BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

--------/--------

-----/-----

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHÚC TRỌNG QUANG

NĂNG LỰC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA THẨM

PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP

VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2018

Luận văn được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU

Phản biện 1: TS. NGUYỄN MINH SẢN

Phản biện 2: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp D nhà A Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi 14h ngày 8 tháng 11 năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) Việt Nam là con đường phát triển

tất yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong NNPQ, quyền tư pháp giữ

một vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp

ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là: "Xây dựng

nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng

bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

(XHCN); hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có

hiệu quả và hiệu lực cao" [1].

Áp dụng pháp luật (ADPL) trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt

động thường xuyên của Tòa án nhân dân (TAND) trong quá trình thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định. ADPL trong hoạt

động giải quyết án hình sự của Toà án mang những đặc điểm chung của hoạt

động ADPL, bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng. Quy trình ADPL

trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án được thực hiện theo quy định

của BLTTHS nhưng luật nội dung giải quyết VAHS phải là BLHS. Việc ADPL

trong hoạt động của Toà án luôn là mối quan tâm của xã hội, đặc biệt là khi

chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi

mới, xây dựng NNPQ

Hoạt động ADPL về xét xử các VAHS của tòa án có vai trò đặc biệt quan

trọng đối với việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý,

công bằng xã hội. ADPL về xét xử các VAHS của tòa án phải tuân thủ đúng các

nguyên tắc cơ bản của xét xử hình sự, các nguyên tắc hiến định đã được quy

định trong Hiến pháp năm 2013 và trong BLTTHS, BLHS, đáp ứng yêu cầu xây

dựng NNPQ ở nước ta hiện nay.

Để việc ADPL được thực hiện đúng và đảm bảo quyền lợi, lợi ích chính

đáng của Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì vai trò của Thẩm phán, người trực tiếp

1

xét xử, hay nói cách khác là năng lực ADPL của Thẩm phán trong quá trình giải

quyết các VAHS đóng một vai trò hết sức quan trọng. Thực tiễn về năng lực

ADPL của Thẩm phán trong xét xử VAHS tại TAND thành phố hải Phòng trong

thời gian qua về cơ bản đã đáp ứng được các nhiệm vụ đề ra nhưng vẫn còn một

số hạn chế như: vẫn còn tình trạng có tỷ lệ các bản án bị hủy, bị cải sửa do lỗi

chủ quan của Thẩm phán, năng lực, trình độ của Thẩm phán ở một số Tòa còn

những hạn chế nhất định, còn tình trạng Thẩm phán có những nhận thức không

thống nhất trong giải quyết án,.... Đó là những hạn chế cần được khắc phục để

nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử của TAND thành phố Hải Phòng nói riêng

của Tòa án nói chung.

Từ những phân tích và lập luận trên học viên quyết định chọn đề tài “Năng

lực ADPL của Thẩm phán trong việc xét xử các VAHS từ thực tiễn TAND

thành phố Hải Phòng” để làm luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp

– Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đề tài vai trò tòa án, về ADPL

trong quá trình xét xử của TAND. Có thể điểm qua một số công trình khoa học

sau đây.

Luận văn cao học của tác giả Phan Huyền Ly về đề tài “Vai trò của tòa án

trong NNPQ" năm 2015 tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;

Luận văn cao học về đề tài "Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng

cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp – liên hệ vào thực tiền của

ngành tòa án tỉnh Thái Nguyên", của tác giả Nhữ Văn Tâm năm 2006, tại Khoa

Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Luận văn cao học về đề tài “Xây dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng với yêu

cầu cải cách tư pháp ở Việt nam hiện nay” của tác giả Vũ Thu Hiền năm 2008,

tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

2

Luận văn cao học về đề tài "Xây dựng ý thức pháp luật của thẩm phán

trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của tác giả Trần Thị Thanh

Bình, năm 2014, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Kiểm: “ADPL trong hoạt động xét

xử án hình sự của TAND ở tỉnh Nam Định”, năm 2013, tại Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Luận văn thạc sỹ của tác giả Cao Thị Nga: “Văn hóa pháp luật của Thẩm

phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính” năm 2014, tại Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, “Chức năng của Tòa án trong tố

tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí khoa học Đại học quốc

gia Hà Nội năm 2009;

Bài viết của tác giả Đinh Văn Quế, “Thực tiễn ADPL hình sự, những vấn đề

lý luận và thực tiễn” vv...

Đây là những công trình có chất lượng cao, là nguồn tài liệu để tác giả tham

khảo cho việc thực hiện luận văn. Đồng thời tác giả còn nghiên cứu các báo cáo

thực tiễn của Tòa án thành phố Hải Phòng, các bài viết, bài phát biểu của các lãnh

đạo Đảng, nhà nước gần đây về cải cách tư pháp, thi hành Hiến pháp năm 2013.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Thông quan việc phân tích, đánh giá thực trạng ADPL của thẩm phán trong

giải quyết án hình sự tại TAND thành phố Hải Phòng, đề xuất quan điểm và giải

pháp nhằm nâng cao năng lực ADPL của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết

án hình sự ở nước ta hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ

Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận của luận văn;

3

- Đánh giá thực trạng năng lực ADPL của thẩm phán trong xét xử án hình

sự thông qua khảo sát, đánh giá thực trạng ADPL của thẩm phấn trong xét xử

VAHS từ thực tiễn thành phố Hải Phòng.

- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường năng lực ADPL của Thẩm

phán trong xét xử các VAHS hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc ADPL hình sự và năng lực

ADPL của thẩm phán trong quá trình xét xử VAHS của TAND từ thực tiễn

thành phố Hải Phòng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Tác giả giới hạn phạm vi luận văn ở việc nghiên cứu

những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá tổng quan về thực trạng, đề xuất quan

điểm, giải pháp ADPL hình sự, pháp luật tố tụng hình sự mà không đi sâu vào

nghiên cứu cụ thể việc ADPL đối với các loại tội phạm cụ thể.

- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn ADPL trong xét xử hình sự

của Thẩm phán TAND tại Thành phố Hải Phong trong 5 năm từ năm 2013 đến

năm 2017.

- Phạm vi không gian: TAND ở thành phố Hải Phòng (Bao gồm: TAND

thành phố và TAND các quận/huyện).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được tiếp cận trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng

của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng ta về NNPQ, tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm của khoa học pháp lý.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, so sánh.

4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về ADPL và năng

lực ADPL của Thẩm phán trong xét xử VAHS của TAND .

- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nâng cao

trình độ lý luận, chuyên môn cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người trực

tiếp làm công tác giải quyết án hình sự tại các TAND, góp phần nâng cao chất

lượng giải quyết án hình sự của TAND.

7. Kết cấu luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về năng lực ADPL của thẩm phán trong xét xử các

VAHS.

Chương 2. Thực trạng năng lực ADPL của Thẩm phán trong xét xử các

VAHS ở TAND thành phố Hải phòng

Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao năng lực ADPL của Thẩm

phán trong xét xử các VAHS từ thực tiễn TAND ở Hải Phòng.

5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA

THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái quát về năng lực áp dụng pháp luật của thẩm phán trong xét

xử các vụ án hình sự.

1.1.1. Khái niệm Thẩm phán.

Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án,

nhân danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử. Thẩm phán là công dân

Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam; Có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần

dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.Có trình độ cử

nhân luật trở lên. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử; Có thời gian làm công tác

thực tiễn pháp luật; Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Khái niệm Thẩm phán: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định

của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc

khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.

1.1.2. Khái niệm hoạt động áp dụng pháp luật của Thẩm phán trong xét

xử vụ án hình sự.

ADPL là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật cơ bản, có tính chất

đặc biệt. Sự phân định thành bốn hình thức thực hiện pháp luật cũng chỉ mang

tính tương đối, trên thực tế, giữa các hình thức thực hiện pháp luật luôn có mối

quan hệ mật thiết.

ADPL về xét xử các VAHS của TAND là một trong những dạng ADPL nói

chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Về thuật ngữ, trong

thực tế cũng có cách sử dụng khác như ADPL hình sự về xét xử các VAHS của

TAND. Tuy vậy, khi dùng khái niệm ADPL ở đây có thể còn bao hàm ý nghĩa

6

rộng hơn, vì theo nguyên tắc pháp quyền, tòa án ngoài việc căn cứ vào pháp luật

hình sự còn phải căn cứ vào Hiến pháp để giải quyết VAHS.

Như vậy, ADPL là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà

nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp

luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm

pháp luật hoặc hành vi phạm tội; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền

chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật

nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo

đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã

hội theo quy định của pháp luật.

Như vậy có thể rút ra khái niệm sau: Hoạt động ADPL của Thẩm phán

trong xét xử VAHS là hoạt động cá biệt hóa các quy định của pháp luật hình sự,

pháp luật tố tụng hình sự của Thẩm phán – một chủ thể có vị trí trung tâm trong

xét xử VAHS, được xác định từ khi thẩm phán được phân công thụ lý vụ án cho

đến khi bản án hoặc quyết định giải quyết VAHS có hiệu lực pháp luật trong đó

thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình để ban hành các văn

bản ADPL nhằm giải quyết đúng đắn VAHS.

ADPL vừa là hình thức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước hoặc

công chức có thẩm quyền vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể

thực hiện pháp luật. Vì vậy ADPL có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà

nước:

Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật

quy định.

Thứ ba, hoạt động ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính chất cá biệt, cụ

thể đối với các quan hệ xã hội nhất định.

Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Bởi ADPL là một hình

thức quan trọng đưa các quy phạm pháp luật trên giấy vào điều chỉnh các

quan hệ cụ thể của đời sống xã hội.

7

1.1.3. Khái niệm năng lực áp dụng pháp luật của Thẩm phán trong xét

xử các vụ án hình sự.

Từ những phân tích trên tác giả rút ra khái niệm năng lực như sau: “Năng

lực là những khả năng cần thiết đủ để thực hiện thành thạo một công việc nhất

định và hoàn thành yêu cầu, nhiệm vụ của công việc đó”.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm năng lực của Thẩm phán và năng lực của

Thẩm phán trong xét xử VAHS như sau: “Năng lực của Thẩm phán là những

khả năng cần thiết đủ để thực hiện thành thạo và hoàn thành nhiệm vụ, chức

năng xét xử”.

