ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

-------*****-------

NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN

NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ -------*****------- NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN

NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ DANH TỐN

MÃ SỐ: 5.02.01

HÀ NỘI - 2005

MỤC LỤC

Mục lục. i

Danh mục bảng biểu. iii

Các chữ viết tắt iv

1

Phần mở đầu.

5

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực 5

cạnh tranh.

1.1.1. Một số khái niệm. 5

1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực 8

cạnh tranh.

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 12

1.1.4. Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh 19

của sản phẩm.

24

1.2. Một số kinh nghiệp quốc tế trong phát triển ngành công nghiệp dệt may và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu.

1.2.1. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may 24

ở một số quốc gia.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm 28

dệt may đối với Việt Nam.

32

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua

2.1. Tổng quan về ngành dệt may và tình hình xuất khẩu sản 32 phẩm dệt may của Việt Nam.

2.1.1. Quá trình phát triển và thực trạng ngành dệt may Việt Nam. 32

2.1.2. Vài nét về tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam. 42

2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt 44

Nam trong thời gian qua.

2.2.1. Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. 44

2.2.2. Về giá cả và chi phí. 46

i

2.2.3. Sự phát triển thị trường xuất khẩu. 50

2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt 59

may Việt Nam thời gian qua.

2.3.1. Những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản 59

phẩm dệt may Việt Nam.

2.3.2. Những điểm yếu hay các vấn đề đặt ra trong năng lực cạnh 61

tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.

75

75

Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới 3.1. Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.

3.1.1. Bối cảnh quốc tế và thách thức mới của thị trường dệt may thế 75

giới.

3.1.2. Bối cảnh trong nước. 85

88

3.2. Một số dự báo chiến lược, tiềm năng phát triển và quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam những năm tới.

3.2.1. Dự báo đến năm 2005 - 2010. 88

3.2.2. Tiềm năng phát triển. 90

3.2.3. Một số quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt 91

Nam trong những năm tới.

3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh 94 tranh xuất khẩu cho sản phẩm dệt may Việt Nam.

3.3.1. Những giải pháp từ phía Chính phủ. 94

3.3.2. Những giải pháp từ góc độ ngành và Hiệp hội Dệt may. 102

106

Phần kết luận. Phụ lục 1:

v

Thị trường xuất - nhập khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam (2003 - 2004).

Phụ lục 2:

vi Một số chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam.

viii Phụ lục 3: Thị phần hàng may mặc của một số quốc gia xuất khẩu vào Nhật Bản.

ii

Danh mục tài liệu tham khảo ix

iii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1 Năng lực sản xuất của VINATEX. 37

Bảng 2 Năng lực sản xuất của toàn ngành dệt may. 37

Bảng 3 Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may Việt Nam giai 38

đoạn 1997 - 2003.

Bảng 4 So sánh một số chỉ số cơ bản của ngành dệt may trong nền 40

kinh tế giai đoạn 1997 - 2003.

Bảng 5 Kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam giai 42

đoạn 1997 - 2004

Bảng 6 Các chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường 45

Hoa Kỳ năm 2002.

Bảng 7 Giá hàng xuất khẩu của một số quốc gia sang thị trường Nhật 47

Bản.

Bảng 8 Giá cả một số sản phẩm may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. 47

Đồ thị Phân bổ doanh nghiệp theo chi phí đơn vị cho các doanh 48

nghiệp mẫu.

Bảng 9 Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam. 51

Bảng 10 Mười quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ. 52

Bảng 11 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa kỳ. 53

Bảng 12 So sánh mức giá có MFN và không có MFN tại thị trường 55

Hoa Kỳ (năm 2001).

Bảng 13 Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Nhật Bản. 56

Bảng 14 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU. 57

Bảng 15 Xuất khẩu hàng dệt may vào một số quốc gia trong EU. 58

Bảng 16 Máy móc, trang thiết bị hiện tại của ngành dệt Việt Nam (2004). 63

Bảng 17 Tổng giá trị nhập khẩu trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam. 64

Bảng 18 Chất lượng của nguồn cung ứng đầu vào trong nước theo 69

đánh giá của doanh nghiệp.

Bảng 19 Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. 89

iv

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Tiếng Anh:

ACT Agreement on Textile and Clothing Hiệp định Dệt may

ASEAN Association of South East Asian

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Nations

EU

European Union Liên minh Châu Âu

GATT General Agreement on Tariffs & Trade Hiệp định chung về thuế quan & thương

mại

MFA Multi Fibre Arrangement

Hiệp định Đa sợi

WEF World Economic Forum

Diễn đàn Kinh tế Thế giới

Tổ chức Thương mại Thế giới

WTO World Trade Organization

2. Tiếng Việt:

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

VINATEX

Tổng công ty Dệt May Việt Nam

v

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Với tốc độ tăng trƣởng trung bình là 23,8%/năm (1990-2000) và tốc độ

tăng trƣởng năm 2004 là 19%, ngành dệt may Việt Nam đang là một trong

những ngành có tỷ lệ tăng trƣởng cao nhất. Với 92% sản phẩm sản xuất ra để

phục vụ xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu đóng vai trò tối quan trọng trong phát

triển ngành dệt may Việt Nam. Cùng với dầu thô, gạo, thủy-hải sản, các sản

phẩm dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, chủ lực của

Việt Nam trong thời gian qua cũng như định hướng cho thời gian tới (năm

2004: đóng góp 4,3 tỷ USD trong tổng số 26 tỷ USD kim ngạch xuất nhập

khẩu).

Tuy nhiên, do Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức

Thƣơng mại Thế giới (WTO) nên Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng những ƣu đãi

trong Hiệp định Dệt may (ATC) mang lại. Trong khi đó, các quốc gia là thành

viên WTO đã thực hiện bãi bỏ hoàn toàn chế độ hạn ngạch (quota) đối với các

sản phẩm dệt may cho các nƣớc trong Tổ chức. Đồng thời, trong số các thành

viên WTO có một số quốc gia có năng lực phát triển và khả năng sản xuất cũng

nhƣ sức cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may rất cao so với Việt Nam

(Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan...); trong khi đó sức sản xuất, khả

năng cạnh tranh, khả năng quản lý, trình độ công nghệ... thậm chí cả tay nghề

công nhân của ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần đƣợc tháo gỡ

(ngay cả khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO). Nhƣ vậy, ở thời điểm

hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những khó khăn lớn nhất từ

tham gia vào thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới.

Nhận thức rõ vai trò trong xuất khẩu cũng nhƣ những thách thức đang đặt

ra cho ngành dệt may Việt Nam thời gian tới, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết

định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 04 năm 2001 "Phê duyệt chiến lƣợc

phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lƣợc phát triển

ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010". Trong quyết định này, mục tiêu phát

triển ngành dệt may Việt Nam là: "Phát triển ngành dệt may Việt Nam thành

- 1 -

một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu..., tạo

nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh...". Quyết định này thể

hiện rõ chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đối với đẩy

mạnh phát triển ngành công nghiệp dệt may cũng nhƣ định hƣớng sản xuất

hƣớng tới xuất khẩu cho ngành này.

Vậy, để triển khai thực hiện những chủ trƣơng, chính sách của Đảng,

Chính phủ (nâng gấp đôi kim ngạch xuất nhập khẩu - 8 đến 9 tỷ USD vào năm

2010; 75% nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu là sản phẩm

nội địa...), và xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn nêu trên, ngành dệt may Việt

Nam sẽ phải triển khai đồng bộ một hệ thống các giải pháp để có thể giữ vững

và mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sau khi các quốc gia WTO bãi bỏ chế độ hạn

ngạch đối với sản phẩm dệt may (01/01/2005) và sau khi đã trở thành thành

viên chính thức của WTO?... Một trong những đòi hỏi quan trọng đặt ra là cần

xem xét, đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt

may Việt Nam, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, khai thác lợi thế

nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.

Vì thế, đề tài: “Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may

Việt Nam” là một đòi hỏi bức bách của thực tiễn hiện nay và trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu:

Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam là một

vấn đề đƣợc các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan và nhiều nhà kinh tế

trong nƣớc và quốc tế quan tâm. Những năm gần đây đã có những công trình

nghiên cứu và một số tài liệu đƣợc ấn hành liên quan đến vấn đề này, nhƣ:

- Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình

hình và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".

- Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách

phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".

- Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lƣợc "tăng tốc" phát triển

ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".

- Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hƣớng cho kế

hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm

- 2 -

2020".

- Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt

Nam những thành công, những thách thức trong tƣơng lai".

Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.

- TS Thân Danh Phúc, Nguyễn Anh Tuấn (Đại học Thƣơng mại) Nhân tố

Trung Quốc với chiến lƣợc phát triển thị trƣờng nội địa ngành dệt may (Tạp chí

Công nghiệp 7/2003).

- Hiệp hội các Nghiệp đoàn tự do (ICFTU), 2004: "Dệt may Bangladesh

"lách khe cửa hẹp""- New York Times (12/2004).

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và

thực tiễn quan trọng về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may

Việt Nam, nhƣng về cơ bản, các giải pháp, chính sách đƣa ra nhằm nâng cao

năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam đã gặp phải

những hạn chế nhất định do hoàn cảnh, điều kiện và thời điểm nghiên cứu; hoặc

những giải pháp này chỉ mang tính chất đối sách, thậm chí chỉ mang tính đơn lẻ

cho mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất

các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt

may Việt Nam hiện nay vẫn là một vấn đề cấp bách.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích của Luận văn là đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh xuất

khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao

năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm này trong thời gian tới.

Mục đích này đƣợc triển khai thông qua một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ

thể là:

Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực

cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng

lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.

Đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản

phẩm dệt may Việt Nam.

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất

khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.

- 3 -

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

* Đối tượng nghiên cứu: Dƣới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên

cứu những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm

dệt may Việt Nam và chỉ đề cập đến những giải pháp, chính sách vĩ mô cho

toàn ngành; không đi sâu vào những vấn đề có tính tác nghiệp trong hoạch định

chính sách cũng nhƣ trong việc tổ chức thực thi chính sách đối với từng doanh

nghiệp dệt may riêng lẻ.

* Phạm vi nghiên cứu:

Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động sản xuất

và xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam năm 1995 đến nay (năm đánh

dấu những chuyển biến lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là quan hệ

thƣơng mại quốc tế của Việt Nam).

Về không gian: Ngành dệt may ở Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu:

- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính

trị, nhƣ: Phƣơng pháp Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử.

- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp cụ thể, nhƣ: Tổng kết thực

tiễn, kinh nghiệm; phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, phân tích dự báo…

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:

- Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao năng

lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may và bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam.

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất

khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam từ năm 1995 đến nay, để từ đó thấy đƣợc

những mặt còn tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và một số vấn đề đặt ra trong

thời gian tới.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh

xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

- 4 -

nội dung chính của Luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế

về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.

Chương 2: Thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản

phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua.

- 5 -

Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY

CHƢƠNG 1

Cạnh tranh là một hiện tƣợng vốn có của Kinh tế thị trƣờng - mô thức kinh

tế mà mọi quốc gia muốn phát triển đều cần trải qua. Nhƣ vậy, có thể khẳng

định cạnh tranh là một hiện tƣợng mà mọi quốc gia, dân tộc trên con đƣờng

phát triển đều phải chấp nhận, nhận thức đúng về nó. Có nhiều cách tiếp cận,

nhận thức về cạnh tranh; khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, cấp độ

cạnh tranh; các yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh cũng nhƣ hệ thống

các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh...

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

1.1.1 Một số khái niệm.

- Cạnh tranh.

Khái niệm về cạnh tranh đã đƣợc các nhà nghiên cứu kinh tế của các

trƣờng phái kinh tế khác nhau nghiên cứu, xem xét và phân tích dƣới nhiều góc

độ, cấp độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu kinh tế Tƣ sản Cổ điển cho rằng:

"Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng;... nó mang lại cho

mỗi thành viên trong thị trƣờng một phần xứng đáng so với khả năng của

mình...". Theo C.Mác, "cạnh tranh Tƣ bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh

gay gắt giữa các nhà tƣ bản nhằm giành đƣợc những điều kiện thuận lợi trong

sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch...".

Trong nền kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ cạnh tranh đƣợc dùng để chỉ cuộc

đấu tranh quyết liệt, sống còn giữa các nhà sản xuất, cung cấp các chủng loại

hàng hóa, dịch vụ với nhau; không phân biệt hình thức sở hữu về tƣ liệu sản

xuất (nhà nƣớc, tập thể hay tƣ nhân...) với mục đích cuối cùng của cạnh tranh là

giành lấy phần thuận lợi hơn cho mình.

Theo từ điển Cornu (Pháp), cạnh tranh đƣợc hiểu là "Chạy đua trong kinh

- 6 -

tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung

ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi

của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị mất đi một lƣợng khách

hàng thƣờng xuyên".

"Chạy đua trên một thị trƣờng mà cấu trúc và sự vận hành của thị trƣờng

đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung

cấp với bên kia là những ngƣời sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ;

các hàng hóa, dịch vụ này đƣợc tự do tiếp cận trong điều kiện các điều kiện

kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc ƣu đãi do pháp luật mang lại".

Khái niệm về cạnh tranh đƣợc đề cập đến trong Đại từ điển Kinh tế Thị

trƣờng (Trung Quốc) với thuật ngữ "cạnh tranh hữu hiệu", "cạnh tranh có hiệu

quả", "cạnh tranh giá cả", "cạnh tranh phi giá cả" và "cạnh tranh tiềm tàng".

Trong Đại từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh đƣợc định nghĩa là sự "tranh đua

giữa các cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ nhau nhằm giành phần hơn, phần

thắng về mình"; "cạnh tranh quốc tế" đƣợc hiểu là "cạnh tranh giành nguồn

nguyên liệu và thị trƣờng tiêu thụ của sản phẩm trên thế giới". Cũng về khái

niệm này, Từ điển Thuật ngữ Kinh tế cho rằng: "cạnh tranh là sự đấu tranh đối

lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên

hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành đƣợc".

Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất nhất thiết phải chiến thắng trong cạnh

tranh hoặc chí ít là cùng phân chia một thị trƣờng có giới hạn với các đối thủ

cạnh tranh của mình. Nhƣ vậy, rõ ràng là bản chất của cạnh tranh là nhằm tới

tối ƣu hóa đầu vào (hạ thấp tối đa chi phí sản xuất) và tối đa hoá đầu ra (thu lợi

nhuận cao nhất có thể). Một số nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam quan niệm

rằng: Cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là con

đƣờng, phƣơng thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế...

Tóm lại, còn có nhiều nhìn nhận chƣa thật sự thống nhất về khái niệm

cạnh tranh, song, xét về bản chất của nó thì cạnh tranh luôn đƣợc phân tích,

nhìn nhận, đánh giá trong trạng thái động và đƣợc ràng buộc trong mối quan hệ

so sánh một cách tƣơng đối. Theo cách nhìn nhận đó thì mọi nỗ lực mà các bên

- 7 -

tham gia nhằm tìm kiếm, dành giật những lợi thế về mình đều đƣợc thống nhất

diễn tả trong các khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh bao hàm hai

mặt: Tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực thì cạnh tranh đã tạo động lực để các

chủ thể vƣơn tới, đạt tới trạng thái tiến bộ hơn (năng suất cao hơn, mẫu mã đẹp

hơn, chất lƣợng tốt hơn...) nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Tuy nhiên,

nếu cạnh tranh đƣợc tiến hành bằng các động thái tiêu cực thì sẽ trở nên kìm

hãm sự hình thành và phát triển cái mới, mang lại một thực trạng cực đoan hơn

và kết quả lại trái ngƣợc so với tích cực. Ngày nay, khái niệm cạnh tranh đang

ngày càng trở nên phổ biến và đƣợc nhìn nhận dƣới khía cạnh tích cực nhiều

hơn. Mặc dù đã nói tới cạnh tranh là có ngƣời thắng, kẻ bại và mục đích kích

thích sự phát triển không phải là mục tiêu của các bên tham gia cạnh tranh song

bản thân nó đã thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

- Năng lực cạnh tranh.

"Năng lực" đƣợc định nghĩa trong Đại Từ điển Tiếng Việt là: "Những điều

kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì" hay "khả năng đủ để thực hiện tốt một

công việc". Cũng trong tài liệu này, "năng lực cạnh tranh" đƣợc hiểu là: "Khả

năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên

cùng một thị trƣờng tiêu thụ". Một số nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh

tranh chỉ có ý nghĩa trong quan hệ thƣơng mại và nó đƣợc mô tả qua các chỉ số

đánh giá khác nhau. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác lại xem năng lực

cạnh tranh bao gồm cả các điều kiện để triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất,

kinh doanh tới điểm cuối cùng của quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ, là

đảm bảo nâng cao mức sống cho ngƣời dân. Ở Việt Nam, trong quan niệm của

nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh

đƣợc đề cập đến dƣới nhiều góc độ; sử dụng nhiều thuật ngữ để diễn tả khác

nhau.

Fafchamps cho rằng, khả năng cạnh tranh chính là khả năng của một doanh

nghiệp có thể sản xuất ra một sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn

giá của sản phẩm ấy trên thị trƣờng. Theo đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện

và khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lƣợng tƣơng tự với doanh nghiệp khác

- 8 -

nhƣng chi phí thấp hơn thì đƣợc đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao hơn.

Trong khi Randall cho rằng khả năng cạnh tranh chính là khả năng giành đƣợc và

duy trì thị phần trên thị trƣờng với lợi nhuận nhất định thì Dunning lại đứng trên

quan điểm vể khả năng cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhìn nhận

về năng lực cạnh tranh khi ông nêu ra: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản

phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt

nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó... Nhìn chung, hiện nay, các nhà nghiên

cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là trình

độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trƣờng và

duy trì đƣợc mức độ thu nhập thực tế của mình.

Tuy xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận, đánh giá và xem xét

song các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh

đều liên quan đến hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng và có lợi

nhuận. Từ đó, chúng ta có thể lột tả bản chất khái niệm năng lực cạnh tranh. Đó

là khả năng có thể nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận

đƣợc.

1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực

cạnh tranh.

- Cạnh tranh quốc gia.

Cạnh tranh ở cấp quốc gia đƣợc đánh giá chính là năng lực cạnh tranh của

nó và bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành từ các yếu tố vĩ mô đến năng lực cạnh

tranh của các doanh nghiệp hoạt động trên quốc gia đó cũng nhƣ khả năng cạnh

tranh của các sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ từ quốc gia đó trên thị trƣờng quốc

tế. Theo đó, năng lực cạnh tranh quốc gia đƣợc định nghĩa là năng lực của một

nền kinh tế đạt đƣợc tăng trƣởng bền vững, thu hút đƣợc đầu tƣ, đảm bảo ổn

định kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân. Diễn đàn Kinh tế thế

giới (WEF) đã đƣa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia là "khả năng

đạt và duy trì đƣợc mức tăng trƣởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững

bền tƣơng đối và các đặc trƣng kinh tế khác". WEF cũng đƣa ra tám nhóm yếu

tố (bao gồm hơn 200 chỉ số) để xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một

- 9 -

quốc gia (trọng số của mỗi nhóm chỉ số có sự thay đổi nhất định qua các thời

kỳ). Tám nhóm chỉ số đó là: (1) Độ mở của nền kinh tế; (2) Các chỉ số liên quan

đến vai trò và hoạt động của Chính phủ; (3) Các yếu tố về tài chính; (4) Các yếu

tố về công nghệ; (5) Các yếu tố về kết cấu hạ tầng; (6) Quản trị; (7) Các yếu tố

về lao động; (8) Và các yếu tố về thể chế.

Theo M.Porter "chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về

năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là nhân tố xác định cơ bản cho việc

nâng cao sức sống của một quốc gia xét về dài hạn". Cũng theo ông, chỉ số năng

suất đến lƣợt mình lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của

các công ty. Do vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia lại phụ thuộc vào các yếu tố

trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo

và duy trì lợi thế cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. Ông đƣa ra bốn nhóm

các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia là: (1) Nhóm các điều kiện

về nhân tố sản xuất (nguồn lao động, tay nghề lao động, tài nguyên, vốn, tiềm

năng về khoa học - công nghệ, hạ tầng cơ sở...). (2) Nhóm các điều kiện về cầu

phản ánh bản chất của nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc đối với sản phẩm, dịch vụ

của một ngành. (3) Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên

quan có khả năng cạnh tranh quốc tế. (4) Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu,

chiến lƣợc của công ty và của các đối thủ cạnh tranh.

Với các đánh giá nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ số luôn

đƣợc các nhà đầu tƣ quốc tế quan tâm, xem xét trong quá trình lựa chọn địa

điểm, lĩnh vực đầu tƣ. Hơn thế nữa, bản xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia

còn có có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ cũng nhƣ doanh nghiệp...

- Cạnh tranh ngành.

Năng lực cạnh tranh của ngành đƣợc định nghĩa là khả năng bù đắp chi

phí, duy trì lợi nhuận và đƣợc đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành

đó cung cấp trên thị trƣờng. Theo M.Porter, các yếu tố sau ảnh hƣởng đến khả

năng cạnh tranh của một ngành là:

(1) Những yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản

xuất, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh; bao

- 10 -

gồm các yếu tố sản xuất cơ bản (khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và

các yếu tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thông tin, trình độ lao động, khả năng

nghiên cứu phát triển, bí quyết công nghệ...). Các yếu tố sản xuất cơ bản quyết

định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành song

các yếu tố sản xuất mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh

để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ toàn ngành.

Không giống nhƣ yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới có đƣợc thông

qua đầu tƣ của chính phủ, các ngành, các công ty.... Bên cạnh đó, những yếu tố

sản xuất cơ bản thì mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó rất khó tạo nên lợi

thế cạnh tranh trong dài hạn; trong khi đó, những yếu tố sản xuất mới cần phải

đƣợc đầu tƣ và duy trì thế mạnh nếu muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài

hạn (vì chúng khó có thể sao chép, rập khuôn).

(2) Điều kiện của cầu: Các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất luôn

phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế khác. Các sản

phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt

ngƣỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh

có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì

ngƣỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng cứng nhắc. Ngƣời mua

tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, chất lƣợng và các dịch vụ

tốt hơn; làm cho các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau. Điều đó buộc các doanh

nghiệp trong ngành phải coi các yêu cầu của khách hàng là trên hết và phải tìm

mọi cách để đáp ứng tối đa có thể nhu cầu của họ thì mới thu đƣợc lợi nhuận.

Vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao

năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và toàn ngành. Có thể khẳng định

rằng, đặc tính của cầu giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các

đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực để nâng cao chất lƣợng, gia tăng

giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.

(3) Các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ: Với mỗi ngành sản xuất,

sự hình thành và phát triển cũng nhƣ năng lực cạnh tranh của nó luôn có sự phụ

thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ; không có ngành

- 11 -

nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt hoàn toàn (nông nghiệp phụ thuộc

vào các ngành sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật...; công nghiệp phụ thuộc

rất nhiều vào sự phát triển của các ngành nhƣ: nguồn nguyên, nhiên liệu, công

nghiệp chế tạo máy móc...). Nếu những ngành liên quan và phụ trợ này phát

triển mạnh mẽ thì sự phát triển của ngành cũng thuận lợi; khả năng cạnh tranh

mới cao; nếu ngƣợc lại sẽ có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh cũng

nhƣ sự phát triển của ngành. Nhƣ vậy, sự phát triển của một ngành còn bị tác

động của rất nhiều ngành khác; giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản

phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của ngành kia và ngƣợc lại.

Bên cạnh các nhóm yếu tố trên, cấu trúc thị trƣờng, mức độ cạnh tranh,

chiến lƣợc của các chủ thể trong nội bộ ngành, của đối thủ cạnh tranh và đặc

biệt là vai trò của nhà nƣớc cũng là những yếu tố có tác động mạnh đến năng

lực cạnh tranh của ngành. Các nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong

việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành và chính phủ có ảnh hƣởng lớn

đến các nhóm yếu tố đó. Các nhóm yếu tố này cũng là thƣớc đo về năng lực

cạnh tranh cho một ngành, một doanh nghiệp: Doanh nghiệp muốn nâng cao

năng lực cạnh tranh thì cần tập trung sản xuất các sản phẩm mà các yếu tố trên

là thuận lợi hơn cả. Năng lực cạnh tranh của một ngành sẽ đƣợc nâng cao nếu

năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành đƣợc cải thiện.

- Cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm:

Có nhiều quan điểm khoa học cũng nhƣ cách tiếp cận khác nhau về năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp; trong đó, tiêu biểu nhất có M.Porter, Oral

Singer, Kettani... M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa

vào các yếu tố sau: Những đối thủ trong ngành, các đối thủ tiềm năng, các sản

phẩm thay thế, nhà cung cấp và khách hàng. Ông đã đồ thị hóa mối liên kết giữa

các yếu tố cấu thành này để tạo nên Mô hình hình thoi để chỉ ra các yếu tố chính

tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và mối liên hệ giữa chúng.

Trong khi đó, Oral Singer và Tettani lại cho rằng: Có ba yếu tố tác động tới

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: Sự thành thạo về kỹ năng công

- 12 -

nghiệp, chi phí liên quan tới kỹ năng và môi trƣờng kinh tế của công ty...

Tuy vậy, nhìn chung các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị

phần, thu lợi nhận của doanh nghiệp trong môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc và

ngoài nƣớc. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch

vụ vì vậy còn có thể phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng

lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp có thể đƣợc hiểu là tổng hòa năng lực cạnh tranh của các sản

phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ấy; hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

đƣợc thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc đo lƣờng qua lợi

nhuận của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp đó trên thị trƣờng và chiến

lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp đó. Với tƣ cách là tế bào cấu thành nên nền

kinh tế thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo sở sỡ vững chắc và hình

thành nên năng lực cạnh tranh của quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc gia

cũng chi phối tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Ƣu thế cạnh tranh của một doanh nghiệp sản xuất so với đối thủ cạnh tranh

của mình đƣợc thể hiện qua lợi thế về chi phí và lợi thế về sự khác biệt. Trong

đó, lợi thế về chi phí thể hiện qua việc doanh nghiệp có khả năng tạo ra sản

phẩm với chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế về sự khác biệt lại phụ

thuộc vào mức độ khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho ngƣời tiêu dùng

hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hay nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng

sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trƣờng có thể chấp nhận mức giá cao hơn

của đối thủ...

Tóm lại, năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đƣợc

hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó

có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trƣờng cạnh tranh một cách

lâu dài và có ý nghĩa.

Tuy có sự phân biệt tƣơng đối về khái niệm song, giữa các cấp độ cạnh

tranh nêu trên có sự liên hệ mất thiết, gắn bó với nhau; giữa chúng có tác động

qua lại, phụ thuộc, chế định nhau và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Một

- 13 -

nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao buộc phải bao gồm những

doanh nghiệp, các sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao và tới lƣợt nó

môi trƣờng kinh tế vĩ mô, môi trƣờng kinh doanh đối với các sản phẩm dịch vụ

phải thuận lợi thì các doanh nghiệp và các sản phẩm dịch vụ mới có thể nâng

cao năng lực cạnh tranh của mình.

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

- Các yếu tố thuộc về sản phẩm.

+ Giá cả hàng hoá.

Giá cả hàng hóa đóng một vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh thƣờng

đƣợc sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bƣớc vào

một thị trƣờng mới. Nếu các loại hàng hoá có cùng giá trị sử dụng, chất lƣợng

giống nhau nhƣng có sự khác biệt về giá cả thì ngƣời tiêu dùng sẽ chọn loại

hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Tuy nhiên, giá cả hàng hoá đƣợc quyết định bởi giá

trị của nó và suy cho cùng thì nhà sản xuất nào có thời gian hao phí lao động xã

hội cần thiết thấp hơn sẽ có giá trị cá biệt thấp hơn; tất yếu là giá cả hàng hóa

của họ thấp hơn giá cả hàng hóa của các nhà cung cấp khác. Cạnh tranh về giá

thƣờng đƣợc thực hiện qua các biện pháp nhƣ: Kinh doanh với chi phí thấp; bán

với mức giá hạ. Tuy vậy, hạ giá thành là phƣơng pháp cuối cùng mà doanh

nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi nó ảnh hƣởng trực tiếp tới lợi nhuận

của doanh nghiệp.

+ Chất lượng hàng hoá (theo nghĩa rộng).

Tƣơng tự nhƣ yếu tố giá cả, chất lƣợng hàng hóa là một yếu tố quan trọng

mà các doanh nghiệp sử dụng nhƣ một công cụ hữu hiệu để chiến thắng các đối

thủ cạnh tranh của mình. Song, chất lƣợng hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất với cùng một giá thành (nhƣ: kỹ thuật,

công nghệ; vị trí địa lý và các yếu tố đầu vào khác - những yếu tố không giống

nhau đối với mỗi nhà cung cấp). Hơn thế nữa, ngƣời tiêu dùng còn sẵn sàng trả

giá cao hơn để có đƣợc một sản phẩm chất lƣợng tốt hơn. Cạnh tranh chất lƣợng

sản phẩm thƣờng đƣợc xem xét thông qua một số yếu tố nhƣ: (1) Trình độ sản

phẩm (tính hữu dụng, mẫu mã, bao bì). (2) Chất lƣợng sản phẩm (độ bền, lợi ích

- 14 -

kinh tế khi sử dụng...). (3) Khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Việc

nghiên cứu chính xác yếu tố này sẽ giúp nhà cung cấp quyết định thời điểm

tung ra một chủng loại sản phẩm mới thay thế các sản phẩm đang có trên thị

trƣờng hoặc tạm dừng cung cấp một chủng loại sản phẩm đã có.

+ Phân phối và bán hàng.

Đây là một yếu tố khá quan trọng vì nó tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng;

thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trƣớc, trong và sau khi bán hàng.

Ở giai đoạn trƣớc khi bán hàng, các nhà cung cấp sẽ lôi cuốn khách hàng thông

qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, định hƣớng thị hiếu ngƣời tiêu dùng...

Trong khi đó, yêu cầu của quá trình bán hàng lại là nghệ thuật thể hiện sự trọng

thị khách hàng. Nó đòi hỏi ngƣời bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng...

Giai đoạn sau bán hàng phải có các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Những dịch vụ

này sẽ tạo sự tin tƣởng, uy tín của nhà cung cấp đối với ngƣời tiêu dùng. Bên

cạnh đó, phƣơng thức thanh toán cũng đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ cạnh

tranh hữu hiệu (trả góp. trả chậm và các dịch vụ thanh toán ủy thác khác...).

Khả năng cạnh tranh về phân phối và bán hàng của một nhà cung cấp

thƣờng đƣợc thể hiện qua các nội dung chủ yếu nhƣ: (+) Khả năng đa dạng hoá

các kênh phân phối và chọn đƣợc các kênh chủ lực. (+) Khả năng tuyển chọn

đƣợc những ngƣời điều khiển đủ mạnh. (+) Khả năng có đƣợc hệ thống bán

hàng phong phú và hiện đại. (+) Khả năng có thể kết dính các kênh phân phối

lại với nhau. (+) Khả năng hợp tác những ngƣời bán trên thị trƣờng nhất là trên

các thị trƣờng lớn. (+) Khả năng cung cấp các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng

hợp lý (phƣơng thức bán hàng và phƣơng thức thanh toán).

+ Uy tín của doanh nghiệp và thương hiệu hàng hóa.

Uy tín của doanh nghiệp đƣợc xây dựng trên cơ sở chất lƣợng sản phẩm,

giá trị sử dụng của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp đó cung ứng ra thị

trƣờng, các dịch vụ trong, sau bán hàng... và tất nhiên là giá cả sản phẩm phải

hợp lý. Điều đáng chú ý là uy tín của doanh nghiệp chỉ có thể có đƣợc khi

doanh nghiệp đó đáp ứng đƣợc những đòi hỏi nêu trên trong một thời gian đủ để

khách hàng đƣa ra những đánh giá chín muồi về doanh nghiệp. Nói cách khác,

- 15 -

xây dựng thƣơng hiệu sản phẩm, tạo dựng uy tín doanh nghiệp là một hoạt động

cần đƣợc triển khai thƣờng xuyên trong suốt quá trình hình thành và phát triển

của doanh nghiệp.

Bên cạnh các yếu tố nêu trên, còn có một số yếu tố khác mà các nhà cung

cấp cần nghiên cứu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhƣ: Tăng cƣờng

áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; xây dựng và phát triển thƣơng

hiệu; đầu tƣ cho nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng, mức sống dân cƣ để có thể thu

đƣợc những thông tin sát thực giúp đƣa ra những dự báo và quyết định chính

xác và quản trị đƣợc rủi ro...

- Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô.

+ Nguồn cung ứng đầu vào.

Nguồn cung ứng đầu vào đƣợc đề cập đến bao gồm nhiều yếu tố tác động

tới quá trình sản xuất kinh doanh và chi phối rõ nét tới giá thành và chất lƣợng

sản phẩm. Đây là yếu tố thể hiện sự liên kết chặt chẽ hay thiếu chặt chẽ giữa các

ngành sản xuất trong một quốc gia. Bởi vì sản phẩm của một ngành công nghiệp

này sẽ là phƣơng tiện, vật tƣ, nguyên, phụ liệu của một ngành công nghiệp khác

và ngƣợc lại. Vì vậy, giá cả, chất lƣợng của chủng loại sản phẩm do ngành này

sản xuất ra sẽ chi phối tới giá thành sản xuất và chất lƣợng hàng hóa của một

ngành khác có sử dụng chúng làm nguyên, phụ liệu, bán thành phẩm đầu vào của

mình. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào là

một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của một chủng loại

hàng hóa vì nó quyết định các yếu tố khác nhƣ: giá cả, chất lƣợng... (những yếu

tố tác động trực tiếp và quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm).

+ Nguồn nhân lực.

Do yếu tố con ngƣời (nhân lực) chi phối tới các chỉ số khác nhau của quá

trình sản xuất từ năng suất lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ phục vụ

khách hàng, khả năng sáng tạo, khả năng quản trị... và tất nhiên nó sẽ tác động

tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất lƣợng hàng hóa, chất lƣợng các

dịch vụ... Tất yếu là cuối cùng nó tác động tới năng lực cạnh tranh của sản

phẩm. Nguồn nhân lực đƣợc coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức.

- 16 -

Trong doanh nghiệp, nguồn nhân lực đƣợc chia làm 3 cấp: (1) Quản trị viên cấp

cao: Gồm ban giám đốc và các trƣởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh

hƣởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua hoạch định chiến lƣợc

và kế hoạch sản xuất, kinh doanh. (2) Quản trị viên cấp trung gian: Là đội ngũ

trực tiếp quản lý phân xƣởng sản xuất sản phẩm, đòi hỏi phải có có kinh nghiệm

công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác tốt. (3) Đội ngũ quản trị

viên cấp cơ sở: Là những ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này

thông qua các yếu tố nhƣ: Năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách

nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo...

+ Hoạt động marketing và xúc tiến thương mại.

Ngày nay, khi nói tới xúc tiến thƣơng mại, ngƣời ta thƣờng muốn đề cập

tới những hoạt động giúp các doanh nghiệp có thể giới thiệu sản phẩm, hàng

hóa, dịch vụ mà họ muốn cung cấp cho khách hàng. Một doanh nghiệp dù có

sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao đến đâu nhƣng không có các biện

pháp thích hợp và không triển khai đồng bộ các hoạt động xúc tiến thƣơng mại

để giúp khách hàng nhận thức đầy đủ về tính ƣu việt cũng nhƣ lợi thế so sánh

của sản phẩm, dịch vụ mình cung cấp thì không thể thành công trong kinh

doanh. Bởi lẽ, số đông khách hàng không thể chủ động tìm tới các nhà cung cấp

khi họ không có thông tin về sản phẩm dịch vụ mà họ có nhu cầu. Vì vậy, hoạt

động xúc tiến thƣơng mại là một khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần triển

khai đồng bộ trƣớc khi tiến hành cung ứng một loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ

ra thị trƣờng. Tóm lại, hoạt động xúc tiến thƣơng mại là yếu tố có tác động, ảnh

hƣởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm mặc dù nó không thuộc

quá trình sản xuất công nghiệp.

+ Yếu tố trang thiết bị, công nghệ.

