VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG

NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG

NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 8 22 90 20

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :

TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép

của ai. Các kết quả khảo sát và nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung thực và

chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Khương Thị Lan Phương

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, đã tận

tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ học,

Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập

và nghiên cứu tại trường.

Hà nội, ngày 13 tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

Khương Thị Lan Phương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................ 11

1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan ................................................... 11

1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa............................................................ 14

1.3. Sự phát triển nghĩa của từ .................................................................................. 20

1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ ....................................................................... 22

1.5. Từ đa nghĩa……………………………………………………………….24

Chương 2. NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA

NÓ TRONG TIẾNG VIỆT…………………………………………………...26

2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt ............................................................ 29

2.2. Khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt ................................................ 33

Chương 3. NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA NHÓM TỪ

ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT .................................... 59

3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt ........................................... 59

3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt……...60

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 75

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN VĂN……………………………………………………………..79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quan niệm của người Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội,

và cuộc sống sinh hoạt luôn gắn liền với bữa cơm gia đình – nơi ẩn chứa

nhiều đạo lý, thể hiện tình cảm, yêu thương gắn kết giữa các thành viên, là

linh hồn của hạnh phúc, và cũng là nơi truyền đạt những tư tưởng, truyền

thống, những đạo lý từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ những phép cư xử

tưởng chừng đơn giản thông qua cách ăn uống: Ăn trông nồi, ngồi trông

hướng đến quan niệm về cái ăn, cái mặc: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Một

miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp… ông bà ta muốn trao gửi đến thế

hệ con cháu những thông điệp đầy chất nhân văn, một trong những điều

đầu tiên, cơ bản nhất mà mỗi người đều cần phải học đó là “Học ăn, học

nói, học gói, học mở”. Như vậy, “ăn” không còn đơn giản chỉ là câu

chuyện của việc duy trì sự sống, mà còn ẩn chứa trong đó những bài học về

nhân cách, là quan niệm về nhân sinh, về cuộc sống và các đạo lý, các cách

hành xử trong xã hội của con người.

Có thể nói hoạt động ăn của con người không chỉ là hoạt động mang

tính sinh học để duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với mỗi

cộng đồng với những thói quen, tập tục. Thông qua thói quen ăn uống,

chúng ta có thể hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý dân tộc, tập quán cũng

như cách ứng xử của con người với môi trường. Bởi vậy, cùng với sự thay

đổi và phát triển không ngừng của xã hội, thì vốn từ vựng trong tiếng Việt

nói chung và vốn từ vựng liên quan đến từ “ăn” nói riêng cũng không

ngừng tăng lên, hoạt động “ăn” của con người dần vượt lên những giá trị

duy trì sự sống, vươn tới tầm nghệ thuật. Điều đó được phản ánh khá sinh

động trong ngôn ngữ.

1

Với những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài : Nhóm từ, ngữ nói về

“ăn” trong tiếng Việt. Với mong muốn thông qua sự nỗ lực tìm hiểu,

nghiên cứu sự phát triển của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cùng với quá trình

phát triển của dân tộc, cũng như sự phát triển của nhóm từ này trong các

mặt khác nhau của cuộc sống dưới góc độ ngôn ngữ học. Thông qua đó có

thể góp một phần nhỏ vào nghiên cứu sự phát triển của từ vựng tiếng Việt

nói chung, và của nhóm từ liên quan đến từ “ăn” nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa

của từ ở Việt Nam

Việc nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng

Việt, là một trong những lĩnh vực được khá nhiều nhà ngôn ngữ học quan

tâm nghiên cứu. Bởi từ vựng là một bộ phận được coi là không ổn định

nhất trong hệ thống ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động và

phát triển, sự biến đổi nghĩa là một sự thực hiển nhiên và không ngừng

thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội.

Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học, được thể hiện

trong một số công trình nghiên cứu về từ vựng học, từ vựng - ngữ nghĩa

tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn Văn Tu, trong cuốn “Từ vựng học

tiếng Việt hiện đại” [40] đã đưa ra được nhiều quan điểm lý thuyết về sự

biến đổi nghĩa. Ông đã trình bày về bản chất và nguyên nhân của biến đổi

nghĩa, phân loại biến đổi nghĩa. Còn tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng sự thay

đổi nghĩa của từ trong tiếng Việt do nguyên nhân đơn giản là nhằm đáp

ứng nhu cầu tạo thêm từ mới của xã hội.[4]

Bên cạnh đó, một số tác giả như Lê Quang Thiêm đã dành nhiều sự

quan tâm đến biến đổi ý nghĩa của các yếu tố từ vựng. Trong ấn bản

chuyên khảo về lịch sử từ vựng (2003), tác giả đã dành một số trang để

2

khảo sát, nghiên cứu sự phát triển nghĩa qua con đường đa nghĩa hóa trong

tiếng Việt hiện đại (1858-1930). Đặc biệt, trong cuốn “Sự phát triển nghĩa

từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005” [35]. Đây là công trình Việt ngữ học

nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc nhất về sự phát triển

nghĩa của từ vựng tiếng Việt trên quan điểm đồng đại, vận dụng phương

pháp lịch sử so sánh, phân tích cấu trúc – hệ thống… Trên cơ sở đó có thể

xác lập được các tầng nghĩa, kiểu nghĩa để từ đó tìm hiểu sự biến đổi, phát

triển nghĩa từ vựng qua các mốc thời gian gắn liền với các sự kiện lịch sử

và những thăng trầm của đất nước.

Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của

ngôn ngữ và tư duy” [38] đã trình bày về đặc điểm của quá trình chuyển

nghĩa của trường từ vựng chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người (so

sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga). Tác giả đã phân tích và thống kê lượng

nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra những nhận định

về quá trình chuyển nghĩa của các trường từ vựng này.

Tác giả Phạm Văn Lam (2007) trong “Bước đầu khảo sát sự phát

triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến

nay” [22] đã khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng

danh từ thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn từ

năm 1945 đến nay. Nghiên cứu cho thấy, sự mở rộng và phát triển nghĩa

của các nhóm từ gắn liền với sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch

sử của dân tộc qua quãng thời gian có nhiều biến động và phát triển quan

trọng. Trên cơ sở khảo sát sự phát triển nghĩa theo hướng trí tuệ hóa và

biểu trưng hóa, từ đó tác giả chỉ ra các xu hướng, con đường phát triển

nghĩa của tiếng Việt, phân tích và lý giải các con đường phát triển ấy.

Theo hướng nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ

ngôn ngữ học tri nhận, Lý Toàn Thắng trong “Ngôn ngữ học tri nhận nhìn

3

từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” [31] đã áp dụng những khái

niệm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, đưa ra

những luận giải và các kết luận rất có giá trị đối với sự phát triển ngữ nghĩa

của từ trong tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong bài viết “Ngữ

nghĩa của từ “Ra”, “Vào” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nghiệm

thân”[17] đã dùng lí thuyết nghiệm thân để lí giải con đường chuyển nghĩa

của từ “ra”, “vào” trong tiếng Việt.

Hay tác giả Nguyễn Thị Hiền (2018) trong “Sự phát triển ngữ nghĩa

của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận”

[15] đã dùng cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận để làm rõ hiện tượng

phát triển ngữ nghĩa. Đặc biệt là thông qua hai phương thức chuyển nghĩa

ẩn dụ và hoán dụ. Tác giả đã nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa của từ

dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận để từ đó tìm ra các giá trị văn hóa và tư

duy đặc thù của dân tộc thông qua việc sử dụng ngôn ngữ.

Thông qua các công trình của một số tác giả trên cho thấy, việc

nghiên cứu sự phát triển nghĩa trong tiếng Việt nói chung, trong thời gian

gần đây đã dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt

là các công trình nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ ngôn

ngữ học tri nhận với những cấu trúc ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ, đa dạng

về nghĩa cũng như cách sử dụng, đã tạo nên những nét mới trong nghiên

cứu sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng Việt.

2.2. Tình hình nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ

nói về “ăn” trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt, việc nghiên cứu về nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, khởi

điểm là Hoàng Tuệ trong bài viết “Câu chuyện tiếp tục về nghĩa của những

từ đơn tiết” [43]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tính đa nghĩa của

4

từ “ăn”, đồng thời chỉ ra gần 40 nghĩa của từ này. Trên cơ sở từ nghĩa gốc

của từ “ăn” đã làm nảy sinh bốn dòng nghĩa phái sinh như sau:

1. Dòng nghĩa tiếp thụ

2. Dòng nghĩa hưởng thụ

3. Dòng nghĩa hài hòa

4. Dòng nghĩa tiêu hao

Từ đó, tác giả đã đưa ra một số nhận xét hết sức thú vị và độc đáo về

sự phát triển nghĩa từ “ăn” trong văn hóa và trong đời sống của người Việt.

Theo tác giả, mỗi dòng nghĩa là một trật tự biện chứng đi từ cụ thể đến khái

quát. Các dòng nghĩa cũng tập hợp lại thành một trật tự cân đối và đẹp đẽ,

đầy sức sống.

Tiếp theo là đề tài nhiên cứu “Một số vấn đề văn hóa ăn, uống trong

xã hội cổ truyền người Việt” [20] do Nguyễn Hải Kế (2004) chủ trì đề tài.

Tác giả cho rằng: từ “ăn” trong tiếng Việt đã mở rộng, phát triển nghĩa bao

hàm nghĩa bóng sang tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…

Qua từ “ăn” có thể nhìn thấy những nét cơ bản, phổ biến của xã hội Việt

Nam ngày hôm qua.

Cùng quan tâm đến vấn đề cái “ăn” trong văn hóa Việt, tác giả Vũ

Ngọc Khánh trong cuốn sách “Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi” [21]

khi viết về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã dành một chương để nói về đề tài

này. Theo tác giả, trong ngôn ngữ Việt Nam, không có từ nào như từ “ăn”

được ghép thành vô số những từ tố thông dụng trong tiếng nói con người.

Có những từ phải suy nghĩ, phân tích mới thấy là ghép với từ “ăn” cũng là

thích hợp. Nhưng có những từ không dính dáng gì đến chuyện “ăn”, mà

vẫn phải dùng chữ ăn để làm thành phần của từ tố, từ vị. Chuyện ăn của

người Việt quả là một bài học vô cùng đa dạng và tinh tế.

5

Nguyễn Đức Dân trong bài viết “Ăn, một từ kỳ thú” [7] đã khẳng

định từ “ăn” có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc bởi nó là một từ chỉ hoạt

động cơ bản nhất của con người. “Ăn” là hành động gắn liền với con người

ngay từ buổi sơ khai, nghĩa của từ “ăn” được mở rộng dần theo cách lấy

khuôn mẫu con người để nhận thức vũ trụ. Và nó là một từ điển hình có

nghĩa được mở rộng, con đường phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” vô cùng

phong phú. “Ăn” từ nghĩa đen đến nghĩa ẩn dụ, rồi các nghĩa chuyển, nghĩa

phái sinh là thiên biến vạn hóa, nó diễn tả mọi nhận thức của con người về

cuộc sống quanh mình và về vũ trụ một cách rất chân thực nhưng cũng vô

cùng tinh tế.

Cùng trong mạch luận bàn về cái ăn, về ẩm thực, luận án “Đặc điểm

trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt) của Ngô

Minh Nguyệt [23] là công trình chuyên sâu nghiên cứu về các từ ngữ ẩm

thực ở Việt Nam. Tác giả tập trung nghiên cứu các từ, ngữ liên quan đến ăn

uống, chỉ ra đặc điểm cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa, từ đó nêu ra những

hàm ý văn hóa của các từ ngữ ẩm thực: Đặc điểm con người, đặc trưng văn

hóa ẩm thực trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cùng với sự

phát triển của xã hội, ăn uống dần vượt lên giá trị duy trì sự sống, điều này

được phản ánh sinh động trong ngôn ngữ.

Có thể nói trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đều

cho rằng con đường phát triển nghĩa của từ “ăn” là vô cùng phong phú, nó

gắn liền với đặc trưng tư duy và văn hóa dân tộc.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ

“ăn” trong tiếng Việt kể trên, thì việc nghiên cứu các thành ngữ có chứa

thành tố “ăn” trong tiếng Việt cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của

một số tác giả. Trong đó tác giả Nguyễn Hữu Đạt (2010) với bài viết “Con

đường tạo nghĩa của các thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa

6

mặc’ trong tiếng Việt” [8] đã đi sâu vào phân tích quá trình tạo nên nghĩa

biểu trưng liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm “văn hóa ăn và văn

hóa mặc” của người Việt, trên cơ sở đó để tìm ra mối quan hệ gắn bó khăng

khít giữa “văn hóa ăn và văn hóa mặc” trong tiếng Việt. Đây được xem là

một trong các cơ sở hình thành nên nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt

Nam.

Tác giả Đào Thị Hồng Quyết trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm của

thành ngữ có chứa thành tố “Ăn” trong tiếng Việt” [29] cũng nghiên cứu

trên khối liệu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt, làm rõ đặc

điểm ngữ nghĩa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt, trong đó, tư

duy về văn hóa ăn được thể hiện qua thành ngữ như tính cộng đồng trong

bữa ăn, tính phép tắc xã hội, miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống của

người dân Việt Nam.

Tiếp cận theo hướng tri nhận, Nguyễn Thị Bích Hợp trong “Ẩn dụ ý niệm

miền “đồ ăn” trong tiếng Việt” [17] đã nghiên cứu về miền ý niệm đồ ăn, với việc

xây dựng mô hình cấu trúc miền đồ ăn gồm 5 nhóm lớn, tương ứng với 5 điển mẫu.

Thông qua việc nghiên cứu các điển mẫu với 5 mô hình tỏa tia “cơm, ăn, mặn, bát,

đói”, tác giả đã chứng minh rằng “ăn” là ý niệm có sự phát triển nghĩa mạnh nhất,

từ một nghĩa gốc phái sinh 04 chùm nghĩa, rồi phát triển lên tổng số thành tố là 16

nghĩa. Các thành tố nghĩa mới có sự biến chuyển xa dần nghĩa trung tâm. Thông

qua mô hình tỏa tia, cho thấy xu hướng tư duy ẩn dụ, hoán dụ trong quá trình ý

niệm hóa tạo nên các nghĩa mới. Nguyễn Thị Hương (2017) với đề tài “Ẩn dụ ý

niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [18] đã

nghiên cứu sự chuyển nghĩa, tỏa tia nghĩa của những điển mẫu là những từ chỉ

phạm trù ăn, uống, từ nghĩa gốc, nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai

ngôn ngữ.

7

Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, cho chúng ta thấy,

việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, ngữ nói về “ăn” tiếng Việt là tương

đối phong phú. Tuy nhiên, việc đi sâu lí giải cơ chế hình thành những nghĩa đó,

cũng như tìm hiểu các từ đồng nghĩa trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong Tiếng

Việt, chưa dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới Việt ngữ. Điều đó đã

gợi ý cho tôi thực hiện đề tài “Nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn này là tìm hiểu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ,

ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định

khuynh hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt.

Thông qua đó, để hiểu rõ hơn về quan niệm sống, nhân sinh quan của người Việt về

văn hóa ăn, mà sâu sắc hơn là cách nhìn nhận, đánh giá con người được thể hiện

qua hoạt động “ăn”.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những

nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài

nghiên cứu.

- Xây dựng khung lý thuyết về ngữ nghĩa của từ và hiện tượng

chuyển nghĩa của từ.

- Khảo sát sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” được thể hiện

trong ngữ cảnh, qua các kết hợp, thông qua đó, để có thể thấy được sự phát triển

ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

8

Trong phạm vi của luận văn này đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là

nghiên cứu các nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Trên cơ sở đó nghiên

cứu ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ, xuất phát từ nghĩa gốc của từ “ăn” trong

từ điển.

- Luận văn xác định những từ, ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động “ăn” trong

tiếng Việt và các kết hợp của nhóm từ này trong ngữ cảnh sử dụng, cũng như giá trị

ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh.

- Luận văn xác định các nghĩa chuyển của từ “ăn” trong tiếng Việt theo

hướng xa dần với nghĩa gốc và hoạt động của nhóm này trong hành chức cũng như

ý nghĩa ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh (khảo sát ngôn ngữ báo chí, trong văn

chương và trong các thành ngữ).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát ngữ nghĩa của từ “ăn” và dãy đồng nghĩa của từ “ăn”

trong Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê [25], Từ điển đồng nghĩa tiếng Việt

của tác giả Nguyễn Văn Tu [42]. Để xem xét các kết hợp của “ăn” trong hành chức,

luận văn khảo sát hoạt động của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” (bao gồm cả các từ đồng

nghĩa với từ “ăn”) trên ngôn ngữ báo chí (báo điện tử), trong một số tác phẩm văn

học và trong thành ngữ.

4.3. Tư liệu nghiên cứu

Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các cuốn Từ

điển tiếng Việt, Từ điển thành ngữ Việt Nam, một số tác phẩm văn học. Bên cạnh

đó luận văn còn khai thác tư liệu từ các trang Wed về thành ngữ tiếng Việt, một số

bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự phát triển ngữ

nghĩa của từ “ăn” đã xuất bản. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa chủ yếu

trên các trang báo điện tử như: báo Thanh niên ( https://thanhnien.vn/), báo Tuổi trẻ

(https://tuoitre.vn/), báo Dân trí (https://dantri.com.vn/)…), báo Vietnamnet

9

https://vietnamnet.vn/ và một số trang báo điện tử khác được Bộ Thông tin và

Truyền thông cấp phép.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số phương

pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp miêu tả: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm xác định

các nội hàm các khái niệm từ, nghĩa của từ, và các từ đồng nghĩa.

- Phương pháp phân tích nghĩa nghĩa: Phương pháp này được sử dụng để

phân tích nghĩa của từ để tìm ra nghĩa gốc, nghĩa phái sinh của từ.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lí luận: Việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ

nói về “ăn” trong tiếng Việt góp phần khẳng định khuynh hướng phát triển ngữ

nghĩa của nhóm từ “ăn” trong giai đoạn thực tế hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể ứng dụng trong

giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ và bản ngữ, cung cấp cơ sở giải thích nghĩa

của từ “ăn” trong giảng dạy tiếng Việt, đặc biệt cho người nước ngoài học tiếng

Việt; thông qua đó, góp phần làm rõ mối liên hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, và Phụ lục, nội dung luận văn gồm có ba

chương:

Chương 1. Cơ sở lí thuyết.

Chương 2. Ngữ nghĩa của từ “ăn” và khả năng kết hợp của nó trong tiếng

Việt

Chương 3. Ngữ nghĩa và khả năng kết hợp của nhóm từ đồng nghĩa với từ

“ăn” trong tiếng Việt

10

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm từ

Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu

bất cứ một ngôn ngữ nào người ta cũng không thể bỏ qua việc xác định đơn vị này.

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về từ, bởi ở mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau,

từ cũng có những đặc điểm riêng của mình. Vấn đề “từ” trong tiếng Việt cũng vậy,

nó là vấn đề thuộc về lý luận cơ bản, vì toàn bộ hệ thống miêu tả ngôn ngữ phụ

thuộc vào nó. Từ không chỉ là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản

của ngôn ngữ nói chung. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Cho

đến nay, chưa có một định nghĩa nào lý tưởng về từ có thể áp dụng cho mọi ngôn

ngữ, bởi mỗi ngôn ngữ có những nét riêng biệt.

Theo định nghĩa của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, định nghĩa phổ biến hiện

nay được nhiều nhà ngôn ngữ học cho là phù hợp về từ là: “Từ là đơn vị nhỏ nhất

của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [12, tr.61]

Đối với tiếng Việt, những tiếng như: hai, ba, ăn, ngủ, tôi nhà, tốt, đẹp,… và,

tuy, nhưng…. đều được mọi người nhất trí coi là từ. Từ là đơn vị cơ bản của tiếng

Việt và là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất:

- Chức năng cơ bản của từ là chức năng định đanh, nhưng trong dãy ngữ đoạn,

từ còn mang chức năng “phân biệt nghĩa” bộc lộ ý nghĩa này hay ý nghĩ khác của

những từ nhiều nghĩa.

- Từ tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Chính đặc điểm

này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trên giao điểm của

hai trục tọa độ cơ bản trong tổ chức cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối vị (trục dọc) và

trục nối tiếp (trục ngang).

11

- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng lẫn

nhân tố ngữ pháp.

So với từ của các ngôn ngữ Ấn Âu thì từ của tiếng Việt có những đặc

điểm sau:

- Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Ví dụ: ăn là một từ có

nghĩa, nhưng nếu phân tích ra thành /ă/ /n/ thì đó chỉ là những âm hoàn

toàn không có nghĩa.

- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm (ví dụ: trời và giời, trăng và

giăng…), biến thể từ vựng - ngữ nghĩa (ví dụ: Các ý nghĩa khác nhau của

từ ăn: ăn giải, xe ăn xăng, ăn ảnh, ăn nằm…) nhưng không có biến thể

hình thái học.

- Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở

trong từ tiếng Việt.

Từ những đặc điểm trên của tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp

đã rút ra định nghĩa về từ của tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng Việt là một

chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một

âm tiết, một khối viết liền” [13, tr.77]

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một

số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,

nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa

nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [4, tr.16].

Trong đó, các thành phần bên trong từ (thành phần ngữ âm, thành phần ngữ

pháp, thành phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa) không độc lập với nhau mà

quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau thành một tập thể gọi là từ. Và các

thành phần ấy có tính đồng loạt chứ không phải chỉ có tính riêng biệt.

12

Chính nhờ tính đồng loạt của các thành phần mà khi gặp một hình

thức ngữ âm nào đó, chúng ta mới có thể quyết định nó là từ nào và sử

dụng nó theo cách nào.

Ví dụ: Khi gặp hình thức ngữ âm “sơn”, dựa vào thành phần ngữ

pháp và ý nghĩa chung với các từ tô, bôi, nhuộm…mà chúng ta quyết định

và sử dụng nó như một động từ.

Theo chúng tôi, mỗi khái niệm đều đề cập đến những khía cạnh khác

nhau của từ tiếng Việt. Ví dụ như đơn vị cấu tạo từ, đặc điểm của từ… Tuy

nhiên để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi lựa chọn khái

niệm về “từ” theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu.

1.1.2. Khái niệm ngữ

Trong quá trình phát triển của dân tộc, một trong những thành tựu

quan trọng nhất là sự mở rộng không ngừng những tư tưởng, những khái

niệm mà con người có thể truyền đạt được. Con người cần thông báo cho

nhau không chỉ cảm xúc, tri thức…mà còn có vô hạn các sự kiện trong đời

sống. Hệ thống các từ trong tiếng Việt không đủ để biểu thị một số lượng

lớn như thế các khái niệm, hiện tượng khác nhau. Từ đó phát sinh nhu cầu

tất yếu là phải cấu tạo thêm những đơn vị từ vựng mới trên cơ sở những từ

đã có sẵn. Những đơn vị như thế được gọi là ngữ, có giá trị tương đương

với từ.

Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [13, tr. 537]: “Ngữ là những cụm từ

sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm

giống với từ”:

- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ.

- Về mặt cú pháp, chúng cũng có thể làm thành phần câu, tức là có

tính độc lập về cú pháp.

13

- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực

tế khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.

Tính cố định và tính thành ngữ là hai đặc trưng cơ bản của ngữ.

1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa

1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ

Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất

của con người. Xét về mặt lý thuyết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Mỗi tín

hiệu là một tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà

thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ chính là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu

hiện là khái niệm (ý nghĩa) hay đối tượng được biểu thị. Hai mặt này luôn gắn kết

với nhau, không tách rời nhau, giống như “hai mặt của một tờ giấy vậy”. Nghĩa của

từ cùng với hình thức ngữ âm được hình thành và ổn định dần dần trong lịch sử

phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.

“Nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn ngữ

học. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này.

Một số người cho rằng, nghĩa của từ là sự vật hay hiện tượng do từ biểu thị.

Chẳng hạn, theo quan niệm này, nghĩa của từ cây là bản thân cái cây trong thực tế,

nghĩa của các từ ăn, nói …từ tốt, xấu… là bản thân hành động, tính chất tương ứng.

Trên thực tế, vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên

nghĩa của từ cũng là một hiện tượng phức tạp. Ở Việt Nam, vận dụng những thành

tựu nghiên cứu về nghĩa vào thực tế tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa

ra quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ như sau:

Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp sau khi đã

trình bày các quan niệm khác nhau về nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới,

đã đưa ra nhận định của mình về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là một đối

tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản như sau:“nghĩa sở chỉ”, “nghĩa

sở biểu”, “nghĩa sở dụng”, “nghĩa cấu trúc” [11, tr.126].

14

Theo tác giả Hoàng Phê, nghĩa của từ là “Một tập hợp những nét nghĩa có

quan hệ quy định lẫn nhau. Mỗi nghĩa của từ là một tổ hợp đặc biệt những thành tố

ngữ nghĩa, gọi là các nét nghĩa”; “Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa

là cái chung cho những từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái riêng trong ý nghĩa

thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được những cái tinh tế trong từ và mới hiểu

được những đặc sắc của từng ngôn ngữ ở những phương diện nội dung”. [26]

Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy, cấu trúc của nghĩa từ là một cấu trúc

động, trong quá trình đi vào hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa của từ có

khả năng hiện thực hóa. Khả năng hiện thực hóa ấy là tùy thuộc vào từng ngữ cảnh

mà chúng xuất hiện.

Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa

tiếng Việt [4, tr.103], ông cho rằng: Nghĩa của từ là có thể chia thành hai lớp nghĩa

là lớp nghĩa cấu trúc hóa và lớp nghĩa liên hội. Trong lớp nghĩa cấu trúc bao gồm ý

nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Nếu ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho

hàng loạt các từ (ý nghĩa hoạt động của các từ: ăn, uống, ngủ, cười, khóc…ý nghĩa

sự vật của các từ: nhà, cây, sách, bút…) thì ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của

từng từ. Ý nghĩa từ vựng tùy theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý

nghĩa của từ bao gồm các thành phần ý nghĩa sau đây: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa

biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.

- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.

- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.

- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.

Ý nghĩa biểu vật của từ là sự phản ánh sự vật, hiện tượng…trong thực tế

khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở nguồn gốc của ý nghĩa

biểu vật. Nó mang tính võ đoán, quy ước của xã hội, đó là những mẩu, những mảnh

trong những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế, có tính

khái quát nên không gắn với hoạt động, tính chất cụ thể của sự vật.

15

Ý nghĩa biểu niệm của từ là thành phần cơ bản của ý nghĩa từ vựng. Sự vật,

hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào ngôn ngữ thành ý nghĩa

biểu vật và từ có ý nghĩa biểu vật thì sẽ có ý nghĩa biểu niệm tương ứng. Ý nghĩa

biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng được sắp xếp theo

một tổ chức, một trật tự nhất định. Các từ thuộc các từ loại khác nhau, có cách tổ

chức các nét nghĩa khác nhau. Còn các ý nghĩa biểu niệm của những từ trong một

từ loại lại có tổ chức giống nhau. Giữa các nét nghĩa của chúng lại có quan hệ với

nhau. Ví dụ, các nét nghĩa “đồ dùng” là dùng chung cho các từ bàn, ghế, giường,

tủ… nhưng trong mỗi từ này lại có những nét nghĩa riêng biệt.

Ý nghĩa biểu thái của từ là những nhân tố đánh giá, biểu thị cảm xúc và thái

độ mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Đây thực tế là sự phản ánh mối quan

hệ giữa từ và người sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: Từ “ôm” trong câu “Bà mẹ ôm con

vào lòng” trung hòa về mặt biểu thái. Nhưng câu nói “Cả ngày chỉ ôm lấy cái điện

thoại” thì từ “ôm” ở đây đã thể hiện thái độ chê trách. Ba thành phần ý nghĩa trên

phản ánh việc xem xét, nhìn nhận từ ở các góc độ khác nhau. Vì từ là một thể thống

nhất, sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của từ phải là sự hiểu biết thấu đáo từng mặt

một nhưng cũng phải là sự hiểu biết tổng quát về những mối liên hệ quy định lẫn

nhau giữa chúng.

