VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép
của ai. Các kết quả khảo sát và nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Khương Thị Lan Phương
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, đã tận
tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ học,
Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu tại trường.
Hà nội, ngày 13 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Khương Thị Lan Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................ 11
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan ................................................... 11
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa............................................................ 14
1.3. Sự phát triển nghĩa của từ .................................................................................. 20
1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ ....................................................................... 22
1.5. Từ đa nghĩa……………………………………………………………….24
Chương 2. NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA
NÓ TRONG TIẾNG VIỆT…………………………………………………...26
2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt ............................................................ 29
2.2. Khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt ................................................ 33
Chương 3. NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA NHÓM TỪ
ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT .................................... 59
3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt ........................................... 59
3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt……...60
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 75
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN……………………………………………………………..79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan niệm của người Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội,
và cuộc sống sinh hoạt luôn gắn liền với bữa cơm gia đình – nơi ẩn chứa
nhiều đạo lý, thể hiện tình cảm, yêu thương gắn kết giữa các thành viên, là
linh hồn của hạnh phúc, và cũng là nơi truyền đạt những tư tưởng, truyền
thống, những đạo lý từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ những phép cư xử
tưởng chừng đơn giản thông qua cách ăn uống: Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng đến quan niệm về cái ăn, cái mặc: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp… ông bà ta muốn trao gửi đến thế
hệ con cháu những thông điệp đầy chất nhân văn, một trong những điều
đầu tiên, cơ bản nhất mà mỗi người đều cần phải học đó là “Học ăn, học
nói, học gói, học mở”. Như vậy, “ăn” không còn đơn giản chỉ là câu
chuyện của việc duy trì sự sống, mà còn ẩn chứa trong đó những bài học về
nhân cách, là quan niệm về nhân sinh, về cuộc sống và các đạo lý, các cách
hành xử trong xã hội của con người.
Có thể nói hoạt động ăn của con người không chỉ là hoạt động mang
tính sinh học để duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với mỗi
cộng đồng với những thói quen, tập tục. Thông qua thói quen ăn uống,
chúng ta có thể hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý dân tộc, tập quán cũng
như cách ứng xử của con người với môi trường. Bởi vậy, cùng với sự thay
đổi và phát triển không ngừng của xã hội, thì vốn từ vựng trong tiếng Việt
nói chung và vốn từ vựng liên quan đến từ “ăn” nói riêng cũng không
ngừng tăng lên, hoạt động “ăn” của con người dần vượt lên những giá trị
duy trì sự sống, vươn tới tầm nghệ thuật. Điều đó được phản ánh khá sinh
động trong ngôn ngữ.
1
Với những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài : Nhóm từ, ngữ nói về
“ăn” trong tiếng Việt. Với mong muốn thông qua sự nỗ lực tìm hiểu,
nghiên cứu sự phát triển của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cùng với quá trình
phát triển của dân tộc, cũng như sự phát triển của nhóm từ này trong các
mặt khác nhau của cuộc sống dưới góc độ ngôn ngữ học. Thông qua đó có
thể góp một phần nhỏ vào nghiên cứu sự phát triển của từ vựng tiếng Việt
nói chung, và của nhóm từ liên quan đến từ “ăn” nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa
của từ ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng
Việt, là một trong những lĩnh vực được khá nhiều nhà ngôn ngữ học quan
tâm nghiên cứu. Bởi từ vựng là một bộ phận được coi là không ổn định
nhất trong hệ thống ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động và
phát triển, sự biến đổi nghĩa là một sự thực hiển nhiên và không ngừng
thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học, được thể hiện
trong một số công trình nghiên cứu về từ vựng học, từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn Văn Tu, trong cuốn “Từ vựng học
tiếng Việt hiện đại” [40] đã đưa ra được nhiều quan điểm lý thuyết về sự
biến đổi nghĩa. Ông đã trình bày về bản chất và nguyên nhân của biến đổi
nghĩa, phân loại biến đổi nghĩa. Còn tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng sự thay
đổi nghĩa của từ trong tiếng Việt do nguyên nhân đơn giản là nhằm đáp
ứng nhu cầu tạo thêm từ mới của xã hội.[4]
Bên cạnh đó, một số tác giả như Lê Quang Thiêm đã dành nhiều sự
quan tâm đến biến đổi ý nghĩa của các yếu tố từ vựng. Trong ấn bản
chuyên khảo về lịch sử từ vựng (2003), tác giả đã dành một số trang để
2
khảo sát, nghiên cứu sự phát triển nghĩa qua con đường đa nghĩa hóa trong
tiếng Việt hiện đại (1858-1930). Đặc biệt, trong cuốn “Sự phát triển nghĩa
từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005” [35]. Đây là công trình Việt ngữ học
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc nhất về sự phát triển
nghĩa của từ vựng tiếng Việt trên quan điểm đồng đại, vận dụng phương
pháp lịch sử so sánh, phân tích cấu trúc – hệ thống… Trên cơ sở đó có thể
xác lập được các tầng nghĩa, kiểu nghĩa để từ đó tìm hiểu sự biến đổi, phát
triển nghĩa từ vựng qua các mốc thời gian gắn liền với các sự kiện lịch sử
và những thăng trầm của đất nước.
Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy” [38] đã trình bày về đặc điểm của quá trình chuyển
nghĩa của trường từ vựng chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người (so
sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga). Tác giả đã phân tích và thống kê lượng
nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra những nhận định
về quá trình chuyển nghĩa của các trường từ vựng này.
Tác giả Phạm Văn Lam (2007) trong “Bước đầu khảo sát sự phát
triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến
nay” [22] đã khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng
danh từ thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn từ
năm 1945 đến nay. Nghiên cứu cho thấy, sự mở rộng và phát triển nghĩa
của các nhóm từ gắn liền với sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch
sử của dân tộc qua quãng thời gian có nhiều biến động và phát triển quan
trọng. Trên cơ sở khảo sát sự phát triển nghĩa theo hướng trí tuệ hóa và
biểu trưng hóa, từ đó tác giả chỉ ra các xu hướng, con đường phát triển
nghĩa của tiếng Việt, phân tích và lý giải các con đường phát triển ấy.
Theo hướng nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận, Lý Toàn Thắng trong “Ngôn ngữ học tri nhận nhìn
3
từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” [31] đã áp dụng những khái
niệm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, đưa ra
những luận giải và các kết luận rất có giá trị đối với sự phát triển ngữ nghĩa
của từ trong tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong bài viết “Ngữ
nghĩa của từ “Ra”, “Vào” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nghiệm
thân”[17] đã dùng lí thuyết nghiệm thân để lí giải con đường chuyển nghĩa
của từ “ra”, “vào” trong tiếng Việt.
Hay tác giả Nguyễn Thị Hiền (2018) trong “Sự phát triển ngữ nghĩa
của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận”
[15] đã dùng cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận để làm rõ hiện tượng
phát triển ngữ nghĩa. Đặc biệt là thông qua hai phương thức chuyển nghĩa
ẩn dụ và hoán dụ. Tác giả đã nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa của từ
dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận để từ đó tìm ra các giá trị văn hóa và tư
duy đặc thù của dân tộc thông qua việc sử dụng ngôn ngữ.
Thông qua các công trình của một số tác giả trên cho thấy, việc
nghiên cứu sự phát triển nghĩa trong tiếng Việt nói chung, trong thời gian
gần đây đã dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt
là các công trình nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận với những cấu trúc ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ, đa dạng
về nghĩa cũng như cách sử dụng, đã tạo nên những nét mới trong nghiên
cứu sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng Việt.
2.2. Tình hình nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ
nói về “ăn” trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, việc nghiên cứu về nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, khởi
điểm là Hoàng Tuệ trong bài viết “Câu chuyện tiếp tục về nghĩa của những
từ đơn tiết” [43]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tính đa nghĩa của
4
từ “ăn”, đồng thời chỉ ra gần 40 nghĩa của từ này. Trên cơ sở từ nghĩa gốc
của từ “ăn” đã làm nảy sinh bốn dòng nghĩa phái sinh như sau:
1. Dòng nghĩa tiếp thụ
2. Dòng nghĩa hưởng thụ
3. Dòng nghĩa hài hòa
4. Dòng nghĩa tiêu hao
Từ đó, tác giả đã đưa ra một số nhận xét hết sức thú vị và độc đáo về
sự phát triển nghĩa từ “ăn” trong văn hóa và trong đời sống của người Việt.
Theo tác giả, mỗi dòng nghĩa là một trật tự biện chứng đi từ cụ thể đến khái
quát. Các dòng nghĩa cũng tập hợp lại thành một trật tự cân đối và đẹp đẽ,
đầy sức sống.
Tiếp theo là đề tài nhiên cứu “Một số vấn đề văn hóa ăn, uống trong
xã hội cổ truyền người Việt” [20] do Nguyễn Hải Kế (2004) chủ trì đề tài.
Tác giả cho rằng: từ “ăn” trong tiếng Việt đã mở rộng, phát triển nghĩa bao
hàm nghĩa bóng sang tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…
Qua từ “ăn” có thể nhìn thấy những nét cơ bản, phổ biến của xã hội Việt
Nam ngày hôm qua.
Cùng quan tâm đến vấn đề cái “ăn” trong văn hóa Việt, tác giả Vũ
Ngọc Khánh trong cuốn sách “Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi” [21]
khi viết về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã dành một chương để nói về đề tài
này. Theo tác giả, trong ngôn ngữ Việt Nam, không có từ nào như từ “ăn”
được ghép thành vô số những từ tố thông dụng trong tiếng nói con người.
Có những từ phải suy nghĩ, phân tích mới thấy là ghép với từ “ăn” cũng là
thích hợp. Nhưng có những từ không dính dáng gì đến chuyện “ăn”, mà
vẫn phải dùng chữ ăn để làm thành phần của từ tố, từ vị. Chuyện ăn của
người Việt quả là một bài học vô cùng đa dạng và tinh tế.
5
Nguyễn Đức Dân trong bài viết “Ăn, một từ kỳ thú” [7] đã khẳng
định từ “ăn” có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc bởi nó là một từ chỉ hoạt
động cơ bản nhất của con người. “Ăn” là hành động gắn liền với con người
ngay từ buổi sơ khai, nghĩa của từ “ăn” được mở rộng dần theo cách lấy
khuôn mẫu con người để nhận thức vũ trụ. Và nó là một từ điển hình có
nghĩa được mở rộng, con đường phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” vô cùng
phong phú. “Ăn” từ nghĩa đen đến nghĩa ẩn dụ, rồi các nghĩa chuyển, nghĩa
phái sinh là thiên biến vạn hóa, nó diễn tả mọi nhận thức của con người về
cuộc sống quanh mình và về vũ trụ một cách rất chân thực nhưng cũng vô
cùng tinh tế.
Cùng trong mạch luận bàn về cái ăn, về ẩm thực, luận án “Đặc điểm
trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt) của Ngô
Minh Nguyệt [23] là công trình chuyên sâu nghiên cứu về các từ ngữ ẩm
thực ở Việt Nam. Tác giả tập trung nghiên cứu các từ, ngữ liên quan đến ăn
uống, chỉ ra đặc điểm cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa, từ đó nêu ra những
hàm ý văn hóa của các từ ngữ ẩm thực: Đặc điểm con người, đặc trưng văn
hóa ẩm thực trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cùng với sự
phát triển của xã hội, ăn uống dần vượt lên giá trị duy trì sự sống, điều này
được phản ánh sinh động trong ngôn ngữ.
Có thể nói trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đều
cho rằng con đường phát triển nghĩa của từ “ăn” là vô cùng phong phú, nó
gắn liền với đặc trưng tư duy và văn hóa dân tộc.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ
“ăn” trong tiếng Việt kể trên, thì việc nghiên cứu các thành ngữ có chứa
thành tố “ăn” trong tiếng Việt cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của
một số tác giả. Trong đó tác giả Nguyễn Hữu Đạt (2010) với bài viết “Con
đường tạo nghĩa của các thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa
6
mặc’ trong tiếng Việt” [8] đã đi sâu vào phân tích quá trình tạo nên nghĩa
biểu trưng liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm “văn hóa ăn và văn
hóa mặc” của người Việt, trên cơ sở đó để tìm ra mối quan hệ gắn bó khăng
khít giữa “văn hóa ăn và văn hóa mặc” trong tiếng Việt. Đây được xem là
một trong các cơ sở hình thành nên nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt
Nam.
Tác giả Đào Thị Hồng Quyết trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm của
thành ngữ có chứa thành tố “Ăn” trong tiếng Việt” [29] cũng nghiên cứu
trên khối liệu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt, làm rõ đặc
điểm ngữ nghĩa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt, trong đó, tư
duy về văn hóa ăn được thể hiện qua thành ngữ như tính cộng đồng trong
bữa ăn, tính phép tắc xã hội, miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống của
người dân Việt Nam.
Tiếp cận theo hướng tri nhận, Nguyễn Thị Bích Hợp trong “Ẩn dụ ý niệm
miền “đồ ăn” trong tiếng Việt” [17] đã nghiên cứu về miền ý niệm đồ ăn, với việc
xây dựng mô hình cấu trúc miền đồ ăn gồm 5 nhóm lớn, tương ứng với 5 điển mẫu.
Thông qua việc nghiên cứu các điển mẫu với 5 mô hình tỏa tia “cơm, ăn, mặn, bát,
đói”, tác giả đã chứng minh rằng “ăn” là ý niệm có sự phát triển nghĩa mạnh nhất,
từ một nghĩa gốc phái sinh 04 chùm nghĩa, rồi phát triển lên tổng số thành tố là 16
nghĩa. Các thành tố nghĩa mới có sự biến chuyển xa dần nghĩa trung tâm. Thông
qua mô hình tỏa tia, cho thấy xu hướng tư duy ẩn dụ, hoán dụ trong quá trình ý
niệm hóa tạo nên các nghĩa mới. Nguyễn Thị Hương (2017) với đề tài “Ẩn dụ ý
niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [18] đã
nghiên cứu sự chuyển nghĩa, tỏa tia nghĩa của những điển mẫu là những từ chỉ
phạm trù ăn, uống, từ nghĩa gốc, nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai
ngôn ngữ.
7
Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, cho chúng ta thấy,
việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, ngữ nói về “ăn” tiếng Việt là tương
đối phong phú. Tuy nhiên, việc đi sâu lí giải cơ chế hình thành những nghĩa đó,
cũng như tìm hiểu các từ đồng nghĩa trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong Tiếng
Việt, chưa dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới Việt ngữ. Điều đó đã
gợi ý cho tôi thực hiện đề tài “Nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là tìm hiểu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ,
ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định
khuynh hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt.
Thông qua đó, để hiểu rõ hơn về quan niệm sống, nhân sinh quan của người Việt về
văn hóa ăn, mà sâu sắc hơn là cách nhìn nhận, đánh giá con người được thể hiện
qua hoạt động “ăn”.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
- Xây dựng khung lý thuyết về ngữ nghĩa của từ và hiện tượng
chuyển nghĩa của từ.
- Khảo sát sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” được thể hiện
trong ngữ cảnh, qua các kết hợp, thông qua đó, để có thể thấy được sự phát triển
ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
8
Trong phạm vi của luận văn này đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là
nghiên cứu các nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Trên cơ sở đó nghiên
cứu ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ, xuất phát từ nghĩa gốc của từ “ăn” trong
từ điển.
- Luận văn xác định những từ, ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động “ăn” trong
tiếng Việt và các kết hợp của nhóm từ này trong ngữ cảnh sử dụng, cũng như giá trị
ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh.
- Luận văn xác định các nghĩa chuyển của từ “ăn” trong tiếng Việt theo
hướng xa dần với nghĩa gốc và hoạt động của nhóm này trong hành chức cũng như
ý nghĩa ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh (khảo sát ngôn ngữ báo chí, trong văn
chương và trong các thành ngữ).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát ngữ nghĩa của từ “ăn” và dãy đồng nghĩa của từ “ăn”
trong Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê [25], Từ điển đồng nghĩa tiếng Việt
của tác giả Nguyễn Văn Tu [42]. Để xem xét các kết hợp của “ăn” trong hành chức,
luận văn khảo sát hoạt động của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” (bao gồm cả các từ đồng
nghĩa với từ “ăn”) trên ngôn ngữ báo chí (báo điện tử), trong một số tác phẩm văn
học và trong thành ngữ.
4.3. Tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các cuốn Từ
điển tiếng Việt, Từ điển thành ngữ Việt Nam, một số tác phẩm văn học. Bên cạnh
đó luận văn còn khai thác tư liệu từ các trang Wed về thành ngữ tiếng Việt, một số
bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự phát triển ngữ
nghĩa của từ “ăn” đã xuất bản. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa chủ yếu
trên các trang báo điện tử như: báo Thanh niên ( https://thanhnien.vn/), báo Tuổi trẻ
(https://tuoitre.vn/), báo Dân trí (https://dantri.com.vn/)…), báo Vietnamnet
9
https://vietnamnet.vn/ và một số trang báo điện tử khác được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số phương
pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm xác định
các nội hàm các khái niệm từ, nghĩa của từ, và các từ đồng nghĩa.
- Phương pháp phân tích nghĩa nghĩa: Phương pháp này được sử dụng để
phân tích nghĩa của từ để tìm ra nghĩa gốc, nghĩa phái sinh của từ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lí luận: Việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ
nói về “ăn” trong tiếng Việt góp phần khẳng định khuynh hướng phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ “ăn” trong giai đoạn thực tế hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể ứng dụng trong
giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ và bản ngữ, cung cấp cơ sở giải thích nghĩa
của từ “ăn” trong giảng dạy tiếng Việt, đặc biệt cho người nước ngoài học tiếng
Việt; thông qua đó, góp phần làm rõ mối liên hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, và Phụ lục, nội dung luận văn gồm có ba
chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết.
Chương 2. Ngữ nghĩa của từ “ăn” và khả năng kết hợp của nó trong tiếng
Việt
Chương 3. Ngữ nghĩa và khả năng kết hợp của nhóm từ đồng nghĩa với từ
“ăn” trong tiếng Việt
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm từ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu
bất cứ một ngôn ngữ nào người ta cũng không thể bỏ qua việc xác định đơn vị này.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về từ, bởi ở mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau,
từ cũng có những đặc điểm riêng của mình. Vấn đề “từ” trong tiếng Việt cũng vậy,
nó là vấn đề thuộc về lý luận cơ bản, vì toàn bộ hệ thống miêu tả ngôn ngữ phụ
thuộc vào nó. Từ không chỉ là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ nói chung. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Cho
đến nay, chưa có một định nghĩa nào lý tưởng về từ có thể áp dụng cho mọi ngôn
ngữ, bởi mỗi ngôn ngữ có những nét riêng biệt.
Theo định nghĩa của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, định nghĩa phổ biến hiện
nay được nhiều nhà ngôn ngữ học cho là phù hợp về từ là: “Từ là đơn vị nhỏ nhất
của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [12, tr.61]
Đối với tiếng Việt, những tiếng như: hai, ba, ăn, ngủ, tôi nhà, tốt, đẹp,… và,
tuy, nhưng…. đều được mọi người nhất trí coi là từ. Từ là đơn vị cơ bản của tiếng
Việt và là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất:
- Chức năng cơ bản của từ là chức năng định đanh, nhưng trong dãy ngữ đoạn,
từ còn mang chức năng “phân biệt nghĩa” bộc lộ ý nghĩa này hay ý nghĩ khác của
những từ nhiều nghĩa.
- Từ tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Chính đặc điểm
này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trên giao điểm của
hai trục tọa độ cơ bản trong tổ chức cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối vị (trục dọc) và
trục nối tiếp (trục ngang).
11
- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng lẫn
nhân tố ngữ pháp.
So với từ của các ngôn ngữ Ấn Âu thì từ của tiếng Việt có những đặc
điểm sau:
- Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Ví dụ: ăn là một từ có
nghĩa, nhưng nếu phân tích ra thành /ă/ /n/ thì đó chỉ là những âm hoàn
toàn không có nghĩa.
- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm (ví dụ: trời và giời, trăng và
giăng…), biến thể từ vựng - ngữ nghĩa (ví dụ: Các ý nghĩa khác nhau của
từ ăn: ăn giải, xe ăn xăng, ăn ảnh, ăn nằm…) nhưng không có biến thể
hình thái học.
- Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở
trong từ tiếng Việt.
Từ những đặc điểm trên của tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp
đã rút ra định nghĩa về từ của tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng Việt là một
chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một
âm tiết, một khối viết liền” [13, tr.77]
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một
số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa
nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [4, tr.16].
Trong đó, các thành phần bên trong từ (thành phần ngữ âm, thành phần ngữ
pháp, thành phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa) không độc lập với nhau mà
quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau thành một tập thể gọi là từ. Và các
thành phần ấy có tính đồng loạt chứ không phải chỉ có tính riêng biệt.
12
Chính nhờ tính đồng loạt của các thành phần mà khi gặp một hình
thức ngữ âm nào đó, chúng ta mới có thể quyết định nó là từ nào và sử
dụng nó theo cách nào.
Ví dụ: Khi gặp hình thức ngữ âm “sơn”, dựa vào thành phần ngữ
pháp và ý nghĩa chung với các từ tô, bôi, nhuộm…mà chúng ta quyết định
và sử dụng nó như một động từ.
Theo chúng tôi, mỗi khái niệm đều đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của từ tiếng Việt. Ví dụ như đơn vị cấu tạo từ, đặc điểm của từ… Tuy
nhiên để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi lựa chọn khái
niệm về “từ” theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu.
1.1.2. Khái niệm ngữ
Trong quá trình phát triển của dân tộc, một trong những thành tựu
quan trọng nhất là sự mở rộng không ngừng những tư tưởng, những khái
niệm mà con người có thể truyền đạt được. Con người cần thông báo cho
nhau không chỉ cảm xúc, tri thức…mà còn có vô hạn các sự kiện trong đời
sống. Hệ thống các từ trong tiếng Việt không đủ để biểu thị một số lượng
lớn như thế các khái niệm, hiện tượng khác nhau. Từ đó phát sinh nhu cầu
tất yếu là phải cấu tạo thêm những đơn vị từ vựng mới trên cơ sở những từ
đã có sẵn. Những đơn vị như thế được gọi là ngữ, có giá trị tương đương
với từ.
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [13, tr. 537]: “Ngữ là những cụm từ
sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm
giống với từ”:
- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ.
- Về mặt cú pháp, chúng cũng có thể làm thành phần câu, tức là có
tính độc lập về cú pháp.
13
- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực
tế khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.
Tính cố định và tính thành ngữ là hai đặc trưng cơ bản của ngữ.
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa
1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người. Xét về mặt lý thuyết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Mỗi tín
hiệu là một tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà
thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ chính là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu
hiện là khái niệm (ý nghĩa) hay đối tượng được biểu thị. Hai mặt này luôn gắn kết
với nhau, không tách rời nhau, giống như “hai mặt của một tờ giấy vậy”. Nghĩa của
từ cùng với hình thức ngữ âm được hình thành và ổn định dần dần trong lịch sử
phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
“Nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn ngữ
học. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này.
Một số người cho rằng, nghĩa của từ là sự vật hay hiện tượng do từ biểu thị.
Chẳng hạn, theo quan niệm này, nghĩa của từ cây là bản thân cái cây trong thực tế,
nghĩa của các từ ăn, nói …từ tốt, xấu… là bản thân hành động, tính chất tương ứng.
Trên thực tế, vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên
nghĩa của từ cũng là một hiện tượng phức tạp. Ở Việt Nam, vận dụng những thành
tựu nghiên cứu về nghĩa vào thực tế tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa
ra quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ như sau:
Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp sau khi đã
trình bày các quan niệm khác nhau về nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới,
đã đưa ra nhận định của mình về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là một đối
tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản như sau:“nghĩa sở chỉ”, “nghĩa
sở biểu”, “nghĩa sở dụng”, “nghĩa cấu trúc” [11, tr.126].
14
Theo tác giả Hoàng Phê, nghĩa của từ là “Một tập hợp những nét nghĩa có
quan hệ quy định lẫn nhau. Mỗi nghĩa của từ là một tổ hợp đặc biệt những thành tố
ngữ nghĩa, gọi là các nét nghĩa”; “Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa
là cái chung cho những từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái riêng trong ý nghĩa
thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được những cái tinh tế trong từ và mới hiểu
được những đặc sắc của từng ngôn ngữ ở những phương diện nội dung”. [26]
Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy, cấu trúc của nghĩa từ là một cấu trúc
động, trong quá trình đi vào hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa của từ có
khả năng hiện thực hóa. Khả năng hiện thực hóa ấy là tùy thuộc vào từng ngữ cảnh
mà chúng xuất hiện.
Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt [4, tr.103], ông cho rằng: Nghĩa của từ là có thể chia thành hai lớp nghĩa
là lớp nghĩa cấu trúc hóa và lớp nghĩa liên hội. Trong lớp nghĩa cấu trúc bao gồm ý
nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Nếu ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho
hàng loạt các từ (ý nghĩa hoạt động của các từ: ăn, uống, ngủ, cười, khóc…ý nghĩa
sự vật của các từ: nhà, cây, sách, bút…) thì ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của
từng từ. Ý nghĩa từ vựng tùy theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý
nghĩa của từ bao gồm các thành phần ý nghĩa sau đây: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa
biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ý nghĩa biểu vật của từ là sự phản ánh sự vật, hiện tượng…trong thực tế
khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở nguồn gốc của ý nghĩa
biểu vật. Nó mang tính võ đoán, quy ước của xã hội, đó là những mẩu, những mảnh
trong những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế, có tính
khái quát nên không gắn với hoạt động, tính chất cụ thể của sự vật.
15
Ý nghĩa biểu niệm của từ là thành phần cơ bản của ý nghĩa từ vựng. Sự vật,
hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào ngôn ngữ thành ý nghĩa
biểu vật và từ có ý nghĩa biểu vật thì sẽ có ý nghĩa biểu niệm tương ứng. Ý nghĩa
biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng được sắp xếp theo
một tổ chức, một trật tự nhất định. Các từ thuộc các từ loại khác nhau, có cách tổ
chức các nét nghĩa khác nhau. Còn các ý nghĩa biểu niệm của những từ trong một
từ loại lại có tổ chức giống nhau. Giữa các nét nghĩa của chúng lại có quan hệ với
nhau. Ví dụ, các nét nghĩa “đồ dùng” là dùng chung cho các từ bàn, ghế, giường,
tủ… nhưng trong mỗi từ này lại có những nét nghĩa riêng biệt.
Ý nghĩa biểu thái của từ là những nhân tố đánh giá, biểu thị cảm xúc và thái
độ mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Đây thực tế là sự phản ánh mối quan
hệ giữa từ và người sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: Từ “ôm” trong câu “Bà mẹ ôm con
vào lòng” trung hòa về mặt biểu thái. Nhưng câu nói “Cả ngày chỉ ôm lấy cái điện
thoại” thì từ “ôm” ở đây đã thể hiện thái độ chê trách. Ba thành phần ý nghĩa trên
phản ánh việc xem xét, nhìn nhận từ ở các góc độ khác nhau. Vì từ là một thể thống
nhất, sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của từ phải là sự hiểu biết thấu đáo từng mặt
một nhưng cũng phải là sự hiểu biết tổng quát về những mối liên hệ quy định lẫn
nhau giữa chúng.
1.2.2. Hiện tượng đồng nghĩa
Hiện tượng đồng nghĩa là một vấn đề khá thú vị trong ngôn ngữ học. Theo
Đại từ điển Bách Khoa Xô Viết, tập 23 [114], thuật ngữ chỉ hiện tượng đồng nghĩa
thuật ngữ tiếng Anh là Synonymy có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Synònymia có
nghĩa là “cùng tên” chỉ quan hệ giữa hai biểu thức đẳng nghĩa nhưng không đồng
nhất. Tính chất đẳng nghĩa ở đây được hiểu là tính tương ứng, hoặc là với cùng một
biểu vật (sự kiện, khách thể….), hoặc là cùng một biểu niệm (cái được biểu hiện
thuộc tính ngôn ngữ). [dẫn theo 39, tr.66].
