ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
-------*****-------
NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ -------*****------- NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ DANH TỐN
MÃ SỐ: 5.02.01
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Mục lục. i
Danh mục bảng biểu. iii
Các chữ viết tắt iv
1
Phần mở đầu.
5
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực 5
cạnh tranh.
1.1.1. Một số khái niệm. 5
1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực 8
cạnh tranh.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 12
1.1.4. Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh 19
của sản phẩm.
24
1.2. Một số kinh nghiệp quốc tế trong phát triển ngành công nghiệp dệt may và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu.
1.2.1. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may 24
ở một số quốc gia.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm 28
dệt may đối với Việt Nam.
32
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua
2.1. Tổng quan về ngành dệt may và tình hình xuất khẩu sản 32 phẩm dệt may của Việt Nam.
2.1.1. Quá trình phát triển và thực trạng ngành dệt may Việt Nam. 32
2.1.2. Vài nét về tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam. 42
2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt 44
Nam trong thời gian qua.
2.2.1. Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. 44
2.2.2. Về giá cả và chi phí. 46
i
2.2.3. Sự phát triển thị trường xuất khẩu. 50
2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt 59
may Việt Nam thời gian qua.
2.3.1. Những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản 59
phẩm dệt may Việt Nam.
2.3.2. Những điểm yếu hay các vấn đề đặt ra trong năng lực cạnh 61
tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
75
75
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới 3.1. Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và thách thức mới của thị trường dệt may thế 75
giới.
3.1.2. Bối cảnh trong nước. 85
88
3.2. Một số dự báo chiến lược, tiềm năng phát triển và quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam những năm tới.
3.2.1. Dự báo đến năm 2005 - 2010. 88
3.2.2. Tiềm năng phát triển. 90
3.2.3. Một số quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt 91
Nam trong những năm tới.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh 94 tranh xuất khẩu cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
3.3.1. Những giải pháp từ phía Chính phủ. 94
3.3.2. Những giải pháp từ góc độ ngành và Hiệp hội Dệt may. 102
106
Phần kết luận. Phụ lục 1:
v
Thị trường xuất - nhập khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam (2003 - 2004).
Phụ lục 2:
vi Một số chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam.
viii Phụ lục 3: Thị phần hàng may mặc của một số quốc gia xuất khẩu vào Nhật Bản.
ii
Danh mục tài liệu tham khảo ix
iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 Năng lực sản xuất của VINATEX. 37
Bảng 2 Năng lực sản xuất của toàn ngành dệt may. 37
Bảng 3 Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may Việt Nam giai 38
đoạn 1997 - 2003.
Bảng 4 So sánh một số chỉ số cơ bản của ngành dệt may trong nền 40
kinh tế giai đoạn 1997 - 2003.
Bảng 5 Kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam giai 42
đoạn 1997 - 2004
Bảng 6 Các chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường 45
Hoa Kỳ năm 2002.
Bảng 7 Giá hàng xuất khẩu của một số quốc gia sang thị trường Nhật 47
Bản.
Bảng 8 Giá cả một số sản phẩm may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. 47
Đồ thị Phân bổ doanh nghiệp theo chi phí đơn vị cho các doanh 48
nghiệp mẫu.
Bảng 9 Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam. 51
Bảng 10 Mười quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ. 52
Bảng 11 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa kỳ. 53
Bảng 12 So sánh mức giá có MFN và không có MFN tại thị trường 55
Hoa Kỳ (năm 2001).
Bảng 13 Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Nhật Bản. 56
Bảng 14 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU. 57
Bảng 15 Xuất khẩu hàng dệt may vào một số quốc gia trong EU. 58
Bảng 16 Máy móc, trang thiết bị hiện tại của ngành dệt Việt Nam (2004). 63
Bảng 17 Tổng giá trị nhập khẩu trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam. 64
Bảng 18 Chất lượng của nguồn cung ứng đầu vào trong nước theo 69
đánh giá của doanh nghiệp.
Bảng 19 Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. 89
iv
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Tiếng Anh:
ACT Agreement on Textile and Clothing Hiệp định Dệt may
ASEAN Association of South East Asian
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Nations
EU
European Union Liên minh Châu Âu
GATT General Agreement on Tariffs & Trade Hiệp định chung về thuế quan & thương
mại
MFA Multi Fibre Arrangement
Hiệp định Đa sợi
WEF World Economic Forum
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO World Trade Organization
2. Tiếng Việt:
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
VINATEX
Tổng công ty Dệt May Việt Nam
v
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với tốc độ tăng trƣởng trung bình là 23,8%/năm (1990-2000) và tốc độ
tăng trƣởng năm 2004 là 19%, ngành dệt may Việt Nam đang là một trong
những ngành có tỷ lệ tăng trƣởng cao nhất. Với 92% sản phẩm sản xuất ra để
phục vụ xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu đóng vai trò tối quan trọng trong phát
triển ngành dệt may Việt Nam. Cùng với dầu thô, gạo, thủy-hải sản, các sản
phẩm dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, chủ lực của
Việt Nam trong thời gian qua cũng như định hướng cho thời gian tới (năm
2004: đóng góp 4,3 tỷ USD trong tổng số 26 tỷ USD kim ngạch xuất nhập
khẩu).
Tuy nhiên, do Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thƣơng mại Thế giới (WTO) nên Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng những ƣu đãi
trong Hiệp định Dệt may (ATC) mang lại. Trong khi đó, các quốc gia là thành
viên WTO đã thực hiện bãi bỏ hoàn toàn chế độ hạn ngạch (quota) đối với các
sản phẩm dệt may cho các nƣớc trong Tổ chức. Đồng thời, trong số các thành
viên WTO có một số quốc gia có năng lực phát triển và khả năng sản xuất cũng
nhƣ sức cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may rất cao so với Việt Nam
(Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan...); trong khi đó sức sản xuất, khả
năng cạnh tranh, khả năng quản lý, trình độ công nghệ... thậm chí cả tay nghề
công nhân của ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần đƣợc tháo gỡ
(ngay cả khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO). Nhƣ vậy, ở thời điểm
hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những khó khăn lớn nhất từ
tham gia vào thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới.
Nhận thức rõ vai trò trong xuất khẩu cũng nhƣ những thách thức đang đặt
ra cho ngành dệt may Việt Nam thời gian tới, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết
định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 04 năm 2001 "Phê duyệt chiến lƣợc
phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lƣợc phát triển
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010". Trong quyết định này, mục tiêu phát
triển ngành dệt may Việt Nam là: "Phát triển ngành dệt may Việt Nam thành
- 1 -
một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu..., tạo
nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh...". Quyết định này thể
hiện rõ chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đối với đẩy
mạnh phát triển ngành công nghiệp dệt may cũng nhƣ định hƣớng sản xuất
hƣớng tới xuất khẩu cho ngành này.
Vậy, để triển khai thực hiện những chủ trƣơng, chính sách của Đảng,
Chính phủ (nâng gấp đôi kim ngạch xuất nhập khẩu - 8 đến 9 tỷ USD vào năm
2010; 75% nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu là sản phẩm
nội địa...), và xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn nêu trên, ngành dệt may Việt
Nam sẽ phải triển khai đồng bộ một hệ thống các giải pháp để có thể giữ vững
và mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sau khi các quốc gia WTO bãi bỏ chế độ hạn
ngạch đối với sản phẩm dệt may (01/01/2005) và sau khi đã trở thành thành
viên chính thức của WTO?... Một trong những đòi hỏi quan trọng đặt ra là cần
xem xét, đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt
may Việt Nam, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, khai thác lợi thế
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Vì thế, đề tài: “Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam” là một đòi hỏi bức bách của thực tiễn hiện nay và trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu:
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam là một
vấn đề đƣợc các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan và nhiều nhà kinh tế
trong nƣớc và quốc tế quan tâm. Những năm gần đây đã có những công trình
nghiên cứu và một số tài liệu đƣợc ấn hành liên quan đến vấn đề này, nhƣ:
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình
hình và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách
phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".
- Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lƣợc "tăng tốc" phát triển
ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".
- Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hƣớng cho kế
hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm
- 2 -
2020".
- Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt
Nam những thành công, những thách thức trong tƣơng lai".
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.
- TS Thân Danh Phúc, Nguyễn Anh Tuấn (Đại học Thƣơng mại) Nhân tố
Trung Quốc với chiến lƣợc phát triển thị trƣờng nội địa ngành dệt may (Tạp chí
Công nghiệp 7/2003).
- Hiệp hội các Nghiệp đoàn tự do (ICFTU), 2004: "Dệt may Bangladesh
"lách khe cửa hẹp""- New York Times (12/2004).
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam, nhƣng về cơ bản, các giải pháp, chính sách đƣa ra nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam đã gặp phải
những hạn chế nhất định do hoàn cảnh, điều kiện và thời điểm nghiên cứu; hoặc
những giải pháp này chỉ mang tính chất đối sách, thậm chí chỉ mang tính đơn lẻ
cho mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt
may Việt Nam hiện nay vẫn là một vấn đề cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của Luận văn là đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm này trong thời gian tới.
Mục đích này đƣợc triển khai thông qua một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể là:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.
Đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
- 3 -
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Dƣới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm
dệt may Việt Nam và chỉ đề cập đến những giải pháp, chính sách vĩ mô cho
toàn ngành; không đi sâu vào những vấn đề có tính tác nghiệp trong hoạch định
chính sách cũng nhƣ trong việc tổ chức thực thi chính sách đối với từng doanh
nghiệp dệt may riêng lẻ.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động sản xuất
và xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam năm 1995 đến nay (năm đánh
dấu những chuyển biến lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là quan hệ
thƣơng mại quốc tế của Việt Nam).
Về không gian: Ngành dệt may ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính
trị, nhƣ: Phƣơng pháp Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp cụ thể, nhƣ: Tổng kết thực
tiễn, kinh nghiệm; phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, phân tích dự báo…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam từ năm 1995 đến nay, để từ đó thấy đƣợc
những mặt còn tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và một số vấn đề đặt ra trong
thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
- 4 -
nội dung chính của Luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế
về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.
Chương 2: Thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua.
- 5 -
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY
CHƢƠNG 1
Cạnh tranh là một hiện tƣợng vốn có của Kinh tế thị trƣờng - mô thức kinh
tế mà mọi quốc gia muốn phát triển đều cần trải qua. Nhƣ vậy, có thể khẳng
định cạnh tranh là một hiện tƣợng mà mọi quốc gia, dân tộc trên con đƣờng
phát triển đều phải chấp nhận, nhận thức đúng về nó. Có nhiều cách tiếp cận,
nhận thức về cạnh tranh; khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, cấp độ
cạnh tranh; các yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh cũng nhƣ hệ thống
các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh...
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Một số khái niệm.
- Cạnh tranh.
Khái niệm về cạnh tranh đã đƣợc các nhà nghiên cứu kinh tế của các
trƣờng phái kinh tế khác nhau nghiên cứu, xem xét và phân tích dƣới nhiều góc
độ, cấp độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu kinh tế Tƣ sản Cổ điển cho rằng:
"Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng;... nó mang lại cho
mỗi thành viên trong thị trƣờng một phần xứng đáng so với khả năng của
mình...". Theo C.Mác, "cạnh tranh Tƣ bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tƣ bản nhằm giành đƣợc những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch...".
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ cạnh tranh đƣợc dùng để chỉ cuộc
đấu tranh quyết liệt, sống còn giữa các nhà sản xuất, cung cấp các chủng loại
hàng hóa, dịch vụ với nhau; không phân biệt hình thức sở hữu về tƣ liệu sản
xuất (nhà nƣớc, tập thể hay tƣ nhân...) với mục đích cuối cùng của cạnh tranh là
giành lấy phần thuận lợi hơn cho mình.
Theo từ điển Cornu (Pháp), cạnh tranh đƣợc hiểu là "Chạy đua trong kinh
- 6 -
tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung
ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi
của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị mất đi một lƣợng khách
hàng thƣờng xuyên".
"Chạy đua trên một thị trƣờng mà cấu trúc và sự vận hành của thị trƣờng
đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung
cấp với bên kia là những ngƣời sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ;
các hàng hóa, dịch vụ này đƣợc tự do tiếp cận trong điều kiện các điều kiện
kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc ƣu đãi do pháp luật mang lại".
Khái niệm về cạnh tranh đƣợc đề cập đến trong Đại từ điển Kinh tế Thị
trƣờng (Trung Quốc) với thuật ngữ "cạnh tranh hữu hiệu", "cạnh tranh có hiệu
quả", "cạnh tranh giá cả", "cạnh tranh phi giá cả" và "cạnh tranh tiềm tàng".
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh đƣợc định nghĩa là sự "tranh đua
giữa các cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ nhau nhằm giành phần hơn, phần
thắng về mình"; "cạnh tranh quốc tế" đƣợc hiểu là "cạnh tranh giành nguồn
nguyên liệu và thị trƣờng tiêu thụ của sản phẩm trên thế giới". Cũng về khái
niệm này, Từ điển Thuật ngữ Kinh tế cho rằng: "cạnh tranh là sự đấu tranh đối
lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên
hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành đƣợc".
Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất nhất thiết phải chiến thắng trong cạnh
tranh hoặc chí ít là cùng phân chia một thị trƣờng có giới hạn với các đối thủ
cạnh tranh của mình. Nhƣ vậy, rõ ràng là bản chất của cạnh tranh là nhằm tới
tối ƣu hóa đầu vào (hạ thấp tối đa chi phí sản xuất) và tối đa hoá đầu ra (thu lợi
nhuận cao nhất có thể). Một số nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam quan niệm
rằng: Cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là con
đƣờng, phƣơng thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế...
Tóm lại, còn có nhiều nhìn nhận chƣa thật sự thống nhất về khái niệm
cạnh tranh, song, xét về bản chất của nó thì cạnh tranh luôn đƣợc phân tích,
nhìn nhận, đánh giá trong trạng thái động và đƣợc ràng buộc trong mối quan hệ
so sánh một cách tƣơng đối. Theo cách nhìn nhận đó thì mọi nỗ lực mà các bên
- 7 -
tham gia nhằm tìm kiếm, dành giật những lợi thế về mình đều đƣợc thống nhất
diễn tả trong các khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh bao hàm hai
mặt: Tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực thì cạnh tranh đã tạo động lực để các
chủ thể vƣơn tới, đạt tới trạng thái tiến bộ hơn (năng suất cao hơn, mẫu mã đẹp
hơn, chất lƣợng tốt hơn...) nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Tuy nhiên,
nếu cạnh tranh đƣợc tiến hành bằng các động thái tiêu cực thì sẽ trở nên kìm
hãm sự hình thành và phát triển cái mới, mang lại một thực trạng cực đoan hơn
và kết quả lại trái ngƣợc so với tích cực. Ngày nay, khái niệm cạnh tranh đang
ngày càng trở nên phổ biến và đƣợc nhìn nhận dƣới khía cạnh tích cực nhiều
hơn. Mặc dù đã nói tới cạnh tranh là có ngƣời thắng, kẻ bại và mục đích kích
thích sự phát triển không phải là mục tiêu của các bên tham gia cạnh tranh song
bản thân nó đã thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
- Năng lực cạnh tranh.
"Năng lực" đƣợc định nghĩa trong Đại Từ điển Tiếng Việt là: "Những điều
kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì" hay "khả năng đủ để thực hiện tốt một
công việc". Cũng trong tài liệu này, "năng lực cạnh tranh" đƣợc hiểu là: "Khả
năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên
cùng một thị trƣờng tiêu thụ". Một số nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh
tranh chỉ có ý nghĩa trong quan hệ thƣơng mại và nó đƣợc mô tả qua các chỉ số
đánh giá khác nhau. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác lại xem năng lực
cạnh tranh bao gồm cả các điều kiện để triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh tới điểm cuối cùng của quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ, là
đảm bảo nâng cao mức sống cho ngƣời dân. Ở Việt Nam, trong quan niệm của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh
đƣợc đề cập đến dƣới nhiều góc độ; sử dụng nhiều thuật ngữ để diễn tả khác
nhau.
Fafchamps cho rằng, khả năng cạnh tranh chính là khả năng của một doanh
nghiệp có thể sản xuất ra một sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá của sản phẩm ấy trên thị trƣờng. Theo đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện
và khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lƣợng tƣơng tự với doanh nghiệp khác
- 8 -
nhƣng chi phí thấp hơn thì đƣợc đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Trong khi Randall cho rằng khả năng cạnh tranh chính là khả năng giành đƣợc và
duy trì thị phần trên thị trƣờng với lợi nhuận nhất định thì Dunning lại đứng trên
quan điểm vể khả năng cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhìn nhận
về năng lực cạnh tranh khi ông nêu ra: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó... Nhìn chung, hiện nay, các nhà nghiên
cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là trình
độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trƣờng và
duy trì đƣợc mức độ thu nhập thực tế của mình.
Tuy xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận, đánh giá và xem xét
song các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh
đều liên quan đến hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng và có lợi
nhuận. Từ đó, chúng ta có thể lột tả bản chất khái niệm năng lực cạnh tranh. Đó
là khả năng có thể nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận
đƣợc.
1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh.
- Cạnh tranh quốc gia.
Cạnh tranh ở cấp quốc gia đƣợc đánh giá chính là năng lực cạnh tranh của
nó và bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành từ các yếu tố vĩ mô đến năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp hoạt động trên quốc gia đó cũng nhƣ khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ từ quốc gia đó trên thị trƣờng quốc
tế. Theo đó, năng lực cạnh tranh quốc gia đƣợc định nghĩa là năng lực của một
nền kinh tế đạt đƣợc tăng trƣởng bền vững, thu hút đƣợc đầu tƣ, đảm bảo ổn
định kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân. Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF) đã đƣa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia là "khả năng
đạt và duy trì đƣợc mức tăng trƣởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững
bền tƣơng đối và các đặc trƣng kinh tế khác". WEF cũng đƣa ra tám nhóm yếu
tố (bao gồm hơn 200 chỉ số) để xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một
- 9 -
quốc gia (trọng số của mỗi nhóm chỉ số có sự thay đổi nhất định qua các thời
kỳ). Tám nhóm chỉ số đó là: (1) Độ mở của nền kinh tế; (2) Các chỉ số liên quan
đến vai trò và hoạt động của Chính phủ; (3) Các yếu tố về tài chính; (4) Các yếu
tố về công nghệ; (5) Các yếu tố về kết cấu hạ tầng; (6) Quản trị; (7) Các yếu tố
về lao động; (8) Và các yếu tố về thể chế.
Theo M.Porter "chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về
năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là nhân tố xác định cơ bản cho việc
nâng cao sức sống của một quốc gia xét về dài hạn". Cũng theo ông, chỉ số năng
suất đến lƣợt mình lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của
các công ty. Do vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia lại phụ thuộc vào các yếu tố
trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo
và duy trì lợi thế cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. Ông đƣa ra bốn nhóm
các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia là: (1) Nhóm các điều kiện
về nhân tố sản xuất (nguồn lao động, tay nghề lao động, tài nguyên, vốn, tiềm
năng về khoa học - công nghệ, hạ tầng cơ sở...). (2) Nhóm các điều kiện về cầu
phản ánh bản chất của nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc đối với sản phẩm, dịch vụ
của một ngành. (3) Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên
quan có khả năng cạnh tranh quốc tế. (4) Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu,
chiến lƣợc của công ty và của các đối thủ cạnh tranh.
Với các đánh giá nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ số luôn
đƣợc các nhà đầu tƣ quốc tế quan tâm, xem xét trong quá trình lựa chọn địa
điểm, lĩnh vực đầu tƣ. Hơn thế nữa, bản xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia
còn có có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ cũng nhƣ doanh nghiệp...
- Cạnh tranh ngành.
Năng lực cạnh tranh của ngành đƣợc định nghĩa là khả năng bù đắp chi
phí, duy trì lợi nhuận và đƣợc đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành
đó cung cấp trên thị trƣờng. Theo M.Porter, các yếu tố sau ảnh hƣởng đến khả
năng cạnh tranh của một ngành là:
(1) Những yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản
xuất, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh; bao
- 10 -
gồm các yếu tố sản xuất cơ bản (khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và
các yếu tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thông tin, trình độ lao động, khả năng
nghiên cứu phát triển, bí quyết công nghệ...). Các yếu tố sản xuất cơ bản quyết
định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành song
các yếu tố sản xuất mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh
để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ toàn ngành.
Không giống nhƣ yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới có đƣợc thông
qua đầu tƣ của chính phủ, các ngành, các công ty.... Bên cạnh đó, những yếu tố
sản xuất cơ bản thì mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó rất khó tạo nên lợi
thế cạnh tranh trong dài hạn; trong khi đó, những yếu tố sản xuất mới cần phải
đƣợc đầu tƣ và duy trì thế mạnh nếu muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài
hạn (vì chúng khó có thể sao chép, rập khuôn).
(2) Điều kiện của cầu: Các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất luôn
phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế khác. Các sản
phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt
ngƣỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh
có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì
ngƣỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng cứng nhắc. Ngƣời mua
tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, chất lƣợng và các dịch vụ
tốt hơn; làm cho các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau. Điều đó buộc các doanh
nghiệp trong ngành phải coi các yêu cầu của khách hàng là trên hết và phải tìm
mọi cách để đáp ứng tối đa có thể nhu cầu của họ thì mới thu đƣợc lợi nhuận.
Vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao
năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và toàn ngành. Có thể khẳng định
rằng, đặc tính của cầu giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các
đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực để nâng cao chất lƣợng, gia tăng
giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.
(3) Các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ: Với mỗi ngành sản xuất,
sự hình thành và phát triển cũng nhƣ năng lực cạnh tranh của nó luôn có sự phụ
thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ; không có ngành
- 11 -
nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt hoàn toàn (nông nghiệp phụ thuộc
vào các ngành sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật...; công nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào sự phát triển của các ngành nhƣ: nguồn nguyên, nhiên liệu, công
nghiệp chế tạo máy móc...). Nếu những ngành liên quan và phụ trợ này phát
triển mạnh mẽ thì sự phát triển của ngành cũng thuận lợi; khả năng cạnh tranh
mới cao; nếu ngƣợc lại sẽ có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh cũng
nhƣ sự phát triển của ngành. Nhƣ vậy, sự phát triển của một ngành còn bị tác
động của rất nhiều ngành khác; giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản
phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của ngành kia và ngƣợc lại.
Bên cạnh các nhóm yếu tố trên, cấu trúc thị trƣờng, mức độ cạnh tranh,
chiến lƣợc của các chủ thể trong nội bộ ngành, của đối thủ cạnh tranh và đặc
biệt là vai trò của nhà nƣớc cũng là những yếu tố có tác động mạnh đến năng
lực cạnh tranh của ngành. Các nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong
việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành và chính phủ có ảnh hƣởng lớn
đến các nhóm yếu tố đó. Các nhóm yếu tố này cũng là thƣớc đo về năng lực
cạnh tranh cho một ngành, một doanh nghiệp: Doanh nghiệp muốn nâng cao
năng lực cạnh tranh thì cần tập trung sản xuất các sản phẩm mà các yếu tố trên
là thuận lợi hơn cả. Năng lực cạnh tranh của một ngành sẽ đƣợc nâng cao nếu
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành đƣợc cải thiện.
- Cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm:
Có nhiều quan điểm khoa học cũng nhƣ cách tiếp cận khác nhau về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp; trong đó, tiêu biểu nhất có M.Porter, Oral
Singer, Kettani... M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa
vào các yếu tố sau: Những đối thủ trong ngành, các đối thủ tiềm năng, các sản
phẩm thay thế, nhà cung cấp và khách hàng. Ông đã đồ thị hóa mối liên kết giữa
các yếu tố cấu thành này để tạo nên Mô hình hình thoi để chỉ ra các yếu tố chính
tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và mối liên hệ giữa chúng.
Trong khi đó, Oral Singer và Tettani lại cho rằng: Có ba yếu tố tác động tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: Sự thành thạo về kỹ năng công
- 12 -
nghiệp, chi phí liên quan tới kỹ năng và môi trƣờng kinh tế của công ty...
Tuy vậy, nhìn chung các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhận của doanh nghiệp trong môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc và
ngoài nƣớc. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch
vụ vì vậy còn có thể phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể đƣợc hiểu là tổng hòa năng lực cạnh tranh của các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ấy; hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
đƣợc thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc đo lƣờng qua lợi
nhuận của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp đó trên thị trƣờng và chiến
lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp đó. Với tƣ cách là tế bào cấu thành nên nền
kinh tế thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo sở sỡ vững chắc và hình
thành nên năng lực cạnh tranh của quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc gia
cũng chi phối tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ƣu thế cạnh tranh của một doanh nghiệp sản xuất so với đối thủ cạnh tranh
của mình đƣợc thể hiện qua lợi thế về chi phí và lợi thế về sự khác biệt. Trong
đó, lợi thế về chi phí thể hiện qua việc doanh nghiệp có khả năng tạo ra sản
phẩm với chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế về sự khác biệt lại phụ
thuộc vào mức độ khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho ngƣời tiêu dùng
hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hay nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng
sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trƣờng có thể chấp nhận mức giá cao hơn
của đối thủ...
Tóm lại, năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đƣợc
hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó
có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trƣờng cạnh tranh một cách
lâu dài và có ý nghĩa.
Tuy có sự phân biệt tƣơng đối về khái niệm song, giữa các cấp độ cạnh
tranh nêu trên có sự liên hệ mất thiết, gắn bó với nhau; giữa chúng có tác động
qua lại, phụ thuộc, chế định nhau và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Một
- 13 -
nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao buộc phải bao gồm những
doanh nghiệp, các sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao và tới lƣợt nó
môi trƣờng kinh tế vĩ mô, môi trƣờng kinh doanh đối với các sản phẩm dịch vụ
phải thuận lợi thì các doanh nghiệp và các sản phẩm dịch vụ mới có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
- Các yếu tố thuộc về sản phẩm.
+ Giá cả hàng hoá.
Giá cả hàng hóa đóng một vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh thƣờng
đƣợc sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bƣớc vào
một thị trƣờng mới. Nếu các loại hàng hoá có cùng giá trị sử dụng, chất lƣợng
giống nhau nhƣng có sự khác biệt về giá cả thì ngƣời tiêu dùng sẽ chọn loại
hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Tuy nhiên, giá cả hàng hoá đƣợc quyết định bởi giá
trị của nó và suy cho cùng thì nhà sản xuất nào có thời gian hao phí lao động xã
hội cần thiết thấp hơn sẽ có giá trị cá biệt thấp hơn; tất yếu là giá cả hàng hóa
của họ thấp hơn giá cả hàng hóa của các nhà cung cấp khác. Cạnh tranh về giá
thƣờng đƣợc thực hiện qua các biện pháp nhƣ: Kinh doanh với chi phí thấp; bán
với mức giá hạ. Tuy vậy, hạ giá thành là phƣơng pháp cuối cùng mà doanh
nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi nó ảnh hƣởng trực tiếp tới lợi nhuận
của doanh nghiệp.
+ Chất lượng hàng hoá (theo nghĩa rộng).
Tƣơng tự nhƣ yếu tố giá cả, chất lƣợng hàng hóa là một yếu tố quan trọng
mà các doanh nghiệp sử dụng nhƣ một công cụ hữu hiệu để chiến thắng các đối
thủ cạnh tranh của mình. Song, chất lƣợng hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất với cùng một giá thành (nhƣ: kỹ thuật,
công nghệ; vị trí địa lý và các yếu tố đầu vào khác - những yếu tố không giống
nhau đối với mỗi nhà cung cấp). Hơn thế nữa, ngƣời tiêu dùng còn sẵn sàng trả
giá cao hơn để có đƣợc một sản phẩm chất lƣợng tốt hơn. Cạnh tranh chất lƣợng
sản phẩm thƣờng đƣợc xem xét thông qua một số yếu tố nhƣ: (1) Trình độ sản
phẩm (tính hữu dụng, mẫu mã, bao bì). (2) Chất lƣợng sản phẩm (độ bền, lợi ích
- 14 -
kinh tế khi sử dụng...). (3) Khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Việc
nghiên cứu chính xác yếu tố này sẽ giúp nhà cung cấp quyết định thời điểm
tung ra một chủng loại sản phẩm mới thay thế các sản phẩm đang có trên thị
trƣờng hoặc tạm dừng cung cấp một chủng loại sản phẩm đã có.
+ Phân phối và bán hàng.
Đây là một yếu tố khá quan trọng vì nó tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng;
thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trƣớc, trong và sau khi bán hàng.
Ở giai đoạn trƣớc khi bán hàng, các nhà cung cấp sẽ lôi cuốn khách hàng thông
qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, định hƣớng thị hiếu ngƣời tiêu dùng...
Trong khi đó, yêu cầu của quá trình bán hàng lại là nghệ thuật thể hiện sự trọng
thị khách hàng. Nó đòi hỏi ngƣời bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng...
Giai đoạn sau bán hàng phải có các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Những dịch vụ
này sẽ tạo sự tin tƣởng, uy tín của nhà cung cấp đối với ngƣời tiêu dùng. Bên
cạnh đó, phƣơng thức thanh toán cũng đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ cạnh
tranh hữu hiệu (trả góp. trả chậm và các dịch vụ thanh toán ủy thác khác...).
Khả năng cạnh tranh về phân phối và bán hàng của một nhà cung cấp
thƣờng đƣợc thể hiện qua các nội dung chủ yếu nhƣ: (+) Khả năng đa dạng hoá
các kênh phân phối và chọn đƣợc các kênh chủ lực. (+) Khả năng tuyển chọn
đƣợc những ngƣời điều khiển đủ mạnh. (+) Khả năng có đƣợc hệ thống bán
hàng phong phú và hiện đại. (+) Khả năng có thể kết dính các kênh phân phối
lại với nhau. (+) Khả năng hợp tác những ngƣời bán trên thị trƣờng nhất là trên
các thị trƣờng lớn. (+) Khả năng cung cấp các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng
hợp lý (phƣơng thức bán hàng và phƣơng thức thanh toán).
+ Uy tín của doanh nghiệp và thương hiệu hàng hóa.
Uy tín của doanh nghiệp đƣợc xây dựng trên cơ sở chất lƣợng sản phẩm,
giá trị sử dụng của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp đó cung ứng ra thị
trƣờng, các dịch vụ trong, sau bán hàng... và tất nhiên là giá cả sản phẩm phải
hợp lý. Điều đáng chú ý là uy tín của doanh nghiệp chỉ có thể có đƣợc khi
doanh nghiệp đó đáp ứng đƣợc những đòi hỏi nêu trên trong một thời gian đủ để
khách hàng đƣa ra những đánh giá chín muồi về doanh nghiệp. Nói cách khác,
- 15 -
xây dựng thƣơng hiệu sản phẩm, tạo dựng uy tín doanh nghiệp là một hoạt động
cần đƣợc triển khai thƣờng xuyên trong suốt quá trình hình thành và phát triển
của doanh nghiệp.
Bên cạnh các yếu tố nêu trên, còn có một số yếu tố khác mà các nhà cung
cấp cần nghiên cứu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhƣ: Tăng cƣờng
áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; xây dựng và phát triển thƣơng
hiệu; đầu tƣ cho nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng, mức sống dân cƣ để có thể thu
đƣợc những thông tin sát thực giúp đƣa ra những dự báo và quyết định chính
xác và quản trị đƣợc rủi ro...
- Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô.
+ Nguồn cung ứng đầu vào.
Nguồn cung ứng đầu vào đƣợc đề cập đến bao gồm nhiều yếu tố tác động
tới quá trình sản xuất kinh doanh và chi phối rõ nét tới giá thành và chất lƣợng
sản phẩm. Đây là yếu tố thể hiện sự liên kết chặt chẽ hay thiếu chặt chẽ giữa các
ngành sản xuất trong một quốc gia. Bởi vì sản phẩm của một ngành công nghiệp
này sẽ là phƣơng tiện, vật tƣ, nguyên, phụ liệu của một ngành công nghiệp khác
và ngƣợc lại. Vì vậy, giá cả, chất lƣợng của chủng loại sản phẩm do ngành này
sản xuất ra sẽ chi phối tới giá thành sản xuất và chất lƣợng hàng hóa của một
ngành khác có sử dụng chúng làm nguyên, phụ liệu, bán thành phẩm đầu vào của
mình. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào là
một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của một chủng loại
hàng hóa vì nó quyết định các yếu tố khác nhƣ: giá cả, chất lƣợng... (những yếu
tố tác động trực tiếp và quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm).
+ Nguồn nhân lực.
Do yếu tố con ngƣời (nhân lực) chi phối tới các chỉ số khác nhau của quá
trình sản xuất từ năng suất lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ phục vụ
khách hàng, khả năng sáng tạo, khả năng quản trị... và tất nhiên nó sẽ tác động
tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất lƣợng hàng hóa, chất lƣợng các
dịch vụ... Tất yếu là cuối cùng nó tác động tới năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Nguồn nhân lực đƣợc coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức.
- 16 -
Trong doanh nghiệp, nguồn nhân lực đƣợc chia làm 3 cấp: (1) Quản trị viên cấp
cao: Gồm ban giám đốc và các trƣởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh
hƣởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua hoạch định chiến lƣợc
và kế hoạch sản xuất, kinh doanh. (2) Quản trị viên cấp trung gian: Là đội ngũ
trực tiếp quản lý phân xƣởng sản xuất sản phẩm, đòi hỏi phải có có kinh nghiệm
công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác tốt. (3) Đội ngũ quản trị
viên cấp cơ sở: Là những ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này
thông qua các yếu tố nhƣ: Năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách
nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo...
+ Hoạt động marketing và xúc tiến thương mại.
Ngày nay, khi nói tới xúc tiến thƣơng mại, ngƣời ta thƣờng muốn đề cập
tới những hoạt động giúp các doanh nghiệp có thể giới thiệu sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ mà họ muốn cung cấp cho khách hàng. Một doanh nghiệp dù có
sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao đến đâu nhƣng không có các biện
pháp thích hợp và không triển khai đồng bộ các hoạt động xúc tiến thƣơng mại
để giúp khách hàng nhận thức đầy đủ về tính ƣu việt cũng nhƣ lợi thế so sánh
của sản phẩm, dịch vụ mình cung cấp thì không thể thành công trong kinh
doanh. Bởi lẽ, số đông khách hàng không thể chủ động tìm tới các nhà cung cấp
khi họ không có thông tin về sản phẩm dịch vụ mà họ có nhu cầu. Vì vậy, hoạt
động xúc tiến thƣơng mại là một khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần triển
khai đồng bộ trƣớc khi tiến hành cung ứng một loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ
ra thị trƣờng. Tóm lại, hoạt động xúc tiến thƣơng mại là yếu tố có tác động, ảnh
hƣởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm mặc dù nó không thuộc
quá trình sản xuất công nghiệp.
+ Yếu tố trang thiết bị, công nghệ.
Trang thiết bị công nghệ đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao năng
suất, đảm bảo chất lƣợng và hạ giá thành sản phẩm. Với một dây chuyền máy
móc thiết bị, công nghệ phù hợp, chất lƣợng sản phẩm sẽ đƣợc đảm bảo, năng
- 17 -
suất lao động đƣợc nâng cao, giá thành sản phẩm sẽ hạ và tất yếu năng lực cạnh
tranh của sản phẩm dịch vụ sẽ nâng cao. Vì vậy, yếu tố trang thiết bị công nghệ
có tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Thông thƣờng, yếu tố trang thiết bị, công nghệ thể hiện ở hai mặt sau đây:
(1) Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có đƣợc
các công nghệ tiên tiến. (2) Quy mô và năng lực sản xuất: Để đạt hiệu quả cao
trong sản xuất kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn đầu tƣ; giảm thiểu chi
phí cố định trong giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất
và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế.
- Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô.