1.2.2. Hiện tượng đồng nghĩa

Hiện tượng đồng nghĩa là một vấn đề khá thú vị trong ngôn ngữ học. Theo

Đại từ điển Bách Khoa Xô Viết, tập 23 [114], thuật ngữ chỉ hiện tượng đồng nghĩa

thuật ngữ tiếng Anh là Synonymy có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Synònymia có

nghĩa là “cùng tên” chỉ quan hệ giữa hai biểu thức đẳng nghĩa nhưng không đồng

nhất. Tính chất đẳng nghĩa ở đây được hiểu là tính tương ứng, hoặc là với cùng một

biểu vật (sự kiện, khách thể….), hoặc là cùng một biểu niệm (cái được biểu hiện

thuộc tính ngôn ngữ). [dẫn theo 39, tr.66].

16

1.2.2.1. Phân biệt hiện tượng đồng nghĩa, đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ

đồng nghĩa

a. Hiện tượng đồng nghĩa

Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, đồng nghĩa là một trong những khái niệm có

tính chất nền tảng nhất của ngôn ngữ học. Như chúng ta đã biết, trong ngôn ngữ

học, chủ yếu các nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu hiện tượng đồng nghĩa biểu niệm.

Các biểu thức A và B được gọi là đồng nghĩa nếu cái biểu hiện của chúng không

như nhau. Nghĩa là: hình thức (A) ≠ hình thức (B), còn cái được biểu hiện của

chúng là như nhau. Nghĩa là: Nội dung (A) = (B). Người ta thường nói đến hiện

tượng đồng nghĩa khi cái được biểu hiện tương ứng là khá gần gũi với các khái

niệm từ đồng nghĩa hay từ gần nghĩa. Theo Nguyễn Đức Tồn, hiện tượng đồng

nghĩa có nội dung rất rộng, nó có thể xảy ra giữa các hình vị (ví dụ: vô- phi- bất),

đơn vị từ vựng đồng nghĩa (ví dụ: chết, tử, ngoẻo, toi), các kết hợp cú pháp (ví dụ:

Hương cao hơn Nam- Nam không cao bằng Hương).

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng hiện tượng đồng nghĩa có mặt trong hệ thống

ngôn ngữ - những hiện tượng đồng nghĩa từ vựng và trong các văn bản - những

hiện tượng đồng nghĩa lời nói. Ở cả hai khu vực trên có thể có những từ và ngữ cố

định đồng nghĩa, có những cụm từ và cụm từ (tự do) đồng nghĩa và cả những câu

đồng nghĩa. [4, tr.192]

b. Đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa

Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn, các đơn vị từ vựng đồng nghĩa gồm

các từ và các ngữ cố định có chức năng tương đương với từ như: hoa hồng, sân

bay, quần áo, ông bà, chậm như rùa, nghịch như quỷ sứ... Do đó, hiện tượng đồng

nghĩa có thể xảy ra giữa các từ. Ví dụ: nhìn - nhòm - dòm - ngó, mẹ - má- bầm- u,

xô- đẩy- ẩy, …hoặc giữa các ngữ cố định. Ví dụ: Được voi đòi tiên - Được đằng

chân lân đằng đầu; Đói cho sạch, rách cho thơm - Giấy rách giữ lấy lề...

17

Ngoài ra, hiện tượng đồng nghĩa còn xảy ra giữa một từ và một ngữ cố định:

xấu- xấu như ma, đen- đen như củ súng,…

Từ đó, ta có thể thấy rằng từ đồng nghĩa là trường hợp riêng quan trọng nhất

nằm trong cái được gọi là đơn vị từ vựng đồng nghĩa phân việt với đơn vị ngữ pháp

đồng nghĩa và tất cả đều nằm trong hiện tượng đồng nghĩa của ngôn ngữ. [39, tr.70]

1.2.2.2. Quan niệm về từ đồng nghĩa

Cho đến nay, trong lịch sử ngôn ngữ học có rất nhiều các quan niệm khác

nhau về từ đồng nghĩa. Sự bất đồng trước tiên trong khi giải quyết các vấn đề từ

đồng nghĩa là do kết cấu ngữ nghĩa đa dạng, phức tạp của từ gây nên. Mỗi từ không

phải bao giờ cũng chỉ có một nghĩa. Nhiều trường hợp một từ có nhiều nghĩa khác

nhau. Hiện tượng đa nghĩa này dẫn đến các quan niệm khác nhau về từ đồng nghĩa.

Nguyễn Văn Tu trong cuốn “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” đã đưa ra

quan niệm của mình về từ đồng nghĩa như sau: “Từ đồng nghĩa là nhiều từ khác

nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên

khác nhau của một hiện tượng. Những từ đồng nghĩa có một chỗ chung là việc định

danh”. [39, tr. 153]

Đỗ Hữu Châu quan niệm về từ đồng nghĩa: “Hiện tượng đồng nghĩa là hiện

tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ

đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ có chung một nét nghĩa đồng nhất. Số lượng

các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì các từ càng đồng nghĩa với nhau. Mức độ

đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đó có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận

các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác ở một hoặc vài nét nghĩa cụ thể nào đó. [4,

tr.199]

Nguyễn Đức Tồn quan niệm rằng: Từ đồng nghĩa phải dựa trên cả hai

thành phần nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm: Hai đơn vị từ vựng/từ được gọi là

đồng khi chúng có vỏ ngữ âm khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc các biểm niệm

giống nhau:

18

a. Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B’ và đảo lại “B là

A” mà không cần phải chỉnh lý bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào một trong hai

đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/ từ cùng nghĩa.

Nếu như để chúng có thể xuất hiện được trong các kết cấu “A là B” và đảo

ngược lại “B là A” cần có một sự chỉnh lý, thêm nét nghĩa nào đó vào một trong

hai đơn vị thì từ đó là những đơn vị từ vựng/ từ gần nghĩa” [39, tr.97]

Từ định nghĩa trên của tác giả Nguyễn Đức Tồn cho thấy, các từ đồng nghĩa

trước hết phải là những thuộc về cùng một từ loại (có như vậy chúng mới cùng xuất

hiện được trong kết cấu đồng nhất “A là B” và “B là A”). Trong ý nghĩa của chúng

có chứa những yếu tố đồng nhất. Các yếu tố khác nhau của các ý nghĩa này bị trung

hòa hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Một số từ cực kì gần gũi về ý nghĩa được

gọi là những từ cùng nghĩa. Đối với trường hợp đặc biệt của các từ cùng nghĩa là

các từ đồng nghĩa tuyệt đối.

Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu

và các nhà ngôn ngữ học đi trước, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã chia các từ đồng

nghĩa ra thành ba tiểu loại như sau:

a. Các từ đồng nghĩa ý niệm

Các từ đồng nghĩa ý niệm là các từ đồng nghĩa trung tính về phong cách và

khác biệt nhau về sắc thái của ý nghĩa cơ bản, chung cho mỗi từ. Chẳng hạn, các từ

đừng - chớ là những từ đồng nghĩa ý niệm, có ý nghĩa chung là đều biểu thị ý

“Khuyên ngăn không nên làm điều gì”. Hoặc từ như: nhiệm vụ - nghĩa vụ - trách

nhiệm, ý đồ - ý định, cơ hội - thời cơ - dịp, địch - giặc - quân thù…

b. Các từ đồng nghĩa phong cách

Các từ đồng nghĩa phong cách là những từ đồng nhất về ý nghĩa của chúng

và khác nhau về màu sắc phong cách.

Chúng ta có thể xác định được một từ nào đó là từ đồng nghĩa phong cách

khi đối chiếu nó với từ trung tính về phong cách tương ứng. Vì vậy, có thể nói trong

19

mỗi cặp từ đồng nghĩa phong cách hoặc trong mỗi dãy đồng nghĩa phong cách chắc

chắn sẽ có từ trung tính về phong cách. Chẳng hạn như các từ đồng nghĩa phong

cách trong nhóm từ nói về “ăn” trong tiếng Việt: Ăn (trung tính), xơi, mời (sang

trọng), hốc, đớp (thông tục)…

Các từ đồng nghĩa phong cách thường không thuần nhất. Có thể tách chúng

thành hai nhóm: Nhóm các từ cổ và nhóm các từ đồng nghĩa phong cách tiếng Việt

hiện đại.

c. Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách

Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ và các đơn vị tương

đồng của chúng biểu thị cùng một khái niệm hoặc cùng một hiện tượng của hiện

thực khách quan và khác nhau không chỉ về màu sắc phong cách mà còn khác nhau

cả về sắc thái của ý nghĩa chung ở mỗi từ. Ví dụ:

- Trinh thám - do thám - thám thính, vẻ vang - quang vinh, hát- ca,…

Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, trong ba loại từ đồng nghĩa trên thì hai nhóm

từ đồng nghĩa ý niệm và từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ gần nghĩa.

Còn từ đồng nghĩa phong cách là những từ cùng nghĩa.

1.3. Sự phát triển nghĩa của từ

Trong diễn tiến ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động phát triển,

sự biến đổi nghĩa là sự thực hiển nhiên trong nghĩa ngôn ngữ. Có thể nói phát triển

nghĩa, chính là một quá trình phát triển mở rộng các chức năng (định danh, biểu

đạt…) của từ. Đây chính là sự tăng lên về dung lượng nghĩa có trong một từ, tức là

tăng thêm các biến thể từ vựng- ngữ nghĩa trong một vỏ bọc âm thanh của từ, là sự

tăng lên về các nét nghĩa trong cấu trúc của một biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, các

nét nghĩa trong một biến thể từ vựng cho phép chủ thể ngôn ngữ có thể sử dụng từ

đó để gọi tên, biểu thị những đối tượng mà trước đây chưa được gọi tên, biểu thị.

Điều đó có nghĩa là phạm vi ứng dụng nghĩa của từ đã được mở rộng ra. Phát triển

nghĩa, vì thế, sẽ cho phép mặt được biểu hiện của từ có sự tăng lên về các ý niệm,

20

các phạm trù nhận thức, mà vẫn giữ được nguyên vẹn mặt biểu hiện. Theo tác giả

Phạm Văn Lam cho rằng: Phát triển nghĩa của từ là quá trình phát triển, mở rộng

các chức năng của từ để từ đó có thể trỏ ra, gọi tên, biểu thị những đối tượng mà

trước đây chưa được trỏ ra, gọi tên, biểu thị; sự phát triển, sự phát triển mở rộng

chức năng của từ này phải được đa số các chủ thể sử dụng ngôn ngữ trong cộng

đồng nói năng chấp nhận. Đó chính là sự phát triển, mở rộng về phạm vi ứng dụng

của từ. [22, tr. 9]

Ngữ nghĩa học truyền thống đã phát hiện ra những quá trình phát triển ý

nghĩa cơ bản mà ngữ nghĩa học ngày nay không thể bác bỏ được . Đó là hai khuynh

hướng biến đổi: mở rộng và thu hẹp ý nghĩa (phát triển nghĩa và mất nghĩa), chuyển

đổi tên gọi bằng ẩn dụ và hoán dụ. Theo tác giả Lê Văn Thiêm; Phạm vi rộng hẹp

thể hiện ở số lượng và cả ở tính chất nét nghĩa. Có nét thiên về cái chung, nét nghĩa

phạm trù và nét nghĩa thiên về cụ thể, loại biệt, nét nghĩa khu biệt. [4, tr.311]

Mở rộng ý nghĩa là một quá trình phát triển từ cái riêng đến cái chung, từ cái

cụ thể đến trừu tượng. Ý nghĩa được hình thành nhờ quá trình này gọi là nghĩa mở

rộng. Ví dụ; Tính từ “đẹp”, ban đầu chỉ dùng ở khía cạnh hình thức, nhưng hiện nay

dùng rộng rãi ở cả phạm vi tình cảm, tinh thần, quan hệ. Chẳng hạn: tình cảm đẹp,

tấm lòng đẹp, đẹp lòng, đẹp lời…

Thu hẹp ý nghĩa là quá trình ngược lại. Phạm vi ý nghĩa của các từ phát

triển từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ thể. Ví dụ: Từ

“mùi” là cảm giác do cơ quan khứu giác thu nhận được (nước là hợp chất

không màu, không mùi, không vị), nhưng khi nói “Miếng thịt có mùi rồi” thì

lại có ý nghĩa cụ thể là “mùi hôi”.

Tóm lại, mở rộng và thu hẹp ý nghĩa là quá trình chuyển từ khái niệm về loại

sang khái niệm về chủng (mở rộng) hoặc chuyển từ khái niệm về chủng sang khái

niệm về loại (thu hẹp). Quy luật tạo ra sự phát triển này là dựa vào các mối liên hệ

21

tương đồng và tiếp cận. Thể hiện ở các mối liên hệ đó, theo hình thức ẩn dụ và hoán

dụ. Đây là cơ sở để tạo ra các nghĩa bóng, các nghĩa phái sinh của từ. Ví dụ:

- Răng người và vật – răng lược, răng bừa

- Mũi người và vật – mũi thuyền, mũi kim

Đây là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật, hiện

tượng thông qua hình thức ẩn dụ.

Hay sự chuyển đổi tên gọi từ sự vật, hiện tượng này sang hiện tượng khác

dựa trên mối quan hệ logic giữa các sự vật, hiện tượng ấy qua hình thức hoán dụ.

Ví dụ: Nhà tôi – vợ tôi

Sự phát triển nghĩa của từ luôn đi cùng với sự phát triển của xã hội. Sự

biến đổi không ngừng của nghĩa do sự biến đổi của cuộc sống và cách sử dụng

ngôn ngữ một cách sáng tạo, linh hoạt, giàu hình ảnh của con người đã góp phần

làm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn. Sự

phát triển ấy theo hai khuynh hướng cơ bản: mở rộng và thu hẹp ý nghĩa, chuyển

đổi tên gọi bằng ẩn dụ và hoán dụ. Những đơn vị từ vựng được lựa chọn để phát

triển nghĩa thường là những đơn vị mang những giá trị văn hóa ước định của cộng

đồng, được mọi người chấp nhận, sử dụng, dễ dàng nhập vào hệ thống từ vựng -

ngữ nghĩa như là một đơn vị khu biệt. Nghĩa là nó được đánh giá thuận lợi cho

công việc giao tiếp, được thẩm định về khả năng biểu đạt nghĩa và giá trị thẩm mỹ

khi đi vào hành chức.

1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ

Trên thực tế, cấu trúc ý nghĩa của từ không nhất thành bất biến mà luôn

luôn vận động và phát triển. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Từ và từ

vựng học tiếng Việt [13, tr162], cho rằng: Có rất nhiều nguyên nhân làm cho một

từ phát triển thêm các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, nhưng có thể quy vào các

yếu tố cơ bản sau đây.

- Do sự biến đổi, phát triển không ngừng của đời sống;

22

- Sự phát triển của nhận thức;

- Sự phát triển của hệ thống ngôn ngữ;

- Tính quy ước của nghĩa.

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, hiện tượng nhiều nghĩa là kết quả của sự chuyển

biến ý nghĩa của từ. Từ (đơn hoặc phức) lúc đầu mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa

biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng, nó có thể có thêm những nghĩa biểu vật

mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó

càng có khả năng biến đổi. [4, tr.147].

Từ các nguyên nhân dẫn đến sự chuyển nghĩa của từ, ngữ nghĩa học truyền

thống đã phát hiện ra những quá trình phát triển ý nghĩa cơ bản mà ngữ nghĩa học

hiện đại ngày nay không thể bác bỏ. Theo các tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ

Hữu Châu, hiện tượng chuyển nghĩa của từ chủ yếu dựa vào hai phương thức ẩn dụ

và hoán dụ

Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hiện

tượng được so sánh với nhau. So sánh bộ phận được gọi là “đầu” của con người với

bộ phận trên của cái van xe đạp, chúng ta thấy có một điểm chung là “bộ phận trên,

trước hết”. Từ đó dẫn đến việc lấy tên gọi của bộ phận thân thể để biểu thị bộ phận

của cái van. Mặt khác, so sánh con vật với hàng người, đoàn người thấy cả hai đều

có bộ phận trước, bộ phận sau, do đó đã lấy tên bộ phận trước hết của vật chỉ bộ

phận trước hết của đoàn người, hàng người… Cứ phân tích như vậy, sẽ thấy các

nghĩa phái sinh của từ “đầu” đều là kết quả của quá trình chuyển nghĩa ẩn dụ.

Hoán dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện tượng này sang sự

vật hoặc hiện tượng khác dựa trên một mối quan hệ logic giữa các sự vật hiện tượng

ấy. Căn cứ vào tính chất chất của các quan hệ mà có thể chia ra làm nhiều loại hoán

dụ khác nhau như: quan hệ giữa cái toàn thể và bộ phận, lấy không gian, địa điểm

thay cho những người sống ở đó... Ví dụ: “Nhà có 5 miệng ăn” lẽ ra là “nhà có 5

người ăn”. Đây là kiểu hoán dụ theo quan hệ lấy cái bộ phận thay cho toàn thể.

23

Nhìn chung, ẩn dụ và hoán dụ thường liên hệ với các hiện tượng mở rộng và thu hẹp ý nghĩa. Những ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng hay ẩn dụ căn cứ vào sự giống nhau về chức năng đồng thời cũng là một quá trình mở rộng ý nghĩa. Hoán dụ thường liên hệ với hiện tượng thu hẹp ý nghĩa. Ẩn dụ, hoán dụ là phương thức cơ bản tạo nên nghĩa mới cho từ.

1.5. Từ đa nghĩa

Hiện tượng đa nghĩa là một hiện tượng phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Nói

một cách đơn giản, đây là hiện tượng một đơn vị ngôn ngữ mà cấu tạo nội dung của

nó có nhiều nghĩa khác nhau. Điều này một mặt tạo ra tính đa dạng phong phú của

ngôn ngữ. Đây là hiện tượng biểu hiện một cách điển hình ở cấp độ từ vựng -

ngữ nghĩa. Ở cấp độ này hiện tượng đa nghĩa không chỉ bộc lộ gắn liền với

đặc điểm của từ mà còn thể hiện đặc điểm cấu tạo và phát triển của hệ thống

từ vựng - ngữ nghĩa của ngôn ngữ.

Người ta nhận thấy rằng một từ lúc mới sinh ra chỉ có một nghĩa, theo

dòng thời gian tồn tại và phát triển từ trở thành nhiều nghĩa. Sự xuất hiện

nghĩa mới của từ có quan hệ với sự phát triển một cách có quy luật và sự giàu

có, phong phú của thành phần từ vựng một ngôn ngữ. Nó là kết quả của sự

phát triển nghĩa của từ nói riêng và của hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa nói

chung, đồng thời cũng là biểu hiện, sản phẩm của sự phát triển ngôn ngữ văn

hoá, sự giàu có, phong phú tư duy và kinh nghiệm của cộng đồng người nói

một thứ tiếng nhất định. Chính vì vậy, các ngôn ngữ gắn liền với nền văn

minh tiên tiến thường phát triển với tỷ lệ cao những từ đa nghĩa. Phát triển từ

đa nghĩa còn là một biện pháp, một phương thức làm giàu vốn từ ngữ dân tộc.

Đa nghĩa là qui luật chung của ngôn ngữ nhân loại. Việc tìm hiểu những nét

tương đồng và dị biệt trong nội dung từ đa nghĩa của các dân tộc lại liên quan

đến ngôn ngữ và văn hoá của riêng của mỗi quốc gia. Bởi vì đặc điểm đa

24

nghĩa của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, là thành tựu được tập thể

cộng đồng ngôn ngữ ấy xây dựng nên.

Cho đến nay đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau về từ đa nghĩa từ

vựng. Chẳng hạn như tác giả O.C.Akhmanôva cho rằng: “đa nghĩa là sự tồn

tại ở từ một số nghĩa vốn thường xuất hiện do việc sử dụng từ và sự phát triển

các nghĩa bóng của từ” (Dẫn theo Lê Quang Thiêm) [34, tr.305].

Tác giả Vũ Đức Nghiệu cho rằng: “Từ đa nghĩa là những từ có một số

nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc

biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.”[6, tr.172]

Sau khi phân tích đánh giá một số cách hiểu tác giả Lê Quang Thiêm đã

đưa ra quan niệm của mình về từ đa nghĩa như sau: “Từ đa nghĩa là từ mà nội

dung bao gồm một số nghĩa khác nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống

nằm trong các mối quan hệ liên kết với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và

nhiều nét nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại

được đặt cơ sở trên một sự giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc

tính nào đó của đối tượng”. [34, tr.305].

+ Các kiểu nghĩa của từ đa nghĩa

Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức

và trật tự nhất định. Việc phân loại các nghĩa khác nhau của từ đa nghĩa giúp chúng

ta tìm ra được mối quan hệ của chúng và từ đó có cơ sở hiểu rõ hơn ý nghĩa của từ.

- Dựa vào tiêu chí nguồn gốc của nghĩa, nghĩa của từ đa nghĩa gồm hai loại:

nghĩa gốc và nghĩa phái sinh. Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên, vốn có đối với một từ

nào đó. Vì thế nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do và có thể nhận

ra một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác. Nghĩa phái sinh là nghĩa có

sau được tạo nên trên cơ sở nghĩa gốc cho nên chúng thường có lí do và được nhận

ra qua nghĩa gốc của từ. Ví dụ, trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê [25] có định

nghĩa từ chân như sau:

25

1. Bộ phận dưới cùng của cơ thể người và động vật, dùng để đi, đứng,

thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi lại của con người (Què chân; Vui

chân đi quá xa; Nước đến chân mới nhảy).

2. Chân của con người, coi là biểu tượng của cương vị, phận sự của một

người với tư cách là thành viên của một tổ chức (có chân trong hội đồng; thiếu một

chân tổ tôm; chân sào).

Như vậy, trong hai nghĩa trên của từ chân thì nghĩa 1 là nghĩa gốc, nghĩa 2 là

nghĩa phái sinh.

- Dựa vào khả năng tồn tại độc lập của từ, nghĩa của từ đa nghĩa gồm hai loại:

nghĩa tự do và nghĩa hạn chế. Nghĩa tự do là nghĩa được bộc lộ trong mọi hoàn

cảnh, không lệ thuộc vào hoàn cảnh bắt buộc nào. Nghĩa hạn chế là nghĩa chỉ xuất

hiện trong một hoàn cảnh nhất định.

- Dựa vào mối quan hệ định danh giữa từ và đối tượng, nghĩa của từ đa nghĩa

gồm hai loại: nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp. Nếu một nghĩa trực tiếp phản ánh

đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một cách trực tiếp thì đó là nghĩa trực tiếp

(nghĩa đen). Còn nếu một nghĩa gián tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự

vật một cách gián tiếp (thông qua hình tượng hoặc nét đặc thù) thì đó là nghĩa gián

tiếp (nghĩa bóng)

- Nghĩa của từ đa nghĩa được chia thành nghĩa thường trực và nghĩa không

thường trực dựa vào tiêu chí nghĩa đang xét đã nằm trong cơ cấu chung ổn định của

nghĩa từ hay chưa. Một nghĩa được coi là nghĩa thường trực nếu nó đã đi vào cơ cấu

chung ổn định của nghĩa từ và được nhận thức một cách ổn định, như nhau trong

các hoàn cảnh khác nhau. Ngược lại, nếu có một nghĩa bất chợt nảy sinh trong một

hoàn cảnh nào đó trong quá trình sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ, nó chưa hề đi vào cơ

cấu ổn định, vững chắc của nghĩa đó là nghĩa không thường trực (nghĩa ngữ cảnh).

Trên đây là cách phân loại nghĩa của từ đa nghĩa thường gặp. Mỗi tiêu chí khác

nhau có hệ thống phân loại khác nhau. Trong thực tế, từ đa nghĩa không chỉ có 2, 3

26

nghĩa mà có từ có rất nhiều nghĩa. Nghĩa của từ đa nghĩa rất phong phú, đa dạng

nên khi phân tích nghĩa theo thế lưỡng phân thường là sẽ có một số nghĩa không

được gọi tên mà bị gộp chung với một nghĩa nào đó khái quát hơn.

Tiểu kết chương 1

Trong Chương 1, chúng tôi đã trình bày những cơ sở lí luận cơ bản

làm khung nghiên cứu cho luận văn như: khái niệm từ, cụm từ, nghĩa của

từ, sự phát triển nghĩa của từ, hiện tượng đồng nghĩa và hiện tượng chuyển

nghĩa, từ đa nghĩa. Trong diễn tiến ngôn ngữ, mối quan hệ giữa cái biểu

hiện và cái được biểu hiện không phải lúc nào cũng được duy trì, nó có thể,

một cách tiềm tàng, bị phá vỡ bất kỳ lúc nào. Chính vì vậy, biến đổi nghĩa

là sự thật thực hiển nhiên trong ngôn ngữ. Theo quan niệm truyền thống, có

hai khuynh hướng biến đổi: phát triển nghĩa và mất nghĩa. Trên thực tế, bất

kỳ một nghĩa nào đó đã xuất hiện, một cách tiềm năng, đều có khả năng tái

hiện ở những lần sau. Vì thế nếu một nghĩa nào đó không may bị mất đi, thì

nó vẫn có khả năng được sử dụng trở lại, bởi cái nghĩa ban đầu bao giờ

cũng là cái được con người dễ nhận diện nhất, được con người duy trì bảo

hộ nhiều nhất. Vì thế, biến đổi nghĩa cũng là phát triển nghĩa.

Trong ngữ nghĩa, hiện tượng đồng nghĩa thường xảy ra với hàng loạt

các đơn vị từ vựng và tạo nên các sắc thái biểu cảm khác nhau về ngữ

nghĩa. Vì vậy, trong một dãy đồng nghĩa, giữa các nghĩa của từ đồng nghĩa

là giống nhau song chúng khác nhau về sắc thái biểu cảm.

Hiện tượng chuyển nghĩa của từ tạo nên hiện tượng đa nghĩa từ vựng.

Có hai con đường chuyển nghĩa cơ bản là mở rộng nghĩa hoặc thu hẹp

nghĩa, thường được thực hiện thông qua ẩn dụ hoặc hoán dụ. Trong từ đa

nghĩa, giữa nghĩa gốc của từ với các nghĩa chuyển luôn có mối liên hệ nhất

định về nghĩa, tuy nhiên, các nghĩa phái sinh thường vận động theo hướng

27

ngày càng xa rời nghĩa gốc và trong những trường hợp cụ thể, giữa nghĩa

gốc và nghĩa chuyển còn xảy ra hiện tượng chuyển loại.

Đây là những tiền đề lý luận cơ bản giúp chúng tôi triển khai thực

hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trong chương 2 và chương 3 của luận văn.

28

Chương 2

NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP

CỦA NÓ TRONG TIẾNG VIỆT

2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt

Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống, mang

những nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đối với người Việt, ăn

uống không chỉ đơn thuần là nét văn hóa về vật chất, một hoạt động nhằm đáp ứng

nhu cầu sinh học của cơ thể mà còn phản ánh phương diện văn hóa về tinh thần, là

tiếng nói của tâm hồn người Việt. Thông qua hoạt động ăn uống người ta có thể

hiểu được nét văn hóa thể hiện phẩm giá con người, trình độ văn hóa với những đạo

lý, phép tắc, phong tục, tập quán và cả triết lý nhân sinh… của mỗi cá nhân và rộng

hơn là cả một dân tộc. Cái ăn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tâm thức mỗi

người dân Việt. Có thể nói, mọi hoạt động của người Việt đều lấy “ăn” đặt lên làm

đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn tiêu… Và do nhu cầu sử dụng thiên biến vạn

hóa về sắc thái, từ “ăn” cũng là một trong những từ có rất nhiều từ đồng nghĩa trong

tiếng Việt như: xơi, mời, nhậu, hốc, nốc, tọng, chén, đánh chén, đớp, dùng, làm…

sự phong phú trong lớp từ đồng nghĩa ấy đã góp phần làm phong phú thêm vốn từ

vựng của tiếng Việt.