“Năng lực của Thẩm phán trong xét xử A là nh ng hả năng c n

thi t đủ để thực hiện thành thạo chức năng, nhiệm vụ xét xử nh m đưa ra

được bản án hình sự c ng b ng, hách quan, đ ng quy định của pháp luật .

1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng pháp luật của Thẩm phán

trong xét xử các vụ án hình sự.

Để hoàn thực hiện tốt và hoàn thành nhiệm vụ, chức năng xét xử các VAHS

của mình, Thẩm phán phải thực sự có năng lực. Các yếu tố cấu thành năng lực

của Thẩm phán bao gồm: trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp; trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ lý luận chính trị; phẩm chất đạo đức; văn hóa

ứng xử; chất lượng xét xử. Cụ thể:

1.2.1. Trình độ đào tạo, điều iện về b ng cấp

Trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp là yếu tố quan trọng đánh giá năng

lực của Thẩm phán. Chất lượng Thẩm phán liên quan đến quá trình đào tạo đại

học, nghiệp vụ xét xử và việc tự đào tạo của mỗi người...

1.2.2. Trình độ chuyên m n, nghiệp vụ

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán trong xét xử VAHS ở đây

đó chính là kỹ năng xét xử VAHS, bao gồm các khâu như: nghiên cứu hồ sơ vụ

án; đánh giá chứng cứ qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án; tổ chức và điều khiển

phiên tòa; viết bản án và trình bày bản án khi tuyên án;…

8

1.2.3. Trình độ lý luận chính trị

Nghề Thẩm phán là một nghề đặc thù nên đòi hỏi người Thẩm phán phải

thể hiện sự giác ngộ chính trị cao, hiểu sâu sắc các nhiệm vụ, chức trách được

giao phó. Theo đó, Thẩm phán phải là người có lập trường cách mạng vững

chắc, kiên định với đường lối chính sách mà Đảng đã đề ra nhằm thực hiện tốt

nhiệm vụ xét xử trong quá trình giải quyết các vụ án.

1.2.4. Phẩm chất đạo đức

Trong hoạt động xét xử, người Thẩm phán bên cạnh việc coi trọng trình độ

chuyên môn nghiệp vụ thì cần phải có phẩm chất đạo đức tốt. Đạo đức vừa

mang tính giai cấp, vừa đồng thời chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố dân tộc,

truyền thống lịch sử, tôn giáo…

1.2.5. ăn hóa ứng xử của Thẩm phán

Văn hóa ứng xử của Thẩm phán trong hoạt động xét xử là một trong những

yếu tố tạo nên văn hóa pháp đình (văn hóa xét xử). Văn hóa pháp đình được biểu

hiện dưới hai phạm trù: Văn hóa vật thể pháp đình (cơ sở vật chất của tòa án) và

văn hóa phi vật thể pháp đình (việc xử lý các mối quan hệ trong tố tụng và việc

ứng xử trong phiên tòa của những người tham gia tố tụng).

1.2.6. Chất lượng xét xử của thẩm phán

Một Thẩm phán được đánh giá là có năng lực trong xét xử nói chung, trong

xét xử các VAHS nói riêng không những phải có đầy đủ 05 tiêu chí nêu trên mà

còn thể hiện ở chất lượng xét xử vụ án của Thẩm phán đó. Bởi vì Thẩm phán có

trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trình

độ lý luận chính trị; phẩm chất đạo đức; văn hoá ứng xử nhưng chất lượng kết

quả xét xử không cao (tỷ lệ án bị huỷ, bị sửa do lỗi chủ quan) thì Thẩm phán

cũng không được đánh giá là có năng lực.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực áp dụng pháp luật của thẩm

phán trong xét xử các vụ án hình sự

1.3.1. Y u tố về chất lượng chuyên m n trong thực hiện c ng vụ.

9

Là công chức trong bộ máy, người được bổ nhiệm chức danh tư pháp thực

hiện nhiệm vụ xét xử là đã qua “nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản

lĩnh” và trước hết yêu cầu phải có nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác -Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh. Đây là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của công chức,

Thẩm phán trong ngành Tòa án nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng.

1.3.2. Y u tố về inh nghiệm và tính tích cực c ng vụ của Thẩm phán.

Để vận dụng nguyên tắc tranh tụng thực hiện trong tố tụng hình sự ở nước

ta thực sự phát huy hiệu quả thì yêu cầu đặt ra phải nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ có chức danh hoạt động trong lĩnh vực này của các cơ quan tiến hành tố

tụng và tương ứng với đó cần có đội ngũ luật sư giỏi, có chất lượng. Nói cách

khác, các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng (chủ yếu là luật

sư) tại phiên tòa xét xử án hình sự phải có kỹ năng tốt để thể hiện năng lực của

mình, đó là: “khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh

vực nào đó trong thực tế”.

1.3.3. Y u tố về sự đ y đủ của hệ thống pháp luậ về ình sự và Tố tụng

hình st.