Trang thiết bị công nghệ đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao năng

suất, đảm bảo chất lƣợng và hạ giá thành sản phẩm. Với một dây chuyền máy

móc thiết bị, công nghệ phù hợp, chất lƣợng sản phẩm sẽ đƣợc đảm bảo, năng

- 17 -

suất lao động đƣợc nâng cao, giá thành sản phẩm sẽ hạ và tất yếu năng lực cạnh

tranh của sản phẩm dịch vụ sẽ nâng cao. Vì vậy, yếu tố trang thiết bị công nghệ

có tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

Thông thƣờng, yếu tố trang thiết bị, công nghệ thể hiện ở hai mặt sau đây:

(1) Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có đƣợc

các công nghệ tiên tiến. (2) Quy mô và năng lực sản xuất: Để đạt hiệu quả cao

trong sản xuất kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn đầu tƣ; giảm thiểu chi

phí cố định trong giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất

và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế.

- Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô.

Bên cạnh các yếu tố thuộc về doanh nghiệp và môi trƣờng vi mô thi những

yếu tố thuộc về môi trƣờng vĩ mô cũng có vai trò quan trọng đối với năng lực

cạnh tranh của sản phẩm; nó trở nên đặc biệt quan trong đối với sản phẩm xuất

khẩu. Các yếu tố thuộc môi trƣờng vĩ mô bao gồm:

+ Môi trường quốc gia nhập khẩu.

Nó đƣợc cấu thành bởi (1) Môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu:

Khi nói tới môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu là đề cập tới tính ổn định

về kinh tế, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng; các nguồn lực chính để phát triển kinh tế;

cơ sở hạ tầng kinh tế và tất nhiên là các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách

tiền tệ, chính sách tỷ giá...

(2) Môi trƣờng cạnh tranh tại quốc gia nhập khẩu: Năng lực cạnh tranh của

hàng hóa nhập khẩu tất nhiên sẽ chịu ảnh hƣởng lớn từ mức độ cạnh tranh trên

thị trƣờng quốc gia nhập khẩu. Nếu quốc gia nhập khẩu có môi trƣờng cạnh

tranh mạnh thì những lợi thế so sánh của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rõ nét

hơn và ngƣợc lại. Vì vậy, mức độ bảo hộ thị trƣờng trong nƣớc đã trở thành một

tiêu chí không thể thiếu trong đánh giá độ mở hay mức độ hội nhập của nền

kinh tế một quốc gia trong tổng thể nền kinh tế toàn cầu.

(3) Môi trƣờng chính trị - phát luật của nƣớc nhập khẩu: Yếu tố này đang

ngày càng đƣợc coi trọng khi đánh giá về môi trƣờng đầu tƣ nói riêng và môi

trƣờng kinh tế nói chung. Nhƣ chúng ta đã biết, một quốc gia rất khó phát triển

- 18 -

kinh tế nếu môi trƣờng chính trị, pháp luật không ổn định. Sự bất ổn định về

chính trị hay sự thay đổi thƣờng xuyên của hệ thống luật pháp và các định chế

dƣới luật sẽ là nguy cơ mang đến những rủi ro rất khó lƣờng cho các chủ thể

kinh tế. Bên cạnh đó, kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị chi phối nhiều hơn bởi

vì nó không chỉ bị tác động bởi môi trƣờng chính trị pháp luật ở một quốc gia

mà tối thiểu chịu sự tác động dƣới góc độ này của hai quốc gia.

(4) Môi trƣờng văn hóa- xã hội (trình độ văn hóa - thẩm mỹ; dân trí, các

chuẩn mực đạo đức xã hội; cơ cấu dân số; mức độ phân hóa xã hội; tập quán,

thói quen tiêu dùng; tôn giáo, dân tộc...): Tất cả các yếu tố này đều tác động tới

năng lực cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu. Trong môi trƣờng thƣơng mại tự

do đang ngày càng mở rộng khiến ngƣời tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn

trƣớc khi quyết định sử dụng một loại hàng hóa dịch vụ nào đó.

+ Môi trường quốc gia xuất khẩu bao gồm.

(1) Môi trƣờng kinh tế của nƣớc xuất khẩu (mức độ ổn định của nền tài

chính quốc gia, mức độ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi, chi phí nhân

công và các chính sách kinh tế, thƣơng mại khác của quốc gia xuất khẩu): Tất

cả những yếu tố này sẽ có tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

nên tất yếu sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Một

quốc gia có nền tài chính thiếu ổn định, tỷ giá hối đoái không thích hợp, chi phí

nhân công về một lĩnh vực nhất định cao tƣơng đối so với các quốc gia khác...

thì hàng hóa sản xuất tại quốc gia đó rất khó có năng lực cạnh tranh đủ mạnh để

tiến hành xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế và ngƣợc lại.

(2) Môi trƣờng chính trị - pháp luật của quốc gia xuất khẩu: Rõ ràng là,

một quốc gia có nền chính trị ổn định, hệ thống luật pháp rõ ràng và có tính ổn

định cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nƣớc đó tiến hành xuất

khẩu hàng hóa một cách có hiệu quả. Khí đó, các nhà quản lý doanh nghiệp sản

xuất hàng xuất khẩu không quá khó khăn khi quản trị rủi ro và điều này sẽ làm

tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hóa đó.

(3) Môi trƣờng văn hóa, xã hội của quốc gia xuất khẩu. Một ví dụ điển

hình minh chứng cho vai trò của yếu tố này là việc các quốc gia có truyền thống

- 19 -

văn hóa lâu đời thƣờng có lợi thế so sánh tƣơng đối khi tiến hành xuất khẩu các

chủng loại hàng hóa mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống (không

thể nhầm lẫn với các quốc gia khác), nhƣ: Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành xuất khẩu các

loại thảm dệt thủ công, Trung Quốc thƣơng mại hóa rƣợu Mao Đài và Việt Nam

xuất khẩu các sản phẩm dệt may từ chất liệu thổ cẩm, đũi, tơ tằm...

(4) Môi trƣờng công nghệ của quốc gia xuất khẩu: Yếu tố này đang đóng

vai trò ngày càng quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu

do nó chi phối tới khả năng, chi phí cho việc đổi mới công nghệ sản xuất. Hơn

thế nữa, với tốc độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhƣ hiện nay

thì vòng đời của một dây chuyền công nghệ sản xuất đang ngày càng đƣợc rút

ngắn. Nhƣ vậy, một dây chuyền công nghệ hiện nay đang đƣợc đánh giá là hiện

đại (tất yếu cho ra đời những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lƣợng cao và giá

thành chấp nhận đƣợc) sẽ trở thành công nghệ trung bình trong một, vài năm sau

đó.

+ Môi trường quốc tế.

Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại và phát triển

một cách độc lập tuyệt đối mà phải có sự phụ thuộc tƣơng đối lẫn nhau; cùng

chịu sự chi phối nhất định của một môi trƣờng chung - môi trƣờng quốc tế. Sự

biến động của môi trƣờng quốc tế sẽ có những tác động tới một số hay toàn bộ

các quốc gia trên thế giới. Sự phụ thuộc tƣơng đối và những tác động theo kiểu

hiệu ứng đôminô này đã thể hiện khá rõ ở các cuộc khủng hoảng tài chính tiền

tệ Châu Á và Mỹ La tinh trong thập niên 1990 vừa qua... Khi nói đến môi

trƣờng quốc tế đối với các sản phẩm xuất khẩu tức là đề cập đến các biến động

kinh tế trên thị trƣờng thế giới và các nhân tố chính trị của các quốc gia. Trong

đó, (1) Những biến động kinh tế trên thị trƣờng thế giới (sự xuất hiện hay mất đi

của các liên minh kinh tế, liên minh thuế quan; các thỏa thuận thƣơng mại đa và

song phƣơng...) nhất định sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm

xuất khẩu theo nhiều chiều khác nhau. (2) Nhân tố chính trị mà cụ thể hơn là

những bất ổn chính trị (chia rẽ, chiến tranh, khủng bố...), những biến động chính

- 20 -

trị theo chu kỳ (bầu cử Tổng thống, Thủ tƣớng, Lƣỡng Viện...) đều có tác động

nhất định tới giá trị đồng tiền của các quốc gia nên sẽ có những tác động tới

hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.

Bên cạnh các yếu tố trên, năng lực cạnh tranh của của sản phẩm xuất khẩu

còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, nhƣ: (1) Quan hệ chính trị, ngoại giao,

kinh tế song phƣơng với quốc gia nhập khẩu. (2) Quan hệ kinh tế, chính trị,

ngoại giao đa phƣơng của các quốc gia là đối tác của nhau; (3) Các luật lệ và

thông ƣớc quốc tế liên quan...

1.1.4. Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của

sản phẩm.

- Một số phương pháp phân tích và tiêu chí thường dùng.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cốt lõi tạo nên sức cạnh tranh của

doanh nghiệp, của ngành và năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia; nó là

nhân tố quyết định định hƣớng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm. Có nhiều tiêu chí

đƣợc sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm, nhƣ: Trên cơ sở phân

tích lợi thế so sánh, chi phí sản xuất, khả năng xuất khẩu, khả năng chiếm lĩnh

thị phần, giá trị gia tăng, mức độ bảo hộ... Mỗi tiêu chí có những điểm mạnh và

tồn tại những hạn chế nhất định.

+ Về chi phí sản xuất: Một sản phẩm đƣợc coi là có năng lực cạnh tranh

cao nếu giá thành sản phẩm đó thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Chi phí sản

xuất là yếu tố đầu tiên hình thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm; song

đây không phải là yếu tố duy nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

Chi phí sản xuất là một tiêu chí tổng hợp nhƣng chƣa toàn diện để đánh giá

năng lực cạnh tranh của sản phẩm vì bên cạnh nó còn một số kỹ năng khác cần

đƣợc xem xét, nhƣ: Marketing, hệ thống phân phối, các dịch vụ hậu mãi...

+ Về lý thuyết lợi thế so sánh: Là những yếu tố mỗi quốc gia có lợi thế

tƣơng đối so với quốc gia khác mà có thể tận dụng để sản xuất ra những sản

phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Những lợi thế này rất đa dạng; tuy nhiên hiện

nay ít đƣợc sử dụng để đánh giá vì nó nhìn nhận các lợi thế và năng lực cạnh

- 21 -

tranh trong trạng thái tĩnh, không có sự di chuyển tự do của các nguồn lực từ

nơi này sang nới khác (không thật sự phù hợp với xu thế khu vực hóa và toàn

cầu hóa kinh tế hiện nay).

+ Khả năng chiếm lĩnh thị trường: Tiêu chí này đƣợc thể hiện trên hai góc

độ: Thứ nhất, đối với sản phẩm sản xuất thay thế nhập khẩu và tiêu thụ nội địa

đƣợc thể hiện ở khả năng chiếm lĩnh thị phần trong nƣớc. Thứ hai, đối với sản

phẩm xuất khẩu là khả năng chiếm lĩnh thị phần ngoài nƣớc. Đây là một tiêu chí

đƣợc sử dụng tƣơng đối phổ biến vì không quá phức tạp trong cách lƣợng hóa,

phân tích (thể hiện qua: Thị phần, kim ngạch xuất khẩu...) và nó phù hợp với xu

thế tự do hóa thƣơng mại hiện nay. Tuy nhiên, tiêu chí này chỉ thể hiện đƣợc

năng lực cạnh tranh của một sản phẩm trong thời điểm hiện tại mà chƣa phản

ánh đƣợc xu thế phát triển và tiềm năng trong tƣơng lai.

- Các hệ số RCA và DRC.

Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thƣơng mại quốc tế, các chỉ tiêu

kinh tế đang ngày càng mang tính phổ quát và đƣợc áp dụng tƣơng đối rộng rãi

trong các báo cáo đánh giá của các tổ chức kinh tế quốc tế. Nó đang trở thành

những thƣớc đo tƣơng đối đầy đủ về mức độ phát triển, khả năng cạnh tranh của

các sản phẩm, doanh nghiệp, ngành và các quốc gia trong tổng thể nền kinh tế

thế giới thông qua các yếu tố then chốt với trọng số của mỗi chỉ số có thể thay

đổi theo từng lính vực, giai đoạn cụ thể. Sau đây xin đƣa ra một số chỉ số đánh

giá về khả năng cạnh tranh:

+ Hệ số cạnh tranh RCA (Revealed Comparetive Advantage)- Hệ số lợi

thế so sánh hiển thị.

Một quốc gia đƣợc coi là có lợi thế so sánh cao hơn một quốc gia khác

trong sản xuất, cung cấp một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó khi chi phí để sản

xuất ra nó thấp hơn tƣơng đối so với các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, các nhà

nghiên cứu kinh tế luôn tìm cách để có thể lƣợng hóa lợi thế so sánh (hay lợi thế

cạnh tranh) của quốc gia này về một loại sản phẩn, hàng hóa, dịch vụ nhất định

so với một quốc gia khác hay thậm chí là sự so sánh diễn ra ngay cả trong

- 22 -

thƣơng mại quốc tế. RCA chính là một trong các công cụ nhƣ vậy.

RCA là chỉ số dùng để so sánh tỷ trọng xuất khẩu một chủng loại hàng hóa

ở một quốc gia với tỷ trọng hàng hóa cùng loại trên thị trƣờng quốc tế và đƣợc

tính bằng công thức sau:

Trong đó:

RCAij là chỉ số so sánh hiển thị của sản phẩm i ở quốc gia j.

Eij là tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i từ quốc gia j.

Eiw là tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của thế giới.

Ej là tổng kim ngạch xuất khẩu của nƣớc j.

Ew là tổng kim ngạch xuất khẩu trên thế giới.

Hệ số so sánh hiển thị là một hệ số phản ánh vị trí lợi thế so sánh đạt đƣợc

của một sản phẩm trên thị trƣờng quốc tế trong tƣơng quan với tổng giá trị xuất

khẩu của quốc gia. Nhƣ vậy, RCA cho phép so sánh tỷ trọng xuất khẩu của một

sản phẩm trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đó trên thế giới so với tỷ

trọng của tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia ấy trên trong tổng kim ngạch

xuất khẩu thế giới. Nếu RCA có giá trị lớn hơn 1 thì quốc gia đó đƣợc đánh giá

là có lợi thế tƣơng đối trong xuất khẩu sản phẩm đƣợc xem xét. Vì khi đó tỷ

trọng xuất khẩu mặt hàng đó chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng

này của thế giới lớn hơn tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó

trong tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới.

Với cách tính nhƣ vậy, hệ số so sánh RCA cho phép loại trừ các ảnh

hƣởng biến động giá cả, phản ánh lợi thế so sánh tạo đƣợc cho một sản phẩm cụ

thể trên thị trƣờng toàn cầu do khai thác và phát huy có hiệu quả các nhân tố

nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ...

- 23 -

+ Hệ số lợi thế so sánh nội sinh DRC (Domestic Resource Cost).

Phƣơng pháp tính hệ số so sánh nội sinh DRC dựa trên cơ sở tính hệ số tỷ lệ

tổng chi phí nội địa của một đơn vị sản phẩm với mức giá xuất khẩu trung bình

của một đơn vị sản phẩm đó trên thị trƣờng quốc tế. Hệ số thu đƣợc cho mỗi sản

phẩm dịch vụ đƣợc gọi là hệ số so sánh nội sinh của sản phẩm, dịch vụ ấy.

Hệ số DRC nếu đƣợc tính toán cho từng thời kỳ sẽ phản ánh khả năng

kinh tế (hay lợi thế kinh tế, lợi thế so sánh) của quá trình đầu tƣ, sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm trên thị trƣờng thế giới. Một quốc gia có lợi thế tƣơng đối trong

sản xuất, xuất khẩu sản phẩm đó khi có hệ số DRC nhỏ hơn 1. Trái lại, nếu hệ

số DRC lớn hơn 1 thì có nghĩa là sản phẩm, dịch vụ đó không có lợi thế so sánh

tƣơng đối trong thị trƣờng xuất khẩu thế giới.

Hệ số DRC cần thiết cho hoạch định chiến lƣợc hƣớng tới xuất khẩu; nó

cho phép các chiến lƣợc gia định hƣớng, lựa chọn những sản phẩm chủ yếu có

tiềm năng nội sinh về hiệu quả kinh tế và có dung lƣợng lớn (quy mô lớn) trên

thị trƣờng thế giới; đồng thời định hƣớng điều chuyển các nhân tố đầu vào để

giảm tổng chi phí nội địa và kiểm soát hệ số DRC trƣớc các biến động về giá cả

trên từng thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm.

+ Chi phí đơn vị (UC).

Mặc dù DRC là một thƣớc đo hữu ích và thƣờng đƣợc sử dụng trong các

nghiên cứu về khả năng cạnh tranh, nhƣng đối với nhà hoạch định chính sách

thì đôi lúc cũng khó nắm bắt khái niệm này. Thêm nữa, việc ứơc tính DRC

trong nhiều trƣờng hợp là không dễ dàng. Vì vậy, ở Việt Nam, nhiều nhà kinh

tế sử dụng thƣớc đo chi phí đơn vị để nghiên cứu và đánh giá năng lực cạnh

tranh.

Chi phí đơn vị (UC), đƣợc xác định bằng tổng chi phí (TC) chia cho giá trị

sản lƣợng (VO):

UC = TC/VO.

Giá trị sản lƣợng lại bằng sản lƣợng nhân với giá xuất xƣởng.

Nếu bán trong nƣớc thì giá xuất xƣởng là giá thị trƣờng nội địa (Pd),

thƣờng cao hơn giá quốc tế của một sản phẩm nhập khẩu tƣơng tự một khoảng

- 24 -

bằng tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa. Đối với hàng xuất khẩu, giá xuất xƣởng bằng giá

quốc tế FOB (Pw). Chúng ta biết rằng, năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp phải thể hiện và đánh giá bằng việc các doanh nghiệp bán sản phẩm của

mình trên một thị trƣờng nhất định và đảm bảo sản xuất phải có lãi, doanh thu

lớn hơn chi phí. Các nhà sản xuất sẽ được cho là có khả năng cạnh tranh nếu

chi phí sản xuất trên một đơn vị sản lượng hiện vật không cao hơn các các đối

thủ cạnh tranh khác trên một thị trường nhất định. Chi phí đơn vị đƣợc tính

theo giá trị của một đơn vị sản phẩm (tổng chi phí chia cho tổng giá trị sản xuất)

nhỏ hơn 1 thì nhà sản xuất có lợi nhuận và có lợi thế thực sự trong cạnh tranh

trên thị trƣờng. Khi chi phí đơn vị bằng 1, nhà sản xuất hoà vốn. Và cuối cùng,

nếu chi phí đơn vị lớn hơn 1, nhà sản xuất lỗ vốn.

Có một số thuận lợi khi sử dụng giá trị đơn vị sản phẩm để tính chi phí

đơn vị. Thứ nhất, nó khắc phục những khác biệt trong tập hợp sản phẩm và chất

lƣợng sản phẩm thƣờng làm khó khăn cho sự so sánh giữa các doanh nghiệp.

Giả thuyết rằng giá sản phẩm thƣờng tỷ lệ với chất lƣợng sản phẩm. Thứ hai,

chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp

mà không cần xem xét thị trƣờng xuất khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy, khái

niệm cạnh tranh chi phí mang tính đa phƣơng, không cần chỉ ra các đối thủ cạnh

tranh của các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nhƣ đã nói ở trên, các doanh nghiệp hay sản phẩm đƣợc coi

là có khả năng cạnh tranh nếu chi phí đơn vị nhỏ hơn hoặc bằng 1. Sự chênh

lệch giữa chi phí đơn vị và 1 sẽ thể hiện lợi nhuận thuần tuý trong trƣờng hợp

chi phí đơn vị nhỏ hơn 1. Vì vậy, thƣớc đo khả năng cạnh tranh này thể hiện

khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, sản phẩm - Chi phí đơn vị càng thấp thì

khả năng mở rộng doanh nghiệp hoặc khả năng đƣơng đầu với những biến động

không thuận lợi bên ngoài sẽ lớn hơn, chi phí đơn vị thấp hơn có thể đƣợc coi là

dấu hiệu của khả năng cạnh tranh cao hơn. So sánh chi phí đơn vị giữa các

doanh nghiệp hay sản phẩm vì vậy có thể mang lại những thông tin cần thiết về

khả năng cạnh tranh tƣơng đối của các doanh nghiệp và sản phẩm.

Phân tích năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí là giải pháp tốt trong việc

- 25 -

đánh giá khả năng cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp và đƣợc các chuyên

gia gọi là khả năng cạnh tranh chi phí. Khái niệm khả năng cạnh tranh chi phí có

thể đƣợc sử dụng để phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp về một

chủng loại sản phẩm cả ở thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng quốc tế.

1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế trong phát triển ngành công nghiệp dệt may và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu

Nhìn chung, cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 của thế kỷ XX -

khi các nƣớc phát triển bắt đầu chuyển giao ngành sản xuất sử dụng nhiều lao

động sang các nƣớc đang phát triển thì các quốc gia hiện nay đƣợc đánh giá là

đứng đầu trong phát triển công nghiệp dệt may trên thế giới đã có những điều

chỉnh thích hợp để tiếp thu sự chuyển giao này. Đây là một trong những nguyên

nhân cơ bản lý giải cho sự thành công của Trung Quốc, Ấn Độ trong phát triển

công nghiệp dệt may hƣớng tới xuất khẩu mặc dù nền tảng là ngành công

nghiệp có cơ cấu ngành không hợp lý.

1.2.1. Tình hình phát triển công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm

dệt may ở một số quốc gia.

1.2.1.1. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may ở

Trung Quốc.

Những điều chỉnh lớn của Trung Quốc đầu những năm 1990 đƣợc thực

hiện thông qua việc khuyến khích sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ để hình thành

các doanh nghiệp lớn, có khả năng đáp ứng kịp thời cả về thời gian, chất lƣợng

và số lƣợng cho những đơn hàng hớn. Nếu năm 1980 ở Trung Quốc mới có

37.900 doanh nghiệp nhỏ thì 15 năm sau, Trung quốc đã có tới 102.500 doanh

nghiệp; số lƣợng lao động đƣợc sử dụng từ khoảng 6 triệu lao động lên tới

12,43 triệu lao động; quy mô một doanh nghiệp bình quân là 121 lao động, sản

lƣợng hàng năm khoảng 8,2 triệu NDT (lợi nhuận khoảng 259.700 NDT). Điều

đặc biệt đáng chú ý là lợi nhuận các doanh nghiệp này có đƣợc không phải do

quy mô của nền kinh tế hoặc khả năng cạnh tranh cao của sản phẩm hàng hóa

dịch vụ mang lại vì lúc này nền công nghiệp dệt may của Trung Quốc cũng

- 26 -

đang trong thời kỳ trì trệ, thể hiện:

- Chỉ có 10% số vải bông sản xuất ra đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thị

trƣờng thế giới.

- Chỉ có 15% số máy dệt bông là loại máy tự động.

- Có tới 94% trong tổng số 824.000 máy dệt thoi - khung cửi đã quá hạn sử dụng.

- Các công ty nƣớc ngoài chiến tới 34% tổng giá trị xuất khẩu (1999).

- Giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu dệt may là không đáng kể.

Bên cạnh đó, các công ty thuộc sở hữu nhà nƣớc giai đoạn này cũng hoạt

động rất kém hiệu quả:

- Năm 1996, 55% (trong tổng số 3.061) doanh nghiệp quốc doanh hoạt

động trong ngành công nghiệp dệt may sản xuất thua lỗ với mức lỗ lên tớ i 11,17

tỷ NDT; tính chung cả ngành, nhà nƣớc phải bù lỗ khoảng 8,35 tỷ NDT.

- Năm 1999, sản lƣợng đầu ra của các doanh nghiệp dệt thuộc sở hữu nhà

nƣớc giảm tới 25% so với cùng kỳ năm trƣớc và tƣơng ứng với nó, số tiền chính

phủ phải bỏ ra bù lỗ cũng giảm xuống còn 0,37 tỷ NDT; song chính quyền

Trung ƣơng Trung Quốc cũng bao cấp cho các doanh nghiệp này khoảng 60 tỷ

NDT dƣới các hình thức: Vay đầu tƣ lãi suất thấp, trợ cấp tài chính trực tiếp;

giải quyết các khoản phúc lợi xã hội cho công nhân, xóa các khoản nợ xấu...

Để tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may, năm

1998, Chính phủ Trung Quốc đã thành lập Cục Công nghiệp dệt may Quốc gia

và Hiệp hội Dệt may Trung Quốc. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc đã ban

hành chính sách tái cơ cấu, giảm quy mô và nâng cao hiệu quả của ngành công

nghiệp dệt may. Trên thực tế, Chính phủ Trung Quốc đã kiên quyết triển khai

chính sách này một cách tƣơng đối cứng rắn nên đã mang lại hiệu quả cao đối

với các mục tiêu đặt ra. Trong thời gian triển khai kế hoạch này, Trung Quốc đã

dỡ bỏ khoảng 1.000.000 máy se sợi bông công nghệ lạc hậu; cắt giảm một

lƣợng lớn lao động phổ thông trong ngành công nghiệp dệt; đƣa các doanh

nghiệp dệt thuộc sở hữu nhà nƣớc quay lại hoạt động một cách hiệu quả chỉ sau

ba năm. Nhờ những chính sách đúng đắn này, số lƣợng doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực dệt may của Trung Quốc đã giảm từ 102.500 năm 1995 xuống

- 27 -

còn 24.500 vào năm 2001; số lao động đã giảm nhanh chóng từ 12,43 triệu năm

1995 xuống còn 5,07 triệu vào năm 2001; và tổng giá trị sản xuất bình quân của

mỗi doanh nghiệp cũng tăng từ 8,2 triệu NDT lên 44,13 triệu NDT trong cùng

khoảng thời gian... Điều không thể không đề cập tới là năng lực cạnh tranh của

các doanh nghiệp Trung Quốc đã tăng rõ rệt và khả năng đáp ứng các đơn hàng

lớn cũng đƣợc cải thiện.

Để chuẩn bị cho giai đoạn hậu hạn ngạch, từ năm 1998, Trung Quốc đã

tiến hành nhiều chính sách cải cách để phát triển ngành dệt may nhƣ từng bƣớc

tƣ nhân hóa, cho phá sản các doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN) làm ăn thua lỗ,

đổi mới trang thiết bị công nghệ... Tuy nhiên, ngay cả khi đã đạt đƣợc thỏa

thuận gia nhập WTO và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng

mại lớn nhất thế giời này thì nền công nghiệp dệt may Trung Quốc vấn còn ít

nhất là ba thách thức lớn ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh là: (1) Thuế quan

và các chính sách liên quan đến nhập khẩu của các quốc gia bạn hàng. (2)

Chống phá giá và các tranh luận thƣơng mại liên quan đến bảo hộ thị trƣờng

trong nƣớc của các nƣớc nhập khẩu. Và (3) các vấn đề phát sinh do các tiêu

chuẩn quốc tế gây ra (ISO 9000, 14000; SA 8000 và WRAP...).

1.2.1.2. Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may ở Ấn Độ.

Trong khi những thành công của Trung Quốc mang nặng dấu ấn của

Chính quyền Trung ƣơng với những cải cách cứng rắn thì nhân tố mang lại

thành công của Ấn Độ lại bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức của giới chủ và

ngƣời dân về một số lĩnh vực sau nhằm nhận đƣợc sự đồng tình, ủng hộ:

- Vai trò của ngành công nghiệp dệt may trong việc cung cấp một trong

những nhu cầu cơ bản, cần thiết nhất của con ngƣời cũng nhƣ tầm quan trọng

của ngành này trong việc duy trì tốc độ phát triển và cải thiện chất lƣợng cuộc

sống của nhân dân lao động.

- Vị thế đặc biệt của ngành dệt may với đặc điểm là một ngành công

nghiệp tự lực, từ các sản phẩm nguyên liệu thô đến việc cung cấp các sản phẩm

- 28 -

đã hoàn thiện, với việc duy trì giá trị gia tăng trong mỗi giai đoạn sản xuất.

- Tiềm năng to lớn của ngành công nghiệp dệt may đối với việc tạo ra các cơ

hội việc làm trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ... tại các vùng

nông thôn và thành phố, đặc biệt đối với phụ nữ và những ngƣời thiệt thòi (tàn tật).

Bên cạnh đó, ngay từ năm 1985, Chính phủ Ấn Độ đã đề ra Chính sách

phát triển công nghiệp dệt nhằm củng cố và phát triển ngành công nghiệp này

nhƣ là động lực để phát triển công nghiệp may. Nhờ có chính sách đúng đắn và

sự nhất quán trong triển khai, kết quả phát triển ngành trong những năm vừa

qua là khả quan: Tốc độ tăng trƣởng bình quân (1995-2005) ƣớc đạt 7.13%/năm

(với công nghiệp may mặc); số lƣợng vải tính trên đầu ngƣời tăng 3,6%/năm;

tổng giá trị xuất khẩu vải tăng 13,32%/năm; và 13% tổng giá trị gia tăng của sản

phẩm xuất khẩu đƣợc sản xuất trong nƣớc...

Chính phủ Ấn Độ đã thƣờng xuyên quan tâm đến những thay đổi và các cơ

hội do sự thay đổi của môi trƣờng toàn cầu mang lại, đặc biệt là những thay đổi

đầu tiên của quá trình liên quan đến việc hạn chế số lƣợng nhập khẩu và giảm

thuế để tham gia vào thị trƣờng dệt may toàn cầu nhằm kịp thời cung cấp các

thông tin cần thiết cho giới chủ và ngƣời lao động. Bên cạnh đó, Chính phủ đã

đề ra nhiều giải pháp để giúp các doanh nghiệp khai thác tối đa những lợi thế so

sánh vốn có của mình khi tham gia vào thị trƣờng dệt may thế giới thông qua

nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

Với kinh nghiệm nghiên cứu nhiều năm về các vấn đề mà ngành phải đối

mặt, các quan điểm của nhiều nhà sở hữu tƣ nhân, qua những đề xuất của Uỷ

ban chuyên nghiên cứu về lĩnh vực dệt may của Chính phủ Ấn Độ (Expert

Committee), để hình thành hệ thống mục tiêu và các chính sách cụ thể giúp thực

hiện các mục tiêu đó trong giai đoạn đến 2005 nhƣ sau:

- Mục tiêu xuyên suốt cho giai đoạn 2000 - 2005 là tập trung vào các lĩnh

vực có tính đột phá (đặc biệt là công nghiệp dệt) và củng cố chiến lƣ ợc phát

triển cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.

- 29 -

- Các chính sách cụ thể để thực hiện mục tiêu đặt ra là:

+ Hỗ trợ các ngành công nghiệp dệt để đạt đƣợc và duy trì vị thế cao trong

ngành công nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới (hƣớng tới

xuất khẩu thành phẩm).

+ Trong giai đoạn đầu cần có các chính sách ƣu đã để ngành công nghiệp

này có đủ khả năng duy trì thị phần trong nƣớc khi sức ép cạnh tranh với hàng

hóa nhập khẩu gia tăng.

+ Nâng cao tính cạnh tranh tự do của môi trƣờng kinh tế trong nƣớc đặc

biệt là đối với ngành công nghiệp dệt may.

+ Cho phép ngành công nghiệp dệt may xây dựng và nâng cao năng lực

sản xuất của mình theo nhiều cấp độ khác nhau để có thể đáp ứng các hệ tiêu

chuẩn ISO và SA... đối với công nghiệp dệt may. Khuyến khích mọi nguồn lực

ở trong và ngoài nƣớc đầu tƣ phát triển công nghiệp dệt may cũng nhƣ thực

hiện các dự án nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực ngành.

+ Lĩnh vực đột phá trong công nghiệp dệt là nghiên cứu, phát triển và đa

dạng hóa các loại sợi đang có nhu cầu cao và dự báo các xu thế thay đổi, phát

triển nhu cầu của thị trƣờng thế giới về sợi để tạo tiền đề cho đa dạng hóa các

sản phẩm vải dệt có giá trị cao.

+ Áp dụng công nghệ IT nhƣ một phần không thể thiếu trong toàn bộ quá

trình sản xuất vải để giúp ngành công nghiệp dệt đạt đƣợc các tiêu chuẩn quốc

tế về chất lƣợng, thiết kế và marketing.

+ Duy trì, tăng cƣờng và đúc kết kinh nghiệm truyền thống của các thợ dệt

thủ công để giúp họ nâng cao năng lực sản xuất.

+ Khôi phục lại cấu trúc ngành thông qua việc nâng cao chất lƣợng (kỹ

năng và khả năng) của nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực tại các công

đoạn phi tập trung của ngành công nghiệp dệt may).

+ Gia tăng số lƣợng việc làm thông qua thúc đẩy sự phát triển của toàn

ngành.

Sau khi thông qua mục tiêu và hệ thống các chính sách, Chính phủ Ấn Độ

đã hình thành một cơ chế cộng tác hiệu quả giữa chính phủ (các bộ ngành liên

quan) với giới chủ, nghiệp đoàn của công nhân, nông dân và các tổ chức phi

- 30 -

chính phủ trong quá trình triển khai. Nhờ đó, hiệu quả mang lại rất khả quan.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm dệt

may đối với Việt Nam.

Rõ ràng là, thực trạng nền công nghiệp dệt may Trung Quốc, Ấn Độ giai

đoạn cuối những năm 1990 có phần khá tƣơng đồng với nền công nghiệp dệt

may hiện nay của Việt Nam (đặc biệt là công nghiệp dệt). Vì vậy, những chính

sách đã đƣợc chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ sử dụng để điều chỉnh lại cơ cấu,

gia tăng năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may cũng nhƣ những thách

thức đang đặt ra là có giá trị tham khảo cho quá trình tái cơ cấu và nâng cao

năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam.

1.2.2.1. Tự do hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Các nƣớc đang phát triển đã thực hiện những biện pháp nới lỏng dần hệ

thống quản lý của mình theo chính sách "tự do hóa". Sự đổi mới bắt đầu từ việc

điều chỉnh về chế độ sở hữu nhƣ tƣ nhân hóa hoặc cổ phần hóa các DNNN làm

ăn kém hiệu quả. Điều đó cũng giúp các khu vực kinh tế phát triển một cách

năng động và mạnh mẽ hơn, phù hợp hơn với nhu cầu tất yếu về hội nhập kinh

tế quốc tê. "Tự do hóa" còn thể hiện ở việc giảm bớt các hàng rào thuế quan, tự

do hóa thị trƣờng ngoại hối, tỷ lệ lãi suất..., thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái linh

hoạt (giảm bớt sự can thiệp của nhà nƣớc).

Tùy điều kiện, hoàn cảnh mà mức độ tự do hóa các hoạt động sản xuất,

kinh doanh ở mỗi quốc gia có sự khác biệt; song hiện nay, nổi bật nhất là hai xu

hƣớng: Tự do hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh của tƣ nhân và tự do hóa

có điều chỉnh.. Theo hƣớng thứ nhất là các quốc gia thực hiện chiến lƣợc hƣớng

vào xuất khẩu. Hƣớng thứ hai là những nƣớc chú trọng mở rộng kinh tế đối

ngoại nhƣng hƣớng vào xuất khẩu với mức độ thấp hơn đồng thời vẫn áp dụng

một phần chiến lƣợc nhập khẩu.

1.2.2.2. Ưu tiên phát triển ngành dệt may như là ngành công nghiệp trọng điểm.

Nói chung, ngành dệt may đóng vai trò quan trọng đối với các quốc gia

mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tập trung sản xuất hƣớng vào xuất

khẩu. Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động giản đơn, đào tạo tƣơng đối đơn

- 31 -

giản, lƣợng vốn yêu cầu không lớn bằng các ngành khác; tỷ suất đầu tƣ thấp,

thời gian quay vòng vốn nhanh và mang lại nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu khá

lớn.

Kinh nghiệm các nƣớc cho thấy, chính những thành công trong phát triển

ngành dệt may và xuất khẩu hàng dệt may đã tạo nên các nguồn thu lớn về

ngoại tệ và những kết quả về kinh tế xã hội đã góp phần tích cực đƣa các quốc

gia này đến những thành công trong công cuộc xây dựng đất nƣớc. Vậy, một

khi đã xác định đƣợc lợi thế và con đƣờng hƣớng tới xuất khẩu của ngành dệt

may thì đòi hỏi nỗ lực lớn của các doanh nghiệp cùng sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía

nhà nƣớc để tận dụng mọi cơ hội, khả năng để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao

nhất.

1.2.2.3. Tận dụng và đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

Nhƣ đã đề cập ở trên, dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn

nên dân số đông không chỉ là lợi thế nguồn cung ứng lao động mà còn là lợi thế

hình thành một thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may rộng lớn. Đồng thời với lợi thế

về chi phí tiền lƣơng thấp và những tiến độ của lực lƣợng lao động trong xã hội

hiện đại... Việc phát triển ngành dệt may còn giúp các nƣớc đang phát triển đi

sau giải quyết vấn đề việc làm tận dụng nguồn lao động dồi dào.