Trong Từ điển Tiếng Việt (2010) của Hoàng Phê (chủ biên) đã khái quát từ

“ăn” (động từ) là một từ đa nghĩa gồm có 13 nghĩa (nghĩa gốc và các nghĩa phái

sinh) như sau: [25, tr.29-33]

1. Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống. Ăn cơm. Thức ăn. Ăn có nhai, nói có

nghĩ (tng). Làm đủ ăn.

2. Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới. Ăn liên hoan. Ăn tết.

3. (Máy móc, phương tiện vận tải) tiếp nhận cái cần thiết cho sự hoạt động.

Cho máy ăn dầu mỡ. Xe ăn tốn xăng. Tàu đang ăn hàng ở cảng.

29

4. (Kết hợp hạn chế). Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng. Ăn thừa tự. Ăn lương

tháng.

5. (Kng). Phải nhận lấy, chịu lấy (cái không hay; hàm ý mỉa mai). Ăn đòn. Ăn

đạn.

6. Giành về phần mình phần hơn, phần thắng (trong cuộc thi đấu). Ăn con xe.

Ăn giải. Ăn cuộc.

7. Hấp thu cho thấm vào, nhiễm vào trong bản thân. Vải ăn màu. Da ăn

nắng. Cá không ăn muối cá ươn (tng).

8. Gắn, dính chặt vào nhau, khớp với nhau. Hồ dán không ăn. Gạch ăn vôi

vữa. Phanh không ăn.

9. (Kết hợp hạn chế). Hợp với nhau, tạo nên một cái gì hài hòa. Hai màu rất

ăn với nhau. Người ăn ảnh.

10. Làm tiêu hao, hủy hại dần dần từng phần. Sương muối ăn bạc trắng cả

lá. Sơn ăn tùy mặt.

11. Lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó (nói về khu vực hoặc phạm vi tác

động của cái gì). Rễ tre lan ra tới ruộng. Sông ăn ra biển. Phong trào ăn sâu,

lan rộng.

12. (Kng). Là một phần ở ngoài phụ thuộc vào; thuộc về. Đám đất này ăn về

xã bên. Khoản này ăn vào ngân sách của tỉnh.

13. (Đơn vị tiền tệ, đo lường) có thể đổi ngang giá. Một dolla ăn mấy đồng

Việt Nam?

Cùng với sự phát triển của xã hội, trong quá trình sử dụng khi đi vào ngôn

bản và trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhóm từ nói về “ăn” được sử dụng khá linh

hoạt cho phù hợp với từng hoàn cảnh nhằm mang lại giá trị biểu cảm riêng. Các nét

nghĩa được mở rộng và theo thời gian các nét nghĩa phái sinh mới được hình thành

và ngày càng phong phú, làm giàu cho hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Điều đó

cho thấy, quá trình vận động và phát triển nghĩa của từ “ăn” khá mạnh mẽ. Ngoài

30

những nghĩa gốc và nghĩa phái sinh được thống kê ở trên, trên thực tế chúng ta có

thể thấy “ăn” còn trở thành một yếu tố (thành tố) đóng vai trò như một hình vị cấu

tạo từ, có thể kết hợp với các hình vị khác để tạo ra các từ ghép khác nhau theo kiểu

chính phụ hoặc đẳng lập có chứa yếu tố “ăn”. Những đơn vị từ có chứa yếu tố “ăn”

này có thể mang nghĩa chỉ hoạt động ăn theo nghĩa gốc, có thể không mang nghĩa

chỉ hoạt động ăn mà bàn đến mọi phương diện đời sống của con người. Các nghĩa

của từ chứa yếu tố “ăn” này được người Việt chấp nhận và sử dụng trong cuộc sống

hàng ngày như: Ăn chơi, ăn nằm, ăn chặn… Đặc biệt có nhiều kết hợp với yếu tố

“ăn” mà trong đó không liên quan gì đến việc đưa thức ăn vào miệng và thực hiện

động tác nhai, nuốt. Mà từ “ăn” ở đây lại chỉ hành vi, lối sống, ta có thể hiểu như

một thứ nghề nghiệp, chẳng hạn như: Ăn sương, ăn trộm, ăn cắp…

Chúng ta có thể thấy, từ nghĩa gốc “ăn” để chỉ hoạt động “Tự cho vào cơ thể

thức ăn nuôi sống” cùng với sự phát triển của thời gian, các nét nghĩa phái sinh đã

hình thành và sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra rất nhiều

nghĩa mới thay thế hàng loạt các khái niệm khác. Theo sự khảo sát của Nguyễn Thị

Bích Hợp [18] khi miêu tả sự phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” theo mô hình tỏa tia,

tác giả đã bổ sung thêm hai nghĩa phái sinh mới so với các nét nghĩa trong Từ điển

tiếng Việt của Hoàng Phê [25], đó là: “ăn” nghĩa là “thực hiện hành động”: ăn vạ,

ăn hiếp, ăn hỏi, ăn diện, ăn thề, ăn nói, ăn mặc, ăn học; và “ăn” nghĩa là “quan hệ

thân xác”: ăn nằm, ăn cơm trước kẻng, đã ăn cô ta, ăn bánh trả tiền…

Ăn uống được dân gian Việt nam xếp lên hàng đầu “tứ khoái” của con

người. Nhà văn Tản Đà đối với văn hóa ẩm thực, ông đã nâng thành “lý luận 04

chữ W trong ăn uống”

1-Ăn cái gì ( What)?

2-Ăn lúc nào (When)?

3- Ăn ở đâu (Where)?

31

4- Ăn với ai (With whom)? [23, Văn hóa ẩm thực Việt Nam - Hà Nội đôi ba

vấn đề lý luận, tr.681]

Qua đó, để cho chúng ta thấy cái “ăn” đóng vai trò rất quan trọng đối với

người dân Việt. Chính vì vậy, đề tài về “ăn” đã được phản ánh rất đa dạng và phong

phú qua thành ngữ, truyện dân gian Việt Nam và các tác phẩm văn học. Bởi thế,

không phải ngẫu nhiên mà số lượng câu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng

Việt lại chiếm số lượng rất lớn. Thông qua việc khảo sát trong các cuốn từ điển

thành ngữ, các câu thành ngữ có chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt có tới 492 câu.

Ẩn chứa trong mỗi câu thành ngữ là những kinh nghiệm trong cuộc sống, những

giáo huấn về luân thường, đạo lý, cách ứng xử của con người với con người trong

xã hội. Chúng ta vẫn thường nghe những câu thành ngữ nói về thói quen trong ăn

uống của ông cha ta: Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống,… hay

lên án những kẻ vô ơn, bội nghĩa: ăn cháo đá bát… phê phán những thói hư tật xấu:

ăn xó mó niêu, ăn gian nói dối… Cho đến những kinh nghiệm đời thường trong

cuộc sống: Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau…

“Ăn” cũng là một trong những nguồn cảm hứng chính của các nhà văn

hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 như: Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim

Lân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đề tài về “miếng

ăn” được tái hiện dưới ngòi bút của các nhà văn vô cùng chân thực. Thông qua

cái “ăn” các tác giả đã cởi hết cái lớp áo bao phủ bên ngoài của đời sống của

người dân Việt Nam thời đó để phơi bày chuyện đời nhức nhối nhất, sự thiếu thốn,

sự đói khổ trở thành vấn nạn khủng khiếp chi phối mọi mặt của đời sống xã hội

Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. “Ăn” cũng là đề tài khơi nguồn cảm hứng

sáng tạo cho các nhà văn hiện đại trong thể loại Tùy bút như Nguyễn Tuân, Thạch

Lam, Vũ Bằng, Băng Sơn, Mai Thục, Trần Đức Anh Sơn… đều là những tác giả đã

rất thành công khi viết về đề tài liên quan đến cái “ăn”, một trong những nhu cầu tất

yếu của cuộc sống nhưng thông qua ngòi bút của các nhà văn, cái “ăn” được nâng

32

lên thành một nghệ thuật, thành giá trị sống, một nét văn hóa tinh tế, rất riêng của

người Việt.

Có thể nói hoạt động “ăn” phản ánh đặc trưng văn hóa dân tộc vô cùng rõ

nét. Miếng ăn vừa thể hiện tính cộng đồng xã hội, vừa nói lên triết lý về đạo sống,

đồng thời nó cũng phản chiếu phép tắc xã hội. Văn hóa ăn trở thành một giá trị văn

hóa của mỗi làng, mỗi vùng và rộng hơn là của cả dân tộc.

2.2. Khả năng kết hợp của từ/yếu tố “ăn” trong tiếng Việt

Đối với người Việt, văn hóa ăn uống đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý của cuộc sống. Điều

đó rất dễ hiểu khi chúng ta thấy người xưa có câu “dĩ thực vi thiên” (ăn là quan

trọng nhất). Ý nghĩa của sự ăn là vô cùng đa dạng và sâu sắc. Bởi “Có thực mới vực

được đạo”, “Thực túc binh cường” (ăn đầy đủ thì quân đội mới hùng mạnh). Song

đối với người Việt, nhiều khi người ta ăn không phải vì ăn, mà vì tình, vì nghĩa: Vị

tình, vị nghĩa, ai vị đĩa xôi đầy. Hoặc đôi khi người ta ăn, chỉ cốt là để biết, để

thưởng thức, chứ không phải là thỏa mãn nhu cầu về vật chất thuần túy: Ăn lấy

thơm lấy tho, chứ ai ăn lấy no, lấy béo; ăn lấy vị, chứ ai lấy bị mà mang… Có thể

nói, đối với người Việt “Ăn” là cả một vấn đề ứng xử, vấn đề xã hội. Chuyện ăn

tưởng chừng quá quen thuộc hàng ngày đối với mọi người nhưng thực tế không

đơn giản như vậy. Trong dân gian từ xưa, người Việt rất coi trọng việc ăn uống: Từ

việc nấu nướng đến việc chọn lọc miếng ăn và đặc biệt là việc giao tiếp ứng xử

trong khi ăn uống. Bởi vậy mà kinh nghiệm truyền dạy con trẻ của người Việt

được truyền từ đời này sang đời khác rằng “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Trong đó “học ăn” được đặt lên hàng đầu. Từ lâu người Việt đã ý thức được rằng:

Ăn cũng phải học, ăn là một khoa học. Bởi vậy, khi nghiên cứu vấn đề “ăn” của

người Việt theo góc độ ngôn ngữ và văn hóa là cả một vấn đề khoa học vô cùng

phong phú và ý nhị.

33

Người Việt có một số tiêu chuẩn đánh giá con người thông qua dung nhan,

dáng đi, giọng nói, tướng mạo... như “Người khôn con mắt đen xì, người dại con

mắt nửa chì, nửa thau”,“trông mặt mà bắt hình dong”,…Tuy nhiên, việc đánh giá

nhận xét con người thông qua việc ăn uống vẫn là phổ biến, nhiều mặt hơn và sâu

sắc hơn.

“Khôn ăn cái, dại ăn nước”

“Người khôn ăn miếng thịt gà,

Tuy rằng ăn ít nhưng mà no lâu,

Người dại ăn trái bồ nâu

Ăn no bĩnh bầu chẳng biết mùi ngon.”

Hay: “Người khôn ăn nói nửa chừng

Để cho người dại nửa mừng nửa lo”

Hoạt động “ăn” là một nét văn hóa vô cùng độc đáo thể hiện bản sắc văn

hóa cộng đồng và thế ứng xử của con người với con người trong xã hội. Điều đó

được phản ánh sinh động trong lớp từ vựng của ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, từ/yếu

tố “ăn” là một từ/yếu tố vô cùng đặc biệt, có khả năng kết hợp với rất nhiều từ loại

để làm chức năng vị ngữ trong câu. Ta có thể mô hình hóa khả năng kết hợp của

từ/yếu tố “ăn” như sau: Ăn + X. Trong đó “X” là một kết cấu mở, có thể là những

từ loại như danh từ, tính từ, động từ hoặc tổ hợp từ kết hợp với từ/yếu tố “ăn” khá

linh hoạt tạo ra tính đa chiều và đa hướng trong ngôn ngữ, nhằm thể hiện được lối

tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt thông qua cái “ăn”. Khi đi vào

hành chức, kết hợp với các từ/ tổ hợp từ, trong từng ngữ cảnh cụ thể, nghĩa của từ

“ăn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc: “Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống” nữa

mà nó đã có sự chuyển nghĩa. Sự phát triển nghĩa của “ăn” có thể quy thành một số

nhóm dựa vào ý nghĩa khái quát của chúng như sau:

34

2.2.1. Ăn + mục đích

Sự kết hợp của “ăn” với các từ / tổ hợp từ đã tạo ra hàng loạt từ ghép biểu thị

hoạt động các dịp ăn uống của người Việt. Với kết cấu “Ăn + X”, trong đó tham tố

X ở đây là yếu tố mở, gắn liền với những từ “cụ thể” chỉ mục đích của việc ăn uống

như: Ăn hỏi, ăn mừng, ăn cưới, ăn liên hoan, ăn giỗ, ăn tết, ăn mày, ăn xin, ăn

kiêng, ăn hàng, ăn chay. Trong các kết hợp này, “ăn” thường được sử dụng ở nghĩa

gốc, ít khi chuyển nghĩa. Ví dụ:

- Xong đâu đấy thầy cõng Đật đi ăn giỗ, Ninh phải ở nhà coi mẹ. [2, Từ ngày

mẹ chết, tr.161]

- Có cụ giáo Hiệu trưởng mẹ mời đến ăn tết thân mật với gia đình. [ 23, Cái

bánh dẻo tròn, tr.192]

- Ăn cỗ mừng sinh nhật là một nét mới, trước kia chỉ có mừng thọ, thượng

thọ, lên lão và rất coi trọng nền nếp ngày giỗ. [ 23. Giỗ tết, tr.239]

- Mặc dù mới hơn 10h sáng (ngày 14/2) nhưng nhiều cơ quan, ban ngành

tỉnh Hà Tĩnh đã đóng cửa, nhân viên, lãnh đạo đều vắng mặt. Lý do là nghỉ sớm

để... ăn rằm [2]

- Vì thế, nếu bé được ăn đầy tháng thì cháu đã thoát được hết hai phần ba

của những rủi ro trong năm tuổi đầu tiên của cuộc đời.[3]

Tuy nhiên, trong một số ngữ cảnh cụ thể, khi mừng những sự kiện quan

trọng, có thể không có việc tổ chức ăn uống nhưng vẫn được gắn với “ăn” như “ăn

mừng chiến thắng” của đội bóng đá chẳng hạn. Trong trường hợp này, “ăn” không

được sử dụng với nghĩa gốc mà đã chuyển nghĩa chỉ hoạt động chúc mừng, mang

tính chất tinh thần. Ví dụ:

- Người Sài Gòn cuồng nhiệt ăn mừng chiến thắng lịch sử của U23

Việt Nam.[5]

Cùng trong mô hình kết hợp “Ăn + mục đích”, nhưng khi đi vào trong thành

ngữ, sự hoạt động của kết hợp này trong thành ngữ đã tạo nên nhiều hướng nghĩa

35

chuyển phong phú, phản ánh nhân cách, bản chất, hành vi, cách đối nhân xử thế của

con người trong xã hội. Ví dụ: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” (chỉ những kẻ

khôn lỏi, vị kỷ, biết nắm bắt cơ hội, luôn quan tâm đến lợi ích cá nhân); Chưa ăn cỗ

đã chực lấy phần (ngoài nét nghĩa phản ánh tục lệ “lấy phần” khi ăn cỗ, còn hàm

nghĩa phê phán những kẻ bần tiện, tham lam, chỉ chăm chăm vào lợi ích của bản

thân).

Cách kết hợp “ăn + mục đích” đã tạo ra nhiều hướng nghĩa phái sinh cho

“ăn”. Chẳng hạn như từ “ăn chay” vốn để chỉ chế độ ăn uống gồm những thực

phẩm có nguồn gốc thực vật, với mục đích tu hành, hướng thiện, nhưng trong đời

sống hiện đại, “ăn chay” được chuyển nghĩa chỉ chuyện quan hệ tình dục, Ví dụ:

- Thì ra “ăn chay” ở đây không chỉ là không ăn thịt cá nữa mà là sẽ không

quan hệ sắc dục với tôi nữa.[7]

- Bắt chồng "ăn chay" suốt 9 tháng mang bầu, phụ nữ đã vô tình bỏ qua 5

lợi ích vô cùng bất ngờ cho sức khỏe của cả mẹ và bé [8]

Khi tham gia cấu tạo thành ngữ, “ăn chay” kết hợp với các tổ hợp từ cũng

tạo nên nghĩa biểu trưng cho lối sống ngay thẳng, trung thực: Ăn mặn nói ngay hơn

ăn chay nói dối. Điều đó cho chúng ta thấy thái độ của dân gian khá rõ ràng trong

quan niệm ăn uống và rộng hơn nữa chính là lối sống, nhân cách của con người.

Sự kết hợp của “ăn + mục đích” cũng tạo ra các từ ghép để chỉ thân phận, số kiếp

con người gắn liền với nghề nghiệp hay hoàn cảnh sống.Ví dụ:

- Ăn xin ở Thái Lan là phạm pháp, bị phạt tù và tiền [9]

- Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất. [2, Từ ngày mẹ chết, tr.163]

- “Ngày xưa có một người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải

cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa

từng cửa rồi mới vào ăn xin” [ 23, Những chiếc ấm đất, tr.206]

“Ăn mày, ăn xin” vốn chỉ hành động của những người chuyên kiếm sống

bằng việc đi xin của bố thí. Nhưng khi tham gia cấu tạo thành ngữ, sự kết hợp của

36

từ “ăn mày” với các tổ hợp từ đã tạo ra những hướng nghĩa khác như chỉ những

người do hoàn cảnh éo le phải vào nương nhờ nơi chùa chiền hoặc những người lên

chùa để xin lộc rơi vãi. “Ăn mày lộc phật”. Trong một số ngữ cảnh sử dụng, thành

ngữ này xuất hiện biến thể nghĩa như chỉ sự tham lam, vụ lợi. Ví dụ:

- Doanh nghiệp xây chùa, sau đó tung dịch vụ bủa vây trong chùa để kiếm

lợi từ tâm linh. Kiểu làm kinh tế này có khác nào "ăn mày" cửa phật [10]

- Thế nhưng, “ăn mày cửa Phật”, nhặt lộc rơi, lộc vãi cũng vì mục đích

kinh tế đấy mà nó an nhiên, thánh thiện biết bao nhiêu, thì những kiểu làm ăn dựa

vào cửa Phật để kiếm lợi đang khiến người ta cảm giác niềm tin của mình bị biến

thành phương tiện lợi dụng và bị móc túi một cách công nhiên mà chẳng biết

trách ai. [11]

Các thành ngữ có chứa “ăn mày” còn mang nhiều hướng nghĩa phê phán,

chẳng hạn như phê phán những người không ý thức được thân phận, hoàn cảnh của

mình, trong điều kiện thiếu thốn nhưng lại đòi hỏi người khác một cách thái quá: Ăn

mày đòi xôi gấc; lên án những kẻ đã quen thói nhờ vả, ăn bám người khác, được

hưởng lợi nhiều lần nhưng vẫn muốn lặp lại hành động cũ mặc dù biết là không

hay: Ăn mày quen ngõ; sự cảm thông chia sẻ cho những thân phận người nghèo

khổ, cùng cực, gặp những hoàn cảnh éo le: Ăn mày đánh đổ cầu ao.

2.2.2. Ăn + cách thức

Do điều kiện thiên nhiên và hoàn cảnh lịch sử dân tộc, mà việc ăn uống của

nhân dân ta từ bao đời nay, có lẽ nét độc đáo nhất chính là tính thực tiễn trong quan

niệm ăn uống. Đa số người dân Việt Nam, trong cuộc sống hàng ngày đều phải trải

qua nhiều khó khăn, vất vả, phải kiên trì vật lộn mới giành được sự sống còn, chính

vì lẽ đó việc ăn uống, trước tiên phải đảm bảo được sự sinh tồn của dân tộc. Cái

hay, cái khéo trong ẩm thực, có thể xuất hiện ngay trong quá trình tồn tại của con

người, sau đó mới trở thành nhu cầu thiết yếu để nâng cao chất lượng cuộc sống.

Cái nguyên tắc mà con người đều chấp nhận “ăn để mà sống, chứ không phải sống

37

để mà ăn” đã là nguyên tắc thiết thực nhất của người dân Việt Nam. Bởi vậy, cùng

với sự phát triển của xã hội, ông cha ta có khá nhiều suy nghĩ xung quanh vấn đề về

“ăn”. Thông qua cách ăn, phương thức ăn đã nói lên được phần nào trình độ văn

hóa, nhân cách con người và đặc biệt là rất nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống .

Với kết cấu: Ăn + cách thức, ta có các kết hợp: ăn chực, ăn dở, ăn chịu, ăn

đong, ăn gỏi, ăn liền, ăn ngọn, ăn sương, ăn tạp, ăn theo, ăn vã, ăn xổi, ăn dè, ăn

vụng, ăn tục, ăn ghém… Các kết hợp trên khi đi với yếu tố ăn, nghĩa đen là chỉ hoạt

động ăn uống của con người với các cách thức “ăn” gắn với thói quen sinh hoạt

khác nhau, nhưng ở tầng nghĩa bóng, nhiều từ đã được chuyển nghĩa, dùng để chỉ

đặc điểm tính cách, nhân cách, hành động của con người hoặc mang ý nghĩa đánh

giá con người, thường với sắc thái ý nghĩa tiêu cực. Dựa trên nghĩa khái quát của cơ

chế tạo nghĩa của “ăn” kết hợp với “cách thức” có thể chia ra thành các nhóm sau:

a. Chỉ những tính cách tầm thường hay giả dối, lối sống tạm bợ

Ăn kết hợp với các từ/tổ hợp từ đã tạo nên các từ ghép hoặc cụm từ như ăn

xổi, ăn vã, ăn vụng, ăn tươi, ăn sống, ăn bốc… thông qua cách ăn, kiểu ăn, tư thế

ăn, tác phong ăn đã bộc lộ nhân cách và phong thái con người. Ngoài mang nghĩa

đen phản ánh cách thức ăn, nhiều từ đã chuyển nghĩa, phản ánh hành vi ứng xử, lối

sống, nhân cách của con người. Ví dụ:

- Xin thưa ngay là rất ngon, bao giờ “ăn vụng” cũng ngon hơn là ăn bình

thường, ăn hợp pháp.[12]

- Hết thời làm phim ‘ăn xổi’. [13]

Từ các ví dụ trên cho chúng ta thấy, yếu tố “ăn” được kết hợp các từ chỉ cách

thức ăn đã tạo nên những từ ghép biểu thị những khái niệm mới, phản ánh rất nhiều

khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của người dân Việt. Từ “ăn vụng” vốn trước

đây dùng để chỉ hành động ăn uống lén lút, vụng trộm khi người ta đói, nhưng nay

đa phần được dùng theo nghĩa chuyển, nó thể hiện hành động lén lút, cố tình che

38

đậy vì muốn che dấu động cơ xấu xa; hoặc hành vi ngoại tình bên ngoài đời sống

vợ chồng, trong đó tình dục chiếm phần quan trọng. Ví dụ:

- Nỗi niềm thư ký trẻ "ăn vụng" với sếp [14]

- Biết rõ chồng ăn vụng có con riêng 3 tuổi, vợ giả vờ làm ngơ, 4 năm sau

mới "lật bài ngửa" khiến chị em chắp tay nể phục [15]

- Chồng sốc nặng khi biết vợ 'ăn vụng' với 2 người đàn ông, còn có nhật ký

ngoại tình .[16]

- “Ăn vụng quên chùi mép”, chồng lộ bằng chứng ngoại tình không

thể ngờ [17]

- Chồng “ăn vụng” quá tinh vi [18]

Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn vụng” đã tham gia tạo nên hướng biểu

trưng của thành ngữ, chỉ những hành động lộ liễu, không biết che đậy, giấu giếm

những hành vi sai trái của mình. Ăn vụng không biết chùi mép; Đói ăn vụng, túng

làm càn, Ăn vụng quen mồm. Trong các ngữ cảnh có sử dụng thành ngữ này, ý

nghĩa biểu trưng trên thể hiện rất rõ. Ví dụ:

- Không cải cách tiền lương sẽ có chuyện “đói ăn vụng, túng làm càn” [19]

- Và từ tham, khi tặc lưỡi cho qua “tham vặt”, chuyện nhỏ thôi mà, thì có

thiếu mới vậy, “đói ăn vụng, túng làm càn”, nhưng rồi chính cái sự dung túng đó

vô tình đã chấp nhận “văn hóa tham vặt”, mà tới lúc không đói cũng ăn vụng,

không túng cũng làm càn, một nếp văn hóa xấu xí. [20]

Từ “ăn xổi” vốn để chỉ cách “ăn ngay, không phải đợi chế biến lâu”, tuy

nhiên trong đời sống ngôn ngữ hiện nay, từ “ăn xổi” thường được dùng với nghĩa

phái sinh: muốn đạt được kết quả ngay vì nóng vội, nôn nóng, muốn đốt cháy giai

đoạn. Ví dụ:

- Không thể xuất khẩu theo kiểu ăn xổi. [21]

39

- Khai thác rừng non chẳng khác gì bán lúa non, gỗ rừng trồng đang bị ăn

xổi, hiệu quả kinh tế thấp. [22]

- MV lên ngôi, nhạc Việt trở nên ăn xổi? [23]

Thành ngữ tiếng Việt cũng có câu Ăn xổi ở thì để phê phán những kẻ chỉ làm

việc qua loa nhưng muốn hưởng kết quả ngay, chỉ tính chuyện trước mắt, không

tính chuyện lâu dài; những người nông nổi, thiếu kiên nhẫn, dễ dẫn đến thất bại

trong công việc. Nghĩa biểu trưng trong thành ngữ cũng được thể hiện khá độc đáo

trong các ngữ cảnh. Ví dụ:

- Việc dàn dựng các tác phẩm dành cho thiếu nhi lâu nay luôn được làm theo

lối “ăn xổi ở thì”, chộp giật và manh mún. [24]

- “Chúng ta cần tránh ăn xổi ở thì, bán giá cao, bán cắt cổ làm ảnh hưởng

đến môi trường du lịch”,... [25]

Người Việt cũng có một cách ăn nữa là “ăn tươi”, nghĩa đen để chỉ những loại

thức ăn chưa qua nấu nướng. Khi tham gia hoạt động trong thành ngữ, cách “ăn

tươi” ấy đã có sự chuyển nghĩa, góp phần tạo nên nghĩa của thành ngữ chỉ lối sống,

cách sinh hoạt bừa bãi của con người, ví dụ: “Ăn tươi nuốt sống” (phê phán những

kẻ có thói quen ăn uống xô bồ, sinh hoạt bừa bãi bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh). Khi đi

vào ngữ cảnh cụ thể, “ăn tươi nuốt sống” còn chỉ hành động mang mục đích xấu xa,

có ý đồ đen tối như hành vi bắt nạt hoặc chiếm đoạt. Ví dụ:

- Ai yêu nhau cũng muốn “ăn tươi nuốt sống”? [26]

- Mỗi lần nói chuyện bạn trai như muốn 'ăn tươi nuốt sống' tôi [27]

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta cũng bắt gặp nhiều cách thức “ăn” khác

(mà không thấy xuất hiện trong từ điển) như: ăn ngồm ăn ngoàm, ăn ngoàm

ngoàm… để miểu tả các cách thức ăn uống suồng sã, tùy tiện, thiếu văn hóa, những

cách ăn uống ấy được coi là những nét xấu trong sinh hoạt và cần phải tránh. Ví dụ:

- Anh ăn ngoàm ngoạm. Trông thô bỉ quá. Rõ thật cái vẻ của một người cục

súc. [2, Con mèo, tr.81]

40

- Độ chợ Bắc Qua chưa xây dựng lại, thường gặp mấy cô gái ngồi xổm ngay

giữa nền chợ, ngả cái nón ra, bốc bún bằng tay chấm mắn tôm đựng trong cái chén

mẻ cóc gặm, ăn ngấu nghiến, ăn nhồm nhoàm, rồi quẹt ngang,vừa đi vừa đánh

đàn răng lách tách…. [ 23, Người Hà Nội ăn quà, tr.420]

- Những đứa kia, ngồm ngoàm ăn thật nhanh hết phần của chúng rồi xúm lại

xin Nhu. [ 2, Ở hiền, tr.238]

Trong kết hợp từ, tiếng Việt còn có “ăn + cách thức” là ăn bốc, chỉ cách ăn

dùng tay bốc thức ăn đưa thẳng lên miệng chứ không dùng đũa hay thìa, dĩa gắp,

lấy thức ăn như thường thấy. Đây là cách sinh hoạt của một số ít tộc người thiểu số,

được cho là kém văn minh và không đảm bảo vệ sinh, tuy nhiên, cũng chỉ cách ăn

uống của một bộ phận người có thói quen ăn uống thô tục, xô bồ, lối sinh hoạt bừa

bãi bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh. Khi hoạt động trong thành ngữ, những câu thành ngữ

“ăn bốc đái đứng”, “ăn bốc ăn bải” cũng mang ý nghĩa phê phán những kẻ bần

tiện, ăn uống thô tục. Có thể nói, ở nét nghĩa này ông bà ta đã lấy cái “ăn” để làm

thước đo đánh giá con người. Ngoài ý nghĩa miêu tả thông thường, thông qua đó để

phê phán những hành vi, lối sống hay nhân cách không phù hợp với chuẩn mực xã

hội, bị xã hội lên án, tẩy chay.

