ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NÔNG THỊ THUÝ HƯƠNG
NHÂN VẬT NGƯỜI PHỤ NỮ MƯỜNG TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NÔNG THỊ THUÝ HƯƠNG
NHÂN VẬT NGƯỜI PHỤ NỮ MƯỜNG TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 82 20 121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung
Thái Nguyên - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung
nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nông Thị Thuý Hương
i
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Trần Thị Việt Trung, người đã tận tình, chu đáo, trách nhiệm hướng dẫn
và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ
văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng Quản lí khoa học trường Đại học sư phạm - Đại
học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong cả quá trình học tập và
nghiên cứu tại trường.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, động viên,
giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Nông Thị Thuý Hương
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan.....................................................................................................i
Lời cảm ơn .......................................................................................................ii
Mục lục ...........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..............................................................................................2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................. 10
NỘI DUNG .................................................................................................... 11
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI VÀ NỮ NHÀ VĂN DÂN TỘC MƯỜNG HÀ THỊ
CẨM ANH .................................................................................................... 11
1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại................ 11
1.2. Nữ nhà văn dân tộc Mường Hà Thị Cẩm Anh.......................................... 19
*Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 26
Chương 2. NGƯỜI PHỤ NỮ MƯỜNG - NHÂN VẬT TRUNG TÂM
TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ CẨM ANH........................................ 27
2.1. Nhân vật trung tâm trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh ......................... 27
2.1.1 Khái niệm “nhân vật”............................................................................. 27
2.1.2 Nhân vật trung tâm – người phụ nữ Mường trong sáng tác của Hà Thị
Cẩm Anh......................................................................................................... 27
iii
2.2 Những nhân vật phụ nữ với vẻ đẹp truyền thống mang đậm bản sắc
văn hoá Mường.............................................................................................. 29
2.2.1 Vẻ đẹp về ngoại hình ............................................................................. 29
2.2.2 Vẻ đẹp nội tâm - thứ nhan sắc vững bền của người phụ nữ xứ Mường.. 35
2.3. Những thân phận, những bi kịch cá nhân của những người phụ nữ
Mường trong cuộc sống thời kỳ hiện đại........................................................ 41
* Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 55
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
NGƯỜI PHỤ NỮ.......................................................................................... 57
3.1 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật và ngôn ngữ nhân vật ................. 57
3.1.1 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật ................................................. 57
3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật................................................................................. 62
3.2 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và tình huống truyện .............................. 68
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ............................................................ 68
3.2.2. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện ................................................. 79
* Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 88
KẾT LUẬN ................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHỤ LỤC
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Văn học dân tộc thiểu số (DTTS) là một bộ phận quan trọng của văn học
Việt Nam một nền văn học phong phú và giàu bản sắc. Trong diện mạo của nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại thì văn xuôi các DTTS có một vẻ đẹp riêng, sắc thái riêng.
Các nhà văn DTTS đã luôn có ý thức tạo nên một tiếng nói văn chương của chính dân
tộc mình trên cơ sở luôn hướng ngòi bút của mình và việc phản ánh cuộc sống, con
người và hiện thực miền núi một cách say sưa và tự hào. Những sáng tác của họ là
những tấm gương phản chiếu vẻ đẹp bản sắc văn hoá của dân tộc mình, gương mặt
con người và thiên nhiên miền núi của mình. Nghiên cứu các tác phẩm của các nhà
văn như: Bàn Tài Đoàn, Nông Minh Châu, Triều Ân, Vi Hồng, Vi Thị Kim Bình, Y
Điêng, Mã A Lềnh, La Quán Miên, Inrasara, Y Phương, Lò Ngân Sủn, Cao Duy Sơn,
Hà Lâm Kỳ, Hlinh Niê, Niê Thanh Mai, Bùi Thị Như Lan...v.v…chúng ta đều thấy
được vẻ đặc trưng của tâm hồn, tính cách của người miền núi nói chung, của từng dân
tộc nói riêng. Bên cạnh các nhà văn dân tộc thiểu số có tên tuổi thì ta không thể
không nhắc đến Hà Thị Cẩm Anh - một cây bút văn xuôi tiêu biểu của xứ Mườn - đặc
biệt là trong khoảng thời gian 20 năm trở lại đây.
1.2. Những sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đã góp phần vào sự phát triển của văn
xuôi DTTS trong thời kỳ Đổi Mới - với một phong cách riêng mang đậm bản sắc văn
hóa Mường. Bản sắc Mường được thể hiện trong những trang viết của Hà Thị Cẩm Anh
ở cảm hứng viết về thiên nhiên, con người và những phong tục tập quán của dân tộc
Mường cùng cuộc sống của cộng đồng Mường thời kỳ hiện đại. Nhà văn đã thổi hồn dân
tộc vào trang viết của mình nhờ việc sử dụng ngôn ngữ mang đậm bản sắc Mường,
những câu văn mang âm hưởng sử thi, những câu chuyện cổ dân gian Mường và một thế
giới nhân vật phong phú, đa dạng trong cộng đồng Mường, góp phần tạo nên nét độc đáo
riêng cho văn xuôi các DTTS Việt Nam. Đặc biệt trong thế giới nhân vật của nhà văn nổi
bật lên là hình tượng nhân vật người phụ nữ dân tộc Mường. Đây là một hình tượng nghệ
thuật tiêu biểu, có vai trò quan trọng trong sáng tác của bà, thể hiện rõ tư tưởng nghệ
thuật và phong cách nghệ thuật của nữ nhà văn. Do đó, nghiên cứu về nhân vật người
phụ nữ Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh cũng chính là đã đi vào nghiên
1
cứu phần cơ bản nhất trong các tác phẩm của nhà văn; nghiên cứu những mặt sáng tạo,
mặt thành công (cũng như hạn chế) trong quá trình sáng tác của bà. Đồng thời, qua đó
cũng thấy được rất rõ những quan niệm rất truyền thống nhưng cũng rất hiện đại và mới
mẻ của bà trong quan niệm về con người, về cuộc sống và việc phản ánh hiện thực một
cách đa chiều, đa góc cạnh của bà trong tác phẩm.
1.3 Nghiên cứu về nhân vật người phụ nữ Mường trong các sáng tác của Hà Thị
Cẩm Anh là một việc làm có ý nghĩa thực tiễn. Bởi nó sẽ góp phần vào việc nghiên cứu
về văn chương các dân tộc thiểu số Việt nam hiện đại nói chung và góp phần nghiên
cứu về chân dung con người dân tộc thiểu số nói riêng – thông qua nhân vật người phụ
nữ - những người luôn gìn giữ những nét đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc, nhưng cũng
là những người chịu tác động nhiều nhất của những mặt tốt đẹp, thuận lợi cũng như
mặt lạc hậu, tiêu cực của xã hội từ xưa cho tới nay. Thông qua đó, chỉ ra những sáng
tạo, những cái mới trong việc phản ánh nội dung cũng như trong nghệ thuật viết truyện
của nữ nhà văn dân tộc Mường này; cũng như sự thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác
giả về việc phản ánh con người và hiện thực vào trong các sáng tác của mình thời kỳ
Đổi Mới.
1.4 Bản thân tôi là người con của dân tộc Tày, là một giáo viên giảng dạy Ngữ
văn của trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc, một trường dân tộc miền núi có nhiệm
vụ đào tạo con em các dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, chúng tôi muốn
nghiên cứu về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và nghiên cứu về hình
tượng nhân vật người phụ nữ Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh nói
riêng - nhằm góp phần khẳng định những vẻ đẹp truyền thống cũng như vẻ đẹp hiện
đại của con người dân tộc thiểu số ngày nay, cùng những thách thức khó khăn mà họ
phải đối mặt, nhằm giáo dục các thế hệ học sinh người dân tộc thiểu số luôn biết trân
trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Từ những lý do trên, cùng với niềm yêu thích say mê các sáng tác của Hà Thị
Cẩm Anh - tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Nhân vật người phụ nữ Mường trong
truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số với các tên tuổi quen thuộc như:
2
Nông Minh châu, Vi Hồng, Vi Thị Kim Bình, Ma Trường Nguyên, Cao Duy Sơn,
Mã A Lềnh, Inrasara, La Quán Miên, Đoàn Ngọc Minh…thì Hà Thị Cẩm Anh - nhà
văn dân tộc Mường trong 20 năm trở lại đây đã gặt hái được khá nhiều thành công,
nhưng cũng lặng lẽ khiêm nhường như bà - văn chương của bà vẫn còn như là một
“mảnh trời riêng” chưa được nhiều người chú ý nghiên cứu, đánh giá. Tên tuổi và
sự nghiệp của bà chủ yếu mới chỉ được một số nhà văn, nhà phê bình đề cập đến
trong một số bài báo, hoặc trong lời giới thiệu, lời tựa các tập truyện ngắn của nhà
văn khi ra mắt hoặc được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu chung về văn
xuôi DTTS. Cho tới nay chúng tôi mới thông kê một số bài viết đề cập trực tiếp đến
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh trong đó có nhắc tới những nhân vật người phụ nữ
trong sáng tác của bà.
2.1. Những ý kiến chung về sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
Hà Thị Cẩm Anh được biết đến với cái tên “Nhà văn của thung lũng Si Dồ” bởi
hầu hết các sáng tác của bà đều gắn với không gian của Mường Dồ, Mường Danh,
Mường Phấm. Đó là tên đất, tên rừng nơi nhà văn sinh ra và lớn lên. Vì thế trong bài
viết Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, Đỗ Đức đã khẳng định: “Hà Thị Cẩm
Anh, chị người Mường. Mảnh đất chị chọn cho cho văn chương là Mường Vang, là
làng Chiềng, là thung lũng Si Dồ - Xứ Thanh” [13]. Còn tác giả Nguyên Tĩnh trong
bài Hà Thị Cẩm Anh và thung lũng Si Dồ thì cho rằng Hà Thị Cẩm Anh đã tìm thấy
“cái Mường trong văn học” rất riêng :“Có một thung lũng Sì Dồ trong tác phẩm của
Hà Thị Cẩm Anh đang rõ nét được khắc họa. Nó là hình bóng quê nhà bản Mường mà
nhà văn gửi gắm. Là những câu chuyện của trai Mường yêu gái Mường gặp bao trắc
trở phản bội nhưng vượt lên số phận để có tình yêu hồn hậu thủy chung của người
Mường. Hà Thị Cẩm Anh đã có thung lũng Sì Dổ trong tác phẩm của mình đó là quê
hương không có ở ngoài đời” [44]. Từ tình yêu với mảnh đất xứ Mường nhà văn đã
trải lòng: “Tôi buâng khuâng đi giữa đất Mường ở thung lũng Si Dồ với các truyện
ngắn: Đêm tháng tám. Ngôi nhà sàn cũ kỹ. Đêm khua luông dành cho người chết. Cây
gội già tàn tật. Thằng Chinh ngốc. Chuyện xưa... cùng với sự phập phồng, niềm vui và
nỗi buồn của tác giả với cuộc đời” [13]. Từ sự trải lòng ấy nhiều tập truyện ngắn được
ra đời. Đọc các tác phẩm của nhà văn và cảm nhận thấy các truyện ngắn được viết nên
3
thật tự nhiên - như hơi thở - như là chính cuộc sống vậy. Như nhận xét về tập truyện
ngắn Nước mắt của đá, Lã Thanh Tùng cho rằng: “Trên tay các bạn đang là máu thịt
chị, bảy truyện ngắn tròn trịa, ấm nóng, bảy tiếng thở dài và bảy bài ca u buồn…Bảy
truyện ngắn trong tập Nước mắt của đá giống như bảy chú lùn siêng năng kết đoàn
cùng xây đắp một tổ ấm ngăn nắp mời gọi, để mỗi độc giả khi lạc vào có thể tự mình
thể nghiệm một vai Bạch Tuyết ê chề mà hạnh phúc” [44].
Còn trong bài viết Văn học hiện đại dân tộc Mường: những khuôn mặt thì
tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền lại khẳng định sức sáng tạo bất ngờ và mạnh mẽ, dữ dội
của Hà Thị Cẩm Anh: “Ở tuổi 16, chị đã có Thím cò khoai gây dư luận văn chương
tỉnh Thanh, có mặt trong nhóm văn học Ngọc Trạo miền Tây Thanh Hóa. Bẵng đi
thời gian dài vì sự vất vả của cuộc sống chị không viết. Năm 1998, Hà Thị Cẩm Anh
cầm bút trở lại và lần này thì quyết liệt. Có ai ngờ người phụ nữ đã bước vào tuổi
“lục thập hoa giáp” lại có một trận maratông trong văn chương và gây bất ngờ như
vậy. Những gì chất chứa trong con người chị đã bung như nham thạch núi lửa tuôn
trào. Chị viết liên tục, sôi động và trầm lắng những gì đã quan sát, trải nghiệm, để
những Đêm Khua Luống dành cho người chết, Ngôi nhà sàn cũ kĩ, Gốc gội xù
xì…để lại nhiều dư ba trong bạn đọc” [16].
Có thể thấy bằng tình yêu, sự gắn bó với quê hương, với vùng đất xứ Ba
Mường nhà văn Hà Thi Cẩm Anh đã tạo được tiếng nói riêng cho văn chương của
mình một cách đáng tự hào. Như tác giả Thy Lan khi đọc tập truyện ngắn Một nửa
người đàn bà của Hà Thị Cẩm Anh đã nói rằng :“Văn chương chị trong trẻo, tự
nhiên như nước suối, lại phong phú mượt mà như lá rừng, dung dị như nhà sàn, bếp
lửa, đôi khi cũng dữ dội như suối dâng, thác đổ và trần trụi, hoang dã như cây cổ
thụ ngàn năm. Đọc truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh ta có được cái say của hương rượu
cần, ta nhìn thấy cái bảng lảng của gió thổi, mây bay, cái trùng điệp và vững trãi
của núi cao, rừng rậm” [23]. Đúng là như vậy:“Chín truyện ngắn của Hà Thị Cẩm
Anh trong tập Một nửa của người đàn bà là chín cung bậc tình yêu núi rừng, yêu con
người. Nhà văn đã phóng bút bằng tâm hồn, ký ức và trải nhiệm” [23].
Trong bài viết Hà Thị Cẩm Anh với những chuyện ở thung lũng Si Dồ của
PGS. TS Hoả Diệu Thuý đã nhận định: “Người con của xứ sở mụ Dạ Dần của ậu mo,
4
của Xường của Rang cũng đã gánh vác sứ mệnh mà tổ tiên và cội nguồn giao phó.
Đó là phô diễn vẻ đẹp của sức sống quê hương bằng những tác phẩm văn chương”
[47]. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã để lại
ấn tượng sâu sắc về không gian, thời gian, con người vùng đất xứ Mường, để những
chất men làm say lòng người cứ thể ngầm dần, ngấm dần vào những ai đang bước
vào nơi ấy. Với những dòng chữ, những câu văn giản dị nhưng lại để lại ấn tượng
khó phai trong lòng người đọc.
Và trong luận văn Cảm hứng về vẻ đẹp dân tộc Mường trong sáng tác của
Hà Thị Cẩm Anh Nguyễn Thị Bích Dậu đã viết: “Có thể nói các sáng tác của Hà
Thị Cẩm Anh đậm đà bản sắc văn hoá Mường. Những trang viết của nhà văn chan
chứa nỗi niềm đối với mảnh đất quê hương. Tuy bây giờ Hà Thị Cẩm Anh đã sống ở
thành phố nhưng mảnh đất xứ Mường vẫn gắn bó máu thịt với nhà văn. Hình bóng
của quê hương bản Mường in dấu trong tuổi thơ của tác giả ngày nào vẫn hiện lên
tươi nguyên chất sống. Phải nặng tình với quê hương sâu sắc đến mức nào thì trang
viết của nhà văn mới đằm sâu tình cảm đến thế khi viết về cuộc sống, con người và
thiên nhiên xứ Mường Thanh Hoá ” [12].
2.2. Những ý kiến về nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh
Từ tình yêu thiết tha, gắn bó với con người, mảnh đất xứ Mường của nhà văn
Hà Thị Cẩm Anh ta thấy trong các sáng tác của bà đều viết về cuộc đời, số phận, của
những người phụ nữ với bao mảnh đời khác nhau. Điều đó khiến cho người đọc phải
trăn trở, suy nghĩ, xót xa, cảm thương khi tìm hiểu về những nhân vật nữ trong sáng
tác của bà.
Với sự xúc động sâu sắc, sự cảm nhận tinh tế cùng thái độ trân trọng, những
câu chuyện, những tác phẩm viết về thân phận người phụ nữ Mường của nhà văn Hà
Thị Cẩm Anh - PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong bài viết Đau đáu nỗi niềm về
thân phận người phụ nữ Mường trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh đã bộc lộ
tình cảm, cảm xúc mạnh mẽ, mãnh liệt của mình: “Trái tim tôi như bị bóp nghẹt, thổn
thức và buốt nhói khi đọc những tác phẩm viết về thân phận của những người phụ nữ
Mường ở thung lũng Si Dồ của chị. Hiếm có một nữ nhà văn nào lại trung thành đến
thế, thủy chung đến thế, yêu thương, thiết tha và trăn trở, xót xa đến thế với mảnh đất
5
xứ Mường, với những thân phận của những phụ nữ xứ Mường như chị” [51, tr.253].
Đó chính là sự yêu mến, trân trọng và cảm phục đối với nữ nhà văn dân tộc Mường
viết về mảnh đời bất hạnh, những số phận éo le và nghiệt ngã của những người phụ
nữ của mình. Cũng chính vì vậy, trong bài Người phụ nữ trong xã hội hiện đại qua
những trang văn nữ tác giả Đỗ Ngọc Yên đã khẳng định: “Có đọc những trang văn
do chính chị em viết về giới của mình mới tận thấu hiểu hết nỗi cùng cực đến ê chề
của người phụ nữ Việt Nam, mà nhiều khi cánh mày râu rất khó cảm nhận một cách
vừa tinh tế, vừa sâu sắc đến như vậy” [53]. Ta thấy được rất rõ điều này trong các
truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh khi viết về hình tượng người phụ nữ Mường vì họ
là những nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của nhà văn. Hình
ảnh người phụ nữ Mường được hiện lên với vẻ đẹp về ngoại hình, nội tâm. Đặc biệt
là vẻ đẹp nội tâm của người phụ nữ Mường trong bài viết: Những mạnh nguồn cảm
hứng mang đậm bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
được tác giả Đào Thuỷ Nguyên và Nguyễn Thị Bích Dậu ngợi ca, khẳng định: “Với
người Mường lòng thuỷ chung còn là lẽ sống, niềm tin, là điểm tựa để người phụ nữ
Mường vượt qua bao chông gai, thử thách, tiếp tục sống và vươn lên” [50,tr.432].
Còn tác giả Nguyễn Thị Bích Dậu lại viết : “ Ta không chỉ xót xa cho số phận
bất hạnh của những người phụ nữ mà hơn thế còn cảm phục trước sức sống mãnh
liệt, dẻo dai của họ. Giống như nước suối rừng không bao giờ cạn, cây rừng không
thể bị quật ngã trước những cơn bão táp thì người phụ nữ Mường cũng đứng vững
trước mọi giông tố của cuộc đời” [12]. Đó là cách sống của người phụ nữ trong sáng
tác của Hà Thị Cẩm Anh, họ sống với bề ngoài như chiếc bóng, nhưng thực ra họ
đang âm thầm hi sinh cho gia đình, cho những người yêu thương xung quanh họ.Vì
họ luôn đứng dậy bằng sức mạnh niềm tin, hy vọng của chính mình.
Trong bài viết Mùa xuân trong văn xuôi các dân tộc thiểu số, tác giả Vi Anh
đã khẳng định : “Giải vía nói đến nỗi vất vả của một nữ kiểm lâm viên với những tình
tiết gây xúc động. Truyện kết thúc vào những ngày sắp sang xuân cũng là lúc xua đi
những buồn đau của quá khứ, cô tìm được hạnh phúc của đời mình với người đàn
ông đã nhẫn nại đợi chờ” [9]. Mỗi nhân vật nữ trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm
Anh dù phải trải qua những cảnh ngộ, hoàn cảnh éo leo trong cuộc sống nhưng cuối
6
cùng hạnh phúc cũng đến với họ “Đọc Cây gội già tàn tật, người đọc không thể
không xót xa cho hoàn cảnh của người con gái khi sinh ra lại mang một khuôn mặt dị
dạng. Cả Mường Vang khiếp sợ mỗi khi nhìn thấy cô. Vì thế, cô đã bỏ vào rừng và
tìm thấy sự đồng cảm với cây gội già tàn tật. Kết thúc truyện có hậu là phần thưởng
ngọt ngào của cổ tích giữa đời thường khi cô được đón nhận tình yêu của một chàng
trai Mường tốt và có một gia đình hạnh phúc” [12,tr.46].
Trong cuốn sách Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số tác giả
Trần Thị Việt Trung đã khẳng định :“Trong tất cả các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
chị đều viết về người phụ nữ với những mảnh đời, thân phận, hoàn cảnh khác nhau.
Dưới ngòi bút của chị hình ảnh người phụ nữ Mường hiện lên với vẻ đẹp tự nhiên,
tươi tốt, rực rỡ, đầy tính phồn thực, đầy khả năng làm vợ, làm mẹ, làm chủ các "bếp"
trong Mường... của những cô gái Mường xinh đẹp, duyên dáng, khỏe mạnh. Họ
không những chỉ có vẻ đẹp ở hình thức bên ngoài, mà chủ yếu tác giả luôn nhấn
mạnh ở họ là vẻ đẹp bên trong: Cái duyên thầm, sự đảm đang, khéo léo, đặc biệt là
đức vị tha, đức hy sinh hết mình của họ đối với những người thân yêu trong gia đình,
đối với làng bản, với quê hương, với rừng núi thân thương. Họ là những người luôn
chịu thiệt thòi trong cuộc sống. Đặc biệt nhân vật nữ trong sáng tác của Hà Thị Cẩm
Anh luôn có một sức sống mãnh liệt như loài hoa hướng dương luôn hướng về phía
mặt trời - cho dù có bị đè nén, bị vùi dập, bị oan ức, đày ải tới mức nào đi chăng
nữa” [51, tr.255]. Bài viết này đã khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ Mường –
những người phụ nữ đẹp cả về ngoại hình lẫn tính cách được nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh phản ánh một cách cụ thể, sinh động trong các sáng tác của mình.
Có thể thấy những ý kiến, đánh giá, phê bình về sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
trên đây là rất chính xác và tinh tế, nhưng dù sao đó mới là những ý kiến, những nhận
định, những bài nghiên cứu lẻ chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu như một chuyên luận
riêng về đặc điểm nhân vật người phụ nữ Mường trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm
Anh. Theo khảo sát của chúng tôi thì cho tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách chuyên biệt hệ thống về hình tượng người phụ nữ Mường trong văn xuôi Hà
Thị Cẩm Anh. Do đó, chúng tôi chọn vấn đề này để làm đề tài của luận văn của mình
với mục đích: Chỉ ra những sáng tạo độc đáo của nhà văn trong việc xây dựng hình
7
tượng người phụ nữ DTTS qua các tác phẩm văn xuôi của nữ nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh. Từ đó, khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà văn trong việc góp phần
hoàn chỉnh thêm về bức chân dung về người phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng và
người phụ nữ Việt nam nói chung trong thời hiện đại.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai đề tài Nhân vật người phụ nữ Mường trong truyện ngắn của Hà
Thị Cẩm Anh chúng tôi nhằm những mục đích sau:
- Tìm hiểu vẻ đẹp nhân vật người phụ nữ Mường về ngoại hình và nội tâm
được khắc họa trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh để thấy được điểm nhìn riêng
và những đóng góp của nữ nhà văn trong nền văn học thời kỳ Đổi Mới.
- Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật người phụ nữ Mường trong truyện
ngắn Hà Thị Cẩm Anh để thấy được tài năng của nhà văn trong xây dựng nhân vật
người phụ nữ và trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Những tác phẩm văn xuôi của Hà Thị Cẩm Anh nói chung, đặc biệt đi sâu
vào nghiên cứu những vấn đề viết về hình tượng nhân vật người phụ nữ DTTS của
nữ nhà văn.
- Nghiên cứu khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam và một số tác
phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số khác viết về hình tượng nhân vật người phụ
nữ DTTS (để so sánh, đối chiếu).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về đặc điểm hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số trong toàn
bộ sáng tác văn xuôi của Hà Thị Cẩm Anh, cụ thể gồm sáu tập truyện ngắn sau:
+ Người con gái Mường Biện (Tập truyện và ký 2002)
+ Bài xường ru từ núi (Tập truyện ngắn, 2004)
+ Nước mắt của đá (Tập truỵên ngắn 2005)
+ Mưa bụi (Tập truyện ngắn 2008)
+ Một nửa của người đàn bà (Tập truyện ngắn 2013)
8
+ Bình minh xanh (Tập truyện ngắn 2017)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Nhân vật người phụ nữ Mường trong truyện ngắn Hà
Thị Cẩm Anh, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu khái quát về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
trong đó có một số nhà văn nữ dân tộc thiểu số - mà Hà Thị Cẩm Anh là một đại diện
tiêu biểu trong thời kỳ Đổi Mới.
- Làm rõ những đặc điểm của hình tượng nhân vật người phụ nữ dân tộc
Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh (ở các phương diện: Nội dung phản ánh
và hình thức nghệ thuật).
- Chỉ ra những nét riêng mang tính mới, tính sáng tạo cùng những đóng góp tiêu
biểu của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ miền núi.
Qua đó khẳng định những giá trị nhân văn, nhân bản, giá trị hiện thực trong các sáng tác
của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong đời sống văn học các DTTS Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành ( văn học với văn hoá học, dân tộc học,
nhân chủng học, lịch sử, …)
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu; và vận dụng một số thao tác nghiên cứu của
thi pháp học
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính chất hệ thống, toàn diện
về hình tượng nhân vật người phụ nữ dân tộc Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm
Anh. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định những nét độc đáo, sáng tạo trong
cách khám phá và thể hiện hình tượng người phụ nữ dân tộc Mường trong các tác
phẩm truyện ngắn của nữ nhà văn dân tộc Mường - Hà Thị Cẩm Anh
9
- Kết quả của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu một cách hệ thống
hình tượng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu nói riêng về hình tượng con người dân tộc
thiểu số nói chung trong sáng tác của các nhà văn DTTS Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần
Nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại và nữ nhà
văn dân tộc Mường - Hà Thị Cẩm Anh.
Chương 2: Nhân vật người phụ nữ Mường - nhân vật trung tâm trong sáng tác
của Hà Thị Cẩm Anh.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật tiểu biểu trong quá trình xây dựng
hình tượng nhân vật người phụ nữ .
10
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI VÀ NỮ NHÀ VĂN DÂN TỘC MƯỜNG HÀ THỊ CẨM ANH
1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại
Trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại thì văn học DTTS hiện
đại là một bộ phận khăng khít cấu thành của nền văn học dân tộc một nền văn học
phong phú đa dạng và giàu bản sắc. Văn học các DTTS đã góp phần quan trọng làm
nên đặc điểm này. Đặc biệt là trong lĩnh vực văn xuôi - do chính các nhà văn DTTS
tạo dựng và chuyên viết về đề tài dân tộc và miền núi.
Vào đầu thế kỷ XX, văn xuôi quốc ngữ đã được hình thành và phát triển khá
mau chóng trong đời sống văn học nước nhà. Văn xuôi dân tộc và miền núi cũng đã
được hình thành và từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình với sự tham gia góp
sức của nhiều tác giả thuộc các dân tộc khác nhau trong đó có những tác giả là người
dân tộc Kinh nhưng lại viết về đề tài dân tộc và miền núi như : Thế Lữ, Lan Khai,
Lưu Trọng Lư, Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân...; giai đoạn ngay sau năm 1945 cũng
có những tác phẩm ghi dấu ấn sâu đậm trong bạn đọc viết về cuộc sống và con người
miền núi của các tác giả: Nam cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc... Và từ năm 1975 đến
nay lại có Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thuý,
Tống Ngọc Hân... Được kế thừa thành tựu văn xuôi của những tác phẩm người Kinh
viết về miền núi, và được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước nên từ sau kháng chiến
chống Pháp các gương mặt nhà văn DTTS đã dần xuất hiện ngày càng nhiều hơn và
ngày càng khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống văn học nước nhà, đem lại
cho độc giả cả nước những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ hơn về hiện thực
đời sống, về con người, về bản sắc văn hoá… của đồng bào các dân tộc ít người ở các
vùng miền trên đất nước. Nhiều thế hệ các nhà văn dân tộc thiểu số thuộc các dân tộc
khác nhau đã xuất hiện và khẳng định một cách vững chắc sự có mặt của mình trong
đời sống văn xuôi DTTS hiện đại. Ví dụ như: Vùng Đông Bắc có các nhà văn: Vi
11
Hồng, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, Cao Duy Sơn, Đoàn Ngọc Minh, Bùi Thị Như
Lan...; Vùng Tây Bắc có: Kha Thị Thường, Mã A Lềnh, Hà Lâm Kỳ, Tống Ngọc
Hân, Mã Anh Lâm...; Vùng Tây Nguyên có: Y Điêng, Kim Nhất, Hlinh Niê, Nê
Thanh Mai...; Vùng Nam Bộ có: Lý Lan, Inrasara, Trà Vigia...