Bên cạnh các yếu tố thuộc về doanh nghiệp và môi trƣờng vi mô thi những
yếu tố thuộc về môi trƣờng vĩ mô cũng có vai trò quan trọng đối với năng lực
cạnh tranh của sản phẩm; nó trở nên đặc biệt quan trong đối với sản phẩm xuất
khẩu. Các yếu tố thuộc môi trƣờng vĩ mô bao gồm:
+ Môi trường quốc gia nhập khẩu.
Nó đƣợc cấu thành bởi (1) Môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu:
Khi nói tới môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu là đề cập tới tính ổn định
về kinh tế, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng; các nguồn lực chính để phát triển kinh tế;
cơ sở hạ tầng kinh tế và tất nhiên là các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách
tiền tệ, chính sách tỷ giá...
(2) Môi trƣờng cạnh tranh tại quốc gia nhập khẩu: Năng lực cạnh tranh của
hàng hóa nhập khẩu tất nhiên sẽ chịu ảnh hƣởng lớn từ mức độ cạnh tranh trên
thị trƣờng quốc gia nhập khẩu. Nếu quốc gia nhập khẩu có môi trƣờng cạnh
tranh mạnh thì những lợi thế so sánh của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rõ nét
hơn và ngƣợc lại. Vì vậy, mức độ bảo hộ thị trƣờng trong nƣớc đã trở thành một
tiêu chí không thể thiếu trong đánh giá độ mở hay mức độ hội nhập của nền
kinh tế một quốc gia trong tổng thể nền kinh tế toàn cầu.
(3) Môi trƣờng chính trị - phát luật của nƣớc nhập khẩu: Yếu tố này đang
ngày càng đƣợc coi trọng khi đánh giá về môi trƣờng đầu tƣ nói riêng và môi
trƣờng kinh tế nói chung. Nhƣ chúng ta đã biết, một quốc gia rất khó phát triển
- 18 -
kinh tế nếu môi trƣờng chính trị, pháp luật không ổn định. Sự bất ổn định về
chính trị hay sự thay đổi thƣờng xuyên của hệ thống luật pháp và các định chế
dƣới luật sẽ là nguy cơ mang đến những rủi ro rất khó lƣờng cho các chủ thể
kinh tế. Bên cạnh đó, kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị chi phối nhiều hơn bởi
vì nó không chỉ bị tác động bởi môi trƣờng chính trị pháp luật ở một quốc gia
mà tối thiểu chịu sự tác động dƣới góc độ này của hai quốc gia.
(4) Môi trƣờng văn hóa- xã hội (trình độ văn hóa - thẩm mỹ; dân trí, các
chuẩn mực đạo đức xã hội; cơ cấu dân số; mức độ phân hóa xã hội; tập quán,
thói quen tiêu dùng; tôn giáo, dân tộc...): Tất cả các yếu tố này đều tác động tới
năng lực cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu. Trong môi trƣờng thƣơng mại tự
do đang ngày càng mở rộng khiến ngƣời tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn
trƣớc khi quyết định sử dụng một loại hàng hóa dịch vụ nào đó.
+ Môi trường quốc gia xuất khẩu bao gồm.
(1) Môi trƣờng kinh tế của nƣớc xuất khẩu (mức độ ổn định của nền tài
chính quốc gia, mức độ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi, chi phí nhân
công và các chính sách kinh tế, thƣơng mại khác của quốc gia xuất khẩu): Tất
cả những yếu tố này sẽ có tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nên tất yếu sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Một
quốc gia có nền tài chính thiếu ổn định, tỷ giá hối đoái không thích hợp, chi phí
nhân công về một lĩnh vực nhất định cao tƣơng đối so với các quốc gia khác...
thì hàng hóa sản xuất tại quốc gia đó rất khó có năng lực cạnh tranh đủ mạnh để
tiến hành xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế và ngƣợc lại.
(2) Môi trƣờng chính trị - pháp luật của quốc gia xuất khẩu: Rõ ràng là,
một quốc gia có nền chính trị ổn định, hệ thống luật pháp rõ ràng và có tính ổn
định cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nƣớc đó tiến hành xuất
khẩu hàng hóa một cách có hiệu quả. Khí đó, các nhà quản lý doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu không quá khó khăn khi quản trị rủi ro và điều này sẽ làm
tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hóa đó.
(3) Môi trƣờng văn hóa, xã hội của quốc gia xuất khẩu. Một ví dụ điển
hình minh chứng cho vai trò của yếu tố này là việc các quốc gia có truyền thống
- 19 -
văn hóa lâu đời thƣờng có lợi thế so sánh tƣơng đối khi tiến hành xuất khẩu các
chủng loại hàng hóa mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống (không
thể nhầm lẫn với các quốc gia khác), nhƣ: Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành xuất khẩu các
loại thảm dệt thủ công, Trung Quốc thƣơng mại hóa rƣợu Mao Đài và Việt Nam
xuất khẩu các sản phẩm dệt may từ chất liệu thổ cẩm, đũi, tơ tằm...
(4) Môi trƣờng công nghệ của quốc gia xuất khẩu: Yếu tố này đang đóng
vai trò ngày càng quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
do nó chi phối tới khả năng, chi phí cho việc đổi mới công nghệ sản xuất. Hơn
thế nữa, với tốc độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhƣ hiện nay
thì vòng đời của một dây chuyền công nghệ sản xuất đang ngày càng đƣợc rút
ngắn. Nhƣ vậy, một dây chuyền công nghệ hiện nay đang đƣợc đánh giá là hiện
đại (tất yếu cho ra đời những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lƣợng cao và giá
thành chấp nhận đƣợc) sẽ trở thành công nghệ trung bình trong một, vài năm sau
đó.
+ Môi trường quốc tế.
Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại và phát triển
một cách độc lập tuyệt đối mà phải có sự phụ thuộc tƣơng đối lẫn nhau; cùng
chịu sự chi phối nhất định của một môi trƣờng chung - môi trƣờng quốc tế. Sự
biến động của môi trƣờng quốc tế sẽ có những tác động tới một số hay toàn bộ
các quốc gia trên thế giới. Sự phụ thuộc tƣơng đối và những tác động theo kiểu
hiệu ứng đôminô này đã thể hiện khá rõ ở các cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ Châu Á và Mỹ La tinh trong thập niên 1990 vừa qua... Khi nói đến môi
trƣờng quốc tế đối với các sản phẩm xuất khẩu tức là đề cập đến các biến động
kinh tế trên thị trƣờng thế giới và các nhân tố chính trị của các quốc gia. Trong
đó, (1) Những biến động kinh tế trên thị trƣờng thế giới (sự xuất hiện hay mất đi
của các liên minh kinh tế, liên minh thuế quan; các thỏa thuận thƣơng mại đa và
song phƣơng...) nhất định sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
xuất khẩu theo nhiều chiều khác nhau. (2) Nhân tố chính trị mà cụ thể hơn là
những bất ổn chính trị (chia rẽ, chiến tranh, khủng bố...), những biến động chính
- 20 -
trị theo chu kỳ (bầu cử Tổng thống, Thủ tƣớng, Lƣỡng Viện...) đều có tác động
nhất định tới giá trị đồng tiền của các quốc gia nên sẽ có những tác động tới
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Bên cạnh các yếu tố trên, năng lực cạnh tranh của của sản phẩm xuất khẩu
còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, nhƣ: (1) Quan hệ chính trị, ngoại giao,
kinh tế song phƣơng với quốc gia nhập khẩu. (2) Quan hệ kinh tế, chính trị,
ngoại giao đa phƣơng của các quốc gia là đối tác của nhau; (3) Các luật lệ và
thông ƣớc quốc tế liên quan...
1.1.4. Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của
sản phẩm.
- Một số phương pháp phân tích và tiêu chí thường dùng.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cốt lõi tạo nên sức cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành và năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia; nó là
nhân tố quyết định định hƣớng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm. Có nhiều tiêu chí
đƣợc sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm, nhƣ: Trên cơ sở phân
tích lợi thế so sánh, chi phí sản xuất, khả năng xuất khẩu, khả năng chiếm lĩnh
thị phần, giá trị gia tăng, mức độ bảo hộ... Mỗi tiêu chí có những điểm mạnh và
tồn tại những hạn chế nhất định.
+ Về chi phí sản xuất: Một sản phẩm đƣợc coi là có năng lực cạnh tranh
cao nếu giá thành sản phẩm đó thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Chi phí sản
xuất là yếu tố đầu tiên hình thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm; song
đây không phải là yếu tố duy nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Chi phí sản xuất là một tiêu chí tổng hợp nhƣng chƣa toàn diện để đánh giá
năng lực cạnh tranh của sản phẩm vì bên cạnh nó còn một số kỹ năng khác cần
đƣợc xem xét, nhƣ: Marketing, hệ thống phân phối, các dịch vụ hậu mãi...
+ Về lý thuyết lợi thế so sánh: Là những yếu tố mỗi quốc gia có lợi thế
tƣơng đối so với quốc gia khác mà có thể tận dụng để sản xuất ra những sản
phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Những lợi thế này rất đa dạng; tuy nhiên hiện
nay ít đƣợc sử dụng để đánh giá vì nó nhìn nhận các lợi thế và năng lực cạnh
- 21 -
tranh trong trạng thái tĩnh, không có sự di chuyển tự do của các nguồn lực từ
nơi này sang nới khác (không thật sự phù hợp với xu thế khu vực hóa và toàn
cầu hóa kinh tế hiện nay).
+ Khả năng chiếm lĩnh thị trường: Tiêu chí này đƣợc thể hiện trên hai góc
độ: Thứ nhất, đối với sản phẩm sản xuất thay thế nhập khẩu và tiêu thụ nội địa
đƣợc thể hiện ở khả năng chiếm lĩnh thị phần trong nƣớc. Thứ hai, đối với sản
phẩm xuất khẩu là khả năng chiếm lĩnh thị phần ngoài nƣớc. Đây là một tiêu chí
đƣợc sử dụng tƣơng đối phổ biến vì không quá phức tạp trong cách lƣợng hóa,
phân tích (thể hiện qua: Thị phần, kim ngạch xuất khẩu...) và nó phù hợp với xu
thế tự do hóa thƣơng mại hiện nay. Tuy nhiên, tiêu chí này chỉ thể hiện đƣợc
năng lực cạnh tranh của một sản phẩm trong thời điểm hiện tại mà chƣa phản
ánh đƣợc xu thế phát triển và tiềm năng trong tƣơng lai.
- Các hệ số RCA và DRC.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thƣơng mại quốc tế, các chỉ tiêu
kinh tế đang ngày càng mang tính phổ quát và đƣợc áp dụng tƣơng đối rộng rãi
trong các báo cáo đánh giá của các tổ chức kinh tế quốc tế. Nó đang trở thành
những thƣớc đo tƣơng đối đầy đủ về mức độ phát triển, khả năng cạnh tranh của
các sản phẩm, doanh nghiệp, ngành và các quốc gia trong tổng thể nền kinh tế
thế giới thông qua các yếu tố then chốt với trọng số của mỗi chỉ số có thể thay
đổi theo từng lính vực, giai đoạn cụ thể. Sau đây xin đƣa ra một số chỉ số đánh
giá về khả năng cạnh tranh:
+ Hệ số cạnh tranh RCA (Revealed Comparetive Advantage)- Hệ số lợi
thế so sánh hiển thị.
Một quốc gia đƣợc coi là có lợi thế so sánh cao hơn một quốc gia khác
trong sản xuất, cung cấp một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó khi chi phí để sản
xuất ra nó thấp hơn tƣơng đối so với các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, các nhà
nghiên cứu kinh tế luôn tìm cách để có thể lƣợng hóa lợi thế so sánh (hay lợi thế
cạnh tranh) của quốc gia này về một loại sản phẩn, hàng hóa, dịch vụ nhất định
so với một quốc gia khác hay thậm chí là sự so sánh diễn ra ngay cả trong
- 22 -
thƣơng mại quốc tế. RCA chính là một trong các công cụ nhƣ vậy.
RCA là chỉ số dùng để so sánh tỷ trọng xuất khẩu một chủng loại hàng hóa
ở một quốc gia với tỷ trọng hàng hóa cùng loại trên thị trƣờng quốc tế và đƣợc
tính bằng công thức sau:
Trong đó:
RCAij là chỉ số so sánh hiển thị của sản phẩm i ở quốc gia j.
Eij là tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i từ quốc gia j.
Eiw là tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của thế giới.
Ej là tổng kim ngạch xuất khẩu của nƣớc j.
Ew là tổng kim ngạch xuất khẩu trên thế giới.
Hệ số so sánh hiển thị là một hệ số phản ánh vị trí lợi thế so sánh đạt đƣợc
của một sản phẩm trên thị trƣờng quốc tế trong tƣơng quan với tổng giá trị xuất
khẩu của quốc gia. Nhƣ vậy, RCA cho phép so sánh tỷ trọng xuất khẩu của một
sản phẩm trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đó trên thế giới so với tỷ
trọng của tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia ấy trên trong tổng kim ngạch
xuất khẩu thế giới. Nếu RCA có giá trị lớn hơn 1 thì quốc gia đó đƣợc đánh giá
là có lợi thế tƣơng đối trong xuất khẩu sản phẩm đƣợc xem xét. Vì khi đó tỷ
trọng xuất khẩu mặt hàng đó chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
này của thế giới lớn hơn tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới.
Với cách tính nhƣ vậy, hệ số so sánh RCA cho phép loại trừ các ảnh
hƣởng biến động giá cả, phản ánh lợi thế so sánh tạo đƣợc cho một sản phẩm cụ
thể trên thị trƣờng toàn cầu do khai thác và phát huy có hiệu quả các nhân tố
nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ...
- 23 -
+ Hệ số lợi thế so sánh nội sinh DRC (Domestic Resource Cost).
Phƣơng pháp tính hệ số so sánh nội sinh DRC dựa trên cơ sở tính hệ số tỷ lệ
tổng chi phí nội địa của một đơn vị sản phẩm với mức giá xuất khẩu trung bình
của một đơn vị sản phẩm đó trên thị trƣờng quốc tế. Hệ số thu đƣợc cho mỗi sản
phẩm dịch vụ đƣợc gọi là hệ số so sánh nội sinh của sản phẩm, dịch vụ ấy.
Hệ số DRC nếu đƣợc tính toán cho từng thời kỳ sẽ phản ánh khả năng
kinh tế (hay lợi thế kinh tế, lợi thế so sánh) của quá trình đầu tƣ, sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm trên thị trƣờng thế giới. Một quốc gia có lợi thế tƣơng đối trong
sản xuất, xuất khẩu sản phẩm đó khi có hệ số DRC nhỏ hơn 1. Trái lại, nếu hệ
số DRC lớn hơn 1 thì có nghĩa là sản phẩm, dịch vụ đó không có lợi thế so sánh
tƣơng đối trong thị trƣờng xuất khẩu thế giới.
Hệ số DRC cần thiết cho hoạch định chiến lƣợc hƣớng tới xuất khẩu; nó
cho phép các chiến lƣợc gia định hƣớng, lựa chọn những sản phẩm chủ yếu có
tiềm năng nội sinh về hiệu quả kinh tế và có dung lƣợng lớn (quy mô lớn) trên
thị trƣờng thế giới; đồng thời định hƣớng điều chuyển các nhân tố đầu vào để
giảm tổng chi phí nội địa và kiểm soát hệ số DRC trƣớc các biến động về giá cả
trên từng thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm.
+ Chi phí đơn vị (UC).
Mặc dù DRC là một thƣớc đo hữu ích và thƣờng đƣợc sử dụng trong các
nghiên cứu về khả năng cạnh tranh, nhƣng đối với nhà hoạch định chính sách
thì đôi lúc cũng khó nắm bắt khái niệm này. Thêm nữa, việc ứơc tính DRC
trong nhiều trƣờng hợp là không dễ dàng. Vì vậy, ở Việt Nam, nhiều nhà kinh
tế sử dụng thƣớc đo chi phí đơn vị để nghiên cứu và đánh giá năng lực cạnh
tranh.
Chi phí đơn vị (UC), đƣợc xác định bằng tổng chi phí (TC) chia cho giá trị
sản lƣợng (VO):
UC = TC/VO.
Giá trị sản lƣợng lại bằng sản lƣợng nhân với giá xuất xƣởng.
Nếu bán trong nƣớc thì giá xuất xƣởng là giá thị trƣờng nội địa (Pd),
thƣờng cao hơn giá quốc tế của một sản phẩm nhập khẩu tƣơng tự một khoảng
- 24 -
bằng tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa. Đối với hàng xuất khẩu, giá xuất xƣởng bằng giá
quốc tế FOB (Pw). Chúng ta biết rằng, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp phải thể hiện và đánh giá bằng việc các doanh nghiệp bán sản phẩm của
mình trên một thị trƣờng nhất định và đảm bảo sản xuất phải có lãi, doanh thu
lớn hơn chi phí. Các nhà sản xuất sẽ được cho là có khả năng cạnh tranh nếu
chi phí sản xuất trên một đơn vị sản lượng hiện vật không cao hơn các các đối
thủ cạnh tranh khác trên một thị trường nhất định. Chi phí đơn vị đƣợc tính
theo giá trị của một đơn vị sản phẩm (tổng chi phí chia cho tổng giá trị sản xuất)
nhỏ hơn 1 thì nhà sản xuất có lợi nhuận và có lợi thế thực sự trong cạnh tranh
trên thị trƣờng. Khi chi phí đơn vị bằng 1, nhà sản xuất hoà vốn. Và cuối cùng,
nếu chi phí đơn vị lớn hơn 1, nhà sản xuất lỗ vốn.
Có một số thuận lợi khi sử dụng giá trị đơn vị sản phẩm để tính chi phí
đơn vị. Thứ nhất, nó khắc phục những khác biệt trong tập hợp sản phẩm và chất
lƣợng sản phẩm thƣờng làm khó khăn cho sự so sánh giữa các doanh nghiệp.
Giả thuyết rằng giá sản phẩm thƣờng tỷ lệ với chất lƣợng sản phẩm. Thứ hai,
chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp
mà không cần xem xét thị trƣờng xuất khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy, khái
niệm cạnh tranh chi phí mang tính đa phƣơng, không cần chỉ ra các đối thủ cạnh
tranh của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nhƣ đã nói ở trên, các doanh nghiệp hay sản phẩm đƣợc coi
là có khả năng cạnh tranh nếu chi phí đơn vị nhỏ hơn hoặc bằng 1. Sự chênh
lệch giữa chi phí đơn vị và 1 sẽ thể hiện lợi nhuận thuần tuý trong trƣờng hợp
chi phí đơn vị nhỏ hơn 1. Vì vậy, thƣớc đo khả năng cạnh tranh này thể hiện
khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, sản phẩm - Chi phí đơn vị càng thấp thì
khả năng mở rộng doanh nghiệp hoặc khả năng đƣơng đầu với những biến động
không thuận lợi bên ngoài sẽ lớn hơn, chi phí đơn vị thấp hơn có thể đƣợc coi là
dấu hiệu của khả năng cạnh tranh cao hơn. So sánh chi phí đơn vị giữa các
doanh nghiệp hay sản phẩm vì vậy có thể mang lại những thông tin cần thiết về
khả năng cạnh tranh tƣơng đối của các doanh nghiệp và sản phẩm.
Phân tích năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí là giải pháp tốt trong việc
- 25 -
đánh giá khả năng cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp và đƣợc các chuyên
gia gọi là khả năng cạnh tranh chi phí. Khái niệm khả năng cạnh tranh chi phí có
thể đƣợc sử dụng để phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp về một
chủng loại sản phẩm cả ở thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng quốc tế.
1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế trong phát triển ngành công nghiệp dệt may và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu
Nhìn chung, cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 của thế kỷ XX -
khi các nƣớc phát triển bắt đầu chuyển giao ngành sản xuất sử dụng nhiều lao
động sang các nƣớc đang phát triển thì các quốc gia hiện nay đƣợc đánh giá là
đứng đầu trong phát triển công nghiệp dệt may trên thế giới đã có những điều
chỉnh thích hợp để tiếp thu sự chuyển giao này. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản lý giải cho sự thành công của Trung Quốc, Ấn Độ trong phát triển
công nghiệp dệt may hƣớng tới xuất khẩu mặc dù nền tảng là ngành công
nghiệp có cơ cấu ngành không hợp lý.
1.2.1. Tình hình phát triển công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm
dệt may ở một số quốc gia.
1.2.1.1. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may ở
Trung Quốc.
Những điều chỉnh lớn của Trung Quốc đầu những năm 1990 đƣợc thực
hiện thông qua việc khuyến khích sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ để hình thành
các doanh nghiệp lớn, có khả năng đáp ứng kịp thời cả về thời gian, chất lƣợng
và số lƣợng cho những đơn hàng hớn. Nếu năm 1980 ở Trung Quốc mới có
37.900 doanh nghiệp nhỏ thì 15 năm sau, Trung quốc đã có tới 102.500 doanh
nghiệp; số lƣợng lao động đƣợc sử dụng từ khoảng 6 triệu lao động lên tới
12,43 triệu lao động; quy mô một doanh nghiệp bình quân là 121 lao động, sản
lƣợng hàng năm khoảng 8,2 triệu NDT (lợi nhuận khoảng 259.700 NDT). Điều
đặc biệt đáng chú ý là lợi nhuận các doanh nghiệp này có đƣợc không phải do
quy mô của nền kinh tế hoặc khả năng cạnh tranh cao của sản phẩm hàng hóa
dịch vụ mang lại vì lúc này nền công nghiệp dệt may của Trung Quốc cũng
- 26 -
đang trong thời kỳ trì trệ, thể hiện:
- Chỉ có 10% số vải bông sản xuất ra đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thị
trƣờng thế giới.
- Chỉ có 15% số máy dệt bông là loại máy tự động.
- Có tới 94% trong tổng số 824.000 máy dệt thoi - khung cửi đã quá hạn sử dụng.
- Các công ty nƣớc ngoài chiến tới 34% tổng giá trị xuất khẩu (1999).
- Giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu dệt may là không đáng kể.
Bên cạnh đó, các công ty thuộc sở hữu nhà nƣớc giai đoạn này cũng hoạt
động rất kém hiệu quả:
- Năm 1996, 55% (trong tổng số 3.061) doanh nghiệp quốc doanh hoạt
động trong ngành công nghiệp dệt may sản xuất thua lỗ với mức lỗ lên tớ i 11,17
tỷ NDT; tính chung cả ngành, nhà nƣớc phải bù lỗ khoảng 8,35 tỷ NDT.
- Năm 1999, sản lƣợng đầu ra của các doanh nghiệp dệt thuộc sở hữu nhà
nƣớc giảm tới 25% so với cùng kỳ năm trƣớc và tƣơng ứng với nó, số tiền chính
phủ phải bỏ ra bù lỗ cũng giảm xuống còn 0,37 tỷ NDT; song chính quyền
Trung ƣơng Trung Quốc cũng bao cấp cho các doanh nghiệp này khoảng 60 tỷ
NDT dƣới các hình thức: Vay đầu tƣ lãi suất thấp, trợ cấp tài chính trực tiếp;
giải quyết các khoản phúc lợi xã hội cho công nhân, xóa các khoản nợ xấu...
Để tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may, năm
1998, Chính phủ Trung Quốc đã thành lập Cục Công nghiệp dệt may Quốc gia
và Hiệp hội Dệt may Trung Quốc. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc đã ban
hành chính sách tái cơ cấu, giảm quy mô và nâng cao hiệu quả của ngành công
nghiệp dệt may. Trên thực tế, Chính phủ Trung Quốc đã kiên quyết triển khai
chính sách này một cách tƣơng đối cứng rắn nên đã mang lại hiệu quả cao đối
với các mục tiêu đặt ra. Trong thời gian triển khai kế hoạch này, Trung Quốc đã
dỡ bỏ khoảng 1.000.000 máy se sợi bông công nghệ lạc hậu; cắt giảm một
lƣợng lớn lao động phổ thông trong ngành công nghiệp dệt; đƣa các doanh
nghiệp dệt thuộc sở hữu nhà nƣớc quay lại hoạt động một cách hiệu quả chỉ sau
ba năm. Nhờ những chính sách đúng đắn này, số lƣợng doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dệt may của Trung Quốc đã giảm từ 102.500 năm 1995 xuống
- 27 -
còn 24.500 vào năm 2001; số lao động đã giảm nhanh chóng từ 12,43 triệu năm
1995 xuống còn 5,07 triệu vào năm 2001; và tổng giá trị sản xuất bình quân của
mỗi doanh nghiệp cũng tăng từ 8,2 triệu NDT lên 44,13 triệu NDT trong cùng
khoảng thời gian... Điều không thể không đề cập tới là năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Trung Quốc đã tăng rõ rệt và khả năng đáp ứng các đơn hàng
lớn cũng đƣợc cải thiện.
Để chuẩn bị cho giai đoạn hậu hạn ngạch, từ năm 1998, Trung Quốc đã
tiến hành nhiều chính sách cải cách để phát triển ngành dệt may nhƣ từng bƣớc
tƣ nhân hóa, cho phá sản các doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN) làm ăn thua lỗ,
đổi mới trang thiết bị công nghệ... Tuy nhiên, ngay cả khi đã đạt đƣợc thỏa
thuận gia nhập WTO và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng
mại lớn nhất thế giời này thì nền công nghiệp dệt may Trung Quốc vấn còn ít
nhất là ba thách thức lớn ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh là: (1) Thuế quan
và các chính sách liên quan đến nhập khẩu của các quốc gia bạn hàng. (2)
Chống phá giá và các tranh luận thƣơng mại liên quan đến bảo hộ thị trƣờng
trong nƣớc của các nƣớc nhập khẩu. Và (3) các vấn đề phát sinh do các tiêu
chuẩn quốc tế gây ra (ISO 9000, 14000; SA 8000 và WRAP...).
1.2.1.2. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may ở Ấn Độ.
Trong khi những thành công của Trung Quốc mang nặng dấu ấn của
Chính quyền Trung ƣơng với những cải cách cứng rắn thì nhân tố mang lại
thành công của Ấn Độ lại bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức của giới chủ và
ngƣời dân về một số lĩnh vực sau nhằm nhận đƣợc sự đồng tình, ủng hộ:
- Vai trò của ngành công nghiệp dệt may trong việc cung cấp một trong
những nhu cầu cơ bản, cần thiết nhất của con ngƣời cũng nhƣ tầm quan trọng
của ngành này trong việc duy trì tốc độ phát triển và cải thiện chất lƣợng cuộc
sống của nhân dân lao động.
- Vị thế đặc biệt của ngành dệt may với đặc điểm là một ngành công
nghiệp tự lực, từ các sản phẩm nguyên liệu thô đến việc cung cấp các sản phẩm
- 28 -
đã hoàn thiện, với việc duy trì giá trị gia tăng trong mỗi giai đoạn sản xuất.
- Tiềm năng to lớn của ngành công nghiệp dệt may đối với việc tạo ra các cơ
hội việc làm trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ... tại các vùng
nông thôn và thành phố, đặc biệt đối với phụ nữ và những ngƣời thiệt thòi (tàn tật).
Bên cạnh đó, ngay từ năm 1985, Chính phủ Ấn Độ đã đề ra Chính sách
phát triển công nghiệp dệt nhằm củng cố và phát triển ngành công nghiệp này
nhƣ là động lực để phát triển công nghiệp may. Nhờ có chính sách đúng đắn và
sự nhất quán trong triển khai, kết quả phát triển ngành trong những năm vừa
qua là khả quan: Tốc độ tăng trƣởng bình quân (1995-2005) ƣớc đạt 7.13%/năm
(với công nghiệp may mặc); số lƣợng vải tính trên đầu ngƣời tăng 3,6%/năm;
tổng giá trị xuất khẩu vải tăng 13,32%/năm; và 13% tổng giá trị gia tăng của sản
phẩm xuất khẩu đƣợc sản xuất trong nƣớc...
Chính phủ Ấn Độ đã thƣờng xuyên quan tâm đến những thay đổi và các cơ
hội do sự thay đổi của môi trƣờng toàn cầu mang lại, đặc biệt là những thay đổi
đầu tiên của quá trình liên quan đến việc hạn chế số lƣợng nhập khẩu và giảm
thuế để tham gia vào thị trƣờng dệt may toàn cầu nhằm kịp thời cung cấp các
thông tin cần thiết cho giới chủ và ngƣời lao động. Bên cạnh đó, Chính phủ đã
đề ra nhiều giải pháp để giúp các doanh nghiệp khai thác tối đa những lợi thế so
sánh vốn có của mình khi tham gia vào thị trƣờng dệt may thế giới thông qua
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Với kinh nghiệm nghiên cứu nhiều năm về các vấn đề mà ngành phải đối
mặt, các quan điểm của nhiều nhà sở hữu tƣ nhân, qua những đề xuất của Uỷ
ban chuyên nghiên cứu về lĩnh vực dệt may của Chính phủ Ấn Độ (Expert
Committee), để hình thành hệ thống mục tiêu và các chính sách cụ thể giúp thực
hiện các mục tiêu đó trong giai đoạn đến 2005 nhƣ sau:
- Mục tiêu xuyên suốt cho giai đoạn 2000 - 2005 là tập trung vào các lĩnh
vực có tính đột phá (đặc biệt là công nghiệp dệt) và củng cố chiến lƣ ợc phát
triển cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
- 29 -
- Các chính sách cụ thể để thực hiện mục tiêu đặt ra là:
+ Hỗ trợ các ngành công nghiệp dệt để đạt đƣợc và duy trì vị thế cao trong
ngành công nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới (hƣớng tới
xuất khẩu thành phẩm).
+ Trong giai đoạn đầu cần có các chính sách ƣu đã để ngành công nghiệp
này có đủ khả năng duy trì thị phần trong nƣớc khi sức ép cạnh tranh với hàng
hóa nhập khẩu gia tăng.
+ Nâng cao tính cạnh tranh tự do của môi trƣờng kinh tế trong nƣớc đặc
biệt là đối với ngành công nghiệp dệt may.
+ Cho phép ngành công nghiệp dệt may xây dựng và nâng cao năng lực
sản xuất của mình theo nhiều cấp độ khác nhau để có thể đáp ứng các hệ tiêu
chuẩn ISO và SA... đối với công nghiệp dệt may. Khuyến khích mọi nguồn lực
ở trong và ngoài nƣớc đầu tƣ phát triển công nghiệp dệt may cũng nhƣ thực
hiện các dự án nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực ngành.
+ Lĩnh vực đột phá trong công nghiệp dệt là nghiên cứu, phát triển và đa
dạng hóa các loại sợi đang có nhu cầu cao và dự báo các xu thế thay đổi, phát
triển nhu cầu của thị trƣờng thế giới về sợi để tạo tiền đề cho đa dạng hóa các
sản phẩm vải dệt có giá trị cao.
+ Áp dụng công nghệ IT nhƣ một phần không thể thiếu trong toàn bộ quá
trình sản xuất vải để giúp ngành công nghiệp dệt đạt đƣợc các tiêu chuẩn quốc
tế về chất lƣợng, thiết kế và marketing.
+ Duy trì, tăng cƣờng và đúc kết kinh nghiệm truyền thống của các thợ dệt
thủ công để giúp họ nâng cao năng lực sản xuất.
+ Khôi phục lại cấu trúc ngành thông qua việc nâng cao chất lƣợng (kỹ
năng và khả năng) của nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực tại các công
đoạn phi tập trung của ngành công nghiệp dệt may).
+ Gia tăng số lƣợng việc làm thông qua thúc đẩy sự phát triển của toàn
ngành.
Sau khi thông qua mục tiêu và hệ thống các chính sách, Chính phủ Ấn Độ
đã hình thành một cơ chế cộng tác hiệu quả giữa chính phủ (các bộ ngành liên
quan) với giới chủ, nghiệp đoàn của công nhân, nông dân và các tổ chức phi
- 30 -
chính phủ trong quá trình triển khai. Nhờ đó, hiệu quả mang lại rất khả quan.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm dệt
may đối với Việt Nam.
Rõ ràng là, thực trạng nền công nghiệp dệt may Trung Quốc, Ấn Độ giai
đoạn cuối những năm 1990 có phần khá tƣơng đồng với nền công nghiệp dệt
may hiện nay của Việt Nam (đặc biệt là công nghiệp dệt). Vì vậy, những chính
sách đã đƣợc chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ sử dụng để điều chỉnh lại cơ cấu,
gia tăng năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may cũng nhƣ những thách
thức đang đặt ra là có giá trị tham khảo cho quá trình tái cơ cấu và nâng cao
năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
1.2.2.1. Tự do hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Các nƣớc đang phát triển đã thực hiện những biện pháp nới lỏng dần hệ
thống quản lý của mình theo chính sách "tự do hóa". Sự đổi mới bắt đầu từ việc
điều chỉnh về chế độ sở hữu nhƣ tƣ nhân hóa hoặc cổ phần hóa các DNNN làm
ăn kém hiệu quả. Điều đó cũng giúp các khu vực kinh tế phát triển một cách
năng động và mạnh mẽ hơn, phù hợp hơn với nhu cầu tất yếu về hội nhập kinh
tế quốc tê. "Tự do hóa" còn thể hiện ở việc giảm bớt các hàng rào thuế quan, tự
do hóa thị trƣờng ngoại hối, tỷ lệ lãi suất..., thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái linh
hoạt (giảm bớt sự can thiệp của nhà nƣớc).
Tùy điều kiện, hoàn cảnh mà mức độ tự do hóa các hoạt động sản xuất,
kinh doanh ở mỗi quốc gia có sự khác biệt; song hiện nay, nổi bật nhất là hai xu
hƣớng: Tự do hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh của tƣ nhân và tự do hóa
có điều chỉnh.. Theo hƣớng thứ nhất là các quốc gia thực hiện chiến lƣợc hƣớng
vào xuất khẩu. Hƣớng thứ hai là những nƣớc chú trọng mở rộng kinh tế đối
ngoại nhƣng hƣớng vào xuất khẩu với mức độ thấp hơn đồng thời vẫn áp dụng
một phần chiến lƣợc nhập khẩu.
1.2.2.2. Ưu tiên phát triển ngành dệt may như là ngành công nghiệp trọng điểm.
Nói chung, ngành dệt may đóng vai trò quan trọng đối với các quốc gia
mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tập trung sản xuất hƣớng vào xuất
khẩu. Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động giản đơn, đào tạo tƣơng đối đơn
- 31 -
giản, lƣợng vốn yêu cầu không lớn bằng các ngành khác; tỷ suất đầu tƣ thấp,
thời gian quay vòng vốn nhanh và mang lại nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu khá
lớn.
Kinh nghiệm các nƣớc cho thấy, chính những thành công trong phát triển
ngành dệt may và xuất khẩu hàng dệt may đã tạo nên các nguồn thu lớn về
ngoại tệ và những kết quả về kinh tế xã hội đã góp phần tích cực đƣa các quốc
gia này đến những thành công trong công cuộc xây dựng đất nƣớc. Vậy, một
khi đã xác định đƣợc lợi thế và con đƣờng hƣớng tới xuất khẩu của ngành dệt
may thì đòi hỏi nỗ lực lớn của các doanh nghiệp cùng sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía
nhà nƣớc để tận dụng mọi cơ hội, khả năng để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao
nhất.
1.2.2.3. Tận dụng và đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Nhƣ đã đề cập ở trên, dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn
nên dân số đông không chỉ là lợi thế nguồn cung ứng lao động mà còn là lợi thế
hình thành một thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may rộng lớn. Đồng thời với lợi thế
về chi phí tiền lƣơng thấp và những tiến độ của lực lƣợng lao động trong xã hội
hiện đại... Việc phát triển ngành dệt may còn giúp các nƣớc đang phát triển đi
sau giải quyết vấn đề việc làm tận dụng nguồn lao động dồi dào.
Song, lợi thế về tiền lƣơng thấp sẽ mất đi cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, nên muốn duy trì lợi thế so sánh về nguồn nhân lực cũng nhƣ duy trì sự
tăng trƣởng ổn định thì buộc phải đầu tƣ để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực
ngay tại thời điển hiện tại. Muốn vậy, cần chú trọng tới đầu tƣ cho giáo dục, đào
tạo; bồi dƣỡng, nâng cao kiến thức cho ngƣời lao động. Bên cạnh đó, cũng cần
quan tâm nhiều đến lĩnh vực năng suất và chất lƣợng sản phẩm (thành quả cuối
cùng của quá trình sản xuất).
