm buôn bán nhỏ, được người dân dựng
những túp lều tranh, nứa, cọ, che vách liếp, lá chuối, thậm chí là những con
rơm sau mỗi mùa gặt để che mưa, nắng hằng ngày ở những nơi thuận tiện cho
việc mua bán và dân cư đi lại nhộn nhịp. Tụ điểm để họp chợ thường ở ngã tư
của làng như chợ ở thôn Nguyệt Cầu, thôn Đông thuộc xã Tam Giang, chợ họp
ở ven sông Cầu như chợ thôn Lạc Trung thuộc xã Dũng Liệt... Chợ lớn hay bé
tùy thuộc vào kinh tế của làng, xã. Có những chợ mang đặc tính của một vùng
kinh tế như chợ Núi, chợ Chờ, còn có chợ làng như chợ Trai, chợ Chóa…chợ
họp theo phiên (tính theo ngày âm lịch) và chủ yếu họp chợ vào buổi sáng.
Ngoài hình thức mua bán bằng tiền mặt, ở chợ còn có hình thức vật đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vật, hàng đổi hàng. Các làng nghề thủ công mang vật phẩm đổi thóc gạo, ngô,
đậu hoặc những người buôn bán nhỏ mang các nhu yếu phẩm về các làng quê
hẻo lánh đổi lấy thóc gạo, ngô, khoai.
Ở các làng làm nghề thủ công (làm giấy, cày bừa, rèn, dệt vải) hoặc các
địa phương có cây con đặc sản (dâu tằm, thuốc lào, thuốc lá) luôn có tầng lớp
thương lái. Họ thu gom sản phẩm bán đi các nơi và đem nguyên liệu phục vụ
cho việc sản xuất của các làng nghề.
Trước năm 1986, hầu như xã nào ở huyện Yên Phong cũng có chợ. Theo
Địa Chí Yên Phong của Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong, Yên Phong có các
chợ phiên dưới đây:
Bảng 1.1: Số lượng chợ ở huyện Yên Phong trước năm 1986
Tên chợ Năm hình thành Các phiên (theo âm lịch)
Chợ Chờ 1930 2,7
Chợ Chóa 1945 3,8
Chợ Đại Lâm (Tam Đa) 1945 1,6
Chợ Chọi 1945 Mùng 8 tháng 1
Chợ Núi 1954 1,3,6,8
Chợ Trục 1954 4,9
Chợ Đông Xuyên 1954 2,5,7,10
Chợ Dương Ổ (Phong Khê) 1954 2,7
Chợ Bậu 1955 4,9
[10, tr. 191]
Chợ Chờ - Chợ huyện nằm ở ngã tư tỉnh lộ 295 từ thị xã Từ Sơn (Bắc
Ninh) đi thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) và tỉnh lộ 286, từ thành
phố Bắc Ninh từ Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn (Hà Nội ). Chợ họp phiên ngày 2,7 là
chợ vùng. Ngày phiên đông người hơn những ngày khác chợ vẫn họp.
Dưới ngòi bút của các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ thì nổi tiếng nhất là chợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chờ. Chợ Chờ đã được thi vị hóa thành những địa danh lãng mạn, nơi chứng
kiến những cuộc hẹn hò, chờ đợi của những cặp lứa đôi như bài thơ “Nhớ
sông” của nhà thơ Lê Tuấn Hoan có đoạn:
“ Sông Cầu dòng vẫn đầm Hương
Làm sao bên lở bên vương vấn bồi
Bồi cho mình lở cho tôi
Vô tình dòng chảy chia đôi hai bờ
Lơ thơ cho đến bao giờ
Nhớ sông lại nhớ chợ Chờ khôn nguôi”.
[35, tr. 3]
Nhạc sĩ Huy Du có bài hát “Chợ Chờ em vẫn chờ ai”, một ca khúc viết
về vùng đất Yên Phong của Bắc Ninh, trước đây được cố nghệ sĩ Nhân dân Lê
Dung thể hiện rất thành công. Lời bài hát có đoạn:
Chợ Chờ em vẫn chờ ai
Để bâng khuâng câu hát tháng năm dài anh đi…
Nay Yên Phong, mảnh đất quê mình xưa vẫn còn ghi
Giặc Tống giặc Nguyên phơi xác đầy đồng
Ngày hội khao quân bên chợ Chờ, chợ Núi
Câu hát đợi chờ, sao anh chẳng đến
Để bến đò trở thành bến đò Lo
Nước chảy lơ thơ mãi đến bây giờ…
[35, tr. 4]
Chợ Chờ, Chợ Núi, Như Nguyệt, Tam Giang… là những tên đất, tên
sông của vùng Kinh Bắc, từng chứng kiến biết bao chiến tích lịch sử hào hùng,
phá tan quân tống năm 1077 trên phòng tuyến sông Cầu của Ngô Tuấn - Lý
Thường Kiệt, gắn liền với sự ra đời và tên tuổi bài thơ bất hủ: Nam quốc Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hà, một bản hùng ca, bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của non sông đất Việt.
Chợ Núi (xã Yên Phụ) họp phiên ngày 1,3,6,8 đây là chợ vùng, trước đây
có bán trâu bò và lợn giống và nghề cửi canh:
“Hỡi anh đi cái ô đen
Có về Yên Phụ với em thì về
Yên Phụ có gốc cây đề
Có ao thả cá, có nghề cửi canh”
Chợ Trục (xã Đông Phong) nằm trên đường đi thành phố Bắc Ninh,họp
phiên ngày 4,9 có bán cả lợn giống.
Chợ Chóa: Họp phiên ngày 3,8. Chợ Chóa là vùng đất chũng, nhân dân ở
đây ngoài trồng lúa ra thì còn trồng ngô, khoai lang, đặc biệt là trồng dâu tằm
cung cấp hầu hết các chợ trên địa bàn huyện. Trong dân gian ai cũng biết: “Lạc
Trung chỉ có dâu tằm mà thôi”. Người dân Yên Phong nơi đây đã biết tới tiềm
lực của các bãi sa bồi dọc theo sông Cầu, để có những ngàn dâu xanh tốt.
Phương Khiết, cô gái chăn tằm dệt lụa giỏi giang, lại đẹp người đẹp nết, quê ở
Chân Lạc, nay vẫn còn đền thờ.
Chợ Đông Xuyên họp phiên ngày 2, 5,7,10. Ở đây có nghề làm mành
trúc được đem ra trao đổi mua bán.
Chợ Vạn (Vạn An) họp suốt các ngày trong tháng
Chợ Chiều (Văn Môn) trước đây chủ yếu họp buổi chiều hàng ngày nên
gọi chợ Chiều, nay họp chợ cả ngày.
Chợ Dương Ổ (Phong Khê) họp phiên ngày 2,7. Ở đây có nghề làm giấy
mới, giấy bản từ vỏ cây dó ở Dương Ổ, Đào Thôn, Trâm Khê có từ xa xưa, trai
gái, già trẻ trong làng ai cũng biết làm và đem ra chợ bán. Chỉ với ngần ấy con
người, mấy xóm làng bên bờ Ngũ Huyện, giấy dó đã có mặt ở chợ Hồ (Thuận
Thành), chợ Và (Quế Dương), chợ Cẩm (Hải Dương) và luôn bên cạnh những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người học trò trong những năm đèn sách, dùi mài kinh sử:
“Người ta buôn vạn bán ngàn
Em nay làm giấy cơ hàn vẫn vui
Dám xin nho sĩ chớ cười
Vì em làm giấy cho người đề thơ…”
Chợ Đại Lâm (Tam Đa) họp phiên ngày 1,6.
Chợ Xà: Trước đây họp vào tất cả các buổi trưa trong tháng. Sản phẩm
trao đổi là dầu lạc và nguyên liệu phục vụ nghề thủ công ở đây.
Chợ Trai (Vọng Nguyệt - Tam Giang) họp vào lúc trạng vạng tối lúc trâu
bò về chuồng ở cạnh Nghè, họp tất cả các ngày trong tháng. Sản phẩm chủ yếu
là thực phẩm.
Chợ Chọi (Khúc Toại - Khúc Xuyên) trước đây mỗi năm họp 1 phiên
vào ngày 8 tháng giêng đúng vào ngày làng Chọi tổ chức thi hát quan họ. Chợ
này tập trung nhiều thầy bói từ các nơi về.
Chợ Bậu họp phiên vào ngày 4,9 và vào chập choạng tối (nên còn gọi là
chợ âm dương) chợ này đã mất. Tục truyền rằng người xưa bán hàng có chậu
nước để thử tiền thật tiền giả. Người mua không mặc cả, người bán không đếm
tiền chỉ là “ Sự mua bán may rủi”. Người mua có bị thiệt thòi cũng thoải mái vì
đã làm phúc cho mọi người, vì thế mua bán nhiều khi mang tính tượng trưng
cầu phúc mà thôi.
Nhìn chung, trước năm 1986, do kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ
cùng với chế độ quan liêu bao cấp đã ảnh hưởng không nhỏ đến mạng lưới chợ
nông thôn trong huyện Yên Phong. Việc phân phối các nhu yếu phẩm Nhà
nước vẫn nắm độc quyền và phân phối theo hình thức tem phiếu, giải tán bớt
các chợ huyện bán hàng ngoại hóa, hạn chế nhập hàng ngoại không cần thiết.
Vì vậy hàng hóa bị bó hẹp nhưng chợ vẫn đông và nhộn nhịp. Đó chính là một
số những hạn chế làm cho kinh tế thương nghiệp trong huyện gặp nhiều khó
khăn và sự phát triển của chợ nông thôn Yên Phong cũng bị ảnh hưởng lớn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cơ chế đó.
Tiểu kết chương 1
Yên Phong là một huyện đồng bằng, nằm phía Tây tỉnh Bắc Ninh, thuộc
vùng châu thổ sông Hồng, địa hình Yên Phong được bao bọc và chia cắt bởi ba
con sông: Sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Ngũ Huyện Khê. Do hoàn cảnh địa lí
tạo nên, người dân Yên Phong đã phải liên tục đấu tranh với thiên nhiên khắc
nghiệt để bảo vệ xây dựng cuộc sống của mình. Đó là bản thiên anh hùng ca
chứng minh cho một truyền thống cần cù lao động, đấu tranh chống thiên tai
không mệt mỏi của người dân Yên Phong. Những điều kiện tự nhiên ấy đã tạo
nên sức mạnh đoàn kết, ý chí kiên cường, bất khuất của người dân Yên Phong.
Người dân ở Yên Phong trước năm 1986 chủ yếu là thuần nông, rất ít
người là buôn bán chuyên nghiệp. Các mặt hàng bày bán trong chợ chủ yếu là
những loại rau củ quả, những con tôm, con tép, cua đồng, giần, nia, sàng, cày
bừa…phục vụ cho nông nghiệp. Đến năm 1986, huyện Yên Phong có 9 chợ,
phần lớn các chợ họp theo phiên, rất ít chợ họp cả ngày. Cơ sở vật chất các chợ
còn nghèo nàn, các sản phẩm bày bán trong chợ chủ yếu là nông sản và những
mặt hàng thủ công nghiệp thiết yếu phục vụ cho đời sống nhân dân.
Như vậy hoạt động của mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh trước thời kì đất nước đổi mới còn thưa thớt, các mặt hàng ít,
chưa phong phú. Bởi vì sau các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ
trường kì nhân dân trong huyện còn phải khắc phục lại nhiều công trình. Tuy
vậy mạng lưới chợ nông thôn trong thời kì này đóng một vai trò rất quan trọng
đem lại cuộc sống bình an, thanh đạm, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyện nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.
Chương 2
CHỢ NÔNG THÔN Ở HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2016
2.1.. Phân loại chợ và đặc điểm các loại chợ ở huyện Yên Phong
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP; khoản 1, Điều 1
Nghị định số 114/2009/NĐ-CP của Chính phủ:
- Phạm vi chợ: Là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ bao
gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe,
kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao
quanh chợ;
- Chợ đầu mối: Là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng
hóa lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành
hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác;
- Chợ kiên cố: Là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng trên
10 năm;
- Chợ bán kiên cố: Là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng từ
5 đến 10 năm;
- Chợ chuyên doanh: Là chợ kinh doanh chuyên biệt một ngành hàng hoặc
một số ngành hàng có đặc thù và tính chất riêng;
- Chợ tổng hợp: Là chợ kinh doanh nhiều ngành hàng;
- Chợ dân sinh: Là chợ hạng 3 (do xã, phường, thị trấn quản lý) kinh
doanh những mặt hàng thông dụng và thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày
của người dân;
- Chợ tạm: Là chợ nằm trong quy hoạch nhưng chưa được xây dựng kiên
cố hoặc bán kiên cố;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Chợ nông thôn: Là chợ ở các xã của các huyện, thị xã, thành phố;
- Điểm kinh doanh tại chợ: Bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng
được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích
quy chuẩn tối thiểu là 3m2/điểm.
- Chợ phiên là các phiên chợ đã có lịch họp nhất định, cụ thể trong tháng,
chợ phiên được qui định rõ ràng của một số làng và một số địa phương [25].
Sản phẩm của chợ phiên rất phong phú, nhiều mặt hàng, bán buôn, bán lẻ đủ
thứ. Người dân đi chợ phiên rất đông và những nơi khác về mua bán rất nhiều.
Trong các phiên chợ họp, hàng hóa phần lớn là những sản vật ruộng vườn của
làng quê và được thay đổi theo từng mùa. Mùa hè thì có rau muống, rau dưa,
gà, vịt, mùa đông thì có khoai tây, cải bắp, su hào, súp lơ, ngô. Các chợ đều có
sản phẩm đặc trưng riêng và đơn giản hơn chợ ở các thành phố.
Như vậy, theo hướng dẫn trong Nghị định của Chính phủ, chợ nông thôn
ở huyện Yên Phong là chợ có ở tất cả 13 xã và 01 thị trấn, đây là loại chợ mang
tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng các
nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của dân cư huyện
Yên Phong.
Chợ loại 1: Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng
kiên cố, hiện đại theo quy hoạch; được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương
mại quan trọng của tỉnh hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh
tế và được tổ chức họp thường xuyên; có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với
quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe,
bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra
chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
Chợ loại 2: Là chợ có từ 200 điểm kinh doanh đến 400 điểm kinh doanh,
được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch; được đặt ở
trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không thường xuyên; có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động
chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa,
kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo lường, vệ sinh công cộng.
Chợ loại 3: Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được
đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố; chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán
hàng hóa của nhân dân trong xã, phường, thị trấn và địa bàn phụ cận.
Dựa vào cách phân hạng chợ trên cũng như căn cứ vào tình hình thực tế
các chợ trên địa bàn, Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong đã dựa vào các tiêu
chí sau để xác định các loại chợ (xem bảng 2.1) :
Bảng 2.1 : Tiêu chí phân loại chợ
Các tiêu chí để xác định loại chợ
CHỢ Cấp quản lý Quy mô số điểm kinh Cấp công Số tầng nhà tương ứng doanh (3m2/ĐKD) trình
Tỉnh, Thành Loại 1 > 400 1 - 4 Cấp 21 phố
Quận, huyện, Loại 2 ≥ 200 1 - 3 Cấp 32 thị trấn
Loại 3 Phường, xã < 200 1 - 2 Cấp 43
Nguồn: Phòng Kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp
Huyện Yên Phong có 9 chợ được hình thành trong giai đoạn từ năm
1930-1954. Từ năm 1955 đến năm 2016, đã tăng thêm 4 chợ: Chợ Đình
Đoài ở xã Tam Giang (năm 1960); Chợ Yên Vĩ ở xã Hòa Tiến (năm 1990);
chợ Đình Nghiêm Xá ở thị trấn Chờ (năm 2009); chợ Chiều Cơ Khí thị trấn
Chờ (năm 2010).
Dựa vào tiêu chí phân loại trên, huyện Yên Phong có 01 chợ đạt tiêu
chuẩn chợ loại 2 là chợ Chờ; có 12 chợ đạt tiêu chuẩn chợ loại 3 là: Chợ Đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nghiêm Xá, chợ Chiều Cơ Khí, chợ Bến Đông Xuyên, chợ Núi, chợ Chiều Văn
Môn, chợ Chục, chợ Chóa, chợ Lạc Trung, chợ Trai, chợ Đình Đoài, chợ Đại
Lâm, chợ Yên Vĩ (xem bảng 2.2).
Bảng 2.2: Phân loại chợ trên địa bàn huyện Yên Phong (tính đến tháng 6
năm 2016)
TT Địa bàn Địa chỉ Phân loại chợ Năm đưa vào sử dụng
1 Chợ Chờ Loại 2 1930
2 Chợ Chóa Loại 3 1945
3 Chợ Đại Lâm Loại 3 1945
4 Chợ Trai Loại 3 1950
5 Chợ Bến Loại 3 1954
6 Chợ Núi Loại 3 1954
7 Chợ Chiều Loại 3 1954
8 Chợ Trục Loại 3 1954 Thị trấn Chờ Xã Dũng Liệt Xã Tam Đa Xã Tam Giang Xã Đông Tiến Xã Yên Phụ Xã Văn Môn Xã Đông Phong
9 Chợ Lạc Trung Dũng Liệt Loại 3 1954
10 Chợ Đình Đoài Tam Giang Loại 3 1960
11 Chợ Yên Vĩ Hòa Tiến Loại 3 1990
12 Chợ Đình Nghiêm Xá Loại 3 2009
13 Chợ Chiều Cơ Khí Loại 3 2010 Thị Trấn Chờ Thị trấn Chờ
Nguồn: Phòng Kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp
Ngoài các chợ được phân hạng thì trên địa bàn huyện Yên Phong cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có 1 số chợ do nhu cầu của làng nói chung và của những người dân nói riêng
không nằm trong hệ thống chợ phiên cụ thể, chợ thường họp vào buổi sáng từ
5h đến 7h như chợ làng Đông, hay chợ vào khoảng 4h chiều như chợ làng
Nguyệt Cầu. Chợ chủ yếu bán rau củ quả, thịt hàng ngày. Chợ không đông đúc
nhưng diễn ra đều đặn, có những phản thịt dựng cố định, có những hàng quán
dựng tạm bợ hết chợ thì lại dọn về.