16
1.2.2.1. Phân biệt hiện tượng đồng nghĩa, đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ
đồng nghĩa
a. Hiện tượng đồng nghĩa
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, đồng nghĩa là một trong những khái niệm có
tính chất nền tảng nhất của ngôn ngữ học. Như chúng ta đã biết, trong ngôn ngữ
học, chủ yếu các nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu hiện tượng đồng nghĩa biểu niệm.
Các biểu thức A và B được gọi là đồng nghĩa nếu cái biểu hiện của chúng không
như nhau. Nghĩa là: hình thức (A) ≠ hình thức (B), còn cái được biểu hiện của
chúng là như nhau. Nghĩa là: Nội dung (A) = (B). Người ta thường nói đến hiện
tượng đồng nghĩa khi cái được biểu hiện tương ứng là khá gần gũi với các khái
niệm từ đồng nghĩa hay từ gần nghĩa. Theo Nguyễn Đức Tồn, hiện tượng đồng
nghĩa có nội dung rất rộng, nó có thể xảy ra giữa các hình vị (ví dụ: vô- phi- bất),
đơn vị từ vựng đồng nghĩa (ví dụ: chết, tử, ngoẻo, toi), các kết hợp cú pháp (ví dụ:
Hương cao hơn Nam- Nam không cao bằng Hương).
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng hiện tượng đồng nghĩa có mặt trong hệ thống
ngôn ngữ - những hiện tượng đồng nghĩa từ vựng và trong các văn bản - những
hiện tượng đồng nghĩa lời nói. Ở cả hai khu vực trên có thể có những từ và ngữ cố
định đồng nghĩa, có những cụm từ và cụm từ (tự do) đồng nghĩa và cả những câu
đồng nghĩa. [4, tr.192]
b. Đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa
Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn, các đơn vị từ vựng đồng nghĩa gồm
các từ và các ngữ cố định có chức năng tương đương với từ như: hoa hồng, sân
bay, quần áo, ông bà, chậm như rùa, nghịch như quỷ sứ... Do đó, hiện tượng đồng
nghĩa có thể xảy ra giữa các từ. Ví dụ: nhìn - nhòm - dòm - ngó, mẹ - má- bầm- u,
xô- đẩy- ẩy, …hoặc giữa các ngữ cố định. Ví dụ: Được voi đòi tiên - Được đằng
chân lân đằng đầu; Đói cho sạch, rách cho thơm - Giấy rách giữ lấy lề...
17
Ngoài ra, hiện tượng đồng nghĩa còn xảy ra giữa một từ và một ngữ cố định:
xấu- xấu như ma, đen- đen như củ súng,…
Từ đó, ta có thể thấy rằng từ đồng nghĩa là trường hợp riêng quan trọng nhất
nằm trong cái được gọi là đơn vị từ vựng đồng nghĩa phân việt với đơn vị ngữ pháp
đồng nghĩa và tất cả đều nằm trong hiện tượng đồng nghĩa của ngôn ngữ. [39, tr.70]
1.2.2.2. Quan niệm về từ đồng nghĩa
Cho đến nay, trong lịch sử ngôn ngữ học có rất nhiều các quan niệm khác
nhau về từ đồng nghĩa. Sự bất đồng trước tiên trong khi giải quyết các vấn đề từ
đồng nghĩa là do kết cấu ngữ nghĩa đa dạng, phức tạp của từ gây nên. Mỗi từ không
phải bao giờ cũng chỉ có một nghĩa. Nhiều trường hợp một từ có nhiều nghĩa khác
nhau. Hiện tượng đa nghĩa này dẫn đến các quan niệm khác nhau về từ đồng nghĩa.
Nguyễn Văn Tu trong cuốn “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” đã đưa ra
quan niệm của mình về từ đồng nghĩa như sau: “Từ đồng nghĩa là nhiều từ khác
nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên
khác nhau của một hiện tượng. Những từ đồng nghĩa có một chỗ chung là việc định
danh”. [39, tr. 153]
Đỗ Hữu Châu quan niệm về từ đồng nghĩa: “Hiện tượng đồng nghĩa là hiện
tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ
đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ có chung một nét nghĩa đồng nhất. Số lượng
các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì các từ càng đồng nghĩa với nhau. Mức độ
đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đó có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận
các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác ở một hoặc vài nét nghĩa cụ thể nào đó. [4,
tr.199]
Nguyễn Đức Tồn quan niệm rằng: Từ đồng nghĩa phải dựa trên cả hai
thành phần nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm: Hai đơn vị từ vựng/từ được gọi là
đồng khi chúng có vỏ ngữ âm khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc các biểm niệm
giống nhau:
18
a. Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B’ và đảo lại “B là
A” mà không cần phải chỉnh lý bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào một trong hai
đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/ từ cùng nghĩa.
Nếu như để chúng có thể xuất hiện được trong các kết cấu “A là B” và đảo
ngược lại “B là A” cần có một sự chỉnh lý, thêm nét nghĩa nào đó vào một trong
hai đơn vị thì từ đó là những đơn vị từ vựng/ từ gần nghĩa” [39, tr.97]
Từ định nghĩa trên của tác giả Nguyễn Đức Tồn cho thấy, các từ đồng nghĩa
trước hết phải là những thuộc về cùng một từ loại (có như vậy chúng mới cùng xuất
hiện được trong kết cấu đồng nhất “A là B” và “B là A”). Trong ý nghĩa của chúng
có chứa những yếu tố đồng nhất. Các yếu tố khác nhau của các ý nghĩa này bị trung
hòa hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Một số từ cực kì gần gũi về ý nghĩa được
gọi là những từ cùng nghĩa. Đối với trường hợp đặc biệt của các từ cùng nghĩa là
các từ đồng nghĩa tuyệt đối.
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu
và các nhà ngôn ngữ học đi trước, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã chia các từ đồng
nghĩa ra thành ba tiểu loại như sau:
a. Các từ đồng nghĩa ý niệm
Các từ đồng nghĩa ý niệm là các từ đồng nghĩa trung tính về phong cách và
khác biệt nhau về sắc thái của ý nghĩa cơ bản, chung cho mỗi từ. Chẳng hạn, các từ
đừng - chớ là những từ đồng nghĩa ý niệm, có ý nghĩa chung là đều biểu thị ý
“Khuyên ngăn không nên làm điều gì”. Hoặc từ như: nhiệm vụ - nghĩa vụ - trách
nhiệm, ý đồ - ý định, cơ hội - thời cơ - dịp, địch - giặc - quân thù…
b. Các từ đồng nghĩa phong cách
Các từ đồng nghĩa phong cách là những từ đồng nhất về ý nghĩa của chúng
và khác nhau về màu sắc phong cách.
Chúng ta có thể xác định được một từ nào đó là từ đồng nghĩa phong cách
khi đối chiếu nó với từ trung tính về phong cách tương ứng. Vì vậy, có thể nói trong
19
mỗi cặp từ đồng nghĩa phong cách hoặc trong mỗi dãy đồng nghĩa phong cách chắc
chắn sẽ có từ trung tính về phong cách. Chẳng hạn như các từ đồng nghĩa phong
cách trong nhóm từ nói về “ăn” trong tiếng Việt: Ăn (trung tính), xơi, mời (sang
trọng), hốc, đớp (thông tục)…
Các từ đồng nghĩa phong cách thường không thuần nhất. Có thể tách chúng
thành hai nhóm: Nhóm các từ cổ và nhóm các từ đồng nghĩa phong cách tiếng Việt
hiện đại.
c. Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách
Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ và các đơn vị tương
đồng của chúng biểu thị cùng một khái niệm hoặc cùng một hiện tượng của hiện
thực khách quan và khác nhau không chỉ về màu sắc phong cách mà còn khác nhau
cả về sắc thái của ý nghĩa chung ở mỗi từ. Ví dụ:
- Trinh thám - do thám - thám thính, vẻ vang - quang vinh, hát- ca,…
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, trong ba loại từ đồng nghĩa trên thì hai nhóm
từ đồng nghĩa ý niệm và từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ gần nghĩa.
Còn từ đồng nghĩa phong cách là những từ cùng nghĩa.
1.3. Sự phát triển nghĩa của từ
Trong diễn tiến ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động phát triển,
sự biến đổi nghĩa là sự thực hiển nhiên trong nghĩa ngôn ngữ. Có thể nói phát triển
nghĩa, chính là một quá trình phát triển mở rộng các chức năng (định danh, biểu
đạt…) của từ. Đây chính là sự tăng lên về dung lượng nghĩa có trong một từ, tức là
tăng thêm các biến thể từ vựng- ngữ nghĩa trong một vỏ bọc âm thanh của từ, là sự
tăng lên về các nét nghĩa trong cấu trúc của một biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, các
nét nghĩa trong một biến thể từ vựng cho phép chủ thể ngôn ngữ có thể sử dụng từ
đó để gọi tên, biểu thị những đối tượng mà trước đây chưa được gọi tên, biểu thị.
Điều đó có nghĩa là phạm vi ứng dụng nghĩa của từ đã được mở rộng ra. Phát triển
nghĩa, vì thế, sẽ cho phép mặt được biểu hiện của từ có sự tăng lên về các ý niệm,
20
các phạm trù nhận thức, mà vẫn giữ được nguyên vẹn mặt biểu hiện. Theo tác giả
Phạm Văn Lam cho rằng: Phát triển nghĩa của từ là quá trình phát triển, mở rộng
các chức năng của từ để từ đó có thể trỏ ra, gọi tên, biểu thị những đối tượng mà
trước đây chưa được trỏ ra, gọi tên, biểu thị; sự phát triển, sự phát triển mở rộng
chức năng của từ này phải được đa số các chủ thể sử dụng ngôn ngữ trong cộng
đồng nói năng chấp nhận. Đó chính là sự phát triển, mở rộng về phạm vi ứng dụng
của từ. [22, tr. 9]
Ngữ nghĩa học truyền thống đã phát hiện ra những quá trình phát triển ý
nghĩa cơ bản mà ngữ nghĩa học ngày nay không thể bác bỏ được . Đó là hai khuynh
hướng biến đổi: mở rộng và thu hẹp ý nghĩa (phát triển nghĩa và mất nghĩa), chuyển
đổi tên gọi bằng ẩn dụ và hoán dụ. Theo tác giả Lê Văn Thiêm; Phạm vi rộng hẹp
thể hiện ở số lượng và cả ở tính chất nét nghĩa. Có nét thiên về cái chung, nét nghĩa
phạm trù và nét nghĩa thiên về cụ thể, loại biệt, nét nghĩa khu biệt. [4, tr.311]
Mở rộng ý nghĩa là một quá trình phát triển từ cái riêng đến cái chung, từ cái
cụ thể đến trừu tượng. Ý nghĩa được hình thành nhờ quá trình này gọi là nghĩa mở
rộng. Ví dụ; Tính từ “đẹp”, ban đầu chỉ dùng ở khía cạnh hình thức, nhưng hiện nay
dùng rộng rãi ở cả phạm vi tình cảm, tinh thần, quan hệ. Chẳng hạn: tình cảm đẹp,
tấm lòng đẹp, đẹp lòng, đẹp lời…
Thu hẹp ý nghĩa là quá trình ngược lại. Phạm vi ý nghĩa của các từ phát
triển từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ thể. Ví dụ: Từ
“mùi” là cảm giác do cơ quan khứu giác thu nhận được (nước là hợp chất
không màu, không mùi, không vị), nhưng khi nói “Miếng thịt có mùi rồi” thì
lại có ý nghĩa cụ thể là “mùi hôi”.
Tóm lại, mở rộng và thu hẹp ý nghĩa là quá trình chuyển từ khái niệm về loại
sang khái niệm về chủng (mở rộng) hoặc chuyển từ khái niệm về chủng sang khái
niệm về loại (thu hẹp). Quy luật tạo ra sự phát triển này là dựa vào các mối liên hệ
21
tương đồng và tiếp cận. Thể hiện ở các mối liên hệ đó, theo hình thức ẩn dụ và hoán
dụ. Đây là cơ sở để tạo ra các nghĩa bóng, các nghĩa phái sinh của từ. Ví dụ:
- Răng người và vật – răng lược, răng bừa
- Mũi người và vật – mũi thuyền, mũi kim
Đây là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật, hiện
tượng thông qua hình thức ẩn dụ.
Hay sự chuyển đổi tên gọi từ sự vật, hiện tượng này sang hiện tượng khác
dựa trên mối quan hệ logic giữa các sự vật, hiện tượng ấy qua hình thức hoán dụ.
Ví dụ: Nhà tôi – vợ tôi
Sự phát triển nghĩa của từ luôn đi cùng với sự phát triển của xã hội. Sự
biến đổi không ngừng của nghĩa do sự biến đổi của cuộc sống và cách sử dụng
ngôn ngữ một cách sáng tạo, linh hoạt, giàu hình ảnh của con người đã góp phần
làm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn. Sự
phát triển ấy theo hai khuynh hướng cơ bản: mở rộng và thu hẹp ý nghĩa, chuyển
đổi tên gọi bằng ẩn dụ và hoán dụ. Những đơn vị từ vựng được lựa chọn để phát
triển nghĩa thường là những đơn vị mang những giá trị văn hóa ước định của cộng
đồng, được mọi người chấp nhận, sử dụng, dễ dàng nhập vào hệ thống từ vựng -
ngữ nghĩa như là một đơn vị khu biệt. Nghĩa là nó được đánh giá thuận lợi cho
công việc giao tiếp, được thẩm định về khả năng biểu đạt nghĩa và giá trị thẩm mỹ
khi đi vào hành chức.
1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Trên thực tế, cấu trúc ý nghĩa của từ không nhất thành bất biến mà luôn
luôn vận động và phát triển. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Từ và từ
vựng học tiếng Việt [13, tr162], cho rằng: Có rất nhiều nguyên nhân làm cho một
từ phát triển thêm các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, nhưng có thể quy vào các
yếu tố cơ bản sau đây.
- Do sự biến đổi, phát triển không ngừng của đời sống;
22
- Sự phát triển của nhận thức;
- Sự phát triển của hệ thống ngôn ngữ;
- Tính quy ước của nghĩa.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, hiện tượng nhiều nghĩa là kết quả của sự chuyển
biến ý nghĩa của từ. Từ (đơn hoặc phức) lúc đầu mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa
biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng, nó có thể có thêm những nghĩa biểu vật
mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó
càng có khả năng biến đổi. [4, tr.147].
Từ các nguyên nhân dẫn đến sự chuyển nghĩa của từ, ngữ nghĩa học truyền
thống đã phát hiện ra những quá trình phát triển ý nghĩa cơ bản mà ngữ nghĩa học
hiện đại ngày nay không thể bác bỏ. Theo các tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ
Hữu Châu, hiện tượng chuyển nghĩa của từ chủ yếu dựa vào hai phương thức ẩn dụ
và hoán dụ
Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hiện
tượng được so sánh với nhau. So sánh bộ phận được gọi là “đầu” của con người với
bộ phận trên của cái van xe đạp, chúng ta thấy có một điểm chung là “bộ phận trên,
trước hết”. Từ đó dẫn đến việc lấy tên gọi của bộ phận thân thể để biểu thị bộ phận
của cái van. Mặt khác, so sánh con vật với hàng người, đoàn người thấy cả hai đều
có bộ phận trước, bộ phận sau, do đó đã lấy tên bộ phận trước hết của vật chỉ bộ
phận trước hết của đoàn người, hàng người… Cứ phân tích như vậy, sẽ thấy các
nghĩa phái sinh của từ “đầu” đều là kết quả của quá trình chuyển nghĩa ẩn dụ.
Hoán dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện tượng này sang sự
vật hoặc hiện tượng khác dựa trên một mối quan hệ logic giữa các sự vật hiện tượng
ấy. Căn cứ vào tính chất chất của các quan hệ mà có thể chia ra làm nhiều loại hoán
dụ khác nhau như: quan hệ giữa cái toàn thể và bộ phận, lấy không gian, địa điểm
thay cho những người sống ở đó... Ví dụ: “Nhà có 5 miệng ăn” lẽ ra là “nhà có 5
người ăn”. Đây là kiểu hoán dụ theo quan hệ lấy cái bộ phận thay cho toàn thể.
23
Nhìn chung, ẩn dụ và hoán dụ thường liên hệ với các hiện tượng mở rộng và thu hẹp ý nghĩa. Những ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng hay ẩn dụ căn cứ vào sự giống nhau về chức năng đồng thời cũng là một quá trình mở rộng ý nghĩa. Hoán dụ thường liên hệ với hiện tượng thu hẹp ý nghĩa. Ẩn dụ, hoán dụ là phương thức cơ bản tạo nên nghĩa mới cho từ.
1.5. Từ đa nghĩa
Hiện tượng đa nghĩa là một hiện tượng phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Nói
một cách đơn giản, đây là hiện tượng một đơn vị ngôn ngữ mà cấu tạo nội dung của
nó có nhiều nghĩa khác nhau. Điều này một mặt tạo ra tính đa dạng phong phú của
ngôn ngữ. Đây là hiện tượng biểu hiện một cách điển hình ở cấp độ từ vựng -
ngữ nghĩa. Ở cấp độ này hiện tượng đa nghĩa không chỉ bộc lộ gắn liền với
đặc điểm của từ mà còn thể hiện đặc điểm cấu tạo và phát triển của hệ thống
từ vựng - ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
Người ta nhận thấy rằng một từ lúc mới sinh ra chỉ có một nghĩa, theo
dòng thời gian tồn tại và phát triển từ trở thành nhiều nghĩa. Sự xuất hiện
nghĩa mới của từ có quan hệ với sự phát triển một cách có quy luật và sự giàu
có, phong phú của thành phần từ vựng một ngôn ngữ. Nó là kết quả của sự
phát triển nghĩa của từ nói riêng và của hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa nói
chung, đồng thời cũng là biểu hiện, sản phẩm của sự phát triển ngôn ngữ văn
hoá, sự giàu có, phong phú tư duy và kinh nghiệm của cộng đồng người nói
một thứ tiếng nhất định. Chính vì vậy, các ngôn ngữ gắn liền với nền văn
minh tiên tiến thường phát triển với tỷ lệ cao những từ đa nghĩa. Phát triển từ
đa nghĩa còn là một biện pháp, một phương thức làm giàu vốn từ ngữ dân tộc.
Đa nghĩa là qui luật chung của ngôn ngữ nhân loại. Việc tìm hiểu những nét
tương đồng và dị biệt trong nội dung từ đa nghĩa của các dân tộc lại liên quan
đến ngôn ngữ và văn hoá của riêng của mỗi quốc gia. Bởi vì đặc điểm đa
24
nghĩa của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, là thành tựu được tập thể
cộng đồng ngôn ngữ ấy xây dựng nên.
Cho đến nay đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau về từ đa nghĩa từ
vựng. Chẳng hạn như tác giả O.C.Akhmanôva cho rằng: “đa nghĩa là sự tồn
tại ở từ một số nghĩa vốn thường xuất hiện do việc sử dụng từ và sự phát triển
các nghĩa bóng của từ” (Dẫn theo Lê Quang Thiêm) [34, tr.305].
Tác giả Vũ Đức Nghiệu cho rằng: “Từ đa nghĩa là những từ có một số
nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc
biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.”[6, tr.172]
Sau khi phân tích đánh giá một số cách hiểu tác giả Lê Quang Thiêm đã
đưa ra quan niệm của mình về từ đa nghĩa như sau: “Từ đa nghĩa là từ mà nội
dung bao gồm một số nghĩa khác nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống
nằm trong các mối quan hệ liên kết với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và
nhiều nét nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại
được đặt cơ sở trên một sự giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc
tính nào đó của đối tượng”. [34, tr.305].
+ Các kiểu nghĩa của từ đa nghĩa
Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức
và trật tự nhất định. Việc phân loại các nghĩa khác nhau của từ đa nghĩa giúp chúng
ta tìm ra được mối quan hệ của chúng và từ đó có cơ sở hiểu rõ hơn ý nghĩa của từ.
- Dựa vào tiêu chí nguồn gốc của nghĩa, nghĩa của từ đa nghĩa gồm hai loại:
nghĩa gốc và nghĩa phái sinh. Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên, vốn có đối với một từ
nào đó. Vì thế nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do và có thể nhận
ra một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác. Nghĩa phái sinh là nghĩa có
sau được tạo nên trên cơ sở nghĩa gốc cho nên chúng thường có lí do và được nhận
ra qua nghĩa gốc của từ. Ví dụ, trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê [25] có định
nghĩa từ chân như sau:
25
1. Bộ phận dưới cùng của cơ thể người và động vật, dùng để đi, đứng,
thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi lại của con người (Què chân; Vui
chân đi quá xa; Nước đến chân mới nhảy).
2. Chân của con người, coi là biểu tượng của cương vị, phận sự của một
người với tư cách là thành viên của một tổ chức (có chân trong hội đồng; thiếu một
chân tổ tôm; chân sào).
Như vậy, trong hai nghĩa trên của từ chân thì nghĩa 1 là nghĩa gốc, nghĩa 2 là
nghĩa phái sinh.
- Dựa vào khả năng tồn tại độc lập của từ, nghĩa của từ đa nghĩa gồm hai loại:
nghĩa tự do và nghĩa hạn chế. Nghĩa tự do là nghĩa được bộc lộ trong mọi hoàn
cảnh, không lệ thuộc vào hoàn cảnh bắt buộc nào. Nghĩa hạn chế là nghĩa chỉ xuất
hiện trong một hoàn cảnh nhất định.
- Dựa vào mối quan hệ định danh giữa từ và đối tượng, nghĩa của từ đa nghĩa
gồm hai loại: nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp. Nếu một nghĩa trực tiếp phản ánh
đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một cách trực tiếp thì đó là nghĩa trực tiếp
(nghĩa đen). Còn nếu một nghĩa gián tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự
vật một cách gián tiếp (thông qua hình tượng hoặc nét đặc thù) thì đó là nghĩa gián
tiếp (nghĩa bóng)
- Nghĩa của từ đa nghĩa được chia thành nghĩa thường trực và nghĩa không
thường trực dựa vào tiêu chí nghĩa đang xét đã nằm trong cơ cấu chung ổn định của
nghĩa từ hay chưa. Một nghĩa được coi là nghĩa thường trực nếu nó đã đi vào cơ cấu
chung ổn định của nghĩa từ và được nhận thức một cách ổn định, như nhau trong
các hoàn cảnh khác nhau. Ngược lại, nếu có một nghĩa bất chợt nảy sinh trong một
hoàn cảnh nào đó trong quá trình sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ, nó chưa hề đi vào cơ
cấu ổn định, vững chắc của nghĩa đó là nghĩa không thường trực (nghĩa ngữ cảnh).
Trên đây là cách phân loại nghĩa của từ đa nghĩa thường gặp. Mỗi tiêu chí khác
nhau có hệ thống phân loại khác nhau. Trong thực tế, từ đa nghĩa không chỉ có 2, 3
26
nghĩa mà có từ có rất nhiều nghĩa. Nghĩa của từ đa nghĩa rất phong phú, đa dạng
nên khi phân tích nghĩa theo thế lưỡng phân thường là sẽ có một số nghĩa không
được gọi tên mà bị gộp chung với một nghĩa nào đó khái quát hơn.
Tiểu kết chương 1
Trong Chương 1, chúng tôi đã trình bày những cơ sở lí luận cơ bản
làm khung nghiên cứu cho luận văn như: khái niệm từ, cụm từ, nghĩa của
từ, sự phát triển nghĩa của từ, hiện tượng đồng nghĩa và hiện tượng chuyển
nghĩa, từ đa nghĩa. Trong diễn tiến ngôn ngữ, mối quan hệ giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện không phải lúc nào cũng được duy trì, nó có thể,
một cách tiềm tàng, bị phá vỡ bất kỳ lúc nào. Chính vì vậy, biến đổi nghĩa
là sự thật thực hiển nhiên trong ngôn ngữ. Theo quan niệm truyền thống, có
hai khuynh hướng biến đổi: phát triển nghĩa và mất nghĩa. Trên thực tế, bất
kỳ một nghĩa nào đó đã xuất hiện, một cách tiềm năng, đều có khả năng tái
hiện ở những lần sau. Vì thế nếu một nghĩa nào đó không may bị mất đi, thì
nó vẫn có khả năng được sử dụng trở lại, bởi cái nghĩa ban đầu bao giờ
cũng là cái được con người dễ nhận diện nhất, được con người duy trì bảo
hộ nhiều nhất. Vì thế, biến đổi nghĩa cũng là phát triển nghĩa.
Trong ngữ nghĩa, hiện tượng đồng nghĩa thường xảy ra với hàng loạt
các đơn vị từ vựng và tạo nên các sắc thái biểu cảm khác nhau về ngữ
nghĩa. Vì vậy, trong một dãy đồng nghĩa, giữa các nghĩa của từ đồng nghĩa
là giống nhau song chúng khác nhau về sắc thái biểu cảm.
Hiện tượng chuyển nghĩa của từ tạo nên hiện tượng đa nghĩa từ vựng.
Có hai con đường chuyển nghĩa cơ bản là mở rộng nghĩa hoặc thu hẹp
nghĩa, thường được thực hiện thông qua ẩn dụ hoặc hoán dụ. Trong từ đa
nghĩa, giữa nghĩa gốc của từ với các nghĩa chuyển luôn có mối liên hệ nhất
định về nghĩa, tuy nhiên, các nghĩa phái sinh thường vận động theo hướng
27
ngày càng xa rời nghĩa gốc và trong những trường hợp cụ thể, giữa nghĩa
gốc và nghĩa chuyển còn xảy ra hiện tượng chuyển loại.
Đây là những tiền đề lý luận cơ bản giúp chúng tôi triển khai thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trong chương 2 và chương 3 của luận văn.
28
Chương 2
NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP
CỦA NÓ TRONG TIẾNG VIỆT
2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống, mang
những nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đối với người Việt, ăn
uống không chỉ đơn thuần là nét văn hóa về vật chất, một hoạt động nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh học của cơ thể mà còn phản ánh phương diện văn hóa về tinh thần, là
tiếng nói của tâm hồn người Việt. Thông qua hoạt động ăn uống người ta có thể
hiểu được nét văn hóa thể hiện phẩm giá con người, trình độ văn hóa với những đạo
lý, phép tắc, phong tục, tập quán và cả triết lý nhân sinh… của mỗi cá nhân và rộng
hơn là cả một dân tộc. Cái ăn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tâm thức mỗi
người dân Việt. Có thể nói, mọi hoạt động của người Việt đều lấy “ăn” đặt lên làm
đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn tiêu… Và do nhu cầu sử dụng thiên biến vạn
hóa về sắc thái, từ “ăn” cũng là một trong những từ có rất nhiều từ đồng nghĩa trong
tiếng Việt như: xơi, mời, nhậu, hốc, nốc, tọng, chén, đánh chén, đớp, dùng, làm…
sự phong phú trong lớp từ đồng nghĩa ấy đã góp phần làm phong phú thêm vốn từ
vựng của tiếng Việt.
Trong Từ điển Tiếng Việt (2010) của Hoàng Phê (chủ biên) đã khái quát từ
“ăn” (động từ) là một từ đa nghĩa gồm có 13 nghĩa (nghĩa gốc và các nghĩa phái
sinh) như sau: [25, tr.29-33]
1. Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống. Ăn cơm. Thức ăn. Ăn có nhai, nói có
nghĩ (tng). Làm đủ ăn.
2. Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới. Ăn liên hoan. Ăn tết.
3. (Máy móc, phương tiện vận tải) tiếp nhận cái cần thiết cho sự hoạt động.
Cho máy ăn dầu mỡ. Xe ăn tốn xăng. Tàu đang ăn hàng ở cảng.
29
4. (Kết hợp hạn chế). Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng. Ăn thừa tự. Ăn lương
tháng.