1.2.2.4. Đầu tư trang thiết bị máy móc và công nghệ.
Về lĩnh vực này, mỗi quốc gia cần có cách làm thực tế để có hiệu quả cao
nhất trong điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ nhƣ: Tập trung thay thế các trang
thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, công nghệ không phù hợp bằng các máy móc và công
nghệ hiện đại... Hiện nay, mặc dù Trung Quốc đang là quốc gia có khối lƣợng và
- 32 -
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới nhƣng hàng năm vẫn phải
nhập khẩu máy móc, thiết bị ngành dệt may từ các nƣớc phát triển để thay thế,
nâng cấp các trang thiết bị trong nƣớc. Chỉ tính từ tháng 01/2003 đến tháng
06/2003, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 2,2 tỷ USD thiết bị dệt (tăng 67% so với
cùng kỳ). Nguồn nhập khẩu chủ yếu là các nƣớc phát triển với các công nghệ
hiện đại, nhƣ: nhập từ Nhật Bản 628,19 triệu USD; Đức 475,09 triệu USD, Italy
279,95 triệu USD; Thụy Sỹ 175,99 triệu USD và Đài Loan 167 triệu USD.
Song, đổi mới trang thiết bị công nghệ không nhất thiết phải tiến hành
ngay trong một thời điểm mà có thể kết hợp cải tiến dần trong quá trình phát
triển sản xuất của doanh nghiệp. Cũng không buộc phải sử dụng các trang thiết
bị, công nghệ hàng đầu hiện nay mà vẫn có thể sử dụng các trang thiết bị, công
nghệ tuy không hiện đại nhƣng còn hoạt động tốt và nhất là phù hợp với khả
năng tài chính của doanh nghiệp rồi dần đổi mới khi đã thu đƣợc hiệu quả kinh
tế. Đồng thời, đặc biệt chú ý áp dụng trang thiết bị kỹ thuật hiện đại trong sản
xuất cũng nhƣ trong thiết kế mẫu mốt, tạo dáng thời trang... để đạt hiệu quả
kinh tế tối ƣu nhất.
1.2.2.5. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm.
Bên cạnh việc tận dụng lợi thế về nguồn nhân lực trong quá trình phát triển
ban đầu của ngành dệt may cũng cần nhận thấy rằng: Để khẳng định vị trí và tên
tuổi của ngành dệt may trên thị trƣờng quốc tế thì các quốc gia chuyên xuất khẩu
hàng dệt may đều phải tập trung phát triển ngành dệt may ở cấp độ cao hơn. Khi
các quốc gia đã xuất khẩu khối lƣợng lớn hàng dệt may thì việc tăng thêm sản
lƣợng xuất khẩu hàng dệt may trở nên tƣơng đối khó khăn. Khi đó, để kim ngạch
xuất khẩu không chỉ tăng về khối lƣợng mà còn phải chú trọng đến giá trị gia
tăng xuất khẩu thì đỏi hỏi phải tập trung vào khâu mẫu mã, kiểu dáng, chất
lƣợng.
Sử dụng các phƣơng tiện khoa học kỹ thuật để thu thập thông tin về thị
hiếu, sở thích của ngƣời tiêu dùng; tìm các biện pháp cần thiết để có đƣợc phản
hồi từ phía ngƣời tiêu dùng là hết sức cần thiết. Đồng thời, ứng dụng máy móc
hiện đại để thiết kế kiểu dáng; đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao khả năng tác nghiệp
- 33 -
cho đội ngũ các nhà thiết kế thời trang (cả chuyên nghiệp và nghiệp dƣ) cùng
với có biện pháp hợp lý khái thác thành quả sáng tạo của họ cũng không thể
thiếu trong phát triển công nghiệp dệt may hứong tới xuất khẩu.
Cạnh tranh là quá trình khách quan của kinh tế thị trƣờng. Trong điều kiện
hội nhập quốc tế, quá trình này chịu ảnh hƣởng của rất nhiều yếu tố mà sự thành
bại tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của hệ thống công
nghiệp và năng lực quản lý điều hành của mỗi quốc gia. Bởi vậy , việc tạo lập
và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trở
thành vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp, các quốc gia đang muốn thâm
nhập vào thị trƣờng thế giới. Là một quốc gia đi sau – chậm phát triển và chƣa
phải là thành viên của WTO, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của “những
ngƣời đi trƣớc” song cũng sẽ gặp không ít khó khăn trong quá trình tham gia
vào hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Chƣơng tiếp theo sẽ đi sâu nghiên cứu thực
tế của Việt Nam – vấn đề thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may trong những năm đầu thực hiện chiến lƣợc xâm nhập thị trƣờng
- 34 -
thế giới.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
CHƢƠNG 2
2.1. Tổng quan về ngành dệt may và tình hình xuất khẩu sản phẩm
dệt may của Việt Nam
2.1.1. Quá trình phát triển và thực trạng ngành dệt may Việt Nam.
2.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của công nghiệp dệt may Việt Nam
qua các thời kỳ.
Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nƣớc ta là một trong những ngành
nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
của xã hội ngƣời Việt. Từ hàng nghìn năm nay, ngƣời Việt đã biết trồng dâu nuôi
tằm, trồng bông, đay, lanh... để kéo sợi, dệt vải phục vụ may mặc và lễ hội. Một
minh chứng cụ thể là những làng nghề truyền thống vẫn còn tồn tại đến ngày nay,
nhƣ: Làng Lụa Vạn Phúc (Hà Tây), Làng dệt khăn Phùng Xá (Hà Tây), Dệt Làng
Mẹo (Thái Bình), Thổ Cẩm Mai Châu (Hoà Bình)... Tuy nhiên, trải qua nhiều thế
kỷ, nghành sản xuất này vẫn chỉ dừng lại ở trình độ sản xuất thủ công và với quy
mô phổ biến là gia đình; đặc biệt ở một số địa phƣơng đã hình thành nên các làng
nghề. Quá trình chuyển hoá từ sản xuất thủ công lên sản xuất công nghiệp mới
chỉ đƣợc ghi nhận cách đây hơn một thế kỷ với tác nhân là sự chuyển giao công
nghệ từ Châu Âu... Quá trình hình thành và phát triển của công nghiệp dệt may
Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn lớn sau đây:
- Giai đoạn từ thời Pháp thuộc đến 1975.
Đây là giai đoạn đầu tiên hình thành ngành công nghiệp dệt may Việt Nam
và đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời của một vài xí nghiệp có quy mô công nghiệp
do Pháp thành lập nhƣ: Công ty Bông vải Bắc Kỳ, Công ty Tơ lụa Bắc Kỳ
(những tiền thân của Nhà máy dệt Nam Định); Xí nghiệp tơ tằm Delignon ở
Nam Trung bộ... Bên cạnh đó, thời kỳ này cũng là thời kỳ các tƣ sản dân tộc
cũng đã tiến hành đầu tƣ cho ngành công nghiệp non trẻ này (Cơ sở Dệt kim Cự
Doanh, Cự Đà, Cự Minh và các cơ sở dệt thoi của Bạch Thái Bƣởi, Vũ Tƣ
- 35 -
Cấu). Trong giai đoạn này, ngành may chƣa thật sự phát triển song cũng đã có
những sản phẩm tên tuổi trên thị trƣờng Pháp: áo đầm của Lucie Tailleur,
Veston-complet của Tân Tân... Trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, 100% số xí
nghiệp dệt may là những đơn vị kinh tế lớn, vốn nhà nƣớc (nay cấu thành Tổng
công ty Dệt may Việt Nam - VINATEX). Mục tiêu chính của ngành dệt may
thời kỳ này là phục vụ nhu cầu trong nƣớc và chiến tranh: Cung cấp vải, quần
áo may sẵn cho nhân dân; quân trang cho bộ đội... Rất tiếc là, do hoàn cảnh lịch
sử của giai đoạn này nên chƣa có những số liệu thống kê chính thức về năng lực
sản xuất, chất lƣợng, mẫu mã và các chỉ tiêu khác của ngành.
- Giai đoạn từ 1976 đến 1990.
Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp dệt may trên phạm vi cả nƣớc chủ
yếu vẫn dựa vào thiết bị cũ đã đƣợc đầu tƣ trƣớc đây và hƣớng vào nhu cầu tiêu
dùng nội địa là chính. Xuất khẩu dệt may trong giai đoạn này chỉ dừng lại ở
mức vài trăm triệu USD một năm và đƣợc thực hiện trong khuôn khổ các Hiệp
định và Nghị định thƣ của nƣớc ta với khu vực Đông Âu. Tuy nhiên, đây là thời
kỳ ngành dệt may Việt Nam mở rộng năng lực sản xuất một cách nhanh chóng:
Tiếp quản một số nhà máy dệt, may phía Nam do chế độ cũ để lại (dệt Việt
Thắng...) và xây mới nhiều nhà máy trên cả ba Miền đất nƣớc. Đến năm 1990,
toàn ngành dệt may đã có 129 DNNN, gần 2000 hợp tác xã và hộ cá thể hoạt
động trong lĩnh vực dệt với khoảng trên 43.000 máy và khung dệt thủ công...
Đến lúc này, lực lƣợng lao động của ngành dệt may tƣơng đối dồi dào với
khoảng 2.000 Tiến sỹ, phó tiến sỹ và kỹ sƣ công nghệ dệt may; sản lƣợng năm
1990 đạt 50.000 tấn sợi, 450 triệu mét vải khổ 0,8m và 150 triệu sản phẩm
may... Bên cạnh đó, ngành dệt may lúc này đã trở thành đầu mối xuất nhập
khẩu, trao đổi hàng hóa trực tiếp với các quốc gia trong khối Xã hội Chủ nghĩa
trƣớc đây, theo các Nghị định thƣ hàng năm. Giai đoạn này đƣợc đánh giá là
giai đoạn mở mang về mặt lƣợng của công nghiệp dệt may Việt Nam và toàn
ngành đã hoàn thành nhiệm vụ, kết hoạch nhà nƣớc giao trong các năm và trong
cả giải đoạn.
- Giai đoạn từ 1991 đến 1999.
Trong giai đoạn này, công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nƣớc đã mở ra
- 36 -
thời kỳ phát triển mạnh mẽ cho ngành công nghiệp dệt may, đặc biệt là với công
nghiệp may. Sự phát triển của ngành công nghiệp này đƣợc ghi nhận trên nhiều
phƣơng diện: trƣớc hết, là sự đổi mới về thiết bị và công nghệ. Tiếp đến, là sự
phát triển về quy mô các DNNN và sự tham gia nhanh chóng của khu vực kinh
tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, khu vực kinh tế tƣ nhân. Cuối cùng là sự thâm
nhập phát triển thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Có
thể thấy rằng, công nghiệp dệt may đã và đang có vị trí quan trọng trong giai
đoạn chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trƣờng. Dệt may đã trở thành định hƣớng quan trọng trong
chính sách hƣớng tới xuất khẩu của nƣớc ta.
Giai đoạn 1991 - 1999 cũng là thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế của đất
nƣớc nên ngành dệt may cũng đứng trƣớc những khó khăn, thách thức lớn, nhƣ:
Các máy móc thiết bị đã lỗi thời với công nghệ ra đời trƣớc đó khoảng gần 40
năm; máy dệt phần lớn là khổ hẹp, tiêu hao năng lƣợng và mức sử dụng lao động
rất lớn; thiếu vốn cho đổi mới công nghệ cũng nhƣ thiếu đội ngũ quản lý chuyên
nghiệp và thích hợp với cơ chế thị trƣờng... Trƣớc những đòi hỏi của thời kỳ mới,
đã có một số doanh nghiệp dệt may thành công trong đầu tƣ đổi mới công nghệ;
cho ra đời nhiều chủng loại sản phẩm mới đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của
thị trƣờng. Đồng thời, một số liên doanh và công ty 100% vốn nƣớc ngoài hoạt
động trong lĩnh vực dệt may cũng ra đời sau khi có Luật khuyến khích đầu tƣ
nƣớc ngoài. Chính những khoản đầu tƣ đổi mới công nghệ và việc ra đời các
công ty liên doanh, 100% vốn nƣớc ngoài đã làm thay đổi diện mạo toàn ngành
về mọi mặt từ quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, mẫu mã hàng hóa đến kim
ngạch xuất khẩu: Công suất kéo sợi đạt 177.000 tấn; 500 triệu mét vải và 250
triệu sản phẩm may các loại; toàn ngành đã cung cấp khoảng 1 triệu việc làm; có
khoảng 3.000 lao động có trình độ từ kỹ sƣ trở lên; tốc độ tăng trƣởng bình quân
toàn ngành đạt 23,8%/năm... Năm 1997, VINATEX ra đời với trên 60 đơn vị
thành viên; ngành dệt may đã có 2 viện, 1 trung tâm nghiên cứu và 4 trƣờng
trung học dạy nghề. Đây là giai đoạn ngành dệt may Việt Nam có những thay đổi
rất quan trọng về chất: Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nƣớc là chính
nay đã sản xuất để xuất khẩu sang một số thị trƣờng các quốc gia phát triển nhƣ
- 37 -
Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Canada...
- Giai đoạn từ 2000 đến nay.
Theo số liệu tổng hợp của VINATEX, tính đến năm 2004, số lƣợng các cơ sở
dệt may cả nƣớc là trên 50.000. Thực hiện "Chiến lƣợc tăng tốc phát triển ngành
dệt may Việt Nam đến 2010" đã đƣợc Chính Phủ phê duyệt, ngành dệt may Việt
nam đã, đang và sẽ tập trung đầu tƣ hiện đại hóa mọi mặt để nâng cao chất lƣợng
sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, đồng thời với mở rộng quy mô sản xuất với trọng
tâm là các sản phẩm may cao cấp xuất khẩu và nguyên liệu cung ứng cho ngành
may. Các trọng tâm trên đƣợc tiến hành song song với việc tăng năng suất lao
động, ổn định chất lƣợng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.
2.1.1.2. Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam hiện nay.
- Về cơ cấu sản xuất.
Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may còn tƣơng đối manh mún và
khó dự đoán. Với 46% doanh nghiệp trong ngành là các công ty tƣ nhân và
chiếm 35% đến 40% tổng sản phẩm nguyên liệu dệt; 70% đến 75% tổng sản
phẩm may mặc toàn quốc... Thành phần kinh tế này đang ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp dệt may Việt Nam. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm khoảng 33% trong tổng số các doanh
nghiệp trong ngành đã góp phần không thể thiếu trong quá trình chuyển giao và
tiếp thu công nghệ mới từ các quốc gia phát triển và các nƣớc công nghiệp mới
(NICs) vào Việt Nam. Tuy nhiên, nhân tố quan trọng trong các thành phần kinh
tế của ngành dệt may vẫn là VINATEX - đơn vị đang giữ vai trò chủ chốt trong
việc đầu tƣ phát triển ngành công nghiệp nguyên, phụ liệu ngành may và sản
phẩm ngành dệt Việt Nam.
Trong các lĩnh vực của ngành dệt may, lĩnh vực dệt kim đang là một lĩnh
vực có tốc độ phát triển cao, đáp ứng các nhu cầu, đòi hỏi của thị trƣờng nội địa
và thị trƣờng xuất khẩu. Trong khi các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà
nƣớc đang hƣớng vào thị trƣờng Đông Âu và nội địa (những thị trƣờng không
quá khắt khe) thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nƣớc (cả trung ƣơng và
- 38 -
địa phƣơng) lại đang nhằm tới các thị trƣờng xuất khẩu lớn nhƣ Hoa Kỳ, Nhật
Bản, EU...; nhiều doanh nghiệp đang hƣớng đầu tƣ vào công nghệ dệt kim thoi -
lĩnh vực đang có nhiều cơ hội phát triển.
Một thực trạng không thể không đề cập đến khi xem xét cơ cấu ngành
trong công nghiệp dệt may Việt Nam chính là khoảng cách phát triển giữa
ngành may mặc và ngành dệt (đặc biệt là nguyên liệu dệt) còn rất lớn. Trong khi
sự phát triển của toàn ngành vẫn đạt tốc độ cao thì sự mất cân bằng trong ngành
sản xuất nguyên liệu dệt và may mặc lại càng rõ nét. Hơn thế nữa, khối sản xuất
nguyên, phụ liệu dệt trong nƣớc hiện nay không đáp ứng đƣợc nhu cầu của các
doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc buộc các doanh nghiệp này phải
nhập khẩu với tỷ lệ rất cao: sợi, hóa chất, máy móc thiết bị (nhập khẩu 100%);
ngành bông vải (nhập khẩu 80%). Trong khi đó, điểm yếu lớn nhất của các
doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu là ở chỗ phần lớn họ chỉ là các
nhà thầu phụ cho các đối tác nƣớc ngoài. Các nhà sản xuất chủ yếu dựa vào các
nguồn nguyên liệu thô và thiết bị của các nhà cung cấp nƣớc ngoài để đáp ứng
các yêu cầu của thị trƣờng thế giới. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này
chính là thiếu sự cộng tác giữa hai ngành (dệt và may) dẫn đến hoạt động xúc
tiến thƣơng mại yếu kém và chất lƣợng dịch vụ của các doanh nghiệp cung cấp
nguyên, phụ liệu trong nƣớc rất thấp.
- Về năng lực sản xuất.
Nhìn chung, do đã có những đầu tƣ, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị nên
thời gian gần đây (đặc biệt là giai đoạn 2001 - 2003, từ khi triển khai Quyết
định số 55/TTg-CP ngày 23 tháng 04 năm 2001 của Thủ tƣớng Chính Phủ)
năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam đã có chuyển biến đáng kể. Sự
tăng trƣởng này đƣợc thể hiện qua hoạt động đầu tƣ của ba khu vực: Quốc
doanh, tƣ nhân và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
+ Đối với khu vực Quốc doanh: Là nòng cốt của khu vực quốc doanh,
VINATEX đã tập trung mọi nguồn lực trong và ngoài nƣớc để đẩy mạnh tốc độ
đổi mới trang thiết bị ngành dệt với nhiều hình thức khác nhau (đầu tƣ mới, mở
- 39 -
rộng sản xuất, đầu tƣ mới thay thế trang thiết bị cũ, đầu tƣ chiều sâu nâng cao
năng suất, chất lƣợng sản phẩm...). Bên cạnh đó, VINATEX đã trình Chính phủ
phê duyệt quy hoạch toàn ngành với 11 cụm công nghiệp dệt tại các khu công
nghiệp tập trung và phối hợp với các tỉnh trong cả nƣớc phát triển các nhà máy
may. Kết quả của quá trình này đã đƣợc thể hiện qua bảng tổng kết năng lực sản
xuất của VINATEX sau đây:
Bảng 1: Năng lực sản xuất của VINATEX
STT Tiêu chí đánh giá
Đơn vị
2001
2003
Tăng trưởng(%)
01
liệu
1.000 tấn
5.810 12.100
108,2%
Chế biến nguyên bông
02
Kéo sợi
1.000 tấn
88,40
99,60
12,7%
03
Dệt vải, hoàn tất
Triệu m2
142,6 172,31
20,8%
04
Sản phẩm may
Triệu SP
81,7
146,6
79,4%
Nguồn: VINATEX
+ Khu vực tƣ nhân cũng có những chuyển biến đáng kể trong đầu tƣ: Hàng
nghìn cơ sở dệt may đã đƣợc thành lập; các doanh nghiệp tƣ nhân lớn (Dệt Thái
Tuấn, Dệt Phƣớng Thịnh...) đã tăng cƣờng đầu tƣ mở rộng sản xuất, nâng cao
chất lƣợng sản phẩm, tạo dựng đƣợc thƣơng hiệu và chỗ đứng trên thị trƣờng
nội địa và đã từng bƣớc xuất khẩu sản phẩm ra thị trƣờng ngoài nƣớc. Khu vực
này đƣợc đánh giá là có những bƣớc tiến đáng kể trong thời gian qua.
+ Đối với khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ, nếu năm 2001, có tổng số 100 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài vào ngành dệt may
với tổng vốn đăng ký là 460,6 triệu USD, thì tới tháng 6/2003 đã có thêm 286
dự án với tổng vốn đăng ký là 520,8 triệu USD. Nhƣ vậy, Tổng cộng trong ba
năm từ 2001 đến 6/2003 đã có 386 dự án đầu tƣ vào ngành dệt may với tổng
vốn đăng ký đạt 981,4 triệu USD; đây thật sự là một nguồn đầu tƣ không nhỏ.
Trên quy mô toàn ngành, năng lực sản xuất của ngành dệt may đã có những
- 40 -
cải thiện đáng kể thời gian gần đây và được thể hiện qua bảng thông kê dưới đây:
Bảng 2: Năng lực sản xuất của toàn ngành dệt may
STT Tiêu chí đánh giá Đơn vị
2001
2002
2003 Tăng trưởng 01-03
01
Sợi toàn bộ
101,9 106
17,9%
02
Dệt vải, hoàn tất
1.000 tấn 89,9 Triệu m2 401,8
441,2 513
27,6%
03
Sản phẩm may
Triệu SP 401
520,2 625,4
55,9%
Nguồn: Bộ Công nghiệp và Hiệp hội Dệt nay Việt Nam
Bảng 3: Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may Việt Nam giai đoạn 1997-2003
Mặt hàng
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tr.bình 98-03
Sợi (nghìn tấn)
66.9
68,0
76.6 129,9 162,4 226,8 253,3
--
Tỷ lệ tăng trưởng
--
1,6% 12,6% 70%
25%
40% 11,7%
26,8%
Vải lụa (triệu mét) 297.2 317.1 314.1 356.4 410,1 469,6 487,0
--
Tỷ lệ tăng trưởng
--
6,7%
- 1% 13,5% 15,1% 14,5% 3,7%
8,75%
22.3
30.2
30.6
45,8
53,1
51,4
72,2
--
Quần áo dệt kim (triệu sản phẩm)
Tỷ lệ tăng trưởng
--
35,4% 1,3% 49,7% 16% - 3,2% 40,5%
23,3%
304.6 271.8 306.4 337,0 375,6 489,1 618,6
--
Quần áo may sẵn (triệu sản phẩm)
Tỷ lệ tăng trưởng
--
10,8% 13%
10% 11,5% 30,2% 39%
15,5%
Nguồn: Niêm giám thống kê các năm 1997-2003, Tổng cục Hải quan
Về mặt hàng chính là sợi - dệt đƣợc phân bố nhƣ sau: miền Nam chiếm
46,13% tổng sản lƣợng và tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh; miền Bắc
chiếm 35,26% và tập trung ở Hà Nội, Nam Định; miền Trung chiếm khoảng
18,6% tập trung ở Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa. Vải thành phẩm tập
trung lớn nhất ở Miền Đông Nam Bộ (khoảng 50%); đồng bằng châu thổ Sông
Hồng chiếm khoảng 25%, miền Trung khoảng 15% và các vùng còn lại chiếm
khoảng 15%. Chỉ số này đối với sản phẩm dệt kim là Đông Nam Bộ chiếm
- 41 -
50%, đồng bằng Bắc Bộ chiếm 40% và Trung Bộ là 10%.
Về phân bố sản lƣợng theo vùng lãnh thổ của ngành may là: Đồng bằng
Sông Hồng chiếm 18% (mặc dù là nơi có nhiều cơ sở sản xuất nhất trong cả
nƣớc); Đông Nam Bộ chiếm tới 50% và Trung Bộ chiếm khoảng 8% còn lại
đƣợc phân bổ cho nhiều vùng khác nhau trong cả nƣớc. Dự báo, thời gian tới sẽ
có sự thay đổi đáng kể trong tỷ lệ phân bổ sản lƣợng trên do VINATEX đang
triển khai các dự án đầu tƣ lớn.
Nhìn chung, ngành công nghiệp dệt may nƣớc ta tuy có bề dày phát triển
nhƣng vẫn là ngành công nghiệp dựa vào nhập khẩu, chuyển giao công nghệ từ
nƣớc ngoài. Hơn nữa, quá trình du nhập này lại đƣợc thực hiện khá chậm chạp
so với xu hƣớng chung của thế giới và so với nhiều nƣớc trong khu vực. Trên
thế giới, xu hƣớng chuyển giao công nghệ từ các nƣớc phát triển sang các nƣớc
NICs đã diễn ra từ những năm 50 và đầu những năm 60 của Thế kỷ XX. Thực
tế, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đang nhận chuyển giao công nghệ chủ
yếu từ các nƣớc NICs. Điều này có nghĩa là, sự chuyển giao của ngành công
nghiệp dệt may vào Việt Nam hiện nay bên cạnh những thuận lợi và những lợi
ích có thể đạt đƣợc cũng có những yếu tố bất lợi và hạn chế cho quá trình phát
triển của ngành này trong định hƣớng xuất khẩu. Bởi vì, yếu tố cơ bản thúc đẩy
quá trình chuyển giao của ngành công nghiệp dệt may là sử dụng nhiều lao
động, có kỹ năng thấp và giá nhân công rẻ, nhƣng trong môi trƣờng thƣơng mại
quốc tế hiện nay, những ngành công nghiệp này đang mất dần lợi thế so với các
ngành công nghiệp dựa trên trình độ công nghệ cao và tạo ra giá trị gia tăng lớn.
Nghĩa là, để nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia, các nƣớc sẽ chú trọng đầu
tƣ vào các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ tinh vi, có giá trị gia tăng cao.
Đồng thời, những yêu cầu, tiêu chuẩn đạt đƣợc của các sản phẩm nói chung và
sản phẩm dệt may nói riêng cần đạt đƣợc trong thƣơng mại quốc tế cũng ngày
- 42 -
càng cao hơn.
- Vị trí ngành công nghiệp dệt may trong phát triển kinh tế Việt Nam.
Ngành dệt may đã trải qua thời kỳ phát triển với tốc độ tăng trƣởng bình
quân tƣơng đối cao đạt 13,8%/năm (từ năm 1997 đến hết 2003), cao hơn so với
tốc độ tăng trƣởng bình quân cùng kỳ của nền kinh tế (6,67%). Mặc dù ngành
dệt may chỉ chiếm khoảng gần 6% toàn bộ nền kinh tế nhƣng nó đã góp phần
tạo nên 15,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhƣ vậy, ngành dệt
may là ngành có lợi thế so sánh tƣơng đối trong đẩy mạnh xuất khẩu. (Bảng 4).
Bảng 4: So sánh một số chỉ số cơ bản của ngành dệt may trong nền kinh tế ( 1997 - 2003)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003 Bình quân
Chỉ số
231.264 244.596 256.272
273.666
292.535 313.247 335.989 279.501
GDP (tỷ VND, giá so sánh năm 1994)
8,15% 5,76%
4,77%
6,79%
6,89%
7,08%
7,26%
6,67%
độ
tăng
Tốc trưởng GDP
11.586 13.032
13.605
16.089
17.503
20.520
24.116
16.636
Giá trị sản xuất hàng DM (tỷ VND, giá so sánh năm 1994)
18,6% 12,5%
4,4%
17,8%
8,8%
17,2%
17,5%
13,8%
độ
tăng ngành
Tốc trưởng DM
5,0%
5,3%
5,3%
5,8%
6,0%
6,6%
7,2%
5,9%
trọng DM
Tỷ chiếm trong GDP
9.185
9.360
11.541
14.483
15.029
16.706
20.176
13.783
Tổng kim ngạch XK (Triệu USD, giá hiện hành)
26,6%
1,9%
23,3%
25,5%
3,8%
11,2%
20,8%
16,2%
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
1.503
1.450
1.750
1.891
1.975
2.732
3.687
1.278
Kim ngạch XK DM (triệu USD, giá hiện hành)
30,7%
-3,5%
20,7%
8,0%
4,4%
38,3%
35%
19,1%
Tốc độ tăng KN XK hàng DM
16,4% 15,5%
15,2%
13%
13,1%
16,4%
18,3%
15,4%
Tỷ trọng XK DM /tổng KNXK
- 43 -
Nguồn: Niên giám thống kê các năm 1997-2003. Tổng cục Thống kê
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành đƣợc hình thành rất
sớm. Với vai trò vừa thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc, vừa là nguồn xuất
khẩu thu ngoại tệ chủ yếu sau dầu thô. Ngành dệt may luôn luôn là một trong
những ngành kinh tế lớn của đất nƣớc và đƣợc Chính phủ khuyến khích phát
triển. Với tổng giá trị xuất khẩu đạt 1,89 tỷ USD năm 2000, 1,98 tỷ USD năm
2001, 2,73 tỷ USD năm 2002 và 3,69 tỷ năm 2003; giá trị sản xuất chiếm bình
quân gần 6% GDP và tạo ra khoảng 2 triệu việc làm; tốc độ tăng trƣởng xuất
khẩu bình quân 1997 - 2003 là 16,2%, chiếm khoảng gần 15,4% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nƣớc, ngành dệt may trở thành một trong những ngành công
nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam.
Thực vậy, trong thập kỷ 90 vừa qua, tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu hàng dệt
may đạt trung bình trên 40%/ năm. Hiện nay, ngành này đứng thứ hai, chỉ sau
dầu thô về kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của nƣớc ta chiếm khoảng 18,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nƣớc. Việc xuất khẩu hàng dệt may một mặt đem lại một khoản ngoại tệ
không nhỏ để đổi mới, nâng cấp toàn bộ trang thiết bị và công nghệ của ngành
dệt may trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, trong những năm tới đây với tốc độ
phát triển nhƣ hiện nay chắc chắn sẽ góp phần làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế.
Ngành dệt may không chỉ có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng hàng dệt may trong nƣớc và tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ mà còn có
vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cho
ngƣời lao động, góp phần tạo sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Đây là
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất, lao động ngành may chiếm 25%
lực lƣợng lao động công nghiệp. Năm 2003 ngành này đang có trên 1,6 triệu lao
động và dự kiến năm 2005 sẽ sử dụng 3 triệu lao động, năm 2010 là 4,5 triệu lao
động. Nƣớc ta vốn là nƣớc có dân số phát triển khá nhanh, nguồn lao động dồi
dào và ngƣời dân vốn cần cù, khéo léo nên việc tạo một lƣợng lớn việc làm trong
ngành dệt may không chỉ có hiệu quả về mặt kinh tế mà còn đạt hiệu quả về mặt
- 44 -
xã hội. So với các nƣớc khác giá sinh hoạt ở Việt Nam thấp hơn do đó giá nhân
công cũng là một lợi thế so sánh tƣơng đối của Việt Nam trong số các quốc gia
khu vực; đây cũng là điều kiện quan trọng tạo cho hàng hoá của ta nói chung và
hàng dệt may nói riêng có ƣu thế cạnh tranh thị trƣờng thế giới. Ngành dệt và đặc
biệt là ngành may nƣớc ta có đội ngũ công nhân lành nghề, tiếp thu kỹ thuật
nhanh, có thể sản xuất những sản phẩm chất lƣợng cao do vậy may công nghiệp
đang là một thị trƣờng gia công hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài...
Tóm lại, ngành dệt may đang đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu ngành
công nghiệp Việt Nam hiện nay và phát triển ngành dệt may cũng chính là góp
phần phát huy và tận dụng triệt để các tiềm năng sẵn có để phát triển nền kinh tế
của đất nƣớc.
2.1.2. Vài nét về tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Sự sụp đổ của thị trƣờng Liên Xô (cũ) và Đông Âu đầu những năm 1990
đã khiến các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
trong một thời gian. Song chính biến cố này đã trở thành một động lực quan
trọng để ngành dệt may tăng cƣờng đầu tƣ tìm kiếm thị trƣờng mới. Cũng từ
đây, xuất khẩu hàng dệt may (chủ yếu là sản phẩm may mặc) bắt đầu tăng tốc.
- Về kim ngạch xuất khẩu.
Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu ra thị trƣờng quốc tế
và có sự tăng trƣởng mạnh mẽ. Giá trị xuất khẩu đã tăng từ 120 triệu USD năm
1990 lên hơn 1,5 tỷ USD năm 1997 và 1,815 tỷ USD năm 2000. Doanh thu xuất
khẩu của ngành năm 2000 chiếm 12,6% trong tổng số 14,5 tỷ USD tổng kim
ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế... và năm 2004, tổng kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 4,2 tỷ USD (Bảng 5).
Bảng 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam (1997-2004)
Đơn vị: Triệu USD/%.
Hàng dệt may
Hàng may mặc
Năm
Kim ngạch
Tăng trưởng
Kim ngạch Tăng trưởng
Tỷ lệ % hàng may mặc trong tổng KN
1997
1.349
17,3
1.050
17,1
75,3
- 45 -
1998
1.351
0,1
1.055
0,5
78,1
1999
1.747
29,3
1.360
28,9
77,8
2000
1.892
8,3
1.475
8,5
78,0
2001
1.962
3,7
1.519
3,0
77,4
2002
2.750
40,2
2.690
53,5
97,8
3.650
32,0
3.260
21,2
89,3
2003 2004
4.250
16,4
3.961
21,5
93,2
Nguồn: VINATEX.
Trên cơ sở phát huy lợi thế về nhân lực và nắm bắt xu hƣớng dịch chuyển
ngành dệt may sang các quốc gia đang phát triển nên kim ngạch xuất khẩu hàng
may mặc Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua. Những năm
gần đây, tỷ lệ giá trị xuất khẩu sản phẩm may mặc chiếm trong tổng kim ngạch
xuất khẩu quốc gia luôn đạt trên 12%.
Theo thống kê của VINATEX, năm 1996, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam đạt 1 tỷ 150 triệu USD trong đó hàng may mặc chiếm
khoảng 900 triệu USD. Năm 1997 là năm đầu tiên tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD. Sau đó, năm 1998 do ảnh hƣởng
của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á tới nhu cầu tiêu dùng thế giới
nên tốc độ tăng trƣởng của kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam đã
giảm sụt rõ rệt (đây là tình hình chung của các quốc gia xuất khẩu ở Châu Á).
Năm 1999 là năm ngành dệt may Việt Nam đã đạt đƣợc những kết quả khả
quan trong đẩy mạnh xuất khẩu với tổng giá trị xuất khẩu đạt gần 1,75 tỷ USD,
tỷ lệ tăng trƣởng trên 29% (trong đó may mặc đóng góp 1,36 tỷ USD). Năm
2000 và 2001, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đã chịu sức ép về cạnh tranh
rất lớn từ các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Ấn Độ nên tỷ lệ tăng trƣởng
cũng nhƣ giá trị kim ngạch gia tăng thấp. Năm 2002 không chỉ đánh dấu mốc
tăng trƣởng quan trọng với tỷ lệ tăng trƣởng xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt
Nam đạt trên 40% (may mặc đạt 53,5%) mà còn là năm lần đầu tiên, tổng giá trị
- 46 -
xuất khẩu hàng may mặc đạt trên 2,5 tỷ USD (hàng may mặc đóng góp tới
98,7% tổng kim ngạch). Bƣớc sang năm 2003 và 2004, ngành dệt may Việt
Nam đã đƣa tổng kim ngạch xuất khẩu vƣợt qua 3 tỷ USD và 4 tỷ USD... Rõ
ràng là, giai đoạn 1997-2004 là giai đoạn ngành dệt may Việt Nam đã đạt đƣợc
mức tăng trƣởng đáng khích lệ với tỷ lệ tăng trƣởng bình quân đạt khoảng
18,5%/năm (may mặc đạt tốc độ tăng trƣởng bình quân là 19,3%/năm; tỷ lệ
bình quân chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt: 83,4%) và
hàng dệt may (chủ yếu là may mặc) trở thành một trong các mặt hàng xuất khẩu
mũi nhọn của Việt Nam hiện nay.
- Về thị trường xuất khẩu.
Cùng với việc tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu mạnh mẽ thời gian qua,
thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam cũng đƣợc mở rộng nhanh
chóng. Hàng dệt may đã có mặt tại trên 170 quốc gia (trƣớc 1990 là 30 quốc
gia); thâm nhập vào hầu hết các thị trƣờng dệt may lớn đặc biệt là ba thị trƣờng
Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản (Phụ lục 1).