Song, lợi thế về tiền lƣơng thấp sẽ mất đi cùng với sự phát triển của nền

kinh tế, nên muốn duy trì lợi thế so sánh về nguồn nhân lực cũng nhƣ duy trì sự

tăng trƣởng ổn định thì buộc phải đầu tƣ để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực

ngay tại thời điển hiện tại. Muốn vậy, cần chú trọng tới đầu tƣ cho giáo dục, đào

tạo; bồi dƣỡng, nâng cao kiến thức cho ngƣời lao động. Bên cạnh đó, cũng cần

quan tâm nhiều đến lĩnh vực năng suất và chất lƣợng sản phẩm (thành quả cuối

cùng của quá trình sản xuất).

1.2.2.4. Đầu tư trang thiết bị máy móc và công nghệ.

Về lĩnh vực này, mỗi quốc gia cần có cách làm thực tế để có hiệu quả cao

nhất trong điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ nhƣ: Tập trung thay thế các trang

thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, công nghệ không phù hợp bằng các máy móc và công

nghệ hiện đại... Hiện nay, mặc dù Trung Quốc đang là quốc gia có khối lƣợng và

- 32 -

kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới nhƣng hàng năm vẫn phải

nhập khẩu máy móc, thiết bị ngành dệt may từ các nƣớc phát triển để thay thế,

nâng cấp các trang thiết bị trong nƣớc. Chỉ tính từ tháng 01/2003 đến tháng

06/2003, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 2,2 tỷ USD thiết bị dệt (tăng 67% so với

cùng kỳ). Nguồn nhập khẩu chủ yếu là các nƣớc phát triển với các công nghệ

hiện đại, nhƣ: nhập từ Nhật Bản 628,19 triệu USD; Đức 475,09 triệu USD, Italy

279,95 triệu USD; Thụy Sỹ 175,99 triệu USD và Đài Loan 167 triệu USD.

Song, đổi mới trang thiết bị công nghệ không nhất thiết phải tiến hành

ngay trong một thời điểm mà có thể kết hợp cải tiến dần trong quá trình phát

triển sản xuất của doanh nghiệp. Cũng không buộc phải sử dụng các trang thiết

bị, công nghệ hàng đầu hiện nay mà vẫn có thể sử dụng các trang thiết bị, công

nghệ tuy không hiện đại nhƣng còn hoạt động tốt và nhất là phù hợp với khả

năng tài chính của doanh nghiệp rồi dần đổi mới khi đã thu đƣợc hiệu quả kinh

tế. Đồng thời, đặc biệt chú ý áp dụng trang thiết bị kỹ thuật hiện đại trong sản

xuất cũng nhƣ trong thiết kế mẫu mốt, tạo dáng thời trang... để đạt hiệu quả

kinh tế tối ƣu nhất.

1.2.2.5. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm.

Bên cạnh việc tận dụng lợi thế về nguồn nhân lực trong quá trình phát triển

ban đầu của ngành dệt may cũng cần nhận thấy rằng: Để khẳng định vị trí và tên

tuổi của ngành dệt may trên thị trƣờng quốc tế thì các quốc gia chuyên xuất khẩu

hàng dệt may đều phải tập trung phát triển ngành dệt may ở cấp độ cao hơn. Khi

các quốc gia đã xuất khẩu khối lƣợng lớn hàng dệt may thì việc tăng thêm sản

lƣợng xuất khẩu hàng dệt may trở nên tƣơng đối khó khăn. Khi đó, để kim ngạch

xuất khẩu không chỉ tăng về khối lƣợng mà còn phải chú trọng đến giá trị gia

tăng xuất khẩu thì đỏi hỏi phải tập trung vào khâu mẫu mã, kiểu dáng, chất

lƣợng.

Sử dụng các phƣơng tiện khoa học kỹ thuật để thu thập thông tin về thị

hiếu, sở thích của ngƣời tiêu dùng; tìm các biện pháp cần thiết để có đƣợc phản

hồi từ phía ngƣời tiêu dùng là hết sức cần thiết. Đồng thời, ứng dụng máy móc

hiện đại để thiết kế kiểu dáng; đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao khả năng tác nghiệp

- 33 -

cho đội ngũ các nhà thiết kế thời trang (cả chuyên nghiệp và nghiệp dƣ) cùng

với có biện pháp hợp lý khái thác thành quả sáng tạo của họ cũng không thể

thiếu trong phát triển công nghiệp dệt may hứong tới xuất khẩu.

Cạnh tranh là quá trình khách quan của kinh tế thị trƣờng. Trong điều kiện

hội nhập quốc tế, quá trình này chịu ảnh hƣởng của rất nhiều yếu tố mà sự thành

bại tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của hệ thống công

nghiệp và năng lực quản lý điều hành của mỗi quốc gia. Bởi vậy , việc tạo lập

và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trở

thành vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp, các quốc gia đang muốn thâm

nhập vào thị trƣờng thế giới. Là một quốc gia đi sau – chậm phát triển và chƣa

phải là thành viên của WTO, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của “những

ngƣời đi trƣớc” song cũng sẽ gặp không ít khó khăn trong quá trình tham gia

vào hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Chƣơng tiếp theo sẽ đi sâu nghiên cứu thực

tế của Việt Nam – vấn đề thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản

phẩm dệt may trong những năm đầu thực hiện chiến lƣợc xâm nhập thị trƣờng

- 34 -

thế giới.

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

CHƢƠNG 2

2.1. Tổng quan về ngành dệt may và tình hình xuất khẩu sản phẩm

dệt may của Việt Nam

2.1.1. Quá trình phát triển và thực trạng ngành dệt may Việt Nam.

2.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của công nghiệp dệt may Việt Nam

qua các thời kỳ.

Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nƣớc ta là một trong những ngành

nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển

của xã hội ngƣời Việt. Từ hàng nghìn năm nay, ngƣời Việt đã biết trồng dâu nuôi

tằm, trồng bông, đay, lanh... để kéo sợi, dệt vải phục vụ may mặc và lễ hội. Một

minh chứng cụ thể là những làng nghề truyền thống vẫn còn tồn tại đến ngày nay,

nhƣ: Làng Lụa Vạn Phúc (Hà Tây), Làng dệt khăn Phùng Xá (Hà Tây), Dệt Làng

Mẹo (Thái Bình), Thổ Cẩm Mai Châu (Hoà Bình)... Tuy nhiên, trải qua nhiều thế

kỷ, nghành sản xuất này vẫn chỉ dừng lại ở trình độ sản xuất thủ công và với quy

mô phổ biến là gia đình; đặc biệt ở một số địa phƣơng đã hình thành nên các làng

nghề. Quá trình chuyển hoá từ sản xuất thủ công lên sản xuất công nghiệp mới

chỉ đƣợc ghi nhận cách đây hơn một thế kỷ với tác nhân là sự chuyển giao công

nghệ từ Châu Âu... Quá trình hình thành và phát triển của công nghiệp dệt may

Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn lớn sau đây:

- Giai đoạn từ thời Pháp thuộc đến 1975.

Đây là giai đoạn đầu tiên hình thành ngành công nghiệp dệt may Việt Nam

và đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời của một vài xí nghiệp có quy mô công nghiệp

do Pháp thành lập nhƣ: Công ty Bông vải Bắc Kỳ, Công ty Tơ lụa Bắc Kỳ

(những tiền thân của Nhà máy dệt Nam Định); Xí nghiệp tơ tằm Delignon ở

Nam Trung bộ... Bên cạnh đó, thời kỳ này cũng là thời kỳ các tƣ sản dân tộc

cũng đã tiến hành đầu tƣ cho ngành công nghiệp non trẻ này (Cơ sở Dệt kim Cự

Doanh, Cự Đà, Cự Minh và các cơ sở dệt thoi của Bạch Thái Bƣởi, Vũ Tƣ

- 35 -

Cấu). Trong giai đoạn này, ngành may chƣa thật sự phát triển song cũng đã có

những sản phẩm tên tuổi trên thị trƣờng Pháp: áo đầm của Lucie Tailleur,

Veston-complet của Tân Tân... Trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, 100% số xí

nghiệp dệt may là những đơn vị kinh tế lớn, vốn nhà nƣớc (nay cấu thành Tổng

công ty Dệt may Việt Nam - VINATEX). Mục tiêu chính của ngành dệt may

thời kỳ này là phục vụ nhu cầu trong nƣớc và chiến tranh: Cung cấp vải, quần

áo may sẵn cho nhân dân; quân trang cho bộ đội... Rất tiếc là, do hoàn cảnh lịch

sử của giai đoạn này nên chƣa có những số liệu thống kê chính thức về năng lực

sản xuất, chất lƣợng, mẫu mã và các chỉ tiêu khác của ngành.

- Giai đoạn từ 1976 đến 1990.

Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp dệt may trên phạm vi cả nƣớc chủ

yếu vẫn dựa vào thiết bị cũ đã đƣợc đầu tƣ trƣớc đây và hƣớng vào nhu cầu tiêu

dùng nội địa là chính. Xuất khẩu dệt may trong giai đoạn này chỉ dừng lại ở

mức vài trăm triệu USD một năm và đƣợc thực hiện trong khuôn khổ các Hiệp

định và Nghị định thƣ của nƣớc ta với khu vực Đông Âu. Tuy nhiên, đây là thời

kỳ ngành dệt may Việt Nam mở rộng năng lực sản xuất một cách nhanh chóng:

Tiếp quản một số nhà máy dệt, may phía Nam do chế độ cũ để lại (dệt Việt

Thắng...) và xây mới nhiều nhà máy trên cả ba Miền đất nƣớc. Đến năm 1990,

toàn ngành dệt may đã có 129 DNNN, gần 2000 hợp tác xã và hộ cá thể hoạt

động trong lĩnh vực dệt với khoảng trên 43.000 máy và khung dệt thủ công...

Đến lúc này, lực lƣợng lao động của ngành dệt may tƣơng đối dồi dào với

khoảng 2.000 Tiến sỹ, phó tiến sỹ và kỹ sƣ công nghệ dệt may; sản lƣợng năm

1990 đạt 50.000 tấn sợi, 450 triệu mét vải khổ 0,8m và 150 triệu sản phẩm

may... Bên cạnh đó, ngành dệt may lúc này đã trở thành đầu mối xuất nhập

khẩu, trao đổi hàng hóa trực tiếp với các quốc gia trong khối Xã hội Chủ nghĩa

trƣớc đây, theo các Nghị định thƣ hàng năm. Giai đoạn này đƣợc đánh giá là

giai đoạn mở mang về mặt lƣợng của công nghiệp dệt may Việt Nam và toàn

ngành đã hoàn thành nhiệm vụ, kết hoạch nhà nƣớc giao trong các năm và trong

cả giải đoạn.

- Giai đoạn từ 1991 đến 1999.

Trong giai đoạn này, công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nƣớc đã mở ra

- 36 -

thời kỳ phát triển mạnh mẽ cho ngành công nghiệp dệt may, đặc biệt là với công

nghiệp may. Sự phát triển của ngành công nghiệp này đƣợc ghi nhận trên nhiều

phƣơng diện: trƣớc hết, là sự đổi mới về thiết bị và công nghệ. Tiếp đến, là sự

phát triển về quy mô các DNNN và sự tham gia nhanh chóng của khu vực kinh

tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, khu vực kinh tế tƣ nhân. Cuối cùng là sự thâm

nhập phát triển thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Có

thể thấy rằng, công nghiệp dệt may đã và đang có vị trí quan trọng trong giai

đoạn chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung

sang nền kinh tế thị trƣờng. Dệt may đã trở thành định hƣớng quan trọng trong

chính sách hƣớng tới xuất khẩu của nƣớc ta.

Giai đoạn 1991 - 1999 cũng là thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế của đất

nƣớc nên ngành dệt may cũng đứng trƣớc những khó khăn, thách thức lớn, nhƣ:

Các máy móc thiết bị đã lỗi thời với công nghệ ra đời trƣớc đó khoảng gần 40

năm; máy dệt phần lớn là khổ hẹp, tiêu hao năng lƣợng và mức sử dụng lao động

rất lớn; thiếu vốn cho đổi mới công nghệ cũng nhƣ thiếu đội ngũ quản lý chuyên

nghiệp và thích hợp với cơ chế thị trƣờng... Trƣớc những đòi hỏi của thời kỳ mới,

đã có một số doanh nghiệp dệt may thành công trong đầu tƣ đổi mới công nghệ;

cho ra đời nhiều chủng loại sản phẩm mới đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của

thị trƣờng. Đồng thời, một số liên doanh và công ty 100% vốn nƣớc ngoài hoạt

động trong lĩnh vực dệt may cũng ra đời sau khi có Luật khuyến khích đầu tƣ

nƣớc ngoài. Chính những khoản đầu tƣ đổi mới công nghệ và việc ra đời các

công ty liên doanh, 100% vốn nƣớc ngoài đã làm thay đổi diện mạo toàn ngành

về mọi mặt từ quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, mẫu mã hàng hóa đến kim

ngạch xuất khẩu: Công suất kéo sợi đạt 177.000 tấn; 500 triệu mét vải và 250

triệu sản phẩm may các loại; toàn ngành đã cung cấp khoảng 1 triệu việc làm; có

khoảng 3.000 lao động có trình độ từ kỹ sƣ trở lên; tốc độ tăng trƣởng bình quân

toàn ngành đạt 23,8%/năm... Năm 1997, VINATEX ra đời với trên 60 đơn vị

thành viên; ngành dệt may đã có 2 viện, 1 trung tâm nghiên cứu và 4 trƣờng

trung học dạy nghề. Đây là giai đoạn ngành dệt may Việt Nam có những thay đổi

rất quan trọng về chất: Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nƣớc là chính

nay đã sản xuất để xuất khẩu sang một số thị trƣờng các quốc gia phát triển nhƣ

- 37 -

Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Canada...

- Giai đoạn từ 2000 đến nay.

Theo số liệu tổng hợp của VINATEX, tính đến năm 2004, số lƣợng các cơ sở

dệt may cả nƣớc là trên 50.000. Thực hiện "Chiến lƣợc tăng tốc phát triển ngành

dệt may Việt Nam đến 2010" đã đƣợc Chính Phủ phê duyệt, ngành dệt may Việt

nam đã, đang và sẽ tập trung đầu tƣ hiện đại hóa mọi mặt để nâng cao chất lƣợng

sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, đồng thời với mở rộng quy mô sản xuất với trọng

tâm là các sản phẩm may cao cấp xuất khẩu và nguyên liệu cung ứng cho ngành

may. Các trọng tâm trên đƣợc tiến hành song song với việc tăng năng suất lao

động, ổn định chất lƣợng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.

2.1.1.2. Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam hiện nay.

- Về cơ cấu sản xuất.

Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may còn tƣơng đối manh mún và

khó dự đoán. Với 46% doanh nghiệp trong ngành là các công ty tƣ nhân và

chiếm 35% đến 40% tổng sản phẩm nguyên liệu dệt; 70% đến 75% tổng sản

phẩm may mặc toàn quốc... Thành phần kinh tế này đang ngày càng đóng vai

trò quan trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp dệt may Việt Nam. Các doanh

nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm khoảng 33% trong tổng số các doanh

nghiệp trong ngành đã góp phần không thể thiếu trong quá trình chuyển giao và

tiếp thu công nghệ mới từ các quốc gia phát triển và các nƣớc công nghiệp mới

(NICs) vào Việt Nam. Tuy nhiên, nhân tố quan trọng trong các thành phần kinh

tế của ngành dệt may vẫn là VINATEX - đơn vị đang giữ vai trò chủ chốt trong

việc đầu tƣ phát triển ngành công nghiệp nguyên, phụ liệu ngành may và sản

phẩm ngành dệt Việt Nam.

Trong các lĩnh vực của ngành dệt may, lĩnh vực dệt kim đang là một lĩnh

vực có tốc độ phát triển cao, đáp ứng các nhu cầu, đòi hỏi của thị trƣờng nội địa

và thị trƣờng xuất khẩu. Trong khi các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà

nƣớc đang hƣớng vào thị trƣờng Đông Âu và nội địa (những thị trƣờng không

quá khắt khe) thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nƣớc (cả trung ƣơng và

- 38 -

địa phƣơng) lại đang nhằm tới các thị trƣờng xuất khẩu lớn nhƣ Hoa Kỳ, Nhật

Bản, EU...; nhiều doanh nghiệp đang hƣớng đầu tƣ vào công nghệ dệt kim thoi -

lĩnh vực đang có nhiều cơ hội phát triển.

Một thực trạng không thể không đề cập đến khi xem xét cơ cấu ngành

trong công nghiệp dệt may Việt Nam chính là khoảng cách phát triển giữa

ngành may mặc và ngành dệt (đặc biệt là nguyên liệu dệt) còn rất lớn. Trong khi

sự phát triển của toàn ngành vẫn đạt tốc độ cao thì sự mất cân bằng trong ngành

sản xuất nguyên liệu dệt và may mặc lại càng rõ nét. Hơn thế nữa, khối sản xuất

nguyên, phụ liệu dệt trong nƣớc hiện nay không đáp ứng đƣợc nhu cầu của các

doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc buộc các doanh nghiệp này phải

nhập khẩu với tỷ lệ rất cao: sợi, hóa chất, máy móc thiết bị (nhập khẩu 100%);

ngành bông vải (nhập khẩu 80%). Trong khi đó, điểm yếu lớn nhất của các

doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu là ở chỗ phần lớn họ chỉ là các

nhà thầu phụ cho các đối tác nƣớc ngoài. Các nhà sản xuất chủ yếu dựa vào các

nguồn nguyên liệu thô và thiết bị của các nhà cung cấp nƣớc ngoài để đáp ứng

các yêu cầu của thị trƣờng thế giới. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này

chính là thiếu sự cộng tác giữa hai ngành (dệt và may) dẫn đến hoạt động xúc

tiến thƣơng mại yếu kém và chất lƣợng dịch vụ của các doanh nghiệp cung cấp

nguyên, phụ liệu trong nƣớc rất thấp.

- Về năng lực sản xuất.

Nhìn chung, do đã có những đầu tƣ, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị nên

thời gian gần đây (đặc biệt là giai đoạn 2001 - 2003, từ khi triển khai Quyết

định số 55/TTg-CP ngày 23 tháng 04 năm 2001 của Thủ tƣớng Chính Phủ)

năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam đã có chuyển biến đáng kể. Sự

tăng trƣởng này đƣợc thể hiện qua hoạt động đầu tƣ của ba khu vực: Quốc

doanh, tƣ nhân và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

+ Đối với khu vực Quốc doanh: Là nòng cốt của khu vực quốc doanh,

VINATEX đã tập trung mọi nguồn lực trong và ngoài nƣớc để đẩy mạnh tốc độ

đổi mới trang thiết bị ngành dệt với nhiều hình thức khác nhau (đầu tƣ mới, mở

- 39 -

rộng sản xuất, đầu tƣ mới thay thế trang thiết bị cũ, đầu tƣ chiều sâu nâng cao

năng suất, chất lƣợng sản phẩm...). Bên cạnh đó, VINATEX đã trình Chính phủ

phê duyệt quy hoạch toàn ngành với 11 cụm công nghiệp dệt tại các khu công

nghiệp tập trung và phối hợp với các tỉnh trong cả nƣớc phát triển các nhà máy

may. Kết quả của quá trình này đã đƣợc thể hiện qua bảng tổng kết năng lực sản

xuất của VINATEX sau đây:

Bảng 1: Năng lực sản xuất của VINATEX

STT Tiêu chí đánh giá

Đơn vị

2001

2003

Tăng trưởng(%)

01

liệu

1.000 tấn

5.810 12.100

108,2%

Chế biến nguyên bông

02

Kéo sợi

1.000 tấn

88,40

99,60

12,7%

03

Dệt vải, hoàn tất

Triệu m2

142,6 172,31

20,8%

04

Sản phẩm may

Triệu SP

81,7

146,6

79,4%

Nguồn: VINATEX

+ Khu vực tƣ nhân cũng có những chuyển biến đáng kể trong đầu tƣ: Hàng

nghìn cơ sở dệt may đã đƣợc thành lập; các doanh nghiệp tƣ nhân lớn (Dệt Thái

Tuấn, Dệt Phƣớng Thịnh...) đã tăng cƣờng đầu tƣ mở rộng sản xuất, nâng cao

chất lƣợng sản phẩm, tạo dựng đƣợc thƣơng hiệu và chỗ đứng trên thị trƣờng

nội địa và đã từng bƣớc xuất khẩu sản phẩm ra thị trƣờng ngoài nƣớc. Khu vực

này đƣợc đánh giá là có những bƣớc tiến đáng kể trong thời gian qua.

+ Đối với khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: Theo Bộ Kế hoạch và Đầu

tƣ, nếu năm 2001, có tổng số 100 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài vào ngành dệt may

với tổng vốn đăng ký là 460,6 triệu USD, thì tới tháng 6/2003 đã có thêm 286

dự án với tổng vốn đăng ký là 520,8 triệu USD. Nhƣ vậy, Tổng cộng trong ba

năm từ 2001 đến 6/2003 đã có 386 dự án đầu tƣ vào ngành dệt may với tổng

vốn đăng ký đạt 981,4 triệu USD; đây thật sự là một nguồn đầu tƣ không nhỏ.

Trên quy mô toàn ngành, năng lực sản xuất của ngành dệt may đã có những

- 40 -

cải thiện đáng kể thời gian gần đây và được thể hiện qua bảng thông kê dưới đây:

Bảng 2: Năng lực sản xuất của toàn ngành dệt may

STT Tiêu chí đánh giá Đơn vị

2001

2002

2003 Tăng trưởng 01-03

01

Sợi toàn bộ

101,9 106

17,9%

02

Dệt vải, hoàn tất

1.000 tấn 89,9 Triệu m2 401,8

441,2 513

27,6%

03

Sản phẩm may

Triệu SP 401

520,2 625,4

55,9%

Nguồn: Bộ Công nghiệp và Hiệp hội Dệt nay Việt Nam

Bảng 3: Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may Việt Nam giai đoạn 1997-2003

Mặt hàng

1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tr.bình 98-03

Sợi (nghìn tấn)

66.9

68,0

76.6 129,9 162,4 226,8 253,3

--

Tỷ lệ tăng trưởng

--

1,6% 12,6% 70%

25%

40% 11,7%

26,8%

Vải lụa (triệu mét) 297.2 317.1 314.1 356.4 410,1 469,6 487,0

--

Tỷ lệ tăng trưởng

--

6,7%

- 1% 13,5% 15,1% 14,5% 3,7%

8,75%

22.3

30.2

30.6

45,8

53,1

51,4

72,2

--

Quần áo dệt kim (triệu sản phẩm)

Tỷ lệ tăng trưởng

--

35,4% 1,3% 49,7% 16% - 3,2% 40,5%

23,3%

304.6 271.8 306.4 337,0 375,6 489,1 618,6

--

Quần áo may sẵn (triệu sản phẩm)

Tỷ lệ tăng trưởng

--

10,8% 13%

10% 11,5% 30,2% 39%

15,5%

Nguồn: Niêm giám thống kê các năm 1997-2003, Tổng cục Hải quan

Về mặt hàng chính là sợi - dệt đƣợc phân bố nhƣ sau: miền Nam chiếm

46,13% tổng sản lƣợng và tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh; miền Bắc

chiếm 35,26% và tập trung ở Hà Nội, Nam Định; miền Trung chiếm khoảng

18,6% tập trung ở Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa. Vải thành phẩm tập

trung lớn nhất ở Miền Đông Nam Bộ (khoảng 50%); đồng bằng châu thổ Sông

Hồng chiếm khoảng 25%, miền Trung khoảng 15% và các vùng còn lại chiếm

khoảng 15%. Chỉ số này đối với sản phẩm dệt kim là Đông Nam Bộ chiếm

- 41 -

50%, đồng bằng Bắc Bộ chiếm 40% và Trung Bộ là 10%.

Về phân bố sản lƣợng theo vùng lãnh thổ của ngành may là: Đồng bằng

Sông Hồng chiếm 18% (mặc dù là nơi có nhiều cơ sở sản xuất nhất trong cả

nƣớc); Đông Nam Bộ chiếm tới 50% và Trung Bộ chiếm khoảng 8% còn lại

đƣợc phân bổ cho nhiều vùng khác nhau trong cả nƣớc. Dự báo, thời gian tới sẽ

có sự thay đổi đáng kể trong tỷ lệ phân bổ sản lƣợng trên do VINATEX đang

triển khai các dự án đầu tƣ lớn.

Nhìn chung, ngành công nghiệp dệt may nƣớc ta tuy có bề dày phát triển

nhƣng vẫn là ngành công nghiệp dựa vào nhập khẩu, chuyển giao công nghệ từ

nƣớc ngoài. Hơn nữa, quá trình du nhập này lại đƣợc thực hiện khá chậm chạp

so với xu hƣớng chung của thế giới và so với nhiều nƣớc trong khu vực. Trên

thế giới, xu hƣớng chuyển giao công nghệ từ các nƣớc phát triển sang các nƣớc

NICs đã diễn ra từ những năm 50 và đầu những năm 60 của Thế kỷ XX. Thực

tế, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đang nhận chuyển giao công nghệ chủ

yếu từ các nƣớc NICs. Điều này có nghĩa là, sự chuyển giao của ngành công

nghiệp dệt may vào Việt Nam hiện nay bên cạnh những thuận lợi và những lợi

ích có thể đạt đƣợc cũng có những yếu tố bất lợi và hạn chế cho quá trình phát

triển của ngành này trong định hƣớng xuất khẩu. Bởi vì, yếu tố cơ bản thúc đẩy

quá trình chuyển giao của ngành công nghiệp dệt may là sử dụng nhiều lao

động, có kỹ năng thấp và giá nhân công rẻ, nhƣng trong môi trƣờng thƣơng mại

quốc tế hiện nay, những ngành công nghiệp này đang mất dần lợi thế so với các

ngành công nghiệp dựa trên trình độ công nghệ cao và tạo ra giá trị gia tăng lớn.

Nghĩa là, để nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia, các nƣớc sẽ chú trọng đầu

tƣ vào các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ tinh vi, có giá trị gia tăng cao.

Đồng thời, những yêu cầu, tiêu chuẩn đạt đƣợc của các sản phẩm nói chung và

sản phẩm dệt may nói riêng cần đạt đƣợc trong thƣơng mại quốc tế cũng ngày

- 42 -

càng cao hơn.

- Vị trí ngành công nghiệp dệt may trong phát triển kinh tế Việt Nam.

Ngành dệt may đã trải qua thời kỳ phát triển với tốc độ tăng trƣởng bình

quân tƣơng đối cao đạt 13,8%/năm (từ năm 1997 đến hết 2003), cao hơn so với

tốc độ tăng trƣởng bình quân cùng kỳ của nền kinh tế (6,67%). Mặc dù ngành

dệt may chỉ chiếm khoảng gần 6% toàn bộ nền kinh tế nhƣng nó đã góp phần

tạo nên 15,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhƣ vậy, ngành dệt

may là ngành có lợi thế so sánh tƣơng đối trong đẩy mạnh xuất khẩu. (Bảng 4).

Bảng 4: So sánh một số chỉ số cơ bản của ngành dệt may trong nền kinh tế ( 1997 - 2003)

Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003 Bình quân

Chỉ số

231.264 244.596 256.272

273.666

292.535 313.247 335.989 279.501

GDP (tỷ VND, giá so sánh năm 1994)

8,15% 5,76%

4,77%

6,79%

6,89%

7,08%

7,26%

6,67%

độ

tăng

Tốc trưởng GDP

11.586 13.032

13.605

16.089

17.503

20.520

24.116

16.636

Giá trị sản xuất hàng DM (tỷ VND, giá so sánh năm 1994)

18,6% 12,5%

4,4%

17,8%

8,8%

17,2%

17,5%

13,8%

độ

tăng ngành

Tốc trưởng DM

5,0%

5,3%

5,3%

5,8%

6,0%

6,6%

7,2%

5,9%

trọng DM

Tỷ chiếm trong GDP

9.185

9.360

11.541

14.483

15.029

16.706

20.176

13.783

Tổng kim ngạch XK (Triệu USD, giá hiện hành)

26,6%

1,9%

23,3%

25,5%

3,8%

11,2%

20,8%

16,2%

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu

1.503

1.450

1.750

1.891

1.975

2.732

3.687

1.278

Kim ngạch XK DM (triệu USD, giá hiện hành)

30,7%

-3,5%

20,7%

8,0%

4,4%

38,3%

35%

19,1%

Tốc độ tăng KN XK hàng DM

16,4% 15,5%

15,2%

13%

13,1%

16,4%

18,3%

15,4%

Tỷ trọng XK DM /tổng KNXK

- 43 -

Nguồn: Niên giám thống kê các năm 1997-2003. Tổng cục Thống kê

Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành đƣợc hình thành rất

sớm. Với vai trò vừa thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc, vừa là nguồn xuất

khẩu thu ngoại tệ chủ yếu sau dầu thô. Ngành dệt may luôn luôn là một trong

những ngành kinh tế lớn của đất nƣớc và đƣợc Chính phủ khuyến khích phát

triển. Với tổng giá trị xuất khẩu đạt 1,89 tỷ USD năm 2000, 1,98 tỷ USD năm

2001, 2,73 tỷ USD năm 2002 và 3,69 tỷ năm 2003; giá trị sản xuất chiếm bình

quân gần 6% GDP và tạo ra khoảng 2 triệu việc làm; tốc độ tăng trƣởng xuất

khẩu bình quân 1997 - 2003 là 16,2%, chiếm khoảng gần 15,4% tổng kim ngạch

xuất khẩu cả nƣớc, ngành dệt may trở thành một trong những ngành công

nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam.

Thực vậy, trong thập kỷ 90 vừa qua, tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu hàng dệt

may đạt trung bình trên 40%/ năm. Hiện nay, ngành này đứng thứ hai, chỉ sau

dầu thô về kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu

hàng dệt may của nƣớc ta chiếm khoảng 18,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của

cả nƣớc. Việc xuất khẩu hàng dệt may một mặt đem lại một khoản ngoại tệ

không nhỏ để đổi mới, nâng cấp toàn bộ trang thiết bị và công nghệ của ngành

dệt may trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, trong những năm tới đây với tốc độ

phát triển nhƣ hiện nay chắc chắn sẽ góp phần làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế.

Ngành dệt may không chỉ có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu

tiêu dùng hàng dệt may trong nƣớc và tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ mà còn có

vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cho

ngƣời lao động, góp phần tạo sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Đây là

ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất, lao động ngành may chiếm 25%

lực lƣợng lao động công nghiệp. Năm 2003 ngành này đang có trên 1,6 triệu lao

động và dự kiến năm 2005 sẽ sử dụng 3 triệu lao động, năm 2010 là 4,5 triệu lao

động. Nƣớc ta vốn là nƣớc có dân số phát triển khá nhanh, nguồn lao động dồi

dào và ngƣời dân vốn cần cù, khéo léo nên việc tạo một lƣợng lớn việc làm trong

ngành dệt may không chỉ có hiệu quả về mặt kinh tế mà còn đạt hiệu quả về mặt

- 44 -

xã hội. So với các nƣớc khác giá sinh hoạt ở Việt Nam thấp hơn do đó giá nhân

công cũng là một lợi thế so sánh tƣơng đối của Việt Nam trong số các quốc gia

khu vực; đây cũng là điều kiện quan trọng tạo cho hàng hoá của ta nói chung và

hàng dệt may nói riêng có ƣu thế cạnh tranh thị trƣờng thế giới. Ngành dệt và đặc

biệt là ngành may nƣớc ta có đội ngũ công nhân lành nghề, tiếp thu kỹ thuật

nhanh, có thể sản xuất những sản phẩm chất lƣợng cao do vậy may công nghiệp

đang là một thị trƣờng gia công hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài...

Tóm lại, ngành dệt may đang đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu ngành

công nghiệp Việt Nam hiện nay và phát triển ngành dệt may cũng chính là góp

phần phát huy và tận dụng triệt để các tiềm năng sẵn có để phát triển nền kinh tế

của đất nƣớc.

2.1.2. Vài nét về tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam.

Sự sụp đổ của thị trƣờng Liên Xô (cũ) và Đông Âu đầu những năm 1990

đã khiến các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng

trong một thời gian. Song chính biến cố này đã trở thành một động lực quan

trọng để ngành dệt may tăng cƣờng đầu tƣ tìm kiếm thị trƣờng mới. Cũng từ

đây, xuất khẩu hàng dệt may (chủ yếu là sản phẩm may mặc) bắt đầu tăng tốc.

- Về kim ngạch xuất khẩu.

Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu ra thị trƣờng quốc tế

và có sự tăng trƣởng mạnh mẽ. Giá trị xuất khẩu đã tăng từ 120 triệu USD năm

1990 lên hơn 1,5 tỷ USD năm 1997 và 1,815 tỷ USD năm 2000. Doanh thu xuất

khẩu của ngành năm 2000 chiếm 12,6% trong tổng số 14,5 tỷ USD tổng kim

ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế... và năm 2004, tổng kim ngạch xuất

khẩu đạt trên 4,2 tỷ USD (Bảng 5).

Bảng 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam (1997-2004)

Đơn vị: Triệu USD/%.

Hàng dệt may

Hàng may mặc

Năm

Kim ngạch

Tăng trưởng

Kim ngạch Tăng trưởng

Tỷ lệ % hàng may mặc trong tổng KN

1997

1.349

17,3

1.050

17,1

75,3

- 45 -

1998

1.351

0,1

1.055

0,5

78,1

1999

1.747

29,3

1.360

28,9

77,8

2000

1.892

8,3

1.475

8,5

78,0

2001

1.962

3,7

1.519

3,0

77,4

2002

2.750

40,2

2.690

53,5

97,8

3.650

32,0

3.260

21,2

89,3

2003 2004

4.250

16,4

3.961

21,5

93,2

Nguồn: VINATEX.

Trên cơ sở phát huy lợi thế về nhân lực và nắm bắt xu hƣớng dịch chuyển

ngành dệt may sang các quốc gia đang phát triển nên kim ngạch xuất khẩu hàng

may mặc Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua. Những năm

gần đây, tỷ lệ giá trị xuất khẩu sản phẩm may mặc chiếm trong tổng kim ngạch

xuất khẩu quốc gia luôn đạt trên 12%.

Theo thống kê của VINATEX, năm 1996, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng

dệt may Việt Nam đạt 1 tỷ 150 triệu USD trong đó hàng may mặc chiếm

khoảng 900 triệu USD. Năm 1997 là năm đầu tiên tổng kim ngạch xuất khẩu

hàng may mặc Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD. Sau đó, năm 1998 do ảnh hƣởng

của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á tới nhu cầu tiêu dùng thế giới

nên tốc độ tăng trƣởng của kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam đã

giảm sụt rõ rệt (đây là tình hình chung của các quốc gia xuất khẩu ở Châu Á).

Năm 1999 là năm ngành dệt may Việt Nam đã đạt đƣợc những kết quả khả

quan trong đẩy mạnh xuất khẩu với tổng giá trị xuất khẩu đạt gần 1,75 tỷ USD,

tỷ lệ tăng trƣởng trên 29% (trong đó may mặc đóng góp 1,36 tỷ USD). Năm

2000 và 2001, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đã chịu sức ép về cạnh tranh

rất lớn từ các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Ấn Độ nên tỷ lệ tăng trƣởng

cũng nhƣ giá trị kim ngạch gia tăng thấp. Năm 2002 không chỉ đánh dấu mốc

tăng trƣởng quan trọng với tỷ lệ tăng trƣởng xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt

Nam đạt trên 40% (may mặc đạt 53,5%) mà còn là năm lần đầu tiên, tổng giá trị

- 46 -

xuất khẩu hàng may mặc đạt trên 2,5 tỷ USD (hàng may mặc đóng góp tới

98,7% tổng kim ngạch). Bƣớc sang năm 2003 và 2004, ngành dệt may Việt

Nam đã đƣa tổng kim ngạch xuất khẩu vƣợt qua 3 tỷ USD và 4 tỷ USD... Rõ

ràng là, giai đoạn 1997-2004 là giai đoạn ngành dệt may Việt Nam đã đạt đƣợc

mức tăng trƣởng đáng khích lệ với tỷ lệ tăng trƣởng bình quân đạt khoảng

18,5%/năm (may mặc đạt tốc độ tăng trƣởng bình quân là 19,3%/năm; tỷ lệ

bình quân chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt: 83,4%) và

hàng dệt may (chủ yếu là may mặc) trở thành một trong các mặt hàng xuất khẩu

mũi nhọn của Việt Nam hiện nay.