Theo kết quả nghiên cứu cùng những nhận xét, đánh giá của một số nhà
nghiên cứu chuyên về văn học DTTS (như nhà nghiên cưu phê bình Lâm Tiến, nhà
nghiên cứu phê bình Trần Thị Việt Trung...) về sự vận động và phát triển của văn học
DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại thì:
Văn xuôi DTTS chủ yếu hình thành và phát triển sau năm 1945, đây là thời kỳ
văn học phát triển theo định hướng đường lối văn nghệ của Đảng nên mảng văn học
dân tộc thiểu số được quan tâm phát triển cả về lực lượng sáng tác, số lượng, chất
lượng tác phẩm và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ví dụ như tác giả Nông
Quốc Chấn trong bài viết Mấy vấn đề về văn học các dân tộc thiểu số đã đưa ra
những nhận định khái quát về những thành công ban đầu mà văn xuôi dân tộc thiểu số
đã đạt được trong những năm trước đó: “Mười năm qua, trong dân tộc Tày - Nùng,
dân tộc Thái, lần lượt xuất hiện một số anh chị em viết bút kí, truyện ngắn, truyện
vừa…, việc này đã chứng minh là nền văn xuôi của các dân tộc thiểu số đã có cơ sở
để xây dựng” [10, tr. 40]. Như vậy văn xuôi DTTS thực sự được ra đời sau một vài
năm khi miền Bắc được giải phóng. Các cây bút văn xuôi là người DTTS dần xuất
hiện nhiều hơn. Người đi tiên phong trong giai đoạn đầu là Nông Viết Toại với truyện
ngắn đầu tay Nước ruộng (1952). Nhưng tác phẩm chỉ được coi như một sự “tập
dượt” của chính tác giả về thể loại văn xuôi. Đến 1958, Nông Minh Châu mới chính
thức đưa văn xuôi góp mặt trong dòng chảy của văn học các DTTS với truyện ngắn
Ché Mèn được đi họp. Tác phẩm đã được Giải khuyến khích trong đợt thi sáng tác
truyện ngắn của Tạp chí văn nghệ (năm 1958). Đây cũng là tác phẩm văn xuôi đầu
tiên của một tác giả người dân tộc thiểu số được nhận giải thưởng toàn quốc và là tác
phẩm đã mở đầu, đánh dấu sự có mặt của văn xuôi các DTTS ở phương diện sáng tác
văn chương cũng như sử dụng văn xuôi và ngôn ngữ mẹ đẻ để thể hiện hình ả nh những
con người DTTS mới với những thay đổi sâu sắc trong cách sống, cách nghĩ, cách làm
để phá bỏ những tập tục cũ nghèo nàn, lạc hậu, mê tín dị đoan vươn lên xây dựng và
12
làm chủ cuộc sống mới trên quê hương miền núi. Tác phẩm của Nông Minh Châu ra
đời đã mở đường cho hàng loạt truyện ngắn của các tác giả DTTS xuất hiện và được
chú ý như : Ngôi sao trên đỉnh núi Phja Hoàng, Cây su su noọng Ỷ, Nước suối tiên
đào của nhà văn dân tộc Tày Vi Hồng; Bên bờ suối tiên của Triều Ân, Đêm giao
thừa, Đặt tên của Vi Thị Kim Bình; Ké Nàm của Hoàng Hạc; Mương Nà Pàng của
Nông Viết Toại,... Các tác phẩm văn xuôi thời kỳ này tập trung phản ánh hiện thực về
cuộc sống con người, quê hương miền núi với tình cảm yêu mến, ngợi ca, với niềm
tin vào sức sống mãnh liệt trong tâm hồn của những con người vùng cao. Với sự có
mặt của nhiều tác giả là người DTTS văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đã dần được
khẳng định - như nhà lý luận phê bình Lâm Tiến đã từng phát biểu một cách tự hào
về vị trí vai trò quan trọng của văn học DTTS:“Góp phần xứng đáng vào công cuộc
cách mạng, cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa,
trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
[42, tr. 153].
Tuy nhiên, văn xuôi các dân tộc miền núi chỉ có thể được ghi nhận từ những
năm 60 và đặc biệt những năm sau chiến tranh. Đây chính là thời kỳ văn xuôi miền
núi có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này các nhà văn DTTS có ý thức dùng
văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, xã hội của
vùng dân tộc và miền núi. Vì vậy, văn xuôi DTTS luôn bám sát chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Truyện ngắn và kí
của văn học DTTS ra đời trong khoảng những năm sáu mươi, đến 1989 đã có khá
nhiều tập truyện ngắn và kí cùng với hàng trăm tác phẩm đã được xuất bản. Lực
lượng sáng tác là người DTTS đông đảo hơn và thành tựu sáng tác cũng rõ ràng và
rực rỡ hơn. Thời kỳ này văn xuôi DTTS phát triển khá mạnh về số lượng cũng như
chất lượng, giúp chúng ta có thể nhận ra một cách rõ ràng về diện mạo riêng cùng
những đặc điểm riêng của văn xuôi DTTS. Có thể kể tên các tác phẩm văn xuôi tiêu
biểu của các tác giả người DTTS như: Tiếng hát rừng xa của Hoàng Hạc; Đoạn
đường ngoặt của Nông Viết Toại (1973); Tiếng chim Gô của Nông Minh Châu
(1979); Niềm vui của Vi Thị Kim Bình (1979); Tiếng khèn A Pá của Triều Ân
(1980); Cột mốc giữa lòng sông của Mã A Lềnh (1981); Những bông Ban tím của
13
Sa Phong Ba (1981); Hạt giống mới của Hoàng Hạc (1983); Chiếc Vòng bạc của Lò
Ngân Sủn (1987), Đường qua đèo mây của Triều Ân (1988); Đuông thang của Vi
Hồng (1988); Xứ lạ mường trên của Hoàng Hạc (1989)…
Bên cạnh thể loại truyện ngắn và kí còn có thể loại tiểu thuyết, thể loại này
cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đầu tiên là tác phẩm Muối lên rừng của
Nông Minh Châu, sau đó là tác phẩm Hơ Giang của Y Điêng (dân tộc Ê Đê); và đến
Vi Hồng với một loạt các tiểu thuyết như: Đất bằng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984),
Thung lũng đá rơi (1985) thể loại tiểu thuyết của văn học DTTS đã khẳng định được
sự có mặt của mình trong thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung
Nội dung chủ yếu của văn xuôi các dân tộc thiểu số thời kỳ này là phản ánh
công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và cuộc kháng chiến chống Mĩ ở cả nước và ở
miền núi. Đồng thời, phản ánh những vận động, đổi mới trong đời sống các dân tộc
thiểu số như: Xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới với những việc làm cụ thể:
Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng công trình thủy điện, làm thủy lợi, xây
dựng quê hương mới, chống mê tín dị đoan, chống các phong tục cổ hủ lạc hậu, bước
đầu chống nạn tham ô, tham nhũng... Bên cạnh đó một số tác giả thì đi sâu khai thác
đời sống riêng, cùng thế giới nội tâm các nhân vật với tư cách con người cá nhân
trong thời kỳ hiện đại ở miền núi.
Bên cạnh sự xuất hiện của tiểu thuyết, truyện ngắn xuất hiện khá nhiều, đặc
biệt từ sau năm 1975. Đây là thời kỳ văn xuôi DTST phát triển với một bước mới,
về cả số lượng cũng như chất lượng. Bên cạnh những nhà văn xuất hiện từ trong
thời kì chống Pháp (1946- 1954) như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Minh
Châu, Nông Viết Toại...; đến giai đoạn kháng chiến chống Mĩ ( 1954 – 1975) như:
Triều Ân, Vi Hồng, Hoàng Hạc, Hùng Đình Quý, Mà Thế Vinh, Môlô Yclavi,Vi Thị
Kim Bình, Vương Trung, Vương Anh, Y Điêng...; và từ sau 1975 đến nay xuất hiện
nhiều các cây bút mới, sung sức như: Mã A Lềnh, Triệu Lam Châu, La Quán Miên,
Lò Cao Nhum, Inrasara, Cao Duy Sơn, Hà Lâm Kì, Ma Trường Nguyên, Hà Lí, Kim
Nhất, Hà Thị Cẩm Anh, Kha Thị Thường, Hữu Tiến, Đoàn Lư, Đoàn Ngọc Minh,
Hoàng Hữu Sang, Sa Phong Ba, H'Linh Niê, Bùi Thị Như lan, Niê Thanh Mai ...
Vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90 văn xuôi các DTTS rất phát
14
triển và được độc giải ghi nhận. Đây chính là thời kì chuyển từ cơ chế quản lý quan
liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa). Đời sống kinh tế,
chính trị của miền núi cũng có những chuyển biến mạnh mẽ, khiến cho đời sống văn
học nghệ thuật miền núi cũng có một sự chuyển biến lớn. Sự thay đổi này có ảnh
hưởng và tác động mạnh đến cách phản ánh hiện thực và tư duy nghệ thuật của các
nhà văn DTTS. Từ năm 1990 trở đi, đời sống văn nghệ sôi nổi hơn. Văn xuôi miền
núi thời kỳ này có sự mở rộng về đề tài và chủ đề, cùng sự ra đời của những tác phẩm
có dấu hiệu đổi mới trong cách nhìn, trong tư duy nghệ thuật cùng sự phát triển ngày
càng đông đảo hơn về đội ngũ tác giả là người DTTS.
Nếu như trước đây, văn học hầu như chỉ tập trung phản ánh những mặt tốt
đẹp của hiện thực cuộc sống của con người thì giai đoạn này nhờ có sự đổi mới
trong cách nhìn, cách phản ánh hiện thực - hiện thực được mở ra phong phú hơn, đa
chiều hơn. Những mặt trái, những mảng khuất lấp mà văn học trước đây chưa đi vào
phản ánh nay được đề cập đến nhiều hơn. Các nhà văn DTTS đã nắm bắt được vấn
đề mang tính “thời sự” này để phản ánh một hiện thực mới trong các sáng tác của
mình. Các tiểu thuyết: Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Vào hang
(1990), Chồng thật vợ giả (1994)…của Vi Hồng được dư luận quan tâm bởi những
vấn đề có tính thời sự này. Hoàng Thế Sinh với tiểu thuyết Xứ mưa (2000); Cao
Duy Sơn trong tiểu thuyết Đàn trời (2006), Ngôi nhà xưa bên suối (2007)...; Triều
Ân với Nắng vàng bản (1992), Nơi ấy biên thùy (1994), Dặm ngàn rong ruổi
(2000)... Bên cạnh những tác phẩm chú ý đến vấn đề mang tính xã hội còn một số
các tác phẩm đã đi vào các khía cạnh của đời tư con người ví dụ như: Gió
hoang(1992), Bến đời (1995), Mùa hoa hải đường(1998) của Ma Trường Nguyên;
tập truyện Số phận đàn bà của Hoàng Thị Cành; các tập truyện Tiếng chim kỷ
giàng (2004), Mùa hoa mắc mật (2005), Hoa mía (2006)... của Bùi Thị Như Lan;
đến các tập truyện Nước mắt của đá (2005), Mưa bụi (2008), Một nửa người đàn
bà (2013) của Hà Thị Cẩm Anh...
Có thể thấy, văn học DTTS thời kì này đã có sự phát triển về số lượng, chất
lượng và đã có những dấu hiệu đổi mới trong cách nhìn cách phản ánh và trong tư
duy nghệ thuật. Ví dụ như cuốn tiểu thuyết Người lang thang của Cao Duy Sơn; các
15
tiểu thuyết Mùa hoa hải đường, Trăng yêu, Bến đợi của Ma Trường Nguyên; tiểu
thuyết Dòng đời của Hữu Tiến; Đất bản quê cha của Vương Trung...Với những
phong cách khá tiêu biểu như vậy“tiểu thuyết các dân tộc miền núi đã tự khai phá
một con đường rộng rãi hòa vào dòng chảy của văn học hiện đại dân tộc” [18,tr.43].
Bên cạnh những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết, truyện ngắn cũng đạt được
những thành công đáng ghi nhận. Truyện ngắn Hoa bay cuối trời của Cao Duy Sơn có
sự vận dụng và kết hợp độc đáo của văn hóa Tày - Việt, mang lại một vẻ đẹp vừa lạ
vừa quen, vừa truyền thống vừa hiện đại. Tính nhân văn được thể hiện một cách xúc
động qua các câu chuyện về các hoàn cảnh, các số phận, cùng cách ứng xử văn hoá của
những con người miền núi chân thật, thô mộc nhưng thật giàu tình người, giàu lòng vị
tha. Nhà văn Bùi Thị Như Lan với một loạt những truyện ngắn đã đóng góp cho sự đổi
mới mảng văn xuôi DTTS miền núi ở khía cạnh khai khác chiều sâu tâm hồn con
người nhất là những con người là phụ nữ và các chiến sỹ quân đội là người DTTS (Lời
sli vắt ngang núi, Bồng bềnh sương núi, Mùa hoa gắm); nhà văn Hà Thị Cẩm Anh
với truyện ngắn Gốc gội xù xì, Một nửa người đàn bà, Giải vía... đã phân tích, lí giải
diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật (đặc biệt là nhân vật người phụ nữ Mường) một
cách hợp lí với lối kể chuyện chân thật, mộc mạc, giản dị, dễ hiểu nhưng giàu tính biểu
tượng, sâu sắc và cảm động lòng người.
Văn xuôi miền núi thời kì Đổi Mới có sự mở rộng đề tài, chủ đề, và có sự thay
đổi trong cách nhìn, cách phản ánh hiện thực và tư duy nghệ thuật và có sự đi lên.
Bên cạnh các tác giả ở giai đoạn trước vẫn tiếp tục sáng tác như: Vi Hồng, Triều Ân,
Mã A Lềnh, Sa Phong Ba, Cao Duy Sơn... còn có thêm nhiều gương mặt mới như: Hà
Thị Cẩm Anh, Hữu Tiến, Hoàng Quảng Uyên, Đoàn Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan,
Linh Nga NiêKdam, Niê Thanh Mai... Những nhà văn này có ý thức đi sâu vào phản
ánh hiện thực cuộc sống thời kỳ hiện đại và hội nhập; đi sâu vào phản ánh số phận
con người với bao vui, buồn, hạnh phúc và bất hạnh.
Với sự góp mặt của nhiều cây bút văn xuôi DTTS như đã kể trên đã góp phần
tạo nên diện mạo một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại phong phú, giàu bản sắc.
Trong đội ngũ các nhà văn DTTS ấy đã xuất hiện khá nhiều các cây bút nữ. Các cây
bút văn xuôi nữ DTTS xuất hiện chậm hơn một chút so với các cây bút nam DTTS.
16
Phải đến những năm 1968-1970 mới xuất hiện một số cây bút văn xuôi nữ, và từ sau
Đổi Mới đến nay thì các nhà văn nhữ DTTS mới xuất hiện nhiều hơn và đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Nhà văn nữ DTTS thuộc thế hệ đầu tiên phải kể đến
như: Nhà văn Vi Thị Kim Bình là người dân tộc Tày (tỉnh Lạng Sơn). Bà là một cán
bộ ngành Y và là người luôn tận tụy với công việc, với cái tâm của người thầy thuốc.
Bà viết bằng tấm lòng và tình cảm của mình cái tâm của người thầy thuốc miền núi
đối với quê hương, con người ở nơi đây. Vi Thị Kim Bình là nhà văn nữ dân tộc thiểu
số tiêu biểu lớp đầu tiên viết khá thành công về hình ảnh con người, cuộc sống của
đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới Việt Nam. Hầu hết các tác phẩm của bà đều
viết về người phụ nữ, trong đó phần nhiều là những người phụ nữ dân tộc mang bản
tính dịu dàng, mộc mạc, giản dị, dù mỗi cuộc đời ở những hoàn cảnh khác nhau, số
phận khác nhau, nhưng ở họ luôn toát ra vẻ đẹp của sự hi sinh, lòng vị tha của sự
vươn lên mạnh mẽ trong cuộc sống thời chiến tranh cũng như thời hoà bình. Trong đó
có những tác phẩm tiêu biểu và đạt được nhiều giải thưởng khác nhau của bà như:
Đặt tên, Những bông Huệ trắng.
Trong đội ngũ các nhà văn nữ DTTS cần phải nhắc đến tên tuổi của một số
nhà văn Tây Nguyên hiếm hoi như: Kim Nhất, Linh Nga Niê Kdam, Niê Thanh
Mai. Đầu tiên là nhà văn Kim Nhất - người dân tộc Ba Na. Kim Nhất có giọng điệu
riêng, cứ rủ rỉ rù rì, “có gì kể nấy” nên được bạn đọc gọi là: “người kể chuyện buôn
làng”. Bà đã xuất bản gần 20 đầu sách và là Hội viên Hội Nhà Văn, Hội VHNT các
DTTS Việt Nam.
Tiếp đến là nhà văn Linh Nga Niê Kdam - một hiện tượng đáng ghi nhận trong
văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại. Chị đã có một số lượng tác phẩm văn xuôi đáng
kể, trong đó có những tác phẩm được đánh giá cao như: Con rắn màu xanh da trời,
Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió, Trăng Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh
ai. Sáng tác của Hlinh Niê đề cập đến mọi mặt đời sống của nhân dân Tây Nguyên thời
kỳ hiện đại hoá, bên cạnh đó nhà văn đã rất có ý thức đi sâu vào những nét riêng độc
đáo của con người và mảnh đất này qua những phong tục, lễ hội, trang phục của đồng
bào các dân tộc Tây Nguyên.
17
Và nhà văn Kha Thị Thường - nhà văn dân tộc Thái sinh năm 1979 của (tỉnh
Nghệ An) là một cây bút viết khoẻ, viết chắc. Các tác phẩm tiêu biểu của bà là: Kí ức
xanh (1998), Đêm canh ba (2000), Lũ núi (2002), Mùa hoa lù cù ( 2008). Trong đó
có một tác phẩm (Mùa hoa lù cù) là tác phẩm dành cho thiếu nhi dân tộc thiểu số.
Tiếp đến là nhà văn Đoàn Ngọc Minh một nữ nhà văn dân tộc Tày của Cao
Bằng. Những năm tháng sáng tác đầu tiên chị thường viết cho thiếu nhi (Dòng sông kỉ
niệm, Phía sau đỉnh Khau Khoang, Cánh chim). Sau đó là một loạt tác phẩm văn xuôi
viết về cuộc sống con người miền núi cao như: Lời hẹn (1997); Dòng sông kỉ niệm
(1997); Cánh chim (1999); Sông ngàn lau (2001); Gió xoáy (2004); Gọi nắng (2004);
Núi Bó Phạ trở về (2003); Thằng bạn tôi (1995); Mùa lá rụng (2000); Chuyện của đại
tá Thi (2001)… khá thành công trong tác phẩm của mình.
Đáng chú ý là nhà văn nữ DTTS Bùi Thị Như Lan - một nhà văn quân đội
thuộc quân khu I chị hay viết về đề tài cuộc sống con người miền núi phía Bắc, và
nhất là những số phận, cảnh ngộ của những người phụ nữ (có chồng tham gia quân
đội) và những người lính là người DTTS. Là một nhà văn nữ còn khá trẻ, khỏe, Bùi
Thị Như Lan đã đi và lăn lộn trên khắp mọi miền thuộc biên giới phía Bắc nên bà có
nhiều vốn sống, có nhiều tư liệu thực tiễn. Bà có các tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu
như: Tiếng chim kỷ giàng, Mùa hoa mắc mật, Hoa mía, Lời sli bay cao, Bồng
bềnh sương núi, Cọn nước đôi, Cọn nước đôi, Mùa hoa Bjoóc phạ, Tiếng kèn
pílè. Bà cũng đã đạt được nhiều Giải thưởng với các tác phẩm: Bố ơi (1999), Núi
đợi, Gió hoang (2004), Hoa mía (2006), Tiếng chim kỷ giàng (2007), Mùa hoa
Bjoóc phạ (2013)...
Nhìn vào đội ngũ các nhà văn nữ dân tộc thiểu số như đã nói ở trên có thể
thấy: Trong khoảng hơn nửa thế kỉ qua, bên cạnh đội ngũ nhà văn DTTS là nam thì
các nhà văn nữ cũng đã xuất hiện và trưởng thành nhanh chóng cùng với sự phát triển
về số lượng và nâng cao chất lượng về tác phẩm. Hàng loạt những tác phẩm được ra
đời bởi các nữ nhà văn DTTS như: Vi Thị Kim Bình, Kim Nhất, Lý Lan, Linh Nga
Niếk Đam, Kha Thường, Hà Thị Cẩm Anh, Đoàn Thị Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan,
Niê Thanh Mai...Những tác phẩm của họ đã góp phần tạo nên một bộ phận văn xuôi
giàu bản sắc trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
18
Nữ nhà văn DTTS Hà Thị Cẩm Anh là một cây bút dân tộc Mường tiêu biểu.
Các tác phẩm của chị chủ yếu viết về cuộc sống con người, thiên nhiên xứ Mường
với một tấm lòng thương mến, trân trọng. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay – Hà
Thị Cẩm Anh luôn khao khát được lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc Mường, giữ mãi vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ như chính nó vốn có
như vậy. Qua hàng loạt truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đã giúp người đọc hiểu rõ
thêm về vẻ đẹp hồn hậu, nhân ái, thuỷ chung, giàu nghị lực và khát vọng vươn lên
trong cuộc sống của đồng bào dân tộc Mường nói chung và người phụ nữ Mường nói
riêng. Chị xứng đáng là nhà văn nữ DTTS tiêu biểu xuất sắc có đóng góp nhiều trong
thời kì Đổi mới.
1.2. Nữ nhà văn dân tộc Mường Hà Thị Cẩm Anh
Hà Thị Cẩm Anh - cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học DTTS Việt Nam
thời kỳ Đổi mới. Tên thật của bà là Hà Thị Ngọ (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1948) là
người dân tộc Mường ở vùng đất Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá. Bà công tác tại Hội Văn
học – Nghệ thuật Thanh Hoá, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn
học – Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam…Trong hơn mười năm gần đây nhà
văn đã có sáu tập truyện ngắn và ký. Với các tác phẩm đặc sắc của mình bà đã nhận
nhiều Giải thưởng của Trung ương và địa phương như: Giải thưởng của Hội Nhà văn
và Uỷ ban toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Báo
Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004- 2005, Giải B cuộc thi viết về môi
trường: Qua thơ và truyện: Hành tinh xanh mãi xanh do Hội Nhà văn Việt Nam
cùng Báo Thiếu niên Tiền Phong tổ chức năm 2001, Giải thưởng đặc biệt của UBTQ
các hội Văn học – nghệ thuật Việt Nam tặng cho tác giả là Hội viên Hội Văn học –
nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (đạt giải cao nhất – giải A) cho tập truyện
ngắn Một nửa người đàn bà, Giải B cuộc vận động Sáng tác và công bố các tác
phẩm Văn học – Nghệ thuật có tư tưởng và chất lượng cao về hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giai đoạn 1930 – 1975 do UBTQ các Hội VH –
NT Việt Nam phát động năm 2014 – 2015. Giải thưởng của Hội VHNT các dân tộc
thiểu số Việt Nam: Giải B năm 2000, Giải C năm 2002, Giải B năm 2003, Giải B
năm 2004, Giải B năm 2005, Giải C năm 2007, Giải B năm 2008, Giải A năm 2014.
Giải thưởng của bộ ngành Trung ương: Giải C cho kịch bản Phim truyện Tiếng hát
19
trong hang núi của Bộ Văn hoá thông tin, Giải B cuộc thi viết về: “ Sự hy sinh thầm
lặng” của bộ Y tế, năm 2012, Giải B cuộc thi viết về Giao thông vận tải của Bộ Giao
thông vận tải, năm 2014. Giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật & các ban ngành
tỉnh Thanh Hoá: Giải thưởng 5 năm của UBND tỉnh Thanh Hoá về VHNT năm 2005,
Giải thưởng Lê Thánh Tông của Hội VHNT Thanh Hoá năm 2003, 2004, 2007,
2008... Với sức sáng tạo dồi dào Hà Thị Cẩm Anh là gương mặt nữ hiếm hoi, tiêu
biểu của người dân tộc thiểu số trong làng văn xuôi Việt Nam đương đại. Những sáng
tác của Hà Thị Cẩm Anh chủ yếu viết về cuộc sống của con người xứ Mường - miền
quê Thanh Hoá của bà với biết bao biến động của thời cơ chế thị trường đầy phong
phú và phức tạp hôm nay.
Ngay từ khi còn nhỏ Hà Thị Ngọ đã có khiếu văn chương và đã tập sáng tác từ
đó. Tác phẩm đầu tay của bà là Thím Cò Khoai (được viết khi ấy bà mới 13 tuổi và
mới chỉ học hết lớp 5 phổ thông). Sau đó bà đã theo học lớp Bổ túc văn hoá Công
Nông và được giới thiệu đi học khoá VI Trường Viết văn Nguyễn Du. Nhưng sau một
thời gian, Hà Thị Cẩm Anh không thể tiếp tục theo học Trường Viết văn Nguyễn Du
nữa vì hoàn cảnh quá khó khăn. Về địa phương bà được giới thiệu vào Ban vận động
thành lập Hội Văn nghệ Thanh Hoá. Và bà đã trở thành một trong những người thuộc
lứa hội viên tham gia sáng lập của Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hoá. Sau đó với
điều kiện làm việc mới, bà đã có những sáng tác, có những tác phẩm mới mang
những nét đặc trưng riêng của một cây bút Mường hiện đại. Những sáng tác đầu tay
của bà cần phải kể đến là: Thím Cò Khoai, Mùa rẫy đến sớm đây là những tác phẩm
viết còn rất mộc mạc nhưng đằm thắm và có duyên của bà.
Cuộc sống đầy khó khăn, vất vả của thời kì bao cấp tưởng như nhà văn
không sáng tác. Nhưng đối với Hà Cẩm Anh văn chương như một mỗi lương
duyên không thể dứt bỏ được. Từ năm 2000 đến nay, được công tác tại Hội Văn
học - Nghệ thuật tỉnh Thanh Hoá và bà lại bắt đầu cầm bút trở lại. Với một sức
viết dồi dào bao cảm hứng về thiên nhiên, con người quê hương xứ Mường như
được tuôn trào trên đầu ngọn bút của Hà Thị Cẩm Anh. Năm nào bà cũng ra sách,
bà còn viết cả kịch bản Điện ảnh và nhận được các Giải thưởng văn chương của
Trung ương và địa phương. Những tập truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh luôn
nhận được tình cảm của người đọc và bạn bè gần xa. Một loạt các tác phẩm ra đời
20
đã khẳng định được vị trí của nhà văn trong nền văn học các dân tộc thiểu số hiện
đại. Như tác giả Hoả Diệu Thuý đã nhận xét: “ Quả là tình yêu đối với văn chương
của cô thôn nữ này rất lớn. Tình yêu đã dẫn đường cho chị. Tình yêu đã khiến chị
nỗ lực. Và chị đã rất nỗ lực để trở thành một nhà văn như bây giờ” [7]. Có thể
nói, Hà Thị Cẩm Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của xứ Mường đã
có nhiều tác phẩm đề lại ấn tượng cho bạn đọc.
Về sự nghiệp sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta có thể kể đến các tác phẩm văn
học: Thím Cò khoai (Tập truỵên ngắn 1964) Người con gái Mường Biện (Tập
truyện và ký, Nxb Văn hoá dân tộc, năm 2002), Những đứa trẻ mồ côi (Truyện dài,
Nxb Kim Đồng, năm 2003), Bài xường ru từtronh hang núi (Tập truyện ngắn, Nxb
Văn hoá dân tộc, năm 2004), Nước mắt của đá (Tập truyện ngắn, Nxb Văn hoá dân tộc,
năm 2005), Lão thần rừng nhỏ bé (Truyện dài, Nxb Kim Đồng, năm 2007), Mưa bụi
(Tập truyện ngắn Nxb Văn hoá dân tộc, năm 2008), Một nửa của người đàn bà
(Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hoá dân tộc, năm 2014), Chẫu chàng Cóc tía và Cư
dân xóm Bờ Ao ( Truyện thiếu nhi Nxb Kim Đồng, năm 2014), Bình Minh Xanh
(Tập truyện ngắn Nxb QĐND, 2017). Ngoài ra còn có các tác phẩm Kịch bản Điện ảnh:
Con đường dài lắm (Kịch bản phim truyện, đề tài thiếu nhi năm 2005), Bài xường ru từ
trong hang đá (Kịch bản phim truyện nhựa - Cục điện ảnh Việt Nam đã sản xuất năm
2007), Huyền thoại Hàm rồng (Kịch bản phim truyện nhựa phát sóng ngày 4 tháng 4
năm 2015), Ngọc trạo mùa thu 1941 (Kịch bản phim truyện nhựa, đề tài chiến tranh về hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, sản xuất năm 2017).