Nhìn chung, hầu hết các chợ nằm ven các trục đường giao thông huyết
mạch của tỉnh, huyện, gần sân bay Nội Bài, gần đường 18 và các đường liên
thôn, liên xã, cho nên rất thuận lợi cho việc mua bán và thực hiện giao thương
hàng hóa giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, cơ sở vật chất
của chợ chưa đảm bảo phục vụ tốt cho quá trình kinh doanh như: Một số chợ
chưa xây dựng được nhà bán hàng, chủ yếu là nhà tạm và các quầy hàng, hệ
thống điện chiếu sáng chưa đảm bảo về an toàn điện và cường độ ánh sáng,
nhiều chợ chưa có hệ thống cấp thoát nước, chưa có nhà vệ sinh công cộng,
chưa có hệ thống phòng cháy và chữa cháy. Mặc dù trong những năm qua, nhà
nước và các địa phương đã bỏ ra 14.592 triệu đồng để xây dựng, cải tạo, nâng
cấp các chợ nhưng nhìn chung cơ sở vật chất tại các chợ vẫn chưa đảm bảo
được yêu cầu đề ra.
UBND Huyện đã ra quyết định phân loại và phân cấp quản lí 1 chợ đó là
chợ Chờ do huyện quản lí. Còn 12 chợ do UBND xã, thị trấn quản lí.
Một số chợ tuy có thành lập Ban Quản lý chợ nhưng chưa phát huy tác
dụng, chủ yếu tập trung vào công tác trông giữ xe, chưa quan tâm đến công tác
trật tự của chợ. Công tác chấp hành pháp luật của các tiểu thương chưa nghiêm
túc, nhiều hộ còn nợ đọng thuế, bán hàng kém chất lượng và đồ chơi mang tính
bạo lực. Công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa được triển khai
triệt để, một số hàng nhập lậu vẫn được bầy bán ở các chợ.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động của các chợ trên địa bàn nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chung chưa được quan tâm và kiểm soát triệt để, việc kiểm tra, xử lý buôn bán
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tại các chợ chưa nghiêm, chỉ tập
trung chủ yếu vào các dịp lễ tết. Việc xử lý chưa có tính ngăn chặn. Đặc biệt
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bị buông lỏng, các thực phẩm tươi
sống không qua kiểm dịch, các quầy hàng ăn uống tự do hoạt động trong các
chợ và mất vệ sinh.
Trong những năm qua, UBND huyện đã chỉ đạo các ngành và UBND các
xã, thị trấn tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và cơ chế,
chính sách về hoạt động của các chợ trên địa bàn. Công tác tuyên truyền đã tập
trung vào những chính sách lớn của Đảng và nhà nước như các quy định về
thuế, hướng dẫn các hộ kinh doanh thực hiện đúng các quy định của pháp luật,
không buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và đặc
biệt là công tác đề phòng dịch bệnh, các quy định về an toàn vệ sinh thực
phẩm, không bán thịt gia súc gia cầm chết hoặc bị bệnh dịch. Những khu vực,
mặt hàng dễ cháy yêu cầu các hộ đề phòng các nguồn gây cháy nổ, tìm hiểu về
phòng cháy và chữa cháy khi có sự cố cháy xẩy ra.
Công tác kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp
luật, cơ chế chính sách tại các chợ trên địa bàn đã được quan tâm. UBND
huyện thường xuyên chỉ đạo các cơ quan liên quan, UBND các xã, thị trấn, các
ban quản lý chợ phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thương
mại. Tuy nhiện công tác thanh kiểm tra chưa được thường xuyên nên hiện
tượng buôn bán háng kém chất lượng, cân đong, đo đếm thiếu vấn còn xẩy ra,
ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
2.2. Thời gian họp và cơ sở vật chất của chợ
Trước năm 2000, các chợ ở huyện Yên Phong đều không có qui định vé
vào chợ, từ năm 2000 mới có qui định vé vào chợ, có các vị trí đã vạch sẵn và
qui định thành từng khu vực, có nhà vệ sinh công cộng, có chỗ giữ xe của
người đi chợ. Tuy vậy trừ các chợ lớn như chợ Chờ thì hầu hết các chợ vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mang tính chất là nông thôn là chủ yếu.
Với 13 chợ phân bố trên 13 xã và một thị trấn, có thể thấy cứ 01 xã, 01
thị trấn thì có 01 chợ, mỗi chợ phục vụ bình quân hơn 13.000 dân. Các chợ này
phần lớn có từ lâu đời, trong đó có 01 chợ liên tỉnh là chợ Trai (Tam Giang)
giáp với huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang, có 4 chợ liên huyện (chợ Chờ, chợ
Đình Nghiêm Xá, chợ Chiều Cơ Khí, chợ Chục).
Hầu hết các chợ ở huyện Yên Phong được họp thường xuyên vào các
ngày trong tháng để đáp ứng nhu cầu mua bán của người dân. Tuy nhiên, có
chợ chỉ họp vào buổi sáng các ngày trong tuần như chợ Chờ, chợ Núi, có chợ
chỉ họp vào buổi chiều như chợ chiều Văn Môn, chợ Chiều Cơ Khí.
Ngoài ra, có 4/13 chợ họp theo phiên, đó là chợ Bến (Đông Tiến), chợ Chóa
(Dũng Liệt), chợ Chân Lạc (Dũng Liệt), chợ Chục (Đông Phong). Chợ họp
theo phiên thường đông đúc và nhiều mặt hàng do dân ở những nơi khác đến
bán. Mỗi một xã có qui định riêng về các ngày họp chợ cho phù hợp với điều
kiện tại địa phương. Chợ ven sông thôn Lạc Trung, chợ Chóa thôn Chân Lạc
đều cùng 1 xã Dũng Liệt cho nên các ngày họp chợ phiên cũng khác nhau,
không trùng nhau.
Chợ phiên được tính theo ngày âm lịch, ví dụ một chợ ở thôn Lạc Trung
được qui định phiên họp chợ vào ngày 1, 5, 11 và được lặp lại các ngày trong
tháng (17, 23, 29), chợ Chục được họp vào các ngày 2,4,7,9,12 và được lặp lại
các ngày tiếp theo (14, 17, 19, 22, 27, 29).
Có những người bán hàng cả ngày ở chợ, ăn cơm trưa ở chợ, chỉ tối là
về, họ có gian bán hàng, chiều đến họ dọn dẹp rồi khóa vào, sáng mai lại bày ra
bán. Đó là người đi buôn lâu năm, họ có chỗ bán cố định. Còn những người
bán không cố định như lúc nào họ có rau xanh, hành tỏi khô, hoặc trứng gà đẻ
hay bắt được những con cua đồng thì họ mang ra chợ bán. Những người này
thường rất sởi lởi vì sản vật của họ làm ra chứ không phải đi mua lại của người
khác đem bán. Cứ đến những vụ cắt lúa sau khi phơi khô và quạt sạch là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hàng xáo đến thu mua luôn tại nhà vài tạ. Hết vụ lúa là trồng hoa màu như
khoai lang, khoai tây, bí xanh, bí đỏ. Người mua ra tận ruộng thu mua để đảm
bảo nguồn gốc hoa quả sạch. Cứ đến mùa thu hoạch là những lái buôn từ nơi
khác đến đến mang theo xe ô tô chở khoai tây, bí xanh, dưa lê để thu mua.
Những sản phẩm này không chỉ phục vụ cho nhân dân trong huyện mà còn
phục vụ cho các vùng khác trong huyện.
Bảng 2.3: Bảng thống kê các ngày họp chợ
Ngày họp chợ trong tháng (Âm lịch) ST Phiên/ Tên chợ T tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1 Chợ Chờ + + + + + + + + + + + 30
2 Chợ Nghiêm Xá + + + + + + + + + + + 30
3 Chợ Chiều Cơ Khí + + + + + + + + + + + 30
4 Chợ Bến x x x X 12
5 Chợ Núi + + + + + + + + + + + 30
6 Chợ chiều Văn Môn + + + + + + + + + + + 30
7 Chợ Chục x x x X 12
8 Chợ Chóa x x 06
9 Chợ Lạc Trung x x x 06
10 Chợ Trai + + + + + + + + + + + 30
11 Chợ Đình Đoài + + + + + + + + + + + 30
12 Chợ Đại Lâm + + + + + + + + + + + 30
13 Chợ Yên Vĩ + + + + + + + + + + + 30
Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp.
Ngoài ra huyện Yên Phong trồng rất nhiều dâu tằm, ven sông Cầu xanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngát những nương dâu để phục vụ cho nghề nuôi tằm, ươm tơ truyền thống.
Ngoài mục đích phục vụ nhu cầu các chợ trong huyện còn với mục đích kinh
doanh nhất là những gia đình có nhiều bãi dâu. Có những thương lái ở rất xa và
thường đặt trước về thu mua kén và nhộng mang ra Hà Nội bán.
Sau đổi mới, ngoài các chợ cố định còn xuất hiện những người gánh
hàng rong như mớ rau, mớ hành, ngọn mướp, ngọn su su, rồi những người bán
bánh đúc, bánh tẻ buổi sáng. Họ gánh đôi quang gánh vào tận các ngõ hẻm để
bán hàng. Ngoài ra còn có những người bán hàng rong từ nơi khác đến như đẩy
xe bằng hai bánh, bốn bánh hoặc thồ hai sọt hai bên bằng xe máy: Người bán
cam, người bán chanh, người bán hoa sen, họ đứng ở rìa đường bán thỉnh
thoảng lại di chuyển. Những người này thường bán rẻ nên khách mua rất đông.
Nhìn chung chợ ở huyện Yên Phong chủ yếu là họp thường xuyên, chỉ
có 4 chợ hop theo phiên. Hàng hóa bán ở đây phong phú, đa dạng, giá cả có sự
cạnh tranh với nhau. Điều này đã đáp ứng nhu cầu mua bán của nhân dân.
Không cần phải đến những chợ ở các thành phố lớn, các chợ ở huyện Yên
Phong có đủ hàng hóa, phục vụ người dân và không thể thiếu được trong đời
sống của nhân dân huyện Yên Phong.
Tính đến năm 2016, Yên Phong có 13 chợ đang hoạt động (trong đó:
1 chợ hạng 2 và 12 chợ hạng 3). Tổng diện tích các chợ đang hoạt động là
36.219 m2 với 1.455 hộ đang kinh doanh tại các chợ. Tổng diện tích chợ đã
được lát gạch hoặc bê tông hóa là 6.440 m2, diện tích nhà bán hàng và lề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chợ là 19.102 m2.
Bảng 2.4: Bảng thống kê diện tích, cơ sở vật chất của các chợ
STT Tên chợ
Diện tích sân gạch, bê tông (m2) Diện tích nhà bán hàng (m2 ) Đánh giá cơ sở hạ tầng Diện tích đất chợ (m2)
1 Chợ trung tâm 4,872 390 4,482 Tốt thị trấn Chờ
2 Chợ Chóa 2,532 Khá 302
3 Chợ Đại 600 TB Lâm
4 Chợ Trai 557 TB 154
5 Chợ Bến 5,000 TB
6 Chợ Núi 4,195 Tốt
7 Chợ Chiều 2,000 400 TB 1,600
8 Chợ Trục 3,234 400 TB 2,833.70
9 Có mái Chợ Lạc 2,149 che: 138, TB Trung lều: 76
10 Chợ Đình 1,000 Lều: 15 TB Đoài
11 Diện tích
Chợ Yên Vĩ 380 lều tạm: Khá
100
12 Chợ Đình 800 1,200 200 Tốt Nghiêm Xá
13 Chợ Chiều 2,000 400 1,600 TB Cơ Khí
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở dữ liệu Phòng Kinh tế và hạ tầng nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thôn huyện Yên Phong cung cấp.
Trước năm 2000, hầu hết các chợ chỉ là chợ tạm, lều tranh, vách nứa, rồi
những chợ ở ven sông, ven đê, đình làng ngã tư…Từ năm 2000 các chợ đã
được sửa chữa, xây lại kiên cố, lợp mái tôn, mái ngói, có ki ốt, đèn điện chiếu
sáng, đội ngũ vệ sinh môi trường thu gom rác thải. Các chợ lớn như chợ Chờ
(thị trấn Chờ), chợ Núi (Yên Phụ), chợ Trục (Tam Đa), chợ chiều (Văn Môn)
đều có các bình phòng cháy chữa cháy, có hệ thống thoát nước trong những
ngày mưa to. Ngoài ra các chợ có Ban Quản lý chợ, người thu thuế, trông nom
cơ sở vật chất…
Nhìn chung, hầu hết các chợ nằm ven các trục đường giao thông huyết
mạch của tỉnh, huyện như chợ Chờ nằm gần quốc lộ 18, gần sân bay Nội Bài và
các đường liên thôn, liên xã, cho nên rất thuận lợi cho việc mua bán và thực
hiện giao thương hàng hóa giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh.
Phần lớn các chợ được xây dựng rộng rãi, thoáng đạt. Dưới đây là mô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hình sơ đồ cấu trúc không gian của một vài chợ ở huyện Yên Phong:
Sơ đồ 2.1: Chợ Chờ - thị trấn Chờ
Dãy 1 ( Lợp pro xi măng): Bán ấm, tích, chén
Dãy 2 (Lợp pro xi măng): Bán dao, thìa khóa, đồ khô, bánh kẹo
Dãy 3 (Ki ốt): Bán gạo, chiếu, chổi
Dãy 4 (Ki ốt): Bán giày dép, đồ dùng học sinh
Dãy 5 ( Ki ốt): Bán đồ nhựa
Dãy 6 ( Lợp pro xi măng): Hàng ăn
Dãy 7 ( Lợp pro xi măng): Hàng thịt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dãy 8 ( Lợp pro xi măng): Bán ba lô, cặp sách
Dãy 9 ( Ki ốt): Bán quần áo
Dãy 10 ( Ki ốt): Bán mĩ phẩm
Dãy 11 ( Ki ốt): Bán hoa quả, rau củ quả
Dãy 12 ( Ki ốt): Bán đồ hải sản khô
Dãy 13 ( Ki ốt): Bán cá, tôm, cua, ốc
Dãy 14: Nhà vệ sinh
Sơ đồ 2.2: Chợ Bến - Xã Đông Tiến
Dãy 1 (Mái tôn, pro xi măng): Bán quần áo, giầy dép
Dãy 2 (Mái ngói): Bán thịt lợn
Dãy 3 (Mái ngói): Bán thịt gà, thịt bò
Dãy 4 ( Mái tôn, pro xi măng): Bán hàng khô, hàng mã
Dãy 5 (Mái tôn, pro xi măng): Bán hàng xén, hàng rau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dãy 6: Nhà vệ sinh
Sơ đồ 2.3: Chợ Trai- Vọng Nguyệt
Dãy 1(Lợp pro xi măng): Bán rau quả, đậu
Dãy 2 (Lợp pro xi măng): Bán hàng khô, trứng
Dãy 3 (Lợp pro xi măng): Bán quần áo
Dãy 4 (Lợp pro xi măng): Giày dép, hoa quả
Dãy 5 (Lợp pro xi măng): Bán thuốc, hàng khô
Dãy 6 (Lợp pro xi măng): Bán giò chả, nem, hoa quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dãy 7 (Lợp pro xi măng): Bán các loại rau xanh
Sơ đồ 2.4: Chợ thôn Đoài- Tam Giang
Dãy 1: Cổng chính
Dãy 2: Cổng phụ
Dãy 3: Nhà bảo vệ
Dãy 4: Bãi gửi xe
Dãy 5 (Mái tôn): Bán hàng tạp hóa như bánh kẹo, đồ dùng sinh hoạt
Dãy 6 (Mái tôn): Khu hàng thịt cá.
Dãy 7 (Mái tôn): Bán hàng quần áo.
Dãy 8 (Mái tôn): Bán hàng khô như măng, miến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dãy 9: Nhà vệ sinh.
Nhìn vào các sơ đồ trong địa bàn huyện Yên Phong, có thể thấy mỗi chợ
có cấu trúc, vị trí khác nhau, không chợ nào giống chợ nào, có chợ thì qui mô
to, có chợ qui mô nhỏ. Qua các chợ thấy được tầm vóc, số lượng hàng hóa bày
bán, số khách hàng mua và thấy được sự phát triển mạnh, sức mua của vùng
quê đó.
Những hàng quần áo, giầy dép, mĩ phẩm hầu hết được xây dựng kiên cố,
bán cả ngày từ sáng đến chiều tối, kể cả trời nắng hay trời mưa cũng không ảnh
hưởng gì, thuận lợi cả người bán và người mua. Các chợ cũng đã chuẩn bị và
lên kế hoạch xây dựng chu đáo. Đa số hàng cá thường ở cuối chợ để cho khỏi ô
nhiễm và bốc mùi. Còn những hàng quần áo, hàng khô, đồ dùng học sinh thì cố
định trong ki ốt, được phân chia rõ ràng, có thìa khóa cẩn thận.
