ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
-----------***-----------
LÝ DOANH
( LI YING )
KHẢO SÁT TỪ NGỮ BIỂU THỊ THỜI ĐIỂM TRONG TIẾNG
HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
(TRÊN CƠ SỞ TÁC PHẨM HỒNG LÂU MỘNG VÀ BẢN DỊCH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Hà Nội- 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC ~~~☆~~~
LÝ DOANH ( LI YING ) Khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng Việt (trên cơ sở tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch) Luận Văn Thạc Sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã Số: 60. 22. 02.40 Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thuý Hồng HÀ NỘI – 2015
2
LỜI CẢM ƠN
Trong hai năm học tập tại khoa Ngôn ngữ học – Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, được sự giúp đỡ tận tình từ các thầy các cô, các bạn học
viên, và với sự nỗ lực của bản thân, cuối cùng, luận văn của tôi đã hoàn thành
theo mong muốn. Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, ngoài được học
các kiến thức ngôn ngữ, tôi còn nhận được sự giúp đỡ quý báu của các thầy
cô giáo về cách sống trong xã hội. Sau hai năm học ở Việt Nam, tôi không những
đã được nâng cao kiến thức ngôn ngữ, về tiếng Việt, mà còn hoàn thiện bản thân
hơn trong cách đối nhân xử thế. Xin chân thành cảm ơn các thầy các cô, xin cảm
ơn các bạn học viên đã luôn động viên giúp đỡ tôi. Đặc biệt, tôi xin chân thành
cảm ơn TS Phạm Thị Thúy Hồng – người đã tận tâm dạy dỗ và trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành luận văn này, xin cảm ơn cô, cô đã rất vất vả với em!
Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bố mẹ, những người đã luôn
động viên tôi, cho tôi thêm nghị lực, dũng khí phấn đấu trên con đường mình
chọn.
Một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo của khoa Ngôn
ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội. Kính chúc các thầy các cô sức khỏe, thành công! Xin cảm ơn các thầy cô
cho tôi ý kiến nhận xét. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội , tháng 09 năm 2015
3
Học viên Lý Doanh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Ban chủ nhiệm khoa
Ngôn ngữ học và Ban gián hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hà Nội , ngày 24 tháng 9 năm 2015
Học viên
4
Lý Doanh ( LI YING )
Mục Lục PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 1 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 2 4. Ý nghĩa và mục đích nghiên cứu ................................................................. 2 5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu ............................................................ 2 6. Bố cục luận văn ............................................................................................. 3 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT .......................................................................... 4
1.1. Vấn đề thời gian và thời gian trong phát ngôn ......................................... 4 1.1.1 Cách xác định thời đoạn, thời điểm, khoảng cách thời gian, hoàn cảnh thời gian 1.1.2 Từ chỉ thời gian với biểu thị tình thái trong câu 1.1.3 Thời gian ngữ cảnh 1.1.4 Biểu thị thời gian gắn khung vị từ. 1.1.5 Thời gian và trật tự các thành tố trong câu – phát ngôn 6 6 7 8 9 1.2 Khái quát ý nghĩa thời gian trong tiếng Hán ........................................... 9
1.2.1 Quan điểm về từ ngữ chỉ thời gian trong tiếng Hán 9 1.2.2 Nghiên cứu từ ngữ chỉ thời điểm và thời đoạn trong tiếng Hán 11 1.3 Khái quát ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt .......................................... 12
1.3.1 Quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về từ ngữ chỉ thời gian 1.3.2 Khái quát về ý nghĩa thời điểm trong tiếng Việt
1.4.1 Tiêu chí về nội dung 1.4.2 Tiêu chí về hình thức 1.4.3 Tiêu chí về chức năng
1.5.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật 1.5.2.Các cấp độ của thời gian nghệ thuật 1.5.3. Các điều kiện của thời gian nghệ thuật 1.5.4. Các chiều của thời gian nghệ thuật
1.6.1 Nhân diện từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Việt 1.6.2 Nhân diện từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán 13 16 1.4 Tiêu chí nhận diện biểu thị thời gian và thời điểm .................................. 18 18 20 22 1.5. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học ........................................ 23 23 25 25 26 1. 6. Nhận diện từ ngữ biểu thị thời điểm ....................................................... 26 26 27 Tiểu kết: ............................................................................................................. 28
CHƢƠNG 2 TỪ NGỮ BIỂU THỊ THỜI ĐIỂM TRONG NGUYÊN BẢN TIẾNG HÁN TÁC PHẨM HỒNG LÂU MỘNG ................................................. 30
5
2.1 Giới thiệu khái quát tác phẩm Hồng Lâu Mộng ..................................... 30 2.2. Khái quát về việc nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” ở Trung Quốc ........................................................................................................ 30
2. 5. 1. Từ đơn biểu thị thời điểm 2. 5. 2. Từ phức biểu thị thời điểm 2. 5. 3. Cấu trúc kiểu số lƣợng 2. 5. 4. Cấu trúc giới tân 2. 5. 5. Kiểu chính phụ 2. 5. 6. Kiểu phƣơng vị 2.3 Những tiêu chuẩn và phạm vi phân ranh giới của từ chỉ thời gian trong Hồng Lâu Mộng ................................................................................................ 32 2.4. Chức năng ngữ pháp và chức năng cú pháp của từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán ........................................................................................ 33 2.5. Từ ngữ biểu thị thời điểm trong nguyên bản tiếng Hán của tác phẩm Hồng Lậu Mộng ................................................................................................ 35 35 38 62 66 69 76 Tiểu kết: ............................................................................................................. 82
CHƢƠNG 3 KHẢO SÁT TỪ NGỮ BIỂU THỊ THỜI ĐIỂM TRONG BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT HỒNG LÂU MỘNG............................................................ 86
3. 2. 1. Các cách biểu thị thời điểm có ý nghĩa đối lập về thời 3. 2. 2. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa hiện tại 3. 2. 3. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa quá khứ 3. 2. 4. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa ở tƣơng lai
3.1. Vấn đề dịch Hồng Lâu Mộng tại Việt Nam ............................................. 86 3.2. Đặc điểm của từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Việt ( đối chiếu với nguyên bản tiếng Hán Hồng Lâu Mộng) ............................... 87 88 89 90 92 3.3. Từ ngữ chỉ thời điểm trong 红楼梦 và bản dịch .................................... 94
Tiểu kết: ........................................................................................................... 110 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 115
6
Phụ Lục .................................................................................................................. 117
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay, các từ ngữ biểu thị thời gian đã là đối tượng nghiên cứu của các
nhà ngôn ngữ học Việt Nam và thế giới. Thời gian là khái niệm luôn gắn với nhận thức
của con người về sự tồn tại, diễn biến của sự vật trong thế giới khách quan. Qua ngôn
ngữ con người đã đề cập đến một hệ thống các đơn vị thời gian và phản ánh những hiểu
biết của con người về các thuộc tính cũng như quy luật khách quan của thời gian.
Khác với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Hán và tiếng Việt là ngôn ngữ
không biến hình, động từ không biến đổi hình thái do đó không có chức năng thông báo
về thời gian trong bản thân thực từ. Vì vậy, khi đề cập đến thời gian trong tiếng Hán và
tiếng Việt, chúng ta không thể không nói tới những từ ngữ chỉ thời gian. Những từ ngữ
này có chức năng biểu hiện và phân nghĩa thời gian. Đó là những chức năng biểu hiện và
phân định ý nghĩa của các thời, quá khứ, hiện tại và tương lai cũng như định vị các sự
việc và hành động trên trục thời gian.
Vấn đề thời gian đã được nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu từ nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu một
cách toàn diện đặc điểm của các biểu thức thời gian, đặc biệt là các biểu thức thời gian có
ý nghĩa thời điểm. Xuất phát từ lý do đó, cũng như nhu cầu cần thiết trong việc tìm hiểu
đặc điểm của các biểu thức biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng Hán và tiếng Việt, chúng
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu về: ―Khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong
tiếng Hán và tiếng Việt (trên cơ sở tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch)‖. Đề tài này sẽ
tập trung nghiên cứu khảo sát đặc điểm và ý nghĩa của các từ ngữ biểu thị ý nghĩa thời
điểm trong Tiếng Hán vàTiếng Việt.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng
Hán và tiếng Việt qua nguyên bản tiếng Hán tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch tiếng
Việt.
Đi sâu tìm hiểu khảo sát các từ ngữ biểu thị thời gian có ý nghĩa thời điểm, chúng tôi
sẽ lần lượt xem xét chúng về các mặt: đặc điểm ý nghĩa, chức năng ngữ pháp và hình
1
thức biểu hiện.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng Việt
được thể hiện trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch, từ đó tiến hành phân tích,
miêu tả ý nghĩa của chúng〃đồng thời khảo sát những từ ngữ này trong các ngữ cảnh khác
nhau, xem xét trong mối quan hệ với hiện thực mà chúng biểu thị, đặc biệt trong mối
quan hệ với người sử dụng, so sánh nhóm các từ ngữ này trong tiếng Hán với tiếng Việt,
dùng các phương pháp thích hợp để tìm ra các đặc trưng văn hóa và tư duy dân tộc ẩn
chứa trong ngữ nghĩa của các từ ngữ này, từ đó giải thích phần nào đặc điểm nhận thức
về thời gian của người Hán và người Việt.
4. Ý nghĩa và mục đích nghiên cứu
―Hồng Lâu Mộng‖ là một tác phẩm rất quan trọng trong giai đoạn chuyển tiếp từ
tiếng Hán cổ đại đến tiếng Hán hiện đại. Luận văn tìm hiểu và giải thích từ ngữ biểu thị
thời điểm trong Hồng Lâu Mộng vào việc định vị các sự việc và hành động trên trục thời
gian và có so sánh với tiếng Việt. Các kết luận rút ra trong luận văn là cần thiết đối với
việc nghiên cứu ngôn ngữ nói chung, đặc biệt đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong
mối quan hệ với văn hóa và tư duy nói riêng.
Luận văn chọn tiếng Hán , một ngôn ngữ tượng hình, để đối chiếu với tiếng Việt,
một ngôn ngữ tượng thanh, bởi thông qua sự khác biệt này việc đối chiếu phương tiện
diễn đạt ý nghĩa, nội hàm ngữ nghĩa của từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán với
tiếng Việt sẽ xác định được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ, tìm
hiểu cách biểu đạt tương đương về nghĩa nhằm thấy được sự khác nhau về tư duy văn hóa
dân tộc giữa hai ngôn ngữ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu
Trong luận văn này, ngoài hai phương pháp nghiên cứu chung là qui nạp và diễn
dịch chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp
miêu tả, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối chiếu, . . .
2
Nguồn tư liệu của luận văn chủ yếu được trích từ các báo, tạp chí, truyện ngắn, tác
phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng một số tư liệu lấy
từ các công trình nghiên cứu của một số tác giả khác hay từ thực tế cuộc sống. Các câu
này đều biểu hiện ý nghĩa thời điểm và được phân tích định tính và định lượng nhằm
phục vụ cho việc nghiên cứu.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương với những nội dung
chính như sau:
Trình bày một số nội dung lý thuyết liên quan đến từ, ngữ, từ chỉ thời gian,
Chƣơng 1. Cơ sở lý thuyết
cách phân loại từ biểu thị thời gian và cách định vị thời gian.
Chƣơng 2. Biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và trong nguyên bản tiếng Hán
tác phẩm Hồng Lâu Mộng
Khảo sát đặc điểm từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và trong nguyên bản
tiếng Hán tác phẩm Hồng Lâu Mộng .
Chƣơng 3. Khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong bản dịch Hồng Lâu Mộng
Khảo sát các đặc điểm từ ngữ biểu thị thời điểm và cách biểu thị thời điểm trong
tiếng Việt. Giới thiệu lý thuyết dịch, phân tích sự bản dịch từ ngữ biểu thị thời điểm trong
tiếng Hán sang tiếng Việt, từ đó nêu ra sự giống và khác nhau giữa chúng.
3
Ngoài ra luận văn còn có phụ lục, tài liệu tham khảo.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Vấn đề thời gian và thời gian trong phát ngôn
Thời gian cũng như không gian là hai phạm trù lớn của triết học, là hình thức
tồn tại cơ bản của vật chất. Thời gian và không gian là hai thực tại khách quan gắn
liền với vật chất và quá trình vận động với vật chất. Hay nói khác đi không có vật
chất nào tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Như vậy thời gian là một trong những khái niệm cơ bản trong nhận thức của
con người, nó không những chỉ nhận thức được về mặt vật lý học mà còn được
nhận thức về mặt ngôn ngữ học.
- Theo ―Từ điển Tiếng Việt‖ (Hoàng Phê chủ biên) thời gian có 3 nghĩa cơ bản.
Nghĩa 1: Thời gian là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với không
gian), trong đó vật chất vận động sự phát triển liên tục, không ngừng.
Nghĩa 2: Khoảng thời gian nhất định xét về mặt dài, ngắn, nhanh, chậm của
nó.
Nghĩa 3: Khoảng thời gian trong đó diễn ra sự việc từ đầu cho đến cuối. [28,tr
956]
- Theo "Từ điển Hán Việt" của Đào Duy Anh thì quan niệm về thời gian là quá
khứ, hiện tại, tương lai, vị lai ba cái trạng thái ấy lưu chuyển với nhau vô cùng gọi
là thời gian. [1, tr432]
Theo Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới: ―Thời gian là biểu tượng của giới
hạn trong sự kéo dài và của ranh giới dễ cảm nhận nhất ngăn cách cuộc sống trần
thế và cuộc sống của thế giới bên kia, thế giới vĩnh hằng. Trong định nghĩa, thời
gian của người trần là hữu hạn, còn thời gian của thánh thần là vô hạn, hay nói
đúng hơn là vô thời gian, là vô khởi, vô tận‖ [dẫn theo 14, tr 905].
Trên thực tế người ta cảm nhận được thời gian là những thay đổi biến cố trong
4
tự nhiên như (sáng, trưa, chiều, tối, xuân, hạ, thu, đông...), trong các lễ hội phong
tục của dân tộc (các ngày lễ hội, các phiên chơ, kỵ, giỗ, tết...), trong cuộc đời con
người (lọt lòng, lớn lên, lấy vợ, lấy chồng, già, chết...), trong đời sống chính trị
(triều đại, mốc lịch sử, bước ngoặt lịch sử...). Thời gian qua sự cảm nhận đó là thời
gian vật lý và thời gian vật lý thì tuân theo quy luật tất yếu: Có tính liên tục, nó chỉ
đo đếm được trên một chiều mà thôi. Thời gian vật lý trùng với thời gian lịch sử
đều là thời gian liên tục không cho phép đứt đoạn.
Người ta nói đến thời gian trong ngôn ngữ bởi vì điều này gắn với đặc điểm
tín hiệu của ngôn ngữ. Tín hiệu của ngôn ngữ được lần lượt xuất hiện theo trình tự
thời giangọi là tính hình tuyến. Người ta không thể phát âm cùng một lúc các tín
hiệu chồng lên nhau mà phải đi từ A lần lượt B rồi C...
Như vậy thời gian trong ngôn ngữ chính là sự phản ánh một hiểu biết của con
người về các thuộc tính và quy luật của thời gian khách quan. Đây là một phạm trù
có tính phổ quát trong nhiều ngôn ngữ. Với "bức tranh thế giới riêng, mô hình thế
giới, hình ảnh thế giới‖, trong từng cộng đồng người khác nhau nên phạm trù thời
gian cũng có cách thể hiện, mà người bản ngữ không giải thích nổi.
Người ta có thể xem thời gian trong ngôn ngữ trùng với thời gian trong đời
sống thực tiễn. Và như vậy thời gian được coi là một đại lượng cần được phân chia,
cần được hình thành các đơn vị để đo đếm. Do đó có khái niệm về thời đoạn (các
khoảng thời gian). Thời gian được hình dung như một chuỗi vận động liên tục theo
một trục mà trên đó người ta có thể đánh dấu để ghi nhớ các mốc, các sự kiện, tức
là các khoảng thời gian ngắn được hạn định một cách chính xác, coi như một điểm
trên trục thời gian. Vì thế có khái niệm thời điểm (mốc thời gian).
Thời gian còn được coi như là một sự vận động có chiều hướng xác định và
trong quan hệ với sự tồn tại bản thân mình, con người có nhu cầu sắp xếp nó vào
một khu vực từ đây có khái niệm về thì (các miền thời gian). Như vậy thời đoạn,
thời điểm và thì là ba nội dung biểu hiện cụ thể của khái niệm chung về thời gian đã
được nhận thức trong lịch sử phát triển tư duy của loài người nói chung và của mỗi
5
dân tộc nói riêng.
1.1.1 Cách xác định thời đoạn, thời điểm, khoảng cách thời gian, hoàn
cảnh thời gian
Để phản ánh các thuộc tính về lượng hay chất của thời gian, ta thấy có các loại
ý nghĩa như: ý nghĩa thời đoạn, thời điểm, thời hạn; ý nghĩa về khoảng cách thời
gian, hoàn cảnh thời gian…
-Thời doạn là một khoảng thời gian nào đó được phân chia về mặt khối lượng
(nhiều/ít), về độ dài (dai/ngắn), là cách phân định các thời khoảng trong quá khứ -
hiện tại – tương lai. Thời đoạn có thể không xác định, có thể xác định khi nó gắn
với thuộc tính của sự việc, của quá trình, của một hoạt động nào đó hoặc là chiều
dài của một sự kiện từ khi nó bắt đầu cho đến khi nó kết thúc.
-Thời điểm được xem là khoảng thời gian ngắn hoặc rất ngắn, được hạn định
một cách chính xác. Nó là một điểm trên trục thời gian (như: sáng nay, 11 giờ trưa
nay, 3 giờ chiều nay, 15 phút nữa…).
-Thời hạn là phạm vi thời gian trong đó một sự tình xuất hiện được định
lượng là bao lâu (như: 5 ngày, 3 tuần, 4 tháng, 3 tiếng đồng hồ, 10 phút…)
-Khoảng cách thời gian là chiều dài được đo từ thời điểm phát ngôn đến thời
điểm xảy ra sự kiện, cũng có thể là khoảng cách giữa hai sự kiện xuất hiện ở hai
thời điểm khác nhau.
-Hoàn cảnh thời gian hay còn gọi là vị trí của người nói, ―điểm nhìn ― của
người phát ngôn. Tất cả các thời đoạn, thời điểm đều được định vị, được xác định
thông qua chủ thể phát ngôn .
Các phường tiện dùng để diễn đạt những ý nghĩa này ở tiếng Việt.
1.1.2 Từ chỉ thời gian với biểu thị tình thái trong câu
Thời gian luôn luôn được xác định bởi một tình thái nhất định. Thời gian dài
hay ngắn, sớm hay muộn.... tất cả là do nhận thức đánh giá của người nói và chỉ
được bộc lộ một phần trong tình thái của câu. Theo Cao Xuân Hạo: Tình thái của
câu phản ánh thái độ của người nói đối với điều mình nói ra, cách người nói đánh
giá tính hiện thực hay không hiện thực, giới hạn của tính hiện thực (trong thời gian
6
chẳng hạn - phạm trù thì) mức độ của tính xác thực, của tính tất yếu (khách quan
hay đạo lý), tính khả năng (vật chất hay tinh thần), tính chất đáng mong muốn hay
đáng tiếc....của điều được thông báo. [dẫn theo 13, tr51].
Như vậy tình thái của câu là nội dung chỉ mối quan hệ giữa người nói và người
nghe còn gọi là tình thái liên cá nhân. Nếu chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói
đối với sự việc nêu lên trong câu đối với phần nghĩa miêu tả sự việc còn gọi là tình
thái chủ quan. Nếu chỉ mối quan hệ của sự việc nêu lên trong câu với hiện thực
khách quan như thời gian, cách thức diễn ra hành động còn gọi là tình thái khách
quan.
Trong Hồng Lâu Mộng, những nội dung tình thái này nhiều khi đan quyện vào
nhau trong một yếu tố ngôn ngữ, khó bề tách bạch ra một cách rạch ròi, ví dụ:
Sau tuổi hai mươi đã trải đời.
Qua một trăm ngày mới rước linh cữu về nguyên quán.
Nay đang vào tiết đầu xuân .
Không biết bao giờ mới đến.
Từ "đã", "nay", "qua" ―bao giờ‖ vừa chứa tình thái khách quan chỉ quan hệ
của sự việc "trước kia" với thời gian hiện tại.
1.1.3 Thời gian ngữ cảnh
Ngữ cảnh là yếu tố quan trọng để biểu thị thời gian. Ngữ cảnh của một từ
chính là chuỗi kết hợp các từ ngữ xung quanh nó để làm cho nó được cụ thể hoá và
xác định về nghĩa. Ngữ cảnh có thể tối thiểu là một từ, tối đa là một chuỗi lớn hơn
có khả năng ứng với một câu, một phát ngôn. Khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp,
người ta nói ra những câu, những phát ngôn chứ không phải là những từ rời rạc, ở
đó các từ kết hợp với nhau theo quy tắc và chuẩn mực ngôn ngữ. Trong mỗi ngữ
cảnh cụ thể từ thể hiện khả năng kết hợp từ vựng và khả năng kết hợp ngữ pháp của
mình và cũng chính trong câu hay trong phát ngôn người ta mới biết được rằng
trong trường hợp hoàn cảnh cụ thể từ có nghĩa gì. Chẳng hạn phụ từ ― đã ‖biểu thị ý
nghĩa thời gian quá khứ nhưng trong hoàn cảnh cụ thể , ―đã‖ có thêm những nét
nghĩa khác: Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi
7
người đánh bài.(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ bảy, tr98). ―Đã‖ có nét nghĩa quá khứ
gần với hiện tại, mới xảy ra.
Trong Hồng Lâu Mộng, ngữ cảnh có quan hệ chặt chẽ với thời gian. Thông
qua ngữ cảnh người ta mới liên tưởng đến yếu tố thời gian có xuất hiện rõ nét hay
không rõ nét trong các câu thơ. Thời gian trong Hồng Lõu Mộng chủ yếu là thời
gian mang tính biểu trưng, khó xác định. Chính vì vậy ngữ cảnh rất quan trọng, góp
phần tăng thêm ý nghĩa câu văn: Nay đang vào tiết đầu xuân, muôn vật đổi mới,
đáng nên hăng hái dựng lại mới phải. (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ bảy mươi, tr 147).
1.1.4 Biểu thị thời gian gắn khung vị từ.
Khung vị từ là cấu trúc vị từ tham thể được tổ chức theo yêu cầu diễn đạt của
câu. Hay nói một cách khác khung vị từ là dạng biểu hiện cụ thể trong câu của cấu
trúc vị từ tham thể. Cấu trúc vị từ tham thể một mặt phản ánh cấu trúc nòng cốt của
sự việc, mặt khác phản ánh cốt lõi trong cấu trúc miêu tả của câu. Các tham thể
được xác định theo vai trò của mình trong mối quan hệ với đặc trưng của sự việc
nêu ở vị từ.
Ví dụ: Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm.
Bữa nay lạnh: Tham thể thời gian
Mặt trời: Tham thể làm chủ ngữ
Đi ngủ sớm: Vị từ ( vị ngữ)
Ví dụ: Em thảnh thơi như buổi sáng đầu ngày.
Em: Tham thể làm chủ ngữ
Thảnh thơi: Vị từ (vị ngữ)
Như buổi sáng đầu ngày: Tham thể thời gian
Ví dụ: Ánh sáng vấn vương chiều uể oải.
Ánh sáng: Tham thể làm chủ ngữ
Vấn vương: Vị từ (vị ngữ)
Chiều uể oải: Tham thể thời gian
Như vậy, khi xét nghĩa thời gian ta phải gắn các đơn vị biểu thị thời gian với
khung vị từ thì mới hiểu hết được ý nghĩa của câu.
8
Trong Tiếng Việt, vị từ là một từ có chức năng làm thành một vị ngữ hoặc làm
trung tâm ngữ pháp, hay làm hạt nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu thị nội dung
của sự việc. Vị từ có thể là một động từ hay tính từ. Trong giao tiếp các đơn vị biểu
thị thời gian là phụ từ có khả năng đứng trước động từ và tính từ.
Ngoài ra, vị từ còn được biểu hiện dưới dạng là một cụm từ. Trong trường hợp
đó thì cụm thường được đánh dấu bằng các phụ từ trong đó có nhóm phụ từ biểu
hiện ý nghĩa thời gian: đã, đang, vừa, còn...các phụ từ này có thể xuất hiện từng
yếu tố một cùng với động từ hay tính từ.
1.1.5 Thời gian và trật tự các thành tố trong câu – phát ngôn
Tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đơn lập, không biến đổi hình thái, vì thế phương
thức trật tự là phương thức rất quan trọng biểu thị ý nghĩa ngữ pháp.
Trong câu, nếu thay đổi vị trí của từ thì ý nghĩa thay đổi và chức năng cú pháp
của các thành phần câu cũng thay đổi.
Ví dụ: Rồi một ngày mai tôi sẽ đi. Hành động ―đi‖ chưa diễn ra
Ví dụ: Sao ngày tháng trôi đi vội vã. Hành động ―đi‖ đã và đang diễn ra
Thay đổi vị trí của từ chính là thay đổi trật tự từ từ ở trong câu. Cần phải phân
biệt phép trật tự từ và phép tuyến tính. Tuyến tính là một đặc điểm vô cùng quan
trọng của ngôn ngữ. Nó là một đặc điểm phổ quát tồn tại trong mọi ngôn ngữ không
phụ thuộc vào truyền thống, tập quán chân lý dân tộc. Còn phép trật tự từ thì ngược
lại, về hình thức thì giống với đặc điểm tuyến tính của ngôn ngữ nhưng nó lại mang
dấu vết về truyền thống văn hoá, tập quán của dân tộc.
Trong Tiếng Việt, dựa vào quan hệ giữa các phát ngôn, ta có thể thấy nhiều trật
tự sắp xếp các thành tố biểu thị thời gian khác nhau. Có thể là trật tự sắp xếp các
thành tố theo thời gian nghĩa là sự kiện hay hành động xảy ra theo trình tự thời
gian.
1.2 Khái quát ý nghĩa thời gian trong tiếng Hán
1.2.1 Quan điểm về từ ngữ chỉ thời gian trong tiếng Hán
Kể đến việc nghiên cứu từ chỉ thời gian, các nhà ngôn ngữ học tiền bối như cụ
Lê Cẩm Hy (1942), Vương Lực (1943), Lã Thúc Tương (1944), Cao Văn Khải…
9
đã có sự tìm tòi về các hình thức và thể loại diễn tả cơ bản về từ chỉ thời gian trong
tiếng Hán hiện đại. Các thành quả nghiên cứu đương thời có ―Bàn về kết cấu tam
nguyên của hệ thời gian tiếng Hán hiện đại‖ (1988) của Trần Bình, ―Sơ lược về từ
chỉ thời gian trong tiếng Hán hiện đại‖ (1991) của Lục Kiện Minh đã bàn luận một
cách khá toàn diện về từ chỉ thời gian. Bài ―Kể về từ chỉ thời gian tiếng Hán‖ (1995)
của Chu Tiểu Bình, bài ―Giai đoạn đặc chỉ trong việc diễn tả thời gian trong tiếng
Hán hiện đại‖ (1999) và ―Nghiên cứu về thời điểm thời đoạn tiếng Hán hiện đại‖
(1997) của Lý Hướng Nông đã chú trọng phân tích sự khác biệt giữa từ chỉ thời
gian với thời đoạn từ, đã có sự nghiên cứu khá thâm nhập về cách diễn tả của từ
ngữ chỉ thời gian, thời điểm, thời đoạn; ―Nghiên cứu tìm hiểu ngữ nghĩa mơ hồ với
tính chuẩn xác của từ chỉ thời gian tiếng Hán‖ (2006) của Chương Đình Đông cộng
tác với Lý Bảo Gia đã nêu rõ trong sự diễn tả ngôn ngữ, từ chỉ thời gian tồn tại sự
đối lập - thống nhất giữa tính mơ hồ với tính chuẩn xác. Còn Dương Động Dụng và
Hồ Bồi An thì phân tích từ chỉ thời gian theo góc nhìn nhận phạm trù danh giới từ
ngữ.
Đi đôi với việc nghiên cứu từ chỉ thời gian trong tiếng Hán hiện đại, các nhà
ngôn ngữ học cũng đã tiến hành nghiên cứu về từ chỉ thời gian trong tiếng Hán cổ
đại và hiện đại, Cuốn ―Từ điển phạm trù thời gian trong tiếng Hán cổ‖ (2005) của
Vương Hải Phấn đã thu lượm được hơn ba nghìn từ ngữ ghi thời gian, mỗi từ ngữ
đều kèm theo giải nghĩa với một số câu mẫu chọn lọc kỹ càng. Phần quan trọng và
có ý nghĩa hơn là bài báo cáo nghiên cứu ở phần mở đầu của cuốn từ điển ―Tổng
quát về phạm trù thời gian trong tiếng Hán cổ‖. Trước tiên là tìm hiểu về đặc
điểm tính bất phong bế và tính mơ hồ của từ ngữ ghi thời gian, rồi quy nạp phân
tích hình loại kết cấu của từ ngữ ghi thời gian, đã liệt kê tường tận các loại phương
thức kết cấu; và bản báo cáo đã dành nhiều nội dung luận thuật các phương thức ký
thời và nội hàm văn hóa phong phú của nó; phần cuối bài đã khảo sát lịch thời (thời
gian, thời đoạn) về phạm trù thời gian trong tiếng Hán cổ, đã trình bày, thể hiện
phạm trù thời gian trong tiếng Hán cổ một cách rõ ràng. Bài ―Nghiên cứu về từ chỉ
thời gian trong Hán thư‖ (2004) của Đặng Thụy Lệ đã sử dụng phương pháp miêu
10
tả trạng thái tĩnh, phân tích khá toàn diện về danh từ, phó từ và tính từ biểu thị thời
gian trong Hán thư, và đã phân tích tỉ mỉ tình hình sử dụng đại thể của từ chỉ thời
gian và đã miêu tả về nội hàm và phạm vi từ chỉ thời gian trong Hán thư. Bài
nghiên cứu ―Một nhóm từ chỉ thời gian trong tiếng Hán cận đại‖ (1997) của Phạm
Phan, đã khảo sát 21 từ chỉ thời gian chỉ xưng quãng thời gian sát gần thời điểm nói
trong tiếng Hán cận đại, từ góc độ cộng thời và lịch thời trong một phạm vi khép
kín, như ―thích tài, thích gian, kháp tài, cang tài, đầu lí,…‖; đã phân tích sự khác
biệt của tỉ suất sử dụng, kết cấu trong và chức năng ngữ pháp, cùng với quan hệ đối
ứng giữa phương thức kết cấu với chức năng ngữ pháp, chức năng tả nghĩa của
những từ ngữ đó; rồi còn khảo sát sự biến hóa phát triển của những từ chỉ thời
gian đó theo góc độ lịch thời.