Nội dung bao trùm trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh là đi sâu phản ánh
cuộc sống của con người miền núi, về quê hương xứ Mường Thanh Hoá. Với cái nhìn
của một người con quê hương, bà luôn tự hào về những vẻ đẹp văn hoá truyền thống,
về phong tục tập quán của dân tộc Mường. Bên cạnh đó tình yêu của nhà văn còn
dành cho vẻ đẹp tự nhiên của quê hương. Khi viết cuộc sống con người nơi xứ
Mường nhà văn đã tập trung xây dựng hình ảnh những con người giàu lòng nhân ái,
vị tha, thuỷ chung son sắt, chân thực, hồn hậu và giàu nghị lực. Họ là những nhân vật
chính trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh. Ta luôn thấy được một tấm lòng ưu ái,
trân trọng và tràn đầy yêu thương cảm thông con người của tác giả. Như trong lời tựa
Khi đá cũng được giải oan, Lã Thanh Tùng có nhận xét về những niềm vui và nỗi
21
đau cũng mang nét riêng biệt trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh: “Cây bút của chị
cũng gió mưa, hoa lá sâu rầy ong bướm như hàng nghìn nhà văn trên trái đất này,
nhưng cái niềm vui và nỗi đau của chị thì lại đặc trưng cho bản thể chị, chúng
“ngún” lên từ từng tế bào, giọng nói, cái lối hành xử của chị, về cuộc sống đang
ngổn ngang bề bộn nơi cái xứ Mường Vang, Mường Dồ âm u đại ngàn Bắc Trung Bộ
Việt Nam” [44]. Có thể thấy trên mỗi trang văn của Hà Thị Cẩm Anh là tấm lòng
đôn hậu và đầy sự cảm thông cho từng hoàn cảnh, từng số phận của những con người
bất hạnh nhưng lúc nào cũng giàu nghị lực sống. Nhà văn viết nhiều về hình tượng
người phụ nữ Mường những người luôn phải chịu nhiều nỗi buồn, nỗi khổ đau cùng
bao oan khuất trong cuộc đời. (Bài xường ru từ núi, Cuộc đời bị đánh cắp, Một nửa
của người đàn bà, Quả còn, Suối lạnh, Cha mẹ và tôi, Của hồi môn, Giải vía,
Chuyện xưa…). Đọc những tác phẩm này, người đọc vừa cảm thông cho số phận của
bao người phụ nữ phải chịu bao khó khăn, bất hạnh, lại vừa trân trọng vẻ đẹp tâm hồn
của họ. Bởi rơi vào bất cứ tình cảnh bi đát như thế nào nhưng người phụ nữ Mường
vẫn một lòng thuỷ chung, hy sinh, thương yêu chồng con hết mực. Không những thế,
họ còn chủ động để xoá tan mọi hận thù luôn sẵn sàng tha thứ lỗi lầm, tội ác của
người khác với lòng vị tha nhân ái. Nhưng nhiều khi vì quá chân thật, đôn hậu mà họ
phải chịu thiệt thòi, bị lừa gạt, bị oan trái. Nhưng niềm tin và lòng can đảm đã khiến
cho những người phụ nữ ấy vượt lên nỗi đau, nỗi oan để tiếp tục sống một cách kiên
cường. Những số phận bất hạnh ấy không phải chỉ thấy ở hình tượng người phụ nữ
mà còn thể hiện ở nhân vật những đứa trẻ. Đó là những đứa trẻ sống vất vưởng trong
Những đứa trẻ mồ côi, Con đường dài lắm, Đứa con trai. Tuy các em còn ít tuổi
nhưng đã phải lăn lộn với cuộc sống thậm chí trở thành chỗ dựa cho mế khi mế của
em bị bệnh... Cùng với sự từng trải, cùng những chiêm nghiệm về cuộc đời nhà văn
Hà Thị Cẩm Anh đã gửi gắm bao suy ngẫm, bao bài học mang ý nghĩa nhân văn: Khi
con người biết hy sinh cho người khác, biết sống vì người khác, biết tha thứ cho
người khác thì con người sẽ có được niềm vui hạnh phúc hay ít nhất là sự thanh thản
của tâm hồn. Đây là điều mà nhà văn muốn gửi tới bạn đọc vì trong cuộc sống hiện
tại đầy phức tạp hôm nay những điều tốt đẹp, nhân văn, nhân ái đó càng có giá trị đối
với con người.
Bên cạnh đề tài viết về cuộc sống của những con người nơi xứ Mường, Hà
22
Thị Cẩm Anh còn viết về những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hoá dân
tộc. Đó là niềm tự hào về những phong tục tập quán đẹp của dân tộc như: tục ăn hỏi,
cưới xin, ở rể, cúng ma, giải vía, lễ hội Khua Luống, lễ hội Pồn Pôông, lễ hội mùa
xuân....với cảnh trai gái ném còn, hát Xường giao duyên, trong âm thanh ấm áp, vang
dội của tiếng cồng chiêng. Tuy nhiên, rải rác trong các sáng tác của nhà văn còn
đượm nỗi lo lắng về sự phai nhạt, thậm chí bị mất đi các phong tục tập quán đẹp của
dân tộc. Bởi: “Tác giả vẫn đi về cùng quê hương, quan sát lắng nghe, chia sẻ. Trái
tim của tác gải thấp thỏm quặn thắt mỗi lần chứng kiến một phong tục, một tập quán
– một nét văn hoá của dân tộc mình đang dần dần bị mai một, bị biến dạng đi” [7].
Đó là hiện tượng người ta phá đi các ngôi nhà sàn truyền thống để thay vào đó là
những ngôi nhà cao tầng (Khá Chồi), là sự đánh mất nét đẹp, cùng phẩm chất cao quí
của con người, trong đó có người phụ nữ Mường (Ngược chiều mở cửa, Của hồi
môn, Chuyện xưa, Suối lạnh)... Trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh không chỉ
tái hiện cái hay, cái đẹp về phong tục tập của dân tộc mình mà còn nhận ra mặt trái và
sự hạn chế của những thói quen tập quán xấu trong cuộc sống của người Mường. Ví
dụ như: Tục ném rể trong truyện ngắn Quả còn, nhà văn đã phê phán tục lệ lạc hậu
cũng như phê phán cách ứng xử thiếu nhân văn của những con người Mường cổ hủ,
kém hiểu biết. Cái quí của nhà văn là đã dám nhìn thẳng vào sự thật để phê phán
những hủ tục trong đời sống của người Mường. Cụ thể là: Việc tổ chức những lễ ăn
hỏi, cưới xin rườm rà, tốn kém; là tục ép người phụ nữ phải ở vậy làm “vợ ma” suốt
đời mà không được phá vỡ hôn ước... (Trong truyện ngắn Cưới chạy phê phán hủ tục
tảo hôn, rồi tục buộc vía qua truyện ngắn Giải vía). Có thể thấy, nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh đã rất trung thực, thẳng thắn trong việc phê phán những hủ tục, tập quán xấu
trong đời sống của người Mường còn tồn tại đến tận ngày nay.
Có thể thấy, dù viết về đề tài gì, nhà văn vẫn giữ được tấm lòng ưu ái, trân
trọng, yêu thương con người: “Ta gặp một niềm tự hào. Một tình yêu sâu đậm đối với
xứ Mường là quê hương của chị. Đói no mặc lòng nhưng chị vẫn tha thiết với ngôi
làng ấy, bãi sông ấy và những con người thật thà chất phác biết bao nhiêu?” [47].
Về đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, có thể nhận thấy
rằng, bà có một cách viết rõ ràng, giản dị, dễ hiểu. Từ tác phẩm đầu tay như Thím cò
23
Khoai và tập truyện Người con gái Mường Biện là cách viết dung dị, hồn nhiên, (chưa
có bàn tay của một người “ thợ”) với các câu văn còn rườm rà ở dạng câu trần thuật.
Nhưng đến những tập truyện sau này, nhà văn đã có những câu văn uyển chuyển, tinh
tế và giàu hình ảnh so sánh, liên tưởng cùng cách viết mộc mạc, chân thành và sống
động về quê hương, về cuộc sống sinh hoạt của bà con dân bản; bằng việc sử dụng
ngôn ngữ một cách linh hoạt, khéo léo cùng cách diễn đạt của dân tộc mình tác giả đã
tạo nên một không gian miền núi. Đó là không gian của người Mường với những tên
gọi, địa danh hay cách xưng hô... tạo ra một không gia văn hoá Mường rất đặc trưng để
lại nhiều ấn trong lòng bạn đọc. Trong thế giới nghệ thuật của Hà Thị Cẩm Anh người
đọc còn được ngắm nhìn, thưởng ngoạn một thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng và trữ tình,
nhiều khi tác giả như hoá thân vào thiên nhiên để đối thoại: “ Thiên nhiên trong trang
viết của nữ sĩ có một gương mặt riêng, mang đậm dấu ấn của cuộc sống dân tộc
Mường xứ Thanh này” [12]. Truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh có lời văn tự nhiên
giàu hình ảnh, giàu chất thơ như tác giả Thy Lan đã nhận xét cách viết của nhà văn :
“Văn chương chị trong trẻo, tự nhiên như nước suối, lại phong phú mượt mà như lá
rừng, dung dị như nhà sàn, bếp lửa, đôi khi cũng dữ dội như suối dâng, thác đổ và
trần trụi, hoang dã như cây cổ thụ ngàn năm. Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh
ta có được cái say của hương rượu cần, ta nhìn thấy cái bảng lảng của gió thổi, mây
bay, cái điệp trùng và vững chãi của núi cao rừng rậm” [23].
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ theo lối diễn đạt của dân tộc mình khi nói đến
nghệ thuật xây dựng cốt truyện và khắc hoạ nhân vật, nhà văn vừa kể thừa những yếu
tố truyền thống của văn học các DTTS, vừa có sự bứt phá để sáng tạo. Đó là trong cách
xây dựng cốt truyện, phần lớn truyện ngắn của nhà văn là kiểu cốt truyện hiện đại. Đọc
truyện ngắn của nữ nhà văn Mường này, ta bắt gặp rất nhiều cốt truyện được sắp xếp
theo lối kết cấu thời gian đảo ngược, (kết thúc có hậu hoặc không có hậu). Nhiều
truyện ngắn dựa trên các tình huống xác thực nên cốt truyện của nhà văn thường rõ
ràng và lôi cuốn người đọc vì: “Những truyện ngắn viết gần đây tác giả đã linh hoạt
trong dựng truyện. Thay cho cách kể chầm chậm bằng bằng; bằng những lát cắt
nhanh mà những truyện trước kia của chị ta không hề thấy. Các truyện trước đây yếu
24
tố vạm vỡ làm đầy đủ thì càng về sau tốc độ hành động của nhân vật được đẩy nhanh
chất thơ mộng được sử dụng người đọc có cảm hứng khi theo dõi câu chuyện” [43].
Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, ta thấy có sự phân cực rõ ràng giữa cái
thiện và cái ác. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải có lối viết mạnh bạo, bản lĩnh, khai thác
hiện thực ở cả hai mảng sáng – tối, bộc lộ thẳng thắn quan điểm của mình. Tác giả
Đỗ Đức trong lời tựa Đọc truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh viết cho tập truyện Bài
xường ru từ núi đã nhận xét về phong cách viết của nhà văn: “Chị viết dữ dội, không
mập mờ và luôn rạch ròi giữa thiện và ác. Thái độ của chị là thẳng băng rõ ràng.
Trong truyện ngắn của chị, cái ác không ít lần thắng thế, nhưng chỉ là thắng thế nhất
thời. Cái thiện nhỏ nhoi nhiều khi bị lép vế, bị bóp nghẹt nhưng cái thiện luôn là mầm
sống bất diệt” [13]. Điều này thể hiện trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn. Hầu
như những nhân vật trong các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đều được xây dựng
theo sự phân tuyến đối lập giữa tốt và xấu. Nhưng trong các sáng tác của nhà văn, ta
thấy những nhân vật chính đều là những con người giàu lòng nhân ái, vị tha, đức hy
sinh và một sức sống mãnh liệt giàu nghị lực. Những nhân vật tốt, thiện đều trải qua
một quá trình đầy thử thách, khó khăn nhưng qua đó thì phẩm chất tốt đẹp của họ lại
càng toả sáng. Trong cách xây dựng nhân vật của Hà Thị Cẩm Anh cũng thể hiện rõ
có một sự ảnh hưởng của thi pháp xây dựng nhân vật của các cây bút văn xuôi DTTS
giai đoạn trước đổi mới. Khi xây dựng nhân vậy của mình nhà văn đã chú ý khắc hoạ
miêu tả nội tâm nhân vật vừa chân thực vừa sinh động. Đồng thời khắc hoạ nhiều nét
tính cách nổi bật và phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Điều này cho thấy sự trưởng
thành và tính hiện đại trong ngòi bút của bà.
Trong cách dựng truyện và xây dựng tình huống truyện nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh cũng có những dấu ấn sáng tạo riêng. Đó là những tình huống truyện hấp dẫn, ly
kỳ, lôi cuốn người đọc với nhiều cảm xúc cung bậc khi đi theo tiến trình, diễn biến
của câu chuyện. Qua tình huống truyện cũng góp phần khắc hoạ tính cách, phẩm chất
của nhân vật. Không chỉ có dấu ấn sáng tạo trong cách dựng truyện và xây dựng tình
huống truyện mà còn có dấu ấn riêng trong nghệ thuật ngôn từ của nhà văn xứ
Mường này chính là ngôn ngữ nghệ thuật mang dáng dấp các ngôn ngữ sử thi dân
gian. Đó là việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, phóng đại và câu văn trùng điệp,
25
sóng đôi trong nghệ thuật sử thi. Cùng với đó là sự sử dụng khai thác hợp lý những
nét đặc trưng của ngôn ngữ dân tộc và cách tư duy, cách diễn đạt của dân tộc mình
nên tác giả đã tạo nên sự duyên dáng hấp dẫn nhất định cho những trang văn. Ngôn
ngữ dân tộc Mường đã được bà phát huy với việc đặt đúng chỗ, đúng nơi và đúng lúc
(ví dụ như việc sử dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, những câu hát dân ca (xường)
trong lời văn)... Như tác giả Thanh Tùng đánh giá một nét phong cách nổi bật trong
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đó là: “một “bản lĩnh lãng mạn” riêng, tinh tế mà
vạm vỡ, thô tháp mà dịu mát, ngỗ ngược mà nhân tình ấm áp ?” [44].
Có thể thấy: Sự sáng tạo và hiệu quả trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Hà
Thị Cẩm Anh đã góp phần khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
*Tiểu kết chương 1
Văn xuôi DTTS trải qua các giai đoạn phát triển đã có những bước tiến đáng
kể và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Đó là sự gia tăng nhanh chóng về đội
ngũ tác giả, về số lượng và chất lượng tác phẩm; chủ đề, đề tài được mở rộng và ngày
càng phong phú hơn; nghệ thuật ngày càng được nâng cao nên đã đủ điều kiện để hoà
mình vào dòng chảy của văn xuôi hiện đại cả nước. Trong đội ngũ các nhà văn thuộc
nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau có những đóng góp đáng khẳng định có
nhà văn Hà Thị Cẩm Anh - một nhà văn nữ dân tộc thiểu số tiêu biểu xuất sắc thời kỳ
Đổi mới người đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với nền văn học dân tộc thiểu số
nói chung, với văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng, nhất là ở phương diện: khắc hoạ,
xây dựng nhân vật người phụ nữ Mường với những nét đẹp mang đậm bản sắc
Mường cũng như thân phận, những bi kịch cuộc sống mà người phụ nữ Mường đã
phải hứng chịu và đối diện trong cuộc sống thời kỳ hiện đại. Với những tác phẩm
được viết bằng cả trái tim của mình và đầy nhân hậu, với lối viết vừa truyền thống
vừa hiện đại (rất chân thực nhưng cũng đầy sắc sảo) về những người phụ nữ Mường
Hà Thị Cẩm Anh rất xứng đáng, là một nhà văn của những người phụ nữ DTTS thời
kỳ hiện đại hôm nay.
26
Chương 2
NGƯỜI PHỤ NỮ MƯỜNG - NHÂN VẬT TRUNG TÂM
TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
2.1. Nhân vật trung tâm trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
2.1.1 Khái niệm “nhân vật”
Nhà văn Tô Hoài đã cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy,
giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Đúng là như vậy, vì nhân vật không chỉ là
nơi thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm mà còn tập trung các giá trị nghệ thuật của
tác phẩm. Một tác phẩm được xem là thành công hay không chính là nhờ vào quá
trình xây dựng nhân vật. Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ
lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng
lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Có những nhân vật có tên như Thạch Sanh,Thuý Kiều, Từ Hải, Chí Phèo... Có những
nhân vật không tên (như “gã bán tơ”, “chú tiểu đồng”...), có những nhân vật có khi
chỉ hiện ra qua đại từ nhân xưng (như “tôi”, “chàng”, “thiếp”, “mình”, “ta”). Trong
một số trường hợp thì nhân vật lại không phải là con người mà là những con vật (ví
dụ như: Con cóc, con cáo, con sói, con sư tử...thậm chí là ma, là quỷ, là thần tiên);
những sự vật, đồ vật trở thành nhân vật “người hoá” mang tâm hồn tính cách như con
người. Như vậy nhà văn tạo ra nhân vật để nhận thức con người, nhận thức xã hội và
để thể hiện tư tưởng, thái độ của mình đối với con người và xã hội.
2.1.2 Nhân vật trung tâm – người phụ nữ Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh người ta như được bước vào một
không gian đặc biệt, đó là cái không gian Ba Mường (Mường Vang, Mường
Chiềng, Mường Dồ) ở thung lũng Si Dồ mảnh đất quê hương của nhà văn. Trong
đó hình ảnh người phụ nữ Mường được hiện lên với tất cả những vẻ đẹp đặc trưng
của người phụ nữ DTTS. Và phần lớn họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của
tác phẩm. Đó là nơi tác giả thể hiện thành công nghệ thuật xây dựng nhân vật,
cũng là nơi tác giả gửi gắm những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình về con
người, về cuộc sống ở xứ Mường của bà.
27
Trong 10 tập truyện ngắn và truyện vừa của Hà Thị Cẩm Anh thì có đến 7 tập
truyện bà viết về người phụ nữ. Trong các tập truyện đó thì có tới 90% số truyện nhân
vật chính, nhân vật trung tâm trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh là những người
phụ nữ Mường. Đó là hình tượng người phụ nữ Mường với vẻ đẹp truyền thống mang
đậm bản sắc văn hoá Mường, là những người phụ nữ với những hoàn cảnh thân phận
khác nhau trong cuộc sống thời kỳ hiện đại. Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh
người đọc sẽ ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ Mường - nhân vật trung tâm,
nhân vật chính trong các tác phẩm viết về miền núi xứ Thanh của bà. Nhà văn đã xây
dựng một không gian riêng cho các nhân vật của mình (không gian văn hoá, không
gian tự nhiên). Đó là tiếng Xường ru ngọt ngào, thiết tha của mẹ, của bà; là ngôi nhà
sàn lúc nào cũng ấm nồng bếp lửa; là thiên nhiên trong trẻo, rực rỡ, tươi đẹp, lãng
mạn, hoang dã và dữ dội của núi rừng, sông, suối, cỏ cây với muôn loài vật hiền lành
và hung dữ ở trong thung lũng Si Dồ - xứ xở của người Mường đã có từ xa xưa với
những huyền thoại, những câu chuyện cổ, những tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng
chày khua luống rộn rã trong những ngày hội, ngày lễ trong năm. Nơi ấy có những
người phụ nữ với váy áo rực rỡ của ngày hội, của những đôi trai gái yêu nhau; nơi
ấy có những phong tục tập quán vừa tốt đẹp, vừa lạc hậu nặng nề...tất cả được thể
hiện rõ nét qua việc miêu tả các nhân vật chính - người phụ nữ Mường trong tác
phẩm của bà. Nhưng có thể thấy đây đó trong thế giới nhân vật của nhà văn vẫn có
một vài nhân vật đàn ông chiếm chỗ, “định” trở thành nhân vật chính, nhân vật
trung tâm của truyện (Chuyện xưa, Đêm tháng tám, Giải vía, Bình Minh xanh ...)
nhưng chẳng mấy chốc, lại có một nhân vật phụ nữ xuất hiện và can thiệp vào rồi
trở thành nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong câu chuyện. Vậy là cuối cùng,
các nhân vật người phụ nữ Mường, tưởng là vai phụ, bỗng nhiên có mặt ở giữa
trung tâm của câu chuyện, để khi tác phẩm khép lại, người đọc nhớ họ hơn là nhớ
nhân vật đàn ông vốn ban đầu là nhân vật chính kia. Có thể khẳng định rằng, số
lượng truyện ngắn mà nhân vật người phụ nữ Mường là nhân vật chính chiếm đại đa
số trong sáng tác của nhà văn. Ví dụ như trong các truyện ngắn: Suối lạnh (hình
tượng mế), Chuyện xưa (Vạ Cát), Đêm tháng tám (Mẹ), Chỗ ngoặt của con đường
(Hảo), Mưa bụi (Niên), Bản xường ru từ núi ( Cầm), Cha mẹ và tôi..và (Bà lời),
28
Mẹ tôi (Nàng Sam), Gốc gội gạo xù xì (Tôi, chị Sun), Trăng Rằm, Một nửa của
người đàn bà (hai chị em), Cuộc đời bị đánh cắp (Bà Cúc, Xuyến cô con dâu), Giải
vía (Chị), Của hồi môn (Mẹ), Ngược chiều mở cửa (Hai mẹ con), Vợ liệt sỹ (Bà
Xanh), Bình minh xanh (Cô giáo Hân), Bà Ngoại (Bà lão)... Hàng loạt truyện ngắn
với nhân vật nữ ở các lứa tuổi, có các hoàn cảnh số phận khác nhau đã được nhà văn
xây dựng thành hình tượng trung tâm trong tác phẩm của mình. (Chúng tôi xin đưa
ra bảng thông kê các nhân vật nữ là nhân vật chính, trung tâm trong truyện ngắn Hà
Thị Cẩm Anh ở phần Phụ lục).
2.2 Những nhân vật phụ nữ với vẻ đẹp truyền thống mang đậm bản sắc văn
hoá Mường
2.2.1 Vẻ đẹp về ngoại hình
Phụ nữ luôn là biểu tượng cho cái Đẹp, phải chăng vì thế người nghệ sĩ nói
chung, các nhà thơ, nhà văn nói riêng là những người đắm say và thường có cảm hứng
mãnh liệt trước cái Đẹp đó. Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh của chúng ta cũng vậy, bà đã viết
về những người phụ nữ Mường với cả một niềm say sưa, cả một tấm lòng yêu thương
tha thiết, tự hào và trân trọng. Hình tượng người phụ nữ Mường hiện lên trong những
trang văn của bà thật đẹp đẽ, hấp dẫn, sinh động và đáng yêu, đáng trân trọng.
Truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đã để lại trong lòng người đọc những ấn
tượng sâu sắc về vẻ đẹp của người phụ nữ DTTS – vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp
nội tâm. Nhân vật người phụ nữ Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh
hầu hết đều là những người có vẻ đẹp ngoại hình. Người phụ nữ được miêu tả với
vẻ đẹp tự nhiên, khỏe khoắn, phồn thực. Vẻ đẹp ngoại hình đó hiện ra trong lời
miêu tả trực tiếp của nhà văn, có lúc lại được thể hiện thông qua cái nhìn gián tiếp
từ nhân vật khác. Dù trực tiếp hay gián tiếp, người phụ nữ trong các truyện ngắn
của bà đều được miêu tả có vẻ đẹp ngoại hình một cách rõ nét, sinh động. Đó là vẻ
đẹp tự nhiên đầy sức sống, mạnh mẽ, tươi tốt, rực rỡ, đầy tính phồn thực của
những cô gái xứ Mường.
Ta bắt gặp vẻ đẹp của Niên trong truyện ngắn Mưa bụi qua cái nhìn của anh
thanh niên Đán: “ Người thiếu nữ Mường Dồ nhỏ nhắn, xinh đẹp, có mùi thơm da thịt
nồng nàn, thân thể mượt mà và trắng tinh. Đôi vú đầy đặn, với hai núm vú đỏ hồng
29
ngập trong cánh hoa mầu nắng sáng. Chỗ eo bụng thon nhỏ với những đường cong
thánh thiện của người thiếu nữ” [7, tr.195]. Vẻ đẹp khoẻ mạnh, đầy hấp dẫn bởi sự
thánh thiện đó đã khiến cho“Đán yêu Niên, yêu Mường Dồ, yêu bãi sông nơi có Niên
của anh biết mấy! Hình bóng người con gái vùng sơn cước này sẽ theo anh vào
những trận đánh, sẽ tiếp sức cho anh và khiến cho anh phải một đời đau đáu nhớ
thương”[7, tr.196]. Người đọc cũng sẽ hình dung rõ nét về vẻ đẹp của Niên khi nhà
văn tập trung miêu tả những chi tiết về khuôn mặt và đặc biệt là đôi mắt – “cửa sổ
tâm hồn” của người thiếu nữ ấy: “Khuôn mặt trái xoan trắng hồng. Nhất là đôi mắt!
Đôi mắt của cô nàng như hút mất hồn chàng trai trẻ... Đôi mắt đen sáng ngời ngợi
của người thiếu nữ Mường Dồ cụp xuống, hai má đỏ lửng” [7, tr.198]. Cũng giống
như nhà văn Cao Duy sơn miêu tả đôi mắt của Dình (trong Hoa bay cuối trời). Nó đã
phản ánh được tất cả tình cảm, tâm hồn của người con gái ấy sau bao nhiêu năm gặp
lại người mình yêu. Đôi mắt ấy nói lên tất cả những điều mà Dình muốn nói trong
thời khắc thật đặc biệt: “Khơ nhìn vào mắt nàng. Ở đó nườm nượp những người đang
đổ về lễ hội pháo hoa Pác Gà. Rừng đào nở hoa thắm đỏ, co suối xuân trong vắt và
giá buốt, chiếc vòng đỏ đeo vào cổ tay trắng tròn của nàng...Ngày xưa, ngày xưa như
hiện về trong đôi mắt nàng cười” [36, tr.30]. Khắc hoạ nhân vật qua những chi tiết
đặc biệt về ngoại hình là một thủ pháp quen thuộc được nhà văn Hà Thị Cẩm Anh
cũng như nhiều tác giả DTTS đã sử dụng để làm nổi bật lên tính cách của nhân vật
trong tác phẩm của mình.
Khi miêu tả vẻ đẹp của những người con gái Mường nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh thường ví họ với hình ảnh của loài hoa. Có lẽ vì nhà văn nhìn bông hoa nào
của núi rừng cũng mang một vẻ đẹp của chính người phụ nữ Mường mà bà yêu quý.
Vì vậy người đọc dễ hình dung về một vẻ đẹp hoang sơ, khoẻ khoắn không kém
phần rực rỡ như vẻ đẹp của nàng Sam (Mẹ tôi) ở Mường Đủ sang làm dâu ở Mường
Ca Da: "Nàng đẹp như bông hoa Xảnh Canh trên núi cao. Nàng đẹp như Nàng Nga
trong truyện thơ cổ của người Mường". Nàng đẹp đến nỗi: "Xuống hón tắm thì cá cờ
quên lội, nàng đi ra bãi thì chim Chẻo Pheo thôi hát. Nàng vào rừng lên núi thì
vượn thôi kêu. Con trai Mường Ca Da nhìn thấy nàng thì tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Con
gái Mường Ca Da nhìn thấy nàng thì buồn day, buồn dứt" [7,tr.331]. Hay đó là vẻ
30
đẹp của nhân vật Chị trong Quả còn, Chị là một cô gái đẹp,vẻ đẹp của chị được so
sánh với những bông hoa, một vẻ đẹp thanh khiết, trong lành như buổi sớm mai ở
vùng sơn cước: “Chị xinh đẹp như một bông hoa rừng.Tự nhiên, hoang dã và óng ả
như ánh mặt trời buổi sớm. Môi chị đỏ thắm. Da trắng. Đôi mắt sáng long lanh.
Răng trắng như ngà, tóc dài chấm đất ” [7,tr.273]. Bên cạnh việc miêu tả người phụ
nữ Mường trong những nét đẹp tự nhiên nhà văn còn chú ý nhấn mạnh đến vẻ đẹp
truyền thống của người con gái Mường, một vẻ đẹp đằm thắm, duyên dáng, mặn mà
mà thời gian cũng không thể làm mất đi - qua lời kể của bà mẹ chồng (Bài xường ru
của núi) : “Cái nhà cô này đẹp quá! Rõ là mắt phượng lưng ong môi cắn chỉ. Người
nhà gác mà thuần khiết, mềm mại óng ánh như mặt trời buổi sớm. Đàn bà như thế
này đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con” [7,tr.240]. Qua mấy chi tiết miêu tả về
vẻ đẹp của cô Cầm khiến ta nhớ đến câu ca của các cụ xưa “Những người thắt đáy
lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”. Câu ca chỉ vẻ đẹp đảm đang
của người phụ nữ. Phải chăng đó cũng là vẻ đẹp của cô Cầm một người phụ nữ
Mường xinh đẹp, khoẻ mạnh, giàu nghị lực, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó, hy
sinh tất cả để nuôi con nên người và gây dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp dù
người chồng đã phụ bạc cô. Còn cô Xuyến (Cuộc đời bị đánh cắp) lại có một vẻ đẹp
thanh thoát, đáng yêu, dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, mái tóc dài, thẳng tắp,
luôn óng mượt “Tóc dài, da trắng, môi cắn chỉ và đặc biệt hai hàm răng trắng ngà
ngọc và đều tăm tắp”. Hay nhân vật Sun có vẻ đẹp thanh tú, tươi tắn, hồng hào với
mái tóc dài chấm sàn khi đã qua cái thì con gái: “Nhưng nét mặt nhẹ nhõm, thanh tú.
Sống mũi thẳng. Cái miệng tươi. Đôi môi đỏ thắm của chị không theo năm tháng mà
nhạt nhoà đi. Da chị vẫn trắng. Nhất là mỗi khi chải đầu, tóc chị xoã xuống dài tới
chấm sàn nhà” [7,tr.372]... Khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ Mường
nhà văn rất hay dùng các câu văn miêu tả trực tiếp và thủ pháp so sánh ví von vẻ đẹp
của họ với những bông hoa của núi rừng vừa rực rỡ, vừa ngát hương. Vẻ đẹp ấy được
biểu hiện một cách đa dạng, sinh động trong từng truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh.
Mỗi người được miêu tả với một nét đẹp riêng, tạo nên ấn tượng riêng khiến cho người
đọc khó quên được.
31
Khắc hoạ vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ Mường nhà văn không chỉ miêu
tả qua khuôn mặt, đôi mắt, làn da, mái tóc mà còn là vẻ đẹp của người phụ nữ đầy
bản năng yêu, bản năng sống, khả năng tồn tại trong bất cứ môi trường hoàn cảnh
nào. Nhân vật Mế trong truyện ngắn Suối lạnh chị mang vẻ đẹp tính cách của một
người phụ nữ chân chất, mộc mạc, vừa thể hiện bản năng sống dồi dào mãnh liệt, vừa
mang vẻ đẹp ngoại hình vừa có tính cách tự chủ, năng động trước cảnh ngộ của cuộc
đời mà chị phải đối mặt, phải gánh chịu.