Tuy đã có những bƣớc phát triển đáng khích lệ từ 1993 đến nay, song vai
trò của Việt Nam trên thị trƣờng dệt may thế giới vẫn còn rất khiêm tốn: Là nhà
xuất khẩu đứng thứ 44 trên thế giới và chiếm 1,3% thị trƣờng toàn cầu (2002).
Năm 2003, Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng may mặc đứng thứ 8 vào thị trƣờng
Hoa Kỳ với doanh số đạt gần 2 tỷ USD (sau Trung Quốc, Mêhicô, Hồng Kông,
Ấn Độ...). Năm 2004, đã trở thành năm bản lề để Việt Nam mở rộng hơn nữa
thị phần của mình trong hai thị trƣờng xuất khẩu lớn là Hoa Kỳ và EU (trƣớc
khi ACT có hiệu lực) với 50% đến 55% tổng sản lƣợng đƣợc tiêu thụ tại Hoa
Kỳ và 25% đến 27% tại thị trƣờng EU... Hơn thế nữa, đã có những dự báo lạc
quan về việc Việt Nam sẽ trở thành nhà xuất khẩu sản phẩm may mặc lớn thứ
ba tại Châu Á (sau Trung Quốc và Ấn Độ).
2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam trong thời gian qua
- 47 -
2.2.1. Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.
Đứng dƣới góc độ sản phẩm để phân tích năng lực cạnh tranh thì có thể
khẳng định rằng: Thời gian qua, ngành sản xuất sản phẩm may mặc xuất khẩu
của Việt Nam đã đạt đƣợc những bƣớc tiến lớn. Hiện nay, sản phẩm ngành may
đang bao gồm nhiều chủng loại khác nhau từ áo jacket, sơ mi nam nữ đến các sản
phẩm dệt kim. Việt Nam hiện có khả năng sản xuất trên 80 chủng loại sản phẩm
may mặc xuất khẩu (Phụ lục 2). Chỉ tính năm 2002, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ
đã nhập tới 22 chủng loại sản phẩm dệt may từ Việt Nam (Bảng 6). Đặc biệt là
trong số đó đã xuất hiện các chủng loại hàng hóa có mẫu mã mới, chất lƣợng cao
(đạt tiêu chuẩn quốc tế) và đã khẳng định vị thế tại các thị trƣờng lớn: New York,
Berlin, Paris, Tokyo, nhƣ: Sơ mi nam nữ cao cấp, áo jacket, quần jean...
Bảng 6: Các chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ (năm 2002)
STT Chủng loại sản phẩm
STT Chủng loại sản phẩm
Quần áo cho trẻ sơ sinh
Quần áo bộ
01
12
Quần áo nam, nữ cho trẻ em
Áo jacket
02
13
Áo nịt nam, nữ trẻ em
Váy ngắn và dài
03
14
04
Áo khoác nam, nữ trẻ em
15
Đồ ngủ
05
Áo veston cho bé trai
16
Đồ lót
06
Bộ Veston cho bé gái
17
Áo gối
07
Sơ mi cho trẻ em
18
Chăn
08
Sơ mi nam nữ ngƣời lớn
19
Túi xách
09
Áo veston nam
20
Hàng may chất liệu len
10
Bộ quần áo nữ
21
Hàng may lụa và sợi thực vật
11
Áo blu nam, nữ
22
Hàng may bông và không bông
Nguồn: Hội thảo "Để đạt đƣợc mục tiêu xuất khẩu hàng dệt - may
năm 2003 và 2005 với hiệu quả cao", Hà Nội 02/2003. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, trong cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu có bốn chủng loại hàng hóa chiếm tỷ trong lớn là: áo jacket
- 48 -
chiếm 33%, hàng dệt kim (đồ thể thao, bảo hộ lao động) chiếm 23%, áo sơ mi
các loại chiếm 22%, quần may sẵn chiếm 19% và các chủng loại hàng hóa còn
lại chỉ chiếm 3%.
Thời gian gần đây, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của ngành may mặc nói
riêng và ngành dệt may nói chung ngày càng phong phú, đa dạng. Nếu trƣớc
đây, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là quần áo bảo hộ, quần áo dùng ở nhà,
đồng phục học sinh (những sản phẩm chứa đựng ít hàm lƣợng trí tuệ cũng nhƣ
ít đòi hỏi sự sáng tạo) thì đến nay, cơ cấu sản phẩm đã đƣợc mở rộng hơn nhiều
(áo sơ mi nam nữ, quần áo thể theo, quần áo jean, jacket, comple...); trong đó
đặc biệt đáng chú ý là đã có những mặt hàng chất lƣợng cao đạt tiêu chuẩn quốc
tế (sơ mi cao cấp, áo jacket...) và trụ vững trên các thị trƣờng khó tính nhƣ Hoa
Kỳ, Nhật Bản.... Bên cạnh đó, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu ở mỗi doanh nghiệp
khác nhau có sự khác nhau do trình độ công nghệ, quy mô sản xuất - kinh
doanh, khả năng chuyên môn hóa, nhu cầu của thị trƣờng...
Tuy nhiên, do điều kiện về kỹ thuật, công nghệ còn hạn chế nên đa số sản
phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam thuộc nhóm trung bình, hàm lƣợng công
nghệ thấp và chất lƣợng còn khiêm tốn. Nhìn chung, các doanh nghiệp may vẫn
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của thị trƣờng quốc tế về mốt, mẫu mã,
đƣờng nét, chất liệu, mầu sắc... Đặc biệt là khâu thiết kế mẫu và chất liệu, mầu
sắc của sản phẩm may mặc Việt Nam khá đơn giản, dễ bị bắt chƣớc. Hơn thế
nữa, khi nhu cầu thị trƣờng có những biến đổi liên quan tới thị hiếu tiêu dùng
thì sự xoay chuyển của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm may mặc xuất khẩu
Việt Nam thƣờng chậm chạp... Vì vậy, mặc dù đã có những tiến bộ nhất định
trong lĩnh vực tạo mẫu thời trang nhƣng ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam
vẫn sử dụng mẫu mã do nhà nhập khẩu cung cấp là chính. Điều này đã làm tăng
tính phụ thuộc vào nhà nhập khẩu của ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam.
Tóm lại, về mặt mẫu mã, chủng loại, chất lƣợng sản phẩm may mặc xuất
khẩu đã có những tiến bộ nhất định trong thời gian qua song còn rất nhiều vấn
đề cần xem xét để nâng cao khả năng đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thị
- 49 -
trƣờng thế giới (đặc biệt là các nƣớc phát triển). Bên cạnh đó, khả năng cạnh
tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam còn bị hạn chế nhiều vì chƣa có
nhãn mác riêng.
2.2.2. Về giá cả và chi phí.
- Giá cả xuất khẩu.
Trong khuôn khổ phân tích năng lực cạnh tranh, giá cả có ý nghĩa hai mặt:
Một mặt, với sản phẩm tƣơng đồng về chất lƣợng, mức giá thấp hàm nghĩa kích
thích tiêu thụ ở nƣớc nhập khẩu, nhƣng mặt khác, mức giá thấp cũng tiềm ẩn
một khả năng lợi nhuận thấp cho các nhà xuất khẩu.
Trên phƣơng diện kích thích tiêu thụ, giá hàng dệt kim của Việt Nam tƣơng
đối có sức cạnh tranh do Việt Nam chủ động đƣợc từ sản xuất sợi đến may thành
phẩm nhƣng giá hàng dệt thoi của Việt Nam đƣợc đánh giá là khá đắt. Một mặt
do từ nguyên, phụ liệu đến công nghệ, thiết bị hầu hết phải nhập khẩu...
Bảng 7: Giá hàng xuất khẩu của một số quốc gia sang thị trường Nhật Bản
Đơn vị: Yên/Sản phẩm
Tên nước
Hàng dệt kim
Hàng dệt thoi
Các loại khác
Việt Nam
390
1185,2
1345,0
Trung Quốc
436
867,0
1030,0
Inđônêsia
534
574,0
893,4
Thái Lan
397
1274,8
1438,6
Hàn Quốc
452
1376,4
1616,0
Nguồn: Bộ Thƣơng mại, 2003
Bảng 8: Giá cả một số sản phẩm may mặc nhập khẩu của Nhật Bản
Đơn vị: Yên/01 sản phẩm
Nước sản xuất Áo sơ mi Quần âu So sánh với VN (%)
Áo sơ mi Quần âu
Việt Nam 1.000 1.500 100% 100%
Indonesia 1.300 2.050 130% 137%
Thái Lan 2.400 3.950 240% 263%
Trung Quốc 3.000 5.000 300% 333%
- 50 -
Nhật Bản 5.000 6.500 500% 433%
Nguồn số liệu: Jetro.go.jp
Từ các số liệu trên ta thấy, giá hàng dệt kim của Việt Nam là rẻ hơn hẳn so
với các nƣớc khác trong khu vực. Tuy nhiên, trƣớc năm 2002, hàng dệt kim
chƣa phải là mặt hàng xuất khẩu chính của ngành may mặc Việt Nam. Thời kỳ
này, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ngành may mặc Việt Nam là hàng dệt
thoi. Đối với hàng dệt thoi, giá cả sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam đƣợc xếp vào
loại trung bình trong khu vực Châu Á (1185,2 Yên/sản phẩm, rẻ hơn so với
Thái Lan và Hàn Quốc nhƣng lại đắt hơn đối thủ cạnh tranh chính là Trung
Quốc tới 37%). Theo số liệu thống kê năm 2003 của Hiệp hội Dệt may Việt
Nam, năm 2002, tỷ trọng giá trị hàng dệt kim xuất khẩu trong tổng kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm may mặc đã tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng gần
25%. Đây là một lợi thế của hàng dệt kim Việt Nam trên thị trƣờng thế giới.
Song, nhƣ đã nêu trên, giá xuất khẩu thấp không hoàn toàn là một lợi thế
cạnh tranh do nó hàm chứa khả năng đƣa lại mức lợi nhuận thấp cho nhà xuất
khẩu. Chúng ta sẽ xem xét thêm vấn đề này trong phân tích dƣới đây.
- Chi phí đơn vị và kết quả kinh doanh.
Nhƣ đã đề cập tới trong Chƣơng 1, Chi phí đơn vị là đại lƣợng đƣợc tính
bằng cách chia tổng chi phí sản xuất (gồm cả chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu)
cho giá trị sản lƣợng. Đây là chỉ tiêu hữu ích để xem xét năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trên thị trƣờng và đã đƣợc sử dụng trong nghiên cứu -
điều tra các doanh nghiệp Dệt May năm 1999 của Viện Kinh tế Việt Nam. Xin
nhắc lại: Các doanh nghiệp có chi phí đơn vị = 1 là những doanh nghiệp hòa
vốn, các doanh nghiệp có chi phí đơn vị lớn hơn 1 là những doanh nghiệp thua
lỗ và sức cạnh tranh kém, còn các doanh nghiệp có chi phí đơn vị nhỏ hơn 1 là
những doanh nghiệp có lãi và có sức cạnh tranh tốt – tuỳ theo mức chênh lệch
so với 1. Hình dƣới đây cho thấy sự phân bổ doanh nghiệp theo mức chi phí
- 51 -
đơn vị của các doanh nghiệp trong mẫu điều tra của Viện Kinh tế Việt Nam.
100.0%
120%
89.6%
80.2%
100%
69.8%
80%
Tû lÖ
50.0%
60%
Céng dån
32.3%
40%
16.7%
Phân bổ doanh nghiệp theo chi phí đơn vị cho các doanh nghiệp mẫu
16.70% 15.60% 17.70% 19.80%
20%
10.40% 9.40% 10.40%
0%
0.7-0.9
0.9-0.95
0.95-1
1-1.05
1.05-1.1
1.1-1.2
>1.2
Nguồn: Số liệu điều tra 96 doanh nghiệp dệt may
- Viện Kinh tế Việt Nam năm 1999
Chi phí đơn vị bằng 1 có thể đƣợc coi là ngƣỡng để phân chia tất cả các
doanh nghiệp thành 2 nhóm: nhóm có khả năng sinh lời và nhóm không có khả
năng sinh lời. Nhƣ là một sự ngẫu nhiên, ngƣỡng này chia số doanh nghiệp mẫu
thành 2 nhóm bằng nhau (phần trăm luỹ kế của các doanh nghiệp có chi phí đơn
vị nhỏ hơn hoặc bằng 1 là 50%). Tuy nhiên, do những sai sót tính toán có thể,
phần trăm luỹ kế các doanh nghiệp có chi phí đơn vị nằm trong khoảng 0,95 và
1,05 cũng cần quan tâm. Có thể thấy, phần trăm các doanh nghiệp có lãi (hoặc
doanh nghiệp có khả năng duy trì lãi - theo nghĩa là tình hình tài chính hiện tại
có thể giúp những doanh nghiệp này duy trì vị trí trên thị trƣờng) có mức độ
nhạy cảm cao đối với thay đổi trong ngƣỡng này, vì một tỷ lệ tƣơng đối lớn –
53.1% - doanh nghiệp có chi phí đơn vị nằm trong khoảng 0,95-1,05. Đúng nhƣ
vậy, xem hình trên chúng ta thấy điểm cao nhất của phân phối chi phí đơn vị
nằm trong khoảng 1-1,05, tiếp đến là khoảng 0.95-1,0. Một tỷ lệ cao các doanh
nghiệp nhƣ vậy tập trung quanh ngƣỡng cân bằng có thể cho thấy rằng ngành
công nghiệp dễ bị tổn thương đối với các thay đổi giá cả thị trƣờng.
Cần nói thêm rằng, trong hoàn cảnh mức giá thấp, và phần lớn nằm tập
- 52 -
trung quanh ngƣỡng cân bằng (chi phí đơn vị xấp xỉ bằng 1), các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam không thể có đƣợc kết quả kinh doanh tốt – xét ở góc độ lợi
nhuận doanh nghiệp. Kết quả của cuộc điều tra mẫu của Viện Kinh tế Việt Nam
còn cho thấy: 75 trong số 96 doanh nghiệp (78.1%) báo cáo hoạt động có lợi
nhuận trong khi 18 doanh nghiệp (18.8%) báo cáo lỗ. Số doanh nghiệp còn lại
không có lợi nhuận. Kết quả nghiên còn cho thấy các DNNN có khả năng sinh
lời cao hơn, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có khả năng
lỗ cao hơn. Đáng chú ý là nếu xét đến tỷ lệ lợi nhuận trên vốn thì phần lớn
doanh nghiệp có lãi có tỷ suất lợi nhuận nằm trong khoảng từ 0% đến 10%, nhỏ
hơn nhiều so với chi phí cơ hội của vốn1.
Điều này gợi ý rằng nếu thông tin thu thập đƣợc là đáng tin cậy, thì phần
lớn các doanh nghiệp mẫu có thể có một số vấn đề về khả năng tài chính trong
ngắn hạn và đặc biệt trong dài hạn. Nhƣng mặt khác, quan trọng hơn, nó cho
thấy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoạt động chƣa hiệu quả. Trong khi
có một thực tế là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể đáp ứng các
chỉ tiêu về mẫu mã, chất lƣợng sản phẩm, thị thiếu khách hàng... nên không thể
tăng giá xuất khẩu. Cũng chính vì giá bán sản phẩm thấp hơn so với các đối thủ
cạnh tranh nên khối lƣợng xuất khẩu lớn nhƣng doanh thu từ xuất khẩu không
cao và đặc biệt là giá trị gia tăng rất thấp. Chi phí cao, giá bán thấp, rõ ràng là
khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng (trong nƣớc cũng nhƣ thế giới) của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam rất thấp.
2.2.3. Sự phát triển thị trường xuất khẩu.
2.2.3.1. Bức tranh tổng quát.
Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế, năm 1992 đƣợc đánh dấu là năm mở ra
cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam sang thị trƣờng EU (ký kết
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU). Đặc biệt, ngành đã
chuyển hƣớng thành công từ thị trƣờng Đông Âu (CMEA) truyền thống sang thị
1 Bộ số liệu tƣơng tự cho thấy lãi suất vay của doanh nghiệp trong năm 1998 nằm trong khoảng từ 14,% (g iá trị trung bình áp dụng cho các DNNN) tới 18,89% (g iá trị t rung bình áp dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh).
- 53 -
trƣờng Tây Âu và Châu Á sau khi khối Đông Âu sụp đổ những năm 90. Năm
1999, Việt Nam là nƣớc xuất khẩu hàng may lớn thứ 5 vào thị trƣờng Nhật Bản
và thứ 17 vào thị trƣờng EU. Riêng hai thị trƣờng này đã chiếm 70% tổng số
xuất khẩu hàng may của Việt Nam. Từ năm 2002, thị trƣờng Hoa Kỳ đã thật sự
trở thành thị trƣờng lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu với tổng
kim ngạch đạt khoảng 900 triệu USD; gần 1,4 tỷ USD (2003) và ƣớc đạt 1,75 tỷ
USD trong năm 2004. Tuy nhiên, thị phần của hàng dệt may Việt Nam trên thị
trƣờng quốc tế còn rất nhỏ bé (0,9% thị trƣờng EU và 2,7% thị trƣờng Nhật Bản
- Bảng 9 ) và đứng trƣớc sự cạnh tranh quyết liệt của của một số nƣớc khác
trong vùng nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và
Philippines.
Để rõ hơn sự phát triển thị trƣờng xuất khẩu dệt may, chúng ta sẽ tìm hiểu
sâu hơn về các thị trƣờng xuất khẩu chính của sản phẩm dệt may Việt Nam.
2.2.3.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu:
Bảng 9: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam (1997-2004)
Đơn vị: Triệu USD
Bắc Mỹ
Nhật Bản
EU
Các q.gia khác
Nă m
%
%
%
%
Tổn g K.N
K.ngạc h
K.ngạc h
K.ngạc h
K.ngạc h
12,0
1,1%
325
410
303,0
1.05 0
199 7
30,9 %
39,0 %
28,9 %
26,0
2,5%
321
187,0
521
1.05 5
199 8
30,4 %
49,4 %
17,7 %
34,0
2,5%
417
345,0
555
1.36 0
199 9
30,7 %
40,8 %
26,0 %
49,5
3,4%
620
196,5
609
1.45 7
200 0
42,0 %
41,3 %
13,0 %
44,6
2,9%
588
287,4
599
1.51 9
200 1
38,7 %
39,4 %
18,9 %
896,0
645
531,0
618
2.69 0
200 2
33,3 %
24,0 %
23,0 %
19,7 %
1.396,0
678
547,0
639
3.26 0
200 3
42,8 %
20,8 %
19,6 %
16,8 %
200
3.96
1.751,0
44,2
762
19,2
20,0
653,0
16,5
795
- 54 -
4
1
%
%
%
%
Nguồn số liệu: Các báo cáo năm của Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Bảng 9 đã cho thấy, kim ngạch xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đƣợc tập
trung vào Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản; sau đó đến các quốc gia Châu Á, Châu Mỹ
La tinh và Châu Phi. Trƣớc năm 2002, thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất là EU sau đó
đến Nhật Bản nhƣng sau 2002 (năm đầu tiên Việt Nam đƣợc hƣởng Quy chế
Thƣơng mại bình thƣờng với Hoa Kỳ) đã có sự tăng trƣởng đột biến về xuất khẩu
hàng may mặc vào Hoa Kỳ. Nếu năm 2001, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc vào Hoa Kỳ chỉ đạt 44,6 triệu USD chiếm 2,9% tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng may mặc thì năm 2002, con số này đã là 896 triệu USD (tăng
trƣởng 1.090%) và chiếm tới 33,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc.
* Về thị trường Hoa Kỳ.
Riêng xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa kỳ, từ năm 2002, Việt Nam đã trở
thành một trong 10 quốc gia có giá trị xuất khẩu chủng loại hàng hóa này lớn
nhất và tỷ lệ tăng trƣởng năm sau luôn cao hơn năm trƣớc. Năm 2003, 2004,
Việt Nam đứng thứ 7 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 2.484 triệu USD và
2.720 triệu USD. Mặc dù Việt Nam chƣa đƣợc hƣởng ƣu đãi do ACT mang lại,
song giá trị xuất khẩu tháng 2/2005 vào thị trƣờng Hoa Kỳ vẫn tăng tới 18,9%
so với cùng kỳ năm trƣớc... Rõ ràng là thị trƣờng Hoa Kỳ đã trở thành thị
trƣờng xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, dệt may nói chung lớn nhất của Việt
Nam và còn nhiều tiềm năng.
Bảng 10: Mười quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ
Đơn vị: Triệu USD
Quốc gia
Năm
Thời gian
Tăng trưởng
Tăng trưởng
2003
2004
2/2004
2/2005
Thế giới
77.434
83.312
+ 7,6%
12.284
14.009
+ 14,1 %
Trung Quốc
11.609
14.560
+ 25,4%
2.003
3.362
+ 67,9%
7.941
7.793
- 1,9%
1.145
1.097
- 4,2%
Mêhicô
3.212
3.633
+ 13,1%
588
737
+25,3%
Ấn Độ
3.818
3.959
+ 3,7%
590
507
- 14,0%
H.Kông
3.118
3.086
- 1,0%
519
487
- 6,0%
Canada
- 55 -
Indonesia
2.367
2.620
+ 10,6%
445
478
+ 7,2%
Việt Nam
2.484
2.720
+ 9,5%
362
430
+ 18,9%
Honduras
2.570
2.678
+ 4,2%
347
399
+ 14,9%
Pkistan
2.215
2.546
+ 15,8%
371
397
+ 6,9%
Thái Lan
2.072
2.198
+ 6,1%
314
373
+ 18,7%
Nguồn: Báo cáo của USAID tháng 4/2005
("Major Shipper Report", February, 2005 data, US)
Thị trƣờng Hoa Kỳ đƣợc đánh giá là thị trƣờng hàng dệt may có tiềm năng
nhất của Việt Nam do: Hoa Kỳ là một thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may hết sức
khổng lồ (năm 2004, Hoa Kỳ đã phải nhập khẩu trên 83 tỷ USD). Đây thực sự
là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam xuất khẩu các sản
phẩm của mình sang Hoa Kỳ.
Sau khi Hoa Kỳ quyết định huỷ bỏ cấm vận với Việt Nam (03/2/1994),
tiếp đó Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều
Tiên, Cuba, Việt Nam) lên nhóm Y - ít hạn chế về thƣơng mại hơn (gồm Liên
Xô cũ, các nƣớc thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và
Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển
và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ
của Việt Nam đƣợc vào cảng của Hoa Kỳ (nhƣng còn phải hạn chế xin phép
trƣớc 3 ngày); ngay từ khi chƣa đƣợc hƣởng quy chế tối huệ quốc (MFN), quy
chế thuế quan ƣu đãi phổ cập mà các nƣớc phát triển cam kết dành cho các
nƣớc đang phát triển (GSP), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận
đƣợc với thị trƣờng Hoa Kỳ. Quyết định huỷ bỏ cấm vận đối với Việt Nam của
Chính phủ Hoa Kỳ chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thƣơng
mại Việt - Hoa Kỳ. Hàng dệt may Việt Nam với ƣu thế giá rẻ, chất lƣợng đƣợc
đánh giá là tƣơng đối ổn định đã từng bƣớc thâm nhập vào thị trƣờng Hoa Kỳ.
Hàng dệt may Việt Nam thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng Hoa Kỳ là kết quả
sự nỗ lực to lớn của không những bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
mà còn có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và các thành
- 56 -
phần kinh tế có liên quan. Tuy còn rất nhiều trở ngại trên con đƣờng thâm nhập
vào thị trƣờng Hoa Kỳ, nhƣng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
vào Hoa Kỳ liên tục tăng qua các năm với một tốc độ tăng trƣởng khá cao.
Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ
Năm
Đơn vị: Triệu USD/%.
Toàn ngành
Sang Hoa Kỳ
Đóng góp
K. ngạch T. trƣởng
K.ngạch
T.trƣởng
Tỷ lệ %
T. trƣởng
1997
1.349
17,3%
26,0
+9,7%
1,93%
---
1998
1.351
0,1%
26,4
+1,5%
1,95%
+ 0,02%
1999
1.747
29,3%
30,0
+13,6%
1,72%
- 2,30%
2000
1.892
8,3%
49,9
+ 65,3%
2,64%
+ 0,92%
2001
1.962
3,7%
49,3
- 1,2%
2,51%
- 0,13%
2002
2.750
40,2%
800,0
+1.623,0%
29,09%
+ 26,58%
3.650
32,0%
2.484,0
+ 3.105,0%
68,05%
+ 38.96%
2003 2004*
4.250
16,4%
2.720,0
+ 9,5%
64,00%
- 4,05%
* ước tính
Nguồn: Báo cáo của USAID 4/2005 Năm 1997, do ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị
trƣờng nhập khẩu hàng dệt may hạn ngạch cũng nhƣ phi hạn ngạch của Việt
Nam bị giảm sút, thị trƣờng Hoa Kỳ xem ra vẫn là thị trƣờng khá ổn định, tuy
tốc độ tăng trƣởng cũng có giảm sút hơn so với các năm trƣớc. Năm 1997 tốc
độ tăng trƣởng là 9,7% với kim ngạch xuất khẩu đạt 26,0 triệu USD; năm 1998
tốc độ tăng trƣởng là 1,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 26,4 triệu USD... Nhƣ đã
đề cập ở trên, nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là bị tác động, ảnh hƣởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á (1997 - 1998) đã làm cho giá cả
của hàng dệt may Việt Nam vốn đã cao do chênh lệch thuế suất, nay lại càng
cao hơn (do đồng tiền của các nƣớc chịu khủng hoảng mất giá trong khi giá
đồng VNĐ lại ít bị tác động do mức độ hội nhập tài chính còn rất thấp). Do vậy,
các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trở nên rẻ hơn một cách tƣơng đối so
với hàng của Việt Nam, hàng dệt may của Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh
không tƣơng sức trên thị trƣờng này.
Năm 1999, tình hình đã đƣợc cải thiện hơn, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
- 57 -
may của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trƣờng Hoa Kỳ năm 1999: 30,0 triệu USD, đạt tốc độ tăng trƣởng 13,6%.
Theo dự đoán năm 1999 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ đi đến ký một Hiệp định
Thƣơng mại song phƣơng để Việt Nam có thể đƣợc hƣởng Quy chế đãi ngộ Tối
huệ quốc (MFN), hàng dệt may Việt Nam vào thị trƣờng Hoa Kỳ sẽ đƣợc thông
thoáng hơn. Thực tế là trong năm 1999 mặc dù đã trải qua 8 vòng đàm phán,
nhƣng vẫn chƣa đi đến một thoả thuận thống nhất của hai nƣớc trong một số
vấn đề (phải sang đến năm 2000 Hiệp định Thƣơng mại Việt - Hoa Kỳ mới
đƣợc ký kết). Sang đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trƣờng Hoa Kỳ là 49,9 triệu USD (tăng khoảng 65,3%). Tuy nhiên, năm 2001
kim ngạch xuất khẩu lại giảm: 49,34 triệu USD (tăng trƣởng giảm sút khoảng -
1,2%), lý do của sự giảm sút này là do nền kinh tế thế giới suy thoái, nhu cầu
nhập khẩu hàng dệt may thế giới sụt giảm, nên nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may
Việt Nam của Hoa Kỹ cũng nhƣ các thị trƣờng khác cũng bị giảm sút đáng kể.
Năm 2002, là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang Hoa Kỳ đạt 800 triệu USD với tỷ lệ tăng trƣởng đạt trên 1.600%. Nguyên
nhân chủ yếu là do tác động của Hiệp định thƣơng mại song phƣơng đã có hiệu
lực, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ đƣợc hƣởng mức thuế suất
ƣu đãi trong khi đó lại chƣa phải chịu hạn ngạch trong thời gian này. Từ năm
2002 đến nay, tổng kim ngạch xuất khẩu đã có sự tăng trƣởng nhanh chóng
vƣợt mức 2 tỷ USD (2003) rồi vƣợt 2,5 tỷ USD (2004). Chỉ tính riêng 9 tháng
đầu năm 2005 Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trƣờng Hoa Kỳ ƣớc
đạt gần 2 tỷ USD, tƣơng đƣơng mức xuất khẩu cùng kỳ năm 2004 (1,973 tỷ
USD). Từ chỗ chiếm chỉ chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch xuất khẩu (1997),
thị trƣờng Hoa Kỳ đã vƣơn lên thành thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn
nhất của Việt Nam với gần 45% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2004.
- 58 -
Trong giai đoạn trƣớc khi Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực thì khó khăn lớn nhất cho các sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam khi xuất sang Hoa Kỳ là chịu thuế suất quá cao do Việt Nam chƣa đƣợc hƣởng MFN. Mức thuế suất quá cao này chính là rào cản trực tiếp ngăn không cho hàng dệt may của Việt Nam thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng tiêu thụ lớn nhất thế giới này. Các sản phẩm may mặc của Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm dệt may đƣợc nhập khẩu từ các nƣớc khác - những nƣớc đƣợc
hƣởng các ƣu đãi. Các sản phẩm dệt may của họ có giá rẻ hơn hẳn các sản phẩm của Việt Nam. Hãy thử xem ví dụ sau:
Bảng 12: So sánh mức giá có MFN và không có MFN tại thị trường Hoa Kỳ (2001)
Áo sơ mi Được hưởng MFN Không được hưởng MFN
Giá trƣớc thuế 12USD 12USD
Thuế 20,7% 45%
Giá sau thuế 14,484 USD 17,4USD
Nguồn: Báo cáo thƣờng niên của USAID năm 2002.
Cùng là một chiếc áo sơ mi nếu đƣợc hƣởng MFN thì mức thuế suất đánh
vào là 20,7%, còn nếu không đƣợc hƣởng MFN thì mức thuế suất là 45% chênh
lệch nhau đến 24,3%. Giả sử giá của một chiếc áo sơ mi chƣa tính thuế là
12USD. Thì giá bán của chiếc áo đó sau khi tính thuế lần lƣợt là: 14,484USD và
17,4 USD hơn nhau 2,916 USD (xét về số tuyệt đối) và hơn nhau 20,13% (xét
về số tƣơng đối). Đây là ví dụ về một mặt hàng có mức chênh lệch về thuế suất
chƣa phải là lớn lắm. Còn rất nhiều mặt hàng mức chênh lệch thuế suất rất lớn.
Do vậy, ở giai đoạn này, Việt Nam thƣờng xuất sang Hoa Kỳ các mặt hàng có
mức chênh lệch về thuế suất không lớn lắm (có thể cạnh tranh đƣợc), thuộc các
loại (category) sau đây: găng tay, sơ mi trẻ em… (chiếm khoảng 85% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trƣờng Hoa Kỳ) và mặt
hàng dệt kim nhƣ: sơ mi trẻ em; sơ mi nam, nữ; găng tay dệt kim,… Hàng may
mặc dệt thoi thƣờng chiếm phần lớn trong giá trị xuất khẩu nhƣng tốc độ tăng
trƣởng giá trị xuất khẩu hàng may mặc dệt kim lại cao hơn...
* Thị trường Nhật Bản.
Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Nhật Bản (1997-2004)
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Xuất khẩu hàng may mặc
Nhật Bản
XK toàn ngành dệt may
Các thị trường
Kim ngạch
Tỷ trọng (%) Tăng/giảm (%)
1997
1.349
1.050
30,95
+ 31,05
325
1998
1.351
1.055
30,43
- 1,23
321
1999
1.747
1.360
30,66
+ 29,91
417
- 59 -
2000
1.892
1.457
620
42,03
+ 48,68
2001
1.962
1.519
588
38,71
- 5,16
2002
2.750
2.690
645
23,98
+ 9,69
2003
3.650
3.260
678
20,80
+ 5,12
2004
4.250
3.961
762
19,24
+ 12,39
Nguồn: Bộ Thƣơng mại
Số liệu so sánh trên đã cho thấy thị trƣờng Nhật Bản là một trong những thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam nói chung và may mặc nói riêng (là thị trƣờng phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam). Đến năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong 7 quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Năm 1998, cũng nhƣ nhiều quốc gia khác ở Châu Á, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản dã bị tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ nên kim ngạch đã có sự sụt giảm cả về giá trị và tỷ lệ tăng trƣởng. Năm 1999 và 2000, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản đã có sự phục hồi; Nhật Bản và EU trở thành hai thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2002 đến nay, do sự vƣơn lên mạnh mẽ của thị trƣờng Hoa Kỳ nên mặc dù vẫn có sự tăng trƣởng về kim ngạch song tỷ trọng hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản so với tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã có sự sụt giảm đang kể (từ 40% xuống còn 20%) và nhƣ đã đề cập ở trên, thị trƣờng Hoa Kỳ đã trở thành thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam.
Những năm 1990, thị phần hàng may mặc xuất khẩu Trung Quốc chiếm tới 57% thì thị phần hàng Việt Nam đứng thứ tƣ với 4,1%. Sau một thời gian điều chỉnh cơ cấu ngành và ƣu tiên đầu tƣ phát triển, ngành dệt may Trung Quốc đã có sự phát triển vƣợt bậc và hiện nay, thị phần hàng hóa Trung Quốc tại Nhật Bản đã đạt tới 89% với tổng sản lƣợng xuất khẩu đạt gần 1,36 triệu tấn sản phẩm; hàng Việt Nam vƣơn lên vị trí thứ hai với 2,3% thị phần và trên 0,035 triệu tấn sản phẩm (Phụ lục 3).
Số liệu trong Phụ lục 3 đã cho thấy thị phần hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tại Nhật Bản là rất nhỏ; nó phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam tại thị trƣờng Nhật Bản còn yếu.
- 60 -
Tóm lại, thông qua các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam tại thị trƣờng Nhật Bản thì chỉ có tiêu chí giá cả là có lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh. Do khó có thể đáp ứng các chỉ tiêu về
mẫu mã, chất lƣợng sản phẩm, thị hiếu khách hàng... nên giá cả cũng không thể cao. Cũng chính vì giá bán sản phẩm thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh nên khối lƣợng xuất khẩu lớn nhƣng doanh thu từ xuất khẩu không cao và đặc biệt là giá trị gia tăng rất thấp. * Thị trường EU. Hàng dệt may Việt Nam chỉ thực sự có chỗ đứng trên thị trƣờng EU khi Hiệp định về hàng dệt may Việt Nam - EU giai đoạn 1993 - 1997 có hiệu lực (01/01/1993). Kể từ đó, thị trƣờng EU là một trong những thị trƣờng lớn, truyền thống của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam.
Bảng 14: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
Năm
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005*
Kim ngạch xuất khẩu sang EU (Triệu USD) 250,0 289,0 353,0 420,0 460,0 650,0 650,0 700,0 620,0 550,0 601,0 684.5 537,0
Tỷ trọng so với tổng kim ngạch XK hàng dệt may VN (%) 47.10 52.50 47.10 42.29 30.61 44.83 37.22 37,00 31.39 20.13 16.30 15.56 18,50
* Tính đến tháng 8/2005
Nguồn: VINATEX
Trong nhiều năm qua, thị phần EU luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trƣớc
năm 2002). Năm 2002, 2003 có sự sụt giảm sản lƣợng xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trƣờng này là vì các doanh nghiệp đã đẩy mạnh xuất khẩu vào Hoa Kỳ
trƣớc thời điểm quốc gia này áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt
Nam vào cuối 2003. Vì vậy có đến 60% năng lực ngành dệt may đƣợc dồn để
sản xuất hàng sang Hoa Kỳ, do vậy ngành dệt may Việt Nam không đủ sức để
theo đuổi đƣợc cả thị trƣờng EU.