Có thể nói, sự kết hợp của yếu tố “ăn”: “ăn + cách thức” đã tạo ra rất nhiều từ

mang nghĩa phái sinh, biểu thị những khái niệm mới. Thông qua cách thức ăn đã

bộc lộ nhân cách và lối sống và cách ứng của mỗi con người. Các sắc thái nghĩa

trong các thành ngữ ở nhóm này chủ yếu lên án, phê phán những tính cách, lối sống

tầm thường hay giả dối, những thói hư tật xấu và những thói quen ăn uống, sinh

hoạt bừa bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh của con người thông qua cách thức ăn. Điều đó

góp phần khẳng định: Đối với người Việt, ăn uống là một thứ văn hóa nên đòi hỏi

mỗi con người cần phải có sự ứng xử tinh tế, có văn hóa trong ăn uống cũng như

trong cuộc sống hàng ngày. Những lối sống giả dối, tạm bợ hay cách ăn uống, sinh

hoạt bừa bãi, thiếu khoa học… đều không được xem là đáng phê phán, loại bỏ.

41

b. Chỉ lối sống hưởng thụ

Chuyện ăn tưởng như là chuyện bếp núc, đơn giản như “đói thì ăn, khát thì

uống”; “Hay ăn thì lăn vào bếp”… nhưng đối với người Việt, ăn uống được coi là

một nét văn hóa, ông bà ta vẫn thường dạy con cháu: “ăn có mời, làm có mượn” và

“ăn tùy nơi chơi tùy chốn”. Bởi vậy miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống, phản ánh

những phép tắc xã hội cũng như cách cư xử của con người với con người trong

cuộc sống. Trong cuộc sống đấu tranh sinh tồn và bảo vệ tổ quốc, ông cha ta đã trải

qua rất nhiều khó khăn, gian khổ để có những giây phút bình yên và cuộc sống đủ

đầy. Niềm mơ ước về sống viên mãn và hạnh phúc của người Việt cũng được thể

hiện rất rõ nét thông qua cách ăn uống.

Trong cách kết hợp này, yếu tố “ăn” thường đi kèm với các từ hoặc tổ hợp từ

để chỉ sự thụ hưởng cuộc sống ổn định, đủ đầy, viên mãn. Sự kết hợp của yếu tố

“ăn” với cách thức tạo thành những nhóm từ chỉ cách ăn uống, phong thái ăn uống

của con người như: ăn chơi, ăn hương ăn hoa, chỉ cái thú ăn nhẹ nhàng, mang tính

chất như ăn quà, ăn lót dạ hoặc thú vui thưởng thức tinh hoa ẩm thực chứ không

mang tính chất ăn lấy no. Ví dụ:

- Bánh giò là thứ ăn chơi, ăn nhẹ, cho các em bé ăn bữa phụ buổi trưa. [23,

Bánh giày, bánh giò, tr.465]

- Các cô thích ăn ốc vặn, ốc nhồi chua cay đến chảy nước mắt chàn nước mũi,

còn các bà, ghé vào ăn chơi một bát bánh đúc cho đỡ nhớ cô hàng quen

thuộc…[23, Bánh đúc quê hương, tr.463]

- Chỉ có thể thỏa thuận với nhau rằng thịt chó là món ăn chơi, ăn chơi thì có

kẻ yêu người ghét…[23, Thịt chó, tr.270]

- Các bà ở nhà chúng ta nhiều khi chiều chồng con, mến bạn, cũng rang lạc

ăn chơi. [23, Phá xang, tr.481]

Khi hoạt động trong ngữ cảnh cụ thể, “ăn chơi” có hiện tượng chuyển nghĩa,

không chỉ hoạt động ăn uống mà chuyển sang chỉ một kiểu người lười lao động, chỉ

42

muốn ăn chơi, hưởng thụ và thường dẫn đến con đường làm những việc phạm

pháp. Các ngữ cảnh có xuất hiện “ăn chơi” mang sắc thái tiêu cực, phê phán. Ví dụ:

- Ăn chơi quá đà, trộm gần nửa tỉ đồng ở nhà dì ruột.[28]

- Bởi thiếu giáo dục ông ăn chơi từ tấm bé rồi đi ăn cướp, bị ở tù. [2, Truyện

người hàng xóm, tr.494]

- Mấy năm về trước, tôi làm khiếp lắm: ban ngày đi làm thuê cho người ta, tối

về có trăng lại cuốc vườn nhà, ấy thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo; có thằng chỉ ăn

chơi suốt đời mà suốt đời vẫn có tiền để ăn chơi. [2, Thôi, đi về…tr.182]

Sự kết hợp “ăn + cách thức” cũng tạo ra nhiều thành ngữ nói về sự hưởng

thụ, ẩn chứa trong đó là mơ ước bình dị có một cuộc sống ổn định, đủ đầy của

người dân lao động, như: Ăn của ngon, mặc của tốt; Ăn ngon mặc đẹp, Ăn sung

mặc sướng; Ăn trắng mặc trơn. Các hướng nghĩa này cũng được bộ lộ rõ trong các

ngữ cảnh. Ví dụ

- Ngày ấy, bố mẹ tôi “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, đến thời tôi thì

“ăn phải ngon, mặc phải đẹp”. Đến thời con cái tôi sau này, có lẽ chuyện ăn ngon

mặc đẹp là tiêu chuẩn tối thiểu của những người bình thường....[29]

- Tết không chỉ là dịp ăn ngon, mặc đẹp, nhận lì xì mà trở nên ý nghĩa nếu

cha mẹ dạy trẻ 6 bài học quan trọng này[30]

- Dù cay đắng, chị vẫn phải dũng cảm để nhìn nhận ra một sự thật rằng chị

là “con mồi” béo bở để hắn vừa lợi dụng thân xác, vừa lợi dụng tiền bạc và uy tín

của chị để ăn trắng mặc trơn rồi “quẹt mỏ” bỏ đi cưới người phụ nữ khác.[31]

c. Chỉ thân phận, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống của con người

Đối với nhóm từ này, “ăn + cách thức” chủ yếu muốn nói lên hoàn cảnh

sống của con người, trong điều kiện khó khăn, đói khổ. Như: ăn rình, ăn chực, ăn

chịu, ăn đong… Và chỉ thân phận, hay nghề nghiệp của con người, chẳng hạn như:

ăn sương, ăn đêm. Ví dụ:

- Ăn đến kỳ no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. [ 2, Một bữa no, tr.234]

43

- Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. [2, Một bữa

no, tr.234]

- Thế nhưng với tính “chơi ngông” của ông Cẩn, gia đình có lúc còn phải

"ăn đong" gạo. [32]

- Ả ăn sương thấy hắn không đáp đưa tay lên nắn túi hắn. [2, Truyện người

hàng xóm, tr.529]

Trong ngôn ngữ đời sống, hiện nay từ “ăn đong” được sử dụng khá nhiều.

Tuy nhiên, ý nghĩa của cách thức ăn này trong mỗi ngữ cảnh thường không biểu thị

hoạt động “ăn” như nghĩa gốc:“ăn bằng gạo mua từng bữa vì túng thiếu”, mà

nghĩa của từ “ăn đong” ở đây đã có có sự chuyển nghĩa để chỉ sự “vay mượn”. Điều

đặc biệt là sử dụng khá đa dạng với nhiều sự việc hiện tượng khác nhau trong đời

sống mà không liên quan đến việc ăn uống. Ví dụ:

- Xuất khẩu đồ gỗ; Ăn đong nguyên liệu [33]

- Ăn đong mẫu mã [34]

- Tuổi thơ khát nhạc: Bé bé bằng bông... ăn đong ca khúc [35]

- Thiết bị dạy học: bao giờ mới hết ăn đong?[36]

- Doanh nghiệp trong nước không chỉ kiệt quệ vì tín dụng siết chặt và lãi suất

cao, nhiều đơn vị giờ đây đang phải đi ăn đong từng đơn hàng xuất khẩu do sức

mua của thị trường giảm sút nghiêm trọng.[37]

- An ninh năng lượng sao cứ mãi “ăn đong”[38]

Hay đối với từ “ăn mày”,“ăn chực” ở nghĩa gốc để chỉ hoạt động “Ăn nhờ

vào sự bố thí hay phần ăn của người khác”, thường để nói dùng để nói về những

bữa ăn nhờ của những người có hoàn cảnh khó khăn. Khi hoạt động trong thành

ngữ, “ăn mày”, “ăn chực” đã góp phần tạo nên hướng nghĩa biểu trưng phê phán

những thái độ và hành vi ứng xử không phù hợp với quy luật cuộc sống. Chẳng hạn

như những người không biết đến thân phận, hoàn cảnh của mình, trong điều kiện

thiếu thốn nhưng lại đòi hỏi người khác một cách thái quá: Ăn mày đòi xôi gấc, Ăn

44

chực đòi bánh chưng. Hay muốn nói đến việc “chờ chực lâu ngày ở nơi nào đó để

làm gì”, để đạt một mục đích nào đấy: Ăn chực nằm chờ. Ví dụ:

- Cả ngàn người "ăn chực nằm chờ", hóng iphone 11[41]

- Người hâm mộ BTS có thể phải đối mặt với phí phạt lên tới 500 USD

(khoảng gần 2 triệu VND) nếu cố tình “ăn chực nằm chờ” nhóm trước các buổi

diễn ở Fort Worth, Texas (Mỹ) vào tuần tới? [42]

- Để mua được một giò lan phi điệp 5 cánh trắng quý hiếm với giá 700 triệu

đồng, người đàn ông phải “ăn chực, nằm chờ” đúng 1 tuần. [43]

Bên cạnh đó, sự kết hợp của “ăn + cách thức” cũng tạo ra một số từ ghép

biểu thị thân phận hay giống như một thứ nghề nghiệp của con người. Đi kèm với

những từ chỉ cách thức ăn trong nhóm này, thường là các từ chỉ sự bình giá thể hiện

sắc thái tiêu cực như kỳ thị, khinh miệt. Ví dụ:

- Hiền ngẩn mặt ra một chút rồi hiểu. Hắn đã được nghe bọn làm công sở

bàn tán về bọn gái ăn sương, lảng vảng ở vườn hoa. [2, Truyện người hàng xóm,

tr.529]

- Dưới màn khói mỏng, bóng dáng mấy cô gái “ăn sương” thoắt ẩn thoắt

hiện.[44]

- Thế giới ngầm ở Malaysia: Gái “ăn đêm” ở Kuala Lumpur [45]

- Hai cô gái trẻ trong băng trộm xe máy chuyên ăn đêm [46]

Có thể nói, cái “ăn” đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của

người Việt, nó có liên hệ mật thiết với các hành vi ứng xử của con người với con

người trong xã hội. Sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các từ/ tổ hợp trong nhóm này

đã tạo ra rất nhiều nghĩa phái sinh, đặc biệt trong các thành ngữ đã diễn tả một cách

sinh động bao trùm mọi khía cạnh sinh hoạt đời sống con người. Như lối sống, nhân

cách, đặc biệt là cách đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống gia đình và xã

hội. Những thân phận vất vả hay cuộc sống mưu sinh cực nhọc, phải bươn trải để

45

kiếm miếng ăn. Và cả số kiếp con người gắn liền với nghề nghiệp. Có thể nói

chuyện ăn của người Việt là một bài học vô cùng đa dạng.

2.2.3. Ăn + hoạt động

Trong tiếng Việt, từ “ăn” khi vận động tạo nghĩa, đã đóng vai trò như một

hình vị cấu tạo từ, khi đó, yếu tố ‘ăn” được ghép với rất nhiều động từ như: Ăn bận,

ăn chơi, ăn diện, ăn học, ăn khách, ăn làm, ăn mặc, ăn nằm, ăn năn, ăn nhậu, ăn

nói, ăn ở, ăn thề, ăn tiêu, ăn uống, ăn vận, ăn xài… để chỉ các hoạt động sinh hoạt

cơ bản của con người. Sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các động từ chỉ hoạt động

sinh hoạt hàng ngày, đã tạo ra các cặp từ ghép. Trong kết hợp (Ăn + X), vai trò

của Ăn và X là như nhau. Và thường nói về các hoạt động tính chất khái quát như:

ăn uống, ăn chơi, ăn nhậu, ăn nói, ăn ngủ, ăn nằm, ăn ở, ăn diện, ăn tiêu… các từ

ghép này không mô tả động từ “ăn” đặt trong kết hợp với một hành động khác

(như “ăn” + “uống”, “diện”, “tiêu”…) mà diễn đạt một ý nghĩa khái quát, mang

nét nghĩa bao hàm rộng hơn “ăn”. Cụ thể, “ăn uống”: chỉ việc ăn uống sinh hoạt

của con người nói chung; “ăn nói”: chỉ hoạt động, hành vi nói năng, giao tiếp của

con người theo thang đo chuẩn mực chung của xã hội; “ăn chơi” chỉ một lối sống

xa hoa, hưởng thụ, đua đòi; “ăn ngủ” nói về nếp sinh hoạt ăn và ngủ của con người,

khi chuyển nghĩa chỉ việc nam nữ quan hệ tình dục; “ăn nằm” không phải đơn

thuần chỉ hoạt động “ăn” và “nằm” hay tư thế khi ăn, mà chuyển nghĩa chỉ hoạt

động quan hệ tình dục; “ăn diện” mang ý nghĩa chỉ cách phục sức, ăn mặc hơi cầu

kỳ, có xu hướng thời thượng; “ăn tiêu” chỉ việc tiêu pha, mua sắm, quản lí tài chính

phục vụ cho nhu cầu của con người nói chung... Các kết hợp này hầu như đều kiến

tạo nên nét nghĩa phái sinh của từ “ăn”. Ví dụ:

- Ăn nói như cái đồ cục súc. Được rồi, không khiến đuổi. [2, Con mèo, tr.31]

- Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị phải nhìn trộm bà cô, rồi nhìn

nhanh xuống bụng.[ 2, Chí Phèo, Tr.62]

46

- Lo hết kinh tế vẫn chăm sóc gia đình chu đáo vậy mà gã chồng vẫn ăn nằm

với osin [48]

Từ “ăn nằm” khi hoạt động trong thành ngữ, bằng cách tách - xen, đã tạo nên

các thành ngữ mang hướng nghĩa biểu trưng chỉ cuộc sống lao động mưu sinh vất

vả, cực nhọc, lam lũ của con người như: Ăn gió nằm mưa; Ăn gió nằm sương.

Trong các ngữ cảnh có sử dụng thành ngữ này, ý nghĩa biểu trưng về sự vất vả rất

rõ được thể hiện rất rõ nét. Ví dụ:

- “Ăn gió nằm sương” kiếm tết ở đảo hoa độc nhất Tây Nguyên [49]

- Trong ba ngày Tết, đồng bào ai cũng đoàn tụ sum vầy xung quanh những

bình hoa, mâm bánh. Còn các bạn thì chịu ăn gió, nằm mưa lạnh lùng ở chốn sa

trường. [50]

- Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm (472, Chú giải Truyện Kiều) [51]

Trong nhóm từ ngữ trên, từ “ăn nói” vốn chuyển nghĩa chỉ hoạt động nói năng,

giao tiếp nói chung, đã tham gia vào hoạt động trong thành ngữ mạnh nhất, với

cách cấu tạo tách xen “ăn – nói” góp phần kiến tạo nên hướng nghĩa biểu trưng chỉ

văn hóa ứng xử, lối sống, phẩm chất, hành vi của con người. Trong đó, phần đa là

mang sắc thái phê phán, tiêu cực. Ví dụ: Ăn thô nói tục; ăn hơn nói kém; ăn thừa

nói thiếu; Ăn lắm, nói nhiều; Ăn tục, nói khoác; Ăn ngược nói ngạo; Ăn ốc nói

mò; Ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo... Tuy nhiên, nhiều thành ngữ có sự tham gia

cấu tạo bởi “ăn nói” mang nét nghĩa biểu trưng tích cực, chỉ hành vi nói năng chuẩn

mực, khuôn phép, đúng phép tắc xã hội của những con người có tri thức, có văn

hóa, biết đối nhân xử thế. Ví dụ: Ăn bớt bát, nói bớt lời (hành vi nhường nhịn); ăn

ngay nói thẳng; ăn bằng nói chắc (con người thật thà, chất phác, lối sống thẳng

thắn, chân thành). Điều đó cho chúng ta thấy, rõ ràng “ăn-nói” thể hiện trình độ văn

hóa của mỗi con người. Một số ngữ cảnh xuất hiện các thành ngữ liên quan đến “ăn

nói” cũng bộ lộ rõ nét các nghĩa biểu trưng của thành ngữ. Ví dụ:

47

- Lý giải về sự trỗi dậy của "hiện tượng Donald Trump", chuyên gia phân

tích Scot Faulkner cho rằng phong cách ăn ngay nói thẳng của ông Trump đang

làm hả dạ những người bảo thủ.[54]

- Muốn khoa học công nghệ nói riêng, nền khoa học kỹ thuật Việt Nam nói

chung phát triển thì một trong những việc cần làm ngay là cải cách thể chế chính

sách để các nhà khoa học tập trung cho nghiên cứu, sáng tạo, nhất là không biến

các nhà khoa học thành “ăn gian, nói dối”.[55]

- Bạn hãy tin rằng, mọi ý nghĩ không hay về các cặp chồng già vợ trẻ đều chỉ

là trò “ăn ốc nói mò”, vô cùng thiếu cơ sở.[56]

Trong quá trình khảo sát thực tế ở ngôn ngữ đời sống cũng như ngôn ngữ

văn chương cho thấy, có một điều khá thú vị đối với từ “ăn” đó là: Trong các kết

hợp với các từ liên quan đến nhu cầu, hoạt động thường ngày, gắn liền với bản năng

sinh tồn của con người như: ăn, uống, ở, mặc, ngủ, nằm… thì từ “ăn” luôn đứng ở

vị trí thứ nhất, đứng trước các động từ như: ăn- ngủ, ăn- mặc, ăn – uống, ăn-

chơi…. Nhưng riêng đối với động từ “làm” thường hay đứng trước từ “ăn”, “làm

ăn”. Điều đó phản ánh tư duy truyền thống của người Việt. Ông cha ta đã trải qua

rất nhiều khó khăn vất vả trong cuộc đấu tranh để sinh tồn và đã đúc rút được kinh

nghiệm, con người muốn có cái ăn, phải bỏ sức lao động và mồ hôi nước mắt thì

mới có thành quả tốt đẹp được. Ví dụ:

- Rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn.[ 2, Một đám

cưới, tr.294]

- Mai sau, trời cho làm ăn khá giả, có tiền ra làm công việc, cũng chẳng còn lo

thiếu chữ…[2, Truyện người hàng xóm, tr.492]

Cho nên trong các thành ngữ nói về cái ăn cũng thường gắn liền với từ chỉ

hoạt động “làm”. Bởi ông cha ta quan niệm “Có làm thì mới có ăn” và luôn phê

phán những kẻ hay ăn mà chỉ muốn hưởng thụ, lười biếng không muốn làm việc thì

48

không thể tồn tại lâu dài được. Ví dụ: Ăn thật làm giả; ăn kỹ làm dối; hay nói về

những tình huống gặp may, thuận lợi: Làm chơi ăn thật. Ví dụ:

- Theo lý giải của bạn đọc thì lương thấp là vì phải san sẻ với những đồng

nghiệp "ăn thật làm giả" [57]

- Nông dân trồng cây cảnh “làm chơi ăn thật” [58]

- Nhưng toàn những cha ăn kỹ làm dối, một nhát đến tai, hai nhát đến gáy…

Thoạt nhìn, biết ông là người cẩn thận…[59]

Cái “ăn” cũng thường đi liền với cái “mặc”. “Ăn mặc” ngoài nghĩa gốc chỉ

hoạt động “ăn” (để duy trì sự sống) và “mặc” (để giữ ấm, bảo vệ cơ thể), đã được

chuyển mang nghĩa khái quát chỉ cách phục sức, trang phục của con người, trong đó

hàm chứa cả nét nghĩa về văn hóa thẩm mỹ. Ví dụ:

- Theo tôi, văn hóa không 'nằm' ở những chiếc váy mà ở trên não người mặc.

Nếu thực sự là người có văn hóa, bạn sẽ thể hiện văn hóa ăn mặc của mình tùy

theo hoàn cảnh…” [60]

- 15 phong cách thời trang đúng là xúc phạm nền văn hóa ăn mặc thế

giới[61]

- Chiếc áo không làm nên thầy tu” nhưng cách bạn ăn mặc, quần

áo, trang phục lại ảnh hưởng đến việc mọi người nghĩ bạn có đủ năng lực hay

không đấy. [62]

Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn mặc” với kiểu kết hợp tách xen đã góp

phần tạo nên hướng nghĩa biểu trưng của thành chỉ triết lí sống của con người về

cuộc sống vật chất và tinh thần như phản ánh cuộc sống khổ cực vất vả, thiếu thốn

của người dân lao động: Ăn đói mặc rách; Ăn đói mặc rét; đề cao lối sống tiết

kiệm, phù hợp với hoàn cảnh: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Ăn lấy đặc, mặc lấy dày;

Ăn chắc mặc bền; rồi đến Ăn no, mặc ấm, và khi xã hội phát triển hơn thì vươn đến

tiêu chí Ăn ngon mặc đẹp; Ăn trắng mặc trơn; Ăn sung mặc sướng…. phản ánh

mong ước bình dị của người lao động xưa về một cuộc sống no ấm và đủ đầy cũng

49

như phản ánh tinh thần tiết kiệm, lối sống thiết thực, biết lo toan tính toán cho phù

hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình để xây dựng cuộc sống ổn định và bền vững.

Trong ngôn ngữ đời thường, khi thành ngữ chứa “ăn mặc” xuất hiện trong ngữ cảnh

cũng bộc lộ rõ nét nghĩa biểu trưng trên. Ví dụ:

- Lao động từ Algeria 'ăn đói, mặc rách' về nước [63]

- …bà đã phải thắt lung buộc bụng, ăn đói mặc rách để cho anh, chính anh

cũng phải nhịn đủ thứ, để không tiêu cho nó đi nhanh quá.[2, Nhỏ nhen, tr.78]

- Ở độ tuổi 30, họ sở hữu trong tay khối tài sản đủ để ăn sung mặc sướng

đến hết cuộc đời. [64]

Tuy nhiên, đối với thành ngữ “ăn chắc mặc bền” các ngữ cảnh xuất hiện thành

ngữ này lại dùng cho nhiều sự việc, hiện tượng mà không liên quan gì đến việc “ăn

mặc”, các nét nghĩa phái sinh ở đây để chỉ những tính cách của con người hoặc

những giải pháp mang tính cẩn thận, chắc chắn. Hay “ăn trắng mặc trơn” để chỉ

hạng người lười lao động, chỉ muốn hưởng thụ. Ví dụ:

- Ngay đến dệt vải, cũng không biết dệt. Ăn không nhi dĩ! Mà lại thích ăn

trắng mặc trơn. [2, Sống mòn, tr.637]

- Hướng đến giải pháp “ăn chắc, mặc bền” cho giới tiểu thương và người lao

động. [65]

- Người có tiền và muốn ăn chắc mặc bền, ngại phải vào garage vì sợ tốn

tiền, sợ tốn xăng nuôi xe thì mới chọn xe Nhật. [66]

- Lập kỷ lục SEA Games mới, Nguyễn Huy Hoàng “ăn chắc mặc bền” mỗi

ngày một vàng. [67]

Trong tiếng Việt, phạm trù “ăn” cũng thường gắn liền với phạm trù “ở”.

Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe ông bà ta thường nói:

Đường ăn ý ở; Thói ăn nết ở. Ngoài ý nghĩa mang tính khái quát, từ “ăn ở” còn

biểu thị cách cư xử giữa con người với nhau trong cuộc sống. Ví dụ:

50

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không [68]

- Điều cốt yếu là họ ăn ở đối xử với nhau ra sao, chứ tôi thấy các bạn trẻ

bây giờ ngày càng lãng phí. [69]

- Đấy cứ ăn ở độc ác cho lắm vào! [2, Nửa đêm, tr.329]

Ngoài ra, từ “ăn ở” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra những nét nghĩa

mới, biểu thị việc quan hệ tình dục khi chưa phải là vợ chồng chính thức. Ví dụ:

- Hai người đã ăn ở với nhau như vợ chồng. [70]

- Có tình cảm nào với sự biết ơn mà đến với nhau, ăn ở với nhau dẫn đến

quan hệ? [71]

Khi hoạt động trong thành ngữ, sự kết hợp của từ “ăn ở” với các tổ hợp từ đã

tạo nên rất nhiều nghĩa phái sinh trong thành ngữ. Có thể là cách đối nhân xử thế,

sống với nhau cho trọn tình, trọn nghĩa, trước sau như một: Ăn ở như bát nước đầy;

đôi khi là lên án, phên phán những hạng người sống không thủy chung, hay thay

lòng đổi dạ: Ăn ở hai lòng; phản ánh lối sống tiết kiệm, biết tính toán, lo liệu cho

phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình được coi là kim chỉ nam cho lối sống

của người dân Việt: Ăn cần ở kiệm; Ăn tằn ở tiện; phản ánh hoàn cảnh sống vất

vưởng, sống nhờ sống gửi, tạm bợ: Ăn nhờ ở đậu; Ăn nhờ ở gửi; hoặc phản ánh

những mảnh đời phải bươn trải, cực khổ trong cuộc sống mưu sinh: Ăn bờ, ở bụi;

phê phán hạng người nông nổi, chỉ tính chuyện trước mắt, không suy nghĩ đến

chuyện lâu dài: Ăn xổi ở thì; phản ánh thói quen sinh hoạt bừa bãi, lối sống cẩu thả,

mất vệ sinh: Ăn lông ở lỗ. Các thành ngữ này khi hoạt động trong các ngữ cảnh

cũng bộc lộ rõ hướng nghĩa biểu trưng này. Ví dụ:

- Người Việt vẫn dặn nhau “ăn ở như bát nước đầy” và trong quan hệ với

Trung Quốc, Việt Nam luôn thực tâm giữ gìn, thậm chí nâng niu bát nước tình

nghĩa ấy. [73]

51

- “Ăn bờ ở bụi” đón tết xa nhà hay đón giao thừa muộn là những chuyện đã

quá quen thuộc đối với những người chuyên nghề trồng hay buôn bán đào, quất,

cây cảnh chưng tết. [74]

- Xuất khẩu LĐ (XKLĐ) chuyển sang cơ chế thị trường đã lâu nhưng vẫn hoạt

động theo kiểu “ăn xổi ở thì”. [75]

- Cũng có ông "ăn ở hai lòng". Tình cảm đem chia sẻ nhiều nơi, chỉ dành cho

vợ phần nhỏ nhất. [76]

Thông qua các kết hợp tạo nên các hướng nghĩa phái sinh của từ “ăn” và các

từ có chứa yếu tố “ăn” trong các ngữ cảnh và sự hoạt động trong thành ngữ như

trên, chúng ta thấy, phạm trù “ăn” gắn bó mật thiết với mọi phương diện trong đời

sống xã hội của con người. Có thể nói, từ “ăn” đã kết hợp rất linh hoạt và đa dạng

với các từ/ tổ hợp từ để phản ánh mọi hoạt động trong đời sống của con người, từ

đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Trong các kết hợp, “ăn” chủ yếu được

dùng với nghĩa chuyển, không còn đơn thuần chỉ hoạt động ăn uống dung nạp thức

ăn để sinh tồn, mà phản ánh tư duy, cách cảm, cách nghĩ, cách đánh giá, nhìn nhận

con người trong xã hội; góp phần bộc lộ nhân cách, bản chất con người mà ít hoạt

động nào liên quan đến con người lại có sự đa tầng ngữ nghĩa như vậy. Đặc biệt,

khi tham gia cấu tạo thành ngữ, “ăn” góp phần tạo nên nhiều hướng nghĩa biểu

trưng phong phú, phản ánh cái nhìn gần như toàn diện của ông cha ta về phép đối

nhân, xử thế; hành vi; nhân cách; bản tính tích cực hay tiêu cực của con người,

thành ngữ chứa “ăn” mang đủ ý nghĩa thiên biến vạn hóa trong văn hóa Việt.