1.2.2 Nghiên cứu từ ngữ chỉ thời điểm và thời đoạn trong tiếng Hán
Nghiên cứu từ ngữ chỉ ―thời điểm, thời đoạn‖ là một trong những tiêu điểm
nghiên cứu ―từ ngữ chỉ thời gian‖, kết quả nghiên cứu rất phong phú. ―Thời điểm‖
và ―thời đoạn‖ là sự phân loại về mặt ngữ nghĩa của từ thời gian. Quan điểm cơ bản
của giới học thuật về thời điểm và thời đoạn là: Thời điểm là một điểm trong thời
gian, biểu thị vị trí của thời gian, có thể dùng để trả lời câu hỏi ―什么红候(lúc
红公元年(năm công lịch, năm âm lịch)…. Thời đoạn là một độ dài ngắn của thời
nào)‖. Ví dụ: 星期一(Thứ 2),9 点(9 giờ), 今天(hôm nay),明年(năm ngoái),
(2 tháng), 五年(5 năm), 一会儿(một lúc), 片刻(một lát)…
gian, có thể dùng để trả lời câu hỏi ―bao nhiêu lâu‖. Ví dụ: 三天(3 ngày), 两个月
Hai thuật ngữ ―thời điểm‖ và ―thời đoạn‖ lần đầu tiên xuất hiện là ở cuốn
―Yếu lược văn pháp Trung Quốc‖ của ông Lữ Thúc Tương. Cuốn sách này cho
rằng: Từ thời gian thực chỉ (ví dụ như 晋太元中 năm Tấn Thái) và từ thời gian
11
xưng đại (như 将来 sắp tới, 今 hôm nay, 昔 hôm qua) đều là thời điểm; ngoài ra
còn thời đoạn, biểu thị thời gian dài hay ngắn, hoặc dùng các đơn vị như (年 năm,
日 ngày, 月 tháng) và phía trước có các từ định lượng hoặc từ bất định lượng như
好久 lâu rồi, 红 dài, 、久 lâu… Việc đưa ra thuật ngữ ―thời điểm‖ và ―thời đoạn‖
―三年 3 năm‖, ―数日 số ngày‖; hoặc biểu thị sự nhanh chậm, như ―一会儿 một lát,
mang nhiều ý nghĩa, đặt nền móng nghiên cứu sâu hơn về thời điểm và thời đoạn
cho các học giả và có đóng góp quan trọng tiên phong đối với việc nghiên cứu từ
chỉ thời gian.
Trong cuốn ―Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại giảng giải‖ đã chia từ chỉ thời gian
thành hai loại là thời điểm và thời đoạn, đồng thời đã định nghĩa rõ ràng cho thời
điểm và thời đoạn từ góc độ ý nghĩa: ―Từ thời gian có 2 loại. Một loại biểu thị lúc
nào, ‗ví dụ như: 一九五四年(năm 1954), 昨天(hôm qua),星期六下午(chiều
thứ 7)…‘ để nói vị trí thời gian, sự sớm muộn của thời gian, đây gọi là ‗thời điểm‘.
Một loại biểu thị thời gian bao nhiêu, như „五年(5 năm), 三年(3 năm)… để nói
độ dài ngắn của thời gian, sự tạm thời hay dài hạn của thời gian, đây gọi là ‗thời
đoạn‘. Trong cuốn ―Ngữ pháp giảng nghĩa‖ của Châu Đức Hi cũng nói đến vấn đề
thời điểm và thời đoạn: ― ‗今天(ngày nay), 星期一(thứ 2)‟ thể hiện ‗thời điểm‘ ,
tức là vị trí thời gian, sự sớm muộn của thời gian. ‗一会儿(một lúc),半天 (nửa
ngày),两个红红(2 tiếng), 两个月(2 tháng)‘ biểu thị thời lượng, tức độ dài ngắn
của thời gian.‖
1.3 Khái quát ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt
Khác với tiếng Hán, trong tiếng Việt tất cả các loại ý nghĩa thời gian hữu quan
( thời, thời điểm, thời đoạn, tần số) đều được biểu hiện bằng các biểu thức thời gian
12
độc lập. Các biểu thức thời gian này hoặc tồn tại như các đơn vị từ vựng (hôm qua,
hôm nay, bây giờ...) hoặc được tạo thành tự do trong lời nói như là các ngữ (vào
mùa xuân, vào tháng ba...) liên hợp (ngày 25 tháng 4 năm 1991...) hoặc mệnh đề.
1.3.1 Quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về từ ngữ chỉ thời
gian
Trong sự nhận thức về thời gian, người Việt thường sử dụng từ để biểu thị các
khoảng thời gian ngắn như: khắc, canh, giây, phút, giờ, …đến những từ chỉ các
khoảng thời gian dài như: năm, thập kỷ, thế kỷ, …. Đó là những từ chỉ thời gian.
Tuy nhiên, việc phân loại từ chỉ thời gian hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất
cao giữa các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học về kết quả phân loại và thuật ngữ để gọi
tên. Sau đây là một số quan điểm nổi bật của các tác giả về từ chỉ thời gian;
1.3.1.1 Quan điểm chia từ chỉ thời gian gồm 2 loại: danh từ và phụ từ
(phó từ)
Với các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban (Ngữ pháp tiếng Việt tập
2), từ chỉ thời gian gồm có hai loại: danh từ và phụ từ (phó từ). Cụ thể như sau:
Quan niệm của tác giả Nguyễn Kim Thản:
Danh từ chỉ thời gian là một nhóm nhỏ thuộc lớp danh từ không chỉ cá thể. Có
các danh từ chỉ thời gian như sau: khi, hồi, lúc, …. Đặc điểm là bao giờ chúng cũng
được đặt trực tiếp sau số từ.
Phó từ chỉ thời gian gồm: sẽ, đã, từng, có, vừa, mới, rồi, vẫn, còn, lại,
sắp, …là những phó từ có tác dụng làm dấu hiệu thời gian. [23, tr 318]
Quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban (trong Ngữ pháp tiếng Việt – tập 2):
Danh từ đơn vị thời gian:
Bao gồm danh từ chỉ đơn vị thời gian xác định và danh từ chỉ khoảng thời gian
không xác định: thiên niên kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm, tháng, tuần, ngày, giờ, phút,
giây, …; dạo, khi, hồi, lúc, chốc, hôm, vụ, mùa. . . .
Trong số những danh từ chỉ khoảng thời gian không xác định, có những từ
thường không xuất hiện trực tiếp sau số từ số đếm xác định. Những từ này chỉ đứng
sau ―những, một‖ (với ý nghĩa phiếm định) và ―một, đôi‖ (phiếm định), nhưng tuyệt
đại đa số đứng trước các từ chỉ định ―ấy, nọ, này‖ [2, tr 30]
13
Phụ từ:
Nhóm từ chỉ cách thức diễn ra trong thời gian của hoạt động, trạng thái gồm
có:
-Ý chỉ tính chất cấp thời như: ngay, liền, tức khắc, tức thì, … và tính chất
không cấp thời như: dần, dần dần, từ từ, …
-Ý chỉ sự duy trì trong thời gian như: nữa, hoài, luôn, mãi, ….
1. 3.1. 2. Quan điểm chia từ chỉ thời gian thành 2 loại: thực từ và hƣ từ.
Theo quan điểm của các tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung [2, tr
34], hệ thống từ loại tiếng Việt có thể phân chia thành hai mảng lớn: thực từ và hư
từ.
Thực từ gồm: danh từ, động từ, đại từ. Trong đó:
- Danh từ chỉ ý nghĩa sự vật là thời gian: hồi, dạo, buổi, vụ, mùa.
- Động từ chỉ quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, tiếp tục, kết thúc, thôi
hết, ….
- Đại từ:
+ Đại từ xác chỉ thời gian: bây giờ, giờ, bấy giờ, bấy, nãy, ….
+ Đại từ phiếm chỉ thời gian: bao lâu, bao giờ, ….
- Hư từ gồm: phó từ và kết từ. Trong đó:
+ Phó từ chỉ thời gian: đã, từng, mới, sẽ, sắp, ….
Phó từ chỉ thời gian chỉ quan hệ về thời gian với quá trình hay đặc trưng trong
cách phản ánh của tư duy. Quan hệ thời gian được xác định theo một điểm mốc
tương ứng với thời điểm thực tại, hoặc tương ứng với thời điểm phản ánh, hoặc
tương ứng với thời gian giữa các quá trình hay các đặc trưng. Phó từ chỉ thời gian
còn xác định tính hiện thực hoặc phi hiện thực của hành động, trạng thái, tính chất
theo quan hệ thời gian.
Qua quá trình khảo sát những quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
về từ chỉ thời gian, người viết nhận thấy rằng, các tác giả có sự trình bày và phân
loại một cách cụ thể, rõ ràng và có tính hệ thống.
Tuy nhiên, có trường hợp, cùng một tác giả nhưng ở hai công trình khác nhau
14
lại đưa ra những quan điểm không giống nhau. Đó là trường hợp của tác giả Diệp
Quang Ban trong hai quyển ―Ngữ pháp tiếng Việt – tập 1‖ và ―Ngữ pháp tiếng Việt
- tập 2‖.
Ở quyển ―Ngữ pháp tiếng Việt - tập 1‖, ông phân từ chỉ thời gian làm 4 loại.
Ở quyển ―Ngữ pháp tiếng Việt - tập 2‖, ông lại phân từ chỉ thời gian thành 2
loại
Về tiêu chí phân loại: cùng một từ, nhưng các tác giả lại xếp vào các từ loại
khác nhau. Chẳng hạn, trường hợp từ ―đã‖, ―đang‖, thì có tác giả lại xếp vào lớp
động từ chỉ thời gian (Hữu Đạt), có tác giả lại xếp vào lớp phó từ (hay phụ từ) chỉ
thời gian (Đỗ Thị Kim Liên, Diệp Quang Ban, Nguyễn Hữu Quỳnh, Nguyễn Hữu
Ngọc).
Ngoài ra, việc gọi tên cũng chưa có sự thống nhất giữa các tác giả. Cùng một
từ chỉ thời gian nhưng một số tác giả gọi là phụ từ chỉ thời gian (Lê Biên, Diệp
Quang Ban (Ngữ pháp tiếng Việt -tập 2), Nguyễn Đức Dân (Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn). Một số tác giả khác lại gọi là phó từ chỉ thời gian (Đỗ Thị Kim
Liên, Hữu Quỳnh). Cũng có trường hợp như ở tác giả Diệp Quang Ban, ông vẫn
chưa có sự thống nhất trong việc gọi tên. Chẳng hạn, trong cuốn ―Ngữ pháp tiếng
Việt - tập 1‖, ông gọi là phó từ, đến quyển ―Ngữ pháp tiếng Việt - tập 2‖, ông lại
gọi là phụ từ.
Như vậy, qua việc phân loại về từ chỉ thời gian chúng ta thấy vẫn còn khá
phức tạp, chưa có sự thống nhất giữa các nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Đối với luận
văn này, người viết sử dụng quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban và Hoàng Văn
Thung trong quyển ―Ngữ pháp tiếng Việt - tập1‖. Song, người viết phân từ chỉ thời
gian thành 3 loại: danh từ, đại từ, phụ từ.
Danh từ chỉ thời gian
Phụ từ chỉ thời gian Đại từ chỉ thời gian
15
Phân loại từ ngữ chỉ thời gian
Ngày, giờ, giây, phút, lúc, khi, sáng,
chiều, đêm, hoàng hôn, tháng, mùa, năm, hồi,
Bây giờ, bấy giờ,
Đã, đang, sẽ, sắp,
canh, thế kỷ, dạo, buổi, thuở, ngày mai, hôm
Bao lâu, bao giờ, nay,
vừa, mới, mãi, …
nay, xuân, hè, thu, đông, quá khứ, tương
…
lai, …
1. 3.2 Khái quát về ý nghĩa thời điểm trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, vấn đề ―thời‖ hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách
thống nhất. Đối với một ngôn ngữ không có hình thức ngữ pháp của động từ thì
việc xác định được miền thời gian, quá khứ, hiện tại và thời tương lai khi diễn ra
hoạt động ngôn ngữ là hết sức quan trọng.
Trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ trên thế giới khi nói về tính thời
điểm trong mối quan hệ với hiện tại, có quan điểm cho rằng hiện tại thực chất chỉ là
một điểm, bởi nếu kéo dài, nó sẽ bị phân chia ngay thành quá khứ và tương lai.
Quan điểm này khởi nguồn của Augustins và cũng được coi là cơ sở để giải thích ý
nghĩa thời gian trong ngôn ngữ theo quan điểm của vật lý học.
Khác với quan điểm trên, Admoni cho rằng: ―Đa số các hành động không có
tính thời điểm, không diễn ra trong chớp mắt mà diễn ra trong một khoảng thời
gian dài hay ngắn , và nếu như thời điểm của hiện tại rơi vào trong khoảng thời
gian nào thì toàn bộ khoảng thời gian đó được coi là hiện tại‖. [dẫn theo 23, tr186]
Tính thời điểm còn được nhìn nhận một cách rõ ràng hơn theo quan điểm của
Saf: ―Thời điểm trong ngôn ngữ thường là sự khởi đầu hay sự kết thúc của một thời
đoạn và thời điểm lý tưởng là thời đoạn có sự khởi đầu và kết thúc trùng nhau. ‖
[dẫn theo 23, tr29-30].
Đại biểu các nhà Việt ngữ học hầu hết đều cho rằng phạm trù thời gian trong
tiếng Việt được nhận thức theo cách riêng, chủ yếu là trên phương diện từ vựng,
ngữ cảnh và ngữ dụng. Tác giả Đào Thản cho rằng tính thời điểm chính là ―những
nội dung biểu hiện cụ thể về khái niệm chung về thời gian đã được nhận thức‖ [22,
16
tr 40]. Theo ông thì thời điểm có thể có những nét nghĩa cụ thể về mốc thời gian
trong mối quan hệ với hiện thực. Thời điểm đó có tính chất tuyệt đối hay tương đối,
thời điểm đó là trước hay sau, sớm hay muộn. Nhìn thời điểm và thời đoạn trong
mối tương quan với nhau ông nhận xét rằng: Thời điểm cũng chính là thời đoạn
được rút lại đến mức ngắn nhất khi khoảng cách của hai điểm tiến tới số không.
Bản về tính thời điểm trong ngôn ngữ, tác giả Dư Ngọc Ngân trong một
nghiên cứu gần đây cho rằng: ―Thời điểm là nhất thời và được tách ra từ các điểm
bất kỳ trong thời đoạn‖. Tác giả cũng nhấn mạnh thêm : ―Mọi vật trong tự nhiên
đều vận động có quá trình. Sự phát triển, điều kiện tồn tại của vật chất là kết quả
của một quá trình vận động có chiều hướng trong một khoảng thời gian và không
gian nhất định. ‖[dẫn theo 17, tr 28]. .
Các tác giả cuốn ―Từ điển Tiếng Việt‖ cũng định nghĩa về thời điểm như sau:
―Thời điểm là khoảng thời gian rất ngắn, coi là một điểm trên đường thẳng, cụ thể
hóa thời gian. ‖[dẫn theo 28, tr 761].
Trong ―Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam‖ [5, tr23] Trương Văn Chình,
Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một định nghĩa tương tự về tính thời điểm, định nghĩa
đó được phát biểu như sau: ―Thời điểm là một khoảng thời gian dài hay ngắn lấy
làm một điểm đánh dấu chuỗi thời gian có hạn‖.
Từ các ý kiến trên đây, có thể thấy rằng phần lớn các tác giả nhận diện thời
điểm trong sự phân biệt với thời đoạn. Trong ngôn ngữ học, khái niệm thời điểm
thường được hiểu như là bối cảnh thời gian mà một sự việc (hành động, quá trình,
trạng thái) nảy sinh, tồn tại hoặc kết thúc. Bối cảnh thời gian này được định vị dựa
theo sự phân cắt các đơn vị thời gian trên trục thời gian tuyến tính từ quá khứ đến
hiện tại và tương lai, với điểm mốc là thời điểm phát ngôn. Ví dụ:
(1) Hôm qua con thấy mẹ nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm.
也并没有红昨日太太红的那红的〃想是太太红红了<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3, tr 40)
17
(2) Hôm nay nó ra miếu lễ chưa về, chiều cháu gặp nó sẽ biết.
今日因庙里红愿去了〃尚未回来〃晚红你看红便知。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3 , tr 43)
(3) Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào
việc không chóng xong.
你明日回家就禀明令尊〃我回去再禀明祖母〃再无不速成之理。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 7, tr 104)
Trong ba ví dụ nêu trên thì ý nghĩa thời điểm được biểu hiện bằng ba biểu thị
thời gian đối lập với nhau về thời. Câu (1) có thời điểm quá khứ, câu (2) có thời
điểm hiện tại, câu (3) có thời điểm tương lai. Từ những ví dụ trên có thể nhận thấy
một điều rằng: Tính thời điểm được xác định dựa vào những hành động và sự việc
trên trục thời gian, bối cảnh và điểm mốc mà người nói định vị.
1.4 Tiêu chí nhận diện biểu thị thời gian và thời điểm
1.4.1 Tiêu chí về nội dung
Về mặt nội dung các biểu thị thời gian có thể được phân chia thành các biểu
thị thời điểm và các biểu thị thời đoạn.
Các biểu thị thời điểm biểu hiện mốc thời gian xảy ra sự kiện và được định vị
trên trục thời gian bằng những từ ngữ có nét nghĩa thời gian như: ngày mai, hôm
nay...và trả lời cho câu hỏi khi nào? bao giờ ?
Trong câu ý nghĩa của các biểu thị thời điểm thường gắn liền với ý nghĩa đối
lập về thời. Theo đó có thể phân biệt các biểu thị thời điểm theo sự đối lập về thời
như sau:
*Thời điểm các sự kiện có ý nghĩa hiện tại. Ví dụ:
Đêm nay tiết Trung thu, tục thường gọi tiết Đoàn viên.
(Hồng lâu mộng Hồi thứ nhất, tr11)
今夜中秋〃俗红‗红红之红‘。
18
*Thời điểm các sự kiện có ý nghĩa quá khứ. Ví dụ:
Vì thế, hôm đó Tiết phu nhân đến thu dọn ngay những đồ chơi và rèm màn ở
thư phòng Tiết Bàn đem về, rồi gọi cả vợ của hai người hầu trai đi theo Tiết Bàn
cũng vào trong nhà ngủ.
到红房〃将一红红红玩器并帘幔等物尽行搬了红来收红〃 因此薛姨红即日 〄〄
命那两个跟去的男子之妻一并也红来睡红.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 48, tr654)
*Thời điểm các sự kiện có ý nghĩa tương lai:
Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào việc
không chóng xong.
回家就禀明令尊〃我回去再禀明祖母〃再无不速成之理。 你明日 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 7, tr104)
Trong những vị dụ đã dẫn ở trên, ý nghĩa thời điểm được biểu hiện gắn với sự
đối lập giữa các thời hiện tại, quá khứ, tương lai. Ở đây sự biểu hiện ý nghĩa của
các thời không phụ thuộc hoàn toàn vào ý nghĩa của các đơn vị từ có nét nghĩa thời
gian như năm, tháng, ngày mà phụ thuộc vào yếu tố phụ từ sau nó như: ―này‖ trong
―ngày này‖ ( thời điểm hiện tại), ―ấy‖ trong ―tháng ấy‖ (thời điểm quá khứ). Tuy
nhiên, cũng có một số ít đơn vị từ vựng biểu hiện ý nghĩa về thời ngay trong bản
thân nghĩa của từ mà không cần sự xuất hiện của phụ từ như: ―mai‖ trong ―ngày
mai” (thời điểm tương lai). Xét đặc điểm biểu hiện của biểu thức thời điểm chúng
ta thấy rằng, bản thân các đơn vị từ vựng như: ngày, hôm, năm...là những danh từ
chỉ thời gian và chỉ biểu thị cái ý nghĩa đơn thuần về thời gian chứ tuyệt nhiên
không hề biểu hiện ý nghĩa thời điểm nếu nó không được đặt trong khung cảnh của
một sự tình. Xét ví dụ sau dây:
a. Năm 2000 cô ấy lập gia đình với một thương gia người nước ngoài.
(Biểu thị thời điểm)
19
b. Nó dùng bút tô đậm dòng chữ năm 2000 trong cuốn nhật ký của mình.
(Không có ý nghĩa của biểu thị thời điểm)
Ở ví dụ (a), chúng ta thấy năm 2000 được coi là một biểu thị thời điểm khi nó
được đặt trong khung cảnh của sự tình đòi hỏi sự xuất hiện của yếu tố thời gian và
trả lời cho câu hỏi khi nào? bao giờ? Và như vậy ý nghĩa về thời điểm sẽ chỉ được
biểu hiện khi nó được đặt trong khung sự tình diễn ta hành động và sự kiện. Tuy
nhiên, ở ví dụ (b) năm 2000 không phải là một biểu thị thời điểm bởi trong mối
quan hệ sự tình được nhắc tới nó không hàm nghĩa thời gian, không có tính chất là
thời điểm của sự kiện xảy ra.
Ví dụ: a- Bao giờ chị đi Nam Ninh?
b- Chủ nhật tới, tôi đi Nam Ninh.
Xét ví dụ trên chúng ta sẽ thấy sự tình diễn ra được bắt đầu bởi câu hỏi có đại
từ phiếm chỉ chỉ thời gian ―bao giờ?‖ và câu trả lời được ấn định trong một thời
điểm là chủ nhật tới. Trong trường hợp này sự tình được đặt trong bối cảnh người
hỏi chỉ muốn biết thời điểm mà nhân vật ―chị‖ đi Nam Ninh là ―lúc nào?‖ . Và vì
vậy nên câu hỏi sẽ là ―bao giờ‖. (Biểu thị thời gian)
1.4.2 Tiêu chí về hình thức
Xét về mặt hình thức, các biểu thị thời gian được biểu diễn dưới nhiều hình
thức đa dạng: Biểu thức đó có thể là từ (danh từ, đại từ), là ngữ (danh ngữ, giới ngữ)
hoặc liên hợp, mệnh đề.
-Biểu thị thời gian là đại từ: đại từ xác chỉ chỉ thời gian có ý nghĩa thời điểm.
Ví dụ:
Bấy giờ tuy có quân dân đến chữa, nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu
được ?
虽有红民来救〃那火已成了红〃如何救得下< 彼红 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất ,tr18)
Những từ như: bây giờ, bấy giờ, bấy nay, này, giờ chính là những đại từ xác
chỉ chỉ thời gian xảy ra sự kiện và hành động trên trục thời gian.
20
-Biểu thị thời gian là danh từ, ví dụ:
Hôm qua con thấy mẹ nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm.
(Hồng lâu mộng, Hồi thứ 3, tr42)
太太红的那红的〃想是太太红红了. 也并没有红昨日 〄〄
Hôm nay nó ra miếu lễ chưa về, chiều cháu gặp nó sẽ biết.
因庙里红愿去了〃尚未回来〃晚红你看红便知。 今日 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3 ,tr43)
-Biểu thị thời gian là danh ngữ:
+Danh ngữ biểu thị thời điểm, ví dụ:
Chiều hôm ấy, Giả Chính về nhà, ngồi trong xe nghe người đi đường nói với
nhau: “ người ta muốn phát tài cũng rất dễ dàng.”
回家〃在红内听红道儿上人红道:―人要红红也容易的很。‖ 且红红政当晚 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi 95, tr521)
-Biểu thị thời gian là giới ngữ. Ví dụ:
+Giới ngữ biểu thị thời điểm
Qua một trăm ngày mới rước linh cữu về nguyên quán.
后〃方扶柩回籍。 等红百日 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 64, tr65)
-Biểu thị thời gian liên hợp. Ví dụ:
Năm ấy là năm Giáp Dần, tiết Lập xuân vào ngày mười tám tháng mười hai,
mà ngày Nguyên phi mất là ngày mười chín tháng mười hai, theo thời tiết thì đã
qua năm Mão tháng Dần, thọ mười ba tuổi.
〃已交卯年寅月〃 是年甲寅年十二月十八日 〄〄〄〄〄〄 立春〃元妃薨日是十二月十九日 〄〄〄〄〄〄
存年四十三红。
(Hồng lâu mộng, Hồi thứ 95, tr 521)
21
-Biểu thị thời gian là mệnh đề.
+ Mệnh đề biểu thị thời điểm. Ví dụ:
Này chùa Lũng Thúy hồi chuông, Đạo Hương gà đã gáy dồn xóm kia.
稻香村。 红红红翠寺〃红唱 〄〄
(Hồng lâu mộng, Hồi thứ 76, tr246)
1.4.3 Tiêu chí về chức năng
Các biểu thị thời gian khi được xét trong câu, chúng có thể giữ những chức
năng khác nhau:
*Chức năng làm trạng ngữ
Có thể nói rằng hầu hết những tư liệu mà chúng tôi khảo sát và thu thập được
thì chiếm số lượng lớn là những biểu thị thời gian giữ chức năng làm trạng ngữ
trong câu. Vị trí trạng ngữ có thể ở đầu câu, cuối câu hoặc giữa câu. Ví dụ:
+Biểu thức thời điểm là trạng ngữ. Ví dụ:
Hôm trước chú Hai viết thư về, nói Thám Xuân ngày nọ đến nơi, chọn ngày
giờ tốt đưa em mày tới miền biểu, dọc đường giớ yên sóng lặng, cả nhà không cần
lo nghĩ.
你二叔红红子来红〃探春于某日到了任所〃红了某日吉红送了你妹子 前儿 〄〄
到了海疆〃路上红恬浪静〃合家不必挂念。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 102 ,tr614)
*Chức năng làm bổ ngữ
Bổ ngữ là thành phần phụ bằng thực từ đi kèm vị từ (động từ hoặc tính từ) để
chỉ cái đối thể chịu các dụng trực tiếp hay gián tiếp của đặc trưng nêu ở vị từ, hoặc
chỉ các chủ thể gắn liền đặc trưng ở vị từ và đứng sau vị từ, hoặc chỉ các đặc trưng
phụ thêm vào đặc trưng nêu ở vị từ.
+Bổ ngữ chỉ thời điểm. Ví dụ:
Đến ngày hôm sau, Giả Trân qua thu xếp mọi việc.
22
〃红珍红来料理红事。 到了次日 〄〄〄
(Hồng lâu mộng, Hồi thứ 88, tr429)
*Chức năng làm chủ ngữ.
+Biểu thị thời điểm là chủ ngữ. Ví dụ:
Hôm nay là thứ hai.
1.5. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học
1.5.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật
Theo ―Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học‖ thì "Thời gian nghệ thuật phản
ánh sự cảm thụ thế giới của con người trong từng thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn
phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm nhận độc đáo của tác giả về phương thức tồn
tại của con người trong thế giới. Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật
xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính chất tiền đề được giấu kín, miêu tả đời sống
trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả gắn với phương thức, phương
diện thể hiện. Mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng" [dẫn theo
11,tr 323]
Từ định nghĩa trên có thể thấy, trước hết thời gian nghệ thuật là một phương
diện của thi pháp học hình tượng. Nó vừa là phương diện của đề tài vừa là một
trong những nguyên tắc cơ bản tổ chức tác phẩm. Về điểm này nhà nghiên cứu Trần
Đình Sử viết: "Là phương thức tồn tại của thế giới vật chất, thời gian cũng như
không gian đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh như là một yếu tố
của nó. Nếu như mọi hiện tượng của thế giới khách quan khi đi vào nghệ thuật
được soi sáng bằng tư tưởng và tình cảm, được nhà văn nhào nặn và sáng tạo để
trở thành một hiện tượng nghệ thuật, phù hợp với một thế giới quan, phương pháp
sáng tác, phong cách, truyền thống và thể loại nghệ thuật nhất định, thì thời gian
nghệ thuật cũng thế. Nó có thể được gọi là thời gian nghệ thuật như ta đã quen gọi
tính cách nghệ thuật, xung đột nghệ thuật [dẫn theo 20,tr157]. Để cụ thể hoá hơn,
thời gian nghệ thuật là một tập hợp của nhiều thời gian cá biệt. Các thời gian này
tác động vào nhau, liên hệ nhau tạo thành cái nhịp độ chung của sự vận động đời
sống" [dẫn theo 20,tr157]. "Thời gian nghệ thuật có thể nhanh hay chậm, dài hay
23
ngắn, liên tục hay ngắt quãng theo một lôgic riêng không hoàn toàn trùng khớp với
thời gian khách quan,". Như các nhà nghiên cứu văn học đã nói: "Thời gian trong
tác phẩm văn học được chuyển hoá thành thời gian nghệ thuật, thành một ký mã
nghệ thuật không đồng nhất với thời gian hiện thực".