2.3. Hoạt động mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong
2.3.1. Quá trình chuẩn bị, phương thức vận chuyển, cách thức đo lường,
hình thức mua bán hàng hóa
Quá trình chuẩn bị hàng hóa gồm có những người chuyên buôn bán và
những người không chuyên. Những người chuyên buôn bán, tức là nghề sống
còn, là nghề tay phải của họ thì họ rất sành sỏi, tính toán cẩn thận để kịp phiên
chợ. Chẳng hạn những người bán thịt trâu, thịt bò thì những hôm trước họ phải
đi tìm mua trâu, bò sẵn để thịt, có khi phải đi những vùng khác rất xa. Khoảng
2h đến 3h sáng là họ phải dậy để chuẩn bị thịt trâu, thịt bò để khoảng 5h sáng là
có thịt tươi ngon bày ở các tấm phản của chợ. Trong những ngày mùa đông và
mùa giáp tết thì số lượng trâu, bò được giết mổ ngày càng nhiều để phục vụ cho
các đám cưới và được làm giò bò để phục vu tết nguyên đán. Hay những người
làm bánh mì họ phải làm cả đêm để sáng ra khoảng 4h đã có mẻ bánh mì nóng
người ta đến lấy mang ra chợ bán sớm. Hoặc những người buôn bán quần áo
trong chợ, những quần áo lỗi thời họ phải bán rẻ cho hết, ngoài ra họ luôn cập
nhật các mốt quần áo của giới trẻ. Họ muốn lấy rẻ và lấy tận gốc thì ra chợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ninh Hiệp (Hà Nội) là chợ đầu mối và chuyên buôn bán quần áo với số lượng
lớn. Mỗi một lần nhập quần áo họ sẽ lấy nhiều và lấy theo lô sẽ rẻ hơn rất
nhiều, bán trong vòng khoảng một tuần là hết, vì phải đi mua hàng xa nên phải
tính toán sao cho có lời nhất. Một ví dụ khác như hàng giày dép muốn lãi nhiều
đa số họ nhập từ Trung Quốc, họ còn nhập cả ô tô giày dép đủ các loại mẫu
thời trang về ki ốt để bán. Ở làng Vọng Nguyệt (xã Tam Giang) chuyên trồng
dâu nuôi tằm, họ phải chuẩn bị lâu dài từ trước, phải quay tơ cắt kén để có
những con nhộng mang ra thị trường bán. Ở xã Đông Tiến chuyên làm giần,
sàng, nia, thúng, thì phải chuẩn bị trước một đến hai tháng mới hoàn thiện xong
để mang đến các chợ bán, thường vào ngày mùa bà con nông dân cần đến nên
rất đắt hàng. Hay là làng Đông Xuất xã Đông Thọ chuyên làm cày bừa để phục
vụ bà con trong huyện, họ phải chuẩn bị từ đẽo cày, gọt cày, lưỡi cày… trong
khoảng thời gian dài và mang ra chợ Chờ bán phục vụ bà con nông dân.
Những người không chuyên buôn bán thì bao giờ có hàng người ta mới
đi chợ, chẳng hạn thỉnh thoảng có con gà hoặc vài chục quả chứng gà để mang
ra bán. Có khi nhà trồng nhiều rau không ăn hết, họ mang mướp, bí đao, rau
mồng tơi, ít hành tỏi khô mang ra bán. Vào tháng 7, tháng 8 là mùa sen nở ngát
hương thì mới có hoa sen, bát sen để bán. Họ thường đi chợ ở gần nhà cho tiện,
nếu phải đi chợ xa hơn thì từ tối hôm trước họ phải chuẩn bị, chằng buộc cho
chắc chắn để sáng hôm sau chỉ việc đi sớm. Những người đi chợ có thể là giáo
viên, công chức, nông dân, thợ thủ công, công nhân… Họ thường tranh thủ đi
vào buổi sớm rồi về đi làm việc hoặc là buổi trưa lúc tan tầm. Còn công nhân
thì họ làm theo ca nên đi chợ bất kì lúc nào họ được nghỉ. Chợ được bày bán cả
ngày phục vụ tất cả mọi người.
Quá trình chuẩn bị hàng hóa của những người buôn bán rất vất vả, họ
phải thức khuya dậy sớm, trời mưa cũng như trời nắng. Đối với những thương
nhân buôn bán không cố định nay chợ Bến (Đông Tiến), nay chợ Lạc Trung
(Dũng Liệt), mai Chợ Chục (Đông Phong), hôm khác lại chợ Chờ, lúc phiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
này ở gần, lúc phiên khác ở xa, có chợ xa đến 10 - 15 km. Vì vậy quá trình
chuẩn bị hàng hóa là yếu tố rất quan trọng và cần thiết. Vì nó còn phụ thuộc
vào loại hàng và nguồn hàng ở đâu.
Trong tất cả các mặt hàng, ở các chợ liên xã, liên làng thường lên chợ
huyện (chợ Chờ) lấy hàng, người buôn bán ở chợ Chờ lại đi đến những chợ đầu
mối xa hơn để nhập hàng.
Như vậy là để chuẩn bị cho một phiên chợ, những người buôn bán phải
thức khuya dậy sớm để chuẩn bị và đi lấy hàng, họ phải đổ mồ hôi đầm đìa,
công sức để chuẩn bị hàng hóa cho các phiên chợ. Tất cả những dẫn chứng trên
đã chứng tỏ điều đó.
Phương thức vận chuyển hàng hóa thường phụ thuộc vào tính chất địa lý
từng nơi và dựa vào nhu cầu của người mua, người bán. Ở các chợ nông thôn
Yên Phong, các thương lái thường vận chuyển hàng hóa bằng xe tải, xe chuyên
chở, xe máy, xe đạp thồ, xe kéo…
Các tiểu thương ở chợ nông thôn Yên Phong thường đo lường hàng hóa
bằng cân, đong, đo đếm, thậm chí có thể ước lượng số lượng, trọng lượng hàng
hóa. Các chợ ở huyện Yên Phong đều tồn tại hai kiểu cách mua bán cơ bản là
bán sỉ, bán lẻ. Nếu muốn mua sỉ, người bán sẽ bán với giá rẻ hơn so với mua lẻ.
Hai kiểu mua bán sỉ, lẻ được cụ thể bằng cách đo lường chung, đó là bằng kg,
lít, chai, lon… và đếm theo trăm, chục… Có khi tính bằng mớ, rổ, bó… Tất cả
những cách thức đo lường đó đã được giới thương nhân tự đặt ra. Người mua,
người bán cứ theo đó mà thỏa thuận tính toán, đo lường như một quy tắc bất
thành văn.
Ngoài các chợ cố định ở huyện Yên Phong, hàng hóa được bày bán tại
chợ do những người chuyên buôn bán tại chỗ, còn có những người bán hàng
rong...
Những người chuyên buôn bán là những người có sạp hàng tại chợ để
trưng bày các mặt hàng mình cần bán, người mua đi chợ và ghé vào mua, hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thức này có phổ biến ở tất cả các chợ họp cố định. Người bán chỉ việc ngồi tại
sạp, quầy hàng hóa sắp đặt sẵn trong chợ để buôn bán hàng ngày,hết giờ thì
khóa vào đến giờ bán hàng lại mở khóa ra cho nên không mất nhiều thời gian.
Do việc buôn bán này diễn ra một cách đều đặn, lâu dài cho nên người bán
cũng có một lượng khách hàng ổn định, thân thiết, tin tưởng
Bán hàng rong là hình thức người bán mang hàng hóa đi khắp nơi trong
chợ, hay tỏa về các vùng quê nông thôn, hay tới từng nhà dân để bán. Họ vận
chuyển bằng các phương tiện thô sơ như xe đạp, xe đẩy, xe máy, xe ba gác,
thậm chí là một đôi quang gánh đơn giản... Phần đông đi bán các mặt hàng nhỏ,
lẻ phục vụ nhu cầu hàng ngày của người dân như thực phẩm tươi sống, kẹo
bánh, bánh tẻ, rau cỏ, hoa sen, bát sen, cam, bưởi họ cho vào sọt chở bằng xe
máy với số lượng lớn và thường đứng ở cổng chợ…
2.3.2. Hàng hóa bày bán tại chợ
Tất cả các chợ trên địa bàn Yên Phong đều kinh doanh buôn bán đa mặt
hàng, không có chợ chuyên về một mặt hàng nào đó. Thường tại các chợ có các
nhóm hàng như: Bách hóa (vải, quần áo may sẵn, giày dép…); hàng thịt (chủ
yếu là thịt lợn, thịt bò và gia cầm thịt sẵn), hàng cá và thủy hải sản tươi sống,
hàng khô (măng khô, mộc nhĩ, nấm khô, mì chính…); hàng hoa quả; hàng rau
củ quả nông sản; hàng ăn uống (chủ yếu là cơm, bún, bánh); trong các chợ có
rất ít đồ ăn chín (các mặt hàng này thường bầy bán ven các trục đường giao
thông). Mỗi chợ có các mặt hàng và số lượng hàng hóa khác nhau, cách bố trí
hàng hóa không gian bán hàng cũng khác nhau. Dựa vào các loại hàng hóa
được bày bán tại các chợ, có thể chia thành các nhóm hàng sau:
2.3.2.1. Nhóm hàng tiêu dùng
Hàng tiêu dùng chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, đồ dùng học
sinh. Đây là nhóm hàng phổ biến, chợ nào cũng có. Vì học sinh đi học bắt buộc
phải có đồ dùng để phục vụ học tập, giáo viên đi dạy cũng phải có giáo án,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phấn, bút, nhân viên văn phòng cũng cần đến đồ dùng như giấy in, mực bút.
Các mặt hàng này được bán chạy nhất vào khoảng gần đầu năm học, các phụ
huynh học sinh đua nhau đi mua để chuẩn bị cho con đi học kịp năm học mới.
Đồ dùng sinh hoạt như mắm muối, mì chính, bột canh, bát đĩa, xoong chảo,
thớt, rổ rá, chổi… cũng chiếm vị trí lớn trong các chợ. Chợ Chờ ( thị trấn Chờ)
là nơi tiêu thụ nhiều đồ dùng sinh hoạt nhất. Đồ dùng sinh hoạt bao gồm cả đồ
nhựa như hộp nhựa, bàn ghế nhựa, móc quần áo… Đồ nhựa đa số chợ nào
cũng bán như chợ Chóa (thôn Chân Lạc, xã Dũng Liệt), chợ Chục (xã Đông
Phong). Những mặt hàng nhựa này thường được bố trí ở một khu vực rộng rãi
vì hàng nhựa rất cồng kềnh. Nhìn chung nhóm hàng tiêu dùng bán rất chạy,
nhất là số lượng công nhân làm ở khu công nghiệp nhiều thì các mặt hàng này
bán càng chạy, tiêu thụ nhanh, không bao giờ sợ ế hàng.
2.3.2.2.Nhóm hàng lương thực, thực phẩm
Hàng lương thực là các sản phẩm gạo thóc, ngô, khoai lang, lạc, đỗ tương,
những mặt hàng này rất dồi dào, phong phú. Mặc dù diện tích đất bị thu hẹp do
sự phát triển của khu công nghiệp nhưng nói chung diện tích gieo trồng lương
thực vẫn lớn, nhân dân có kinh nghiệm trồng các cây lương thực từ lâu đời.
Những cán bộ viên chức không làm ruộng thì hàng tháng phải đi đong thóc gạo
thường xuyên. Hiện nay số người đi làm công nhân nhiều cho nên số làm ruộng
giảm đi, những người buôn bán thóc gạo tăng lên thì mặt hàng này bán rất
chạy. Chợ Chờ (thị trấn Chờ) là nơi tiêu thụ lương thực, thực phẩm mạnh nhất.
Hàng thực phẩm như thịt trâu, thịt bò, thịt lợn, gà vịt thì chợ nào cũng có
để cung cấp cho nhu cầu ăn uống của người dân hàng ngày. Những khu này
đều có mái tôn che chắn rất cẩn thận. Nguồn hàng hóa này thu hút lượng khách
rất đông. Đối với những gia cầm bán sống thường có chỗ bán ở khu vực riêng
để không mất vệ sinh với các nguồn hàng khác. Về nguồn cung cấp gia súc, gia
cầm như lợn, gà, vịt thì chủ yếu do gia đình nuôi, còn như trâu bò thì mua ở các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyện khác về như Tiên Du, Quế Võ về giết mổ.
Bảng 2.5: Hệ thống giết mổ gia súc trên địa bàn huyện Yên Phong tính đến
năm 2016
Phân bố Loại hình Tổng Công
STT Tên xã/ TT suất con/ số cơ Thị Tư Doanh Xã ngày sở trấn nhân nghiệp
1 TT Chờ 15 5 15 40
2 Xã Tam Giang 7 4 7 4
3 Xã Đông Tiến 8 6 8 4
4 Xã Yên Phụ 10 10 10 10
5 Xã Hòa Tiến 10 8 10 10
6 Xã Đông Thọ 8 5 8 8
7 Xã Văn Môn 9 6 9 12
8 Xã Đông Phong 13 13 13 20
9 Xã Yên Trung 13 13 13 18
10 Xã Dũng Liệt 8 8 8 10
11 Xã Trung Nghĩa 5 5 5 08
12 Xã Tam Đa 12 12 12 35
13 Xã Long Châu 20 10 20 50
14 Xã Thụy Hòa 10 8 10 30
Tổng 148 113 148 259
Nguồn: Số liệu do phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp.
Qua bảng thống kê trên ta thấy trong 13 xã và một thị trấn đều có lò giết
mổ gia súc. Tuy vậy các xã có số lượng khác nhau, xã mổ nhiều, xã mổ ít để
cung cấp cho các chợ hàng ngày. Xã Long Châu là địa bàn giết mổ gia súc
nhiều nhất trong huyện vì xã này có khu công nghiệp Sam Sung công nhân thuê
trọ rất đông, tập trung mấy chục ngàn công nhân với sản lượng gần 3 tấn/ ngày.
Tuy vậy số lượng thịt gia súc vẫn cung cấp đầy đủ cho các chợ và nhu cầu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người dân trên địa bàn huyện.
Mặt hàng rau củ tươi có nhiều trong các chợ. Rau, củ, các loại hoa quả
được bày bán với nhiều hình thức khác nhau như: Bày trên xe đạp thồ, bày trên
quang gánh, xe máy, sạp… ở trong chợ. Mùa hè thì có rau muống, rau mồng
tơi, bí xanh, bí đỏ, mướp… Mùa đông có su hào, cải bắp, cải xoong, khoai tây,
cà chua, cà rốt... Ngày nay, với sự triển của khoa học kĩ thuật, nhiều giống mới
được lai tạo nên nhiều loại rau có quanh năm như cà chua, bắp cải, khoai tây...
Trong các chợ ở huyện Yên Phong chỉ có chợ Chờ (thị trấn Chờ) là có chỗ bán
rau có mái che, đa số là bãi đất trống rất rộng.
Thôn trồng nhiều rau và hoa màu nhất phải kể đến thôn Đông Mai (xã
Trung Nghĩa), ruộng vườn của các nhà trồng rau quanh năm. Có nhà chỉ sống
vào việc trồng rau. Hiện nay do công nghiệp phát triển, tỷ lệ béo phì nhiều cho
nên nhiều người phải ăn kiêng nên hàng rau đặc biệt là rau sạch có nguồn gốc
rõ ràng, bán rất chạy, bán hết sớm nhất trong tất cả các mặt hàng.
Mặt hàng hoa quả tươi được bày bán ngay tại cổng chợ vào và trong các
chợ có mái che như ổi, dưa hấu, táo, nhãn, chôm chôm. Phần lớn hoa quả tươi
được nhập từ các địa phương khác như nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều nhập từ
Lục Ngạn (Bắc Giang), thậm chí một số hoa quả nhập từ Trung Quốc như nho,
táo, quýt, đào…Hàng hoa quả mà không bán nhanh chỉ để được vài hôm là thối
không sử dụng được gây thiệt hại cho người bán hàng.
Một mặt hàng giàu vitamin, nhiều chất đạm nữa lúc nào cũng có trong bữa
ăn của người dân đó là những con tằm, con nhộng. Hầu hết các làng ven sông
Cầu đều có trồng dâu nuôi tằm và ươm tơ. Nghề ươm tơ hiện nay chỉ còn thôn
Vọng Nguyệt (xã Tam Giang). Người Vọng Nguyệt đi thu mua kén khắp nơi,
ngoài hình thức ươm tơ thủ công thì giờ đây ươm tơ bằng máy, chất lượng tơ
tốt hơn, có giá thành cao hơn. Chợ Trai (xã Tam Giang) vào buổi chiều lúc nào
cũng có nhộng bán có lán che, buổi sáng thì họ mang ra chợ Chờ. Những con
nhộng sống nhìn như những con sâu nhưng nhiều chất đạm, người ta hay mua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
về rang với lá chanh rất thơm ngon, bổ dưỡng.
Hàng thủy sản tại các chợ ở huyện Yên Phong đa số là đánh bắt ở sông
Cầu (sông Như Nguyệt): Cá sông, tôm, hến… Ngoài ra còn đánh bắt cá ở ao,
hồ, đầm. Khách buôn đến tận nơi mua trực tiếp rồi mang ra các chợ bán. Bên
cạnh đó còn có những người dân tự ra đồng mò cua, trai, hến bắt ốc đem ra chợ
bán. Trong chợ còn bán cả những đồ hải sản khô như cá khô, tôm khô, mực
khô. Để giữ gìn vệ sinh, không ảnh hưởng đến các mặt hàng khác trong chợ,
hàng thủy sản được bố trí ở cuối góc chợ. Mức độ tiêu thụ thực phẩm tại các chợ
tương đối phù hợp, hầu hết các thực phẩm tươi sống đến cuối phiên chợ được
người bán hạ giá để bán cho hết, không mang về vì khó bảo quản. Tuy nhiên mức
tiêu thụ thực phẩm tại các chợ không giống nhau: Những chợ gần trung tâm, ven
các khu, cụm công nghiệp thì mức tiêu thụ tương đối lớn, có thể tới vài chục hộ
kinh doanh với mức tiêu thụ vài tấn thực phẩm tươi sống mỗi ngày, các chợ nhỏ lẻ
khoảng dưới 10 hộ kinh doanh, tiêu thụ khoảng một tấn trở lại. Còn lại là rau củ
quả và các thủy sản tự đánh bắt số lượng không đáng kể.
Hàng quán trong chợ phục vụ nhu cầu ăn uống ngày càng nhiều, phong
phú. Buổi sáng thì có bún, bánh quấn, bánh tẻ; buổi trưa có quán cơm; buổi
chiều có hàng cháo, hàng chè… Tất cả các chợ đều bố trí hàng ăn ở nơi khô
ráo, thoáng mát, sạch sẽ người dân vào ăn rất tin tưởng. Trải qua thời gian con
người ngày càng ăn nên làm ra hầu như ai cũng có việc làm vì Yên Phong có
cụm công nghiệp xã Đông Thọ, khu công nghiệp Sam Sung, người lớn tuổi thì
nấu ăn, quét rác trong khu công nghiệp, người trẻ thì làm công nhân nên nhu
cầu ăn uống tăng cao. Các cửa hàng bún, phở gà, phở trâu, cháo lòng, tiết canh
mọc lên rất nhiều. Một số chợ ở huyện Yên Phong còn phục vụ cả ăn sáng, ăn
trưa, tối cho những người đi làm về như chợ Chờ, chợ Chiều Cơ Khí.