5. (Kng). Phải nhận lấy, chịu lấy (cái không hay; hàm ý mỉa mai). Ăn đòn. Ăn
đạn.
6. Giành về phần mình phần hơn, phần thắng (trong cuộc thi đấu). Ăn con xe.
Ăn giải. Ăn cuộc.
7. Hấp thu cho thấm vào, nhiễm vào trong bản thân. Vải ăn màu. Da ăn
nắng. Cá không ăn muối cá ươn (tng).
8. Gắn, dính chặt vào nhau, khớp với nhau. Hồ dán không ăn. Gạch ăn vôi
vữa. Phanh không ăn.
9. (Kết hợp hạn chế). Hợp với nhau, tạo nên một cái gì hài hòa. Hai màu rất
ăn với nhau. Người ăn ảnh.
10. Làm tiêu hao, hủy hại dần dần từng phần. Sương muối ăn bạc trắng cả
lá. Sơn ăn tùy mặt.
11. Lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó (nói về khu vực hoặc phạm vi tác
động của cái gì). Rễ tre lan ra tới ruộng. Sông ăn ra biển. Phong trào ăn sâu,
lan rộng.
12. (Kng). Là một phần ở ngoài phụ thuộc vào; thuộc về. Đám đất này ăn về
xã bên. Khoản này ăn vào ngân sách của tỉnh.
13. (Đơn vị tiền tệ, đo lường) có thể đổi ngang giá. Một dolla ăn mấy đồng
Việt Nam?
Cùng với sự phát triển của xã hội, trong quá trình sử dụng khi đi vào ngôn
bản và trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhóm từ nói về “ăn” được sử dụng khá linh
hoạt cho phù hợp với từng hoàn cảnh nhằm mang lại giá trị biểu cảm riêng. Các nét
nghĩa được mở rộng và theo thời gian các nét nghĩa phái sinh mới được hình thành
và ngày càng phong phú, làm giàu cho hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Điều đó
cho thấy, quá trình vận động và phát triển nghĩa của từ “ăn” khá mạnh mẽ. Ngoài
30
những nghĩa gốc và nghĩa phái sinh được thống kê ở trên, trên thực tế chúng ta có
thể thấy “ăn” còn trở thành một yếu tố (thành tố) đóng vai trò như một hình vị cấu
tạo từ, có thể kết hợp với các hình vị khác để tạo ra các từ ghép khác nhau theo kiểu
chính phụ hoặc đẳng lập có chứa yếu tố “ăn”. Những đơn vị từ có chứa yếu tố “ăn”
này có thể mang nghĩa chỉ hoạt động ăn theo nghĩa gốc, có thể không mang nghĩa
chỉ hoạt động ăn mà bàn đến mọi phương diện đời sống của con người. Các nghĩa
của từ chứa yếu tố “ăn” này được người Việt chấp nhận và sử dụng trong cuộc sống
hàng ngày như: Ăn chơi, ăn nằm, ăn chặn… Đặc biệt có nhiều kết hợp với yếu tố
“ăn” mà trong đó không liên quan gì đến việc đưa thức ăn vào miệng và thực hiện
động tác nhai, nuốt. Mà từ “ăn” ở đây lại chỉ hành vi, lối sống, ta có thể hiểu như
một thứ nghề nghiệp, chẳng hạn như: Ăn sương, ăn trộm, ăn cắp…
Chúng ta có thể thấy, từ nghĩa gốc “ăn” để chỉ hoạt động “Tự cho vào cơ thể
thức ăn nuôi sống” cùng với sự phát triển của thời gian, các nét nghĩa phái sinh đã
hình thành và sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra rất nhiều
nghĩa mới thay thế hàng loạt các khái niệm khác. Theo sự khảo sát của Nguyễn Thị
Bích Hợp [18] khi miêu tả sự phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” theo mô hình tỏa tia,
tác giả đã bổ sung thêm hai nghĩa phái sinh mới so với các nét nghĩa trong Từ điển
tiếng Việt của Hoàng Phê [25], đó là: “ăn” nghĩa là “thực hiện hành động”: ăn vạ,
ăn hiếp, ăn hỏi, ăn diện, ăn thề, ăn nói, ăn mặc, ăn học; và “ăn” nghĩa là “quan hệ
thân xác”: ăn nằm, ăn cơm trước kẻng, đã ăn cô ta, ăn bánh trả tiền…
Ăn uống được dân gian Việt nam xếp lên hàng đầu “tứ khoái” của con
người. Nhà văn Tản Đà đối với văn hóa ẩm thực, ông đã nâng thành “lý luận 04
chữ W trong ăn uống”
1-Ăn cái gì ( What)?
2-Ăn lúc nào (When)?
3- Ăn ở đâu (Where)?
31
4- Ăn với ai (With whom)? [23, Văn hóa ẩm thực Việt Nam - Hà Nội đôi ba
vấn đề lý luận, tr.681]
Qua đó, để cho chúng ta thấy cái “ăn” đóng vai trò rất quan trọng đối với
người dân Việt. Chính vì vậy, đề tài về “ăn” đã được phản ánh rất đa dạng và phong
phú qua thành ngữ, truyện dân gian Việt Nam và các tác phẩm văn học. Bởi thế,
không phải ngẫu nhiên mà số lượng câu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng
Việt lại chiếm số lượng rất lớn. Thông qua việc khảo sát trong các cuốn từ điển
thành ngữ, các câu thành ngữ có chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt có tới 492 câu.
Ẩn chứa trong mỗi câu thành ngữ là những kinh nghiệm trong cuộc sống, những
giáo huấn về luân thường, đạo lý, cách ứng xử của con người với con người trong
xã hội. Chúng ta vẫn thường nghe những câu thành ngữ nói về thói quen trong ăn
uống của ông cha ta: Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống,… hay
lên án những kẻ vô ơn, bội nghĩa: ăn cháo đá bát… phê phán những thói hư tật xấu:
ăn xó mó niêu, ăn gian nói dối… Cho đến những kinh nghiệm đời thường trong
cuộc sống: Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau…
“Ăn” cũng là một trong những nguồn cảm hứng chính của các nhà văn
hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 như: Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim
Lân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đề tài về “miếng
ăn” được tái hiện dưới ngòi bút của các nhà văn vô cùng chân thực. Thông qua
cái “ăn” các tác giả đã cởi hết cái lớp áo bao phủ bên ngoài của đời sống của
người dân Việt Nam thời đó để phơi bày chuyện đời nhức nhối nhất, sự thiếu thốn,
sự đói khổ trở thành vấn nạn khủng khiếp chi phối mọi mặt của đời sống xã hội
Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. “Ăn” cũng là đề tài khơi nguồn cảm hứng
sáng tạo cho các nhà văn hiện đại trong thể loại Tùy bút như Nguyễn Tuân, Thạch
Lam, Vũ Bằng, Băng Sơn, Mai Thục, Trần Đức Anh Sơn… đều là những tác giả đã
rất thành công khi viết về đề tài liên quan đến cái “ăn”, một trong những nhu cầu tất
yếu của cuộc sống nhưng thông qua ngòi bút của các nhà văn, cái “ăn” được nâng
32
lên thành một nghệ thuật, thành giá trị sống, một nét văn hóa tinh tế, rất riêng của
người Việt.
Có thể nói hoạt động “ăn” phản ánh đặc trưng văn hóa dân tộc vô cùng rõ
nét. Miếng ăn vừa thể hiện tính cộng đồng xã hội, vừa nói lên triết lý về đạo sống,
đồng thời nó cũng phản chiếu phép tắc xã hội. Văn hóa ăn trở thành một giá trị văn
hóa của mỗi làng, mỗi vùng và rộng hơn là của cả dân tộc.
2.2. Khả năng kết hợp của từ/yếu tố “ăn” trong tiếng Việt
Đối với người Việt, văn hóa ăn uống đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý của cuộc sống. Điều
đó rất dễ hiểu khi chúng ta thấy người xưa có câu “dĩ thực vi thiên” (ăn là quan
trọng nhất). Ý nghĩa của sự ăn là vô cùng đa dạng và sâu sắc. Bởi “Có thực mới vực
được đạo”, “Thực túc binh cường” (ăn đầy đủ thì quân đội mới hùng mạnh). Song
đối với người Việt, nhiều khi người ta ăn không phải vì ăn, mà vì tình, vì nghĩa: Vị
tình, vị nghĩa, ai vị đĩa xôi đầy. Hoặc đôi khi người ta ăn, chỉ cốt là để biết, để
thưởng thức, chứ không phải là thỏa mãn nhu cầu về vật chất thuần túy: Ăn lấy
thơm lấy tho, chứ ai ăn lấy no, lấy béo; ăn lấy vị, chứ ai lấy bị mà mang… Có thể
nói, đối với người Việt “Ăn” là cả một vấn đề ứng xử, vấn đề xã hội. Chuyện ăn
tưởng chừng quá quen thuộc hàng ngày đối với mọi người nhưng thực tế không
đơn giản như vậy. Trong dân gian từ xưa, người Việt rất coi trọng việc ăn uống: Từ
việc nấu nướng đến việc chọn lọc miếng ăn và đặc biệt là việc giao tiếp ứng xử
trong khi ăn uống. Bởi vậy mà kinh nghiệm truyền dạy con trẻ của người Việt
được truyền từ đời này sang đời khác rằng “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Trong đó “học ăn” được đặt lên hàng đầu. Từ lâu người Việt đã ý thức được rằng:
Ăn cũng phải học, ăn là một khoa học. Bởi vậy, khi nghiên cứu vấn đề “ăn” của
người Việt theo góc độ ngôn ngữ và văn hóa là cả một vấn đề khoa học vô cùng
phong phú và ý nhị.
33
Người Việt có một số tiêu chuẩn đánh giá con người thông qua dung nhan,
dáng đi, giọng nói, tướng mạo... như “Người khôn con mắt đen xì, người dại con
mắt nửa chì, nửa thau”,“trông mặt mà bắt hình dong”,…Tuy nhiên, việc đánh giá
nhận xét con người thông qua việc ăn uống vẫn là phổ biến, nhiều mặt hơn và sâu
sắc hơn.
“Khôn ăn cái, dại ăn nước”
“Người khôn ăn miếng thịt gà,
Tuy rằng ăn ít nhưng mà no lâu,
Người dại ăn trái bồ nâu
Ăn no bĩnh bầu chẳng biết mùi ngon.”
Hay: “Người khôn ăn nói nửa chừng
Để cho người dại nửa mừng nửa lo”
Hoạt động “ăn” là một nét văn hóa vô cùng độc đáo thể hiện bản sắc văn
hóa cộng đồng và thế ứng xử của con người với con người trong xã hội. Điều đó
được phản ánh sinh động trong lớp từ vựng của ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, từ/yếu
tố “ăn” là một từ/yếu tố vô cùng đặc biệt, có khả năng kết hợp với rất nhiều từ loại
để làm chức năng vị ngữ trong câu. Ta có thể mô hình hóa khả năng kết hợp của
từ/yếu tố “ăn” như sau: Ăn + X. Trong đó “X” là một kết cấu mở, có thể là những
từ loại như danh từ, tính từ, động từ hoặc tổ hợp từ kết hợp với từ/yếu tố “ăn” khá
linh hoạt tạo ra tính đa chiều và đa hướng trong ngôn ngữ, nhằm thể hiện được lối
tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt thông qua cái “ăn”. Khi đi vào
hành chức, kết hợp với các từ/ tổ hợp từ, trong từng ngữ cảnh cụ thể, nghĩa của từ
“ăn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc: “Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống” nữa
mà nó đã có sự chuyển nghĩa. Sự phát triển nghĩa của “ăn” có thể quy thành một số
nhóm dựa vào ý nghĩa khái quát của chúng như sau:
34
2.2.1. Ăn + mục đích
Sự kết hợp của “ăn” với các từ / tổ hợp từ đã tạo ra hàng loạt từ ghép biểu thị
hoạt động các dịp ăn uống của người Việt. Với kết cấu “Ăn + X”, trong đó tham tố
X ở đây là yếu tố mở, gắn liền với những từ “cụ thể” chỉ mục đích của việc ăn uống
như: Ăn hỏi, ăn mừng, ăn cưới, ăn liên hoan, ăn giỗ, ăn tết, ăn mày, ăn xin, ăn
kiêng, ăn hàng, ăn chay. Trong các kết hợp này, “ăn” thường được sử dụng ở nghĩa
gốc, ít khi chuyển nghĩa. Ví dụ:
- Xong đâu đấy thầy cõng Đật đi ăn giỗ, Ninh phải ở nhà coi mẹ. [2, Từ ngày
mẹ chết, tr.161]
- Có cụ giáo Hiệu trưởng mẹ mời đến ăn tết thân mật với gia đình. [ 23, Cái
bánh dẻo tròn, tr.192]
- Ăn cỗ mừng sinh nhật là một nét mới, trước kia chỉ có mừng thọ, thượng
thọ, lên lão và rất coi trọng nền nếp ngày giỗ. [ 23. Giỗ tết, tr.239]
- Mặc dù mới hơn 10h sáng (ngày 14/2) nhưng nhiều cơ quan, ban ngành
tỉnh Hà Tĩnh đã đóng cửa, nhân viên, lãnh đạo đều vắng mặt. Lý do là nghỉ sớm
để... ăn rằm [2]
- Vì thế, nếu bé được ăn đầy tháng thì cháu đã thoát được hết hai phần ba
của những rủi ro trong năm tuổi đầu tiên của cuộc đời.[3]
Tuy nhiên, trong một số ngữ cảnh cụ thể, khi mừng những sự kiện quan
trọng, có thể không có việc tổ chức ăn uống nhưng vẫn được gắn với “ăn” như “ăn
mừng chiến thắng” của đội bóng đá chẳng hạn. Trong trường hợp này, “ăn” không
được sử dụng với nghĩa gốc mà đã chuyển nghĩa chỉ hoạt động chúc mừng, mang
tính chất tinh thần. Ví dụ:
- Người Sài Gòn cuồng nhiệt ăn mừng chiến thắng lịch sử của U23
Việt Nam.[5]
Cùng trong mô hình kết hợp “Ăn + mục đích”, nhưng khi đi vào trong thành
ngữ, sự hoạt động của kết hợp này trong thành ngữ đã tạo nên nhiều hướng nghĩa
35
chuyển phong phú, phản ánh nhân cách, bản chất, hành vi, cách đối nhân xử thế của
con người trong xã hội. Ví dụ: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” (chỉ những kẻ
khôn lỏi, vị kỷ, biết nắm bắt cơ hội, luôn quan tâm đến lợi ích cá nhân); Chưa ăn cỗ
đã chực lấy phần (ngoài nét nghĩa phản ánh tục lệ “lấy phần” khi ăn cỗ, còn hàm
nghĩa phê phán những kẻ bần tiện, tham lam, chỉ chăm chăm vào lợi ích của bản
thân).
Cách kết hợp “ăn + mục đích” đã tạo ra nhiều hướng nghĩa phái sinh cho
“ăn”. Chẳng hạn như từ “ăn chay” vốn để chỉ chế độ ăn uống gồm những thực
phẩm có nguồn gốc thực vật, với mục đích tu hành, hướng thiện, nhưng trong đời
sống hiện đại, “ăn chay” được chuyển nghĩa chỉ chuyện quan hệ tình dục, Ví dụ:
- Thì ra “ăn chay” ở đây không chỉ là không ăn thịt cá nữa mà là sẽ không
quan hệ sắc dục với tôi nữa.[7]
- Bắt chồng "ăn chay" suốt 9 tháng mang bầu, phụ nữ đã vô tình bỏ qua 5
lợi ích vô cùng bất ngờ cho sức khỏe của cả mẹ và bé [8]
Khi tham gia cấu tạo thành ngữ, “ăn chay” kết hợp với các tổ hợp từ cũng
tạo nên nghĩa biểu trưng cho lối sống ngay thẳng, trung thực: Ăn mặn nói ngay hơn
ăn chay nói dối. Điều đó cho chúng ta thấy thái độ của dân gian khá rõ ràng trong
quan niệm ăn uống và rộng hơn nữa chính là lối sống, nhân cách của con người.
Sự kết hợp của “ăn + mục đích” cũng tạo ra các từ ghép để chỉ thân phận, số kiếp
con người gắn liền với nghề nghiệp hay hoàn cảnh sống.Ví dụ:
- Ăn xin ở Thái Lan là phạm pháp, bị phạt tù và tiền [9]
- Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất. [2, Từ ngày mẹ chết, tr.163]
- “Ngày xưa có một người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải
cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa
từng cửa rồi mới vào ăn xin” [ 23, Những chiếc ấm đất, tr.206]
“Ăn mày, ăn xin” vốn chỉ hành động của những người chuyên kiếm sống
bằng việc đi xin của bố thí. Nhưng khi tham gia cấu tạo thành ngữ, sự kết hợp của
36
từ “ăn mày” với các tổ hợp từ đã tạo ra những hướng nghĩa khác như chỉ những
người do hoàn cảnh éo le phải vào nương nhờ nơi chùa chiền hoặc những người lên
chùa để xin lộc rơi vãi. “Ăn mày lộc phật”. Trong một số ngữ cảnh sử dụng, thành
ngữ này xuất hiện biến thể nghĩa như chỉ sự tham lam, vụ lợi. Ví dụ:
- Doanh nghiệp xây chùa, sau đó tung dịch vụ bủa vây trong chùa để kiếm
lợi từ tâm linh. Kiểu làm kinh tế này có khác nào "ăn mày" cửa phật [10]
- Thế nhưng, “ăn mày cửa Phật”, nhặt lộc rơi, lộc vãi cũng vì mục đích
kinh tế đấy mà nó an nhiên, thánh thiện biết bao nhiêu, thì những kiểu làm ăn dựa
vào cửa Phật để kiếm lợi đang khiến người ta cảm giác niềm tin của mình bị biến
thành phương tiện lợi dụng và bị móc túi một cách công nhiên mà chẳng biết
trách ai. [11]
Các thành ngữ có chứa “ăn mày” còn mang nhiều hướng nghĩa phê phán,
chẳng hạn như phê phán những người không ý thức được thân phận, hoàn cảnh của
mình, trong điều kiện thiếu thốn nhưng lại đòi hỏi người khác một cách thái quá: Ăn
mày đòi xôi gấc; lên án những kẻ đã quen thói nhờ vả, ăn bám người khác, được
hưởng lợi nhiều lần nhưng vẫn muốn lặp lại hành động cũ mặc dù biết là không
hay: Ăn mày quen ngõ; sự cảm thông chia sẻ cho những thân phận người nghèo
khổ, cùng cực, gặp những hoàn cảnh éo le: Ăn mày đánh đổ cầu ao.
2.2.2. Ăn + cách thức
Do điều kiện thiên nhiên và hoàn cảnh lịch sử dân tộc, mà việc ăn uống của
nhân dân ta từ bao đời nay, có lẽ nét độc đáo nhất chính là tính thực tiễn trong quan
niệm ăn uống. Đa số người dân Việt Nam, trong cuộc sống hàng ngày đều phải trải
qua nhiều khó khăn, vất vả, phải kiên trì vật lộn mới giành được sự sống còn, chính
vì lẽ đó việc ăn uống, trước tiên phải đảm bảo được sự sinh tồn của dân tộc. Cái
hay, cái khéo trong ẩm thực, có thể xuất hiện ngay trong quá trình tồn tại của con
người, sau đó mới trở thành nhu cầu thiết yếu để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cái nguyên tắc mà con người đều chấp nhận “ăn để mà sống, chứ không phải sống
37
để mà ăn” đã là nguyên tắc thiết thực nhất của người dân Việt Nam. Bởi vậy, cùng
với sự phát triển của xã hội, ông cha ta có khá nhiều suy nghĩ xung quanh vấn đề về
“ăn”. Thông qua cách ăn, phương thức ăn đã nói lên được phần nào trình độ văn
hóa, nhân cách con người và đặc biệt là rất nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống .
Với kết cấu: Ăn + cách thức, ta có các kết hợp: ăn chực, ăn dở, ăn chịu, ăn
đong, ăn gỏi, ăn liền, ăn ngọn, ăn sương, ăn tạp, ăn theo, ăn vã, ăn xổi, ăn dè, ăn
vụng, ăn tục, ăn ghém… Các kết hợp trên khi đi với yếu tố ăn, nghĩa đen là chỉ hoạt
động ăn uống của con người với các cách thức “ăn” gắn với thói quen sinh hoạt
khác nhau, nhưng ở tầng nghĩa bóng, nhiều từ đã được chuyển nghĩa, dùng để chỉ
đặc điểm tính cách, nhân cách, hành động của con người hoặc mang ý nghĩa đánh
giá con người, thường với sắc thái ý nghĩa tiêu cực. Dựa trên nghĩa khái quát của cơ
chế tạo nghĩa của “ăn” kết hợp với “cách thức” có thể chia ra thành các nhóm sau:
a. Chỉ những tính cách tầm thường hay giả dối, lối sống tạm bợ
Ăn kết hợp với các từ/tổ hợp từ đã tạo nên các từ ghép hoặc cụm từ như ăn
xổi, ăn vã, ăn vụng, ăn tươi, ăn sống, ăn bốc… thông qua cách ăn, kiểu ăn, tư thế
ăn, tác phong ăn đã bộc lộ nhân cách và phong thái con người. Ngoài mang nghĩa
đen phản ánh cách thức ăn, nhiều từ đã chuyển nghĩa, phản ánh hành vi ứng xử, lối
sống, nhân cách của con người. Ví dụ:
- Xin thưa ngay là rất ngon, bao giờ “ăn vụng” cũng ngon hơn là ăn bình
thường, ăn hợp pháp.[12]
- Hết thời làm phim ‘ăn xổi’. [13]
Từ các ví dụ trên cho chúng ta thấy, yếu tố “ăn” được kết hợp các từ chỉ cách
thức ăn đã tạo nên những từ ghép biểu thị những khái niệm mới, phản ánh rất nhiều
khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của người dân Việt. Từ “ăn vụng” vốn trước
đây dùng để chỉ hành động ăn uống lén lút, vụng trộm khi người ta đói, nhưng nay
đa phần được dùng theo nghĩa chuyển, nó thể hiện hành động lén lút, cố tình che
38
đậy vì muốn che dấu động cơ xấu xa; hoặc hành vi ngoại tình bên ngoài đời sống
vợ chồng, trong đó tình dục chiếm phần quan trọng. Ví dụ:
- Nỗi niềm thư ký trẻ "ăn vụng" với sếp [14]
- Biết rõ chồng ăn vụng có con riêng 3 tuổi, vợ giả vờ làm ngơ, 4 năm sau
mới "lật bài ngửa" khiến chị em chắp tay nể phục [15]
- Chồng sốc nặng khi biết vợ 'ăn vụng' với 2 người đàn ông, còn có nhật ký
ngoại tình .[16]
- “Ăn vụng quên chùi mép”, chồng lộ bằng chứng ngoại tình không
thể ngờ [17]
- Chồng “ăn vụng” quá tinh vi [18]
Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn vụng” đã tham gia tạo nên hướng biểu
trưng của thành ngữ, chỉ những hành động lộ liễu, không biết che đậy, giấu giếm
những hành vi sai trái của mình. Ăn vụng không biết chùi mép; Đói ăn vụng, túng
làm càn, Ăn vụng quen mồm. Trong các ngữ cảnh có sử dụng thành ngữ này, ý
nghĩa biểu trưng trên thể hiện rất rõ. Ví dụ:
- Không cải cách tiền lương sẽ có chuyện “đói ăn vụng, túng làm càn” [19]
- Và từ tham, khi tặc lưỡi cho qua “tham vặt”, chuyện nhỏ thôi mà, thì có
thiếu mới vậy, “đói ăn vụng, túng làm càn”, nhưng rồi chính cái sự dung túng đó
vô tình đã chấp nhận “văn hóa tham vặt”, mà tới lúc không đói cũng ăn vụng,
không túng cũng làm càn, một nếp văn hóa xấu xí. [20]
Từ “ăn xổi” vốn để chỉ cách “ăn ngay, không phải đợi chế biến lâu”, tuy
nhiên trong đời sống ngôn ngữ hiện nay, từ “ăn xổi” thường được dùng với nghĩa
phái sinh: muốn đạt được kết quả ngay vì nóng vội, nôn nóng, muốn đốt cháy giai
đoạn. Ví dụ:
- Không thể xuất khẩu theo kiểu ăn xổi. [21]
39
- Khai thác rừng non chẳng khác gì bán lúa non, gỗ rừng trồng đang bị ăn
xổi, hiệu quả kinh tế thấp. [22]
- MV lên ngôi, nhạc Việt trở nên ăn xổi? [23]
Thành ngữ tiếng Việt cũng có câu Ăn xổi ở thì để phê phán những kẻ chỉ làm
việc qua loa nhưng muốn hưởng kết quả ngay, chỉ tính chuyện trước mắt, không
tính chuyện lâu dài; những người nông nổi, thiếu kiên nhẫn, dễ dẫn đến thất bại
trong công việc. Nghĩa biểu trưng trong thành ngữ cũng được thể hiện khá độc đáo
trong các ngữ cảnh. Ví dụ:
- Việc dàn dựng các tác phẩm dành cho thiếu nhi lâu nay luôn được làm theo
lối “ăn xổi ở thì”, chộp giật và manh mún. [24]
- “Chúng ta cần tránh ăn xổi ở thì, bán giá cao, bán cắt cổ làm ảnh hưởng
đến môi trường du lịch”,... [25]
Người Việt cũng có một cách ăn nữa là “ăn tươi”, nghĩa đen để chỉ những loại
thức ăn chưa qua nấu nướng. Khi tham gia hoạt động trong thành ngữ, cách “ăn
tươi” ấy đã có sự chuyển nghĩa, góp phần tạo nên nghĩa của thành ngữ chỉ lối sống,
cách sinh hoạt bừa bãi của con người, ví dụ: “Ăn tươi nuốt sống” (phê phán những
kẻ có thói quen ăn uống xô bồ, sinh hoạt bừa bãi bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh). Khi đi
vào ngữ cảnh cụ thể, “ăn tươi nuốt sống” còn chỉ hành động mang mục đích xấu xa,
có ý đồ đen tối như hành vi bắt nạt hoặc chiếm đoạt. Ví dụ:
- Ai yêu nhau cũng muốn “ăn tươi nuốt sống”? [26]
- Mỗi lần nói chuyện bạn trai như muốn 'ăn tươi nuốt sống' tôi [27]
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta cũng bắt gặp nhiều cách thức “ăn” khác
(mà không thấy xuất hiện trong từ điển) như: ăn ngồm ăn ngoàm, ăn ngoàm
ngoàm… để miểu tả các cách thức ăn uống suồng sã, tùy tiện, thiếu văn hóa, những
cách ăn uống ấy được coi là những nét xấu trong sinh hoạt và cần phải tránh. Ví dụ:
- Anh ăn ngoàm ngoạm. Trông thô bỉ quá. Rõ thật cái vẻ của một người cục
súc. [2, Con mèo, tr.81]
40
- Độ chợ Bắc Qua chưa xây dựng lại, thường gặp mấy cô gái ngồi xổm ngay
giữa nền chợ, ngả cái nón ra, bốc bún bằng tay chấm mắn tôm đựng trong cái chén
mẻ cóc gặm, ăn ngấu nghiến, ăn nhồm nhoàm, rồi quẹt ngang,vừa đi vừa đánh
đàn răng lách tách…. [ 23, Người Hà Nội ăn quà, tr.420]
- Những đứa kia, ngồm ngoàm ăn thật nhanh hết phần của chúng rồi xúm lại
xin Nhu. [ 2, Ở hiền, tr.238]
Trong kết hợp từ, tiếng Việt còn có “ăn + cách thức” là ăn bốc, chỉ cách ăn
dùng tay bốc thức ăn đưa thẳng lên miệng chứ không dùng đũa hay thìa, dĩa gắp,
lấy thức ăn như thường thấy. Đây là cách sinh hoạt của một số ít tộc người thiểu số,
được cho là kém văn minh và không đảm bảo vệ sinh, tuy nhiên, cũng chỉ cách ăn
uống của một bộ phận người có thói quen ăn uống thô tục, xô bồ, lối sinh hoạt bừa
bãi bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh. Khi hoạt động trong thành ngữ, những câu thành ngữ
“ăn bốc đái đứng”, “ăn bốc ăn bải” cũng mang ý nghĩa phê phán những kẻ bần
tiện, ăn uống thô tục. Có thể nói, ở nét nghĩa này ông bà ta đã lấy cái “ăn” để làm
thước đo đánh giá con người. Ngoài ý nghĩa miêu tả thông thường, thông qua đó để
phê phán những hành vi, lối sống hay nhân cách không phù hợp với chuẩn mực xã
hội, bị xã hội lên án, tẩy chay.