Bảng 15: Xuất khẩu hàng dệt may vào một số quốc gia trong EU
- 61 -
Đơn vị: Triệu USD
Quốc gia
Năm
2000
2001
2002
Đức Pháp Anh Hà Lan Tây Ban Nha Italia Bỉ Đan Mạch Thuỵ Điển Áo Ai Len Hy Lạp Phần Lan Bồ Đào Nha Tổng
257.825 81.212 68.197 50.128 46.027 44.248 24.674 10.116 12.768 6.094 2.494 ------ 3.298 2.016 609.097
211.491 104.670 80.213 51.820 51.358 40.368 30.389 9.981 8.969 5.519 5.272 2.847 2.804 1.866 607.567
204.346 70.200 75.268 45.866 48.290 42.133 27.860 11.102 10.547 3.699 3.842 5.362 2.467 933 551.908
Nguồn: Bộ Thƣơng mại
Các nƣớc nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở thị trƣờng EU nhiều nhất
là: Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha. Các sản phẩm dệt may xuất sang
thị trƣờng EU khá đa dạng, nhƣ: Váy, áo sơ mi, bít tất, áo jacket, áo len... Trong
đó, áo jacket là mặt hàng chủ lực, chiến tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của
ngành sang thị trƣờng này. Về mặt hình thức xuất khẩu, hàng dệt may Việt Nam
chủ yếu là gia công xuất khẩu cho các đối tác trong EU.
Nói chung, hiện nay Việt Nam chƣa phải là đối tác lớn của EU (đứng thứ
16 trong số các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may vào thị trƣờng này và chỉ
chiếm khoảng 0,5% tổng giá trị nhập khẩu của EU); các đối tác lớn nhất của EU
vẫn là Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Singapore... Có thể khẳng định rằng
thị trƣờng EU vẫn còn nhiều tiềm năng cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam;
không thua kém thị trƣờng Hoa Kỳ.
Đánh giá về thị trƣờng EU, nhiều ngƣời cho rằng, sự mở rộng của EU25 là
một cơ hội kinh doanh lớn cho các nhà xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam
vì thị trƣờng này đã bao gồm các quốc gia là bạn hàng truyền thống của ngành
dệt may xuất khẩu Việt Nam cuối thập niên 80 của thế kỷ XX (các quốc gia
- 62 -
Đông Âu trƣớc đây). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các điều kiện gia
nhập thị trƣờng E25 dễ dàng hơn nhiều so với trƣớc đây mà thực tế tiếp cận và
thâm nhập thị trƣờng EU25 sẽ khó khăn hơn. Tại thị trƣờng này, sản phẩm dệt
may xuất khẩu Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật
khác, nhƣ quy định về chất lƣợng, yếu tố môi trƣờng và trách nhiệm xã hội ...
Đây không chỉ là những yêu cầu của các cơ quan có trách nhiệm mà còn là thái
độ tƣơng đối thống nhất của ngƣời tiêu dùng đối với các sản phẩm may mặc
cũng nhƣ tác hại có thể xẩy ra của nó. Bất chấp việc một số hàng rào thuế quan
và phi thuế quan đƣợc cắt giảm; Việt Nam đƣợc mức ƣu đãi thuế quan (GSP)
cho các nƣớc đang phát triển và việc EU đã thống nhất dỡ bỏ hạn ngạch dệt
may với Việt Nam... hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn phải cạnh tranh
sòng phẳng với các quốc gia hàng đầu về xuất khẩu chủng loại hàng hóa này
(Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và các quốc gia ASEAN khác). Việc kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam sang thị trƣờng EU giảm nhiều trong
những tháng đầu năm 2005 – thời điểm dỡ bỏ hạn ngạch – cho thấy một thực tế
là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trƣờng này là rất thấp,
và hơn nữa, chƣa dễ dàng khắc phục đƣợc.
2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam thời gian qua.
2.3.1. Những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam.
Những phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm
dệt may Việt Nam ở trên cho thấy, sản phẩm xuất khẩu của dệt may Việt Nam đã
có một số thế mạnh đáng kể. Một là, sản phẩm dệt may Việt Nam đang có
chuyển biến tích cực về cơ cấu và bƣớc đầu đáp ứng đƣợc yêu cầu của thị trƣờng
về chất lƣợng, mẫu mã; Hai là, sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam có giá
cả khá thấp, có tác dụng kích thích tiêu thụ, trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam đang kinh doanh xuất khẩu có lãi; Thứ ba là, mặc dù
chịu tác động của những diễn biến phức tạp trên thị trƣờng thế giới, xuất khẩu
sản phẩm dệt may Việt Nam những năm qua đã không ngừng mở rộng thị
trƣờng, tăng kim ngạch, khẳng định đƣợc vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực xuất
- 63 -
khẩu dệt may, đồng thời đóng góp tích cức cho sự phát triển kinh tế trong nƣớc.
Những điểm mạnh nói trên của sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam
bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó nổi bật lên những nhân tố sau:
- Về môi trường vĩ môi.
Môi trƣờng trong và ngoài nƣớc tƣơng đối thuận lợi cho phát triển công
nghiệp dệt may xuất khẩu. Những năm qua, ngành sản xuất sản phẩm dệt may
xuất khẩu Việt Nam đã có những kết quả đáng khích lệ cả về mặt lƣợng và mặt
chất; xu thế mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế đã tạo đà phát triển cho
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng.
Với một loạt các sự kiện nhƣ việc Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã
đƣợc thực thi vào đầu năm 2002; ký kết với Liên minh Châu Âu về việc loại bỏ
hạn ngạch, gia nhập AFTA... đã góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu
hàng may mặc của của toàn ngành. Bên cạnh đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình
thƣờng hoá mối quan hệ kinh tế và Việt Nam đƣợc hƣởng Quy chế tối huệ quốc...
- Về chính sách hỗ trợ phát triển.
Sự quan tâm, hỗ trợ đầu tƣ và phát triển năng lực sản xuất của Chính phủ
là một điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt nam
nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Việc Chính phủ phê
duyệt hoạch định chiến lƣợc phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm
2010 với mức đầu tƣ lớn và mức độ ƣu tiên cao đã thể hiện chủ trƣơng, quan
điểm của Đảng, Nhà nƣớc về ƣu tiên phát triển ngành công nghiệp này trong
thời gian tới. Đây thật sự trở thành một điểm mạnh đối với việc nâng cao năng
lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu trong tƣơng lai.
- Về giá nhân công.
Giá nhân công rẻ đã giúp các sản phẩm dệt may Việt Nam thâm nhập và
duy trì, phát triển thị phần hàng hóa của mình trên mọi thị trƣờng. Nhƣ đã phân
tích ở trên, đến nay, giá nhân công Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các
quốc gia là đối thủ cạnh tranh khác. Tuy yếu tố giá nhân công chi phối mạnh tới
giá thành sản phẩm gia công xuất khẩu song nếu tính trong tổng giá thành sản
phẩm thì giá nhân công lại chiếm tỷ trọng thấp. Vì vậy, có thể khẳng định rằng
giá nhân công thấp làm cho giá cả gia công xuất khẩu sản phẩm dệt may của
- 64 -
Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác song đây chỉ là những điểm mạnh trong
sách lƣợc kinh doanh vì nó không đem lại giá trị gia tăng lớn cho sản phẩm xuất
khẩu. Mặt khác, lợi thế cạnh tranh có đƣợc do mức giá nhân công thấp cũng bị
giảm sút bởi năng suất lao động của công nhân ngành dệt may Việt Nam thấp
hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trên thế giới và trong khu vực.
- Về phương thức phân phối sản phẩm.
Trong hai phƣơng thức xuất khẩu sản phẩm dệt may (gia công xuất khẩu và
xuất khẩu trực tiếp - FOB), hình thức xuất khẩu trực tiếp mang lại giá trị gia tăng
cao nhƣng cũng tỷ lệ thuận mới mức độ rủi ro và đòi hỏi các ngành công nghiệp
phụ trợ phát triển tƣơng đối cao (điểm yếu nhất của công nghiệp dệt may Việt
Nam hiện nay). Trong khi đó, phƣơng thức gia công xuất khẩu đang tỏ ra phù
hợp với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu hiện nay hơn. Với việc lựa chọn
hình thức gia công xuất khẩu là chủ yếu, các doanh nghiệp Việt Nam có điều
kiện để khai thác tốt các lợi thế so sánh của mình. Hơn thế nữa, phƣơng thức gia
công xuất khẩu là hình thức quan trọng giúp các doanh nghiệp may mặc xuất
khẩu Việt Nam tạo dựng uy tín cho sản phẩm của mình trên thị trƣờng thế giới.
Thông qua hình thức gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nƣớc có thể học
hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về tổ chức, quản lý sản xuất; marketing sản
phẩm ra thị trƣờng quốc tế; tiếp thu công nghệ mới; tích luỹ nguồn lực tài chính...
tạo điều kiện để phát triển phƣơng thức xuất khẩu trực tiếp sau này.
2.3.2. Những điểm yếu hay các vấn đề đặt ra trong năng lực cạnh tranh
xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Điểm yếu trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt
Nam, nhƣ đã phân tích ở trên, thể hiện nổi bật ở chỗ: giá trị gia tăng thấp và các
doanh nghiệp xuất khẩu đứng trƣớc những nguy cơ rủi ro lớn khi có biến động
giá theo chiều hƣớng xấu (giá giảm); mặt khác, nó còn thể hiện rõ sản phẩm dệt
may của Việt Nam khó xâm nhập những thị trƣờng có yêu cầu đòi hỏi cao về
chất lƣợng và các điều kiện khác (EU và Nhật Bản).
Những hạn chế và trở ngại nói trên của ngành công nghiệp dệt may xuất
khẩu xuất phát từ cơ sở vật chất hạ tầng kém (công nghệ lạc hậu, chi phí sản
- 65 -
xuất cao, ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển, đội ngũ lao động lành nghề
thiếu trầm trọng và năng lực cạnh tranh của các quốc gia là đối thủ cạnh tranh
trực tiếp đã đƣợc cải thiện nhanh chóng trong thời gian gần đây...). Dƣới đây
xin đi sâu một số vấn đề quan trọng nhất.
1/ Sự lạc hậu và yếu kém về công nghệ.
Thực trạng thiết bị và công nghệ của ngành dệt may khác nhau giữa các
lĩnh vực. Có 5 loại công nghệ trong ngành dệt may bao gồm thiết bị công nghệ
kéo sợi; thiết bị công nghệ dệt thoi; thiết bị công nghệ dệt kim; thiết bị công
nghệ in nhuộm; và thiết bị công nghệ may. Trong 5 loại công nghệ nêu trên, có
4 loại là thuộc lĩnh vực dệt là tƣơng đối lạc hậu so với các quốc gia trong khu
vực. Thực trạng các loại thiết bị công nghệ dệt nhƣ sau:
+ Thiết bị công nghệ kéo sợi: Mặc dù đã đƣợc nâng cấp nhƣng những thiết
bị công nghệ lỗi thời vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thiết bị kéo sợi
hiện nay (thiết bị ở mức độ công nghệ trung bình và dƣới trung bình chiếm tới 70% tổng số thiết bị hiện có 2). Nhƣ vậy, thiết bị công nghệ kéo sợi của ngành
dệt Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng lạc hậu, khả năng và trình độ tự
động hóa thấp; phần lớn là công nghệ kéo sợi chải thô và tất nhiên, chất lƣợng
sản phẩm thấp.
+ Thiết bị công nghệ dệt thoi: Thiết bị công nghệ dệt thoi đã có những
chuyển biến mạnh đặc biệt là công nghệ dệt sợi bông, công nghệ dệt vải tổng
hợp, công nghệ dệt vải pha công nghệ tơ tằm và len, công nghệ dệt vải denim.
Tuy nhiên, các thiết bị thế hệ cũ tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh vẫn chiến trên 50% số trang thiết bị công nghệ hiện có.
+ Thiết bị công nghệ dệt kim: Trƣớc năm 1988, các thiết bị công nghệ này
chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Tiệp Khắc (cũ) và CHDC Đức nên trình độ công
nghệ đã rất lạc hậu so với mặt bằng công nghệ của thế giới hiện tại. Các thiết bị
công nghệ dệt kim tròn của Nhật Bản, CHLB Đức và Đài Loan hiện có phần
lớn đƣợc nhập sau những năm 1990... Đây là số thiết bị công nghệ thuộc thế hệ
mới nên cho ra đời những sản phẩm dệt kim chất lƣợng cao với năng suất cao
- 66 -
và đa tính năng sử dụng. Đến năm 1994, công nghệ dệt kim đan dọc đƣợc nhập 2 Theo VINATEX
vào Việt Nam để phục vụ sản xuất các chủng loại vải công nghiệp nhƣ: vải lót
đƣờng, vải bố lốp xe máy, ôtô...
+ Thiết bị công nghệ in nhuộm: Trong những năm gần đây, các doanh
nghiệp đã chú trọng đầu tƣ chiều sâu, nhập mới và nâng cấp các trang thiết bị
hiện có để nâng cao chất lƣợng, đa dạng hóa sản phẩm. Tuy nhiên, nếu so sánh
với mức đầu tƣ thiết bị công nghệ dệt thì còn rất hạn chế. Các trang thiết bị
công nghệ in nhuộm hiện nay chỉ có khoảng 35% là đáp ứng đƣợc các yêu cầu
của thị trƣờng; 30% là các thiết bị nhập khẩu từ những năm 1970 đến trƣớc
1985; 35% các thiết bị còn lại đã có thời gian sử dụng trên 25 năm.
Bảng 16: Máy móc, trang thiết bị hiện tại của ngành dệt Việt Nam (2004)
Chủng loại
Nhãn hiệu/quốc gia sản xuất
Số lượng
STT 1 2
Dệt thoi Rôto đánh sợi
2.000.000 6.520
3 Máy dệt
15.500
4 Máu dệt kim
1.540
Trung Quốc, Nhật Bản, Italia Trung quốc Sinkwang, Picanol, Vamatex, Nissan, Rotal, Kawamoto, Trung quốc Đức, Italia, Pháp, Hoa Kỳ, Anh, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc Morrison, Gerber, Gaston .....
400
5 Máy nhuộm, in, hoàn thiện
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, VINATEX
Bên cạnh đó, công suất sử dụng các thiết bị công nghệ của ngành dệt thấp
hơn nhiều so với ngành may. Nếu so với công suất thiết kế, công suất sản xuất
thực tế của ngành dệt rất thấp (dệt vải chỉ đạt 60%). Nguyên nhân chính là do sự
chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trƣờng nhiều doanh nghiệp đã
không thể theo kịp tình hình mới. Một vài doanh nghiệp quy mô lớn đƣợc trang
bị các máy móc lỗi thời chỉ sản xuất các loại vải khổ nhỏ, chất lƣợng thấp và giá
thành lại cao đã không thể bán các sản phẩm của họ ra thị trƣờng và buộc phải
cắt giảm sản xuất hoặc đóng cửa doanh nghiệp để chờ cải tiến thiết bị máy móc.
Bảng 17: Tổng giá trị nhập khẩu trang thiết bị trong ngành dệt may Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004*
- 67 -
Tổng số 84 106 148 202 250 285
* Ƣớc tính
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Một vấn đề đáng lƣu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất
khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia
công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít các doanh
nghiệp may mặc nƣớc ta lúng túng, bị động trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm nhƣ quần âu, áo veston chiếm tỷ lệ
nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tƣ đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng
yêu cầu của nhà nhập khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt
may Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, áo sơ mi các loại... Đến nay, những
mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn
ngạch nhƣng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Nhƣ vậy, trong
thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt trang thiết bị kỹ
thuật, công nghệ và tay nghề tức là sẽ tự mình làm mất đi khả năng cạnh tranh
cũng nhƣ những thị trƣờng rất có tiềm năng cho ngành dệt may nƣớc nhà.
2/ Nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu
dài.
Có thể khẳng định rằng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất
khẩu hiện nay có nguyên nhân từ thực trạng nguồn nhân lực vừa thiếu về lƣợng
vừa thấp về trình độ tay nghề. Cụ thể là:
+ Đội ngũ lao động hiện tại có trình độ yếu kém cả về trình độ văn hóa và
chuyên môn tay nghề: Theo kết quả khảo sát tình trạng lao động của ngành dệt
may Thành phố Hồ Chí Minh (nơi chiếm khoảng gần 50% năng lực sản xuất
toàn quốc) thì lao động nhập cƣ chiếm khoảng 59%. Trong đó, 23% dƣới 20
tuổi, 47% từ 21 đến 30 tuổi; 21% có trình độ văn hóa cấp I, 14% đạt trình độ
cấp III (tỷ lệ này ở công nhân chỉ là 4%), còn lại là cấp II. Đây là nguyên nhân
cơ bản khiến số lao động này chỉ có thể tham gia các khóa đào tạo nghề ngắn
hạn (3 đến 6 tháng) nên tay nghề rất yếu. Theo bà Nguyễn Thị Nga - Trƣởng
phòng Tổ chức hành chính Công ty May Chiến thắng thì mỗi năm công ty này
cần tuyển mới khoảng 200 công nhân nhƣng các trung tâm đào tạo nghề không
đáp ứng đƣợc do chất lƣợng tay nghề thấp. Cũng theo số liệu điều tra trên, trình
- 68 -
độ của các trƣởng truyền cũng rất hạn chế: tốt nghiệp Đại học chiếm 6,5%; Cao
Đẳng là 8,2%, Trung cấp là 10,5%; 74,8% số lao động chuyên môn không có
bằng cấp chính quy... Đây thật sự là những con số đáng báo động.
+ Sự thiếu hụt về số lượng lao động: Theo Hiệp Hội Dệt may Việt Nam,
hiện nay, số lao động thiếu hụt bình quân tại các doanh nghiệp dệt may là 25%
đến 30%. Nhiều năm nay, ngành may rơi vào tình trạng “thừa đơn hàng, thiếu
lao động”. Đối với Công ty May Việt Tiến - một công ty đã rất thành công trên
thị trƣờng nội địa và ngoài nƣớc với sản phẩm chất lƣợng cao thì: Công ty đã
đầu tƣ thêm 02 nhà máy mới để nâng công suất nhƣng vẫn chƣa có đủ công nhân để đƣa vào hoạt động3. Hơn thế nữa, cá biệt còn có các doanh nghiệp đƣa ra các số liệu đáng báo động hơn. Ông Phạm Xuân Hồng - Giám đốc Công ty
May Sài Gòn 3 cho biết: Công ty đã chi 1,1 triệu VNĐ/01 lần để đăng báo
tuyển mới lao động nhƣng chỉ tuyển đƣợc 01 lao động và 13 kỹ sƣ ngành may
vừa tốt nghiệp. Tuy nhiên, cả 13 kỹ sƣ đó đều phải đào tạo lại và kết quả cuối
cùng là chỉ sử dụng đƣợc 01 ngƣời trong đó làm cán bộ kỹ thuật thuần túy (không thể làm đƣợc quản đốc và thâm chí cả trƣởng chuyền).4
Mặc dù nguồn nhân lực xã hội hiện có và lƣợng đƣợc bổ sung hàng năm là
tƣơng đối cao so với yêu cầu của ngành dệt may song đa phần trong số đó là lao
động phổ thông, chƣa qua đào tạo và có trình độ văn hóa thấp nên xét về khả
năng cung ứng lao động có tay nghề của thị trƣờng lao động thì ngành may
đang thiếu trầm trọng công nhân lành nghề và cán bộ quản trị các cấp... Nhƣ
vậy, đối với ngành dệt may hiện nay tồn tại thực trạng dƣ thừa lao động phổ
thông nhƣng lại thiếu nghiêm trọng lao động có tay nghề.
Thực trạng trên không chỉ tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hƣởng nhiều tới việc đảm bảo quyền lợi
cho ngƣời lao động, nhƣ: (1) Do trình độ văn hóa thấp nên lao động rất khó tiếp
thu các công nghệ mới; thiếu hiểu biết về luật pháp, nội quy kỷ luật lao động...
rất dễ xảy ra tiêu cực đối với ngƣời lao động cũng nhƣ những ứng xử không
thích hợp trong quan hệ đồng nghiệp, quan hệ chủ thợ... Mặt khác, cũng do
trình độ văn hóa thấp nên ngƣời lao động rất dễ bị những ngƣời sử dụng lao
3 Theo Báo Sài Gòn Giải phóng ngày 11-06-2002 4 Theo Báo Thanh Niên số ra ngày 12-07-2002.
- 69 -
động chèn ép, cắt xén quyền lợi... (2) Đã có sự tranh giành lao động bậc cao
giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau. Để cắt giảm kinh phí đào tạo, các
doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nhiều hình thức khác nhau để lôi kéo các lao
động có tay nghề cao từ các doanh nghiệp khác về doanh nghiệp mình (điển
hình là khu vực phía Nam). Đây là nguyên nhân cơ bản khiến chỉ số biến động
về nguồn nhân lực trong ngành dệt may lên tới 19%/năm (kéo theo nó là việc
rất khó đảm bảo các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho ngƣời lao động).
Bên cạnh đó, thực trạng về nguồn nhân lực nêu trên còn buộc một số doanh
nghiệp không dám nhận thêm hợp đồng do thiếu hụt lao động.
Theo thống kê năm 2003 của Hiệp hội dệt may Việt nam, hiện nay toàn
ngành đang sử dụng khoảng 2 triệu lao động trực tiếp. Để tăng năng suất khoảng
20%/năm trong 5 năm tới thì nhu cầu lao động tuyển mới vào khoảng gần 1 triệu
lao động. Trong đó, có khoảng 1.600 giám đốc điều hành, 3.000 quản đốc, 5.000
kỹ thuật viên, 18.000 trƣởng truyền, 18.000 nhân viên KCS và trên 800.000 lao
động với tay nghề bậc 3/7. Đây thật sự là những đòi hỏi vƣợt quá khả năng đáp
ứng của ngành dệt may Việt Nam. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực đang là một
vấn đề bức xúc đối với hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
3/ Hệ thống phân phối sản phẩm xuất khẩu kém hiệu quả.
Đã có nhiều minh chứng để khẳng định rằng: Ngành may Việt Nam đang
mất dần những lợi thế cạnh tranh vào tay các đối thủ cạnh tranh mà một các trong
nguyên nhân chính có liên quan đến hệ thống phân phối sản phẩm xuất khẩu.
Phƣơng thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
dệt may xuất khẩu hiện nay là gia công xuất khẩu cho đối tác nƣớc ngoài.
Phƣơng thức phân phối này có điểm lợi là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam
không phải chịu rủi ro trong quá trình lƣu thông hàng hóa. Trong khi đó, rủi ro
trong lƣu thông hàng dệt may luôn đƣợc đánh giá có tỷ lệ tƣơng đối cao do một
số nguyên nhân cơ bản sau: Rủi ro do tính chất hay thay đổi của thị trƣờng, bởi
việc tiêu thụ hàng dệt may chịu ảnh hƣởng rất lớn của thời trang và thị hiếu
ngƣời tiêu dùng - những yếu tố rất kém bền vững. Do đó, quá trình phân phối
sản phẩm, các nhà phân phối phải dựa vào hoạt động marketing để tiến hành lập
kế hoạch sản xuất và thiết kế mẫu mã phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng. Trái
- 70 -
lại, nếu nó không phù hợp với những đòi hỏi của thị trƣờng thì không thể tiêu
thụ đƣợc với hiệu quả nhƣ dự kiến. Đây là rủi ro lớn nhất mà các nhà phân phối
phải tính đến trong sách lƣợc kinh doanh.
Tuy nhiên, do có khoảng 70% đến 85% giá trị sản phẩm may là làm gia
công; chỉ khoảng 10% đến 15% trong đó sử dụng nguyên liệu và nhân công
trong nƣớc để sản xuất nên kim ngạch xuất khẩu lớn nhƣng giá trị gia tăng và
thực thu ngoại tệ thấp (chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch). Thêm vào đó,
phƣơng thức này đặt các doanh nghiệp dệt may – nhất là doanh nghiệp may vào
tình trạng thiếu chủ động trong sản xuất kinh doanh. Cụ thể nhƣ:
+ Khả năng tiếp cận thị trƣờng ngoài nƣớc còn hạn chế: Do đặc thù của
phƣơng thức xuất khẩu này là việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng và tổ chức các
kênh phân phối sản phẩm đều do các đối tác nƣớc ngoài thực hiện nên hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam không nắm đƣợc nhu cầu thực tế của thị trƣờng.
Thực tế thời gian qua cho thấy, mặc dù số lƣợng hạn ngạch đƣợc hƣởng từ thị
trƣờng EU và Hoa Kỳ đang ngày càng tăng nhƣng tỷ lệ hạn ngạch đƣợc cấp so
với các quốc gia khác là đối thủ cạnh tranh còn rất thấp (ở thị trƣờng EU chỉ
bằng 5% tổng hạn ngạch của Trung Quốc và chỉ tƣơng đƣơng từ 10% đến 20%
các nƣớc ASEAN khác). Hơn thế nữa, số mặt hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch
cũng lớn hơn rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh (đặc biệt là từ ngày
01/01/2005, các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam đều đƣợc rỡ bỏ hạn ngạch do
là thành viên WTO). Các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít thông tin về thị
trƣờng và đối tác nƣớc ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống thƣơng vụ
Việt Nam tại nƣớc ngoài hoạt động chƣa hiệu quả và các doanh nghiệp không
có đủ điều kiện về tài chính để tổ chức các hoạt động thu thập thông tin, xúc
tiến thƣơng mại cũng nhƣ đặt đại diện ở các quốc gia bạn hàng.
+ Nội lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên các
thị trƣờng còn thấp kém; thời gian đáp ứng yêu cầu các đơn hàng lớn còn gặp
nhiều khó khăn: Mặc dù giá nhân công/giờ lao động ở Việt Nam rẻ hơn so với
các nƣớc trong khu vực song, năng suất lao động của công nhân chỉ tƣơng
đƣơng 2/3 các quốc gia này. Vì vậy, khi muốn đáp ứng về mặt thời gian đối với
các đơn hàng lớn, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam phải tăng ca, làm thêm giờ.
- 71 -
Muốn vậy, các chủ doanh nghiệp cần có sự thỏa thuận với ngƣời lao động (yêu
cầu của Bộ Luật Lao động) và đây là một khó khăn không nhỏ đối với các chủ
doanh nghiệp).
+ Mặc dù mô hình liên kết vệ tinh trong hình thức gia công xuất khẩu giữa
các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ ngành may đã có song hiệu quả
hơn tác chƣa cao. Hơn thế nữa, nhƣ đã phân tích ở trên, sự cạnh tranh trong nội
bộ ngành đã dẫn tới hiện tƣợng phá giá gia công cho đối tác nƣớc ngoài, làm
giảm lợi nhuận trong lĩnh vực gia công xuất khẩu nói chung của toàn ngành
may mặc xuất khẩu Việt Nam (giá gia công áo sơ mi ở Thành phố Hồ chí Minh
đã giảm tới 30% so với vài năm trƣớc đây).
4/Công nghiệp phụ trợ kém phát triển.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong và ngoài nƣớc, các ngành công
nghiệp phụ trợ cho dệt may Việt Nam còn rất yếu. Nếu so sánh trình độ công
nghệ hiện tại của công nghiệp Việt Nam với các quốc gia khác trong Châu Á thì
chỉ tƣơng đƣơng với Trung Quốc những năm 80, Malaysia những năm 70, Hàn
Quốc những năm 60 và Nhật Bản những năm 20 của thế kỷ trƣớc. Vấn đề đối
với ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may còn trầm trọng hơn nhiều.
Chẳng hạn về công nghiệp cơ khí phục vụ dệt may: Bên cạnh các xƣởng cơ
khí ngành may làm nhiệm vụ sửa chữa, thay thế phụ tùng, cơ kiện thì VINATEX
hiện có bốn công ty cơ khí chuyên ngành chuyên sản xuất phụ tùng, trang thiết bị
và cơ kiện cho ngành may (Công ty Cổ phần cơ khí may Gia Lâm, Công ty Cổ
phần Cơ khí may Nam Định, Công ty Cổ phần Cơ khí Hƣng Yên và Công ty Cơ
khí Thủ Đức). Thời gian qua, các đơn vị này tuy đã có nhiều cố gắng nhƣng do
năng lực còn hạn chế nên không thể đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển rất nhanh
của các doanh nghiệp may. Tổng giá trị sản xuất mỗi năm của các công ty này
chỉ đạt khoảng 9 triệu USD tƣơng đƣơng khoảng 4.000 tấn phụ tùng; chủ yếu là
các trang thiết bị nhỏ, lẻ nhƣ: máy trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy
san chỉ... và cũng chỉ đáp ứng đƣợc một phần nhỏ nhu cầu của ngành may. Trong
khi đó, phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt vẫn phải nhập khẩu tới 80%... Rõ ràng là
ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may hiện nay đang tồn tại một một
nghịch lý là hầu hết các công ty này đều không phát huy đƣợc hiệu quả do không
đáp ứng đƣợc các yêu cầu tƣơng đối khắt khe về chất lƣợng và thời gian giao
- 72 -
hàng. Vì vậy, để đảm bảo đời sống cho công nhân và duy trì sản xuất, các công ty
này thƣờng nhận gia công các sản phẩm cơ khí cho các doanh nghiệp ngoài
ngành. Trong khi đó, ngành dệt may lại phải chi hàng chục triệu USD để nhập
khẩu phụ tùng, cơ kiện phục vụ phát triển sản xuất.
Nguyên, phụ liệu trong nƣớc (đặc biệt là ngành dệt) chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng do chất lƣợng vải thấp nên phải nhập khẩu
(trung bình nhập khẩu khoảng 130.000 tấn bông và 100% lƣợng tơ sợi tổng
hợp); vì vậy rất bị động, thiếu đồng bộ và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian
(nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải chịu thuế nhập khẩu).
Nguyên, phụ liệu ngành may hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào thị trƣờng
nƣớc ngoài (bông nhập khẩu khoảng 90%, vải nhập khẩu khoảng 70%). Điều
này không chỉ làm tăng giá thành của sản phẩm mà còn cản trở khả năng đáp
ứng nhanh các đơn hàng yêu cầu thời gian giao hàng ngắn. Đối với vấn đề cung
cấp nguyên, phụ liệu đầu vào, VINATEX là đơn vị lớn nhất trong ngành, nắm
vai trò chủ đạo trong việc cung ứng theo nhu cầu của các doanh nghiệp trong
nƣớc (chế biến 85% bông, chiếm khoảng gần 70% năng lực kéo sợi...). Song
vấn đề phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của VINATEX nói riêng và toàn
ngành dệt may nói chung còn rất nhiều vấn đề cần quan tâm. Bên cạnh đó, năng
lực thiết kế thời trang trong nƣớc còn quá yếu và chƣa đƣợc chú trọng, còn nặng
tƣ tƣởng may gia công để tìm lợi nhuận. Chất lƣợng dịch vụ của ngành dệt may
nhƣ hệ thống thông tin, giao dịch, chăm sóc khách hàng chƣa đƣợc hoàn thiện.
Bảng 18: Chất lượng của nguồn cung ứng đầu vào trong nước theo đánh giá của doanh nghiệp
Mức độ đánh giá
Chất lượng thấp của đầu vào trong nước
Mức độ tin cậy của các nhà cung ứng
Thiếu đầu vào ở thị trường trong nước
Không có vấn đề
11%
28%
13%
Là vấn đề vừa phải
51%
52%
35%
Là vấn đề nghiêm trọng
38%
20%
52%
Nguồn: Số liệu điều tra 96 doanh nghiệp dệt may - Viện Kinh tế Việt Nam năm 1999
Có thể tổng kết một số nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém của công
nghiệp phụ trợ ngành dệt may hiện nay nhƣ sau: (1) Do trình độ, máy móc, thiết
- 73 -
bị của các công ty cơ khí dệt may đã quá lỗi thời nên không thể đáp ứng đƣợc
yêu cầu ngày càng cao về chất lƣợng cũng nhƣ thời gian giao hàng của các
doanh nghiệp dệt may. (2) Một số lƣợng lớn phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt
may đang đƣợc nhập lậu vào Việt Nam từ Trung Quốc nên giá cả thấp hơn sản
xuất trong nƣớc. Hơn thế nữa, bản thân các công ty cơ khí của ngành cũng còn
tâm lý lo ngại trong đầu tƣ đổi mới trang thiết bị công nghệ vì lo sợ không cạnh
tranh đƣợc với hàng nhập khẩu. (3) Sự biến động giá cả các nguyên liệu đầu
vào của các ngành công nghiệp phụ trợ làm cho hiệu quả hoạt động sản xuất
thấp (đặc biệt là giá sắt thép). (4) Phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt may (đặc biệt
là ngành dệt) rất phức tạp, yêu cầu cao về chất lƣợng, đòi hỏi sự chính xác cao
độ nên chỉ có thể đƣợc đảm bảo bởi các dây chuyền công nghệ hiện đại với đội
ngũ công nhân lành nghề. Đây là điều không chỉ bản thân các doanh nghiệp cơ
khí có thể giải quyết đƣợc.
5/ Về quy mô nhỏ và yếu về liên kết trong nội bộ ngành.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thiếu sự liên kết trong nội bộ ngành
khiến khả năng đáp ứng những đơn đặt hàng lớn với thời gian giao hàng nhanh
còn nhiều hạn chế: Trình độ và quy mô ngành dệt Việt Nam còn rất nhỏ so với
các đối thủ cạnh tranh chính (Trung Quốc, Ấn Độ...) và chƣa có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may trong việc khai thác
năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng cạnh tranh nội bộ
, thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng của mình). Hơn thế nữa, hiện nay
đang tồn tại một thực trạng đáng lƣu ý ở ngành dệt là trong khi mối liên hệ dọc
giữa các cơ sở dệt rất yếu kém thì vẫn tồn tại một mô hình sản xuất hỗn hợp
trong một doanh nghiệp dệt. Trong đó, các doanh nghiệp này ngoài sản xuất
hàng dệt còn sản xuất hàng may mặc. Thực tế đã có một số doanh nghiệp dệt
đƣa hoạt động sản xuất quần áo vào danh mục kinh doanh của mình và cũng đã
có những thành công nhất định. Tuy nhiên, hiện tƣợng này đã vô hình chung tạo
nên sự cạnh tranh không cần thiết trong chính nội bộ ngành dệt may và nó làm
cho sự liên kết giữa hai lĩnh vực này vốn đã lỏng lẻo lại càng lỏng lẻo hơn.
Đáng lƣu ý là khi lựa chọn phƣơng thức kinh doanh này, các doanh nghiệp dệt
- 74 -
không chỉ để giải quyết sự dƣ thừa lao động trong lĩnh vực dệt mà còn xuất phát
từ động cơ cần sử dụng một số sản phẩm dệt của doanh nghiệp mình vào lĩnh
vực may. Tuy nhiên, mô hình kinh doanh này chỉ thành công khi các doanh
nghiệp có đƣợc khả năng tiếp cận với hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng của
họ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, động cơ chính của việc đƣa sản xuất hàng
may mặc vào các doanh nghiệp dệt là để giành đƣợc lợi thế và tăng cƣờng khả
năng tiếp cận với các thị trƣờng có hạn ngạch - những thị trƣờng có tỷ lệ lợi
nhuận cao (rất nhiều doanh nghiệp may mong muốn đạt đƣợc).
6/ Về hoạt động xúc tiến thương mại và một số vấn đề khác của ngành.
+ Hoạt động xúc tiến thƣơng mại của Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc yêu
cầu hiện nay. Thực trạng này tồn tại ở hầu khắp các lĩnh vực kinh tế. Với ngành
dệt may, công tác xúc tiến thƣơng mại đóng vai trò hết sức quan trọng do đặc
điểm về chu kỳ sống của sản phẩm là rất ngắn, bị chi phối nhiều bởi yếu tố thị
hiếu khách hàng - yếu tố rất dễ thay đổi. Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến thƣơng
mại trong ngành dệt may chƣa đƣợc quan tâm đúng mức (ngay cả tại thị trƣờng
trong nƣớc). Hậu quả của nó làm cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung rất
thiếu thông tin về các thị trƣờng xuất khẩu lớn (đặc biệt là thị trƣờng Hoa Kỳ,
EU và Nhật Bản), chƣa hiểu biết rõ về môi trƣờng kinh doanh, hệ thống pháp
luật của nƣớc nhập khẩu, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong môi
trƣờng quốc tế... Điều này giải thích cho việc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam thƣờng bị ép giá trong quá trình đàm phán với các đối tác nƣớc ngoài.
+ Hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ chƣa cao, còn nhiều doanh nghiệp kinh
doanh thua lỗ (đặc biệt là các DNNN), một số doanh nghiệp chƣa mạnh dạn đầu
tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc quản lý sản xuất, quản lý trang thiết bị,
công nghệ, vệ sinh môi trƣờng... còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh. Chƣa có sự
liên kết giữa Hiệp hội dệt may, VINATEX với các bộ, ban, ngành liên quan, với
các địa phƣơng nên dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nƣớc sản xuất ra
đảm bảo chất lƣợng, giá cả cạnh tranh nhƣng vẫn còn nhập ngoại với số lƣợng
lớn... Thị trƣờng xuất khẩu và các yếu tố sản xuất khác còn phụ thuộc quá nhiều
- 75 -
vào thị trƣờng hạn ngạch và yếu tố nƣớc ngoài trong khi chƣa tìm ra con đƣờng
để khai thác hiệu quả các thị trƣờng phi hạn ngạch và nguồn nguyên liệu trong
nƣớc.
+ Công tác tổ chức, quản lý còn kém thể hiện qua việc bố trí, sắp xếp lao
động và tổ chức sản xuất chƣa khoa học; chƣa tạo đƣợc sự gắn bó chặt chẽ giữa
các khâu của quá trình sản xuất, các bộ phận của doanh nghiệp và sự kết nối
giữa các khâu còn yếu.
+ Sự thiếu ổn định trong tăng trƣởng xuất khẩu sản phẩm dệt may: Hàng
dệt may Việt Nam đã tìm đƣợc chỗ đứng trên thị trƣờng thế giới, song việc xác
lập một vị trí chức chắn trên thị trƣờng quốc tế hoàn toàn không đơn giản. Cuối
năm 2000, đầu 2001, gần nhƣ toàn bộ ngành dệt may Việt Nam đã rơi vào tình
trạng thiếu đơn đặt hàng và các doanh nghiệp đã phải hạ giá gia công từ 30%
đến 40% (mức không còn lợi nhuận). Khi nền kinh tế thế giới giảm sút tốc độ
tăng trƣởng thì nhập khẩu của các nƣớc bạn hàng lớn (đặc biệt là Nhật Bản)
cũng suy giảm rõ rệt. Tại thị trƣờng EU, hàng dệt may Việt Nam đang mất dần
lợi thế so với Trung Quốc, Ấn Độ do EU bắt đầu nới lỏng các hạn chế nhập
khẩu từ các quốc gia này. Hơn thế nữa, đây là thời kỳ mà Trung Quốc đã rất
thành công trong việc cải thiện chất lƣợng sản phẩm - điểm yếu trƣớc đây của
các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, giá gia công của một số
chủng loại sản phẩm của Trung Quốc thấp hơn tới 20% so với Việt Nam.
Bên cạnh những yếu kém cơ bản trong nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu cho sản phẩm dệt may nêu trên, ngành dệt may Việt Nam còn gặp rất
nhiều khó khăn ngay trên thị trƣờng trong nƣớc. Thị trƣờng nội địa còn để cho
sản phẩm ngoại chiếm phần lớn thị phần (theo số liệu điều tra năm 2002 do
JICA tiến hành tại Việt Nam, có tới trên 70% thị phần hàng dệt may tiêu thụ
trong nƣớc là của các sản phẩm nhập ngoại. Đa phần số đó là các sản phẩm giá
rẻ, đƣợc nhập khẩu từ Trung Quốc và thị trƣờng tiêu thụ chính là nông thôn
Việt Nam). Do xu hƣớng tự do hoá thƣơng mại, nên hàng may mặc bên ngoài
tràn vào nƣớc ta từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trốn thuế, hàng viện trợ của
SIDA... giá rất rẻ, tràn ngập thị trƣờng trong nƣớc làm cho sản xuất hàng may
- 76 -
mặc trong nƣớc bị thu hẹp. Ngoài ra, do chƣa trở thành thành viên WTO nên
công nghiệp dệt may Việt Nam không đƣợc hƣởng những ƣu đãi do ACT mang
lại; điều này đã gây khó khăn đáng kể cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu
nói riêng và toàn ngành dệt may nói chung.
7/ Chính sách hỗ trợ phát triển còn thiếu, chưa đồng bộ và kém hiệu quả.
Năng lực cạnh tranh bị chi phối bởi hệ thống các chính sách hỗ trợ phát
triển ngành dệt may xuất khẩu trong nƣớc còn nhiều bất cập, nhƣ: (1) Một số
chính sách hiện hành vẫn chƣa thực sự tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu
hàng may mặc, không cạnh tranh đƣợc với giá thành, giá bán trên thị trƣờng
(chính sách thuế, chính sách quản lý thời gian đối với hàng tạm nhập, tái
xuất...). (2) Chính phủ chƣa có ƣu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu
tƣ phát triển ngành dệt may nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng nên các
dự án đầu tƣ mới, vốn lớn rất khó triển khai do thiếu tính khả thi. (3) Vấn đề tỷ
lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong các cơ
quản lý Nhà nƣớc sao cho công bằng và hợp lý giữa các thành phần kinh tế. (4)
Sự cứng nhắc trong việc cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận mẫu
hàng gửi theo đƣờng hàng không mà đối tác nƣớc ngoài gửi cần đƣợc điều
chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thị trƣờng về mặt thời gian. (5) Mức độ ổn định
trong các chính sách và quy định cụ thể không cao khiến doanh nghiệp khó có
khả năng ứng phó kịp thời với những thay đổi của hệ thống luật pháp... Bên
cạnh đó, tại các thị trƣờng hạn ngạch, việc phân bổ hạn ngạch cho doanh nghiệp
xuất khẩu gặp nhiều lúng túng, bất bình đẳng và nhiều tiêu cực, gây trở ngại và
làm tăng chi phí giao dịch cho doanh nghiệp xuất khẩu.
8/ Cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt.
Do đặc thù ngành may là đòi hỏi lƣợng vốn đầu tƣ không lớn, công nghệ
không quá phức tạp, suất đầu tƣ thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh nên các
điều kiện gia nhập và rút lui khỏi thị trƣờng không quá khó khăn. Vì vậy, tính
cạnh tranh của các doanh nghiệp may thiếu bền vững. Khi thâm nhập vào thị
trƣờng dệt may thế giới (đặc biệt là các thị trƣờng lón nhƣ: Bắc Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản...) thì đối thủ cạnh tranh mạnh nhất chính là Trung Quốc.
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới lại có lịch sử phát triển
- 77 -
ngành dệt may lâu đời và luôn giữ vị thế hàng đầu trong ngành dệt may thế giới
về sản lƣợng, nguyên, phụ liệu, công suất may... nên không chỉ là đối thủ cạnh
tranh trực tiếp của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam mà còn là đối thủ của các
quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may khác. Công nghiệp dệt may Trung Quốc
luôn là ngành công nghiệp có đóng góp lớn nhất cho tổng thu nhập quốc dân:
Giá trị sản lƣợng ngành dệt may chiếm tới 20% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã, đang và sẽ
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may thế
giới (khoảng 20%). Các thị trƣờng lớn nhất của hàng dệt may Trung Quốc là:
Hồng Kông, Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và úc (80% sản phẩm xuất khẩu của Trung
Quốc là xuất khẩu sang các thị trƣờng này)... Trung Quốc đang tiến hành cơ cấu
lại ngành dệt may để chuyển từ quốc gia có ngành dệt may lớn thành quốc gia
có ngành công nghiệp dệt may phát triển mạnh.
Hiện nay, Trung Quốc đang có một số lợi thế so sánh trong phát triển
ngành dệt may so với các đối thủ cạnh tranh: (1) Trung Quốc có độ ngũ nhân
viên kỹ thuật giỏi và số công nhân lành nghề cao. (2) Khả năng cạnh tranh về
giá rất lớn (giá hàng cùng loại của Trung Quốc chỉ tƣơng đƣơng 80% giá hàng
Việt Nam). (3) Hệ thống chính sách hỗ trợ của Chính Phủ Trung Quốc rất đồng
bộ và hiệu quả cao. (4) Công tác marketing tốt. (5) Cơ cấu ngành dệt may tƣơng
đối hợp lý và đã phát triển ở một mức độ nhất định. Và (6) Những lợi thế so với
Việt Nam có đƣợc do Trung Quốc đã là thành viên chính thức của WTO.
Ngoài ra, các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn phải cạnh
tranh trực tiếp với các sản phẩm đến từ các quốc gia khác, nhƣ: Ấn Độ,
Pakistan, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia... Đây là những quốc gia
hiện đang có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với Việt Nam.
Rõ ràng là, cùng với quá trình hội nhập của nền kinh tế, sau hơn mƣời năm
nỗ lực, ngành dệt may đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc. Trên thị trƣờng thế giới,
sản phẩm dệt may xuất khẩu đã có vị trí đáng kể và đã thâm nhập vào nhiều
quốc gia và khu vực. Điều đó thể hiện những cố gắng tích cực trƣớc hết là của
các doanh nghiệp và các nhà quản lý công nghiệp dệt may trong việc tạo lập và
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trƣờng thế giới. Tuy
nhiên, những phân tích trên đây cho thấy xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt
- 78 -
Nam còn kém hiệu quả do năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may còn thấp,
chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu ngày càng khắt khe và nhiều biến động của
thị trƣờng thế giới. Những hạn chế đó không chỉ là do những vấn đề của bản
thân các doanh nghiệp ngành dệt may mà còn do những yếu kém nhiều mặt của
ngành và của nền kinh tế chậm phát triển, và nhất là cả sự kém hiệu quả trong
quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, xuất khẩu sản phẩm dệt may. Tình hình
ấy đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
sản phẩm dệt may xuất khẩu, thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may trong
- 79 -
điều kiện mới.
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
CHƢƠNG 3
3.1. Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và thách thức mới của thị trường dệt may thế giới.
- Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu
thế khách quan và diễn ra một cách nhanh chóng.
Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều nhìn nhận khu vực hóa và toàn
cầu hóa kinh tế thế giới là một xu thế khách quan; mọi quốc gia muốn phát triển
nhất thiết phải tham gia vào quá trình ấy. Trong xu thế này, các khối liên kết
kinh tế đã đang và sẽ đƣợc thành lập luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế cho các
quốc gia thành viên nhƣ mục tiêu chính, căn bản và xuyên suốt. Mọi quốc gia đi
ngƣợc lại xu thế này tất yếu sẽ lạc hậu và không có môi trƣờng, điều kiện thuận
lợi để phát triển.
Vừa qua, EU đã quyết định mở rộng khối liên minh thêm 10 quốc gia
(tháng 4/2004) đƣa tổng dân số trong khối lên tới 500 triệu ngƣời và GDP toàn
khối đạt 10.000 tỷ USD (gần tƣơng đƣơng với nền kinh tế lớn nhất thế giới -
Mỹ). Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Khối MECOSUR với sự
tham gia của 33 quốc gia với khoảng 911 triệu ngƣời, GDP của khu vực này đạt
khoảng 11.000 tỷ USD... là những minh chứng cụ thể cho quá trình liên kết
kinh tế theo hƣớng khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng nhanh
chóng. Hơn thế nữa, toàn cầu hóa kinh tế quốc tế còn thể hiện qua việc WTO đã
phát động vòng đàm phán Doha mới (đầu năm 2005) với việc đƣa ra các yêu
cầu tự do hóa thƣơng mại nhanh hơn nữa; vai trò của các công ty xuyên quốc
gia (TNCs) đang ngày càng lớn mạnh (chỉ tính riêng 70.000 công ty đa quốc gia
đã chiến tới 1/3 tổng thƣơng mại toàn cầu và đã đóng vai trò chi phối nhiều loại
hàng hóa, giá cả, kỹ thuật và vốn của nền sản xuất thế giới). Bên cạnh các khối
- 80 -
kinh tế đã hình thành thì việc các quốc gia có cùng tôn giáo, gần nhau về vị trí
địa lý hay tƣơng đồng về trình độ phát triển cũng đang nỗ lực hình thành các
liên kết kinh tế nhƣ bƣớc khởi sự để triển khai hội nhập chung vào nền kinh tế
thế giới: Nhóm các quốc gia hình thành theo thỏa thuận Thƣợng Hải; cộng đồng
các quốc gia Châu Phi cũng nhƣ sự tƣơng trợ chính thức và không chính thức
trong cộng đồng các quốc gia Hồi giáo...
Đồng thời với xu thế hội nhập khu vực và thế giới, những mâu thuẫn về
quyền lợi kinh tế cũng nhƣ sự chi phối tới chính trị của các quốc gia phát triển
đối với các nƣớc đang và chậm phát triển cũng ngày càng rõ rệt. Việc các quốc
gia G8 rất khó đạt đƣợc những cam kết có lợi hơn cho thƣơng mại toàn cầu
cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với các quốc gia đang phát triển đã trở
thành vấn đề thƣờng niên của cuộc gặp thƣợng đỉnh hàng năm (giảm thiểu để đi
đến xóa bỏ bảo hộ một số lĩnh vực của G8, giảm và xóa nợ cho các nƣớc nghèo
nhất thế giới...). Bên cạnh đó, mức độ xung đột về lợi ích giữa khối các quốc gia
phát triển và các nƣớc còn lại đang ngày càng gay gắt. Mặc dù các nƣớc đi sau
luôn phải chấp nhận luật lệ thƣơng mại tự do của WTO (do các nƣớc phát triển
đi trƣớc xây dựng) nhƣng do sự gia tăng vai trò cũng nhƣ thị trƣờng của các
quốc gia đang phát triển nên tiếng nói của khối này trong các vòng đàm phán
thƣơng mại toàn cầu đang ngày càng có trọng lƣợng. Đây cũng chính là nguyên
nhân khiến các cuộc đàm phán đổ vỡ (điểm hình là vòng đàm phán Doha 2001).
Trong khi các quốc gia phát triển luôn yêu cầu các nƣớc đi sau mở cửa hơn nữa
cho hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu thì họ lại kiên trì bảo hộ một số ngành sản
xuất trong nƣớc (dƣới những hình thức truyền thống - hạn ngạch và các hình
thức bảo hộ mới - chống phá giá, áp dụng các tiêu chuẩn về lao động, môi
trƣờng, xã hội...).... Rõ ràng là, xu thế toàn cầu hóa cũng nhƣ vai trò ngày càng
lớn mạnh của khối các quốc gia đang phát triển là không thể đảo ngƣợc song nó
cũng đồng thời tồn tại các mâu thuẫn cố hữu bắt nguồn từ sự chênh lệch quá lớn
về trình độ phát triển cũng nhƣ lợi ích do toàn cầu hóa mang lại khác nhau giữa
các quốc gia và khu vực trên thế giới.
- 81 -
- Xu hướng thương mại tự do đối với các sản phẩm dệt may nội bộ WTO.
Từ những năm 30, các hạn chế về số lƣợng hàng trong buôn bán dệt may
đã đƣợc Mỹ và một số nƣớc Phƣơng Tây áp đặt để hạn chế nhập khẩu hàng dệt
may. Năm 1961, hàng dệt may bắt đầu đƣợc xem xét một cách chính thức bên
ngoài các quy định thông thƣờng của GATT bằng các thoả thuận ngắn và dài
hạn về sợi bông và sau đó (năm 1974) là Hiệp định Đa sợi (Multi Fibre
Arrangement - MFA). Theo MFA, các nƣớc nhập khẩu có thể thông qua các
thoả thuận song phƣơng hoặc trong trƣờng hợp không đi đến thoả thuận song
phƣơng có thể đơn phƣơng thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với
từng nƣớc xuất khẩu và tốc độ tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ theo mỗi nƣớc.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay của WTO, ATC ra
đời thay thế cho MFA và là hiệp định quốc tế chính thức bao trùm trong lĩnh
vực dệt may. Theo quy định của ATC, quá trình tự do hóa buôn bán các sản
phẩm dệt may sẽ chuyển qua một giai đoạn chuyển tiếp, bắt đầu từ 01/01/1995
và đƣợc thực hiện theo 2 nội dung chính:
Hàng dệt may hội nhập dần dần vào các quy định thông thƣờng của
GATT, quá trình này bao gồm 4 giai đoạn:
+ Ngày 01/01/1995 hội nhập không dƣới 16% khối lƣợng hàng hoá nhập
khẩu theo bản danh mục hàng hoá của Hiệp định.
+ Ngày 01/01/1998 hội nhập không dƣới 17% tiếp theo khối lƣợng hàng
hoá nhập khẩu.
+ Ngày 01/01/2002 hội nhập không dƣới 18% tiếp theo khối lƣợng của
hàng hoá nhập khẩu.
+ Ngày 01/01/2005 tất cả các hàng hoá còn lại phải đƣợc hội nhập, các
hạn chế theo MFA sẽ đƣợc loại bỏ hoàn toàn.
Trong từng giai đoạn, mỗi nƣớc nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản phẩm
nào trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo để đƣa vào danh mục hội nhập.
Các sản phẩm này không nhất thiết phải giống nhau ở các quốc gia nhập khẩu.
Thông thƣờng các sản phẩm đƣợc lựa chọn thƣờng là các sản phẩm ít nhạy cảm.
Bên cạnh đó, thời gian trƣớc khi ATC có hiệu lực hoàn toàn cũng nhƣ đối
- 82 -
với các quốc gia chƣa là thành viên của WTO thì tốc độ gia tăng hạn ngạch đối
với các sản phẩm còn bị hạn chế là rất lớn. Hiệp định đƣa ra một cách thức gia
tăng tốc độ tăng trƣởng hạn ngạch đối với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các
thoả thuận song phƣơng trƣớc đây của MFA. Trong giai đoạn 1 (từ 1995 đến
hết 1997) đối với mỗi hạn chế song phƣơng, mức tăng trƣởng hạn ngạch sẽ
không dƣới 16%, là mức cao hơn so với mức gia tăng theo MFA. Trong giai
đoạn 2 (từ 1998 đến hết 2001), mức tăng trƣởng phải là 25%, cao hơn mức tăng
ở giai đoạn 1. Giai đoạn 3 (từ 2002 đến hết 2004) mức tăng trƣởng phải là 27%
cao hơn mức tăng trƣởng ở giai đoạn 2.
Các hạn chế không phải của MFA và không đƣợc điều chỉnh theo GATT
phải đƣợc đƣa vào để phù hợp với GATT hoặc bị loại bỏ luỹ tiến trong một thời
hạn không vƣợt quá thời hạn của Hiệp định, tức là vào năm 2005. Trong thời kỳ
chuyển đổi, Hiệp định cũng cho phép các nƣớc thành viên có thể áp dụng các
biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm chƣa chịu sự điều tiết của Hiệp
định. Tuy nhiên, cần phải chứng minh rằng các sản phẩm này đang đƣợc nhập
khẩu với khối lƣợng lớn làm thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ làm thiệt hại các
sản phẩm tƣơng tự ở trong nƣớc.
Theo Hiệp định hàng Dệt may (ATC) ký tại vòng đàm phán thƣơng mại đa
biên tháng 4/1994 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho Hiệp định đa sợi
(MFA) thì đến ngày 01 tháng 1 năm 2005, tất cả hàng dệt may phải đƣợc hoà
nhập trở lại theo những nguyên tắc thƣơng mại thông thƣờng của WTO. Nhƣ
vậy, hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ cũng nhƣ các quốc gia phát triển thuộc
WTO khác sẽ đƣợc loại bỏ đối với các quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may là
thành viên WTO và thuế trung bình sẽ giảm (9% ở thị trƣờng Mỹ). Đây là một
thách thức lớn đối với các quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may chƣa là thành
viên WTO (trong đó có Việt Nam).
Hiện nay, các quốc gia thành viên WTO đã hội nhập hoàn toàn về thƣơng
mại dệt may từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 và Việt Nam cũng đang đứng trƣớc
sức ép phải hội nhập hoàn toàn vào Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
(AFTA). Cùng với xu thế hội nhập sâu rộng trong tiến trình khu vực hóa và
- 83 -
toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới đang đẩy mạnh các cuộc đàm phán song
và đa phƣơng để ký kết các hiện định thƣơng mại tự do nhằm tăng cƣờng các
quan hệ song và đa phƣơng... Điều này đã cho phép các quốc gia thâm nhập
mạnh hơn vào thị trƣờng của nhau nên các quốc gia có ƣu thế về mỗi chủng loại
hàng hóa có khả năng xâm nhập và chiếm lĩnh thị phần ở các quốc gia khác.
Đối với hàng dệt may xuất khẩu, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Banglades... là
những quốc gia có nhiều cơ hội để mở rộng thị phần xuất khẩu các sản phẩm
này.
Sự chuyển dịch căn bản của thị trƣờng hàng dệt may sẽ có tác động đáng
kể tới xuất khẩu của nhiều nƣớc đang phát triển và các nền kinh tế đang trong
thời kỳ chuyển đổi, đặc biệt là các quốc gia phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu
hàng may mặc. Các nƣớc nhƣ Campuchia với thị phần hàng dệt may chiếm tới
85% trong tổng cơ cấu hàng xuất khẩu, Bangladesh (chiếm 75%) và Nepal
(chiếm 40%) cần phải rất cố gắng để ít nhất giữ đƣợc thị phần của mình trên thị
trƣờng thế giới nếu không sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp gia tăng
cũng nhƣ phải đối mặt với các tác động xã hội sâu sắc hơn. Trên thực tế các
nƣớc đang phát triển dễ phải gánh chịu những tổn thất to lớn trƣớc quá trình tự
do hoá thị trƣờng hàng dệt may nếu không chuẩn bị tốt cho những thay đổi về
thị trƣờng và môi trƣờng kinh doanh dự kiến. Thay vì giành đƣợc các thị trƣờng
xuất khẩu mới nhƣ đã hy vọng sau các thoả thuận của vòng đàm phán Uruguay,
nhiều nƣớc lại có nguy cơ mất đi các thị trƣờng hiện nay. Những mất mát này
lại sẽ làm mất đi niềm tin vào các cam kết của chƣơng trình phát triển Doha. Do
vậy, các nƣớc và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần phải có sự
chuẩn bị cho một thực tế mới trong buôn bán quốc tế về hàng dệt may.
Theo các nhà phân tích, có thể có một số nhân tố tác động tới những ngƣời
tham gia thị trƣờng này khi hệ thống hạn ngạch đƣợc dỡ bỏ. Dƣới đây là 3 nhân
tố quan trọng:
+ Việc sử dụng hạn ngạch: Các nƣớc đã sử dụng hết các hạn ngạch của
mình trong những năm trƣớc năm 2005 có thể sẽ tăng đƣợc lƣợng hàng dệt may
xuất khẩu sau ngƣỡng 2005. Các nƣớc không thể sử dụng hết hạn ngạch hiện
- 84 -
nay thì không thể có lợi từ việc mở cửa thị trƣờng. Do vậy quá trình giám sát
việc triển khai hạn ngạch là một vấn đề quan trọng. Do chỉ còn Canada, EU và
Hoa Kỳ là đang tiếp tục áp dụng hạn ngạch nên các nƣớc đang thực hiện theo hệ
thống này cần phải theo sát việc thực thi hạn ngạch.
+ Khai thác các mặt hàng không bị hạn ngạch: Sau giai đoạn thứ ba của
Hiệp định hàng dệt may vào tháng 01/2002 thì thị trƣờng hàng dệt may thế giới
đã bắt đầu có sự thay đổi thông qua việc bãi bỏ hạn ngạch đối với một số chủng
loại sản phẩm, điều này đã tạo tiền đề cho sự phát triển trong tƣơng lai. Bắt đầu
từ năm 2002, Hoa Kỳ đã đƣa 7 chủng loại sản phẩm hàng dệt may vào điều chỉnh
theo quy định của WTO, theo đó bãi bỏ hạn ngạch cho các chủng loại này và đã
tạo ra một sự thay đổi mạnh mẽ trong buôn bán hàng dệt may. Trong tất cả các
chủng loại đƣợc dỡ bỏ hạn ngạch, Trung Quốc là nƣớc đã tận dụng cơ hội này để
tăng mạnh xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ hiệu quả nhất và một số chủng loại
đã tăng tới vài trăm phần trăm. Trong khi các nƣớc khác chỉ tăng xuất khẩu đối
với một số chủng loại thì chỉ có Trung Quốc là tăng tất cả các chủng loại, nguyên
nhân chủ yếu là do sự suy yếu của các nƣớc cung cấp khu vực Trung Mỹ và
Caribe, khiến cho một số nhà sản xuất nhỏ mất thị phần của mình.
+ Xuất khẩu với số lượng lớn: Các nƣớc đang phát triển không chịu ảnh
hƣởng của những hạn chế về hạn ngạch sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt mà
trƣớc đó họ chƣa từng gặp phải. Đó là khả năng đáp ứng những đơn hàng với số
lƣợng lớn trong một thời gian ngắn. Đối với các nƣớc đang phát triển mà số
lƣợng hàng xuất khẩu hiện không đáng kể, đây sẽ là một vấn đề khó khăn hơn
khi những nƣớc này tham gia hay giữ thị phần của mình trên thị trƣờng thế giới
mà tiêu chí sản xuất với số lƣợng lớn sẽ trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Các nhà
nhập khẩu quốc tế lớn không thể mua hàng từ một nƣớc mà chỉ có một vài công
ty sản xuất để đáp ứng cho thị trƣờng quốc tế. Đây là một trong những lý do
khiến xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đang tăng trƣởng đến "chóng mặt"
kể từ đầu năm 2005.
Trƣớc khi chế độ hạn ngạch dệt may đƣợc xoá bỏ, các quốc gia đã lƣờng
trƣớc những khó khăn khi phải đối mặt với cƣờng quốc dệt may Trung Quốc.
- 85 -
Tuy nhiên những con số từ đầu năm 2005 tới nay cho thấy, thực tế còn đáng lo
ngại hơn nhiều so với những phỏng đoán ban đầu. Đối với EU, một số mặt hàng
dệt may của Trung Quốc xuất sang tăng nhanh ngoài sức tƣởng tƣợng. Tính
riêng trong tháng 1-2005, xuất khẩu của Trung Quốc sang EU15 đã tăng tới
47% so với cùng kì năm trƣớc. Trong khi đó, tại Mỹ, số liệu trong tháng 2 và 3
cho thấy, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc tăng 63% so với
cùng kì. Chỉ tính riêng tháng 1, xuất khẩu dệt may Trung Quốc sang Mỹ đạt 1.4
tỷ USD, tăng tới 65.26%. Tính chung 3 tháng đầu năm, Trung Quốc đã xuất
khoảng 84.48 triệu áo sơ mi chất liệu cotton sang Mỹ. Ngoài những thị trƣờng
quan trọng kể trên, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào các quốc gia
và khu vực khác cũng tăng khá: sang Thổ Nhĩ Kì tăng 78.9%, Nhật Bản 11.9%,
và Hồng Kông 18.26%).
Do việc hội nhập hoàn toàn của hàng dệt may thế giới theo Hiệp định thuế
quan và mậu dịch của WTO nên sẽ có những thách thức mới, nhƣ:
Phải cạnh tranh ở các thị trường tiêu thụ đang nổi lên: Thƣơng mại sẽ
không còn bị điều chỉnh bởi các hạn chế về số lƣợng và do vậy một thị trƣờng
rộng lớn và ngày một phát triển đang mở ra trƣớc mắt các nhà xuất khẩu. Bên
cạnh các thị trƣờng Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, nơi cạnh tranh ngày càng
trở nên gay gắt và mức tăng xuất khẩu giảm xuống lại nổi lên các thị trƣờng
mới ở những nƣớc Đông Nam Á có mức thu nhập cao hơn cũng nhƣ các nhóm
ngƣời tiêu dùng với mức thu nhập cao và trung bình tại các quốc gia lớn đang
phát triển. Những thị trƣờng mới này sẽ trở thành những mục tiêu quan trọng
cho các nhà sản xuất hàng dệt may trong tƣơng lai.
Khả năng bị mất các thị trường tiêu thụ: Trƣớc mắt, châu Âu và Bắc Mỹ
vẫn là các thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may quan trọng nhất, chiếm 2/3 trong
tổng lƣợng nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Tuy nhiên, khi hệ thống
hạn ngạch đƣợc bãi bỏ, nhiều nƣớc xuất khẩu nhỏ sẽ bị mất các thị trƣờng này.
Nghiên cứu của Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ tại Hội nghị hàng dệt may tổ chức tại
Caucus cho thấy các thị trƣờng lớn sẽ giảm một nửa số lƣợng nhà cung cấp vào
năm 2005-2006 và giảm 1/3 vào năm 2010. Và thách thức đặt ra là làm thế nào
- 86 -
để tiếp tục trở thành nguồn cung cấp cho các thị trƣờng nhập khẩu lớn này.
Giá tiếp tục giảm: Giá hàng dệt may nhập khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ liên
tục giảm kể từ năm 1996 và xu hƣớng này cũng diễn ra tƣơng tự trên các thị
trƣờng Châu Âu, Nhật Bản và nhiều thị trƣờng khác. Trong bối cảnh lƣợng cung
dƣ thừa, thị trƣờng mở cửa thì giá hàng dệt may trong tƣơng lai có thể vẫn tiếp
tục giảm và do vậy sẽ ảnh hƣởng tới giá trị xuất khẩu của các nƣớc đang phát
triển.
Các mối quan hệ về thương mại giữa các quốc gia trở nên phức tạp hơn:
Nhằm thích ứng với Hiệp định về hàng dệt may, nhiều nƣớc nhập khẩu lớn đã
dành các điều khoản nhân nhƣợng đặc biệt với các lợi thế ƣu đãi cho một số
nƣớc. Xu thế này đã dẫn tới một sự phân chia theo khu vực trong hoạt động buôn
bán hàng dệt may và tạo ra một sự gắn kết phức tạp giữa các hiệp định thƣơng
mại quốc tế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có
quy mô vừa và nhỏ ở các nƣớc đang phát triển khó xác định đƣợc lợi thế cạnh
tranh của mình so với các đối thủ khác. Khi hạn ngạch bị bãi bỏ sẽ có nhiều điều
khoản nhân nhƣợng hơn và buôn bán hàng dệt may sẽ trở nên phức tạp hơn.
- Các hình thức bảo hộ mậu dịch truyền thống đang dần được rỡ bỏ nhưng
các hình thức bảo hộ mới đang ngày càng được áp dụng nhiều hơn.
Một đặc trƣng nổi bật của thị trƣờng dệt may hiện nay là đƣợc bảo hộ chặt
chẽ ở hầu hết các nƣớc trên thế giới bằng những chính sách thể chế đặc biệt.
Trƣớc khi Hiệp định về hàng dệt may- kết quả quan trọng của Vòng đàm phán
Uruguay ra đời và có hiệu lực, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may
đƣợc điều chỉnh theo những thể chế thƣơng mại đã có. Theo đó, phần lớn các
nƣớc nhập khẩu thiết lập các hạn chế đối với nhập khẩu hàng dệt may. Mức
thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may cũng cao hơn so với các hàng hoá công
nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nƣớc nhập khẩu còn đề ra những qui định riêng
đối với hàng dệt may nhập khẩu. Những thể chế nhằm bảo hộ sản xuất hàng dệt
may của mỗi nƣớc và hạn chế nhập khẩu này đã chi phối thị trƣờng hàng dệt
may trên thế giới, ảnh hƣởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may
- 87 -
trên quy mô toàn cầu.
Thị trƣờng EU15 là một minh chứng điển hình: Là một thị trƣờng rộng lớn
và đầy tiềm năng. Với 375 triệu dân, mức thu nhập bình quân đầu ngƣời cao thì
đây là thị trƣờng lý tƣởng tiêu thụ hàng dệt may nói riêng và các mặt hàng khác
nói chung. Song, nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 2, đây cũng là một thị trƣờng có
những điều kiện về kiểm soát, tiêu chuẩn, chất lƣợng... rất là khó khăn đối với
hàng nhập khẩu. Cùng với đó là thị hiếu ngƣời tiêu dùng của thị trƣờng này
cũng khá khó tính, có chọn lọc đặc biệt với hàng dệt may. Đây là ngành mà EU
có xu hƣớng chuyển dần sang các khu vực khác, nên thị trƣờng này đang có xu
hƣớng nhập khẩu hàng dệt may và hàng may mặc. Các nhà nhập khẩu Châu Âu
luôn tìm kiếm những thị trƣờng rẻ nhƣng phải đẹp. Họ luôn cố hạ giá thành sản
phẩm tới mức thấp nhất tại nơi cơ sở đặt gia công. Chính vì vậy mà cùng với
trao Quy chế tối huệ quốc EU đã tăng 40-50% quota hàng dệt may và may mặc
cho Việt Nam do giá thành ở Việt Nam rẻ hơn ở những nơi khác, đồng thời vẫn
đảm bảo chất lƣợng mà họ yêu cầu.
Sau khi ACT có hiệu lực (01 / 01 / 2005) - thời điểm mà các nhà hoạch định
chính sách luôn cho rằng sẽ chấm dứt hoàn toàn các hình thức bảo hộ đối với các
quốc gia trong WTO thì đã xuất hiện những hình thức bảo hộ mới đối với các sản
phẩm dệt may; thậm chí cả hình thức tái áp dụng hạn ngạch đối với một số chủng
loại sản phẩm nhập khẩu của một số quốc gia cũng đƣợc tính tới. Nhƣ vậy, có
nghĩa là khi mà các thành viên WTO đã chấp nhận mức độ tự do thƣơng mại lớn
hơn cho các sản phẩm dệt may thì cũng là lúc mà các hình thức bảo hộ thƣơng mại
mới lại có thể đƣợc áp dụng đặc biệt ở các quốc gia phát triển.
Thực tế đang cho thấy một xu hƣớng là thuế chống phá giá và thuế đối
kháng được sử dụng nhiều hơn. Cũng nhƣ các sản phẩm khác, sản phẩm dệt
may xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển hiện nay đang phải đối mặt với
nguy cơ bị kiện chống bán phá giá lớn hơn bao giờ hết và kết quả cuối cùng là
các sản phẩm đó có thể không bị áp hạn ngạch nhập khẩu nhƣ trƣớc kia nhƣng
lại phải chiụ một mức thuế rất cao. Số trƣờng hợp bị đánh thuế chống phá giá và
thuế đối kháng gia tăng sẽ là mối đe doạ đối với các nhà xuất khẩu thành công
- 88 -
tại các nƣớc đang phát triển. Việc sử dụng các biện pháp chống phá giá có thể
làm giảm nhanh chóng các lợi ích của tự do hoá thƣơng mại do đây là các biện
pháp không minh bạch và không dự đoán đƣợc. Chỉ với thông báo là có thể t iến
hành điều tra chống phá giá cũng có thể khiến nhà nhập khẩu nƣớc ngoài do dự
trong việc đặt đơn hàng xuất khẩu vì lo ngại rằng trong tƣơng lai hàng nhập
khẩu có thể sẽ phải chịu mức thuế chống phá giá, đây là một biện pháp thƣờng
đƣợc biết đến với tên gọi “hạn chế thƣơng mại”. Mặc dù các nƣớc đang phát
triển đang bày tỏ mối lo ngại về các biện pháp chống phá giá thì những các
ngành công nghiệp của Hoa Kỳ và EU vẫn đang trực tiếp sử dụng các biện pháp
này. Đã có những con số thống kê cho thấy, riêng Trung Quốc, mỗi ngày trung
bình phải đối mặt với khoảng trên 2 vụ kiện chống bán phá giá hàng hóa của
mình tại thị trƣờng Hoa Kỳ. Đối với sản phẩm dệt may, Trung Quốc - EU,
Trung Quốc - Mỹ đang có nguy cơ xẩy ra cuộc chiến thƣơng mại do số lƣợng
xuất khẩu của Trung Quốc vào các thị trƣờng này tăng đột biến; thậm chí cả EU
và Mỹ đều đang tiến hành điều tra chống phá giá đồng thời đe doạ áp dụng lại
hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc...