2.3.2.3. Nhóm hàng phục vụ nhu cầu sản xuất
Công cụ lao động sản xuất nông nghiệp là mặt hàng không thể thiếu được
trong các chợ ở huyện Yên Phong. Từ xưa đến nay người dân Yên Phong chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
yếu là làm nông nghiệp nên các công cụ lao động như nia, giần sàng, cuốc,
xẻng, liềm… được bày bán phổ biến ở các chợ, trong đó đặc biệt là cày bừa
Đông Xuất. Đây là sản vật đặc sắc của Yên Phong và được bán khắp các chợ từ
miền xuôi đến miền ngược. Nhưng chợ Chờ (thị trấn Chờ) vẫn là nơi cày bừa
Đông Xuất bán nhiều nhất.
Ai ơi hãy đến chợ Chờ
Cày bừa Đông Xuất tha hồ mà mua
[10, tr. 30]
Cày bừa Đông Xuất làm bạn với người nông dân Việt Nam hàng ngàn
đời, ghi dấu trong tâm hồn những người thợ từ đời này đến đời khác. Người
Đông Xuất luôn tự hào về nghề làm cày bừa của mình:
Muốn ăn cơm trắng cùi dừa
Thì về Đông Xuất gánh bừa với anh
[10, tr. 30]
Ngày nay, với sự phát triển của máy cày nghề làm cày bừa Đông Xuất
ngày càng thu hẹp, khó phát triển vì tốc độ cơ khí hóa nông nghiệp ngày một
sâu rộng trên đồng ruộng. Từ chỗ sản xuất hàng chục vạn bộ cày bừa nay chỉ
còn trên dưới 4000 bộ một năm, bằng vài ba phần trăm so với trước đây.
Các mặt hàng như thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, thuốc diệt chuột, ka li,
đạm, lân cũng được bày bán tại các đại lí lớn ngay cổng chợ, phục vụ đầy đủ
cho bà con làm nông nghiệp. Những người ở gần chợ thường mở cửa hàng bán
hoặc cho thuê mặt bằng với giá thỏa thuận giữa hai bên.
Yên Phong là mảnh đất có đình chùa miếu mạo cổ kính rêu phong, vì vậy
con người nơi đây đi chùa thắp hương rất nhiều. Để phục vụ cho người đi chùa,
các hàng mã, đồ thờ cúng được bày bán trong chợ có mái che chắc chắn. Mặt
hàng này làm bằng giấy nên có nước vào là hỏng và đa số do nhân dân huyện
Yên hong làm ra.
Nhu cầu các loại hạt, con giống, cây con phục vụ cho sản xuất nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghiệp cũng rất lớn như hạt rau rền, hạt rau cải, hạt su su, hạt mướp, cây su
hào, cây súp lơ…Hạt thì đem về reo, cây con thì đem trồng, cây con thì nhanh
thu hoạch hơn reo hạt. Những ngày mồng một và ngày rằm các lồng ngan, lồng
vịt, lồng gà, cây bầu, cây bí, cây sấu, cây cảnh… được bày la liệt ở gần chợ như
chợ Chờ, chợ Chục, chợ Bến, chợ Chiều Cơ Khí…
2.3.3. Thành phần tham gia mua bán và tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh
tại chợ
Thành phần tham gia trao đổi mua bán đủ các thành phần từ người trẻ đến
người già, không phân biệt bất kì ai. Chợ nông thôn ở huyện Yên Phong rất là
mến khách, chân thật, họ gặp nhau bắt tay, chào hỏi thân mật. Những hàng hóa
của những người nông dân làm ra như khoai tây, mướp, rau muống, rau dưa,
dưa chuột thì họ sẵn sàng biếu hoặc vừa bán vừa cho khi gặp những người thân,
họ hàng, bà con lối xóm, thậm chí có lúc hòa vốn họ cũng bán. Người mua thì
vui vẻ nhận vì rau sạch có nguồn gốc của nhà trồng không phun thuốc sâu nên
rất thích. Những hành động ấy càng làm cho bà con lối xóm đoàn kết, giúp đỡ
và tình người ngày càng trở nên ấm áp. Nhiều nông dân nhân lúc gặt hái xong
nhàn rỗi cũng tranh thủ chạy chợ kiếm thêm thu nhập nuôi sống gia đình. Tuy
là chẳng được bao nhiêu nhưng cũng góp phần trang trải cho cuộc sống gia
đình nhỏ bé của họ.
Người nông dân là người sản xuất ra hàng hóa nhưng đồng thời cũng là
người tiêu thụ hàng hóa. Vì họ mang sản phẩm của họ sản xuất ra mang ra chợ
bán, rồi lại mua những mặt hàng thiết yếu trong gia đình còn thiếu mang về
nhà, họ trao đổi với nhau hợp tình hợp lí.
Chợ ngoài việc đến giao thương còn giao lưu, học hỏi về các vấn đề xã
hội. Họ nói chuyện xã hội làm mở mang đầu óc, chuyện gì họ cũng biết. Cơ chế
của các chợ ngày càng thoáng đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển,
trong chợ cái gì cũng có, sức mua của người dân ngày càng nâng cao. Điều đó
chứng tỏ đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong huyện Yên Phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngày càng lớn, số người đi chợ, đi trao đổi ngày càng nhiều.
Những người nông dân đi chợ bán hàng thường là gánh những gánh rau,
gánh lạc, gánh đỗ, bí xanh, bí đỏ, trứng gà, trứng vịt… của nhà làm ra nên
không cần tính lỗ lãi cân đối vốn đầu tư như những người chuyên buôn bán ở
chợ. Thậm chí đến cuối buổi chợ họ sẵn sàng bán rẻ để còn về làm việc khác.
Như vậy, thành phần tham gia hoạt động trong mạng lưới chợ ở huyện
Yên Phong đa dạng, trong đó người nông dân tham gia mua bán vẫn đông
đảo nhất, nhộn nhịp nhất. Sản phẩm vẫn là lương thực phẩm, thực phẩm do
chính họ làm ra trên mảnh đất quê hương màu mỡ của họ. Và họ mua về
những đồ dùng trong gia đình như mắm, muối, mì chính, xoong, chảo, nia,
sàng, dao, cày bừa… Cuộc sống của người dân quê cứ bình yên ngày này
qua ngày khác như vậy.
Ngoài những người buôn bán không chuyên, còn có những thương nhân
chuyên buôn bán tại các chợ, họ là cầu nối giữa người bán và người mua, mang
giá trị thương mại lớn lưu thông trên thị trường. Đó là kết quả của quá trình
công nghiệp hóa nông thôn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mạng lưới chợ được
gắn kết với nhau hơn. Thậm chí do khu công nghiệp phát triển nên những
người ở nơi khác như Nam Định, Thanh Hóa đến thuê nhà để kinh doanh như
mở quán phở, quán cơm rang gần chợ rất đông khách. Và chính các tầng lớp
thương nhân đóng vai trò luân chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Hàng
hóa được nhập từ nhiều nơi khác nhau như từ thành phố Bắc Ninh, Từ Sơn hay
các vùng lân cận như Hiệp Hòa (Bắc Giang), chợ Ninh Hiệp (Hà Nội). Những
người thương nhân này vốn là những người nông dân, có khả năng buôn bán,
nhạy bén với thị trường. Lúc đầu họ không có vốn nên buôn bán nhỏ, sau dần
dần vốn nhiều họ buôn bán số lượng lớn hơn. Lúc đầu họ lấy hàng ở gần vì
buôn bán ít, sau này khi buôn bán trở thành nghề chính họ lấy hàng tận gốc
đem giao cho các cửa hàng, các chợ trong huyện hoặc những hàng quán có nhu
cầu. Điều này sẽ làm cho họ có lãi nhiều hơn, nhiều thương nhân trở lên giàu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có nhờ buôn bán. Hoạt động của tầng lớp thương nhân này có tác dụng to lớn
cho sự phát triển mạnh mẽ của các chợ trong địa bàn, ngày càng rộng lớn và
mặt hàng ngày càng nhiều.
Từ trước đến nay trong các gia đình không thể thiếu vai trò của người phụ
nữ, người xưa vẫn nói vắng đàn ông thì quạnh nhà, vắng đàn bà thì quạnh bếp.
Vì vậy trong các thành phần buôn bán ở chợ trên địa bàn huyện Yên Phong thì
những người phụ nữ cũng rất đông đảo. Họ là những người mẹ, người chị,
người bà, người em tần tảo sớm hơn không quản mưa nắng, cần cù chịu
khó dậy sớm chuẩn bị những gánh hàng rong, những cái thúng, nia, giần
sàng để đi chợ từ lúc trời còn chưa sáng. Không như thời phong kiến ngày
xưa, người phụ nữ ngày nay cũng làm chủ gia đình, chi tiêu mọi thứ và giữ
những chức vụ quan trọng trong xã hội. Họ đã thoát dần các lễ giáo phong
kiến lạc hậu và trở nên năng động trong nền kinh tế thị trường, tính toán
cẩn thận trong các phiên chợ.
Ngoài các tầng lớp trên phải kể đến các học sinh của các trường trong địa
bàn huyện. Các em vào chợ mua cặp sách, ba lô, bút, thước, sách vở để học tập.
Nhiều em ở xa cách 10 cây số thì buổi trưa ở lại ăn cơm đến chiều lại học tiếp.
Ngoài ra những người tham gia hoạt động mua bán còn là những giáo viên,
những cán bộ, công chức, công nhân. Vào các buổi trưa hết giờ làm việc hoặc
những lúc rảnh rỗi, những ngày nghỉ thứ bảy và chủ nhật họ lại vào chợ mua
tôm, mua thịt, mua rau để phục vụ cho cuộc sống gia đình của họ. Vào buổi
chiều tan tầm khoảng 5h chiều chợ rất là đông và nhộn nhịp, nhiều khi tắc
đường, phải chen chúc mãi mới ra được.
Ở các chợ nông thôn huyện Yên Phong vào buổi sáng sớm hàng ngày, đặc
biệt là ngày mùng một và những ngày rằm, những người bán hàng thường
mong muốn, chọn được những người mua dễ dãi “vía nhẹ” để mở hàng cho
suôn sẻ, nhiều lộc, đắt hàng cả ngày. Đặc biệt là ngày mùng một có một số
người bán hàng kĩ tính chọn người mua để lấy lộc cho cả tháng bán được nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hàng bởi quan niệm người mở hàng mà khó tính, mặc cả cò kè từng đồng một
thì cả tháng người bán hàng sẽ không bán được hàng, hoặc nếu có bán được thì
rất ít không đáng kể.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng nhiều đến tính cách của người bán, đã hình thành
những tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh, trong đó có tục đốt phong long (đốt
vía). Đối với người bán, người mua mở hàng đầu tiên vào sáng sớm ảnh hưởng
trực tiếp đến thành quả buôn bán của họ suốt ngày hôm đó. Nếu như người mở
hàng đã trả giá mà bỏ đi hàng khác thì người bán sẽ thực hành đốt phong long
để xua đi sự xui xẻo mà người mua đó mang tới, hi vọng đem lại điều tốt cho
người bán hàng.
Bên cạnh đó, một số ít người kiêng mua hàng với số lượng là 4 (4 quả cà
chua, 4 con cá, 4 cân khoai tây…) vì họ cho rằng số 4 là số tử, không mang lại
may mắn trong cuộc sống. Ngoài ra, người mua hàng còn kỵ việc lượm lặt
tiền lẻ hay những vật dụng cá nhân của người khác đánh rơi. Bởi, thông
thường, một số người đang gặp hạn thường tự giải hạn bằng cách vứt bỏ
những thứ ấy, xem như vứt bỏ cái xui của họ. Nếu mình nhặt thì sẽ lãnh lại
những điều không may đó. Ngoài ra, một số người còn hạn chế xuất hành
vào những ngày mùng 5, 14, 23 âm lịch, do quan niệm “mùng 5, 14, 23, đi
chơi còn lỗ, nữa là đi buôn” .
Hầu hết các chợ nông thôn của huyện Yên Phong hình thành từ lâu đời,
gắn liền với lịch sử ra đời của các chợ làng, chợ xã và mang dấu ấn riêng. Quá
trình hình thành, phát triển mạng lưới chợ cũng gắn liền với truyền thống buôn
bán của dân cư, có tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của người
dân. Chợ đóng vai trò như một tấm gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, phong tục tập quán… của nhân dân Yên Phong.
Như vậy chợ phản ánh được những tín ngưỡng, phong tục tập quán, kiêng
kỵ trong kinh doanh… mang dấu ấn đặc trưng của địa phương. Đồng thời, hệ
thống tên chợ ở Yên Phong còn phản ánh những giá trị hiện thực vùng đất Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phong qua các mặt địa lý, ngôn ngữ, lịch sử.
2.3.4. Hoạt động quản lí mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong
Hầu hết các chợ trên địa bàn được quản lý chặt chẽ. Những chợ lớn đã
thành lập được ban quản lý chợ, thường xuyên giải quyết xử lý những vấn đề
phát sinh trong quá trình chợ hoạt động. Các chợ nhỏ thường do địa phương
cấp thôn quản lý, thôn cử một hoặc một vài người duy trì công tác trật tự của
chợ, đảm bảo công tác vệ sinh môi trường, thu gom rác thải của chợ. Hoạt động
này gắn thu bù chi để duy trì hoạt động của chợ.
Các tiểu thương hoạt động trong các chợ lớn được cơ quan thuế đưa vào
sổ thuế và thực hiện thu thuế hàng tháng. Đối với những hộ thuê quầy hàng do
nhà nước hoặc địa phương đầu tư thì nộp khoán cho địa phương để thu vào
ngân sách xã, thị trấn. Một số hộ kinh doanh lưu động thường xuyên có khối
lượng hàng hóa lưu thông lớn, chiếm diện tích khá lớn trong chợ được thu phí
hàng ngày để lấy kinh phí hoạt động của Ban Quản lý chợ. Những hộ bán sản
phẩm tự sản tự tiêu như nông sản, gia cầm, hoa quả … được miễn thu phí hoặc
lệ phí chợ.
Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí [25, tr. 9], bao gồm:
- Phí chợ, phí trông giữ xe, phí vệ sinh: Mức thu và quản lý, sử dụng do
HĐND tỉnh quyết định ban hành.
- Phí phòng cháy, chữa cháy: Mức thu và cách thức quản lý thu nộp theo
quy định của Bộ Tài chính.
Việc quản lý, sử dụng các khoản phí nêu trên phải thực hiện theo quy định
của pháp luật về phí, lệ phí. Đối với chợ do Nhà nước đầu tư xây dựng, các
khoản phí nêu trên là khoản thu của Ngân sách Nhà nước, Ban Quản lý chợ,
doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được trích lại một phần từ số
tiền phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu phí. Phần tiền phí trích để lại
này do cấp có thẩm quyền quyết định. Ban Quản lý chợ, doanh nghiệp quản lý
và khai thác chợ có trách nhiệm kê khai, nộp và quyết toán số tiền phí còn lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vào ngân sách Nhà nước.
Đối với chợ không do Nhà nước đầu tư xây dựng hoặc do Nhà nước đầu
tư nhưng đã chuyển giao cho Ban Quản lý chợ hoặc doanh nghiệp để kinh
doanh khai thác và quản lý chợ thì các loại phí trên không thuộc Ngân sách
Nhà nước. Ban Quản lý chợ, doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ
có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật đối với số phí thu được và có
quyền quản lý, sử dụng số tiền phí sau khi đã nộp thuế.
Hằng năm, Ban Quản lý chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán
thu, chi kinh phí hoạt động trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo
phân cấp quản lý chợ qui định tại Điều 15 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP
của Chính phủ. Thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài chính
theo quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê áp dụng cho các
đơn vị hành chính sự nghiệp.
Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý chợ thực hiện
công tác kế toán, thống kê, quản lý và sử dụng các khoản thu, chi liên quan đến
hoạt động kinh doanh tại chợ cho phù hợp với yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp, hợp tác xã và quy định của pháp luật; thực hiện chế độ quyết toán, báo
cáo tài chính doanh nghiệp, hợp tác xã và hoàn thành nghĩa vụ thuế theo các
quy định của pháp luật. Việc thu phí phải sử dụng biên lai, hóa đơn, chứng từ
theo hướng dẫn của cơ quan Thuế, lưu giữ đầy đủ các sổ sách kế toán thu, chi
và các chứng từ theo quy định của nhà nước, đồng thời đăng ký với cơ quan
Thuế theo chế độ hiện hành.
Đối với một số chợ có thể cho đấu thầu quản lý khai thác chợ theo nguyên
tắc UBND cấp có thẩm quyền quy định chức năng nhiệm vụ của Tổ quản lý
chợ, quy định các khoản thu, mức thu cụ thể từng khoản, các khoản chi,
mức chi và phương thức chi cho mỗi khoản. Các tổ chức, cá nhân có thể
tham gia đấu thầu theo các khoản thu, chi đã được quy định và tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quản lý khai thác chợ.
Trong 13 chợ trên địa bàn huyện Yên Phong, đã thành lập Ban Quản lý
chợ, trong đó lớn nhất là Ban Quản lý chợ Chờ (thị trấn Chờ) . Ban Quản lý thu
thuế của những hộ và những ki ốt kinh doanh hàng tháng và nộp về Phòng tài
chính - kế hoạch của huyện. Ban Quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu; có tư
cách pháp nhân; có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc nhà nước; trực thuộc
UBND cấp có thẩm quyền quyết định thành lập theo quy định tại Điều 15 Nghị
định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý
chợ. Ban Quản lý chợ có nhiệm vụ đốc thúc, nhắc nhở truy thu thuế và kiểm tra
cơ sở vật chất trong chợ để kịp thời sửa sang, nâng cấp và cải tạo chợ cho
khang trang, sạch sẽ.