Nhưng bên cạnh những nhân vật người phụ nữ Mường có ngoại hình đẹp nhà
văn cũng đi vào miêu tả ngoại hình của người đàn bà gian xảo, thủ đoạn và ghê gớm
ví dụ như trong Của hồi môn với hình ảnh : “Đôi vú chảy xệ. Da bụng bầy nhầy. Mặt
bự phấn son nhưng cặp giò và đôi tay thì vẫn còn rất đẹp” [7, tr.183]. Qua những chi
tiết đó đã thể hiện rõ bộ mặt và bản chất của người phụ nữ chuyên sống bằng nghề
kinh doanh thân xác người khác, thậm chí là của chính mình để kiếm những đồng tiền
bẩn thỉu mà trở nên giàu có. Ta thấy rùng mình trước dáng vẻ của người đàn bà đã
từng lang chạ với bao gã đàn ông nhưng vẫn muốn lấy một nhà thơ tử tế làm chồng
để che mắt, để “oai”, làm sang với thiên hạ. Cũng như bao nhà văn dân tộc thiểu số
khác, Hà Thị Cẩm Anh cũng có quan niệm về mối tương quan thống nhất giữa ngoại
hình và tính cách con người. Từ dáng vẻ bề ngoài thì tính cách tốt - xấu, thiện - ác,
ngay thẳng - gian xảo, thật thà - dối trá sẽ được lộ diện. Tuy nhiên, bên cạnh những
nhân vật có ngoại hình và tính cách thống nhất (như các nhân vật: nàng Sam, cô Cầm,
Niên, Sun...thì trong sáng tác của nhà văn vẫn có những kiểu nhân vật được miêu tả
không có vẻ đẹp ngoại hình nhưng lại có tấm lòng thơm thảo, có tâm hồn vị tha, nhân
ái. Đó là cô gái có khuôn mặt dị thường trong Gốc gội xù xì. Cô xuất hiện với khuôn
mặt dị dạng, xấu xí: “Không có môi trên, mũi chỉ là hai cái lỗ rộng hoác, đen ngòm
được đục thủng cho thành một lỗ thở giữa một khối thịt dày mà người ta vẫn quen gọi
là mặt” [7, tr.376]. Ta đã thấy trong các câu truyện cổ tích xưa những nhân vật xấu
xí đều là nhân vật đội lốt và cuối cùng đều được hoá thân để trở thành những chàng
trai tuấn tú, những cô gái xinh đẹp thì nhân vật người con gái xấu xí trong sáng tác
của Hà Thị Cẩm Anh không hề có yếu tố “kì ảo” để biến đổi ngoại hình như thế.
Nhân vật cô gái có vẻ ngoài xấu xí đó lại có những phẩm chất tốt đẹp (hay nói khác
32
đi là lại có nhan sắc bên trong) nên vẫn được hưởng hạnh phúc, được mọi người yêu
thương đón nhận. Với nhà văn Hà Thị Cẩm Anh khắc hoạ vẻ đẹp ngoại hình của
người phụ nữ Mường không chỉ có vẻ đẹp khoẻ mạnh, hồn nhiên và đầy tính phồn
thực mà còn gắn với vẻ đẹp của sự khéo léo, tài hoa của người phụ nữ miền núi. Đó
là các cô gái Mường Chiềng chăm chỉ, khéo léo:“Các ả nàng lại siêng năng. Trên
mỗi ngôi nhà sàn đều dành riêng một gian để đặt khung cửi bằng gỗ cây mun được
đẽo gọt rất sơ sài nhưng trên khung là những tấm thổ cẩm dài bất tận. Trên tấm thổ
cẩm dài bất tận ấy là rồng bay, phượng múa, chim hót vượn kêu, là cỏ cây hoa lá”
[7, tr. 351]. Hoa văn trang trí trên trang phục của người phụ nữ Mường do họ tạo ra là
cả một công trình nghệ thuật. Nó không chỉ đơn thuần là yếu tố làm đẹp mà còn là
mối giao cảm giữa con người với thiên nhiên. Những nét hoa văn tinh tế, rực rỡ sắc
màu trong váy áo của các cô gái Mường đã tôn nên nét đẹp duyên dáng, đằm thắm
của họ. Để dệt nên những bộ váy áo rực rỡ, đẹp đẽ các cô gái Mường phải mất rất
nhiều thời gian công sức:“Mười bốn tuổi cô gái Mường vang đã bắt đầu bận rộn.
Đứa nào cũng tranh thủ nuôi riêng răm mẹt tằm, phát riêng một đám rẫy để trồng
bông vải. Mùa bông chín thì tự thu hái rồi kéo sợi nhuộm. Đêm đến thì cặm cụi ngồi
dệt cho đến tận khuya. Mười tám tuổi đã có đủ mươi đôi chăn vài chục đôi gối dăm
chục sải đầu váy với đủ các loại hoa văn tinh xảo sang trọng và khéo léo” [7, tr.
351]. Họ là những người chịu khó, hay lam hay làm, khéo tay và kiên trì. Vì vậy một
trong những vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ Mường được nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh miêu tả đó chính là sự chăm chỉ, khéo léo trong việc dệt vải, khâu áo, thêu thùa.
Và cùng từ sự kiên trì, khéo léo của các cô gái Mường mà bao bộ trang phục đậm
màu sắc dân tộc, những tấm chăn, tấm khăn rực rỡ, chiếc địu...đẹp được ra đời.
Có lẽ cũng chính vì vậy mà khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình tác giả Hà Thị Cẩm
Anh rất chú ý đến miêu tả trang phục đậm bản sắc Mường của các cô gái nơi đây.
Những cô gái Mường vốn đã có vẻ đẹp tự nhiên lại càng duyên dáng hơn trong bộ
váy, khóm và những chiếc thắt lưng có thêu hoạ tiết cỏ, cây, muông thú. Nếu các cô
gái Dao rực rỡ trong bộ trang phục nằm ở màu đỏ của những bông gình gâu; các cô
gái H’Mông lại xúng xính trong chiếc váy có nhiều nếp gấp rộng, xoè ra, mềm mại
như những cánh hoa, cánh bướm; các cô gái Tày đẹp lên trong bộ áo chàm dịu dàng
33
,duyên dáng, kín đáo - thì những cô gái Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
lại vừa rực rỡ vừa duyên dáng trong chiếc váy được trang trí bằng hoa văn thổ cẩm
nổi bật. Cạp váy ôm sát ngực là một điểm nhấn duyên dáng, mềm mại cho người phụ
nữ và thể hiện sự khéo léo của người mặc váy: “Bộ váy cóm bằng thổ cẩm may rất
khéo, chiếc tênh bằng lụa sồi nhuộm màu xanh lá mạ, chiếc khăn đội đầu cũng bằng
thổ cẩm” [7, tr.198]. Đó là bộ trang phục mà lần đầu tiên Niên gặp Đán đã khiến anh
“choáng váng” trước sự xuất hiện của người con gái Mường trong Mưa bụi. Hay một
cô Cầm trong truyện ngắn Bài xường ru từ núi xinh đẹp trong bộ trang phục đặc trưng
của cô gái Mường khi cô xuống thành phố tìm Lâm người yêu của cô. Cô đã chọn bộ
váy cóm mà cô cho là đẹp nhất: “Một chiếc váy đầu vuông có hình chim Tùng, chim
Tót đang bay về phía mặt trời mọc với một chiếc cóm bằng vải lụa sồi được đính hai
hạt huy bằng hai viên bạc trắng trên vai” [7, tr.238]. Và sau này khi đưa con xuống
thành phố tìm chỗ trọ học tình cờ gặp lại mẹ của Lâm, để rồi bà lão có một ấn tượng
rất mạnh cùng lời nhận xét đầy thiện cảm về vị khách mà bà ta vừa gặp: “Cô ta ăn mặc
giản dị nhưng vẫn rất đẹp. Cái váy thổ cẩm hoa văn rất tinh xảo, cái áo cóm ngắn của
người phu nữ Mường được cắt may rất khéo” [7, tr.240].
Người phụ nữ Mường không chỉ làm nên những bộ trang phục ấy mà họ còn là
người sẽ gìn giữ, lưu truyền lại cho các thế hệ sau một vẻ đẹp độc đáo mang đậm bản
sắc dân tộc qua những bộ váy áo được làm từ chính đôi tay khéo léo của họ. Để rồi
cùng với sắc hoa đào, hoa mận nở rộ vào những ngày hội xuân thì vẻ đẹp muôn sắc
màu của những chiếc cóm, khăn của người phụ nữ Mường đã góp phần làm cho
không gian của thung lũng Si Dồ như sáng bừng rạng rỡ và ấm áp:“Thung lũng Si Dồ
bừng sáng lên vì những cây đào, cây mận, vì màu sắc sặc sỡ của các dải lụa đủ màu
làm tua rua cho những chiếc còn, của cóm, của váy, của những vuông khăn thổ cẩm
đội đầu của những thiếu nữ Mường đi xem hội ném còn” [7, tr.281].
Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ Mường luôn được gắn với bộ
trang phụ truyền thống thì ở họ còn là nét đẹp của lối ứng xử văn hoá (trong tình
yêu, hôn nhân và trong tình thân gia đình và xã hội). Những người phụ nữ Mường
như: Niên (Mưa bụi), Mế ( Suối lạnh), Cầm (Bản xường ru của núi), Bà Lời
(Cha mẹ và tôi...và), nhân vật chị (Quả còn), Nàng Sam (Mẹ tôi), Bà Xanh (Vợ
34
liệt sỹ) luôn sống thuỷ chung trong tình yêu, sống hết mình và hy sinh hết mình vì
tình yêu. Họ cũng là những người luôn thầm lặng, làm lụng, chăm sóc, yêu
thương hết mình cho những người thân yêu trong gia đình với tình yêu thương,
lòng kính trọng và sự hiếu thảo.
Cách khắc hoạ hình ảnh và tính cách người phụ nữ Mường trong sáng tác của
Hà Thị Cẩm Anh đã thể hiện sự khéo léo và tài hoa của chị trong việc miêu tả các chi
tiết làm nổi bật lên vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhà văn không dựng lên cả bức chân
dung mà thường chọn những điểm nhấn để đặc tả vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật.
Nhân vật người phụ nữ Mường của chị phải chịu bao thiệt thòi, bao gian nan vất vả,
bao sự khắc nghiệt của cuộc sống nhưng ở họ luôn sáng lên niềm tin, nghị lực sống,
luôn sáng lên lòng vị tha và sự hy sinh như một nét bản chất, phẩm chất vốn có của
họ. Việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình như một bước phác hoạ đầu tiên tạo ấn tượng và
định hướng về cảm xúc, quan niệm thẩm mĩ để nhà văn tiếp tục đi sâu vào khắc họa
thế giới nội tâm phong phú và phức tạp của nhân vật người phụ nữ Mường trong các
sáng tác của mình.
2.2.2 Vẻ đẹp nội tâm - thứ nhan sắc vững bền của người phụ nữ xứ Mường
Hình tượng người phụ nữ Mường hiện lên trong các truyện ngắn của Hà Thị
Cẩm Anh không chỉ mang vẻ đẹp về ngoại hình với những nét mộc mạc, tự nhiên,
nhưng không kém phần rực rỡ mang nét đặc trưng của người phụ nữ Mường - mà
đằng sau vẻ đẹp tự nhiên ấy còn là một vẻ đẹp nội tâm - một vẻ đẹp không bị phai mờ
theo thời gian, ẩn chứa trong tâm hồn, trái tim và đôi tay của người phụ nữ. Họ là
những người con gái đảm đang, khéo léo, giàu lòng vị tha, hy sinh hết mình đối với
những người thân yêu trong gia đình, đối với làng bản, với quê hương, rừng núi thân
thương. Trong truyện ngắn Mưa bụi nhân vật chính là cô Niên: Vừa xinh đẹp, duyên
dáng, rực rỡ khiến cho chàng trai trẻ đất Hà thành choáng váng, ngây ngất ngay lần
gặp đầu tiên trên bãi hoa cải vàng rực bên triền sông ở Mường Dồ lại là một cô gái
khéo tay, có tài muối dưa cải trong ống nứa: “Cọng dưa vừa giòn,vừa chua lại vừa
ngọt, vị ngọt rất đậm đà” và ngon tới mức: "Dù sau này có tiệc tùng, canh gà, cá rán
thì cũng khó quên được vị ngon của nó" [7, tr.200]. Bao vẻ đẹp dường như hội tụ hết
trong nhân vật Niên bởi cô không chỉ là một cô gái đẹp người, mà ở Niên còn sáng
35
lên vẻ đẹp bên trong tâm hồn và trái tim của người phụ nữ. Cô rất dũng cảm, giàu đức
hy sinh, giàu lòng yêu thương và thuỷ chung hết mực trong tình yêu.Trước khi cô trở
thành trung đội trưởng trung đội dân quân gái xứ Mường Dồ, cô đã nhận được giấy
báo nhập học đi học trường Đại học Sư phạm. Đó là mơ ước cả đời của Niên nhưng
cô lại lựa chọn ở lại quê hương vào đội dân quân trực tiếp chiến đấu vì: “Niên không
nỡ bỏ lại sau lưng những bộn bề của làng quê đang nóng bỏng bom đạn mà ra đi” [7,
tr.199]. Đó chính là lòng yêu nước, là tinh thần chiến đấu bảo vệ quê hương xứ sở
trước bom đạn của kẻ thù; là sự thuỷ chung chờ đợi người yêu suốt hơn hai chục năm
trời sau khi đất nước đã giải phóng. Nhưng nét nổi bật hơn cả có lẽ chính là lòng nhân
ái, bao dung và đức hy sinh cao cả của cô khi cô đã chủ động đón người đồng
độicùng đơn vị của người yêu bị thương nặng về nuôi dưỡng, chăm sóc và thầm lặng
nuôi đứa con - kết quả của mối tình sâu đậm của cô với người yêu trên bãi cải vàng
rực ven sông trở thành một bác sĩ giỏi sau này. Thật đúng như lời nhận xét của
PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong bài viết “Đau đáu nỗi niềm về thân phận người
phụ nữ Mường trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh” về nhân vật người phụ nữ
này:“Vẻ đẹp của lòng thủy chung, đức hy sinh của Niên chính là một thứ nhan sắc
vững bền, rất "điển hình" cho vẻ đẹp của các cô gái Mường thời chống Mỹ cứu
nước” [7, tr.256].
Bằng tình yêu và sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất, con người xứ Mường này
tác giả Hà Thị Cẩm Anh đã thấu hiểu được hết vẻ đẹp bên trong của những người phụ
nữ nơi đây. Qua những trang viết của bà, người đọc không khỏi xúc động trước
những tình người, trước lòng vị tha, trước những nỗi đau đớn, oan ức... của những
người phụ nữ. Mỗi nhân vật trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đều có mỗi số phận,
cuộc đời riêng, nhưng ở họ luôn có một nét đẹp chung là lòng vị tha và đức hy sinh
cao cả. Đó là tấm lòng vị tha của Cầm trong Bài xường ru từ núi: Cô bị người yêu
phụ bạc, đã có thai với anh ta, nhưng mẹ anh ngăn cản không cho hai người lấy nhau
nên chị đành mang tiếng xấu là “chửa hoang”, bị cả bản làng và gia đình xua đuổi.
Một mình chị lặng lẽ sinh con trong rừng rồi chịu bao nỗi khó khăn, vất vả cực nhọc
nuôi con: “Chị phải gắng gượng để sống. Bị tống lên nhà bù rẫy, chị chỉ có một
mình. Một mình chị sinh nở. Một mình chị nuôi con. Nhưng năm tháng thằng Sáng
36
còn nhỏ cả hai mẹ con rất cơ cực. Thằng bé luôn luôn bị đói cơm khát sữa. Nó giống
như một viếng rẻ rách vắt trên vai mẹ” [7, tr.248]. Cuộc sống của hai mẹ con với bao
cay đắng, nhọc nhằn, cơ cực, bao buồn tủi... chị đã gửi vào lời ru qua những câu
Xường. Tiếng Xường của chị vọng vào vách đá, hoà vào tiếng gió, tiếng mưa, tạo
thành âm thanh u buồn nức nở của tiếng hát ru đẫm nước mắt:“Lêu…lêu…lằng
lôộc…lôộc…Mế phải làm gì cho bụng con được no...Mế phải làm sao cho miệng con
khỏi khát...mế muốn có mềnh cho đêm co được ấm muốn cómột mái nhà để con che
nắng che mưa...” [7, tr.248]. Nhưng sau bao mất mát, đau khổ - Cầm đã dũng cảm
đứng lên đấu tranh chống lại những hủ tục với chính những người thân yêu trong gia
đình. Đó là người cha, người anh trai cổ hủ, tham lam của cô và cái nhìn của bản
mường để đòi quyền sống cho hai mẹ con như bao người bình thường trong Mường,
trong bản để nuôi con ăn học, xây dựng cuộc sống đầy đủ, tốt đẹp. Sau này khi gặp
lại mẹ con Lâm, những tưởng chị sẽ không bao giờ tha thứ cho họ vì đã bỏ rơi mẹ con
chị trong lúc chị cần có những người giúp đỡ, chia sẻ nhất - nhưng bằng lòng vị tha
cao cả và trái tim yêu thương giàu tình nghĩa chị đã thương cảm, xót xa và chăm sóc
“bà mẹ chồng” và “người chồng đáng thương”, bỏ qua tất cả và tha thứ lỗi lầm của cả
hai mẹ con Lâm. Đến chuyện Mẹ tôi người đọc thật sự cảm động trước sự hy sinh cao
cả của người phụ nữ tên Sam. Sam là một cô gái xinh đẹp, nết na, một cô dâu thảo
hiền hết lòng chăm sóc cho mẹ chồng để chồng yên tâm đi bộ đội mà đánh giặc :
“Nàng Sam là người con dâu mà làng Chiềng và cả Mường Ca Da không tiếc lời
khen ngợi. Nàng sam đã đẹp người lại tốt nết. Mẹ chồng nàng muốn ăn chén mật ong.
Sam vào núi tìm mật ông rừng. Mẹ chồng thèm bát canh chua Sam xuống hón xuống
suối xúc cá, vào rừng hái lá chu mon. Có con dâu trong nhà mẹ chồng không phải
chịu rét mùa Đông, không phải nóng bức mùa Hè. Mẹ không phải thiếu cái đệm, cái
chăn cũng không phải thiếu cơm lạt cá.” [7, tr.331]. Thời gian cứ thế trôi đi những
tưởng nàng Sam sẽ được sống trong hạnh phúc khi người lính từ mặt trận trở về nhìn
thấy một thiếu nữ xinh đẹp ở trong nhà mình, nhà cửa gọn gàng, mẹ già khoẻ mạnh.
Chàng cảm động và “cảm ơn trời đất linh thiêng đã gửi cho chàng một cô tấm thảo
hiền của đời nay về làm vợ chàng, làm con của mẹ khi chàng đi mặt trận vắng nhà”
[7, tr.332]. Và còn hạnh phúc nào hơn khi nàng Sam biết mình sắp được làm mẹ.
37
Nhưng cũng bất hạnh bao nhiêu khi nàng Sam sinh ra một đứa con quái thai. Sam bị
đuổi ra khỏi nhà, bị dẫn vào thung lũng Mụ Dạ Dần “với đứa con dị dạng đỏ hỏn trên
tay” không có một hạt gạo, hạt muối để sinh sống. Nhưng bằng ý chí, nghị lực phi
thường và niềm tin của một người phụ nữ cô đã vượt qua tất cả xây dựng cuộc sống
ngay trong thung lũng Mụ Dạ Dần ấy. Một mình cô nuôi hai đứa con bị vứt bỏ nơi
rừng sâu vì đẻ non, thiếu tháng và bị di chứng chất độc da cam. Hơn hai mươi năm
sống một mình trong thung lũng hoang vu ấy, cô đã gây dựng cho mình một “cơ đồ”
khiến cả Mường Ca Da và làng Chiềng nể trọng. Cô được mời đi dự Đại hội: “Những
người làm kinh tế giỏi” ở tỉnh để báo cáo về mô hình kinh tế rừng và tình nguyện
“xin góp vào quỹ đền ơn của Mường Ca Da một trăm triệu đồng” để hỗ trợ cho cuộc
sống của những đứa trẻ bị nhiễm chất độc màu da cam.
Hình tượng người phụ nữ Mường trong các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh
không những nổi bật với vẻ đẹp của lòng nhân ái, vị tha và đức hy sinh mà vẻ đẹp
thuỷ chung trong tình yêu cũng là một nét đẹp trong tâm hồn tính cách của người phụ
nữ Mường. Nói về tình yêu của những người phụ nữ ấy nhà văn đã khắc hoạ những
nét phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng ở họ... Khiến cho người đọc cảm động: Họ
yêu say đắm, mãnh liệt và sống thật mình, hết mình với tình yêu và điểm nổi bật nhất
ở họ là sự thuỷ chung trong tình yêu. Sự thuỷ chung ấy là niềm tin, điểm tựa để người
phụ nữ Mường vượt qua bao chông gai, thử thách để tiếp tục sống và vươn lên. Cho
dù phải chờ đợi bao nhiêu lâu đi chăng nữa thì người phụ ấy vẫn không dễ thay lòng
đổi dạ với người yêu, với người chồng của mình. Người phụ nữ trong Đêm tháng
tám có hoàn cảnh trớ trêu: Chồng hy sinh khi chị còn rất trẻ, nhưng chị đã ở vậy suốt
mười tám năm nuôi con một mình mà không đi bước nữa. Khi cậu con trai (Hào) vì
quá thấu hiểu sự hy sinh và cô đơn của mẹ nên đã sắp xếp vun vén cho chị với một
người đàn ông tên Vũ - người bạn thân thiết nhất ở cùng đơn vị với chồng chị trước
đây: “Chị không nói gì mà cứ khóc lặng lẽ. Chị không trách mắng con nhưng cũng
không gật đầu đồng ý” [7, tr.157]. Có lẽ, do lòng chung thuỷ với người chồng đã mất
và tình yêu thương con đã khiến chị quên đi hạnh phúc của riêng mình. Tấm lòng
thuỷ chung trong tình yêu dường như thấm sâu vào tâm hồn người phụ nữ Mường của
thung lũng Si Dồ này. Truyện ngắn Mưa bụi với nhân vật Niên một cô gái xinh đẹp,
38
giỏi giang khéo tay và chung thuỷ trong tình yêu. Cô có một tình yêu đẹp với chàng
trai (Đán) thuộc đơn vị Pháo cao xạ đang đóng quần ở Mường Dồ. Cả hai đều có
nhiều kỷ niệm đẹp ở bãi hoa cải vàng bên sông và đây cùng là nơi họ hẹn gặp nhau
sau ngày đất nước giải phóng. Vì thế, dù phải chờ đợi người yêu hơn hai mươi năm
nhưng cô vẫn có một niềm tin mãnh liệt chắc chắn Đán sẽ quay trở lại và cô nhất định
chờ: “Vâng! Em sẽ chờ. Em sẽ đợi anh! Em chờ đợi anh bao lâu cũng được. Nhưng
anh à! Nhất định anh phải trở về Mường Dồ, về bãi sông này để gặp em” [7, tr.202].
Tình yêu chung thuỷ của Niên khiến ta thật cảm phục, tình yêu ấy là sức mạnh, là
niềm tin để cô chủ động đến với tình yêu có thể sống chết vì tình yêu. Trong truyện
ngắn Quả còn người phụ nữ Mường có số phận bất hạnh dù chỉ gặp anh có một lần
nhưng: “Dù chỉ, đủ thời gian để anh nắm bàn tay chị một lần, để hai người đối đáp
với nhau vài câu Xường ngắn ngủi nhưng suốt những năm tháng đắng cay nhọc nhằn
nhất cuộc đời, chị đã nương tựa vào hình bóng của anh, nụ cười và những câu Xường
của anh mà sống và với lời hứa Em à! Hết giặc rồi anh sẽ về tìm em” [7, tr.280]. Thế
cũng đủ để chị nhớ thương anh và chờ đợi hình bóng người con trai mà chị ấp ủ trong
lòng: “Chị chỉ chờ, chỉ đợi, chỉ thuỷ chung với hình bóng người con trai duy nhất ấy
mà thôi! Mùa xuân đến rồi đi. Chị vẫn đau đáu chờ” [7, tr.282]. Với niềm tin và sự
chờ đợi chung thuỷ ấy, hạnh phúc thực sự đã đến với chị khi chị gặp lại anh trong khu
rừng mà hằng ngày chị vẫn thường bầu bạn với lũ khỉ lông vàng, với đàn bướm trắng
và chim muông cỏ cây. Đến với truyện ngắn Cha mẹ và tôi...và không chỉ khiến cho
ta xót thương mà còn cảm phục trước tình yêu thuỷ chung của nhân vật bà Lời. Một
người phụ nữ xinh đẹp, dũng cảm sống hết mình trong tình yêu dù cho gia đình có
ngăn cấm vẫn một mực gắn bó với nhà chồng: “Bà phải làm tròn bổn phận của một
người ở hậu phương giúp cho người ra mặt trận yên lòng đánh giặc. Nếu cứ nhất
quyết bắt bà phải xa ngôi nhà của người lính, xa bà mẹ chồng mù loà bà sẽ ăn lá
ngón chết ngay” [7, tr.296]. Ngay cả khi bị cả bản mường xa lánh vì họ cho rằng chị
đã lấy một kẻ phản bội, một kẻ theo giặc làm chồng, chị vẫn hết lòng chăm sóc cho
mẹ chồng. Nhưng đối với người Mường thì tội phản làng, phản nước là tội nặng vì họ
đã từng thề như dao chém đá: “Thà chết một đống còn hơn sống một đứa mà phản
Mường phản nước”, chính vì thế mà một kẻ : “Rắp tâm theo giặc không bao giờ
39
được dung tha” [7, tr.292]. Đứa con gái của chị cũng vì tiếng xấu đó mà không được
đi học, không lấy được chồng. Chị không những bị chịu tiếng oan mà còn bị những
kẻ xấu ở Mường Vang quấy nhiễu, làm nhục. Nhưng chính niềm tin và lòng chung
thuỷ đã nuôi dưỡng tia hy vọng giúp chị vượt lên tất cả: “Mế tôi không bao giờ tin
cha tôi là người xấu. Là người phản bội Tổ quốc mình. Tình yêu mà!” [7, tr.303]. Và
cũng chính vì nỗi đau và niềm tin ấy mà chị bỗng hoá câm. Bởi tình yêu và nỗi đau
chị phải gánh chịu không biết giãi bày, san sẻ cùng ai trong suốt ba mươi năm. Rồi
thật bất ngờ - người đàn ông chị hằng tin tưởng và mong nhớ một ngày kia cũng đã
trở về. Chị đang câm bỗng lại cất lên lời - những lời nói giản dị nhưng chất chứa bao
nỗi niềm, bao tình yêu thương dồn nén: “Không sao đâu anh! Em chịu được mà. Em
chịu được vì em tin rằng anh sẽ trở về. Nhất định anh sẽ sống để trở về bên em và
con gái chúng ta” [7, tr.303].
Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh ta thấy trong nhiều trường hợp người
phụ nữ tuy rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khổ nhưng họ vẫn cố gắng vượt lên số phận,
vượt lên đau thương để tiếp tục sống. Khát vọng vươn lên, vượt qua khỏi mọi hoàn
cảnh khắc nghiệt của các nhân vật nữ trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh được
thể hiện ở nhiều phương diện. Có người mang khát vọng thay đổi cuộc sống hiện tại
để vươn tới tương lai tươi sáng hơn tốt đẹp hơn; có người lại khát vọng về tình yêu
đắm say, chung thuỷ; có những người khát vọng có một hạnh phúc lứa đôi thực sự...
Những khát vọng, những mong muốn chính đáng đó được thể hiện một cách sinh
động và cảm động qua những số phận không may mắn của những nhân vật nữ trong
truyện ngắn: Suối lạnh, Chuyện xưa, Cây gội già tàn tật, Đêm tháng tám, Bài
xường ru từ núi, Cuộc đời bị đánh cắp, Mẹ tôi, Một nửa của người đàn bà, Giải
vía, Bình minh xanh… Nhưng người đọc không chỉ xót xa cho số phận bất hạnh
của những người phụ nữ ấy mà hơn thế nữa còn phải cảm phục trước một sức sống
mãnh liệt, dẻo dai của họ. Bởi cho dù có rơi vào hoàn cảnh bất hạnh, đau khổ như
thế nào thì họ vẫn đứng dậy được bằng chính sức mạnh của niềm tin, hy vọng và
tình yêu của chính mình.
Có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Mường được nhà văn miêu tả khắc
hoạ sâu sắc trên từng trang viết của mình. Điều ấy, khiến cho người đọc càng thêm yêu
40
quý, trân trọng khi cảm nhận một cách trọn vẹn về vẻ đẹp của người phụ nữ Mường từ
hình thức đến tâm hồn, đến phẩm chất cao quý của họ - đúng như lời khẳng định của một
nhà nghiên cứu: “Đây là một đóng góp đáng kể của Hà Thị Cẩm Anh trong việc xây
dựng hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam với những vẻ đẹp vừa mang
những nét chung, vừa có những nét riêng, mang đậm bản sắc Mường, vừa có tính truyền
thống, vừa có tính hiện đại trong các sáng tác của mình” [51, tr.285].