2.2.4. Ăn + địa điểm/ vị trí

Đối với người Việt, từ bao đời nay phong tục tập quán ăn uống đã hình

thành dưới tác động chi phối của điều kiện môi trường tự nhiên, khí hậu nhiệt

đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều. Sống trong môi trường tự nhiên ấy, con

người đã thích nghi, gắn bó và tận dụng các nguồn tài nguyên của thiên nhiên

ban tặng để đảm bảo cuộc sống của mình. Dấu ấn của môi trường tự nhiên

52

được thể hiện rõ nét trong cơ cấu thành phần bữa ăn, đặc biệt là nơi chốn hay

địa điểm trong sinh hoạt ăn uống của người Việt. Thông qua sự kết hợp của

thành tố “ăn” với các địa điểm sẽ phác họa cho chúng ta thấy được những nét

độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt.

Với kết cấu “ăn + địa điểm” trong đó đó yếu tố địa điểm là nơi mang tính

chất điển hình gắn liền với hoạt động ăn uống như: ăn hàng, ăn quán, ăn chợ…

Nhưng trong ngôn ngữ đời sống hiện nay, chúng ta thấy có những địa điểm không

phải là nơi trực tiếp cung cấp thức ăn, cũng không liên quan gì đến hoạt động ăn

uống như: ăn đường, ăn đường ăn chợ, ăn bờ ở bụi, ăn xó mó niêu…cách kết hợp

này đã tạo ra các nghĩa phái sinh, biểu thị những lối sống khác nhau của con người.

Ví dụ:

- Trưởng ấp... ăn đường [79]

- Ngồi tù vì ăn đường giao thông [80]

- Ngày tôi còn nhỏ, ăn đường ăn chợ có khi còn bị coi là thiếu văn hóa.

[81]

- Trọng thị người thầy để họ không... "ăn xó mó niêu" [82] - 6 tháng 'ăn bờ, ngủ bụi' của trinh sát phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ

đồng game đế) [83]

- Bộ đội Biên phòng “ăn bờ, ngủ bụi” chặn dòng người nhập cảnh trái

phép [84]

Ở đây, chúng ta thấy sự phong phú và tinh tế trong sự kết hợp của “ăn” với

tư cách là một từ đa nghĩa trong tiếng Việt. Mỗi địa điểm khi kết hợp với từ “ăn” lại

phái sinh sang một hướng nghĩa mới, tạo nên sắc thái và giá trị ngữ dụng riêng.

Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ địa

điểm đã góp phần tạo nên những hướng nghĩa biểu trưng cho thành ngữ, trong đó

chủ yếu mang sắc thái tiêu cực, răn dạy hay phê phán con người về cách ứng xử

trong cuộc sống như: Ăn trên ngồi chốc (nói về những kẻ quyền thế, chuyên vơ vét

của dân, tự cho mình ở tầng lớp thượng đẳng); Ăn xó mó niêu; Ăn lông ở lỗ, để chỉ

53

lối sống bần tiện, ăn uống bẩn thỉu, thô tục. Trong một số ngữ cảnh, các nét nghĩa

trong thành ngữ lại được biểu thị thêm những nét nghĩa mới như địa điểm sống chui

lủi hay cách làm việc lố bịch, phản cảm, thiếu văn hóa. Ví dụ:

- Quan điểm này trái ngược hoàn toàn với thông tin của Mỹ, rằng trùm

khủng bố al-Qaeda đang phải “ăn lông ở lỗ”.[85]

- ...bên tây họ đẹp ở cách ăn mặc lịch sự còn bên ta lại lấy vẻ đẹp trùng trục

như trâu để coi là đẹp....trông lố bịch quá....chỉ hơn thời ăn lông ở lỗ là có cái

quần" [86]

2.2.5. Ăn + hành vi chiếm đoạt hoặc những hoạt động phạm pháp

Trong tiếng Việt, “ăn” có thể kết hợp với các từ/ tổ hợp từ để biểu thị hành

vi chiếm đoạt hoặc những hoạt động phạm pháp như: ăn cắp, ăn chặn, ăn chẹt, ăn

cướp, ăn hiếp, ăn hối lộ, ăn quỵt, ăn trộm. Yếu tố “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp

từ đã tạo ra rất nhiều từ ghép biểu thị những khái niệm mới. Ngữ nghĩa của những

từ này hoàn toàn không liên quan gì đến hoạt động ăn uống, chủ yếu “ăn” được

dùng theo nghĩa phái sinh tiêu cực, chỉ những hành vi, nhân cách, lối sống thiếu

chuẩn mực, những hoạt động phạm pháp hay thứ nghề nghiệp bị xã hội lên án, tẩy

chay, phản ánh những hành vi đi ngược lại với giá trị sống nhân văn của cộng

đồng. Trong các ngữ cảnh đời sống, những kết hợp này được thể hiện khá phong

phú. Ví dụ:

- Ăn hối lộ, cựu thị trưởng Thâm Quyến lãnh án tử hình [87]

- Ăn chặn tiền suất ăn của học sinh tiểu học [88]

- Người ta có thể đã quen với những hành vi ăn cắp vặt chỗ này, chỗ kia vì nó

vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng việc ăn chặn hàng cứu trợ dành cho những người

già neo đơn, những trẻ em mồ côi ở trung tâm này, thật là hành vi quá xấu xa,

không thể nào chấp nhận được. [89]

- Biển báo giao thông bị "ăn hiếp"[90]

- Những kẻ ăn chẹt ở Phố Wall [91]

54

- Người ta chẳng ăn lường ăn quỵt của ai nó cũng đặt điều nói vu cho người

ta được….[ 2,Truyện người hàng xóm, tr.420].

Từ những ví dụ trên đây cho thấy, tùy mỗi ngữ cảnh, từ/yếu tố “ăn” kết hợp

với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra rất nhiều từ ghép biểu thị những khái niệm mới. Ngữ

nghĩa của những từ này hoàn toàn không liên quan gì đến hoạt động ăn uống.

Chẳng hạn như “ăn cắp vặt” để chỉ tính cánh con người có thói quen chuyên lén lút

lấy trộm của người khác khi họ sơ hở; “ăn chẹt” để chỉ những kẻ lợi dụng người

khác gặp thế bí để kiếm lợi về phần mình; “ăn quỵt” để chỉ hành động cố tình lấy

không, không chịu trả cái đáng lẽ ra phải trả. Bên cạnh đó sự kết hợp của từ “ăn”

trong nhóm này cũng tạo ra các từ chỉ các hoạt động phạm pháp hoặc tội ác gắn liền

với nghề nghiệp như: Ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp. Ví dụ:

- Toàn những tội ăn vụng, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày, ăn nhặt! Chao ôi! vợ hắn

bêu hắn quá![2, Đòn chồng, tr.102]

- Ăn trộm bị phát hiện, trả thù bằng... xăng![92]

- Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão quá lương

thiện. [2, Lão Hạc,Tr.55]

- Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của

ai [2,Tư cách mõ, tr.212]

- Ấy thế là chúng vừa mua, vừa ăn cướp.[2, ở hiền, tr.240]

Khi các kết hợp của “ăn” này hoạt động trong thành ngữ, góp phần tạo

nên các hướng nghĩa biểu trưng của thành ngữ như: chỉ hành vi chiếm đoạt của

người khác những thứ không thuộc về mình: Ăn cắp ăn nảy, Ăn trộm ăn cắp, Ăn

cắp như ranh; hay những hành vi thể hiện nhân cách xấu xa, bị xã hội lên án

như: Ăn đút ăn lót.

2.2.6. Ăn + hành vi trục lợi

Từ/yếu tố “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ các hành vi mang tính chất

trục lợi đã tạo nên rất nhiều nghĩa phái sinh cho “ăn”, phản ánh nhiều chiều về tính

55

cách, lối sống, hoàn cảnh sống của con người, thường là mang hướng nghĩa tiêu cực

như: Ăn bám, ăn bớt, ăn cánh, ăn chia, ăn gian, ăn hớt, ăn rơ, ăn người, ăn mảnh,

ăn tiền,... Ngữ nghĩa của nhóm từ này được thể hiện khá phong phú trong ngôn ngữ

đời sống và đặc biệt là khi hoạt động trong thành ngữ. Ví dụ:

- Cũng lạ! Người anh em toàn đi ăn mảnh. [2, Ở rừng, tr.809]

- Trước thực trạng trên dư luận không khỏi đặt nghi vấn: Có hay không việc

chính quyền “ăn rơ” với doanh nghiệp? [93]

- Vụ bệnh viện Xanh Pôn gian lận xét nghiệm HIV: “Ăn gian” quy trình gây

sai số như thế nào? [94]

- Ăn chia "tàn bạo" ở dự án KĐT Thanh Hà, ông Trịnh Xuân Thanh có liên

quan? [95]

- "Ăn bẩn", 3 cựu cán bộ công an “chia nhau” 21 năm tù [96]

Có thể nói sự kết hợp của từ “ăn + hành vi trục lợi” ngoài việc tạo ra các tổ

hợp nghĩa đen chỉ các hành vi liên quan đến hoạt động ăn, còn bao hàm các nét

nghĩa bóng chỉ các hành vi, nhân cách, lối sống hay cách thức làm việc… của con

người. Các hành vi đi kèm trong tổ hợp với từ “ăn” ở đây đều mang sắc thái tiêu

cực. Phần lớn là các hành vi, những thủ đoạn, mánh khóe trong những việc làm bất

lương và cả những việc không hợp pháp, đi ngược với giá trị sống của cộng đồng,

trái với thuần phong mỹ tục, bị xã hội lên án, tẩy chay. Chẳng hạn như: “ăn mảnh”

để chỉ hành động lén lút, giấu giếm để hưởng lợi riêng, hay “ăn gian” chỉ hành

động cố tình làm sai để thu phần lợi về mình, “Ăn rơ” (Đây là từ bắt nguồn từ tiếng

Pháp: “Jeu” là cuộc chơi), để chỉ sự hợp tác với nhau trong chuyện làm ăn với mục

đích xấu.

Tuy nhiên, từ “ăn bám” ngoài ý nghĩa để chỉ những kẻ có sức lao động

nhưng không làm việc, sống nhờ vào sức lao động của người khác, thì trong ngôn

ngữ đời sống hiện nay, từ “ăn bám” còn chuyển nghĩa, chỉ sự lợi dụng hay phụ

thuộc. Ví dụ:

56

- UBND TP.HCM chỉ đạo xử lý nạn "ăn bám trẻ em" [97]

- Bất động sản đang “ăn bám” thị trường tài chính. [98]

- Quỹ ngoài ngân sách 'ăn bám' ngân sách. [99]

- Điện ảnh ăn bám “sao”. [100]

- Philippines nói muốn tự củng cố năng lực phòng thủ, không 'ăn bám' vào

nước khác. [101]

Trong ngôn ngữ đời sống hiện nay còn có cách kết hợp được giới trẻ ưa sử

dụng như “ăn chùa” (để chỉ hành vi ăn của những kẻ chỉ muốn ăn của người khác

mà không muốn trả tiền của mình). Ví dụ:

- “Ăn chùa” cả chục lần nhưng không mời lại một lần. [102]

- Không đến muộn nhưng nhiều thanh niên "ăn chùa” vẫn xù được tiền ăn

bằng cách cố tình về sớm. [103]

Khi hoạt động trong thành ngữ, các kết hợp “Ăn + hành vi trục lợi” đã tạo

nên hướng nghĩa biểu trưng chỉ những hành vi thể hiện nhân cách xấu xa: Ăn gian

nói dối; ăn gian nó giàn ra đấy; hay để chỉ những kẻ lười lao động, sống nhờ vào

sức lao động của người khác: Ngồi không ăn bám.

Như đã thấy, “ăn” không chỉ là hoạt động mang tính bản năng để duy trì sự

sống của con người mà “ăn” là cả một vấn đề ứng xử, vấn đề xã hội. Nó thể hiện

những nét đặc trưng văn hóa, gắn với mỗi cộng đồng với những thói quen, tập tục.

Đặc biệt là ẩn chứa trong đó những bài học về nhân cách, là quan niệm về nhân

sinh, về cuộc sống và các đạo lý, các cách hành xử trong xã hội của con người.

Thông qua các kết hợp tạo nên các hướng nghĩa phái sinh của từ “ăn” chúng ta

thấy, phạm trù “ăn” gắn bó mật thiết với mọi phương diện trong đời sống xã hội của

con người. Trong các kết hợp, “ăn” chủ yếu được dùng với nghĩa chuyển, không

còn đơn thuần chỉ hoạt động ăn uống dung nạp thức ăn để sinh tồn, mà phản ánh tư

duy, cách cảm, cách nghĩ, cách đánh giá, nhìn nhận con người trong xã hội; góp

phần bộc lộ nhân cách, bản chất con người mà ít hoạt động nào liên quan đến con

57

người lại có sự đa tầng ngữ nghĩa như vậy. Đặc biệt, khi tham gia cấu tạo thành

ngữ, “ăn” góp phần tạo nên nhiều hướng nghĩa biểu trưng phong phú, phản ánh cái

nhìn gần như toàn diện của ông cha ta về phép đối nhân, xử thế; hành vi; nhân cách;

bản tính tích cực hay tiêu cực của con người, thành ngữ chứa “ăn” mang đủ ý nghĩa

thiên biến vạn hóa trong văn hóa Việt.

Tiểu kết chương 2

Từ kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi thấy “ăn” là một từ rất đặc biệt, có

khả năng phái sinh nghĩa phong phú, diễn tả được mọi khía cạnh trong đời sống vật

chất cũng như đời sống tinh thần của người Việt. Trong nhiều trường hợp, “ăn” còn

đóng vai trò như một hình vị tham gia cấu tạo từ, có khả năng kết hợp mạnh với

nhiều từ loại khác, tạo nên các lớp nghĩa mới trong tiếng Việt. Sự kết hợp ấy được

thể hiện phong phú trong ngôn ngữ đời sống, trong văn học và đặc biệt là trong

thành ngữ. Đây là từ có khả năng phái sinh nghĩa và sự phát triển nghĩa mạnh mẽ

nhất. Ở nghĩa gốc, từ “ăn” mang sắc thái trung tính. Tuy nhiên, khi đi vào các kết

hợp tạo nên nghĩa phái sinh, thì sắc thái biểu cảm của từ “ăn” hoặc các từ chứa yếu

tố “ăn” cũng thay đổi tùy theo ngữ cảnh.

Cơ chế tạo nghĩa của “ăn” có thể khái quát thành 6 nhóm cơ bản. Trong đó

từ “ăn”/ các từ chứa yếu tố “ăn” hoạt động vô cùng linh hoạt, có khi là động từ có

khi lại là danh từ chỉ “sự ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ mục đích; chỉ cách

thức; chỉ hoạt động; chỉ địa điểm; chỉ các hành vi chiếm đoạt; chỉ hành vi trục lợi …

thông qua đó để khen ngợi hoặc phê phán, lên án những lối sống, tính cách, nhân

phẩm hay cách đối nhân xử thế của con người trong cộng đồng xã hội. Từ nghĩa

gốc của từ “ăn”, khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo thành vô số những từ mới,

khái niệm ăn của người đã được mở rộng, bao trùm mọi mặt sinh hoạt, nghề

nghiệp, tính cách con người. Từ “ăn” với tư cách là một từ đa nghĩa đã phản ánh rõ

nét lối tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt.

58

Chương 3

NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP

CỦA NHÓM TỪ ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT

3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt

Ăn là một trong những hoạt động cơ bản nhất, gắn liền với con người ngay

từ buổi sơ khai. Trong tiếng Việt, từ “ăn” cũng là một trong những từ có rất nhiều

từ đồng nghĩa. Theo cuốn: “Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt” của tác giả Nguyễn

Văn Tu [42, tr. 22-23], từ “ăn” có 5 từ đồng nghĩa gồm: xơi, chén, mời, hốc, nhậu

(Phương ngữ Nam bộ), mỗi từ được sử dụng tùy từng hoàn cảnh và mang những

sắc thái biểu cảm riêng.

Trên từ điển http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/, từ “ăn” có các từ đồng nghĩa

sau: hốc, ngốn, tọng, xực. Tuy nhiên, trên thực tế, qua quá trình khảo sát trong ngôn

ngữ đời sống, ngôn ngữ báo chí và trong các tác phẩm văn chương, trong những

ngữ cảnh nhất định, chúng tôi nhận thấy còn có rất nhiều từ đồng nghĩa với từ “ăn”

như: đánh chén, đớp, đánh, dùng, làm, thưởng thức, cắn, nếm, ngoạm, tợp, thời

(Phương ngữ Đà Lạt), đả, lùa, lẻm, thụ, nốc ,hớp, ngốn, nhắm, nhắm nhót, nhấm

nháp, nhâm nhi, xực (Hoa ngữ), thực (từ Hán - Việt). Nhóm từ ngữ này là một bức

tranh sinh động về sự sáng tạo và độc đáo về các phương tiện ngữ nghĩa nhằm phản

ánh tư duy của con người.

Trong cuốn “Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt” của tác giả Nguyễn Văn Tu

[42, tr.22-23] tác giả đã giải thích nghĩa của các từ như sau.

a. Xơi: ăn (nói lịch sự trang trọng): Mời bác ở lại xơi cơm với bố mẹ cháu; Mời

cụ xơi tạm chén rượu nhạt.

b. Chén (khẩu ngữ) ăn mà có rượu uống, có thức ăn khá ngon lành: chén cỗ.

c. Mời (Lễ phép, kính trọng): Bà mời nước đi.

59

d. Hốc: Ăn, nói tục hoặc khi nói muốn xỉ vả người khác: Hốc nhanh lên

rồi còn đi.

e. Nhậu: Ăn (phương ngữ Nam Bộ): Nhậu tiếp

Có thể nói, thông qua sự khái quát các nét nghĩa của các từ trong nhóm từ

đồng nghĩa với từ “ăn” cho chúng ta thấy sự phong phú và độc đáo trong văn hóa

ăn của người Việt. Mỗi một từ mang những sắc thái biểu cảm riêng phù hợp với

từng ngữ cảnh để phản ánh mọi cung bậc cuộc sống cũng như lối tư duy của người

Việt thông qua hoạt động “ăn”. Trong nhóm từ đồng nghĩa này, từ “ăn” đóng vai

trò là từ trung tâm, mang tính chất toàn dân được sử dụng phổ quát. Trong đó từ

“nhậu” là phương ngữ Nam Bộ, được sử dụng ở phạm vi hẹp hơn. Đây cũng là từ

đóng vai trò quan trọng trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, tạo nên sự đa dạng, phong

phú, mang sắc thái địa phương để làm giàu thêm cho vốn từ vựng của tiếng phổ

thông.

3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn”trong tiếng Việt

3.2.1. Ngữ nghĩa của từ “xơi”, “mời”

Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê. Nghĩa của từ “xơi” và

“mời” có các nét nghĩa như sau:

+ Xơi đg. 1 (trtr.) . Ăn, uống. Hoặc hút (thường dùng trong lời mời chào).

Mời bác xơi cơm. Mời vào nhà xơi nước.

2 (thgt). Tiêu diệt trong chiến đấu: Xơi gọn cả tiểu đoàn địch.

3 (thgt.). Phải chịu, bị (điều không hay). Xơi đòn đau. [25, tr.1479]

+ Mời đg. 1. Tỏ ý mong muốn, yêu cầu người khác làm việc gì một cách lịch

sự, trân trọng. Mời anh đến chơi. Đưa tay mời. Kính mời. Giấy mời họp. Mời cơm

thân mật (trtr.; mời ăn cơm).

2 (ph). Ăn hoặc uống (Nói về người đối thoại, một cách lịch sự). Anh

mời nước đi. Các bác đã mời cơm chưa? [25, tr.831]

60

Từ “xơi”, “mời” được sử dụng để mời trong ăn uống, trong những ngữ cảnh

giao tiếp xã giao hay khuôn phép nhằm thể hiện sự lịch sự, lễ phép, kính trọng đối

với người được mời. Đây được coi là “kính ngữ” thường được dùng để mới đối với

người lớn tuổi hơn, người có vị thế cao hơn hay trong giao tiếp cần nghi lễ trang

trọng, lịch thiệp.

Đối với từ “xơi”, đây là những từ được sử dụng nhiều cả trong ngôn ngữ đời

sống và trong ngôn ngữ văn học. Ngoài những nghi lễ xã giao, từ “xơi được dùng

nhiều trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là trong các gia đình trí thức, có

truyền thống giáo dục cao, thể hiện nét đẹp trong triết lí “lời chào cao hơn mâm cỗ”

của người Việt, thường gắn liền với lời mời có tính trang trọng trong bữa ăn hoặc

trà dư tửu hậu. Ví dụ:

- Bác xơi quả trứng nhé, một hay hai? [23, Phở, tr.269]

- Mời cụ xơi đi, cụ ạ. Ta uống mau lên một tý để còn đi tìm bàn chắn chứ!..

[2, Truyện người hàng xóm, tr.516]

- Thầy có xơi cháo đậu, để u con đi nấu. [2. Nước mắt, tr.384]

- Vâng, mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã.[ 2, Một đám cưới,

tr.294]

- Mời các ông xơi rượu rồi ăn cơm. [ 2, Quái dị, tr.157]

Từ “xơi” ngoài việc biểu thị hoạt động “ăn”, khi kết hợp trong một số ngữ

cảnh, đã tạo nên nhiều các nghĩa phái sinh mới như thể hiện hành động chiếm đoạt

trong quan hệ tình dục hay hành vi ngoại tình. Ví dụ:

- Dám xơi trái cấm![104]

- Giữ gìn cho người yêu 4 năm để chờ đêm tân hôn, chàng trai cay đắng

nhìn bạn thân "xơi" mất.[105]

- Chồng ăn chả, vợ trả đũa xơi nem tại cơ quan [106]

Trong các diễn ngôn báo chí, đôi khi để tạo ấn tượng dụng ngôn, đặc biệt là

kỹ thuật giật tít, các nhà báo cũng thường sử dụng cách đặt tít có sử dụng từ đồng

61

nghĩa giữa “ăn” với “xơi” để thu hút sự chú ý của người đọc, tạo nên hiệu ngữ dụng

cao. Ví dụ:

- Từ dễ ăn thành khó xơi [107]

Có thể nói, ở đây “xơi” không nói trực tiếp về việc ăn uống được hiểu theo

nghĩa gốc nữa, mà ở đây đã có sự chuyển nghĩa, khi xuất hiện các nghĩa phái sinh,

thì cũng có sự thay đổi sắc thái biểu cảm. Tùy theo ngữ cảnh có thể biểu thị sắc thái

trung tính hay tiêu cực như thể hiện quan điểm của người nói/viết chứ không còn

mang sắc thái trang trọng, lịch sự như nghĩa gốc. Ví dụ:

- Chỉ có công việc và những lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát.

Xơi không kịp! [2, Điếu văn, tr.219]

- Cái đầu cá này thì chỉ có bố mày họa có xơi được chăng chứ tao thì tao

không phí mồm. [2, Nửa đêm, tr.301]

- Họ xơi cả vào khoản tiền ít ỏi trong khẩu phần ăn của những đứa trẻ

thơ.[108]

Điều đặc biệt, từ “xơi” cũng có thể kết hợp được với nhiều từ/ tổ hợp từ tạo ra

các nghĩa phái sinh, diễn tả mọi trạng thái của sự vật, hiện tượng, và hiển nhiên

không có bất cứ mối liên hệ nào đến hoạt động ăn uống. Ví dụ:

- Đất vàng chung cư cũ: Không “dễ xơi” (“xơi” = khó khăn) [109]

- Điều gì xảy ra khi lỗ đen "xơi tái" sao? (“xơi” = mối nguy hiểm) [110]

- Nóng mặt, cầu thủ “xơi tái” cả…trọng tài. (“xơi” = tấn công dùng vũ

lực) [111]

- Đưa hình ảnh công chức "xơi" giờ công lên tivi (“xơi” = tham nhũng thời

gian). [112]

- Xe điên “xơi” 3 xe máy (“xơi” = tấn công gây nguy hiểm). [113]

Khi hoạt động trong thành ngữ, từ “xơi” khi kết hợp với các tổ hợp từ đã tạo

nên nghĩa biểu trưng cho thành ngữ, chỉ hoàn cảnh bị nẫng tay trên, bị chiếm mất

cái lẽ ra là của mình: Ki cóp cho cọp nó xơi; Cốc mò cò xơi; Cốc làm cho diệc nó

62

xơi… các thành ngữ này chủ yếu phê phán thói hư tật xấu của một lớp người chỉ

muốn hưởng lợi, trên thành quả lao động của người khác, hay “ngồi chơi xơi nước”

để chỉ tình trạng nhàn rỗi, chưa có việc làm. Trong các kết hợp tạo nên sự chuyển

nghĩa thì sắc thái biểu thị sự lịch sự, trang trọng của từ “xơi” cũng thay đổi theo,

chẳng hạn như sự coi thường, khinh miệt trong các thành ngữ trên. Sắc biểu cảm

cũng như ngữ nghĩa của thành ngữ được bộ lộ rõ nét trong các ngữ cảnh. Ví dụ:

- 15 năm xây dựng vùng nguyên liệu, bỗng ‘cốc mò cò xơi’. [114]

- Chưa biết Ban trọng tài sẽ treo còi ông Dũng bao nhiêu trận, chỉ biết rằng

trọng tài này sẽ phải “ngồi chơi xơi nước” dài dài. [115]

- Thực sự bố mẹ chẳng có gì ngoài sự lương thiện, chân chất nuôi con cái nên

người, vì chưa đủ dư dả, nên bố mẹ vẫn cứ phải “ăn dè hà tiện” thế thôi, nhưng

toàn là “ki cóp cho cọp nó xơi”. [116]

Có thể nói ngoài từ “ăn”, trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” thì từ “xơi” cũng

là từ có khả năng kết hợp được với nhiều từ loại và tạo ra nhiều nghĩa phái sinh

nhất so với các từ trong dãy đồng nghĩa với từ “ăn”.