Đồng thời, thời gian nghệ thuật trong một tác phẩm là sản phẩm của cách nhìn
nhận, của cảm xúc và tư tưởng nhà văn. Nếu thời gian khách quan vận động theo
trật tự trước sau không thể đảo ngược thì thời gian nghệ thuật trong văn học được
soi sáng bởi tư tưởng, tình cảm nhà văn. Là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ
thuật, thời gian nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan, nó có độ dài, có nhịp độ,
có ba chiều: quá khứ - hiện tại -tương lai và có sự vận động theo chiều trước sau
liên tục. Trong đó tác phẩm văn học "Sự cảm thụ thời gian gắn liền với ý thức về ý
nghĩa của cuộc đời đối với quan niệm về thế giới, cuộc sống ước mơ, lý tưởng và
năng lực hoạt động của con người".
Trong thực tế không phải mọi thứ liên quan đến thời gian trong tác phẩm văn
học đều là thời gian nghệ thuật. Trong tác phẩm thi ca, thời gian chỉ chuyển hoá
thành thời gian nghệ thuật khi nó cùng các yếu tố khác như kết cấu câu văn...thể
hiện cái nhìn của tác giả về con người và cuộc đời. Vì lẽ đó nhà nghiên cứu Nga
Đ.Li kha chốp cho rằng: "Thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lưới
nghệ thụât nó buộc thời gian cú pháp và quan niệm triết học về thế giới phải phục
vụ cho những nhiệm vụ nghệ thuật của nó". [dẫn theo 7, tr 61 ]. Trong cuốn Thi
pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử cũng khẳng định: "Thế giới nghệ thuật trong văn
học không phải giản đơn chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hình
tượng và hành động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm
hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm". [dẫn theo 20,
tr190]. Thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược về quá khứ hoặc vượt qua hiện tại
đến tương lai, có thể dồn lại hoặc kéo dài vô tận. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào
cũng viết: " Thời gian thật sự có tính chất nghệ thuật đó là thời gian của hành động
kể chuyện và thời gian của văn bản‖ .[ dẫn theo 3, tr72].
Tóm lại, điểm qua một số ý kiến trên, có thể hiểu thời gian nghệ thuật là một
24
phạm trù của thi pháp học, thể hiện cái nhìn mang màu sắc tâm lý chủ quan của
nghệ sĩ. Vì vậy nó mang tính chất đa dạng, phong phú, biểu hiện chất sáng tạo nghệ
thuật của người nghệ sĩ, cách cảm nhận ứng xử đối với cuộc sống theo quan điểm ý
đồ riêng của tác giả. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn thì "Thời gian là một
trong những phương tiện hữu hiệu để tổ chức nội dung của nghệ thuật‖. Thời gian
nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, nó là thuộc tính tất yếu
của hình tượng nghệ thuật. Vận động trên cả ba chiều: Quá khứ - hiện tại - tương lai,
nhưng thời gian nghệ thuật không nhất thiết phải theo trật tự vốn có của nó mà có
thể đảo ngược trình tự thời gian, thay đổi nhịp độ, thậm chí có thể bỏ qua một hoặc
hai chiều vận động của nó. Có nhiều cách chiếm lĩnh thời gian khác nhau.
Như vậy, là một phạm trù của thi pháp học, thời gian nghệ thuật là yếu tố quan
trọng góp phần thể hiện tư tưởng, tư duy, tính cách, cái nhìn của nhà thơ về cuộc
đời.
1.5. 2.Các cấp độ của thời gian nghệ thuật
Thời gian trong tác phẩm nghệ thuật có nhiều cấp độ khác nhau. ở đây chỉ đề
cập đến một số tương quan thời gian chủ yếu.
- Thời gian nhân vật: Là thời gian gắn liền với sự tồn tại nhân vật, nó làm
người đọc ý thực được sự tồn tại của nhân vật.
- Thời gian nội tâm nhân vật (Cũng gọi là thời gian tâm lý)
- Thời gian tập thể: Là thời gian của từng nhóm người.
- Thời gian lịch sử: Là thời gian gắn liền với tầng giai đoạn lịch sử của đất
nước.
- Thời gian sự kiện: Là thời gian năng động nhất trong tác phẩm nghệ thuật,
loại thời gian này vận động theo quy luật nhân quả.
1.5.3. Các điều kiện của thời gian nghệ thuật
Được nhận biết qua các dấu hiệu sau:
a. Chiều hướng thời gian: so với trong thực tế thì thời gian nghệ thuật có
những điều khác biệt. Nó còn được gọi là trình tự thời gian. Trong văn học khi tái
tạo lại nhà văn đã làm biến cải đi rất nhiều, thay đổi trật tự chiều hướng.
25
b. Nhịp độ và sự vận động thời gian nghệ thuật: xác định bằng các đại lượng,
độ dài khoảng cách, các sự kiện, bằng độ dài thời gian cảm nhận các sự kiện, cách
sắp xếp bố trí mật độ các sự kiện có tác dụng tạo ấn tượng, tiết tấu các tác phẩm.
1. 5.4. Các chiều của thời gian nghệ thuật
Thời gian thực tế chỉ vận động theo một chiều duy nhất, nhưng trong tác phẩm
nghệ thuật, quan niệm về thời gian phức tạp, phong phú hơn. Nó gồm nhiều chiều
hướng thời gian khác nhau.
a. Quá khứ
Có nhiều cách để thể hiện quá khứ, nhưng phổ biến nhất là hồi tưởng. Hồi
tưởng được trình bày qua nhiều hình thức. Thời gian hồi tưởng chỉ xuất hiện khi mà
ý thức bên trong xuất hiện. Trong Hồng Lâu Mộng, thời gian quá khứ chủ yếu là
thời gian sát gần với hiện tại, không xa lắm và thường được biểu hiện bằng các từ :
hôm qua, bữa trước ...
b. Tương lai
Tương lai gắn bó với viễn cảnh phương hướng phát triển của đời sống của
nhân vật. Tương lai cũng được thể hiện bằng nhiều cách, có khi nó được thể hiện
bằng ước mơ, bằng viễn tưởng, bằng dự cảm về tương lai. Trong Hồng Lâu Mộng,
những ước mơ về cuộc sống về tình yêu cũng được thể hiện rất phong phú.
c. Hiện tại
Hiện tại là khái niệm thời gian có nhiều cách biểu hiện nhất. Nó thể hiện rõ
dưới hình thức miêu tả, đối thoại, chuyển đổi quan hệ thời gian.
Như vậy khi nghiên cứu tiếp cận với thế giới nghệ thuật cần phải tìm từng yếu
tố thời gian và mối tương quan thời gian đó để phát hiện ra từng tầng ý nghĩa hàm
ẩn trong tác phẩm. Tác phẩm nghệ thuật là một chỉnh thể xác định cùng với yếu tố
khác góp phần làm nên hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Bởi thế nghiên cứu
thời gian nghệ thuật có ý nghĩa rất quan trọng.
1. 6. Nhận diện từ ngữ biểu thị thời điểm
1.6.1 Nhân diện từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Việt
Trong các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, quan hệ giữa con người và
26
thời gian có ý nghĩa đặc biệt. Có thể nói, quá trình phát triển của nhân loại gắn liền
với thời gian lịch sử. Con người nhận thức thời gian và sự nhận thức này được phản
ánh theo những hình thức riêng biệt của từng ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, vấn đề
thời gian, định vị thời gian trong phát ngôn đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan
tâm và nghiên cứu từ lâu. Xuất phát từ cách nhìn mang tính tổng quát sau khi đã
khảo sát một số quan điểm nghiên cứu của các tác giả nổi bật, người viết cho rằng
khái niệm thời điểm được hiểu như một ―mốc‖ thời gian nào đấy mà một sự việc
(hành động, quá trình, trạng thái) nảy sinh, tồn tại hoặc kết thúc. Thời điểm không
có tính kéo dài và nó được xác định dựa vào những hành động và sự việc trên trục
thời gian, bối cảnh và điểm mốc mà người nói định vị.
Nhìn một cách khái quát, cũng giống như một số ngôn ngữ khác, trong tiếng
Việt, việc biểu thị thời gian có thể gồm nhiều loại khác nhau. Các danh từ có ý
nghĩa thời gian trong tiếng Việt thường là: ngày, hôm, tuần, tháng , năm, thời (đời),
thuở, sáng, trưa, chiều, tối, đêm, ban, khi, lúc, chừng, dạo, lần, phút, giây, chốc, lát,
trước, sau, v. v… Các từ ngữ chỉ thời điểm, tức là những từ ngữ dùng để định vị
thời gian bao gồm: nay, mai, trước, sau, sáng, trưa,chiều, tối, chiều chiều, đêm đêm,
v. v. . Các từ ngữ chỉ thời đoạn, tức là những từ ngữ dùng để định lượng thời gian,
gồm: ngày, đêm, buổi, bữa, tuần, tháng, năm, mùa, giây phút, trước sau, ngày đêm,
sớm khuya, sớm tối, sáng tối, v. v. . Điều đáng lưu ý là các từ có ý nghĩa thời gian
tuy có một số lượng đơn vị rất lớn nhưng các yếu tố đi kèm thường bao gồm các từ
ngữ chỉ xuất và một số định ngữ hữu hạn, do vậy tuy không có điều kiện miêu tả kỹ
toàn bộ nhưng có thể suy về một số cách dùng tương tự.
1.6.2 Nhân diện từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán
Một số học giả đã tiến sâu hơn một bước khi chỉ ra rằng sự khu biệt giữa thời
điểm và thời đoạn không chỉ ở sự dài ngắn của thời gian mà còn là ở ―cơ chuẩn‖
của thời gian. Ví dụ, trong cuốn sách ―Nơi chốn, thời gian và phương vị‖ của Văn
Luyện cũng chỉ ra rằng: ―Về vị trí của thời gian có người gọi là ‗thời điểm‘, cái gọi
là ‗điểm‘ ở đây không nhất định là thời gian rất ngắn mà cũng có thể là một thời
gian tương đối dài. Thời điểm là cách nói tương đối đối với thời đoạn, thời điểm là
27
vị trí thời gian biểu đạt trên một cơ chuẩn nhất định, còn thời đoạn lại không có tính
cơ chuẩn, mà chỉ nói đến độ dài ngắn của thời gian‘
Về phương diện Hán ngữ hiện đại, nghiên cứu mang tính hệ thống nhất về thời
điểm và thời đoạn là cuốn ―Nghiên cứu thời điểm, thời đoạn trong Hán ngữ hiện
đại‖ của Lý Hướng Nông. Cuốn sách này đã tiến hành phân tích toàn diện về ngữ
nghĩa và chức năng ngữ pháp của thời điểm và thời đoạn, và tiến hành nghiên cứu
bàn luận sâu về các phương diện nội hàm từ thời điểm và thời đoạn, hình thức cấu
thành, chức năng biểu ý, đặc trưng có thứ tự điểm đoạn và liên dụng kết hợp của
thời điểm và thời đoạn. Từ phương diện Hán ngữ cổ đại, cuốn sách ―Nghiên cứu
biểu đạt thời điểm thời đoạn Hán ngữ trung cổ‖ của Hà Lượng cũng đã nghiên cứu
về hệ thống thời điểm thời đoạn trong Hán ngữ trung cổ, sách này đã tiến hành
phân tích kỹ càng hình thức biểu đạt, chức năng cú pháp và ý nghĩa ngữ pháp của
thời điểm và thời đoạn.
Tiểu kết:
28
Qua quá trình phân tích, chúng tôi rút ra một số quan điểm giống nhau và khác
nhau với cách biểu hiện ý nghĩa thời gian trong tiếng Hán và trong tiếng Việt như
sau:
Giống nhau
1.Ý nghĩa thời gian là một phạm trù phổ quát của ngôn ngữ. Tiếng Hán và
tiếng Việt đều có các phương tiện biểu hiện ý nghĩa thời gian. Các sự tình biểu hiện
trong câu bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định.
Vì thế các đơn vị biểu hiện ý nghĩa thời gian hầu như thường xuyên có mặt trong
câu.
2. Tiếng Hán và tiếng Việt đều có sử dụng phương tiện từ vựng - ngữ pháp để
biểu thị ý nghĩa thời gian.
Khác nhau
Tiếng Việt biểu hiện ý nghĩa thời gian chủ yếu bằng phó từ như đã, đang, sẽ,
sắp hoặc thành phần câu như: trạng ngữ, khung đề.... Còn tiếng Hán biểu hiện ý
nghĩa thời gian theo ngữ pháp trật tự từ vị ngữ (động từ hoặc tính từ + biểu hiện
thời gian (thì quá khứ và thì hiện tại) + vĩ tố kết thúc câu), chủ yếu bằng phương
tiện hình thái học .
Trên đây chúng tôi đã trình bày một số khái niệm và các vấn đề có liên quan
đến vấn đề thời gian nói chung và biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng Việt
nói riêng. Dựa vào cơ sở lý thuyết và một số đặc điểm nêu trên, chúng tôi sẽ đi sâu
29
nghiên cứu đặc điểm từ ngữ biểu thị thời điểm ở hai chương tiếp theo.
CHƢƠNG 2
TỪ NGỮ BIỂU THỊ THỜI ĐIỂM TRONG NGUYÊN BẢN TIẾNG
HÁN TÁC PHẨM HỒNG LÂU MỘNG
2.1 Giới thiệu khái quát tác phẩm Hồng Lâu Mộng
Trong văn học Trung Quốc, Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người
Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó, sáng tác về nó, đến nỗi nói: ―Khai đàm
bất thuyết Hồng Lâu Mộng. Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!‖ (Mở miệng nói
chuyện mà không nói đến Hồng Lâu Mộng thì có đọc hết cả thi thư cũng là vô ích.)
Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học. Gần
đây nhất vẫn thấy Trung Quốc có tờ chuyên san tên là ―Hồng Lâu Mộng nghiên
cứu.‖ Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có vinh dự lớn như thế, vì có một
môn ―Shakespeare học.‖
Cái gì làm người Trung Quốc say mê Hồng Lâu Mộng đến như vậy? Trước
hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại.
Trung Quốc dưới thời nhà Thanh trong những năm các hoàng đế Ung Chính,
Càn Long tại vị (1723-1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những nông nghiệp,
thủ công nghiệp, mà cả thương nghiệp, ngành khai thác mỏ… cũng phát triển
mạnh. Những thành phố lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu
trở thành những trung tâm buôn bán sầm uất. Thị trấn Thanh Giang bên bờ sông
Vận Hà thời đó đã có hơn nửa triệu dân cư. Nền kinh tế phát triển sinh ra một lớp
người thành thị có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Một số tác phẩm tiểu thuyết ngôn
tình ra đời: Tây Sương Ký, Mẫu Đơn Đình, Liêu Trai… vv.. Đó là những văn phẩm
tả tình yêu nam nữ, những số phận thường dân, những vui buồn riêng tư. [dẫn theo
Mai Quốc Liên]
2. 2. Khái quát về việc nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm “Hồng Lâu Mộng”
ở Trung Quốc
―Hồng Lâu Mộng‖ là một tác phẩm có tính quan trọng trong giai đoạn từ tiếng
Hán cận đại quá độ sang tiếng Hán hiện đại, sự thay thế giữa cái cũ và cái mới đã
30
sản sinh nhiều hiện tượng ngôn ngữ quan trọng. Ngôn ngữ trong ―Hồng Lâu Mộng‖
từ lâu đã được một số chuyên gia ngôn ngữ học chú ý tới. Từ cuốn ―Ngữ pháp hiện
đại Trung Hoa‖ của Vương Lực tới cuốn ―Văn pháp lịch sử tiếng Hán ‖ đều đã trích
dẫn nhiều thí dụ để luận chứng làm sáng tỏ lí luận ngôn ngữ của mình.
Năm 1996, ngôn ngữ của Hồng Lâu Mộng được đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống. Nhà xuất bản Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh xuất bản cuốn
―Ngôn ngữ của Hồng Lâu Mộng‖ do ông Ngô Cạnh Tồn khoa Trung văn trường
Đại học Bắc Kinh chủ biên. Cuốn ―Ngôn ngữ của Hồng Lâu Mộng‖ không rập
khuôn theo truyền thống nghiên cứu ―ngôn ngữ nghệ thuật Hồng Ngọc‖, không
theo lối nghiên cứu thông qua góc nhìn của mỹ học, văn học, lịch sử, văn hóa, tâm
lý, xã hội, … mà thảo luận hiện tượng ngôn ngữ, chuyển đổi phương pháp phân
tích Hồng Lâu Mộng theo góc nhìn nhận của ngôn ngữ học hiện đại. Trong phần lời
tựa của cuốn sách, ông Ngô Cạnh Tồn nói: ―…chúng tôi lấy tiếng Bắc Kinh ở thế
kỷ XVIII làm điểm dựa, lấy ngôn ngữ học hiện đại làm kim chỉ hướng, đoạn đại
phẫu tính lịch sử ―điểm chốt‖ nào đó trong ngôn ngữ Hồng Lâu Mộng, để phác họa
rõ một mặt cắt lịch sử của tiếng Bắc Kinh – một phương ngôn quyền uy của tiếng
Hán hiện đại. Việc nghiên cứu ngôn ngữ Hồng Lâu Mộng có khả năng sẽ cung cấp
được một vài kết luận ngôn ngữ học nào đó về kinh nghiệm nghệ thuật trong việc
tìm tòi tổng kết các danh tác văn học‖. Trong cuốn sách đã hội tụ nhiều giải thích
về ngôn từ Hồng Lâu Mộng, như bài ―Hạt ngọc sáng trên đỉnh tháp nghệ thuật ngôn
ngữ - Sơ lược và hối thích về tục ngữ trong Hồng Lâu Mộng‖ của Lâm Hưng Nhân
(1986), bài ―Nghiên cứu về Biện và Tựu trong Hồng Lâu Mộng‖ của Lý Chiến
(1997), bài ― Tục ngữ Hồng Lâu Mộng‖ của Mao Văn (1996), bài ― Wen-du-li-na
xuất xứ từ phiên âm Phàn văn‖ của Hoàng Long (1986), bài ―Khảo sát nghĩa từ
―nhất khởi‖ trong Hồng Lâu Mộng kiêm bàn về sự khác biệt giữa ngôn ngữ 80 hồi
đầu và 40 hồi sau‖ của Tưởng Dã (1983), bài ―Một câu đố nan giải: ―túc đich‖,
kiêm bàn về vấn đề thực giả của Bản Canh Thìn‖ của Thi Kỷ Mặc (1995).
Những năm gần đây, việc nghiên cứu ngôn ngữ Hồng Lâu Mộng đã trở thành
31
một điểm nóng của luận văn nghiên cứu sinh và học viên cao học của Trung Quốc,
như luận văn thạc sĩ ―Nghiên cứu câu tồn tại trong Hồng Lâu Mộng‖ của Hứa Mai
Lợi trường Đại học Phục Đán (2003), luận án tiến sĩ ―Nghiên cứu xưng hô ngữ
trong Hồng Lâu Mộng‖ của Trần Nghị Bình trường Đại học Vũ Hán (2004), luận
án thạc sĩ ―Nghiên cứu từ xưng hô trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng‖ của Đỗ Hiểu
Mai trường Đại học Sơn Đông (2004), luận văn thạc sĩ ―Hồng Lâu Mộng thi sơ cú‖
của Vương Lý Hà trường Đại học Phục Đán (2004), luận văn thạc sĩ ―Nghiên cứu
lượng từ trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng‖ của Quá Quốc Kiều - ĐHSP Thượng
Hải (2005).
Có thể nói, việc giải thích từ ngữ Hồng Lâu Mộng đã được triển khai tới một
mức độ khá tỉ mỉ, song khảo sát về tính hệ thống vẫn còn phần khiếm khuyết, tầm
nhìn vẫn chưa đủ rộng. Trọng điểm nghiên cứu trước mắt và sau này sẽ tập trung
vào việc mở rộng tầm nhìn, xác lập đối tượng nghiên cứu mới vàtriển khai công
việc giải thích một cách tỉ mỉ, sâu rộng hơn.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn từ chỉ thời gian làm đối tượng nghiên cứu
giải thích từ ngữ Hồng Lâu Mộng, qua sự nghiên cứu ngữ nghĩa, ngữ pháp của từ
chỉ thời gian trong 80 hồi đầu của Hồng Lâu Mộng, áp dụng các phương pháp định
lượng và định tính nghiên cứu phân tích, tả thuật và giải thích để minh họa, luận
thuật nội hàm và phạm vi của đối tượng, để tìm hiểu đặc điểm sử dụng từ chỉ thời
gian ở thời kỳ đó. Mục đích của luận văn này không phải để đưa ra và luận thuật
một vấn đề lí luận nào đó, mà chỉ nhằm nỗ lực thể hiện diện mạo sử dụng từ chỉ
thời gian, nói cụ thể hơn là từ chỉ thời điểm trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng và từ
đó có một cái nhìn đối chiếu sang từ chỉ thời điểm trong tiếng Việt khi Hồng Lâu
Mộng được dịch sang ngôn ngữ này.
2.3 Những tiêu chuẩn và phạm vi phân ranh giới của từ chỉ thời gian
trong Hồng Lâu Mộng
Căn cứ vào tính chất cơ bản của thời gian, chúng tôi chia từ chỉ thời gian trong
Hồng Lâu Mộng ra thành từ chỉ thời điểm và từ chỉ thời đoạn.
Thời gian mang tính liên tục và tính trình tự trong quá trình vận động của vật
32
chất. từ chỉ thời gian có tác dụng xác định diễn tả vị trí và độ dài tương đối của thời
gian. Lã Thúc Tương (1944) đã nêu ra hai thuật ngữ ―thời điểm‖ và ―thời đoạn‖ ở
mục ―Thời gian‖ bài ―Trung Quốc văn pháp yếu lược‖. Ông đem "Từ chỉ thời gian
mang tính thực chỉ‖ (thường là thời hạn thực chỉ, như ― Tấn Thái Nguyên trung‖),
―từ chỉ thời gian mang tính xưng đại‖ chỉ ―nhìn chung thời hạn‖, tức ―từ chỉ thời
gian tạm thời và xác định chỉ xưng‖, tức ― lúc này, lúc đó, lúc ấy…‖, ―từ chỉ thời
gian mang tính vô định chỉ xưng‖ (như ―có một hôm‖, ― khi/lúc‖, ―ngày ngày/ hàng
ngày‖, ―năm năm/hàng năm‖, ―luôn luôn”…) đều được coi là ―thời điểm‖. Ngoài
ra còn có ―thời đoạn‖, tức biểu thị sự dài hay ngắn của thời gian hoặc ứng dụng các
đơn vị ―ngày, tháng năm‖ thêm định lượng từ hoặc bất định lượng từ ở trước, như
―ba năm‖, ―mấy ngày/ vài ngày‖, hoặc là phiếm chỉ lâu hay chốc lát, như ―một lúc
sau/chốc lát‖, ―khá lâu‖, ―giây lát/phút chốc‖, ―chợt/ bỗng/thoắt cái‖…
Trong cuốn ―Ngữ pháp tiếng Hán hiện đại giảng thoại‖, ông Đinh Thanh Thụ
đã nêu ra: Có hai loại từ chỉ thời gian, một loại biểu thị lúc/khi nào, nói về vị trí
sớm hay muộn của thời gian, đó là ―thời điểm‖; loại khác thì biểu thị bao lâu, nói
về sự ngắn hay dài, lâu hay chóng của thời gian, đó là ―thời đoạn‖. Bài ―Kết cấu
thời gian trong động từ tiếng Hán ‖ của Đặng Thư Tín cho là, kết cấu thời gian chia
làm khởi điểm (inception) và điểm cùng (termination). Quá trình giữa hai điểm
(duration) và bất cứ một điểm nào đó trong quá trình đều gọi là phân điểm (điểm
nhánh – subintervol).
Ba loại còn lại là thời điểm (point), như ―lúc đó/khi ấy‖, ―vừa rồi/vừa nãy‖,
―năm phút trước/cách đây năm phút‖, ―hôm qua‖.
thời đoạn (period), như ―một tiếng (đồng hồ)/một giờ‖, ―ba ngày‖, ―cả năm‖,
―một lát/một chốc‖, ―ngay lập tức‖, ―một cái/một lúc/chút xíu‖.
Một số từ chỉ thời gian trong Hồng Lâu Mộng vừa biểu thị thời điểm vừa biểu
thị thời đoạn, như: bách nhật, sau đó, ngày kia, trước đó/ vừa nãy, hôm kia, hôm
đó ,….
2. 4. Chức năng ngữ pháp và chức năng cú pháp của từ ngữ biểu thị thời
điểm trong tiếng Hán
Quách Phan (năm 1998) phân tích từ biểu thị thời điểm kiểu số lượng trong
tiếng Hán hiện đại, ông nêu ra: ―Từ biểu thị thời điểm kiểu số lượng do ―số thứ tự +
33
đơn vị thời gian‖ tạo thành được coi là danh từ‖. Chúng tôi nhất trí với quan điểm
này và cho rằng chức năng cú pháp của các loại từ ngữ chỉ thời điểm là không hoàn
句法功能 Chức năng cú pháp
Chủ
Vị
Tân
Định
Trạng
红例 Ví dụ
红点 Thời điểm
ngữ
ngữ
ngữ
ngữ
ngữ
主红
红红
红红
定红
状红
具体红点 Thời điểm cụ thể
甲夜 Đêm Giáp, 春天 mùa xuân
toàn thống nhất, được thể hiện trong bảng sau:
+
+
+
+
+
Đại từ+ thành phần thời gian
是红 Lúc này, 何红 lúc nào
+
+
+
+
_
代红+红红成分
Tính từ+ thành phần thời gian
异日 Ngày khác, 平日 ngày thường
+
+
+
+
_
形容红+红红成分
Từ
Thời
Giới từ+ thành phần thời gian
ngữ
điểm
当世 Đời này, 当夜 đêm này
+
+
+
_
_
chỉ
介红+红红成分
tuyệt
thời
đối
Phó từ+ thành phần thời gian
điểm
即日 Hôm nay, 俱红 cả ngày
_
_
+
_
_
红红
副红+红红成分
红点
红点
thành phần thời gian
红红
+ thành phần thời gian
朝夕 Sớm chiều, 晨夕 sớm tối
+
_
+
+
+
红红成分+红红成分
Số từ+ thành phần thời gian
一红 Một thời,
+
_
+
+
+
数红+红红成分
Thời điểm tƣơng đối 相红红点
红去 Ngày xưa, 红在 hiện nay
+
_
+
+
+
Bính Ngọ tháng 4 năm 26 Kiến An
Kết
Kiểu số lượng 数量式
+
+
+
+
+
建安二十六年四月丙午
cấu
từ
Nhân dịp ngày bạo loạn của các Chư
Kiểu giới từ+tân ngữ 介红式
_
_
_
_
+
ngữ
Hầu 红候景乱, 迄至成衰
chỉ
Đời Vĩnh Minh; lúc khi lập công
thời
Kiểu lệch chính 偏正式
+
+
+
+
+
điểm
永明之朝代, 立功之会
红点
Cuối đời Thanh; đầu đời Minh〃
Kiểu phương vị 方位式
+
_
_
+
+
红构
黄初末, 文皇帝践祚之初
34
Tính vị từ 红红性
Từ khi sự xuất hiện 既出
Làm câu ngắn hoặc câu một tờ riêng .
Trong bảng biểu trên đã cho thấy rằng, có hai cách biểu thị thời điểm chính, đó
là biểu thị thời điểm đương đối và biểu thị thời điểm tuyệt đối (cụ thể). Từ hai cách
biểu thị thời điểm trên, chúng ta lại có thể tiếp tục có thể phân thành nhiều cách
biểu thị thời điểm cụ thể khác nhau. Trong luận văn này, chúng tôi chọn cách phân
tích đặc điểm chức năng để thể hiện phân loại biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và
tiếng Việt.
2.5. Từ ngữ biểu thị thời điểm trong nguyên bản tiếng Hán của tác phẩm
Hồng Lậu Mộng
Trong phần này chúng tôi sẽ phân các từ ngữ biểu thị thời gian của Hồng Lâu
Mộng thành từ đơn và từ phức chỉ thời gian để nghiên cứu.
2. 5. 1. Từ đơn biểu thị thời điểm
Các từ đơn biểu thị thời điểm trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng không nhiều
lắm, tần suất sử dụng của các từ này cũng có giới hạn.
2. 5. 1. 1. Từ đơn chỉ thời điểm tuyệt đối:春(xuân), 夏(hè), 秋(thu), 冬(đông),
腊(lạp), 朔(trăng mồng một), 望(trăng tròn), 旦(ngày), 红(sáng), 早(sớm), 晨
(sáng), 朝(triều), 午(ngọ, trưa), 昼(ngày), 昏(hôn), 暮(chiều), 夕(chiều), 晚
(tối), 夜(đêm), 红(khi), …
Các từ đơn loại này rất ít khi được sử dụng một cách độc lập, đa số là xuất
(4) Chỗ ấy lại là nơi gió lùa, chung quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài,
hiện kèm cùng một từ khác, ví dụ:
gió bấc thổi hun hút, rét buốt đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng
红屋内又是红红红〃空落落〃红是腊月天气〃夜又红〃朔红凛凛〃侵肌裂骨〃
一夜几乎不曾红死。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 12, tr 26)
được.
35
(5) Sáng hôm ấy, Giả Liễn ra khỏi thành, ngày đi đêm nghỉ, đói ăn khát uống
theo đường lên châu Bình An.
出城〃就奔平安州大道〃红行夜住〃渴红红餐。 是日一早 〄
(6) Đến trưa, Giả mẫu dẫn Vương phu nhân, Phượng Thư và mời cả Tiết phu
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 66, tr 95)
nhân sang bên vườn.
至午〃果然红母红了王夫人红姐兼红薛姨红等红园来。
(7) Hết đông sang xuân, bệnh hắn càng nặng.
倏又腊尽春回〃红病更又沉重。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 12, tr 157)
(8) Nhưng gặp lúc hoa nở trăng trong, họ vẫn hẹn nhau vào vườn dạo chơi như
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 38, tr 512)
到了花朝月夕〃依旧相红红耍。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 102, tr 611)
trước.