- Về thị trường xuất khẩu.

Cùng với việc tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu mạnh mẽ thời gian qua,

thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam cũng đƣợc mở rộng nhanh

chóng. Hàng dệt may đã có mặt tại trên 170 quốc gia (trƣớc 1990 là 30 quốc

gia); thâm nhập vào hầu hết các thị trƣờng dệt may lớn đặc biệt là ba thị trƣờng

Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản (Phụ lục 1).

Tuy đã có những bƣớc phát triển đáng khích lệ từ 1993 đến nay, song vai

trò của Việt Nam trên thị trƣờng dệt may thế giới vẫn còn rất khiêm tốn: Là nhà

xuất khẩu đứng thứ 44 trên thế giới và chiếm 1,3% thị trƣờng toàn cầu (2002).

Năm 2003, Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng may mặc đứng thứ 8 vào thị trƣờng

Hoa Kỳ với doanh số đạt gần 2 tỷ USD (sau Trung Quốc, Mêhicô, Hồng Kông,

Ấn Độ...). Năm 2004, đã trở thành năm bản lề để Việt Nam mở rộng hơn nữa

thị phần của mình trong hai thị trƣờng xuất khẩu lớn là Hoa Kỳ và EU (trƣớc

khi ACT có hiệu lực) với 50% đến 55% tổng sản lƣợng đƣợc tiêu thụ tại Hoa

Kỳ và 25% đến 27% tại thị trƣờng EU... Hơn thế nữa, đã có những dự báo lạc

quan về việc Việt Nam sẽ trở thành nhà xuất khẩu sản phẩm may mặc lớn thứ

ba tại Châu Á (sau Trung Quốc và Ấn Độ).

2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may

Việt Nam trong thời gian qua

- 47 -

2.2.1. Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.

Đứng dƣới góc độ sản phẩm để phân tích năng lực cạnh tranh thì có thể

khẳng định rằng: Thời gian qua, ngành sản xuất sản phẩm may mặc xuất khẩu

của Việt Nam đã đạt đƣợc những bƣớc tiến lớn. Hiện nay, sản phẩm ngành may

đang bao gồm nhiều chủng loại khác nhau từ áo jacket, sơ mi nam nữ đến các sản

phẩm dệt kim. Việt Nam hiện có khả năng sản xuất trên 80 chủng loại sản phẩm

may mặc xuất khẩu (Phụ lục 2). Chỉ tính năm 2002, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ

đã nhập tới 22 chủng loại sản phẩm dệt may từ Việt Nam (Bảng 6). Đặc biệt là

trong số đó đã xuất hiện các chủng loại hàng hóa có mẫu mã mới, chất lƣợng cao

(đạt tiêu chuẩn quốc tế) và đã khẳng định vị thế tại các thị trƣờng lớn: New York,

Berlin, Paris, Tokyo, nhƣ: Sơ mi nam nữ cao cấp, áo jacket, quần jean...

Bảng 6: Các chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ (năm 2002)

STT Chủng loại sản phẩm

STT Chủng loại sản phẩm

Quần áo cho trẻ sơ sinh

Quần áo bộ

01

12

Quần áo nam, nữ cho trẻ em

Áo jacket

02

13

Áo nịt nam, nữ trẻ em

Váy ngắn và dài

03

14

04

Áo khoác nam, nữ trẻ em

15

Đồ ngủ

05

Áo veston cho bé trai

16

Đồ lót

06

Bộ Veston cho bé gái

17

Áo gối

07

Sơ mi cho trẻ em

18

Chăn

08

Sơ mi nam nữ ngƣời lớn

19

Túi xách

09

Áo veston nam

20

Hàng may chất liệu len

10

Bộ quần áo nữ

21

Hàng may lụa và sợi thực vật

11

Áo blu nam, nữ

22

Hàng may bông và không bông

Nguồn: Hội thảo "Để đạt đƣợc mục tiêu xuất khẩu hàng dệt - may

năm 2003 và 2005 với hiệu quả cao", Hà Nội 02/2003. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, trong cơ cấu mặt

hàng xuất khẩu có bốn chủng loại hàng hóa chiếm tỷ trong lớn là: áo jacket

- 48 -

chiếm 33%, hàng dệt kim (đồ thể thao, bảo hộ lao động) chiếm 23%, áo sơ mi

các loại chiếm 22%, quần may sẵn chiếm 19% và các chủng loại hàng hóa còn

lại chỉ chiếm 3%.

Thời gian gần đây, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của ngành may mặc nói

riêng và ngành dệt may nói chung ngày càng phong phú, đa dạng. Nếu trƣớc

đây, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là quần áo bảo hộ, quần áo dùng ở nhà,

đồng phục học sinh (những sản phẩm chứa đựng ít hàm lƣợng trí tuệ cũng nhƣ

ít đòi hỏi sự sáng tạo) thì đến nay, cơ cấu sản phẩm đã đƣợc mở rộng hơn nhiều

(áo sơ mi nam nữ, quần áo thể theo, quần áo jean, jacket, comple...); trong đó

đặc biệt đáng chú ý là đã có những mặt hàng chất lƣợng cao đạt tiêu chuẩn quốc

tế (sơ mi cao cấp, áo jacket...) và trụ vững trên các thị trƣờng khó tính nhƣ Hoa

Kỳ, Nhật Bản.... Bên cạnh đó, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu ở mỗi doanh nghiệp

khác nhau có sự khác nhau do trình độ công nghệ, quy mô sản xuất - kinh

doanh, khả năng chuyên môn hóa, nhu cầu của thị trƣờng...

Tuy nhiên, do điều kiện về kỹ thuật, công nghệ còn hạn chế nên đa số sản

phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam thuộc nhóm trung bình, hàm lƣợng công

nghệ thấp và chất lƣợng còn khiêm tốn. Nhìn chung, các doanh nghiệp may vẫn

chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của thị trƣờng quốc tế về mốt, mẫu mã,

đƣờng nét, chất liệu, mầu sắc... Đặc biệt là khâu thiết kế mẫu và chất liệu, mầu

sắc của sản phẩm may mặc Việt Nam khá đơn giản, dễ bị bắt chƣớc. Hơn thế

nữa, khi nhu cầu thị trƣờng có những biến đổi liên quan tới thị hiếu tiêu dùng

thì sự xoay chuyển của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm may mặc xuất khẩu

Việt Nam thƣờng chậm chạp... Vì vậy, mặc dù đã có những tiến bộ nhất định

trong lĩnh vực tạo mẫu thời trang nhƣng ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam

vẫn sử dụng mẫu mã do nhà nhập khẩu cung cấp là chính. Điều này đã làm tăng

tính phụ thuộc vào nhà nhập khẩu của ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam.

Tóm lại, về mặt mẫu mã, chủng loại, chất lƣợng sản phẩm may mặc xuất

khẩu đã có những tiến bộ nhất định trong thời gian qua song còn rất nhiều vấn

đề cần xem xét để nâng cao khả năng đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thị

- 49 -

trƣờng thế giới (đặc biệt là các nƣớc phát triển). Bên cạnh đó, khả năng cạnh

tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam còn bị hạn chế nhiều vì chƣa có

nhãn mác riêng.

2.2.2. Về giá cả và chi phí.

- Giá cả xuất khẩu.

Trong khuôn khổ phân tích năng lực cạnh tranh, giá cả có ý nghĩa hai mặt:

Một mặt, với sản phẩm tƣơng đồng về chất lƣợng, mức giá thấp hàm nghĩa kích

thích tiêu thụ ở nƣớc nhập khẩu, nhƣng mặt khác, mức giá thấp cũng tiềm ẩn

một khả năng lợi nhuận thấp cho các nhà xuất khẩu.

Trên phƣơng diện kích thích tiêu thụ, giá hàng dệt kim của Việt Nam tƣơng

đối có sức cạnh tranh do Việt Nam chủ động đƣợc từ sản xuất sợi đến may thành

phẩm nhƣng giá hàng dệt thoi của Việt Nam đƣợc đánh giá là khá đắt. Một mặt

do từ nguyên, phụ liệu đến công nghệ, thiết bị hầu hết phải nhập khẩu...

Bảng 7: Giá hàng xuất khẩu của một số quốc gia sang thị trường Nhật Bản

Đơn vị: Yên/Sản phẩm

Tên nước

Hàng dệt kim

Hàng dệt thoi

Các loại khác

Việt Nam

390

1185,2

1345,0

Trung Quốc

436

867,0

1030,0

Inđônêsia

534

574,0

893,4

Thái Lan

397

1274,8

1438,6

Hàn Quốc

452

1376,4

1616,0

Nguồn: Bộ Thƣơng mại, 2003

Bảng 8: Giá cả một số sản phẩm may mặc nhập khẩu của Nhật Bản

Đơn vị: Yên/01 sản phẩm

Nước sản xuất Áo sơ mi Quần âu So sánh với VN (%)

Áo sơ mi Quần âu

Việt Nam 1.000 1.500 100% 100%

Indonesia 1.300 2.050 130% 137%

Thái Lan 2.400 3.950 240% 263%

Trung Quốc 3.000 5.000 300% 333%

- 50 -

Nhật Bản 5.000 6.500 500% 433%

Nguồn số liệu: Jetro.go.jp

Từ các số liệu trên ta thấy, giá hàng dệt kim của Việt Nam là rẻ hơn hẳn so

với các nƣớc khác trong khu vực. Tuy nhiên, trƣớc năm 2002, hàng dệt kim

chƣa phải là mặt hàng xuất khẩu chính của ngành may mặc Việt Nam. Thời kỳ

này, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ngành may mặc Việt Nam là hàng dệt

thoi. Đối với hàng dệt thoi, giá cả sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam đƣợc xếp vào

loại trung bình trong khu vực Châu Á (1185,2 Yên/sản phẩm, rẻ hơn so với

Thái Lan và Hàn Quốc nhƣng lại đắt hơn đối thủ cạnh tranh chính là Trung

Quốc tới 37%). Theo số liệu thống kê năm 2003 của Hiệp hội Dệt may Việt

Nam, năm 2002, tỷ trọng giá trị hàng dệt kim xuất khẩu trong tổng kim ngạch

xuất khẩu sản phẩm may mặc đã tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng gần

25%. Đây là một lợi thế của hàng dệt kim Việt Nam trên thị trƣờng thế giới.

Song, nhƣ đã nêu trên, giá xuất khẩu thấp không hoàn toàn là một lợi thế

cạnh tranh do nó hàm chứa khả năng đƣa lại mức lợi nhuận thấp cho nhà xuất

khẩu. Chúng ta sẽ xem xét thêm vấn đề này trong phân tích dƣới đây.

- Chi phí đơn vị và kết quả kinh doanh.

Nhƣ đã đề cập tới trong Chƣơng 1, Chi phí đơn vị là đại lƣợng đƣợc tính

bằng cách chia tổng chi phí sản xuất (gồm cả chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu)

cho giá trị sản lƣợng. Đây là chỉ tiêu hữu ích để xem xét năng lực cạnh tranh

của các doanh nghiệp trên thị trƣờng và đã đƣợc sử dụng trong nghiên cứu -

điều tra các doanh nghiệp Dệt May năm 1999 của Viện Kinh tế Việt Nam. Xin

nhắc lại: Các doanh nghiệp có chi phí đơn vị = 1 là những doanh nghiệp hòa

vốn, các doanh nghiệp có chi phí đơn vị lớn hơn 1 là những doanh nghiệp thua

lỗ và sức cạnh tranh kém, còn các doanh nghiệp có chi phí đơn vị nhỏ hơn 1 là

những doanh nghiệp có lãi và có sức cạnh tranh tốt – tuỳ theo mức chênh lệch

so với 1. Hình dƣới đây cho thấy sự phân bổ doanh nghiệp theo mức chi phí

- 51 -

đơn vị của các doanh nghiệp trong mẫu điều tra của Viện Kinh tế Việt Nam.

100.0%

120%

89.6%

80.2%

100%

69.8%

80%

Tû lÖ

50.0%

60%

Céng dån

32.3%

40%

16.7%

Phân bổ doanh nghiệp theo chi phí đơn vị cho các doanh nghiệp mẫu

16.70% 15.60% 17.70% 19.80%

20%

10.40% 9.40% 10.40%

0%

0.7-0.9

0.9-0.95

0.95-1

1-1.05

1.05-1.1

1.1-1.2

>1.2

Nguồn: Số liệu điều tra 96 doanh nghiệp dệt may

- Viện Kinh tế Việt Nam năm 1999

Chi phí đơn vị bằng 1 có thể đƣợc coi là ngƣỡng để phân chia tất cả các

doanh nghiệp thành 2 nhóm: nhóm có khả năng sinh lời và nhóm không có khả

năng sinh lời. Nhƣ là một sự ngẫu nhiên, ngƣỡng này chia số doanh nghiệp mẫu

thành 2 nhóm bằng nhau (phần trăm luỹ kế của các doanh nghiệp có chi phí đơn

vị nhỏ hơn hoặc bằng 1 là 50%). Tuy nhiên, do những sai sót tính toán có thể,

phần trăm luỹ kế các doanh nghiệp có chi phí đơn vị nằm trong khoảng 0,95 và

1,05 cũng cần quan tâm. Có thể thấy, phần trăm các doanh nghiệp có lãi (hoặc

doanh nghiệp có khả năng duy trì lãi - theo nghĩa là tình hình tài chính hiện tại

có thể giúp những doanh nghiệp này duy trì vị trí trên thị trƣờng) có mức độ

nhạy cảm cao đối với thay đổi trong ngƣỡng này, vì một tỷ lệ tƣơng đối lớn –

53.1% - doanh nghiệp có chi phí đơn vị nằm trong khoảng 0,95-1,05. Đúng nhƣ

vậy, xem hình trên chúng ta thấy điểm cao nhất của phân phối chi phí đơn vị

nằm trong khoảng 1-1,05, tiếp đến là khoảng 0.95-1,0. Một tỷ lệ cao các doanh

nghiệp nhƣ vậy tập trung quanh ngƣỡng cân bằng có thể cho thấy rằng ngành

công nghiệp dễ bị tổn thương đối với các thay đổi giá cả thị trƣờng.

Cần nói thêm rằng, trong hoàn cảnh mức giá thấp, và phần lớn nằm tập

- 52 -

trung quanh ngƣỡng cân bằng (chi phí đơn vị xấp xỉ bằng 1), các doanh nghiệp

dệt may Việt Nam không thể có đƣợc kết quả kinh doanh tốt – xét ở góc độ lợi

nhuận doanh nghiệp. Kết quả của cuộc điều tra mẫu của Viện Kinh tế Việt Nam

còn cho thấy: 75 trong số 96 doanh nghiệp (78.1%) báo cáo hoạt động có lợi

nhuận trong khi 18 doanh nghiệp (18.8%) báo cáo lỗ. Số doanh nghiệp còn lại

không có lợi nhuận. Kết quả nghiên còn cho thấy các DNNN có khả năng sinh

lời cao hơn, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có khả năng

lỗ cao hơn. Đáng chú ý là nếu xét đến tỷ lệ lợi nhuận trên vốn thì phần lớn

doanh nghiệp có lãi có tỷ suất lợi nhuận nằm trong khoảng từ 0% đến 10%, nhỏ

hơn nhiều so với chi phí cơ hội của vốn1.

Điều này gợi ý rằng nếu thông tin thu thập đƣợc là đáng tin cậy, thì phần

lớn các doanh nghiệp mẫu có thể có một số vấn đề về khả năng tài chính trong

ngắn hạn và đặc biệt trong dài hạn. Nhƣng mặt khác, quan trọng hơn, nó cho

thấy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoạt động chƣa hiệu quả. Trong khi

có một thực tế là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể đáp ứng các

chỉ tiêu về mẫu mã, chất lƣợng sản phẩm, thị thiếu khách hàng... nên không thể

tăng giá xuất khẩu. Cũng chính vì giá bán sản phẩm thấp hơn so với các đối thủ

cạnh tranh nên khối lƣợng xuất khẩu lớn nhƣng doanh thu từ xuất khẩu không

cao và đặc biệt là giá trị gia tăng rất thấp. Chi phí cao, giá bán thấp, rõ ràng là

khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng (trong nƣớc cũng nhƣ thế giới) của các

doanh nghiệp dệt may Việt Nam rất thấp.

2.2.3. Sự phát triển thị trường xuất khẩu.

2.2.3.1. Bức tranh tổng quát.

Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế, năm 1992 đƣợc đánh dấu là năm mở ra

cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam sang thị trƣờng EU (ký kết

Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU). Đặc biệt, ngành đã

chuyển hƣớng thành công từ thị trƣờng Đông Âu (CMEA) truyền thống sang thị

1 Bộ số liệu tƣơng tự cho thấy lãi suất vay của doanh nghiệp trong năm 1998 nằm trong khoảng từ 14,% (g iá trị trung bình áp dụng cho các DNNN) tới 18,89% (g iá trị t rung bình áp dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh).

- 53 -

trƣờng Tây Âu và Châu Á sau khi khối Đông Âu sụp đổ những năm 90. Năm

1999, Việt Nam là nƣớc xuất khẩu hàng may lớn thứ 5 vào thị trƣờng Nhật Bản

và thứ 17 vào thị trƣờng EU. Riêng hai thị trƣờng này đã chiếm 70% tổng số

xuất khẩu hàng may của Việt Nam. Từ năm 2002, thị trƣờng Hoa Kỳ đã thật sự

trở thành thị trƣờng lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu với tổng

kim ngạch đạt khoảng 900 triệu USD; gần 1,4 tỷ USD (2003) và ƣớc đạt 1,75 tỷ

USD trong năm 2004. Tuy nhiên, thị phần của hàng dệt may Việt Nam trên thị

trƣờng quốc tế còn rất nhỏ bé (0,9% thị trƣờng EU và 2,7% thị trƣờng Nhật Bản

- Bảng 9 ) và đứng trƣớc sự cạnh tranh quyết liệt của của một số nƣớc khác

trong vùng nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và

Philippines.

Để rõ hơn sự phát triển thị trƣờng xuất khẩu dệt may, chúng ta sẽ tìm hiểu

sâu hơn về các thị trƣờng xuất khẩu chính của sản phẩm dệt may Việt Nam.

2.2.3.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu:

Bảng 9: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam (1997-2004)

Đơn vị: Triệu USD

Bắc Mỹ

Nhật Bản

EU

Các q.gia khác

Nă m

%

%

%

%

Tổn g K.N

K.ngạc h

K.ngạc h

K.ngạc h

K.ngạc h

12,0

1,1%

325

410

303,0

1.05 0

199 7

30,9 %

39,0 %

28,9 %

26,0

2,5%

321

187,0

521

1.05 5

199 8

30,4 %

49,4 %

17,7 %

34,0

2,5%

417

345,0

555

1.36 0

199 9

30,7 %

40,8 %

26,0 %

49,5

3,4%

620

196,5

609

1.45 7

200 0

42,0 %

41,3 %

13,0 %

44,6

2,9%

588

287,4

599

1.51 9

200 1

38,7 %

39,4 %

18,9 %

896,0

645

531,0

618

2.69 0

200 2

33,3 %

24,0 %

23,0 %

19,7 %

1.396,0

678

547,0

639

3.26 0

200 3

42,8 %

20,8 %

19,6 %

16,8 %

200

3.96

1.751,0

44,2

762

19,2

20,0

653,0

16,5

795

- 54 -

4

1

%

%

%

%

Nguồn số liệu: Các báo cáo năm của Hiệp hội Dệt may Việt Nam

Bảng 9 đã cho thấy, kim ngạch xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đƣợc tập

trung vào Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản; sau đó đến các quốc gia Châu Á, Châu Mỹ

La tinh và Châu Phi. Trƣớc năm 2002, thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất là EU sau đó

đến Nhật Bản nhƣng sau 2002 (năm đầu tiên Việt Nam đƣợc hƣởng Quy chế

Thƣơng mại bình thƣờng với Hoa Kỳ) đã có sự tăng trƣởng đột biến về xuất khẩu

hàng may mặc vào Hoa Kỳ. Nếu năm 2001, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu

hàng may mặc vào Hoa Kỳ chỉ đạt 44,6 triệu USD chiếm 2,9% tổng kim ngạch

xuất khẩu hàng may mặc thì năm 2002, con số này đã là 896 triệu USD (tăng

trƣởng 1.090%) và chiếm tới 33,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc.

* Về thị trường Hoa Kỳ.

Riêng xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa kỳ, từ năm 2002, Việt Nam đã trở

thành một trong 10 quốc gia có giá trị xuất khẩu chủng loại hàng hóa này lớn

nhất và tỷ lệ tăng trƣởng năm sau luôn cao hơn năm trƣớc. Năm 2003, 2004,

Việt Nam đứng thứ 7 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 2.484 triệu USD và

2.720 triệu USD. Mặc dù Việt Nam chƣa đƣợc hƣởng ƣu đãi do ACT mang lại,

song giá trị xuất khẩu tháng 2/2005 vào thị trƣờng Hoa Kỳ vẫn tăng tới 18,9%

so với cùng kỳ năm trƣớc... Rõ ràng là thị trƣờng Hoa Kỳ đã trở thành thị

trƣờng xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, dệt may nói chung lớn nhất của Việt

Nam và còn nhiều tiềm năng.

Bảng 10: Mười quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ

Đơn vị: Triệu USD

Quốc gia

Năm

Thời gian

Tăng trưởng

Tăng trưởng

2003

2004

2/2004

2/2005

Thế giới

77.434

83.312

+ 7,6%

12.284

14.009

+ 14,1 %

Trung Quốc

11.609

14.560

+ 25,4%

2.003

3.362

+ 67,9%

7.941

7.793

- 1,9%

1.145

1.097

- 4,2%

Mêhicô

3.212

3.633

+ 13,1%

588

737

+25,3%

Ấn Độ

3.818

3.959

+ 3,7%

590

507

- 14,0%

H.Kông

3.118

3.086

- 1,0%

519

487

- 6,0%

Canada

- 55 -

Indonesia

2.367

2.620

+ 10,6%

445

478

+ 7,2%

Việt Nam

2.484

2.720

+ 9,5%

362

430

+ 18,9%

Honduras

2.570

2.678

+ 4,2%

347

399

+ 14,9%

Pkistan

2.215

2.546

+ 15,8%

371

397

+ 6,9%

Thái Lan

2.072

2.198

+ 6,1%

314

373

+ 18,7%

Nguồn: Báo cáo của USAID tháng 4/2005

("Major Shipper Report", February, 2005 data, US)

Thị trƣờng Hoa Kỳ đƣợc đánh giá là thị trƣờng hàng dệt may có tiềm năng

nhất của Việt Nam do: Hoa Kỳ là một thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may hết sức

khổng lồ (năm 2004, Hoa Kỳ đã phải nhập khẩu trên 83 tỷ USD). Đây thực sự

là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam xuất khẩu các sản

phẩm của mình sang Hoa Kỳ.

Sau khi Hoa Kỳ quyết định huỷ bỏ cấm vận với Việt Nam (03/2/1994),

tiếp đó Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều

Tiên, Cuba, Việt Nam) lên nhóm Y - ít hạn chế về thƣơng mại hơn (gồm Liên

Xô cũ, các nƣớc thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và

Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển

và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ

của Việt Nam đƣợc vào cảng của Hoa Kỳ (nhƣng còn phải hạn chế xin phép

trƣớc 3 ngày); ngay từ khi chƣa đƣợc hƣởng quy chế tối huệ quốc (MFN), quy

chế thuế quan ƣu đãi phổ cập mà các nƣớc phát triển cam kết dành cho các

nƣớc đang phát triển (GSP), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận

đƣợc với thị trƣờng Hoa Kỳ. Quyết định huỷ bỏ cấm vận đối với Việt Nam của

Chính phủ Hoa Kỳ chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thƣơng

mại Việt - Hoa Kỳ. Hàng dệt may Việt Nam với ƣu thế giá rẻ, chất lƣợng đƣợc

đánh giá là tƣơng đối ổn định đã từng bƣớc thâm nhập vào thị trƣờng Hoa Kỳ.

Hàng dệt may Việt Nam thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng Hoa Kỳ là kết quả

sự nỗ lực to lớn của không những bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

mà còn có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và các thành

- 56 -

phần kinh tế có liên quan. Tuy còn rất nhiều trở ngại trên con đƣờng thâm nhập

vào thị trƣờng Hoa Kỳ, nhƣng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

vào Hoa Kỳ liên tục tăng qua các năm với một tốc độ tăng trƣởng khá cao.

Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ

Năm

Đơn vị: Triệu USD/%.

Toàn ngành

Sang Hoa Kỳ

Đóng góp

K. ngạch T. trƣởng

K.ngạch

T.trƣởng

Tỷ lệ %

T. trƣởng

1997

1.349

17,3%

26,0

+9,7%

1,93%

---

1998

1.351

0,1%

26,4

+1,5%

1,95%

+ 0,02%

1999

1.747

29,3%

30,0

+13,6%

1,72%

- 2,30%

2000

1.892

8,3%

49,9

+ 65,3%

2,64%

+ 0,92%

2001

1.962

3,7%

49,3

- 1,2%

2,51%

- 0,13%

2002

2.750

40,2%

800,0

+1.623,0%

29,09%

+ 26,58%

3.650

32,0%

2.484,0

+ 3.105,0%

68,05%

+ 38.96%

2003 2004*

4.250

16,4%

2.720,0

+ 9,5%

64,00%

- 4,05%

* ước tính

Nguồn: Báo cáo của USAID 4/2005 Năm 1997, do ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị

trƣờng nhập khẩu hàng dệt may hạn ngạch cũng nhƣ phi hạn ngạch của Việt

Nam bị giảm sút, thị trƣờng Hoa Kỳ xem ra vẫn là thị trƣờng khá ổn định, tuy

tốc độ tăng trƣởng cũng có giảm sút hơn so với các năm trƣớc. Năm 1997 tốc

độ tăng trƣởng là 9,7% với kim ngạch xuất khẩu đạt 26,0 triệu USD; năm 1998

tốc độ tăng trƣởng là 1,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 26,4 triệu USD... Nhƣ đã

đề cập ở trên, nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là bị tác động, ảnh hƣởng

của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á (1997 - 1998) đã làm cho giá cả

của hàng dệt may Việt Nam vốn đã cao do chênh lệch thuế suất, nay lại càng

cao hơn (do đồng tiền của các nƣớc chịu khủng hoảng mất giá trong khi giá

đồng VNĐ lại ít bị tác động do mức độ hội nhập tài chính còn rất thấp). Do vậy,

các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trở nên rẻ hơn một cách tƣơng đối so

với hàng của Việt Nam, hàng dệt may của Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh

không tƣơng sức trên thị trƣờng này.

Năm 1999, tình hình đã đƣợc cải thiện hơn, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt

- 57 -

may của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào

thị trƣờng Hoa Kỳ năm 1999: 30,0 triệu USD, đạt tốc độ tăng trƣởng 13,6%.

Theo dự đoán năm 1999 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ đi đến ký một Hiệp định

Thƣơng mại song phƣơng để Việt Nam có thể đƣợc hƣởng Quy chế đãi ngộ Tối

huệ quốc (MFN), hàng dệt may Việt Nam vào thị trƣờng Hoa Kỳ sẽ đƣợc thông

thoáng hơn. Thực tế là trong năm 1999 mặc dù đã trải qua 8 vòng đàm phán,

nhƣng vẫn chƣa đi đến một thoả thuận thống nhất của hai nƣớc trong một số

vấn đề (phải sang đến năm 2000 Hiệp định Thƣơng mại Việt - Hoa Kỳ mới

đƣợc ký kết). Sang đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị

trƣờng Hoa Kỳ là 49,9 triệu USD (tăng khoảng 65,3%). Tuy nhiên, năm 2001

kim ngạch xuất khẩu lại giảm: 49,34 triệu USD (tăng trƣởng giảm sút khoảng -

1,2%), lý do của sự giảm sút này là do nền kinh tế thế giới suy thoái, nhu cầu

nhập khẩu hàng dệt may thế giới sụt giảm, nên nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may

Việt Nam của Hoa Kỹ cũng nhƣ các thị trƣờng khác cũng bị giảm sút đáng kể.

Năm 2002, là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

sang Hoa Kỳ đạt 800 triệu USD với tỷ lệ tăng trƣởng đạt trên 1.600%. Nguyên

nhân chủ yếu là do tác động của Hiệp định thƣơng mại song phƣơng đã có hiệu

lực, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ đƣợc hƣởng mức thuế suất

ƣu đãi trong khi đó lại chƣa phải chịu hạn ngạch trong thời gian này. Từ năm

2002 đến nay, tổng kim ngạch xuất khẩu đã có sự tăng trƣởng nhanh chóng

vƣợt mức 2 tỷ USD (2003) rồi vƣợt 2,5 tỷ USD (2004). Chỉ tính riêng 9 tháng

đầu năm 2005 Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trƣờng Hoa Kỳ ƣớc

đạt gần 2 tỷ USD, tƣơng đƣơng mức xuất khẩu cùng kỳ năm 2004 (1,973 tỷ

USD). Từ chỗ chiếm chỉ chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch xuất khẩu (1997),

thị trƣờng Hoa Kỳ đã vƣơn lên thành thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn

nhất của Việt Nam với gần 45% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2004.

- 58 -

Trong giai đoạn trƣớc khi Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực thì khó khăn lớn nhất cho các sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam khi xuất sang Hoa Kỳ là chịu thuế suất quá cao do Việt Nam chƣa đƣợc hƣởng MFN. Mức thuế suất quá cao này chính là rào cản trực tiếp ngăn không cho hàng dệt may của Việt Nam thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng tiêu thụ lớn nhất thế giới này. Các sản phẩm may mặc của Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm dệt may đƣợc nhập khẩu từ các nƣớc khác - những nƣớc đƣợc

hƣởng các ƣu đãi. Các sản phẩm dệt may của họ có giá rẻ hơn hẳn các sản phẩm của Việt Nam. Hãy thử xem ví dụ sau:

Bảng 12: So sánh mức giá có MFN và không có MFN tại thị trường Hoa Kỳ (2001)

Áo sơ mi Được hưởng MFN Không được hưởng MFN

Giá trƣớc thuế 12USD 12USD

Thuế 20,7% 45%

Giá sau thuế 14,484 USD 17,4USD

Nguồn: Báo cáo thƣờng niên của USAID năm 2002.

Cùng là một chiếc áo sơ mi nếu đƣợc hƣởng MFN thì mức thuế suất đánh

vào là 20,7%, còn nếu không đƣợc hƣởng MFN thì mức thuế suất là 45% chênh

lệch nhau đến 24,3%. Giả sử giá của một chiếc áo sơ mi chƣa tính thuế là

12USD. Thì giá bán của chiếc áo đó sau khi tính thuế lần lƣợt là: 14,484USD và

17,4 USD hơn nhau 2,916 USD (xét về số tuyệt đối) và hơn nhau 20,13% (xét

về số tƣơng đối). Đây là ví dụ về một mặt hàng có mức chênh lệch về thuế suất

chƣa phải là lớn lắm. Còn rất nhiều mặt hàng mức chênh lệch thuế suất rất lớn.

Do vậy, ở giai đoạn này, Việt Nam thƣờng xuất sang Hoa Kỳ các mặt hàng có

mức chênh lệch về thuế suất không lớn lắm (có thể cạnh tranh đƣợc), thuộc các

loại (category) sau đây: găng tay, sơ mi trẻ em… (chiếm khoảng 85% tổng kim

ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trƣờng Hoa Kỳ) và mặt

hàng dệt kim nhƣ: sơ mi trẻ em; sơ mi nam, nữ; găng tay dệt kim,… Hàng may

mặc dệt thoi thƣờng chiếm phần lớn trong giá trị xuất khẩu nhƣng tốc độ tăng

trƣởng giá trị xuất khẩu hàng may mặc dệt kim lại cao hơn...

* Thị trường Nhật Bản.

Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Nhật Bản (1997-2004)

Đơn vị: Triệu USD

Năm

Xuất khẩu hàng may mặc

Nhật Bản

XK toàn ngành dệt may

Các thị trường

Kim ngạch

Tỷ trọng (%) Tăng/giảm (%)

1997

1.349

1.050

30,95

+ 31,05

325

1998

1.351

1.055

30,43

- 1,23

321

1999

1.747

1.360

30,66

+ 29,91

417

- 59 -

2000

1.892

1.457

620

42,03

+ 48,68

2001

1.962

1.519

588

38,71

- 5,16

2002

2.750

2.690

645

23,98

+ 9,69

2003

3.650

3.260

678

20,80

+ 5,12

2004

4.250

3.961

762

19,24

+ 12,39

Nguồn: Bộ Thƣơng mại

Số liệu so sánh trên đã cho thấy thị trƣờng Nhật Bản là một trong những thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam nói chung và may mặc nói riêng (là thị trƣờng phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam). Đến năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong 7 quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Năm 1998, cũng nhƣ nhiều quốc gia khác ở Châu Á, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản dã bị tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ nên kim ngạch đã có sự sụt giảm cả về giá trị và tỷ lệ tăng trƣởng. Năm 1999 và 2000, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản đã có sự phục hồi; Nhật Bản và EU trở thành hai thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2002 đến nay, do sự vƣơn lên mạnh mẽ của thị trƣờng Hoa Kỳ nên mặc dù vẫn có sự tăng trƣởng về kim ngạch song tỷ trọng hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản so với tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã có sự sụt giảm đang kể (từ 40% xuống còn 20%) và nhƣ đã đề cập ở trên, thị trƣờng Hoa Kỳ đã trở thành thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam.

Những năm 1990, thị phần hàng may mặc xuất khẩu Trung Quốc chiếm tới 57% thì thị phần hàng Việt Nam đứng thứ tƣ với 4,1%. Sau một thời gian điều chỉnh cơ cấu ngành và ƣu tiên đầu tƣ phát triển, ngành dệt may Trung Quốc đã có sự phát triển vƣợt bậc và hiện nay, thị phần hàng hóa Trung Quốc tại Nhật Bản đã đạt tới 89% với tổng sản lƣợng xuất khẩu đạt gần 1,36 triệu tấn sản phẩm; hàng Việt Nam vƣơn lên vị trí thứ hai với 2,3% thị phần và trên 0,035 triệu tấn sản phẩm (Phụ lục 3).

Số liệu trong Phụ lục 3 đã cho thấy thị phần hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tại Nhật Bản là rất nhỏ; nó phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam tại thị trƣờng Nhật Bản còn yếu.

- 60 -

Tóm lại, thông qua các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam tại thị trƣờng Nhật Bản thì chỉ có tiêu chí giá cả là có lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh. Do khó có thể đáp ứng các chỉ tiêu về

mẫu mã, chất lƣợng sản phẩm, thị hiếu khách hàng... nên giá cả cũng không thể cao. Cũng chính vì giá bán sản phẩm thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh nên khối lƣợng xuất khẩu lớn nhƣng doanh thu từ xuất khẩu không cao và đặc biệt là giá trị gia tăng rất thấp. * Thị trường EU. Hàng dệt may Việt Nam chỉ thực sự có chỗ đứng trên thị trƣờng EU khi Hiệp định về hàng dệt may Việt Nam - EU giai đoạn 1993 - 1997 có hiệu lực (01/01/1993). Kể từ đó, thị trƣờng EU là một trong những thị trƣờng lớn, truyền thống của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam.

Bảng 14: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU

Năm

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005*

Kim ngạch xuất khẩu sang EU (Triệu USD) 250,0 289,0 353,0 420,0 460,0 650,0 650,0 700,0 620,0 550,0 601,0 684.5 537,0

Tỷ trọng so với tổng kim ngạch XK hàng dệt may VN (%) 47.10 52.50 47.10 42.29 30.61 44.83 37.22 37,00 31.39 20.13 16.30 15.56 18,50

* Tính đến tháng 8/2005

Nguồn: VINATEX

Trong nhiều năm qua, thị phần EU luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trƣớc

năm 2002). Năm 2002, 2003 có sự sụt giảm sản lƣợng xuất khẩu hàng dệt may

sang thị trƣờng này là vì các doanh nghiệp đã đẩy mạnh xuất khẩu vào Hoa Kỳ

trƣớc thời điểm quốc gia này áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt

Nam vào cuối 2003. Vì vậy có đến 60% năng lực ngành dệt may đƣợc dồn để

sản xuất hàng sang Hoa Kỳ, do vậy ngành dệt may Việt Nam không đủ sức để

theo đuổi đƣợc cả thị trƣờng EU.