Phần lớn các chợ còn lại đều có Ban Quản lý hoặc do đấu thầu được.
Những người tham gia đấu thầu có thể là những doanh nghiệp lớn, những cá
nhân giàu có, thương nhân. Người nào bỏ thầu thấp nhất thì được trúng thầu,
gói thầu càng thấp người dân càng có lợi, thời gian thầu rất dài từ 10 năm đến
20 năm. Số tiền đấu thầu ngoài việc tu bổ các công trình, còn lại nộp ngân sách
cho huyện Yên Phong.
Căn cứ Thông tư liên tịch Số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09
tháng 4 năm 2014 của Liên bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Công Thương hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm. Phòng Kinh tế và Hạ tầng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm đối với 7 nhóm hàng thuộc quản lý của Bộ Công
Thương, bao gồm: bia; rượu, cồn và đồ uống có cồn; nước giải khát; sữa chế
biến; dầu thực vật; bột, tinh bột; bánh, mứt, kẹo (không bao gồm rượu bổ,
nước khoáng, nước tinh khiết các sản phẩm sản phẩm bổ sung vi chất dinh
dưỡng, thực phẩm chức năng do Bộ Y tế quản lý) và dụng cụ, vật liệu bao
gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhóm thực phẩm nói trên.
Đến năm 2016, Yên Phong có 325 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm thuộc trách nhiệm của ngành Công Thương quản lý, trong đó có 174
cơ sở sản xuất rượu thủ công, 2 cơ sở sản xuất bánh kẹo các loại, trên 11 cơ
sở sản xuất bánh tẻ còn hầu hết các sản sảm thực phẩm thuộc ngành Công
thương quản lý đều ở dạng đóng chai, đóng gói sẵn. Hiện nay, trên địa bàn
Yên Phong có 4 cơ sở sản xuất rượu thủ công đã được cấp phép, 2 cơ sở sản
xuất bánh tẻ (trong đó có 1 hộ sản xuất), 2 cơ sở sản xuất bún và 4 cửa hàng
kinh doanh thực phẩm đã được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an
toàn thực phẩm, còn lại hầu hết các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa đượccấp
giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và chưa thực hiện việc cam
kếtchấp hành các quy định bảo đảm an toàn thực phẩmtrong kinh doanh thực
phẩm thuộc trách nhiệm của ngành Công thương quản lý [2].
Nói chung, hoạt động của các chợ luôn được các cấp, các ngành và chính
quyền địa phương quan tâm, đặc biệt là bố trí địa điểm thuận lợi để nhân dân
thuận tiện trong việc mua bán. Nhiều địa phương đã quan tâm, đầu tư kinh phí
để nâng cấp các chợ như lát gạch hoặc bê tông hóa nền chợ, xây dựng lại nhà
bán hàng, bố trí bộ phận thu gom chất thải để tránh ô nhiễm môi trường, thành
lập Ban Quản lý chợ để duy trì trật tự của các chợ.
Công tác tuyên truyền về an toàn thực phẩm được phổ biến sâu rộng. Đại
đa số người tiêu dùng và hộ kinh doanh đều có ý thức trong việc nâng cao chất
lượng thực phẩm tiêu dùng, có ý thức đấu tranh chống hàng kém chất lượng,
chất bảo quản không được phép sử dụng.
Các chợ nông thôn ở huyện Yên Phong cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng cho nhân dân. Việc tuyên truyền các chính sách cho hộ kinh doanh và
người tiêu dùng đã có hiệu quả, văn minh thương mại đã đi vào cuộc sống,
công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại đã có tác dụng, góp phần bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vệ tích cực quyền lợi của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra nguồn hàng thực phẩm vào chợ chưa được
chặt chẽ. Một số hàng thịt lợn có dấu kiểm dịch, còn lại là sau khi giết mổ, các
gia súc, gia cầm đều được mang trực tiếp bầy bán tại chợ. Những thực phẩm
tươi sống từ nơi khác mang đến thực hiện giao nhận qua các thương nhân
nhưng cũng không được kiểm tra chặt chẽ, nếu có sự cố mất an toàn vệ sinh
thực phẩm cũng không thể có căn cứ quy trách nhiệm.
Trang thiết bị của thương nhân kinh doanh hàng thực phẩm rất đơn sơ,
mỗi hộ kinh doanh chỉ có quầy bán, phản gỗ bầy thực phẩm, dao, thớt và cân tự
trang bị. Các thiết bị đo lường hầu hết chưa được kiểm định, hiện tượng cân
đong, đo, đếm thiếu số lượng khách hàng cũng không phát hiện được ngay. Các
quầy hàng ăn uống chỉ có tủ kính bảo quản đơn sơ, còn lại là bầy trực tiếp ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bàn, không đảm bảo vệ sinh.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, hầu hết các chợ chính ở huyện Yên Phong đều đã có từ trước
năm 1986. Từ năm 1986 chỉ có 3 chợ được xây dựng mới là: Chợ Yên Vĩ Hòa
Tiến (1990), chợ Đình Nghiêm Xá (2009), chợ Chiều Cơ Khí (2010). Ngoài
các chợ chính đó, còn có nhiều các chợ cóc, chợ tạm… được họp buổi sáng
hoặc chiều nơi ven đường. Cùng với đó, còn có các điểm dịch vụ cung ứng vật
tư ở chợ Núi, chợ Chờ, Vạn An, Đông Yên, Đông Xuyên phục vụ nông dân,
thuận tiện cho việc mua bán.
Từ sau Đại hội Đảng tháng 12/1986, cùng với sự xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, làm cho nền kinh tế Việt
Nam có nhiều khởi sắc. Mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Yên Phong cũng có
nhiều thay đổi, các chợ được cải tạo, nâng cấp và mở rộng. Hiện nay, các chợ
đều được đầu tư kinh phí để nâng cấp như lát gạch hoặc bê tông hóa nền chợ
xây dựng lại nhà bán hàng, bố trí bộ phận thu gom rác thải để tránh ô nhiễm
môi trường…
Mặt hàng bày bán trong chợ cũng phong phú với các nhóm hàng như gia
dụng, thực phẩm… với mẫu mã, chất lượng đa dạng. Từ hàng hóa đơn giản
phục vụ đời sống ngày thường đến những mặt hàng cao cấp, rồi hàng hóa từ
các vùng miền khác chuyển về cũng nhiều vô kể, hàng hóa do nhân dân trong
huyện từ các sản phẩm thủ công làm ra cũng có.
Nếu như từ năm 1986 đến năm 2004 các chợ chủ yếu là theo phiên, thì
từ năm 2005 đến năm 2016 hoạt động mua bán ở các chợ diễn ra cả ngày.
Đặc biệt, từ khi hình thành khu công nghiệp Yên Phong, thì có thêm các
chợ tạm đáp ứng nhu cầu mua, bán của nhân dân quanh vùng và công nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khu công nghiệp.
Chương 3
VAI TRÒ CỦA CHỢ NÔNG THÔN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG, KINH TẾ
HUYỆN YÊN PHONG
3.1. Vai trò của chợ trong đời sống cư dân
Chợ nông thôn ở huyện Yên Phong đóng vai trò quan trọng trong đời
sống người dân, chợ là nơi tiêu thụ và diễn ra sầm uất các hoạt động mua sắm
của người dân, đặc biệt các sản phẩm nông nghiệp do người dân làm ra. Hoạt
động mua bán ở chợ tạo điều kiện cho quá trình giao lưu, trao đổi ngày càng
mở rộng.
Chợ có vai trò trung chuyển các loại hàng hóa đến tận tay người dân vì
mỗi gian hàng có nhiều loại hàng hóa khác nhau như ti vi, tủ lạnh, máy giặt,
quạt, tủ quần áo, điện thoại để liên lạc. Người dân có thể đến tận nơi mua và tự
chở về hoặc thuê nguời chở về đến tận nhà. Đặc biệt chợ có vai trò phục vụ
thiết yếu tất cả các sản phẩm cho người dân từ thực phẩm, các mặt hàng nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đồ gia dụng trong gia đình. Những gia đình giàu
có mua cả ô tô để phục vụ vận chuyển các loại hàng hóa cho thuận tiện.
Đối với các tiểu thương đang bán hàng trong các chợ thì chợ tạo công ăn
việc làm, góp phần nâng cao đời sống của họ.. Nhờ có chợ mà thu nhập của
người dân được cải thiện, nhiều người sống bằng nghề buôn bán trong chợ. Vì
vậy các bữa ăn của người dân được cải thiện, ngoài rau còn có nhiều thịt, cá,
tôm cua…Chợ biến sản phẩm lao động tự nhiên thành hàng hóa, kích thích sản
xuất phát triển, đời sống nhân dân lao động ngày càng được cải thiện. Sự chịu
khó trong lao động buôn bán, nhạy bén trong kinh doanh thời cuộc, chỉ tiêu tính
toán cẩn thận đã đưa nhiều hộ nông dân trở nên giàu có, có thể nuôi các con ăn
học đến hết đại học đàng hoàng. Những tháng rỗi rãi gặt hái xong, những người
nông dân lại tranh thủ đi buôn bán trong chợ để có thêm thu nhập trang trải, lo
toan cho cuộc sống gia đình. Như vậy chợ góp phần không nhỏ nâng cao đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sống vật chất của nhân dân huyện Yên Phong.
Bảng 3.1: Bảng thống kê số hộ buôn bán chuyên trong các chợ
Số hộ Số hộ buôn buôn bán bán không Thu nhập ước TT Tên chợ chuyên chuyên trong tính 1 hộ/ngày trong các các chợ chợ
1 120 Chợ Chờ 400 500
2 Chợ Chóa 70 300 300
3 Chợ Đại Lâm 80 300 300
4 Chợ Trai 30 100 200
5 Chợ Bến 50 200 260
6 Chợ Núi 90 300 400
Chợ Chiều Văn 7 70 200 300 Môn
8 Chợ Trục 90 300 500
9 Chợ Lạc Trung 30 100 200
10 Chợ Đình Đoài 30 100 200
11 Chợ Yên Vĩ 30 100 250
Chợ Đình 12 70 200 300 Nghiêm Xá
Chợ Chiều Cơ 13 70 200 300 Khí
Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp.
Trong đời sống sinh hoạt và các bữa ăn hàng ngày của người dân thôn
quê Yên Phong, trước đây người dân phải lo từng bữa miễn sao cho no bụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nhưng ngày nay đời sống vật chất được nâng cao thì không chỉ ăn no mà phải
ăn ngon, ăn thức ăn sạch. Rồi từ chỉ cần mặc ấm sang mặc đẹp. Mặc đẹp, mặc
sang trọng, mặc theo mốt đã trở thành nhu cầu tất yếu của người dân, năm nay
mốt lỗi thời lại bỏ sang mốt khác. Trong các gian hàng bày bán ở chợ Chờ (thị
trấn Chờ) đủ các loại mẫu mã quần áo, màu sắc đa hệ, các kiểu thời trang mẫu
mới phục vụ cho mọi lứa tuổi, phù hợp với xu thế thời đại. Cũng nhờ sự buôn
bán trong chợ mà nhiều hộ gia đình đã có nhà cao cửa rộng để ở, có nhà 2, 3
tầng rồi 4 tầng để ở…
Vai trò của chợ đối với những người không chuyên: Họ đem những sản
phẩm dư thừa ra chợ bán để lấy tiền mua hàng hóa khác mình cần như những
người nông dân ngoài trồng lúa họ còn trồng nhiều hoa màu, nhiều cây ăn quả
để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và làm hàng hóa để bán trong các chợ.
Chợ và hoạt động của mạng lưới chợ đã kích thích các hộ nông dân không
ngừng sản xuất, nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm để đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Với những yếu tố tích cực đã nâng cao
đời sống vật chất của người dân nông thôn và không quá cách biệt so với người
đô thị. Ở đô thị bây giờ có mặt hàng nào thì ở nông thôn cũng có mặt hàng đó,
mọi sinh hoạt về vật chất đều có thể đáp ứng. Nhờ sự tồn tại của mạng lưới chợ
nông thôn mà mức sống và nhu cầu của con người ngày càng cao làm cho số
người tham gia buôn bán tăng.
Với những người đi mua hàng: Họ mua các nhu yếu phẩm hàng ngày như
mắm, muối, mì chính, bột canh, quần áo, hoa quả…Khách mua hàng không chỉ
khách trong huyện mà còn cả khách địa phương từ nơi khác đến mua…
Như vậy chợ còn góp phần giảm bớt được tình trạng số người ở nông
thôn li tán quê hương để lên thành phố kiếm việc làm. Điều này làm cho người
dân yên tâm buôn bán càng tăng thêm nguồn vật chất của người dân thêm
phong phú.
Chợ là một phần văn hóa không thể thiếu được trong đời sống tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của các làng quê. Chợ tạo nên những văn hóa ứng xử, phong tục tập quán, lời
ăn tiếng nói… Kinh tế ngày càng phát triển thì chợ lại càng cần thiết trong đời
sống tinh thần của người dân Yên Phong. Đời sống tinh thần có thể hiểu ở đây
là ma chay, cưới hỏi, các lễ hội, lễ nghi, các phong tục tập quán, nơi giao lưu
văn hóa ở các làng quê.
Đối với mỗi người dân Yên Phong, khi đi chợ ngoài mục tiêu mua bán
còn lấy chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc.
Như vậy chợ không chỉ có vai trò trong đời sống vật chất mà còn có vai trò
trong giao lưu văn hóa, tinh thần. Trước đây những phong tục lỗi thời, cổ hủ đã
kìm hãm sự phát triển của các làng quê. Thì ngày nay những phương tiện thông
tin đại chúng ngày càng rầm rộ, đặc biệt là truyền thông như ti vi, báo, đài, loa
phóng thanh của xã, huyện. Chính vì vậy người dân có điều kiện tiếp cận với
những lối sống văn minh mới, các nền văn hóa tiên tiến đậm đà tạo nên sự giao
thoa, thâm nhập vào đời sống của cư dân Yên Phong.
Ngoài ra trong các hàng quán, nhất là các hàng tạp hóa, họ còn truyền
nhau hát những câu ca quan họ giao duyên, mượt mà và đằm thắm như: Người
ơi người ở đừng về, Ngồi tựa mạn thuyền, Giã bạn, Nhớ về hội Lim… Những
câu hát quan họ góp phần giữ gìn nét văn truyền thống của huyện Yên Phong
nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung và làm cho người dân thêm phấn khởi.
Yên Phong là mảnh đất có nhiều đền chùa, miếu mạo cổ kính rêu phong.
Cho nên cứ dịp đầu xuân năm mới, người buôn bán thường đi lễ phật cầu may
ở các đình chùa để cầu cho một năm làm ăn may mắn, cầu tài, cầu lộc, cầu bình
an… Chính vì vậy số lượng hàng mã bán trong các chợ, nhất là chợ Chờ bán rất
chạy, thậm chí phải đặt trước nhiều hôm. Tại một số chợ nhân dịp tết, lễ, nhiều
trò chơi dân gian gắn liền với những hoạt động văn hóa tinh thần như chơi cờ
người, chọi gà, hát quan họ trên thuyền… để mọi người dân đi xa lại có dịp trở
về quê hương và gìn giữ những phong tục tập quán của quê hương.
Như vậy văn hóa chợ đã ăn sâu vào tiềm thức người dân huyên Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phong. Đến chợ mỗi người đều tìm được niềm vui sự chia sẻ với nhau, những
lời khuyên giúp cho cuộc sống tốt hơn. Chợ làm cho tình người, tình quê thêm
mặn mà, ấm áp và gần gũi. Rất nhiều người khi tuổi đã cao không đi chợ được
người ta hay hỏi con cháu mình chợ quê mình dạo này ra sao có đông đúc, tấp
lập không, nhiều mặt hàng không.
Tóm lại chợ có vai trò lớn trong đời sống vật chất và tinh thần của người
dân, giúp người dân có cuộc sống sung túc, tinh thần lạc quan, phấn khởi, hòa
đồng với mọi người. Đồng thời qua quá trình trao đổi, giao lưu hàng hóa giữa
các làng, các vùng nông thôn qua mạng lưới chợ cũng như sự giao thoa về văn
hóa mang nhiều sắc thái ở vùng quê Yên Phong đã đặt nền tảng cho sự thống
nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
3.2. Vai trò của chợ nông thôn đối với sự phát triển kinh tế ở huyện Yên Phong
Trong nhiều năm qua, mạng lưới chợ ở huyện Yên Phong đóng vai trò
rất quan trọng trong đời sống kinh tế huyện Yên Phong, đặc biệt từ những năm
đầu của thập niên 90. Lúc này nền kinh tế VN vẫn chưa phát triển mạnh, chưa có
các siêu thị và trung tâm thương mại thì chợ là nơi tiêu thụ các sản phẩm của
nông nghiệp, thủ công nghiệp. Ở các vùng nông thôn hoạt động của các chợ làng
được thể hiện rõ nét, họ bày bán đủ thứ góp phần làm phá vỡ dần nền kinh tế tự
cung tự cấp tạo điều kiện cho sự giao lưu giữa các vùng miền đa dạng hơn.
Chợ nhiều hay ít, lớn hay nhỏ là biểu hiện của sự sản xuất và trao đổi của
con người với nhau. Vì vậy chợ có vai trò kinh tế quan trọng ở huyện Yên
Phong. Đối với vùng nông thôn ở Yên Phong chỉ là nơi thu gom những sản
phẩm nông sản, những hàng hóa phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho thị trường
lớn hơn. Qua đó đáp ứng đầy đủ nhu cầu về lương thực, thực phẩm, các vật tư
cho sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp của người nông dân.
Vì vậy chợ là điểm kinh tế cơ bản cho đời sống nhân dân huyện Yên
Phong để duy trì và phát triển kinh tế. Ở các thành phố những năm gần đây
xuất hiện rất nhiều siêu thị, trung tâm thương mại cạnh tranh giá cả với các chợ
nhưng những người dân vẫn gìn giữ những nét riêng của chợ quê. Cho nên chợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nông thôn đã thể hiện vai trò kinh tế lớn của kinh tế nông nghiệp ở nông thôn.