Để bảo đảm năng lực xét xử tại phiên tòa hình sự thì cùng với yếu tố nhận

thức về chính trị, tư tưởng còn phải có những quy định của pháp luật về thẩm

quyền, quyền hạn, nghĩa vụ của Thẩm phán. Nói cách khác là việc thực hiện

nhiệm vụ được xác định theo khuôn khổ pháp lý đối với Thẩm phán. Đây là một

yếu tố quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến việc phát huy năng lực của chủ thể

trong cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án.

10

Chương 2

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA THẨM PHÁN

TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

2.1.1. Điều iện tự nhiên, inh t , xã hội của thành phố ải Phòng

Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái

Bình thuộc đồng bằng sông Hồng có vị trí nằm trong khoảng từ 20035’ đến 21001’

vĩ độ Bắc, và từ 106029’ đến 107005’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc giáp

tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái

Bình và phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông

lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thành phố còn nhiều hạn

chế, yếu kém. Phát triển và quản lý đô thị còn nhiều bất cập. Quản lý sử dụng

đất đai còn bị buông lỏng, gây thiếu sót, khuyết điểm ở một số nơi. Hệ thống các

giải pháp an sinh xã hội được quan tâm, song kết quả đạt được thiếu vững chắc.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn trọng điểm và

khu vực nông thôn, nhất là khu vực phải thực hiện giải phóng mặt bằng, giao đất

để triển khai các dự án còn tiềm ẩn yếu tố mất ổn định. Việc giải quyết một số

vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, bức xúc còn chậm, kéo dài. Tệ nạn ma tuý, mại

dâm, tai nạn giao thông và một số loại tội phạm hình sự còn diễn biến phức tạp;

đòi hỏi sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là của các cơ

quan bảo vệ pháp luật của thành phố.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố ải

Phòng

Về cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ: Cơ cấu tổ chức của TAND

Thành phố Hải Phòng được tổ chức theo cơ cấu của TAND tỉnh, thành phố trực

11

thuộc trung ương gồm có TAND thành phố và 15 TAND quận, huyện trực

thuộc.

Toà án nhân dân thành phố có: Ủy ban Thẩm phán; 05 toà chuyên trách

(Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính) và bộ

máy giúp việc. TAND thành phố có Chánh án, 03 Phó Chánh án, các Thẩm phán

trung cấp, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên và các chức danh

khác.

Các Toà án nhân dân cấp huyện: TAND thành phố Hải Phòng có 15 TAND

huyện, quận (gọi chung là TAND cấp huyện) trực thuộc, cụ thể như sau: TAND

quận Hồng Bàng; TAND quận Dương Kinh; TAND quận Đồ Sơn; TAND quận

Kiến An; TAND quận Hải An; TAND quận Lê Chân; TAND quận Ngô Quyền;

TAND huyện An Dương; TAND huyện An Lão; TAND huyện Bạch Long Vỹ;

TAND huyện Cát Hải;TAND huyện Kiến Thụy; TAND huyện Thủy Nguyên;

TAND huyện Tiên Lãng; TAND huyện Vĩnh Bảo.

Về số lượng biên chế: Theo Quyết định số 109/QĐ-TCCB ngày 11/

01/2013 của Chánh án TAND tối cao, tổng số biên chế của ngành TAND thành

phố Hải Phòng gồm có 252 người, trong đó có 99 Thẩm phán trung cấp và

Thẩm phán sơ cấp

2.2. Tình hình áp dụng pháp luật của Thẩm phán trong xét xử vụ án

hình sự tại Tòa án nhân dân ở thành phố Hải Phòng.

2.2.1. K t quả áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự của Thẩm

phán tại Tòa án nhân dân thành phố ải Phòng các năm 2013, 2014, 2015

- Về xét xử các VAHS trong những năm gần đây:

Trong năm 2013 theo Báo cáo công tác ngành tòa án tại kỳ họp thứ 19

HĐND Thành phố khoá XIII ), số: 1316/BC-TA, ngày 15 tháng 11 năm 2013,

toàn ngành đã giải quyết, xét xử 1328 vụ 2342 bị cáo trên tổng số thụ lý 1336 vụ

2377 bị cáo, đạt tỷ lệ 99.5% (vượt so với chỉ tiêu thi đua 4,5%, tăng 2,3% so với

năm 2009). Trong đó:

- Xét xử các VAHS:

12

- Án hình sự sơ thẩm: Tòa án thành phố thụ lý 174 vụ/434 bị cáo, đã giải

quyết xét xử 173 vụ/431 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,4%; tòa án quận, huyện thụ lý 1214

vụ/2066 bị cáo, đã giải quyết xét xử 1198 vụ/2013 bị cáo, đạt tỉ lệ 98,7%. So với

năm 2013 thụ lý tăng 52 vụ/123 bị cáo. Trong số các vụ đã giải quyết tập trung

chủ yếu vào các tội: “Tàng trữ vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”: 375

vụ/479 bị cáo; “Trộm cắp tài sản”: 217vụ/376 bị cáo; “Cố ý gây thương tích”:

155 vụ/254 bị cáo; “Cướp tài sản”: 76 vụ/185 bị cáo; “Cướp giật tài sản”: 50

vụ/83 bị cáo; “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường

bộ”: 72 vụ/73 bị cáo. Một số tội đáng chú ý so với năm 2013 là: Tội “Hiếp dâm

trẻ em” đã giải quyết, xét xử: 04 vụ/04 bị cáo tăng 03 vụ/03 bị cáo; “Tội giết

người” đã giải quyết, xét xử: 35 vụ/78 bị cáo, giảm 08 vụ/40 bị cáo; Tội “Mua

bán người” đã giải quyết, xét xử: 03 vụ/09 bị cáo, giảm 05 vụ/02 bị cáo.