Có thể nói, sự kết hợp của yếu tố “ăn”: “ăn + cách thức” đã tạo ra rất nhiều từ
mang nghĩa phái sinh, biểu thị những khái niệm mới. Thông qua cách thức ăn đã
bộc lộ nhân cách và lối sống và cách ứng của mỗi con người. Các sắc thái nghĩa
trong các thành ngữ ở nhóm này chủ yếu lên án, phê phán những tính cách, lối sống
tầm thường hay giả dối, những thói hư tật xấu và những thói quen ăn uống, sinh
hoạt bừa bãi, bẩn thỉu, mất vệ sinh của con người thông qua cách thức ăn. Điều đó
góp phần khẳng định: Đối với người Việt, ăn uống là một thứ văn hóa nên đòi hỏi
mỗi con người cần phải có sự ứng xử tinh tế, có văn hóa trong ăn uống cũng như
trong cuộc sống hàng ngày. Những lối sống giả dối, tạm bợ hay cách ăn uống, sinh
hoạt bừa bãi, thiếu khoa học… đều không được xem là đáng phê phán, loại bỏ.
41
b. Chỉ lối sống hưởng thụ
Chuyện ăn tưởng như là chuyện bếp núc, đơn giản như “đói thì ăn, khát thì
uống”; “Hay ăn thì lăn vào bếp”… nhưng đối với người Việt, ăn uống được coi là
một nét văn hóa, ông bà ta vẫn thường dạy con cháu: “ăn có mời, làm có mượn” và
“ăn tùy nơi chơi tùy chốn”. Bởi vậy miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống, phản ánh
những phép tắc xã hội cũng như cách cư xử của con người với con người trong
cuộc sống. Trong cuộc sống đấu tranh sinh tồn và bảo vệ tổ quốc, ông cha ta đã trải
qua rất nhiều khó khăn, gian khổ để có những giây phút bình yên và cuộc sống đủ
đầy. Niềm mơ ước về sống viên mãn và hạnh phúc của người Việt cũng được thể
hiện rất rõ nét thông qua cách ăn uống.
Trong cách kết hợp này, yếu tố “ăn” thường đi kèm với các từ hoặc tổ hợp từ
để chỉ sự thụ hưởng cuộc sống ổn định, đủ đầy, viên mãn. Sự kết hợp của yếu tố
“ăn” với cách thức tạo thành những nhóm từ chỉ cách ăn uống, phong thái ăn uống
của con người như: ăn chơi, ăn hương ăn hoa, chỉ cái thú ăn nhẹ nhàng, mang tính
chất như ăn quà, ăn lót dạ hoặc thú vui thưởng thức tinh hoa ẩm thực chứ không
mang tính chất ăn lấy no. Ví dụ:
- Bánh giò là thứ ăn chơi, ăn nhẹ, cho các em bé ăn bữa phụ buổi trưa. [23,
Bánh giày, bánh giò, tr.465]
- Các cô thích ăn ốc vặn, ốc nhồi chua cay đến chảy nước mắt chàn nước mũi,
còn các bà, ghé vào ăn chơi một bát bánh đúc cho đỡ nhớ cô hàng quen
thuộc…[23, Bánh đúc quê hương, tr.463]
- Chỉ có thể thỏa thuận với nhau rằng thịt chó là món ăn chơi, ăn chơi thì có
kẻ yêu người ghét…[23, Thịt chó, tr.270]
- Các bà ở nhà chúng ta nhiều khi chiều chồng con, mến bạn, cũng rang lạc
ăn chơi. [23, Phá xang, tr.481]
Khi hoạt động trong ngữ cảnh cụ thể, “ăn chơi” có hiện tượng chuyển nghĩa,
không chỉ hoạt động ăn uống mà chuyển sang chỉ một kiểu người lười lao động, chỉ
42
muốn ăn chơi, hưởng thụ và thường dẫn đến con đường làm những việc phạm
pháp. Các ngữ cảnh có xuất hiện “ăn chơi” mang sắc thái tiêu cực, phê phán. Ví dụ:
- Ăn chơi quá đà, trộm gần nửa tỉ đồng ở nhà dì ruột.[28]
- Bởi thiếu giáo dục ông ăn chơi từ tấm bé rồi đi ăn cướp, bị ở tù. [2, Truyện
người hàng xóm, tr.494]
- Mấy năm về trước, tôi làm khiếp lắm: ban ngày đi làm thuê cho người ta, tối
về có trăng lại cuốc vườn nhà, ấy thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo; có thằng chỉ ăn
chơi suốt đời mà suốt đời vẫn có tiền để ăn chơi. [2, Thôi, đi về…tr.182]
Sự kết hợp “ăn + cách thức” cũng tạo ra nhiều thành ngữ nói về sự hưởng
thụ, ẩn chứa trong đó là mơ ước bình dị có một cuộc sống ổn định, đủ đầy của
người dân lao động, như: Ăn của ngon, mặc của tốt; Ăn ngon mặc đẹp, Ăn sung
mặc sướng; Ăn trắng mặc trơn. Các hướng nghĩa này cũng được bộ lộ rõ trong các
ngữ cảnh. Ví dụ
- Ngày ấy, bố mẹ tôi “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, đến thời tôi thì
“ăn phải ngon, mặc phải đẹp”. Đến thời con cái tôi sau này, có lẽ chuyện ăn ngon
mặc đẹp là tiêu chuẩn tối thiểu của những người bình thường....[29]
- Tết không chỉ là dịp ăn ngon, mặc đẹp, nhận lì xì mà trở nên ý nghĩa nếu
cha mẹ dạy trẻ 6 bài học quan trọng này[30]
- Dù cay đắng, chị vẫn phải dũng cảm để nhìn nhận ra một sự thật rằng chị
là “con mồi” béo bở để hắn vừa lợi dụng thân xác, vừa lợi dụng tiền bạc và uy tín
của chị để ăn trắng mặc trơn rồi “quẹt mỏ” bỏ đi cưới người phụ nữ khác.[31]
c. Chỉ thân phận, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống của con người
Đối với nhóm từ này, “ăn + cách thức” chủ yếu muốn nói lên hoàn cảnh
sống của con người, trong điều kiện khó khăn, đói khổ. Như: ăn rình, ăn chực, ăn
chịu, ăn đong… Và chỉ thân phận, hay nghề nghiệp của con người, chẳng hạn như:
ăn sương, ăn đêm. Ví dụ:
- Ăn đến kỳ no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. [ 2, Một bữa no, tr.234]
43
- Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. [2, Một bữa
no, tr.234]
- Thế nhưng với tính “chơi ngông” của ông Cẩn, gia đình có lúc còn phải
"ăn đong" gạo. [32]
- Ả ăn sương thấy hắn không đáp đưa tay lên nắn túi hắn. [2, Truyện người
hàng xóm, tr.529]
Trong ngôn ngữ đời sống, hiện nay từ “ăn đong” được sử dụng khá nhiều.
Tuy nhiên, ý nghĩa của cách thức ăn này trong mỗi ngữ cảnh thường không biểu thị
hoạt động “ăn” như nghĩa gốc:“ăn bằng gạo mua từng bữa vì túng thiếu”, mà
nghĩa của từ “ăn đong” ở đây đã có có sự chuyển nghĩa để chỉ sự “vay mượn”. Điều
đặc biệt là sử dụng khá đa dạng với nhiều sự việc hiện tượng khác nhau trong đời
sống mà không liên quan đến việc ăn uống. Ví dụ:
- Xuất khẩu đồ gỗ; Ăn đong nguyên liệu [33]
- Ăn đong mẫu mã [34]
- Tuổi thơ khát nhạc: Bé bé bằng bông... ăn đong ca khúc [35]
- Thiết bị dạy học: bao giờ mới hết ăn đong?[36]
- Doanh nghiệp trong nước không chỉ kiệt quệ vì tín dụng siết chặt và lãi suất
cao, nhiều đơn vị giờ đây đang phải đi ăn đong từng đơn hàng xuất khẩu do sức
mua của thị trường giảm sút nghiêm trọng.[37]
- An ninh năng lượng sao cứ mãi “ăn đong”[38]
Hay đối với từ “ăn mày”,“ăn chực” ở nghĩa gốc để chỉ hoạt động “Ăn nhờ
vào sự bố thí hay phần ăn của người khác”, thường để nói dùng để nói về những
bữa ăn nhờ của những người có hoàn cảnh khó khăn. Khi hoạt động trong thành
ngữ, “ăn mày”, “ăn chực” đã góp phần tạo nên hướng nghĩa biểu trưng phê phán
những thái độ và hành vi ứng xử không phù hợp với quy luật cuộc sống. Chẳng hạn
như những người không biết đến thân phận, hoàn cảnh của mình, trong điều kiện
thiếu thốn nhưng lại đòi hỏi người khác một cách thái quá: Ăn mày đòi xôi gấc, Ăn
44
chực đòi bánh chưng. Hay muốn nói đến việc “chờ chực lâu ngày ở nơi nào đó để
làm gì”, để đạt một mục đích nào đấy: Ăn chực nằm chờ. Ví dụ:
- Cả ngàn người "ăn chực nằm chờ", hóng iphone 11[41]
- Người hâm mộ BTS có thể phải đối mặt với phí phạt lên tới 500 USD
(khoảng gần 2 triệu VND) nếu cố tình “ăn chực nằm chờ” nhóm trước các buổi
diễn ở Fort Worth, Texas (Mỹ) vào tuần tới? [42]
- Để mua được một giò lan phi điệp 5 cánh trắng quý hiếm với giá 700 triệu
đồng, người đàn ông phải “ăn chực, nằm chờ” đúng 1 tuần. [43]
Bên cạnh đó, sự kết hợp của “ăn + cách thức” cũng tạo ra một số từ ghép
biểu thị thân phận hay giống như một thứ nghề nghiệp của con người. Đi kèm với
những từ chỉ cách thức ăn trong nhóm này, thường là các từ chỉ sự bình giá thể hiện
sắc thái tiêu cực như kỳ thị, khinh miệt. Ví dụ:
- Hiền ngẩn mặt ra một chút rồi hiểu. Hắn đã được nghe bọn làm công sở
bàn tán về bọn gái ăn sương, lảng vảng ở vườn hoa. [2, Truyện người hàng xóm,
tr.529]
- Dưới màn khói mỏng, bóng dáng mấy cô gái “ăn sương” thoắt ẩn thoắt
hiện.[44]
- Thế giới ngầm ở Malaysia: Gái “ăn đêm” ở Kuala Lumpur [45]
- Hai cô gái trẻ trong băng trộm xe máy chuyên ăn đêm [46]
Có thể nói, cái “ăn” đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của
người Việt, nó có liên hệ mật thiết với các hành vi ứng xử của con người với con
người trong xã hội. Sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các từ/ tổ hợp trong nhóm này
đã tạo ra rất nhiều nghĩa phái sinh, đặc biệt trong các thành ngữ đã diễn tả một cách
sinh động bao trùm mọi khía cạnh sinh hoạt đời sống con người. Như lối sống, nhân
cách, đặc biệt là cách đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống gia đình và xã
hội. Những thân phận vất vả hay cuộc sống mưu sinh cực nhọc, phải bươn trải để
45
kiếm miếng ăn. Và cả số kiếp con người gắn liền với nghề nghiệp. Có thể nói
chuyện ăn của người Việt là một bài học vô cùng đa dạng.
2.2.3. Ăn + hoạt động
Trong tiếng Việt, từ “ăn” khi vận động tạo nghĩa, đã đóng vai trò như một
hình vị cấu tạo từ, khi đó, yếu tố ‘ăn” được ghép với rất nhiều động từ như: Ăn bận,
ăn chơi, ăn diện, ăn học, ăn khách, ăn làm, ăn mặc, ăn nằm, ăn năn, ăn nhậu, ăn
nói, ăn ở, ăn thề, ăn tiêu, ăn uống, ăn vận, ăn xài… để chỉ các hoạt động sinh hoạt
cơ bản của con người. Sự kết hợp của yếu tố “ăn” với các động từ chỉ hoạt động
sinh hoạt hàng ngày, đã tạo ra các cặp từ ghép. Trong kết hợp (Ăn + X), vai trò
của Ăn và X là như nhau. Và thường nói về các hoạt động tính chất khái quát như:
ăn uống, ăn chơi, ăn nhậu, ăn nói, ăn ngủ, ăn nằm, ăn ở, ăn diện, ăn tiêu… các từ
ghép này không mô tả động từ “ăn” đặt trong kết hợp với một hành động khác
(như “ăn” + “uống”, “diện”, “tiêu”…) mà diễn đạt một ý nghĩa khái quát, mang
nét nghĩa bao hàm rộng hơn “ăn”. Cụ thể, “ăn uống”: chỉ việc ăn uống sinh hoạt
của con người nói chung; “ăn nói”: chỉ hoạt động, hành vi nói năng, giao tiếp của
con người theo thang đo chuẩn mực chung của xã hội; “ăn chơi” chỉ một lối sống
xa hoa, hưởng thụ, đua đòi; “ăn ngủ” nói về nếp sinh hoạt ăn và ngủ của con người,
khi chuyển nghĩa chỉ việc nam nữ quan hệ tình dục; “ăn nằm” không phải đơn
thuần chỉ hoạt động “ăn” và “nằm” hay tư thế khi ăn, mà chuyển nghĩa chỉ hoạt
động quan hệ tình dục; “ăn diện” mang ý nghĩa chỉ cách phục sức, ăn mặc hơi cầu
kỳ, có xu hướng thời thượng; “ăn tiêu” chỉ việc tiêu pha, mua sắm, quản lí tài chính
phục vụ cho nhu cầu của con người nói chung... Các kết hợp này hầu như đều kiến
tạo nên nét nghĩa phái sinh của từ “ăn”. Ví dụ:
- Ăn nói như cái đồ cục súc. Được rồi, không khiến đuổi. [2, Con mèo, tr.31]
- Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị phải nhìn trộm bà cô, rồi nhìn
nhanh xuống bụng.[ 2, Chí Phèo, Tr.62]
46
- Lo hết kinh tế vẫn chăm sóc gia đình chu đáo vậy mà gã chồng vẫn ăn nằm
với osin [48]
Từ “ăn nằm” khi hoạt động trong thành ngữ, bằng cách tách - xen, đã tạo nên
các thành ngữ mang hướng nghĩa biểu trưng chỉ cuộc sống lao động mưu sinh vất
vả, cực nhọc, lam lũ của con người như: Ăn gió nằm mưa; Ăn gió nằm sương.
Trong các ngữ cảnh có sử dụng thành ngữ này, ý nghĩa biểu trưng về sự vất vả rất
rõ được thể hiện rất rõ nét. Ví dụ:
- “Ăn gió nằm sương” kiếm tết ở đảo hoa độc nhất Tây Nguyên [49]
- Trong ba ngày Tết, đồng bào ai cũng đoàn tụ sum vầy xung quanh những
bình hoa, mâm bánh. Còn các bạn thì chịu ăn gió, nằm mưa lạnh lùng ở chốn sa
trường. [50]
- Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm (472, Chú giải Truyện Kiều) [51]
Trong nhóm từ ngữ trên, từ “ăn nói” vốn chuyển nghĩa chỉ hoạt động nói năng,
giao tiếp nói chung, đã tham gia vào hoạt động trong thành ngữ mạnh nhất, với
cách cấu tạo tách xen “ăn – nói” góp phần kiến tạo nên hướng nghĩa biểu trưng chỉ
văn hóa ứng xử, lối sống, phẩm chất, hành vi của con người. Trong đó, phần đa là
mang sắc thái phê phán, tiêu cực. Ví dụ: Ăn thô nói tục; ăn hơn nói kém; ăn thừa
nói thiếu; Ăn lắm, nói nhiều; Ăn tục, nói khoác; Ăn ngược nói ngạo; Ăn ốc nói
mò; Ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo... Tuy nhiên, nhiều thành ngữ có sự tham gia
cấu tạo bởi “ăn nói” mang nét nghĩa biểu trưng tích cực, chỉ hành vi nói năng chuẩn
mực, khuôn phép, đúng phép tắc xã hội của những con người có tri thức, có văn
hóa, biết đối nhân xử thế. Ví dụ: Ăn bớt bát, nói bớt lời (hành vi nhường nhịn); ăn
ngay nói thẳng; ăn bằng nói chắc (con người thật thà, chất phác, lối sống thẳng
thắn, chân thành). Điều đó cho chúng ta thấy, rõ ràng “ăn-nói” thể hiện trình độ văn
hóa của mỗi con người. Một số ngữ cảnh xuất hiện các thành ngữ liên quan đến “ăn
nói” cũng bộ lộ rõ nét các nghĩa biểu trưng của thành ngữ. Ví dụ:
47
- Lý giải về sự trỗi dậy của "hiện tượng Donald Trump", chuyên gia phân
tích Scot Faulkner cho rằng phong cách ăn ngay nói thẳng của ông Trump đang
làm hả dạ những người bảo thủ.[54]
- Muốn khoa học công nghệ nói riêng, nền khoa học kỹ thuật Việt Nam nói
chung phát triển thì một trong những việc cần làm ngay là cải cách thể chế chính
sách để các nhà khoa học tập trung cho nghiên cứu, sáng tạo, nhất là không biến
các nhà khoa học thành “ăn gian, nói dối”.[55]
- Bạn hãy tin rằng, mọi ý nghĩ không hay về các cặp chồng già vợ trẻ đều chỉ
là trò “ăn ốc nói mò”, vô cùng thiếu cơ sở.[56]
Trong quá trình khảo sát thực tế ở ngôn ngữ đời sống cũng như ngôn ngữ
văn chương cho thấy, có một điều khá thú vị đối với từ “ăn” đó là: Trong các kết
hợp với các từ liên quan đến nhu cầu, hoạt động thường ngày, gắn liền với bản năng
sinh tồn của con người như: ăn, uống, ở, mặc, ngủ, nằm… thì từ “ăn” luôn đứng ở
vị trí thứ nhất, đứng trước các động từ như: ăn- ngủ, ăn- mặc, ăn – uống, ăn-
chơi…. Nhưng riêng đối với động từ “làm” thường hay đứng trước từ “ăn”, “làm
ăn”. Điều đó phản ánh tư duy truyền thống của người Việt. Ông cha ta đã trải qua
rất nhiều khó khăn vất vả trong cuộc đấu tranh để sinh tồn và đã đúc rút được kinh
nghiệm, con người muốn có cái ăn, phải bỏ sức lao động và mồ hôi nước mắt thì
mới có thành quả tốt đẹp được. Ví dụ:
- Rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn.[ 2, Một đám
cưới, tr.294]
- Mai sau, trời cho làm ăn khá giả, có tiền ra làm công việc, cũng chẳng còn lo
thiếu chữ…[2, Truyện người hàng xóm, tr.492]
Cho nên trong các thành ngữ nói về cái ăn cũng thường gắn liền với từ chỉ
hoạt động “làm”. Bởi ông cha ta quan niệm “Có làm thì mới có ăn” và luôn phê
phán những kẻ hay ăn mà chỉ muốn hưởng thụ, lười biếng không muốn làm việc thì
48
không thể tồn tại lâu dài được. Ví dụ: Ăn thật làm giả; ăn kỹ làm dối; hay nói về
những tình huống gặp may, thuận lợi: Làm chơi ăn thật. Ví dụ:
- Theo lý giải của bạn đọc thì lương thấp là vì phải san sẻ với những đồng
nghiệp "ăn thật làm giả" [57]
- Nông dân trồng cây cảnh “làm chơi ăn thật” [58]
- Nhưng toàn những cha ăn kỹ làm dối, một nhát đến tai, hai nhát đến gáy…
Thoạt nhìn, biết ông là người cẩn thận…[59]
Cái “ăn” cũng thường đi liền với cái “mặc”. “Ăn mặc” ngoài nghĩa gốc chỉ
hoạt động “ăn” (để duy trì sự sống) và “mặc” (để giữ ấm, bảo vệ cơ thể), đã được
chuyển mang nghĩa khái quát chỉ cách phục sức, trang phục của con người, trong đó
hàm chứa cả nét nghĩa về văn hóa thẩm mỹ. Ví dụ:
- Theo tôi, văn hóa không 'nằm' ở những chiếc váy mà ở trên não người mặc.
Nếu thực sự là người có văn hóa, bạn sẽ thể hiện văn hóa ăn mặc của mình tùy
theo hoàn cảnh…” [60]
- 15 phong cách thời trang đúng là xúc phạm nền văn hóa ăn mặc thế
giới[61]
- Chiếc áo không làm nên thầy tu” nhưng cách bạn ăn mặc, quần
áo, trang phục lại ảnh hưởng đến việc mọi người nghĩ bạn có đủ năng lực hay
không đấy. [62]
Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn mặc” với kiểu kết hợp tách xen đã góp
phần tạo nên hướng nghĩa biểu trưng của thành chỉ triết lí sống của con người về
cuộc sống vật chất và tinh thần như phản ánh cuộc sống khổ cực vất vả, thiếu thốn
của người dân lao động: Ăn đói mặc rách; Ăn đói mặc rét; đề cao lối sống tiết
kiệm, phù hợp với hoàn cảnh: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Ăn lấy đặc, mặc lấy dày;
Ăn chắc mặc bền; rồi đến Ăn no, mặc ấm, và khi xã hội phát triển hơn thì vươn đến
tiêu chí Ăn ngon mặc đẹp; Ăn trắng mặc trơn; Ăn sung mặc sướng…. phản ánh
mong ước bình dị của người lao động xưa về một cuộc sống no ấm và đủ đầy cũng
49
như phản ánh tinh thần tiết kiệm, lối sống thiết thực, biết lo toan tính toán cho phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình để xây dựng cuộc sống ổn định và bền vững.
Trong ngôn ngữ đời thường, khi thành ngữ chứa “ăn mặc” xuất hiện trong ngữ cảnh
cũng bộc lộ rõ nét nghĩa biểu trưng trên. Ví dụ:
- Lao động từ Algeria 'ăn đói, mặc rách' về nước [63]
- …bà đã phải thắt lung buộc bụng, ăn đói mặc rách để cho anh, chính anh
cũng phải nhịn đủ thứ, để không tiêu cho nó đi nhanh quá.[2, Nhỏ nhen, tr.78]
- Ở độ tuổi 30, họ sở hữu trong tay khối tài sản đủ để ăn sung mặc sướng
đến hết cuộc đời. [64]
Tuy nhiên, đối với thành ngữ “ăn chắc mặc bền” các ngữ cảnh xuất hiện thành
ngữ này lại dùng cho nhiều sự việc, hiện tượng mà không liên quan gì đến việc “ăn
mặc”, các nét nghĩa phái sinh ở đây để chỉ những tính cách của con người hoặc
những giải pháp mang tính cẩn thận, chắc chắn. Hay “ăn trắng mặc trơn” để chỉ
hạng người lười lao động, chỉ muốn hưởng thụ. Ví dụ:
- Ngay đến dệt vải, cũng không biết dệt. Ăn không nhi dĩ! Mà lại thích ăn
trắng mặc trơn. [2, Sống mòn, tr.637]
- Hướng đến giải pháp “ăn chắc, mặc bền” cho giới tiểu thương và người lao
động. [65]
- Người có tiền và muốn ăn chắc mặc bền, ngại phải vào garage vì sợ tốn
tiền, sợ tốn xăng nuôi xe thì mới chọn xe Nhật. [66]
- Lập kỷ lục SEA Games mới, Nguyễn Huy Hoàng “ăn chắc mặc bền” mỗi
ngày một vàng. [67]
Trong tiếng Việt, phạm trù “ăn” cũng thường gắn liền với phạm trù “ở”.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe ông bà ta thường nói:
Đường ăn ý ở; Thói ăn nết ở. Ngoài ý nghĩa mang tính khái quát, từ “ăn ở” còn
biểu thị cách cư xử giữa con người với nhau trong cuộc sống. Ví dụ:
50
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không [68]
- Điều cốt yếu là họ ăn ở đối xử với nhau ra sao, chứ tôi thấy các bạn trẻ
bây giờ ngày càng lãng phí. [69]
- Đấy cứ ăn ở độc ác cho lắm vào! [2, Nửa đêm, tr.329]
Ngoài ra, từ “ăn ở” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra những nét nghĩa
mới, biểu thị việc quan hệ tình dục khi chưa phải là vợ chồng chính thức. Ví dụ:
- Hai người đã ăn ở với nhau như vợ chồng. [70]
- Có tình cảm nào với sự biết ơn mà đến với nhau, ăn ở với nhau dẫn đến
quan hệ? [71]
Khi hoạt động trong thành ngữ, sự kết hợp của từ “ăn ở” với các tổ hợp từ đã
tạo nên rất nhiều nghĩa phái sinh trong thành ngữ. Có thể là cách đối nhân xử thế,
sống với nhau cho trọn tình, trọn nghĩa, trước sau như một: Ăn ở như bát nước đầy;
đôi khi là lên án, phên phán những hạng người sống không thủy chung, hay thay
lòng đổi dạ: Ăn ở hai lòng; phản ánh lối sống tiết kiệm, biết tính toán, lo liệu cho
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình được coi là kim chỉ nam cho lối sống
của người dân Việt: Ăn cần ở kiệm; Ăn tằn ở tiện; phản ánh hoàn cảnh sống vất
vưởng, sống nhờ sống gửi, tạm bợ: Ăn nhờ ở đậu; Ăn nhờ ở gửi; hoặc phản ánh
những mảnh đời phải bươn trải, cực khổ trong cuộc sống mưu sinh: Ăn bờ, ở bụi;
phê phán hạng người nông nổi, chỉ tính chuyện trước mắt, không suy nghĩ đến
chuyện lâu dài: Ăn xổi ở thì; phản ánh thói quen sinh hoạt bừa bãi, lối sống cẩu thả,
mất vệ sinh: Ăn lông ở lỗ. Các thành ngữ này khi hoạt động trong các ngữ cảnh
cũng bộc lộ rõ hướng nghĩa biểu trưng này. Ví dụ:
- Người Việt vẫn dặn nhau “ăn ở như bát nước đầy” và trong quan hệ với
Trung Quốc, Việt Nam luôn thực tâm giữ gìn, thậm chí nâng niu bát nước tình
nghĩa ấy. [73]
51
- “Ăn bờ ở bụi” đón tết xa nhà hay đón giao thừa muộn là những chuyện đã
quá quen thuộc đối với những người chuyên nghề trồng hay buôn bán đào, quất,
cây cảnh chưng tết. [74]
- Xuất khẩu LĐ (XKLĐ) chuyển sang cơ chế thị trường đã lâu nhưng vẫn hoạt
động theo kiểu “ăn xổi ở thì”. [75]
- Cũng có ông "ăn ở hai lòng". Tình cảm đem chia sẻ nhiều nơi, chỉ dành cho
vợ phần nhỏ nhất. [76]
Thông qua các kết hợp tạo nên các hướng nghĩa phái sinh của từ “ăn” và các
từ có chứa yếu tố “ăn” trong các ngữ cảnh và sự hoạt động trong thành ngữ như
trên, chúng ta thấy, phạm trù “ăn” gắn bó mật thiết với mọi phương diện trong đời
sống xã hội của con người. Có thể nói, từ “ăn” đã kết hợp rất linh hoạt và đa dạng
với các từ/ tổ hợp từ để phản ánh mọi hoạt động trong đời sống của con người, từ
đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Trong các kết hợp, “ăn” chủ yếu được
dùng với nghĩa chuyển, không còn đơn thuần chỉ hoạt động ăn uống dung nạp thức
ăn để sinh tồn, mà phản ánh tư duy, cách cảm, cách nghĩ, cách đánh giá, nhìn nhận
con người trong xã hội; góp phần bộc lộ nhân cách, bản chất con người mà ít hoạt
động nào liên quan đến con người lại có sự đa tầng ngữ nghĩa như vậy. Đặc biệt,
khi tham gia cấu tạo thành ngữ, “ăn” góp phần tạo nên nhiều hướng nghĩa biểu
trưng phong phú, phản ánh cái nhìn gần như toàn diện của ông cha ta về phép đối
nhân, xử thế; hành vi; nhân cách; bản tính tích cực hay tiêu cực của con người,
thành ngữ chứa “ăn” mang đủ ý nghĩa thiên biến vạn hóa trong văn hóa Việt.