Hiện nay trong cơ cấu của ngành kinh tế Bắc Ninh đang có sự chuyển
dịch lớn, đó là ngành công nghiệp - xây dựng tăng nhanh nhất do có nhiều khu
công nghiệp được xây dựng với số vốn lớn của nước ngoài như Trung Quốc,
Hàn Quốc. Tuy nhiên kinh tế nông nghiệp vẫn được tỉnh Bắc Ninh và huyện
Yên Phong quan tâm vì số lượng công nhân ở các tỉnh khác đến đây rất đông.
Đặc biệt nơi đây có dòng sông lịch sử Như Nguyệt (Sông Cầu) có nhiều lợi thế
về thủy lợi và đất đai để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Sự phát triển của mạng lưới chợ nông thôn huyện Yên Phong từ 1986
đến 2016 đã chứng tỏ được vai trò của chợ đối với sợ phát triển kinh tế huyện
Yên Phong, nhất là trong nông nghiệp.
Từ 1986 tiếp tục phong trào thi đua làm thủy lợi cùng với việc chia
ruộng lâu dài cho người lao động, Yên Phong luôn chú trọng đưa các tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Bằng việc tăng cường áp dụng các biện pháp kĩ
thuật thâm canh chuyển dịch cơ cấu mùa vụ đưa nhiều các giống lúa, giống cây
có năng suất cao, làm cho giá trị thu được từ nông nghiệp tăng lên. Các hoạt
động mua bán trong chợ đa dạng đã thúc đẩy nông nghiệp của huyện Yên
Phong phát triển nhanh chóng. Năm 1999 năng suất lúa bình quân đạt 47,25
tạ/ha tăng 20,25 tạ/ha so với 1990. Lương thực bình quân đầu người năm 1999
là 508 kg tăng 208 kg (tức 70%) so với 1990 [10, tr. 121]. Năm 1999 diện tích
trồng lúa của huyện Yên Phong có 13.669 ha (tổng diện tích gieo trồng: 17.158
ha [10, tr. 131]
Khi nhân dân tạo ra được nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt,
dư thừa nhiều sẽ hình thành nên quá trình trao đổi và chợ trở chở thành khâu
trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Qua buôn bán các chợ đã thực hiện khâu
lưu thông, đem lại lợi nhuận kinh tế cho nhân dân, thúc đẩy người nông dân sản
xuất ra nhiều sản phẩm.
Các hộ nông dân ngoài trồng lúa thì còn tổ chức theo mô hình mới, đó là
phong trào VAC, nghề nuôi đặc sản phát triển như nghề nuôi ếch, nuôi ba ba có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm doanh số hàng tỉ đồng như ở xã Hòa Long, xã Yên Trung.
Người nông dân còn tiến hành xen canh, tăng vụ như cây ngô, cây khoai
lang, khoai tây, cây đậu tương, cây thuốc lào, cây thuốc lá, cây lạc…Đến mùa
thu hoạch khoai tây vào tháng 11 âm lịch các lái buôn đến tận ruộng mang ô tô
đến thu mua khoai tây của nông dân để bán ra các chợ. Đặc biệt là trồng dâu
nuôi tằm có từ lâu đời. Ở Yên Phong tập trung chủ yếu ở vùng đất ven sông
Cầu như Tam Giang, Yên Trung, Dũng Liệt, Hòa Long, dâu tằm trồng trong
vườn nhà và trồng ngoài đất bồi bãi, năm 1999 diện tích cây dâu đạt xấp xỉ 30
hecta (1999) [10, tr. 139]. Hiện nay ở thôn Vọng Nguyệt xã Tam Giang có 5
máy ươm tơ, mỗi máy công suất 1 tấn/ năm, 40 máy ươm tơ mini công suất
400kg/năm và 110 hộ ươm tơ thủ công. Với trên 300 hộ nuôi tằm tạo việc làm
thường xuyên cho người lao động, có thu nhập ổn định. [10, tr. 160]
Ngoài ra do tiến bộ của khoa học kĩ thuật và nhu cầu thị trường chương
trình trồng rau sạch ở huyện Yên Phong được đưa vào từ năm 1998 với diện
tích 70hecta ở thị trấn Chờ, Trung Nghĩa, Hòa Tiến. Hàng năm đạt 500ha rau
các loại, chủ yếu trồng vào vụ đông xuân trên đất hai lúa. [10, tr. 139]
Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp làm cho sản phẩm làm ra ngày
càng nhiều, nhân dân phấn khởi tăng gia sản xuất làm cho các mặt hàng ngày
càng nhiều trong các chợ, trở thành mặt hàng nông sản chủ yếu cung cấp cho
các chợ ở huyện Yên Phong.
Hiện nay chăn nuôi ở huyện Yên Phong cũng chiếm một vị trí rất quan
trọng góp phần thúc đẩy các chợ trong huyện Yên Phong nhất là chợ Chờ, chợ
Long Châu, chợ Đông Thọ… Đây là các chợ có số lượng công nhân ở các tỉnh
về thuê trọ rất đông nên sản lượng tiêu thụ thịt lớn. Nhiều loại gia súc gia cầm
được chăn nuôi với qui mô lớn như trâu bò, lợn, gà vịt, ngan, ngỗng. Chăn nuôi
trâu bò bây giờ chủ yếu lấy thịt để phục vu đời sống cho nhân dân. Hiện nay
đàn trâu có xu hướng giảm, đàn bò tăng, theo thống kê của sách Địa chí Yên
Phong từ năm 2000 đàn trâu có 5.300 con, đàn bò 7.200 con, đàn lợn có 65000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
con. [10, tr. 140-141]
Nghề nuôi Ngan Pháp phát triển mạnh từ năm 1995. Đặc điểm giống
Ngan Pháp trọng lượng cao (3 đến 5kg) thịt ngon, thị trường tiêu thụ mạnh.
Trung tâm khuyến nông đưa về 13.000 con Ngan Pháp hàng năm (theo thống
kê của phòng Kinh tế - hạ tầng huyện Yên Phong năm 2016). Yên Phong
cũng có nhiều đầm hồ, từ khi bước vào thời kì đổi mới cơ chế quản lí cũng
thay đổi, nhiều gia đình nuôi thả cá, diện tích nuôi thả các không ngừng
tăng, cung cấp cho thị trường nguồn hàng hóa đa dạng. Việc phát triển kinh
tế hộ gia đình đã góp phần không nhỏ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, sản phẩm nhiều làm cho việc trao đổi, buôn bán ở các chợ
diễn ra tấp lập, đông đảo, nhộn nhịp.
Như vậy sự phát triển kinh tế đa dạng trong nông nghiệp làm cho năng
suất lao động ngày càng tăng, tạo ra số lượng sản phẩm ngày càng lớn, thu
nhập nhiều, nhân dân phấn khởi gia tăng sản xuất không ngừng, thúc đẩy sự
buôn bán trong các chợ huyện Yên Phong ngày càng mạnh. Chính sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp đã tạo ra nguồn hàng hóa phong phú trong các mạng
lưới chợ ở huyện Yên Phong.
Thủ công nghiệp Yên Phong vốn ra đời cùng với nghề trồng lúa nước.
Làm ruộng phải có công cụ cày bừa, rổ rá thúng mủng, nong nia. Ngoài việc
tạo ra khối lượng lương thực, thực phẩm người nông dân còn dệt vải lấy cái
mặc, tổ chức đóng gạch làm nhà cửa. Nghề rèn, nghề mộc phát triển. Ở miền
quê văn hiến việc học hành thi cử trở thành truyền thống tốt đẹp, nghề làm giấy
ra đời. Như vậy đủ thấy thủ công nghiệp Yên Phong đa dạng phong phú phục
vụ cho các nhu cầu thiết yếu của người dân là nông nghiệp do vị trí địa lí, tập
quán canh tác mà có sự chuyên môn hóa, hình thành một số làng nghề.
Yên Phong vùng đất linh địa cũng bởi một lẽ, con người ở đây thật là tài
hoa trong việc tạo nên những sản phẩm thủ công nghiệp. Các sách Phong thổ
Kinh Bắc thời Lê, Bắc Ninh phong thổ tạp kí, Đại Nam nhất thống chí đều ghi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhận Yên Phong có hàng chục thứ nghề tinh xảo, được nhân dân trong nước
chuộng dùng. Nghề dệt lụa, dệt vải của Yên Phong phát triển khá mạnh. Khắp
một vùng Như Nguyệt, Dũng Liệt, Mẫn Xá, Đẩu Hàn, Yên Phụ, Nghiêm Xá…
xưa kia, không mấy nhà là không chăn tằm kéo kén hoặc có khung dệt. Sách
Đại Nam nhất thống chí ghi: “Vải trắng sản ở xã Đẩu Hàn huyện Yên Phong,
xã Lãng Ngâm huyện Gia Bình. Hàng năm mỗi người phải nộp thuế 3 tấm, tính
nộp bằng bạc, người già và người ốm nộp một nửa”. Trong dân gian ai ai cũng
biết “Lạc Trung chỉ có dâu tằm mà thôi” và:
- Hỡi anh đi cái ô đen
Có về Yên Phụ với em thì về
Yên Phụ có gốc cây đề
Có ao thả cá, có nghề cửi canh
- Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về Mẫn xá dệt sồi với em v.v…
Rõ ràng từ rất lâu đời, người dân Yên Phong đã biết đến tiềm lực của các
bãi sa bồi dọc theo sông Cầu, để có những ngàn đâu xanh tốt. Phương Khiết,
cô gái chăn tằm dệt lụa giỏi giang, lại đẹp người đẹp nết, quê ở Chân Lạc, nay
vẫn còn đền thờ.
Nghề làm giấy moi, giấy bản từ vỏ cây dó ở Dương Ổ, Đào Thôn, Trâm
Khê có từ xa xưa, trai gái, già trẻ trong làng ai cũng biết làm. Chỉ với ngần ấy
con người, mấy xóm làng bên bờ Ngũ Huyện, giấy dó đã có mặt ở chợ Hồ
(Thuận Thành), chợ Cẩm (Hải Dương) và luôn bên cạnh những người học trò,
dùi mài kinh sử:
Người ta buôn vạn bán ngàn
Em nay làm giấy cơ hàn vẫn vui
Dám xin nho sĩ chớ cười
Vì em làm giấy cho người đề thơ…
Ngoài ra thôn Đông Xuất xã Đông Thọ là làng duy nhất của tỉnh Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ninh có nghề làm cày bừa, cày bừa Đông Xuất là sản phẩm nổi tiếng trong
nước: “Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh” (Tố Hữu). Nghề đúc gang
ở Phú Mẫn (thị trấn Chờ) có từ rất sớm, sản phẩm chủ yếu: Mũi cày, diệp cày,
kiềng. Mũi cày, diệp cày cung cấp cho Đông Xuất. Vì vậy có thể ra đời cùng
với nghề cày bừa ở Đông Xuất, sản xuất thủ công trong mỗi gia đình có khoảng
10 gia đình sản xuất đã mang lại doanh thu lớn cho huyện Yên Phong.
Các làng nghề có sản phẩm tiêu thụ rộng rãi là nghề làm đồ tre nứa ở xã
Đông Tiến. Xã Đông Tiến có 3 làng làm nghề đan nát đồ tre nứa với các sản
phẩm khác nhau: Đông Xuyên đan nia, giần, sàng; Đông Thái đan cót, nong
làm đòn gánh; Đồng Thôn đan gàu tát nước. Đông Xuyên là làng cổ hiện nay
có 1200 khẩu với hơn 220 hộ nghề đan nia, giần, sàng là nghề truyền thống của
địa phương đã đi vào câu ca:
“Đất lề nghề khéo lắm tiền
Giần sàng nia cót của chuyên môn nhà”
[10, tr. 157]
Bên cạnh đó rải rác ở khắp huyện còn có nghề cô đúc nhôm ở Mẫn Xá
(Văn Môn), sản xuất đồ gia dụng bằng nhôm của Văn Môn có mặt ở nhiều
nơi… Rồi nghề chế biến lương thực được duy trì và phát triển, hàng năm ở Đại
Lâm (Tam Đa) và Văn Môn, Yên Phụ có 827 hộ nấu rượu [10, tr. 160]. Các
làng nghề Cầu Gạo, Đức Lân, làng Đoài (xã Tam Giang) sản phẩm chủ yếu là
bánh đa, nem, miến, mì. Một ngành đem loại lợi nhuận kinh tế cao là ngành sản
xuất , chế biến gỗ, đục gỗ, làm bàn ghế để xuất đi các nơi khác như ở thôn Ngô
Nội (xã Trung Nghĩa) nhà nào cũng làm gỗ đục khảm hoa văn, có cả các
thương nhân Trung Quốc đến đặt mua… góp phần làm cho hoạt động trao đổi
mua bán trong các chợ ngày càng đông, đem lại số thu nhập lớn cho nhân dân
trong huyện, nhất là thu nhập từ thuế. Những hộ có thu nhập khoảng từ
8.500.000/1 tháng trở lên và có doanh thu từ 100 triệu đồng trở lên/1năm thì
phải nộp thuế là 127.000/1 tháng/1 hộ. Những hộ kinh doanh nhỏ lẻ thu nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dưới 8.500.000/ 1 tháng chưa đến ngưỡng phải nộp thuế. [2]
Bảng 3.2: Bảng mức thuế hàng năm nộp được của từng chợ
Số hộ buôn Mức thuế 1 Mức thuế 1
bán chuyên tháng nộp năm nộp TT Tên chợ trong các của từng chợ của từng
chợ chợ
15.240.000 182.880.000 1 Chợ Chờ 120
8.890.000 106.680.000 2 Chợ Chóa 70
10.160.000 121.920.000 3 Chợ Đại Lâm 80
3.810.000 45.720.000 4 Chợ Trai 30
6.350.000 76.200.000 5 Chợ Bến 50
11.430.000 137.160.000 6 Chợ Núi 90
8.890.000 106.680.000 7 Chợ Chiều Văn Môn 70
11.430.000 137.160.000 8 Chợ Trục 90
3.810.000 45.720.000 9 Chợ Lạc Trung 30
3.810.000 45.720.000 10 Chợ Đình Đoài 30
3.810.000 45.720.000 11 Chợ Yên Vĩ 30
8.890.000 106. 680.000 12 Chợ Đình Nghiêm Xá 70
8.890.000 106.680.000 13 Chợ Chiều Cơ Khí 70
Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp).
Như vậy sự đóng góp của chợ từ thuế đóng hàng năm, góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ mạng lưới chợ ở huyện Yên Phong. Từ hàng ngàn năm nay, người
Yên Phong đã tỏ ra khá giỏi giang trong việc chợ búa, nhờ thế mà quê hương
ngày càng trở nên giàu đẹp, đủ ăn đủ mặc. Đây chính là tiền đề, đòn bẩy để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Yên Phong tiến đến một vùng quê thịnh vượng, phồn vinh.
Vai trò của mạng lưới chợ nông thôn không chỉ phục vụ đời sống cho
nhân dân trong huyện Yên Phong hàng ngày, rồi lưu thông hàng hóa từ chợ này
sang chợ khác mà còn đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách của huyện Yên
Phong. Mấy năm gần đây tỉnh Bắc Ninh đứng thứ 3 trong cả nước về thu nhập
kinh tế, trong đó mạng lưới chợ Yên Phong góp một phần lớn trong ngân sách
đó. Vì Yên Phong có nhiều khu công nghiệp lớn nên công nhân nhiều, thúc đẩy
nhanh các hoạt động mua bán tại chợ, khoảng 90% nhu cầu của người dân được
thỏa mãn thông qua mạng lưới chợ.
Mạng lưới chợ trên địa bàn huyện Yên Phong phát triển còn góp phần
giữ gìn và bảo lưu các làng nghề truyền thống như nghề trồng dâu, ươm tơ,
nuôi tằm ở thôn Vọng Nguyệt ở xã Tam Giang, nghề đan giần, sàng, nia cót ở
xã Đông Tiến, nghề đúc nhôm ở xã Văn Môn.
Sự phát triển của mạng lưới chợ đã ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến
nhiều lĩnh vực như góp phần thúc đẩy thông tin liên lạc phát triển. Trong thời
đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, người dân nào cũng có
điện thoại thì đa số những người buôn bán lớn thường giao dịch và chỉ đạo qua
điện thoại, hay nói cách khác là chỉ đạo từ xa. Họ thống nhất về hàng hóa, giá
cả và số lượng vận chuyển. Chỉ cần 1 cuộc gọi điện thoại nhanh gọn đỡ mất
thời gian, hàng hóa có thể trở đến tận tay người tiêu dùng.
Ngoài ra mạng lưới chợ ở huyện Yên Phong còn có tác dụng thúc đẩy
đường xá giao thông vận tải thuận tiện. Trước đây người dân sống chủ yếu
bằng kinh tế tự cấp, tự túc. Cuộc sống của người nông dân lam lũ bó hẹp sau
lũy tre làng. Từ đời cha ông đến con cháu nối tiếp nhau sống trong một cộng
đồng làng xã nhỏ hẹp cách biệt. Việc giao lưu với các vùng khác hầu như
không có. Nhưng ngày nay khi nền kinh tế hàng hóa trong huyện phát triển thì
đường giao thông là hoạt động chính trong giao lưu hàng hóa giữa các chợ của
người nông dân. Hàng hóa của người Yên Phong còn xuôi ngược cả sông Cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đi khắp các chợ ở miền Bắc. Yên Phong nằm gần quốc lộ 18, gần sân bay Nội
Bài, đường xá được mở rộng nhiều do có nhiều khu công nghiệp, thúc đẩy việc
lưu thông hàng hóa ngày càng mạnh.
Có thể nói bước đột phá về việc cải tạo, nâng cấp mạng lưới giao thông
nông thôn mấy năm qua ở huyện Yên Phong được nhân dân trong huyện đánh
giá như một sự đổi đời. Từ sự phát triển giao thông nông thôn đã tạo điều kiện
cho sản xuất nông nghiệp tăng năng suất lao động, tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp trong các chợ thuận lợi.