+ Đối với từ “mời”, qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy, từ “mời” khi sử

dụng với nét nghĩa chỉ hoạt động “ăn” thì thường được dùng trong khẩu ngữ nhiều

hơn. Ít dùng trong ngôn ngữ viết. Tuy nhiên, ở một số ngữ cảnh sử dụng, “mời”

được dùng với sự chuyển nghĩa sang chỉ cơ hội, thời cơ, sự dâng tặng (mang tính

chất thuận lợi). Ví dụ:

- Phải chăng mâm cỗ “siêu khổng lồ” này được họ chuẩn bị để “mời” các

đối tác sử dụng cốp pha nhôm trong tương lai? [117]

3.2.2. Ngữ nghĩa của từ “chén”, “đánh chén”

Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên). Nghĩa của

từ “chén” và “đánh chén” được giải thích như sau:

- Chén I d. 1 Đồ dùng để uống nước, uống rượu, thường bằng sành, sứ, nhỏ

và sâu lòng. Bộ ấm chén. Mời cạn chén

63

2 (ph.). Bát nhỏ. Cơm ăn ba chén lưng lưng…(cd)

3 (kng.). Lượng những vị thuốc đông y dùng để sắc chung với nhau trong

một lần thành thuốc uống; thang. Cân một chén thuốc bổ. Thuốc chén.

II đg. (thgt.) Ăn, về mặt coi như một thú vui. Chén một bữa no say. Đánh

chén. [25, tr.201]

- Đánh chén đg. (kng.). Ăn uống. Đánh chén một bữa ra trò. [25, tr.376]

Cả hai từ này, đều có nét nghĩa chỉ hoạt động ăn, tuy mỗi từ có những nét

khu biệt riêng nhưng đều thể hiện sắc thái suồng sã, thân mật, thể hiện sự ăn uống

một cách thoải mái. Thường dùng trong hoàn cảnh giao tiếp cởi mở, thân tình,

không mang tính ngoại giao. Qua ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thấy, cả hai từ trên

đều được dùng nhiều trong khẩu ngữ trong những ngữ cảnh giao tiếp mang tính cởi

mở. Còn trên ngôn ngữ báo chí và trong văn chương được dùng nhằm nhấn mạnh,

kèm theo sắc thái bình giá của người viết. Cả hai từ này, đều không tham gia vào

các kết hợp trong thành ngữ.

- Từ “chén” xuất hiện trong nhiều ngữ cảnh vẫn giữ nguyên nghĩa gốc, đồng

nghĩa với “ăn”. Ví dụ:

- Ừ, thầy giết chó để làm thịt chén [2, Trẻ con không được ăn thịt chó, tr.125]

- Nhà văn Nguyễn Tuân ngày trước chỉ chén phở chín, phở nạm, chín gầu,

bây giờ cái phở quý nhất của vua phở đam ra xuống hạng bét.[23, Phở, tr.268]

Bên cạnh đó, từ “chén” khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ các sự vật, hiện

tượng trong đời sống cũng tạo nên những nét nghĩa phái sinh. Như “chén” để chỉ

hành động “ăn cắp” của; hay “chén” để chỉ hành động chiếm đoạt tình dục, mang

nét nghĩa tiêu cực. Ví dụ:

- Ở đây, họ “chén” cả Pentaxim, một loại vắc xin chứa trong nó 5 mầm bệnh

hiểm nguy là bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B, viêm phổi/viêm màng não

mủ.[118]

- Không lẽ bây giờ cứ yêu là mắt trước mắt sau... 'đòi chén'? [119]

64

- 'Chén' người yêu rồi lừa bán sang Trung Quốc [120]

- Yêu 4 năm không làm ăn được gì, đùng cái thằng bạn thân “chén”

luôn [121]

- Đối với từ “đánh chén” cũng vậy, nằm trong dãy đồng nghĩa với “ăn”

và biểu lộ nghĩa gốc trong nhiều ngữ cảnh. Ví dụ:

- Đã đột nhập ăn trộm còn đánh chén no say [122]

- Mỗi tuần anh ăn đều hai bữa, nhưng không đánh chén ở

quán.[23,Thịt chó, tr.274]

- Lần đầu “đánh chén” bánh canh Trảng Bàng [123]

Bên cạnh đó, từ “đánh chén” cũng tham các kết hợp từ gắn với những sự

vật, hiện tượng không liên gì đến hoạt động ăn uống, nhằm biểu thị những

khái niệm mới. Như biểu thị hành động “tham nhũng”, hay hành động chiến

thắng trong thi đấu thể thao. Ví dụ:

- “Chúng ta đánh chén cái đất nước này đến mức nó không thể lớn

được. Quá nhiều thủ tục, thủ tục gắn với lợi ích, có thủ tục là có làm khó, là

có đánh chén” (“đánh chén” = tham nhũng)[124]

- Còn quá nhiều thủ tục làm khó, 'đánh chén' doanh nghiệp (“đánh

chén” = tham nhũng, móc túi ) [125]

- Ronaldo, Benzema no phưỡn bụng sau khi 'đánh chén' APOEL

(“đánh chén” = chiến thắng, đánh bại) [126]

3.2.3. Ngữ nghĩa của nhóm từ “đớp”, “tọng”, “hốc”

Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên). Nghĩa

của từ “đớp”, “tọng”, “hốc” có các nét nghĩa như sau:

- Đớp đg. Há miệng ngoạm rất nhanh lấy. Cá đớp mồi. Bị chó đớp vào

chân.[25, tr.457]

- Tọng đg.1 (kng). Cho vào một nơi nào đó và dồn xuống cho thật đầy,

thật chặt. Tọng gạo vào bao.

65

2 (thgt). Ăn uống một cách thô tục, tham lam, chỉ cốt cho được

nhiều. Tọng cho đầy dạ dày. [25, tr.1287]

- Hốc 1 I d. Chỗ lõm ăn sâu vào trong thân cây, vách đá,… hoặc đào

sâu xuống dưới đất. Hốc đá. Giấu vào hốc cây. Hốc mắt. Đào hốc tra hạt bí.

II t. (Khuôn mặt) gầy tóp, có nhiều chỗ lõm sâu. Mặt hốc hẳn đi. Gầy hốc.

hốc2 đg. 1 (Lợn) ăn vục cả mõm vào, ngoạm từng miếng to. 2 (thgt.).

Ăn một cách thô tục. [25, tr.593]

Đối với các từ: Đớp, tọng, hốc đây là nhóm từ có điểm chung là xuất

phát từ sự mô phỏng hoạt động ăn của động vật để đồng hóa với hoạt động

ăn của con người. Qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy, các từ trong nhóm

này có đặc điểm là thường dùng trong khẩu ngữ khi nói về hoạt động ăn

uống của con người kèm các sắc thái tiêu cực hay sự bình giá của con người

đối với hoạt động “ăn”. Đây là cách nói tục, hoặc muốn xỉ vả người khác,

phê phán, lên án những thói hư, tật xấu trong ăn uống. Các từ trong nhóm

này rất ít dùng trong ngôn ngữ viết, chủ yếu xuất hiện trong phong cách

khẩu ngữ. Các từ trong nhóm này cũng không tham gia các kết hợp trong

cấu tạo thành ngữ.

+ Từ “đớp” cũng chỉ hoạt động “ăn” (mang nghĩa thông tục) của con

người, thường được dùng trong phong cách khẩu ngữ, ít xuất hiện trong

ngôn ngữ viết. Đối với ngôn ngữ báo chí, từ “đớp” thường được sử dụng mô

tả hoạt động ăn của động vật. Ví dụ:

- Cá sấu đớp tay người huấn luyện trong lúc diễn xiếc ở Thái Lan.[127]

- Nghịch dại, bị gấu đớp [128]

Tuy nhiên, hiện nay trong ngôn ngữ đời sống, “đớp” không chỉ đồng

nghĩa với “ăn” ở nghĩa dung nạp thức ăn vào cơ thể, mà đã chuyển nghĩa

như dùng để mô phỏng hoạt động “bắt chước” trong luyện tập thanh nhạc

hoặc biểu diễn, chẳng hạn: Hát đớp, đớp nhạc…Ví dụ:

66

- Khi sao... "đớp" nhạc [129]

- Nhạc sĩ chuyển bài tới, hát giùm để ca sĩ "đớp" theo, cuối cùng nhờ

người hòa âm nữa là đưa lên sân khấu.[130]

- Truyền hình mang tiếng liveshow lên sân khấu toàn hát đớp, play

back...[131]

Dựa trên nét nghĩa đồng nghĩa với “ăn” và hình ảnh đớp mồi của động

vật khi ăn, “đớp” trong ngôn ngữ đời sống còn chuyển nghĩa, chỉ việc “cắn

câu, bén câu”, bắt được tín hiệu của đối phương trong quan hệ yêu đương

nam nữ. Ví dụ:

- Loạt dấu hiệu cho biết đối tượng của bạn đã "đớp thính" rồi! [132]

- Mách anh em cách “đớp” thính “chuẩn nhất” để nhanh chóng

thoát ế [133]

- Trọn bộ bí kíp "thả thính", cứ thả là có cá "đớp" ngay và luôn! [134]

Trong một số ngữ cảnh, “đớp” còn được dùng với nghĩa chuyển, chỉ sự

nhanh chóng nắm bắt lấy cơ hội, sự đón bắt kịp thời, sự thức thời. Ví dụ:

- Chúng luôn tồn tại, và sẵn sàng đớp lấy cơ hội để bùng phát, dù chỉ

là một đầu tàn thuốc được một ai đó vô tình quăng xuống đất, gặp cơ hội

cũng có thể bùng lên thành những đám cháy dữ dội.[135]

- Nghe đồn, những doanh nghiệp làm nhôm cũng muốn “đớp” lấy cơ

hội mà hầu hết các công ty rót vốn vào Việt Nam trông thấy.[136]

3.2.4. Ngữ nghĩa của từ “nhậu”

Từ “nhậu” là phương ngữ của Nam bộ, có nghĩa có nghĩa giống như ăn.

Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên) [25, tr.921]

từ “nhậu” có nét nghĩa như sau:

- Nhậu đg. (ph.; kng). Uống (rượu). Nhậu một bữa thật say.

Mua đồ nhậu.

67

Đây là từ được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

của vùng Nam Bộ chỉ hoạt động ăn uống nói chung. Từ “nhậu” cũng có khả

năng kết hợp với các từ/ tổ hợp từ tạo nên rất nhiều từ ghép mới biểu thị

những nét nghĩa phái sinh giống như từ “ăn”. Chẳng hạn như: Bạn nhậu, dân

nhậu, phố nhậu, bợm nhậu… nhằm phản ánh mọi phương diện đời sống của

con người mà có hoặc không có liên quan đến việc ăn uống. Ví dụ:

- Với Pep, giờ là lúc để...nhậu mừng chiến thắng. [137]

- Đo nồng độ cồn "phố nhậu" Thăng Long: Bị giữ bằng vẫn lái xe đi

nhậu. [138]

- Công an TP.Đà Nẵng lập biên bản để xử phạt 2 người là admin 2

trang Facebook chuyên “chỉ điểm” giúp dân nhậu vượt trạm kiểm tra nồng

độ cồn. [139]

- "Bợm nhậu" bị tuyên mức án 20 năm tù về tội giết người. [140]

Từ ngữ cảnh trên chúng ta có thể thấy, trong một số ngữ cảnh cụ thể,

khi mừng những sự kiện quan trọng, có thể không có việc tổ chức ăn uống

nhưng vẫn được gắn với từ “nhậu”. Như “nhậu mừng chiến thắng. Trong

trường hợp này, từ “nhậu” không được sử dụng với nghĩa gốc mà đã

chuyển nghĩa chỉ hoạt động chúc mừng, mang tính chất tượng trưng về

mặt tinh thần. Hay từ “phố nhậu” để chỉ địa điểm nơi ăn diễn ra các hoạt

động ăn uống. Hoặc “bợm nhậu” để chỉ những kẻ nghiện rượu chuyên

nghiệp, thái quá.

Bên cạnh đó, từ “nhậu”cũng là từ rất đặc biệt thường hay được dùng

kết hợp cùng với từ “ăn” để biểu thị hoạt động ăn uống, nhưng ở đây bao

gồm hoạt động ăn và kèm theo đồ uống nhiều hơn.Ví dụ:

- Ăn nhậu tưng bừng ở trận địa pháo cổ di tích quốc gia. [141]

- Biển Vũng Tàu 'chật cứng người', kiên quyết nói không với việc ăn

nhậu trên bãi biển. [142]

68

Tuy nhiên, trong kết hợp ngữ cảnh từ “ăn nhậu” còn biểu thị một khái

niệm mới, đó là sự “dính líu, dính dáng”. Ví dụ:

- “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô

đâm ra mất lòng.”. [143]

Đối với từ “nhậu” khi biểu thị hoạt động “ăn uống” theo nghĩa gốc

trong nhiều ngữ cảnh, thì từ “nhậu” mang sắc thái trung tính. Tuy nhiên,

trong các kết hợp với các từ/ tổ hợp từ để tạo nên các từ ghép biểu thị những

khái niệm mới, thì sắc thái nghĩa của từ cũng thay đổi. Phần lớn các từ này

phản ánh những hoạt động liên quan đến ăn uống một cách thoải mái, tự do

không mang tính lễ nghi, xã giao của các đối tác trong cuộc. Mặc dù là

phương ngữ Nam Bộ nhưng từ “nhậu” được sử dụng khá rộng rãi trong cả

ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Đây có thể nói là một điển hình cho sự kết

hợp phong phú của từ địa phương trong tiếng Việt.

3.2.5. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” có các kết hợp hạn chế

Ngoài những từ đồng nghĩa với từ “ăn” được thống kê trong Từ điển

đồng nghĩa tiếng Việt. Trên thực tế, qua quá trình khảo sát trong ngôn ngữ

đời sống, ngôn ngữ báo chí và trong các tác phẩm văn chương, thì còn có rất

nhiều từ nằm trong dãy đồng nghĩa với từ “ăn” như: tọng, đớp, dùng, làm,

thưởng thức, cắn, nếm, ngoạm, tợp, thời (Phương ngữ Đà Lạt), đả, lùa, lẻm,

thụ, nốc, nhắm, nhắm nhót, nhấm nháp, nhâm nhi, xực (Hoa ngữ), thực (từ

Hán - Việt)… Tuy nhiên do mỗi từ có những nét khu biệt riêng, phần lớn các

từ đồng nghĩa với từ “ăn” ở trong các ngữ cảnh xuất hiện với nét nghĩa phái

sinh để chỉ hoạt động “ăn” nên phạm vi sử dụng những từ đó có phần hạn

chế. Chẳng hạn như từ “làm, dùng” những từ này do nét nghĩa gốc phát triển

mạnh cho nên nét nghĩa phái sinh diễn tả hoạt động “ăn” dần mờ đi, thường

chỉ sử dụng trong khẩu ngữ mà ít dùng trong ngôn ngữ viết. Ví dụ:

69

- Cái cháo trai sao mà ngon thế! Y làm luôn bát nữa, rồi bát nữa… Ôi

miếng trai! còn sót một miếng trai trong góc nồi! Làm nốt đi”. [2, Đòn

chồng, tr.103]

Hay những từ như nốc, tợp, tọng… Trong một số ngữ cảnh, ở nét

nghĩa phái sinh diễn tả hoạt động “ăn” của con người với sắc thái nghĩa tiêu

cực, thường kèm theo sự bình giá về việc ăn uống như chê bai, phê phán,

khinh miệt… những thói hư, tật xấu trong việc ăn uống. Những từ này

thường được dùng trong khẩu ngữ, ít dùng trong ngôn ngữ viết.

Hoặc đối với từ “thụ”, “thụ lộc” đây là từ cũng dùng để chỉ hoạt động

ăn uống nhưng dùng cho các đồ vật sau cúng lễ. Nét nghĩa “ăn” ở đây mang

tính chất tâm linh, mặc dù là từ mang sắc thái tích cực nhưng phạm vi sử

dụng hẹp hơn. Thường dùng trong ngôn ngữ nói, ít dùng trong ngôn ngữ

viết. Ví dụ:

- Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ

xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật. [23, Những chiếc ấm đất, tr.204]

- Trong ngày Tết, thức ăn sau khi cúng, nhiều gia đình hay ưu tiên cho

người già, trẻ em gọi là "thụ lộc”. [144]

Mỗi từ đồng nghĩa với từ “ăn” đều bộc lộ một nét độc đáo riêng trong

việc diễn tả hoạt động “ăn” của người Việt. Sự sáng tạo và độc đáo trong sự

liên tưởng là cơ sở và nền tảng tạo sự phong phú cho nhóm từ đồng nghĩa

nói về “ăn” trong tiếng Việt. Mỗi từ mang một nét khu biệt riêng miêu tả các

cách thức ăn của Việt và thông qua hoạt động “ăn” đã bộc lộ nhân cách, lối

sống, cách ứng xử của con người đối với cộng đồng, cũng như thái đối và sự

bình giá của cộng đồng đối với những hoạt động ăn ấy. Ví dụ:

- Vợ Lúng mân mê một cái rồi nhặt lấy một tấm bánh đầy đặn, đưa lên

ngoạm một miếng hết nửa già tấm. Còn non nửa tấm nữa, y ném tọt vào

miệng nốt. [2, Đòn chồng, tr.100]

70

- Như ngày trước, chỉ đả tiết canh vịt, khinh cái tiết canh ngan, bây giờ

ăn tuốt và ngan lại ngon hơn vịt. [23,Thịt chó, tr.271]

- “Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên hồ này, thì tớ đả luôn năm,

sáu bát”. [23, Phở, tr.165]

- Thế mà họ ăn ngon lành, một lúc hai, ba bát. Rồi đánh thêm một đĩa

lòng vừa dồi, cổ hũ với tràng giòn. [23, Hàng quà rong, tr.130]

- Cách làm bánh đoá lan thơm nức, xốp mịn ai tợp cũng khen ngon

lành. [145]

- Cầm lấy một miếng bánh mà thưởng thức!...[23, Bánh xuân cầu,

tr.320]

- Bây giờ ở đây, ngồi thưởng thức chiếc bánh phồng to như cái sàng,

quết bằng nết với đường…[23, Bánh xuân cầu, tr.320]

Từ các ngữ cảnh trên phản ánh cho thấy cái “ăn” phản ánh rõ nét

nhân cách lối sống của con người. Như từ “ngoạm” để chỉ cách ăn uống xô

bồ, suồng sã thể hiện hạng người bần tiện, ăn uống thô tục. Trong khi đó

nhiều người dùng từ “thưởng thức” để chỉ hoạt động “ăn” như là một trong

những điều thú vị trong cuộc sống. Ở đây “ăn” không theo số lượng, ăn theo

chất lượng “ăn ngon”. Ăn uống không nhằm mục đích để cho “no cái bụng”,

mà ăn uống đã trở thành một nghệ thuật. Hay từ “đả”, “đánh”, “tợp” cũng

được dùng để chỉ hoạt động “ăn” nhưng mang sắc thái suống sã, thân mật,

thể hiện sự ăn uống một cách thoải mái, thường dùng trong khẩu ngữ trong

những ngữ cảnh giao tiếp cởi mở.

Ngoài ra còn có những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong một số ngữ cảnh

nhất định như: lùa, lẻm, nhắm, nhắm nhót, hớp, húp. Quá trình khảo sát

trong ngôn ngữ báo chí và trong văn học chúng tôi thấy, thông thường

những từ này được dùng chủ yếu trong khẩu ngữ nhiều hơn. Mỗi từ mang

một sắc thái biểu cảm riêng tạo nên sự độc đáo trong văn hóa ăn của người

71

Việt. Hay từ “xực” vốn bắt nguồn từ tiếng Hoa, cũng được nhập trong dãy

đồng nghĩa với từ “ăn” của tiếng Việt để chứng tỏ khả năng đồng hóa ngôn

ngữ của tiếng Việt và thể hiện rõ thêm trình độ khái quát, hội tụ của từ “ăn”.

Ví dụ:

- Và ăn phở, ông Nguyễn Tuân lùa rất nhanh, lại theo thuyết của ông

“ăn nhanh cho nóng, phở càng nóng càng ngon”. [23, Phở, tr.266]

- Có lần anh ta về ăn thì lùa vội vàng cho xong rồi đứng lên. [146]

- Tàn đêm rồi mà con lùa được một miếng phở nóng, thôi thế cũng là

thỏa vong linh. [ 23, Tiếng rao đêm, tr.229]

- Tôi đã lẻm hết chiếc bánh đúc nữa rồi. [23, Bánh chợ, tr.238]

- Ngổ ba lá thì hợp với đám húng quế, mơ tam thể nhắm với thịt chó

luộc. [23, Rau thơm, tr.263]

- Các cậu nhắm đi! Lòng cá ăn trước, đầu cá ăn sau. [23, Tìm về kỷ

niệm uống rượu với Tản Đà, tr.25]

- Nhưng dầu sao…ngày tết người ta ăn bao nhiêu đồ mỡ cũng không

thấy ngán, ấy chỉ là vì ngày tết ở đó có bánh xuân cầu để cho ta nhắm nhót.

[23, Bánh xuân cầu, tr.319]

- Đã có bao nhiêu bận, ngồi nhấm nháp miếng chả rươi thật kỹ, nghĩ

đến cái ngon đậm đà của miếng quà đất nước…[23, Rươi, 338]

- Nhưng hớp được vài hớp, thì miếng quà trở nên khó nuốt và ngán

như lúc phải nói hết một câu khôi hài mình thấy là nhạt rồi. [23, Còn quà

Hà nội, tr.141]

- Người bị sốt ăn bát cháo trắng rắc hành với tí tô, húp nóng rộp môi

đến phải xuýt xoa…[23, Cháo, tr.264]

- Người hàng phố hiểu là ăn được, ăn được…sực đắc, sực đắc…[23,

Cháo, tr.264]

72

- Họ “xực” vào cả những đồng tiền xương máu của người có công và

không từ cả hài cốt của người đã chết. [147]

Thông qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy trong dãy đồng nghĩa với

“ăn”, mỗi từ đều có những nét khu biệt riêng, miêu tả các phong thái ăn khác

nhau của người Việt một cách vô cùng độc đáo, trong đó, nét khu biệt cơ

bản nhất là về sắc thái biểu cảm và ngữ cảnh sử dụng. Nhóm từ đồng nghĩa

với từ “ăn” đã phác họa một bức tranh vô cùng sinh động về văn hóa ăn của

người Việt, điều đó được phản ánh một cách rõ nét thông qua sự sáng tạo,

cộng với tư duy liên tưởng, tầng nghĩa so sánh, ví von đã tạo ra rất nhiều từ

biểu thị hoạt động ăn uống của người Việt, chính điều đó đã cho nhóm động

từ này trở nên đa dạng và làm giàu cho hệ thống từ vựng tiếng Việt.

Tiểu kết chương 3

Có thể nói rằng, “ăn” là một nét văn hóa tự nhiên được hình thành

trong cuộc sống. Nhưng thông qua cái “ăn” ta có thể hiểu được trình độ văn

hóa cũng như các phong tục, tập quán, quy tắc ứng xử, thói quen ăn uống…

của mỗi cộng đồng, dân tộc. Bởi vậy, đối với người Việt, cái “ăn” đã đi vào

đời sống cũng như trong văn chương một cách sâu rộng. Có lẽ chính vì thế

mà từ “ăn” có rất nhiều từ đồng nghĩa cũng là điều dễ hiểu.

Trong dãy đồng nghĩa của từ “ăn”, nếu như từ “ăn” mang sắc thái

trung hòa về biểu cảm và có phạm vi sử dụng rộng rãi thì các từ trong dãy

đồng nghĩa của “ăn” lại khu biệt về phạm vi sử dụng và sắc thái biểu cảm

theo hai chiều hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Các đồng nghĩa của “ăn” có

thể chia ra thành các nhóm bộc lộ sắc thái như: biểu thị sự lịch sự, trang

trọng; biểu thị sự suồng sã, thân mật; biểu thị sự thông tục (thường dùng

trong khẩu ngữ). Tuy nhiên, các sắc thái nghĩa của từ chỉ được thể hiện khi

các từ trong nhóm này biểu thị hoạt động “ăn uống” theo nghĩa gốc. Còn

73

trong các kết hợp tạo nghĩa phái sinh, thì sắc thái nghĩa của từng từ cũng

thay đổi tùy thuộc vào từng ngữ cảnh xuất hiện.

Trong nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” thì từ “xơi” là từ có sự phát

triển nghĩa mạnh nhất sau từ “ăn”. Đây cũng là từ có khả năng kết hợp được

với nhiều từ loại để tạo ra những từ mới với những nét nghĩa phái sinh. Đặc

biệt là từ “xơi” là từ duy nhất trong nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” tham

gia tham gia các kết hợp tạo thành ngữ. Và trong ngôn ngữ nói cũng như

trong ngôn ngữ viết, tần xuất sử dụng 04 thành ngữ chứa thành tố “xơi”

tương đối nhiều. Còn tất cả các từ còn lại trong nhóm từ đồng nghĩa không

tham gia tạo thành ngữ. Và mỗi từ có những nét khu biệt riêng về nghĩa nên

phạm vi sử dụng cũng hạn chế hơn.

Thông qua nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” cho chúng ta thấy được sự

phong phú trong vốn từ vựng của tiếng và chuyện “ăn” của người Việt là

một bài học vô cùng đa dạng. Mỗi từ đồng nghĩa trong nhóm đóng vai trò

hết sức quan trọng. Bởi đây là nguồn bổ sung làm phong phú cho vốn từ

vựng của nhóm này nói riêng và từ vựng tiếng Việt nói chung. Đồng thời, nó

cũng là phương tiện biểu thị chính xác hóa tư tưởng, tình cảm của con người

trong từng trường hợp sử dụng ngôn ngữ. Do mỗi từ mang một sắc thái biểu

cảm riêng nên việc sử dụng chúng đúng lúc, đúng chỗ trong những hoàn

cảnh “đắc địa” sẽ giúp cho lời nói của chúng ta trở nên tinh tế, chính xác và

thể hiện được mọi cung bậc tình cảm và suy nghĩ của con người.

74

KẾT LUẬN

1. Từ kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, “ăn” là một từ đa nghĩa trong

tiếng Việt. Trong quá hoạt động, ngữ nghĩa của động từ “ăn” đã được mở rộng và

phát triển thêm nhiều nghĩa phái sinh so với nghĩa gốc. Trong nhóm từ, ngữ nói về

“ăn” trong tiếng Việt, từ “ăn” là từ phát triển mạnh nhất về nghĩa và trong nhiều

trường hợp, “ăn” đóng vai trò như một hình vị, có khả năng tạo từ mới một cách

mạnh mẽ, có khả năng kết hợp với nhiều loại từ để tham gia tạo câu. Từ nghĩa gốc

“ăn”1 đã biến đổi, hoặc mất đi và rất nhiều các nét nghĩa phái sinh mới xuất hiện

cùng với thời gian. Đây cũng là từ có nhiều từ đồng nghĩa, mỗi từ mang một sắc

thái biểu cảm riêng, thể hiện mọi khía cạnh và tình huống khác nhau của đời sống

thông qua hoạt động “ăn”. Sự phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” song hành với sự

phát triển của xã xội, khi nhu cầu diễn đạt ngữ nghĩa đòi hỏi ngày càng lớn sự bao

quát mọi vấn đề của xã hội con người. Qua thời gian, dần được cộng đồng ngôn

ngữ chấp nhận và sử dụng. Những nét nghĩa mới ấy đã đi vào cuộc sống và làm

giàu thêm vốn từ cho hệ thống từ vựng tiếng Việt.

2. Luận văn đã chỉ ra cơ chế tạo nghĩa của từ “ăn”/từ chứa thành tố “ăn”

được khái quát thành 6 nhóm cơ bản. Cơ chế chế này được mô hình hóa tổng quát

theo công thức: Ăn + X, trong đó, biến số X có thể thay đổi là các từ/ tổ hợp từ chỉ

mục đích; chỉ cách thức; chỉ hoạt động; chỉ địa điểm; chỉ các hành vi chiếm đoạt;

chỉ hành vi trục lợi …của con người. Ở nghĩa gốc, từ “ăn” mang sắc thái trung tính.

Tuy nhiên khi đi vào các kết hợp tạo nghĩa phái sinh với tư cách “ăn” là một hình vị

cấu tạo từ thì sắc thái biểu cảm của từ thay đổi tùy theo ngữ cảnh xuất hiện.