Bảng 15: Xuất khẩu hàng dệt may vào một số quốc gia trong EU

- 61 -

Đơn vị: Triệu USD

Quốc gia

Năm

2000

2001

2002

Đức Pháp Anh Hà Lan Tây Ban Nha Italia Bỉ Đan Mạch Thuỵ Điển Áo Ai Len Hy Lạp Phần Lan Bồ Đào Nha Tổng

257.825 81.212 68.197 50.128 46.027 44.248 24.674 10.116 12.768 6.094 2.494 ------ 3.298 2.016 609.097

211.491 104.670 80.213 51.820 51.358 40.368 30.389 9.981 8.969 5.519 5.272 2.847 2.804 1.866 607.567

204.346 70.200 75.268 45.866 48.290 42.133 27.860 11.102 10.547 3.699 3.842 5.362 2.467 933 551.908

Nguồn: Bộ Thƣơng mại

Các nƣớc nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở thị trƣờng EU nhiều nhất

là: Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha. Các sản phẩm dệt may xuất sang

thị trƣờng EU khá đa dạng, nhƣ: Váy, áo sơ mi, bít tất, áo jacket, áo len... Trong

đó, áo jacket là mặt hàng chủ lực, chiến tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của

ngành sang thị trƣờng này. Về mặt hình thức xuất khẩu, hàng dệt may Việt Nam

chủ yếu là gia công xuất khẩu cho các đối tác trong EU.

Nói chung, hiện nay Việt Nam chƣa phải là đối tác lớn của EU (đứng thứ

16 trong số các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may vào thị trƣờng này và chỉ

chiếm khoảng 0,5% tổng giá trị nhập khẩu của EU); các đối tác lớn nhất của EU

vẫn là Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Singapore... Có thể khẳng định rằng

thị trƣờng EU vẫn còn nhiều tiềm năng cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam;

không thua kém thị trƣờng Hoa Kỳ.

Đánh giá về thị trƣờng EU, nhiều ngƣời cho rằng, sự mở rộng của EU25 là

một cơ hội kinh doanh lớn cho các nhà xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam

vì thị trƣờng này đã bao gồm các quốc gia là bạn hàng truyền thống của ngành

dệt may xuất khẩu Việt Nam cuối thập niên 80 của thế kỷ XX (các quốc gia

- 62 -

Đông Âu trƣớc đây). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các điều kiện gia

nhập thị trƣờng E25 dễ dàng hơn nhiều so với trƣớc đây mà thực tế tiếp cận và

thâm nhập thị trƣờng EU25 sẽ khó khăn hơn. Tại thị trƣờng này, sản phẩm dệt

may xuất khẩu Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật

khác, nhƣ quy định về chất lƣợng, yếu tố môi trƣờng và trách nhiệm xã hội ...

Đây không chỉ là những yêu cầu của các cơ quan có trách nhiệm mà còn là thái

độ tƣơng đối thống nhất của ngƣời tiêu dùng đối với các sản phẩm may mặc

cũng nhƣ tác hại có thể xẩy ra của nó. Bất chấp việc một số hàng rào thuế quan

và phi thuế quan đƣợc cắt giảm; Việt Nam đƣợc mức ƣu đãi thuế quan (GSP)

cho các nƣớc đang phát triển và việc EU đã thống nhất dỡ bỏ hạn ngạch dệt

may với Việt Nam... hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn phải cạnh tranh

sòng phẳng với các quốc gia hàng đầu về xuất khẩu chủng loại hàng hóa này

(Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và các quốc gia ASEAN khác). Việc kim ngạch

xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam sang thị trƣờng EU giảm nhiều trong

những tháng đầu năm 2005 – thời điểm dỡ bỏ hạn ngạch – cho thấy một thực tế

là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trƣờng này là rất thấp,

và hơn nữa, chƣa dễ dàng khắc phục đƣợc.

2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may

Việt Nam thời gian qua.

2.3.1. Những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản

phẩm dệt may Việt Nam.

Những phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm

dệt may Việt Nam ở trên cho thấy, sản phẩm xuất khẩu của dệt may Việt Nam đã

có một số thế mạnh đáng kể. Một là, sản phẩm dệt may Việt Nam đang có

chuyển biến tích cực về cơ cấu và bƣớc đầu đáp ứng đƣợc yêu cầu của thị trƣờng

về chất lƣợng, mẫu mã; Hai là, sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam có giá

cả khá thấp, có tác dụng kích thích tiêu thụ, trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp

xuất khẩu của Việt Nam đang kinh doanh xuất khẩu có lãi; Thứ ba là, mặc dù

chịu tác động của những diễn biến phức tạp trên thị trƣờng thế giới, xuất khẩu

sản phẩm dệt may Việt Nam những năm qua đã không ngừng mở rộng thị

trƣờng, tăng kim ngạch, khẳng định đƣợc vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực xuất

- 63 -

khẩu dệt may, đồng thời đóng góp tích cức cho sự phát triển kinh tế trong nƣớc.

Những điểm mạnh nói trên của sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam

bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó nổi bật lên những nhân tố sau:

- Về môi trường vĩ môi.

Môi trƣờng trong và ngoài nƣớc tƣơng đối thuận lợi cho phát triển công

nghiệp dệt may xuất khẩu. Những năm qua, ngành sản xuất sản phẩm dệt may

xuất khẩu Việt Nam đã có những kết quả đáng khích lệ cả về mặt lƣợng và mặt

chất; xu thế mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế đã tạo đà phát triển cho

ngành công nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng.

Với một loạt các sự kiện nhƣ việc Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã

đƣợc thực thi vào đầu năm 2002; ký kết với Liên minh Châu Âu về việc loại bỏ

hạn ngạch, gia nhập AFTA... đã góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu

hàng may mặc của của toàn ngành. Bên cạnh đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình

thƣờng hoá mối quan hệ kinh tế và Việt Nam đƣợc hƣởng Quy chế tối huệ quốc...

- Về chính sách hỗ trợ phát triển.

Sự quan tâm, hỗ trợ đầu tƣ và phát triển năng lực sản xuất của Chính phủ

là một điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt nam

nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Việc Chính phủ phê

duyệt hoạch định chiến lƣợc phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm

2010 với mức đầu tƣ lớn và mức độ ƣu tiên cao đã thể hiện chủ trƣơng, quan

điểm của Đảng, Nhà nƣớc về ƣu tiên phát triển ngành công nghiệp này trong

thời gian tới. Đây thật sự trở thành một điểm mạnh đối với việc nâng cao năng

lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu trong tƣơng lai.

- Về giá nhân công.

Giá nhân công rẻ đã giúp các sản phẩm dệt may Việt Nam thâm nhập và

duy trì, phát triển thị phần hàng hóa của mình trên mọi thị trƣờng. Nhƣ đã phân

tích ở trên, đến nay, giá nhân công Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các

quốc gia là đối thủ cạnh tranh khác. Tuy yếu tố giá nhân công chi phối mạnh tới

giá thành sản phẩm gia công xuất khẩu song nếu tính trong tổng giá thành sản

phẩm thì giá nhân công lại chiếm tỷ trọng thấp. Vì vậy, có thể khẳng định rằng

giá nhân công thấp làm cho giá cả gia công xuất khẩu sản phẩm dệt may của

- 64 -

Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác song đây chỉ là những điểm mạnh trong

sách lƣợc kinh doanh vì nó không đem lại giá trị gia tăng lớn cho sản phẩm xuất

khẩu. Mặt khác, lợi thế cạnh tranh có đƣợc do mức giá nhân công thấp cũng bị

giảm sút bởi năng suất lao động của công nhân ngành dệt may Việt Nam thấp

hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trên thế giới và trong khu vực.

- Về phương thức phân phối sản phẩm.

Trong hai phƣơng thức xuất khẩu sản phẩm dệt may (gia công xuất khẩu và

xuất khẩu trực tiếp - FOB), hình thức xuất khẩu trực tiếp mang lại giá trị gia tăng

cao nhƣng cũng tỷ lệ thuận mới mức độ rủi ro và đòi hỏi các ngành công nghiệp

phụ trợ phát triển tƣơng đối cao (điểm yếu nhất của công nghiệp dệt may Việt

Nam hiện nay). Trong khi đó, phƣơng thức gia công xuất khẩu đang tỏ ra phù

hợp với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu hiện nay hơn. Với việc lựa chọn

hình thức gia công xuất khẩu là chủ yếu, các doanh nghiệp Việt Nam có điều

kiện để khai thác tốt các lợi thế so sánh của mình. Hơn thế nữa, phƣơng thức gia

công xuất khẩu là hình thức quan trọng giúp các doanh nghiệp may mặc xuất

khẩu Việt Nam tạo dựng uy tín cho sản phẩm của mình trên thị trƣờng thế giới.

Thông qua hình thức gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nƣớc có thể học

hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về tổ chức, quản lý sản xuất; marketing sản

phẩm ra thị trƣờng quốc tế; tiếp thu công nghệ mới; tích luỹ nguồn lực tài chính...

tạo điều kiện để phát triển phƣơng thức xuất khẩu trực tiếp sau này.

2.3.2. Những điểm yếu hay các vấn đề đặt ra trong năng lực cạnh tranh

xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.

Điểm yếu trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt

Nam, nhƣ đã phân tích ở trên, thể hiện nổi bật ở chỗ: giá trị gia tăng thấp và các

doanh nghiệp xuất khẩu đứng trƣớc những nguy cơ rủi ro lớn khi có biến động

giá theo chiều hƣớng xấu (giá giảm); mặt khác, nó còn thể hiện rõ sản phẩm dệt

may của Việt Nam khó xâm nhập những thị trƣờng có yêu cầu đòi hỏi cao về

chất lƣợng và các điều kiện khác (EU và Nhật Bản).

Những hạn chế và trở ngại nói trên của ngành công nghiệp dệt may xuất

khẩu xuất phát từ cơ sở vật chất hạ tầng kém (công nghệ lạc hậu, chi phí sản

- 65 -

xuất cao, ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển, đội ngũ lao động lành nghề

thiếu trầm trọng và năng lực cạnh tranh của các quốc gia là đối thủ cạnh tranh

trực tiếp đã đƣợc cải thiện nhanh chóng trong thời gian gần đây...). Dƣới đây

xin đi sâu một số vấn đề quan trọng nhất.

1/ Sự lạc hậu và yếu kém về công nghệ.

Thực trạng thiết bị và công nghệ của ngành dệt may khác nhau giữa các

lĩnh vực. Có 5 loại công nghệ trong ngành dệt may bao gồm thiết bị công nghệ

kéo sợi; thiết bị công nghệ dệt thoi; thiết bị công nghệ dệt kim; thiết bị công

nghệ in nhuộm; và thiết bị công nghệ may. Trong 5 loại công nghệ nêu trên, có

4 loại là thuộc lĩnh vực dệt là tƣơng đối lạc hậu so với các quốc gia trong khu

vực. Thực trạng các loại thiết bị công nghệ dệt nhƣ sau:

+ Thiết bị công nghệ kéo sợi: Mặc dù đã đƣợc nâng cấp nhƣng những thiết

bị công nghệ lỗi thời vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thiết bị kéo sợi

hiện nay (thiết bị ở mức độ công nghệ trung bình và dƣới trung bình chiếm tới 70% tổng số thiết bị hiện có 2). Nhƣ vậy, thiết bị công nghệ kéo sợi của ngành

dệt Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng lạc hậu, khả năng và trình độ tự

động hóa thấp; phần lớn là công nghệ kéo sợi chải thô và tất nhiên, chất lƣợng

sản phẩm thấp.

+ Thiết bị công nghệ dệt thoi: Thiết bị công nghệ dệt thoi đã có những

chuyển biến mạnh đặc biệt là công nghệ dệt sợi bông, công nghệ dệt vải tổng

hợp, công nghệ dệt vải pha công nghệ tơ tằm và len, công nghệ dệt vải denim.

Tuy nhiên, các thiết bị thế hệ cũ tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ

Chí Minh vẫn chiến trên 50% số trang thiết bị công nghệ hiện có.

+ Thiết bị công nghệ dệt kim: Trƣớc năm 1988, các thiết bị công nghệ này

chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Tiệp Khắc (cũ) và CHDC Đức nên trình độ công

nghệ đã rất lạc hậu so với mặt bằng công nghệ của thế giới hiện tại. Các thiết bị

công nghệ dệt kim tròn của Nhật Bản, CHLB Đức và Đài Loan hiện có phần

lớn đƣợc nhập sau những năm 1990... Đây là số thiết bị công nghệ thuộc thế hệ

mới nên cho ra đời những sản phẩm dệt kim chất lƣợng cao với năng suất cao

- 66 -

và đa tính năng sử dụng. Đến năm 1994, công nghệ dệt kim đan dọc đƣợc nhập 2 Theo VINATEX

vào Việt Nam để phục vụ sản xuất các chủng loại vải công nghiệp nhƣ: vải lót

đƣờng, vải bố lốp xe máy, ôtô...

+ Thiết bị công nghệ in nhuộm: Trong những năm gần đây, các doanh

nghiệp đã chú trọng đầu tƣ chiều sâu, nhập mới và nâng cấp các trang thiết bị

hiện có để nâng cao chất lƣợng, đa dạng hóa sản phẩm. Tuy nhiên, nếu so sánh

với mức đầu tƣ thiết bị công nghệ dệt thì còn rất hạn chế. Các trang thiết bị

công nghệ in nhuộm hiện nay chỉ có khoảng 35% là đáp ứng đƣợc các yêu cầu

của thị trƣờng; 30% là các thiết bị nhập khẩu từ những năm 1970 đến trƣớc

1985; 35% các thiết bị còn lại đã có thời gian sử dụng trên 25 năm.

Bảng 16: Máy móc, trang thiết bị hiện tại của ngành dệt Việt Nam (2004)

Chủng loại

Nhãn hiệu/quốc gia sản xuất

Số lượng

STT 1 2

Dệt thoi Rôto đánh sợi

2.000.000 6.520

3 Máy dệt

15.500

4 Máu dệt kim

1.540

Trung Quốc, Nhật Bản, Italia Trung quốc Sinkwang, Picanol, Vamatex, Nissan, Rotal, Kawamoto, Trung quốc Đức, Italia, Pháp, Hoa Kỳ, Anh, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc Morrison, Gerber, Gaston .....

400

5 Máy nhuộm, in, hoàn thiện

Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, VINATEX

Bên cạnh đó, công suất sử dụng các thiết bị công nghệ của ngành dệt thấp

hơn nhiều so với ngành may. Nếu so với công suất thiết kế, công suất sản xuất

thực tế của ngành dệt rất thấp (dệt vải chỉ đạt 60%). Nguyên nhân chính là do sự

chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trƣờng nhiều doanh nghiệp đã

không thể theo kịp tình hình mới. Một vài doanh nghiệp quy mô lớn đƣợc trang

bị các máy móc lỗi thời chỉ sản xuất các loại vải khổ nhỏ, chất lƣợng thấp và giá

thành lại cao đã không thể bán các sản phẩm của họ ra thị trƣờng và buộc phải

cắt giảm sản xuất hoặc đóng cửa doanh nghiệp để chờ cải tiến thiết bị máy móc.

Bảng 17: Tổng giá trị nhập khẩu trang thiết bị trong ngành dệt may Việt Nam

Đơn vị: Triệu USD

Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004*

- 67 -

Tổng số 84 106 148 202 250 285

* Ƣớc tính

Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam

Một vấn đề đáng lƣu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất

khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia

công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít các doanh

nghiệp may mặc nƣớc ta lúng túng, bị động trong các hoạt động sản xuất kinh

doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm nhƣ quần âu, áo veston chiếm tỷ lệ

nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tƣ đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng

yêu cầu của nhà nhập khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt

may Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, áo sơ mi các loại... Đến nay, những

mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn

ngạch nhƣng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Nhƣ vậy, trong

thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt trang thiết bị kỹ

thuật, công nghệ và tay nghề tức là sẽ tự mình làm mất đi khả năng cạnh tranh

cũng nhƣ những thị trƣờng rất có tiềm năng cho ngành dệt may nƣớc nhà.

2/ Nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu

dài.

Có thể khẳng định rằng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất

khẩu hiện nay có nguyên nhân từ thực trạng nguồn nhân lực vừa thiếu về lƣợng

vừa thấp về trình độ tay nghề. Cụ thể là:

+ Đội ngũ lao động hiện tại có trình độ yếu kém cả về trình độ văn hóa và

chuyên môn tay nghề: Theo kết quả khảo sát tình trạng lao động của ngành dệt

may Thành phố Hồ Chí Minh (nơi chiếm khoảng gần 50% năng lực sản xuất

toàn quốc) thì lao động nhập cƣ chiếm khoảng 59%. Trong đó, 23% dƣới 20

tuổi, 47% từ 21 đến 30 tuổi; 21% có trình độ văn hóa cấp I, 14% đạt trình độ

cấp III (tỷ lệ này ở công nhân chỉ là 4%), còn lại là cấp II. Đây là nguyên nhân

cơ bản khiến số lao động này chỉ có thể tham gia các khóa đào tạo nghề ngắn

hạn (3 đến 6 tháng) nên tay nghề rất yếu. Theo bà Nguyễn Thị Nga - Trƣởng

phòng Tổ chức hành chính Công ty May Chiến thắng thì mỗi năm công ty này

cần tuyển mới khoảng 200 công nhân nhƣng các trung tâm đào tạo nghề không

đáp ứng đƣợc do chất lƣợng tay nghề thấp. Cũng theo số liệu điều tra trên, trình

- 68 -

độ của các trƣởng truyền cũng rất hạn chế: tốt nghiệp Đại học chiếm 6,5%; Cao

Đẳng là 8,2%, Trung cấp là 10,5%; 74,8% số lao động chuyên môn không có

bằng cấp chính quy... Đây thật sự là những con số đáng báo động.

+ Sự thiếu hụt về số lượng lao động: Theo Hiệp Hội Dệt may Việt Nam,

hiện nay, số lao động thiếu hụt bình quân tại các doanh nghiệp dệt may là 25%

đến 30%. Nhiều năm nay, ngành may rơi vào tình trạng “thừa đơn hàng, thiếu

lao động”. Đối với Công ty May Việt Tiến - một công ty đã rất thành công trên

thị trƣờng nội địa và ngoài nƣớc với sản phẩm chất lƣợng cao thì: Công ty đã

đầu tƣ thêm 02 nhà máy mới để nâng công suất nhƣng vẫn chƣa có đủ công nhân để đƣa vào hoạt động3. Hơn thế nữa, cá biệt còn có các doanh nghiệp đƣa ra các số liệu đáng báo động hơn. Ông Phạm Xuân Hồng - Giám đốc Công ty

May Sài Gòn 3 cho biết: Công ty đã chi 1,1 triệu VNĐ/01 lần để đăng báo

tuyển mới lao động nhƣng chỉ tuyển đƣợc 01 lao động và 13 kỹ sƣ ngành may

vừa tốt nghiệp. Tuy nhiên, cả 13 kỹ sƣ đó đều phải đào tạo lại và kết quả cuối

cùng là chỉ sử dụng đƣợc 01 ngƣời trong đó làm cán bộ kỹ thuật thuần túy (không thể làm đƣợc quản đốc và thâm chí cả trƣởng chuyền).4

Mặc dù nguồn nhân lực xã hội hiện có và lƣợng đƣợc bổ sung hàng năm là

tƣơng đối cao so với yêu cầu của ngành dệt may song đa phần trong số đó là lao

động phổ thông, chƣa qua đào tạo và có trình độ văn hóa thấp nên xét về khả

năng cung ứng lao động có tay nghề của thị trƣờng lao động thì ngành may

đang thiếu trầm trọng công nhân lành nghề và cán bộ quản trị các cấp... Nhƣ

vậy, đối với ngành dệt may hiện nay tồn tại thực trạng dƣ thừa lao động phổ

thông nhƣng lại thiếu nghiêm trọng lao động có tay nghề.

Thực trạng trên không chỉ tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất, kinh

doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hƣởng nhiều tới việc đảm bảo quyền lợi

cho ngƣời lao động, nhƣ: (1) Do trình độ văn hóa thấp nên lao động rất khó tiếp

thu các công nghệ mới; thiếu hiểu biết về luật pháp, nội quy kỷ luật lao động...

rất dễ xảy ra tiêu cực đối với ngƣời lao động cũng nhƣ những ứng xử không

thích hợp trong quan hệ đồng nghiệp, quan hệ chủ thợ... Mặt khác, cũng do

trình độ văn hóa thấp nên ngƣời lao động rất dễ bị những ngƣời sử dụng lao

3 Theo Báo Sài Gòn Giải phóng ngày 11-06-2002 4 Theo Báo Thanh Niên số ra ngày 12-07-2002.

- 69 -

động chèn ép, cắt xén quyền lợi... (2) Đã có sự tranh giành lao động bậc cao

giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau. Để cắt giảm kinh phí đào tạo, các

doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nhiều hình thức khác nhau để lôi kéo các lao

động có tay nghề cao từ các doanh nghiệp khác về doanh nghiệp mình (điển

hình là khu vực phía Nam). Đây là nguyên nhân cơ bản khiến chỉ số biến động

về nguồn nhân lực trong ngành dệt may lên tới 19%/năm (kéo theo nó là việc

rất khó đảm bảo các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho ngƣời lao động).

Bên cạnh đó, thực trạng về nguồn nhân lực nêu trên còn buộc một số doanh

nghiệp không dám nhận thêm hợp đồng do thiếu hụt lao động.

Theo thống kê năm 2003 của Hiệp hội dệt may Việt nam, hiện nay toàn

ngành đang sử dụng khoảng 2 triệu lao động trực tiếp. Để tăng năng suất khoảng

20%/năm trong 5 năm tới thì nhu cầu lao động tuyển mới vào khoảng gần 1 triệu

lao động. Trong đó, có khoảng 1.600 giám đốc điều hành, 3.000 quản đốc, 5.000

kỹ thuật viên, 18.000 trƣởng truyền, 18.000 nhân viên KCS và trên 800.000 lao

động với tay nghề bậc 3/7. Đây thật sự là những đòi hỏi vƣợt quá khả năng đáp

ứng của ngành dệt may Việt Nam. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực đang là một

vấn đề bức xúc đối với hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

3/ Hệ thống phân phối sản phẩm xuất khẩu kém hiệu quả.

Đã có nhiều minh chứng để khẳng định rằng: Ngành may Việt Nam đang

mất dần những lợi thế cạnh tranh vào tay các đối thủ cạnh tranh mà một các trong

nguyên nhân chính có liên quan đến hệ thống phân phối sản phẩm xuất khẩu.

Phƣơng thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm

dệt may xuất khẩu hiện nay là gia công xuất khẩu cho đối tác nƣớc ngoài.

Phƣơng thức phân phối này có điểm lợi là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam

không phải chịu rủi ro trong quá trình lƣu thông hàng hóa. Trong khi đó, rủi ro

trong lƣu thông hàng dệt may luôn đƣợc đánh giá có tỷ lệ tƣơng đối cao do một

số nguyên nhân cơ bản sau: Rủi ro do tính chất hay thay đổi của thị trƣờng, bởi

việc tiêu thụ hàng dệt may chịu ảnh hƣởng rất lớn của thời trang và thị hiếu

ngƣời tiêu dùng - những yếu tố rất kém bền vững. Do đó, quá trình phân phối

sản phẩm, các nhà phân phối phải dựa vào hoạt động marketing để tiến hành lập

kế hoạch sản xuất và thiết kế mẫu mã phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng. Trái

- 70 -

lại, nếu nó không phù hợp với những đòi hỏi của thị trƣờng thì không thể tiêu

thụ đƣợc với hiệu quả nhƣ dự kiến. Đây là rủi ro lớn nhất mà các nhà phân phối

phải tính đến trong sách lƣợc kinh doanh.

Tuy nhiên, do có khoảng 70% đến 85% giá trị sản phẩm may là làm gia

công; chỉ khoảng 10% đến 15% trong đó sử dụng nguyên liệu và nhân công

trong nƣớc để sản xuất nên kim ngạch xuất khẩu lớn nhƣng giá trị gia tăng và

thực thu ngoại tệ thấp (chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch). Thêm vào đó,

phƣơng thức này đặt các doanh nghiệp dệt may – nhất là doanh nghiệp may vào

tình trạng thiếu chủ động trong sản xuất kinh doanh. Cụ thể nhƣ:

+ Khả năng tiếp cận thị trƣờng ngoài nƣớc còn hạn chế: Do đặc thù của

phƣơng thức xuất khẩu này là việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng và tổ chức các

kênh phân phối sản phẩm đều do các đối tác nƣớc ngoài thực hiện nên hầu hết

các doanh nghiệp Việt Nam không nắm đƣợc nhu cầu thực tế của thị trƣờng.

Thực tế thời gian qua cho thấy, mặc dù số lƣợng hạn ngạch đƣợc hƣởng từ thị

trƣờng EU và Hoa Kỳ đang ngày càng tăng nhƣng tỷ lệ hạn ngạch đƣợc cấp so

với các quốc gia khác là đối thủ cạnh tranh còn rất thấp (ở thị trƣờng EU chỉ

bằng 5% tổng hạn ngạch của Trung Quốc và chỉ tƣơng đƣơng từ 10% đến 20%

các nƣớc ASEAN khác). Hơn thế nữa, số mặt hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch

cũng lớn hơn rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh (đặc biệt là từ ngày

01/01/2005, các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam đều đƣợc rỡ bỏ hạn ngạch do

là thành viên WTO). Các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít thông tin về thị

trƣờng và đối tác nƣớc ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống thƣơng vụ

Việt Nam tại nƣớc ngoài hoạt động chƣa hiệu quả và các doanh nghiệp không

có đủ điều kiện về tài chính để tổ chức các hoạt động thu thập thông tin, xúc

tiến thƣơng mại cũng nhƣ đặt đại diện ở các quốc gia bạn hàng.

+ Nội lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên các

thị trƣờng còn thấp kém; thời gian đáp ứng yêu cầu các đơn hàng lớn còn gặp

nhiều khó khăn: Mặc dù giá nhân công/giờ lao động ở Việt Nam rẻ hơn so với

các nƣớc trong khu vực song, năng suất lao động của công nhân chỉ tƣơng

đƣơng 2/3 các quốc gia này. Vì vậy, khi muốn đáp ứng về mặt thời gian đối với

các đơn hàng lớn, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam phải tăng ca, làm thêm giờ.

- 71 -

Muốn vậy, các chủ doanh nghiệp cần có sự thỏa thuận với ngƣời lao động (yêu

cầu của Bộ Luật Lao động) và đây là một khó khăn không nhỏ đối với các chủ

doanh nghiệp).

+ Mặc dù mô hình liên kết vệ tinh trong hình thức gia công xuất khẩu giữa

các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ ngành may đã có song hiệu quả

hơn tác chƣa cao. Hơn thế nữa, nhƣ đã phân tích ở trên, sự cạnh tranh trong nội

bộ ngành đã dẫn tới hiện tƣợng phá giá gia công cho đối tác nƣớc ngoài, làm

giảm lợi nhuận trong lĩnh vực gia công xuất khẩu nói chung của toàn ngành

may mặc xuất khẩu Việt Nam (giá gia công áo sơ mi ở Thành phố Hồ chí Minh

đã giảm tới 30% so với vài năm trƣớc đây).

4/Công nghiệp phụ trợ kém phát triển.

Theo đánh giá của các chuyên gia trong và ngoài nƣớc, các ngành công

nghiệp phụ trợ cho dệt may Việt Nam còn rất yếu. Nếu so sánh trình độ công

nghệ hiện tại của công nghiệp Việt Nam với các quốc gia khác trong Châu Á thì

chỉ tƣơng đƣơng với Trung Quốc những năm 80, Malaysia những năm 70, Hàn

Quốc những năm 60 và Nhật Bản những năm 20 của thế kỷ trƣớc. Vấn đề đối

với ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may còn trầm trọng hơn nhiều.

Chẳng hạn về công nghiệp cơ khí phục vụ dệt may: Bên cạnh các xƣởng cơ

khí ngành may làm nhiệm vụ sửa chữa, thay thế phụ tùng, cơ kiện thì VINATEX

hiện có bốn công ty cơ khí chuyên ngành chuyên sản xuất phụ tùng, trang thiết bị

và cơ kiện cho ngành may (Công ty Cổ phần cơ khí may Gia Lâm, Công ty Cổ

phần Cơ khí may Nam Định, Công ty Cổ phần Cơ khí Hƣng Yên và Công ty Cơ

khí Thủ Đức). Thời gian qua, các đơn vị này tuy đã có nhiều cố gắng nhƣng do

năng lực còn hạn chế nên không thể đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển rất nhanh

của các doanh nghiệp may. Tổng giá trị sản xuất mỗi năm của các công ty này

chỉ đạt khoảng 9 triệu USD tƣơng đƣơng khoảng 4.000 tấn phụ tùng; chủ yếu là

các trang thiết bị nhỏ, lẻ nhƣ: máy trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy

san chỉ... và cũng chỉ đáp ứng đƣợc một phần nhỏ nhu cầu của ngành may. Trong

khi đó, phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt vẫn phải nhập khẩu tới 80%... Rõ ràng là

ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may hiện nay đang tồn tại một một

nghịch lý là hầu hết các công ty này đều không phát huy đƣợc hiệu quả do không

đáp ứng đƣợc các yêu cầu tƣơng đối khắt khe về chất lƣợng và thời gian giao

- 72 -

hàng. Vì vậy, để đảm bảo đời sống cho công nhân và duy trì sản xuất, các công ty

này thƣờng nhận gia công các sản phẩm cơ khí cho các doanh nghiệp ngoài

ngành. Trong khi đó, ngành dệt may lại phải chi hàng chục triệu USD để nhập

khẩu phụ tùng, cơ kiện phục vụ phát triển sản xuất.

Nguyên, phụ liệu trong nƣớc (đặc biệt là ngành dệt) chƣa đáp ứng đƣợc

yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng do chất lƣợng vải thấp nên phải nhập khẩu

(trung bình nhập khẩu khoảng 130.000 tấn bông và 100% lƣợng tơ sợi tổng

hợp); vì vậy rất bị động, thiếu đồng bộ và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian

(nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải chịu thuế nhập khẩu).

Nguyên, phụ liệu ngành may hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào thị trƣờng

nƣớc ngoài (bông nhập khẩu khoảng 90%, vải nhập khẩu khoảng 70%). Điều

này không chỉ làm tăng giá thành của sản phẩm mà còn cản trở khả năng đáp

ứng nhanh các đơn hàng yêu cầu thời gian giao hàng ngắn. Đối với vấn đề cung

cấp nguyên, phụ liệu đầu vào, VINATEX là đơn vị lớn nhất trong ngành, nắm

vai trò chủ đạo trong việc cung ứng theo nhu cầu của các doanh nghiệp trong

nƣớc (chế biến 85% bông, chiếm khoảng gần 70% năng lực kéo sợi...). Song

vấn đề phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của VINATEX nói riêng và toàn

ngành dệt may nói chung còn rất nhiều vấn đề cần quan tâm. Bên cạnh đó, năng

lực thiết kế thời trang trong nƣớc còn quá yếu và chƣa đƣợc chú trọng, còn nặng

tƣ tƣởng may gia công để tìm lợi nhuận. Chất lƣợng dịch vụ của ngành dệt may

nhƣ hệ thống thông tin, giao dịch, chăm sóc khách hàng chƣa đƣợc hoàn thiện.

Bảng 18: Chất lượng của nguồn cung ứng đầu vào trong nước theo đánh giá của doanh nghiệp

Mức độ đánh giá

Chất lượng thấp của đầu vào trong nước

Mức độ tin cậy của các nhà cung ứng

Thiếu đầu vào ở thị trường trong nước

Không có vấn đề

11%

28%

13%

Là vấn đề vừa phải

51%

52%

35%

Là vấn đề nghiêm trọng

38%

20%

52%

Nguồn: Số liệu điều tra 96 doanh nghiệp dệt may - Viện Kinh tế Việt Nam năm 1999

Có thể tổng kết một số nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém của công

nghiệp phụ trợ ngành dệt may hiện nay nhƣ sau: (1) Do trình độ, máy móc, thiết

- 73 -

bị của các công ty cơ khí dệt may đã quá lỗi thời nên không thể đáp ứng đƣợc

yêu cầu ngày càng cao về chất lƣợng cũng nhƣ thời gian giao hàng của các

doanh nghiệp dệt may. (2) Một số lƣợng lớn phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt

may đang đƣợc nhập lậu vào Việt Nam từ Trung Quốc nên giá cả thấp hơn sản

xuất trong nƣớc. Hơn thế nữa, bản thân các công ty cơ khí của ngành cũng còn

tâm lý lo ngại trong đầu tƣ đổi mới trang thiết bị công nghệ vì lo sợ không cạnh

tranh đƣợc với hàng nhập khẩu. (3) Sự biến động giá cả các nguyên liệu đầu

vào của các ngành công nghiệp phụ trợ làm cho hiệu quả hoạt động sản xuất

thấp (đặc biệt là giá sắt thép). (4) Phụ tùng, cơ kiện của ngành dệt may (đặc biệt

là ngành dệt) rất phức tạp, yêu cầu cao về chất lƣợng, đòi hỏi sự chính xác cao

độ nên chỉ có thể đƣợc đảm bảo bởi các dây chuyền công nghệ hiện đại với đội

ngũ công nhân lành nghề. Đây là điều không chỉ bản thân các doanh nghiệp cơ

khí có thể giải quyết đƣợc.

5/ Về quy mô nhỏ và yếu về liên kết trong nội bộ ngành.

Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thiếu sự liên kết trong nội bộ ngành

khiến khả năng đáp ứng những đơn đặt hàng lớn với thời gian giao hàng nhanh

còn nhiều hạn chế: Trình độ và quy mô ngành dệt Việt Nam còn rất nhỏ so với

các đối thủ cạnh tranh chính (Trung Quốc, Ấn Độ...) và chƣa có sự phối hợp

chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may trong việc khai thác

năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng cạnh tranh nội bộ

, thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng của mình). Hơn thế nữa, hiện nay

đang tồn tại một thực trạng đáng lƣu ý ở ngành dệt là trong khi mối liên hệ dọc

giữa các cơ sở dệt rất yếu kém thì vẫn tồn tại một mô hình sản xuất hỗn hợp

trong một doanh nghiệp dệt. Trong đó, các doanh nghiệp này ngoài sản xuất

hàng dệt còn sản xuất hàng may mặc. Thực tế đã có một số doanh nghiệp dệt

đƣa hoạt động sản xuất quần áo vào danh mục kinh doanh của mình và cũng đã

có những thành công nhất định. Tuy nhiên, hiện tƣợng này đã vô hình chung tạo

nên sự cạnh tranh không cần thiết trong chính nội bộ ngành dệt may và nó làm

cho sự liên kết giữa hai lĩnh vực này vốn đã lỏng lẻo lại càng lỏng lẻo hơn.

Đáng lƣu ý là khi lựa chọn phƣơng thức kinh doanh này, các doanh nghiệp dệt

- 74 -

không chỉ để giải quyết sự dƣ thừa lao động trong lĩnh vực dệt mà còn xuất phát

từ động cơ cần sử dụng một số sản phẩm dệt của doanh nghiệp mình vào lĩnh

vực may. Tuy nhiên, mô hình kinh doanh này chỉ thành công khi các doanh

nghiệp có đƣợc khả năng tiếp cận với hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng của

họ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, động cơ chính của việc đƣa sản xuất hàng

may mặc vào các doanh nghiệp dệt là để giành đƣợc lợi thế và tăng cƣờng khả

năng tiếp cận với các thị trƣờng có hạn ngạch - những thị trƣờng có tỷ lệ lợi

nhuận cao (rất nhiều doanh nghiệp may mong muốn đạt đƣợc).

6/ Về hoạt động xúc tiến thương mại và một số vấn đề khác của ngành.

+ Hoạt động xúc tiến thƣơng mại của Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc yêu

cầu hiện nay. Thực trạng này tồn tại ở hầu khắp các lĩnh vực kinh tế. Với ngành

dệt may, công tác xúc tiến thƣơng mại đóng vai trò hết sức quan trọng do đặc

điểm về chu kỳ sống của sản phẩm là rất ngắn, bị chi phối nhiều bởi yếu tố thị

hiếu khách hàng - yếu tố rất dễ thay đổi. Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến thƣơng

mại trong ngành dệt may chƣa đƣợc quan tâm đúng mức (ngay cả tại thị trƣờng

trong nƣớc). Hậu quả của nó làm cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung rất

thiếu thông tin về các thị trƣờng xuất khẩu lớn (đặc biệt là thị trƣờng Hoa Kỳ,

EU và Nhật Bản), chƣa hiểu biết rõ về môi trƣờng kinh doanh, hệ thống pháp

luật của nƣớc nhập khẩu, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong môi

trƣờng quốc tế... Điều này giải thích cho việc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt

Nam thƣờng bị ép giá trong quá trình đàm phán với các đối tác nƣớc ngoài.

+ Hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ chƣa cao, còn nhiều doanh nghiệp kinh

doanh thua lỗ (đặc biệt là các DNNN), một số doanh nghiệp chƣa mạnh dạn đầu

tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc quản lý sản xuất, quản lý trang thiết bị,

công nghệ, vệ sinh môi trƣờng... còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh. Chƣa có sự

liên kết giữa Hiệp hội dệt may, VINATEX với các bộ, ban, ngành liên quan, với

các địa phƣơng nên dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nƣớc sản xuất ra

đảm bảo chất lƣợng, giá cả cạnh tranh nhƣng vẫn còn nhập ngoại với số lƣợng

lớn... Thị trƣờng xuất khẩu và các yếu tố sản xuất khác còn phụ thuộc quá nhiều

- 75 -

vào thị trƣờng hạn ngạch và yếu tố nƣớc ngoài trong khi chƣa tìm ra con đƣờng

để khai thác hiệu quả các thị trƣờng phi hạn ngạch và nguồn nguyên liệu trong

nƣớc.

+ Công tác tổ chức, quản lý còn kém thể hiện qua việc bố trí, sắp xếp lao

động và tổ chức sản xuất chƣa khoa học; chƣa tạo đƣợc sự gắn bó chặt chẽ giữa

các khâu của quá trình sản xuất, các bộ phận của doanh nghiệp và sự kết nối

giữa các khâu còn yếu.

+ Sự thiếu ổn định trong tăng trƣởng xuất khẩu sản phẩm dệt may: Hàng

dệt may Việt Nam đã tìm đƣợc chỗ đứng trên thị trƣờng thế giới, song việc xác

lập một vị trí chức chắn trên thị trƣờng quốc tế hoàn toàn không đơn giản. Cuối

năm 2000, đầu 2001, gần nhƣ toàn bộ ngành dệt may Việt Nam đã rơi vào tình

trạng thiếu đơn đặt hàng và các doanh nghiệp đã phải hạ giá gia công từ 30%

đến 40% (mức không còn lợi nhuận). Khi nền kinh tế thế giới giảm sút tốc độ

tăng trƣởng thì nhập khẩu của các nƣớc bạn hàng lớn (đặc biệt là Nhật Bản)

cũng suy giảm rõ rệt. Tại thị trƣờng EU, hàng dệt may Việt Nam đang mất dần

lợi thế so với Trung Quốc, Ấn Độ do EU bắt đầu nới lỏng các hạn chế nhập

khẩu từ các quốc gia này. Hơn thế nữa, đây là thời kỳ mà Trung Quốc đã rất

thành công trong việc cải thiện chất lƣợng sản phẩm - điểm yếu trƣớc đây của

các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, giá gia công của một số

chủng loại sản phẩm của Trung Quốc thấp hơn tới 20% so với Việt Nam.

Bên cạnh những yếu kém cơ bản trong nâng cao năng lực cạnh tranh xuất

khẩu cho sản phẩm dệt may nêu trên, ngành dệt may Việt Nam còn gặp rất

nhiều khó khăn ngay trên thị trƣờng trong nƣớc. Thị trƣờng nội địa còn để cho

sản phẩm ngoại chiếm phần lớn thị phần (theo số liệu điều tra năm 2002 do

JICA tiến hành tại Việt Nam, có tới trên 70% thị phần hàng dệt may tiêu thụ

trong nƣớc là của các sản phẩm nhập ngoại. Đa phần số đó là các sản phẩm giá

rẻ, đƣợc nhập khẩu từ Trung Quốc và thị trƣờng tiêu thụ chính là nông thôn

Việt Nam). Do xu hƣớng tự do hoá thƣơng mại, nên hàng may mặc bên ngoài

tràn vào nƣớc ta từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trốn thuế, hàng viện trợ của

SIDA... giá rất rẻ, tràn ngập thị trƣờng trong nƣớc làm cho sản xuất hàng may

- 76 -

mặc trong nƣớc bị thu hẹp. Ngoài ra, do chƣa trở thành thành viên WTO nên

công nghiệp dệt may Việt Nam không đƣợc hƣởng những ƣu đãi do ACT mang

lại; điều này đã gây khó khăn đáng kể cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu

nói riêng và toàn ngành dệt may nói chung.

7/ Chính sách hỗ trợ phát triển còn thiếu, chưa đồng bộ và kém hiệu quả.

Năng lực cạnh tranh bị chi phối bởi hệ thống các chính sách hỗ trợ phát

triển ngành dệt may xuất khẩu trong nƣớc còn nhiều bất cập, nhƣ: (1) Một số

chính sách hiện hành vẫn chƣa thực sự tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu

hàng may mặc, không cạnh tranh đƣợc với giá thành, giá bán trên thị trƣờng

(chính sách thuế, chính sách quản lý thời gian đối với hàng tạm nhập, tái

xuất...). (2) Chính phủ chƣa có ƣu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu

tƣ phát triển ngành dệt may nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng nên các

dự án đầu tƣ mới, vốn lớn rất khó triển khai do thiếu tính khả thi. (3) Vấn đề tỷ

lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong các cơ

quản lý Nhà nƣớc sao cho công bằng và hợp lý giữa các thành phần kinh tế. (4)

Sự cứng nhắc trong việc cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận mẫu

hàng gửi theo đƣờng hàng không mà đối tác nƣớc ngoài gửi cần đƣợc điều

chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thị trƣờng về mặt thời gian. (5) Mức độ ổn định

trong các chính sách và quy định cụ thể không cao khiến doanh nghiệp khó có

khả năng ứng phó kịp thời với những thay đổi của hệ thống luật pháp... Bên

cạnh đó, tại các thị trƣờng hạn ngạch, việc phân bổ hạn ngạch cho doanh nghiệp

xuất khẩu gặp nhiều lúng túng, bất bình đẳng và nhiều tiêu cực, gây trở ngại và

làm tăng chi phí giao dịch cho doanh nghiệp xuất khẩu.

8/ Cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt.

Do đặc thù ngành may là đòi hỏi lƣợng vốn đầu tƣ không lớn, công nghệ

không quá phức tạp, suất đầu tƣ thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh nên các

điều kiện gia nhập và rút lui khỏi thị trƣờng không quá khó khăn. Vì vậy, tính

cạnh tranh của các doanh nghiệp may thiếu bền vững. Khi thâm nhập vào thị

trƣờng dệt may thế giới (đặc biệt là các thị trƣờng lón nhƣ: Bắc Hoa Kỳ, EU,

Nhật Bản...) thì đối thủ cạnh tranh mạnh nhất chính là Trung Quốc.

Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới lại có lịch sử phát triển

- 77 -

ngành dệt may lâu đời và luôn giữ vị thế hàng đầu trong ngành dệt may thế giới

về sản lƣợng, nguyên, phụ liệu, công suất may... nên không chỉ là đối thủ cạnh

tranh trực tiếp của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam mà còn là đối thủ của các

quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may khác. Công nghiệp dệt may Trung Quốc

luôn là ngành công nghiệp có đóng góp lớn nhất cho tổng thu nhập quốc dân:

Giá trị sản lƣợng ngành dệt may chiếm tới 20% tổng giá trị sản xuất công

nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã, đang và sẽ

chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may thế

giới (khoảng 20%). Các thị trƣờng lớn nhất của hàng dệt may Trung Quốc là:

Hồng Kông, Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và úc (80% sản phẩm xuất khẩu của Trung

Quốc là xuất khẩu sang các thị trƣờng này)... Trung Quốc đang tiến hành cơ cấu

lại ngành dệt may để chuyển từ quốc gia có ngành dệt may lớn thành quốc gia

có ngành công nghiệp dệt may phát triển mạnh.

Hiện nay, Trung Quốc đang có một số lợi thế so sánh trong phát triển

ngành dệt may so với các đối thủ cạnh tranh: (1) Trung Quốc có độ ngũ nhân

viên kỹ thuật giỏi và số công nhân lành nghề cao. (2) Khả năng cạnh tranh về

giá rất lớn (giá hàng cùng loại của Trung Quốc chỉ tƣơng đƣơng 80% giá hàng

Việt Nam). (3) Hệ thống chính sách hỗ trợ của Chính Phủ Trung Quốc rất đồng

bộ và hiệu quả cao. (4) Công tác marketing tốt. (5) Cơ cấu ngành dệt may tƣơng

đối hợp lý và đã phát triển ở một mức độ nhất định. Và (6) Những lợi thế so với

Việt Nam có đƣợc do Trung Quốc đã là thành viên chính thức của WTO.

Ngoài ra, các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn phải cạnh

tranh trực tiếp với các sản phẩm đến từ các quốc gia khác, nhƣ: Ấn Độ,

Pakistan, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia... Đây là những quốc gia

hiện đang có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với Việt Nam.

Rõ ràng là, cùng với quá trình hội nhập của nền kinh tế, sau hơn mƣời năm

nỗ lực, ngành dệt may đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc. Trên thị trƣờng thế giới,

sản phẩm dệt may xuất khẩu đã có vị trí đáng kể và đã thâm nhập vào nhiều

quốc gia và khu vực. Điều đó thể hiện những cố gắng tích cực trƣớc hết là của

các doanh nghiệp và các nhà quản lý công nghiệp dệt may trong việc tạo lập và

nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trƣờng thế giới. Tuy

nhiên, những phân tích trên đây cho thấy xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt

- 78 -

Nam còn kém hiệu quả do năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may còn thấp,

chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu ngày càng khắt khe và nhiều biến động của

thị trƣờng thế giới. Những hạn chế đó không chỉ là do những vấn đề của bản

thân các doanh nghiệp ngành dệt may mà còn do những yếu kém nhiều mặt của

ngành và của nền kinh tế chậm phát triển, và nhất là cả sự kém hiệu quả trong

quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, xuất khẩu sản phẩm dệt may. Tình hình

ấy đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho

sản phẩm dệt may xuất khẩu, thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may trong

- 79 -

điều kiện mới.

QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

CHƢƠNG 3

3.1. Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh

tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam

3.1.1. Bối cảnh quốc tế và thách thức mới của thị trường dệt may thế giới.

- Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu

thế khách quan và diễn ra một cách nhanh chóng.

Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều nhìn nhận khu vực hóa và toàn

cầu hóa kinh tế thế giới là một xu thế khách quan; mọi quốc gia muốn phát triển

nhất thiết phải tham gia vào quá trình ấy. Trong xu thế này, các khối liên kết

kinh tế đã đang và sẽ đƣợc thành lập luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế cho các

quốc gia thành viên nhƣ mục tiêu chính, căn bản và xuyên suốt. Mọi quốc gia đi

ngƣợc lại xu thế này tất yếu sẽ lạc hậu và không có môi trƣờng, điều kiện thuận

lợi để phát triển.

Vừa qua, EU đã quyết định mở rộng khối liên minh thêm 10 quốc gia

(tháng 4/2004) đƣa tổng dân số trong khối lên tới 500 triệu ngƣời và GDP toàn

khối đạt 10.000 tỷ USD (gần tƣơng đƣơng với nền kinh tế lớn nhất thế giới -

Mỹ). Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Khối MECOSUR với sự

tham gia của 33 quốc gia với khoảng 911 triệu ngƣời, GDP của khu vực này đạt

khoảng 11.000 tỷ USD... là những minh chứng cụ thể cho quá trình liên kết

kinh tế theo hƣớng khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng nhanh

chóng. Hơn thế nữa, toàn cầu hóa kinh tế quốc tế còn thể hiện qua việc WTO đã

phát động vòng đàm phán Doha mới (đầu năm 2005) với việc đƣa ra các yêu

cầu tự do hóa thƣơng mại nhanh hơn nữa; vai trò của các công ty xuyên quốc

gia (TNCs) đang ngày càng lớn mạnh (chỉ tính riêng 70.000 công ty đa quốc gia

đã chiến tới 1/3 tổng thƣơng mại toàn cầu và đã đóng vai trò chi phối nhiều loại

hàng hóa, giá cả, kỹ thuật và vốn của nền sản xuất thế giới). Bên cạnh các khối

- 80 -

kinh tế đã hình thành thì việc các quốc gia có cùng tôn giáo, gần nhau về vị trí

địa lý hay tƣơng đồng về trình độ phát triển cũng đang nỗ lực hình thành các

liên kết kinh tế nhƣ bƣớc khởi sự để triển khai hội nhập chung vào nền kinh tế

thế giới: Nhóm các quốc gia hình thành theo thỏa thuận Thƣợng Hải; cộng đồng

các quốc gia Châu Phi cũng nhƣ sự tƣơng trợ chính thức và không chính thức

trong cộng đồng các quốc gia Hồi giáo...

Đồng thời với xu thế hội nhập khu vực và thế giới, những mâu thuẫn về

quyền lợi kinh tế cũng nhƣ sự chi phối tới chính trị của các quốc gia phát triển

đối với các nƣớc đang và chậm phát triển cũng ngày càng rõ rệt. Việc các quốc

gia G8 rất khó đạt đƣợc những cam kết có lợi hơn cho thƣơng mại toàn cầu

cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với các quốc gia đang phát triển đã trở

thành vấn đề thƣờng niên của cuộc gặp thƣợng đỉnh hàng năm (giảm thiểu để đi

đến xóa bỏ bảo hộ một số lĩnh vực của G8, giảm và xóa nợ cho các nƣớc nghèo

nhất thế giới...). Bên cạnh đó, mức độ xung đột về lợi ích giữa khối các quốc gia

phát triển và các nƣớc còn lại đang ngày càng gay gắt. Mặc dù các nƣớc đi sau

luôn phải chấp nhận luật lệ thƣơng mại tự do của WTO (do các nƣớc phát triển

đi trƣớc xây dựng) nhƣng do sự gia tăng vai trò cũng nhƣ thị trƣờng của các

quốc gia đang phát triển nên tiếng nói của khối này trong các vòng đàm phán

thƣơng mại toàn cầu đang ngày càng có trọng lƣợng. Đây cũng chính là nguyên

nhân khiến các cuộc đàm phán đổ vỡ (điểm hình là vòng đàm phán Doha 2001).

Trong khi các quốc gia phát triển luôn yêu cầu các nƣớc đi sau mở cửa hơn nữa

cho hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu thì họ lại kiên trì bảo hộ một số ngành sản

xuất trong nƣớc (dƣới những hình thức truyền thống - hạn ngạch và các hình

thức bảo hộ mới - chống phá giá, áp dụng các tiêu chuẩn về lao động, môi

trƣờng, xã hội...).... Rõ ràng là, xu thế toàn cầu hóa cũng nhƣ vai trò ngày càng

lớn mạnh của khối các quốc gia đang phát triển là không thể đảo ngƣợc song nó

cũng đồng thời tồn tại các mâu thuẫn cố hữu bắt nguồn từ sự chênh lệch quá lớn

về trình độ phát triển cũng nhƣ lợi ích do toàn cầu hóa mang lại khác nhau giữa

các quốc gia và khu vực trên thế giới.

- 81 -

- Xu hướng thương mại tự do đối với các sản phẩm dệt may nội bộ WTO.

Từ những năm 30, các hạn chế về số lƣợng hàng trong buôn bán dệt may

đã đƣợc Mỹ và một số nƣớc Phƣơng Tây áp đặt để hạn chế nhập khẩu hàng dệt

may. Năm 1961, hàng dệt may bắt đầu đƣợc xem xét một cách chính thức bên

ngoài các quy định thông thƣờng của GATT bằng các thoả thuận ngắn và dài

hạn về sợi bông và sau đó (năm 1974) là Hiệp định Đa sợi (Multi Fibre

Arrangement - MFA). Theo MFA, các nƣớc nhập khẩu có thể thông qua các

thoả thuận song phƣơng hoặc trong trƣờng hợp không đi đến thoả thuận song

phƣơng có thể đơn phƣơng thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với

từng nƣớc xuất khẩu và tốc độ tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ theo mỗi nƣớc.

Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay của WTO, ATC ra

đời thay thế cho MFA và là hiệp định quốc tế chính thức bao trùm trong lĩnh

vực dệt may. Theo quy định của ATC, quá trình tự do hóa buôn bán các sản

phẩm dệt may sẽ chuyển qua một giai đoạn chuyển tiếp, bắt đầu từ 01/01/1995

và đƣợc thực hiện theo 2 nội dung chính:

Hàng dệt may hội nhập dần dần vào các quy định thông thƣờng của

GATT, quá trình này bao gồm 4 giai đoạn:

+ Ngày 01/01/1995 hội nhập không dƣới 16% khối lƣợng hàng hoá nhập

khẩu theo bản danh mục hàng hoá của Hiệp định.

+ Ngày 01/01/1998 hội nhập không dƣới 17% tiếp theo khối lƣợng hàng

hoá nhập khẩu.

+ Ngày 01/01/2002 hội nhập không dƣới 18% tiếp theo khối lƣợng của

hàng hoá nhập khẩu.

+ Ngày 01/01/2005 tất cả các hàng hoá còn lại phải đƣợc hội nhập, các

hạn chế theo MFA sẽ đƣợc loại bỏ hoàn toàn.

Trong từng giai đoạn, mỗi nƣớc nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản phẩm

nào trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo để đƣa vào danh mục hội nhập.

Các sản phẩm này không nhất thiết phải giống nhau ở các quốc gia nhập khẩu.

Thông thƣờng các sản phẩm đƣợc lựa chọn thƣờng là các sản phẩm ít nhạy cảm.

Bên cạnh đó, thời gian trƣớc khi ATC có hiệu lực hoàn toàn cũng nhƣ đối

- 82 -

với các quốc gia chƣa là thành viên của WTO thì tốc độ gia tăng hạn ngạch đối

với các sản phẩm còn bị hạn chế là rất lớn. Hiệp định đƣa ra một cách thức gia

tăng tốc độ tăng trƣởng hạn ngạch đối với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các

thoả thuận song phƣơng trƣớc đây của MFA. Trong giai đoạn 1 (từ 1995 đến

hết 1997) đối với mỗi hạn chế song phƣơng, mức tăng trƣởng hạn ngạch sẽ

không dƣới 16%, là mức cao hơn so với mức gia tăng theo MFA. Trong giai

đoạn 2 (từ 1998 đến hết 2001), mức tăng trƣởng phải là 25%, cao hơn mức tăng

ở giai đoạn 1. Giai đoạn 3 (từ 2002 đến hết 2004) mức tăng trƣởng phải là 27%

cao hơn mức tăng trƣởng ở giai đoạn 2.

Các hạn chế không phải của MFA và không đƣợc điều chỉnh theo GATT

phải đƣợc đƣa vào để phù hợp với GATT hoặc bị loại bỏ luỹ tiến trong một thời

hạn không vƣợt quá thời hạn của Hiệp định, tức là vào năm 2005. Trong thời kỳ

chuyển đổi, Hiệp định cũng cho phép các nƣớc thành viên có thể áp dụng các

biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm chƣa chịu sự điều tiết của Hiệp

định. Tuy nhiên, cần phải chứng minh rằng các sản phẩm này đang đƣợc nhập

khẩu với khối lƣợng lớn làm thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ làm thiệt hại các

sản phẩm tƣơng tự ở trong nƣớc.

Theo Hiệp định hàng Dệt may (ATC) ký tại vòng đàm phán thƣơng mại đa

biên tháng 4/1994 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho Hiệp định đa sợi

(MFA) thì đến ngày 01 tháng 1 năm 2005, tất cả hàng dệt may phải đƣợc hoà

nhập trở lại theo những nguyên tắc thƣơng mại thông thƣờng của WTO. Nhƣ

vậy, hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ cũng nhƣ các quốc gia phát triển thuộc

WTO khác sẽ đƣợc loại bỏ đối với các quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may là

thành viên WTO và thuế trung bình sẽ giảm (9% ở thị trƣờng Mỹ). Đây là một

thách thức lớn đối với các quốc gia xuất khẩu sản phẩm dệt may chƣa là thành

viên WTO (trong đó có Việt Nam).

Hiện nay, các quốc gia thành viên WTO đã hội nhập hoàn toàn về thƣơng

mại dệt may từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 và Việt Nam cũng đang đứng trƣớc

sức ép phải hội nhập hoàn toàn vào Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á

(AFTA). Cùng với xu thế hội nhập sâu rộng trong tiến trình khu vực hóa và

- 83 -

toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới đang đẩy mạnh các cuộc đàm phán song

và đa phƣơng để ký kết các hiện định thƣơng mại tự do nhằm tăng cƣờng các

quan hệ song và đa phƣơng... Điều này đã cho phép các quốc gia thâm nhập

mạnh hơn vào thị trƣờng của nhau nên các quốc gia có ƣu thế về mỗi chủng loại

hàng hóa có khả năng xâm nhập và chiếm lĩnh thị phần ở các quốc gia khác.

Đối với hàng dệt may xuất khẩu, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Banglades... là

những quốc gia có nhiều cơ hội để mở rộng thị phần xuất khẩu các sản phẩm

này.

Sự chuyển dịch căn bản của thị trƣờng hàng dệt may sẽ có tác động đáng

kể tới xuất khẩu của nhiều nƣớc đang phát triển và các nền kinh tế đang trong

thời kỳ chuyển đổi, đặc biệt là các quốc gia phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu

hàng may mặc. Các nƣớc nhƣ Campuchia với thị phần hàng dệt may chiếm tới

85% trong tổng cơ cấu hàng xuất khẩu, Bangladesh (chiếm 75%) và Nepal

(chiếm 40%) cần phải rất cố gắng để ít nhất giữ đƣợc thị phần của mình trên thị

trƣờng thế giới nếu không sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp gia tăng

cũng nhƣ phải đối mặt với các tác động xã hội sâu sắc hơn. Trên thực tế các

nƣớc đang phát triển dễ phải gánh chịu những tổn thất to lớn trƣớc quá trình tự

do hoá thị trƣờng hàng dệt may nếu không chuẩn bị tốt cho những thay đổi về

thị trƣờng và môi trƣờng kinh doanh dự kiến. Thay vì giành đƣợc các thị trƣờng

xuất khẩu mới nhƣ đã hy vọng sau các thoả thuận của vòng đàm phán Uruguay,

nhiều nƣớc lại có nguy cơ mất đi các thị trƣờng hiện nay. Những mất mát này

lại sẽ làm mất đi niềm tin vào các cam kết của chƣơng trình phát triển Doha. Do

vậy, các nƣớc và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần phải có sự

chuẩn bị cho một thực tế mới trong buôn bán quốc tế về hàng dệt may.

Theo các nhà phân tích, có thể có một số nhân tố tác động tới những ngƣời

tham gia thị trƣờng này khi hệ thống hạn ngạch đƣợc dỡ bỏ. Dƣới đây là 3 nhân

tố quan trọng:

+ Việc sử dụng hạn ngạch: Các nƣớc đã sử dụng hết các hạn ngạch của

mình trong những năm trƣớc năm 2005 có thể sẽ tăng đƣợc lƣợng hàng dệt may

xuất khẩu sau ngƣỡng 2005. Các nƣớc không thể sử dụng hết hạn ngạch hiện

- 84 -

nay thì không thể có lợi từ việc mở cửa thị trƣờng. Do vậy quá trình giám sát

việc triển khai hạn ngạch là một vấn đề quan trọng. Do chỉ còn Canada, EU và

Hoa Kỳ là đang tiếp tục áp dụng hạn ngạch nên các nƣớc đang thực hiện theo hệ

thống này cần phải theo sát việc thực thi hạn ngạch.

+ Khai thác các mặt hàng không bị hạn ngạch: Sau giai đoạn thứ ba của

Hiệp định hàng dệt may vào tháng 01/2002 thì thị trƣờng hàng dệt may thế giới

đã bắt đầu có sự thay đổi thông qua việc bãi bỏ hạn ngạch đối với một số chủng

loại sản phẩm, điều này đã tạo tiền đề cho sự phát triển trong tƣơng lai. Bắt đầu

từ năm 2002, Hoa Kỳ đã đƣa 7 chủng loại sản phẩm hàng dệt may vào điều chỉnh

theo quy định của WTO, theo đó bãi bỏ hạn ngạch cho các chủng loại này và đã

tạo ra một sự thay đổi mạnh mẽ trong buôn bán hàng dệt may. Trong tất cả các

chủng loại đƣợc dỡ bỏ hạn ngạch, Trung Quốc là nƣớc đã tận dụng cơ hội này để

tăng mạnh xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ hiệu quả nhất và một số chủng loại

đã tăng tới vài trăm phần trăm. Trong khi các nƣớc khác chỉ tăng xuất khẩu đối

với một số chủng loại thì chỉ có Trung Quốc là tăng tất cả các chủng loại, nguyên

nhân chủ yếu là do sự suy yếu của các nƣớc cung cấp khu vực Trung Mỹ và

Caribe, khiến cho một số nhà sản xuất nhỏ mất thị phần của mình.

+ Xuất khẩu với số lượng lớn: Các nƣớc đang phát triển không chịu ảnh

hƣởng của những hạn chế về hạn ngạch sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt mà

trƣớc đó họ chƣa từng gặp phải. Đó là khả năng đáp ứng những đơn hàng với số

lƣợng lớn trong một thời gian ngắn. Đối với các nƣớc đang phát triển mà số

lƣợng hàng xuất khẩu hiện không đáng kể, đây sẽ là một vấn đề khó khăn hơn

khi những nƣớc này tham gia hay giữ thị phần của mình trên thị trƣờng thế giới

mà tiêu chí sản xuất với số lƣợng lớn sẽ trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Các nhà

nhập khẩu quốc tế lớn không thể mua hàng từ một nƣớc mà chỉ có một vài công

ty sản xuất để đáp ứng cho thị trƣờng quốc tế. Đây là một trong những lý do

khiến xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc đang tăng trƣởng đến "chóng mặt"

kể từ đầu năm 2005.

Trƣớc khi chế độ hạn ngạch dệt may đƣợc xoá bỏ, các quốc gia đã lƣờng

trƣớc những khó khăn khi phải đối mặt với cƣờng quốc dệt may Trung Quốc.

- 85 -

Tuy nhiên những con số từ đầu năm 2005 tới nay cho thấy, thực tế còn đáng lo

ngại hơn nhiều so với những phỏng đoán ban đầu. Đối với EU, một số mặt hàng

dệt may của Trung Quốc xuất sang tăng nhanh ngoài sức tƣởng tƣợng. Tính

riêng trong tháng 1-2005, xuất khẩu của Trung Quốc sang EU15 đã tăng tới

47% so với cùng kì năm trƣớc. Trong khi đó, tại Mỹ, số liệu trong tháng 2 và 3

cho thấy, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc tăng 63% so với

cùng kì. Chỉ tính riêng tháng 1, xuất khẩu dệt may Trung Quốc sang Mỹ đạt 1.4

tỷ USD, tăng tới 65.26%. Tính chung 3 tháng đầu năm, Trung Quốc đã xuất

khoảng 84.48 triệu áo sơ mi chất liệu cotton sang Mỹ. Ngoài những thị trƣờng

quan trọng kể trên, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào các quốc gia

và khu vực khác cũng tăng khá: sang Thổ Nhĩ Kì tăng 78.9%, Nhật Bản 11.9%,

và Hồng Kông 18.26%).

Do việc hội nhập hoàn toàn của hàng dệt may thế giới theo Hiệp định thuế

quan và mậu dịch của WTO nên sẽ có những thách thức mới, nhƣ:

Phải cạnh tranh ở các thị trường tiêu thụ đang nổi lên: Thƣơng mại sẽ

không còn bị điều chỉnh bởi các hạn chế về số lƣợng và do vậy một thị trƣờng

rộng lớn và ngày một phát triển đang mở ra trƣớc mắt các nhà xuất khẩu. Bên

cạnh các thị trƣờng Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, nơi cạnh tranh ngày càng

trở nên gay gắt và mức tăng xuất khẩu giảm xuống lại nổi lên các thị trƣờng

mới ở những nƣớc Đông Nam Á có mức thu nhập cao hơn cũng nhƣ các nhóm

ngƣời tiêu dùng với mức thu nhập cao và trung bình tại các quốc gia lớn đang

phát triển. Những thị trƣờng mới này sẽ trở thành những mục tiêu quan trọng

cho các nhà sản xuất hàng dệt may trong tƣơng lai.

Khả năng bị mất các thị trường tiêu thụ: Trƣớc mắt, châu Âu và Bắc Mỹ

vẫn là các thị trƣờng tiêu thụ hàng dệt may quan trọng nhất, chiếm 2/3 trong

tổng lƣợng nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Tuy nhiên, khi hệ thống

hạn ngạch đƣợc bãi bỏ, nhiều nƣớc xuất khẩu nhỏ sẽ bị mất các thị trƣờng này.

Nghiên cứu của Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ tại Hội nghị hàng dệt may tổ chức tại

Caucus cho thấy các thị trƣờng lớn sẽ giảm một nửa số lƣợng nhà cung cấp vào

năm 2005-2006 và giảm 1/3 vào năm 2010. Và thách thức đặt ra là làm thế nào

- 86 -

để tiếp tục trở thành nguồn cung cấp cho các thị trƣờng nhập khẩu lớn này.

Giá tiếp tục giảm: Giá hàng dệt may nhập khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ liên

tục giảm kể từ năm 1996 và xu hƣớng này cũng diễn ra tƣơng tự trên các thị

trƣờng Châu Âu, Nhật Bản và nhiều thị trƣờng khác. Trong bối cảnh lƣợng cung

dƣ thừa, thị trƣờng mở cửa thì giá hàng dệt may trong tƣơng lai có thể vẫn tiếp

tục giảm và do vậy sẽ ảnh hƣởng tới giá trị xuất khẩu của các nƣớc đang phát

triển.

Các mối quan hệ về thương mại giữa các quốc gia trở nên phức tạp hơn:

Nhằm thích ứng với Hiệp định về hàng dệt may, nhiều nƣớc nhập khẩu lớn đã

dành các điều khoản nhân nhƣợng đặc biệt với các lợi thế ƣu đãi cho một số

nƣớc. Xu thế này đã dẫn tới một sự phân chia theo khu vực trong hoạt động buôn

bán hàng dệt may và tạo ra một sự gắn kết phức tạp giữa các hiệp định thƣơng

mại quốc tế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có

quy mô vừa và nhỏ ở các nƣớc đang phát triển khó xác định đƣợc lợi thế cạnh

tranh của mình so với các đối thủ khác. Khi hạn ngạch bị bãi bỏ sẽ có nhiều điều

khoản nhân nhƣợng hơn và buôn bán hàng dệt may sẽ trở nên phức tạp hơn.

- Các hình thức bảo hộ mậu dịch truyền thống đang dần được rỡ bỏ nhưng

các hình thức bảo hộ mới đang ngày càng được áp dụng nhiều hơn.

Một đặc trƣng nổi bật của thị trƣờng dệt may hiện nay là đƣợc bảo hộ chặt

chẽ ở hầu hết các nƣớc trên thế giới bằng những chính sách thể chế đặc biệt.

Trƣớc khi Hiệp định về hàng dệt may- kết quả quan trọng của Vòng đàm phán

Uruguay ra đời và có hiệu lực, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may

đƣợc điều chỉnh theo những thể chế thƣơng mại đã có. Theo đó, phần lớn các

nƣớc nhập khẩu thiết lập các hạn chế đối với nhập khẩu hàng dệt may. Mức

thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may cũng cao hơn so với các hàng hoá công

nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nƣớc nhập khẩu còn đề ra những qui định riêng

đối với hàng dệt may nhập khẩu. Những thể chế nhằm bảo hộ sản xuất hàng dệt

may của mỗi nƣớc và hạn chế nhập khẩu này đã chi phối thị trƣờng hàng dệt

may trên thế giới, ảnh hƣởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may

- 87 -

trên quy mô toàn cầu.

Thị trƣờng EU15 là một minh chứng điển hình: Là một thị trƣờng rộng lớn

và đầy tiềm năng. Với 375 triệu dân, mức thu nhập bình quân đầu ngƣời cao thì

đây là thị trƣờng lý tƣởng tiêu thụ hàng dệt may nói riêng và các mặt hàng khác

nói chung. Song, nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 2, đây cũng là một thị trƣờng có

những điều kiện về kiểm soát, tiêu chuẩn, chất lƣợng... rất là khó khăn đối với

hàng nhập khẩu. Cùng với đó là thị hiếu ngƣời tiêu dùng của thị trƣờng này

cũng khá khó tính, có chọn lọc đặc biệt với hàng dệt may. Đây là ngành mà EU

có xu hƣớng chuyển dần sang các khu vực khác, nên thị trƣờng này đang có xu

hƣớng nhập khẩu hàng dệt may và hàng may mặc. Các nhà nhập khẩu Châu Âu

luôn tìm kiếm những thị trƣờng rẻ nhƣng phải đẹp. Họ luôn cố hạ giá thành sản

phẩm tới mức thấp nhất tại nơi cơ sở đặt gia công. Chính vì vậy mà cùng với

trao Quy chế tối huệ quốc EU đã tăng 40-50% quota hàng dệt may và may mặc

cho Việt Nam do giá thành ở Việt Nam rẻ hơn ở những nơi khác, đồng thời vẫn

đảm bảo chất lƣợng mà họ yêu cầu.

Sau khi ACT có hiệu lực (01 / 01 / 2005) - thời điểm mà các nhà hoạch định

chính sách luôn cho rằng sẽ chấm dứt hoàn toàn các hình thức bảo hộ đối với các

quốc gia trong WTO thì đã xuất hiện những hình thức bảo hộ mới đối với các sản

phẩm dệt may; thậm chí cả hình thức tái áp dụng hạn ngạch đối với một số chủng

loại sản phẩm nhập khẩu của một số quốc gia cũng đƣợc tính tới. Nhƣ vậy, có

nghĩa là khi mà các thành viên WTO đã chấp nhận mức độ tự do thƣơng mại lớn

hơn cho các sản phẩm dệt may thì cũng là lúc mà các hình thức bảo hộ thƣơng mại

mới lại có thể đƣợc áp dụng đặc biệt ở các quốc gia phát triển.

Thực tế đang cho thấy một xu hƣớng là thuế chống phá giá và thuế đối

kháng được sử dụng nhiều hơn. Cũng nhƣ các sản phẩm khác, sản phẩm dệt

may xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển hiện nay đang phải đối mặt với

nguy cơ bị kiện chống bán phá giá lớn hơn bao giờ hết và kết quả cuối cùng là

các sản phẩm đó có thể không bị áp hạn ngạch nhập khẩu nhƣ trƣớc kia nhƣng

lại phải chiụ một mức thuế rất cao. Số trƣờng hợp bị đánh thuế chống phá giá và

thuế đối kháng gia tăng sẽ là mối đe doạ đối với các nhà xuất khẩu thành công

- 88 -

tại các nƣớc đang phát triển. Việc sử dụng các biện pháp chống phá giá có thể

làm giảm nhanh chóng các lợi ích của tự do hoá thƣơng mại do đây là các biện

pháp không minh bạch và không dự đoán đƣợc. Chỉ với thông báo là có thể t iến

hành điều tra chống phá giá cũng có thể khiến nhà nhập khẩu nƣớc ngoài do dự

trong việc đặt đơn hàng xuất khẩu vì lo ngại rằng trong tƣơng lai hàng nhập

khẩu có thể sẽ phải chịu mức thuế chống phá giá, đây là một biện pháp thƣờng

đƣợc biết đến với tên gọi “hạn chế thƣơng mại”. Mặc dù các nƣớc đang phát

triển đang bày tỏ mối lo ngại về các biện pháp chống phá giá thì những các

ngành công nghiệp của Hoa Kỳ và EU vẫn đang trực tiếp sử dụng các biện pháp

này. Đã có những con số thống kê cho thấy, riêng Trung Quốc, mỗi ngày trung

bình phải đối mặt với khoảng trên 2 vụ kiện chống bán phá giá hàng hóa của

mình tại thị trƣờng Hoa Kỳ. Đối với sản phẩm dệt may, Trung Quốc - EU,

Trung Quốc - Mỹ đang có nguy cơ xẩy ra cuộc chiến thƣơng mại do số lƣợng

xuất khẩu của Trung Quốc vào các thị trƣờng này tăng đột biến; thậm chí cả EU

và Mỹ đều đang tiến hành điều tra chống phá giá đồng thời đe doạ áp dụng lại

hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc...