2.3. Những thân phận, những bi kịch cá nhân của những người phụ nữ Mường
trong cuộc sống thời kỳ hiện đại
Tuy nhiên trong những sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh khi viết về người phụ
nữ Mường thì không chỉ là sự ngợi ca và khẳng định, tự hào, trân trọng về vẻ đẹp của
người phụ nữ mà tác giả còn để lại một dấu ấn sâu sắc, một xúc cảm mạnh mẽ, phức
tạp trong tâm hồn người đọc. Đó là sự xót xa thương cảm, là đau đớn uất nghẹn, là
sự yêu thương, kính trọng, là sự sẻ chia, đối với những số phận, những hoàn cảnh,
thân phận đầy đớn đau và bất hạnh của những người phụ nữ Mường nơi xứ Mường
xa xôi ấy. Người phụ nữ trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, dù ở Mường Vang,
Mường Chiềng hay Mường Dồ thì đều có những nỗi khổ và phải chịu thiệt thòi riêng
trong cuộc sống. Trong truyện ngắn Mẹ tôi - nhân vật nàng Sam chịu bao nỗi khổ đau
bất hạnh. Một người con gái xinh đẹp, hiếu thảo, đảm đang nhưng không được hưởng
một hạnh phúc trọn vẹn mà cam chịu chấp nhận đúng như lời tâm sự của chính nhân
vật trong tác phẩm: "Đàn bà thì lúc nào chả phải chịu thiệt thòi. Mường này, đất
nước này thiếu gì những kẻ bị mắc tiếng oan như tôi. “Phúc đức tại mẫu mà!”, cái gì
tốt đẹp thì người đàn bà được hưởng không đáng là bao. Những cái gì không tốt đẹp
thì họ cứ oằn lưng ra mà gánh” [7, tr.339]. Đây cũng chính là lời tác giả thốt lên
trong nỗi cay đắng, xót xa. Nhà văn đã đi sâu nhìn nhận và phản ánh số phận của
người phụ Mường trong các tác phẩm của mình một cách chân thực, sinh động. Đó
trước hết là sự bất bình đẳng nghiêm trọng giữa người phụ nữ với người đàn ông
trong gia đình cũng như trong xã hội (được thu nhỏ ở đơn vị bản, làng, Mường...
này). Đến với truyện ngắn Bài xường ru từ núi, ta thấy một cô Cầm mạnh mẽ, thẳng
thắn và rất quyết liệt đấu tranh để đòi sự công bằng cho người phụ nữ Mường. Cô nói
với bố, mế mình: “Tôi muốn con trai tôi có một ngôi nhà sàn để ở. Tôi muốn có đủ
41
cơm cho con tôi ăn, đủ áo cho con trai tôi mặc. Tôi muốn con trai bố mế có gì thì con
gái của bố mế cũng phải có cái đó. Con trai hay con gái đều do bố mế đẻ ra. Tôi
cũng có quyền lợi của mình” [7, tr.255]. Cuối cùng, cô đã đòi được quyền bình đẳng
giữa nam và nữ trong gia đình mình. Cô cũng có nhà, có vốn làm ăn và mế cũng lên
trông con cho cô. Người phụ nữ trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh thường bị
rơi vào bi kịch cuộc sống, nhưng trong chính hoàn cảnh đó nhân vật đã bộc lộ được
niềm tin cùng những khát vọng chân chính của mình. Đó là những khát vọng chính
đáng về quyền được sống, được yêu, được làm vợ, làm mẹ, làm chủ cuộc đời và
tương lai của chính mình. Với truyện ngắn Quả còn - người đọc không khỏi xót xa
cho nhân vật cô gái trẻ ở Mường Bi mới 10 tuổi đã bị đón về Mường Vang “lạy ma
nhà chồng” để làm “dâu ma”. Bởi vì nhà cô đã nhận nhiều bạc, nhiều trâu nhà người
ta. Và vì một lời hứa giữa hai người thợ săn Mường Vang và Mường Bi sẽ làm “du
gia” với nhau từ lúc hai đứa con chưa chào đời. Đến khi cô cất tiếng khóc chào đời
thì lễ vật của nhà trai đã được gửi đến. Nhưng trong lễ hỏi của nhà trai có chiếc bánh
chưng có nhân bên trong khiến cho họ nhà gái rất tức giận. Họ cho rằng như thế là ám
chỉ con gái họ không còn trinh tiết nữa. Như để trút giận họ hàng nhà gái ở Mường Bi
lợi dụng tục “ném rể” trong ngày lễ Pao chầu (ăn hỏi) ném những trận mưa quả chuối
xanh, quả sung, quả vả và cả những hòn đá cuội to dội xuống chú rể khiến cho cậu bé
tơi tả, máu chảy mãi không cầm. Sợ hãi, đau đớn và cậu đã bị ốm chết. Nhưng cô vẫn
phải theo về nhà trai để trở thành vợ ma đến năm mươi tuổi, cô gái ấy phải sống trong
nỗi cô đơn như một chiếc bóng trong chính ngôi nhà sàn của mình. Ngôi nhà sàn to,
“cửa man” rộng rãi, nhưng không một ai bước chân vào nhà cô, “bếp khách của cô
nguội lạnh”. Cô chỉ biết gửi lòng theo quả còn nói hộ một lời với trời cao đất rộng
rằng: “Chị cũng là một con người. Một con người sao phải sống cô đơn côi cút giữa
cuộc đời này giống như một thân cây giữa rừng đại ngàn bị người ta bứt trụi hết lá,
chặt đứt hết cả rễ, cả cành?” [7, tr.275]. Thậm chí người bản làng xa lánh chị vì cho
rằng chị là ác ma khiến nhà chồng héo hon, ốm đau. Phải chăng vì những hủ tục, lòng
tham, sự hận thù mông muội của hai dòng họ đã đẩy: “ Người con gái vô tội, xinh
đẹp, rực rỡ, thảo hiền, tài hoa, khéo tay may vá, hát Xường rất hay, làm nương rẫy
giỏi vào cuộc đời bất hạnh - như một ngục tù tăm tối, không lối thoát. Cô đã bị tước
42
đoạt tất cả: quyền yêu, quyền làm vợ, làm mẹ... một cách tàn bạo từ chính những
người thân của mình” [51, tr.262].
Lắng đọng trên từng trang viết của Hà Thị Cẩm Anh là tiếng lòng thổn thức
bà dành cho người phụ nữ Mường trong cuộc sống hiện tại xô bồ hôm nay. Đó là
nhân vật Vạ Cát trong Chuyện xưa chị bị rơi vào một hoàn cảnh, một bi kịch đau
đớn, xót xa. Đau đớn hơn, chị lại bị chính người chồng của mình lừa gạt. Chỉ vì
lòng tham mà anh ta bỏ rơi người vợ của mình. Người đã cứu “danh dự” của gia
đình khi anh ta “ăn lá cứt chim để cáo bệnh trốn nghĩa vụ quân sự” [7, tr.140].
Trong khi đó Vạ Cát thì xung phong đi Thanh niên xung phong nhưng không được
nhận nên Vạ xin vào Trung đội dân quân trực chiến, trực tiếp bắn máy bay Mỹ.
Nhưng Vạ là con người trung thực thẳng thắn khi thấy chồng mình “nhận vơ” công
trạng bắn rơi máy bay Mỹ để đi báo cáo điển hình khắp nơi: “Vạ Cát xăm xăm đi
đến gặp Bí thư Đảng uỷ xã nói tuột ra sự thật” [7, tr.142]. Nên Vạ bị “vu oan giá
hoạ ” với tội danh “chỉ điểm” cho máy bay địch và bị bắt giam ba ngày, bị viết tới
hàng chục bản tường trình. Nhưng thật tệ bạc và kinh tởm hơn chính ông Giáp -
chồng Vạ đã dựng lên những màn kịch trong cuộc đời Vạ rồi lại giả vờ ra tay cứu
vớt Vạ. Hắn đã thuê lão Cò Cà cố tình bẫy Vạ để bỏ Vạ để có cơ hội lấy con gái ông
cán bộ tổ chức dưới tỉnh - vừa già vừa xấu làm bước đệm tiến thân. Hắn dựng lên
màn kịch “ngoại tình” của vợ mình và cũng chính hắn lại còn làm ra vẻ một người
chồng tốt đứng ra bảo vệ vợ khỏi sự sỉ nhục, đánh đập của bản Mường và xin
trưởng bản cho Vạ Cát về nhà:“Làng Cốc Vàn đồng ý cho anh đem vợ về mà giáo
dục” [7, tr.145]. Nhưng đáng thương thay, câu chuyện ấy vạ Cát cứ tưởng thật để
rồi mang ơn hắn suốt bao năm trời. Để rồi, hắn còn lợi dụng vạ bằng việc mua chịu,
hay đúng hơn là cướp không 7 tấn cá lồng - vạ nuôi trên sông với biết bao mồ hôi
công sức và nước mắt. Một con người đáng thương như Vạ Cát cứ âm thầm chịu
đựng nỗi oan mà không thể nào hoá giải được. Câu chuyện kết thúc trong sự buồn
thương, đau đớn, xót xa cho thân phận người phụ nữ Mường vốn xinh đẹp, chăm
chỉ, khoẻ mạnh, dũng cảm, trung thực thế nhưng lại bị chính người chồng tàn ác,
thâm độc của mình lừa lọc, tàn hại, lợi dụng, và bị đày đoạ cho đến lúc chết. Vạ
chết trong sự khổ sở, cô đơn, co quắp trên chiếc thuyền rách nát: “Trong đống chăn
43
cũ, hình một người nhỏ bé, gày gò đang nằm co quắp. Vạ Cát không trả lời. Chân
tay vạ lạnh ngắt. Vạ Cát đã qua đời” [7, tr.146].
Dường như đau đáu trong những trang viết của Hà Thị Cẩm Anh là nỗi băn
khoăn, trăn trở trước số phận của những con người thật thà, tốt bụng mà lại chịu
nhiều oan khốc, bất công. Nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống của người dân
bản Mường để rồi cảm thông chia sẽ cho những số phận bất hạnh của người phụ nữ
Mường. Còn có bao nhiêu thân phận thiệt thòi, đau khổ, bao bi kịch cuộc đời như thế
nữa trong các tác phẩm của Hà Thị Cẩm Anh - khiến cho người đọc không thể không
cảm thương, xa xót, bùi ngùi. Đó là hoàn cảnh số phận của một cô gái Mường trong
truyện Của hồi môn, cô là một cô gái xinh đẹp, trong sáng, lãng mạn, cả tin để đến
nỗi bị mất chồng, mất con, bị hành hạ, gả bán cho một thằng nghiện ngập, phải làm
con ở, là con “ma xó” chính trong ngôi nhà của người đàn bà nanh ác, tàn độc cướp
chồng cướp con của mình. Biến cô thành con “ma xó” trong bếp khách, đói ăn, rách
mặc. Khiến cô héo hon, mòi mỏi, đau khổ “xanh như lá, gầy như que, hai mắt trũng
sâu như mắt Voọc già”7, tr.192]. Và chết trong sự cô độc, trong một đêm mưa gió ở
Mường Dồ: “Một mình sống, một mình chết trong căn nhà siêu vẹo ở thẻo đất thừa,
chật hẹp mài tận cuối làng Chiềng Va” [7, tr.179]. Sự ân hận muộn màng cùng với
“của hồi môn” là “một bài thơ chân thực và tử tế” của người đàn ông lãng mạn
nhưng hèn nhát, vô trách nhiệm gửi cho con gái của cô - thật là một sự mai mỉa, thật
là một cái giá quá đắt đối với cuộc sống, tình yêu với sự trong sáng, cả tin, với sự
dâng hiến, hy sinh hết mình của cô đối với một kẻ bạc tình, hèn nhát. Điều đó khiến
người đọc không khỏi bùi ngùi xót xa cho số phận của người phụ nữ Mường. Bằng
trái tim yêu thương trĩu nặng nhà văn cảm thông và bệnh vực cho người phụ nữ.
Cùng cảnh ngộ số phận như bao người phụ nữ Mường khác trong truyện Suối lạnh
số phận người con gái Mường cũng hiện lên với bao đau khổ xót xa và đầy tủi nhục.
Cô đem lòng yêu một kẻ đào ngũ với một tình yêu chân thành “ta đã yêu thật lòng.Ta
đã trao thân cho người đó” [7, tr.107]. Tưởng rằng tình yêu ấy đủ sức mạnh để cảm
hoá anh ta đồng ý quay trở về mặt trận. Nhưng trên đường trở về đơn vị anh ta đã bỏ
trốn mà cô không hay biết rồi còn nhận nhầm người đứng ra che chắn bom đạn cứu
mạng mình chính là anh ta. Cô cảm thấy hạnh phúc và tự hào biết bao khi khẳng định
44
với các nữ thanh niên xung phong người ấy, người đã hy sinh để cứu em “là chồng
em”. Và cùng họ chôn cất cho anh ta, đánh dấu phần mộ để sau này khi giải phóng sẽ
tìm lại xương cốt. Người phụ nữ Mường luôn sống trong sự thuỷ chung, tình nghĩa vì
thế cô đã nghĩ đến cái ơn, cái tình khi con gái cô mới chập chững biết đi cô đã gửi
con ở Mường Dồ, bán tất cả những gì cô có để đi tìm: “Hài cốt người đó về giao cho
người cha và quỳ lạy để xin ông tha thứ” [7, tr.109], vì giải phóng đã nửa năm và cô
sợ sẽ quên mất chỗ người đó đang nằm. Nhưng cũng vì lý do ấy lại khiến cho cô dằn
vặt, day dứt đau khổ suốt ba mươi năm trời khi cô bị kẻ gian lấy mất chiếc va li đựng
hài cốt của người lính trên chuyến tàu mà phải bất lực nhìn theo. Nhưng với nghĩa
tình sâu nặng dành cho người lính ấy cô đã quyết tâm bằng được phải tìm kiếm lại cái
mà cô đã đánh mất cho dù cuộc tìm kiếm đó khiến cô gặp bao vất vả, cơ cực, đắng
cay, tủi nhục: “Ta phải tìm lại cái mà ta đã đánh mất. Thế là ta bắt đầu cuộc tìm
kiếm của mình. Ta tìm kiếm suốt mấy tháng trời dọc theo tuyến đường sắt dài dằng
dặc. Ta lang thang như một kẻ không nhà, không cửa. Ta vật vờ như một hồn ma
không người thờ cúng. Ta cô đơn giữa biển người xa lạ. Tiền hết, ta phải đi xin cơm
thừa, canh cặn của những người tốt bụng để sống qua ngày. Ta phải chịu đói, chịu
rét. Ta bị người ta hãm hiếp. Ta đã phải cả bán mình một vài lần để lấy chút tiền lẻ
nhàu nát mà sống và tiếp tục tìm kiếm. Ta trở nên quẫy chí, dồ dại khi cuộc tìm kiếm
của ta trở nên vô vọng” [7, tr.116]. Tấm lòng chân thực, hồn hậu của người phụ nữ
Mường ấy như nước suối rừng ngọt ngào. Lòng tốt của con người ấy không gì có thể
tả hết. Ta không chỉ xót xa cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ này hơn thế
nữa còn cảm phục trước một sức sống mãnh liệt, dẻo dai của cô. Sau cuộc tìm kiếm
trong vô vọng ấy kỷ vật để lại cho cô là cuốn nhật ký của người đó đã giúp cô tìm và
đón “bố chồng” về phụng sự , chăm sóc, nuôi dưỡng:“Ngày nắng mế lên rẫy luồng
cỏ, tra hạt. Vào núi trồng luồng. Ngày mưa mế xuống ruộng be bờ, bừa đất, xuống
suối Ly Lai quăng chài xúc cá để ông nội có bát canh nóng” [7, tr.113].Và chữa
khỏi bệnh viêm khớp cho ông cụ. Cuộc sống cứ thế qua đi một mình cô tần tảo, chịu
thương, chịu khó nuôi cha già nuôi con gái khôn lớn trở thành một cô giáo. Nhưng
ba mươi năm sau anh ta đột ngột trở về. Trở thành một ông chủ giàu có, đầy uy
quyền, muốn mua cả ngôi nhà và vườn đào nơi cất giữ kỷ niệm hẹn ước của hai
45
người. Nơi:“Mỗi lần tết đến, con gái, con trai Mường Dồ đem cồng chiêng đến treo
trong vườn đào rồi hát Xường, hát đối với đám con trai Mường khác thâu đêm, suốt
sáng. Vườn đào cũng là chỗ hẹn hò của nhiều cặp trai gái trong Mường” [7,
tr.113]. Thật phũ phàng đau xót biết bao vì sự trở về của một con người “vong ân
bội nghĩa” kia lại là nỗi đau đớn khuôn nguôi của cô:“Cha tôi đột ngột trở về. Mế
tôi bị choáng váng. Bà đổ ụp xuống như một cái cây bị bão nhổ bật tung cả gốc rồi
xô mạnh xuống đất. Bà ngất đi. Rất lâu bà mới tỉnh lại. Sau khi tỉnh lại mế hoá điên
thật sự” [7, tr.104]. Không chỉ hoá điên cô nhảy bùm xuống suối để trẫm mình giữa
trời đông mịt mù giá rét. Nỗi đau tê tái của thân xác làm sao có thể bằng nỗi đau tan
nát cõi lòng của một người phụ nữ dám yêu hết mình, dũng cảm sống cho tình yêu
thì giờ đây chính tình yêu ấy khiến cho cô phải ân hận, đau khổ: “Lỗi là tại ta. Ta
đã yêu một đêm. Ta đã thương một ngày để rồi phải đau khổ suốt ba mươi năm. Ba
mươi năm là cả một đời người” [6, tr.105].
Sự hi sinh âm thầm lặng lẽ là một trong những tính cách đặc trưng của người
phụ nữ trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh. Nhưng mỗi người lại có những suy
nghĩ và cách thể hiện khác nhau. Từ đó nhà văn đã làm sáng tỏ thế giới nội tâm
phong phú của người phụ nữ qua đôi mắt quan sát tinh tế với sự trân trọng. Trong tác
phẩm của bà còn có những nhân vật khi họ rơi vào bế tắc đã tìm đến với cái chết để
quên đi đau khổ, tủi nhục nhưng lại không thể chết được hoặc không dám chết. Vì
nếu cái chết của họ làm khổ những người thân thì họ trở thành ích kỉ. Và nếu như
không thể chết được thì họ sống cam chịu, âm thầm lặng lẽ hi sinh và cống hiến. Và
cũng chính vì vậy, lòng trắc ẩn, sự cả tin, đức vị tha và sự hi sinh hết mình của họ -
nhiều khi bị lợi dụng một cách tàn nhẫn, nhiều khi đã trả giá bằng cả cuộc đời: bị mất
tên tuổi, mất danh dự, không nơi nương tựa, bị hàm oan suốt cả cuộc đời. Đó là Vả
Lủ trong Cuộc đời bị đánh cắp một cô thanh niên xung phong dũng cảm đồng thời là
một y tá ở chiến trường. Cô có lòng tốt giúp đỡ đẻ cho một thiếu phụ sinh con trong
hang đá. Lòng tốt của cô chân thành nhưng đã bị người ta phụ bạc. Chính kẻ đó lấy
cắp tư trang, giấy tờ và bỏ lại cho cô đứa con trai còn đỏ hỏn. Cô hoang mang lo sợ
định ôm đứa bé nhảy xuống vực tự tử. Nhưng nghe tiếng khóc xé lòng của đứa trẻ, cô
quyết định bế đứa trẻ trở về quê nhà. Vừa đặt chân đến đầu làng cô đã bị bắt bị tù
46
đày vì bị chịu tiếng oan là đảo ngũ, ăn cắp thuốc men của đơn vị. Cô chỉ kịp ấn đứa
trẻ “ốm yếu hôi hám” vào tay cha già để họ nuôi đứa bé thay cô trong “nỗi đau đớn
vừa xấu hổ trước hàng xóm láng giềng vì có đứa con gái hư hỏng này. Đã ăn cắp
thuốc men của thương binh, đã đào ngũ, lại còn chửa hoang đem đứa trẻ không bố về
nhà!” [7, tr.105]. Bố mẹ cô nuôi thằng bé trong sự nghèo khó, thiếu thốn phải đi xin
từng giọt sữa cho đến khi cô ra tù. Cô đã phải ngậm đắng nuốt cay sống trong sự
khinh bỉ, xua đuổi, ghét bỏ của bản mường để nuôi đứa trẻ bằng tình thương yêu của
một người mẹ. Một mình cô lặng lẽ nuôi đứa trẻ bị bỏ rơi khôn lớn đến lúc nó trưởng
thành, có gia đình và công việc. Thì cô lại bị phản bội một lần nữa từ chính Thịnh
đứa con nuôi cô từng yêu thương, chăm sóc nó nên người. Từ một giáo viên giỏi:
“Một người quản lý có năng lực. Anh ta rất tận tuỵ với nhà trường với học sinh. Sống
có trách nhiệm với bản thân với mẹ già” [7, tr.502]. Nhưng từ khi lên làm Hiệu
trưởng và lấy vợ là con gái vị Phó Chủ tịch Tỉnh rồi lên chức Phó Giám đốc sở thì
anh ta ngày càng tha hoá, biến chất, tham nhũng, tham quyền. Nhất là khi Thịnh gặp
lại người đàn bà bất nhân, bất nghĩa, mang cái cái tên giả ăn cắp từ cô, rồi thăng tiến
giàu có, họ hợp tác làm ăn mà không biết đấy chính là mẹ ruột của hắn. Cô đã vạch
trần bộ mặt của người đàn bà cùng sự thật tàn nhẫn kia trước mặt con trai và con dâu:
“Mẹ kể lại chuyện trong hang đá. Mẹ lôi cái tên giả, thương binh giả của người đàn
bà kia ra. Mẹ bảo đấy là tên của mẹ. Chế độ thương binh của mẹ. Là cuộc đời của mẹ
đã bị mẹ ruột Thịnh đánh cắp” [7, tr.505]. Nhưng Thịnh không tin chửi mắng mẹ
mình một cách thậm tệ:“Mẹ là đồ mường hôi ngu ngốc, đồ đàn bà điêu toa, bịa đặt
và đủ thứ đồ khác nữa” [7, tr.505]. Bà ngất lịm đi trong đau đớn và tuyệt vọng, rồi ra
đi mãi mãi. Trước lúc chết, bà chỉ dặn đứa con dâu hãy mang tro cốt của bà rải xuống
dòng sông của Mường Dồ. Xuyến là một cô con dâu thảo, hiền lành, tốt bụng hết lòng
yêu thương mẹ chồng nên đã thực hiện theo di nguyện của bà: Hoả táng và đem tro
cốt về thả trên dòng sông quê hương và trả cái tên thật cho bà: Nữ thanh niên xung
phong, người Đảng viên – Bùi Thị Cúc. Cô luôn mong được người Mường Dồ tha
thứ để mình mãi mãi được ôm trọn trong lòng đất mẹ quê hương. Câu chuyện khiến
người đọc quặn thắt một nỗi niềm thương xót xen lẫn cảm phục vì sự nhẫn nhục, sự
hy sinh, sự chịu đựng... như: “Một sự không tưởng của một người phụ nữ Mường
47
trong cuộc sống thời kỳ hiện đại với mặt khuất lấp của nó - đã được nhà văn Hà Thị
Cẩm Anh phản ánh một cách chân thực, nhưng cũng đầy sự xót xa, thương cảm đến
nghẹn ngào” [51, tr.266].
Còn bao thân phận thiệt thòi, bất hạnh như nhân vật Bùi Thị Cúc nữa của
những người phụ nữ Mường khác cũng đã được nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đề cập đến
trong các tác phẩm của mình. Đó là trường hợp người mẹ xinh đẹp, giỏi giang trong
truyện ngắn Cha mẹ và tôi...và bị oan uổng mấy chục năm trời vì tội “chồng đi bội
đội, bị giặc chiêu hồi, ăn cắp tài liệu mật, giấy tờ của đơn vị”. Người mẹ trẻ ấy sống
trong sự ghẻ lạnh, khinh bỉnh của bản mường. Vì chị xinh đẹp nên mấy lần bị tên Chủ
nhiệm Hợp tác xã có ý định chiếm đoạt nhưng không thành, hắn đã đẩy cuộc sống
của hai mẹ con chị trở nên khốn khó hơn. Chị đau khổ uất ức đến tột cùng nên đã bị
câm. Nhà chị không ai đến “làm khách”, “Người Mường Vang bảo: Nhà tôi giống
như một đống cứt thối, chó ỉa bậy, muốn lấy xẻng xúc đổ xuống sông, xuống rãnh cho
sạch làng” [7, tr.292]. Cô con gái lớn xinh đẹp cũng vì thế không lấy được chồng,
không được đi học. Nhưng sự thật thì chồng chị là một người “trai Mường tốt” anh ta
nhận nhiệm vụ bí mật không thể thông tin cho vợ con biết, khiến vợ con phải chịu
tiếng oan trong suốt 30 năm: “Thật khổ cho em. Anh không ngờ vì anh mà em phải
chịu khổ thế này?” [7, tr.303]. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn của Hà Thị
Cẩm Anh luôn nhận những thua thiệt, những đau khổ về bản thân mình. Họ sống với
một tấm lòng nhân từ, vị tha, bao dung của phẩm chất, như là “ thiên tính nữ”. Vì gia
đình, vì những người thân yêu, họ sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của cá nhân mình.
Nhân vật chính của nhà văn luôn là những người phụ nữ Mường có sức sống nội tâm
với những khát khao mãnh liệt ẩn tàng. Nhưng con người ta đâu chỉ sống với những
khát khao, người ta phải sống nhiều với trách nhiệm, nghĩa vụ, đôi khi phải hi sinh
lặng thầm, nhẫn nại và câm nín đến tan nát cả cõi lòng.
Trong tác phẩm Một nửa của người đàn bà là một câu chuyện rất đau lòng về hai chị
em ở từ mường xuống phố. Hai chị em cùng được sinh ra ở bản Mường Chiềng, cha mẹ
mất sớm, đường ai nấy đi. Người chị đẹp người, đẹp nết, hiền lành, xinh xắn giàu tình
cảm; cô em không xinh đẹp, thấp lùn và béo mập. Mỗi người một phận: Cô em sau khi
học xong đại học bằng mọi cách để ở lại làm việc tại thành phố nhờ vào mối quan hệ
48
không mấy tốt đẹp giữa cô và người đàn ông mà sau này là chồng của cô. Còn cô chị học
xong phổ thông, không thi đại học mà vội vã lấy chồng, rồi vội vã ly hôn vì chị đã bị
chồng mình lừa ngay trong tuần trăng mật, chị là miếng mồi ngon, là thứ hàng hoá có giá
để chồng chị đem ra lừa phỉnh, mặc cả, đổi chác, bán mua quyền chức. Hai chị em hai
cảnh ngộ khác nhau nhưng lại có chung một nỗi bất hạnh không thể ngờ được:“Cái nửa
kia của người đàn bà ở hai chị em chỉ là một người. Đứa con gái duy nhất của người
chị chính là con của chồng người em! Sự thật bất ngờ và phũ phàng đó đã khiến cho
hai chị em vốn rất yêu thương nhau, bảo vệ nhau rơi vào cảnh bẽ bàng, không thể cất
lên nổi một lời” [51, tr.268].
Cuộc sống thanh bình, giản dị của những con người nơi bản mường đang đứng
trước những cơn bão của nền kinh tế thị trường. Nếp sống nơi vùng đất Ba Mường,
quê hương trong trẻo, hồn nhiên của nhà văn cũng đang đứng trước sự đổi thay: Rừng
bị tàn phá, nước sông thì ô nhiễm vì nạn đào vàng trái phép, nguồn lợi thuỷ sản cạn
kiệt, thú quý bị tận diệt...Sự thay đổi, cùng quá trình “ đô thị hoá” đã phá vỡ, đảo lộn
cuộc sống vốn bình yên, êm đềm, thơ mộng của con người ở xứ Mường. Những con
người sống chân thành, thật thà đã thành truyền thống nên họ không có sức đề kháng
cho những lừa lọc, mánh khóe. Sự xâm lấn đấy đang ngày ngày len lỏi vào cuộc sống
của con người nơi đây, nhất là đối với người phụ nữ Mường. Những cơn bão táp đó
đã đẩy người phụ nữ vào những bi kịch. Sự thay đổi đó như Phạm Duy Nghĩa nhận
xét: “Sự xâm thực của thương trường phá vỡ trật tự rừng xanh, lối sống thực dụng
làm rạn nứt nếp nghĩ truyền thống, cái xấu xa phi pháp khuấy đảo sự thanh bình của
làng bản” [27]. Cơn bão táp của thị trường ấy đã cuốn con người, đặc biệt là người
phụ nữ Mường một lần nữa rơi vào bi kịch của cuộc sống.
Điều đáng nói là: con người xứ Mường vốn chân chất, thật thà, giàu nghĩa
tình thì vụt trở thành tham lam, thiển cẩn, gian giảo, lọc lừa lẫn nhau... chỉ vì tiền.
Những người phụ nữ Mường nơi bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa quê hương - cũng
mau chóng "hòa nhập" với cuộc sống hiện đại, đối mặt với thách thức, hiểm nguy, sự
khốc liệt của cơ chế thị trường. Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã phát hiện ra điều đó, đã
đau đớn, dằn vặt, trăn trở... vì điều đó. Chị xót xa chỉ ra sự tha hóa, sự biến chất... của
bao cô gái, bao phụ nữ Mường - khi họ không đủ sức đề kháng do không có kinh
49
nghiệm sống, nên đã bị cuốn vào guồng quay của cuộc sống "chỉ vì tiền" ở xứ sở
Mường Dồ này một cách thảm hại. Trong truyện ngắn Ngược chiều cửa mở là câu
chuyện về một gia đình có hai mẹ con ở Chiềng Va. Cuộc sống của hai mẹ con từ khi
có chuyện “ mở cửa” ở Mường Chiềng diễn ra đã có nhiều thay đổi. Cuộc sống không
phải chịu bữa đói, bữa no như trước nữa. Người mẹ nhanh chóng bắt nhịp với “cơ chế
thị trường” , bị biến chất trước sự cám dỗ của đồng tiền: “ Cơn nghiện khó cai thời
mở cửa”, như lời kể của cô con gái:“ mẹ tôi cũng cuống quýt lên vì chuyện tiền nong.
Bà quyết tâm kiếm thật nhiều tiền theo cách của mình” [7, tr.358]. Để có tiền làm ăn
người mẹ đã bán căn nhà sàn năm gian và cả năm ha ta rừng khép tán để mở cửa hàng
tạp hoá rồi sau đó là bán cả cơm khi có người đặt ăn. Người mẹ thay đổi hắn “đôi môi
lúc nào cũng ngọt lịm tiếng mời chào”, lẳng lơ, lúng liếng cười và chèo kéo khách.
Rồi để có cơ hội làm ăn thuận tiện người mẹ đã quan hệ “ bồ bịch” với Cả Sún -
Văn Sướng chỉ đáng tuổi em, tuổi cháu mình.