Như vậy các hoạt động nhộn nhịp, sôi động của mạng lưới chợ huyện
Yên Phong chứng tỏ đời sống kinh tế cao của nhân dân huyện Yên Phong.
Cuộc sống đầy đủ dư thừa những người nông dân trở thành những chủ buôn, họ
đem tiền đi gửi các ngân hàng trong huyện. Gửi càng nhiều chứng tỏ người dân
buôn bán tốt, góp phần thúc đẩy các ngân hàng ở huyện Yên Phong phát triển.
3.3. Những tồn tại trong tổ chức và hoạt động của chợ nông thôn ở huyện
Yên Phong
Mạng lưới chợ huyện Yên Phong từ 1986 đến 2016 đã có vai trò rất lớn
trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Yên Phong nói
riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung. Tuy nhiên bên cạnh đó mạng lưới chợ ở
huyện Yên Phong còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Về vệ sinh an toàn thực phẩm
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở một số địa phương chưa được quan
tâm, một số địa phương còn có tư tưởng ỷ lại cho cấp trên, công tác quản lý nhà
nước trên địa bàn bị buông lỏng, còn để tình trạng mất vệ sinh về thực phẩm và
ngộ độc xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm nói chung vẫn bị buông
lỏng, công tác thanh kiểm tra về an toàn thực phẩm chưa thường xuyên và hiệu
quả, các vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm chưa được ngăn chặn và xử lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kịp thời.
Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về an toàn thực phẩm chưa
thực sự thường xuyên và hiệu quả, hình thức tuyên truyền còn phiến diện, chưa
đồng bộ, chưa rộng khắp, nhiều cơ sở kinh doanh thực phẩm chưa có kiến thức
về an toàn thực phẩm, nhiều cá nhân vì lợi nhuận vấn vi phạm pháp luật về an
toàn thực phẩm chưa được xử lý nghiêm minh và kịp thời.
Những giải pháp để đảm bảo an toàn thực phẩm chưa được tiến hành
đồng bộ, chưa quy hoạch được vùng chăn nuôi thịt sạch, sản xuất rau củ quả an
toàn. Tình trạng sử dụng chất cấm trong chăn nuôi chưa được phát hiện và xử
lý, việc lạm dụng chất cấm trong chế biến, bảo quản thực phẩm chưa được
ngăn chặn và xử lý.
Các chợ nông thôn chưa kiểm soát được nguồn gốc thực phẩm, quầy bán
thực phẩm và dụng cụ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc sử dụng
nguồn nước trong giết mổ gia súc, gia cầm chưa đảm bảo, chưa kiểm soát được
dư lượng thuốc hóa học trong rau, củ, quả tại các chợ, một số cơ sở chưa có
giấy chứng nhận đảm bảo an toàn thực phẩm vẫn hoạt động.
Về tổ chức quản lí chợ
Một số chợ tuy có thành lập Ban Quản lý chợ nhưng chưa phát huy tác
dụng, chủ yếu tập trung vào công tác trông giữ xe, chưa quan tâm đết công tác
trật tự của chợ. Công tác chấp hành pháp luật của các tiểu thương chưa nghiêm
túc, nhiều hộ còn nợ đọng thuế, bán hàng kém chất lượng và đồ chơi mang tính
bạo lực bị nhà nước cấm buôn bán. Công tác chống buôn lậu và gian lận
thương mại chưa được triển khai triệt để, một số hàng nhập lậu vẫn được bầy
bán ở các chợ. Một số chợ chưa có trật tự, hoạt động chợ chưa đi vào nề nếp,
Ban Quản lý chợ chưa phát huy được tác dụng. Công tác kiểm tra xử lý gặp
phải sự chống đối của tiểu thương do buôn bán nhỏ nhưng chế tài xử phạt cao
nên khó chấp nhận.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động của các chợ trên địa bàn nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chung chưa được quan tâm và kiểm soát triệt để, việc kiểm tra, xử lý buôn bán
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tại các chợ chưa nghiêm, chỉ tập
trung chủ yếu vào các dịp lễ tết. Việc xử lý chưa có tính ngăn chặn. Đặc biệt
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bị buông lỏng, các thực phẩm tươi
sống không qua kiểm dịch, các quầy hàng ăn uống tự do hoạt động trong các
chợ và mất vệ sinh.
Trong những năm qua, UBND huyện đã chỉ đạo các ngành và UBND các
xã, thị trấn tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và cơ chế,
chính sách về hoạt động của các chợ trên địa bàn. Công tác tuyên truyền đã tập
trung vào những chính sách lớn của Đảng và nhà nước như các quy định về
thuế, hướng dẫn các hộ kinh doanh thực hiện đúng các quy định của pháp luật,
không buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và đặc
biệt là công tác đề phòng dịch bệnh, các quy định về an toàn vệ sinh thực
phẩm, không bán thịt gia súc gia cầm chết hoặc bị bệnh dịch. Những khu vực,
mặt hàng dễ cháy yêu cầu các hộ đề phòng các nguồn gây cháy nổ, tìm hiểu về
phòng cháy và chữa cháy khi có sự cố cháy xẩy ra.
Công tác kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp
luật, cơ chế chính sách tại các chợ trên địa bàn đã được quan tâm. UBND
huyện thường xuyên chỉ đạo các cơ quan liên quan, UBND các xã, thị trấn, các
Ban Quản lý chợ phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
thương mại. Tuy nhiên công tác thanh kiểm tra chưa được thường xuyên nên
hiện tượng buôn bán háng kém chất lượng, cân đong, đo đếm thiếu vấn còn xẩy
ra, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất của chợ chưa đảm bảo phục vụ tốt cho quá trình kinh
doanh như: Một số chợ chưa xây dựng được nhà bán hàng, chủ yếu là nhà tạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và các quầy hàng, hệ thống điện chiếu sáng chưa đảm bảo về an toàn điện và
cường độ ánh sáng, nhiều chợ chưa có hệ thống cấp thoát nước, chưa có nhà vệ
sinh công cộng, chưa có hệ thống phòng cháy và chữa cháy. Mặc dù trong
những năm qua, nhà nước và các địa phương đã bỏ ra 14.592 triệu đồng để xây
dựng, cải tạo, nâng cấp các chợ nhưng nhìn chung cơ sở vật chất tại các chợ
vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu đề ra.
Khó khăn lớn nhất ở hầu hết các chợ là cơ sở vật chất chưa đảm bảo,
chưa đáp ứng được việc phục vụ cho công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm. Các quầy hàng, thiết bị bảo quản đơn giản, tiểu thương chưa quan tâm
đầu tư cho khu vực bán hàng của mình.
Cơ sở vật chất đã được đầu tư cho các chợ chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiều chợ chưa có hệ thống cấp thoát nước, hệ thống chiếu sáng chưa đảm bảo,
công tác phòng cháy chữa cháy chưa được quan tâm đúng mức, ý thức một số
hộ kinh doanh chưa cao, chưa có trách nhiệm với người tiêu dùng.
Về vệ sinh môi trường
Yên Phong là huyện tập trung dân cư đông đúc, lại có nhiều khu công
nghiệp, số lượng công nhân các tỉnh khác về nhiều. Số lượng người càng đông
thì rác thải ngày càng nhiều, dẫn đến ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước.
Rất nhiều chợ cũng qui định chỗ đổ rác nhưng do tư tưởng nhiều công nhân
không phải quê gốc ở đây nên vứt rác bừa bãi, ý thức mua hàng còn kém, chỗ
nào cũng có thể thành bãi rác công cộng.
Trong 13 chợ của huyện Yên Phong thì dễ dàng nhận thấy chưa có hệ
thống thoát nước hoặc có nhưng đã bị ùn tắc. Cụ thể vào những hôm trời mưa
các chợ như chợ Chờ (thị trấn Chờ), chợ Bến (Đông Tiến), chợ Núi (Yên Phụ)
đều bị ngập nước phải rất lâu vài tiếng mới thoát được, kèm theo rác thải gây
mất vệ sinh. Nhiều hộ kinh doanh còn đổ cả rác xuống các cống thoát nước gây
ứ đọng, tràn ngập ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân nơi đây. Một số hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bán hàng ý thức chưa tốt cứ vứt rác ra bừa bãi, họ nghĩ sẽ có đội vệ sinh môi
trường dọn dẹp… như vậy họ rất vô trách nhiệm. Ngay cả những người bán hoa
vào ngày mùng một và ngày rằm cũng không dọn dẹp, vứt đầy những hoa héo,
hoa thối ra đường làm mất cảnh quan môi trường. Nhất là ở chợ Chờ trung tâm
của thị trấn, các nơi về đây đổ buôn rất nhiều các hàng rau, củ, quả. Sau mỗi
chuyến hàng là một đống rác thải để lại bốc mùi, những người vệ sinh thầm
lặng lại phải vất vả dọn dẹp.
3.4. Chủ trương phát triển và giải pháp phát huy hiệu quả mạng lưới chợ
nông thôn Yên Phong
Căn cứ Quyết định số 415/2013/QĐ-UBND ngày 11/11/2013 của
UBND tỉnh Bắc Ninh Về việc phê duyệt “Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch
phát triển mạng lưới chợ tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020. Thực hiện Công văn
số 444/SCT-TM ngày 24/6/2016 của Sở Công Thương V/v: Phối hợp điều
chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển ngành thương mại. UBND huyện đã
phối hợp với sở Công Thương Bắc Ninh tổ chức đã rà soát lại Quy hoạch
phát triển thương mại huyện Yên Phong và đề nghị điều chỉnh bổ sung vào
Quy hoạch phát triển Thương mại huyện Yên Phong đến năm 2025, tầm nhìn
đến năm 2030 số nội dung như sau:
Về các cửa hàng tiện ích, Yên Phong có 3 cửa hàng tiện ích. Từ khi xuất
hiện các cửa hàng này, việc mua bán vô cùng thuận lợi. Đặc biệt công tác kiểm
soát giá cả và thanh toán qua mã vạch giá được nhanh chóng và chính xác. Trong
thời gian năm 2020 và 2030 tới, Yên Phong quy hoạch, xây mới thêm 5 cửa hàng
tiện ích và tăng cường nâng cấp 7 cửa hàng bán lẻ có quy mô lớn thành những
cửa hàng tự chọn, cửa hàng tiện ích để phục vụ khi có số lượng lớn khách hàng
đến mua bán. Giai đoạn đến 2020, trên địa bàn huyện sẽ có 17 cửa hàng tiện ích.
Trong đó, giữ nguyên 03 cửa hàng hiện có, sẽ có 14 cửa hàng được xây dựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mới hoặc năng cấp cải tạo cửa hàng tạp hóa truyền thống tại các khu dân cư
tập trung thành cửa hàng tiện ích. Giai đoạn 2020- 2030, trên địa bàn huyện sẽ
có 22 cửa hàng tiện ích, trong đó giữ nguyên 17 cửa hàng hiện có và xây mới
05 cửa hàng.
Về việc Quy hoạch trung tâm thương mại: Huyện có chủ trương xây
dựng 1 trung tâm thương mại hạng II tại khu quy hoạch 57 ha nằm cạnh Quốc
lộ 18, dự kiến trong giai đoạn 2025-2030 mới có thể thực hiện xây dựng.
Về việc Quy hoạch mạng lưới siêu thị: Yên Phong được quy hoạch 4
siêu thị hạng III tại Thị trấn Chờ, xã Đông Thọ, Khu công nghiệp Yên Phong I
và Khu công nghiệp Yên Phong II. Hiện Tập đoàn Sam Sung đã xây dựng một
siêu thị trong khu ký túc xá của Sam Sung nhưng quy mô nhỏ khoảng 300 m2.
Tại thị trấn Chờ, Công ty Huy Hùng đã xây dựng một siêu thị diện tích 6.000
m2 đi vào hoạt động từ tháng 8/2016. Trong cụm công nghiệp đa nghề Đông
Thọ chưa xây dựng được siêu thị, dự kiến giai đoạn 2016-2020 sẽ xây dựng
xong siêu thị ở khu vực này để phục vụ nhu cầu mua bán của công nhân. Siêu
thị trong Khu công nghiệp Yên Phong II chưa có nhà đầu tư, nên phải đến giai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đoạn 2025-2030 mới triển khai.
Bảng 3.3: Bảng số liệu qui hoạch hệ thống siêu thị trên địa bàn
huyện Yên Phong tính đến năm 2020
Hiện có GĐ 2016 - 2020 2015
Hiện Diện Diện GN NC Vốn H. Yên TT Địa điểm Hạng có tích tích CT đầu tư Phong
tính đất đất (tỷ
đến (m2) (m2) đồng)
2015
1 ST Huy TT Chờ 3 2500 1 20 Hùng
2 Siêu thị Khu KTX
3 1 300 300 1 của Cty
Sam sung
3 Siêu thị KCN 3 5000 1 10 Đông Thọ
4 Siêu thị KCN Yên 3 3000 1 8 Phong 1
5 Siêu thị KCN Yên 3 Phong 2
Tổng 1 300 33300 1 3 38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp
Hiện tại Yên Phong có 13 chợ đang hoạt động: Chợ Chờ, chợ Nghiêm Xá,
chợ Chiều Cơ Khí (thị trấn Chờ); chợ Chiều (xã Văn Môn; chợ Đình Đoài, chợ
Trai (xã Tam Giang); Chợ Bến-Đông Xuyên (xã Đông Tiến); chợ Lạc Trung,
chợ Chóa (xã Dũng Liệt); chợ Chục (xã Đông Phong); chợ Đại Lâm (xã Tam
Đa); chợ Núi (xã Yên Phụ) và chợ Yên Vĩ (xã Hòa Tiến). Có 2 chợ đã được quy
hoạch nhưng chưa tiến hành xây dựng là chợ Long Châu (tại thôn Mẫn Xá) và
chợ Yên Trung (tại thôn Trần Xá). Điều chỉnh Quy hoạch lần này, Yên Phong đề
nghị giữ nguyên các chợ đang hoạt động và đã được quy hoạch tại Quyết định
415/2013/QĐ-UBND 11/11/2013 của UBND tỉnh Bắc Ninh và bổ sung vào
thêm quy hoạch một chợ bán buôn nông sản thực phẩm tại xã Yên Phụ (giáp
Quốc lộ 3 mới) đã nằm trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới của xã Yên
Phụ. Sau khi điều chính quy hoạch lần này, Yên Phong sẽ có 16 chợ.
Đến năm 2020 và 2030, điều chỉnh, bổ sung qui hoạch phát triển của mạng lưới
chợ của huyện như sau:
Giai đoạn 2016 - 2020: Trên địa bàn huyện sẽ có 15 chợ, gồm 01 chợ
hạng 2 (chợ TT thị trấn Chờ) và 14 chợ hạng 3. Trong đó:
+ Giữ nguyên: 08 chợ (chợ TT thị trấn Chờ, chợ Đình, chợ Đông Tiến,
chợ Núi, chợ Chục, chợ Chóa, chợ Trai, chợ Lạc Trung)
+ Nâng cấp cải tạo: 05 chợ (chợ Chiều, chợ Chiều Cơ Khí, chợ Đại Lâm,
chợ Yên Vĩ, chợ Đình Đoài).
+ Xây mới: 02 chợ (chợ Long Châu và chợ Yên Trung).
Giai đoạn 2021- 2030 địa bàn huyện có 16 chợ, gồm 01 chợ hạng 2 và 15
chợ hạng 3. Trong đó:
+ Giữ nguyên: 11 chợ
+ Nâng cấp cải tạo: 04 chợ (chợ Chục, chợ Chóa, chợ Trai, chợ Lạc Trung).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Xây mới: 01 chợ (chợ bán buôn nông sản thực phẩm tại xã Yên Phụ).
Bảng 3.4: Bảng số liệu qui hoạch hệ thống chợ trên địa bàn Yên Phong đến
năm 2020
TT Tên chợ Xã Hạng
GĐ 2016- 2020 Chợ
GN NC Diện tích chiếm đất m2 Vốn đầu tư (tỷ đồng) Xây mới CT Diện tích chiếm đất m2
Chợ Trung tâm Thị trấn 1 2 4782 1 4782
thị trấn Chờ Chờ
Chợ Đình Thị trấn 2 3 1200 1 1200
Nghiêm Xá Chờ
Xã
3 5000 1 500 3 Chợ Đông Tiến Đông
Tiến
Xã Yên 4 3 4195 1 3 4195 Chợ Núi Phụ
Xã Văn 5 3 11000 1 3 11000 Chợ Chiều Môn
Chợ Chiều Cơ Thị trấn 6 2000 1 1 2000 3
Chờ khí
Đông 7 3234 3 3234 1 Chợ Trục Phong
Dũng 8 2532 3 2532 1 Chợ Chóa Liệt
Tam 9 557 3 557 1 Chợ Trai Giang
Dũng 2149 3 2149 10 Chợ Lạc Trung Liệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3 600 1 1 600 11 Chợ Đại Lâm Tam Đa
TT Tên chợ Xã Hạng
GĐ 2016- 2020 Chợ
GN NC Diện tích chiếm đất m2 Vốn đầu tư (tỷ đồng) Xây mới CT Diện tích chiếm đất m2
Hòa 1 3 300 1 300 12 Chợ Yên Vĩ Tiến
Tam 1 3 500 1 500 13 Chợ Đình Đoài Giang
Long 14 Chợ Long Châu 3 3700 1 3 3700 Châu
Yên 15 Chợ Yên Trung 3 3000 1 3 3000 Trung
Chợ bán buôn Yên Phụ 16 3 20000 NSTP
Tổng cộng 44749 8 5 2 64749
Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng nông thôn huyện Yên Phong cung cấp).
Nhìn vào bảng qui hoạch trên cho thấy trong tương lai chợ có thể cạnh
tranh với các siêu thị rất nhiều mặt hàng hóa. Để phát huy mặt tích cực và nâng
cao hiệu quả của mạng lưới chợ nông thôn Yên Phong đối với đời sống kinh tế
- xã hội địa phương, theo tác giả cần phải có những giải pháp sau:
Thứ nhất: Những người buôn bán phải có chiến lược kinh doanh mới cho
phù hợp để có thể cạnh tranh với các siêu thị hiện nay.