Cùng với thuế chống phá giá, kiểm tra hải quan sẽ thường xuyên hơn: Các

nhà sản xuất hàng dệt may thƣờng bị các nhân viên hải quan của nƣớc nhập

khẩu kiểm tra ngẫu nhiên các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo không có các hoạt

động chuyển tải. Nếu một công ty không thể cung cấp các thông tin cần thiết,

hải quan sẽ tự động cấm công ty này xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ hoặc

EU. Dự kiến từ năm 2005 “số lần xác minh sản phẩm” sẽ gia tăng. Ngoài ra, các

yêu cầu về tăng cƣờng an ninh kiểm tra hàng nhập khẩu sau sự kiện ngày 11-9-

2001 có thể sẽ có tác động tiêu cực tới xuất khẩu của các nƣớc đang phát triển.

Thêm vào đó, các tiêu chuẩn về đạo đức đang gia tăng: Mối lo ngại về

việc sử dụng lao động trẻ em tại các thị trƣờng lớn đang ngày một lan rộng. Các

tổ chức Phi chính phủ ở Phƣơng Tây, các phƣơng tiện truyền thông và các tổ

chức công đoàn ủng hộ các nhà cung cấp không sử dụng lao động trẻ em thông

qua việc nâng cao nhận thức cho ngƣời tiêu dùng tại các thị trƣờng này. Điều

này đang tạo ra áp lực cho các nhà nhập khẩu nƣớc ngoài khi mua hàng phải

- 89 -

đảm bảo nguồn cung cấp không sử dụng lao động trẻ em. Những quy định về

việc nguồn cung cấp phải đảm bảo tính đạo đức đƣợc áp dụng cho tất cả các nhà

sản xuất ở các nƣớc đang phát triển và thậm chí áp dụng cả đối với các nhà thầu

phụ. Các nhà nhập khẩu lớn trên thế giới đang áp dụng những quy tắc chặt chẽ

này nếu không họ sẽ bị công chúng tẩy chay.

Cuối cùng là, một rào cản thương mại mới - điều kiện môi trường, đạo đức

xã hội: Các nhà sản xuất hàng dệt may từ các nƣớc đang phát triển đang ngày

càng đối mặt với các yêu cầu về môi trƣờng và đạo đức xã hội. Đây hiện đƣợc

coi là một công cụ marketing và các sản phẩm có dán nhãn môi trƣờng thƣờng

dành cho các thị trƣờng phát triển. Tuy nhiên, ngƣời ta lo ngại rằng việc tiếp

cận các thị trƣờng phát triển sẽ bị giảm đáng kể nếu ngƣời tiêu dùng tẩy chay

các loại hàng hoá không dán nhãn sinh thái và do tác động của các chiến dịch

quảng cáo quá khích của các ngành bảo hộ trong nƣớc. Nhìn chung, phải có các

quy định minh bạch hơn nữa để đảm bảo rằng nhãn mác môi trƣờng không phải

là một rào cản mới trên thị trƣờng.

Tóm lại, mặc dù ACT đã có hiệu lực nhƣng không có nghĩa là các sản

phẩm dệt may đƣợc tự do hoàn toàn trong quan hệ trao đổi giữa các nƣớc đang

phát triển (những quốc gia có lợi thế về phát triển sản xuất hƣớng tới xuất khẩu

sản phẩm này) và các nƣớc phát triển (những quốc gia nhập khẩu lớn nhất đối

với sản phẩm dệt may). Các hình thức bảo hộ truyền thống đang dần đƣợc rỡ bỏ

nhƣng các hình thức bảo hộ mới (các hình thức bảo hộ mà các quốc gia đi sau

rất khó áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia đi trƣớc) lại đang đƣợc

áp dụng ngày một rộng rãi hơn. Đây là một thực tế mà mọi quốc gia trên thế

giới phải chấp nhận trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu nói chung

và tham gia WTO nói riêng.

3.1.2. Bối cảnh trong nước.

- Quá trình cổ phần hóa, chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNNN

trong ngành dệt may.

Việc cải cách các DNNN hoạt động trong lĩnh vực dệt may đƣợc tiến hành

thông qua các hình thức, nhƣ: cổ phần hóa các DNNN với cổ phần chi phối

- 90 -

thuộc nhà nƣớc; giải thể hoặc sáp nhập các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả

và chuyển đổi một số công ty theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn

(TNHH) nhà nƣớc một thành viên (bƣớc một của quá trình cổ phần hóa).

Theo VINATEX, yêu cầu của Chính phủ đặt ra cho VINATEX là đến hết

năm 2005, toàn VINATEX sẽ phải cổ phần hóa khoảng 30 đơn vị trực thuộc

bao gồm các công ty, nhƣ: Công ty may Thăng Long, Công ty Cơ khí May Gia

Lâm, Công ty Cơ khí dệt may Hƣng Yên, Công ty May Nam Định... Chỉ tính

riêng 6 tháng cuối năm 2003, Tông công ty đã tiến hành cổ phần hóa đƣợc 9

công ty trực thuộc. Năm 2004, kế hoạch đặt ra cho VINATEX là cổ phần hóa

10 công ty trực thuộc, song do tăng tốc cổ phần hóa nên trong 6 tháng đầu năm

2004, đã có 10 doanh nghiệp hoàn thành quá trình định giá doanh nghiệp và tài

sản; trong đó có hai đơn vị lớn là Công ty May Nhà Bè và Công ty May 10 đã

hoàn tất thủ tục để trở thành công ty cổ phần... Công tác xử lý số lao động dƣ

thừa do quá trình cổ phần hóa là một vấn đề phức tạp nên luôn đƣợc VINATEX

coi trọng thông qua các ƣu đãi nhƣ: đƣợc quyền mua các cổ phần ƣu đãi hoặc

đƣợc đào tạo lại để sắp xếp các công việc phù hợp với năng lực hơn... Theo báo

cáo của VINATEX, chỉ tính riêng Quý I/2004, VINATEX đã giải quyết chế độ

cho hơn 400 lao động dôi dƣ trong quá trình sắp xếp lại các DNNN với tổng

kinh phí 14 triệu Đồng/01 Lao động. Có thể khẳng định rằng, về cơ bản quá

trình cổ phần hóa các doanh nghiệp trực thuộc VINATEX đang diễn ra khá

suôn sẻ và đạt các yêu cầu đặt ra cũng nhƣ đảm bảo quyền lợi cho ngƣời lao động.5

Bên cạnh việc tiến hành cổ phần hóa, việc đổi mới các DNNN ở

VINATEX còn đƣợc tiến hành thông qua chuyển đổi mô hình hoạt động sang

hình thức công ty mẹ, con và công ty TNHH một thành viên. Theo đó, mô hình

công ty mẹ - con sẽ bao gồm các công ty TNHH một thành viên do nhà nƣớc

nắm giữ 100% vốn và các công ty cổ phần, các công ty TNHH từ hai thành viên

trở lên... nhƣng công ty mẹ nắm giữ cổ phần hoặc vốn góp chi phối. Điển hình

trong số các công ty chuyển đổi theo hình thức công ty mẹ, con là Công ty May

- 91 -

Việt Tiến mà bƣớc đầu hoạt động của công ty đã ổn định, đạt hiệu quả cao. Sau 5 Theo: Http//www.Vietnamtext ile.org.vn

Công ty Việt Tiến, sẽ có một số công ty khác thuộc VINATEX đƣợc chuyển

sang hoạt động theo hình thức công ty mẹ, con, nhƣ: Công ty Dệt Phong Phú...

Các công ty đã chuyển đổi thành công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên là

Công ty Dệt 8/3, Công ty Dệt Việt Thắng, Công ty Dệt may Thắng Lợi, Công ty

Tài chính Dệt May, Công ty Dệt kim Đông Xuân, Công ty Bông Việt Nam...

Nhờ đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại các DNNN trong ngành dệt may, nên số

DNNN phải hoàn tất cổ phần hóa trong năm 2005 là 07 doanh nghiệp so với 14

doanh nghiệp theo dự kiến; số doanh nghiệp mà nhà nƣớc còn nắm giữ 100% vốn trong năm 2005 chỉ còn 9 doanh nghiệp6.

Nhƣ vậy, tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp trong ngành dệt may

năm 2004, 2005 đã có nhiều thuận lợi hơn năm 2003 (năm đầu tiên triển khai cổ

phần hóa) do VINATEX đã có những kinh nghiệm ích lũy và thời gian triển

khai cổ phần hóa không bị trói buộc. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện các

thủ tục để cổ phần hóa doanh nghiệp, các ban ngành chức năng đã kịp thời ban

hành các thông tƣ hƣớng dẫn nên quá trình triển khai đƣợc thuận lợi hơn rất

nhiều (Thông tƣ hƣớng dẫn xử lý lỗ phát sinh từ thời điểm xác định giá trị

doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ

phần; Quyết định cho phép các doanh nghiệp kiểm toán, cung cấp các dịch vụ

tài chính có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia vào việc định giá tài sản, xác định

giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa của Bộ Tài chính...).

- Về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong ngành dệt may.

Trong khoảng 15 năm trở lại đây, số lƣợng doanh nghiệp ngoài quốc

doanh trong ngành dệt may đã có sự tăng trƣởng nhanh chóng. Tuy nhiên, do

còn nhiều hạn chế khác nhau (vốn, công nghệ...) nên sự đóng góp của khối

doanh nghiệp này vào tốc độ tăng trƣởng toàn ngành còn rất hạn chế, chƣa

tƣơng xứng với tiềm năng vốn có. Theo các số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt

may Việt Nam, đến hết năm 2001 toàn ngành có khoảng 500 doanh nghiệp

ngoài quốc doanh (40 doanh nghiệp dệt sợi, 460 doanh nghiệp may) và hàng

- 92 -

vạn cơ sở sản xuất nhỏ, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Tuy 6 Theo Báo Nhân Dân ngày 24/02/2005.

nhiên, quy mô của các doanh nghiệp này còn rất nhỏ và đa phần hoạt động

trong lĩnh vực may. Chỉ có khoảng 40% số doanh nghiệp này có từ 400 đến

1000 máy, số còn lại chỉ có từ 100 đến 400 máy may. Hơn thế nữa, phần lớn

các trang thiết bị công nghệ ở thế hệ những năm 80 thậm chí trong các doanh

nghiệp dệt còn xuất hiện hiện tƣợng mua lại các máy đã qua sử dụng mà các

doanh nghiệp quốc doanh thải ra. Hiện tƣợng này đƣợc đánh giá là do quy mô

của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhỏ lại không đƣợc đối xử công bằng

nhƣ các DNNN nên họ ít có điều kiện để đầu tƣ đổi mới công nghệ (đặc biệt

trong lĩnh vực dệt).

Về nguồn nhân lực, phần lớn lao động làm việc trong các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh đều chƣa qua đào tạo, trình độ chuyên môn thấp nên năng

suất lao động không cao kéo theo thu nhập thấp. Đây là nguyên nhân khiến

ngƣời lao động không gắn bó với doanh nghiệp, sẵn sàng bỏ việc nếu tìm đƣợc

một công việc mới có mức thu nhập tƣơng xứng hoặc cao hơn. Bên cạnh đó,

những lao động có tay nghề khá hơn thƣờng tìm cách chuyển sang các doanh

nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc doanh nghiệp quốc doanh có mức thu

nhập cao hơn... Vì vậy, nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp dân doanh nói

chung hay bị xáo trộn, giá trị gia tăng trên mỗi suất lao động thấp.

Những khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và năng lực sản xuất

đang là những hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong

ngành dệt may hiện nay. Bên cạnh những tồn tại nêu trên, các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực dệt may cũng có những thuận lợi nhất

định trong quá trình phát triển, nhƣ: Sự táo bạo trong đầu tƣ đổi mới công nghệ,

phát triển sản xuất ngành dệt của một số các doanh nghiệp dân doanh đã nâng

cao khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng trong nƣớc và khẳng định đƣợc vị

thế trên thị trƣờng quốc tế. Thời gian gần đây, những chuyển biến lớn ở khu vực

kinh tế tƣ nhân hoạt động trong lĩnh vực dệt may đáng đƣợc ghi nhận chính là

những chuyển biến trong đầu tƣ và sự hình thành, phát triển một số công ty có

- 93 -

quy mô lớn nhƣ Công ty Dệt Thái Tuấn, Công ty Dệt Phƣớc Thịnh...

Bên cạnh quá trình cải cách DNNN và sự gia tăng nhanh chóng các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh thì xu thế liên doanh, liên kết, gọi vốn đầu tƣ từ các

quốc gia nhập khẩu đang ngày một gia tăng. Điển hình là những liên doanh với

Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU trong ngành dệt may đang ngày càng nhiều. Đây

là một xu thế đáng đƣợc quan tâm và khuyến khích phát triển.

3.2. Một số dự báo chiến lược, tiềm năng phát triển và quan điểm định

hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam những năm tới

3.2.1. Dự báo đến năm 2005-2010.

Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của nƣớc ta đang đứng trƣớc

những thời cơ và thách thức mới. Đi lên từ một nƣớc nghèo, sau một thời gian

thực hiện chiến lƣợc hƣớng về xuất khẩu thì công nghiệp dệt may xuất khẩu

Việt Nam vẫn đang là một ngành đem lại nhiều lợi thế. Chính vì vậy, sản phẩm

dệt may đƣợc xem là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong sự nghiệp công

nghiệp hoá hiện đại hoá ở nƣớc ta và trong tƣơng lai, đây sẽ là mặt hàng chiếm

tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc (từ năm 2000 đến

nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may luôn đứng thứ hai trong tổng kim

ngạch xuất khẩu của cả nƣớc sau dầu thô). Mặt khác trong Văn kiện Đại hội

Đảng lần thứ IX, khi đề cập đến vấn đề định hƣớng phát triển kinh tế đối ngoại

có nói "Tổng Kim ngạch xuất khẩu cả nƣớc trong 5 năm 2001 - 2005 đạt

khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%. năm. Nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là

15,9%, trong đó nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp

chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng năm 22%".

Đồng thời, Văn kiện đã khẳng định: Chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trƣờng

trong nƣớc, nƣớc ngoài nhờ đầu tƣ vào sản xuất xơ, sợi, nguyên liệu, phụ liệu

để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Với tầm quan trọng nhƣ

trên của ngành dệt may cùng với những chỉ tiêu phát triển công nghiệp, định

hƣớng đẩy mạnh xuất khẩu của văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trong

chiến lƣợc phát triển nghành công nghiệp dệt may nƣớc ta đến năm 2010; Đảng

và Nhà nƣớc ta đã xác định rõ là lấy mục tiêu xuất khẩu làm trọng tâm. Với

mục tiêu đó từ việc phân tích thực trạng, tiềm năng và xu hƣớng phát triển công

- 94 -

nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm tới ngành dệt may Việt Nam đƣa ra

các chỉ tiêu có tính chất định hƣớng phát triển ngành công nghiệp may mặc nhƣ

sau:

- Toàn ngành có mức tăng trƣởng 13%/năm (vào năm 2005) và 14%/năm

(vào năm 2010)

- Tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,5 đến 3 triệu lao động xã hội vào

năm 2005, 4 đến 4.5 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình

quân khoảng 100USD/ngƣời/tháng.

- Nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và

năm 2010 thì tƣơng đƣơng với Hồng Kông và Thái Lan hiện nay.

- Kim ngạch xuất khẩu đạt 5.000 triệu USD năm 2005 và 8.000 triệu USD

năm 2010.

Bảng 19: Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010

Chỉ tiêu

Đơn vị tính Triệu m2 Triệu SP Triệu SP Triệu SP Triệu USD Triệu USD

Năm 2005 1.330 780 510 270 5000 3200

Năm 2010 2000 1200 820 380 8000 6000

STT 1 2 3 4

%

50

75

Vải thành phần Sản phẩm may mặc Xuất khẩu Nội địa Kim ngạch xuất khẩu Hàng may mặc Tỷ lệ nội địa hoá Trên sản phẩm may

Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam

3.2.2. Tiềm năng phát triển.

Với tốc độ phát triển thời gian qua và là thành viên của Khu vực thƣơng

mại tự do ASEAN, thị trƣờng nguyên liệu dệt và may mặc Việt Nam đã đƣa ra

nhiều cơ hội tốt cho các nhà xuất khẩu trang thiết bị công nghệ và các sản phẩm

quan trọng. Hơn thế nữa, thị trƣờng trong nƣớc rất tiềm năng với khoảng trên

80 triệu dân hiện tại và dự báo lên tới 100 triệu vào năm 2010. Theo ƣớc tính,

GDP bình quân đầu ngƣời của Việt Nam sẽ lên tới 600 đến 800 USD/01

ngƣời/01 năm vào năm 2005 và 900 USD đến 1200 USD vào năm 2010. Nhƣ

vậy, nhu cầu đối với sản phẩm tiêu dùng cũng sẽ tăng tƣơng ứng và đạt 250

- 95 -

USD đến 350 USD/01 ngƣời/01 năm vào năm 2005 và 400 USD đến 450 USD

vào năm 2010 (trong đó, 6% đến 8% là chi tiêu cho các sản phẩm dệt may; con

số này sẽ cao hơn nhiều đối với thu nhập của dân chúng tại khu vực thành thị).

Đầu năm 2005, Mỹ đã dỡ bỏ 701 danh mục quota đối với các chủng loại

hàng hóa nhập khẩu là sản phẩm dệt may; Canada và EU cũng dỡ bỏ 239 và

165 hạng mục tƣơng ứng nên sẽ có tác động mạnh đến ngành công nghiệp dệt

may Việt Nam (vì phải chống lại các đối thủ cạnh tranh lớn nhƣ Trung Quốc,

Ấn Độ, Banglades...). Bên cạnh đó, các nhà sản xuất trong nƣớc cũng gặp rất

nhiều khó khăn trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.

Nếu trở thành thành viên của WTO (trong cuối năm 2005 hoặc nửa đầu

năm 2006), các doanh nghiệp trong nƣớc bao gồm cả các nhà sản xuất dệt may

sẽ là đối tƣợng chính phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh hơn nữa. Nếu Việt Nam

vẫn chƣa trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp trong

nƣớc sẽ buộc phải xin quota cho các sản phẩm xuất khẩu đồng thời với việc

đàm phán các trách nhiệm nhập khẩu hàng hóa... Thậm chí, các doanh nghiệp

Việt Nam còn đứng trƣớc nguy cơ bị loại khỏi các nhà cung cấp hàng dệt may

cho các quốc gia nhập khẩu trong WTO. Tuy nhiên, khả năng này rất khó xảy

ra.

Với chính sách đẩy mạnh tiến độ đầu tƣ của Chính phủ Việt Nam, các

công ty sản xuất nguyên liệu dệt đã thay thế (hoặc nâng cấp) phần lớn các thiết

bị lạc hậu của mình để đầu tƣ vào các thiết bị hiện đại đƣợc sản xuất tại EU

hoặc Nhật Bản (kết hợp với các trang thiết bị hiện đại ở công đoạn nhuộm, in ấn

và hoàn thiện). Các doanh nghiệp dệt may đã tập trung đầu tƣ vào các dòng sản

phẩm mới cùng các trang thiết bị hiện đại để cho ra đời sản phẩm có chất lƣợng

cao, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng thế giới. Đồng thời với nó, các doanh

nghiệp cũng đang từng bƣớc trú trọng đầu tƣ vào các hạng mục để hoàn thiện

theo các tiêu chuẩn ISO 14000 và SA 8000 cho các sản phẩm xuất khẩu (xử lý

nƣớc thải và các vấn đề liên quan đến môi trƣờng...). Bên cạnh đó, các doanh

nghiệp dệt may đã nhận thức đƣợc vấn đề bản quyền và thƣơng hiệu nên đang

nỗ lực đầu tƣ để hình thành, củng cố và phát triển các thƣơng hiệu của mình

(May 10, Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, Việt Thắng...). Hơn thế nữa, bên

- 96 -

cạnh việc đẩy mạnh đầu tƣ vốn, Chính phủ đang khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tƣ vào công tác đào tạo để phát triển nguồn nhân lực phù hợp với

những đòi hỏi của tình hình mới.

3.2.3. Một số quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam

trong những năm tới.

- Về định hướng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành.

Các chiến lƣợc, kế hoạch phát triển toàn ngành cần xác định giới hạn thời

gian cụ thể (ngắn, trung, dài hạn) để các giải pháp có tính khả thi hơn. Rõ ràng

là, đối với các chiến lƣợc và kế hoạch phát triển ngắn hạn, các giải pháp đƣợc

đề xuất có thể bao gồm rất nhiều đối sách - những giải pháp chỉ thích hợp trong

ngắn hạn, phù hợp với những biến đổi trƣớc mắt của tình hình chung. Trong khi

đó, các chiến lƣợc, kế hoạch trung và dài hạn lại bao gồm các dự báo về sự phát

triển, biến đổi của môi trƣờng xung quanh có tác động tới sự phát triển ngành

nên những giải pháp đƣa ra nhất thiết cần tính tới những biến đổi đó và đặc biệt

là tính đúng đắn, mức độ phù hợp của mỗi giải pháp lại phụ thuộc vào mức độ

sát thực của các dự báo trong chiến lƣợc... Khó có thể có một hay nhiều giải

pháp đúng đắn, thích hợp cho mọi chiến lƣợc, kế hoạch phát triển một ngành

đối với cả ngắn, trung và dài hạn. Điều này trở nên cần thiết hơn đối với các sản

phẩm dệt may xuất khẩu vì những đặc điểm của mặt hàng này (tính thị hiếu,

thời trang và chu kỳ sống của sản phẩm...).

Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi doanh

nghiệp đã và đang chủ động xây dựng cho mình chiến lƣợc phát triển thích hợp.

Đối với các doanh nghiệp dệt may hiện nay, một chiến lƣợc hợp lý phải bao

gồm một số định hƣớng lớn, nhƣ: Chuyển từ cạnh tranh đơn thuần dựa trên lợi

thế giá nhân công thấp sang cạnh tranh bằng giá trị gia tăng và đổi mới, nâng

cao chất lƣợng dịch vụ. Tập trung, chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra các sản

phẩm có chất lƣợng và tính năng vƣợt trội để có thể đáp ứng nhu cầu thƣờng

xuyên biến đổi và rất đa dạng của thị trƣờng... Chú trọng việc tạo dựng và phát

triển uy tín doanh nghiệp và thƣơng hiệu sản phẩm; tăng cƣờng khả năng đáp

ứng nhanh, khả năng sản xuất các lô hàng nhỏ và các lô hàng yêu cầu thời gian

giao hàng ngắn...

- 97 -

- Thị trường trong nước là nền tảng vững chắc cho thị trường xuất khẩu.

Để hội nhập quốc tế (theo nghĩa tham gia cạnh tranh bình đẳng trên thị

trƣờng thế giới) thì trƣớc hết thị trƣờng trong nƣớc cũng phải mang tính cạnh

tranh cao (phải minh bạch, công bằng...). Trong môi trƣờng cạnh tranh bình

đẳng, một mặt hàng không chiếm đƣợc ƣu thế tại thị trƣờng trong nƣớc rất khó

có khả năng chiếm lĩnh thị phần ở thị trƣờng ngoài nƣớc vì: Thị trƣờng nội địa

là nơi các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc triển khai các hoạt động

marketing, xúc tiến thƣơng mại với chi phí thấp; giá cả hàng hóa sẽ thấp hơn do

không phải chịu các loại thuế quan xuất, nhập khẩu... - những khó khăn mà

hàng hóa xuất khẩu sẽ phải đƣơng đầu. Trong điều kiện nhƣ vậy, nếu các sản

phẩm không khẳng định đƣợc ƣu thế tại thị trƣờng trong nƣớc thì khả năng cạnh

tranh của sản phẩm ấy là hạn chế hoặc môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc chƣa

thật sự bình đẳng. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đa phần

thuộc các doanh nghiệp nhƣng việc tạo dựng môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh

trong nƣớc lại là một yêu cầu đối với các nhà hoạch định chính sách.

- Về việc xác định lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Với ngắn hạn và trung hạn, Việt Nam có thể có lợi thế tƣơng đối trong cạnh

tranh do lao động rẻ mang lại nhƣng về lâu dài phải có khả năng cạnh tranh bằng

giá trị gia tăng trong sản phẩm. Nhƣ vậy mới có khả năng sản xuất ra các sản

phẩm với chi phí thấp và chất lƣợng cạnh tranh đƣợc. Rõ ràng là, lợi thế có đƣợc

do giá nhân công thấp mang lại đang giảm dần và sẽ mất đi khi các nƣớc kém

phát triển hơn tham gia vào thị trƣờng. Hơn thế nữa, tỷ lệ mà giá nhân công

chiếm trong mỗi đơn vị sản phẩm đang có xu hƣớng giảm dần do tốc độ phát

triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, mức độ lành nghề của công nhân

ngày càng cao làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng... Hơn thế nữa,

sự gia nhập thị trƣờng của các nƣớc kém phát triển sẽ làm cho các quốc gia đang

phát triển mất đi lợi thế này (điều đã xảy ra đối với các nƣớc phát triển hiện nay).

- Nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm là yêu cầu

cần thiết đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

Hiện nay, "giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm xuất khẩu của ngành

- 98 -

dệt may Việt Nam chỉ đạt khoảng 20% và có tới 80% giá trị gia tăng còn lại nằm

trong hàng nhập khẩu"7. Đây là một hạn chế trong phát triển ngành... Trong điều kiện thị trƣờng gần nhƣ đã bão hòa về nguồn cung cấp nhƣ hiện nay, những bƣớc

tiến hợp lý mang tính sáng tạo trong đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp, tổ

chức lại sản xuất để tăng cƣờng năng lực sản xuất ở các khâu then chốt, tạo lợi

thế cạnh tranh sẽ trở thành động lực mạnh mẽ giúp doanh nghiệp thành công trên

con đƣờng phát triển của mình. Đây chính là những cải cách cần thiết để nâng

cao hàm lƣợng giá trị gia tăng của các doanh nghiệp dệt may hiện nay.

Các doanh nghiệp may xuất khẩu cần mạnh dạn tiếp cận và từng bƣớc

chuyển đổi phƣơng thức kinh doanh từ sản xuất gia công xuất khẩu nhƣ hiện

nay sang phƣơng thức xuất khẩu trực tiếp. Yếu tố có thể giúp Việt Nam cũng

nhƣ các quốc gia đang phát triển khác có thể có đƣợc lợi thế tƣơng đối chính là

vấn đề nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Để có thể nâng cao giá

trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu nhất thiết phải thông qua việc áp dụng các

công nghệ hiện đại, nâng cao hàm lƣợng "chất xám" trong mỗi sản phẩm, đẩy

mạnh công tác thiết kế mẫu mốt thời trang, tăng cƣờng đội ngũ tiếp thị, tổ chức

lại sản xuất thích ứng với yêu cầu kinh doanh mới cũng nhƣ chấp nhận san sẻ

rủi ro đối với các nhà phân phối (xuất khẩu theo hình thức FOB)...

Các doanh nghiệp dệt cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thiết kế để có

thể sản xuất đa dạng các chủng loại vải chất lƣợng cao; trƣớc mắt cần tập trung

vào khâu nhuộm - hoàn tất. Đổi mới phƣơng thức quản lý một cách khoa học,

nâng cao năng suất lao động, hiệu quả và giảm chi phí sản xuất; tăng cƣờng khả

năng cung cấp và hoàn thiện chất lƣợng dịch vụ (rút ngắn thời gian giao hàng,

giao hàng đúng tiến độ, đúng mầu sắc, đúng chất lƣợng, linh hoạt trong việc sản

xuất các đơn hàng nhỏ, đa dạng...) là những nhân tố quyết định tới sự thành

công hay thất bại của các doanh nghiệp dệt hiện nay.

3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh

xuất khẩu cho sản phẩm dệt may Việt Nam

Trƣớc khi tiến hành đổi mới, quan hệ thƣơng mại nƣớc ta chỉ gói gọn

trong khối các quốc gia Xã hội chủ nghĩa trƣớc đây; hoạt động xuất nhập khẩu

nói chung và xuất nhập khẩu sản phẩm dệt may nói riêng đƣợc thực hiện theo

- 99 -

kế hoạch trong các Nghị định thƣ trao đổi giữa các chính phủ. Từ sau 1986 (đặc 7 Theo Bản Tin Kinh tế Đài BBC ngày 16/ 05/ 2005 - 14h 30' GM T

biệt là từ những năm 1990 trở lại đây), hoạt động thƣơng mại của Việt Nam đã

phát triển cả về chủng loại hàng hóa và thị trƣờng; kim ngạch xuất khẩu không

ngừng gia tăng... trong đó có đóng góp đáng kể của ngành dệt may xuất khẩu -

ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Để có đƣợc

những thành công đó, bên cạnh sự hỗ trợ to lớn của Chính phủ và các bộ ban,

ngành thì những nỗ lực của ngành dệt may là rất đáng ghi nhận (nhất là ngành

may). Tuy nhiên, để có thể duy trì và phát triển thị phần hàng hóa tại các thị

trƣờng cũng nhƣ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong thời gian tới thì

ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để khai thác

hiệu quả các hỗ trợ từ phía Chính phủ và tiềm năng vốn có của ngành.

Khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành không thể đảo ngƣợc thì

việc lựa chọn và định hƣớng đầu tƣ đúng, có hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết

không chỉ đối với ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam. Đón nhận thời cơ đồng

thời hạn chế thách thức, ngành dệt may Việt Nam cần phải có những bƣớc đi và

giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Cạnh tranh gay gắt song

không có nghĩa là không dám cạnh tranh, đây là một bài toán khó đối với toàn

ngành (đặc biệt trong bối cảnh đang phải đƣơng đầu với những đối thủ trên sức

mình trong lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trƣờng trong và ngoài nƣớc). Trong

khuôn khổ luận văn này, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp thuộc hai

nhóm giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may

xuất khẩu Việt Nam sau đây xin đƣợc đi sâu vào các kiến nghị ở cấp vĩ mô:

3.3.1. Những giải pháp từ phía Chính phủ.

- Hoàn thiện môi trường kinh tế, pháp luật và triển khai các cơ chế, chính

sách phát triển ngành dệt may.

+ Về công tác làm luật và thực hiện các cơ chế chính sách phát triển ngành:

Chính Phủ nghiên cứu trình Quốc hội tiếp tục điều chỉnh các luật và văn

bản dƣới luật liên quan đến môi trƣờng kinh doanh để tạo thuận lợi hơn nữa cho

các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên trƣờng

quốc tế. Chính phủ thành lập Uỷ ban Liên Bộ do Bộ Công nghiệp chủ trì gồm

đại diện các Bộ: Thƣơng mại, Kế hoạch và đầu tƣ, Tài chính (Tổng cục Hải

- 100 -

quan), Lao động thƣơng binh và xã hội và Hiệp hội Dệt may Việt Nam,

VINATEX hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm để thống nhất chỉ đạo việc thực

hiện các cơ chế, chính sách phát triển ngành dệt may.

Đối với Luật Lao động hiện hành cần đƣợc sửa đổi đối với ngành may để

tăng giờ làm việc nhằm đáp ứng tốt hơn thời gian giao hàng vì ngành may là

một ngành kinh tế mang tính thời vụ cao do các đơn hàng tập trung hầu hết vào

thời gian từ tháng 4 đến tháng 10. Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp đã phải

tăng giờ làm việc từ 400 đến 600 giờ/01 năm. Trong khi đó, Luật Lao động có

ghi: "các doanh nghiệp không đƣợc phép tăng ca quá 200 giờ/01 năm" - Điều

69. Đây là quy định pháp luật mà hầu hết các doanh nghiệp may từ doanh

nghiệp có quy mô lớn nhất tới các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhất không thể

thực hiện đƣợc trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, đề nghị Chính phủ giao cho Bộ

Lao động, thƣơng binh và xã hội soạn thảo trình Quốc hội xem xét sửa đổi điều

khoản này quy định cho ngành may đƣợc phép làm thêm 400 giờ/01 năm thay

vì 200 giờ/01 năm và loại bỏ phần thu lệ phí công đoàn 2% trên tổng số lƣơng

thực trả nhƣ hiện nay. Bên cạnh đó, kiến nghị Chính phủ nên giảm thuế đối với

các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ theo Điều 110 của Luật Lao động

hiện hành quy định.

+ Về hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu sản phẩm dệt may (nhập khẩu

nguyên, phụ liệu và xuất khẩu thành phẩm).

(1) Cần đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên, phụ liệu, nhập hàng mẫu,

nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu; các thủ tục này hiện

vẫn còn rƣờm rà, mất nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn, gây không ít khó

khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là với các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời

gian giao hàng ngắn.

(2) Đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết

cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhƣng có

các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao và chức năng khác nhau

vẫn đƣợc áp dụng cùng một mức thuế đã gây ra nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp.

(3) Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên,

phụ liệu cho các doanh nghiệp may xuất khẩu. Đồng thời tính phần “xuất khẩu

tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu qui định tại giấy phép đầu tƣ, giảm

- 101 -

khó khăn của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong việc thực hiện quy

định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chƣa ổn định. Cho phép

doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu tƣ vào

sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về.

(4) Xem xét giảm thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nƣớc

chƣa sản xuất đƣợc (đặc biệt là hóa chất phục vụ cho ngành may) đồng thời với

tập trung nghiên cứu, đầu tƣ sản xuất dần thay thế hàng nhâp khẩu. Phần lớn số

hóa chất phục vụ ngành dệt may hiện nay là nhập khẩu nên giá thành còn rất

cao so với các đối thủ cạnh tranh. Một trong các nguyên nhân khiến giá cả các

hóa chất này cao hơn so với các quốc gia trong khu vực là do thuế nhập khẩu

đang áp mức từ 20% đến 50% giá trị mà không phân biệt mục đích nhập khẩu.

(5) Cải tiến cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hƣớng khuyến khích doanh

nghiệp tìm thị trƣờng phi hạn ngạch và hình thành cơ chế chuyển nhƣợng quota

hợp lý để tránh tình trạng nơi thiếu năng lực sản xuất thì thƣa quota và ngƣợc

lại; khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nƣớc thông qua nâng tỷ lệ hạn

ngạch phân bổ theo hình thức thƣởng và ƣu tiên cấp đủ hạn ngạch cho các

doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nƣớc (tƣơng ứng

với phần nguyên liệu đƣợc sử dụng). Đồng thời với việc sử dụng quỹ thƣởng

xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu và

tìm thị trƣờng xuất khẩu mới.

- Có biện pháp thích hợp khuyến khích phát triển các ngành phụ trợ của

ngành dệt may.

+ Có quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi tự nhiên cho

ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tƣ phát triển ngành nguyên liệu

cho sự phát triển ổn định của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành

và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc

nhuộm và sản xuất sợi hoá chất khác cho ngành dệt.

Khâu yếu nhất hiện nay của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất vải và

nguyên, phụ liệu phục vụ cho may xuất khẩu, đặc biệt là sản xuất vải dệt thoi -

sản phẩm mà các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam phải nhập khẩu nhiều

nhất. Hiện nay diện tích trồng bông của Việt Nam chỉ đáp ứng đƣợc từ 10% đến

15% nhu cầu nguyên liệu của toàn ngành dệt may. Vì vậy, cần nhanh chóng

- 102 -

phát triển vùng nguyên liệu bông, vùng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa thông qua

các chính sách hỗ trợ cho nông dân về vốn, giống cây, phân bón... cũng nhƣ bao

tiêu toàn bộ 100% sản phẩm với giá cả hợp lý giúp họ đủ khả năng tái sản xuất

và nâng cao mức sống. Mục tiêu đặt ra là trong năm 2005 số diện tích trồng

bông phải đạt 60.000 ha; thu hoạch đƣợc 30.000 tấn bông xơ và đến năm 2010 các chỉ tiêu này tƣơng ứng là 120.000 ha và 80.000 tấn bông xơ. 8 Muốn đạt mục tiêu này, cần triển khai rộng khắp, hiệu quả và đồng bộ phƣơng thức bốn nhà

(nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nƣớc) trong việc phát triển

diện tích vùng nguyên liệu, hoàn thiện quy trình sản xuất thao hƣớng khoa học -

công nghệ hóa và nâng cao năng suất lao động.