Cùng với thuế chống phá giá, kiểm tra hải quan sẽ thường xuyên hơn: Các
nhà sản xuất hàng dệt may thƣờng bị các nhân viên hải quan của nƣớc nhập
khẩu kiểm tra ngẫu nhiên các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo không có các hoạt
động chuyển tải. Nếu một công ty không thể cung cấp các thông tin cần thiết,
hải quan sẽ tự động cấm công ty này xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ hoặc
EU. Dự kiến từ năm 2005 “số lần xác minh sản phẩm” sẽ gia tăng. Ngoài ra, các
yêu cầu về tăng cƣờng an ninh kiểm tra hàng nhập khẩu sau sự kiện ngày 11-9-
2001 có thể sẽ có tác động tiêu cực tới xuất khẩu của các nƣớc đang phát triển.
Thêm vào đó, các tiêu chuẩn về đạo đức đang gia tăng: Mối lo ngại về
việc sử dụng lao động trẻ em tại các thị trƣờng lớn đang ngày một lan rộng. Các
tổ chức Phi chính phủ ở Phƣơng Tây, các phƣơng tiện truyền thông và các tổ
chức công đoàn ủng hộ các nhà cung cấp không sử dụng lao động trẻ em thông
qua việc nâng cao nhận thức cho ngƣời tiêu dùng tại các thị trƣờng này. Điều
này đang tạo ra áp lực cho các nhà nhập khẩu nƣớc ngoài khi mua hàng phải
- 89 -
đảm bảo nguồn cung cấp không sử dụng lao động trẻ em. Những quy định về
việc nguồn cung cấp phải đảm bảo tính đạo đức đƣợc áp dụng cho tất cả các nhà
sản xuất ở các nƣớc đang phát triển và thậm chí áp dụng cả đối với các nhà thầu
phụ. Các nhà nhập khẩu lớn trên thế giới đang áp dụng những quy tắc chặt chẽ
này nếu không họ sẽ bị công chúng tẩy chay.
Cuối cùng là, một rào cản thương mại mới - điều kiện môi trường, đạo đức
xã hội: Các nhà sản xuất hàng dệt may từ các nƣớc đang phát triển đang ngày
càng đối mặt với các yêu cầu về môi trƣờng và đạo đức xã hội. Đây hiện đƣợc
coi là một công cụ marketing và các sản phẩm có dán nhãn môi trƣờng thƣờng
dành cho các thị trƣờng phát triển. Tuy nhiên, ngƣời ta lo ngại rằng việc tiếp
cận các thị trƣờng phát triển sẽ bị giảm đáng kể nếu ngƣời tiêu dùng tẩy chay
các loại hàng hoá không dán nhãn sinh thái và do tác động của các chiến dịch
quảng cáo quá khích của các ngành bảo hộ trong nƣớc. Nhìn chung, phải có các
quy định minh bạch hơn nữa để đảm bảo rằng nhãn mác môi trƣờng không phải
là một rào cản mới trên thị trƣờng.
Tóm lại, mặc dù ACT đã có hiệu lực nhƣng không có nghĩa là các sản
phẩm dệt may đƣợc tự do hoàn toàn trong quan hệ trao đổi giữa các nƣớc đang
phát triển (những quốc gia có lợi thế về phát triển sản xuất hƣớng tới xuất khẩu
sản phẩm này) và các nƣớc phát triển (những quốc gia nhập khẩu lớn nhất đối
với sản phẩm dệt may). Các hình thức bảo hộ truyền thống đang dần đƣợc rỡ bỏ
nhƣng các hình thức bảo hộ mới (các hình thức bảo hộ mà các quốc gia đi sau
rất khó áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia đi trƣớc) lại đang đƣợc
áp dụng ngày một rộng rãi hơn. Đây là một thực tế mà mọi quốc gia trên thế
giới phải chấp nhận trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu nói chung
và tham gia WTO nói riêng.
3.1.2. Bối cảnh trong nước.
- Quá trình cổ phần hóa, chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNNN
trong ngành dệt may.
Việc cải cách các DNNN hoạt động trong lĩnh vực dệt may đƣợc tiến hành
thông qua các hình thức, nhƣ: cổ phần hóa các DNNN với cổ phần chi phối
- 90 -
thuộc nhà nƣớc; giải thể hoặc sáp nhập các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả
và chuyển đổi một số công ty theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) nhà nƣớc một thành viên (bƣớc một của quá trình cổ phần hóa).
Theo VINATEX, yêu cầu của Chính phủ đặt ra cho VINATEX là đến hết
năm 2005, toàn VINATEX sẽ phải cổ phần hóa khoảng 30 đơn vị trực thuộc
bao gồm các công ty, nhƣ: Công ty may Thăng Long, Công ty Cơ khí May Gia
Lâm, Công ty Cơ khí dệt may Hƣng Yên, Công ty May Nam Định... Chỉ tính
riêng 6 tháng cuối năm 2003, Tông công ty đã tiến hành cổ phần hóa đƣợc 9
công ty trực thuộc. Năm 2004, kế hoạch đặt ra cho VINATEX là cổ phần hóa
10 công ty trực thuộc, song do tăng tốc cổ phần hóa nên trong 6 tháng đầu năm
2004, đã có 10 doanh nghiệp hoàn thành quá trình định giá doanh nghiệp và tài
sản; trong đó có hai đơn vị lớn là Công ty May Nhà Bè và Công ty May 10 đã
hoàn tất thủ tục để trở thành công ty cổ phần... Công tác xử lý số lao động dƣ
thừa do quá trình cổ phần hóa là một vấn đề phức tạp nên luôn đƣợc VINATEX
coi trọng thông qua các ƣu đãi nhƣ: đƣợc quyền mua các cổ phần ƣu đãi hoặc
đƣợc đào tạo lại để sắp xếp các công việc phù hợp với năng lực hơn... Theo báo
cáo của VINATEX, chỉ tính riêng Quý I/2004, VINATEX đã giải quyết chế độ
cho hơn 400 lao động dôi dƣ trong quá trình sắp xếp lại các DNNN với tổng
kinh phí 14 triệu Đồng/01 Lao động. Có thể khẳng định rằng, về cơ bản quá
trình cổ phần hóa các doanh nghiệp trực thuộc VINATEX đang diễn ra khá
suôn sẻ và đạt các yêu cầu đặt ra cũng nhƣ đảm bảo quyền lợi cho ngƣời lao động.5
Bên cạnh việc tiến hành cổ phần hóa, việc đổi mới các DNNN ở
VINATEX còn đƣợc tiến hành thông qua chuyển đổi mô hình hoạt động sang
hình thức công ty mẹ, con và công ty TNHH một thành viên. Theo đó, mô hình
công ty mẹ - con sẽ bao gồm các công ty TNHH một thành viên do nhà nƣớc
nắm giữ 100% vốn và các công ty cổ phần, các công ty TNHH từ hai thành viên
trở lên... nhƣng công ty mẹ nắm giữ cổ phần hoặc vốn góp chi phối. Điển hình
trong số các công ty chuyển đổi theo hình thức công ty mẹ, con là Công ty May
- 91 -
Việt Tiến mà bƣớc đầu hoạt động của công ty đã ổn định, đạt hiệu quả cao. Sau 5 Theo: Http//www.Vietnamtext ile.org.vn
Công ty Việt Tiến, sẽ có một số công ty khác thuộc VINATEX đƣợc chuyển
sang hoạt động theo hình thức công ty mẹ, con, nhƣ: Công ty Dệt Phong Phú...
Các công ty đã chuyển đổi thành công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên là
Công ty Dệt 8/3, Công ty Dệt Việt Thắng, Công ty Dệt may Thắng Lợi, Công ty
Tài chính Dệt May, Công ty Dệt kim Đông Xuân, Công ty Bông Việt Nam...
Nhờ đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại các DNNN trong ngành dệt may, nên số
DNNN phải hoàn tất cổ phần hóa trong năm 2005 là 07 doanh nghiệp so với 14
doanh nghiệp theo dự kiến; số doanh nghiệp mà nhà nƣớc còn nắm giữ 100% vốn trong năm 2005 chỉ còn 9 doanh nghiệp6.
Nhƣ vậy, tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp trong ngành dệt may
năm 2004, 2005 đã có nhiều thuận lợi hơn năm 2003 (năm đầu tiên triển khai cổ
phần hóa) do VINATEX đã có những kinh nghiệm ích lũy và thời gian triển
khai cổ phần hóa không bị trói buộc. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện các
thủ tục để cổ phần hóa doanh nghiệp, các ban ngành chức năng đã kịp thời ban
hành các thông tƣ hƣớng dẫn nên quá trình triển khai đƣợc thuận lợi hơn rất
nhiều (Thông tƣ hƣớng dẫn xử lý lỗ phát sinh từ thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ
phần; Quyết định cho phép các doanh nghiệp kiểm toán, cung cấp các dịch vụ
tài chính có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia vào việc định giá tài sản, xác định
giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa của Bộ Tài chính...).
- Về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong ngành dệt may.
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, số lƣợng doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trong ngành dệt may đã có sự tăng trƣởng nhanh chóng. Tuy nhiên, do
còn nhiều hạn chế khác nhau (vốn, công nghệ...) nên sự đóng góp của khối
doanh nghiệp này vào tốc độ tăng trƣởng toàn ngành còn rất hạn chế, chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng vốn có. Theo các số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt
may Việt Nam, đến hết năm 2001 toàn ngành có khoảng 500 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (40 doanh nghiệp dệt sợi, 460 doanh nghiệp may) và hàng
- 92 -
vạn cơ sở sản xuất nhỏ, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Tuy 6 Theo Báo Nhân Dân ngày 24/02/2005.
nhiên, quy mô của các doanh nghiệp này còn rất nhỏ và đa phần hoạt động
trong lĩnh vực may. Chỉ có khoảng 40% số doanh nghiệp này có từ 400 đến
1000 máy, số còn lại chỉ có từ 100 đến 400 máy may. Hơn thế nữa, phần lớn
các trang thiết bị công nghệ ở thế hệ những năm 80 thậm chí trong các doanh
nghiệp dệt còn xuất hiện hiện tƣợng mua lại các máy đã qua sử dụng mà các
doanh nghiệp quốc doanh thải ra. Hiện tƣợng này đƣợc đánh giá là do quy mô
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhỏ lại không đƣợc đối xử công bằng
nhƣ các DNNN nên họ ít có điều kiện để đầu tƣ đổi mới công nghệ (đặc biệt
trong lĩnh vực dệt).
Về nguồn nhân lực, phần lớn lao động làm việc trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đều chƣa qua đào tạo, trình độ chuyên môn thấp nên năng
suất lao động không cao kéo theo thu nhập thấp. Đây là nguyên nhân khiến
ngƣời lao động không gắn bó với doanh nghiệp, sẵn sàng bỏ việc nếu tìm đƣợc
một công việc mới có mức thu nhập tƣơng xứng hoặc cao hơn. Bên cạnh đó,
những lao động có tay nghề khá hơn thƣờng tìm cách chuyển sang các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc doanh nghiệp quốc doanh có mức thu
nhập cao hơn... Vì vậy, nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp dân doanh nói
chung hay bị xáo trộn, giá trị gia tăng trên mỗi suất lao động thấp.
Những khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và năng lực sản xuất
đang là những hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong
ngành dệt may hiện nay. Bên cạnh những tồn tại nêu trên, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực dệt may cũng có những thuận lợi nhất
định trong quá trình phát triển, nhƣ: Sự táo bạo trong đầu tƣ đổi mới công nghệ,
phát triển sản xuất ngành dệt của một số các doanh nghiệp dân doanh đã nâng
cao khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng trong nƣớc và khẳng định đƣợc vị
thế trên thị trƣờng quốc tế. Thời gian gần đây, những chuyển biến lớn ở khu vực
kinh tế tƣ nhân hoạt động trong lĩnh vực dệt may đáng đƣợc ghi nhận chính là
những chuyển biến trong đầu tƣ và sự hình thành, phát triển một số công ty có
- 93 -
quy mô lớn nhƣ Công ty Dệt Thái Tuấn, Công ty Dệt Phƣớc Thịnh...
Bên cạnh quá trình cải cách DNNN và sự gia tăng nhanh chóng các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thì xu thế liên doanh, liên kết, gọi vốn đầu tƣ từ các
quốc gia nhập khẩu đang ngày một gia tăng. Điển hình là những liên doanh với
Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU trong ngành dệt may đang ngày càng nhiều. Đây
là một xu thế đáng đƣợc quan tâm và khuyến khích phát triển.
3.2. Một số dự báo chiến lược, tiềm năng phát triển và quan điểm định
hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam những năm tới
3.2.1. Dự báo đến năm 2005-2010.
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của nƣớc ta đang đứng trƣớc
những thời cơ và thách thức mới. Đi lên từ một nƣớc nghèo, sau một thời gian
thực hiện chiến lƣợc hƣớng về xuất khẩu thì công nghiệp dệt may xuất khẩu
Việt Nam vẫn đang là một ngành đem lại nhiều lợi thế. Chính vì vậy, sản phẩm
dệt may đƣợc xem là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nƣớc ta và trong tƣơng lai, đây sẽ là mặt hàng chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc (từ năm 2000 đến
nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may luôn đứng thứ hai trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nƣớc sau dầu thô). Mặt khác trong Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ IX, khi đề cập đến vấn đề định hƣớng phát triển kinh tế đối ngoại
có nói "Tổng Kim ngạch xuất khẩu cả nƣớc trong 5 năm 2001 - 2005 đạt
khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%. năm. Nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là
15,9%, trong đó nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp
chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng năm 22%".
Đồng thời, Văn kiện đã khẳng định: Chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trƣờng
trong nƣớc, nƣớc ngoài nhờ đầu tƣ vào sản xuất xơ, sợi, nguyên liệu, phụ liệu
để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Với tầm quan trọng nhƣ
trên của ngành dệt may cùng với những chỉ tiêu phát triển công nghiệp, định
hƣớng đẩy mạnh xuất khẩu của văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trong
chiến lƣợc phát triển nghành công nghiệp dệt may nƣớc ta đến năm 2010; Đảng
và Nhà nƣớc ta đã xác định rõ là lấy mục tiêu xuất khẩu làm trọng tâm. Với
mục tiêu đó từ việc phân tích thực trạng, tiềm năng và xu hƣớng phát triển công
- 94 -
nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm tới ngành dệt may Việt Nam đƣa ra
các chỉ tiêu có tính chất định hƣớng phát triển ngành công nghiệp may mặc nhƣ
sau:
- Toàn ngành có mức tăng trƣởng 13%/năm (vào năm 2005) và 14%/năm
(vào năm 2010)
- Tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,5 đến 3 triệu lao động xã hội vào
năm 2005, 4 đến 4.5 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình
quân khoảng 100USD/ngƣời/tháng.
- Nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và
năm 2010 thì tƣơng đƣơng với Hồng Kông và Thái Lan hiện nay.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt 5.000 triệu USD năm 2005 và 8.000 triệu USD
năm 2010.
Bảng 19: Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị tính Triệu m2 Triệu SP Triệu SP Triệu SP Triệu USD Triệu USD
Năm 2005 1.330 780 510 270 5000 3200
Năm 2010 2000 1200 820 380 8000 6000
STT 1 2 3 4
%
50
75
Vải thành phần Sản phẩm may mặc Xuất khẩu Nội địa Kim ngạch xuất khẩu Hàng may mặc Tỷ lệ nội địa hoá Trên sản phẩm may
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam
3.2.2. Tiềm năng phát triển.
Với tốc độ phát triển thời gian qua và là thành viên của Khu vực thƣơng
mại tự do ASEAN, thị trƣờng nguyên liệu dệt và may mặc Việt Nam đã đƣa ra
nhiều cơ hội tốt cho các nhà xuất khẩu trang thiết bị công nghệ và các sản phẩm
quan trọng. Hơn thế nữa, thị trƣờng trong nƣớc rất tiềm năng với khoảng trên
80 triệu dân hiện tại và dự báo lên tới 100 triệu vào năm 2010. Theo ƣớc tính,
GDP bình quân đầu ngƣời của Việt Nam sẽ lên tới 600 đến 800 USD/01
ngƣời/01 năm vào năm 2005 và 900 USD đến 1200 USD vào năm 2010. Nhƣ
vậy, nhu cầu đối với sản phẩm tiêu dùng cũng sẽ tăng tƣơng ứng và đạt 250
- 95 -
USD đến 350 USD/01 ngƣời/01 năm vào năm 2005 và 400 USD đến 450 USD
vào năm 2010 (trong đó, 6% đến 8% là chi tiêu cho các sản phẩm dệt may; con
số này sẽ cao hơn nhiều đối với thu nhập của dân chúng tại khu vực thành thị).
Đầu năm 2005, Mỹ đã dỡ bỏ 701 danh mục quota đối với các chủng loại
hàng hóa nhập khẩu là sản phẩm dệt may; Canada và EU cũng dỡ bỏ 239 và
165 hạng mục tƣơng ứng nên sẽ có tác động mạnh đến ngành công nghiệp dệt
may Việt Nam (vì phải chống lại các đối thủ cạnh tranh lớn nhƣ Trung Quốc,
Ấn Độ, Banglades...). Bên cạnh đó, các nhà sản xuất trong nƣớc cũng gặp rất
nhiều khó khăn trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Nếu trở thành thành viên của WTO (trong cuối năm 2005 hoặc nửa đầu
năm 2006), các doanh nghiệp trong nƣớc bao gồm cả các nhà sản xuất dệt may
sẽ là đối tƣợng chính phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh hơn nữa. Nếu Việt Nam
vẫn chƣa trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp trong
nƣớc sẽ buộc phải xin quota cho các sản phẩm xuất khẩu đồng thời với việc
đàm phán các trách nhiệm nhập khẩu hàng hóa... Thậm chí, các doanh nghiệp
Việt Nam còn đứng trƣớc nguy cơ bị loại khỏi các nhà cung cấp hàng dệt may
cho các quốc gia nhập khẩu trong WTO. Tuy nhiên, khả năng này rất khó xảy
ra.
Với chính sách đẩy mạnh tiến độ đầu tƣ của Chính phủ Việt Nam, các
công ty sản xuất nguyên liệu dệt đã thay thế (hoặc nâng cấp) phần lớn các thiết
bị lạc hậu của mình để đầu tƣ vào các thiết bị hiện đại đƣợc sản xuất tại EU
hoặc Nhật Bản (kết hợp với các trang thiết bị hiện đại ở công đoạn nhuộm, in ấn
và hoàn thiện). Các doanh nghiệp dệt may đã tập trung đầu tƣ vào các dòng sản
phẩm mới cùng các trang thiết bị hiện đại để cho ra đời sản phẩm có chất lƣợng
cao, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng thế giới. Đồng thời với nó, các doanh
nghiệp cũng đang từng bƣớc trú trọng đầu tƣ vào các hạng mục để hoàn thiện
theo các tiêu chuẩn ISO 14000 và SA 8000 cho các sản phẩm xuất khẩu (xử lý
nƣớc thải và các vấn đề liên quan đến môi trƣờng...). Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp dệt may đã nhận thức đƣợc vấn đề bản quyền và thƣơng hiệu nên đang
nỗ lực đầu tƣ để hình thành, củng cố và phát triển các thƣơng hiệu của mình
(May 10, Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, Việt Thắng...). Hơn thế nữa, bên
- 96 -
cạnh việc đẩy mạnh đầu tƣ vốn, Chính phủ đang khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tƣ vào công tác đào tạo để phát triển nguồn nhân lực phù hợp với
những đòi hỏi của tình hình mới.
3.2.3. Một số quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam
trong những năm tới.
- Về định hướng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành.
Các chiến lƣợc, kế hoạch phát triển toàn ngành cần xác định giới hạn thời
gian cụ thể (ngắn, trung, dài hạn) để các giải pháp có tính khả thi hơn. Rõ ràng
là, đối với các chiến lƣợc và kế hoạch phát triển ngắn hạn, các giải pháp đƣợc
đề xuất có thể bao gồm rất nhiều đối sách - những giải pháp chỉ thích hợp trong
ngắn hạn, phù hợp với những biến đổi trƣớc mắt của tình hình chung. Trong khi
đó, các chiến lƣợc, kế hoạch trung và dài hạn lại bao gồm các dự báo về sự phát
triển, biến đổi của môi trƣờng xung quanh có tác động tới sự phát triển ngành
nên những giải pháp đƣa ra nhất thiết cần tính tới những biến đổi đó và đặc biệt
là tính đúng đắn, mức độ phù hợp của mỗi giải pháp lại phụ thuộc vào mức độ
sát thực của các dự báo trong chiến lƣợc... Khó có thể có một hay nhiều giải
pháp đúng đắn, thích hợp cho mọi chiến lƣợc, kế hoạch phát triển một ngành
đối với cả ngắn, trung và dài hạn. Điều này trở nên cần thiết hơn đối với các sản
phẩm dệt may xuất khẩu vì những đặc điểm của mặt hàng này (tính thị hiếu,
thời trang và chu kỳ sống của sản phẩm...).
Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi doanh
nghiệp đã và đang chủ động xây dựng cho mình chiến lƣợc phát triển thích hợp.
Đối với các doanh nghiệp dệt may hiện nay, một chiến lƣợc hợp lý phải bao
gồm một số định hƣớng lớn, nhƣ: Chuyển từ cạnh tranh đơn thuần dựa trên lợi
thế giá nhân công thấp sang cạnh tranh bằng giá trị gia tăng và đổi mới, nâng
cao chất lƣợng dịch vụ. Tập trung, chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra các sản
phẩm có chất lƣợng và tính năng vƣợt trội để có thể đáp ứng nhu cầu thƣờng
xuyên biến đổi và rất đa dạng của thị trƣờng... Chú trọng việc tạo dựng và phát
triển uy tín doanh nghiệp và thƣơng hiệu sản phẩm; tăng cƣờng khả năng đáp
ứng nhanh, khả năng sản xuất các lô hàng nhỏ và các lô hàng yêu cầu thời gian
giao hàng ngắn...
- 97 -
- Thị trường trong nước là nền tảng vững chắc cho thị trường xuất khẩu.
Để hội nhập quốc tế (theo nghĩa tham gia cạnh tranh bình đẳng trên thị
trƣờng thế giới) thì trƣớc hết thị trƣờng trong nƣớc cũng phải mang tính cạnh
tranh cao (phải minh bạch, công bằng...). Trong môi trƣờng cạnh tranh bình
đẳng, một mặt hàng không chiếm đƣợc ƣu thế tại thị trƣờng trong nƣớc rất khó
có khả năng chiếm lĩnh thị phần ở thị trƣờng ngoài nƣớc vì: Thị trƣờng nội địa
là nơi các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc triển khai các hoạt động
marketing, xúc tiến thƣơng mại với chi phí thấp; giá cả hàng hóa sẽ thấp hơn do
không phải chịu các loại thuế quan xuất, nhập khẩu... - những khó khăn mà
hàng hóa xuất khẩu sẽ phải đƣơng đầu. Trong điều kiện nhƣ vậy, nếu các sản
phẩm không khẳng định đƣợc ƣu thế tại thị trƣờng trong nƣớc thì khả năng cạnh
tranh của sản phẩm ấy là hạn chế hoặc môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc chƣa
thật sự bình đẳng. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đa phần
thuộc các doanh nghiệp nhƣng việc tạo dựng môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh
trong nƣớc lại là một yêu cầu đối với các nhà hoạch định chính sách.
- Về việc xác định lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với ngắn hạn và trung hạn, Việt Nam có thể có lợi thế tƣơng đối trong cạnh
tranh do lao động rẻ mang lại nhƣng về lâu dài phải có khả năng cạnh tranh bằng
giá trị gia tăng trong sản phẩm. Nhƣ vậy mới có khả năng sản xuất ra các sản
phẩm với chi phí thấp và chất lƣợng cạnh tranh đƣợc. Rõ ràng là, lợi thế có đƣợc
do giá nhân công thấp mang lại đang giảm dần và sẽ mất đi khi các nƣớc kém
phát triển hơn tham gia vào thị trƣờng. Hơn thế nữa, tỷ lệ mà giá nhân công
chiếm trong mỗi đơn vị sản phẩm đang có xu hƣớng giảm dần do tốc độ phát
triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, mức độ lành nghề của công nhân
ngày càng cao làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng... Hơn thế nữa,
sự gia nhập thị trƣờng của các nƣớc kém phát triển sẽ làm cho các quốc gia đang
phát triển mất đi lợi thế này (điều đã xảy ra đối với các nƣớc phát triển hiện nay).
- Nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm là yêu cầu
cần thiết đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Hiện nay, "giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm xuất khẩu của ngành
- 98 -
dệt may Việt Nam chỉ đạt khoảng 20% và có tới 80% giá trị gia tăng còn lại nằm
trong hàng nhập khẩu"7. Đây là một hạn chế trong phát triển ngành... Trong điều kiện thị trƣờng gần nhƣ đã bão hòa về nguồn cung cấp nhƣ hiện nay, những bƣớc
tiến hợp lý mang tính sáng tạo trong đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp, tổ
chức lại sản xuất để tăng cƣờng năng lực sản xuất ở các khâu then chốt, tạo lợi
thế cạnh tranh sẽ trở thành động lực mạnh mẽ giúp doanh nghiệp thành công trên
con đƣờng phát triển của mình. Đây chính là những cải cách cần thiết để nâng
cao hàm lƣợng giá trị gia tăng của các doanh nghiệp dệt may hiện nay.
Các doanh nghiệp may xuất khẩu cần mạnh dạn tiếp cận và từng bƣớc
chuyển đổi phƣơng thức kinh doanh từ sản xuất gia công xuất khẩu nhƣ hiện
nay sang phƣơng thức xuất khẩu trực tiếp. Yếu tố có thể giúp Việt Nam cũng
nhƣ các quốc gia đang phát triển khác có thể có đƣợc lợi thế tƣơng đối chính là
vấn đề nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Để có thể nâng cao giá
trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu nhất thiết phải thông qua việc áp dụng các
công nghệ hiện đại, nâng cao hàm lƣợng "chất xám" trong mỗi sản phẩm, đẩy
mạnh công tác thiết kế mẫu mốt thời trang, tăng cƣờng đội ngũ tiếp thị, tổ chức
lại sản xuất thích ứng với yêu cầu kinh doanh mới cũng nhƣ chấp nhận san sẻ
rủi ro đối với các nhà phân phối (xuất khẩu theo hình thức FOB)...
Các doanh nghiệp dệt cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thiết kế để có
thể sản xuất đa dạng các chủng loại vải chất lƣợng cao; trƣớc mắt cần tập trung
vào khâu nhuộm - hoàn tất. Đổi mới phƣơng thức quản lý một cách khoa học,
nâng cao năng suất lao động, hiệu quả và giảm chi phí sản xuất; tăng cƣờng khả
năng cung cấp và hoàn thiện chất lƣợng dịch vụ (rút ngắn thời gian giao hàng,
giao hàng đúng tiến độ, đúng mầu sắc, đúng chất lƣợng, linh hoạt trong việc sản
xuất các đơn hàng nhỏ, đa dạng...) là những nhân tố quyết định tới sự thành
công hay thất bại của các doanh nghiệp dệt hiện nay.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
xuất khẩu cho sản phẩm dệt may Việt Nam
Trƣớc khi tiến hành đổi mới, quan hệ thƣơng mại nƣớc ta chỉ gói gọn
trong khối các quốc gia Xã hội chủ nghĩa trƣớc đây; hoạt động xuất nhập khẩu
nói chung và xuất nhập khẩu sản phẩm dệt may nói riêng đƣợc thực hiện theo
- 99 -
kế hoạch trong các Nghị định thƣ trao đổi giữa các chính phủ. Từ sau 1986 (đặc 7 Theo Bản Tin Kinh tế Đài BBC ngày 16/ 05/ 2005 - 14h 30' GM T
biệt là từ những năm 1990 trở lại đây), hoạt động thƣơng mại của Việt Nam đã
phát triển cả về chủng loại hàng hóa và thị trƣờng; kim ngạch xuất khẩu không
ngừng gia tăng... trong đó có đóng góp đáng kể của ngành dệt may xuất khẩu -
ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Để có đƣợc
những thành công đó, bên cạnh sự hỗ trợ to lớn của Chính phủ và các bộ ban,
ngành thì những nỗ lực của ngành dệt may là rất đáng ghi nhận (nhất là ngành
may). Tuy nhiên, để có thể duy trì và phát triển thị phần hàng hóa tại các thị
trƣờng cũng nhƣ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong thời gian tới thì
ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để khai thác
hiệu quả các hỗ trợ từ phía Chính phủ và tiềm năng vốn có của ngành.
Khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành không thể đảo ngƣợc thì
việc lựa chọn và định hƣớng đầu tƣ đúng, có hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết
không chỉ đối với ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam. Đón nhận thời cơ đồng
thời hạn chế thách thức, ngành dệt may Việt Nam cần phải có những bƣớc đi và
giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Cạnh tranh gay gắt song
không có nghĩa là không dám cạnh tranh, đây là một bài toán khó đối với toàn
ngành (đặc biệt trong bối cảnh đang phải đƣơng đầu với những đối thủ trên sức
mình trong lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trƣờng trong và ngoài nƣớc). Trong
khuôn khổ luận văn này, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp thuộc hai
nhóm giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may
xuất khẩu Việt Nam sau đây xin đƣợc đi sâu vào các kiến nghị ở cấp vĩ mô:
3.3.1. Những giải pháp từ phía Chính phủ.
- Hoàn thiện môi trường kinh tế, pháp luật và triển khai các cơ chế, chính
sách phát triển ngành dệt may.
+ Về công tác làm luật và thực hiện các cơ chế chính sách phát triển ngành:
Chính Phủ nghiên cứu trình Quốc hội tiếp tục điều chỉnh các luật và văn
bản dƣới luật liên quan đến môi trƣờng kinh doanh để tạo thuận lợi hơn nữa cho
các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên trƣờng
quốc tế. Chính phủ thành lập Uỷ ban Liên Bộ do Bộ Công nghiệp chủ trì gồm
đại diện các Bộ: Thƣơng mại, Kế hoạch và đầu tƣ, Tài chính (Tổng cục Hải
- 100 -
quan), Lao động thƣơng binh và xã hội và Hiệp hội Dệt may Việt Nam,
VINATEX hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm để thống nhất chỉ đạo việc thực
hiện các cơ chế, chính sách phát triển ngành dệt may.
Đối với Luật Lao động hiện hành cần đƣợc sửa đổi đối với ngành may để
tăng giờ làm việc nhằm đáp ứng tốt hơn thời gian giao hàng vì ngành may là
một ngành kinh tế mang tính thời vụ cao do các đơn hàng tập trung hầu hết vào
thời gian từ tháng 4 đến tháng 10. Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp đã phải
tăng giờ làm việc từ 400 đến 600 giờ/01 năm. Trong khi đó, Luật Lao động có
ghi: "các doanh nghiệp không đƣợc phép tăng ca quá 200 giờ/01 năm" - Điều
69. Đây là quy định pháp luật mà hầu hết các doanh nghiệp may từ doanh
nghiệp có quy mô lớn nhất tới các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhất không thể
thực hiện đƣợc trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, đề nghị Chính phủ giao cho Bộ
Lao động, thƣơng binh và xã hội soạn thảo trình Quốc hội xem xét sửa đổi điều
khoản này quy định cho ngành may đƣợc phép làm thêm 400 giờ/01 năm thay
vì 200 giờ/01 năm và loại bỏ phần thu lệ phí công đoàn 2% trên tổng số lƣơng
thực trả nhƣ hiện nay. Bên cạnh đó, kiến nghị Chính phủ nên giảm thuế đối với
các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ theo Điều 110 của Luật Lao động
hiện hành quy định.
+ Về hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu sản phẩm dệt may (nhập khẩu
nguyên, phụ liệu và xuất khẩu thành phẩm).
(1) Cần đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên, phụ liệu, nhập hàng mẫu,
nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu; các thủ tục này hiện
vẫn còn rƣờm rà, mất nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn, gây không ít khó
khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là với các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời
gian giao hàng ngắn.
(2) Đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết
cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhƣng có
các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao và chức năng khác nhau
vẫn đƣợc áp dụng cùng một mức thuế đã gây ra nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp.
(3) Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên,
phụ liệu cho các doanh nghiệp may xuất khẩu. Đồng thời tính phần “xuất khẩu
tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu qui định tại giấy phép đầu tƣ, giảm
- 101 -
khó khăn của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong việc thực hiện quy
định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chƣa ổn định. Cho phép
doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu tƣ vào
sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về.
(4) Xem xét giảm thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nƣớc
chƣa sản xuất đƣợc (đặc biệt là hóa chất phục vụ cho ngành may) đồng thời với
tập trung nghiên cứu, đầu tƣ sản xuất dần thay thế hàng nhâp khẩu. Phần lớn số
hóa chất phục vụ ngành dệt may hiện nay là nhập khẩu nên giá thành còn rất
cao so với các đối thủ cạnh tranh. Một trong các nguyên nhân khiến giá cả các
hóa chất này cao hơn so với các quốc gia trong khu vực là do thuế nhập khẩu
đang áp mức từ 20% đến 50% giá trị mà không phân biệt mục đích nhập khẩu.
(5) Cải tiến cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hƣớng khuyến khích doanh
nghiệp tìm thị trƣờng phi hạn ngạch và hình thành cơ chế chuyển nhƣợng quota
hợp lý để tránh tình trạng nơi thiếu năng lực sản xuất thì thƣa quota và ngƣợc
lại; khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nƣớc thông qua nâng tỷ lệ hạn
ngạch phân bổ theo hình thức thƣởng và ƣu tiên cấp đủ hạn ngạch cho các
doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nƣớc (tƣơng ứng
với phần nguyên liệu đƣợc sử dụng). Đồng thời với việc sử dụng quỹ thƣởng
xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu và
tìm thị trƣờng xuất khẩu mới.
- Có biện pháp thích hợp khuyến khích phát triển các ngành phụ trợ của
ngành dệt may.
+ Có quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi tự nhiên cho
ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tƣ phát triển ngành nguyên liệu
cho sự phát triển ổn định của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành
và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc
nhuộm và sản xuất sợi hoá chất khác cho ngành dệt.
Khâu yếu nhất hiện nay của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất vải và
nguyên, phụ liệu phục vụ cho may xuất khẩu, đặc biệt là sản xuất vải dệt thoi -
sản phẩm mà các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam phải nhập khẩu nhiều
nhất. Hiện nay diện tích trồng bông của Việt Nam chỉ đáp ứng đƣợc từ 10% đến
15% nhu cầu nguyên liệu của toàn ngành dệt may. Vì vậy, cần nhanh chóng
- 102 -
phát triển vùng nguyên liệu bông, vùng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa thông qua
các chính sách hỗ trợ cho nông dân về vốn, giống cây, phân bón... cũng nhƣ bao
tiêu toàn bộ 100% sản phẩm với giá cả hợp lý giúp họ đủ khả năng tái sản xuất
và nâng cao mức sống. Mục tiêu đặt ra là trong năm 2005 số diện tích trồng
bông phải đạt 60.000 ha; thu hoạch đƣợc 30.000 tấn bông xơ và đến năm 2010 các chỉ tiêu này tƣơng ứng là 120.000 ha và 80.000 tấn bông xơ. 8 Muốn đạt mục tiêu này, cần triển khai rộng khắp, hiệu quả và đồng bộ phƣơng thức bốn nhà
(nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nƣớc) trong việc phát triển
diện tích vùng nguyên liệu, hoàn thiện quy trình sản xuất thao hƣớng khoa học -
công nghệ hóa và nâng cao năng suất lao động.