Đã tuyên phạt: tử hình: 04 bị cáo (đều về tội “Giết người”, giảm so với năm

2013 là 01 bị cáo); tù chung thân: 16 bị cáo (giảm so với năm 2013 là 01 bị cáo);

tù từ trên 20 năm đến 30 năm: 01 bị cáo; tù từ trên 15 năm đến 20 năm: 46 bị

cáo; còn lại là từ từ 15 năm trở xuống và các hình phạt khác. Đã hoàn trả 23 hồ

sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Toàn ngành đã đưa ra xét xử 13 vụ án

trọng điểm, 117 vụ án lưu động tại nơi xảy ra tội phạm, trong đó có 58 vụ án ma

túy được tổ chức xét xử tại địa bàn phức tạp về ma túy, đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng chống tội phạm đối với loại tội phạm này.

- Án hình sự phúc thẩm: Tòa án thành phố thụ lý 176 vụ/233 bị cáo, đã giải

quyết xét xử 175 vụ/232 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,4%. Kết quả xét xử: Giữ nguyên bản

án sơ thẩm đối với 122 bị cáo, cải sửa đối với 110 bị cáo (trong số 110 bị cáo cải

sửa tăng hình phạt 04 bị cáo, giảm hình phạt 50 bị cáo, chuyển từ hình phạt tù

sang hình phạt cải tạo không giam giữ 08 bị cáo, còn lại là các cải sửa khác). Lý

do cải sửa phần lớn do có tình tiết mới ở giai đoạn xét xử phúc thẩm như bị cáo

bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình

phạt…TAND tối cao đưa ra xét xử 73 vụ/122 bị cáo; trong đó y án sơ thẩm đối

với 74 bị cáo, sửa án sơ thẩm đối với 44 bị cáo, chủ yếu là giảm nhẹ hình phạt

13

và chuyển từ hình phạt tù sang cho hưởng án treo do có tình tiết mới tại phiên

tòa. Năm 2014, số lượng các vụ án lớn đặc biệt nghiêm trọng về tội phạm ma

tuý, tham nhũng, tội phạm về kinh tế giảm đáng kể so với những năm trước.

Trong năm 2015, theo Báo cáo công tác Tòa án năm 2015 và phuơng

huớng, nhiệm vụ công tác 2013, trình tại kỳ họp thứ 5 HĐND thành phố khóa

XIV nhiệm kỳ 2014-2016, số 2809/BC-TA, ngày 16 tháng 11 năm 2015., kết

quả đạt được như sau:

2.2.2. K t quả áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự của Thẩm

phán tại Tòa án nhân dân thành phố ải Phòng năm 2016

Đối với hai năm 2016 và 2017, học viên sẽ đưa ra số liệu cụ thể hơn cũng

như nêu ra nội dung và đường lối giải quyết một số vụ án để qua đó đánh giá

năng lực xét xử án hình sự của Thẩm phán Tòa Hình sự TAND thành phố Hải

Phòng.

Năm 2016 Tòa Hình sự - Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng thụ lý tổng

số các loại án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm 261 vụ 567 bị cáo, đã giải quyết, xét

xử 257 vụ 563 bị cáo, đạt tỉ lệ giải quyết 98,47% vượt chỉ tiêu thi đua đề ra 3,47

%. Số thụ lý các VAHS sơ, phúc thẩm năm 2016 giảm 22 vụ 60 bị cáo so với

năm 2015. Trong đó:

2.2.3. K t quả áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự của Thẩm

phán tại Tòa án nhân dân thành phố ải Phòng năm 2017

Năm 2017, Tòa Hình sự - Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng thụ lý tổng

số các loại án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm 270 vụ 650 bị cáo, đã giải quyết, xét

xử 263 vụ 632 bị cáo, đạt tỉ lệ giải quyết 97,41% vượt chỉ tiêu thi đua đề ra 7,41

%. Số thụ lý các VAHS sơ, phúc thẩm năm 2016 tăng 09 vụ 83 bị cáo so với

năm 2016. Trong đó:

- Về án hình sự sơ thẩm: Đã giải quyết, xét xử 160 vụ 487 bị cáo trên tổng

số thụ lý 163 vụ 500 bị cáo đạt tỉ lệ 98,16% vượt 8,16% so với chỉ tiêu thi đua

đề ra. So với năm 2016, số lượng thụ lý VAHS sơ thẩm giảm 02 vụ nhưng tăng

65 bị cáo. Cụ thể kết quả xét xử án hình sự sơ thẩm năm 2016 như sau:

14

2.3. Đánh giá chung về năng lực áp dụng pháp luật của Thẩm phán

trong xét xử vụ án hình sự ở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thời

gian qua

2.3.1. Nh ng ưu điểm và nguyên nhân

ề chất lượng xét xử

Việc xét xử các VAHS nhìn chung đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật. Năm 2017, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, số lượng án thụ lý

tăng nhiều so với năm 2016. Tổng số việc toàn ngành thụ lý 5140 vụ việc, đã

giải quyết, xét xử được 5029 vụ việc, đạt tỉ lệ 97,84%. So với năm 2016 thụ lý

tăng 688 vụ, giải quyết tăng 644 vụ nhưng với tinh thần cố gắng quyết tâm, Tòa

án hai cấp đã tập trung cao cho công tác xét xử. Tỉ lệ, chất lượng giải quyết, xét

xử một số loại án tiếp tục được nâng lên.