2.2.4. Ăn + địa điểm/ vị trí
Đối với người Việt, từ bao đời nay phong tục tập quán ăn uống đã hình
thành dưới tác động chi phối của điều kiện môi trường tự nhiên, khí hậu nhiệt
đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều. Sống trong môi trường tự nhiên ấy, con
người đã thích nghi, gắn bó và tận dụng các nguồn tài nguyên của thiên nhiên
ban tặng để đảm bảo cuộc sống của mình. Dấu ấn của môi trường tự nhiên
52
được thể hiện rõ nét trong cơ cấu thành phần bữa ăn, đặc biệt là nơi chốn hay
địa điểm trong sinh hoạt ăn uống của người Việt. Thông qua sự kết hợp của
thành tố “ăn” với các địa điểm sẽ phác họa cho chúng ta thấy được những nét
độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt.
Với kết cấu “ăn + địa điểm” trong đó đó yếu tố địa điểm là nơi mang tính
chất điển hình gắn liền với hoạt động ăn uống như: ăn hàng, ăn quán, ăn chợ…
Nhưng trong ngôn ngữ đời sống hiện nay, chúng ta thấy có những địa điểm không
phải là nơi trực tiếp cung cấp thức ăn, cũng không liên quan gì đến hoạt động ăn
uống như: ăn đường, ăn đường ăn chợ, ăn bờ ở bụi, ăn xó mó niêu…cách kết hợp
này đã tạo ra các nghĩa phái sinh, biểu thị những lối sống khác nhau của con người.
Ví dụ:
- Trưởng ấp... ăn đường [79]
- Ngồi tù vì ăn đường giao thông [80]
- Ngày tôi còn nhỏ, ăn đường ăn chợ có khi còn bị coi là thiếu văn hóa.
[81]
- Trọng thị người thầy để họ không... "ăn xó mó niêu" [82] - 6 tháng 'ăn bờ, ngủ bụi' của trinh sát phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ
đồng game đế) [83]
- Bộ đội Biên phòng “ăn bờ, ngủ bụi” chặn dòng người nhập cảnh trái
phép [84]
Ở đây, chúng ta thấy sự phong phú và tinh tế trong sự kết hợp của “ăn” với
tư cách là một từ đa nghĩa trong tiếng Việt. Mỗi địa điểm khi kết hợp với từ “ăn” lại
phái sinh sang một hướng nghĩa mới, tạo nên sắc thái và giá trị ngữ dụng riêng.
Khi hoạt động trong thành ngữ, “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ địa
điểm đã góp phần tạo nên những hướng nghĩa biểu trưng cho thành ngữ, trong đó
chủ yếu mang sắc thái tiêu cực, răn dạy hay phê phán con người về cách ứng xử
trong cuộc sống như: Ăn trên ngồi chốc (nói về những kẻ quyền thế, chuyên vơ vét
của dân, tự cho mình ở tầng lớp thượng đẳng); Ăn xó mó niêu; Ăn lông ở lỗ, để chỉ
53
lối sống bần tiện, ăn uống bẩn thỉu, thô tục. Trong một số ngữ cảnh, các nét nghĩa
trong thành ngữ lại được biểu thị thêm những nét nghĩa mới như địa điểm sống chui
lủi hay cách làm việc lố bịch, phản cảm, thiếu văn hóa. Ví dụ:
- Quan điểm này trái ngược hoàn toàn với thông tin của Mỹ, rằng trùm
khủng bố al-Qaeda đang phải “ăn lông ở lỗ”.[85]
- ...bên tây họ đẹp ở cách ăn mặc lịch sự còn bên ta lại lấy vẻ đẹp trùng trục
như trâu để coi là đẹp....trông lố bịch quá....chỉ hơn thời ăn lông ở lỗ là có cái
quần" [86]
2.2.5. Ăn + hành vi chiếm đoạt hoặc những hoạt động phạm pháp
Trong tiếng Việt, “ăn” có thể kết hợp với các từ/ tổ hợp từ để biểu thị hành
vi chiếm đoạt hoặc những hoạt động phạm pháp như: ăn cắp, ăn chặn, ăn chẹt, ăn
cướp, ăn hiếp, ăn hối lộ, ăn quỵt, ăn trộm. Yếu tố “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp
từ đã tạo ra rất nhiều từ ghép biểu thị những khái niệm mới. Ngữ nghĩa của những
từ này hoàn toàn không liên quan gì đến hoạt động ăn uống, chủ yếu “ăn” được
dùng theo nghĩa phái sinh tiêu cực, chỉ những hành vi, nhân cách, lối sống thiếu
chuẩn mực, những hoạt động phạm pháp hay thứ nghề nghiệp bị xã hội lên án, tẩy
chay, phản ánh những hành vi đi ngược lại với giá trị sống nhân văn của cộng
đồng. Trong các ngữ cảnh đời sống, những kết hợp này được thể hiện khá phong
phú. Ví dụ:
- Ăn hối lộ, cựu thị trưởng Thâm Quyến lãnh án tử hình [87]
- Ăn chặn tiền suất ăn của học sinh tiểu học [88]
- Người ta có thể đã quen với những hành vi ăn cắp vặt chỗ này, chỗ kia vì nó
vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng việc ăn chặn hàng cứu trợ dành cho những người
già neo đơn, những trẻ em mồ côi ở trung tâm này, thật là hành vi quá xấu xa,
không thể nào chấp nhận được. [89]
- Biển báo giao thông bị "ăn hiếp"[90]
- Những kẻ ăn chẹt ở Phố Wall [91]
54
- Người ta chẳng ăn lường ăn quỵt của ai nó cũng đặt điều nói vu cho người
ta được….[ 2,Truyện người hàng xóm, tr.420].
Từ những ví dụ trên đây cho thấy, tùy mỗi ngữ cảnh, từ/yếu tố “ăn” kết hợp
với các từ/ tổ hợp từ đã tạo ra rất nhiều từ ghép biểu thị những khái niệm mới. Ngữ
nghĩa của những từ này hoàn toàn không liên quan gì đến hoạt động ăn uống.
Chẳng hạn như “ăn cắp vặt” để chỉ tính cánh con người có thói quen chuyên lén lút
lấy trộm của người khác khi họ sơ hở; “ăn chẹt” để chỉ những kẻ lợi dụng người
khác gặp thế bí để kiếm lợi về phần mình; “ăn quỵt” để chỉ hành động cố tình lấy
không, không chịu trả cái đáng lẽ ra phải trả. Bên cạnh đó sự kết hợp của từ “ăn”
trong nhóm này cũng tạo ra các từ chỉ các hoạt động phạm pháp hoặc tội ác gắn liền
với nghề nghiệp như: Ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp. Ví dụ:
- Toàn những tội ăn vụng, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày, ăn nhặt! Chao ôi! vợ hắn
bêu hắn quá![2, Đòn chồng, tr.102]
- Ăn trộm bị phát hiện, trả thù bằng... xăng![92]
- Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão quá lương
thiện. [2, Lão Hạc,Tr.55]
- Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của
ai [2,Tư cách mõ, tr.212]
- Ấy thế là chúng vừa mua, vừa ăn cướp.[2, ở hiền, tr.240]
Khi các kết hợp của “ăn” này hoạt động trong thành ngữ, góp phần tạo
nên các hướng nghĩa biểu trưng của thành ngữ như: chỉ hành vi chiếm đoạt của
người khác những thứ không thuộc về mình: Ăn cắp ăn nảy, Ăn trộm ăn cắp, Ăn
cắp như ranh; hay những hành vi thể hiện nhân cách xấu xa, bị xã hội lên án
như: Ăn đút ăn lót.
2.2.6. Ăn + hành vi trục lợi
Từ/yếu tố “ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ các hành vi mang tính chất
trục lợi đã tạo nên rất nhiều nghĩa phái sinh cho “ăn”, phản ánh nhiều chiều về tính
55
cách, lối sống, hoàn cảnh sống của con người, thường là mang hướng nghĩa tiêu cực
như: Ăn bám, ăn bớt, ăn cánh, ăn chia, ăn gian, ăn hớt, ăn rơ, ăn người, ăn mảnh,
ăn tiền,... Ngữ nghĩa của nhóm từ này được thể hiện khá phong phú trong ngôn ngữ
đời sống và đặc biệt là khi hoạt động trong thành ngữ. Ví dụ:
- Cũng lạ! Người anh em toàn đi ăn mảnh. [2, Ở rừng, tr.809]
- Trước thực trạng trên dư luận không khỏi đặt nghi vấn: Có hay không việc
chính quyền “ăn rơ” với doanh nghiệp? [93]
- Vụ bệnh viện Xanh Pôn gian lận xét nghiệm HIV: “Ăn gian” quy trình gây
sai số như thế nào? [94]
- Ăn chia "tàn bạo" ở dự án KĐT Thanh Hà, ông Trịnh Xuân Thanh có liên
quan? [95]
- "Ăn bẩn", 3 cựu cán bộ công an “chia nhau” 21 năm tù [96]
Có thể nói sự kết hợp của từ “ăn + hành vi trục lợi” ngoài việc tạo ra các tổ
hợp nghĩa đen chỉ các hành vi liên quan đến hoạt động ăn, còn bao hàm các nét
nghĩa bóng chỉ các hành vi, nhân cách, lối sống hay cách thức làm việc… của con
người. Các hành vi đi kèm trong tổ hợp với từ “ăn” ở đây đều mang sắc thái tiêu
cực. Phần lớn là các hành vi, những thủ đoạn, mánh khóe trong những việc làm bất
lương và cả những việc không hợp pháp, đi ngược với giá trị sống của cộng đồng,
trái với thuần phong mỹ tục, bị xã hội lên án, tẩy chay. Chẳng hạn như: “ăn mảnh”
để chỉ hành động lén lút, giấu giếm để hưởng lợi riêng, hay “ăn gian” chỉ hành
động cố tình làm sai để thu phần lợi về mình, “Ăn rơ” (Đây là từ bắt nguồn từ tiếng
Pháp: “Jeu” là cuộc chơi), để chỉ sự hợp tác với nhau trong chuyện làm ăn với mục
đích xấu.
Tuy nhiên, từ “ăn bám” ngoài ý nghĩa để chỉ những kẻ có sức lao động
nhưng không làm việc, sống nhờ vào sức lao động của người khác, thì trong ngôn
ngữ đời sống hiện nay, từ “ăn bám” còn chuyển nghĩa, chỉ sự lợi dụng hay phụ
thuộc. Ví dụ:
56
- UBND TP.HCM chỉ đạo xử lý nạn "ăn bám trẻ em" [97]
- Bất động sản đang “ăn bám” thị trường tài chính. [98]
- Quỹ ngoài ngân sách 'ăn bám' ngân sách. [99]
- Điện ảnh ăn bám “sao”. [100]
- Philippines nói muốn tự củng cố năng lực phòng thủ, không 'ăn bám' vào
nước khác. [101]
Trong ngôn ngữ đời sống hiện nay còn có cách kết hợp được giới trẻ ưa sử
dụng như “ăn chùa” (để chỉ hành vi ăn của những kẻ chỉ muốn ăn của người khác
mà không muốn trả tiền của mình). Ví dụ:
- “Ăn chùa” cả chục lần nhưng không mời lại một lần. [102]
- Không đến muộn nhưng nhiều thanh niên "ăn chùa” vẫn xù được tiền ăn
bằng cách cố tình về sớm. [103]
Khi hoạt động trong thành ngữ, các kết hợp “Ăn + hành vi trục lợi” đã tạo
nên hướng nghĩa biểu trưng chỉ những hành vi thể hiện nhân cách xấu xa: Ăn gian
nói dối; ăn gian nó giàn ra đấy; hay để chỉ những kẻ lười lao động, sống nhờ vào
sức lao động của người khác: Ngồi không ăn bám.
Như đã thấy, “ăn” không chỉ là hoạt động mang tính bản năng để duy trì sự
sống của con người mà “ăn” là cả một vấn đề ứng xử, vấn đề xã hội. Nó thể hiện
những nét đặc trưng văn hóa, gắn với mỗi cộng đồng với những thói quen, tập tục.
Đặc biệt là ẩn chứa trong đó những bài học về nhân cách, là quan niệm về nhân
sinh, về cuộc sống và các đạo lý, các cách hành xử trong xã hội của con người.
Thông qua các kết hợp tạo nên các hướng nghĩa phái sinh của từ “ăn” chúng ta
thấy, phạm trù “ăn” gắn bó mật thiết với mọi phương diện trong đời sống xã hội của
con người. Trong các kết hợp, “ăn” chủ yếu được dùng với nghĩa chuyển, không
còn đơn thuần chỉ hoạt động ăn uống dung nạp thức ăn để sinh tồn, mà phản ánh tư
duy, cách cảm, cách nghĩ, cách đánh giá, nhìn nhận con người trong xã hội; góp
phần bộc lộ nhân cách, bản chất con người mà ít hoạt động nào liên quan đến con
57
người lại có sự đa tầng ngữ nghĩa như vậy. Đặc biệt, khi tham gia cấu tạo thành
ngữ, “ăn” góp phần tạo nên nhiều hướng nghĩa biểu trưng phong phú, phản ánh cái
nhìn gần như toàn diện của ông cha ta về phép đối nhân, xử thế; hành vi; nhân cách;
bản tính tích cực hay tiêu cực của con người, thành ngữ chứa “ăn” mang đủ ý nghĩa
thiên biến vạn hóa trong văn hóa Việt.
Tiểu kết chương 2
Từ kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi thấy “ăn” là một từ rất đặc biệt, có
khả năng phái sinh nghĩa phong phú, diễn tả được mọi khía cạnh trong đời sống vật
chất cũng như đời sống tinh thần của người Việt. Trong nhiều trường hợp, “ăn” còn
đóng vai trò như một hình vị tham gia cấu tạo từ, có khả năng kết hợp mạnh với
nhiều từ loại khác, tạo nên các lớp nghĩa mới trong tiếng Việt. Sự kết hợp ấy được
thể hiện phong phú trong ngôn ngữ đời sống, trong văn học và đặc biệt là trong
thành ngữ. Đây là từ có khả năng phái sinh nghĩa và sự phát triển nghĩa mạnh mẽ
nhất. Ở nghĩa gốc, từ “ăn” mang sắc thái trung tính. Tuy nhiên, khi đi vào các kết
hợp tạo nên nghĩa phái sinh, thì sắc thái biểu cảm của từ “ăn” hoặc các từ chứa yếu
tố “ăn” cũng thay đổi tùy theo ngữ cảnh.
Cơ chế tạo nghĩa của “ăn” có thể khái quát thành 6 nhóm cơ bản. Trong đó
từ “ăn”/ các từ chứa yếu tố “ăn” hoạt động vô cùng linh hoạt, có khi là động từ có
khi lại là danh từ chỉ “sự ăn” kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ mục đích; chỉ cách
thức; chỉ hoạt động; chỉ địa điểm; chỉ các hành vi chiếm đoạt; chỉ hành vi trục lợi …
thông qua đó để khen ngợi hoặc phê phán, lên án những lối sống, tính cách, nhân
phẩm hay cách đối nhân xử thế của con người trong cộng đồng xã hội. Từ nghĩa
gốc của từ “ăn”, khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo thành vô số những từ mới,
khái niệm ăn của người đã được mở rộng, bao trùm mọi mặt sinh hoạt, nghề
nghiệp, tính cách con người. Từ “ăn” với tư cách là một từ đa nghĩa đã phản ánh rõ
nét lối tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt.
58
Chương 3
NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP
CỦA NHÓM TỪ ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt
Ăn là một trong những hoạt động cơ bản nhất, gắn liền với con người ngay
từ buổi sơ khai. Trong tiếng Việt, từ “ăn” cũng là một trong những từ có rất nhiều
từ đồng nghĩa. Theo cuốn: “Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt” của tác giả Nguyễn
Văn Tu [42, tr. 22-23], từ “ăn” có 5 từ đồng nghĩa gồm: xơi, chén, mời, hốc, nhậu
(Phương ngữ Nam bộ), mỗi từ được sử dụng tùy từng hoàn cảnh và mang những
sắc thái biểu cảm riêng.
Trên từ điển http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/, từ “ăn” có các từ đồng nghĩa
sau: hốc, ngốn, tọng, xực. Tuy nhiên, trên thực tế, qua quá trình khảo sát trong ngôn
ngữ đời sống, ngôn ngữ báo chí và trong các tác phẩm văn chương, trong những
ngữ cảnh nhất định, chúng tôi nhận thấy còn có rất nhiều từ đồng nghĩa với từ “ăn”
như: đánh chén, đớp, đánh, dùng, làm, thưởng thức, cắn, nếm, ngoạm, tợp, thời
(Phương ngữ Đà Lạt), đả, lùa, lẻm, thụ, nốc ,hớp, ngốn, nhắm, nhắm nhót, nhấm
nháp, nhâm nhi, xực (Hoa ngữ), thực (từ Hán - Việt). Nhóm từ ngữ này là một bức
tranh sinh động về sự sáng tạo và độc đáo về các phương tiện ngữ nghĩa nhằm phản
ánh tư duy của con người.
Trong cuốn “Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt” của tác giả Nguyễn Văn Tu
[42, tr.22-23] tác giả đã giải thích nghĩa của các từ như sau.
a. Xơi: ăn (nói lịch sự trang trọng): Mời bác ở lại xơi cơm với bố mẹ cháu; Mời
cụ xơi tạm chén rượu nhạt.
b. Chén (khẩu ngữ) ăn mà có rượu uống, có thức ăn khá ngon lành: chén cỗ.
c. Mời (Lễ phép, kính trọng): Bà mời nước đi.
59
d. Hốc: Ăn, nói tục hoặc khi nói muốn xỉ vả người khác: Hốc nhanh lên
rồi còn đi.
e. Nhậu: Ăn (phương ngữ Nam Bộ): Nhậu tiếp
Có thể nói, thông qua sự khái quát các nét nghĩa của các từ trong nhóm từ
đồng nghĩa với từ “ăn” cho chúng ta thấy sự phong phú và độc đáo trong văn hóa
ăn của người Việt. Mỗi một từ mang những sắc thái biểu cảm riêng phù hợp với
từng ngữ cảnh để phản ánh mọi cung bậc cuộc sống cũng như lối tư duy của người
Việt thông qua hoạt động “ăn”. Trong nhóm từ đồng nghĩa này, từ “ăn” đóng vai
trò là từ trung tâm, mang tính chất toàn dân được sử dụng phổ quát. Trong đó từ
“nhậu” là phương ngữ Nam Bộ, được sử dụng ở phạm vi hẹp hơn. Đây cũng là từ
đóng vai trò quan trọng trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, tạo nên sự đa dạng, phong
phú, mang sắc thái địa phương để làm giàu thêm cho vốn từ vựng của tiếng phổ
thông.
3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn”trong tiếng Việt
3.2.1. Ngữ nghĩa của từ “xơi”, “mời”
Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê. Nghĩa của từ “xơi” và
“mời” có các nét nghĩa như sau:
+ Xơi đg. 1 (trtr.) . Ăn, uống. Hoặc hút (thường dùng trong lời mời chào).
Mời bác xơi cơm. Mời vào nhà xơi nước.
2 (thgt). Tiêu diệt trong chiến đấu: Xơi gọn cả tiểu đoàn địch.
3 (thgt.). Phải chịu, bị (điều không hay). Xơi đòn đau. [25, tr.1479]
+ Mời đg. 1. Tỏ ý mong muốn, yêu cầu người khác làm việc gì một cách lịch
sự, trân trọng. Mời anh đến chơi. Đưa tay mời. Kính mời. Giấy mời họp. Mời cơm
thân mật (trtr.; mời ăn cơm).
2 (ph). Ăn hoặc uống (Nói về người đối thoại, một cách lịch sự). Anh
mời nước đi. Các bác đã mời cơm chưa? [25, tr.831]
60
Từ “xơi”, “mời” được sử dụng để mời trong ăn uống, trong những ngữ cảnh
giao tiếp xã giao hay khuôn phép nhằm thể hiện sự lịch sự, lễ phép, kính trọng đối
với người được mời. Đây được coi là “kính ngữ” thường được dùng để mới đối với
người lớn tuổi hơn, người có vị thế cao hơn hay trong giao tiếp cần nghi lễ trang
trọng, lịch thiệp.
Đối với từ “xơi”, đây là những từ được sử dụng nhiều cả trong ngôn ngữ đời
sống và trong ngôn ngữ văn học. Ngoài những nghi lễ xã giao, từ “xơi được dùng
nhiều trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là trong các gia đình trí thức, có
truyền thống giáo dục cao, thể hiện nét đẹp trong triết lí “lời chào cao hơn mâm cỗ”
của người Việt, thường gắn liền với lời mời có tính trang trọng trong bữa ăn hoặc
trà dư tửu hậu. Ví dụ:
- Bác xơi quả trứng nhé, một hay hai? [23, Phở, tr.269]
- Mời cụ xơi đi, cụ ạ. Ta uống mau lên một tý để còn đi tìm bàn chắn chứ!..
[2, Truyện người hàng xóm, tr.516]
- Thầy có xơi cháo đậu, để u con đi nấu. [2. Nước mắt, tr.384]
- Vâng, mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã.[ 2, Một đám cưới,
tr.294]
- Mời các ông xơi rượu rồi ăn cơm. [ 2, Quái dị, tr.157]
Từ “xơi” ngoài việc biểu thị hoạt động “ăn”, khi kết hợp trong một số ngữ
cảnh, đã tạo nên nhiều các nghĩa phái sinh mới như thể hiện hành động chiếm đoạt
trong quan hệ tình dục hay hành vi ngoại tình. Ví dụ:
- Dám xơi trái cấm![104]
- Giữ gìn cho người yêu 4 năm để chờ đêm tân hôn, chàng trai cay đắng
nhìn bạn thân "xơi" mất.[105]
- Chồng ăn chả, vợ trả đũa xơi nem tại cơ quan [106]
Trong các diễn ngôn báo chí, đôi khi để tạo ấn tượng dụng ngôn, đặc biệt là
kỹ thuật giật tít, các nhà báo cũng thường sử dụng cách đặt tít có sử dụng từ đồng
61
nghĩa giữa “ăn” với “xơi” để thu hút sự chú ý của người đọc, tạo nên hiệu ngữ dụng
cao. Ví dụ:
- Từ dễ ăn thành khó xơi [107]
Có thể nói, ở đây “xơi” không nói trực tiếp về việc ăn uống được hiểu theo
nghĩa gốc nữa, mà ở đây đã có sự chuyển nghĩa, khi xuất hiện các nghĩa phái sinh,
thì cũng có sự thay đổi sắc thái biểu cảm. Tùy theo ngữ cảnh có thể biểu thị sắc thái
trung tính hay tiêu cực như thể hiện quan điểm của người nói/viết chứ không còn
mang sắc thái trang trọng, lịch sự như nghĩa gốc. Ví dụ:
- Chỉ có công việc và những lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát.
Xơi không kịp! [2, Điếu văn, tr.219]
- Cái đầu cá này thì chỉ có bố mày họa có xơi được chăng chứ tao thì tao
không phí mồm. [2, Nửa đêm, tr.301]
- Họ xơi cả vào khoản tiền ít ỏi trong khẩu phần ăn của những đứa trẻ
thơ.[108]
Điều đặc biệt, từ “xơi” cũng có thể kết hợp được với nhiều từ/ tổ hợp từ tạo ra
các nghĩa phái sinh, diễn tả mọi trạng thái của sự vật, hiện tượng, và hiển nhiên
không có bất cứ mối liên hệ nào đến hoạt động ăn uống. Ví dụ:
- Đất vàng chung cư cũ: Không “dễ xơi” (“xơi” = khó khăn) [109]
- Điều gì xảy ra khi lỗ đen "xơi tái" sao? (“xơi” = mối nguy hiểm) [110]
- Nóng mặt, cầu thủ “xơi tái” cả…trọng tài. (“xơi” = tấn công dùng vũ
lực) [111]
- Đưa hình ảnh công chức "xơi" giờ công lên tivi (“xơi” = tham nhũng thời
gian). [112]
- Xe điên “xơi” 3 xe máy (“xơi” = tấn công gây nguy hiểm). [113]
Khi hoạt động trong thành ngữ, từ “xơi” khi kết hợp với các tổ hợp từ đã tạo
nên nghĩa biểu trưng cho thành ngữ, chỉ hoàn cảnh bị nẫng tay trên, bị chiếm mất
cái lẽ ra là của mình: Ki cóp cho cọp nó xơi; Cốc mò cò xơi; Cốc làm cho diệc nó
62
xơi… các thành ngữ này chủ yếu phê phán thói hư tật xấu của một lớp người chỉ
muốn hưởng lợi, trên thành quả lao động của người khác, hay “ngồi chơi xơi nước”
để chỉ tình trạng nhàn rỗi, chưa có việc làm. Trong các kết hợp tạo nên sự chuyển
nghĩa thì sắc thái biểu thị sự lịch sự, trang trọng của từ “xơi” cũng thay đổi theo,
chẳng hạn như sự coi thường, khinh miệt trong các thành ngữ trên. Sắc biểu cảm
cũng như ngữ nghĩa của thành ngữ được bộ lộ rõ nét trong các ngữ cảnh. Ví dụ:
- 15 năm xây dựng vùng nguyên liệu, bỗng ‘cốc mò cò xơi’. [114]
- Chưa biết Ban trọng tài sẽ treo còi ông Dũng bao nhiêu trận, chỉ biết rằng
trọng tài này sẽ phải “ngồi chơi xơi nước” dài dài. [115]
- Thực sự bố mẹ chẳng có gì ngoài sự lương thiện, chân chất nuôi con cái nên
người, vì chưa đủ dư dả, nên bố mẹ vẫn cứ phải “ăn dè hà tiện” thế thôi, nhưng
toàn là “ki cóp cho cọp nó xơi”. [116]
Có thể nói ngoài từ “ăn”, trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” thì từ “xơi” cũng
là từ có khả năng kết hợp được với nhiều từ loại và tạo ra nhiều nghĩa phái sinh
nhất so với các từ trong dãy đồng nghĩa với từ “ăn”.
+ Đối với từ “mời”, qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy, từ “mời” khi sử
dụng với nét nghĩa chỉ hoạt động “ăn” thì thường được dùng trong khẩu ngữ nhiều
hơn. Ít dùng trong ngôn ngữ viết. Tuy nhiên, ở một số ngữ cảnh sử dụng, “mời”
được dùng với sự chuyển nghĩa sang chỉ cơ hội, thời cơ, sự dâng tặng (mang tính
chất thuận lợi). Ví dụ:
- Phải chăng mâm cỗ “siêu khổng lồ” này được họ chuẩn bị để “mời” các
đối tác sử dụng cốp pha nhôm trong tương lai? [117]
3.2.2. Ngữ nghĩa của từ “chén”, “đánh chén”
Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên). Nghĩa của
từ “chén” và “đánh chén” được giải thích như sau:
- Chén I d. 1 Đồ dùng để uống nước, uống rượu, thường bằng sành, sứ, nhỏ
và sâu lòng. Bộ ấm chén. Mời cạn chén
63
2 (ph.). Bát nhỏ. Cơm ăn ba chén lưng lưng…(cd)
3 (kng.). Lượng những vị thuốc đông y dùng để sắc chung với nhau trong
một lần thành thuốc uống; thang. Cân một chén thuốc bổ. Thuốc chén.