Cách dùng chủ yếu của ―午-ngọ‖ là chỉ một trong 12 địa chi, sau đó dùng làm
một trong 12 giờ, biểu thị thời gian từ 11:00 đến 13:00, chính vì trong thời gian này
mặt trời đứng bóng, sau này người ta gọi ―日中 (nhật trung)‖ (đứng bóng) thành
―午-ngọ‖, vì thế mà sau này người Trung quốc có cách gọi biểu thị buổi trưa là ―中
午- trung ngọ‖.
(9) Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả
mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: “Giữ lấy sức khỏe, không nên thương
nhớ.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 18, tr 168)
已丑正三刻〃红红回红‖。 众人红恩已红〃红事太红启道:―红 〄
36
Từ ―红‖ trong Hồng Lâu Mộng ít khi được sử dụng một mình, nó thường kết
hợp với một thành tố khác, từ ―红‖ trong ví dụ số (9) có ý nghĩa ―lúc đó‖, cũng biểu
thị ―丑正三刻‖ xuất hiện sau đó.
2. 5. 1. 2. Từ đơn chỉ thời điểm tương đối:古(cổ), 先(trước), 初(đầu), 往(xưa),
昔(xưa), 今(hiện), 红(hiện), 昨(hôm qua), 前(trước), 后(sau), 近(gần). Các từ
(10) Hai nhà này tuy không phồn thịnh bằng lúc trước, nhưng so với những
chỉ thời điểm tương đối cũng xuất hiện đi kèm với một từ khác. Ví dụ:
年那红兴盛〃红之平常仕宦之家〃到底气像不同。
如今 〄
虽红不及先 〄
nhà sĩ hoạn bình thường vẫn còn khác xa.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ hai, tr 34)
(11) Này nhé: vợ Ông chủ nhà họ Lâm mà tiên sinh ngồi dạy học là em ruột
Từ ―红‖ rất đáng chú ý vì đôi khi nó đứng một mình, biểu thị ý nghĩa ―hiện tại‖;
红有红红:目今你红红家林公之夫人〃即荣府中赦〃政二公之胞妹〃在家红
名红红敏。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 2, tr 25)
Giả Xá và Giả Chính bên phủ Vinh, khi chưa lấy chồng đặt tên là Giả Mẫn.
Từ ―先‖ trong Hồng Lâu Mộng cũng rất đáng chú ý, từ ―先‖ ở đây không đơn
thuần chỉ mang ý nghĩa trạng ngữ chỉ trật tự trước sau đối nghĩa với từ ―后‖, mà có
(12) Lúc đầu hai người còn nói những chuyện núi mây, bể mù, thần tiên, huyền ảo,
nghĩa là ―ban đầu‖, ―trước đây‖. Ví dụ:
先是红些云山红海神仙玄幻之事〃后便红到红红中荣红富红;
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ nhất, tr 8)
37
sau nói đến vinh hoa phú quý dưới cõi hồng trần.
Thậm chí cách sử dụng mang ý nghĩa ―ban đầu‖, ―trước đây‖ này của từ ―先‖
giờ vẫn còn tồn tại trong phương ngữ của người Hà Nam (Trung Quốc).
Một loại từ đơn chỉ thời điểm khác thông thường không được sử dụng một
cách đơn độc, mà phải kết hợp với các thành phần khác, có thể dùng để biểu thị
thời điểm hoặc giai đoạn, chúng được gọi là từ đơn vị thời gian trong tiếng Trung,
ví dụ như:朝(triều đại), 世(thế), 代(đại), 年(năm), 红(năm), 红(năm), 季(mùa),
月(tháng), 旬(tuần), 日(ngày), 更(canh), 刻(khắc)….
2. 5. 2. Từ phức biểu thị thời điểm
Sự phát triển của từ ngữ biểu thị thời điểm trong Hồng Lâu Mộng phù hợp với
xu thế song âm tiết hóa từ ngữ của tiếng Hán , số lượng và tần suất sử dụng của từ
phức biểu thị thời điểm nhiều hơn rất nhiều so với từ đơn âm. Ở đây, chúng tôi chủ
yếu giới thiệu về các từ song âm tiết biểu thị thời điểm, đồng thời cũng sẽ giới thiệu
một số từ đa âm tiết đặc biệt.
2. 5. 2. 1. Từ phức chỉ thời điểm tuyệt đối
Chúng tôi căn cứ vào phương diện thời điểm cụ thể và đại từ chỉ thời điểm để
Thời điểm cụ thể
nghiên cứu.
Thời điểm cụ thể là mốc thời gian cụ thể theo trình tự như: thời khắc, ngày,
tháng, mùa, năm…, tức là bản thân từ đó thể hiện một mốc thời gian cụ thể trên
tiến trình thời gian.
- Chỉ mùa, tháng, ngày
元旦(nguyên đán), 除夕(trù tịch), 端午(Đoan Ngọ), 夏月(tháng 5 âm lịch), 冬月(tháng
11 âm lịch), 夏日(vào hè), 冬日(vào đông), 春天(mùa xuân), 夏天(mùa hẹ), 冬天(mùa
38
Có tính kế tiếp: 正月(tháng giêng), 正旦(mồng một tháng giêng), 新春(xuân mới),
đông), 腊月(tháng chạp), 开春(vào xuân), 清明(thanh minh), 芒种(tiết Mang chủng),
霜降(tiết sương giáng). . .
Các từ chưa xuất hiện trong các tác phẩm trước đó: 伏天 (tên gọi chung của
tam phục – các ngày mà dương khí đạt cực thinh trong mùa hè), 庚伏 (các ngày
có dương khí đạt cực thịnh đều bắt đầu bằng can Canh), 秋天(mùa thu), 初冬
(đầu đông), 新正 (mùng một đến mùng năm của tháng giêng năm mới), 开正
(mùng một tháng giêng âm lịch), 年下(nửa đầu tháng giêng âm lịch), 元宵(tiết
nguyên tiêu), 灯红(tiết hoa đăng), 端阳(Đoan Dương). Từ ―新春(xuân mới)‖, tuy
đã có trước khi tác phẩm ra đời, nhưng ý nghĩa của nó khác với từ ―新春(xuân
mới)‖ trong Hồng Lâu Mộng . Tác giả Wang Haifen trong cuốn Từ điển Hán ngữ
cổ phạm trù thời gian đã giải thích như sau: Giai đoạn bắt đầu mùa xuân, nhưng
nếu chúng tôi dùng ý nghĩa này để giải thích một loạt từ ―新春(xuân mới)‖ trong
Hồng Lâu Mộng thì rõ ràng là không hợp lý. Chúng tôi cho rằng những từ ―新春
(xuân mới)‖ trong Hồng Lâu Mộng chỉ một giai đoạn sau khi kết thúc mùa xuân,
hơn nữa cách giải thích này cũng phù hợp với giải thích về từ này trong Từ điển
tiếng Hán hiện đại.
Trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng xuất hiện hàng loạt những từ ―新春(xuân
mới)‖, như:
(13) Xuân mới được mọi sự tốt lành, bình an, vinh quý, thăng quan tiến chức,
39
vạn sư như ý.
新春大喜大福〃荣红平安〃加官红禄〃万事如意。
( Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 53, tr 725)
―冬月‖ là mùa đông, nhưng ―冬月‖ cũng có thể chỉ tháng 11 âm lịch. Trong
Hồng Lâu Mộng xuất hiện rất nhiều ―冬月‖nhưng chúng tôi rất khó phân biệt nó là
―mùa đông‖ hay ―tháng 11‖. Như::
(14) Mới biết cây đường vẫn có hoa, tháng đông hoa nở có nhà ta.
人红奇事知多少〃冬月开花独我家。
( Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 94, tr 502)
―年下‖ chỉ năm mới âm lịch, cách dùng này đến nay vẫn được sử dụng trong
tiếng Hà Nam. Nhưng trong Hồng Lâu Mộng lại xuất hiện rất nhiều từ ―年下‖.
Như:
(15) Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy
đi mất.
旧年奶奶原红要免的〃因年下忙〃就忘了。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 55, tr 762)
- Chỉ buổi sáng
Các từ có sẵn: 黎明(bình minh), 平旦(rạng sáng), 凌晨(hừng đông), 清晨
(tảng sáng), 天明(trời sáng), 日出(sáng bạch)
Các từ chưa từng xuất hiện trong các tác phẩm trước đó:天亮(trời sáng),
40
早上(sáng sớm), 一早(trời vừa sáng), 清早(sáng sớm), 早晨(buổi sáng), 早起
(sáng sớm)
Từ ―天亮‖ và ―天明‖ diễn đạt cùng một phạm trù thời gian. Từ ―天明‖ đã
được sử dụng trong thơ Đường. Ví dụ:
(16) Khi quay lại, không thấy Anh Liên đâu, Hoắc Khải hốt hoảng đi tìm suốt
đêm, sợ không dám về báo cho chủ biết liền trốn đi nơi khác.
急得霍启直红了半夜〃至天明不红〃那霍启也就不敢回来红主人〃便
逃往他红去了。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ nhất, tr 18)
(17) Bây giờ trời đã sáng rồi, phải đi nghỉ mới được.
此红想也快天亮了〃到底要歇息歇息才是。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 76, tr 255)
Từ ―天亮‖ trong Hồng Lâu Mộng xuất hiện 15 lần, ―天明‖ xuất hiện 13 lần,
hơn nữa căn cứ vào ngữ cảnh và tần xuất sử dụng có thể thấy ―天亮‖ có ưu thế sử
dụng rõ rệt.
Trong Hồng Lâu Mộng có một tổ hợp từ thể hiện buổi sáng. Ví dụ:
(18) Tối đến bảo chú ấy phải đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy sớm.
晚上催他早睡〃早上催他早起。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 51, tr 695)
(19) Già Lưu vội đáp:- Trời vừa sáng tôi đã tất tưởi chạy đến đây, còn có thì
giờ đâu mà ăn nữa.
刘姥姥忙红道:―一早就往红里赶咧〃那里红有吃红的工夫咧‖。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 6, tr 89)
(20) Đến tảng sáng ngày mồng một, Phượng Thư miễn cưỡng sai người sửa
41
soạn xe ngựa, dẫn Bình Nhi và nhiều đầy tớ khác đến chùa Tấn Hoa.
红里红姐勉强红红着〃到了初一清早〃令人红红了红红〃红着平儿并红
多奴仆来至散花寺。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 101, tr 601)
(21) Tập Nhân vội nhặt trâm nói:- Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi?
红人忙的拾了簪子〃红道:―大清早起〃红是何苦来‖=
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 35, tr 345)
(22) Không ngờ sáng nay, em trai nó đến thăm, tính còn trẻ con, chưa biết cân
nhắc hay dở, thấy chị ốm, đáng lẽ có việc gì tức bực đến đâu cũng không nên
nói mới phải .
偏偏今日早晨他兄弟来瞧他〃红知那小孩子家不知好歹〃看红他姐姐身
上不大爽快〃就有事也不当告红他〃别红是红么一点子小事〃就是你受了一
万分的委曲〃也不红向他红才是。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 10, tr 133)
Thông qua việc nghiên cứu các từ ―早上‖, ―一早‖ (大)清早‖, ―(大)清
晨‖, ―早晨‖, chúng tôi có thể nhận ra rằng tần suất sử dụng ―早上‖ , ―一早‖, ―清
早‖, ―清早‖ về cơ bản là giống nhau, hơn nữa số lần sử dụng cũng khá ít, đặc biệt
tần suất sử dụng ―早晨‖ cao hơn nhiều so với những từ khác.
Trong Hồng Lâu Mộng có hai lần ―大清早‖ được xuất hiện, trước từ ―清早‖
thêm từ ―大‖ để nhấn mạnh thêm cho ―清早‖. Chúng tôi nghiên cứu và nhận ra
rằng, trong các lần xuất hiện này thì tâm lý của người nói đều ở trạng thái không
42
vui.
Tác giả Vương Hải Phần đã giải thích từ ―早起‖ trong Từ điển tiếng Hán cổ
phạm trù thời gian là ―buổi sáng‖, trong Hồng Lâu Mộng cũng có cách dùng như
(23) Bảo Thoa nghĩ một lúc nói: Phải rồi, đó là mùi thơm của “lãnh hương hoàn”
vậy:
宝红想了一想〃笑道:―是了〃是我早起吃了丸红的香气。‖
tôi mới uống sáng hôm nay.
(24) Sáng hôm sau, Phượng Thư trở dậy lên nhà trên.
次日早起〃红姐往上屋去后. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 21, tr 274)
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 20, tr 263)
Cách nói ―早起‖ đến nay vẫn được lưu giữ trong phương ngữ Hà Nam khi biểu
thị buổi sáng.
Trong thời kỳ cổ đại, ―食红‖ thường chỉ thời gian ăn sáng, từ đó từ này cũng
được dùng để chỉ thời gian. Trong Hồng Lâu Mộng tuy không có ―食红‖ nhưng lại
có ―红红‖, Wang Hai Phương trong Từ điển tiếng Hán cổ đại phạm trù thời gian đã
giải thích từ ―红红‖ là ―lúc ăn cơm, thường là bữa sáng‖. ―红红‖ xuất hiện 4 lần
trong Hồng Lâu Mộng, có một lần có thể căn cứ vào ngữ cảnh để phán đoán đó là
(25) Vào khoảng bữa cơm sáng hôm sau, Gỉa mẫu, Vương phu nhân về đến nhà.
至次日红红前后〃果红红母王夫人等到来。
―thời gian ăn cơm sáng‖: Ví dụ:
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 64, tr 69)
Bối cảnh thời gian của đoạn hội thoại này là phía trên nói đến ―cho tới hôm
43
sau‖, do đó có thể dễ dàng phán đoán ―红红‖ ở đây là thời gian ăn sáng.
(26) Sắp đến bữa cơm rồi, mời cậu đi thôi.
天也将红红〃世兄竟快红红。
Có một ví dụ không thể xác định thời gian:
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 9, tr 122)
Đồng thời trong tác phẩm cũng xuất hiện các cách dùng khác nhau, do đó
chúng tôi có thể hiểu ―红红‖ đã không chỉ còn được hiểu là ―thời gian ăn cơm buổi
sáng‖ nữa.
- Từ chỉ buổi trƣa
Các từ có sẵn: 日中(buổi trưa)
Các từ chưa từng xuất hiện trước đó: 傍午(gần trưa), 午前(buổi sáng).
Chỉ buổi trưa :晌午, 正午, 午红, 当午(正中午), 午红;
(27) Đúng như Lý Hậu chủ nói:” Ở đây hàng ngày chỉ lấy nước mắt rửa mặt!”
真是李后主红的‗此红日中只以眼泪洗面‘矣=‖
Chỉ sâu buổi trưa:午红(红红中午), 午后, 下午. . .
(28) Đến quá trưa hôm sau, mới thấy người báo:” Cậu Liễn và cô Lâm đã về. ”
好容易盼至明日午红〃果红:―红二红和林姑娘红府了‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ87, tr 409)
(29) Đến chiều, Tương Vân sang, Bảo Ngọc mới yên lòng.
直到午后〃史湘云才来〃宝玉方放了心。
(Hồng Lâu Mộng, hồi 16, tr 191)
(30) Gỉả mẫu xem hát đến chiều thì về. Hôm sau không muốn đi nữa.
44
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 37, tr 504)
因此虽看了一天红〃至下午便回来了〃次日便红怠去。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 29, tr 396)
Ý nghĩa diễn đạt ―buổi trưa‖ của ―日中‖ đã có từ thời kỳ trước khi tác phẩm
ra đời, hơn nữa cách dùng ―午(ngọ)‖ là ngữ tố để diễn đạt―中午‖, lấy 1 trong 12
con giáp dùng để chỉ 12 giờ trong ngày để diễn đạt ―日中‖ đã hình thành nên từ ―中
午‖. Những trong Hồng Lâu Mộng xuất hiện một lần ý nghĩa là ―hàng ngày‖,
không phải là ý nghĩa chỉ thời điểm. .
(sau 12 giờ), 夜红(ban đêm), 半夜(nửa đêm), 向晚(gần tối), 晚来(gần tối)。
Các từ có sẵn::黄昏(hoàng hôn), 日落(lúc mặt trời lặn), 日夕(ngày đêm), 夜半
Những từ chưa thấy xuất hiện trong các tác phẩm trước đó: 初昏(khi trời bắt
đầu vào thời gian hoàng hôn), 傍晚(chạng vạng), 晚黑(đêm tối), 晚上(buổi tối),
晚红(ban đêm), 晚夕(sau khi mặt trời lặn), 午夜(nửa đêm), 黑夜(đêm khuya),
(31) Đến đêm, Gỉa Liễn cũng không đi đâu, chỉ nằm bên cạnh áo quan.
一面分派了人口穿孝守灵〃晚来也不红去〃只在红里伴宿。
夜红 (ban đêm), 夜深 (ban đêm)
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 69, tr 142)
(32) Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc bệnh: bụng đầy, miệng nhật,
心内红膨红〃口中无滋味〃脚下如红〃眼中似醋〃黑夜作红〃白昼常倦〃下溺
红精〃嗽痰红血。
45
chân run, mắt cay, đêm sốc, ngày mỏi mệt, đi đái dắt, di tinh, ho ra máu. . . . .
(Hồng Lâu Mộng, Hồi 20 , tr 43)
Trong cuốn từ điển tiếng Hán cổ đại phạm trù thời gian của Vương Hải Phần
từ ―夜深‖ được giải thích là ―ban đêm‖, Hồng Lâu Mộng rất nhiều lần dùng từ này
như vậy:
(33) Đại ngọc vội ngăn lại: “Thôi! Đêm khuya rồi, mai lấy xem cũng chưa
muộn. ”
黛玉忙止道:―红了〃此刻夜深〃明日再看也不红。‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 3 , tr 49)
- Chỉ ban ngày
Trong Hồng Lâu Mộng từ chỉ ―ban ngày‖ có: 日红, 白日, 白昼。
Các từ có sẵn, ví dụ:
日红的红红犹可〃夜里身红异常〃便红红红红。
(34) Ban ngày còn nhẹ, đến đêm người nóng lạ thường.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 102, tr 607)
(35) Chính đêm Bảo Ngọc làm lễ thành hôn, ban ngày Đại Ngọc đã mê sảng đi
却红宝玉成家的那一日〃黛玉白日已昏红红去〃却心红口中一红微气不断〃把个
李红和紫红哭的死去活来。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 98 , tr 563)
rồi, chỉ còn thở thoi thóp.
(36)Đến phủ Ninh, Bảo Ngọc thấy cửa phủ mở toang, đèn đuốc sáng như ban
ngày, người đi lại tấp nập.
一直到了宁国府前〃只红府红洞开〃两红灯红照如白昼〃乱烘烘人来人往〃
46
里面哭声红山振岳。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 13 , tr 164)
Đại từ chỉ thời điểm
Đại từ chỉ thời điểm chủ yếu chỉ các từ là đơn vị thời gian và các tổ hợp từ khác,
bản thân nó không có trong bảng chỉ thời gian nhưng lại có thể biểu thị một thời
gian trong bảng thời gian được nhắc đến trước đó, hoặc biểu thị một khoảng thời
gian đặc biệt nào đó.
-Đại từ + từ chỉ đơn vị thời gian
Thành phần thời gian này được coi như là từ ngữ. Trong cuốn từ điển Tiếng
Hán cổ đại phạm trù thời gian cũng có ghi chép về từ ―是‖: ―是日‖, ―是夜‖, ―是夕‖,
―是晚‖; ―此‖: ―此红‖, ―此夕‖; ―红‖: ―红早晚‖, ―那早晚‖để miêu tả ý nghĩa ―lúc
này‖, ―lúc đó‖ …Nhưng các từ ―此日‖, ―彼红‖ có tính tương đối, nên chúng tôi
是:是日(ngày hôm nay), 是夜(lúc này), 是夕(lúc này), 是晚(lúc này)。
此:此红(bây giờ), 此日(lúc này), 此夕(tối nay)。
尔:尔红(giờ nọ), 尔日(ngày này)。
彼:彼红(lúcấy, lúc đó)。
他:他日(năm nào, ngày khác), 他年(năm kia)。
某:某月(tháng nọ), 某日(ngày nọ)。
红:红日(lúc đó), 红红(lúc đó), 红红候(lúc đó)
那:那年(năm ấy), 那日(lúc ấy), 那红(lúc ấy), 那红候(lúc ấy)
phân các từ ―红日‖, ―那红‖, ―他年‖, ―某日‖ … thành từ ngữ chỉ thời điểm .
Bốn từ ―此红‖, ―那红‖, ―尔红‖, ―彼红‖ vừa có liên quan đến nhau nhưng cũng
47
có những khác biệt. ―此红‖ chỉ ―lúc này‖, ―那红‖, ―尔红‖, ―彼红‖ chỉ lúc đó;
chúng đều là điểm tham chiếu thời gian của hành động nói, cùng nhấn mạnh mối
liên hệ về mặt thứ tự thời gian của sự việc, nhưng ―此红‖ chỉ thời gian trước mắt,
―尔红‖ lại lấy thời gian trước mắt để làm điểm tham chiếu thời gian cho thời gian
trong khứ; ―那红‖, ―彼‖.
红‖ vừa có thể chỉ thời gian quá khứ, vừa có thể chỉ thời gian tương lai, ví
dụ:
(37)Bảo Ngọc nói: “Coi chừng đấy, có ngã gẫy răng, đến lúc ấy mới kinh.
宝玉道:―把牙栽了〃那红才不演呢。‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 26 , tr 338)
(38)Khi đó Tưởng Ngọc Hàm nhớ đến mối tình cũ Bảo Ngọc đối với mình, cảm
此红蒋玉菡念着宝玉待他的旧情〃倒红红心惶愧〃更加周旋.
thấy rất là hổ thẹn, nên càng âu yếm.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 120 , tr 858)
(39) Bấy giờ tuy có quân dân đến chữa, những lửa đã cháy to, không sao cứu
được?
彼红虽有红民来救〃那火已成了红〃如何救得下<
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 1 , tr 18)
―他‖ và ―某‖ đều chỉ thời gian không xác định , nhưng ―他‖ chỉ thời gian
tương lai, ―某‖ thì không bị quy giới hạn là chỉ thời gian quá khứ, hiện tại hay
tương lai, ví dụ:
(40) Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, sau này ta chết, ai là người chôn?
红今葬花人笑痴〃他年葬红知是红<
48
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 35 , tr 458)
(41) Hôm trước chú Hai viết thư về, nói Thám Xuân ngày nọ đến nơi, chọn ngày
giờ tốt đưa em mày tới miền biển, dọc đường gió yên sóng lặng, cả nhà không cần
lo nghĩ.
前儿你二叔红红子来红〃探春于某日到了任所〃红了某日吉红送了你妹子
到了海疆〃路上红恬浪静〃合家不必挂念。(Hồng Lâu Mộng, hồi 102 , tr 614)
Trừ ―红‖, ―那‖, các từ ngữ khác cơ bản là được kế thừa:
(42) Một hôm vừa đi đến phố Ninh Vinh, bỗng thấy có nhiều xe kiệu ở đó.
那日恰好到宁荣街〃只红有好些红红在那里。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 111 , tr 735)
(43) Việc gì mà bây giờ còn chạy đến?
什么事〃红红候又跑了来作什么<
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 73, tr 378)
(44) Đến rằm tháng ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng không
cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ.
不想红日三月十五〃葫芦庙中炸供〃那些和尚不加小心〃致使油红火逸〃便
(45) Tôi nhớ họ Giả nhà ta hồi còn ở miền Cô Tô, Dương Châu, trông nam việc
红着窗红。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 1, tr 17)
đóng thuyền bể, và sửa sang đường bể, chỉ có sửa soạn đón tiếp vua một lần, mà
tiền bạc tiêu như bể nước.
那红候我才红事儿〃咱红红府正在姑红红州一红红造海舫〃修理海塘〃只
红红接红一次〃把红子都花的淌海水似的=
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 16, tr 196)
49
(46) Đánh cờ đến khoảng canh tư, lúc đó thật là trời đất bao la, bốn bề lặng lẽ.
红红已到四更〃天空地红〃万红无声。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 111, tr 729)
- Hình dung từ + từ đơn vị chỉ thời gian
Các từ có sẵn: 同年(cũng năm), 吉日(ngày tốt), 吉红(ngày lành tháng tốt),
荒年(năm mất mùa), 丰年(năm bội thu), 末年(cuối thời), 生日(sinh nhật), 生辰
(ngày sinh), 忌 辰 (ngày kị), 异 日 (sau nay), 常 日 (ngày trước), 红 红 (lúc
thường). . .
Các từ chưa xuất hiện trong các tác phẩm trước đây: 吉刻(ngày cưới), 常年
(quanh năm), 素日(ngày trước) …
(47) Phượng Thư nói: “Hai mươi một này là ngày sinh nhật cô Bảo Thoa, cậu
định làm thế nào ?
红姐道:―二十一是薛妹妹的生日〃你到底怎么红呢<‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 22, tr 287)
(48) Một hôm, gặp ngày sinh nhật Giả Chính, người nhà phủ Ninh, phủ Vinh
đương nhộn nhịp ăn mừng.
一日正是红政的生辰〃宁荣二红人丁都红集红红〃红红非常。
―生辰‖ thường chỉ ―sinh nhật‖, trong Hồng Lâu Mộng đều có cách dùng
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 16, tr 197)
này. ―常日‖, ―素日‖ đều có thể biểu thị ―ngày trước‖, ―ngày thường‖ cũng vậy,
nói chung đều chỉ quá khứ.
50
(49) Nghĩ đến ngày thường Giả mẫu thương yêu mình.
想起红母素日疼他; (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 110, tr 714)
(50) Trước kia còn chưa biết là ít người, bây giờ xem ra nhà ta thật ít người
quá.
常日倒红不红人少〃今日看来〃红是咱红的人也甚少〃算不得甚么。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 75, tr 229)
当(lúc):当红(lúc đó) , 当日(lúc đầu), 当年(năm đó), 当晚(tối hôm đó)...
红(đến):红红(lúc khi), 红红(lâm chung), 红死(sắp chết) 红期(sau này)...
- Giới từ/động từ + từ đơn vị thời gian/thành phần khác
Các từ có từ tố ―当‖ xuất hiện khá sớm. Chỉ có ―当晚‖ thì về sau mới thấy
xuất hiện, xuất hiện muộn hơn các từ ―当红‖, ―当日‖và―当年‖. Nhưng trong Hồng
Lâu Mộng từ này cũng có thể biểu thị đêm hôm đó, ví dụ:
(51) Chiều hôm ấy, Giả Chính về nhà, ngồi trong xe nghe người đi đường nói với
nhau: “ người ta muốn phát tài cũng rất dễ dàng. ”
且红红政当晚回家〃在红内听红道儿上人红道:―人要红红也容易的很。‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 95, tr 521)
Vừa có thể biểu thị ―đến tối, vào thời gian của đêm đó‖:
(52) Do đó, đêm ấy Tập Nhân dời ra ngoài năm.
于是当晚红人果然挪出去。 (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 109, tr 672)
Cần phải giải thích về các từ có từ tố ―红‖, từ ―红‖ vốn có nghĩa là ―đến lúc
nào đó‖, các từ tố kết hợp với ―lâm‖ có tác dụng biểu thị thời gian. Trong Từ điển
51
Tiếng Hán cổ đại phạm trù thời gian của Vương Hải Phần cũng đã ghi rõ các từ ―红
死‖, ―红红‖, ―红红‖, ―红期‖… Các ví dụ trong Hồng Lâu Mộng :
(53) Để tránh khỏi đến khi việc phải hấp tấp, được cái nọ hỏng cái kia, làm cho
người ta chê cười.
省得红红红三落四的不红全〃令人笑红。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 67, tr 108)
(54) Bảo Ngọc nghĩ bụng: “ Lúc chết không được gặp mặt, bây giờ ta phải đến
vái trước linh cữu, để tỏ cái tình năm, sáu năm gần gũi nhau.
因又想:―虽然红红未红〃如今且去灵前一拜〃也算尽红五六年的情常。‖
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 78, tr 277)
(55) Nếu không lo xa từ giờ, sau này hối cũng vô ích
此红若不早红后红〃红期只恐后悔无益了。
(Hồng Lâu Mộng, hồi13, tr 163)
Các từ chỉ thời gian có kết hợp với từ tố ―红‖ còn có: ―红行‖, ―红走‖, ―红
去‖, ―红红‖ …
Từ ―无日‖ thời cổ đại chỉ hai ý nghĩa: thời đoạn (thời gian ngắn) và ―không
chỉ một ngày, hàng ngày‖
Hồng Lâu Mộng có hai lần xuất hiện ―无日‖ liên quan đến thời gian, một
trong đó biểu thị ―không có một ngày‖:
(56) Từ khi Gỉa mẫu ốm, tất cả đàn bà con gái trong nhà ngày nào cũng đến hỏi
thăm.
且红红母病红〃合宅女眷无日不来红安。
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 109, tr 576)
52
Sửa lại số thứ tự của các ví dụ tiếp theo, vì trong ví dụ này ko biểu thị thời gian.
- Phó từ + đơn vị từ chỉ thời gian
Loại từ kiểu này khá ít, trong Hồng Lâu Mộng chỉ xuất hiện ―即日‖ (hôm đó,
thời gian gần đó)
―即日‖ xuất hiện từ thời Tây Hán, được dùng cho đến ngày nay. Trong Hồng
Lâu Mộng từ này cũng được dùng với cùng một cách như trên.
(57) Vì thế, hôm đó Tiết phu nhân đến thu dọn ngay những đồ chơi và rèm màn ở
thư phòng Tiết Bàn đem về, rồi gọi cả vợ của hai người hầu trai đi theo Tiết Bàn
cũng vào trong nhà ngủ.
因此薛姨红即日到红房〃将一红红红玩器并帘幔等物尽行搬了红来收红〃
命那两个跟去的男子之妻一并也红来睡红.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 48, tr 654)
Nhưng ―即日‖ trong 5 lần xuất hiện trong Hồng Lâu Mộng, không có từ nào
biểu thị ý nghĩa ―thời gian gần đó‖.