Sự đổi thay của “cơ chế thị trường” diễn ra nhanh chóng ở Mường Chiềng
khiến cho cô con gái mới lớn cũng bị kéo vào vòng xoáy của thời kỳ “ mở cửa”. Chỉ
học hết cấp hai nhưng được ông chủ tịch để ý đến cô được vào làm ở Uỷ Ban xã Ba
Mường. Sau đó là những lần ông Chủ tịch kéo cô đi tiếp khác cho Uỷ ban rồi lên
làm “kế toán ngân sách”. Sự thay đổi nếp sống của cô con gái chính là khi làm kế
toán cô càng thân hơn với ông Chủ tịch, được ông ta kể cho nghe những bất hạnh
trong chuyện tình cảm gia đình của mình để lấy lòng cô và đặt vào tay cô những tập
tiền. Đồng tiền, vật chất có sức mạnh một cách ghê gớm khi nó khiến cho cô con gái
bị cưỡng bức mất đi đời con gái và cả tương lai phía trước của cô. Khiến còn cô mắc
nghiện ma tuý vì đi theo “ bưởng trưởng” của bãi vàng đang mắc HIV giai đoạn cuối
nhưng cô: “Thây kệ! Tôi cần gì nữa đâu? Tôi chỉ cần tiền. Tôi cần tiền để thảo mãn
cơn nghiện của mình. Tôi đã mắc vào cả hai thứ nghiện: Tiền và ma tuý. Cả hai thứ
nghiện này đều rất khó cai” [7, tr.370]. Trong "Ngược chiều cửa mở" của cái gọi là
"cơ chế thị trường" - ở nơi xứ Mường đã trở nên không còn yên ả này. Kinh tế thị
trường đang dần làm thay đổi nếp sống, suy nghĩ của con người, đẩy người phụ nữ
vào những hoàn cảnh éo le, bi kịch mà chính họ cũng không hay biết.
50
Truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đã thể hiện những số phận, bi kịch của
người phụ nữ: lỡ dở, lầm lạc trong tình yêu, éo le ngang trái trong cuộc sống gia đình,
cạm bẫy hiểm hóc trong sự biến đổi của xã hội. Mỗi người phụ nữ rơi vào một bi kịch
riêng, nhưng qua đó là tiếng nói của tác giả cảm thương cho nhân vật của mình. Để
rồi từ trong những bi kịch đó nhà văn làm nổi bật lên những phẩm chất đáng quý của
người phụ nữ.
Hà Thị Cẩm Anh đã phát hiện ra những bi kịch của số phận con người qua
hình tượng người phụ nữ Mường. Không ít lần, trong các truyện ngắn của bà, ta bắt
gặp những nỗi ám ảnh của quá khứ, những day dứt của cuộc sống hiện tại bế tắc,
không lối thoát. Những giằng níu giữa quá khứ và hiện tại như những sợi dây vô hình
khiến người phụ nữ chìm vào những bi kịch cuộc đời. Nhưng có một điểm đáng quý,
đáng trân trọng ở họ là cho dù cuộc sống có vất vả, khổ đau, dù có rơi vào bi kịch đi
chăng nữa thì những người phụ nữ Mường vẫn tồn tại, vươn lên bằng sự nỗ lực, kiên
trì, bằng lòng vị tha, sự hy sinh cao cả của mình: “Họ là vẻ đẹp“tự toả sáng”, luôn có
một sức sống mãnh liệt như loài hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời - cho
dù có bị đè nén, bị vùi dập, bị oan ức, đày ải tới mức nào đi chăng nữa” [51, tr.270].
Ta thấy điều này qua nhân vật cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, thảo hiền ở Mường Bi
trong truyện ngắn Quả còn. Dù phải sống trong cô đơn suốt 40 năm nhưng cô không
héo mòn mà vẫn xinh đẹp, luôn khao khát hướng về tình yêu mong chờ hạnh phúc:
“Chị may một quả còn. Quả còn chị may rất cầu kỳ cẩn thận. Chị gửi cả lời nhớ lời
thương và những điều ước của một người co gái vào những cái tua rua sặc sỡ của
quả còn” [7, tr.275]. Quả còn ấy cũng là kỷ vật trước khi chia tay chị trao cho anh
lính trẻ cùng với câu Xường ngọt ngào da diết. Nó đã theo anh trong suốt những năm
chiến đấu ngoài chiến trường: “Khuôn mặt người thiếu nữ Mường xinh đẹp. Quả còn.
Những câu hát Xường đã theo anh hết cả cuộc chiến tranh” [7, tr.289]. Cũng nhờ quả
còn và câu Xường đối đáp đã giúp cho cô nhận ra anh sau bao năm chờ đợi. Hạnh
phúc đã đến với cô ở tuổi 50 nhưng nó thật ngọt ngào và viên mãn. Khi cô gặp lại anh
là một người thương binh già làm kiểm lâm luôn cầm trên tay quả còn để tìm cô với
lời ước hẹn:“Em à! Hết giặc rồi anh sẽ về Mường tìm gặp lại em!” [7, tr.279]. Người
con gái Mường xinh đẹp, khéo tay, có giọng hát Xường da diết cũng được đón nhận
hạnh phúc của cuộc đời mình. Đến nhân vật Sam trong truyện ngắn Mẹ tôi cô là một
51
người phụ nữ nghị lực, với mong muốn vươn lên trong cuộc sống khi cuộc đời cô trải
qua bao năm tháng khó khăn, cay đắng. Cô hạnh phúc khi biết mình sắp được làm mẹ
nhưng đau buồn thay cô lại sinh ra một đứa con quái thai trong cái nhìn kì thị của
người dân bản cô bị đuổi vào rừng, không được sống cùng mọi người trong làng bản.
Hết nỗi đau này lại đến nỗi đau khác như đổ dồn lên người cô khi mẹ chồng qua đời
và chồng cô cũng hy sinh ngoài mặt trận.Tưởng như người phụ nữ này sẽ không đứng
dậy nổi trước những nỗi đau mà cô phải gánh chịu. Nhưng với trái tim yêu thương,
cảm thông chia sẻ nhà văn đã cho chúng ta thấy một người phụ nữ mạnh mẽ, dũng
cảm, kiên cường vươn lên trong cuộc sống. Xây dựng sự nghiệp, làm kinh tế giỏi,
nuôi con ăn học, đóng góp công sức, tiền của cho làng bản. Khiến cho những người
trong làng, trong xã phải nể trọng, coi cô là bạn, là khách quý của làng:“Rượu ngon
chỉ để mời khách quý. Nếu ai đã được mời uống rượu thì người đó là bạn tốt của
người làng chiềng. Nếu đã trở thành bạn tốt của làng Chiềng thì được người già kê
đệm thổ cẩm gần vóng mời ngồi. Mẹ đã được nhận là người làng Chiềng. Mế cũng đã
trở thành bạn, thành khách quý của làng rồi” [7, tr.329]. Làng Chiềng cũng nhận lỗi
và ân hận vì thái độ ứng xử tàn nhẫn trước đây của mình. Phải chăng hạnh phúc luôn
đến với những người tốt khi cô nuôi dưỡng hai đứa trẻ bị vứt ở trong rừng như con
ruột của mình một đứa bị đẻ non thiếu tháng, một đứa bị di chứng chất độc da cam,
cuộc sống của ba mẹ con quây quần, ấm cúng trong căn nhà sàn nhỏ. Khi cha mẹ của
đứa trẻ bị vứt bỏ trong rừng vì bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam xuất hiện xin
nhận lại con gái, cô con gái 13 tuổi ấy nhất định không chịu quay về với bố mẹ đẻ
giàu có, tàn nhẫn mà xin được ở lại với mẹ Sam:“Con không thể nhận những người
nhẫn tâm ấy làm bố mế của mình. Họ đã vứt bỏ con như vứt bỏ một con chuột chết.
bây giờ không còn phải khó nhọc nuôi con nữa thì họ lại trở về giật con khỏi vòng tay
nhân từ của mẹ” [7, tr.344]. Cô thật xứng đáng với niềm hạnh phúc của hai đứa con
ngoan. Trong tác phẩm của Hà Thị Cẩm anh không chỉ có những người phụ nữ vươn
lên bằng sự nỗ lực kiên trì mà còn bằng lòng vị tha, sự hy sinh cao cả. Đó là nhân vật
người mẹ trẻ, đẹp, thuỷ chung giỏi giang, thoát vát của Hào trong truyện ngắn Đêm
tháng tám đã vượt qua bao nỗi đau, cơ cực khi chồng hy sinh, một mình nuôi con còn
nhỏ, khi cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng chị đã cố gắng, vượt lên khó khăn
nuôi con khôn lớn trưởng thành, trở thành người chiến sỹ biên phòng. Còn chị chăm
52
chỉ làm việc phấn đấu trở thành Chủ tịch xã Ba Mường, rồi Phó chủ tịch huyện nhưng
lúc nào chị cũng vùi vào công việc như để bù đắp khoảng trống trong tình cảm của
mình. Hào cậu con trai lính biên phòng trước khi công tác nơi biên giới xa xôi đã thấu
hiểu cho lòng mẹ và hoàn cảnh của chị nên chủ động sắp xếp cho mẹ đến với bác Vũ
một người đồng đội cũ của cha 18 năm nay luôn bên cạnh lo lắng, chăm sóc cho mẹ
mình. Chị thật xứng đáng được hưởng hạnh phúc khi đứa con trai hiếu thảo mang đến
cho chị sau bao nhiêu năm chị sống cô đơn, hy sinh vì con và sự nghiệp.
Đọc những sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh người đọc hiểu và cảm phục trước
hình ảnh những người phụ nữ Mường đảm đang, tháo vát, sống trọn nghĩa vẹn tình
với gia đình, quê hương, bản Mường. Nhân vật bà Xanh vợ liệt sỹ hy sinh ở Gạc Ma
trong truyện Vợ liệt sỹ là một người phụ nữ như thế. Thật đáng trân trọng và nể phục:
“Một cô gái ngoài hai mươi tuổi đi lấy chồng. Sống chung với chồng không được
mấy ngày rồi anh ta vĩnh viễn ra đi. Anh ta để lại đằng sau mình là cô ấy và cả gánh
nặng của một đời người. Cứ tưởng gánh nặng ấy sẽ làm cho người đàn bà gục ngã
nhưng thật không ngờ: Cuộc sống cô đơn càng làm cho cô ấy tốt hơn lên” [7, tr.538].
Anh hy sinh khi chị chưa kịp có con nhưng chị vẫn gắn bó với nhà chồng trong suốt
28 năm mạnh mẽ, can trường, chăm sóc cho gia đình chồng và làm kinh tế giỏi. Khi
biết mình mắc căn bệnh ung thư hiểm nghèo bà vẫn lo lắng cho mọi người: “ Suốt
mấy ngày qua vì muốn mọi người được nghỉ ngơi thoải mái nên bà cố nén chặt hai
hàm răng lại mà kìm nén những cơn đau” [7, tr.532]. Bà viết di chúc để lại cho dòng
họ Bùi với sự chu đáo, vẹn toàn tình nghĩa của một nàng dâu hiếu thảo, đảm đang. Bà
Xanh căn dặn: “Bà đi gặp ông Quang, chồng bà vì thế người Mường Chiềng và con
cháu dòng họ Bùi đừng ai khóc lóc. Cứ coi như bà đã đi một chuyến thật xa. Bà đi về
Cõi cùng chồng thì đâu là một chuyện đau lòng?” [7, tr.545]. Cùng với ý nguyện tro
cốt của bà được rải xuống biển để bà được gặp chồng, được xum họp cùng chồng
vĩnh viễn và để tận mắt nhìn thấy bọn giặc tàn ác đã giết chồng cùng các đồng đội củ
anh. Ước nguyện ấy đã được con cháu họ Bùi thực hiện với lòng kính trọng, yêu quý,
biết ơn sâu sắc dành cho bà. Hay nhân vật người phụ nữ Mường đẹp người, đẹp nết
trong truyện Giải vía sống yêu thương không sát hại thú rừng nhưng lại lấy phải một
người chồng săn thú rừng rất giỏi. Cũng chỉ vì một lần cứu con báo lửa mà chồng chị
bỏ chị ra đi với người phụ nữ khác. Bởi anh nghe theo những lời đồn đại rằng chị có
53
vía xấu, chị do bà nàng Mường Ai - đã mất cách đây một trăm năm, cũng có tình yêu
thiên nhiên như chị nhưng rồi bị cọp bắt - đầu thai vào: “Chuyện chị cứu con báo lửa
nhanh chóng loang ra khắp mường. Ai nấy đều giật mình. Người con dâu họ Bùi này
đúng là bà nàng Mường Ai đi cớt luân hồi. Tính tình y chang như thế. Xinh đẹp.
Thích một mình dạo chơi trong rừng. Nhìn thấy con thú nào của rừng xanh cũng thấy
đáng quý,đáng yêu. Ai mà biết cách đây một trăm năm thật giả thế nào ?” [7, tr.520].
Ai cũng sợ và tránh mặt người phụ nữ ấy. Chị phải sống trong cô đơn tìm niềm vui từ
công việc trồng rừng và cứu thú làm lẽ sống. Nhưng có một chàng trai đã yêu chị từ
thời trẻ vẫn chờ đợi chị suốt hai mươi năm đã quyết định “giải vía” ngỏ lời yêu và
lấy chị: “Một bàn tay to lớn và ấm áp nắm lấy cần rượu. Nắm luôn cả bàn tay chị.
Anh đã đến. Anh bảo: tết này anh sẽ giải vía cho em. Người đàn bà cô đơn ngước mắt
lên nhìn. Chị bước qua số phận mình giữa lúc giao thừa” [7, tr.526]. Sau 20 mươi
năm đằng đẵng chờ đợi, sống cô đơn một mình trong ngôi nhà sàn lạnh lẽo mỗi khi
mùa xuân về thì giờ chị đã có đôi, có lứa, có tình yêu.
Đặc biệt người đọc không thể không xót xa cho hoàn cảnh của người con gái
khi sinh ra lại mang một khuôn mặt dị dạng trong truyện Gốc gội xù xì vì bị di chứng
chất độc da cam từ người cha từ chiến trường trở về. Khuôn mặt dị dạng của cô khiến
cả Mường Vang khiếp sợ ngay từ lúc mới sinh. Và với mẹ cô, mỗi lần cho cô bú là
một cực hình. Nỗi đau của cô gái càng kinh hoàng hơn khi chính cô tự soi ngắm
gương mặt của mình – khuôn mặt: “Không có môi trên, mũi chỉ là hai cái lỗ rộng
hoác, đen ngòm được đục thủng cho thành một lỗ thở giữa một khối thịt dày mà
người ta vẫn quen gọi là mặt. Bởi vì ngay phía trên hai cái lỗ thở lúc nào cũng phập
phồng ấy còn có một đôi mắt và một cái đầu với những sợi tóc lơ thơ đỏ như râu quỷ
thọt chân của rừng Chuông Cò” [7, tr.376]. Cô không nhận được sự yêu thương của
mẹ, mà chỉ có người bà là thương và ru cho cô ngủ bằng những bài Xường ru, bằng
những câu chuyện Mường cổ, nhưng bà đã đi về với tổ tiên mất rồi. Cô đã bỏ nhà vào
rừng để tránh ánh mắt tò mò, sợ hãi của những đứa trẻ ở Mường Vang. Trước cuộc
sống cô độc tưởng chừng như cô sẽ gục ngã và đi tìm cái chết. Nhưng không, chính
cuộc sống gần gũi với thiên nhiên đã khiến cô thấy rằng sự sống này vẫn còn có ý
nghĩa, vẫn còn hạnh phúc đối với một kẻ có hình dạng xấu xí như ma xó. Cô đã
tìm được sự đồng cảm với "gốc gội già nua, xù xì, tàn tật và xấu xí đến khủng khiếp"
54
để làm nơi trú ngụ và tâm sự. Nhưng cô cũng đã nhận ra vẻ đẹp kỳ lạ của cây Gội xù
xì đó: "Lá của cây gội cứ xanh mướt. Những cành gội to mập mạp cứ vươn rộng mãi
ra chiếm hẳn một khoảng không rộng lớn, che lấp hẳn ánh nắng chói chang của mặt
trời", cây gội đã trở thành "một ngôi nhà chung" [51, tr.273]. Cây Gội già xấu xí ấy
lại tiếp thêm sức mạnh, nghị lực sống cho cô. Nó đã thì thầm với cô rằng cô chỉ là
người bị tật thôi chứ chưa bị tàn đâu, chưa phải là đồ bỏ đi. Cô cũng là một cây Gội
già tật nguyền đang phải đối diện với bao nỗi đau và thử thách. Và chính sức sống nội
lực mạnh mẽ của con người miền núi đã giúp cô trở thành một người tốt, trở thành
chủ nhân của khu rừng, bảo vệ rừng cần mẫn và dũng cảm. Cô được chính quyền
Mường Vang trao cho một quyển sổ bìa đỏ:“Chứng nhận quyền sở hữu rừng với một
cái tên là Vạ Gội” [7, tr.388]. Hơn ai hết người xưa vẫn nói: "Trời chẳng lấy hết của
ai bao giờ". Cô gái có gương mặt xấu xí, dị dạng đó lại có một tấm lòng vàng, một
tâm hồn trong trẻo, và có một cơ thể tuyệt mĩ cùng khả năng bắn cung "bách phát,
bách trúng", khả năng bơi lội như rái cá và chạy nhanh như con hươu ở trên rừng.
Điều ấy đã khiến cô vượt qua mặc cảm, bước chân đến ngưỡng cửa của hạnh phúc.
Đón nhận tình yêu của chàng trai Mường tốt. Người đã phát hiện ra vẻ đẹp đó của cô,
đã yêu thương, dạy cô học chữ và đã lấy cô làm vợ. Cô đã có một gia đình hạnh phúc,
sinh ra một đứa trẻ "hồng hào, khỏe mạnh và xinh đẹp như một ả Nàng trong truyện
thơ cổ của người Mường" [51, tr.274]. Cô được cử đi tham gia Đại hội thể thao của
Tỉnh và cô đã hiểu: "thế nào là hạnh phúc", là tình yêu của con người bình thường.
* Tiểu kết chương 2
Trong các truyện ngắn của mình nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã khắc họa thành
công hình tượng nhân vật người phụ nữ Mường với tư cách là một người "trong
cuộc" cùng với những trải nghiệm từ chính cuộc đời mình với bao nỗi niềm, bao thử
thách, bao bất trắc... đã từng gặp phải và vượt qua – nữ tác giả đã cất lên tiếng bênh
vực thân phận người phụ nữ Mường trong cuộc sống thời kỳ hiện đại. Những nhân
vật phụ nữ Mường trong sáng tác của bà hiện lên với những mảnh đời, những thân
phận với hoàn cảnh éo le, và bi kịch trong cuộc sống để từ đó sáng ngời lên vẻ đẹp
của tâm hồn, vẻ đẹp của đức hy sinh, của lòng nhân hậu vị tha. Họ luôn có khát vọng
vươn lên, vượt thoát khỏi hoàn cảnh, luôn giữ cho mình niềm tin trong cuộc sống,
trong tình yêu. Đặc điểm của nhân vật nữ trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh được
55
biểu hiện ở nhiều phương diện từ ngoại hình đến tính cách. Những người phụ nữ
Mường với vẻ đẹp về hình thức, đẹp về tâm hồn, đẹp trong cuộc sống lao động, cuộc
sống gia đình, trong lối ứng xử văn hoá với người thân, với bản Mường, với xã hội.
Họ là những người phụ nữ mang vẻ đẹp của người lao động miền núi, rất tươi tắn, rực
rỡ và giàu sức sống. Sức sống ấy được biểu hiện ở cả ngoại hình và đặc biệt là ở thế
giới nội tâm vô cùng sâu sắc mãnh liệt của họ. Những người phụ nữ được khắc họa
với đức hi sinh âm thầm, lặng lẽ, giàu lòng yêu thương và đức vị tha. Họ còn là người
lưu giữ các vẻ đẹp bản sắc văn hoá dân tộc Mường trong cuộc sống thời kỳ hiện đại.
Để xây dựng thành công một hệ thống các nhân vật nữ với những thân phận cảnh ngộ
đa dạng, phức tạp như vậy là do tài năng nghệ thuật và tình cảm sâu nặng của nhà
văn. Bởi đây cũng chính là nguồn cảm hứng mãnh liệt, là nơi gửi gắm những tâm tư,
tình cảm, những xẻ chia của nhà văn đối với những người phụ nữ Mường thân yêu
gần gũi. Chắc hẳn khi đọc truyện ngắn của bà - đọng lại trong lòng người đọc những
những nỗi niềm đau đáu, những xót xa, trăn trở, những sẻ chia chân thành. Cảm xúc
ấy được thể hiện qua từng trang viết, qua mỗi tác phẩm và gửi gắm trong mỗi hình
tượng nhân vật người phụ nữ Mường: “Và cũng chính hình tượng nhân vật này đã
đem lại cho bà những thành tựu đáng ghi nhận, đã tạo cho bà một "thương hiệu"
riêng: nhà văn đích thực của những người phụ nữ Mường” [51, tr.260].
56
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NGƯỜI PHỤ NỮ
Nhân vật là một yếu tố vô cùng quan trọng bên cạnh những yếu tố tạo nên sự hoàn
chỉnh và thành công của tác phẩm văn học. Với dung lượng hạn chế của truyện ngắn để
gây ấn tượng cho người đọc nhà văn phải tập trung tài năng, sức lực vào khắc họa những
chi tiết của nhân vật và liên quan đến nhân vật. Tầm quan trọng của nhân vật được khẳng
định: Để có những nhân vật trường tồn trong lịch sử văn học, hoặc tối thiểu cũng tạo ra
những ấn tượng có sức ám ảnh, chinh phục với độc giả đương thời, nhà văn phải có dụng
công và tâm huyết trong việc chọn lựa và xác định những thủ pháp khắc họa nhân vật...
[29;118]. Truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật
người phụ nữ Mường với những thủ pháp nghệ mang dấu ấn riêng.
3.1 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật và ngôn ngữ nhân vật
3.1.1 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật
Trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, ta cũng nhận thấy một nét nổi bật trong
nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật. Đặc biệt khi nhà văn xây dựng những nhân vật
trung tâm – người phụ nữ Mường. Họ là những người phụ nữ miền núi hiền lành, chăm
chỉ, chịu thương, chịu khó. Vẻ đẹp của họ như được sáng lên trong ánh sáng trong của
cái thiện, của lòng nhân ái, đức hy sinh, vị tha và lòng thuỷ chung hết mực. Bên cạnh đó
họ cũng là những người phụ nữ kiên trì, mạnh mẽ, mạnh liệt, có thể làm nên những điều
kì diệu trong cuộc sống.
Có thể thấy rất rõ nét tính cách hiền lành, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó tới
mức đáng kính trọng, đáng xót xa của những người phụ nữ Mường qua các câu chuyện
của nữ nhà văn. Đó là hình ảnh một người mẹ hiền lành, tần tảo, chăm chỉ lao động ngày
đêm trong Đêm tháng tám. Chị không có một khoảng thời gian nhàn rỗi nào bởi có bao
nhiêu việc phải làm: “Nay đến chòm này, ngày mai đã phải sang làng khác để hội họp
triển khai dự án này rồi chương trình nọ nên mẹ cứ xoay như chong chóng. Khi được
điều lên huyện, mẹ càng bận hơn. Bà cứ đi công tác liên miêm. Về đến cơ quan lại bù đầu
57
lên vì chuyện họp hành” [7, tr.151]. Qua lời kể của Hào - đứa con trai của chị - ta thấy
chị cố vùi đầu vào công việc, để công việc chiếm hết thời gian của chị, để chị quên đi nỗi
cô dơn trống trải của mình khi không có người đàn ông bên cạnh. Mỗi người phụ nữ
Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đều có cuộc sống, hoàn cảnh khác nhau
nhưng ta đều thấy họ là những người phụ nữ hết sức chăm chỉ, chịu thương, chịu khó hết
lòng chăm lo cho cuộc sống gia đình. Đó là cô gái trong truyện ngắn Quả còn mới 13
tuổi – nhưng: “Công việc trong nhà, dưới ruộng trên dãy đếu dồn tất cả vào tay chị.
Mười ba tuổi chị phải vào núi phát rãy, tỉa hạt một mình. Cũng một mình chị đi bừa
ruộng nước đề cấy lúa nếp. Việc đuổi dồn trâu thả rông trong núi về khường nhà, việc
nuôi lợn, dệt vải, xúc cá dưới khe, dưới suối để có miếng ăn ngon theo ý thích bà mẹ
chồng khó tính, khó nết chị đều chiều cả” [7, tr.151]. Cô là một người chăm chỉ, siêng
năng suốt ngày trên nương, dưới ruộng. Đó còn là một người mế hết lòng chăm sóc cho
con gái và bố chồng trong truyện ngắn Suối lạnh đã không quản khó khăn, năng nhọc
“cứ làm việc quần quật”, ngày nắng cũng như ngày mưa để chăm lo cho cái gia đình
không có người đàn ông đứng mũi chịu sào. Đặc biệt là sự yêu thương, chăm sóc dành
cho cô con gái thiệt thòi vì không có cha khiến chị làm việc không biết mệt mỏi: “Ban
đêm thì ngồi gục mặt xuống khung cửi dệt thổ cẩm thật khuya để con gái có cái váy, cái
cóm mới mà mặc” [7, tr.113]. Hay còn là một cô Cầm trong Bài xường ru từ núi luôn
chịu thương, chịu khó, chăm chỉ lao động ngày đêm gây dựng cuộc sống no ấm, đầy đủ
cho mình và con trai trong cảnh cô đơn. Ban ngày cô lên rẫy trồng lúa, trồng ngô và hom
luồng, đêm về ngồi dệt thổ cẩm cho đến khuya. Đó là những người phụ nữ Mường mạnh
mẽ tự lập, tự chăm lo cho cuộc sống cho mình cho con cái mà không phải phụ thuộc vào
người khác. Họ đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để vươn, lên xây dựng cuộc
sống tương lai cho chính mình.
Khi xây dựng nhân vật hình tượng người phụ nữ Mường nhà văn Hà Thị Cẩm Anh
đã miêu tả, khắc hoạ tính cách, phẩm chất người phụ nữ Mường với bao điều tốt đẹp
cũng như cả những điều vừa là mặt mạnh nhưng cũng là mặt yếu của họ. Đó là sự cả tin,
chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục và thuỷ chung hết mực ( đôi khi tới mức cực đoan). Đó là
sự cả tin của nhân vật Vạ Cát trong truyện Chuyện xưa. Ta thấy nhân vật Vạ Cát - một
đại điện cho kiểu phụ nữ cả tin, nhẫn nhục... đến mức bi kịch. Vạ Cát vốn là người phụ
58
nữ thật thà, tốt bụng và giàu đức hy sinh nhưng lại luôn chịu nhiều thiệt thòi vì đã bị rơi
vào một hoàn cảnh, một bi kịch đau đớn xót xa. Vạ bị chính người chồng của mình vu
oan, gài bẫy để lấy lí do mà bỏ Vạ hợp pháp. Bao năm Vạ sống trong nỗi oan mà không
thể kêu oan. Đã bị lừa mà không biết kẻ đã lừa mình nên suốt đời “chịu ơn người cứu
mạng”là người chồng tàn nhẫn, độc ác của Vạ. Đã thế, hắn còn lừa Vạ lấy không bẩy tấn
cá lồng Vạ nuôi trên sông bằng bao nhiêu mồ hôi, nước mắt. Nhưng Vạ Cát lúc nào cũng
nghĩ tốt cho người chồng đã từng lừa mình và bỏ rơi mình. Đó là nhân vật người Mế
trong truyện Suối lạnh - chị đã đặt lòng tin vào một kẻ đào ngũ, tưởng rằng bằng tình yêu
thương, chăm sóc của chị đã khiến anh ta thay đổi trở thành người tốt. Nhưng điều ấy lại
không xảy ra đã khiến cho chị phải ân hận suốt ba mươi năm trời vì sự cả tin, ngây thơ
của mình. Đó còn là sự chịu đựng đến mạnh mẽ của bà Lời trong truyện ngắn Cha mẹ và
tôi...và khi phải sống trong sự xa lánh, khinh bỉnh của bà con làng bản và có lúc còn phải
đối mặt với tên Chủ nhiệm Tài háo sắc khi hắn muốn chiếm đoạt, cưỡng bức chị. Chị đã
chịu đựng tiếng oan có chồng phản bội trong suốt ba mươi năm trời. Nếu không phải là
một người phụ nữ, mạnh mẽ, can đảm, chấp nhận hy thì chị sẽ không chịu đựng nổi bao
đau khổ, oan ức bất hạnh như thế. Chị vẫn một lòng tin tưởng vào phẩm chất của chồng
và vẫn âm thầm thuỷ chung với người chồng “bặt vô âm tín” của mình. Ta còn thấy một
nàng Sam trong Mẹ tôi hết lòng chăm sóc cho mẹ chồng và khi gặp bao khó khăn, cay
cực vì sinh con quái thai bị đuổi vào rừng không được sống trong bản, bị người làng hắt
hủi xa lánh. Trong lúc đó chồng cô vừa hy sinh ở chiến trường, mẹ chồng ốm đau rồi
mất, nhưng cô vẫn kiên cường sống, xây dựng cuộc sống cho gia đình bé nhỏ của mình;
sẵn sàng tha thứ cho những người trong làng đã đối xử không đúng với cô và còn đóng
góp tiền của cho làng bản... Đó còn là đức hy sinh tới mức cực đoan vì người khác của
Vạ Lủ trong Cuộc đời bị đánh cắp. Cả cuộc đời vạ sống trong nỗi oan khuất, nuôi con
cho kẻ đã cướp đi của mình tất cả: danh dự, tên tuổi, công lao và nhất là cướp đi niềm
hạnh phúc cũng như tương lai của Vạ. Thế nhưng Vạ không bao giờ căm hận hay tìm
cách trả thù người phụ nữ thủ đoạn đó. Không chỉ là cả tin, chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhịn
– rộng lượng, tha thứ... mà một nét tính cách sáng ngời nữa của người phụ nữ Mường
chính là lòng thuỷ chung hết mực. Trên những trang truyện của Hà Thị Cẩm Anh có biết
bao người phụ nữ chỉ biết yêu một lần rồi cả đời chờ đợi trong mòn mỏi, hy vọng như
59
người phụ nữ trong Đêm tháng tám ở với chồng vẻn vẹn được sáu ngày mà ở vậy nuôi
con suốt mười tám năm trời. Như cô Niên trong truyện ngắn Mưa bụi đã thuỷ chung chờ
đợi người yêu suốt 20 năm. Còn trong truyện ngắn Cha mẹ và tôi...và lại khiến ta không
thể không cảm phục sự thuỷ chung của bà Lời trong suốt ba mươi năm chờ đợi, tin tưởng
vào phẩm chất và lòng trung thành với Tổ quốc của người chồng mình. Cao hơn thế nhà
văn Hà Thị Cẩm Anh không chỉ nói đến lòng thuỷ chung của người phụ nữ Mường trong
tình yêu mà còn khắc hoạ, khẳng định, ngợi ca sự gắn bó, thuỷ chung với quê hương làng
bản của họ. Ví dụ như các nhân vật: Cô Hảo trong truyện ngắn Chỗ ngoặt của con
đường, cô Niên trong Mưa bụi, Vả Lũ trong Cuộc đời bị đánh cắp, cô giáo Hân trong
Bình minh xanh... Điểm nổi bật trong tính cách của người phụ nữ Mường đó là sự kiên
trì, là sự mạnh mẽ, mãnh liệt đã góp phần làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống ở
nơi họ. Một cô Cầm bị người yêu phụ bạc khi đã chót có con với anh ta, bị gia đình thẳng
tay “tổng cổ” ra khỏi nhà để giữ cho gia đình họ Bùi khỏi mang tiếng là có con gái chửa
hoang. Chị đã mấy lần tìm đến cái chết, nhưng với tình yêu thương con chị đã mạnh mẽ,
dũng cảm đã vượt qua tất cả khổ đau, bất hạnh, để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp cho
mình và cho con. Còn là một cô gái có vẻ ngoài xấu xí trong Gốc gội xù xì luôn mặc
cảm, tự ti về ngoại hình của mình nên chỉ thích sống một mình ở trong rừng sâu, sợ tiếp
xúcvới tất cả mọi người. Cuộc sống cô độc trong rừng những tưởng cô sẽ gục ngã và đi
tìm cái chết, nhưng không, những ngày sống gần gũi, hoà hợp với thiên nhiên hoang dã
cô nhận thấy sự sống vẫn có ý nghĩa. Đó là cây gội già xấu xí như tiếp thêm sức mạnh,
nghị lực sống cho cô. Và chính sức sống mạnh mẽ ấy đã giúp cô trở thành một con người
tốt đích thực - trở thành người bảo vệ rừng cần mẫn, dũng cảm. Cô còn tự tin vào bản
thân mình khi nhận ra mình là một người phụ nữ thực sự, có thể làm vợ, làm mẹ, có thể
có một gia đình hạnh phúc khi có một người đàn ông phát hiện ra một vẻ đẹp thật sự của
cô sau bộ mặt xấu xí mà cô phải mang bao năm qua. Điều ấy đã giúp cô mạnh mẽ, tự tin
bước đến hạnh phúc của cuộc đời mình. Đây là một nét riêng trong cách xây dựng tính
cách nhân vật của nhà văn cho dù nhân vật người phụ nữ của chị luôn bị đặt vào trong
những hoàn cảnh éo le, thách thức nhưng họ vẫn luôn gồng mình lên, dũng cảm vượt qua
mọi chông gai thách thức khiến người đọc luôn yêu mến, cảm thông và trân trọng họ.