Tỷ lệ xét xử các VAHS năm nào cũng vượt chỉ tiêu thi đua đề ra từ 3% đến

4% . Đã kịp thời đưa ra xét xử nghiêm minh Vụ án Phạm Thanh Bình và các bị

cáo phạm tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây

hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam

Vinashin. Đã phối hợp với Công an, Viện Kiểm sát xác lập, xét xử một số

VAHS trọng điểm, đưa ra xét xử lưu động nhiều vụ án tại địa bàn gây án phục

vụ yêu cầu chính trị địa phương, đáp ứng công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm.

2.3.2. Nh ng hạn ch và nguyên nhân

Tuy nhiên bên cạnh các kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy việc thực hiện

các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán vẫn còn

nhiều hạn chế cụ thể là:

* ự vi phạm về nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của

Thẩm phán vẫn còn xảy ra

Ở Việt Nam Tòa án vẫn được coi như một cơ quan hành chính và Thẩm

phán như công chức hành chính.Với cơ chế hiện nay hoạt động xét xử của Thẩm

phán bị chi phối từ nhiều phía. Lãnh đạo Tòa án được coi là thủ trưởng của

15

Thẩm phán trong nhiều mối quan hệ "ngoài tố tụng" và việc báo cáo án, thỉnh thị

án, duyệt án... Vẫn là một hiện tượng khá phổ biến ở các địa phương. Thông qua

cơ chế này ở nhiều địa phương Chánh án đã can thiệp sâu vào việc xét xử đối

với từng vụ án cụ thể, thậm chí có trường hợp lạm dụng để chỉ đạo Thẩm phán

làm trái pháp luật.

* Trong hoạt động xét xử một số Thẩm phán còn bị tác động bởi các y u

tố tiêu cực từ phía nh ng người tham gia tố tụng

- ề các quy định của BLTT

BLTTHS chưa quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

nên các quy định của Bộ luật chưa cụ thể hoá đầy đủ tính chất tranh tụng tại

phiên toà. Một số quy định của BLTTHS đặt gánh nặng trách nhiệm chứng minh

tội phạm lên vai HĐXX (ví dụ khoản 2 Điều 307 quy định về trình tự xét hỏi

như sau: Khi xét xử từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội

thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa…) Vì vậy, chính các chủ thể

tham gia tranh tụng (Kiểm sát viên, luật sư…) cũng chưa ý thức được đầy đủ về

quyền và nghĩa vụ của mình trong tranh tụng. Việc xét hỏi tại phiên toà là một

giai đoạn của quá trình tranh tụng tại phiên toà, cho nên cần phải để các bên

tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh (Viện kiểm sát, người bào chữa

…) tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn HĐXX thực hiện việc giám sát, duy trì

trình tự xét hỏi ở bất kỳ thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các

tình tiết vụ án chưa được các bên làm rõ trong quá trình xét hỏi. BLTTHS cần

xác định rõ tại phiên toà. Vai trò của HĐXX chỉ là người trọng tài giữa bên buộc

tội và bên bào chữa để ra phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi theo hướng buộc

tội là trách nhiệm của Kiểm sát viên, việc xét hỏi gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự cho bị cáo là trách nhiệm của người bào chữa.

* Các nguyên nhân khác

Bên cạnh những bất cập nêu trên, sự hạn chế về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức của Thẩm phán cũng là những nguyên nhân

ảnh hưởng tới nhiệm vụ, quyền hạn Thẩm phán.Thẩm phán phải là người có

16

trình độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm

công tác chuyên môn tuy nhiên có phần đông vẫn là tại chức vừa học vừa làm

nên có những hạn chế nhất định về kiến thức pháp luật mới. Thẩm phán không

hoàn thành nhiệm vụ dẫn đến chưa được tái bổ nhiệm khi hết nhiệm kỳ là có.

17

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ

THỰC HIỆN TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở HẢI PHÒNG

3.1. Quan điểm về nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của thẩm phán

trong xét xử các vụ án hình sự

3.1.1. Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của thẩm phán trong xét xử

các vụ án hình sự để đáp ứng yêu c u xây dựng Nhà nước pháp quyền iệt

Nam của Dân do Dân và vì Dân

NNPQ là nhà nước có khả năng cao nhất trong việc bảo vệ, bảo đảm các

quyền con người. Bảo vệ các quyền con người, bảo vệ công lý và cuộc sống

bình yên cho xã hội không thể thiếu được hoạt động của các cơ quan tư pháp

trong đó có Tòa án. Bảo đảm chất lượng ADPL của Tòa án nói chung và chất

lượng ADPL trong xét xử VAHS của Thẩm phán nói riêng là một đòi hỏi cấp

thiết trong xây dựng NNPQ, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Yêu cầu đó

cũng xuất phát từ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, một trong những

tiêu chí đánh giá, nhận diện NNPQ.