- Thành tố thời gian + thành tố thời gian
Từ biểu thị thời gian kiểu này bao gồm việc kết hợp giữa hai thành phần thời gian
đối lập tạo thành
Các từ ngữ kiểu này bao gồm: 古今(cổ kim), 昼夜(ngày đêm), 日夜(ngày
đêm), 朝夕(sớm chiều), 早晚(sớm tối). Từ ―早晚‖〃 có ý nghĩa khá phức tạp, nó
có những ý nghĩa chủ yếu dưới đây:
1. 红候。Buổi sáng và buổi tối
53
2. 红红, 天天。Thường xuyên, liên tục
3. 何日, 几红。Ngày nào, lúc nào
4. 红红。Thời gian
―早晚‖ trong Hồng Lâu Mộng có hai cách dùng, môt là ―biểu thị khi nào‖, từ
loại này sẽ được nói cụ thể ở phần sau, ở đây chúng tôi không đi vào chi tiết. Một ý
nghĩa khác nữa là ―buổi sáng và buổi tối‖, ví dụ:
(58) Không nên giữ lễ lắm, sớm tối không cần theo lệ đến thăm nom, phải tĩnh
dưỡng mới được.
你且不必拘礼〃早晚不必照例上来〃你就好生养养红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 10, tr 141)
- Số từ + từ đơn vị thời gian
Nội dung mà các từ loại này biểu thị thường chia thành hai loại: một là danh
xưng của một loại thời gian nào đó, có ―四季(tứ quý), 四红(bốn mùa), 八红(tám
tiết)‖.
Các từ này phần đa là có từ trước. Theo như trong Từ điển Tiếng Hán cổ đại
phạm trù thời gian của Wang Haifen thì ―四季‖chỉ bốn mùa xuân hạ thu đông,
ngoài ra còn chỉ sáng trưa chiều tối. ―八红‖là 8 ngày tiết trong một năm âm lịch:
Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí.
(59) Đây là quần áo bốn mùa cộng một trăm hai mươi cái.
红是四季的衣服共一百二十件。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 97, tr 546)
(60) Một là, hiện nay mộ tổ tuy vẫn bốn mùa tế lễ, những không có món tiền
54
chi tiêu nhất định; hai là, trường học của họ cũng không có món nào cung cấp nhất
định.
秦氏道:―目今祖红虽四红祭祀〃只是无一定的红粮〃第二〃家塾虽立〃
无一定的供红。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 13, tr 164)
Có một loại từ biểu thị thời gian không xác định: 一日 (một ngày nào đó),
一红(nhất thời )…
(61) Một hôm giữa lúc mùa hạ ngày dài, Sĩ Ẩn ngồi rỗi trong thư phòng, mỏi tay
buông sách, ngủ gục xuống ghế.
一日〃炎夏永昼〃士红于红房红坐〃至手倦抛红〃伏几少憩〃不红朦红睡去。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 18)
Hai từ này cũng là những từ đã sớm xuất hiện từ trước. Cách dùng của ―一红‖
khá phức tạp, nó vừa có thể biểu thị thời điểm, vừa có thể biểu thị thời đoạn. Ở đây
chúng tôi chỉ nghiên cứu chức năng biểu thị thời điểm của nó.
(62) Một lúc tiểu đồng đi vào, Vũ Thôn mới biết ngoài nhà giữ khách lại ăn cơm.
一红小童红来〃雨村打听得前面留红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 14)
Từ ―有红‖ cũng xuất hiện từ trước, tuy nhiên không phải là kết hợp của ―số
từ+từ đơn vị thời gian‖, nhưng nó cũng biểu thị một thời điểm không xác định nào
đó.
(63) Bỗng chốc mua sầu chuốc não, lắm khi như dại như ngây.
无故红愁红恨〃有红似傻如狂。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3, tr 41)
Trong Hồng Lâu Mộng còn xuất hiện một trường hợp khá đặc biệt:
55
(64) Qua một trăm ngày mới rước linh cữu về nguyên quán.
等红百日后〃方扶柩回籍。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 64, tr 65)
―百日‖, có thể là một khoảng thời gian, biểu thị khoảng thời gian 100 ngày sau
khi người quá cố. Nhưng trường hợp này trong tác phẩm rõ ràng có nghĩa là ―sau
một tiếng đồng hồ nữa‖.
2. 5. 2. 2. Từ phức chỉ thời điểm tương đối
Chỉ thời điểm quá khứ
- Các từ kế thừa từ trước:往昔(xưa kia), 往年(năm xưa), 往日(ngày xưa), 旧日
(ngày xưa), 以 往 (trước kia), 以 前 (ngày trước), 从 前 (ngày xưa), 前 世 (kiếp
trước), 前代(thời trước), 前年(năm trước), 前月(tháng trước), 前日(hôm trước),
去红(năm qua), 去年(năm ngoái), 昨日(hôm qua), 昨夕(chiều hôm qua), 昨夜
(tối hôm qua), 昔年(năm xưa), 昔日(ngày xưa), 夙昔(ngày xưa), 先前(trước kia),
先红(trước kia), 先世(đời trước), 先代(thời trước), 上古(thượng cổ), 初红(thuở
đầu), 其初(khởi đầu), 上年(năm ngoái), 当初(lúc đầu)…
-Các từ chưa từng xuất hiện trước đó: 旧红(năm cũ), 旧年(năm cũ), 昨年
(năm trước), 昨天(hôm qua), 日前(hôm trước), 昨前(hôm trước), 昨晚(tối hôm
qua), 前 宵 (đêm hôm qua), 前 夜 (đêm hôm qua), 起 初 (mới đầu), 向 日 (ban
đầu). . .
Cấu trúc ―旧 + từ đơn vị thời gian‖ để chỉ thời gian quá khứ xuất hiện rất nhiều
trong Hồng Lâu Mộng :
56
Các từ ngữ biểu thị thời điểm quá khứ trong Hồng Lâu Mộng, chủ yếu là do
những từ có ý nghĩa quá khứ đảm nhiệm: ―往‖ ―前‖ ―去‖ ―上‖ ―昨‖ ―昔‖ ―先‖
―初‖ ―旧‖.
(65) Mai sao có hai a hoàn theo hầu bên mình, ba thầy trò ngày đêm khâu vá
lấy tiền giúp thêm bố mẹ.
幸而身红红有两个旧日的丫鬟伏侍〃主仆三人〃日夜作些红红红红〃帮着父
红用度。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 1, tr 21)
(66) Năm ngoái, suốt cả năm cô ấy chỉ làm được có một cái túi hương, giờ đã
nửa năm rồi, vẫn chưa thấy đụng đến kim chỉ.
旧年好一年的工夫〃做了个香袋儿〃今年半年〃红没拿红红呢。‖
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 32, tr 427)
Đặc biệt ―前日‖ trong Hồng Lâu Mộng có thể biểu thị thời điểm xác định ―hôm
qua‖, ―hôm kia‖ và cúng có thể chỉ một thời gian không xác định trong quá khứ.
Biểu thị thời điểm xác định:
(67) Hôm hai mươi sáu tháng tư, ở đây có làm lễ thánh đản Già thiên đại
vương.
前日四月二十六日〃我红里做遮天大王的圣红.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 29, tr 386)
Biểu thị thời điểm không xác định:
(68) Bảo Ngọc nhân khoe hôm nọ được ăn món chân ngỗng ở nhà chị Trân bên
phủ Đông rất ngôn.
宝玉因夸前日在那府里珍大嫂子的好红掌红信。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 8, tr 111)
Các từ biểu thị thời gian trong quá khứ có từ tố ―初‖: ―当初‖, ―起初‖〃―当初‖
57
xuất hiện sớm nhất, ―起初‖ xuất hiện muộn hơn, chúng đều biểu thị ý nghĩa ―lúc
mới bắt đầu‖, như:
(69) Ban đầu tôi cũng chẳng để ý, sau thấy mợ thần mật với Hương Lăng, tôi
tưởng là Hương Lăng bày vẽ gì cho mợ ấy rồi.
我起初不理会〃后来看红与香菱好了〃我只道是香菱教他什么了。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 103, tr 619)
(70) Nhớ lúc trước, mẹ con tôi đã có lần đến đó.
想当初我和女儿红去红一遭。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 198)
Biểu thị thời điểm hiện tại
Các từ chưa được sử dụng trước đó: 红今(hiện nay), 目今(trước mắt), 本月
(tháng nay), 本日(hôm nay)
Các từ có tính kế thừa: 今生(kiếp này), 今昔(xưa và ngay), 今年(năm nay),
今红(năm này), 今春(mùa xuân này), 今冬(mùa đông này), 今日(hôm nay), 今
早(sáng nay), 今晨(sáng sớm), 今晚(tối hôm nay), 今夕(chiều hôm nay), 今夜
(đêm hôm nay), 如今(hiên giờ), 当下(lập tức), 目下(hiện nay), 目前(hiện nay),
红在(bây giờ), 本年(năm nay). . .
Từ ―今早‖ biểu thị ―sáng hôm nay‖, như:
(71) Sớm hôm nay ông nội có sai người mang một bức thư do bọn hầu nhở ở
bên ngoài đưa vào.
今早红红那里打红人红了一封红子来〃外红小子红红红来的。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 118, tr 892)
58
Các từ ―如今‖, ―红今‖ đều biểu thị ―hiện tại, trước mắt‖, nhưng cách dùng thì
có đôi chút khác biệt, ―如今‖ biểu thị người nói muốn so sánh với tình hình trước
đó; Còn ―红今‖ đa phần chỉ đơn thuần tập trung miêu tả tình hình hiện tại:
(72) Nay bà lớn đứng làm chủ.
如今太太硬作主红。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 102, tr 861)
(73) Đã vậy thì hiện nay, Bảo Ngọc ở đâu, chắc tiên ông biết rõ.
既然如此〃红今宝玉的下落〃仙红定能知之。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 102, tr 863)
―目下‖ ―目今‖ sử dụng hoàn cảnh hiện tại ẩn dụ thời gian hiện tại:
(74) Càng nghĩ càng thấy chẳng thú vị gì; xét cho cùng, bây giờ chỉ có vài
người, mà mình không thu xếp cho êm thấm, thì sau này còn làm gì nên thân?
再红想来〃目下不红红两个人〃尚未红酬妥红〃将来犹欲红何<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 22, tr 288)
(75) Nay xảy tai vạ, may nhờ trong nhà mình có tiền lại được phủ Giả giúp sức,
nên mới có hy vọng.
目今红出红红事来〃红得家里有红〃红府出力〃方才有了指望。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 91, tr 462)
―本年‖, ―本月‖, ―本日‖ dùng để chỉ năm, tháng, ngày trong văn cảnh, nên
cũng có liên quan đến ―hiện tại‖
(76) Hồi này có thể gọi là hồi “vạch chuyện nhảm”, chuyện xảy ra đúng giờ
này, ngày này, tháng này, năm này, nơi này, triều đại này.
红一回就叫作《红红红》〃就出在本朝本地本年本月本日本红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 54, tr 747)
59
Chỉ thời điểm tƣơng lai
Các từ chưa từng xuất hiện trước đó: 下年(sang năm), 明天(ngày mai), 日后
(sau này), 大后日(ngày kia), 明午(trưa mai), 翌午(chiều mai), 次早(sáng mai),
次晨(sáng mai), 次夜(tối mai).
Các từ kế thừa từ trước: 明年(sang năm), 明红(năm tới), 明春(sang năm
mùa xuân), 明日(ngày mai), 明早(sáng mai), 明晨(sáng mai), 翌日(ngày hôm
sau), 来生(kiếp sau), 来年(năm sau), 来春(sang năm mùa xuân), 来日(ngày sau),
后来(sau này), 后世(hậu thế), 后红(đời sau), 后日(sau nay), 以后(sau nay), 将
来(tương lai), 下月(tháng sau), 次日(mai), 次月(tháng sau), 次年(năm sau). . .
Các tổ hợp từ đơn vị thời gian cấu thành bằng từ tố ―次‖: ―次月‖, ―次日‖,
―次早‖, ―次晨‖, ―次夜‖. Các từ trên đều lấy một mốc thời gian nào đó làm điểm
tham chiếu, chỉ tháng thứ 2 (ngày thứ 2, sáng thứ 2, đêm thứ 2) của thời gian hay
hành động được nói tới. Nếu lấy thời gian nói làm điểm tham chiếu sẽ thấy chúng
đều chỉ thời tương lai; nếu lấy một sự việc làm mốc tham chiếu thì từ ―次 X‖ này
chỉ thời gian đối lập về sau. Cách dùng ―次日‖, ―次年‖ xuất hiện từ sớm:
(77) Sáng sớm hôm sau, Vũ Thôn sai người mang hai gói bạc, bốn tấm gấm đến
tạ ơn vợ họ Chân.
至次日〃早有雨村遣人送了两封红子〃四匹红红〃答红甄家娘子。
60
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 2, tr 27)
(78)Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột.
于次年春分红日晒干〃和在红末子一红〃一红研好。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 7, tr 102)
Hồng Lâu Mộng cũng có một số từ có từ tố ―次‖:
(79) Hôm sau, Giả Chính vào cung tạ ơn, và đến các phủ Bắc Tĩnh và Tây Bình
lạy tạ, xin hai vương gia xét thương anh và cháu mình.
次早红政红内红恩〃并到北静王府西平王府两红叩红〃求两位王红照红他
哥哥侄儿。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 106, tr 659)
(80) Sáng hôm sau tuy có người nhà trở về, nhưng ai nấy đều nói: Tìm khắp nơi
không thấy bóng dáng đâu cả.
次日天明〃虽有家人回来〃都红没有一红不红到〃红在没有影儿。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 119, tr 838)
―次早‖, ―次夜‖, ―次晨‖ là những sinh ra theo kiểu cấu trúc ―次日‖, ―次月‖,
―次年‖, xuất hiện chậm hơn một chút.
―下年‖ cũng xuất hiện muộn hơn ―上年‖, chỉ ý nghĩa ―năm sau‖ và trong tác
phẩm chỉ có một lần sử dụng.
(81)Một hôm qua vừa gặp ngày thanh minh Giả Liễn sắm sửa đồ lễ thường năm,
61
dẫn Giả hoàn, Giả Tôn, Giả Lan đến chùa Thiết Hạm tế lễ đốt vàng.
可巧红日乃是清明之日〃红红已红下年例祭祀〃红红红红, 红琮, 红红三人
去往红红寺祭柩红红。 (Hồng Lâu Mộng, , hồi thứ 58, tr 809)
2. 5. 3. Cấu trúc kiểu số lƣợng
Cấu trúc kiểu số lượng chủ yếu là:
từ chỉ thứ tự + từ chỉ đơn vị thời gian
Cấu trúc này biểu thị giờ, ngày, tháng, năm trong lịch pháp. Vì thiên can, địa
chi có thể biểu thị thứ tự, nên ở đây chúng tôi có thể coi thiên can, địa chi như từ
chỉ thứ tự. Cấu trúc ―từ chỉ thứ tự+từ chỉ đơn vị thời gian‖ vừa có thể biểu thị ngày
tháng năm nào đó vừa có thể kết hợp với tổ hợp thời gian lớn hoặc nhỏ để tạo thành
một cấu trúc chỉ thời gian của giờ, ngày, tháng hay năm nào đó. Các từ ―正月‖, ―腊
月‖ chỉ ―tháng 1‖, ―tháng 12‖, chúng tôi cũng có thể coi đó là một kiểu thứ tự.
Chúng tôi căn cứ vào độ chính xác của cấu trúc biểu thị thời gian để phân chia các
hình thức biểu thị thời gian dưới đây.
Năm chính xác
Cấu trúc chỉ thời gian trong Hồng Lâu Mộng không biểu thị năm một cách
đơn độc, thường là thêm niên hiệu hoàng đế hoặc triều đại vào phía trước.
(82)Từ xưa đến nay, dù nhà Hán, nhà Đường, người ta cũng còn chê là “Đường
dở, Hán thổi” nữa là nha chúng ta.
从古至今〃红红朝和唐朝〃人红红红唐臭红〃何况咱红红宗人家。
62
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 63, tr 45)
Tháng chính xác
数+月(số từ+tháng)
Chủ yếu là cấu trúc:
Hiếm thấy cách dùng địa chi hay niên hiệu hoàng đế để thêm vào trước tháng:
(83)Nay mới nửa tháng chín, còn bốn năm tháng nữa, lo gì bệnh chẳng chữa
khỏi.
如今才九月半〃红有四五个月的工夫〃什么病治不好呢<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 11, tr 144)
Ngày chính xác
Nhiều nhất là cấu trúc:
―数+月+数+日(số từ+tháng+số từ+ngày)
Cấu trúc này đôi khi còn chính xác đến từng giờ, và cấu trúc dạng này cũng
không bị thêm niên hiệu hoàng đế hay tên năm vào phía trước, cách sử dụng can
chi để ghi ngày cũng hiếm gặp:
(84)Năm ấy là năm Giáp Dần, tiết Lập xuân vào ngày mười tám tháng mười
hai, mà ngày Nguyên phi mất là ngày mười chín tháng mười hai, theo thời tiết thì
đã qua năm Mão tháng Dần, thọ mười ba tuổi.
是年甲寅年十二月十八日立春〃元妃薨日是十二月十九日〃已交卯年寅月〃
存年四十三红。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 95, tr 521)
第/初+数+日(đệ/sơ+số từ+nhật)
Ngoài ra còn có cấu trúc:
63
Đây cũng là cấu trúc để biểu thị thời gian, ví dụ:
(85)Bà Cả bảo hỏi mợ Hai, nay đã đến ngày thứ ba rồi, mà trong này còn rối
beng, cúng cơm rồi còn bắt bà con chờ hay sao?
大太太的红红二奶奶〃今儿第三天了〃里红红很乱〃供了红红叫红戚红等着红<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 101, tr 593)
Cũng có trường hợp sử dụng cấu trúc ―…tháng…ngày‖:
(86)Chỉ vì cô lớn sinh ngày mồng một tháng giêng nên đặt là Nguyên Xuân,
nên các cô sau cũng đặt theo chữ “Xuân”.
红今大小姐是正月初一日所生〃故名元春
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 2, tr 36)
Phía trên đa phần là sử dụng các hình thức diễn đạt có sẵn. Cấu trúc kiểu này
trong tiếng Hán hiện đại và cổ đại đều là từ có phạm vi lớn ở phía trước, từ có
phạm vi nhỏ hơn ở phía sau, hay là thời gian phía trước phải bao hàm thời gian phía
sau. Tạ Tín Nhất trong công trìnhThời gian và hình tượng trong tiếng Trung đã chỉ
rõ: ―Do khách thể được đặt trong mối quan hệ chỉnh thể - bộ phận liền mạch của
tiếng Hán vốn có thứ tự ngữ pháp đặt bộ phận chỉnh thể lên phíatrước, ngược lại
với tiếng Anh. Nguyên nhân là khi tiếng Hán miêu tả khách thể thì có xu hướng
hướng tới khách thể(tiếng Anh thì ngược lại), khách thể được miêu tả nằm trong
một khách thể khác lớn hơn nó, nên tiếng Hán phải hướng tới khách thể lớn đó
trước rồi mới hướng đến khách thể nhỏ hơn cần miêu tả, nói cách khác là tiếng Hán
tìm hiểu chỉnh thể trước khi tìm hiểu bộ phận‖.
Giờ chính xác
Cấu trúc:
từ chỉ thứ tự + lượng từ đơn vị thời gian
64
Trong đó, lượng từ đơn vị thời gian gồm ―红‖, ―更‖, ―刻‖, ―鼓‖…như:
(87)Đến canh hai Phong Túc mới về vui mừng hớn hở.
那天红二更红〃只红封红方回来〃红天喜地。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 2, tr 17)
(88)Đêm chừng đã sang canh hai, tuồng hát đang diễn tích “Bát nghĩa quan
đăng”.
当下天未二鼓〃红演的是《八红》中《红灯》八出。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 54, tr 739)
(89)Hôm sau là ngày hai mươi sáu tháng tư, đến giờ mùi, là sang tiết Mang
至次日乃是四月二十六日〃原来红日未红交芒种红。
chủng.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 27, tr 751)
Từ ―唱‖ rất đáng chú ý, tác phẩm thời điểm thời đoạn trong Hán ngữ cổ đại
của Heliang cho rằng từ ―唱‖ và từ ―唱卯‖ về sau có liên quan với nhau, trong
Hồng Lâu Mộng cũng có hai lần xuất hiện từ ―唱‖, hơn nữa đều chỉ ―红唱‖:
(90)Này chùa Lũng Thúy hồi chuông, Đạo Hương gà đã gáy dồn xóm kia.
红红红翠寺〃红唱稻香村。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 76, tr 246)
(91)Nghìn dặm chày vang khi giặt lụa, Nửa vừng gà giục lúc dòn canh.
一片砧敲千里白〃半红红唱五更残。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 49, tr 660)
65
Cách dùng từ ―唱‖ trong Hồng Lâu Mộng không giống như các lượng từ đơn vị
thời gian ―thời‖, ―canh‖, ―khắc‖, ―cổ‖…, do đó chúng tôi đã phân tích nó là cách
―dùng hành động có quy luật của động vật để diễn đạt thời gian‖, chứ không nằm
cùng với tập hợp lượng từ đơn vị thời gian.
Cấu trúc bao hàm biểu thị thời điểm: do hai tổ hợp từ biểu thị thời gian hợp
thành, trong đó thành tố phía sau bao hàm trong ý nghĩa thời điểm của thành tố phía
trước:
(92)Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh ấy.
红知我昨日晚上红了红两句〃倒像我又到了那个地方去了。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 48, tr 651)
(93)Một hôm, vào trung tuần tháng mười, Bảo Ngọc ngủ dậy, định đi học.
那红已到十月中旬〃宝玉起来要往学房中去。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 89, tr 438)
Các ví dụ trên đều là kiểu cấu trúc: ―từ phức+từ phức‖, Hồng Lâu Mộng còn
có kết cấu ―từ đơn + từ phức‖ như vậy, như ―昨晚上‖:
(94)Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào.
我昨晚上的红竟红红了〃怪道老红红我是‗管红蠡红‘。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 36, tr 481)
2. 5. 4. Cấu trúc giới tân
Nghiên cứu từ góc độ quan hệ với sự vật, thời điểm thực tế có thể phân thành
thời gian khởi điểm của việc phát sinh hành động(起红), thời gian tiếp diễn(当
红)và thời gian kết thúc(止红). Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung phân tích cấu trúc
66
biểu thị thời gian với tính chất là giới từ. Cần phải giải thích rằng trong Hồng Lâu
Mộng khi các giới từ chỉ việc khởi điểm của thời gian như ―自‖, ―自从‖…xuất hiện
thì sẽ có một thành tố chỉ thời gian kết thúc, tạo thành một đoạn thời gian; trong
trường hợp không có thời gian kết thúc rõ ràng, chúng tôi cần phải coi khoảng thời
gian mà tác giả mô tả là một mốc thời gian hàm ẩn, và trường hợp này cũng được
coi là một cấu trúc biểuthị thời gian liền mạch. Vậy nên, chúng tôi chỉ tập trung
phân tích cấu trúc giới tân biểu thị thời gian hànhđộng tiến hành và thời gian hành
động kết thúc.
2. 5. 4. 1. Thời gian hành động tiến hành
Các giới từ thường dùng trong cấu trúc giới tân miêu tả thời gian hành động
tiến hành trong Hồng Lâu Mộng như ―当‖, nhưng phó từ ―正‖ cũng xuấthiện theo
cấu trúc này để biểu thị thời gian hành động tiến hành, chúng tôi sẽ cùng phân tích
cả hai từ này:
(95) Đương lúc nói chuyện thì vẳng nghe tiếng sáo réo rắt ở đằng xa.
正红红〃只听笛韵悠红起来。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 76, tr 243)
Hồng Lâu Mộng còn có cấu trúc biểu thị thời gian do các từ ―正‖, ―当‖kết hợp:
(96) Anh nói cũng phải, nhưng việc này quan hệ đến mạng người. Ta nhờ ơn vua
được phục chức về đây, chính là lúc phải hết lòng báo đáp, có nhẽ nào vì việc tư
mà trái phép công?
〃 但事关人命〃蒙皇上隆恩〃起复委用〃红是重生再造〃正当红心竭力红红之红 〄〄
红可因私而红法< (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 4, tr 55)
Hồng Lâu Mộng có một trường hợp dùng từ ―红‖để biểu thị ―đúng vào lúc…‖:
(97) Lúc đó Bảo Thoa ở trong buồng trên cũng xuống, Thám Xuân vội đứng dậy
mời ngồi.
67
红红宝红也从上房中来〃探春等忙起身红坐。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 55, tr 759)
2. 5. 4. 2. Thời gian hành động kết thúc
Các giới từ trong cấu trúc giới tân biểu thị thời gian hành động kết thúc thường
gặp có ―到‖, ―及‖, ―及至‖ , ―比及‖, ―及到‖, ―至‖, ―等到‖…:
(98)Đến ngày hôm sau, Giả Trân qua thu xếp mọi việc
到了次日〃红珍红来料理红事。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 88, tr 429)
(99)Hỏi đau ở chỗ nào thì Bảo Ngọc cũng không nói.
及至红他那里不舒服〃宝玉也不红出来。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 95, tr 657)
(100)Lúc đó Bảo Thoa nghe Bảo Ngọc khóc ầm lên, liền đi ra. Khi đến nơi thì
thấy anh ta lại cười.
那红宝红听红宝玉大哭〃也出来了〃及到跟前〃红他又笑。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 111, tr 733)
Đặc biệt, Hồng Lâu Mộng còn có một kiểu cấu trúc biểu thị thời gian khác,
cấu trúc này không biểu thị thời gian bắt đầu, tiến hành hay kết thúc, mà tiệm cận
một thời gian nào đó, kiểu này thường dùng ―近‖, ―将近‖, ―红近‖ ở đằng trước để
làm mốc:
(101) Chừng canh ba, Phượng Thư đang thiu thiu, giở ngủ giở thức, bỗng thấy
rùng mình tỉnh dậy, càng nằm càng thấy trong mình rờn rờn.
将近三更〃红姐似睡不睡〃红得身上寒毛一乍〃自己惊醒了〃越躺着越红起
68
渗来〃因叫平儿秋桐红来作伴。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 88, tr 431)
2. 5. 5. Kiểu chính phụ
Dựa vào sự khác nhau về đặc điểm chính phụ trong cấu trúc biểu thị thời gian,
chúng tôi chia cấu trúc loại này thành 4 loại:
2.5. 5. 1.Từ chỉ thời điểm + từ chỉ thời điểm
Loại cấu trúc này trong Hồng Lâu Mộng chủ yếu là do hai từ tố biểu thị thời
gian hợp thành, trong đó thời điểm của từ tố phía sau được bao hàm trong thời điểm
của từ tố phía trước. Ví dụ:
(102) Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh
ấy.
红知我昨日晚上红了红两句〃倒像我又到了那个地方去了。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 48, tr 652)
(103) Một hôm, vào trung tuần tháng mười, Bảo Ngọc ngủ dậy, định đi học.
那红已到十月中旬〃宝玉起来要往学房中去。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 89, tr 439)
Các ví dụ trên đều là kiểu cấu trúc: ―từ phức+từ phức‖, Hồng Lâu Mộng còn có
kết cấu ―từ đơn+từ phức‖ như vậy, như ―昨晚上‖:
(104) Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào.
我昨晚上的红竟红红了〃怪道老红红我是‗管红蠡红‘。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 36, tr 479)
2. 5. 5. 2. Đại từ + từ chỉ thời gian
Cấu trúc biểu thị thời gian loại này thường có cấu tạo: ―红/那/此/彼+红红红
红‖: 红一日, 那一日, 红一天, 彼一红, 此一红…
69
(105)Mi đừng nói dối, vừa mới hôm nào, ở nhà bà ta, trong lúc vắng người, mi
ôm nó làm gì?
你别弄鬼〃那一日在老太太屋里〃一个人没有〃你红着他作什么<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 15, tr 186)
Trong tác phẩm còn có cấu trúc ―红+thời gian cụ thể‖, biểu thị một ngày nào đó
trong tháng:
(106)红是你哥哥昨儿在红上红班儿〃红知红五日一班〃竟偏冷淡〃一个
外红没红。
Anh có trực nhật ở ngoài cửa suốt năm ngày chẳng vớ được món bổng nào.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 60, tr 835)
2. 5. 5. 3. Những kiểu cấu trúc NP/VP+之年/之日/之时/之候/期
Ở đây, đều kế thừa từ thời kỳ cổ đại của Trung Quốc, nhưng rất dễ để nhận ra
rằng cách biểu đạt ―NP/VP+之日(之期)‖ này chiếm địa vị chủ đạo, hai cấu trúc
―NP/VP+之年/之辰‖ chỉ xuất hiện có một lần. Ví dụ:
(107) Tôi nghĩ trước kia được ơn trời, nhờ tổ, mặc đẹp, ăn ngon, mà phụ công
nuôi dạy của cha mẹ, trái lời răn bảo của thầy bạn, đến nỗi ngày nay một nghề
không thành, nửa đời long đong, nên muốn đem những chuyện đó chép thành một
bộ sách bày tỏ với mọi người.
当此〃红自欲将已往所红天恩祖德〃红衣红袴之红〃红甘红肥之日〃背父
兄教育之恩〃红红友红红之德〃以至今日一技无成〃半生潦倒之罪〃红述一集〃
以告天下人。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 9)
70
Cách dùng ―NP/VP+期(之期)‖ tuy không phổ biến bằng ―NP/VP+之日‖
(108) Ngày 19 là ngày hoàng đạo, tôn huynh nên đáp thuyền đi ngay. Chờ khi
nhưng vẫn thường xuyên xuất hiện. Ví dụ:
cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau, há không phải là
又云:―十九日乃黄道之期〃兄可即红舟西上〃待雄红高红〃明冬再晤〃红非大快
之事耶=‖ (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 14)
một việc rất vui sướng hay sao?