II đg. (thgt.) Ăn, về mặt coi như một thú vui. Chén một bữa no say. Đánh
chén. [25, tr.201]
- Đánh chén đg. (kng.). Ăn uống. Đánh chén một bữa ra trò. [25, tr.376]
Cả hai từ này, đều có nét nghĩa chỉ hoạt động ăn, tuy mỗi từ có những nét
khu biệt riêng nhưng đều thể hiện sắc thái suồng sã, thân mật, thể hiện sự ăn uống
một cách thoải mái. Thường dùng trong hoàn cảnh giao tiếp cởi mở, thân tình,
không mang tính ngoại giao. Qua ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thấy, cả hai từ trên
đều được dùng nhiều trong khẩu ngữ trong những ngữ cảnh giao tiếp mang tính cởi
mở. Còn trên ngôn ngữ báo chí và trong văn chương được dùng nhằm nhấn mạnh,
kèm theo sắc thái bình giá của người viết. Cả hai từ này, đều không tham gia vào
các kết hợp trong thành ngữ.
- Từ “chén” xuất hiện trong nhiều ngữ cảnh vẫn giữ nguyên nghĩa gốc, đồng
nghĩa với “ăn”. Ví dụ:
- Ừ, thầy giết chó để làm thịt chén [2, Trẻ con không được ăn thịt chó, tr.125]
- Nhà văn Nguyễn Tuân ngày trước chỉ chén phở chín, phở nạm, chín gầu,
bây giờ cái phở quý nhất của vua phở đam ra xuống hạng bét.[23, Phở, tr.268]
Bên cạnh đó, từ “chén” khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ chỉ các sự vật, hiện
tượng trong đời sống cũng tạo nên những nét nghĩa phái sinh. Như “chén” để chỉ
hành động “ăn cắp” của; hay “chén” để chỉ hành động chiếm đoạt tình dục, mang
nét nghĩa tiêu cực. Ví dụ:
- Ở đây, họ “chén” cả Pentaxim, một loại vắc xin chứa trong nó 5 mầm bệnh
hiểm nguy là bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B, viêm phổi/viêm màng não
mủ.[118]
- Không lẽ bây giờ cứ yêu là mắt trước mắt sau... 'đòi chén'? [119]
64
- 'Chén' người yêu rồi lừa bán sang Trung Quốc [120]
- Yêu 4 năm không làm ăn được gì, đùng cái thằng bạn thân “chén”
luôn [121]
- Đối với từ “đánh chén” cũng vậy, nằm trong dãy đồng nghĩa với “ăn”
và biểu lộ nghĩa gốc trong nhiều ngữ cảnh. Ví dụ:
- Đã đột nhập ăn trộm còn đánh chén no say [122]
- Mỗi tuần anh ăn đều hai bữa, nhưng không đánh chén ở
quán.[23,Thịt chó, tr.274]
- Lần đầu “đánh chén” bánh canh Trảng Bàng [123]
Bên cạnh đó, từ “đánh chén” cũng tham các kết hợp từ gắn với những sự
vật, hiện tượng không liên gì đến hoạt động ăn uống, nhằm biểu thị những
khái niệm mới. Như biểu thị hành động “tham nhũng”, hay hành động chiến
thắng trong thi đấu thể thao. Ví dụ:
- “Chúng ta đánh chén cái đất nước này đến mức nó không thể lớn
được. Quá nhiều thủ tục, thủ tục gắn với lợi ích, có thủ tục là có làm khó, là
có đánh chén” (“đánh chén” = tham nhũng)[124]
- Còn quá nhiều thủ tục làm khó, 'đánh chén' doanh nghiệp (“đánh
chén” = tham nhũng, móc túi ) [125]
- Ronaldo, Benzema no phưỡn bụng sau khi 'đánh chén' APOEL
(“đánh chén” = chiến thắng, đánh bại) [126]
3.2.3. Ngữ nghĩa của nhóm từ “đớp”, “tọng”, “hốc”
Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên). Nghĩa
của từ “đớp”, “tọng”, “hốc” có các nét nghĩa như sau:
- Đớp đg. Há miệng ngoạm rất nhanh lấy. Cá đớp mồi. Bị chó đớp vào
chân.[25, tr.457]
- Tọng đg.1 (kng). Cho vào một nơi nào đó và dồn xuống cho thật đầy,
thật chặt. Tọng gạo vào bao.
65
2 (thgt). Ăn uống một cách thô tục, tham lam, chỉ cốt cho được
nhiều. Tọng cho đầy dạ dày. [25, tr.1287]
- Hốc 1 I d. Chỗ lõm ăn sâu vào trong thân cây, vách đá,… hoặc đào
sâu xuống dưới đất. Hốc đá. Giấu vào hốc cây. Hốc mắt. Đào hốc tra hạt bí.
II t. (Khuôn mặt) gầy tóp, có nhiều chỗ lõm sâu. Mặt hốc hẳn đi. Gầy hốc.
hốc2 đg. 1 (Lợn) ăn vục cả mõm vào, ngoạm từng miếng to. 2 (thgt.).
Ăn một cách thô tục. [25, tr.593]
Đối với các từ: Đớp, tọng, hốc đây là nhóm từ có điểm chung là xuất
phát từ sự mô phỏng hoạt động ăn của động vật để đồng hóa với hoạt động
ăn của con người. Qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy, các từ trong nhóm
này có đặc điểm là thường dùng trong khẩu ngữ khi nói về hoạt động ăn
uống của con người kèm các sắc thái tiêu cực hay sự bình giá của con người
đối với hoạt động “ăn”. Đây là cách nói tục, hoặc muốn xỉ vả người khác,
phê phán, lên án những thói hư, tật xấu trong ăn uống. Các từ trong nhóm
này rất ít dùng trong ngôn ngữ viết, chủ yếu xuất hiện trong phong cách
khẩu ngữ. Các từ trong nhóm này cũng không tham gia các kết hợp trong
cấu tạo thành ngữ.
+ Từ “đớp” cũng chỉ hoạt động “ăn” (mang nghĩa thông tục) của con
người, thường được dùng trong phong cách khẩu ngữ, ít xuất hiện trong
ngôn ngữ viết. Đối với ngôn ngữ báo chí, từ “đớp” thường được sử dụng mô
tả hoạt động ăn của động vật. Ví dụ:
- Cá sấu đớp tay người huấn luyện trong lúc diễn xiếc ở Thái Lan.[127]
- Nghịch dại, bị gấu đớp [128]
Tuy nhiên, hiện nay trong ngôn ngữ đời sống, “đớp” không chỉ đồng
nghĩa với “ăn” ở nghĩa dung nạp thức ăn vào cơ thể, mà đã chuyển nghĩa
như dùng để mô phỏng hoạt động “bắt chước” trong luyện tập thanh nhạc
hoặc biểu diễn, chẳng hạn: Hát đớp, đớp nhạc…Ví dụ:
66
- Khi sao... "đớp" nhạc [129]
- Nhạc sĩ chuyển bài tới, hát giùm để ca sĩ "đớp" theo, cuối cùng nhờ
người hòa âm nữa là đưa lên sân khấu.[130]
- Truyền hình mang tiếng liveshow lên sân khấu toàn hát đớp, play
back...[131]
Dựa trên nét nghĩa đồng nghĩa với “ăn” và hình ảnh đớp mồi của động
vật khi ăn, “đớp” trong ngôn ngữ đời sống còn chuyển nghĩa, chỉ việc “cắn
câu, bén câu”, bắt được tín hiệu của đối phương trong quan hệ yêu đương
nam nữ. Ví dụ:
- Loạt dấu hiệu cho biết đối tượng của bạn đã "đớp thính" rồi! [132]
- Mách anh em cách “đớp” thính “chuẩn nhất” để nhanh chóng
thoát ế [133]
- Trọn bộ bí kíp "thả thính", cứ thả là có cá "đớp" ngay và luôn! [134]
Trong một số ngữ cảnh, “đớp” còn được dùng với nghĩa chuyển, chỉ sự
nhanh chóng nắm bắt lấy cơ hội, sự đón bắt kịp thời, sự thức thời. Ví dụ:
- Chúng luôn tồn tại, và sẵn sàng đớp lấy cơ hội để bùng phát, dù chỉ
là một đầu tàn thuốc được một ai đó vô tình quăng xuống đất, gặp cơ hội
cũng có thể bùng lên thành những đám cháy dữ dội.[135]
- Nghe đồn, những doanh nghiệp làm nhôm cũng muốn “đớp” lấy cơ
hội mà hầu hết các công ty rót vốn vào Việt Nam trông thấy.[136]
3.2.4. Ngữ nghĩa của từ “nhậu”
Từ “nhậu” là phương ngữ của Nam bộ, có nghĩa có nghĩa giống như ăn.
Theo Từ điển tiếng Việt (2010) của tác giả Hoàng Phê (chủ biên) [25, tr.921]
từ “nhậu” có nét nghĩa như sau:
- Nhậu đg. (ph.; kng). Uống (rượu). Nhậu một bữa thật say.
Mua đồ nhậu.
67
Đây là từ được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
của vùng Nam Bộ chỉ hoạt động ăn uống nói chung. Từ “nhậu” cũng có khả
năng kết hợp với các từ/ tổ hợp từ tạo nên rất nhiều từ ghép mới biểu thị
những nét nghĩa phái sinh giống như từ “ăn”. Chẳng hạn như: Bạn nhậu, dân
nhậu, phố nhậu, bợm nhậu… nhằm phản ánh mọi phương diện đời sống của
con người mà có hoặc không có liên quan đến việc ăn uống. Ví dụ:
- Với Pep, giờ là lúc để...nhậu mừng chiến thắng. [137]
- Đo nồng độ cồn "phố nhậu" Thăng Long: Bị giữ bằng vẫn lái xe đi
nhậu. [138]
- Công an TP.Đà Nẵng lập biên bản để xử phạt 2 người là admin 2
trang Facebook chuyên “chỉ điểm” giúp dân nhậu vượt trạm kiểm tra nồng
độ cồn. [139]
- "Bợm nhậu" bị tuyên mức án 20 năm tù về tội giết người. [140]
Từ ngữ cảnh trên chúng ta có thể thấy, trong một số ngữ cảnh cụ thể,
khi mừng những sự kiện quan trọng, có thể không có việc tổ chức ăn uống
nhưng vẫn được gắn với từ “nhậu”. Như “nhậu mừng chiến thắng. Trong
trường hợp này, từ “nhậu” không được sử dụng với nghĩa gốc mà đã
chuyển nghĩa chỉ hoạt động chúc mừng, mang tính chất tượng trưng về
mặt tinh thần. Hay từ “phố nhậu” để chỉ địa điểm nơi ăn diễn ra các hoạt
động ăn uống. Hoặc “bợm nhậu” để chỉ những kẻ nghiện rượu chuyên
nghiệp, thái quá.
Bên cạnh đó, từ “nhậu”cũng là từ rất đặc biệt thường hay được dùng
kết hợp cùng với từ “ăn” để biểu thị hoạt động ăn uống, nhưng ở đây bao
gồm hoạt động ăn và kèm theo đồ uống nhiều hơn.Ví dụ:
- Ăn nhậu tưng bừng ở trận địa pháo cổ di tích quốc gia. [141]
- Biển Vũng Tàu 'chật cứng người', kiên quyết nói không với việc ăn
nhậu trên bãi biển. [142]
68
Tuy nhiên, trong kết hợp ngữ cảnh từ “ăn nhậu” còn biểu thị một khái
niệm mới, đó là sự “dính líu, dính dáng”. Ví dụ:
- “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô
đâm ra mất lòng.”. [143]
Đối với từ “nhậu” khi biểu thị hoạt động “ăn uống” theo nghĩa gốc
trong nhiều ngữ cảnh, thì từ “nhậu” mang sắc thái trung tính. Tuy nhiên,
trong các kết hợp với các từ/ tổ hợp từ để tạo nên các từ ghép biểu thị những
khái niệm mới, thì sắc thái nghĩa của từ cũng thay đổi. Phần lớn các từ này
phản ánh những hoạt động liên quan đến ăn uống một cách thoải mái, tự do
không mang tính lễ nghi, xã giao của các đối tác trong cuộc. Mặc dù là
phương ngữ Nam Bộ nhưng từ “nhậu” được sử dụng khá rộng rãi trong cả
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Đây có thể nói là một điển hình cho sự kết
hợp phong phú của từ địa phương trong tiếng Việt.
3.2.5. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” có các kết hợp hạn chế
Ngoài những từ đồng nghĩa với từ “ăn” được thống kê trong Từ điển
đồng nghĩa tiếng Việt. Trên thực tế, qua quá trình khảo sát trong ngôn ngữ
đời sống, ngôn ngữ báo chí và trong các tác phẩm văn chương, thì còn có rất
nhiều từ nằm trong dãy đồng nghĩa với từ “ăn” như: tọng, đớp, dùng, làm,
thưởng thức, cắn, nếm, ngoạm, tợp, thời (Phương ngữ Đà Lạt), đả, lùa, lẻm,
thụ, nốc, nhắm, nhắm nhót, nhấm nháp, nhâm nhi, xực (Hoa ngữ), thực (từ
Hán - Việt)… Tuy nhiên do mỗi từ có những nét khu biệt riêng, phần lớn các
từ đồng nghĩa với từ “ăn” ở trong các ngữ cảnh xuất hiện với nét nghĩa phái
sinh để chỉ hoạt động “ăn” nên phạm vi sử dụng những từ đó có phần hạn
chế. Chẳng hạn như từ “làm, dùng” những từ này do nét nghĩa gốc phát triển
mạnh cho nên nét nghĩa phái sinh diễn tả hoạt động “ăn” dần mờ đi, thường
chỉ sử dụng trong khẩu ngữ mà ít dùng trong ngôn ngữ viết. Ví dụ:
69
- Cái cháo trai sao mà ngon thế! Y làm luôn bát nữa, rồi bát nữa… Ôi
miếng trai! còn sót một miếng trai trong góc nồi! Làm nốt đi”. [2, Đòn
chồng, tr.103]
Hay những từ như nốc, tợp, tọng… Trong một số ngữ cảnh, ở nét
nghĩa phái sinh diễn tả hoạt động “ăn” của con người với sắc thái nghĩa tiêu
cực, thường kèm theo sự bình giá về việc ăn uống như chê bai, phê phán,
khinh miệt… những thói hư, tật xấu trong việc ăn uống. Những từ này
thường được dùng trong khẩu ngữ, ít dùng trong ngôn ngữ viết.
Hoặc đối với từ “thụ”, “thụ lộc” đây là từ cũng dùng để chỉ hoạt động
ăn uống nhưng dùng cho các đồ vật sau cúng lễ. Nét nghĩa “ăn” ở đây mang
tính chất tâm linh, mặc dù là từ mang sắc thái tích cực nhưng phạm vi sử
dụng hẹp hơn. Thường dùng trong ngôn ngữ nói, ít dùng trong ngôn ngữ
viết. Ví dụ:
- Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ
xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật. [23, Những chiếc ấm đất, tr.204]
- Trong ngày Tết, thức ăn sau khi cúng, nhiều gia đình hay ưu tiên cho
người già, trẻ em gọi là "thụ lộc”. [144]
Mỗi từ đồng nghĩa với từ “ăn” đều bộc lộ một nét độc đáo riêng trong
việc diễn tả hoạt động “ăn” của người Việt. Sự sáng tạo và độc đáo trong sự
liên tưởng là cơ sở và nền tảng tạo sự phong phú cho nhóm từ đồng nghĩa
nói về “ăn” trong tiếng Việt. Mỗi từ mang một nét khu biệt riêng miêu tả các
cách thức ăn của Việt và thông qua hoạt động “ăn” đã bộc lộ nhân cách, lối
sống, cách ứng xử của con người đối với cộng đồng, cũng như thái đối và sự
bình giá của cộng đồng đối với những hoạt động ăn ấy. Ví dụ:
- Vợ Lúng mân mê một cái rồi nhặt lấy một tấm bánh đầy đặn, đưa lên
ngoạm một miếng hết nửa già tấm. Còn non nửa tấm nữa, y ném tọt vào
miệng nốt. [2, Đòn chồng, tr.100]
70
- Như ngày trước, chỉ đả tiết canh vịt, khinh cái tiết canh ngan, bây giờ
ăn tuốt và ngan lại ngon hơn vịt. [23,Thịt chó, tr.271]
- “Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên hồ này, thì tớ đả luôn năm,
sáu bát”. [23, Phở, tr.165]
- Thế mà họ ăn ngon lành, một lúc hai, ba bát. Rồi đánh thêm một đĩa
lòng vừa dồi, cổ hũ với tràng giòn. [23, Hàng quà rong, tr.130]
- Cách làm bánh đoá lan thơm nức, xốp mịn ai tợp cũng khen ngon
lành. [145]
- Cầm lấy một miếng bánh mà thưởng thức!...[23, Bánh xuân cầu,
tr.320]
- Bây giờ ở đây, ngồi thưởng thức chiếc bánh phồng to như cái sàng,
quết bằng nết với đường…[23, Bánh xuân cầu, tr.320]
Từ các ngữ cảnh trên phản ánh cho thấy cái “ăn” phản ánh rõ nét
nhân cách lối sống của con người. Như từ “ngoạm” để chỉ cách ăn uống xô
bồ, suồng sã thể hiện hạng người bần tiện, ăn uống thô tục. Trong khi đó
nhiều người dùng từ “thưởng thức” để chỉ hoạt động “ăn” như là một trong
những điều thú vị trong cuộc sống. Ở đây “ăn” không theo số lượng, ăn theo
chất lượng “ăn ngon”. Ăn uống không nhằm mục đích để cho “no cái bụng”,
mà ăn uống đã trở thành một nghệ thuật. Hay từ “đả”, “đánh”, “tợp” cũng
được dùng để chỉ hoạt động “ăn” nhưng mang sắc thái suống sã, thân mật,
thể hiện sự ăn uống một cách thoải mái, thường dùng trong khẩu ngữ trong
những ngữ cảnh giao tiếp cởi mở.
Ngoài ra còn có những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong một số ngữ cảnh
nhất định như: lùa, lẻm, nhắm, nhắm nhót, hớp, húp. Quá trình khảo sát
trong ngôn ngữ báo chí và trong văn học chúng tôi thấy, thông thường
những từ này được dùng chủ yếu trong khẩu ngữ nhiều hơn. Mỗi từ mang
một sắc thái biểu cảm riêng tạo nên sự độc đáo trong văn hóa ăn của người
71
Việt. Hay từ “xực” vốn bắt nguồn từ tiếng Hoa, cũng được nhập trong dãy
đồng nghĩa với từ “ăn” của tiếng Việt để chứng tỏ khả năng đồng hóa ngôn
ngữ của tiếng Việt và thể hiện rõ thêm trình độ khái quát, hội tụ của từ “ăn”.
Ví dụ:
- Và ăn phở, ông Nguyễn Tuân lùa rất nhanh, lại theo thuyết của ông
“ăn nhanh cho nóng, phở càng nóng càng ngon”. [23, Phở, tr.266]
- Có lần anh ta về ăn thì lùa vội vàng cho xong rồi đứng lên. [146]
- Tàn đêm rồi mà con lùa được một miếng phở nóng, thôi thế cũng là
thỏa vong linh. [ 23, Tiếng rao đêm, tr.229]
- Tôi đã lẻm hết chiếc bánh đúc nữa rồi. [23, Bánh chợ, tr.238]
- Ngổ ba lá thì hợp với đám húng quế, mơ tam thể nhắm với thịt chó
luộc. [23, Rau thơm, tr.263]
- Các cậu nhắm đi! Lòng cá ăn trước, đầu cá ăn sau. [23, Tìm về kỷ
niệm uống rượu với Tản Đà, tr.25]
- Nhưng dầu sao…ngày tết người ta ăn bao nhiêu đồ mỡ cũng không
thấy ngán, ấy chỉ là vì ngày tết ở đó có bánh xuân cầu để cho ta nhắm nhót.
[23, Bánh xuân cầu, tr.319]
- Đã có bao nhiêu bận, ngồi nhấm nháp miếng chả rươi thật kỹ, nghĩ
đến cái ngon đậm đà của miếng quà đất nước…[23, Rươi, 338]
- Nhưng hớp được vài hớp, thì miếng quà trở nên khó nuốt và ngán
như lúc phải nói hết một câu khôi hài mình thấy là nhạt rồi. [23, Còn quà
Hà nội, tr.141]
- Người bị sốt ăn bát cháo trắng rắc hành với tí tô, húp nóng rộp môi
đến phải xuýt xoa…[23, Cháo, tr.264]
- Người hàng phố hiểu là ăn được, ăn được…sực đắc, sực đắc…[23,
Cháo, tr.264]
72
- Họ “xực” vào cả những đồng tiền xương máu của người có công và
không từ cả hài cốt của người đã chết. [147]
Thông qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy trong dãy đồng nghĩa với
“ăn”, mỗi từ đều có những nét khu biệt riêng, miêu tả các phong thái ăn khác
nhau của người Việt một cách vô cùng độc đáo, trong đó, nét khu biệt cơ
bản nhất là về sắc thái biểu cảm và ngữ cảnh sử dụng. Nhóm từ đồng nghĩa
với từ “ăn” đã phác họa một bức tranh vô cùng sinh động về văn hóa ăn của
người Việt, điều đó được phản ánh một cách rõ nét thông qua sự sáng tạo,
cộng với tư duy liên tưởng, tầng nghĩa so sánh, ví von đã tạo ra rất nhiều từ
biểu thị hoạt động ăn uống của người Việt, chính điều đó đã cho nhóm động
từ này trở nên đa dạng và làm giàu cho hệ thống từ vựng tiếng Việt.
Tiểu kết chương 3
Có thể nói rằng, “ăn” là một nét văn hóa tự nhiên được hình thành
trong cuộc sống. Nhưng thông qua cái “ăn” ta có thể hiểu được trình độ văn
hóa cũng như các phong tục, tập quán, quy tắc ứng xử, thói quen ăn uống…
của mỗi cộng đồng, dân tộc. Bởi vậy, đối với người Việt, cái “ăn” đã đi vào
đời sống cũng như trong văn chương một cách sâu rộng. Có lẽ chính vì thế
mà từ “ăn” có rất nhiều từ đồng nghĩa cũng là điều dễ hiểu.
Trong dãy đồng nghĩa của từ “ăn”, nếu như từ “ăn” mang sắc thái
trung hòa về biểu cảm và có phạm vi sử dụng rộng rãi thì các từ trong dãy
đồng nghĩa của “ăn” lại khu biệt về phạm vi sử dụng và sắc thái biểu cảm
theo hai chiều hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Các đồng nghĩa của “ăn” có
thể chia ra thành các nhóm bộc lộ sắc thái như: biểu thị sự lịch sự, trang
trọng; biểu thị sự suồng sã, thân mật; biểu thị sự thông tục (thường dùng
trong khẩu ngữ). Tuy nhiên, các sắc thái nghĩa của từ chỉ được thể hiện khi
các từ trong nhóm này biểu thị hoạt động “ăn uống” theo nghĩa gốc. Còn
73
trong các kết hợp tạo nghĩa phái sinh, thì sắc thái nghĩa của từng từ cũng
thay đổi tùy thuộc vào từng ngữ cảnh xuất hiện.
Trong nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” thì từ “xơi” là từ có sự phát
triển nghĩa mạnh nhất sau từ “ăn”. Đây cũng là từ có khả năng kết hợp được
với nhiều từ loại để tạo ra những từ mới với những nét nghĩa phái sinh. Đặc
biệt là từ “xơi” là từ duy nhất trong nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” tham
gia tham gia các kết hợp tạo thành ngữ. Và trong ngôn ngữ nói cũng như
trong ngôn ngữ viết, tần xuất sử dụng 04 thành ngữ chứa thành tố “xơi”
tương đối nhiều. Còn tất cả các từ còn lại trong nhóm từ đồng nghĩa không
tham gia tạo thành ngữ. Và mỗi từ có những nét khu biệt riêng về nghĩa nên
phạm vi sử dụng cũng hạn chế hơn.
Thông qua nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” cho chúng ta thấy được sự
phong phú trong vốn từ vựng của tiếng và chuyện “ăn” của người Việt là
một bài học vô cùng đa dạng. Mỗi từ đồng nghĩa trong nhóm đóng vai trò
hết sức quan trọng. Bởi đây là nguồn bổ sung làm phong phú cho vốn từ
vựng của nhóm này nói riêng và từ vựng tiếng Việt nói chung. Đồng thời, nó
cũng là phương tiện biểu thị chính xác hóa tư tưởng, tình cảm của con người
trong từng trường hợp sử dụng ngôn ngữ. Do mỗi từ mang một sắc thái biểu
cảm riêng nên việc sử dụng chúng đúng lúc, đúng chỗ trong những hoàn
cảnh “đắc địa” sẽ giúp cho lời nói của chúng ta trở nên tinh tế, chính xác và
thể hiện được mọi cung bậc tình cảm và suy nghĩ của con người.
74
KẾT LUẬN
1. Từ kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, “ăn” là một từ đa nghĩa trong
tiếng Việt. Trong quá hoạt động, ngữ nghĩa của động từ “ăn” đã được mở rộng và
phát triển thêm nhiều nghĩa phái sinh so với nghĩa gốc. Trong nhóm từ, ngữ nói về
“ăn” trong tiếng Việt, từ “ăn” là từ phát triển mạnh nhất về nghĩa và trong nhiều
trường hợp, “ăn” đóng vai trò như một hình vị, có khả năng tạo từ mới một cách
mạnh mẽ, có khả năng kết hợp với nhiều loại từ để tham gia tạo câu. Từ nghĩa gốc
“ăn”1 đã biến đổi, hoặc mất đi và rất nhiều các nét nghĩa phái sinh mới xuất hiện
cùng với thời gian. Đây cũng là từ có nhiều từ đồng nghĩa, mỗi từ mang một sắc
thái biểu cảm riêng, thể hiện mọi khía cạnh và tình huống khác nhau của đời sống
thông qua hoạt động “ăn”. Sự phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” song hành với sự
phát triển của xã xội, khi nhu cầu diễn đạt ngữ nghĩa đòi hỏi ngày càng lớn sự bao
quát mọi vấn đề của xã hội con người. Qua thời gian, dần được cộng đồng ngôn
ngữ chấp nhận và sử dụng. Những nét nghĩa mới ấy đã đi vào cuộc sống và làm
giàu thêm vốn từ cho hệ thống từ vựng tiếng Việt.
2. Luận văn đã chỉ ra cơ chế tạo nghĩa của từ “ăn”/từ chứa thành tố “ăn”
được khái quát thành 6 nhóm cơ bản. Cơ chế chế này được mô hình hóa tổng quát
theo công thức: Ăn + X, trong đó, biến số X có thể thay đổi là các từ/ tổ hợp từ chỉ
mục đích; chỉ cách thức; chỉ hoạt động; chỉ địa điểm; chỉ các hành vi chiếm đoạt;
chỉ hành vi trục lợi …của con người. Ở nghĩa gốc, từ “ăn” mang sắc thái trung tính.
Tuy nhiên khi đi vào các kết hợp tạo nghĩa phái sinh với tư cách “ăn” là một hình vị
cấu tạo từ thì sắc thái biểu cảm của từ thay đổi tùy theo ngữ cảnh xuất hiện.