+ Hình thành các trung tâm ("chợ") cung ứng nguyên, phụ liệu cho ngành

dệt may tại các khu vực có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may

(tam giác: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng; Hà Nội và các tỉnh

lân cận; Đà Nẵng...). Có thể khẳng định rằng, một trong các nguyên nhân cơ bản

khiến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dệt may xuất khẩu hiện nay thua

kém các quốc gia khác là do chúng ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên, phụ

liệu nhập khẩu. Trong khi đó, chất lƣợng, nguồn cung ứng nguyên, phụ liệu cho

ngành lại rất khó quản lý. Thực trạng này đã tác động mạnh tới chất lƣợng sản

phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu và đặc biệt là tính kém chủ động trong quá

trình sản xuất. Vì vậy, sự ra đời của các trung tâm nguyên, phụ liệu sẽ đáp ứng

đƣợc nhu cầu của nhiều nhà sản xuất hiện nay. Việc hình thành các trung tâm

nguyên, phụ liệu không chỉ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tìm

kiếm nguồn nguyên, phụ liệu ổn định, chất lƣợng đảm bảo mà còn giúp các

doanh nghiệp nâng cao giá trị xuất khẩu; giới thiệu các chủng loại nguyên, phụ

liệu mà các doanh nghiệp trong nƣớc đã sản xuất đƣợc với chất lƣợng đáp ứng

yêu cầu đặt ra và giá cả hợp lý hơn để chúng từng bƣớc thay thế nguyên, phụ liệu

nhập khẩu. Hơn thế nữa, các trung tâm nguyên, phụ liệu dệt may sẽ giúp hình

thành chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất cùng ngành hàng để có thể đáp ứng

những đơn hàng rất lớn theo yêu cầu của đối tác... Về mặt chất lƣợng nguyên,

phụ liệu cũng đƣợc đảm bảo hơn do phải thông qua kiểm tra chất lƣợng trƣớc khi

8 Theo Quyết định số 55/2001-TTg, ngày 23/ 04/2001 của Thủ Tƣớng Chính Phủ.

- 103 -

đƣa vào tiêu thụ... Bên cạnh đó, việc thành lập trung tâm nguyên, phụ liệu dệt

may sẽ góp phần kích thích tăng trƣởng cả cung và cầu về sản phẩm dệt may theo

xu hƣớng chung của các quốc gia phát triển; qua đó, khách hàng nƣớc ngoài sẽ

có cái nhìn toàn diện hơn về sản phẩm dệt may Việt Nam cũng nhƣ tạo điều kiện

thuận lợi để các nhà đầu tƣ nắm bắt nhu cầu của thị trƣờng về nguyên, phụ liệu

nhập khẩu trƣớc khi tiến hành đầu tƣ sản xuất thay thế nhập khẩu... Và cuối cùng

là khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu sẽ tăng do

giảm đƣợc các chi phí đầu vào. Tuy nhiên, đây là một mô hình kinh doanh mới

đòi hỏi nhà đầu tƣ phải có thời gian để chứng minh tính hiệu quả trong kinh

doanh nên cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ thông qua các chính sách ƣu đãi trong

thời gian đầu triển khai, nhƣ: ƣu đãi về thuế, ƣu đãi về tín dụng (từ 60% đến 70%

vốn vay đƣợc hƣởng lãi suất đặc biệt 3%/năm với thời gian từ 10 đến 15 năm và

thời gian ân hạn là 3 năm - Theo bà Trƣơng Thị Thúy Liên, Chủ đầu tƣ dự án

Trung tâm nguyên, phụ liệu dệt may và da giầy Bình Dƣơng).

- Đẩy nhanh tiến trình đàm phán thương mại cấp quốc gia và hỗ trợ các

doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, thâm nhập thị trường nước ngoài.

+ Khẩn trương tiến hành đàm phán gia nhập WTO.

Đến thời điểm hiện nay, nƣớc ta chƣa phải là thành viên của WTO và nhƣ

vậy về mặt nguyên tắc, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vẫn bị áp đặt hạn

ngạch. Điều này đã làm cho các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu mất hẳn

lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại của các nƣớc đang phát triển khác là

thành viên của WTO. Với thực tế nhƣ đã nêu, để hoàn thành và vƣợt mục tiêu

tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã đề ra trong chiến lƣợc đầu tƣ

tăng tốc ngành dệt may Việt Nam đến năm 2005 và 2010 thì một giải pháp không

thể không đƣợc đề cập tới là đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập WTO trong

cuối năm 2005 hoặc muộn nhất là nửa đầu năm 2006. Việc Việt Nam trở thành

thành viên của WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trƣờng tiêu

thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may đặc biệt đối với các thị trƣờng

lớn nhƣ Hoa Kỳ, EU... (riêng thị trƣờng Hoa Kỳ đã chiếm tới 2,2 tỷ USD tƣơng

đƣơng 55% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may trong năm 2004).

Trong 10 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các

cuộc đàm phán song phƣơng và đa phƣơng với WTO cũng nhƣ các nƣớc thành

- 104 -

viên về rất nhiều vấn đề liên quan nhƣ: minh bạch hóa các chính sách kinh tế -

thƣơng mại, mở cửa thị trƣờng đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhập

khẩu, cải cách hệ thống pháp luật và thuế quan cho phù hợp hơn với các định

chế của WTO... Thực tế là chúng ta đã đạt đƣợc những thỏa thuận quan trọng

đối với các nƣớc lớn, các khu vực mậu dịch có tỷ trọng cao trong thƣơng mại

toàn cầu, chi phối tới WTO mà gần đây nhất là việc Tổng thống Mỹ đã tuyên bố

ủng hộ việc Việt Nam trở thành thành viên WTO trong chuyến thăm Mỹ của

Thủ tƣớng Việt Nam. Tuy nhiên, cách đề cập nhƣ vậy không có nghĩa là chắc

chắn chúng ta sẽ trở thành thành viên WTO trong thời gian gần đây mà không

cần bất cứ nỗ lực nào tiếp theo. Để đạt đƣợc mục tiêu đề ra là trở thành thành

viên WTO trong cuối năm 2005 hoặc nửa đầu năm 2006 thì trƣớc hết, chúng ta

phải thể hiện quyết tâm mở cửa thị trƣờng, đẩy nhanh quá trình minh bạch hóa

hệ thống luật pháp, các chính sách tài chính, thƣơng mại và phát triển kinh tế

phù hợp với WTO hơn nữa. Mỗi cơ quan, ban ngành và từng doanh nghiệp đều

cần nâng cao nhận thức về WTO cũng nhƣ các vấn đề cần giải quyết trƣớc và

sau khi trở thành thành viên WTO.

+ Đẩy nhanh các cuộc đàm phán song phương và đa phương với các khối

kinh tế khác giúp các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị

trường xuất khẩu.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc

tìm kiếm và khai thác thị trƣờng nƣớc ngoài, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh

nghiệp dệt may nghiên cứu, thâm nhập các thị trƣờng ngoài nƣớc đặc biệt là các

thị trƣờng Hoa Kỳ, Trung Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông dƣới nhiều hình thức

khác nhau, nhƣ: trích phí quota để hỗ trợ một phần kinh phí trong việc khai thác

và xâm nhập thị trƣờng mới; cung cấp thông tin về các thị trƣờng mới cho

doanh nghiệp... Trong thời gian chƣa trở thành thành viên chính thức của WTO,

Chính phủ cần khẩn trƣơng tiến hành các cuộc đàm phán thƣơng mại cấp quốc

gia khác để tạo cho các doanh nghiệp có cùng điều kiện xuất khẩu nhƣ các quốc

gia đang phát triển khác: Thúc đẩy việc triển khai Hiệp định Thƣơng mại Việt -

Mỹ; Tiếp tục tiến hành đàm phán với EU và Mỹ đối với việc cho phép Việt

Nam đƣợc bỏ chế độ quota sớm hơn các nƣớc công nghiệp trong xu thế thực

hiện ACT của WTO; đàm phán, ký kết các hiệp định thƣơng mại song phƣơng

- 105 -

với các nƣớc thuộc khối MECOSUR để hàng dệt may Việt Nam đƣợc hƣởng

thuế xuất nhập khẩu bình thƣờng khi nhập khẩu vào thị trƣờng Nam Mỹ; đàm

phán để Việt Nam có thể đƣợc sử dụng quota và xuất xứ của một số quốc gia

ASEAN trong xuất khẩu sản phẩm dệt may...

- Có chính sách để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát

triển công nghiệp dệt may.

+ Chính phủ cần có cơ chế thông thoáng hơn nữa trong việc vay vốn đối

với các doanh nghiệp dệt may; hình thành cơ chế để Bộ Tài Chính, Bộ Công

nghiệp có thể bảo lãnh giúp các doanh nghiệp có thể vay vốn từ ngân hàng và

các tổ chức tài chính ngoài nước.

Trong Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/04/2001 của Thủ tƣớng

Chính phủ đã nêu ra yêu cầu đối với tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm ngành may

là 50% đến năm 2005 và 70% đến 75% vào năm 2010. Muốn thực hiện mục

tiêu này, nhất thiết ngành dệt may cần tăng cƣờng đầu tƣ nhất là ngành dệt.

Trong khi đó, vốn đầu tƣ cho ngành dệt đòi hỏi là rất lớn. Nhƣ đã phân tích ở

trên, trình độ công nghệ ngành dệt nƣớc ta hiện nay rất thấp so với thế giới

(khoảng 70% công nghệ đang sử dụng đã lỗi thời, cần đầu tƣ mới). Vấn đề khó

khăn nhất hiện nay đối với ngành dệt may nói chung, đặc biệt là ngành dệt nói

riêng là vốn. Theo VINATEX, nhu cầu đầu tƣ năm 2001 là khoảng 3.500 tỷ

đồng thì chỉ đƣợc đáp ứng 368 tỷ từ Quỹ Hỗ trợ phát triển; con số tƣơng tự của

năm 2002 là 4.000 tỷ đồng và 500 tỷ đồng... Để giải quyết những khó khăn về

vốn, các công ty trong ngành đã tiến hành vay vốn thƣơng mại và Chính phủ sẽ

cấp bù phần lãi suất (khoảng 4%). Tuy nhiên, để có thể tiếp cận và khai thác

hiệu quả các nguồn vốn từ ngoài nƣớc thì nhất thiết phải có sự bảo lãnh của Bộ

Tài Chính và Bộ Công nghiệp.

+ Huy động các nguồn vốn trong nước thông qua cổ phần hóa các DNNN

và có chính sách hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp.

Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp, trƣớc hết là các

doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tƣ trong

nƣớc. Một giải pháp để tháo gỡ những vƣớng mắc hiện đang cản trở quá trình

cổ phần hoá ngành dệt may là tiến hành ngay từ đầu các doanh nghiệp thành lập

mới ở các địa phƣơng theo hình thức hợp tác giữa VINATEX và địa phƣơng.

- 106 -

Trong hoàn cảnh thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may đang gặp khó khăn nhƣ

hiện nay, đề nghị tạm thời đƣa hàng dệt may vào danh mục các mặt hàng đƣợc

hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng theo Quyết định số 178/1998/TTg ngày

19/9/1998 về hỗ trợ lãi xuất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất

khẩu của Thủ tƣớng Chính phủ, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn đầu tƣ

thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trƣờng phi hạn ngạch hoặc các chủng

loại sản phẩm Việt Nam có lợi thế mà chƣa khai thác hiệu quả.

+ Cần có chính sách hợp lý để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài

vào phát triển sản xuất ngành dệt may.

Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn vốn đầu tƣ lớn, cần có những chính

sách khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài dƣới mọi hình thức - các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nƣớc ngoài. Xem xét giảm thiểu các hình thức

thuế để khuyến khích các doanh nhân nƣớc ngoài đã đầu tƣ tại Việt Nam tiến

hành tái đầu tƣ với số lợi nhuận thu đƣợc.

Với ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngƣợc. Thứ nhất, cho

rằng năng lực ngành may hiện nay đã dƣ thừa trong khi thị trƣờng tiêu thụ đang

gặp khó khăn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể

thu hút từ vốn cổ phần trong nƣớc. Vì vậy, nên hạn chế đầu tƣ nƣớc ngoài trong

lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài có vốn, có công nghệ cũng nhƣ khả năng tiếp cận thị trƣờng lớn

mạnh hơn so với các doanh nghiệp nội địa. Thứ hai, cho rằng thu hút vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu nhƣ chúng ta muốn có một

ngành công nghiệp may thực sự hƣớng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của

các doanh nghiệp này, với các ƣu thế công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở

đƣờng” cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trƣờng

thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào các mặt hàng mới, phức tạp, mà các

doanh nghiệp hiện có chƣa sản xuất đƣợc cũng nhƣ ƣu tiên phân bổ hạn ngạch

xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nƣớc, khuyến khích các nhà đầu

tƣ nƣớc ngoài tìm thị trƣờng phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức

phi chính phủ, các tổ chức môi trƣờng trên thế giới cho “sản phẩm công nghiệp

xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn

vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO

- 107 -

14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trƣờng của các

nƣớc quan tâm nhiều đến vấn đề này nhƣ Hà Lan, Đức, Canada, New Zeland...

mà các nƣớc xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực nhƣ Ấn Độ, Banglades,

Nêpan... đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm cho Việt Nam trong giải quyết

vấn đề này.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp lý đầy đủ hơn nữa

để tạo điều kiện cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam thực hiện vai trò, nhiệm vụ

của mình trong quá trình phát triển của ngành dệt may. Điều này sẽ đặc biệt

quan trọng trong thời gian sau khi chúng ta đã trở thành thành viên chính thức

của WTO vì khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối diện với các hình thức

bảo hộ thƣơng mại mới (đặc biệt là kiện chống bán phá giá hàng hóa). Đây là

một bài học đắt giá rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn và quá trình

đấu tranh chống lại việc một Bang của Mỹ cho phép treo cờ của chế độ Ngụy

quyền Miền Nam Việt Nam trƣớc đây.

Từ khi thành lập đến nay, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã có nhiều đóng

góp vào sự phát triển chung của toàn ngành đặc biệt là trong lĩnh vực xúc tiến

thƣơng mại và đào tạo nghề. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn còn một

số khó khăn phát sinh do quyền hạn của Hiệp hội theo luật định còn rất hạn chế

(vai trò trong giải quyết các tranh chấp với nƣớc ngoài chƣa đáp ứng yêu cầu đề

ra). Vì thế, để Hiệp hội thực sự trở thành chỗ dựa cho các doanh nghiệp hay nói

một cách khác là các doanh nghiệp nhận thấy có lợi khi tham gia Hiệp hội,

Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp lý đầy đủ hơn nữa, tạo điều kiện

thuận lợi cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam nói riêng và các hiệp hội ngành nghề

nói chung thể hiện đƣợc vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển ngành. Bên

cạnh đó, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng đề nghị các bộ, ngành hữu quan cho

phép Hiệp hội tham gia vào quá trình quản lý quota dệt may cho đến khi chế độ

quota đối với hàng dệt may Việt Nam đƣợc bãi bỏ hoàn toàn vì Hiệp hội cũng là

một cơ quan nắm vững tiềm năng cũng nhƣ năng lực sản xuất của các đơn vị

thành viên của mình.

3.3.2. Những giải pháp từ góc độ ngành và Hiệp hội Dệt may Việt Nam.

- Về nguồn nhân lực.

Theo tính toán của các chuyên gia của ngành thì cứ mỗi 4 tỷ USD giá trị

hàng dệt may thì cần tối thiểu 1 triệu lao động. Nhƣ vậy, đến năm 2010, Việt

- 108 -

Nam sẽ cần tối thiểu 1,5 triệu lao động phục vụ mục tiêu tạo thêm 6 tỷ USD giá

trị sản phẩm. Trong khí đó, hiện nay ngành dệt may Việt Nam đang rất thiếu từ

cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật (đặc biệt là cán bộ quản lý kỹ thuật công nghệ

nhuộm hoàn tất và nghiên cứu thị trƣờng) đến công nhân lành nghề. Vì vậy, mở

rộng và thành lập mới các trung tâm dạy nghề tại các địa phƣơng nhằm tăng

cƣờng khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của ngành dệt may là một đòi hỏi

bức thiết hiện nay. Bên cạnh đó, vấn đề chất lƣợng đào tạo cũng đang đặt ra

nhiều vấn đề cần xem xét, nhƣ: Trình độ tay nghề thực tế sau khi tốt nghiệp, tác

phong công nghiệp... Hơn thế nữa, cần nghiên cứu đề xuất Chính phủ mở thêm

từ 1 đến 2 trƣờng Đại học tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo cán

bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, cán bộ nghiên cứu thị trƣờng và thiết

kế mẫu mốt sản phẩm...

Với việc mở các trƣờng đào tạo cán bộ ở trình độ Đại học và trên đại học

tại các trung tâm dệt may lớn (trong đó giành nhiều thời gian thực tập cho sinh

viên sử dụng thành thạo công nghệ, làm quen với các quy trình quản lý, điều

hành sản xuất công nghiệp, kết hợp với hƣớng dẫn chuyên sâu công tác nghiên

cứu thị trƣờng theo đặc thù ngành may và thiết kế thời trang...) sẽ tạo ra một lực

lƣợng cán bộ trẻ, có năng lực tốt trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho ngành dệt

may Việt Nam. Nếu làm đƣợc nhƣ vậy, trong vòng 20 đến 25 năm nữa, Việt

Nam không chỉ duy trì đƣợc lợi thế về nguồn lao động với giá cả tƣơng đối thấp

mà còn là một quốc gia có đội ngũ kỹ sƣ và công nhân lành nghề trong lĩnh vực

dệt may tƣơng đối dồi dào; cơ sở quan trọng để các nhà đầu tƣ đƣa ra quyết

định rót vốn của mình.

- Phát huy vai trò của Hiệp hội Dệt may và VINATEX trong tăng cường

liên kết nội bộ và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tăng cƣờng vai trò của Hiệp hội Dệt may Việt Nam và VINATEX trong

các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh

nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải

quyết đƣợc, nhƣ: Tìm kiếm, mở rộng thị trƣờng; tổ chức triển lãm, hội chợ, giới

thiệu sản phẩm trong và ngoài nƣớc; giao dịch buôn bán chuyển giao công

nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trƣờng ...

- Tăng cường liên kết khối theo mô hình công ty mẹ con và sự hỗ trợ giữa

- 109 -

các công ty trong Hiệp hội và VINATEX.

Nhƣ đã phân tích ở trên, khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn với thời gian

giao hàng ngắn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay còn rất thấp mà

nguyên nhân cơ bản là quy mô sản xuất cũng nhƣ khả năng cung ứng nguyên,

phụ liệu còn thấp. Việc áp dụng mô hình công ty mẹ con và liên kết khối chắc

chắn sẽ góp phần nâng cao khả năng sản xuất cũng nhƣ đáp ứng kịp thời các điều

khoản của hợp đồng về mặt thời gian. Trong đó, các liên kết trong VINATEX sẽ

đƣợc triển khai rộng theo mô hình công ty mẹ con trong đó đảm bảo sự độc lập,

chủ động tƣơng đối của các công ty con trong quá trình kinh doanh. Bên cạnh đó,

cần nhân rộng mô hình công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên để gắn chặt hơn

nữa giữa quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo đối với vốn nhà nƣớc.

Các doanh nghiệp trong toàn ngành cần nhanh chóng thúc đẩy sự hợp tác chặt

chẽ với nhau theo ngành dọc để tạo lập những tập đoàn dệt may lớn; có sự phân

cấp trách nhiệm rõ theo lợi thế của từng thành viên để không ngừng nâng cao

năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Hơn thế nữa, khi các công ty đầu

ngành quyết định đầu tƣ đổi mới công nghệ thì các công ty nhỏ hơn sẽ tiếp nhận

những công nghệ của các công ty lớn để tiếp tục khai thác. Hình thức này một

mặt giúp các công ty lớn có điều kiện giảm thiểu chi phí đầu tƣ trong đổi mới

trang thiết bị công nghệ nhƣng đồng thời cũng giúp các công ty có quy mô nhỏ

với mức vốn vừa phải có đủ khả năng tài chính để mở rộng sản xuất với chất

lƣợng sản phẩm đạt yêu cầu của thị trƣờng.

- Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Ngành dệt may Việt Nam nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng cần

nhập khẩu những trang thiết bị, công nghệ dệt may hiện đại nhất hiện nay trên

thế giới để nâng cao chất lƣợng in, nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Trong thời

gian tiến hành xây dựng vùng nguyên liệu và đổi mới trang thiết bị, công nghệ

ngành dệt, cần tập trung đầu tƣ nghiên cứu, nhập khẩu nguồn nguyên liệu vải

mộc từ các nƣớc có nguồn nguyên liệu bông sẵn có và công nghệ dệt tiến tiến,

nhƣ Ấn Độ, Pakistan... để sản xuất ra những sản phẩm vải cao cấp, đáp ứng nhu

cầu của ngành may mặc xuất khẩu. Đây là một yêu cầu đặt ra trong việc nâng

cao tính chủ động về nguyên liệu cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm và

giá trị gia tăng cho sản phẩm may mặc xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc tăng cƣờng

- 110 -

đầu tƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm dệt cũng nhƣ hình thành các tập đoàn lớn

với công nghệ hiện đại, đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn ISO 9000, 14000 và SA

8000 sẽ tạo cơ sở để các hãng lớn của Hoa Kỳ, EU... với những thƣơng hiệu nổi

tiếng ký đặt hàng lâu dài với Việt Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần

thay đổi chiến lƣợc kinh doanh của mình từ cạnh tranh đơn thuần nhờ lao động

rẻ sang cạnh tranh bằng giá trị gia tăng (thông qua chất lƣợng, dịch vụ và hình

thức xuất khẩu). Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn những sản phẩm

mà mình có lợi thế cạnh tranh cao để chuyển dịch và tập trung chuyên môn hóa

sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có chất lƣợng vƣợt trội và đa tính năng đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Tóm lại, bối cảnh quốc tế và trong nƣớc hiện nay đang đặt ngành dệt may

nói chung và dệt may xuất khẩu Việt Nam nói riêng trƣớc các thách thức mới;

đòi hỏi phải có các định hƣớng chính sách cũng nhƣ các quan điểm chỉ đạo

đúng đắn, hợp lý. Hơn thế nữa, sau khi ACT có hiệu lực và việc Việt Nam chƣa

phải là thành viên của WTO thì những khó khăn vốn có của ngành dệt may Việt

Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu lại càng

trở nên phức tạp hơn. Hệ thống các giải pháp vĩ mô ở các cấp độ khác nhau

đƣợc đƣa ra sau khi có những dự báo cho giai đoạn tới là cần thiết và cần đƣợc

- 111 -

triển khai một cách nhất quán, đồng bộ.

KẾT LUẬN

Xuất khẩu các sản phẩm dệt may thời gian qua đã mang về nguồn thu ngoại

tệ đứng thứ hai sau dầu thô. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tìm ra

các giải pháp thích hợp nhằm duy trì và phát triển tốc độ tăng trƣởng của lĩnh vực

này là hết sức cần thiết. Phát triển công nghiệp dệt may hƣớng tới xuất khẩu là

một trong các mục tiêu ban đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam; bởi vì: Ngành dệt may giúp sử

dụng nhiều lao động, đầu tƣ thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh và đặc biệt là

các quốc gia phát triển đã và đang chuyển giao ngành công nghiệp này sang các

nƣớc đi sau... Hơn thế nữa, từ khi ACT có hiệu lực (01/01/2005) đến nay, mức độ

cạnh tranh trên thị trƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may đang ngày càng gay

gắt; sự mở rộng thị trƣờng và thị phần của các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam

đã dẫn đến những khó khăn, trở ngại cho sự phát triển của ngành dệt may nói

chung và việc tăng cƣờng xuất khẩu các sản phẩm dệt may nói riêng... Rõ ràng

là, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang đứng trƣớc những khó khăn trong

việc thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc đến năm 2010. Thực tế đó đòi hỏi phải có

những giải pháp trung và dài hạn để tháo gỡ.

Đảng ta đã xác định rõ việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công

nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu là hết sức cần thiết

và đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn. Chính Phủ đã cụ thể hóa các

định hƣớng này thông qua việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành dệt may

Việt Nam đến năm 2010-2020... Trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc

này thì vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may xuất

khẩu của Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng.

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dệt may xuất khẩu chính là

việc khai thác các lợi thế tiềm năng và vốn có; hạn chế, khắc phục các tồn tại để

có thể sản xuất, xuất khẩu ra các sản phẩm cạnh tranh hơn so với các sản phẩm

cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Thực tế là hiện nay, năng lực cạnh tranh

- 112 -

của các sản phẩm dệt may xuất khẩu còn yếu so với các sản phẩm cùng loại của

Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và một số quốc gia khác. Lợi thế lớn nhất đang

có của Việt Nam trong lĩnh vực này là giá nhân công hạ cũng sẽ mất dần cùng

với sự phát triển của đất nƣớc và đời sống của nhân dân lao động không ngừng

đƣợc nâng cao. Hơn thế nữa, mặc dù kim ngạch xuất khẩu đang tăng với tốc độ

tƣơng đối cao, nhƣng hàm lƣợng giá trị gia tăng trong mỗi đơn vị sản phẩm xuất

khẩu của Việt Nam lại rất thấp. Vì vậy, muốn thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu,

kế hoạch đề ra cũng nhƣ đạt đƣợc sự tăng trƣởng bền vững thì cần thực hiện

đồng bộ các giải pháp từ việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, khả năng

tiếp cận các thị trƣờng ngoài, xây dựng thƣơng hiệu nƣớc của mỗi doanh nghiệp

cho tới các giải pháp hỗ trợ từ phía Chính Phủ để phát triển đội ngũ các chuyên

gia thiết kế thời trang, chuyển dần từ hình thức gia công xuất khẩu sang xuất

khẩu trực tiếp... Các giải pháp đƣợc nêu ra là có tính khả thi. Thực hiện một

cách đồng bộ các giải pháp đó thì các sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam

mới có thể duy trì và mở rộng thị phần cũng nhƣ khẳng định vị trí trên thị

- 113 -

trƣờng thế giới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt:

1. Báo cáo điều tra các doanh nghiệp dệt may Việt Nam của Viện Kinh tế

học (1999).

2. Báo cáo thường niên của Diễn đàn kinh tế Thế giới (1997).

3. Báo cáo thường niên của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2003).

4. Báo cáo thường niên của USAID.

5. Các báo cáo thường niên của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam.

6. Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách

phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".

7. Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình

hình và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

9. Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt

Nam những thành công, những thách thức trong tương lai".

10. Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hướng cho kế hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm 2020".

11. Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lược "tăng tốc" phát

triển ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".

12. Trần Văn Tùng (2003), Cạnh tranh kinh tế, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

13. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Dự án VIE 01/025: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb. Giao thông- Vận tải, Hà Nội- 2003.

Tài liệu Tiếng Anh:

14. EU: "The textile and clothing industry in the EU" (A survey) No2-

2001.

15. G.H. Peter, "The Compatitive Ability of Bisiness", Dartmouch, 1995.

16. "Indian Textile Policy" - 2000 (apparel.indiamart.com)

17. OECD: "A New World Map in Textiles and Clothing: Adjusting to

Change", 2004.

ix

18. M.Porter, "The compatitive Advantage of Nation"; Macmillian Business,

1998.

19. OECD: "A New World Map in Textiles and Clothing: Adjusting to

Change", 2004.

20. Pr Gdfrey Yeung (University of Sussex) & Pr Vincent Mok (The

Hongkong Polytechnic University), "Does WTO accession matter for

the Chiness Textile and Clothing Industry".

21. "Textile of Asia Magazine" (10/2003).

22. World Trade Organization, Discussion Paper No 5: "The Global Textile

and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing"

(Hildegunn Kyvik Nordos) Geneva, Switzerland, 2001.

23. World Trade Organization: "Textiles and Apparel in the International

Economy", Kitty G. Dickerson, 2000.

Một số trang Web:

+ HTTP://WWW. DEI.GOV.VN

+ HTTP://WWW. JETRO.GO.JP

+ HTTP://WWW. MOF.GOV.VN

+ HTTP://WWW. MOI.GOV.VN

+ HTTP://WWW. MOT.GOV.VN

+ HTTP://WWW.OECD.ORG.

+ HTTP://WWW.UNDP.ORG.

+ HTTP://WWW. VIETNAMTEXTILE.ORG.VN

+ HTTP://WWW. VINATEX.COM.VN

+ HTTP://WWW.WORLDBANK.ORG

x

PHỤ LỤC 1

Thị trường xuất-nhập khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam (2003-2004)

Đơn vị: Nghìn USD

Thứ hạng

Tăng trưởng

Nhập khẩu

Xuất khẩu

Quốc gia

(04/03)

04/03 (+/- %)

2002

2003

2002

2003

NK XK

NK

XK

Hoa Kỳ

34.540

38.997

975.000

1.973.609

6/6

1/1

+12,9 +102,4

Nhật Bản

141.800

157.059

480.000

478.191

4/5

2/2

+10,8

-3,8

Đài Loan

527.000

575.814

215.000

187.894

1/1

3/3

+9,3

-12,6

Đức

14.095

11.639

202.410

184.973

8/9

4/4

-17,4

-8,6

Hàn Quốc

413.030

495.516

93.685

127.953

2/2

5/5

+20,0 +36,6

20.250

25.038

77.080

72.915

Anh

7/7

6/6

+23,6

-5,4

Pháp

7/7

10.210

5.571

68.910

71.468

10/11

-45,4

+3,7

T.B.Nha

2.080

1.665

49.240

50.487

12/15

8/8

-20,0

+2,5

H.Kông

247.190

304.995

32.780

49.367

3/3

12/9

+23,4 +50,9

Hà Lan

1.095

2.532

44.170

46.786

16/13

9/10 +131,2 +5,9

Italy

14.040

23.575

41.380

42.052

9/8

10/11 +67,9 +1,6

Canada

967

39.930

34.966

15/16 11/12

-24,9

-12,4

1.288

1.697

27.200

32.498

14/14 13/13 +17,8 +19,5

Bỉ

1.441

T.Quốc

120.900

200.521

10.316

28.457

5/4

16/14 +65,9 +157,8

6.052

23.740

20.556

11/10 14/15

+8,9

-13,4

Úc

5.557

Đ.Mạch

2.779

10.680

9.197

13/12 15/16 +73,7

-13,9

1.600

Áo

809

337

3.600

4.672

17/17 17/17

-58,3 +29,8

Phần Lan

173

308

2.362

2.411

18/18 18/18 +78,0 +2,1

Q.G. Khác

139.902

178.584

383.517

268.382

---

---

+27,6

-30,0

Tổng cộng 1.697.000

2.033.646

2.781.000

3.686.834

---

---

+19,8 +32,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

vi

PHỤ LỤC 2

Một số chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam

Chủng loại sản phẩm

Chủng loại sản phẩm

STT

STT

Tất từ sợi nhân tạo

01

44

02

45

Quần áo vui chơi và quần áo tắm nắng Quần áo trẻ em và phụ liệu quần áo từ sợi bông và sợi nhân tạo

Áo khoác nam kiểu vét từ sợi nhân tạo

Khăn mùi xoa từ sợi bông

03

46

Các loại áo khoác nam khác từ sợi nhân tạo

04 Găng tay và găng hở ngón từ sợi bông 47 Áo khoác nữ từ sợi nhân tạo

05 Tất từ sợi bông 06 Áo khoác nam kiểu vét từ sợi bông

48 Váy ngắn từ sợi nhân tạo 49 Áo sơmi dệt kim nam từ sợi nhân tạo

07

50

Các loại áo khoác nam khác từ sợi bông

Áo blouse và sơ mi nữ dệt kim từ sợi nhân tạo

Áo khoác nữ từ sợi bông

08

51

Áo sơmi nam không dệt kim từ sợi nhân tạo

Váy ngắn từ sợi bông

09

52

Áo sơ mi và áo choàng nữ không dệt kim từ sợi nhân tạo

10 Áo sơ mi dệt kim nam từ sợi bông

53 Váy từ sợi nhân tạo

Comple nam từ sợi nhân tạo

11

54

Áo blouse và áo sơ mi nữ dệt kim từ sợi bông

Comple nữ từ sợi tổng hợp

12

55

Áo sơmi nam không phải dệt kim từ sợi bông

Áo len nam dài tay từ sợi nhân tạo

13

56

Áo sơmi và áo choàng nữ không phải dệt kim từ sợi len

14 Váy từ sợi bông

57 Áo len nữ từ sợi nhân tạo

Áo len nam dài tay từ sợi bông

15

58

16

59

Quần dài và quần soóc nam từ sợi bông Quần dài và quần soóc nữ từ sợi bông

17

60

Quần dài và quần soóc nam từ sợi nhân tạo Quần dài và quần soóc nữ từ sợi nhân tạo Áo nịt ngực và quần áo mặc sát người từ sợi nhân tạo

Váy dài, áo choàng...từ sợi nhân tạo

18

61

Áo nịt ngực và các quần áo sát người khác từ sợi bông

19 Váy dài, áo choàng...từ sợi bông

62 Đồ ngủ và pijama từ sợi nhân tạo

20 Đồ ngủ và pijama từ sợi bông

63 Đồ lót từ sợi nhân tạo

Đồ lót từ sợi bông

64

21

Áo khoác nam lông vũ có nguồn gốc nhân tạo

vii

22

65

Áo khoác nữ lông vũ có nguồn gốc nhân tạo Quần áo khác từ sợi nhân tạo

23

66

Áo khoác nam lông vũ có nguồn gốc từ bông Áo khoác nữ lông vũ có nguồn gốc từ bông Các loại áo vải bông khác

24

67

Găng tay và găng hở ngón từ sợi có nguồn gốc khác

25 Găng tay và găng hở ngón từ sợi len

68 Tất từ vật liệu khác

Tất từ sợi len

26

69

Áo khoác nam kiểu vét từ sợi có nguồn gốc khác

Áo khoác nam kiểu veston từ sợi len

27

70

Các loại áo khoác nam khác từ sợi len

28

71

Các loại áo khoác khác của nam từ sợi có nguồn gốc khác Áo khoác nữ từ sợi có nguồn gốc khác

29 Áo khoác nữ từ sợi len

72 Váy ngắn từ sợi có nguồn gốc khác

73 Áo sơ mi và áo khoác dệt kim

30 Váy ngắn từ sợi len

Áo sơmi nữ dệt kim

31

74

Quần áo trẻ em và phụ liệu từ sợi có nguồn gốc khác

32

75

Quần áo trẻ em và phụ liệu quần áo từ sợi len

Áo sơmi và áo choàng nam không dệt kim từ sợi có nguồn gốc khác 33 áo sơmi nam không dệt kim từ sợi len 76 Váy từ sợi có nguồn gốc khác

Váy từ sợi len

34

77

Comple nam từ sợi có nguồn gốc khác

35 Comple nam từ sợi len

78 Comple nữ từ sợi có nguồn gốc khác

36 Comple nữ từ sợi len

79 áo len dài tay sợi thực vật ngoài bông

37 Áo len nam dài tay

80 áo len tơ tằm

áo len nữ từ sợi bông

38

81

Quần dài và quần soóc nam từ sợi có nguồn gốc khác

Quần dài và quần soóc nam từ sợi len

39

82

Váy dài, áo choàng,v.v... từ sợi có nguồn gốc khác

Quần dài và quần soóc nữ từ sợi len

40

83

Đồ ngủ và pijama từ sợi có nguồn gốc khác

41 Quần áo len khác

84 Đồ lót từ sợi có nguồn gốc khác

42 Khăn mùi xoa từ sợi nhân tạo

85 Khăn quàng cổ

43

86

Găng tay và găng hở ngón từ sợi nhân tạo

Các quần áo khác từ sợi có nguồn gốc khác

Nguồn: Http://www.vietnamtextile.org.vn

viii

PHỤ LỤC 3 Thị phần hàng may mặc của một số nước xuất khẩu vào Nhật Bản

1996

1998

2000

2002

2003

Nước

S.lượng

Th.phần

S.lượng Th.phần S.lượng

Th.phần

S.lượng

Th.phần

S.lượng Th.phần

Tổng

6341915

100% 568.994

100%

654.844

100% 1.275.367

100% 1.527.635

100%

Trung Quốc

476.626

75,1% 456.115

80,2%

746.173

87,3% 1.135.007

89,0% 1.238.380

89,0%

3,2%

16.582

2,9%

20.138

2,4%

2,3%

35.228

2,3%

20.388

29.461

Việt Nam

19.898

3,1%

16.559

2,9%

18.784

2,2%

22.956

1,8%

26381

1,7%

Hàn Quốc

11.770

1,9%

9.730

1,7%

9.177

1,1%

12.590

1,0%

16.350

1,0%

Thái Lan

10167

1,6%

7.995

1,4%

7.981

0,9%

7.956

0,6%

9.300

0,6%

Indonesia

9.238

1,5%

5.191

0,9%

7.298

0,9%

11.963

0,9%

16.800

1,1%

Ấn Độ

15.481

2,5%

7.476

1,3%

6.227

0,7%

7.652

0,6%

8.982

0,6%

Hoa Kỳ

71.347

11,3%

49.346

8,7%

39.066

4,6%

47.712

3,7%

56.214

3,7%

Khác

Nguồn: Tổng hợp từ "Japanese Trade in 2003" (Jetro.go.jp)