Trong Hồng Lâu Mộng chỉ có một lần xuất hiện cách dùng ―之月‖, hơn nữa chỉ
là xuất hiện trong trích dẫn về Chu Lễ.
2. 5. 5. 4.NP/VP+ từ biểu thị thời gian
Hà Lượng trong công trình ―Nghiên cứu thời điểm thời đoạn trong Tiếng Hán
cổ đại” đã cho rằng từ biểu thị thời điểm được đặt phía sau từ hoặc một cụm từ,
biểu thị ý nghĩa thời điểm; không nằm trong hệ thống đo lường thời gian, không thể
trở thành từ đơn vị chỉ đoạn thời gian, không thể xuất hiện trong cấu trúc ―số
từ+X‖.
Chúng tôi cho rằng, ngoài những đặc điểm nêu trên, từ biểu thị thời điểm còn
có những đặc trưng: đứng trước từ biểu thị, bản thân cấu tạo của nó không có ngữ
tố chỉ thời gian, tham gia vào tập hợp từ biểu thị thời gian, khiến cấu trúc này có
chức năng biểu thị thời gian.
―红(之红)‖, ―红候‖, ―之候‖, ―之红‖, ―红红‖; những từ mà trước đó không có như ―红
Từ biểu thị thời điểm trong Hồng Lâu Mộng kế thừa từ tiếng Hán cổ gồm có:
分‖, ―天气‖, ―光景‖, ―红辰‖. Chức năng của các từ ―天气‖, ―光景‖, ―红辰‖ không
hoàn toàn chỉ để biểu thị thời điểm, sự xuất hiện của nó chịu khá nhiều sự chi
phối, những thành phần khác nếu đứng trước ―光景‖, ―红辰‖, ―天气‖ thì sẽ có
71
chức năng biểu thị thời gian.
- 之红 (đang lúc)
Sự xuất hiện của ―之红‖ với tư cách là một từ biểu thị thời gian là rất sớm,
Đổ Tường ở năm 2002 đã nhận xét ―红‖ là từ biểu thị thời gian, lí do là nó biểu thị
hàm ý thời gian trong không gian. Nhưng trong thời kỳ ra đời của Hồng Lâu Mộng
thì cách dùng từ kiểu này đã hết thời, ―之红‖ với ý nghĩa biểu thị thời điểm trong
(109)Một hôm, nó đương than phiền chợt thấy một nhà sư, một đạo sĩ, cốt cách
tác phẩm xuất hiện rất ít.
phong độ khác thường, cười cười nói nói, từ đàng xa đi đến bên núi Thanh Ngạnh,
一日〃正当嗟悼之红〃俄红一僧一道红红而来〃生得骨格不凡〃丰神迥异〃红红
笑笑来至峰下〃坐于石红高红快红。
rồi ngồi bên hòn đá nói chuyên.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 8)
- 红(之红_tới thời)
Cấu trúc biểu thị thời điểm loại này khá phổ biến trong Hồng Lâu Mộng, Đổ
Tường(2002)đã cho rằng từ biểu thị thời gian ―红‖ được hình thành do hàm ý
―mùa‖ của nó. Hơn nữa bắt đầu từ thời Nam Tống thì ―红‖ đã được song âm tiết
(110)Khi xưa Nữ Oa luyện đá vá trời ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện
hóa để trở thành ―红候, 红红‖…
được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng,
原来女红氏红石红天之红〃于大荒山无稽崖红成高红十二丈〃方红二十四丈红石
72
vuông hai mươi bốn trượng.
三万六千五百零一红。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 9)
(111)Tập Nhân nuốt tủi vái chào mọi người, khi các chị em chia tay, rất nhiên
于是〃红人含悲叩辞了众人〃那姐妹分手红自然更有一番不忍红。
càng đau xót.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 120, tr 861)
-红红(tiết; vụ; mùa)
Từ ―红红‖ trong thời cổ đại chỉ là tổ hợp danh từ thời gian, không thể coi nó là
từ biểu thị thời điểm. Đến nhà Đường thì xu hướng dùng ―红红‖ như một từ biểu
thị thời điểm đã trở nên phổ biến. Trong Hồng Lâu Mộng, từ ―红红‖ xuất hiện khá
linh hoạt, vừa có thể nằm cuối trong kết cấu danh từ, vùa có thể nằm cuối trong kết
(112)Khi đi học thì cậu nghĩ đến sách, khi nghỉ thì nghĩ đến nhà, nhất là đừng
cấu động từ. Có thể kết hợp với cả tổ hợp từ thời gian và tổ hợp từ phi thời gian.
只是念红的红红想着红〃不念的红红想着家些。别和他红一红红红〃碰红老红
不是红的。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 9, tr 129)
(113)Nay đang vào tiết đầu xuân, muôn vật đổi mới, đáng nên hăng hái dựng
đùa nghịch với ai, ông biết thì không phải chuyện chơi đâu.
如今正是初春红红〃万物更新〃正红鼓舞另立起来才好。
lại mới phải.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 70, tr 147)
(114)Anh còn trẻ tuổi, nhờ bố mẹ ăn mặc đầy đủ quen rồi, nên mới thấy thế đã
-“的”红候(lúc;khi)
73
khó chịu.
你皆因年小的红候〃托着你那老家之福〃吃喝红了〃如今所以把持不住。
(115)Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi người
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 87)
那天气已是掌灯红候〃出来又看他红红了一回牌。
đánh bài.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 7, tr 98)
- 红分(lúc)
Cách dùng ―红分‖ trong Hồng Lâu Mộng đa phần là nằm phía sau từ chỉ thời
(116)Lúc lên đèn, Phượng Thư bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng Vương
gian, chỉ có một ngoại lệ là ―掌红红分‖.
phu nhân thưa chuyện: Hôm nay nhà họ Chân mang biếu mấy thứ quà, con đã
至掌灯红分〃红姐已卸了红〃来红王夫人回红:―今儿甄家送了来的红西〃我已
收了。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 7, tr 101)
(117)Các tân khách từ tước công, tước hầu, tước bá, tước tử, tước nam, lần
nhận cả rồi.
从公侯伯子男一起一起的散去〃至未末红分方才散尽了。
lượt ra về, đến cuối giờ mùi mới hết.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 15, tr 189)
- 天气(thời gian)
―天气‖ nằm ở phía sau từ ngữ biểu thị thời điểm, cách sử dụng, cách dùng này
không chỉ được thấy trong Hồng Lâu Mộng, mà ở một số tác phẩm cùng thời như
(118)Hôm ấy đã đến canh tư, vẫn không được tin gì về Bảo Ngọc cả.
74
Nữ nhi anh hùng truyện cũng xuất hiện:
看看那天已红是四更天气, 并没有个信儿。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 119, tr 841)
- 光景 (khoảng chừng)
Từ ―光景‖ trong Hồng Lâu Mộng có thể đứng ở sau thời điểm, cũng có thể
(119)Độ được nửa tháng, chị ta giả cách ốm, nói là đau bụng quá đỗi, chân tay
đứng sau thời đoạn, tại đây chúng tôi chỉ nói về trường hợp biểu thị thời điểm:
半月光景〃忽又装起病来〃只红心疼红忍〃四肢不能红红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 80, tr 311)
(120)Thấm thoắt đã hai tháng.
眼红已是两个月光景。 (Hồng Lâu Mộng, Hồithứ 65, tr 82)
cứng đờ, chữa mãi không khỏi.
Từ ―光景‖ có thể biểu thị ―thời gian‖, do đó nó cũng tham gia vào cấu trúc
biểu thị thời gian, như ―三年光景‖. Cách sử dụng này cũng có mặt trong Hồng Lâu
Mộng . Chúng tôi phán đoán rằng ―光景‖ cũng có chức năng của từ biểu thị thời
điểm trong Hồng Lâu Mộng, do nó có hàm ý của ―thời gian lúc tối lúc sớm‖
- 红辰(lúc, thời cơ)
―红辰‖ cũng xuất hiện một lần trong ―Hồng Lâu Mộng‖, nhưng do cách
(121)Lúc Đại Ngọc tắt thở, chính là giờ ăn cưới của Bảo Thoa.
当红黛玉气红〃正是宝玉娶宝红的红个红辰。
dùng của nó khá đặc biệt, nên chúng tôi cũng coi nó như một từ biểu thị thời điểm:
75
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 98, tr 563)
Cách dùng ―红辰‖ trong ví dụ ở trên không giống những đơn vị đo thời gian
bình thường khác (thời cổ đại cứ 2 giờ đồng hồ thì bằng 1 红辰), trong ví dụ ―红个
红辰‖ thì có nghĩa tương đương với ―đến lúc ấy‖. ―红辰‖ có tác dụng biểu thị ―thời
(122)Những người theo hầu ta hàng ngày đều có đồng hồ. Trong buồng nhà
khắc, thời gian‖:
trên cũng có đồng hồ đánh chuông, nên bất cứ việc lớn hay nhỏ, phải có thì giờ
素日跟我的人〃随身自有红表〃不红大小事〃我是皆有一定的红辰。
nhất định.
(123)Chuỗi tiền này chơi chưa đầy nửa giờ, tiền ở trong hòm đã vẫy tay gọi.
红一吊红红不了半个红辰〃那里红的红就招手儿叫他了。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 14, tr 175)
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 47, tr 642)
Chúng tôi nhận thấy ―红辰‖và―光景‖ đều có thể biểu thị ―thời gian, ngày
đêm‖, đồng thời cũng trên những cơ sở ý nghĩa này mà có thêm chức năng biểu thị
thời điểm.
2. 5. 6. Kiểu phƣơng vị
Cấu trúc biểu thị thời gian kiểu phương vị chỉ từ ngữ hoặc cấu trúc kết hợp với
phương vị từ, từ đó có thể biểu thị thời gian, thời điểm
Các từ phương vị xuất hiện trong cấu trúc biểu thị thời gian có: ―前‖, ―后‖,
―前后‖, ―初/之初‖, ―末‖, ―红‖, ―中‖, ―中红‖…
Các từ biểu thị thời gian thuộc loại ―前‖, ―后‖ vừa biểu thị thời gian, vừa biểu
76
thị thời đoạn, do đó chúng tôi căn cứ vào ý nghĩa trong văn cảnh và câu trả lời cho
câu hỏi ―lúc nào‖ hay ―bao lâu‖ để phán đoán chúng thuộc loại thời điểm hay thời
đoạn.
Cấu trúc ―NP/VP+前/以前/后/以后‖, ―前/后+thời đoạn‖có thể biểu thị thời
điểm và cũng có thể biểu thị thời đoạn. Chúng tôi căn cứ vào ý nghĩa trong văn
cảnh và câu trả lời cho câu hỏi ―lúc nào‖ hay ―bao lâu‖, động từ phía sau có tính
tiếp diễn hay không … để phán đoán chúng thuộc loại thời điểm hay thời đoạn. Ở
đây chúng tôi chỉ tập trung làm rõ cách dùng biểu thị thời điểm trong Hồng Lâu
Mộng của loại cấu trúc này.
2. 5. 6. 1. 前 (trước)
Cấu trúc biểu thị thời điểm loại này trong Hồng Lâu Mộng như sau: ―NP/VP+
前‖và―前+thời đoạn‖
NP/VP+前
Trong tập hợp cấu trúc ―NP/VP+前‖, dễ phát sinh tranh luận biểu thị thời điểm
(124)Còn nhớ một buổi chiều năm nào, chúng ta ngồi ở gác bên tây nói chuyện
hay biểu thị thời đoạn là cấu trúc ―thời đoạn+前‖:
你红红得十年前〃咱红在西红暖红住着〃晚上你同我红的红儿<
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 32, tr 431)
(125)Chị đừng nghĩ đến người hiện giờ ở đây, cứ nhớ lại việc năm năm về trước
với nhau không?
别只在眼前想〃姐姐只在五年前想就是了。
thì biết.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 65, tr 83)
77
Trong ví dụ (124) ―十年前‖, có thể trả lời cho câu hỏi ―lúc nào‖; đồng thời
trên cách hiểu thông thường, nói chuyện với nhau này đã xảy ra vào thời gian nào
đó trong ―十年前‖, chứ không phải là kéo dài trong ―十年‖, từ đó chúng tôi phán
đoán đây là thời điểm. Ví dụ (125) sử dụng trạng thái của chị ấy ―五年前‖ để so
sánh với ―hiện giờ‖, để cường điệu trạng thái của ―五年前‖, đồng thời cũng có thể
dùng ―vào lúc nào‖ để đặt câu hỏi cho cấu trúc này, do đó chúng tôi phân cấu trúc
này là chỉ thời điểm.
Ngoài ra, Hồng Lâu Mộng còn có cấu trúc biểu thị thời gian ―NP/VP+前+số
(126)Lại thấy chồng đã mắc bệnh lao, tạm thời chưa can gì, nên trước hôm
từ+từ đơn vị thời gian‖:
又红他女婿的病已成红症〃红且不妨〃只得坐夜前一日红来。
đưa đám một ngày thì cô ta sang.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 115, tr 716)
(127)Năm xưa khi tôi cùng tiên sinh trò chuyện ở trước cửa ngôi nhà cũ trong
Trong Hồng Lâu Mộng có cấu trúc biểu thị thời gian ―NP/VP+之前‖:
昔年我与先生在仁清巷旧宅红口叙红之前〃我已会红他一面.
ngõ Nhân Thanh, tôi đã gặp anh ta một lần.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 125, tr 861)
2. 5. 6. 2. 前 + Thời đoạn
Kiểu cấu trúc này trong Hồng Lâu Mộng vừa biểu thị thời gian vừa biểu thị
(128)Nhưng mấy hôm trước đây chấu nghe nói ông lớn trông coi tất cả mọi
thời điểm, chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề biểu thị thời điểm.
78
công trình xây dựng lăng tẩm nhà vua, cháu có mấy người bạn, trước đây đã từng
前几日听红老红红红陵工〃侄儿有几个朋友红红好些工程〃极妥当的。
làm nhiều công trình rầt là chu tất.
(Hồng Lâu Mộng, Hồithứ 88, tr 424)
Ví dụ trên căn cứ vào văn cảnh phía sau ―nghe nói‖, có thể biết được sự việc
này xảy ra tại một thời điểm, chứ không phải một thời đoạn. Điểm thời gian này là
một ngày nào đó trong khoảng mấy ngày trước đó đã được nói tới phía trước, do đó
(129)Cách đây mấy năm, vào tháng giêng, có một ông thấy bói ở tỉnh ngoài đến,
chúng tôi cũng coi trường hợp này là biểu thị thời điểm.
前几年正月〃外省荐了一个算命的〃红是很准。
có tiếng là bói rất tài.
(130)Mấy tháng trước đây, ngày nào nó cũng cứ đi chân không, bỏ xõa tóc làm
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 86, tr 398)
前几个月红里〃他天天蓬红赤脚的红红。
như con điên.
(Hồng Lâu Mộng, Hồithứ 103, tr 621)
Từ ―红里‖ trong ví dụ (129) biểu thị sự việc xảy ra trong khoảng trước nữa
của ―mấy tháng trước‖, và từ này cũng có thể trả lời cho câu hỏi ―vào thời gian
nào‖. Do vậy chúng tôi phán đoán đây là kết cấu biểu thị thời điểm.
Trong Hồng Lâu Mộng còn có kiểu biểu thị thời điểm kết hợp với từ phương
vị, như ―先一日‖, ―前一日‖, ―红一日‖… biểu thị ý nghĩa một ngày trước so với
(131) Lại thấy chồng đã mắc bệnh lao, tạm thời chưa can gì, nên trước hôm
thời điểm trước mắt:
79
đưa đám một ngày thì cô ta sang.
又红他女婿的病已成红症〃红且不妨〃只得坐夜前一日红来。
(132)Nguyên là Bảo Ngọc có một tâm sự riêng, hôm trước đã dặn Dính Yên:
原来宝玉心里有件私事〃于红一日就吩咐茗烟:―明日一早要出红〃红下两匹红在
后红口等着〃不要别一个跟着。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 43, tr 582)
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 115, tr 716)
2. 5. 6. 3. 后 (sau)
Cấu trúc ―后+thời đoạn‖ chỉ có một lần xuất hiện, hơn nữa lại biểu thị thời
(133) Từ đó Đại Ngọc càng ngày càng yếu dần. Sau độ nửa tháng, tỳ vị càng hư,
đoạn ước lượng. Chúng tôi chỉ nghiên cứu cách dùng ―NP/VP+后/之后/以后‖.
从此一天一天的减〃到半月之后〃红胃日薄〃一日果然粥都不能吃了。
(Hồng Lâu Mộng, Hồithứ 89, tr 441)
(134)Sau lại nghe nói ba ngày nữa Phùng công tử mới đến đón, Anh Liên tỏ vẻ âu
cháo cũng không ăn được nữa.
后又听红红公子令三日之后红红〃他又红有红愁之红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 4, tr 56)
(135)Họ có biết đâu Bảo Ngọc từ ngày gặp ông sư, đã muốn cắt dứt trần duyên.
他两个红不知道宝玉自会那和尚以后〃他是欲断红红。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 112, tr 862)
sầu.
80
Các sự kiện xảy ra về sau của những ví dụ phía trên, đều ở trong thời điểm sau
(136)Sau ba ngày, có tin về.
三日后果有回信。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 86, tr 343)
của ―NP/VP‖ phía trước.
Khi phân tích ý nghĩa ví dụ ―thời đoạn+后/以后‖ phía trên, ―có tin về‖ là ―sau
ba ngày‖, và thời gian ―có tin về‖ đó cũng rõ ràng là một thời điểm và chúng ta
cũng có thể lấy các thời điểm ―sau ba ngày‖ để trả lời cho câu hỏi ―khi nào‖. Do đó
chúng tôi cũng quy trường hợp này vào phạm trù thời điểm.
2. 5. 6. 4. 之初/初/末 (đầu, ngọn)
(137)Năm ấy cuối thu sang đông, trời sắp rét, trong nhà chưa có đồ mặc ấm, Cẩu
Cách biểu thị này trong Hồng Lâu Mộng không có nhiều.
因红年秋尽冬初〃天气冷将上来〃家中冬事未红〃狗儿未免心中红红〃吃了几杯
红酒〃在家红红气红〃刘氏也不敢红撞。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 86)
Nhi không khỏi buồn bực, uống vài chén rượu, đâm ra bẳn gắt.
2. 5. 6. 5. 时/中时/之时(giữa)
Cấu trúc ―红‖, ―中红‖, ―之红‖ biểu thị thời điểm vừa có thể biểu thị thời đoạn,
(138)Năm trước vì thấy ông ta làm quan ở Kinh, lại là người làng, xưa nay thân
ở đây chúng tôi chỉ phân tích yếu tố thời điểm.
thiết với nhau, lại thấy thằng con xinh xắn nên ở trong tiệc rược đã nói đến chuyện
旧年因红他就了京红〃又是同红的人〃素来相好〃又红那孩子红得好〃在席红原
提起红件事。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 36, tr 481)
81
này.
(139)Đương nói chuyện thì Bảo Ngọc về nói:- Cha chưa tan tiệc, sợ trời tối nên
红红之红〃只红宝玉等已回来〃因红他父红红未散〃―恐天黑了〃所以先叫我红
回来了。‖ (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 78, tr 283)
chúng con về trước.
Cấu trúc ―…中红‖: Phía trước thường là động từ hoặc một chủ ngữ có tính
chất động từ: ―红红中红‖, ―吃酒中红‖, ―嚷红中红‖, ―红叙中红‖… Chỉ có một ví
dụ là có cấu trúc mang tính chất danh từ: ―席面中红‖. Đặc biệt, cấu trúc biểu thị
thời điểm ―红‖, ―之红‖ phía trước có cả danh từ hoặc ngữcó tính chất danh từ (như
―年红红‖, ―席红‖, ―黑夜之红‖) hoặc động từ hoặc ngữ có tính chất động từ ―红红
红‖, ―正红红红‖, ―红红之红‖.
82
Tiểu kết:
Trên đây chúng tôi đã khảo sát các cách biểu thị thời điểm qua ba đặc điểm
chính: đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa, chức năng.
Hệ thống cách biểu thị thời điểm trong Hồng Lâu Mộng so với cách biểu đạt
thời gian của tiếng Hán cổ đại đã có một bước phát triển mới. Bước phát triển mới
này thể hiện chủ yếu ở các phương diện:
Đã có sự cải thiện trong khả năng kết hợp từ tố, phạm vi sử dụng rộng. Ví như
trong Hán ngữ cổ đại, các từ kết hợp với từ tố ―晚‖ có ―向晚‖và―晚来‖, nhưng
trong Hồng Lâu Mộng đã xuất hiện thêm nhiều từ có từ tố ―晚‖: ―晚黑‖, ―傍晚‖,
―晚上‖, ―晚红‖, ―晚夕‖… Hay tổ hợp với từ tố ―次‖ trong Hán ngữ cổ đại chỉ có
các từ tố ―年‖, ―月‖, ―日‖, đến Hồng Lâu Mộng lại có thêm ―次早‖, ―次晨‖, ―次
夜‖. Có rất nhiều từ biểu thị ―早晨‖ trong tiếng Hán cổ như ―黎明‖, ―清晨‖, ―平
旦‖, ―凌晨‖…, nhưng tuyệt nhiên không có từ nào có sự tham gia của từ tố ―早‖.
―早‖ trong tiếng Hán cổ thông thường xuất hiện với tư cách từ đơn âm. Sự xuất
hiện với tư cách song âm tiết được ghi nhận ở thời Đường, trong Hồng Lâu Mộng
có các từ như ―早上‖, ―一早‖, ―清早‖, ―早晨‖, ―早起‖.
Xuất hiện từ tố mới: Các từ trong tiếng Hán cổ dùng để biểu thị ―buổi trưa‖
có ―日中‖, ―正中‖…, nhưng không có từ nào có sự tham gia của từ tố ―午‖. Nhưng
trong Hồng Lâu Mộng lại có một số lượng lớn các từ có từ tố ―午‖ hợp thành để
miêu tả khái niệm thời gian: ―傍午‖, ―午前‖, ―晌午‖, ―正午‖, ―午后‖, ―午红‖, ―下
午‖… Đồng thời Hồng Lâu Mộng cũng tạo nên phong trào kết hợp với từ tố ―红‖,
83
―那‖ để tạo nên các từ ngữ biểu thị thời điểm.
Sự xuất hiện của từ mới: Từ chỉ thời gian tuyệt đối: ―新正‖, ―开正‖, ―年下‖,
―早晨‖, ―午红‖, ―晚上‖, ―午夜‖…Từ chỉ thời gian tương đối ―下年‖, ―明天‖, ―日
后‖, ―起初‖, ―前宵‖, ―前夜‖, ―昨前‖, ―红今‖, ―今午‖… Sự xuất hiện của các từ
mới có mối quan hệ chặt chẽ với nhận thức ngày càng cao về hệ thống thời gian và
nhu cầu sinh hoạt của con người.
Sự xuất hiện của cách biểu đạt mới. Như trước các từ ―清晨‖, ―清晨‖ thêm
từ ―大‖ để cường điệu thời gian ―buổi sáng‖. Cách biểu đạt này trong Hồng Lâu
Mộng còn có ―大半夜‖, ―大‖ lần này cường điệu thời gian đã khá muộn, có ý nghĩa
―đêm khuya‖. Hay còn có ―一大会‖, ―一大晌‖ để cường điệu sự kéo dài về mặt
thời gian của hiện tượng.
Có sự phát triển của từ biểu thị thời điểm. Đầu tiên, cách dùng các từ ngữ biểu
thị thời điểm kế thừa từ trước trong Hồng Lâu Mộng đã có nhiều sự thay đổi. Có
nhiều từ được sử dụng trong thời kỳ trước đó thì đến Hồng Lâu Mộng lại không
xuất hiện, như ―之会‖, ―次(之次)‖, hay ít xuất hiện. Như cách sử dụng từ ―(红)
之红‖ trong tiếng Hán cổ đại xuất hiện rất nhiều, nhưng đến cuối thời kỳ nhà
Đường thì bắt đầu ít sử dụng ―红‖ để biểu thị thời điểm, trong Hồng Lâu Mộng
cũng chỉ có 5 lần ―红‖ xuất hiện để biểu thị thời điểm; chỉ có từ ―红(之红)‖ là vừa
xuất hiện nhiều trong các tác phẩm cổ đại lại vừa xuất hiện nhiều trong Hồng Lâu
Mộng .
Tiếp đến là việc Hồng Lâu Mộng xuất hiện nhiều từ mới biểu thị thời điểm,
như ―红红‖, ―红候‖, ―红分‖, ―红辰‖, ―天气‖, ―光景‖… Trong đó ―红红‖ trong
84
tiếng Hán cổ đại thì phải kết hợp với danh từ chỉ thời gian, chứ chưa thấy nó kết
hợp với những danh từ loại khác, do vậy mà ―红红‖ trong tiếng Hán cổ đại không
thể coi là một từ biểu thị thời điểm, từ ―红红‖ với cách dùng là từ biểu thị thời
85
điểm phải đến thời nhà Đường mới trở nên phổ biến.
CHƢƠNG 3
KHẢO SÁT TỪ NGỮ BIỂU THỊ THỜI ĐIỂM TRONG
BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT HỒNG LÂU MỘNG
Trong chương này, luận văn tập trung khảo sát từ ngữ biểu thị thời điểm trong
tiếng Việt và phân tích từ ngữ biểu thị thời điểm trong bản dịch tiếng Việt Hồng
Lâu Mộng. Thông qua việc khảo sát, phân tích và lý giải bản địch các câu có chứa
từ ngữ biểu thị thời điểm trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng, luận văn bước đầu thống
kê các phương pháp dicḥ từ ngữ biểu thị thời điểm tiếng Hán sang tiếng Việt và đề
xuất một số điểm cần lưu ý và gợi ý trong quá trình bản dịch.
3.1. Vấn đề dịch Hồng Lâu Mộng tại Việt Nam
Có những tác phẩm văn học kết tinh văn hóa tin thần của một đất nước, phô
bày vẻ đẹp của một thứ tiếng, biểu hiện tài hoa của một dân tộc. Chúng chẳng
những trở thành niềm đam mê tự hào của dân tộc đó mà còn là chiếc cầu nối đem
lại bao nhiêu tình yêu và lòng kính trọng của các dân tộc khác. Hồng Lâu Mộng của
Tào Tuyết Cần là một tác phẩm như thế. Có lẽ vì thế mà trong khối lượng đồ sộ
tiểu thuyết đời Thanh, Hồng Lâu Mộng được nghiên cứu phổ biến, nhiều khía cạnh.
Thế nhưng, ý thức tư tưởng và ý thức xã hội phát triển đến đâu thì sự nghiên cứu và
khám phá tác phẩm sẽ phát triển đến đó. Cho nên, từ khi ra đời đến nay Hồng Lâu
Mộng nằm trong sự tiếp thu của người đọc từ môi trường này sang môi trường
khác, từ thời đại này sang thời đại khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Chính
điều này đã góp phần gợi mở và làm phong phú thêm cho bản thân tác phẩm, người
đọc yêu mến Hồng Lâu Mộng không ngừng gia tăng khiến cho những công trình
nghiên cứu, dịch thuật ngày càng trở nên đồ sộ, phong phú, đa dạng,..
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, ngôn
ngữ,văn tự...nhưng từ khi chữ quốc ngữ ra đời thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm và
việc dùng chữ Quốc ngữ để dịch lại các tác phẩm văn học cổ một cách thuận tiện
86
hơn nhưng điều này đã khiến cho thế hệ trẻ ngày nay gặp không ít khó khăn khi tìm
hiểu văn học cổ nước nhà, càng khó khăn hơn khi tiếp xúc với văn học Trung Quốc
nói chung và Hồng Lâu Mộng nói riêng.
Hồng Lâu Mộng xuất hiện ở nước ta từ cuối những năm 1960. Nhờ công sức
của rất nhiều dịch giả kể từ nhà nho khoa bảng lớp trước như cụ Bùi Kỷ đến các
nhà nho lớp sau như Nguyễn Đức Vân, có các bản dịch tiêu biểu sau:
Tào Tuyết Cần, Hồng Lâu Mộng (6 tập), Vũ Bội Hoàng - Nguyễn Thọ -
Nguyễn Doãn. Nxb Văn nghệ. Tp HCM,
Tào Tuyết Cần, Hồng Lâu Mộng (2 tập), Bùi Hạnh Cẩn – Ngọc Anh – Kiều
Liên. Nxb Văn học.
Hồng Lâu Mộng, đệ nhất tình thư của Trung Quốc xưa.
Mạn đàm về Hồng Lâu Mộng của Trương Khánh Thiện và Lưu Vĩnh Lương,
Nguyễn Phố dịch.
Có nhiều cuốn sách, nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời và sáng tác của
Tào Tuyết Cần một nhà văn tài năng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu
Mộng đã góp phần làm cho đời sống văn học Trung Quốc nói riêng, văn học nhân
loại nói chung trở nên sôi nổi. Với nhiều ý kiến về tác phẩm của ông, dù khen hay
chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt và có một giá trị nhất định.
3. 2. Đặc điểm của từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Việt
( đối chiếu với nguyên bản tiếng Hán Hồng Lâu Mộng)
Trong tiếng Việt, phần lớn những biểu thức thời gian mang tính thời điểm là
mệnh đề có nhiệm vụ định vị một thời điểm diễn ra sự việc và hành động xảy ra
trên trục thời gian. Thời điểm trên được người nói định vị dựa vào mức độ sáng tối,
quy luật tự nhiên của mặt trời ―chưa tỏ một người‖, ―mặt trời lên bằng con sào‖….
Sự định vị như vậy chủ yếu theo những cách thức dân gian, theo kinh nghiệm sống
ở mỗi vùng miền.