3.1.2. Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của thẩm phán trong xét xử

các vụ án hình sự để đáp ứng yêu c u xây dựng cải cách tư pháp, bảo vệ các

quyền con người, hội nhập quốc t

Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động tư pháp và yêu cầu cấp thiết

phải cải cách tư pháp trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị

quyết về cải cách tư pháp, như nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị đã nêu rõ:

…Khi xét xử Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước

pháp luật; thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu

vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các

18

chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,

nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để những bản

án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định

[3].

3.1.3. Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của thẩm phán trong xét xử

các vụ án hình sự nh m tăng cường tính răn đe của pháp luật, góp ph n đảm

bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vì sự ổn định và phát triển bền

v ng của đất nước

Bên cạnh những thành tựu to lớn, hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ

của nền kinh tế thị trường mang nhiều hậu quả tiêu cực, làm gia tăng tình hình vi

phạm pháp luật và tội phạm. Đặc biệt trong điều kiện mặt bằng dân trí và trình

độ hiểu biết pháp luật của đại bộ phận dân cư chưa cao, những tác động này

càng dễ phát triển và lây lan trên diện rộng. Đó là lối sống thực dụng, xa lạ với

nền văn hóa, phong tục tập quán và những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp

của dân tộc. Một bộ phận không nhỏ trong số đó luôn coi giá trị đồng tiền là trên

hết, vì đồng tiền họ sẵn sàng chà đạp lên tất cả, sẵn sàng làm bất cứ việc gì,

miễn là kiếm được tiền kể cả phạm tội, như: Buôn bán ma túy, trộm cắp, cướp

giật, lừa đảo…, thậm chí chém, giết thuê. Trong khi đó công tác quản lý nhà

nước về an ninh trật tự chưa đáp ứng được yêu cầu, còn bị động, đối phó, nhất là

trong giải quyết các vấn đề phức tạp và bức xúc của xã hội mới nảy sinh. Công

tác đấu tranh phòng chống tội phạm còn yếu, chưa phát huy được sức mạnh của

toàn xã hội tham gia vào hoạt động này.

3.2. Giải pháp nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của Thẩm phán

trong xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong

BLTTHS

Qua nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về nhiệm

vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong việc xét xử các VAHS, trên cơ sở các yêu

19

cầu cải cách tư pháp hiện nay, có thể nêu ra một số giải pháp trực tiếp liên quan

đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, nhằm nâng cao hơn nữa

chất lượng xét xử VAHS. Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua

lại lẫn nhau tạo thành cơ chế vận hành đồng bộ thúc đẩy hoạt động xét xử của

Thẩm phán.

3.2.1.2. Nâng cao vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng Hình sự nói

chung,trong giai đoạn xét xử vụ án nói riêng.

Công việc xét xử tiến triển nhanh hay chậm, có hiệu quả hay không có hiệu

quả, đúng hay sai phụ thuộc rất lớn vào năng lực đội ngũ cán bộ. Vì vậy, kiện

toàn đội ngũ Thẩm phán các cấp có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Thẩm phán

phải là người vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu cầu có trình

độ rất cao, tinh thông về pháp luật, nhanh nhạy, chủ động, sáng tạo khách quan,

công bằng góp phần đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa tội phạm.

3.2.1.3. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức cho đội ngũ

Thẩm phán.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi

về chuyên môn là một yêu cầu quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp mà

Nhà nước ta đang thực hiện. Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm

phán, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề

nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng. Việc

bồi dưỡng cần đi vào các nội dung thiết thực đối với từng chức danh công chức;

phương pháp bồi dưỡng cần thường xuyên thay đổi, thường xuyên cập nhật để

có thể thực hiện được mục tiêu định hướng hành động trong tình hình mới và

phải mang tính thống nhất

3.2.1.4. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Thẩm

phán.

Quản lý nhà nước đối với Thẩm phán trước tiên cần tăng cường công tác

kiểm tra các hoạt động xét xử, kịp thời phát hiện những sai sót khuyết điểm,

giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm phán, không để xảy ra các vi phạm gây

20

hậu quả nghiêm trọng, có ảnh hưởng lớn tới công tác của toàn Ngành. Chính vì

thế, cần có sự quan tâm và phối hợp giữa các cơ quan chức năng mạnh mẽ hơn

nữa, chủ động nêu lên những vướng mắc của pháp luật để vấn đề quản lý Thẩm

phán mang lại kết quả khả quan.

3.2.1.5. Đổi mới công tác đào tạo, tuyển chọn nguồn Thẩm phán

Việc đổi mới công tác đài tạo, tuyển chọn nguồn Thẩm phán là giải pháp

quan trọng để tạo nguồn Thẩm phsn có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cải cách

tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

3.2.2. Giải pháp riêng đối với ngành Tòa án nhân dân thành phố ải

Phòng

3.2.2.1. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ Thẩm phán

Năng lực chuyên môn là năng lực thực tế tổ chức thực hiện và giải quyết

công việc. Năng lực chuyên môn được tạo nên từ quá trình đào tạo kiến thức cơ

bản ở các cơ sở đào tạo. Và qua quá trình được rèn luyện bồi dưỡng thường

xuyên trong việc thực thi nhiệm vụ hàng ngày. Vì thế, để nâng cao năng lực

chuyên môn TAND Hải Phòng cần phải thực hiện một số giải pháp.