Từ “ăn”/ chứa yếu tố “ăn” khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo thành vô

số những từ ghép biểu thị nhiều khái niệm mới, các nét nghĩa càng khái quát thì

càng bóng bẩy, tế nhị, trong những sắc thái tinh tế, diễn tả mọi khía cạnh trong đời

sống của người dân Việt. Thông qua hoạt động “ăn”, khiến chúng ta liên tưởng đến

75

rất nhiều hoạt động khác của con người. Có thể nói, khái niệm ăn của người Việt đã

được mở rộng, bao trùm mọi mặt sinh hoạt, nghề nghiệp, tính cách con người, đồng

thời thể hiện rõ nét lối tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt. Nét độc

đáo ấy được thể hiện rất phong phú trong ngôn ngữ đời sống, trong văn học và

trong các thành ngữ như sự khen ngợi hoặc phê phán, lên án những lối sống, tính

cách, những thói hư tật xấu hay cách đối nhân xử thế thông qua hoạt động “ăn” của

con người trong cộng đồng xã hội. Từ đó để cảnh tỉnh, đồng thời giúp con người

tạo dựng cho mình những thói quen tốt. Điều đó chứng tỏ trình độ khái quát, cũng

như khả năng hội tụ của từ “ăn” rất mạnh mẽ và khái niệm “ăn” của người Việt

Nam cũng được mở rộng để bắt kịp với sự phát triển chung của xã hội.

3. Bên cạnh đó, thông qua việc khảo sát nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” cho

thấy, ngoài các từ đã được thống kê trong từ điển, trên thực tế còn có rất nhiều từ

đồng nghĩa với từ “ăn”. Mỗi từ có những nét khu biệt riêng mang các sắc thái biểu

cảm và phạm vi sử dụng khác nhau. Các nét nghĩa của từ bộc lộ tùy thuộc vào

người nói, người nghe và trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

Khác với từ “ăn” nhóm từ đồng nghĩa này thường được sử dụng trong ngôn

ngữ nói nhiều hơn ngôn ngữ viết. Đặc biệt là các từ như: “ đớp, nhốc, hốc, tọng”,

đây là các từ thể hiện sắc thái tiêu cực như chê bai, xỉ vả… người khác về hoạt động

“ăn”, đối với nhóm từ thường chủ yếu dùng trong khẩu ngữ. Còn trên ngôn ngữ báo

chí, các từ này xuất hiện thường là các kết hợp tạo nghĩa phái sinh, ít dùng để nói về

hoạt động “ăn”. Do các từ đồng nghĩa với từ “ăn” phần lớn ở nét nghĩa phái sinh

nên khả năng kết hợp hạn chế. Và chỉ có duy nhất từ “xơi” tham gia tạo thành ngữ,

với số lượng là 04 thành ngữ. Mặc dù số lượng câu thành ngữ chứa thành tố “xơi”

không nhiều, nhưng qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy tần xuất sử dụng những

thành ngữ trong nhóm này trong ngôn ngữ đời sống là khá thường xuyên. Còn các

từ khác còn lại trong nhóm đồng nghĩa với từ “ăn” không tham gia tạo thành ngữ.

76

4. Trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt thì từ “ăn” đóng vai trò

là từ trung tâm. Đây là từ có sự phát triển nghĩa mạnh mẽ nhất trong nhóm và khả

năng đóng vai trò như một hình vị, kết hợp được với nhiều từ loại để tạo thành câu,

đặc biệt là tham gia tạo thành ngữ. Trong khi đó khả năng tạo thành ngữ của các từ

còn lại trong nhóm là rất hạn chế. Chính vì vậy từ “ăn”/chứa yếu tố “ăn” được sử

dụng phổ biến và thường xuyên hơn tất các các từ khác trong nhóm, cả trong ngôn

ngữ nói và ngôn ngữ viết.

Từ kết quả khảo sát cho thấy, từ “ăn” trong tiếng Việt là một từ cực lý thú,

phản ánh quá trình nhận thức “đặc biệt” của con người về mọi hoạt động trong cuộc

sống được phản ánh thông qua hoạt động “ăn”. Và điều đặc biệt hơn nữa, đó chính

là sự kỳ diệu trong ngôn ngữ, thông qua tính năng động, tính cơ cấu của quá trình

phát triển nghĩa đã giúp chúng ta hiểu được bản sắc văn hóa của người dân Việt.

Thông qua nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cho chúng ta thấy “văn hóa ăn” của

người Việt được đặc biệt coi trọng, nó thể hiện nét đẹp tinh tế trong ứng xử của

cộng đồng. Ăn uống không chỉ là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cơ thể mà còn

là một hoạt động giao tiếp xã hội cao. Cách ăn của mỗi con người như thế nào, thì

bộc lộ rõ lối sống, lối cư xử của người ấy như vậy. Đây chính là lý do mà vì sao mà

ông cha ta đã đặt “học ăn” lên vị trí đầu tiên “học ăn, học nói, học gói, học mở”

trong những bài học làm người. Từ chuyện ăn, chuyện uống hóa thân thành chuyện

đời, thành cách sống để cùng tồn tại, thành đạo lý lớn nhất, đầu tiên và cũng là cuối

cùng của mỗi người dân Việt./.

77

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Khương Thị Lan Phương (2020), “Ngữ nghĩa

và khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học

& Bách khoa thư, số 3 (65), 5-2020.

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Vũ Bằng ( 2010), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Hà nội.

2. Nam Cao (2010), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Thời đại.

3. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

4. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

5. Đỗ Hữu Châu (2004), Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học Sư

phạm.

6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội (tái bản lần thứ bảy).

7. Nguyễn Đức Dân (1986), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ, sự vận dụng”,

Ngôn ngữ (3), tr1- 18.

8. Nguyễn Hữu Đạt (2011), “Con đường o nghĩa của các thành ngữ liên quan

đến văn hóa ăn và văn hóa mặc trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Đại học

Quốc gia Hà Nội, số 27 (2011), tr. 9-14.

9. Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào (1992), “Từ điển trái nghĩa – đồng nghĩa

tiếng Việt”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

10. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục.

11. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tái bản

lần thứ hai.

12. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb giáo dục Việt

Nam.

13. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Từ và Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.

14. Hoàng Văn Hành (2015), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.

79

15. Nguyễn Thị Hiền (2018), Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận

cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ

học, Học viện Khoa học - Xã hội

16. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp, Nxb. Giáo

dục Việt Nam

17. Nguyễn Văn Hiệp (2014), Ngữ nghĩa của từ “Ra”, “Vào” trong tiếng Việt

nhìn từ góc độ nghiệm thân, Báo cáo tại hội thảo ngữ học quốc tế, Đài Loan.

18. Nguyễn Thị Bích Hợp (2015), Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

19. Nguyễn Thị Hương (2017), Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng

Anh ( đối chiếu với tiếng Việt), Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học, Học viện

Khoa học - Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

20. Nguyễn Khải Kế ( chủ trì đề tài) (2004), Một số vấn đề văn hóa ăn, uống

trong xã hội cổ truyền của người Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản,

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn.

21. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn

hóa thông tin.

22. Phạm Văn Lam (2007) , Bước đầu khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một

số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến nay, Luận văn thạc sỹ

ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

23. Phạm Quang Long, Bùi Văn Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu) (2010),

Tuyển tập tác phẩm về văn hóa ẩm thực Thăng Long- Hà Nội, Nxb Hà nội.

24. Ngô Minh Nguyệt (2014), Đặc điểm trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu

tiếng Hán và tiếng Việt), Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Học viện Khoa học-Xã

hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

25. Hoàng Phê (chủ biên), (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.

26. Hoàng Phê (1975), Phân tích ngữ nghĩa, Ngôn ngữ, số 2, tr.10-26]

80

27. Vũ Trọng Phụng (1993), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn học.

28. Lê Thị Phượng (2014), Văn hóa ẩm thực của người Việt qua ca dao tục ngữ

truyền thống, Luận văn thạc sỹ văn học, Trường đại học Khoa học xã hội &

Nhân văn, Đại học quốc gia Hà nội.

29. Đào Thị Hồng Quyết (2017), Đặc điểm của thành ngữ có chứa thành tố

“Ăn” trong tiếng Việt, Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học, Học viện Khoa học-

Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

30. Băng Sơn (1999), Thú ăn chơi của người Hà nội, Nxb Thanh niên.

31. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt ( tái bản), Nxb KHXH, Hà nội.

32. Trần Ngọc Thêm(1999), Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.

33. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM.

34. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

35. Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến

2005, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

36. Nguyễn Văn Thông (2012), Tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Việt qua

ca dao, tục ngữ, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân

văn, số 28, tr.129-132

37. Nguyễn Đức Tồn (1993), “Đặc trưng dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện

tượng từ đồng nghĩa”, Ngôn ngữ (3), tr. 20- 24.

38. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư

duy, NXB từ điển Bách Khoa.

39. Nguyễn Đức Tồn (2011), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb từ điển Bách Khoa.

40. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục.

41. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp.

81

42. Nguyễn Văn Tu (2001), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

43. Hoàng Tuệ (2013), Cuộc sống ở trong ngôn ngữ, Nxb Trẻ.

44. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo

dục.

45. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1994), Từ điển

thành ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.

NGUỒN INTERNET

46. http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/

82

PHỤ LỤC

THÀNH NGỮ CHỨA THÀNH TỐ “ĂN”

Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” 1.

Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối 2.

Ăn mày lộc phật 3.

Ăn mày đòi xôi gấc 4.

Ăn mày quen ngõ 5.

Ăn mày đánh đổ cầu ao 6.

Ăn vụng không biết chùi mép 7.

8. Ăn vụng quen mồm

9. Ăn tươi nuốt sống

10. Ăn bốc đái đứng

11. Ăn bốc ăn bải

12. Ăn có mời, làm có mượn

13. Ăn tùy nơi chơi tùy chốn

14. Ăn hương ăn hoa

15. Ăn ngon mặc đẹp

16. Ăn sung mặc sướng

17. Ăn của ngon, mặc của tốt

18. Ăn trắng mặc trơn

19. Ăn chực đòi bánh chưng

20. Ăn chực nằm chờ

21. Ăn gió nằm mưa

22. Ăn gió nằm sương

23. Ăn thô nói tục

24. Ăn hơn nói kém

25. Ăn thừa nói thiếu

83

Ăn lắm, nói nhiều 26.

Ăn tục, nói khoác 27.

Ăn ngược nói ngạo 28.

Ăn ốc nói mò 29.

Ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo 30.

Ăn bớt bát, nói bớt lời 31.

Ăn ngay nói thẳng 32.

Ăn bằng nói chắc 33.

Ăn thật làm giả 34.

Ăn kỹ làm dối 35.

Ăn đói mặc rách 36.

Ăn đói mặc rét 37.

Ăn lấy chắc, mặc lấy bền 38.

Ăn lấy đặc, mặc lấy dày 39.

Ăn chắc mặc bền 40.

Ăn no, mặc ấm 41.

Ăn ở như bát nước đầy 42.

Ăn ở hai lòng 43.

Ăn cần ở kiệm 44.

Ăn tằn ở tiện 45.

Ăn vừa ở phải 46.

Ăn nhờ ở đậu 47.

Ăn nhờ ở gửi 48.

Ăn bờ ở bụi 49.

Ăn xổi ở thì 50.

Ăn lông ở lỗ 51.

Ăn đường 52.

84

Ăn trên mồ hôi nước mắt 53.

Ăn trên sương máu 54.

Ăn dưới âm phủ 55.

Ăn trên ngồi chốc 56.

Ăn xó mó niêu 57.

Ăn lông ở lỗ 58.

Ăn trông nồi, ngồi trông hướng 59.

Ăn cắp ăn nảy 60.

Ăn trộm ăn cắp 61.

Ăn cắp như ranh 62.

Ăn đút ăn lót 63.

Ăn gian nói dối 64.

Ăn gian nó giàn ra đấy 65.

Chưa ăn cỗ đã chực lấy phần 66.

Chưa ăn cỗ đã lo mất phần 67.

Đói ăn vụng, túng làm càn 68.

Làm chơi ăn thật 69.

Ngồi không ăn bám 70.

85

PHỤ LỤC

THÀNH NGỮ CHỨA THÀNH TỐ “XƠI”

Cốc mò cò xơi 1.

Cò làm cho diệc nó xơi 2.

Ngồi chơi xơi nước 3.

Ki cóp cho cọp nó xơi 4.

86

PHỤ LỤC

STT Trích dẫn Nguồn

Tình nguyện viên như chính ý nghĩa

tên gọi của nó, bởi đây là công việc tự https://thanhnien.vn/the-thao/toan-

nguyện, vô vụ lợi, nhiều người gọi họ canh-the-thao/nhung-nguoi-vac-tu-

“ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng” va-hang-tong-tai-sea-games-30-

1 cũng chẳng sai 109512.html, (30/11/2019)

Mặc dù mới hơn 10h sáng (ngày 14/2)

nhưng nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh https://dantri.com.vn/xa-hoi/nhieu-

Hà Tĩnh đã đóng cửa, nhân viên, lãnh co-quan-ban-nganh-tinh-nguyen-

đạo đều vắng mặt. Lý do là nghỉ sớm nghi-som-de-an-ram-

2 để... ăn rằm 1392865946.htm, (14/2/2014)

https://www.webtretho.com/f/hanh-

trinh-lam-me/vui-mieng-hoi-ngay-

Vì thế, nếu bé được ăn đầy tháng thì day-thang-thoi-noi-la-gi-nhung-ta-

cháu đã thoát được hết hai phần ba hoa-khi-y-nghia-cua-no-chang-

của những rủi ro trong năm tuổi đầu may-nguoi-biet-2435456,

3 tiên của cuộc đời (11/2016)

https://dantri.com.vn/dien-dan/ve-

Về Đức Thượng, ăn tiệc canh bầu trôi duc-thuong-an-tiec-canh-bau-troi-

nước nuoc-20170408212928963.htm,

(09/04/2017) 4

https://dantri.com.vn/xa-hoi/nguoi-

sai-gon-cuong-nhiet-an-mung- Người Sài Gòn cuồng nhiệt ăn mừng chien-thang-lich-su-cua-u23-viet- chiến thắng lịch sử của U23 Việt Nam nam-20180123202416408.htm,

(23/1/2018) 5

87

Giá điện, giá xăng tăng khiến người

lao động nghèo vất vả tiết kiệm triệt https://thanhnien.vn/doi-song/gia-

để, sinh viên tìm đủ mọi cách mới dien-xang-cung-tang-bo-bua-sang-

mong ‘sống sót', thậm chí bỏ bữa an-chay-1001-cach-that-lung-buoc-

6 sáng, ăn chay để đỡ tiền bung-1079675.html, (9/5/2019)

https://vietgiaitri.com/biet-ly-do-

chong-sap-cuoi-dot-nhien-an-chay-

toi-quyet-dinh-huy-hon-ngay-du-

Thì ra “ăn chay” ở đây không chỉ là chi-con-mot-tuan-nua-la-toi-le-

không ăn thịt cá nữa mà là sẽ không cuoi-20191007i4339788/,

7 quan hệ sắc dục với tôi nữa (11/2019)

https://afamily.vn/bat-chong-an-

chay-suot-9-thang-mang-bau-phu- Bắt chồng "ăn chay" suốt 9 tháng nu-da-vo-tinh-bo-qua-5-loi-ich-vo- mang bầu, phụ nữ đã vô tình bỏ qua 5 cung-bat-ngo-cho-suc-khoe-cua-ca- lợi ích vô cùng bất ngờ cho sức khỏe me-va-be- của cả mẹ và bé 20191215003246008.chn,

(24/12/2019) 8

https://thanhnien.vn/the-gioi/an-

xin-o-thai-lan-la-pham-phap-bi-

Ăn xin ở Thái Lan là phạm pháp, bị phat-tu-va-tien-865141.html,

9 phạt tù và tiền (13/8/2017)

Doanh nghiệp xây chùa, sau đó tung

dịch vụ bủa vây trong chùa để kiếm https://giaoduc.net.vn/kinh-te/dai-

lợi từ tâm linh. Kiểu làm kinh tế này gia-cung-an-may-cua-phat-

10 có khác nào "ăn mày" cửa phật post196212.gd, (8/3/2019)

88

Thế nhưng, “ăn mày cửa Phật”, nhặt

lộc rơi, lộc vãi cũng vì mục đích kinh

tế đấy mà nó an nhiên, thánh thiện

biết bao nhiêu, thì những kiểu làm ăn

dựa vào cửa Phật để kiếm lợi đang

khiến người ta cảm giác niềm tin của

mình bị biến thành phương tiện lợi https://giaoduc.net.vn/kinh-te/dai-

dụng và bị móc túi một cách công gia-cung-an-may-cua-phat-

11 nhiên mà chẳng biết trách ai.[] post196212.gd , (8/3/2019)

Xin thưa ngay là rất ngon, bao giờ “ăn https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-

vụng” cũng ngon hơn là ăn bình tinh/an-vung-co-ngon-khong-

12 thường, ăn hợp pháp 1137599235.htm, (18/1/2006)

https://thanhnien.vn/van-hoa/het-

thoi-lam-phim-an-xoi-

13 Hết thời làm phim ‘ăn xổi’ 1058659.html, (9/3/2019)

http://giadinh.net.vn/gia-dinh/noi-

niem-thu-ky-tre-an-vung-voi-sep-

20190315101805798.htm,

14 Nỗi niềm thư ký trẻ "ăn vụng" với sếp (17/3/2019)

https://tintuconline.com.vn/doi-

song/biet-ro-chong-an-vung-co-

Biết rõ chồng ăn vụng có con riêng 3 con-rieng-3-tuoi-vo-gia-vo-lam-

tuổi, vợ giả vờ làm ngơ, 4 năm sau ngo-4-nam-sau-moi-lat-bai-ngua-

mới "lật bài ngửa" khiến chị em chắp khien-chi-em-chap-tay-ne-phuc-n-

15 tay nể phục 387052.html, (3/4/2019)

Chồng sốc nặng khi biết vợ 'ăn vụng' https://baomoi.com/chong-soc-

16 với 2 người đàn ông, còn có nhật ký nang-khi-biet-vo-an-vung-voi-2-

89

ngoại tình nguoi-dan-ong-con-co-nhat-ky-

ngoai-tinh/c/32341599.epi,

(27/09/19)

https://www.tienphong.vn/suc-

Ăn vụng quên chùi mép', chồng khoe/an-vung-quen-chui-mep-

lộ bằng chứng ngoại tình không thể chong-lo-bang-chung-ngoai-tinh-

ngờ khong-the-ngo-1386030.tpo,

17 (08/03/2019)

https://giaoducthoidai.vn/chong-an-

vung-qua-tinh-vi-721090.html,

18 Chồng “ăn vụng” quá tinh vi (17/3/2015)

https://thanhtra.com.vn/tin-tuc-

chong-tham-nhung/trong-

nuoc/tham-nhung-vat-na-vao-tui-

cua-tung-nguoi-

Không cải cách tiền lương sẽ có dan_t114c1080n143185,

19 chuyện “đói ăn vụng, túng làm càn” (31/12/2018 )

Và từ tham, khi tặc lưỡi cho qua

“tham vặt”, chuyện nhỏ thôi mà, thì

có thiếu mới vậy, “đói ăn vụng, túng

làm càn”, nhưng rồi chính cái sự dung

túng đó vô tình đã chấp nhận “văn

hóa tham vặt”, mà tới lúc không đói http://vannghethainguyen.vn/2018/

cũng ăn vụng, không túng cũng làm 12/29/nguoi-viet-va-thoi-tham-vat-

20 càn, một nếp văn hóa xấu xí. xau-xi/ , (29/12/2018)

https://tuoitre.vn/khong-the-xuat-

21 Không thể xuất khẩu theo kiểu ăn xổi khau-theo-kieu-an-xoi-546268.htm,

90

(03/05/2013)

https://dantri.com.vn/xa-hoi/go-

Khai thác rừng non chẳng khác gì rung-trong-cua-viet-nam-dang-bi-

bán lúa non, gỗ rừng trồng đang bị ăn an-xoi-20180808151230997.htm,

xổi, hiệu quả kinh tế thấp. (08/08/2018)

22

https://dantri.com.vn/van-hoa/am-

nhac-ngay-nay-thuong-vo-hon-vi-

sao-20160419064843387.htm,

MV lên ngôi, nhạc Việt trở nên ăn (19/4/2016)

23 xổi?

Việc dàn dựng các tác phẩm dành cho https://dantri.com.vn/van-hoa/kich-

thiếu nhi lâu nay luôn được làm theo thieu-nhi-cung-an-xoi-o-thi-

lối “ăn xổi ở thì”, chộp giật và manh 20160531153407134.htm,

24 mún. (31/5/2016)

https://dulich.dantri.com.vn/du-

lich/chu-tich-khanh-hoa-tranh-tinh-

trang-an-xoi-o-thi-trong-kinh-

“Chúng ta cần tránh ăn xổi ở thì, bán doanh-du-lich-

giá cao, bán cắt cổ làm ảnh hưởng đến 20190711164413429.htm,

25 môi trường du lịch”,... (12/7/2019)

https://nld.com.vn/tinh-yeu-hon-

nhan/ai-yeu-nhau-cung-muon-an-

tuoi-nuot-song-

Ai yêu nhau cũng muốn “ăn tươi nuốt 20140517230137465.htm,

26 sống”? (17/5/2014)

91

https://vnexpress.net/tam-su/moi-

lan-noi-chuyen-ban-trai-nhu-muon-

Mỗi lần nói chuyện bạn trai như muốn an-tuoi-nuot-song-toi-

27 'ăn tươi nuốt sống' tôi 3708581.html, (6/2/2018)

https://thanhnien.vn/video/thoi-

su/an-choi-qua-da-trom-gan-nua-ti-

Ăn chơi quá đà, trộm gần nửa tỉ đồng dong-o-nha-di-ruot-79764.html,

28 ở nhà dì ruột (14/1/2017)

Ngày ấy, bố mẹ tôi “cơm không đủ

ăn, áo không đủ mặc”, đến thời tôi thì

“ăn phải ngon, mặc phải đẹp”. Đến

thời con cái tôi sau này, có lẽ chuyện https://vnexpress.net/y-kien/giau-

ăn ngon mặc đẹp là ngheo-khi-cuoc-song-la-khong-

tiêu chuẩn tối thiểu của những người cong-bang-2977434.html

29 bình thường… (25/4/2014)

https://afamily.vn/tet-khong-chi-la-

dip-an-ngon-mac-dep-nhan-li-xi-

Tết không chỉ là dịp ăn ngon, mặc ma-tro-nen-y-nghia-neu-cha-me-

đẹp, nhận lì xì mà trở nên ý nghĩa nếu day-tre-6-bai-hoc-quan-trong-nay-

cha mẹ dạy trẻ 6 bài học quan trọng 2019122613024607.chn,

30 này (27/1/2020)

Dù cay đắng, chị vẫn phải dũng cảm

để nhìn nhận ra một sự thật rằng chị là https://www.tienphong.vn/gia-

“con mồi” béo bở để hắn vừa lợi dụng dinh-suc-khoe/trai-tre-huong-thu-

thân xác, vừa lợi dụng tiền bạc và uy an-trang-mac-tron-roi-quet-mo-bo-

tín của chị để ăn trắng mặc trơn rồi toi-di-lay-vo-1023442.tpo,

31 “quẹt mỏ” bỏ đi cưới người phụ nữ (5/7/2016)

92

khác

https://dantri.com.vn/xa-hoi/ga-

gan-choi-ngong-gao-an-dong-van-

Thế nhưng với tính “chơi ngông” của mua-o-to-ve-dap-chieu-

ông Cẩn, gia đình có lúc còn phải "ăn 20190501065455319.htm,

32 đong" gạo. (1/5/2019)

https://tuoitre.vn/xuat-khau-do-go-

Xuất khẩu đồ gỗ; Ăn đong nguyên an-dong-nguyen-lieu-430608.htm,

33 liệu (26/3/2011)

https://tuoitre.vn/an-dong-mau-ma-

34 Ăn đong mẫu mã 380673.htm,27/5/2010)

https://tuoitre.vn/tuoi-tho-khat-

Tuổi thơ khát nhạc: Bé bé bằng nhac-be-be-bang-bong-an-dong-ca-

35 bông... ăn đong ca khúc khuc-141225.htm, (2/6/2006)

https://tuoitre.vn/thiet-bi-day-hoc-

Thiết bị dạy học: bao giờ mới hết ăn bao-gio-moi-het-an-dong-

36 đong? 3014.htm, (30/9/2003)

Doanh nghiệp trong nước không chỉ

kiệt quệ vì tín dụng siết chặt và lãi

suất cao, nhiều đơn vị giờ đây đang

phải đi ăn đong từng đơn hàng xuất https://tuoitre.vn/an-dong-hang-

khẩu do sức mua của thị trường giảm xuat-khau-502434.htm,

37 sút nghiêm trọng. (18/7/2012)

38 An ninh năng lượng sao cứ mãi “ăn https://tuoitre.vn/an-ninh-nang-

93

đong” luong-sao-cu-mai-an-dong-

20181201115806294.htm,

(1/12/2018)

Một cô gái sống tại bang Florida (Mỹ)

đã bị cảnh sát bắt giữ sau khi “ăn

chực” tại hàng chục nhà hàng bằng https://giaoducthoidai.vn/thanh-an-

cách bỏ thủy tinh vào bên trong thức chuc-nha-hang-voi-chieu-tro-

ăn và tự cắt đứt môi mình để khỏi khong-ai-nghi-den-3722096.html,

39 phải trả tiền (14/10/2017)

https://www.giaoduc.edu.vn/an-

40 “Ăn chực” Tết Sài Gòn chuc-tet-sai-gon.htm, (13/1/2020)

https://dantri.com.vn/suc-manh-

so/nhung-chiec-i-phone-11-dau-

tien-tren-the-gioi-ve-tay-nguoi-

viet-nam-

Cả ngàn người "ăn chực nằm chờ", 20190920082853989.htm,

41 hóng iphone 11 (20/9/2019)

Người hâm mộ BTS có thể phải đối

mặt với phí phạt lên tới 500 USD https://thethaovanhoa.vn/giai-

(khoảng gần 2 triệu VND) nếu cố tình tri/an-chuc-nam-cho-doi-bts-fan-

“ăn chực nằm chờ” nhóm trước các co-the-bi-phat-toi-500-usd-

buổi diễn ở Fort Worth, Texas n20180906195503124.htm,

42 (Mỹ) vào tuần tới? (6/9/2018)

Để mua được một giò lan phi điệp 5

cánh trắng quý hiếm với giá 700 triệu http://baodansinh.vn/an-chuc-nam-

đồng, người đàn ông phải “ăn chực, cho-mua-gio-lan-700-trieu-dong-

43 nằm chờ” đúng 1 tuần 78980.htm, (21/8/2018)

94

https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-

Dưới màn khói mỏng, bóng dáng mấy tinh/kinh-thua-quy-ong-lem-bem-

44 cô gái “ăn sương” thoắt ẩn thoắt hiện 1349805837.htm, (5/10/2012)

https://www.24h.com.vn/an-ninh-

hinh-su/the-gioi-ngam-o-malaysia-

Thế giới ngầm ở Malaysia: Gái “ăn gai-an-dem-o-kuala-lumpur-

45 đêm” ở Kuala Lumpur c51a937774.html, (16/2/2018)

https://thanhnien.vn/video/thoi-

su/hai-co-gai-tre-trong-bang-trom-

Hai cô gái trẻ trong băng trộm xe máy xe-may-chuyen-an-dem-

46 chuyên ăn đêm 121725.html, (23/11/2018)

https://thanhnien.vn/van-hoa/an-

nhau-hat-ho-ban-hang-rong-tai-

Ăn nhậu, hát hò, bán hàng rong tái dien-quanh-thang-canh-quoc-gia-

diễn quanh thắng cảnh quốc gia hồ ho-xuan-huong-1108225.html,

47 Xuân Hương (29/7/2019)

https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-

tinh/lo-het-kinh-te-van-cham-soc-

gia-dinh-chu-dao-vay-ma-ga-

Lo hết kinh tế vẫn chăm sóc gia đình chong-van-an-nam-voi-osin-

chu đáo vậy mà gã chồng vẫn ăn nằm 20170916074936419.htm,

48 với osin (16/9/2017)

https://dantri.com.vn/xa-hoi/an-gio-

nam-suong-kiem-tet-o-dao-hoa-

doc-nhat-tay-nguyen-

“Ăn gió nằm sương” kiếm tết ở đảo 20200121084415633.htm,

49 hoa độc nhất Tây Nguyên (21/1/2020)