Những cách biểu thị thời gian có ý nghĩa thời điểm là mệnh đề nói trên tuy
không được xuất hiện và sử dụng rộng rãi trong đời sống sinh hoạt của người Việt
nhưng nó cũng nói lên được tính phong phú đa dạng của việc định vị thời gian cũng
như tập quán và thói quen sinh hoạt của người Việt, qua đó cũng cho thấy bản sắc
87
văn hóa dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Việt còn được chia thành nhiều
dạng như biểu thị thời điểm có ý nghĩa đối lập về thời, biểu thị thời điểm mang tính
tuyệt đối hay tương đối, . . . và được chúng tôi phân tích như sau:
3. 2. 1. Các cách biểu thị thời điểm có ý nghĩa đối lập về thời
Nói về quan niệm thời gian, chúng ta phân biệt thời đoạn và thời điểm; thời
gian xác định và thời gian của con người. Do vậy, con người còn chia thời gian ra
làm 3 loại: thời quá khứ, thời hiện tại và thời tương lai. Để thực hiện được cách
chia thời gian như trên, con người đã phải căn cứ vào một khoảng thời gian lấy làm
thời điểm hiện tại. Sau đó định vị tiếp thời điểm quá khứ và thời điểm tương lai.
Nói tới thời điểm quá khứ tức là chúng ta định vị sự việc ở một thời điểm cụ thể
xảy ra trước thời điểm nói. Nếu biểu diễn cả ba thời trên một trục thì chúng ta sẽ có
một trục thời gian cụ thể như sau:
Quá khứ Hiện tại Tương lai
Hôm qua Hôm nay Ngày mai
Xét ví dụ:
(140)Hôm nay mát trời, tôi cũng không tắm đâu. (Hiện tại)
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 31, tr 413)
也凉快〃那会子洗了〃可以不用再洗。 今儿 〄〄
(141)Hôm qua con thấy mẹ nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm. (Quá khứ)
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3, tr 42)
太太红的那红的〃想是太太红红了。 也并没有红昨日 〄〄
(142) Ngày mai tốt ngày, ta sẽ cho người đi đón. (Tương lai)
明日 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 80, tr 311)
88
是个好日子〃就接去。
Dựa vào tháng, nếu lấy tháng 8 làm thời điểm hiện tại (tháng này) thì tháng 7
(tháng trước) là thời điểm quá khứ và tháng 9 (tháng sau) trở đi làm thời điểm
tương lai. Tương tự đối với năm: Nếu ta căn cứ vào năm, và lấy năm nay làm hiện
tại thì năm ngoái trở đi là thời điểm quá khứ và sang năm trở đi là tương lai. Nếu
lấy lúc làm thời điểm thi lúc này là hiện tại, lúc trước trở đi là thời điểm quá khứ và
lúc sau trở đi là thời điểm tương lai [5, tr 339].
3. 2. 2. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa hiện tại
Khi chúng ta muốn diễn tả một hành động hay một sự việc nào đó trên trục
thời gian mà khoảng thời gian chúng ta nhắc tới gắn với thời điểm nói thì tính thời
điểm của hiện tại được xác lập. Ví dụ:
(143)Lúc này Bảo Ngọc vẫn còn mê man, bâng khuâng như mất cái gì.
彼红 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 86)
宝玉迷迷惑惑〃若有所失。
(144)Bây giờ anh lại làm bộ không chịu đến thăm họ, thành ra xa hẳn đi.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 92)
自然是你红拉硬屎〃不肯去红近他〃故疏红起来。 如今 〄〄
(145)Hôm nay bà đi qua tạt vào chơi, hay chủ ý đến đây có việc gì?
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 6, tr 89)
红是路红〃红是特来的? 今日 〄〄
Qua những ví dụ trên chúng ta thấy rằng tính thời điểm hiện tại của sự việc
được biểu thị một cách hiển ngôn. Người nói đã định vị mốc thời gian qua những
danh từ, danh ngữ mang nét nghĩa cụ thể về thời hiện tại như: bây giờ, lúc này, v. v.
Xét về mặt cấu tạo ngoài một số đại từ trực chỉ chỉ thời điểm hiện tại (bây giờ, giờ. .
. ), phần lớn các biểu thị thời điểm hiện tại là một danh ngữ, ví dụ: hôm nay, ngày
89
nay, tháng này, lúc này. Những danh từ, danh ngữ thời gian này qui chiếu một thời
điểm được coi là hiện tại đặt trong bối cảnh diễn ra sự việc, hành động. Đặc biệt
trong những biểu thị thời điểm hiện tại, chúng ta thường gặp một số những đơn vị
từ vựng có nghĩa thời gian (chỉ thời điểm nhất định) có tần suất sử dụng khá lớn.
Những từ này nhấn mạnh đến hiện tại của thời điểm, chẳng hạn các từ hiện, ngay , .
. . trong các kết hợp như hiện nay, hiện bây giờ, ngày lúc này, Chúng ta xét ví dụ
sau:
(147)Hiện giờ chưa ngại, tinh thần còn khá.
红且 〄〄
无妨〃精神红好呢。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 11, tr 148)
(148) Thám Xuân vội hỏi: “Thế ra cô Hình cũng đẻ ngay hôm nay à?
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 62, tr 21)
<我怎么就忘了。‖ 探春忙红:―原来邢妹妹也是今儿 〄〄
(149)Hiện nay cháu đang uống thuốc nhân sâm dưỡng vinh.
红是吃人参养荣丸。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3 , tr 41) 如今 〄〄
Trong những ví dụ trên thì sự kết hợp của các từ ngữ biểu thị thời gian chỉ thời
điểm với các danh từ có ý nghĩa thời gian như bây giờ, lúc này, hôm nay, . . . có tác
dụng nhấn mạnh hơn đến tính thời điểm hiện tại, mặc dù những danh từ này khi
chưa kết hợp với các từ chỉ thời gian cũng đã biểu hiện ý nghĩa thời điểm hiện tại
ngay trong bản thân ý nghĩa của từ.
Nói chung, tần xuất sử dụng của các đơn vị từ vựng có tính chất miêu tả nghĩa
thời điểm hiện tại như ―hiện‖ trong Hồng Lầu Mộng Việt là rất lớn. Trước hết, với
tư cách là những yếu tố cấu tạo từ, chúng xuất hiện trong những kết hợp kiểu như:
hiện giờ, hiện tại, hiện nay, biểu hiện ý nghĩa thời gian mà cụ thể là tính thời điểm
ở hiện tại.
90
3. 2. 3. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa quá khứ
Các biểu thị thời gian chỉ thời điểm quá khứ có mô hình cấu tạo chung là danh
từ chỉ thời gian + định từ quá khứ (hôm qua, ngày trước, năm đó, tháng vừa rồi. . .
). Dưới đây là một số ví dụ về các cách biểu thị này:
- Hôm + X (x = qua, trƣớc, đó, rồi, ấy. . . ):
(150) Hôm qua hắn đến nhờ tôi, tôi nghĩ việc ấy có to tát gì?
求我〃我想什么大事? (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 72, tr 178) 他昨儿 〄〄
(151) Hôm ấy không hề có người ngoài, thế thì ai để lộ chuyện này ra?
那日 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 74, tr 210)
并没一个外人〃红走了红个消息。
- Bữa + X (x = trƣớc, rồi, qua, đó. . . ):
(152) Chúng tôi không có cách gì, nên đến đây trình bà, hoặc cho chúng nó đi tu
hoặc là dạy bảo chúng nó ít bữa rồi đem cho người ta làm con nuôi.
〃红红 红在没法〃所以来求太太〃或者就依他红做尼姑去〃或教红他红一红 〄〄
别人作女儿去红。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 77, tr 263)
- Ngày + X (x = trƣớc, qua, ấy, đó, nọ . . . ):
(153)Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm
thân.
当日 〄〄
有你红红在红〃希红上我红的富红〃赶着相与的。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 80, tr 312)
- Tháng + X (x = trƣớc, qua, ấy, đó, . . . ):
(154) Chị không thấy tháng trước em tôi đến đây chơi à?
上月 〄〄
你没看红我那个兄弟来了< (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 5, tr 66)
- Năm + X (x = trƣớc, ấy, đó, kia, ngoái, xƣa . . . ):
(155) Tôi về nhà năm ngoái, nhân có việc vào kinh, tiện đường đến đây thăm một
91
người bạn.
去年 〄〄
红底到家〃今因红要入都〃从此红路找个敝友红一句红〃承他之
情〃留我多住两日。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 2, tr 26)
Qua mô tả các biểu thị thời điểm quá khứ trên, chúng tôi nhận thấy :
- Về đặc điểm ý nghĩa biểu hiện: Biểu thị thời điểm quá khứ thường biểu hiện
những ý nghĩa thời gian đã xảy ra trước thời điểm được coi là thời hiện tại. Chẳng
hạn, trong ví dụ ―Hôm qua hắn đến nhờ tôi, tôi nghĩ việc ấy có to tát gì?. ‖, thì
điểm mốc mà người nói định vị chính là thời hiện tại là hôm nay, và sự việc ốm xảy
ra trước thời điểm phát ngôn và được xác định là hôm qua - một thời điểm quá khứ.
Như vậy việc xác định một thời điểm xem nó thuộc thời nào (quá khứ, hiện tại hay
tương lai) đều phải căn cứ vào điểm mốc (thời điểm chứa phát ngôn) để định vị.
Lấy điểm mốc là hôm nay thì hôm qua là quá khứ và ngày mai là tương lai.
Hầu hết các đơn vị từ vựng chỉ có nghĩa thời gian đơn thuần mà ít có sự phân
biệt về thời. Do vậy, khi ta xem xét chúng trong sự đối lập về thời thì sự có mặt của
các từ chỉ định (nay, kia, đó, đây) và các phụ từ như (sau, rồi nữa) sẽ có tác dụng
định vị sự việc, hành động về các miền thời gian tương ứng. Đối với thời điểm quá
khứ thì sự nhận diện đó được biểu hiện qua các định từ như: ấy, đó, rồi, kia. Nhờ
các định từ này chúng ta dễ dàng nhận biết biểu thức thời điểm quá khứ như: hôm
qua, hôm kia, tuần trước, tháng trước, năm ngoái, năm kia, bữa nọ, bữa trước, hồi
trước, trước đây, trước kia, ngày xưa, thuở trước, thế kỷ trước, dạo ấy, dạo nọ, thời
xưa, thời xa xưa, năm ấy v. v.
3. 2. 4. Biểu thị thời điểm có ý nghĩa ở tương lai
Nói đến tính thời điểm thể hiện ở tương lai là chúng ta hình dung ra một thời
điểm mà ở trên đó sự việc, hành động được định vị trong miền thời gian tương lai.
Sự định vị đó có được là nhờ vào sự có mặt của một số phụ từ và từchỉ định như:
sau, tới, mai, kia. . . trong các từ ngữ biểu thị thời gian (ví dụ :ngày mai, ngày kia,
bữa mai, hôm tới, tuần sau, tháng tới, năm tới, năm sau. . . ). Vì vậy, khi chúng ta
92
muốn nhận biết ý nghĩa thời điểm tương lai chúng ta phải căn cứ vào sự có mặt của
những đơn vị từ vựng đã nói ở trên để xác định đâu là đơn vị biểu thị thời điểm
hiện tại, quá khứ, tương lai. Theo đó, biểu thức thời điểm tương lai có thể được
nhận diện qua một vài chỉ từ và định từ như: kia, (mai kia), sau, nữa, tới. . . .
- Hôm + X (x = sau, tới, trƣớc. . . ). Ví dụ:
(156) Hôm trước mẹ Uyên Ương chết, ta nghĩ bố mẹ nó đều ở cả bên Nam, không
cho nó về chịu tang.
也死了〃我想他老子娘都在南红〃我也没叫他家去走走 正好红红的娘前儿 〄〄
守孝〃如今叫他两个一红作伴儿去。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 54, tr 742)
(157) Hôm sau hắn đem chuyện đó bàn với Lâm Như Hải.
次日 〄〄
〃面红之如海。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 3, tr 42)
- Bữa + X (x = sau, tới, mai. . . ). Ví dụ:
(158) Thiện Thư dần dần đến cơm cũng chẳng buồn mang đến cho chị Hai ăn;
được bữa sáng mất bữa chiều, những thứ mang đến đều là đồ ăn thừa cả.
一红〃所拿来之物〃皆 那善姐红红红红也怕端来与他吃〃或早 〄 一红〃或晚 〄
是剩的。 (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 68, tr 121)
- Ngày + X (x = sau, kia, mai, tới. . . ). Ví dụ:
(159) Tôi mà nói với ai thì mồm sẽ lên đinh, ngày sau sẽ chết điêu chết đứng.
不得好死= 我要告红一个人〃就红一个疔〃日后 〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 27, tr 354)
(160) Ngày mai hay ngày kia, con cháu các nơi đến, con nên tiếp đãi cẩn thận. Con
không cần phải đến đây nữa, và cũng không cần phải mang biếu ta cái gì.
93
一家子要来〃你就在家里好好的款待他红就是了。 倘或后日红两日 〄〄〄〄〄
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 10, tr 139)
- Tháng + X (x = sau, tới. . . ). Ví dụ:
(161) Trong khoảng một tháng đầu hai người vẫn còn khí khái ngang nhau, chừng
vài tháng sau, Tiết Bàn đã phải chịu nhụt dần.
一月之中〃二人气概红都相平〃至两月之后〃便红薛蟠的气概红次低矮了下去。
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 79, tr 232)
- Năm + X (x = sau, tới. . . ). Ví dụ:
(162) Chờ khi cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau,
há không phải là một việc rất vui sướng hay sao?
十九日乃黄道之期〃兄可即红舟西上〃待雄红高红〃明冬再晤〃红非大快之事
耶. (Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ nhất, tr 8)
3. 3. Từ ngữ chỉ thời điểm trong 红楼梦 và bản dịch
Chúng tôi sẽ trình bày và giải thích ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ thời điểm
trong Hồng Lâu Mộng một cách có lựa chọn. Chủ yếu lựa chọn những từ ngữ chỉ
thời điểm gần nghĩa, đa nghĩa hoặc nghĩa xưa so với nghĩa và cách dùng hiện giờ
đã có sự khác biệt tương đối rõ rệt. Chúng tôi đưa ra phân tích một số trường hợp
để làm sáng tỏ việc địch từ ngữ biểu thị thời gian trong tiếng Hán sang tiếng Việt.
半刻 /bàn kè/ Hán Việt: bán khắc
Ý nghĩa cổ đại là ―nửa khắc”, ý nghĩa hiện đại là chỉ thời gian ngắn ngủi.
“半刻”(nửa khắc)trong Hồng Lâu Mộng có 13 trường hợp và có thể phân ra
hai loại:
-Thực chỉ một nửa của một khắc (xưa: 24 giờ = 100 khắc; nay một khắc =
15 phút), nghĩa này trong Hồng Lâu Mộng chỉ có trong một trường hợp:
(163)先生方伸手按在右手脉上〃红息了至数〃宁神红红了有半刻的工夫〃
94
方红 红左手〃亦复如是.
Ông lang tự mình thở đều để nhận rõ số chí. Xem tay phải một lúc, rồi bắt
sang tay trái. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 10, tr 138)
Trong câu này, ―半刻‖ từ tiếng Hán địch sang tiếng Việt là ―một lúc‖.
-Hư chỉ một lát (khoảnh khắc) thường đi liền với [一 红(nhất thời)]:
(164)宝玉红入怡红院〃歇了半刻〃红人便乘机红景红他收一收心〃红
红把红理一 理红红着。
Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, nằm nghỉ một lát, Tập Nhân nhân dịp này
khuyên Bảo Ngọc nên để ý nghĩ lại, lúc rỗi phải mang sách ra xem để chuẩn bị
trước. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 70, tr 154)
Trong câu này, ―半刻‖ từ tiếng Hán địch sang tiếng Việt là ―một lát‖.
(165)宝红听红红红〃便两红回红〃看无人来往〃便笑道:你红么个明
白人〃怎么一 红半刻的就不会体红人情.
Bảo Thoa nghe vậy, nhìn chung quanh không có ai, mới cười nói: Chị là người
sáng suốt, thế mà sao có lúc không thể tất cho người ta?
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 32, tr 429)
Trong câu này, ―半刻‖từ tiếng Hán địch sáng tiếng Việt là ―có lúc‖.
Có 13 trường hợp trong Hồng Lâu Mộng chỉ có một trường hợp là thực chỉ,
chứng tỏnghĩa thực chỉ của từ này đã bị phai dần. Đi đôi với sự tiến bộ biến đổi của
phương tiện và phương pháp tính thì, giờ, nghĩa thực chỉ của từ ―半刻- bán
khắc‖trong Hán ngữ hiện đại đã hầu như bị mất hẳn.
半天/bàn tiān/ Hán Việt: bán thiên
Ý nghĩa cổ đại là ―nửa ngày”, ý nghĩa hiện đại là chỉ thời gian dài.
95
Cũng gồm nghĩa thực chỉ và hư chỉ. Đến thời nhà Thanh, xuất hiện nghĩa hư
chỉ, với nghĩa là một lát, một chốc, một hồi lâu, và tỉ suất sử dụng nhiều hơn nghĩa
thực: 35 trường hợp trong Hồng Lâu Mộng, chỉ có ba trường hợp là chỉ nghĩa thực
―lưng trời(半空中)‖, không phải là biểu thị thời điểm :
(166)正不开交〃又红一个红扇大的玲班喜字红响鞭〃在半天如红红一
般〃也逼 近来。
Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long
lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 70, tr 152)
Trong câu này, ―半天‖ từ tiếng Hán địch sáng tiếng Việt là ―lưng chừng trời‖.
(167)虽是半天红雨红〃何曾红得梵红声=
Mưa gió lưng trời dù tạt lại. Chùa đâu nghe được tiếng chuông rền?
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 50, tr 682)
Trong câu này, ―半天‖ từ tiếng Hán địch sáng tiếng Việt là ―lưng trời‖.
Còn lại 32 trường hợp đều mang nghĩa hư chỉ như :
(168)两个人怔了半天〃林黛玉只咳了一声〃两眼不红滚下泪来〃回身
便要走。
Hai người đứng đờ người ra một lúc, rồi Đại Ngọc ho một tiếng, nước mắt
ròng ròng, quay đầu chực chạy. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 32, tr 431)
Trong câu này, ―半天‖ từ tiếng Hán địch sáng tiếng Việt là ―một lúc‖.
96
(169)那秦红家的好容易等了红个空子红了来〃只兴红上半天。
Vợ Tần Hiển chờ mãi mới có chỗ khuyết, nhưng chỉ mừng hão được có nửa
ngày. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 62, tr 20)
Trong câu này, ―半天‖từ tiếng Hán địch sang tiếng Việtlà ―nửa ngày‖.
Tới thời Hán ngữ hiện đại, ngữ hư chỉ của từ ―半天” vẫn được tiếp tục sử
dụng , còn nghĩa thực chỉ thì đã thay đổi không còn mang ý nghĩa không gian mà
chuyển sang nghĩa thời gian là một nửa thời gian trong một ngày.
半红 /bàn shí/ Hán Việt: bán thời
半日/ bàn rì/ Hán Việt: bán nhật
Ý nghĩa cổ đại là ―bán thời ,nửa ngày”, ý nghĩa hiện đại là chỉ thời gian dài.
半红(bán thời), 半日(nửa ngày) trong Hồng Lâu Mộng chỉ một lúc, một
chốc, như mang ý nhấn mạnh thời gian dài hơn so với ―半刻(bán khắc)‖ như một
hồi lâu so với khoảnh khắc), ví dụ:
(170)红至廊檐上〃只红有几个红事的媳红子正等他回事呢〃红他出来〃
都笑道:―奶奶今儿回什么事〃红半天<可是要红着了‖.
Vừa đi đến thềm, đã có mấy người đàn bà đứng chờ ở đấy, thấy Phượng Thư
ra, họ đều cười nói:- Hôm nay mợ vào trình việc gì mà lâu thế Không biết nực à?
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 36, tr 477)
Trong câu này, ―半天‖ từ tiếng Hán địch sang tiếng Việt là ―lâu‖.
(171)周瑞家的红了半日〃方笑道:刘姥姥〃你好呀=
Vợ Chu Thụy nhìn một lúc rồi cười nói:- À bà Lưu ! Bà vẫn khỏe đấy chứ!
97
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 6, tr 86)
Trong câu này, ―半日(nửa ngày)‖ từ tiếng Hán địch sáng tiếng Việt là ―một
lúc‖.
本来 /běn lái/ Hán Việt: bản lai
Ý nghĩa cổ đại là “bản lai, trước kia ”, ý nghĩa hiện đại là ―lúc đầu, ban đầu”.
“本来(Lúc đầu, ban đầu)” trong Hồng Lâu Mộng tổng cộng có 23 trường
hợp, trong đó có 17 trường diễn tả ý nghĩa thời gian, có 8 trường hợp có nghĩa ―lúc
đầu‖, ―trước đây‖, ―trước kia‖, ―ban đầu‘. Ví dụ:
(172)红里太医便红:本来气血生成红弱〃受胎以来〃想是着了些气红〃
郁红于中.
Khi ấy thầy thuốc đến nói:- Khí huyết vốn đã suy nhược, chắc là từ khi thụ
thai đến giờ, người bị nhiều lo nghĩ, uất kết bên trong.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 69, tr 136)
(173)本来怯弱〃虽在薛蟠房中几年〃皆由血分中有病〃是以并无胎孕。
Hương Lăng đã ăn ở với Tiết Bàn mấy năm, nhưng vì chân huyết xấu, nên
không có thai nghén gì. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 80, tr 311)
trường hợp tỏ nghĩa nhất quán từ xưa, hàng ngày. Ví dụ:
Trong hai câu này, ―本来‖ từ tiếng Hán địch sang tiếng Việt là ―đã‖. Và có 9
(174)黛玉起先原红宝玉红红不红红重〃如今红此光景〃心有所感〃本
来素昔红哭〃此红亦不免无言红泣.
Lúc đầu Đại Ngọc giận Bảo Ngọc nói không biết cân nhắc, nhưng trông thấy
quang cảnh ấy, lòng cũng cảm động, và xưa nay tính vẫn hay khóc, nên bây giờ
98
cũng lại nhìn nhau mà khóc.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 64, tr 67)
Trong hai câu này, ―本来‖ từ tiếng Hán dịch sang tiếng Việt là ―xưa nay‖.
此日 / cǐ rì / Hán Việt: thử nhật,
时日 / zhè rì / Hán Việt:giá nhật
Ý nghĩa cổ đại là “hôm ấy”, ý nghĩa hiện đại là ―hiện giờ”.
Trong Hồng Lâu Mộng, ―此日(hôm ấy)‖ được sử dụng 3 lần, ―红日(vào
ngày)‖ xuất hiện 54 lần. Khi diễn tả ý nghĩa thời điểm, hai từ này có sự khác biệt
nhau.
―hôm ấy‖ gồm hai nghĩa: một là chuyên chỉ hôm ấy, xuất hiện một lần:
(175)此日便是薛姨红家红吃年酒.
Hôm ấy Tiết phu nhân lại mời Giả mẫu đến uống rượu tết.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 54, tr 741)
Một nghĩa khác chỉ bây giờ, hiện giờ, có hai trường hợp:
(176)只因红得红流迹〃此日衣衾尚有香。
Vì dấu phong lưu còn sót lại. Áo quần hiện giờ vẫn thơm hoài.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 51, tr 695)
- 红日(vào ngày) cũng có hai nghĩa, một là chỉ cụ thể hôm ấy, như:
(177)将红四红花蕊于次年春分红日晒干〃和在红末子一红〃一红研好.
Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phânnăm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột;
Đại tiết, đại tiết hạ, đại sơ nhất, đại niên sơ nhất.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 7, tr 99)
99
当今 / dāng jīn / Hán Việt: đương kim
Ý nghĩa cổ đại là “đường kim hoàng đế”, ý nghĩa hiện đại là ―hiện nay”.
当今(bấy giờ) vốn là một từ chỉ thời gian, mang ý hiện giờ, ―当今(hiện nay)‖
trong Hồng Lâu Mộng có 11 trường hợp, trong đó có ba trường hợp chỉ thời gian.
Ví dụ:
(178)又知红家塾中代塾的是红代儒〃乃当今之老儒.
May sao có dịp tốt, Tần Chung được gặp Bảo Ngọc, lại biết thầy dạy là Giả
Đại Nho, một vị túc nho lúc bấy giờ. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 8, tr 112)
(179)凡世宦富红之家〃无此物者甚多。当今就称红―慧红‖.
Rất nhiều nhà danh gia thế hoạn cũng không có của này. Vì vậy đời sau gọi là
nàng Tuệ Tú. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 53, tr 726)
Về sau xưng Hoàng đế đương thời là ―当今‖, đó là cách kị húy để tránh nói
thẳng tên vua. Trong Hồng Lâu Mộng xuất hiện 8 lần . Ví dụ:
(180)如今当今红体万人之心〃世上至大莫如‗孝‘字〃想来父母儿女之
性〃皆是一理〃不是红红上分别的。
Hoàng thượng bây giờ thể tất lòng mọi người, nghĩ rằng việc lớn trên đời
không gì bằng chữ hiếu. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 16, tr 198)
(181)当今自红日夜侍奉太上皇〃皇太后〃尚不能略尽孝意.
Hoàng thượng cho rằng chính người ngày đêm hầu hạ thái hoàng thượng,
hoàng thái hậu, còn sợ chưa làm tròn được đạo hiếu.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 16, tr 199)
Trong Hán ngữ hiện đại, ―当今‖ vẫn dùng với nghĩa ―bây giờ, hiện nay‖, còn
100
lối dùng để xưng Hoàng đế đã không còn, đó là một hiện tượng từ vựng thay đổi tự
nhiên theo sự tiến bộ của thời đại.
多早 / duō zǎo / Hán Việt: đa tảo,
多早晚 / duō zǎo wǎn / Hán Việt: đa tảo vãn
多早(bao giờ), 多早晚(hôm nào) nghĩa là ― khi nào, lúc nào‖ trong Hồng Lâu
Mộng cả thảy có 24 trường hợp:
(182)红人此刻不在红里〃不知多早才来.
Người ấy bây giờ không ở đây, không biết bao giờ mới đến.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 66, tr 92)
(183)众人都字法越红好了〃多早晚儿红我红几红红红。
Hôm nọ chúng tôi thấy chữ cậu viết vào một tờ giấy dán ở một chỗ nọ, rất đẹp.
Vậy hôm nào xin cậu viết cho chúng tôi một tờ
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 8, tr 110)
Trong Hán ngữ hiện đại, ―多早‖ vẫn được sử dụng với nghĩa ―khi nào, lúc nào,
bao giờ‖ nhưng ―多早‖ còn mang nghĩa ―sớm thế, sớm quá‖. Trong Hán ngữ hiện
đại, ―多早晚‖ cũng có sử dụng, về sau diễn biến thành ―多咱 / duō zá/‖, chủ yếu
sử dụng trong phương ngôn.
改日 / gǎi rì/ Hán Việt: hảo bán nhật
―改日(hôm khác)‖ chỉ một ngày nào gần đó (bữa sau, hôm khác). Hồng Lâu
Mộng có 7 trường hợp . Ví dụ:
(185)改日红了你再找去.
Hôm khác rỗi, mày lại đi tìm một lượt nữa.
101
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 39, tr 524)
(186)不如借了他的〃改日加倍红他也倒红了.
Chi bằng ta cứ nhận, rồi sẽ trả gấp đôi là được.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 24, tr 315)
Trong Hán ngữ hiện đại, ―hôm khác‖ vẫn sử dụng như xưa và có thêm từ đồng
nghĩa là ―hôm khác‖.
好半日 / hǎo bàn rì / Hán Việt: hảo bán nhật
好几年 / hǎo jǐ nián / Hán Việt: hảo ki niên
好几天 / hǎo jǐ tiān / Hán Việt: hảo ki thiên
好一年 / hǎo yì nián / Hán Việt: hảo nhất niên
Tới thời nhà Thanh, các trường hợp dùng ―好半日(lúc lâu)‖, ―好几年(mấy
năm nay)‖ tăng dần và vẫn tiếp tục dùng trong Hán ngữ hiện đại, có điều là trong
Hán ngữ hiện đại, ―好半天‖ đã thay thế ―好半日‖. Trong Hồng Lâu Mộng có hai
(187)那红迎春已来家好半日〃红家的婆娘娘红等人已待红晚红〃打红回家去了.
trường hợp ―lúc lâu‖ và một trường hợp ―mấy năm nay‖.
Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già và
người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả.
(188)年红红来了两次〃红有好几年没来了〃年下生日〃只红他的名字就红了.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 80, tr 307)
Trước kia anh ấy còn đến đây vài lần, nhưng mấy năm nay không thấy anh ấy
đến. Lễ sinh nhật cuối năm ngoái, chỉ thấy tên của anh ấy thôi.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 45, tr 610)
Thời nhà Thanh lại xuất hiện thêm cách dùng ―好一年(suốt cả năm)‖, ―好几
102
天(mấy hôm đó)‖. Trong Hồng Lâu Mộng có một trường hợp ―好一年(suốt cả
năm)‖, và một trường hợp ―好几天(mấy hôm đó)”:
(189)旧年好一年的工夫〃做了个香袋儿.
Năm ngoái, suốt cả năm cô ấy chỉ làm được có một cái túi hương.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 32, tr 431)
(190)我倒听红红你辛苦了好几天。
Chú nghe nói mấy hôm đó cháu cũng vất vả lắm!
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 26, tr 338)
Trong Hán ngữ hiện đại, ―好几年(mấy năm nay)‖ không còn tồn tại, ―好几天
(mấy hôm đó)” vẫn còn khá phổ biến.
金天 / jīn tiān / Hán Việt: kim thiên
―金天(kim thu) ‖ nguyên sơ là xưng hiệu của cố đế Thiếu Hạo. Sau bởi để kết
hợp với Ngũ hành, mùa thu thuộc Kim nên ―金天‖ chỉ mùa thu, trong Hồng Lâu
Mộng cũng có một ví dụ:
(191)况乃金天属红〃白帝司红〃孤衾有梦〃空室无人.