- Cần phải có quy hoạch để tạo nguồn Thẩm phán.

- Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo nguồn Thẩm phán.

Thẩm phán được coi là một nghề đặc biệt, đã là một nghề thì phải cần một

trình độ thành thạo và cần phải được đào tạo nghề. Theo chương trình đào tạo

của Học viện Tư pháp thì công tác đào tạo nguồn Thẩm phán phải đạt được các

mục tiêu:

Một là, trang bị cho Thẩm phán những phương pháp khoa học, kinh nghiệm

và kỹ năng ADPL đặc biệt là pháp luật tố tụng vào việc giải quyết các tình

huống cụ thể trong lĩnh vực công tác được giao.

Hai là, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp tinh thần

"Phương công, thủ pháp, chí công vô tư" của Thẩm phán.

21

Ba là, rèn luyện bản lĩnh, phong cách của Thẩm phán theo hướng tôn trọng

lợi ích của mọi người, có khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động đúng

pháp luật, vững vàng và không bị chi phối bởi những tác động trái pháp luật.

Bốn là, cập nhật, trang bị những kiến thức mới về kinh tế, chính trị, văn

hóa, môi trường tư pháp, vai trò, vị trí của hoạt động tư pháp nói chung và của

Thẩm phán

3.2.2.2. Tăng cường hoạt động chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm

đối với hoạt động xét xử VAHS

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Mặt trận

tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác giám sát, động viên

nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó

kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa.

Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc

tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một nền tư pháp

của nhân dân thì nhân dân phải tính việc tham gia vào việc theo dõi thông tin về

hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các Thẩm phán. Các tổ chức chính trị -

xã hội có thể đóng vai trò giám sát tư pháp để làm tăng trách nhiệm của các

Thẩm phán.

Từng bước thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án, trừ những bản án

hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ

tục. Việc công bố bản án là việc chuyển tải toàn văn các quyết định và bản án

của Tòa án tới công chúng một cách công khai. Mục đích của việc công bố phán

quyết của Tòa án là nhằm làm cho công chúng thấy rõ quan điểm của Tòa án

trong việc ADPL để xét và giám sát chất lượng của Thẩm phán khi bản án đó.

Việc công bố bản án là hình thức công khai, minh bạch hóa chính sách và

pháp luật, việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu xây

dựng XHCN văn minh, đáp ứng với xu thế của quá trình hội nhập quốc tế, trong

đó người dân thực sự được làm chủ xã hội thông qua việc được biết, được bàn,

được kiểm tra việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp, của Tòa án. Cũng

22

chính vì thế mà bản thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để

làm sao tuyên bản án được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật

được xã hội thừa nhận.

3.2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất làm việc, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ

Thẩm phán.

Việc tăng cường cơ sở vật chất làm việc, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ Thẩm

phán góp phần giúp việc xét xử các vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách

quan và là nguồn động viên để đội ngũ Thẩm phán tập trung làm tốt nhiệm vụ

được giao.

KẾT LUẬN

Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ

máy nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng NNPQ Việt Nam XHCN. Các văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt là

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư

pháp, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan

tư pháp.

Trong điều kiện xây dựng NNPQ hiện nay thì Toà án là cơ quan công lý, là

Toà án của nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng không thể thiếu của

NNPQ XHCN. Như Nghị quyết 49/NQ - TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp chỉ rõ: Toà án có vai trò trung tâm của hoạt động

tư pháp, mọi hoạt động tố tụng của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và hoạt động

bổ trợ tư pháp đều chỉ có nghĩa là trợ giúp cho hoạt động xét xử của Toà án.

Cùng với việc phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường hội nhập quốc tế hiện nay,

23

bên cạnh những tiến bộ xã hội đã đạt được, cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải

quyết. Trong đó có vấn đề tội phạm và tranh chấp xảy ra ngày càng tăng về số

lượng, rộng hơn về quy mô có liên quan đến nhân tố trong và ngoài nước, về

tính chất cũng rất phức tạp, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Vì thế làm công tác xét

xử của Toà án ngày càng nặng nề hơn, khó khăn, phức tạp hơn và công việc đó

đặt trên vai đội ngũ Thẩm phán.

Trước những yêu cầu trên thì việc phải nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán

trong xét xử các VAHS là yêu cầu khách quan, là điều kiện tiền đề, là giải pháp

quan trọng để thực hiện chủ trương cải cách tư pháp nói chung và nâng cao chất

lượng và hiệu quả xét xử của Toà án nói riêng. Đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của

xã hội, của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người. Đây là một

vấn đề lớn và là một quá trình lâu dài, vì vậy cần phải được tiếp tục nghiên cứu

và có giải pháp cụ thể, có bước đi thích hợp, phù hợp với điều kiện của từng giai

đoạn của quá trình cải cách tư pháp.

24