95

Trong ba ngày Tết, đồng bào ai cũng

đoàn tụ sum vầy xung quanh những

bình hoa, mâm bánh. Còn các bạn thì http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-

chịu ăn gió, nằm mưa lạnh lùng ở doi/201602/binh-tuat-co-mot-mua-

50 chốn sa trường. xuan-nhu-the-299935/, (10/2/2016)

http://sach.nlv.gov.vn/sach/cgi-

bin/sach?a=d&d=tfbUZl1953.1.114

51 Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm &e=-------vi-20--1--img-txIN-------

Biết cách giao tiếp khôn ngoan sẽ

giúp ích rất nhiều trong cuộc sống và https://motthegioi.vn/phai-dep-c-

công việc của bạn. Tuy nhiên, không 86/eva-adam-c-149/tap-an-noi-

ai sinh ra đã khéo ăn nói mà đó là cả khon-ngoan-de-thanh-cong-

52 một quá trình học hỏi và rèn luyện. 95568.html, (29/08/2018)

https://baomoi.com/nhung-cach-an-

mac-lam-cho-ban-trong-sang-

Những cách ăn mặc làm cho bạn trong-thoi-thuong-

53 trông sang trọng, thời thượng hơn hon/c/32197465.epi, (15/9/2019)

Lý giải về sự trỗi dậy của "hiện tượng

Donald Trump", chuyên gia phân tích https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-

Scot Faulkner cho rằng phong cách ăn te/giai-ma-hien-tuong-donald-

ngay nói thẳng của ông Trump đang trump-20150720221209261.htm,

54 làm hả dạ những người bảo thủ. (20/7/2015)

Muốn khoa học công nghệ nói riêng,

nền khoa học kỹ thuật Việt Nam nói https://dantri.com.vn/blog/dung-

chung phát triển thì một trong những buoc-cac-nha-khoa-hoc-lam-dieu-

việc cần làm ngay là cải cách thể chế gian-doi-20170105053017505.htm,

55 chính sách để các nhà khoa học tập (5/1/2017)

96

trung cho nghiên cứu, sáng tạo, nhất

là không biến các nhà khoa học thành

“ăn gian, nói dối”

Bạn hãy tin rằng, mọi ý nghĩ không https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-

hay về các cặp chồng già vợ trẻ đều tinh/dinh-kien-trau-gia-gam-co-

chỉ là trò “ăn ốc nói mò”, vô cùng non-1356827111.htm,

56 thiếu cơ sở (25/12/2012)

https://dantri.com.vn/dien-

Theo lý giải của bạn đọc thì lương dan/muon-luong-tang-can-manh-

thấp là vì phải san sẻ với những đồng dan-giam-quan-so-

57 nghiệp "ăn thật làm giả" 1318653454.htm, (11/10/2011)

( https://baophapluat.vn/tieu-dung-

thong-minh/nong-dan-trong-cay-

Nông dân trồng cây cảnh “làm chơi canh-lam-choi-an-that-

58 ăn thật” 417619.html, (14/10/2018)

Nhưng toàn những cha ăn kỹ làm dối,

một nhát đến tai, hai nhát đến gáy… http://www.tacphammoi.net/news/1

Thoạt nhìn, biết ông là người cẩn 031/36/Gio-xuan-thoi-som/d,detail,

59 thận… (06/08/2015 )

Theo tôi, văn hóa không 'nằm' ở

những chiếc váy mà ở trên não người

mặc. Nếu thực sự là người có văn hóa, https://dantri.com.vn/ban-doc/the-

bạn sẽ thể hiện văn hóa ăn mặc của hien-van-hoa-an-mac-

60 mình tùy theo hoàn cảnh…” 1312509487.htm, (01/08/2011 )

15 phong cách thời trang đúng là xúc (https://kenh14.vn/15-phong-cach-

61 phạm nền văn hóa ăn mặc thế giới thoi-trang-dung-la-xuc-pham-nen-

97

van-hoa-an-mac-the-gioi-

20160504164334384.chn,

04/05/2016).

Chiếc áo không làm nên thầy tu” https://thanhnien.vn/suc-

nhưng cách bạn ăn mặc, quần khoe/nguoi-khac-danh-gia-nang-

áo, trang phục lại ảnh hưởng đến việc luc-cua-ban-qua-cach-an-mac-cua-

mọi người nghĩ bạn có đủ năng lực ban-day-1161246.html,

62 hay không đấy. (24/12/2019)

https://vnexpress.net/thoi-su/lao-

dong-tu-algeria-an-doi-mac-rach-

Lao động từ Algeria 'ăn đói, mặc rách' ve-nuoc-3313704.html,

63 về nước (17/11/2015)

Ở độ tuổi 30, họ sở hữu trong tay khối https://dantri.com.vn/nhip-song-

tài sản đủ để ăn sung mặc sướng đến tre/nhung-nguoi-thich-kho-

64 hết cuộc đời 1193997587.htm, (1/11/2007)

https://dantri.com.vn/kinh-

doanh/huong-den-giai-phap-an-

chac-mac-ben-cho-gioi-tieu-

Hướng đến giải pháp “ăn chắc, mặc thuong-va-nguoi-lao-dong-

bền” cho giới tiểu thương và người 201803291025094.htm,

65 lao động (29/3/2018)

Người có tiền và muốn ăn chắc mặc https://vnexpress.net/oto-xe-

bền, ngại phải vào garage vì sợ tốn may/an-chac-mac-ben-thi-chi-co-

tiền, sợ tốn xăng nuôi xe thì mới chọn xe-nhat-3702219.html

66 xe Nhật (25/11/2008)

Lập kỷ lục SEA Games mới, Nguyễn https://webthethao.vn/mon-

67 Huy Hoàng “ăn chắc mặc bền” mỗi khac/lap-ky-luc-sea-games-moi-

98

ngày một vàng nguyen-huy-hoang-an-chac-mac-

ben-moi-ngay-mot-vang-

109818.htm, (5/12/2019)

https://vndoc.com/van-mau-lop-11-

Cha mẹ phan-tich-bai-tho-thuong-vo-cua- thói đời ăn ở bạc

68 Có chồng hờ hững cũng như không tran-te-xuong/download

https://dantri.com.vn/doi-song/anh-

Điều cốt yếu là họ ăn ở đối xử với cuoi-tien-trieu-nam-gon-trong-xe-

nhau ra sao, chứ tôi thấy các bạn trẻ rac-20150727071439559.htm,

69 bây giờ ngày càng lãng phí. (27/7/2015)

https://vnexpress.net/doi-song/co-

Hai người đã ăn ở với nhau như vợ nen-lam-ban-tinh-cua-chang-

70 chồng 2963083.html, (13/3/2014)

Có tình cảm nào với sự biết ơn mà https://www.cuasotinhyeu.vn/tam-

đến với nhau, ăn ở với nhau dẫn đến su/tinh-yeu/chi-la-biet-ma-phai-o-

71 quan hệ? cung-nhau-59601.html

https://vnexpress.net/goc-nhin/thoi-

an-o-ban-3001114.html,

72 Thói ăn ở bẩn (16/6/2014)

Người Việt vẫn dặn nhau “ăn ở như

bát nước đầy” và trong quan hệ với https://tuoitre.vn/ai-dang-hat-di-

Trung Quốc, Việt Nam luôn thực tâm bat-nuoc-day-609719.htm,

giữ gìn, thậm chí nâng niu bát nước (28/5/2014)

73 tình nghĩa ấy.B7

99

“Ăn bờ ở bụi” đón tết xa nhà hay đón https://dantri.com.vn/xa-

giao thừa muộn là những chuyện đã hoi/chuyen-nhung-nguoi-dung-leu-

quá quen thuộc đối với những người ben-duong-cho-tet-

chuyên nghề trồng hay buôn bán đào, 20180212221254709.htm,

74 quất, cây cảnh chưng tết. (13/2/2018)

Xuất khẩu LĐ (XKLĐ) chuyển sang https://tuoitre.vn/xuat-khau-lao-

cơ chế thị trường đã lâu nhưng vẫn dong-van-an-xoi-o-thi-321657.htm,

75 hoạt động theo kiểu “ăn xổi ở thì” (28/3/2020)

Cũng có ông "ăn ở hai lòng". Tình https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-

cảm đem chia sẻ nhiều nơi, chỉ dành tinh/yeu-ngoai-luong-o-tuoi-tu-

76 cho vợ phần nhỏ nhất tuan-1208991063.htm, (29/4/2008)

https://dantri.com.vn/bat-dong-

Mua chung cư này cũng gần 6 tỷ đồng san/bo-tien-ty-mua-chung-cu-

mà dịch vụ thì quá tệ. Tôi ở chung cư nhung-song-nhu-an-nho-o-dau-

đóng đủ phí quản lý, phí bảo trì hẳn 20191207064002310.htm,

77 hoi mà cứ như đi ăn nhờ ở đậu. (7/12/2019)

https://afamily.vn/tat-ca-la-cua-

con-trai-toi-co-chi-an-nho-o-dau-

Nhưng bây giờ cô mới biết, là bà coi va-hanh-dong-dap-tra-cua-nang-

cô chẳng ra gì, coi như một kẻ vô dau-khien-me-chong-im-lang-

dụng, ăn nhờ ở đậu nên bà chẳng cần 2018021217161482.chn,

78 để ý cảm xúc, suy nghĩ của cô (38/3/2018)

https://thanhnien.vn/phap-luat/tin-

do-day/truong-ap-an-duong-

79 Trưởng ấp... ăn đường 5583.html, (12/01/2014 )

https://thanhnien.vn/thoi-su/phap-

80 Ngồi tù vì "ăn" đường giao thông luat/ngoi-tu-vi-an-duong-giao-

100

thong-94425.html , (7/12/2007)

https://thanhnien.vn/doi-song/ts-

vu-the-long-tong-thu-ky-hoi-am-

Ngày tôi còn nhỏ, ăn đường ăn chợ có thuc-ha-noi-la-tiem-buffet-khong-

81 khi còn bị coi là thiếu văn hóa. lo-70550.html

https://giaoduc.net.vn/giao-duc-

24h/trong-thi-nguoi-thay-de-ho-

Trọng thị người thầy để họ không... khong-an-xo-mo-nieu-

82 "ăn xó mó niêu" post71365.gd, (03/07/2012)

https://vtc.vn/chuyen-vu-an/6-

6 tháng 'ăn bờ, ngủ bụi' của trinh sát thang-an-bo-ngu-bui-cua-trinh-sat-

phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ pha-duong-day-danh-bac-nghin-ty-

đồng game đế chế dong-game-de-che-ar528807.html,

(21/02/2020) 83

https://dantri.com.vn/xa-hoi/bo-

doi-bien-phong-an-bo-ngu-bui- Bộ đội Biên phòng “ăn bờ, ngủ bụi” chan-dong-nguoi-nhap-canh-trai- chặn dòng người nhập cảnh trái phép phep-20200325163950667.htm,

(26/03/2020) 84

Quan điểm này trái ngược hoàn toàn https://dantri.com.vn/the-

với thông tin của Mỹ, rằng trùm gioi/osama-bin-laden-dang-lan-

khủng bố al-Qaeda đang phải “ăn tron-o-thanh-thi-1192095976.htm,

85 lông ở lỗ”. (10/10/2007)

…bên tây họ đẹp ở cách ăn mặc lịch https://dantri.com.vn/kinh-

sự còn bên ta lại lấy vẻ đẹp trùng trục doanh/dich-vu-trai-dep-co-bap-

86 như trâu để coi là đẹp....trông lố bịch ban-hang-su-lo-bich-hay-suy-nghi-

101

quá....chỉ hơn thời ăn lông ở lỗ là có co-hu-20170609061604305.htm,

cái quần" (9/6/2017)

https://thanhnien.vn/the-gioi/an-

hoi-lo-cuu-thi-truong-tham-quyen-

Ăn hối lộ, cựu thị trưởng Thâm lanh-an-tu-hinh-384580.html,

87 Quyến lãnh án tử hình (9/5/2011)

https://thanhnien.vn/giao-duc/an-

chan-tien-suat-an-cua-hoc-sinh-

Ăn chặn tiền suất ăn của học sinh tiểu tieu-hoc-891879.html,

88 học (20/10/2017)

Người ta có thể đã quen với những

hành vi ăn cắp vặt chỗ này, chỗ kia vì

nó vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng

việc ăn chặn hàng cứu trợ dành cho https://dantri.com.vn/blog/an-chan-

những người già neo đơn, những trẻ hang-tu-thien-ho-da-cuop-di-hy-

em mồ côi ở trung tâm này, thật là vong-cua-nhung-nguoi-thiet-thoi-

hành vi quá xấu xa, không thể nào 20190929191053935.htm,

89 chấp nhận được (30/9/2019)

102

https://thanhnien.vn/toa-soan-ban-

doc/bien-bao-giao-thong-bi-an-hiep-

90 Biển báo giao thông bị "ăn hiếp" 145851.html, (9/10/2008)

https://thanhnien.vn/the-gioi/nhung-ke-an-

91 Những kẻ ăn chẹt ở Phố , Wall chet-o-pho-wall-392526.html, (30/3/2009)

https://thanhnien.vn/thoi-su/an-trom-bi-

Ăn trộm bị phát hiện, trả thù phat-hien-tra-thu-bang-xang-

92 bằng... xăng! 1077447.html, (2/5/2019)

Trước thực trạng trên dư luận https://thanhtra.com.vn/phap-luat/dieu-tra-

không khỏi đặt nghi vấn: Có hay qua-don-thu/bai-2-chinh-quyen-an-ro-voi-

không việc chính quyền “ăn rơ” doanh-nghiep_t114c39n71933

93 với doanh nghiệp? (05/05/2014 )

https://dantri.com.vn/suc-khoe/vu-benh-

Vụ bệnh viện Xanh Pôn gian lận vien-xanh-pon-gian-lan-xet-nghiem-hiv-

xét nghiệm HIV: “Ăn gian” quy an-gian-quy-trinh-gay-sai-so-nhu-the-nao-

94 trình gây sai số như thế nào? 20191209232752357.htm, (10/12/2019)

https://dantri.com.vn/kinh-doanh/an-chia-

Ăn chia "tàn bạo" ở dự án KĐT tan-bao-o-du-an-kdt-thanh-ha-ong-trinh-

Thanh Hà, ông Trịnh Xuân Thanh xuan-thanh-co-lien-quan-

95 có liên quan? 201609082334562.htm, (9/9/2016)

https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-

phap/phong-chong-tham-nhung/an-ban-3-

"Ăn bẩn", 3 cựu cán bộ công an cuu-can-bo-cong-an-chia-nhau-21-nam-tu-

96 “chia nhau” 21 năm tù 82180.html, (31/1/2020)

https://tuoitre.vn/ubnd-tphcm-chi-dao-xu- UBND TP.HCM chỉ đạo xử lý nạn ly-nan-an-bam-tre-em-324694.htm, "ăn bám trẻ em" 97 (28/3/2020)

103

https://dantri.com.vn/kinh-doanh/bat-

Bất động sản đang “ăn bám” thị dong-san-dang-an-bam-thi-truong-tai-

98 trường tài chính chinh-1402915215.htm, (10/6/2014)

https://thanhnien.vn/thoi-su/quy-ngoai-

Quỹ ngoài ngân sách 'ăn bám' ngân ngan-sach-an-bam-ngan-sach-

99 sách 1118582.html, (26/8/2019)

https://thanhnien.vn/van-hoa/dien-anh-an-

100 Điện ảnh ăn bám “sao" bam-sao-46279.html, (12/12/2012)

https://thanhnien.vn/the-gioi/philippines-

Philippines nói muốn tự củng cố noi-muon-tu-cung-co-nang-luc-phong-thu-

năng lực phòng thủ, không 'ăn khong-an-bam-vao-nuoc-khac-

101 bám' vào nước khác 1182267.html, (13/2/2020)

https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/buc-

xuc-vi-ban-chi-biet-an-thanh-toan-kiem-

“Ăn chùa” cả chục lần nhưng co-chuon-20161003134349195.htm,

102 không mời lại một lần (3/10/2016)

Không đến muộn nhưng nhiều https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/khoc-

thanh niên "ăn chùa” vẫn xù được thet-voi-nhung-ke-chi-thich-an-chua-

103 tiền ăn bằng cách cố tình về sớm. 20160930081027193.htm, (30/9/2016)

https://thanhnien.vn/doi-song/thu-

gian/dam-xoi-trai-cam-323201.html,

104 Dám xơi trái cấm! (23/2/2007)

Giữ gìn cho người yêu 4 năm để https://www.yan.vn/chang-trai-cay-dang-

chờ đêm tân hôn, chàng trai cay nhin-ban-than-va-nguoi-yeu-cam-sung-

105 đắng nhìn bạn thân "xơi" mất 203042.html, 20/05/2019)

Chồng ăn chả, vợ trả đũa xơi nem https://vietnamnet.vn/vn/ban-doc/chong-

106 tại cơ quan an-cha-vo-tra-dua-xoi-nem-tai-co-quan-

104

18527.html, (30/4/2011)

https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tu-

de-an-thanh-kho-xoi-924, 87.html,

107 Từ dễ ăn thành khó xơi (14/10/2012)

Họ xơi cả vào khoản tiền ít ỏi

trong khẩu phần ăn của những đứa https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-

108 trẻ thơ. tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)

https://vietnamnet.vn/vn/bat-dong-san/du-

an/cai-tao-chung-cu-cu-tp-hcm-ngay-

Đất vàng chung cư cũ: Không “dễ cang-xa-roi-muc-tieu-363656.html,

109 xơi” (28/3/2017)

https://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/dieu-gi-

Điều gì xảy ra khi lỗ đen "xơi tái" xay-ra-khi-lo-den-xoi-tai-sao-

110 sao? 269670.html, (26/10/2015)

https://dantri.com.vn/the-thao/nong-mat-

Nóng mặt, cầu thủ “ xơi tái” cau-thu-xoi-tai-catrong-tai-

111 cả…trọng tài 1332233828.htm, (16/3/2012)

https://tuoitre.vn/dua-hinh-anh-cong-chuc-

Đưa hình ảnh công chức "xơi" giờ xoi-gio-cong-len-tivi-543713.htm,

112 công lên tivi (14/8/2013)

https://thanhnien.vn/thoi-su/xe-dien-xoi-3-

113 Xe điên “xơi” 3 xe máy xe-may-487550.html, (22/5/2012)

https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/15-nam-

15 năm xây dựng vùng nguyên xay-dung-vung-nguyen-lieu-bong-coc-

114 liệu, bỗng ‘cốc mò cò xơi’ mo-co-xoi-227657.html, (29/3/2015)

115 Chưa biết Ban trọng tài sẽ treo còi https://vietnamnet.vn/vn/the-thao/bong-da-

105

ông Dũng bao nhiêu trận, chỉ biết viet-nam/trong-tai-phung-dinh-dung-ngoi-

rằng trọng tài này sẽ phải “ngồi choi-xoi-nuoc-het-giai-319114.html,

chơi xơi nước” dài dài (3/8/2016)

Thực sự bố mẹ chẳng có gì ngoài

sự lương thiện, chân chất nuôi con

cái nên người, vì chưa đủ dư dả,

nên bố mẹ vẫn cứ phải “ăn dè hà

tiện” thế thôi, nhưng toàn là “ki https://baomoi.com/thu-me-chong-muon-

116 cóp cho cọp nó xơi” gui-con-dau/c/18726242.epi, (24/2/2016)

Phải chăng mâm cỗ “siêu khổng

lồ” này được họ chuẩn bị để “mời” https://coffanhom.com/thi-truong-cop-

các đối tác sử dụng cốp pha nhôm pha-nhom-viet-nam.html, (15/10/2019)

117 trong tương lai?

Ở đây, họ “chén” cả Pentaxim, một

loại vắc xin chứa trong nó 5 mầm

bệnh hiểm nguy là bạch hầu, ho

gà, uốn ván, viêm gan B, viêm https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-

118 phổi/viêm màng não mủ. tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)

(https://www.tienphong.vn/suc-

khoe/khong-le-bay-gio-cu-yeu-la-mat-

Không lẽ bây giờ cứ yêu là mắt truoc-mat-sau-doi-chen-1503960.tpo,

119 trước mắt sau... 'đòi chén'? (02/01/2020).

(https://www.nguoiduatin.vn/hanh-phuc-

da-mim-cuoi-voi-co-gai-bi-nguoi-yeu-lua-

'Chén' người yêu rồi lừa bán sang ban-sang-xu-nguoi-a104834.html,

120 Trung Quốc (23/09/2013).

106

Yêu 4 năm không làm ăn được gì, https://www.yan.vn/chang-trai-cay-dang-

đùng cái thằng bạn thân “chén” nhin-ban-than-va-nguoi-yeu-cam-sung-

121 luôn 203042.html, (20/05/2019)

https://dantri.com.vn/chuyen-la/da-dot-

Đã đột nhập ăn trộm còn đánh nhap-an-trom-con-danh-chen-no-say-

122 chén no say 20150731094325083.htm, (31/7/2015)

https://thanhnien.vn/doi-song/am-thuc/lan-

Lần đầu “đánh chén” bánh canh dau-danh-chen-banh-canh-trang-bang-

123 Trảng Bàng 646469.html, (15/12/2015)

“Chúng ta đánh chén cái đất nước

này đến mức nó không thể lớn

được. Quá nhiều thủ tục, thủ tục https://dantri.com.vn/kinh-doanh/co-thu-

gắn với lợi ích, có thủ tục là có làm tuc-la-co-lam-kho-co-danh-chen-

124 khó, là có đánh chén” 20170920081812544.htm, (20/9/2017)

https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/co-thu-

Còn quá nhiều thủ tục làm khó, tuc-la-co-lam-kho-co-danh-chen-

125 'đánh chén' doanh nghiệp 399528.html, (19/9/2017)

https://vnexpress.net/the-thao/ronaldo-

Ronaldo, Benzema no phưỡn bụng benzema-no-phuon-bung-sau-khi-danh-

126 sau khi 'đánh chén' APOEL chen-apoel-3674675.html, (23/11/2017)

https://thanhnien.vn/the-gioi/ca-sau-dop-

Cá sấu đớp tay người huấn luyện tay-nguoi-huan-luyen-trong-luc-dien-xiec-

127 trong lúc diễn xiếc ở Thái Lan. o-thai-lan-988560.html, (31/7/2018)

https://thanhnien.vn/luom-lat/nghich-dai-

128 Nghịch dại, bị gấu đớp bi-gau-dop-320162.html, (15/4/2009)

https://dantri.com.vn/giai-tri/khi-sao-dop-

129 Khi sao... "đớp" nhạc nhac-1166076589.htm, (13/12/2006)

107

Nhạc sĩ chuyển bài tới, hát giùm

để ca sĩ "đớp" theo, cuối cùng nhờ

người hòa âm nữa là đưa lên sân http://giadinh.net.vn/giai-tri/mu-nhac-

130 khấu cung-thanh-sao-761.htm, (13/12/2006)

Truyền hình mang tiếng liveshow https://www.tienphong.vn/van-nghe/quoc-

lên sân khấu toàn hát đớp, play trung-hong-nhung-khong-phai-typ-nguoi-

131 back.. toi-thich-84501.tpo, (18/5/2007)

(https://kenh14.vn/loat-dau-hieu-cho-biet-

Loạt dấu hiệu cho biết đối tượng doi-tuong-cua-ban-da-dop-thinh-roi-

132 của bạn đã "đớp thính" rồi! 20170505003608209.chn, (05/05/2017).

Mách anh em cách “đớp” thính (https://ohman.vn/mach-anh-em-cach-dop-

“chuẩn nhất” để nhanh chóng thoát thinh-chuan-nhat-de-nhanh-chong-thoat-e-

133 ế 1653.html, (14/12/2017).

https://kenh14.vn/tron-bo-bi-kip-tha-thinh-

Trọn bộ bí kíp "thả thính", cứ thả cu-tha-la-co-ca-dop-ngay-va-luon-

134 là có cá "đớp" ngay và luôn! 20170410155022796.chn, (11/4/2017)

Nghe đồn, những doanh nghiệp

làm nhôm cũng muốn “đớp” lấy cơ https://coffanhom.com/thi-truong-cop-

hội mà hầu hết các công ty rót vốn pha-nhom-viet-nam.html), (15/10/2019)

135 vào Việt Nam trông thấy

Chúng luôn tồn tại, và sẵn sàng

đớp lấy cơ hội để bùng phát, dù chỉ

là một đầu tàn thuốc được một ai

đó vô tình quăng xuống đất, gặp cơ https://pcccthaibinh.com.vn/huong-dan-

hội cũng có thể bùng lên thành phat-tin-hieu-bao-dong-khi-co-su-co-

136 những đám cháy dữ dội. chay/).

108

https://thanhnien.vn/video/the-thao/voi-

Với Pep, giờ là lúc để...nhậu mừng pep-gio-la-luc-denhau-mung-chien-thang-

137 chiến thắng 134054.html, (21/5/2019)

https://thanhnien.vn/thoi-su/do-nong-do-

Đo nồng độ cồn "phố nhậu" Thăng con-pho-nhau-thang-long-bi-giu-bang-

Long: Bị giữ bằng vẫn lái xe đi van-lai-xe-di-nhau-1190249.html,

138 nhậu (3/3/2020)

Công an TP.Đà Nẵng lập biên bản

để xử phạt 2 người là admin 2 https://thanhnien.vn/thoi-su/phat-cac-

trang Facebook chuyên “chỉ điểm” admin-facebook-chuyen-chi-diem-giup-

giúp dân nhậu vượt trạm kiểm tra dan-nhau-ne-csgt-1185948.html,

139 nồng độ cồn (22/2/2020)

https://thanhnien.vn/thoi-su/dong-nghiep-

"Bợm nhậu" bị tuyên mức án 20 tho-xay-chet-oan-vi-bom-nhau-hung-

140 năm tù về tội giết người. hang-1054194.html, (22/2/2019)

https://thanhnien.vn/video/thoi-su/an-

Ăn nhậu tưng bừng ở trận địa pháo nhau-tung-bung-o-tran-dia-phao-co-di-

141 cổ di tích quốc gia tich-quoc-gia-108273.html, (5/5/2018)

https://thanhnien.vn/du-lich/bien-vung-

Biển Vũng Tàu 'chật cứng người', tau-chat-cung-nguoi-kien-quyet-noi-

kiên quyết nói không với việc ăn khong-voi-viec-an-nhau-tren-bai-bien-

142 nhậu trên bãi biển 1076867.html, (30/4/2019)

“Chuyện vợ chồng người ta không https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-

ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô cuu/thoi_an_nep_o_nguoi_viet_qua_cach

143 đâm ra mất lòng" _noi.html, (6.10.2009)

Trong ngày Tết, thức ăn sau khi https://www.baogiaothong.vn/ngay-tet-

144 cúng, nhiều gia đình hay ưu tiên can-chu-y-nhung-dieu-nay-de-tre-khong-

109

cho người già, trẻ em gọi là "thụ phai-nhap-vien-d449136.html, (23/1/2020)

lộc

Cách làm bánh đoá lan thơm nức, https://www.myphamchonam.com/cong-

xốp mịn ai tợp cũng khen ngon nghe/cach-lam-banh-doa-lan-thom-nuc-

145 lành xop-min-ai-top-cung-khen-ngon-lanh.html

https://giaoducthoidai.vn/nhin-vao-dien-

Có lần anh ta về ăn thì lùa vội nay-biet-ngay-vo-chong-khong-con-yeu-

146 vàng cho xong rồi đứng lên nhau-nua-3816617.html, (26/8/2019)

Họ “xực” vào cả những đồng tiền

xương máu của người có công và

không từ cả hài cốt của người đã https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-

147 chết tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)

110