+ Hình thành các trung tâm ("chợ") cung ứng nguyên, phụ liệu cho ngành
dệt may tại các khu vực có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may
(tam giác: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng; Hà Nội và các tỉnh
lân cận; Đà Nẵng...). Có thể khẳng định rằng, một trong các nguyên nhân cơ bản
khiến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dệt may xuất khẩu hiện nay thua
kém các quốc gia khác là do chúng ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên, phụ
liệu nhập khẩu. Trong khi đó, chất lƣợng, nguồn cung ứng nguyên, phụ liệu cho
ngành lại rất khó quản lý. Thực trạng này đã tác động mạnh tới chất lƣợng sản
phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu và đặc biệt là tính kém chủ động trong quá
trình sản xuất. Vì vậy, sự ra đời của các trung tâm nguyên, phụ liệu sẽ đáp ứng
đƣợc nhu cầu của nhiều nhà sản xuất hiện nay. Việc hình thành các trung tâm
nguyên, phụ liệu không chỉ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tìm
kiếm nguồn nguyên, phụ liệu ổn định, chất lƣợng đảm bảo mà còn giúp các
doanh nghiệp nâng cao giá trị xuất khẩu; giới thiệu các chủng loại nguyên, phụ
liệu mà các doanh nghiệp trong nƣớc đã sản xuất đƣợc với chất lƣợng đáp ứng
yêu cầu đặt ra và giá cả hợp lý hơn để chúng từng bƣớc thay thế nguyên, phụ liệu
nhập khẩu. Hơn thế nữa, các trung tâm nguyên, phụ liệu dệt may sẽ giúp hình
thành chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất cùng ngành hàng để có thể đáp ứng
những đơn hàng rất lớn theo yêu cầu của đối tác... Về mặt chất lƣợng nguyên,
phụ liệu cũng đƣợc đảm bảo hơn do phải thông qua kiểm tra chất lƣợng trƣớc khi
8 Theo Quyết định số 55/2001-TTg, ngày 23/ 04/2001 của Thủ Tƣớng Chính Phủ.
- 103 -
đƣa vào tiêu thụ... Bên cạnh đó, việc thành lập trung tâm nguyên, phụ liệu dệt
may sẽ góp phần kích thích tăng trƣởng cả cung và cầu về sản phẩm dệt may theo
xu hƣớng chung của các quốc gia phát triển; qua đó, khách hàng nƣớc ngoài sẽ
có cái nhìn toàn diện hơn về sản phẩm dệt may Việt Nam cũng nhƣ tạo điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tƣ nắm bắt nhu cầu của thị trƣờng về nguyên, phụ liệu
nhập khẩu trƣớc khi tiến hành đầu tƣ sản xuất thay thế nhập khẩu... Và cuối cùng
là khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu sẽ tăng do
giảm đƣợc các chi phí đầu vào. Tuy nhiên, đây là một mô hình kinh doanh mới
đòi hỏi nhà đầu tƣ phải có thời gian để chứng minh tính hiệu quả trong kinh
doanh nên cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ thông qua các chính sách ƣu đãi trong
thời gian đầu triển khai, nhƣ: ƣu đãi về thuế, ƣu đãi về tín dụng (từ 60% đến 70%
vốn vay đƣợc hƣởng lãi suất đặc biệt 3%/năm với thời gian từ 10 đến 15 năm và
thời gian ân hạn là 3 năm - Theo bà Trƣơng Thị Thúy Liên, Chủ đầu tƣ dự án
Trung tâm nguyên, phụ liệu dệt may và da giầy Bình Dƣơng).
- Đẩy nhanh tiến trình đàm phán thương mại cấp quốc gia và hỗ trợ các
doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, thâm nhập thị trường nước ngoài.
+ Khẩn trương tiến hành đàm phán gia nhập WTO.
Đến thời điểm hiện nay, nƣớc ta chƣa phải là thành viên của WTO và nhƣ
vậy về mặt nguyên tắc, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vẫn bị áp đặt hạn
ngạch. Điều này đã làm cho các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu mất hẳn
lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại của các nƣớc đang phát triển khác là
thành viên của WTO. Với thực tế nhƣ đã nêu, để hoàn thành và vƣợt mục tiêu
tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã đề ra trong chiến lƣợc đầu tƣ
tăng tốc ngành dệt may Việt Nam đến năm 2005 và 2010 thì một giải pháp không
thể không đƣợc đề cập tới là đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập WTO trong
cuối năm 2005 hoặc muộn nhất là nửa đầu năm 2006. Việc Việt Nam trở thành
thành viên của WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trƣờng tiêu
thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may đặc biệt đối với các thị trƣờng
lớn nhƣ Hoa Kỳ, EU... (riêng thị trƣờng Hoa Kỳ đã chiếm tới 2,2 tỷ USD tƣơng
đƣơng 55% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may trong năm 2004).
Trong 10 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các
cuộc đàm phán song phƣơng và đa phƣơng với WTO cũng nhƣ các nƣớc thành
- 104 -
viên về rất nhiều vấn đề liên quan nhƣ: minh bạch hóa các chính sách kinh tế -
thƣơng mại, mở cửa thị trƣờng đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhập
khẩu, cải cách hệ thống pháp luật và thuế quan cho phù hợp hơn với các định
chế của WTO... Thực tế là chúng ta đã đạt đƣợc những thỏa thuận quan trọng
đối với các nƣớc lớn, các khu vực mậu dịch có tỷ trọng cao trong thƣơng mại
toàn cầu, chi phối tới WTO mà gần đây nhất là việc Tổng thống Mỹ đã tuyên bố
ủng hộ việc Việt Nam trở thành thành viên WTO trong chuyến thăm Mỹ của
Thủ tƣớng Việt Nam. Tuy nhiên, cách đề cập nhƣ vậy không có nghĩa là chắc
chắn chúng ta sẽ trở thành thành viên WTO trong thời gian gần đây mà không
cần bất cứ nỗ lực nào tiếp theo. Để đạt đƣợc mục tiêu đề ra là trở thành thành
viên WTO trong cuối năm 2005 hoặc nửa đầu năm 2006 thì trƣớc hết, chúng ta
phải thể hiện quyết tâm mở cửa thị trƣờng, đẩy nhanh quá trình minh bạch hóa
hệ thống luật pháp, các chính sách tài chính, thƣơng mại và phát triển kinh tế
phù hợp với WTO hơn nữa. Mỗi cơ quan, ban ngành và từng doanh nghiệp đều
cần nâng cao nhận thức về WTO cũng nhƣ các vấn đề cần giải quyết trƣớc và
sau khi trở thành thành viên WTO.
+ Đẩy nhanh các cuộc đàm phán song phương và đa phương với các khối
kinh tế khác giúp các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị
trường xuất khẩu.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
tìm kiếm và khai thác thị trƣờng nƣớc ngoài, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh
nghiệp dệt may nghiên cứu, thâm nhập các thị trƣờng ngoài nƣớc đặc biệt là các
thị trƣờng Hoa Kỳ, Trung Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông dƣới nhiều hình thức
khác nhau, nhƣ: trích phí quota để hỗ trợ một phần kinh phí trong việc khai thác
và xâm nhập thị trƣờng mới; cung cấp thông tin về các thị trƣờng mới cho
doanh nghiệp... Trong thời gian chƣa trở thành thành viên chính thức của WTO,
Chính phủ cần khẩn trƣơng tiến hành các cuộc đàm phán thƣơng mại cấp quốc
gia khác để tạo cho các doanh nghiệp có cùng điều kiện xuất khẩu nhƣ các quốc
gia đang phát triển khác: Thúc đẩy việc triển khai Hiệp định Thƣơng mại Việt -
Mỹ; Tiếp tục tiến hành đàm phán với EU và Mỹ đối với việc cho phép Việt
Nam đƣợc bỏ chế độ quota sớm hơn các nƣớc công nghiệp trong xu thế thực
hiện ACT của WTO; đàm phán, ký kết các hiệp định thƣơng mại song phƣơng
- 105 -
với các nƣớc thuộc khối MECOSUR để hàng dệt may Việt Nam đƣợc hƣởng
thuế xuất nhập khẩu bình thƣờng khi nhập khẩu vào thị trƣờng Nam Mỹ; đàm
phán để Việt Nam có thể đƣợc sử dụng quota và xuất xứ của một số quốc gia
ASEAN trong xuất khẩu sản phẩm dệt may...
- Có chính sách để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát
triển công nghiệp dệt may.
+ Chính phủ cần có cơ chế thông thoáng hơn nữa trong việc vay vốn đối
với các doanh nghiệp dệt may; hình thành cơ chế để Bộ Tài Chính, Bộ Công
nghiệp có thể bảo lãnh giúp các doanh nghiệp có thể vay vốn từ ngân hàng và
các tổ chức tài chính ngoài nước.
Trong Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/04/2001 của Thủ tƣớng
Chính phủ đã nêu ra yêu cầu đối với tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm ngành may
là 50% đến năm 2005 và 70% đến 75% vào năm 2010. Muốn thực hiện mục
tiêu này, nhất thiết ngành dệt may cần tăng cƣờng đầu tƣ nhất là ngành dệt.
Trong khi đó, vốn đầu tƣ cho ngành dệt đòi hỏi là rất lớn. Nhƣ đã phân tích ở
trên, trình độ công nghệ ngành dệt nƣớc ta hiện nay rất thấp so với thế giới
(khoảng 70% công nghệ đang sử dụng đã lỗi thời, cần đầu tƣ mới). Vấn đề khó
khăn nhất hiện nay đối với ngành dệt may nói chung, đặc biệt là ngành dệt nói
riêng là vốn. Theo VINATEX, nhu cầu đầu tƣ năm 2001 là khoảng 3.500 tỷ
đồng thì chỉ đƣợc đáp ứng 368 tỷ từ Quỹ Hỗ trợ phát triển; con số tƣơng tự của
năm 2002 là 4.000 tỷ đồng và 500 tỷ đồng... Để giải quyết những khó khăn về
vốn, các công ty trong ngành đã tiến hành vay vốn thƣơng mại và Chính phủ sẽ
cấp bù phần lãi suất (khoảng 4%). Tuy nhiên, để có thể tiếp cận và khai thác
hiệu quả các nguồn vốn từ ngoài nƣớc thì nhất thiết phải có sự bảo lãnh của Bộ
Tài Chính và Bộ Công nghiệp.
+ Huy động các nguồn vốn trong nước thông qua cổ phần hóa các DNNN
và có chính sách hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp.
Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp, trƣớc hết là các
doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tƣ trong
nƣớc. Một giải pháp để tháo gỡ những vƣớng mắc hiện đang cản trở quá trình
cổ phần hoá ngành dệt may là tiến hành ngay từ đầu các doanh nghiệp thành lập
mới ở các địa phƣơng theo hình thức hợp tác giữa VINATEX và địa phƣơng.
- 106 -
Trong hoàn cảnh thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may đang gặp khó khăn nhƣ
hiện nay, đề nghị tạm thời đƣa hàng dệt may vào danh mục các mặt hàng đƣợc
hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng theo Quyết định số 178/1998/TTg ngày
19/9/1998 về hỗ trợ lãi xuất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất
khẩu của Thủ tƣớng Chính phủ, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn đầu tƣ
thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trƣờng phi hạn ngạch hoặc các chủng
loại sản phẩm Việt Nam có lợi thế mà chƣa khai thác hiệu quả.
+ Cần có chính sách hợp lý để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào phát triển sản xuất ngành dệt may.
Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn vốn đầu tƣ lớn, cần có những chính
sách khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài dƣới mọi hình thức - các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nƣớc ngoài. Xem xét giảm thiểu các hình thức
thuế để khuyến khích các doanh nhân nƣớc ngoài đã đầu tƣ tại Việt Nam tiến
hành tái đầu tƣ với số lợi nhuận thu đƣợc.
Với ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngƣợc. Thứ nhất, cho
rằng năng lực ngành may hiện nay đã dƣ thừa trong khi thị trƣờng tiêu thụ đang
gặp khó khăn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể
thu hút từ vốn cổ phần trong nƣớc. Vì vậy, nên hạn chế đầu tƣ nƣớc ngoài trong
lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài có vốn, có công nghệ cũng nhƣ khả năng tiếp cận thị trƣờng lớn
mạnh hơn so với các doanh nghiệp nội địa. Thứ hai, cho rằng thu hút vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu nhƣ chúng ta muốn có một
ngành công nghiệp may thực sự hƣớng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của
các doanh nghiệp này, với các ƣu thế công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở
đƣờng” cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trƣờng
thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào các mặt hàng mới, phức tạp, mà các
doanh nghiệp hiện có chƣa sản xuất đƣợc cũng nhƣ ƣu tiên phân bổ hạn ngạch
xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nƣớc, khuyến khích các nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài tìm thị trƣờng phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức môi trƣờng trên thế giới cho “sản phẩm công nghiệp
xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn
vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO
- 107 -
14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trƣờng của các
nƣớc quan tâm nhiều đến vấn đề này nhƣ Hà Lan, Đức, Canada, New Zeland...
mà các nƣớc xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực nhƣ Ấn Độ, Banglades,
Nêpan... đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm cho Việt Nam trong giải quyết
vấn đề này.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp lý đầy đủ hơn nữa
để tạo điều kiện cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam thực hiện vai trò, nhiệm vụ
của mình trong quá trình phát triển của ngành dệt may. Điều này sẽ đặc biệt
quan trọng trong thời gian sau khi chúng ta đã trở thành thành viên chính thức
của WTO vì khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối diện với các hình thức
bảo hộ thƣơng mại mới (đặc biệt là kiện chống bán phá giá hàng hóa). Đây là
một bài học đắt giá rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn và quá trình
đấu tranh chống lại việc một Bang của Mỹ cho phép treo cờ của chế độ Ngụy
quyền Miền Nam Việt Nam trƣớc đây.
Từ khi thành lập đến nay, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã có nhiều đóng
góp vào sự phát triển chung của toàn ngành đặc biệt là trong lĩnh vực xúc tiến
thƣơng mại và đào tạo nghề. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn còn một
số khó khăn phát sinh do quyền hạn của Hiệp hội theo luật định còn rất hạn chế
(vai trò trong giải quyết các tranh chấp với nƣớc ngoài chƣa đáp ứng yêu cầu đề
ra). Vì thế, để Hiệp hội thực sự trở thành chỗ dựa cho các doanh nghiệp hay nói
một cách khác là các doanh nghiệp nhận thấy có lợi khi tham gia Hiệp hội,
Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp lý đầy đủ hơn nữa, tạo điều kiện
thuận lợi cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam nói riêng và các hiệp hội ngành nghề
nói chung thể hiện đƣợc vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển ngành. Bên
cạnh đó, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng đề nghị các bộ, ngành hữu quan cho
phép Hiệp hội tham gia vào quá trình quản lý quota dệt may cho đến khi chế độ
quota đối với hàng dệt may Việt Nam đƣợc bãi bỏ hoàn toàn vì Hiệp hội cũng là
một cơ quan nắm vững tiềm năng cũng nhƣ năng lực sản xuất của các đơn vị
thành viên của mình.
3.3.2. Những giải pháp từ góc độ ngành và Hiệp hội Dệt may Việt Nam.
- Về nguồn nhân lực.
Theo tính toán của các chuyên gia của ngành thì cứ mỗi 4 tỷ USD giá trị
hàng dệt may thì cần tối thiểu 1 triệu lao động. Nhƣ vậy, đến năm 2010, Việt
- 108 -
Nam sẽ cần tối thiểu 1,5 triệu lao động phục vụ mục tiêu tạo thêm 6 tỷ USD giá
trị sản phẩm. Trong khí đó, hiện nay ngành dệt may Việt Nam đang rất thiếu từ
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật (đặc biệt là cán bộ quản lý kỹ thuật công nghệ
nhuộm hoàn tất và nghiên cứu thị trƣờng) đến công nhân lành nghề. Vì vậy, mở
rộng và thành lập mới các trung tâm dạy nghề tại các địa phƣơng nhằm tăng
cƣờng khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của ngành dệt may là một đòi hỏi
bức thiết hiện nay. Bên cạnh đó, vấn đề chất lƣợng đào tạo cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề cần xem xét, nhƣ: Trình độ tay nghề thực tế sau khi tốt nghiệp, tác
phong công nghiệp... Hơn thế nữa, cần nghiên cứu đề xuất Chính phủ mở thêm
từ 1 đến 2 trƣờng Đại học tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo cán
bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, cán bộ nghiên cứu thị trƣờng và thiết
kế mẫu mốt sản phẩm...
Với việc mở các trƣờng đào tạo cán bộ ở trình độ Đại học và trên đại học
tại các trung tâm dệt may lớn (trong đó giành nhiều thời gian thực tập cho sinh
viên sử dụng thành thạo công nghệ, làm quen với các quy trình quản lý, điều
hành sản xuất công nghiệp, kết hợp với hƣớng dẫn chuyên sâu công tác nghiên
cứu thị trƣờng theo đặc thù ngành may và thiết kế thời trang...) sẽ tạo ra một lực
lƣợng cán bộ trẻ, có năng lực tốt trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho ngành dệt
may Việt Nam. Nếu làm đƣợc nhƣ vậy, trong vòng 20 đến 25 năm nữa, Việt
Nam không chỉ duy trì đƣợc lợi thế về nguồn lao động với giá cả tƣơng đối thấp
mà còn là một quốc gia có đội ngũ kỹ sƣ và công nhân lành nghề trong lĩnh vực
dệt may tƣơng đối dồi dào; cơ sở quan trọng để các nhà đầu tƣ đƣa ra quyết
định rót vốn của mình.
- Phát huy vai trò của Hiệp hội Dệt may và VINATEX trong tăng cường
liên kết nội bộ và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tăng cƣờng vai trò của Hiệp hội Dệt may Việt Nam và VINATEX trong
các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh
nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải
quyết đƣợc, nhƣ: Tìm kiếm, mở rộng thị trƣờng; tổ chức triển lãm, hội chợ, giới
thiệu sản phẩm trong và ngoài nƣớc; giao dịch buôn bán chuyển giao công
nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trƣờng ...
- Tăng cường liên kết khối theo mô hình công ty mẹ con và sự hỗ trợ giữa
- 109 -
các công ty trong Hiệp hội và VINATEX.
Nhƣ đã phân tích ở trên, khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn với thời gian
giao hàng ngắn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay còn rất thấp mà
nguyên nhân cơ bản là quy mô sản xuất cũng nhƣ khả năng cung ứng nguyên,
phụ liệu còn thấp. Việc áp dụng mô hình công ty mẹ con và liên kết khối chắc
chắn sẽ góp phần nâng cao khả năng sản xuất cũng nhƣ đáp ứng kịp thời các điều
khoản của hợp đồng về mặt thời gian. Trong đó, các liên kết trong VINATEX sẽ
đƣợc triển khai rộng theo mô hình công ty mẹ con trong đó đảm bảo sự độc lập,
chủ động tƣơng đối của các công ty con trong quá trình kinh doanh. Bên cạnh đó,
cần nhân rộng mô hình công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên để gắn chặt hơn
nữa giữa quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo đối với vốn nhà nƣớc.
Các doanh nghiệp trong toàn ngành cần nhanh chóng thúc đẩy sự hợp tác chặt
chẽ với nhau theo ngành dọc để tạo lập những tập đoàn dệt may lớn; có sự phân
cấp trách nhiệm rõ theo lợi thế của từng thành viên để không ngừng nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Hơn thế nữa, khi các công ty đầu
ngành quyết định đầu tƣ đổi mới công nghệ thì các công ty nhỏ hơn sẽ tiếp nhận
những công nghệ của các công ty lớn để tiếp tục khai thác. Hình thức này một
mặt giúp các công ty lớn có điều kiện giảm thiểu chi phí đầu tƣ trong đổi mới
trang thiết bị công nghệ nhƣng đồng thời cũng giúp các công ty có quy mô nhỏ
với mức vốn vừa phải có đủ khả năng tài chính để mở rộng sản xuất với chất
lƣợng sản phẩm đạt yêu cầu của thị trƣờng.
- Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ngành dệt may Việt Nam nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng cần
nhập khẩu những trang thiết bị, công nghệ dệt may hiện đại nhất hiện nay trên
thế giới để nâng cao chất lƣợng in, nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Trong thời
gian tiến hành xây dựng vùng nguyên liệu và đổi mới trang thiết bị, công nghệ
ngành dệt, cần tập trung đầu tƣ nghiên cứu, nhập khẩu nguồn nguyên liệu vải
mộc từ các nƣớc có nguồn nguyên liệu bông sẵn có và công nghệ dệt tiến tiến,
nhƣ Ấn Độ, Pakistan... để sản xuất ra những sản phẩm vải cao cấp, đáp ứng nhu
cầu của ngành may mặc xuất khẩu. Đây là một yêu cầu đặt ra trong việc nâng
cao tính chủ động về nguyên liệu cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm và
giá trị gia tăng cho sản phẩm may mặc xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc tăng cƣờng
- 110 -
đầu tƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm dệt cũng nhƣ hình thành các tập đoàn lớn
với công nghệ hiện đại, đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn ISO 9000, 14000 và SA
8000 sẽ tạo cơ sở để các hãng lớn của Hoa Kỳ, EU... với những thƣơng hiệu nổi
tiếng ký đặt hàng lâu dài với Việt Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần
thay đổi chiến lƣợc kinh doanh của mình từ cạnh tranh đơn thuần nhờ lao động
rẻ sang cạnh tranh bằng giá trị gia tăng (thông qua chất lƣợng, dịch vụ và hình
thức xuất khẩu). Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn những sản phẩm
mà mình có lợi thế cạnh tranh cao để chuyển dịch và tập trung chuyên môn hóa
sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có chất lƣợng vƣợt trội và đa tính năng đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Tóm lại, bối cảnh quốc tế và trong nƣớc hiện nay đang đặt ngành dệt may
nói chung và dệt may xuất khẩu Việt Nam nói riêng trƣớc các thách thức mới;
đòi hỏi phải có các định hƣớng chính sách cũng nhƣ các quan điểm chỉ đạo
đúng đắn, hợp lý. Hơn thế nữa, sau khi ACT có hiệu lực và việc Việt Nam chƣa
phải là thành viên của WTO thì những khó khăn vốn có của ngành dệt may Việt
Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu lại càng
trở nên phức tạp hơn. Hệ thống các giải pháp vĩ mô ở các cấp độ khác nhau
đƣợc đƣa ra sau khi có những dự báo cho giai đoạn tới là cần thiết và cần đƣợc
- 111 -
triển khai một cách nhất quán, đồng bộ.
KẾT LUẬN
Xuất khẩu các sản phẩm dệt may thời gian qua đã mang về nguồn thu ngoại
tệ đứng thứ hai sau dầu thô. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tìm ra
các giải pháp thích hợp nhằm duy trì và phát triển tốc độ tăng trƣởng của lĩnh vực
này là hết sức cần thiết. Phát triển công nghiệp dệt may hƣớng tới xuất khẩu là
một trong các mục tiêu ban đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam; bởi vì: Ngành dệt may giúp sử
dụng nhiều lao động, đầu tƣ thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh và đặc biệt là
các quốc gia phát triển đã và đang chuyển giao ngành công nghiệp này sang các
nƣớc đi sau... Hơn thế nữa, từ khi ACT có hiệu lực (01/01/2005) đến nay, mức độ
cạnh tranh trên thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may đang ngày càng gay
gắt; sự mở rộng thị trƣờng và thị phần của các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam
đã dẫn đến những khó khăn, trở ngại cho sự phát triển của ngành dệt may nói
chung và việc tăng cƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may nói riêng... Rõ ràng
là, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang đứng trƣớc những khó khăn trong
việc thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc đến năm 2010. Thực tế đó đòi hỏi phải có
những giải pháp trung và dài hạn để tháo gỡ.
Đảng ta đã xác định rõ việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu là hết sức cần thiết
và đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn. Chính Phủ đã cụ thể hóa các
định hƣớng này thông qua việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2010-2020... Trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc
này thì vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may xuất
khẩu của Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu chính là
việc khai thác các lợi thế tiềm năng và vốn có; hạn chế, khắc phục các tồn tại để
có thể sản xuất, xuất khẩu ra các sản phẩm cạnh tranh hơn so với các sản phẩm
cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Thực tế là hiện nay, năng lực cạnh tranh
- 112 -
của các sản phẩm dệt may xuất khẩu còn yếu so với các sản phẩm cùng loại của
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và một số quốc gia khác. Lợi thế lớn nhất đang
có của Việt Nam trong lĩnh vực này là giá nhân công hạ cũng sẽ mất dần cùng
với sự phát triển của đất nƣớc và đời sống của nhân dân lao động không ngừng
đƣợc nâng cao. Hơn thế nữa, mặc dù kim ngạch xuất khẩu đang tăng với tốc độ
tƣơng đối cao, nhƣng hàm lƣợng giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm xuất
khẩu của Việt Nam lại rất thấp. Vì vậy, muốn thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu,
kế hoạch đề ra cũng nhƣ đạt đƣợc sự tăng trƣởng bền vững thì cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp từ việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, khả năng
tiếp cận các thị trƣờng ngoài, xây dựng thƣơng hiệu nƣớc của mỗi doanh nghiệp
cho tới các giải pháp hỗ trợ từ phía Chính Phủ để phát triển đội ngũ các chuyên
gia thiết kế thời trang, chuyển dần từ hình thức gia công xuất khẩu sang xuất
khẩu trực tiếp... Các giải pháp đƣợc nêu ra là có tính khả thi. Thực hiện một
cách đồng bộ các giải pháp đó thì các sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam
mới có thể duy trì và mở rộng thị phần cũng nhƣ khẳng định vị trí trên thị
- 113 -
trƣờng thế giới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt:
1. Báo cáo điều tra các doanh nghiệp dệt may Việt Nam của Viện Kinh tế
học (1999).
2. Báo cáo thường niên của Diễn đàn kinh tế Thế giới (1997).
3. Báo cáo thường niên của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2003).
4. Báo cáo thường niên của USAID.
5. Các báo cáo thường niên của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam.
6. Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách
phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".
7. Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình
hình và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
9. Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt
Nam những thành công, những thách thức trong tương lai".
10. Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hướng cho kế hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm 2020".
11. Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lược "tăng tốc" phát
triển ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".
12. Trần Văn Tùng (2003), Cạnh tranh kinh tế, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
13. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Dự án VIE 01/025: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb. Giao thông- Vận tải, Hà Nội- 2003.
Tài liệu Tiếng Anh:
14. EU: "The textile and clothing industry in the EU" (A survey) No2-
2001.
15. G.H. Peter, "The Compatitive Ability of Bisiness", Dartmouch, 1995.
16. "Indian Textile Policy" - 2000 (apparel.indiamart.com)
17. OECD: "A New World Map in Textiles and Clothing: Adjusting to
Change", 2004.
ix
18. M.Porter, "The compatitive Advantage of Nation"; Macmillian Business,
1998.
19. OECD: "A New World Map in Textiles and Clothing: Adjusting to
Change", 2004.
20. Pr Gdfrey Yeung (University of Sussex) & Pr Vincent Mok (The
Hongkong Polytechnic University), "Does WTO accession matter for
the Chiness Textile and Clothing Industry".
21. "Textile of Asia Magazine" (10/2003).
22. World Trade Organization, Discussion Paper No 5: "The Global Textile
and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing"
(Hildegunn Kyvik Nordos) Geneva, Switzerland, 2001.
23. World Trade Organization: "Textiles and Apparel in the International
Economy", Kitty G. Dickerson, 2000.
Một số trang Web:
+ HTTP://WWW. DEI.GOV.VN
+ HTTP://WWW. JETRO.GO.JP
+ HTTP://WWW. MOF.GOV.VN
+ HTTP://WWW. MOI.GOV.VN
+ HTTP://WWW. MOT.GOV.VN
+ HTTP://WWW.OECD.ORG.
+ HTTP://WWW.UNDP.ORG.
+ HTTP://WWW. VIETNAMTEXTILE.ORG.VN
+ HTTP://WWW. VINATEX.COM.VN
+ HTTP://WWW.WORLDBANK.ORG
x
PHỤ LỤC 1
Thị trường xuất-nhập khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam (2003-2004)
Đơn vị: Nghìn USD
Thứ hạng
Tăng trưởng
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Quốc gia
(04/03)
04/03 (+/- %)
2002
2003
2002
2003
NK XK
NK
XK
Hoa Kỳ
34.540
38.997
975.000
1.973.609
6/6
1/1
+12,9 +102,4
Nhật Bản
141.800
157.059
480.000
478.191
4/5
2/2
+10,8
-3,8
Đài Loan
527.000
575.814
215.000
187.894
1/1
3/3
+9,3
-12,6
Đức
14.095
11.639
202.410
184.973
8/9
4/4
-17,4
-8,6
Hàn Quốc
413.030
495.516
93.685
127.953
2/2
5/5
+20,0 +36,6
20.250
25.038
77.080
72.915
Anh
7/7
6/6
+23,6
-5,4
Pháp
7/7
10.210
5.571
68.910
71.468
10/11
-45,4
+3,7
T.B.Nha
2.080
1.665
49.240
50.487
12/15
8/8
-20,0
+2,5
H.Kông
247.190
304.995
32.780
49.367
3/3
12/9
+23,4 +50,9
Hà Lan
1.095
2.532
44.170
46.786
16/13
9/10 +131,2 +5,9
Italy
14.040
23.575
41.380
42.052
9/8
10/11 +67,9 +1,6
Canada
967
39.930
34.966
15/16 11/12
-24,9
-12,4
1.288
1.697
27.200
32.498
14/14 13/13 +17,8 +19,5
Bỉ
1.441
T.Quốc
120.900
200.521
10.316
28.457
5/4
16/14 +65,9 +157,8
6.052
23.740
20.556
11/10 14/15
+8,9
-13,4
Úc
5.557
Đ.Mạch
2.779
10.680
9.197
13/12 15/16 +73,7
-13,9
1.600
Áo
809
337
3.600
4.672
17/17 17/17
-58,3 +29,8
Phần Lan
173
308
2.362
2.411
18/18 18/18 +78,0 +2,1
Q.G. Khác
139.902
178.584
383.517
268.382
---
---
+27,6
-30,0
Tổng cộng 1.697.000
2.033.646
2.781.000
3.686.834
---
---
+19,8 +32,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
vi
PHỤ LỤC 2
Một số chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam
Chủng loại sản phẩm
Chủng loại sản phẩm
STT
STT
Tất từ sợi nhân tạo
01
44
02
45
Quần áo vui chơi và quần áo tắm nắng Quần áo trẻ em và phụ liệu quần áo từ sợi bông và sợi nhân tạo
Áo khoác nam kiểu vét từ sợi nhân tạo
Khăn mùi xoa từ sợi bông
03
46
Các loại áo khoác nam khác từ sợi nhân tạo
04 Găng tay và găng hở ngón từ sợi bông 47 Áo khoác nữ từ sợi nhân tạo
05 Tất từ sợi bông 06 Áo khoác nam kiểu vét từ sợi bông
48 Váy ngắn từ sợi nhân tạo 49 Áo sơmi dệt kim nam từ sợi nhân tạo
07
50
Các loại áo khoác nam khác từ sợi bông
Áo blouse và sơ mi nữ dệt kim từ sợi nhân tạo
Áo khoác nữ từ sợi bông
08
51
Áo sơmi nam không dệt kim từ sợi nhân tạo
Váy ngắn từ sợi bông
09
52
Áo sơ mi và áo choàng nữ không dệt kim từ sợi nhân tạo
10 Áo sơ mi dệt kim nam từ sợi bông
53 Váy từ sợi nhân tạo
Comple nam từ sợi nhân tạo
11
54
Áo blouse và áo sơ mi nữ dệt kim từ sợi bông
Comple nữ từ sợi tổng hợp
12
55
Áo sơmi nam không phải dệt kim từ sợi bông
Áo len nam dài tay từ sợi nhân tạo
13
56
Áo sơmi và áo choàng nữ không phải dệt kim từ sợi len
14 Váy từ sợi bông
57 Áo len nữ từ sợi nhân tạo
Áo len nam dài tay từ sợi bông
15
58
16
59
Quần dài và quần soóc nam từ sợi bông Quần dài và quần soóc nữ từ sợi bông
17
60
Quần dài và quần soóc nam từ sợi nhân tạo Quần dài và quần soóc nữ từ sợi nhân tạo Áo nịt ngực và quần áo mặc sát người từ sợi nhân tạo
Váy dài, áo choàng...từ sợi nhân tạo
18
61
Áo nịt ngực và các quần áo sát người khác từ sợi bông
19 Váy dài, áo choàng...từ sợi bông
62 Đồ ngủ và pijama từ sợi nhân tạo
20 Đồ ngủ và pijama từ sợi bông
63 Đồ lót từ sợi nhân tạo
Đồ lót từ sợi bông
64
21
Áo khoác nam lông vũ có nguồn gốc nhân tạo
vii
22
65
Áo khoác nữ lông vũ có nguồn gốc nhân tạo Quần áo khác từ sợi nhân tạo
23
66
Áo khoác nam lông vũ có nguồn gốc từ bông Áo khoác nữ lông vũ có nguồn gốc từ bông Các loại áo vải bông khác
24
67
Găng tay và găng hở ngón từ sợi có nguồn gốc khác
25 Găng tay và găng hở ngón từ sợi len
68 Tất từ vật liệu khác
Tất từ sợi len
26
69
Áo khoác nam kiểu vét từ sợi có nguồn gốc khác
Áo khoác nam kiểu veston từ sợi len
27
70
Các loại áo khoác nam khác từ sợi len
28
71
Các loại áo khoác khác của nam từ sợi có nguồn gốc khác Áo khoác nữ từ sợi có nguồn gốc khác
29 Áo khoác nữ từ sợi len
72 Váy ngắn từ sợi có nguồn gốc khác
73 Áo sơ mi và áo khoác dệt kim
30 Váy ngắn từ sợi len
Áo sơmi nữ dệt kim
31
74
Quần áo trẻ em và phụ liệu từ sợi có nguồn gốc khác
32
75
Quần áo trẻ em và phụ liệu quần áo từ sợi len
Áo sơmi và áo choàng nam không dệt kim từ sợi có nguồn gốc khác 33 áo sơmi nam không dệt kim từ sợi len 76 Váy từ sợi có nguồn gốc khác
Váy từ sợi len
34
77
Comple nam từ sợi có nguồn gốc khác
35 Comple nam từ sợi len
78 Comple nữ từ sợi có nguồn gốc khác
36 Comple nữ từ sợi len
79 áo len dài tay sợi thực vật ngoài bông
37 Áo len nam dài tay
80 áo len tơ tằm
áo len nữ từ sợi bông
38
81
Quần dài và quần soóc nam từ sợi có nguồn gốc khác
Quần dài và quần soóc nam từ sợi len
39
82
Váy dài, áo choàng,v.v... từ sợi có nguồn gốc khác
Quần dài và quần soóc nữ từ sợi len
40
83
Đồ ngủ và pijama từ sợi có nguồn gốc khác
41 Quần áo len khác
84 Đồ lót từ sợi có nguồn gốc khác
42 Khăn mùi xoa từ sợi nhân tạo
85 Khăn quàng cổ
43
86
Găng tay và găng hở ngón từ sợi nhân tạo
Các quần áo khác từ sợi có nguồn gốc khác
Nguồn: Http://www.vietnamtextile.org.vn
viii
PHỤ LỤC 3 Thị phần hàng may mặc của một số nước xuất khẩu vào Nhật Bản
1996
1998
2000
2002
2003
Nước
S.lượng
Th.phần
S.lượng Th.phần S.lượng
Th.phần
S.lượng
Th.phần
S.lượng Th.phần
Tổng
6341915
100% 568.994
100%
654.844
100% 1.275.367
100% 1.527.635
100%
Trung Quốc
476.626
75,1% 456.115
80,2%
746.173
87,3% 1.135.007
89,0% 1.238.380
89,0%
3,2%
16.582
2,9%
20.138
2,4%
2,3%
35.228
2,3%
20.388
29.461
Việt Nam
19.898
3,1%
16.559
2,9%
18.784
2,2%
22.956
1,8%
26381
1,7%
Hàn Quốc
11.770
1,9%
9.730
1,7%
9.177
1,1%
12.590
1,0%
16.350
1,0%
Thái Lan
10167
1,6%
7.995
1,4%
7.981
0,9%
7.956
0,6%
9.300
0,6%
Indonesia
9.238
1,5%
5.191
0,9%
7.298
0,9%
11.963
0,9%
16.800
1,1%
Ấn Độ
15.481
2,5%
7.476
1,3%
6.227
0,7%
7.652
0,6%
8.982
0,6%
Hoa Kỳ
71.347
11,3%
49.346
8,7%
39.066
4,6%
47.712
3,7%
56.214
3,7%
Khác
Nguồn: Tổng hợp từ "Japanese Trade in 2003" (Jetro.go.jp)