Từ “ăn”/ chứa yếu tố “ăn” khi kết hợp với các từ/ tổ hợp từ đã tạo thành vô
số những từ ghép biểu thị nhiều khái niệm mới, các nét nghĩa càng khái quát thì
càng bóng bẩy, tế nhị, trong những sắc thái tinh tế, diễn tả mọi khía cạnh trong đời
sống của người dân Việt. Thông qua hoạt động “ăn”, khiến chúng ta liên tưởng đến
75
rất nhiều hoạt động khác của con người. Có thể nói, khái niệm ăn của người Việt đã
được mở rộng, bao trùm mọi mặt sinh hoạt, nghề nghiệp, tính cách con người, đồng
thời thể hiện rõ nét lối tư duy cũng như bản sắc văn hóa của người Việt. Nét độc
đáo ấy được thể hiện rất phong phú trong ngôn ngữ đời sống, trong văn học và
trong các thành ngữ như sự khen ngợi hoặc phê phán, lên án những lối sống, tính
cách, những thói hư tật xấu hay cách đối nhân xử thế thông qua hoạt động “ăn” của
con người trong cộng đồng xã hội. Từ đó để cảnh tỉnh, đồng thời giúp con người
tạo dựng cho mình những thói quen tốt. Điều đó chứng tỏ trình độ khái quát, cũng
như khả năng hội tụ của từ “ăn” rất mạnh mẽ và khái niệm “ăn” của người Việt
Nam cũng được mở rộng để bắt kịp với sự phát triển chung của xã hội.
3. Bên cạnh đó, thông qua việc khảo sát nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” cho
thấy, ngoài các từ đã được thống kê trong từ điển, trên thực tế còn có rất nhiều từ
đồng nghĩa với từ “ăn”. Mỗi từ có những nét khu biệt riêng mang các sắc thái biểu
cảm và phạm vi sử dụng khác nhau. Các nét nghĩa của từ bộc lộ tùy thuộc vào
người nói, người nghe và trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Khác với từ “ăn” nhóm từ đồng nghĩa này thường được sử dụng trong ngôn
ngữ nói nhiều hơn ngôn ngữ viết. Đặc biệt là các từ như: “ đớp, nhốc, hốc, tọng”,
đây là các từ thể hiện sắc thái tiêu cực như chê bai, xỉ vả… người khác về hoạt động
“ăn”, đối với nhóm từ thường chủ yếu dùng trong khẩu ngữ. Còn trên ngôn ngữ báo
chí, các từ này xuất hiện thường là các kết hợp tạo nghĩa phái sinh, ít dùng để nói về
hoạt động “ăn”. Do các từ đồng nghĩa với từ “ăn” phần lớn ở nét nghĩa phái sinh
nên khả năng kết hợp hạn chế. Và chỉ có duy nhất từ “xơi” tham gia tạo thành ngữ,
với số lượng là 04 thành ngữ. Mặc dù số lượng câu thành ngữ chứa thành tố “xơi”
không nhiều, nhưng qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy tần xuất sử dụng những
thành ngữ trong nhóm này trong ngôn ngữ đời sống là khá thường xuyên. Còn các
từ khác còn lại trong nhóm đồng nghĩa với từ “ăn” không tham gia tạo thành ngữ.
76
4. Trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt thì từ “ăn” đóng vai trò
là từ trung tâm. Đây là từ có sự phát triển nghĩa mạnh mẽ nhất trong nhóm và khả
năng đóng vai trò như một hình vị, kết hợp được với nhiều từ loại để tạo thành câu,
đặc biệt là tham gia tạo thành ngữ. Trong khi đó khả năng tạo thành ngữ của các từ
còn lại trong nhóm là rất hạn chế. Chính vì vậy từ “ăn”/chứa yếu tố “ăn” được sử
dụng phổ biến và thường xuyên hơn tất các các từ khác trong nhóm, cả trong ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Từ kết quả khảo sát cho thấy, từ “ăn” trong tiếng Việt là một từ cực lý thú,
phản ánh quá trình nhận thức “đặc biệt” của con người về mọi hoạt động trong cuộc
sống được phản ánh thông qua hoạt động “ăn”. Và điều đặc biệt hơn nữa, đó chính
là sự kỳ diệu trong ngôn ngữ, thông qua tính năng động, tính cơ cấu của quá trình
phát triển nghĩa đã giúp chúng ta hiểu được bản sắc văn hóa của người dân Việt.
Thông qua nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cho chúng ta thấy “văn hóa ăn” của
người Việt được đặc biệt coi trọng, nó thể hiện nét đẹp tinh tế trong ứng xử của
cộng đồng. Ăn uống không chỉ là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cơ thể mà còn
là một hoạt động giao tiếp xã hội cao. Cách ăn của mỗi con người như thế nào, thì
bộc lộ rõ lối sống, lối cư xử của người ấy như vậy. Đây chính là lý do mà vì sao mà
ông cha ta đã đặt “học ăn” lên vị trí đầu tiên “học ăn, học nói, học gói, học mở”
trong những bài học làm người. Từ chuyện ăn, chuyện uống hóa thân thành chuyện
đời, thành cách sống để cùng tồn tại, thành đạo lý lớn nhất, đầu tiên và cũng là cuối
cùng của mỗi người dân Việt./.
77
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Khương Thị Lan Phương (2020), “Ngữ nghĩa
và khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học
& Bách khoa thư, số 3 (65), 5-2020.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Vũ Bằng ( 2010), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Hà nội.
2. Nam Cao (2010), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Thời đại.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (2004), Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học Sư
phạm.
6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội (tái bản lần thứ bảy).
7. Nguyễn Đức Dân (1986), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ, sự vận dụng”,
Ngôn ngữ (3), tr1- 18.
8. Nguyễn Hữu Đạt (2011), “Con đường o nghĩa của các thành ngữ liên quan
đến văn hóa ăn và văn hóa mặc trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc gia Hà Nội, số 27 (2011), tr. 9-14.
9. Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào (1992), “Từ điển trái nghĩa – đồng nghĩa
tiếng Việt”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
11. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tái bản
lần thứ hai.
12. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb giáo dục Việt
Nam.
13. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Từ và Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội.
14. Hoàng Văn Hành (2015), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
79
15. Nguyễn Thị Hiền (2018), Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận
cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ
học, Học viện Khoa học - Xã hội
16. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp, Nxb. Giáo
dục Việt Nam
17. Nguyễn Văn Hiệp (2014), Ngữ nghĩa của từ “Ra”, “Vào” trong tiếng Việt
nhìn từ góc độ nghiệm thân, Báo cáo tại hội thảo ngữ học quốc tế, Đài Loan.
18. Nguyễn Thị Bích Hợp (2015), Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Hương (2017), Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng
Anh ( đối chiếu với tiếng Việt), Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học, Học viện
Khoa học - Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
20. Nguyễn Khải Kế ( chủ trì đề tài) (2004), Một số vấn đề văn hóa ăn, uống
trong xã hội cổ truyền của người Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản,
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn.
21. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn
hóa thông tin.
22. Phạm Văn Lam (2007) , Bước đầu khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một
số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến nay, Luận văn thạc sỹ
ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
23. Phạm Quang Long, Bùi Văn Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu) (2010),
Tuyển tập tác phẩm về văn hóa ẩm thực Thăng Long- Hà Nội, Nxb Hà nội.
24. Ngô Minh Nguyệt (2014), Đặc điểm trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu
tiếng Hán và tiếng Việt), Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Học viện Khoa học-Xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
25. Hoàng Phê (chủ biên), (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.
26. Hoàng Phê (1975), Phân tích ngữ nghĩa, Ngôn ngữ, số 2, tr.10-26]
80
27. Vũ Trọng Phụng (1993), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn học.
28. Lê Thị Phượng (2014), Văn hóa ẩm thực của người Việt qua ca dao tục ngữ
truyền thống, Luận văn thạc sỹ văn học, Trường đại học Khoa học xã hội &
Nhân văn, Đại học quốc gia Hà nội.
29. Đào Thị Hồng Quyết (2017), Đặc điểm của thành ngữ có chứa thành tố
“Ăn” trong tiếng Việt, Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học, Học viện Khoa học-
Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
30. Băng Sơn (1999), Thú ăn chơi của người Hà nội, Nxb Thanh niên.
31. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lý thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt ( tái bản), Nxb KHXH, Hà nội.
32. Trần Ngọc Thêm(1999), Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
33. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM.
34. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
35. Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến
2005, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Thông (2012), Tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Việt qua
ca dao, tục ngữ, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân
văn, số 28, tr.129-132
37. Nguyễn Đức Tồn (1993), “Đặc trưng dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện
tượng từ đồng nghĩa”, Ngôn ngữ (3), tr. 20- 24.
38. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, NXB từ điển Bách Khoa.
39. Nguyễn Đức Tồn (2011), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb từ điển Bách Khoa.
40. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục.
41. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
81
42. Nguyễn Văn Tu (2001), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
43. Hoàng Tuệ (2013), Cuộc sống ở trong ngôn ngữ, Nxb Trẻ.
44. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
45. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1994), Từ điển
thành ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
NGUỒN INTERNET
46. http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/
82
PHỤ LỤC
THÀNH NGỮ CHỨA THÀNH TỐ “ĂN”
Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” 1.
Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối 2.
Ăn mày lộc phật 3.
Ăn mày đòi xôi gấc 4.
Ăn mày quen ngõ 5.
Ăn mày đánh đổ cầu ao 6.
Ăn vụng không biết chùi mép 7.
8. Ăn vụng quen mồm
9. Ăn tươi nuốt sống
10. Ăn bốc đái đứng
11. Ăn bốc ăn bải
12. Ăn có mời, làm có mượn
13. Ăn tùy nơi chơi tùy chốn
14. Ăn hương ăn hoa
15. Ăn ngon mặc đẹp
16. Ăn sung mặc sướng
17. Ăn của ngon, mặc của tốt
18. Ăn trắng mặc trơn
19. Ăn chực đòi bánh chưng
20. Ăn chực nằm chờ
21. Ăn gió nằm mưa
22. Ăn gió nằm sương
23. Ăn thô nói tục
24. Ăn hơn nói kém
25. Ăn thừa nói thiếu
83
Ăn lắm, nói nhiều 26.
Ăn tục, nói khoác 27.
Ăn ngược nói ngạo 28.
Ăn ốc nói mò 29.
Ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo 30.
Ăn bớt bát, nói bớt lời 31.
Ăn ngay nói thẳng 32.
Ăn bằng nói chắc 33.
Ăn thật làm giả 34.
Ăn kỹ làm dối 35.
Ăn đói mặc rách 36.
Ăn đói mặc rét 37.
Ăn lấy chắc, mặc lấy bền 38.
Ăn lấy đặc, mặc lấy dày 39.
Ăn chắc mặc bền 40.
Ăn no, mặc ấm 41.
Ăn ở như bát nước đầy 42.
Ăn ở hai lòng 43.
Ăn cần ở kiệm 44.
Ăn tằn ở tiện 45.
Ăn vừa ở phải 46.
Ăn nhờ ở đậu 47.
Ăn nhờ ở gửi 48.
Ăn bờ ở bụi 49.
Ăn xổi ở thì 50.
Ăn lông ở lỗ 51.
Ăn đường 52.
84
Ăn trên mồ hôi nước mắt 53.
Ăn trên sương máu 54.
Ăn dưới âm phủ 55.
Ăn trên ngồi chốc 56.
Ăn xó mó niêu 57.
Ăn lông ở lỗ 58.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng 59.
Ăn cắp ăn nảy 60.
Ăn trộm ăn cắp 61.
Ăn cắp như ranh 62.
Ăn đút ăn lót 63.
Ăn gian nói dối 64.
Ăn gian nó giàn ra đấy 65.
Chưa ăn cỗ đã chực lấy phần 66.
Chưa ăn cỗ đã lo mất phần 67.
Đói ăn vụng, túng làm càn 68.
Làm chơi ăn thật 69.
Ngồi không ăn bám 70.
85
PHỤ LỤC
THÀNH NGỮ CHỨA THÀNH TỐ “XƠI”
Cốc mò cò xơi 1.
Cò làm cho diệc nó xơi 2.
Ngồi chơi xơi nước 3.
Ki cóp cho cọp nó xơi 4.
86
PHỤ LỤC
STT Trích dẫn Nguồn
Tình nguyện viên như chính ý nghĩa
tên gọi của nó, bởi đây là công việc tự https://thanhnien.vn/the-thao/toan-
nguyện, vô vụ lợi, nhiều người gọi họ canh-the-thao/nhung-nguoi-vac-tu-
“ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng” va-hang-tong-tai-sea-games-30-
1 cũng chẳng sai 109512.html, (30/11/2019)
Mặc dù mới hơn 10h sáng (ngày 14/2)
nhưng nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh https://dantri.com.vn/xa-hoi/nhieu-
Hà Tĩnh đã đóng cửa, nhân viên, lãnh co-quan-ban-nganh-tinh-nguyen-
đạo đều vắng mặt. Lý do là nghỉ sớm nghi-som-de-an-ram-
2 để... ăn rằm 1392865946.htm, (14/2/2014)
https://www.webtretho.com/f/hanh-
trinh-lam-me/vui-mieng-hoi-ngay-
Vì thế, nếu bé được ăn đầy tháng thì day-thang-thoi-noi-la-gi-nhung-ta-
cháu đã thoát được hết hai phần ba hoa-khi-y-nghia-cua-no-chang-
của những rủi ro trong năm tuổi đầu may-nguoi-biet-2435456,
3 tiên của cuộc đời (11/2016)
https://dantri.com.vn/dien-dan/ve-
Về Đức Thượng, ăn tiệc canh bầu trôi duc-thuong-an-tiec-canh-bau-troi-
nước nuoc-20170408212928963.htm,
(09/04/2017) 4
https://dantri.com.vn/xa-hoi/nguoi-
sai-gon-cuong-nhiet-an-mung- Người Sài Gòn cuồng nhiệt ăn mừng chien-thang-lich-su-cua-u23-viet- chiến thắng lịch sử của U23 Việt Nam nam-20180123202416408.htm,
(23/1/2018) 5
87
Giá điện, giá xăng tăng khiến người
lao động nghèo vất vả tiết kiệm triệt https://thanhnien.vn/doi-song/gia-
để, sinh viên tìm đủ mọi cách mới dien-xang-cung-tang-bo-bua-sang-
mong ‘sống sót', thậm chí bỏ bữa an-chay-1001-cach-that-lung-buoc-
6 sáng, ăn chay để đỡ tiền bung-1079675.html, (9/5/2019)
https://vietgiaitri.com/biet-ly-do-
chong-sap-cuoi-dot-nhien-an-chay-
toi-quyet-dinh-huy-hon-ngay-du-
Thì ra “ăn chay” ở đây không chỉ là chi-con-mot-tuan-nua-la-toi-le-
không ăn thịt cá nữa mà là sẽ không cuoi-20191007i4339788/,
7 quan hệ sắc dục với tôi nữa (11/2019)
https://afamily.vn/bat-chong-an-
chay-suot-9-thang-mang-bau-phu- Bắt chồng "ăn chay" suốt 9 tháng nu-da-vo-tinh-bo-qua-5-loi-ich-vo- mang bầu, phụ nữ đã vô tình bỏ qua 5 cung-bat-ngo-cho-suc-khoe-cua-ca- lợi ích vô cùng bất ngờ cho sức khỏe me-va-be- của cả mẹ và bé 20191215003246008.chn,
(24/12/2019) 8
https://thanhnien.vn/the-gioi/an-
xin-o-thai-lan-la-pham-phap-bi-
Ăn xin ở Thái Lan là phạm pháp, bị phat-tu-va-tien-865141.html,
9 phạt tù và tiền (13/8/2017)
Doanh nghiệp xây chùa, sau đó tung
dịch vụ bủa vây trong chùa để kiếm https://giaoduc.net.vn/kinh-te/dai-
lợi từ tâm linh. Kiểu làm kinh tế này gia-cung-an-may-cua-phat-
10 có khác nào "ăn mày" cửa phật post196212.gd, (8/3/2019)
88
Thế nhưng, “ăn mày cửa Phật”, nhặt
lộc rơi, lộc vãi cũng vì mục đích kinh
tế đấy mà nó an nhiên, thánh thiện
biết bao nhiêu, thì những kiểu làm ăn
dựa vào cửa Phật để kiếm lợi đang
khiến người ta cảm giác niềm tin của
mình bị biến thành phương tiện lợi https://giaoduc.net.vn/kinh-te/dai-
dụng và bị móc túi một cách công gia-cung-an-may-cua-phat-
11 nhiên mà chẳng biết trách ai.[] post196212.gd , (8/3/2019)
Xin thưa ngay là rất ngon, bao giờ “ăn https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-
vụng” cũng ngon hơn là ăn bình tinh/an-vung-co-ngon-khong-
12 thường, ăn hợp pháp 1137599235.htm, (18/1/2006)
https://thanhnien.vn/van-hoa/het-
thoi-lam-phim-an-xoi-
13 Hết thời làm phim ‘ăn xổi’ 1058659.html, (9/3/2019)
http://giadinh.net.vn/gia-dinh/noi-
niem-thu-ky-tre-an-vung-voi-sep-
20190315101805798.htm,
14 Nỗi niềm thư ký trẻ "ăn vụng" với sếp (17/3/2019)
https://tintuconline.com.vn/doi-
song/biet-ro-chong-an-vung-co-
Biết rõ chồng ăn vụng có con riêng 3 con-rieng-3-tuoi-vo-gia-vo-lam-
tuổi, vợ giả vờ làm ngơ, 4 năm sau ngo-4-nam-sau-moi-lat-bai-ngua-
mới "lật bài ngửa" khiến chị em chắp khien-chi-em-chap-tay-ne-phuc-n-
15 tay nể phục 387052.html, (3/4/2019)
Chồng sốc nặng khi biết vợ 'ăn vụng' https://baomoi.com/chong-soc-
16 với 2 người đàn ông, còn có nhật ký nang-khi-biet-vo-an-vung-voi-2-
89
ngoại tình nguoi-dan-ong-con-co-nhat-ky-
ngoai-tinh/c/32341599.epi,
(27/09/19)
https://www.tienphong.vn/suc-
Ăn vụng quên chùi mép', chồng khoe/an-vung-quen-chui-mep-
lộ bằng chứng ngoại tình không thể chong-lo-bang-chung-ngoai-tinh-
ngờ khong-the-ngo-1386030.tpo,
17 (08/03/2019)
https://giaoducthoidai.vn/chong-an-
vung-qua-tinh-vi-721090.html,
18 Chồng “ăn vụng” quá tinh vi (17/3/2015)
https://thanhtra.com.vn/tin-tuc-
chong-tham-nhung/trong-
nuoc/tham-nhung-vat-na-vao-tui-
cua-tung-nguoi-
Không cải cách tiền lương sẽ có dan_t114c1080n143185,
19 chuyện “đói ăn vụng, túng làm càn” (31/12/2018 )
Và từ tham, khi tặc lưỡi cho qua
“tham vặt”, chuyện nhỏ thôi mà, thì
có thiếu mới vậy, “đói ăn vụng, túng
làm càn”, nhưng rồi chính cái sự dung
túng đó vô tình đã chấp nhận “văn
hóa tham vặt”, mà tới lúc không đói http://vannghethainguyen.vn/2018/
cũng ăn vụng, không túng cũng làm 12/29/nguoi-viet-va-thoi-tham-vat-
20 càn, một nếp văn hóa xấu xí. xau-xi/ , (29/12/2018)
https://tuoitre.vn/khong-the-xuat-
21 Không thể xuất khẩu theo kiểu ăn xổi khau-theo-kieu-an-xoi-546268.htm,
90
(03/05/2013)
https://dantri.com.vn/xa-hoi/go-
Khai thác rừng non chẳng khác gì rung-trong-cua-viet-nam-dang-bi-
bán lúa non, gỗ rừng trồng đang bị ăn an-xoi-20180808151230997.htm,
xổi, hiệu quả kinh tế thấp. (08/08/2018)
22
https://dantri.com.vn/van-hoa/am-
nhac-ngay-nay-thuong-vo-hon-vi-
sao-20160419064843387.htm,
MV lên ngôi, nhạc Việt trở nên ăn (19/4/2016)
23 xổi?
Việc dàn dựng các tác phẩm dành cho https://dantri.com.vn/van-hoa/kich-
thiếu nhi lâu nay luôn được làm theo thieu-nhi-cung-an-xoi-o-thi-
lối “ăn xổi ở thì”, chộp giật và manh 20160531153407134.htm,
24 mún. (31/5/2016)
https://dulich.dantri.com.vn/du-
lich/chu-tich-khanh-hoa-tranh-tinh-
trang-an-xoi-o-thi-trong-kinh-
“Chúng ta cần tránh ăn xổi ở thì, bán doanh-du-lich-
giá cao, bán cắt cổ làm ảnh hưởng đến 20190711164413429.htm,
25 môi trường du lịch”,... (12/7/2019)
https://nld.com.vn/tinh-yeu-hon-
nhan/ai-yeu-nhau-cung-muon-an-
tuoi-nuot-song-
Ai yêu nhau cũng muốn “ăn tươi nuốt 20140517230137465.htm,
26 sống”? (17/5/2014)
91
https://vnexpress.net/tam-su/moi-
lan-noi-chuyen-ban-trai-nhu-muon-
Mỗi lần nói chuyện bạn trai như muốn an-tuoi-nuot-song-toi-
27 'ăn tươi nuốt sống' tôi 3708581.html, (6/2/2018)
https://thanhnien.vn/video/thoi-
su/an-choi-qua-da-trom-gan-nua-ti-
Ăn chơi quá đà, trộm gần nửa tỉ đồng dong-o-nha-di-ruot-79764.html,
28 ở nhà dì ruột (14/1/2017)
Ngày ấy, bố mẹ tôi “cơm không đủ
ăn, áo không đủ mặc”, đến thời tôi thì
“ăn phải ngon, mặc phải đẹp”. Đến
thời con cái tôi sau này, có lẽ chuyện https://vnexpress.net/y-kien/giau-
ăn ngon mặc đẹp là ngheo-khi-cuoc-song-la-khong-
tiêu chuẩn tối thiểu của những người cong-bang-2977434.html
29 bình thường… (25/4/2014)
https://afamily.vn/tet-khong-chi-la-
dip-an-ngon-mac-dep-nhan-li-xi-
Tết không chỉ là dịp ăn ngon, mặc ma-tro-nen-y-nghia-neu-cha-me-
đẹp, nhận lì xì mà trở nên ý nghĩa nếu day-tre-6-bai-hoc-quan-trong-nay-
cha mẹ dạy trẻ 6 bài học quan trọng 2019122613024607.chn,
30 này (27/1/2020)
Dù cay đắng, chị vẫn phải dũng cảm
để nhìn nhận ra một sự thật rằng chị là https://www.tienphong.vn/gia-
“con mồi” béo bở để hắn vừa lợi dụng dinh-suc-khoe/trai-tre-huong-thu-
thân xác, vừa lợi dụng tiền bạc và uy an-trang-mac-tron-roi-quet-mo-bo-
tín của chị để ăn trắng mặc trơn rồi toi-di-lay-vo-1023442.tpo,
31 “quẹt mỏ” bỏ đi cưới người phụ nữ (5/7/2016)
92
khác
https://dantri.com.vn/xa-hoi/ga-
gan-choi-ngong-gao-an-dong-van-
Thế nhưng với tính “chơi ngông” của mua-o-to-ve-dap-chieu-
ông Cẩn, gia đình có lúc còn phải "ăn 20190501065455319.htm,
32 đong" gạo. (1/5/2019)
https://tuoitre.vn/xuat-khau-do-go-
Xuất khẩu đồ gỗ; Ăn đong nguyên an-dong-nguyen-lieu-430608.htm,
33 liệu (26/3/2011)
https://tuoitre.vn/an-dong-mau-ma-
34 Ăn đong mẫu mã 380673.htm,27/5/2010)
https://tuoitre.vn/tuoi-tho-khat-
Tuổi thơ khát nhạc: Bé bé bằng nhac-be-be-bang-bong-an-dong-ca-
35 bông... ăn đong ca khúc khuc-141225.htm, (2/6/2006)
https://tuoitre.vn/thiet-bi-day-hoc-
Thiết bị dạy học: bao giờ mới hết ăn bao-gio-moi-het-an-dong-
36 đong? 3014.htm, (30/9/2003)
Doanh nghiệp trong nước không chỉ
kiệt quệ vì tín dụng siết chặt và lãi
suất cao, nhiều đơn vị giờ đây đang
phải đi ăn đong từng đơn hàng xuất https://tuoitre.vn/an-dong-hang-
khẩu do sức mua của thị trường giảm xuat-khau-502434.htm,
37 sút nghiêm trọng. (18/7/2012)
38 An ninh năng lượng sao cứ mãi “ăn https://tuoitre.vn/an-ninh-nang-
93
đong” luong-sao-cu-mai-an-dong-
20181201115806294.htm,
(1/12/2018)
Một cô gái sống tại bang Florida (Mỹ)
đã bị cảnh sát bắt giữ sau khi “ăn
chực” tại hàng chục nhà hàng bằng https://giaoducthoidai.vn/thanh-an-
cách bỏ thủy tinh vào bên trong thức chuc-nha-hang-voi-chieu-tro-
ăn và tự cắt đứt môi mình để khỏi khong-ai-nghi-den-3722096.html,
39 phải trả tiền (14/10/2017)
https://www.giaoduc.edu.vn/an-
40 “Ăn chực” Tết Sài Gòn chuc-tet-sai-gon.htm, (13/1/2020)
https://dantri.com.vn/suc-manh-
so/nhung-chiec-i-phone-11-dau-
tien-tren-the-gioi-ve-tay-nguoi-
viet-nam-
Cả ngàn người "ăn chực nằm chờ", 20190920082853989.htm,
41 hóng iphone 11 (20/9/2019)
Người hâm mộ BTS có thể phải đối
mặt với phí phạt lên tới 500 USD https://thethaovanhoa.vn/giai-
(khoảng gần 2 triệu VND) nếu cố tình tri/an-chuc-nam-cho-doi-bts-fan-
“ăn chực nằm chờ” nhóm trước các co-the-bi-phat-toi-500-usd-
buổi diễn ở Fort Worth, Texas n20180906195503124.htm,
42 (Mỹ) vào tuần tới? (6/9/2018)
Để mua được một giò lan phi điệp 5
cánh trắng quý hiếm với giá 700 triệu http://baodansinh.vn/an-chuc-nam-
đồng, người đàn ông phải “ăn chực, cho-mua-gio-lan-700-trieu-dong-
43 nằm chờ” đúng 1 tuần 78980.htm, (21/8/2018)
94
https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-
Dưới màn khói mỏng, bóng dáng mấy tinh/kinh-thua-quy-ong-lem-bem-
44 cô gái “ăn sương” thoắt ẩn thoắt hiện 1349805837.htm, (5/10/2012)
https://www.24h.com.vn/an-ninh-
hinh-su/the-gioi-ngam-o-malaysia-
Thế giới ngầm ở Malaysia: Gái “ăn gai-an-dem-o-kuala-lumpur-
45 đêm” ở Kuala Lumpur c51a937774.html, (16/2/2018)
https://thanhnien.vn/video/thoi-
su/hai-co-gai-tre-trong-bang-trom-
Hai cô gái trẻ trong băng trộm xe máy xe-may-chuyen-an-dem-
46 chuyên ăn đêm 121725.html, (23/11/2018)
https://thanhnien.vn/van-hoa/an-
nhau-hat-ho-ban-hang-rong-tai-
Ăn nhậu, hát hò, bán hàng rong tái dien-quanh-thang-canh-quoc-gia-
diễn quanh thắng cảnh quốc gia hồ ho-xuan-huong-1108225.html,
47 Xuân Hương (29/7/2019)
https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-
tinh/lo-het-kinh-te-van-cham-soc-
gia-dinh-chu-dao-vay-ma-ga-
Lo hết kinh tế vẫn chăm sóc gia đình chong-van-an-nam-voi-osin-
chu đáo vậy mà gã chồng vẫn ăn nằm 20170916074936419.htm,
48 với osin (16/9/2017)
https://dantri.com.vn/xa-hoi/an-gio-
nam-suong-kiem-tet-o-dao-hoa-
doc-nhat-tay-nguyen-
“Ăn gió nằm sương” kiếm tết ở đảo 20200121084415633.htm,
49 hoa độc nhất Tây Nguyên (21/1/2020)
95
Trong ba ngày Tết, đồng bào ai cũng
đoàn tụ sum vầy xung quanh những
bình hoa, mâm bánh. Còn các bạn thì http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-
chịu ăn gió, nằm mưa lạnh lùng ở doi/201602/binh-tuat-co-mot-mua-
50 chốn sa trường. xuan-nhu-the-299935/, (10/2/2016)
http://sach.nlv.gov.vn/sach/cgi-
bin/sach?a=d&d=tfbUZl1953.1.114
51 Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm &e=-------vi-20--1--img-txIN-------
Biết cách giao tiếp khôn ngoan sẽ
giúp ích rất nhiều trong cuộc sống và https://motthegioi.vn/phai-dep-c-
công việc của bạn. Tuy nhiên, không 86/eva-adam-c-149/tap-an-noi-
ai sinh ra đã khéo ăn nói mà đó là cả khon-ngoan-de-thanh-cong-
52 một quá trình học hỏi và rèn luyện. 95568.html, (29/08/2018)
https://baomoi.com/nhung-cach-an-
mac-lam-cho-ban-trong-sang-
Những cách ăn mặc làm cho bạn trong-thoi-thuong-
53 trông sang trọng, thời thượng hơn hon/c/32197465.epi, (15/9/2019)
Lý giải về sự trỗi dậy của "hiện tượng
Donald Trump", chuyên gia phân tích https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-
Scot Faulkner cho rằng phong cách ăn te/giai-ma-hien-tuong-donald-
ngay nói thẳng của ông Trump đang trump-20150720221209261.htm,
54 làm hả dạ những người bảo thủ. (20/7/2015)
Muốn khoa học công nghệ nói riêng,
nền khoa học kỹ thuật Việt Nam nói https://dantri.com.vn/blog/dung-
chung phát triển thì một trong những buoc-cac-nha-khoa-hoc-lam-dieu-
việc cần làm ngay là cải cách thể chế gian-doi-20170105053017505.htm,
55 chính sách để các nhà khoa học tập (5/1/2017)
96
trung cho nghiên cứu, sáng tạo, nhất
là không biến các nhà khoa học thành
“ăn gian, nói dối”
Bạn hãy tin rằng, mọi ý nghĩ không https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-
hay về các cặp chồng già vợ trẻ đều tinh/dinh-kien-trau-gia-gam-co-
chỉ là trò “ăn ốc nói mò”, vô cùng non-1356827111.htm,
56 thiếu cơ sở (25/12/2012)
https://dantri.com.vn/dien-
Theo lý giải của bạn đọc thì lương dan/muon-luong-tang-can-manh-
thấp là vì phải san sẻ với những đồng dan-giam-quan-so-
57 nghiệp "ăn thật làm giả" 1318653454.htm, (11/10/2011)
( https://baophapluat.vn/tieu-dung-
thong-minh/nong-dan-trong-cay-
Nông dân trồng cây cảnh “làm chơi canh-lam-choi-an-that-
58 ăn thật” 417619.html, (14/10/2018)
Nhưng toàn những cha ăn kỹ làm dối,
một nhát đến tai, hai nhát đến gáy… http://www.tacphammoi.net/news/1
Thoạt nhìn, biết ông là người cẩn 031/36/Gio-xuan-thoi-som/d,detail,
59 thận… (06/08/2015 )
Theo tôi, văn hóa không 'nằm' ở
những chiếc váy mà ở trên não người
mặc. Nếu thực sự là người có văn hóa, https://dantri.com.vn/ban-doc/the-
bạn sẽ thể hiện văn hóa ăn mặc của hien-van-hoa-an-mac-
60 mình tùy theo hoàn cảnh…” 1312509487.htm, (01/08/2011 )
15 phong cách thời trang đúng là xúc (https://kenh14.vn/15-phong-cach-
61 phạm nền văn hóa ăn mặc thế giới thoi-trang-dung-la-xuc-pham-nen-
97
van-hoa-an-mac-the-gioi-
20160504164334384.chn,
04/05/2016).