Thứ hai: Trước hết phải tổ chức nâng cấp các chợ, lát gạch hoặc bê tông
hóa hết nền chợ, xây dựng hoàn thiện hệ thống nhà bán hàng, cấp thoát nước,
điện chiếu sáng, hệ thống phòng cháy chữa cháy và công tác thu gom chất thải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tại chợ.
Thứ ba: Tiếp tục nâng cao nhận thức cho nhân dân và các hộ kinh doanh
về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và văn minh thương mại. Đặc biệt là các
văn bản hướng dẫn các quy định về an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất
và kinh doanh thực phẩm, đảm bảo các cấp, các ngành và nhân dân có đầy đủ
kiến thức, trách nhiệm quản lý công tác đảm bảo an toàn thực phẩm.
Thứ tư: Các cơ quan chức năng tăng cường phối hợp với Ban Quản lý
các chợ tổ chức kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm và đưa các chợ vào hoạt
động có nề nếp. Phát huy cao vai trò của chính quyền cơ sở và ban quản lý chợ.
Thứ 5: Tổ chức tốt công tác kiểm dịch thực phẩm gia súc, gia cầm, xử lý
nghiêm những hộ kinh doanh chốn tránh kiểm dịch và kiên quyết không cho
bán thực phẩm không qua kiểm dịch.
Thứ 6: Huy động lực lượng của cả công đồng tham gia công tác quản lý
về an toàn thực phẩm nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật
về an toàn thực phẩm, từ đó thúc đẩy công tác xã hội hóa về an toàn thực phẩm.
Để thực hiện các giải pháp trên, tác giả đề nghị:
- Tiếp tục và thường xuyên tuyên truyền các chính sách pháp luật cho
các hộ kinh doanh và người tiêu dùng, đặc biệt là những kiến thức về an toàn
thực phẩm và phòng cháy chữa cháy trên các phương tiện thông tin đại chúng
của địa phương.
- Ngân sách nhà nước và các địa phương bố trí dành một lượng kinh phí
thỏa đáng để đầu tư các nhu cầu về vật chất của các chợ.
- Kiện toàn Ban Quản lý các chợ, lựa chọn những người có trách nhiệm vào
Ban Quản lý chợ. Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các thành viên của Ban Quản
lý các chợ. UBND các xã, thị trấn tự thành lập các đoàn thường xuyên kiểm tra,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xử lý vi phạm theo thẩm quyền.
- Tỉnh và huyện thành lập các đoàn kiểm tra đột xuất, xử lý thật nghiêm
theo quy định của pháp luật các vi phạm để ngăn chặn vi phạm tại các chợ.
Ngoài ra đề nghị Ban chỉ đạo an toàn thực phẩm tỉnh thường xuyên phối hợp
với Ban chỉ đạo cấp huyện kiểm tra các cơ sở sản xuất và chế biến thức ăn chăn
nuôi và các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn để ngăn chặn những nguy cơ sử dụng
chất cấm trong chăn nuôi có thể xảy ra.
- Theo tác giả trong thời đại 4.0 và hệ thống siêu thị phát triển mạnh mẽ
như ngày nay thì rất cần thiết duy trì hệ thông chợ nông thôn. Vì hầu hết người
dân khoảng 90% là đi chợ nông thôn ở gần nhà, họ ngại đi xa, lại có thể đi
thẳng xe máy hay xe đạp vào chợ không phải gửi mất thời gian như ở siêu thị
và không phải xếp hàng thanh toán như ở trong siêu thị.
Như vậy trên đây là một số giải pháp và kiến nghị về hoạt động chợ trên
địa bàn Yên Phong, kính mong sự quan tâm của các cấp, các ngành để hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
động chợ nông thôn trên địa bàn Yên Phong đi vào nề nếp và hiệu quả.
Tiểu kết chương 3
Chợ nông thôn ở huyện Yên Phong có vai trò rất quan trọng đối với đời
sống kinh tế, văn hóa - xã hội, là một phần không thể thiếu được trong đời sống
của người dân. Chợ còn là không gian gắn kết, là một biểu hiện của khối cộng
đồng làng xã. Đến chợ hầu hết là những người quen biết, nhiều người buôn bán
không đi chợ là nhớ chợ, có dăm ba mặt hàng nông sản cũng ra chợ bày bán
cho thỏa nỗi nhớ. Nhiều người đến chợ không phải để mua sắm mà là để ngắm
chợ, ngắm quần áo và để hòa nhập vào không khí nhộn nhịp của chợ. Chợ thu
hút tất cả mọi thành phần dân cư tham gia với mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề.
Họ đến chợ, ngoài việc mua bán còn hỏi thăm, động viên nhau, chan chứa tình
quê, tình làng nghĩa xóm.
Chợ góp phần làm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giao lưu văn
hóa, xã hội của người dân. Qua mạng lưới chợ, người dân được trao đổi hàng
hóa giữa các vùng miền, giới thiệu sản vật của địa phương; mua bán những vật
phẩm phục vụ đời sống của mình.
Những năm gần đây mạng lưới chợ Yên Phong góp phần rất lớn trong
sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh, đem lại thu nhập cao cho huyện Yên
Phong. Qui mô, diện tích, số lượng hàng hóa ngày càng được nâng cấp và mở
rộng. Chính sự phát triển của mạng lưới chợ ở huyện Yên Phong đã kéo theo và
kích thích nhiều ngành khác phát triển như nông nghiệp, công nghiệp, giao
thông vận tải, ngân hàng, điện lực…
Bên cạnh những điểm tích cực, hệ thống chợ nông thôn còn bộc lộ
những hạn chế như ô nhiễm môi trường, quản lí chợ chưa chặt chẽ, vấn đề vệ
sinh an toàn toàn phẩm... Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp khắc phục để
chợ nông thôn đáp ứng được nhu cầu của người dân và tồn tại phát triển được
trong bối cảnh phải cạnh tranh với hệ thống siêu thị và các dịch vụ buôn bán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiện ích khác trên mạng internet.
KẾT LUẬN
Yên Phong là vùng đất cổ “Địa linh, nhân kiệt” có truyền thống văn hiến
và cách mạng vẻ vang, là nơi phát sinh nền dân ca quan họ - niềm tự hào của
Bắc Ninh. Vì do địa hình của Yên Phong nằm ven dòng sông Cầu thơ mộng
nên cư dân ở đây sớm biết buôn bán họp chợ và có nhiều ngành nghề như nấu
rượu, đúc nhôm, đan lát, dệt vải, trồng dâu, ươm tơ...
Chợ nông thôn ở huyện Yên Phong là không gian gắn kết cộng đồng
làng xã, là một biểu hiện của khối cộng đồng làng xã, tấm gương phản chiếu
mọi hoạt động của một vùng quê. Hầu hết các chợ gần quốc lộ 18, gần sân bay
Nội Bài, gần các khu công nghiệp nên ngoài người dân còn có sức mua của
công nhân ở các khu công nghiệp. Bên cạnh các chợ chính thống thì còn có các
chợ cóc tự mọc lên do nhu cầu mua bán của công nhân.
Các chợ nông thôn ở huyện Yên Phong còn mang tính đặc trưng riêng
biệt của vùng. Về tên chợ trong 13 chợ thì chỉ có chợ Chờ và chợ thôn Đoài là
có biển ghi tên chợ rõ ràng, còn các chợ khác không có. Hầu hết các chợ đều
gọi theo tên làng, tên thôn như chợ Nghiêm xá, chợ Lạc Trung, chợ Chóa, chợ
Đại Lâm, chợ Yên Vĩ; tên xã như chợ chiều Văn Môn. Ngoài ra một số chợ còn
gọi theo truyền thuyết, vị trí địa lí như chợ Núi, chợ Chục, chợ Trai, chợ Bến...
Do đó Yên Phong là nơi thương nhân Nam, Bắc thương lui tới, đem hàng đến
và chuyển hàng đi làm cho các chợ ngày càng nhộn nhịp, sầm uất.
Chợ nông thôn có vai trò quan trọng đối với các tiểu thương đang bán
hàng trong các chợ, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho họ. Chợ nông thôn
còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở huyện Yên Phong, thúc
đẩy các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển...để tạo ra
các sản phẩm đem ra chợ bán. Hàng năm thuế đóng của chợ nộp cho phòng
thuế chứng tỏ chợ phát triển, đem lại doanh thu lớn cho huyện Yên Phong. Đến
chợ hầu hết là những người quen biết. Nhiều người buôn bán không đi chợ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhớ chợ, có dăm ba mặt hàng nông sản cũng ra chợ bày bán cho thỏa nỗi nhớ.
Nhiều người đến chợ không phải để mua sắm mà là để chơi chợ, để hòa nhập
vào không khí nhộn nhịp những ngày giáp tết, những ngày lễ hội. Chợ thu hút
tất cả mọi thành phần dân cư tham gia với mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề. Ngoài
việc mua bán người ta còn hỏi thăm, động viên nhau, khích lệ nhau những điều
tốt đẹp, chan chứa tình làng nghĩa xóm.
Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới từ sau 1986 vì được Đảng và Nhà
nước quan tâm, số lượng chợ tăng lên, số lượng hàng hóa thì ngày càng đa
dạng, mở rộng cả về diện tích và qui mô. Dưới bàn tay khéo léo của con người,
các mặt hàng như mũ nón, khăn len, mây tre đan ngày càng có thẩm mĩ, rồi
các thực phẩm đem lại giá trị dinh dưỡng cao, nhiều chất đạm như tằm,
nhộng do nhân dân làm ra. Bên cạnh những thuận lợi thì hoạt động kinh
doanh trong mạng lưới chợ gặp không ít những khó khăn như: Dịch tả lợn,
bệnh tai xanh, bệnh lở mồm long móng, giá cả bấp bênh, về công tác kiểm
tra nguồn hàng thực phẩm vào chợ chưa được chặt chẽ…ảnh hưởng đến hoạt
động buôn bán của các chợ trong huyện Yên Phong. Trong nhiều năm qua
thực phẩm được bán tại các chợ tuy chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
nhưng trên địa bàn chưa xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm nào do thực phẩm
mua tại các chợ gây ra.
Hầu hết các chợ nông thôn của huyện Yên Phong đều nằm trên những
tuyến đường thuận tiện. Thế nhưng một số chợ đang xuống cấp, lượng rác thải
nhiều, dân số các nơi về thì ngày một đông, ô nhiễm không khí ngày càng nặng
vì các khu công nghiệp thải ra nhiều, nhiều chợ cũng chưa có bãi gửi xe cho
nên ùn tắc giao thông thường xuyên diễn ra. Đã vậy hiện nay các siêu thị, các
cửa hàng tiện ích mọc lên nhiều, nếu chợ không được tu bổ khang trang sạch sẽ
thì sẽ là một thách thức lớn cho các hộ buôn bán kinh doanh trong chợ. Vì vậy
việc đầu tư mở rộng qui hoạch chợ cho khang trang, đồng thời nhận thức về
công tác vệ sinh an toàn thực phẩm của các hộ kinh doanh cần nâng cao thì mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cạnh tranh được với các siêu thị.
Tóm lại mạng lưới chợ nông thôn nói chung là sự tổng hợp của rất nhiều
yếu tố tạo nên “hồn”, “cốt” với những giá trị văn hóa truyền thống như: Phong tục
kiêng kị, phong tục ẩm thực…, trong đó, chợ nông thôn ở huyên Yên Phong là
một yếu tố không thể thiếu, góp phần cấu thành nên bộ mặt nông thôn và văn hóa
nông thôn Việt Nam. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
chợ cũng là gìn giữ và phát huy những nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nam nói chung và huyện Yên Phong (Bắc Ninh) nói riêng ngày càng phồn thịnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Báo cáo thực trạng mạng lưới chợ huyện Yên Phong, Phòng Kinh tế - Hạ
tầng huyện Yên Phong.
3. Ban chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh
Bắc Ninh (2007), Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa.
4. Bộ văn hóa thông tin (1998), Một số giá trị văn hóa truyền thống và đời sống
văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay, Nxb văn hóa dân tộc.
5. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh (2014), Niên giám thống kê Bắc Ninh 2013, Nxb
Cục thống kê Bắc Ninh.
6. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí - tập 1, Nxb Hà Nội.
7. Phan Đại Doãn (1992), “Về kinh tế làng xã nông thôn truyền thống”, Làng
Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế, xã hội, Nxb Khoa học xã hội.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Văn kiện đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kì 2015-2020, Nxb Thanh niên.
9. Đảng cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Yên Phong, tỉnh
Bắc Ninh (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Phong (1928 - 2000), Nxb
Thanh Niên.
10. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong (2002),
Địa chí Yên Phong, Nxb Thanh Niên.
11. Vũ Thị Minh Hương (2001), Chợ gia súc và việc buôn bán trâu bò ở Bắc Kì
thời kì 1919 - 1939, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1.
12. Nguyễn Thừa Hỷ (1983), “Mạng lưới chợ ở Thăng Long - Hà Nội trong
những thế kỉ XVII, XVIII, XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
33- 43.
13. Lê Thị Khuyên (1999), Chợ nông thôn huyện Ân Thi (Hưng Yên) từ 1986
đến nay, Khóa luận tốt nghiệp, phòng tư liệu khoa Lịch Sử, trường đại học
sư phạm Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858 - 1945), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
15. Đặng Kim Liên (2011), Chợ quê Quảng Bình, Nxb Văn hóa dân tộc.
16. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Ki, Nxb Văn hóa -
Thông tin Hà Nội.
17. Vũ Thị Lý (1998), Sự phát triển của mạng lưới chợ nông thôn huyện Tiên
Lữ - Hưng Yên từ năm 1945 đến nay. Khóa luận tốt nghiệp, Phòng tư liệu
khoa Lịch Sử, trường ĐHSP Hà Nội.
18. Lê Thị Mai (2006), Chợ quê trong quá trình chuyển đổi, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
19. Lê Viết Nga (2003), Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh, Nxb Văn hóa dân tộc.
20. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỉ
XVIII - XIX, Nxb Hà Nội.
21. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Nghị định số 02/2003/NĐ - CP ngày 14/01/2003 của chính phủ về phát
triển và quản lí Chợ.
23. Phòng văn hóa thông tin - thể thao Yên Phong - Bắc Ninh (2000), Truyền
thống vùng đất văn hóa con người Yên Phong, Nxb Thanh niên Hà Nội.
24. Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương Lịch Sử Việt Nam tập 1, Nxb
giáo dục.
25. Quyết định về việc ban hành qui định về quản lí và phát triển Chợ trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, số 414/2013/QĐ- UBND.
26. Nông Văn Quân (2013), Mạng lưới chợ nông thôn ở miền tây Cao Bằng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường ĐHSP Thái Nguyên
27. Sở công thương Bắc Ninh (2017), Điều chỉnh, bổ sung qui hoạch phát triển
ngành Thương mại tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
28. Nguyễn Trãi (2011), Dư địa chí, Nxb Lao động, Hà Nội
29. Khổng Đức Thiêm (2016), “Yên Phong xưa”, Nghiên cứu lịch sử , Số 4, tr.
6 - 8.
30. Khổng Đức Thiêm (2017), “Đặc điểm văn hóa truyền thống vùng Bắc Ninh
từ kho tàng phương ngôn xứ Bắc”, Nghiên cứu lịch sử, (5)
31. Trần Văn Tùng (2011), Hoạt động của mạng lưới chợ ở huyện Hiệp Hòa
tỉnh Bắc Giang từ năm 1945 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch Sử,
trường ĐHSP Hà Nội.
32. Mai Sinh Tuyên (2016), Mạng lưới chợ nông thôn ở miền Đông tỉnh Hà
Giang trước năm 1945, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, trường ĐHSP Thái
Nguyên
33. Viện kinh tế nông nghiệp (1996), Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa vùng trung du miền núi phía bắc Việt Nam, Nxb nông nghiệp.
34. Đỗ Trọng Vĩ (1998), Bắc Ninh dư địa chí, Nxb Văn hóa Thông tin.
II. Tài liệu trên Internet:
35. https://ngotoc.vn
36. http://yenphong.bacninh.gov.vn
37. www.tapchicongsan.org.vn
38. www.prosquare.com.vn
39. thuvienphapluat.vn
40. https://thuvienphapluat.vn/.../Nghi-dinh-02-2003-ND-CP-phat-trien-quan-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ly-cho
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CHỢ NÔNG THÔN Ở HUYỆN YÊN PHONG
Hình 1: Toàn cảnh chợ Chờ Hình 2: Hàng gia dụng trong chợ Chờ
Hình 3: Hàng thực phẩm trong chợ Chờ Hình 4: Hàng nông sản trong chợ Chờ
Hình 5: Chợ Cóc ở xã TamGiang Hình 6: Bán hàng rong ở chợ Chờ
Hình 7: Toàn cảnh chợ Lạc Trung Hình 8: Hàng gia dụng ở chợ Lạc Trung
Hình 10: Hàng nông sản ở chợ Hình 9: Hàng thực phẩm ở chợ
Lạc Trung Lạc Trung
Hình 11: Toàn cảnh chợ thôn Đoài Hình 12: Toàn cảnh chợ Trai
Hình 13: Toàn cảnh chợ Bến Hình 14: Hàng thực phẩm ở chợ Bến
Hình 15: Hàng nông sản ở chợ Bến Hình 16: Hàng gia dụng ở chợ Bến
Hình 17: Bán hàng rong ở KCN Yên Phong Hình 18: Chợ cóc ở KCN Yên Phong
Hình 20: Hàng gia dụng ở chợ Nghiêm Xá
Hình 19: Toàn cảnh chợ Nghiêm Xá
Hình 21: Hàng thực phẩm ở chợ Nghiêm Xá
Hình 22: Hàng nông sản ở chợ Nghiêm Xá
Hình 24: Chợ Cóc ở KCN Yên Phong
Hình 23: Chợ Cóc ở thị Trấn Chờ