Huống chi gặp tiết kim thu; quyền về Bạch Đế. Chăn đơn mơ mộng;
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 78, tr 285)
竟日 / jìng rì / Hán Việt: cánh nhật
Nghĩa ―竟日(hết ngày)‖ là cả ngày, suốt ngày, từ sáng đến tối. Trong Hồng
Lâu Mộng có một trường hợp:
103
(192)甄夫人留席〃竟日方回〃宝玉方信。
Chân phu nhân giữ lại ăn cơm, hết ngày mới về. Bảo Ngọc vẫn chưa tin.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 57, tr 788)
九秋 / jiǔ qiū / Hán Việt: cửu thu
Bởi ba tháng mùa thu là 90 ngày, nên người xưa dùng ―九秋 ‖ chỉ mùa thu.
Trong Hồng Lâu Mộng có hai trường hợp, dùng để chỉ mùa thu, đều nằm trong câu
thơ :
(193)俏红若三春之桃〃清洁若九秋之菊.
Thướt tha như đào mùa xuân, trong trắng như cúc mùa thu.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 68, tr 125)
―cửu mùa thu‖ ngoài chỉ chung mùa thu còn mang nghĩa ―九月深秋 tháng
chín thẫm thu‖, ―九年 chín năm‖, nhưng trong Hồng Lâu Mộng không tìm được
một ví dụ nào cả, từ đó ta thấy từ ―cửu thu‖ trong khẩu ngữ đã dần dần bị loại bỏ.
旧年 / jiù nián / Hán Việt: cựu niên
旧日 / jiù rì / Hán Việt: cựu nhật
―旧年 (Năm ngoái)‖ dùng để đích chỉ năm ngoái nhiều hơn. Trong Hồng Lâu
Mộng có 13 trường hợp dùng với ý ―năm ngoái‖, ví dụ:
(194)旧年奶奶原红要免的〃因年下忙〃就忘了。
Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy đi
mất. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 55, tr 761)
Còn ―旧日‖ thì phiếm chỉ trước đây, trước kia, ngày trước, hồi xưa trong Hồng
Lâu Mộng có sáu trường hợp, như:
104
(195)原来本府新升的太红姓红名化〃本红胡州人氏〃曾与女婿旧日相交.
Quan mới này họ Giả tên Hóa, người Hồ Châu, là bạn cũ của rể ta.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 2, tr 28)
红日 / lián rì / Hán Việt: liên nhật
红夜 / lián yè/ Hán Việt: liên dạ
红宵 / lián xiāo / Hán Việt: liên tiêu
―红日 (mấy hôm) ‖ chỉ liên tiếp nhiều ngày, Trong Hồng Lâu Mộng có ví dụ như:
(196)今因红日不自在〃并没十分红红〃自红无碍.
Mấy hôm nay khó ở, nên không trang điểm, cho là như thế cũng không ngại gì.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 74, tr 213)
Nếu đổi từ tố ―红日(mấy hôm)‖, ― thành từ trái nghĩa ―夜(tối)‖ , ―宵(đêm)‖ thì
―liên dạ 红夜‖ ―liên tiêu 红宵‖ không hẳn tỏ nghĩa mấy đêm liền. ―liên dạ 红夜‖ có
2 nghĩa: một là chỉ tối hôm ấy, như
(197)红夜打点大毛衣服〃和平儿红自红点包裹〃再红红追想所需何物〃
一并包藏交付昭儿.
Suốt đêm Phượng Thư cùng Bình Nhi sửa soạn áo da, lại nghĩ xem chồng ở
ngoài cần những thứ gì gói cả vào một gói trao cho Chiêu Nhi.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 14, tr 174)
―红夜(suốt đêm)‖ cũng mang nghĩa mấy đêm liền, thời gian gấp:
(198)一面又派人先往红红寺〃红夜另外修红停灵之红〃并厨茶等红接
105
灵人口坐落。
Một mặt sai người đến chùa Thiết Hạm sửa sang gấp chỗ để linh cữu, chỗ bếp
núc và số người rước linh. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 14, tr 176)
―红宵(Đêm đêm)‖ thì chỉ cả đêm, suốt đêm, thâu đêm , trong Hán ngữ hiện đại
không còn, trong Hồng Lâu Mộng chỉ có một ví dụ nằm trong câu thơ:
(199)红宵脉脉复红红〃灯前似伴离人泣.
Đêm đêm rả rích rì rào, trước đèn như muốn nghẹn ngào cùng ai.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 45, tr 611)
眼前 / yǎn qián / Hán Việt: nhãn tiền
“眼前(hiện giờ)”trong Hồng Lâu Mộng có 15 ví dụ, gồm ba nghĩa ― hiện nay‖,
―hiện giờ‖, ― trước mặt, bên cạnh‖ và ― sắp , sẽ‖ như:
(200)眼前十月初一〃我已红打点下上坟的花消.
Tôi đã sắp sẵn một món tiền để đến ngày mồng một tháng mười sắp tới sẽ tiêu
về việc thăm mộ. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 47, tr 637)
(201)别只在眼前想〃姐姐只在五年前想就是了.
Chị đừng nghĩ đến người hiện giờ ở đây, cứ nhớ lại việc năm năm về trước thì
biết. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 65, tr 78)
―眼前‖ trong hai câu này là thời điểm chỉ ―hiện nay, hiện giờ, bây giờ‖.
下晚 / xià wǎn / Hán Việt: hạ vãn
Chỉ hoàng hôn chập tối, trong Hán ngữ hiện đại nhất là trong phương ngôn
(202)我红那年上京来〃那日下晚便湾住船〃岸上又没有人〃只有几棵红〃红
红的几家人家作晚红〃那个烟红是碧青〃红云直上.
106
miền bắc được sử dụng rất phổ biến. Trong Hồng Lâu Mộng có một câu:
Năm trước, khi chúng em lên kinh, một hôm về chiều, thuyền đậu trên bờ,
người vắng, chỉ có mấy cái cây, đằng xa có mấy nhà đang nấu cơm chiều, khói bốc
lên màu xanh biếc lẫn với đám mây. (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 48, tr 650)
先时 / xiān shí / Hán Việt: tiên thời
先前 / xiān qián / Hán Việt: tiên tiền
―先红(Khi trước), 先前(trước kia), 先年(lúc trước)‖cũng biểu thi thời điểm〃―先年
(lúc trước)‖chỉ những năm về trước, năm xưa, mấy năm gần đây, Hồng Lâu Mộng có một
câu:
(203)如今虽红不及先年那红兴盛〃红之平常仕宦之家〃到底气象不同。
先年 / xiān nián / Hán Việt: tiên niên
Hai nhà này tuy không phồn thịnh bằng lúc trước, nhưng so với những nhà sĩ
hoạn bình thường vẫn còn khác xa.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 2, tr 32)
―先红(Khi trước) ― chỉ trước đây, quãng niên đại cách đó không xa. Trong
(204)先红人口多〃姊妹弟兄都在一红〃都怕看正红红.
Hồng Lâu Mộng có 14, ví dụ:
Khi trước nhà đông người, anh chị em tôi cùng ở một nơi, không ai thích xem
sách đứng đắn cả.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 42, tr 571)
―先前(trước kia)‖ trong Hồng Lâu Mộng có chín lệ, khác với ―先红(Khi
trước)‖, ―先年(lúc trước)‖ ở chỗ ―先前(trước kia)‖ thường biểu thị quãng thời gian
107
tương đối gần, ví dụ:
(205)宝玉思及当红姊妹红一红〃耳红厮磨〃从今一别〃红得相逢〃也必不似
先前那等红密了.
Bảo Ngọc nghĩ đến khi chị em cùng ở chung quấn quít với nhau, giờ phải
xa nhau, dù có gặp lại nữa, chắc cũng không được thân mật như trước kia.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 79, tr 299)
―先前(trước kia)‖ cũng có thể chỉ trước đây, vừa nãy, quãng thời gian gần sát đó.
(206)那丫红听红〃方知是本家的红红〃便不似先前那等回避〃下死眼
把红芸红了两眼.
A hoàn nghe nói, biết là người trong họ, không lẩn tránh như trước nữa, cứ
dán hai mắt nhìn chòng chọc vào mặt Giả Vân.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 24, tr 309)
早晚 / zǎo wǎn / Hán Việt: tảo vãn,
好早晚 / hǎo zǎo wǎn / Hán Việt: hảo tảo vãn
―早晚(sớm tối, sớm muộn)‖ là một thời điểm rất linh động, từ hai nghĩa gốc
―早(sớm)‖ và ―晚(tối)‖ phát sinh ra nhiều nghĩa. Trong bộ từ nguyên có năm ý:
(1) lúc nào cũng có thể, ngày ngày
(2) lúc nào, ngày nào
(3) bao lâu
(4) mong được
(5) khi, lúc
Trong Từ điển Hán ngữ hiện đại có bốn nghĩa: 1. Sớm và tối ; 2. Hoặc sớm
hoặc tối/ muộn; 3. Lúc, khi ; 4. Sẽ vào một mình khi nào đó:
108
(207)那红敬红得红红嫂死了〃因自红早晚就要红升〃如何肯又回家染
了红红〃将前功尽弃呢.
Giả Kính nghe thấy cháu dâu trưởng chết, nhưng cứ tự cho mình sớm muộn sẽ
thành tiên, không chịu về nhà nhuốm vào bụi trần, mất hết công tu luyện, nên
không để ý đến, mặc cho Giả Trân lo liệu.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 13, tr 162)
(208)你且回去把那当票叫丫红送来〃我那里悄悄的取出来〃晚上再悄
悄的送红你去〃早晚好穿〃不然红扇了事大!
Em hãy về lấy cái phiếu cầm đồ đưa cho a hoàn mang đến, chị sẽ chuộc hộ
cho, rồi đến tối sẽ sai người đưa lại, sớm tối phải mặc, nếu không thì bị gió lạnh
không được đâu!
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 57, tr 793)
―好早晚(rất sớm tối)‖nghĩa gốc là muộn quá, chậm mất. Trong từ này, ―早
晚(sớm tối)‖ là ý nghĩa khác, trung tâm biểu thị ý nghĩa ở―晚(tối)‖, ―早(sớm)‖
không có ý nghĩa, ―好(rất, qua)‖là nhấn mạnh thời lâu dài. Trong Hồng Lâu
Mộng có hai ví dụ:
(209)宝玉的奶母李红红因红道:―天又下雪〃也好早晚的了〃就在红里
同姐姐妹妹一红红红红。
Vú Lý của Bảo Ngọc nói:- Nay tuyết lại xuống nhiều, phải xem thời tiết cẩn
thận, cậu hãy ở đây chơi với chị em đã! (Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 8, tr 114)
(210)红着又往窗外看天气〃红道:―天好早晚了〃我红也去红〃别出不
109
去城才是红荒呢。‖
Nói xong, già Lưu ra ngoài cửa trông trời, nói:- Trời đã chiều rồi, chúng tôi
xin về đây. Nếu không ra được ngoài thành, lại khốn khó đấy!
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 39, tr 528)
中浣 /zhōng huàn/ Hán Việt: trung cán
Trong từ ―浣(cán)‖ ý nghĩa gốc là giặt rửa. Thời Đường quy định quan lại cứ
mười ngày nghỉ tắm giặt một lần, mỗi tháng chia ra làm ―上浣(thượng cán), ‖中
浣(trung cán)‖ và ―下浣(hạ cán)‖. Sau gọi là―上旬(thượng tuần)‖, ―中旬
(trung tuần)‖ và ―下旬(hạ tuần)‖. ― trung cán‖ chỉ ngày 11 đến 20 trong mỗi
tháng âm lịch.
Trong Hồng Lâu Mộng có một ví dụ:
(211)那一日正当三月中浣, 早红后, 宝玉携了一套《会真红》, 走到沁
芳红红红桃花底下一红石上坐着, 展开《会真红》, 从红红玩.
Một hôm, vào trung tuần tháng ba. Cơm sáng xong, Bảo Ngọc đến ngồi trên
hòn đá dưới cây đào, cạnh cầu Thấm Phương, giở cuốn Hội Chân ký ra xem.
(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 23, tr 297)
Trong Hán ngữ hiện đại, không còn thấy từ ―中浣 trung cán‖ nữa, đó là sự
hưng suy biến đổi tự nhiên của từ vựng.
Tiểu kết:
110
Thông qua khảo sát, đối chiếu tác phẩm Hồng Lâu Mộng bằng tiếng Hán và
các bản dịch tương ứng, chúng tôi nhận thấy, cũng giống như việc dịch các từ loại
khác, dịch từ ngữ biểu thị thời điểm từ tiếng Hán sang tiếng Việt cũng thường xảy
ra ba trường hợp: tương đương hoàn toàn, tương đương bộ phận và không tương
đương. Trong hai ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt có rất ít từ ngữ biểu thị thời
điểm tương đương hoàn toàn về ý nghĩa, có thể trực dịch từ tiếng Hán địch sang
tiếng Việt. Chiếm đại đa số là trường hợp tương đương bộ phận. Trong trường hợp
này, cần căn cứ vào ngữ cảnh và ý nghĩa của từ ngữ biểu thị thời điểm tiếng Hán để
dịch thành một từ ngữ biểu thị thời điểm hoăc ̣ một tổ hợp từ ngữ biểu thị thời điểm
có ý nghĩa tương đương trong tiếng Việt.
Đối với những trường hợp không thể tìm được một từ ngữ biểu thị thời điểm
tương ứng với từ ngữ biểu thị thời điểm tiếng Hán để dịch sang tiếng Việt, có thể
chọn phương pháp bỏ qua không dịch, hoăc ̣ giải thích nghĩa từ ngữ biểu thị thời
điểm đóbằng những từ ngữ có ý nghĩa tương đương trong tiếng Viêṭ.
Trên cơ sở những kết quả thu được từ việc phân tích, đối chiếu các đăc ̣ điểm
của từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng Việt về các mặt ngữ nghĩa,
ngữ pháp và cách sử dụng, kết hợp với những kết quả thu đươc ̣ thông qua khảo sát
trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng, luận văn bước đầu đề xuất một số cách dịch từ
ngữ biểu thị thời điểm tiếng Hán sang tiếng Việt dựa vào đặc điểm ngữ nghĩa của từ
111
ngữ biểu thị thời điểm .
KẾT LUẬN
Các cách biểu thị thời gian trong tiếng Hán và tiếng Việt đã có nhiều nhà ngôn
ngữ học quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ. Trong luận văn này, chúng tôi đi sâu
nghiên cứu khảo sát về các từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng Việt
qua nguyên bản tiếng Hán tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch tiếng Việt. Qua
nghiên cứu, khảo sát và so sánh ngữ nghĩa, hình thức thể hiện và chức vụ cú pháp
của chúng, người viết thấy rằng từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và tiếng
Việt có những điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau như sau:
Về chức vụ cú pháp, từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán và trong tiếng
Việt đều có thể làm các thành phần câu như: chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, trạng ngữ
và bổ ngữ. Khi làm chủ ngữ, từ ngữ chỉ thời gian biểu thị khái niệm thời gian, trong
một bối cảnh sự tình cụ thể biểu thị động tác, hành vi của chủ thể. Do đó, chúng có
thể làm chủ ngữ trong câu có vị ngữ là động từ chỉ hành động. Khi làm bổ ngữ, từ
ngữ chỉ thời gian có thể biểu thị khái niệm thời gian chính xác hoặc không chính
xác. Khi làm định ngữ, từ ngữ chỉ thời gian bổ nghĩa cho danh từ. Từ ngữ biểu thị
thời điểm trong tiếng Hán khi làm định ngữ thường có―的‖ , do thời gian dài ngắn
khác nhau mà giới hạn thời gian của trung tâm ngữ. Từ ngữ biểu thị thời điểm trong
tiếng Việt khi làm định ngữ thì có thể trực tiếp kết hợp với trung tâm ngữ, không
cần ―của‖ mà nghĩa không thay đổi. Khi làm trạng ngữ, từ chỉ thời gian trong tiếng
Hán và tiếng Việt lại có vị trí không giống nhau. Trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng
Hán chỉ có thể đặt ở đầu câu hoặc giữa câu trước chủ ngữ, nhưng trạng ngữ chỉ thời
gian trong tiếng Việt có thể xuất hiện ở đầu câu, giữa câu, thậm chí là cuối câu. Khi
làm vị ngữ, trên thực tế thì từ chỉ thời gian có thể làm vị ngữ, nhưng trong trường
hợp này, chủ ngữ thường là từ chỉ thời gian, đồng thời từ chỉ thời gian làm chủ ngữ
và vị ngữ có quan hệ bình đẳng. Từ chỉ thời gian trong cả tiếng Hán và tiếng Việt
đều ít làm vị ngữ. Ngoài ra từ chỉ thời gian trong tiếng Việt có thể đứng đầu câu
làm đề ngữ, ngữ bổ nghĩa thêm. Về phương diện này, từ chỉ thời gian trong hai
112
ngôn ngữ cơ bản giống nhau.
Về trật tự từ chỉ thời gian trong câu, từ ngữ biểu thị thời điểm trong tiếng Hán
có trật tự từ khái niệm lớn đến khái niệm nhỏ như: năm/tháng/ ngày, còn trong
tiếng Việt lại ngược lại, thường là từ nhỏ đến lớn. Từ chỉ thời gian trong tiếng Hán
thường đặt trước hoặc sau chủ ngữ, không được đặt ở cuối câu; nhưng từ chỉ thời
gian trong tiếng Việt lại có vị trí linh hoạt, có thể đặt ở trước hoặc sau chủ ngữ, có
khi lại đặt ở cuối câu mà không ảnh hưởng cấu trúc của câu. Đối với từ chỉ thời
gian làm bổ ngữ, trong tiếng Hán và trong tiếng Việt vị trí của nó đều là ở sau động
từ vị ngữ. Từ chỉ thời gian làm trạng ngữ trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có vị trí
giống nhau.
分、刻、点、红、点红‖, trong tiếng Việt có: giây, phút, khắc, giờ. Trật tự của chúng
Về phương thức biểu đạt, từ chỉ thời gian chuẩn xác trong tiếng Hán có: ―秒、
trong tiếng Hán và tiếng Việt là giống nhau, từ đơn vị thời gian lớn đến đơn vị thời
gian nhỏ, cấu trúc trong tiếng Hán là: số từ + giờ + số từ + phút (+ số từ + giây).
Tiếng Hán thường dùng ―khắc‖ để chỉ 15 phút, biểu thị thời điểm, nhưng tiếng Việt
thì lại không thường dùng, trong câu cụ thể người Việt thường trực tiếp dùng ―15
phút‖ để biểu thị thời gian. Cách đọc năm trong tiếng Hán khác với tiếng Việt, tiếng
Hán đọc trực tiếp từng chữ số, rồi thêm ―năm‖ vào sau đó, nhưng tiếng Việt lại đọc
chữ số theo đơn vị hàng trăm hàng nghìn, rồi thêm ―năm‖ vào trước đó.
Tóm lại, do Việt Nam bị ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hóa Trung Quốc, nên
từ chỉ thời gian trong tiếng Hán và tiếng Việt có sự giống nhau trên cả ba phương
diện chức vụ cú pháp, trật tự trong câu, phương thức biểu đạt, thuận lợi cho người
Trung Quốc học tiếng Việt cũng như người Việt Nam học tiếng Hán nhanh chóng
nắm bắt quy luật của từ chỉ thời gian. Ngoài ra, từ chỉ thời gian trong cả hai ngôn
ngữ đều tồn tại những điểm khác nhau, trong khi học tiếng Việt và giao lưu văn hóa
Trung Việt cần chú ý nắm bắt quy luật sử dụng từ chỉ thời gian trong tiếng Hán và
tiếng Việt để biểu đạt ngôn ngữ cho phù hợp với quy phạm ngôn ngữ. Những kết
quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần làm rõ thêm những khảo sát từ ngữ biểu
113
thị thời điểm trong nguyên bản tiếng Hán tác phẩm Hồng Lâu Mộng và bản dịch
tiếng Việt. Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có những đóng
góp nhất định vào việc nghiên cứu và giảng dạy tiếng Hán và tiếng Việt.
Vì luận văn này được làm trong thời gian ngắn và trình độ chuyên ngành của
người viết còn hạn chế, do vậy những vấn đề được đề cập trong luận văn cũng chỉ
là những nhận thức bước đầu. Sau này, nếu có điều kiện tiếp tục nghiên cứu ở bậc
cao hơn thì rất nhiều nội dung có thể mở rộng và đi sâu hơn nữa, chẳng hạn như:
114
khảo sát từ ngữ biểu thị thời đoạn trong tiếng Hán và tiếng Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, NXb khoa học xã hội
2. Diệp Quang Ban, 2001. Ngôn pháp tiếng Việt (tập 2), Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Nguyễn Nhã Bản (2001), Cơ sở ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đaị học Vinh
4. Ðỗ Hữu Châu. Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt . Nxb. GD. HN. 1981.
5. Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê. 1963. Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. Nxb Đại
Tài liệu tiếng Việt:
6. Nguyễn Hồng cổn (2001), ―Vấn đề tương đương trong địch thuật‖, Tạp chí Ngôn Ngữ
học Huế.
7. Đ.X. Likhachốp: Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học, Tạp chí Văn học, số
(11), tr 50-55
8. F. de Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB KHXH
9. Hồ Sĩ Giao, Dịch thuật: Lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Thiện Giáp. Từ vựng học tiếng Việt . Nxb. ÐH&THCN, HN, 1985 (1998)
11. Lê Bá Hán – Trần Đnh Sử – Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB
3-1989, tr. 60
12. Cao Xuân Hạo. Về ý nghĩa thì và thể trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ. Số 3/1996
13. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng việt: sơ thảo Ngữ pháp chức năng , quyển 1, NXB KHXH
14. Jenanchevalier, Alairgheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, NXB Đà
Giáo dục.
15. Lưu Vân Lăng. Ngôn ngữ và tiếng Việt. Nxb. KHXH. 1998.
16. Hồ Lê . Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại . Nxb. KHXH, HN, 1976.
17. Dư Ngọc Ngân, Từ chỉ không gian, thời gian khái quát trong tiếng Việt (từ thế kỷ thứ XV
Nẵng
18. Ðái Xuân Ninh . Hoạt động của từ tiếng Việt . Nxb. KHXH, HN, 1978.
19. Nguyễn Thị Quy. 1995, Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tổ của nó (so sánh với
đến nay). Luận án PTS ngữ văn-Viện khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Trần Đnh Sử (2000), Tuyển tập - Tập 1, 2, NXB Giáo dục
115
tiếng Nga và tiếng Anh), Nhà xuất bản KHXH
21. Hoàng Tuệ-Lê Cận-Cù Định Tú. 1962, Giaó trình về Việt ngữ. ĐHSP
22. Đào Thản, Về các nhóm từ có ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số
23. Nguyễn Kim Thản, Cơ sỏ ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Thành phố HCM, 1998
24. Lê Thị Lệ Thanh. Trường từ vựng ngữ nghĩa của các từ biểu thị thời gian trong tiếng Việt
2/1979
25. Lê Quang Thiêm (2008) , Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nhà xuất bản Đại học Quốc
(trong sự so sánh với tiếng Đức), Luận án tiến sỹ.
26. Lê Đinh Tư, Giáo trình Nhập Môn Ngôn Ngữ học, 2009〃Nhà xuất bản Đại học Quốc gia ,
gia, Hà Nội.
27. Hoàng Văn Vân, Nghiên cứu địch thuật(2006), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Từ điển tiếng Việt. 2014. Nhà xuất bản Đà Nẵng
Hà Nội.
Tài liệu tiếng Hán :
29. 《红代红红红典》〃商红印红红〃1996
30. 丁崇明〃《红代红红红法教程》〃北京大学出版社〃2009
31. 丁声红〃《红代红红红法红红》〃商红印红红〃1979
32. 何 亮〃从中古相红红点红看红红红红表达红知方式的红展〃南昌大学学
33. 赫 琳〃《红代红红红法概红》〃金盾出版社〃2009 红 2007 年 7 月
34. 胡培安. 红红红红的内部红构与表达功能研究[D]. 上海:红红红范大学〃2005.
35. 李 安. 红代红红红红红红研究[D]. 上海:复旦大学〃2006.
36. 李向红〃红代红红红红表达中的―特指红段‖, 《红言教学与研究》1995
37. 红红明〃《红红和红红研究十五红》北京大学出版社〃2003
38. 红志红〃《红红的构红法》〃《中国红文》〃1957
116
39. 王 力〃《中国红代红法》〃商红印红红〃1985
40. 梅晶〃―红红红研究红述‖〃《红代红红》〃2011. 3
41. 薛红. 红代红红红红红研究[D]. 红沙:湖南红范大学〃2010
42. 王海棻. ―以(已)来‖可以表示未来红红[J]. 红文研究〃1987(3):29—30.
Phụ Lục
Từ ngữ biểu thị ý nghĩa thời gian trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng của tiếng Hán .
Nguyên tố
Ý nghĩa thời gian cơ
TGT bao gồm từ ngữ cơ sở
Số lượng Tỷ lệ trong 329TGT
tạo từ
sở
日夜, 本日, 冬日, 今日, 明日, 平日, 素日, 夏日, 向日, 异曰, 昨日, 后日, 前日, 上日, 日后, 日红, 次日, 此日,
Ban ngày,
50
15. 2%
Một ngày một dêm
曰 Hán Việt: Nhật
那日, 是日, 红曰, 红日, 红日, 往日, 白日, 红日, 常日, 多日, 近日, 旧曰, 百曰, 半曰, 红日, 不日, 另曰, 到日, 改曰, 红日, 即日, 竟日, 红日, 有曰,
当日, 日久, 成日, 每日, 日日, 老日,
黑日, 暑曰
Mật trăng tròn và
khuyết một lần
八月, 九月, 红月, 腊月, 每月, 七月, 二月, 上月, 十月, 暑月, 夏月, 一月,
18
5. 5%
月半, 月红, 月午, 月中, 正月, 出月
月 Hán Việt: Nguyệt
成年, 次年, 当年, 二年, 赶年, 隔年,
Năm
36
10. 9%
年 Hán Việt: Niên
Năm
后年, 红年, 几年, 今年, 近年, 旧年, 红年, 两年, 每年, 明年, 暮年, 年里, 年内, 年年, 年日, 年下, 年中, 年红, 年来, 前年, 去年, 上年, 十年, 他年, 往年, 五年, 昔年, 先年, 早 年, 红年 几红, 今红, 明红, 前红, 去红, 红底
6
1. 8%
Khi mật trời lên
16
4. 9%
Từ trời tối đến trời
早晨, 早辰, 早晚, 明早, 早红, 早上, 多早, 黑早, 清早, 早年, 次早, 一早, 至早, 早起, 早些, 早早 日夜, 红夜, 夜晚, 昼夜, 今夜, 昨夜,
14
4. 3%
sáng
夜红, 夜里, 是夜, 红夜, 黑夜, 良夜, 半夜, 夜夜
红 Hán Việt: Tuế 早 Hán Việt: Tảo 夜 Hán Việt: Dạ
117
13
4. 0%
Khi mặt trời lặn 夜晚, 早晚, 昨晚, 下晚, 晚红, 晚上, 是 晚, 中晚, 赶晚, 至晚, 当晚, 天晚, 晚来
Thời ngọ,
8
2. 4%
Trưa
晌午, 月午, 下午, 午后, 午红, 至午, 午 正, 午红
晚 Hán Việt: Vãn 午 Hán Việt: Ngọ
Hoàng hôn, sập tối 晨夕, 朝夕, 今夕, 前夕, 此夕, 是夕,
7
2. 1%
七夕
夕 Hán Việt: Tịch
Hoàng hôn
晨昏, 黄昏, 定昏
3
0. 9%
Trời tối
今儿, 今年, 今日, 今生, 今秋, 今红,
Hiện nay, bây giờ
20
6. 1%
今红, 今夕, 今宵, 今夜, 今朝, 古今, 目今, 红今, 而今, 如今, 至今, 从今, 当今, 于今
Ngày hôm qua,
昨儿, 昨日, 昨晚, 昨宵, 昨夜, 昨朝
6
1. 8%
trước đây
前儿, 前后, 前朝, 前次, 前代, 前年,
Quá khứ, trước kia
前日, 前生, 前红, 前夕, 先前, 眼前,
14
4. 3%
从前, 以前
此后, 次后, 红后, 红后, 落后, 末后,
Sau đó,
21
6. 4%
前后, 日后, 随后, 身后, 午后, 往后, 先后, 以后, 之后, 后年, 后日, 后面, 后 红, 后儿, 后来
Ngày trứoc
10
3%
先前, 先后, 原先, 先年, 先红, 起先, 在先, 从先, 当先, 先是
Lúc trước
素昔, 昔年
2
0. 6%
Hiện nay, trước mắt
红今, 红在
2
0. 6%
Luôn luôn
平素, 素昔, 素红, 素日
4
1. 2%
昏 Hán Việt: Hôn 今 Hán Việt: Kim 昨 Hán Việt: Tạc 前 Hán Việt: Tiền Hán Việt: Nhật 后 Hán Việt: Hậu 先 Hán Việt: Tiên 昔 Hán Việt: Tích 红 Hán Việt: Hiện 素 Hán Việt: Nhật
118
Gầnđây, vừa qua
新近, 近年, 近日, 近来
4
1. 2%
Lúc đầu,
原先
1
0. 3%
Mùa xuân
7
2. 1%
春天, 明春, 暮春, 初春, 三春, 仲春, 春分
Mùa hè
夏曰, 夏天, 夏月
3
0. 9%
近 Hán Việt: Cận 原 Hán Việt: Nguyên 春 Hán Việt: Xuân 夏 Hán Việt: Hạ
Mùa thu
今秋, 秋天, 九秋, 三秋, 中秋, 秋分
6
1. 8%
Mùa đông
冬底, 冬日, 冬天, 去冬, 一冬, 冬至
6
1. 8%
277
84. 2%
秋 Hán Việt: Thu 冬 Hán Việt: Đông Tổng cộng
119