Khi xây dựng những nhân vật người phụ nữ Mường với những nét tính cách trên
60
nhà văn Hà Thị Cẩm Anh muốn khẳng định những nét phẩm chất tốt đẹp, cao quý của
những người phụ nữ Mường. Họ như những bông hoa rừng tinh khiết, ngát hương như
những quả núi ngọt lành trên núi. Cần phải có một thái độ trân trọng yêu thương mới có
thể nhận ra, phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn trong họ.
Ở một phương diện khác tính cách của nhân vật còn được tác giả khắc hoạ qua
các hành động cụ thể của chính nhân vật đó. Hành động nhân vật trong truyện ngắn của
tác giả Hà Thị Cẩm Anh diễn ra không nhiều, nhưng khi đã có những hành động thì lại tỏ
ra rất mạnh mẽ, quyết liệt, đầy yếu tố bất ngờ đối với người đọc, tạo cảm giác mạnh cho
người đọc và tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét qua các hành động đó. Đó là hành
động của cô gái Mường Dồ hết lòng cưu mang, chăm sóc tận tình cho một kẻ “thung
dung” ( bộ đội đảo ngũ) bị ốm nặng trở lại khoẻ mạnh. Rồi cô yêu hắn, trao thân cho hắn
và dẫn hắn trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Cho dù người Mường Dồ bảo cô là đồ hư
hỏng nhưng cô “bất chấp tất cả điều đó. Ta nghĩ rằng! Ta đã làm đúng” [6, tr.107].
Hành động này cho ta thấy được nét tính cách mạnh mẽ, chủ động trong tình yêu và cũng
hết lòng hy sinh vì tình yêu của nhân vật phụ nữ này. Hay nhân vật Vạ Cát trong Chuyện
xưa với hành động tự nguyện ra nhập Trung đội dân quân nữ của xã và tố cáo việc chồng
cô “nhận vơ” công trạng bắn rơi máy bay Mĩ - cho thấy cô là một con người dũng cảm,
ngay thẳng, mạnh mẽ. Chính nét tính cách này đã giúp cô vượt qua nỗi oan ức đầy đau
đớn; chăm lo gây dựng kinh tế bằng nghề nuôi cá lồng trên sông. Rồi trở thành người
đứng đầu của điển hình nghề nuôi cá lồng tại địa phương. Đó là cô Niên trong Mưa bụi
với hành động cao cả, đầy nghĩa tình khi cô đã chủ động đi tìm và đón người Đại đội
trưởng - một người cùng quê Hà Nội cùng đơn vị với Đán về chăm sóc nuôi dưỡng suốt
đời. Thật cảm phục một cô gái Mường xinh xắn, đảm đang sống có tình, có nghĩa, có
niềm tin và đặc biệt là có lòng thuỷ chung nhất mực với người mình đã trao trọn tình yêu
đầu đời trong sáng.
Những truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh thường để lại một dấu ấn sâu sắc, một
cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc khi nói đến thân phận của những người phụ nữ
Mường đầy đau đớn, oan ức, đầy bất hạnh trong cuộc sống. Nhưng dù ở hoàn cảnh nào đi
chăng nữa nhà văn vẫn ngợi ca, trân trọng, và khẳng định những tính cách, những nét
phẩm chất tốt đẹp ở nơi họ. Họ là những người phụ nữ giàu đức hy sinh, thuỷ chung nhất
61
mực trong tình yêu và luôn có niềm tin và khát vọng sống. Đây chính là một nét tính cách
điển hình, một phẩm chất cao quý khi nhà văn Cẩm Anh xây dựng hình tượng người phụ
nữ trong các sáng tác của mình.
3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật, là một trong những phương tiện quan
trọng mà nhà văn sử dụng trong tác phẩm nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.
Dù được tồn tại ở dạng nào hoặc được thể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ nhân vật bao giờ
cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính khái quát, nghĩa là một mặt
mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có "lời ăn tiếng nói riêng”, mặt
khác, “ ngôn ngữ ấy lại phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất
định gần gũi về nghề nghiệp, tâm lí, giai cấp, trình độ văn hóa,.." [16,tr.183]. Nếu như
các nhà văn người Kinh khi viết về đề tài dân tộc thiểu số họ luôn có ý thức tìm tòi hình
thức diễn đạt sao cho gần gũi, chân thật phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người dân
miền núi thì các nhà văn là người dân tộc thiểu số khi viết về dân tộc mình - họ là người “
trong cuộc”, có “điểm nhìn từ bên trong” nên cách sử dụng ngôn ngữ của nhân vật luôn
mang đậm cốt cách, tâm hồn của chính dân tộc họ.
Trong các sáng tác của mình nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã chú ý khắc hoạ tính
cách, phẩm chất nhân vật thông qua hai dạng ngôn ngữ: Đối thoại và độc thoại nội
tâm của nhân vật
3.1.2.1 Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật
Đối thoại và độc thoại là những thủ pháp nghệ thuật để nhà văn xây dựng và khắc
họa tâm lí, tính cách nhân vật. Trong tác phẩm, đối thoại hướng đến hành động, suy nghĩ
cụ thể, là lời nói của nhân vật này với nhân vật khác, là ngôn ngữ trực tiếp của các nhân
vật. Trong đối thoại của nhân vật, các ngôi nói đều được đặt ở ngôi thứ nhất. Ngôn ngữ
đối thoại mang phong cách, cá tính của nhà văn nhưng được biểu hiện thông qua nhân
vật, nói nên tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong truyện ngắn
Hà Thị Cẩm Anh được thể hiện một cách đầy tự nhiên và chân thực bộc lộ cách nói, cách
nghĩ mang đậm màu sắc miền núi khi viết về người phụ nữ Mường. Đó là cách tư duy
đơn giản, gần gũi; cách nói hồn nhiên mộc mạc, dân dã; cách sử dụng từ ngữ địa phương,
kiểu nói trống không mang nét cá tính riêng của mỗi nhân vật trong các đoạn đối thoại cụ
thể. Ví dụ như:
62
Trong truyện Đêm tháng tám khi nhân vật người mẹ và con trai nói chuyện với
nhau đã thể hiện rõ thứ ngôn ngữ rất mộc mạc, chân thật, thẳng thắn, “nghĩ vậy nói vậy”
của người phụ nữ DTTS:
- Làm sao mà mẹ giận con được chứ? Con trai mẹ là một đứa trẻ ngoan và với mẹ,
con mãi mãi là như thế. Đúng không con?
- Mẹ à! Bố con hy sinh cũng đã lâu rồi. Mẹ đã sống cô đơn một mình vì con trai
cũng đã lâu rồi. Bây giờ thì con đã lớn khôn. Con muốn mẹ bắt đầu một cuộc sống riêng
của mình.
- Mẹ vẫn sống tốt mà!
- Mẹ à! Ý con là...là con muốn mẹ có một cuộc sống thật đủ đầy, thật hạnh phúc.
- Tại sao con nghĩ là mẹ không hạnh phúc chứ? Mẹ có một đứa con trai rất ngoan.
Con là hạnh phúc đầy đủ nhất của mẹ may mắn có được rồi con ạ!
- Nếu mẹ đi bước nữa thì con vui biết mấy?
- Mụ Dạ Dần linh thiêng! Sao con lại nói thế Hào ơi! Mẹ già rồi. Mẹ chưa bao
giờ nghĩ là mình có thể... đi bước nữa. Mẹ không muốn thế con à!
- Con là tất cả với mẹ rồi mà! [7].
Nhân vật trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh chủ yếu là những người phụ nữ
Mường rất mộc mạc giản dị, chất phác hưng rất đỗi giàu tình yêu thương. Bởi thế, ngôn
ngữ nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn mang tính chất gần với khẩu ngữ thứ ngông
ngữ tự nhiên, phù hợp với bản chất, tính cách của người phụ nữ DTTS. Ví dụ như: Trong
đoạn đối thoại giữa bà Lời và người chồng đó là những lời nói ngắn gọn nhưng mộc mạc,
chân thành thể hiện rõ lối tư duy và bản tính kiệm lời của người phụ nữ miền núi:
- Mình ơi sao bây giờ anh mới trở về?
- Anh chưa về được vì chưa hoàn thành nhiệm vụ em à!
- Bây giờ đã xong việc chưa anh?
- Xong rồi em ạ. Tất cả đã xong rồi. Anh đã làm tròn bổn phận của mình. Thật khổ
cho em. Anh không ngờ vì anh mà em phải chịu khổ thế này?
- Không sao đâu anh! Em chịu được mà. Em chịu được vì em tin rằng anh sẽ trở
về. Nhất định anh sẽ sống và trở về bên em và bên con gái chúng ta.
- Đứa trẻ này...
63
- Nó đấy, nó là con gái của chúng ta. Con bé đã ba mươi tuổi. Nó chẳng có gì.
Không chữ nghĩa. Không bạn bè. Và cả không cha, không mẹ nữa anh ơi! [7].
Qua lời thoại ngắn gọn của bà Lời cùng những câu hỏi chất chứa đầy yêu thương
dành cho người chồng sau 30 năm xa cách đã làm sáng lên phẩm chất cao đẹp của người phụ
nữ, đó là niềm tin, tình yêu thương, sự hy sinh và lòng thuỷ chung son sắt.
Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm
Anh là việc nhà văn sử dụng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật nữ mang đậm màu sắc của
DTTS. Trong truyện ngắn Bài xường ru từ núi lời thoại của nhân vật cô Cầm khi nói với
người già (người cao nhất trong làng), với lão Ậu Mường Dồ, với bố mế và anh trai cô đã
cho thấy nét tính cách mạnh mẽ, dũng cảm của cô khi quyết tâm đấu tranh để tìm sự công
bằng cho cô và cho con trai của cô trong cuộc sống hôm nay:
- Mường Dồ có một người đàn bà đang bị giã nhỏ trong cối gỗ, có một đứa trẻ nít
chỉ vì thiếu cha mà bị nhốt trong bụi sòng sọng gai cho con muỗi nó đốt, cho con kiến
mòn nó ăn thịt. Người già cũng biết chuyện này. Đúng không? Người già biết. Người
Mường Dồ ta ai cũng biết chuyện này! Biết hết chuyện thiệt thòi của đàn bà, của trẻ nhỏ
nhưng cứ nhắm mắt lại rồi sắn quần mà lội qua như lội qua khe, qua suối thì làm sao
được coi là một người tốt được già ơi! [7].
Lão Âu Mường Dồ vội chõ mồm vào:
- Đàn bà không được nói leo, nói hỗn
Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta:
- Người đàn bà không được nói leo, nói hỗn này sẽ đi khỏi đất Mường Dồ ta để
tìm một sự công bằng cho chính bản thân mình và con trai nó.
và:
- Tôi về lần này là để kiện anh, kiện cả nhà này ra Toà án vì tội ngược đãi phụ nữ
và trẻ em. Xã hội sẽ bệnh vực mẹ con tôi. Anh hãy đợi đấy.
- Mày dám ?
- Chứ sao! Tôi chịu hết nổi rồi anh Nắm ạ!
Mế khóc. Bố bảo anh Nắm:
64
- Thằng Nắm thôi đi. Con Cầm nói đúng đấy. Cả nhà ta sai rồi. Bố cũng sai thật
rồi. Con Cầm! Mày muốn gì thì cứ nói. Đừng đi kiện nữa được không. Được không?
- Tôi muốn gì á? Tôi muốn cả nhà này phải sáng mắt ra. Bố là Đảng viên mà cứ
giữ khư khư thói xấu thời quan Tạo quan Lang ở xứ Mường này. Bố chỉ biết coi trọng
con trai, còn tôi là con gái thì bố đem ném vào rừng cho kiến nó tha, cho ma nó bắt!
- Cầm à! Bố sai rồi! Bố chỉ có mỗi mình thằng Nắm con trai.
- Bố cũng chỉ có mỗi mình tôi là con gái. Đúng không? [7].
Qua đoạn đối thoại nảy lửa này đã cho ta thấy rõ một nét tính cách mới của
người phụ nữ Mường thời hiện đại: Tính cách mạnh mẽ quyết liệt và dũng cảm – bên
cạnh những nét tính cách dịu dàng, nhẫn nhịn, cam chịu của họ.
3.1.2.2 Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật
Bằng góc nhìn và tư duy nghệ thuật mới về hình ảnh con người thời hiện đại các
nhà văn đã hướng ngòi bút của mình tìm hiểu thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy u uẩn bên
trong mỗi con người. Hà Thị Cẩm Anh với nỗi lòng tha thiết quan tâm đến số phận, cuộc
đời của người phụ nữ Mường bà đã hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả khám
phá, lí giải hành động và tâm lí để sáng tỏ thế giới nội tâm của nhân vật. Truyện ngắn
của bà thấm đượm chất trữ tình và chủ yếu là kiểu cốt truyện tâm lí, thường khó tóm tắt
nội dung câu chuyện, và đôi khi chỉ là những cảm giác, cảm xúc tinh tế đan dệt trong
tâm hồn người phụ nữ. Nhà văn thường không hay đặt nhân vật vào những xung đột
mạnh mẽ để nhân vật có hành động bứt phá, vượt thoát, mà ở đó người phụ nữ thường
được đặt vào trong những hoàn cảnh éo le, ngang trái để từ đó thể hiện được những tính
cách phẩm chất tốt đẹp của họ. Là một cây bút nữ chuyên viết về những người phụ nữ
Mường, Hà Thị Cẩm Anh đã thể hiện được khả năng nắm bắt tâm lí nhân vật với
những trạng thái, cung bậc tình cảm phức tạp khác nhau trong tâm hồn và trái tim của
những người phụ nữ. Nhà văn đã khéo léo tạo ra những tình tiết, hoàn cảnh đặc biệt để
nhân vật bộc lộ nội tâm một cách rõ nét, sâu sắc và chân thực nhất.
Chỉ với một hoặc vài chi tiết trong truyện nhà văn đã khắc họa thành công những
suy nghĩ, những cảm xúc phức tạp của người phụ nữ Mường. Hoàn cảnh và môi trường
65
sống miền núi đã chi phối mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người ở nơi đấy.
Rừng núi ngút ngàn, nương rẫy bao la, cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên đã tạo nên nét
tính cách hồn nhiên, mộc mạc, trong trẻo nhưng chân thật của người phụ nữ. Nhà văn đã
miêu tả nội tâm của những người phụ nữ Mường với lời độc thoại thể hiện suy nghĩ, dằn
vặt, trăn trở, suy tư ...cùng các trạng thái tình cảm khác nhau của nhân vật. Đó là nỗi
đau, sự ân hận, day dứt khôn nguôi trong lòng của nhân vật Mế (Suối lạnh) khi biết
được sự thật về người yêu - kẻ bộ đội đào ngũ ấy chưa chết, đột ngột trở về khiến cô rơi
vào trạng thái choáng váng, mê sảng nói lảm nhảm như một người điên: “Ta đã sai. Ta
trở thành người đàn bà mù cả hai mắt vì yêu. Ba mươi năm qua ta cứ tưởng người đó vì
cứu ta, cứu con mình mà chết. Nhưng hoá ra không phải anh ta! Thế thì ai? Ai đã cứu
mế con ta lần đó? Tại sao anh ấy lại làm như thế?” [7, tr.108]. Một loạt câu hỏi được
đặt ra diễn tả tâm trang đau đớn, xót xa vì sự cả tin, sự hy sinh vô nghĩa của cô cho hắn.
Bằng những lời độc thoại nội tâm của nhân vật mế trong lúc nửa tỉnh, nửa mê khiến
người đọc xót xa, thương cảm cho nỗi đau của bà khi bà luôn cảm thấy như là mình có
tội khi bị kẻ gian lấy mất hài cốt của người yêu vì chúng tưởng là của quí khi bà cứ khư
khư ôm chặt ở trên tàu: “ Nhưng thật không ngờ ta lại đau hơn. Ta lại gây thêm tội lỗi
mới. Tội lỗi này mới thực sự nhấn ta chìm tận đáy vực Mổ Bông đen ngòm. Vì chuyện
này mà ta không thể đi bước nữa để tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Ta đã nguyền rủa, đã
sỉ vả mình suốt bao nhiêu năm” [7, tr. 114]. Bao nhiêu năm nỗi đau không thể nguôi
ngoai, không biết san sẻ cùng ai? Đây là những lời độc thoại bằng lời nói trực tiếp của
nhân vật. Kiểu lời độc thoại ấy cũng xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật Cầm (Bài
xường ru từ núi) với lời trăn trở, lo lắng trong lòng khi cô nghĩ về thân phận và đứa con
của mình: “ Mình phải làm sao để khi thằng Sáng lớn lên cuộc đời của nó nhàn nhã
hơn? Thằng Sáng nhất định phải được ăn no, phải được mặc ấm và nhất là phải được
học hành đến nơi, đến chốn để nên người” [7, tr. 256]. Người phụ nữ Mường ấy lúc nào
cũng chỉ biết làm việc cật lực, chăm sóc hết lòng; chỉ biết sống vì con dù cho hoàn cảnh
có khốn khổ đến đâu, họ vẫn cố sức chịu đựng, và sẵng sàng hy sinh tất cả cho đứa con
yêu quý của mình. Nỗi lòng xót xa, những lời tâm sự đẫm nước mắt của người mẹ nghĩ
về đứa con khi sinh ra trên đời mà – đã không có cha được thể hiện thật cảm động qua
những lời độc thoại của nhân vật. Còn là nỗi lòng của cô gái trẻ (Quả còn) cùng với
66
những lời độc thoại diễn tả nỗi khát khao, sự chờ đợi mòi mòn về tình yêu thật mong
manh nhưng cũng thật tha thiết, đắm say: “Bây giờ anh đang ở đâu? Người con trai ấy
của lòng chị bây giờ ở đâu? Sao anh không trở về như đã hứa mà tung quả còn qua cái
vòng tròn duyên số có gián giấy hồng điều trên ngọn cây cao cho von ấy cho chị?
Không biêt bây giờ quả Còn – trái tim của chị tặng anh có còn bên anh hay mất rồi?”
[7, tr. 282]. Hay nỗi đau đớn cùng cực của người em gái (Một nửa của người đàn bà)
khi cô phát hiện ra một sự thật bất ngờ, phũ phàng khiến cho cô không cất nên lời: “
Một cái tên và một chữ ký làm tôi choáng váng. Tôi chỉ kịp vài giây nhận ra chữ ký của
chồng mình rồi toàn thân tôi lạnh toát. Hàm cứng lại. Tôi ngất đi.” [7, tr. 483]. Nỗi đau
bất hạnh mà hai chị em phải gánh chịu đó là: “cái nửa kia” ở người đàn bà của hai chị
em chỉ là một người - người chồng của em hiện tại và là người bạc tình của người chị
trước kia.
Khi miêu tả nhân vật người phụ nữ Mường - Hà Thị Cẩm Anh không chỉ sử dụng
những lời độc thoại để miêu tả nội tâm nhân vật mà còn hay sử dụng kiểu độc thoại bằng
lời nửa trực tiếp. Độc thoại bằng lời nửa trực tiếp là nhà văn trực tiếp miêu tả phân tích
tâm lí nhân vật trong sự hòa quyện lời tác giả vào lời của nhân vật khiến ta khó phân
định rõ ràng, rạch ròi đâu là lời nhân vật, đâu là lời tác giả. Miêu tả nhân vật qua lời độc
thoại nửa trực tiếp là một thủ pháp nghệ thuật thường gặp trong truyện ngắn của nhà văn
Hà Thị Cẩm Anh. Hầu hết các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh được viết dưới dạng
người kể chuyện xưng “tôi”. Với hình thức này người kể chuyện tham gia vào câu
chuyện như một nhân chứng, cũng là cách làm tăng độ tin cậy của bạn đọc đối với tác
phẩm. Nhân vật xưng “tôi” tự kể chuyện mình, bộc bạch những nỗi niềm tâm sự, suy tư,
cảm xúc của mình. Đứng ở điểm nhìn trần thuật này nhiều trường hợp giọng điệu tác giả
và giọng điệu nhân vật hoà vào làm một.
Bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, tác giả đã diễn đạt những giằng xé, dằn vặt của
nhân vật trước biến cố cuộc đời, tạo nên giọng điệu thâm trầm sâu lắng. Với những đoạn
miêu tả nội tâm nhân vật bằng lời nửa trực tiếp, nhà văn đã thâm nhập vào ý thức của
nhân vật, để diễn tả những cảm xúc xác thực của nhân vật tôi: “ Tôi thì không làm được
như thế. Tôi không phải là một cô gái bình thường. Tôi không thể có ước mơ thông
thường nhất là được yêu đương, được làm vợ, làm mẹ như bất cứ một cô gái nào ở
67
Mường Vang. Tôi phải tách mình ra khỏi bầy đàn mới mong tồn tại được. Muốn tồn tại
tôi phải tìm cho mình một cuộc sống riêng” [7, tr. 384]. Có những câu truyện người đọc
dường như khó có thể phân biệt đâu là giọng nhà văn đâu là giọng nhân vật nhà văn và
nhân vật dường như nhập thành là một: “ Đàn bà thì lúc nào chả phải chịu thiệt thòi.
Mường này, đất nước này thiếu gì những kẻ bị mắc tiếng oan như tôi. “Phúc đức tại mẫu
mà!”, cái gì tốt đẹp thì người đàn bà được hưởng không đáng là bao. Những cái gì
không tốt đẹp thì họ cứ oằn lưng ra mà gánh. Người đời cho rằng: Một người mẹ độc ác
thì đứa con phải gánh tội thay. Tôi nghĩ mãi cũng không ra là mình đã ăn ở độc ác như
thế nào để con tôi nó phải chết oan uổng như thế? Tôi đã điuh nó ra vào rừng voà rẫy.
Nó bị phơi sương, phơi nắng cả ngày rồi còn bị muỗi độc, muỗi đót đốt.Thằng bé bị suốt
cao co giật. Thương con đứt từng khúc ruột, tôi dành phải liều thân bế nó chạy về làng.
Người già xua duổi mẹ con tôi đã đành,những kẻ mặc áo trắng được mang danh là Mẹ
hiền ở cái Trạm xá Mường Ca Da kia cũng quay mặt làm ngơ, tôi biết còn kêu ai được
nữa? Con tôi có tội gì đâu?” [7, tr.339]. Ta thấy được tiếng lòng của người phụ nữ,
người mẹ qua những lời thoại nửa trực tiếp, nhà văn sử dụng lớp từ đặc tả những khoảnh
khắc của tâm trạng, bộc lộ lối cảm nhận trực giác tạo nên sức ám ảnh đối với người đọc.
Qua từ “tôi nghĩ”, “ tôi biết”, “ tôi phải”... thật sự làm người đọc xúc động khi đọc những
đoạn độc thoại nửa trực tiếp này của nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
Tóm lại, nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã mô tả thành công tâm lý nhân vật qua độc
thoại nội tâm bằng thứ ngôn ngữ đầy tính trực giác và linh cảm. Cây bút truyện ngắn này
cũng đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi của tâm hồn con người, đặc biệt
là tâm hồn của người phụ nữ Mường. Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, người đọc
cảm nhận đó như là tiếng lòng của người phụ nữ viết nên từ những trải nghiệm thực tế
của bản thân. Dù là lời lẽ sắc sảo, góc cạnh hay những từ mộc mạc mang tính khẩu ngữ
đời thường hay thứ ngôn ngữ mang tính biểu cảm đầy nữ tính, thì ẩn sau những câu chữ
đó vẫn luôn là những tiếng lòng, là những dự cảm xót xa về thân phận con người được
viết ra từ trái tim của một người phụ nữ luôn muốn hướng ngòi bút của mình vào hiện
thực muôn mặt của cuộc sống – trong đó có số phận của những người phụ nữ DTTS.
3.2 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và tình huống truyện
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Nói đến tác phẩm tự sự (như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, truyện
thơ,…) là nói đến cốt truyện. Đó là hệ thống những sự kiện, biến cố, hành động,…
68
trong tác phẩm, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh
xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhà văn xây dựng cốt
truyện nhằm phản ánh các quan hệ và mâu thuẫn của đời sống xã hội. Thành công của
cốt truyện làm nên sự thành công của nghệ thuật dựng truyện, của kết cấu văn bản
nghệ thuật ở bình diện trần thuật.
Cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ
thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác
phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [16,tr.88]. Cốt truyện có vai trò rất lớn trong
việc phản ánh đời sống và gửi gắm quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống.
Khảo sát các tác phẩm văn xuôi các DTTS Việt Nam hiện đại chúng ta cũng đã
nhận thấy rất rõ là có đủ cả ba kiểu cốt truyện như văn xuôi Việt Nam hiện đại (nói chung)
là: “Kiểu cốt truyện truyền thống: miêu tả sự kiện theo dòng thời gian tuyến tính, kết thúc có
hậu (kết thúc đóng); Kiểu cốt truyện hiện đại: miêu tả gấp khúc, đảo lộn thời gian, nhảy
cóc tự sự, kết thúc ngỏ (kết thúc mở) và Kiểu cốt truyện hậu hiện đại: truyện lồng truyện,
cắt dán, xáo trộn…(không có mở đầu và kết thúc)” [29, tr.67].
Nội dung các truyện trong các sáng tác của Hà Thị cẩm Anh chủ yếu là các câu
chuyện xảy ra ở thung lũng Si Dồ- Xứ Mường cùng với các nhân vật người phụ nữ
Mường. Hầu hết các truyện đều viết về những mảnh đời, những thân phận của những
người phụ nữ Mường ở một vùng đất xa xôi, chứa đầy huyền thoại, nhưng đồng thời
cũng là một vùng đất khắc nghiệt, đầy khó khăn, đầy hủ tục, đầy thách thức đối với
những người dân ở xứ sở này. Cốt truyện trong các sáng tác của tác phẩm Hà Thị Cẩm
Anh cũng mang đủ các dạng, kiểu cốt truyện trên, nhưng chủ yếu là kiểu “cốt truyện hiện
đại” cụ thể như sau:
3.2.1.1. Cốt truyện theo dòng thời gian tuyến tính và lối kết thúc có hậu
Trong văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại thì kiểu cốt truyện truyền
thống - miêu tả sự kiện theo dòng thời gian tuyến tính, lối kết thúc có hậu là tương đối
phổ biến. Nhưng trong toàn bộ sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, khi khảo sát chúng tôi
nhận thấy chỉ có 3/34 truyện ngắn của nhà văn là sử dụng cốt truyện theo dòng thời gia
tuyến tính, còn phần lớn là kiểu cốt truyện hiện đại: miêu tả gấp khúc, đảo lộn thời gian
và lối kết thúc mở .
69
Trong truyện ngắn Ngược chiều cửa mở tác giả kể lại với một trình tự hợp lí và
miêu tả sự đổi thay của bản làng trước công cuộc đô thị hóa với tốc độ mau chóng ở thời
mở cửa - đã lôi cuốn hai mẹ con vào cơn lốc thị trường. Nhà văn đã miêu tả cuộc sống
của người dân Mường Chiềng nghèo đói “quanh năm suốt tháng làng buồn hiu hắt”.