Chiếc áo không làm nên thầy tu” https://thanhnien.vn/suc-
nhưng cách bạn ăn mặc, quần khoe/nguoi-khac-danh-gia-nang-
áo, trang phục lại ảnh hưởng đến việc luc-cua-ban-qua-cach-an-mac-cua-
mọi người nghĩ bạn có đủ năng lực ban-day-1161246.html,
62 hay không đấy. (24/12/2019)
https://vnexpress.net/thoi-su/lao-
dong-tu-algeria-an-doi-mac-rach-
Lao động từ Algeria 'ăn đói, mặc rách' ve-nuoc-3313704.html,
63 về nước (17/11/2015)
Ở độ tuổi 30, họ sở hữu trong tay khối https://dantri.com.vn/nhip-song-
tài sản đủ để ăn sung mặc sướng đến tre/nhung-nguoi-thich-kho-
64 hết cuộc đời 1193997587.htm, (1/11/2007)
https://dantri.com.vn/kinh-
doanh/huong-den-giai-phap-an-
chac-mac-ben-cho-gioi-tieu-
Hướng đến giải pháp “ăn chắc, mặc thuong-va-nguoi-lao-dong-
bền” cho giới tiểu thương và người 201803291025094.htm,
65 lao động (29/3/2018)
Người có tiền và muốn ăn chắc mặc https://vnexpress.net/oto-xe-
bền, ngại phải vào garage vì sợ tốn may/an-chac-mac-ben-thi-chi-co-
tiền, sợ tốn xăng nuôi xe thì mới chọn xe-nhat-3702219.html
66 xe Nhật (25/11/2008)
Lập kỷ lục SEA Games mới, Nguyễn https://webthethao.vn/mon-
67 Huy Hoàng “ăn chắc mặc bền” mỗi khac/lap-ky-luc-sea-games-moi-
98
ngày một vàng nguyen-huy-hoang-an-chac-mac-
ben-moi-ngay-mot-vang-
109818.htm, (5/12/2019)
https://vndoc.com/van-mau-lop-11-
Cha mẹ phan-tich-bai-tho-thuong-vo-cua- thói đời ăn ở bạc
68 Có chồng hờ hững cũng như không tran-te-xuong/download
https://dantri.com.vn/doi-song/anh-
Điều cốt yếu là họ ăn ở đối xử với cuoi-tien-trieu-nam-gon-trong-xe-
nhau ra sao, chứ tôi thấy các bạn trẻ rac-20150727071439559.htm,
69 bây giờ ngày càng lãng phí. (27/7/2015)
https://vnexpress.net/doi-song/co-
Hai người đã ăn ở với nhau như vợ nen-lam-ban-tinh-cua-chang-
70 chồng 2963083.html, (13/3/2014)
Có tình cảm nào với sự biết ơn mà https://www.cuasotinhyeu.vn/tam-
đến với nhau, ăn ở với nhau dẫn đến su/tinh-yeu/chi-la-biet-ma-phai-o-
71 quan hệ? cung-nhau-59601.html
https://vnexpress.net/goc-nhin/thoi-
an-o-ban-3001114.html,
72 Thói ăn ở bẩn (16/6/2014)
Người Việt vẫn dặn nhau “ăn ở như
bát nước đầy” và trong quan hệ với https://tuoitre.vn/ai-dang-hat-di-
Trung Quốc, Việt Nam luôn thực tâm bat-nuoc-day-609719.htm,
giữ gìn, thậm chí nâng niu bát nước (28/5/2014)
73 tình nghĩa ấy.B7
99
“Ăn bờ ở bụi” đón tết xa nhà hay đón https://dantri.com.vn/xa-
giao thừa muộn là những chuyện đã hoi/chuyen-nhung-nguoi-dung-leu-
quá quen thuộc đối với những người ben-duong-cho-tet-
chuyên nghề trồng hay buôn bán đào, 20180212221254709.htm,
74 quất, cây cảnh chưng tết. (13/2/2018)
Xuất khẩu LĐ (XKLĐ) chuyển sang https://tuoitre.vn/xuat-khau-lao-
cơ chế thị trường đã lâu nhưng vẫn dong-van-an-xoi-o-thi-321657.htm,
75 hoạt động theo kiểu “ăn xổi ở thì” (28/3/2020)
Cũng có ông "ăn ở hai lòng". Tình https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-
cảm đem chia sẻ nhiều nơi, chỉ dành tinh/yeu-ngoai-luong-o-tuoi-tu-
76 cho vợ phần nhỏ nhất tuan-1208991063.htm, (29/4/2008)
https://dantri.com.vn/bat-dong-
Mua chung cư này cũng gần 6 tỷ đồng san/bo-tien-ty-mua-chung-cu-
mà dịch vụ thì quá tệ. Tôi ở chung cư nhung-song-nhu-an-nho-o-dau-
đóng đủ phí quản lý, phí bảo trì hẳn 20191207064002310.htm,
77 hoi mà cứ như đi ăn nhờ ở đậu. (7/12/2019)
https://afamily.vn/tat-ca-la-cua-
con-trai-toi-co-chi-an-nho-o-dau-
Nhưng bây giờ cô mới biết, là bà coi va-hanh-dong-dap-tra-cua-nang-
cô chẳng ra gì, coi như một kẻ vô dau-khien-me-chong-im-lang-
dụng, ăn nhờ ở đậu nên bà chẳng cần 2018021217161482.chn,
78 để ý cảm xúc, suy nghĩ của cô (38/3/2018)
https://thanhnien.vn/phap-luat/tin-
do-day/truong-ap-an-duong-
79 Trưởng ấp... ăn đường 5583.html, (12/01/2014 )
https://thanhnien.vn/thoi-su/phap-
80 Ngồi tù vì "ăn" đường giao thông luat/ngoi-tu-vi-an-duong-giao-
100
thong-94425.html , (7/12/2007)
https://thanhnien.vn/doi-song/ts-
vu-the-long-tong-thu-ky-hoi-am-
Ngày tôi còn nhỏ, ăn đường ăn chợ có thuc-ha-noi-la-tiem-buffet-khong-
81 khi còn bị coi là thiếu văn hóa. lo-70550.html
https://giaoduc.net.vn/giao-duc-
24h/trong-thi-nguoi-thay-de-ho-
Trọng thị người thầy để họ không... khong-an-xo-mo-nieu-
82 "ăn xó mó niêu" post71365.gd, (03/07/2012)
https://vtc.vn/chuyen-vu-an/6-
6 tháng 'ăn bờ, ngủ bụi' của trinh sát thang-an-bo-ngu-bui-cua-trinh-sat-
phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ pha-duong-day-danh-bac-nghin-ty-
đồng game đế chế dong-game-de-che-ar528807.html,
(21/02/2020) 83
https://dantri.com.vn/xa-hoi/bo-
doi-bien-phong-an-bo-ngu-bui- Bộ đội Biên phòng “ăn bờ, ngủ bụi” chan-dong-nguoi-nhap-canh-trai- chặn dòng người nhập cảnh trái phép phep-20200325163950667.htm,
(26/03/2020) 84
Quan điểm này trái ngược hoàn toàn https://dantri.com.vn/the-
với thông tin của Mỹ, rằng trùm gioi/osama-bin-laden-dang-lan-
khủng bố al-Qaeda đang phải “ăn tron-o-thanh-thi-1192095976.htm,
85 lông ở lỗ”. (10/10/2007)
…bên tây họ đẹp ở cách ăn mặc lịch https://dantri.com.vn/kinh-
sự còn bên ta lại lấy vẻ đẹp trùng trục doanh/dich-vu-trai-dep-co-bap-
86 như trâu để coi là đẹp....trông lố bịch ban-hang-su-lo-bich-hay-suy-nghi-
101
quá....chỉ hơn thời ăn lông ở lỗ là có co-hu-20170609061604305.htm,
cái quần" (9/6/2017)
https://thanhnien.vn/the-gioi/an-
hoi-lo-cuu-thi-truong-tham-quyen-
Ăn hối lộ, cựu thị trưởng Thâm lanh-an-tu-hinh-384580.html,
87 Quyến lãnh án tử hình (9/5/2011)
https://thanhnien.vn/giao-duc/an-
chan-tien-suat-an-cua-hoc-sinh-
Ăn chặn tiền suất ăn của học sinh tiểu tieu-hoc-891879.html,
88 học (20/10/2017)
Người ta có thể đã quen với những
hành vi ăn cắp vặt chỗ này, chỗ kia vì
nó vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng
việc ăn chặn hàng cứu trợ dành cho https://dantri.com.vn/blog/an-chan-
những người già neo đơn, những trẻ hang-tu-thien-ho-da-cuop-di-hy-
em mồ côi ở trung tâm này, thật là vong-cua-nhung-nguoi-thiet-thoi-
hành vi quá xấu xa, không thể nào 20190929191053935.htm,
89 chấp nhận được (30/9/2019)
102
https://thanhnien.vn/toa-soan-ban-
doc/bien-bao-giao-thong-bi-an-hiep-
90 Biển báo giao thông bị "ăn hiếp" 145851.html, (9/10/2008)
https://thanhnien.vn/the-gioi/nhung-ke-an-
91 Những kẻ ăn chẹt ở Phố , Wall chet-o-pho-wall-392526.html, (30/3/2009)
https://thanhnien.vn/thoi-su/an-trom-bi-
Ăn trộm bị phát hiện, trả thù phat-hien-tra-thu-bang-xang-
92 bằng... xăng! 1077447.html, (2/5/2019)
Trước thực trạng trên dư luận https://thanhtra.com.vn/phap-luat/dieu-tra-
không khỏi đặt nghi vấn: Có hay qua-don-thu/bai-2-chinh-quyen-an-ro-voi-
không việc chính quyền “ăn rơ” doanh-nghiep_t114c39n71933
93 với doanh nghiệp? (05/05/2014 )
https://dantri.com.vn/suc-khoe/vu-benh-
Vụ bệnh viện Xanh Pôn gian lận vien-xanh-pon-gian-lan-xet-nghiem-hiv-
xét nghiệm HIV: “Ăn gian” quy an-gian-quy-trinh-gay-sai-so-nhu-the-nao-
94 trình gây sai số như thế nào? 20191209232752357.htm, (10/12/2019)
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/an-chia-
Ăn chia "tàn bạo" ở dự án KĐT tan-bao-o-du-an-kdt-thanh-ha-ong-trinh-
Thanh Hà, ông Trịnh Xuân Thanh xuan-thanh-co-lien-quan-
95 có liên quan? 201609082334562.htm, (9/9/2016)
https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-
phap/phong-chong-tham-nhung/an-ban-3-
"Ăn bẩn", 3 cựu cán bộ công an cuu-can-bo-cong-an-chia-nhau-21-nam-tu-
96 “chia nhau” 21 năm tù 82180.html, (31/1/2020)
https://tuoitre.vn/ubnd-tphcm-chi-dao-xu- UBND TP.HCM chỉ đạo xử lý nạn ly-nan-an-bam-tre-em-324694.htm, "ăn bám trẻ em" 97 (28/3/2020)
103
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/bat-
Bất động sản đang “ăn bám” thị dong-san-dang-an-bam-thi-truong-tai-
98 trường tài chính chinh-1402915215.htm, (10/6/2014)
https://thanhnien.vn/thoi-su/quy-ngoai-
Quỹ ngoài ngân sách 'ăn bám' ngân ngan-sach-an-bam-ngan-sach-
99 sách 1118582.html, (26/8/2019)
https://thanhnien.vn/van-hoa/dien-anh-an-
100 Điện ảnh ăn bám “sao" bam-sao-46279.html, (12/12/2012)
https://thanhnien.vn/the-gioi/philippines-
Philippines nói muốn tự củng cố noi-muon-tu-cung-co-nang-luc-phong-thu-
năng lực phòng thủ, không 'ăn khong-an-bam-vao-nuoc-khac-
101 bám' vào nước khác 1182267.html, (13/2/2020)
https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/buc-
xuc-vi-ban-chi-biet-an-thanh-toan-kiem-
“Ăn chùa” cả chục lần nhưng co-chuon-20161003134349195.htm,
102 không mời lại một lần (3/10/2016)
Không đến muộn nhưng nhiều https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/khoc-
thanh niên "ăn chùa” vẫn xù được thet-voi-nhung-ke-chi-thich-an-chua-
103 tiền ăn bằng cách cố tình về sớm. 20160930081027193.htm, (30/9/2016)
https://thanhnien.vn/doi-song/thu-
gian/dam-xoi-trai-cam-323201.html,
104 Dám xơi trái cấm! (23/2/2007)
Giữ gìn cho người yêu 4 năm để https://www.yan.vn/chang-trai-cay-dang-
chờ đêm tân hôn, chàng trai cay nhin-ban-than-va-nguoi-yeu-cam-sung-
105 đắng nhìn bạn thân "xơi" mất 203042.html, 20/05/2019)
Chồng ăn chả, vợ trả đũa xơi nem https://vietnamnet.vn/vn/ban-doc/chong-
106 tại cơ quan an-cha-vo-tra-dua-xoi-nem-tai-co-quan-
104
18527.html, (30/4/2011)
https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tu-
de-an-thanh-kho-xoi-924, 87.html,
107 Từ dễ ăn thành khó xơi (14/10/2012)
Họ xơi cả vào khoản tiền ít ỏi
trong khẩu phần ăn của những đứa https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-
108 trẻ thơ. tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)
https://vietnamnet.vn/vn/bat-dong-san/du-
an/cai-tao-chung-cu-cu-tp-hcm-ngay-
Đất vàng chung cư cũ: Không “dễ cang-xa-roi-muc-tieu-363656.html,
109 xơi” (28/3/2017)
https://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/dieu-gi-
Điều gì xảy ra khi lỗ đen "xơi tái" xay-ra-khi-lo-den-xoi-tai-sao-
110 sao? 269670.html, (26/10/2015)
https://dantri.com.vn/the-thao/nong-mat-
Nóng mặt, cầu thủ “ xơi tái” cau-thu-xoi-tai-catrong-tai-
111 cả…trọng tài 1332233828.htm, (16/3/2012)
https://tuoitre.vn/dua-hinh-anh-cong-chuc-
Đưa hình ảnh công chức "xơi" giờ xoi-gio-cong-len-tivi-543713.htm,
112 công lên tivi (14/8/2013)
https://thanhnien.vn/thoi-su/xe-dien-xoi-3-
113 Xe điên “xơi” 3 xe máy xe-may-487550.html, (22/5/2012)
https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/15-nam-
15 năm xây dựng vùng nguyên xay-dung-vung-nguyen-lieu-bong-coc-
114 liệu, bỗng ‘cốc mò cò xơi’ mo-co-xoi-227657.html, (29/3/2015)
115 Chưa biết Ban trọng tài sẽ treo còi https://vietnamnet.vn/vn/the-thao/bong-da-
105
ông Dũng bao nhiêu trận, chỉ biết viet-nam/trong-tai-phung-dinh-dung-ngoi-
rằng trọng tài này sẽ phải “ngồi choi-xoi-nuoc-het-giai-319114.html,
chơi xơi nước” dài dài (3/8/2016)
Thực sự bố mẹ chẳng có gì ngoài
sự lương thiện, chân chất nuôi con
cái nên người, vì chưa đủ dư dả,
nên bố mẹ vẫn cứ phải “ăn dè hà
tiện” thế thôi, nhưng toàn là “ki https://baomoi.com/thu-me-chong-muon-
116 cóp cho cọp nó xơi” gui-con-dau/c/18726242.epi, (24/2/2016)
Phải chăng mâm cỗ “siêu khổng
lồ” này được họ chuẩn bị để “mời” https://coffanhom.com/thi-truong-cop-
các đối tác sử dụng cốp pha nhôm pha-nhom-viet-nam.html, (15/10/2019)
117 trong tương lai?
Ở đây, họ “chén” cả Pentaxim, một
loại vắc xin chứa trong nó 5 mầm
bệnh hiểm nguy là bạch hầu, ho
gà, uốn ván, viêm gan B, viêm https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-
118 phổi/viêm màng não mủ. tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)
(https://www.tienphong.vn/suc-
khoe/khong-le-bay-gio-cu-yeu-la-mat-
Không lẽ bây giờ cứ yêu là mắt truoc-mat-sau-doi-chen-1503960.tpo,
119 trước mắt sau... 'đòi chén'? (02/01/2020).
(https://www.nguoiduatin.vn/hanh-phuc-
da-mim-cuoi-voi-co-gai-bi-nguoi-yeu-lua-
'Chén' người yêu rồi lừa bán sang ban-sang-xu-nguoi-a104834.html,
120 Trung Quốc (23/09/2013).
106
Yêu 4 năm không làm ăn được gì, https://www.yan.vn/chang-trai-cay-dang-
đùng cái thằng bạn thân “chén” nhin-ban-than-va-nguoi-yeu-cam-sung-
121 luôn 203042.html, (20/05/2019)
https://dantri.com.vn/chuyen-la/da-dot-
Đã đột nhập ăn trộm còn đánh nhap-an-trom-con-danh-chen-no-say-
122 chén no say 20150731094325083.htm, (31/7/2015)
https://thanhnien.vn/doi-song/am-thuc/lan-
Lần đầu “đánh chén” bánh canh dau-danh-chen-banh-canh-trang-bang-
123 Trảng Bàng 646469.html, (15/12/2015)
“Chúng ta đánh chén cái đất nước
này đến mức nó không thể lớn
được. Quá nhiều thủ tục, thủ tục https://dantri.com.vn/kinh-doanh/co-thu-
gắn với lợi ích, có thủ tục là có làm tuc-la-co-lam-kho-co-danh-chen-
124 khó, là có đánh chén” 20170920081812544.htm, (20/9/2017)
https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/co-thu-
Còn quá nhiều thủ tục làm khó, tuc-la-co-lam-kho-co-danh-chen-
125 'đánh chén' doanh nghiệp 399528.html, (19/9/2017)
https://vnexpress.net/the-thao/ronaldo-
Ronaldo, Benzema no phưỡn bụng benzema-no-phuon-bung-sau-khi-danh-
126 sau khi 'đánh chén' APOEL chen-apoel-3674675.html, (23/11/2017)
https://thanhnien.vn/the-gioi/ca-sau-dop-
Cá sấu đớp tay người huấn luyện tay-nguoi-huan-luyen-trong-luc-dien-xiec-
127 trong lúc diễn xiếc ở Thái Lan. o-thai-lan-988560.html, (31/7/2018)
https://thanhnien.vn/luom-lat/nghich-dai-
128 Nghịch dại, bị gấu đớp bi-gau-dop-320162.html, (15/4/2009)
https://dantri.com.vn/giai-tri/khi-sao-dop-
129 Khi sao... "đớp" nhạc nhac-1166076589.htm, (13/12/2006)
107
Nhạc sĩ chuyển bài tới, hát giùm
để ca sĩ "đớp" theo, cuối cùng nhờ
người hòa âm nữa là đưa lên sân http://giadinh.net.vn/giai-tri/mu-nhac-
130 khấu cung-thanh-sao-761.htm, (13/12/2006)
Truyền hình mang tiếng liveshow https://www.tienphong.vn/van-nghe/quoc-
lên sân khấu toàn hát đớp, play trung-hong-nhung-khong-phai-typ-nguoi-
131 back.. toi-thich-84501.tpo, (18/5/2007)
(https://kenh14.vn/loat-dau-hieu-cho-biet-
Loạt dấu hiệu cho biết đối tượng doi-tuong-cua-ban-da-dop-thinh-roi-
132 của bạn đã "đớp thính" rồi! 20170505003608209.chn, (05/05/2017).
Mách anh em cách “đớp” thính (https://ohman.vn/mach-anh-em-cach-dop-
“chuẩn nhất” để nhanh chóng thoát thinh-chuan-nhat-de-nhanh-chong-thoat-e-
133 ế 1653.html, (14/12/2017).
https://kenh14.vn/tron-bo-bi-kip-tha-thinh-
Trọn bộ bí kíp "thả thính", cứ thả cu-tha-la-co-ca-dop-ngay-va-luon-
134 là có cá "đớp" ngay và luôn! 20170410155022796.chn, (11/4/2017)
Nghe đồn, những doanh nghiệp
làm nhôm cũng muốn “đớp” lấy cơ https://coffanhom.com/thi-truong-cop-
hội mà hầu hết các công ty rót vốn pha-nhom-viet-nam.html), (15/10/2019)
135 vào Việt Nam trông thấy
Chúng luôn tồn tại, và sẵn sàng
đớp lấy cơ hội để bùng phát, dù chỉ
là một đầu tàn thuốc được một ai
đó vô tình quăng xuống đất, gặp cơ https://pcccthaibinh.com.vn/huong-dan-
hội cũng có thể bùng lên thành phat-tin-hieu-bao-dong-khi-co-su-co-
136 những đám cháy dữ dội. chay/).
108
https://thanhnien.vn/video/the-thao/voi-
Với Pep, giờ là lúc để...nhậu mừng pep-gio-la-luc-denhau-mung-chien-thang-
137 chiến thắng 134054.html, (21/5/2019)
https://thanhnien.vn/thoi-su/do-nong-do-
Đo nồng độ cồn "phố nhậu" Thăng con-pho-nhau-thang-long-bi-giu-bang-
Long: Bị giữ bằng vẫn lái xe đi van-lai-xe-di-nhau-1190249.html,
138 nhậu (3/3/2020)
Công an TP.Đà Nẵng lập biên bản
để xử phạt 2 người là admin 2 https://thanhnien.vn/thoi-su/phat-cac-
trang Facebook chuyên “chỉ điểm” admin-facebook-chuyen-chi-diem-giup-
giúp dân nhậu vượt trạm kiểm tra dan-nhau-ne-csgt-1185948.html,
139 nồng độ cồn (22/2/2020)
https://thanhnien.vn/thoi-su/dong-nghiep-
"Bợm nhậu" bị tuyên mức án 20 tho-xay-chet-oan-vi-bom-nhau-hung-
140 năm tù về tội giết người. hang-1054194.html, (22/2/2019)
https://thanhnien.vn/video/thoi-su/an-
Ăn nhậu tưng bừng ở trận địa pháo nhau-tung-bung-o-tran-dia-phao-co-di-
141 cổ di tích quốc gia tich-quoc-gia-108273.html, (5/5/2018)
https://thanhnien.vn/du-lich/bien-vung-
Biển Vũng Tàu 'chật cứng người', tau-chat-cung-nguoi-kien-quyet-noi-
kiên quyết nói không với việc ăn khong-voi-viec-an-nhau-tren-bai-bien-
142 nhậu trên bãi biển 1076867.html, (30/4/2019)
“Chuyện vợ chồng người ta không https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-
ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô cuu/thoi_an_nep_o_nguoi_viet_qua_cach
143 đâm ra mất lòng" _noi.html, (6.10.2009)
Trong ngày Tết, thức ăn sau khi https://www.baogiaothong.vn/ngay-tet-
144 cúng, nhiều gia đình hay ưu tiên can-chu-y-nhung-dieu-nay-de-tre-khong-
109
cho người già, trẻ em gọi là "thụ phai-nhap-vien-d449136.html, (23/1/2020)
lộc
Cách làm bánh đoá lan thơm nức, https://www.myphamchonam.com/cong-
xốp mịn ai tợp cũng khen ngon nghe/cach-lam-banh-doa-lan-thom-nuc-
145 lành xop-min-ai-top-cung-khen-ngon-lanh.html
https://giaoducthoidai.vn/nhin-vao-dien-
Có lần anh ta về ăn thì lùa vội nay-biet-ngay-vo-chong-khong-con-yeu-
146 vàng cho xong rồi đứng lên nhau-nua-3816617.html, (26/8/2019)
Họ “xực” vào cả những đồng tiền
xương máu của người có công và
không từ cả hài cốt của người đã https://dantri.com.vn/blog/luong-y-kieu-
147 chết tho-ta-1369269091.htm, (19/5/2013)
110