Trước khi chưa có chuyện “mở cửa” làng nghèo nhưng yên ả, đến khi có công cuộc “mở
cửa” thì cuộc sống của người dân ở đây có khấm khá hơn: “Người Mường Chiềng đã biết
bán, biết mua. Biết trao đổi những thứ làm ra từ vườn, từ chuồng để đem về nhà những
thứ giá trị hơn cho cuộc sống hằng ngày” [7, tr.353]. Cuộc sống của con người ở bản
Mường bắt đầu thay đổi khi “mở cửa làng cho kinh tế hàng huyện, hàng tỉnh ùa vào
Mường Chiềng, rồi việc đóng cửa rừng như mẹ tôi nói đã hiện rõ hình hài” [7, tr.353]. Sự
thay đổi của bản Mường được nhà văn miêu tả rất cụ thể và theo trình tự thời gian trước sau.
Ngày xưa những cánh đồng chật hẹp của Mường Chiềng chỉ cấy được một vụ thì giờ đã cấy
thêm được vụ nữa. Những khu đồi, khu rừng trước đây mạnh ai người nấy phá, nấy trồng thì
bây giờ đã thành những khu rừng tái sinh. Người dân được vay vốn trồng rừng. Sự thay đổi
này kéo theo cơ chế thị trường ùa vào Mường Chiềng với nhiều ngóc nghách. Bắt đầu bằng
việc Cả Sún – Văn Sướng ôm về Mường chiềng một đôi loa cỡ đại, bán vé chiếu phim
trưởng Hồng Kông sự kiện ấy giống như bị nhiễm phải căn “dịch bệnh” khát tiền: “Cả làng,
cả Mường bếp nào cũng chỉ nghe bàn đến mỗi chuyện tiền” [7, tr.357]. Vì đua nhau kiếm
tiền nên từ việc trồng rừng tái sinh thì bây giờ lại lao vào phá rừng, chặt trộm gỗ bán cho lâm
tặc. Có kẻ thì dẫn thân vào bãi vàng tìm kiếm may rủi. Ngay cả hai mẹ con,( mẹ và con gái) -
những người phụ nữ Mường - thành trì cuối cùng để bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa quê
hương - cũng mau chóng "hòa nhập" với cuộc sống hiện đại, đối mặt với thách thức, hiểm
nguy, cùng sự khốc liệt của cơ chế thị trường. Người Mẹ bán căn nhà sàn cổ, bán cả 5 héc ta
rừng đã khép tán... để dựng quán bán hàng tạp hóa và “ bán cả cơm khi có người đặt ăn nữa”.
Rồi người mẹ trở nên khéo léo, lẳng lơ mời chào, chèo kéo khách... Rồi cũng "để tiện" và có
cơ hội cho chuyện làm ăn, buôn bán người mẹ đã quan hệ "bồ bịch" với Cả Sún - Văn Sướng
– thằng con trai của chủ tịch xã chỉ đáng tuổi con mình. Nhà văn miêu tả sự đổi thay nhanh
chóng qua từng ngày của người Mường Chiềng nói chung, của những người phụ nữ Mường
nói riêng – theo xu hướng lợi ít, hại nhiều.
Một điểm đáng chú ý là trong rất nhiều truyện ngắn của nữ nhà văn có lối kết
70
thúc có hậu chiếm (17/ 34 truyện ngắn). Ví dụ như các truyện: Cha mẹ và tôi...và, Mưa
bụi, Bài xường ru từ núi, Quả còn, Giải vía, Mẹ tôi, Gốc gội xù xì, Bình Minh xanh...
Những truyện ngắn có kết thúc có hậu đã chứng tỏ tinh thần lạc quan và nghị lực sống
của người phụ nữ Mường nên họ đã chiến thắng tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Lối
kết thúc có hậu trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh cũng thể hiện rõ sự ảnh hưởng
của lối kết thúc của truyện cổ dân gian. Trong các câu chuyện ấy mang hơi thở của những
triết lí dân gian như “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”... Đọc truyện ngắn Cha mẹ và
tôi...và - ta thấy số phận của nhân vật giống như những nhân vật trong các câu chuyện cổ
tích. Nhân vật người mẹ trẻ trải qua bao khó khăn, đau khổ, bị người làng khinh rẻ, xua
đuổi, chịu oan ức suốt 30 năm, chị sống trong sự sỉ nhục của dân làng, trong nỗi đau
không cất được thành lời nên đã bị “câm bặt” không nói năng và giao tiếp với ai; nhưng
cuối cùng chị cũng được hưởng hạnh phúc thật sự. Lời khẳng định của người chồng sau
30 năm gặp lại khiến chị vỡ oà trong niềm vui bất tận: “Anh biết. Anh biết mà. Chúng ta
sẽ bắt đầu làm lại từ đầu. Con bé đã có cả cha lẫn mẹ rồi. Nó sẽ đi học chữ. Nó sẽ có
người thân và bạn bè” [7, tr.304]. Đọc Bài xường ru từ núi, ta thấy quy luật nhân quả
được nhà văn chiêm nghiệm qua số phận của Lâm và mẹ anh ta. Chỉ vì trước đây mẹ
Lâm đã chê cô Cầm là “người nhà gác” nên đã tìm mọi cách không cho hai người lấy
nhau. Và sau này chính bà gặp lại Cầm mà không biết nên đã kể lại câu chuyện với chị.
Quy luật “nhân quả báo ứng” thể hiện rõ khi con trai bà phụ bạc tình xưa lấy phải người
vợ chẳng ra gì. Lâm đã bị cô ta bày mưu lừa lấy hết tiền của rồi tống anh vào nhà thương
điên. Còn cuộc đời mẹ Lâm thì khổ sở, nghèo khó. Bà lão bán hàng nước, chắt bóp chi
tiêu cũng chỉ đủ tiền vào viện thăm con. Ngược lại, Cầm là người phụ nữ Mường đảm
đang tháo vát và giàu lòng vị tha, giàu đức hy sinh nên cô vừa nuôi con khôn lớn lại vừa
có tiền có của. Đó là một kết thúc có hậu với những người tốt như Cầm và là bài học để
đời cho những người sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, không biết đến nỗi đau đớn bất
hạnh của người khác. Đến với Cây gội già tàn tật, Quả còn, Giải vía ta ngỡ như mình
đang lạc vào thế giới cổ tích. Bởi kết thúc các truyện ngắn này đều có hậu và nhuốm màu
hồng của thế giới cổ tích đầy huyền diệu. Truyện Cây gội già tàn tật có môtip quen thuộc
của truyện cổ tích, đó là những người xấu xí nhưng có phẩm chất tốt đẹp vẫn luôn được
hạnh phúc mỉm cười. Cô gái có khuôn mặt xấu xí, dị dạng cũng đã từng khao khát hạnh
71
phúc nhưng không bao giờ cô dám nghĩ là mình có thể với tới hạnh phúc. Dường như có
một phép màu kì lạ của bà tiên trong thế giới cổ tích, một ngày kia cô đã được một anh
cán bộ tốt bụng, hào hiệp thương yêu, nâng đỡ và lấy làm vợ vì đã phát hiện ra bao cái
đẹp ẩn sau khuôn mặt xấu xí của cô. Giấc mơ hạnh phúc của cô đã trở thành hiện thực
khi cô có một gia đình yên ấm thực sự với người chồng và một cô con gái rất xinh đẹp.
Cô đã được học chữ, được chồng dạy cho bơi lội và đã đoạt giải A trong cuộc thi vượt
sông Mã của huyện Si Dồ. Như vậy, câu chuyện Cây cội già tàn tật đã truyền đến cho
người đọc ánh sáng của niềm lạc quan để con người luôn tin vào chính mình, tin rằng
với những con người tốt, cùng lòng nhân ái thì không gì là không thể trở thành hiện
thực.Trong truyện ngắn Giải vía cũng như vậy. Nhân vật người phụ nữ Mường đẹp
người, đẹp nết nhưng lại bị chồng rời bỏ, lìa xa chị suốt 20 năm vì không cùng “ chí
hướng” với anh ta (một kẻ chuyên săn bắn giết dóc thú rừng làm niềm vui). Chị phải
sống trong cô đơn, lạnh lẽo “chị lại cảm thấy ngôi nhà gác của chị sao rộng thế? Sao
mà lạnh lẽo, vắng vẻ, và chông chênh đến thế? Chị ứa nước mắt” [7, tr.524]. Nhưng
rồi hạnh phúc cũng đến với chị, chị đã có đôi có lứa khi còn một người đàn ông tốt
bụng, thuỷ chung yêu chị: “Tết này anh sẽ giải vía cho em. Người đàn bà cô đơn ngước
mắt nhìn lên. Chị bước qua số phận mình giữa lúc gia thừa” [7, tr.526]. Tình yêu “
đích thực” đủ sức mạnh “giải vía”, cởi trói cho trái tim người phụ nữ đã bị giam cầm
trong suốt 20 năm qua. Chất nhân văn thấm đậm trong những câu chuyện “ cổ tích” đời
thường đó của Hà Thị Cẩm Anh.
3.2.1.2. Cốt truyện theo dòng thời gian gấp khúc, đảo lộn
“Cốt truyện theo thời gian gấp khúc là cốt truyện không theo trình tự biên niên mà
có sự đảo lộn, đan xen giữa quá khứ và hiện tại”[28,tr174]. Đọc truyện ngắn của nhà văn
Hà Thị Cẩm Anh, ta bắt gặp rất nhiều cốt truyện được sắp xếp theo kiểu thời gian đảo
ngược và gấp khúc. Cốt truyện được tổ chức theo kiểu này chiếm 30/34 (88 %), trong số
đó những truyện viết về cuộc đời, thân phận của người phụ nữ Mường chiếm một số
lượng khá lớn 31/34 ( 91%). Việc tổ chức cốt truyện theo kiểu thời gian gấp khúc, đảo
ngược vừa khiến câu chuyện biến động liên tục (như cuộc sống vốn có), vừa là sự phản
chiếu số phận của nhân vật ở những quãng thời gian khác nhau. Những truyện ngắn, Suối
lạnh, Cha mẹ và tôi...và, Đêm tháng tám, Mưa bụi, Bài xường ru từ núi, Mẹ tôi, Gốc
72
gội xù xì, Cuộc đời bị đánh cắp...đều mở đầu bằng những trang đời hiện tại của cuộc đời
nhân vật rồi lật ngược về quá khứ để đi tìm nguyên nhân, lí giải nguồn cội của nó. Kiểu
kết cấu này thường gây hấp dẫn và kích thích trí tò mò của người đọc. Nó như một lực
hút khiến người đọc muốn tìm đến những dòng kể tiếp theo để hiểu rõ hơn về số phận của
từng nhân vật. Dường như kiểu kết cấu đảo ngược này rất phù hợp để nhà văn phản ánh
về những số phận của người phụ nữ Mường chịu nhiều oan khuất, bất hạnh, éo le, trắc trở
trong cuộc đời nhưng vẫn giữ được những tính cách và phẩm chất tốt đẹp. Mở đầu truyện
ngắn Suối lạnh là sự trở về đột ngột của người cha khiến cho nhân vật mế choáng váng,
đổ sụp xuống rồi ngất đi. Và sau khi tỉnh lại dòng hồi ức trong quá khứ đau buồn lần lượt
hiện về trong lời kể của “tôi” và theo tâm trạng của nhân vật. Người đọc chăm chú dõi
theo câu chuyện cuộc đời của nhân vật mế luôn có sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ và
tương lai. Hiện tại mở ra bằng hình ảnh: “ Bà quỳ xuống giữa dòng nước chảy xiết. Quỳ
thật lâu, và cứ thế ngửa mặt lên trời. Bà khóc rồi lại cười. Bà cười ngây ngô như một
đữa trẻ bị mắc lỗi. Cuối Đông, trời mù mịt mây. Những giọt mưa lâm thâm, nhẹ như
sương mù đỉnh núi nhưng lạnh buốt da, buốt thịt cứ phả đều đều. Rét căm căm. Mặt mế
tôi tím ngắt, ướt đầm nước mưa lẫn nước mắt” [7,tr104]. Từ thời gian hiện tại ấy dõi theo
nhân vật trở về với thời gian của thời chiến, theo dòng thời gian ấy cuộc đời, số phận của
nhân vật dần dần được hé mở. Càng dõi theo ta càng thấy được những tình tiết đày sự éo
le, đau khổ, của một người phụ nữ thuỷ chung, son sắt hết lòng chăm sóc con và bố
chồng suốt 30 năm qua. Nhân vật mế đã nhận thấy một hiện thực phũ phàng khi cô hết
lòng yêu thương, trao thân gửi phận và có quyền xem mình là một người vợ, luôn tin
tưởng vào phẩm chất cao quý của người cha con gái mình - thì giờ đây trong cuộc sống
hiện tại cô nhận thấy mình là người không còn gì, đã mất hết tất cả khi “người đó” trở về
với một hình hài khác, một tâm hồn khác: “Ta đã khóc kiệt khô sức lực vì người đó! Ta
đã khổ sở biết bao? Thế mà...Thế mà bây giờ người đó trở về đuổi ta ra khỏi nhà mình,
Ngôi nhà của ta! Vườn đào của ta! Ta sẽ bị mất hết thật hay sao?” [7,tr105]. Cuộc đời
hiện tại đau khổ bao nhiêu thì ký ức của quá khứ càng dội về rõ rệt bấy nhiêu. Sau ba
mươi năm tưởng rằng nỗi đau đã nguôi ngoai nhưng khi có sự trở về của người xưa lại
sống lại trong cô một quá khứ dữ dội, đau xót. Hiện tại xen lẫn với quá khứ, giữa cái
đang ở trước mặt và cái đã thành kỷ niệm xưa in dấu trong cuộc đời nhân vật mế mà đã
73
khiến cho mế luôn cảm thấy day dứt và ân hận. Những dòng hồi tưởng về quá khứ toàn
những khổ đau bất hạnh, éo le trong cuộc sống nhưng người phụ nữ đó vẫn rất đỗi mạnh
mẽ, nghị lực và kiên cường sống tiếp. Khi xây dựng cốt truyện theo dòng thời gian gấp
khúc đảo ngược trong tác phẩm, nhà văn đã miêu tả lại cuộc đời, số phận cùng nỗi đau
của nhân vật, điều này khiến trái tim người đọc như xót xa, cảm thông cho cảnh đời đầy
sự trớ trêu, éo le và bất hạnh của nhân vật mế. Trong Chuyện xưa nhà văn mở đầu câu
chuyện bằng cuộc nói chuyện của nhân vật Nam và “tôi” ở nhà của trưởng bản Hà Văn
Giác. Cuộc đời của nhân vật Vạ Cát được tái hiện qua lời kể của Nam và nhân vật “tôi”.
Nam kể về cuộc sống hiện tại của Vạ Cát còn “tôi” người biết rõ sự tình về cuộc sống đầy
vất vả và nỗi oan mà Vạ Cát phải chịu đựng theo suốt cuộc đời được dấu chặt trong bóng
tối đầy sự bất công. Theo mạch đối thoại của nhân vật “tôi” cuộc đời quá khứ của Vạ Cát
được hiện lên với bao đau khổ, bất công ngang trái. Bắt đầu từ việc Vạ xin đi Thanh niên
xung phong nhưng không được nhận vì đã có chồng; sau đó Vạ được chọn vào Trung đội
trực chiến, trực tiếp bắn may bay Mỹ. Nhưng có một ngã rẽ trong cuộc đời của Vạ Cát
khi cô là người chứng kiến việc chồng mình khai nhận bắn rơi máy bay Mỹ không phải là
sự thật - vì chiếc máy bay đã bị bắn cháy trước khi rơi xuống nơi trận địa pháo của người
chồng vạ. Nhưng vì là người thẳng thắn nên vạ đã nói rõ chuyện này cho Bí thư Đảng uỷ
xã biết. Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh thật tinh tế, khéo léo khi đặt nhân vật của mình rơi vào
bi kịch của cuộc đời bất công đó là việc Vạ Cát bị:“Quân dân bắt tại nhà vì tội danh “chỉ
điểm”. Vạ bị bắt giam ba ngày trong kho chứa phân đạm của hợp tác xã” [7,tr143],
nhưng đỉnh cao nhất của nỗi bất hạnh trong cuộc đời của vạ lại chính là việc Vạ bị vu cho
là “ ngoại tình”. Lời kể của nhân vật “tôi” về cuộc đời quá khứ của Vạ Cát thật bùi ngùi,
xót xa, thương cảm.Từ lời kể quá khứ ngược về cuộc sống hiện tại của Vạ Cát càng đáng
thương hơn: “Không còn người thân, không còn nhà, không còn đất ở làng Cốc Vàn”
[7,tr132]. Vạ đã chết trong sự cô đơn, nghèo khổ trong cái bè rách nát của một đêm đông
sương buốt giá. Sự đan xen các sự kiện thuộc hai thời điểm khác nhau (quá khứ, hiện tại)
trong truyện ngắn này đã phán ánh được sinh động về những mảng ghép của cuộc đời
một người phụ nữ Mường xinh đẹp, khoẻ mạnh, chân thực, thẳng thắn nhưng phải hứng
chịu nhiều oan khuất, thiệt thòi trong cuộc sống vốn đầy sự phức tạp, sự bất trắc và phản
bội từ chính những người thương yêu nhất.
74
Truyện ngắn Mưa bụi cũng mở đầu bằng thời gian hiện tại khi nhân vật Đán quay
trở về bến sông hoa cải vào ngày mưa bụi lây rây. Và bao kỷ niệm đẹp về tình yêu của
ông với Niên dần hiện về trong nỗi nhớ thương khắc khoải, da diết: “Ông đi về phía
những bãi rau cải vàng rực hoa. Ông đi ngược với dòng chảy của con sông...Những kỷ
niệm của một thời trai trẻ trên bãi sông này cứ xối xả tràn về, khiến cho trái tim ông
quặn thắt đau đớn. Nỗi nhớ thương bị dồn nén. Tuổi già” [7,tr187]. Không gian và thời
gian quá khứ - hiện tại luôn xen kẽ lẫn nhau trong cách kể của tác giả. Thời gian hiện tại
là cuộc sống hoà bình sau bao năm chiến tranh. Từ thời gian này theo dòng ký ức của ông
Đán ngược trở về quá khứ của những tháng ngày chiến tranh khi ông và Niên cùng chiến
đấu bên nhau, rồi họ yêu nhau. Họ hẹn nhau: “ Sau này hoà bình Đán sẽ trở về Trường Y
học tiếp. Niên cũng vào Trường Sư Phạm. Học xong hai người sẽ cưới nhau. Cả Niên và
Đán đều rất tin vào tương lai tốt đẹp ấy” [7,tr.200]. Quá khứ với những kỷ niệm đẹp đẽ
và êm đềm đã gợi nhớ về hình bóng Niên trong ký ức của ông Đán- đó là một cô gái xinh
đẹp, khéo léo, giỏi giang. Hình bóng ấy đã theo Đán vào những trận chiến đấu căng thẳng
và ác liệt: “ Đán thường nhớ lần gặp gỡ đầu tiên ấy với Niên, nhớ đến con Ong nhỏ bé
của mình. Hình ảnh ấy của Niên làm cho Đán ấm ấp hơn, yên ổn hơn và anh cảm thấy tự
tin hơn khi giáp mặt với kẻ thù” [7,tr.199]. Không gian của Mường Dồ in đầy những kỷ
niệm đẹp và không gian của thành phố Pari hoa lệ xa xôi như đan cài xen kẽ trong miền
ký ức đẹp của Đán dành cho Niên, để ông nhớ về Niên “nhớ mùi thơm trên cơ thể nàng
đến cồn cào”. Nhà văn đã xây dựng mạch chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Ngay
cả trong suy nghĩ của nhân vật trong truyện:“ Ông Đán ngồi rất lâu giữa bài hoa cải
vàng. Mưa bụi dày hơn. Mây mù cũng mỗi lúc một đậm đặc hơn. Trời rét đậm hơn. Tiếng
trống, tiếng chiêng, tiếng cồng, tiếng hát Xường và tiếng cười nói vui vẻ từ chỗ hội
Mường Vang vọng đến cũng rõ hơn” [7,tr.201]. Thời gian hiện tại với những chi tiết, âm
thanh quen thuộc đã xuất hiện trong ký ức của thời gian quá khứ mà ông Đán nhớ về
cuộc chia tay giữa hai người vì đơn vị của ông phải rút khỏi Mường Dồ để hành quân gấp
vào mặt trận. Họ chỉ có mấy tiếng đồ hồ trước khi chia tay, Đán vội chạy xuống bãi sông
thì Niên cũng đang bồn chồn đợi anh ở đấy: “Hôm ấy cũng vào chiều mùng hai Tết, cũng
mưa bụi bay bay, cũng sương mù, rét ngọt và cũng tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng cồng,
tiếngcười nói vui vẻ từ trong làng vọng ra bãi sông như hôm nay nhưng Đán và Niên
75
không hề để ý đến” [7,tr.195]. Sự đan xen này tạo được sự lôi cuốn, chú ý của người đọc
với cuộc đời nhân vật trải qua các thời kỳ khác nhau trong cuộc sống từ thời bình đến
thời chiến rồi lại ngược về thời bình. Với thời điểm hiện tại ông Đán gặp lại người đồng
đội cũ của mình được Niên đón về chăm sóc, nuôi dưỡng xem như là cha ruột của con
trai Niên. Nhưng dòng thời gian quá khứ lại ùa về qua lời kể của ông Khang khi nói về
cuộc sống của Niên sau hoà bình. Câu chuyện kết thúc trong thời gian hiện tại với cảnh
gia đình đoàn tụ, cha con nhận nhau khiến người đọc dưng dưng xúc động và ấm áp trong
lòng bởi tình nghĩa của những con người yêu thương nhau sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Mở đầu truyện ngắn Cuộc đời bị đánh cắp hình ảnh Xuyến - con dâu của Vạ Lủ
ngồi trên xe ô tô và ôm một chiếc hộp trong tay. Đó là chiếc hộp đựng tro cốt của mẹ
chồng cô. Rồi sau đó cuộc đời đầy oan khuất của người phụ nữ có một sức hy sinh và
chịu đựng dẻo dai hiện lên qua lời kể của cô con dâu.Thời gian gấp khúc xuất hiện ngay
từ đầu tác phẩm với sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Cuộc đời của Vạ Lũ trải qua các
chặng đường đời. Đầu tiên là chặng đời của một Thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn, rồi đến cuộc sống của một con người bị bắt, bị tù đầy vì chịu tiếng
oan là ăn cắp thuốc men của đơn vị và tội bỏ ngũ. Sau đó là cuộc đời sau khi ra tù một
mình nuôi con nên người, chịu vất vả và khổ cực rồi chết trong sự im lặng với nỗi đau
oan ức của cộc đời.
Trong truyện ngắn Bài xường ru từ núi bắt đầu bằng việc Cầm đi tìm nơi trọ học
cho con thì gặp bà hàng nước kể về cảnh ngộ, cuộc đời mình và cậu con trai của bà là
Lâm người chồng sắp cưới của Cầm nhưng chỉ vì bị bà ngăn cản. Đã gợi cho cô nhớ về
quãng đời đầy đau khổ, một mình nuôi con trong nước mắt tủi buồn. Sau đó là cuộc sống
hiện tại – một cuộc sống tốt đẹp hơn. Truyện ngắn Cha mẹ và tôi...và cũng có kiểu cốt
truyện theo dòng thời gian gấp khúc đảo ngược gây bất ngờ đối với người đọc. Mở đầu
truyện ngắn là hình ảnh một người khách lạ bước vào hỏi thăm nhà cô gái. Rồi tiếp theo
là sự hồi tưởng về cuộc đời đầy đau khổ và éo le của mế cô. Có thể thấy kiểu kết cấu thời
gian đảo ngược, gấp khúc đã góp phần miêu tả cuộc đời nhân vật có sự đứt đoạn với
những quãng đời éo le, nghiệt ngã. Trong truyện Mẹ tôi thời gian gấp khúc xuất hiện
ngay từ đầu tác phẩm thể hiện qua việc miêu tả đan xen các chặng đường đời của nhiều
nhân vật, kết cấu câu chuyện được nới rộng ra khi thời gian bị đảo ngược theo mạch cảm
76
xúc của nhân vật. Câu chuyện mở đầu bằng thời gian hiện tại khi người mẹ từ làng
Chiềng về vào một đêm cuối năm, trời rét đậm. Cùng cuộc sống của ba mẹ con trong căn
nhà sàn nhỏ lúc nào cũng âm hơi lửa và tình yêu thương của người mẹ. Theo mạch cảm
xúc của nhân vật “tôi” về người mẹ gợi về một quãng thời gian quá khứ (hai mươi năm)
sống trong bao nhiêu đau khổ, vất và, nhọc nhằn, thì cuộc sống hiện tại của ba mẹ con ổn
định, no đủ, hạnh phúc gắn bó yêu thương nhau. Câu chuyện tiếp tục được diến biến khi
có sự đan xen của quá khứ về cuộc đời của nhân vât mẹ (nàng Sam). Cô không phải là
người làng Chiềng mà từ Mường Đủ về làm dâu họ Bùi ở Mường Ca Da. Một quãng thời
gian của quá khứ đau buồn liên tiếp xảy ra trong cuộc đời cô: “Hai mươi năm mẹ tôi
sống một mình ở thung lũng Mụ Dạ Dần”, thì lại có sự đan xen của thời gian hiện tại
“Mãi sáng nay mới có người làng Chiềng lên thang làm khách nhà tôi”. Câu chuyện lại
diễn ra theo mạch cuộc sống hiện tại của người mẹ. Bây giờ bà là một người làm kinh tế
giỏi, được đi dự Đại hội: “ Những người làm kinh tế giỏi” ở tỉnh. Người làng Chiềng đã
đứng ra xin lỗi và mời bà cùng các con về ăn Tết cơm mới, sửa lại căn nhà cũ của gia
đình liệt sỹ mời bà và các cháu trở về. Tiếp theo là sự đan xen về thời gian quá khứ khi
người mẹ kể về cuộc sống khó khăn của những ngày đầu phải sống một mình trong rừng
không một hạt gạo, hạt muối với đứa con đỏ hòn trên tay. Lời kể về cuộc đời của nhân
vật với thời gian quá khứ đau buồn như chạm vào trái tim người đọc bao sự thổn thức,
xót xa cho cảnh đời của một người phụ nữ xinh đẹp, thảo hiền, chăm chỉ như cô Sam. Cứ
thế theo mạch cảm xúc của nhân vật thời gian hiện tại xen kẽ với quá khứ, dòng hồi
tưởng xâm nhập vào hiện tại. Câu chuyện kết thúc trong thời gian hiện tại “ ngoài kia
trời đã bắt đầu sáng”.
Có thể thấy, cùng với các nhà văn lớp cũ, một số tên tuổi mới trong làng văn
xuôi dân tộc thiểu số cũng đã trình làng các tác phẩm được xây dựng theo kiểu cốt
truyện hiện đại, theo dòng thời gian gấp khúc, đảo lộn, nhảy cóc tự sự và đặc biệt là kết
thúc mở, không có hậu. Thì ta thấy trong sáng tác của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã sử
dụng kiểu cốt truyện này. Theo thống kê khảo sát của chúng tôi trong cuốn Tuyển tập
văn xuôi Hà Thị Cẩm Anh thì có 30/ 34 truyện ngắn viết theo lối cốt truyện theo dòng
thời gian gấp khúc, đảo lộn đã góp phần xây dựng và khắc hoạ thành công hình tượng
người phụ nữ Mường trong tác phẩm của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh. Đây là nét mới
77
trong nghệ thuật viết truyện của bà để lại “ dấu ấn” hiện đại trong văn xuôi dân tộc
thiểu số.
3.2.1.3. Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo (mang dấu hiệu
kiểu cốt truyện hậu hiện đại)
“Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo chính là kiểu cốt
truyện hậu hiện đại: Truyện lồng trong truyện, cắt dán, xáo trộn (không có mở đầu và kết
thúc)” [16,tr.175]. Qua việc tìm hiểu các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh chúng tôi
thấy kiểu cốt truyện này chiếm số lượng không nhiều trong sáng tác của bà, nhưng cũng
đã xuất hiện kiểu cốt truyện này. Điều đó tạo cảm giác mới lạ, tò mò, hấp dẫn người đọc.
Đó là khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bí ẩn, xen lẫn cuộc sống sinh hoạt của con người.
Cảnh vừa như thực, vừa như mơ, thực thực, ảo ảo. Tất cả như vẽ ra trước mắt người đọc
những bức tranh được dán chồng lên nhau, khó nhận biết. Với truyện ngắn Quả còn, nhân
vật người con gái xinh đẹp ở Mường Bi phải sống cô đơn suốt 40 năm trời cô chỉ biết làm
bạn với khu rừng thân thuộc của mình mỗi khi buồn bã, cô đơn: “Chị có một khoảng rừng,
một vùng đất yên ổn cho riêng chị. Khoảng trời thần tiên giữa rừng xanh với những thiên
thần nhỏ bé là những chú khỉ lông vàng, những con chim và đàn bướm trắng” [7,tr.285].
Thiên nhiên muông thú như những người bạn hiền, chia sẻ vui buồn với chị trong suốt bấy
nhiêu năm. Không gian đượm màu cổ tích. Truyện ngắn Giải vía thì không gian hiện thực
lại được đan xen với những tình tiết của câu chuyện đã xảy ra cách đây vừa tròn chẵn trăm
năm: “Người con dâu họ bùi này đúng là nàng Mường Ai đi cớt luân hồi. Tính tình y trang
như thế: Xinh đẹp, thích một mình dạo chơi trong rừng, nhìn thấy con thú nào của rừng
xanh cũng thật đáng quý, đáng yêu! Ai mà biết cách đay một trăm năm thật giải thế nào?”
[7,tr.520]. Đến nay cũng chỉ vì chị luôn yêu thương, cứu và che chở những con thú đáng
thương, khuyên can chồng không nên giết hại thú rừng – một thú vui của tay thợ săn lão
luyện - mà anh ta đã bỏ rơi chị. Nhà văn đã tạo dựng yếu tố hiện thực xem lẫn yếu tố huyền
ảo trong câu chuyện khiến người đọc thêm tò mò và cứ muốn dõi theo câu truyện và số
phận của nhân vật (sẽ ra sao). Còn trong truyện ngắn Gốc gội xù xì nhà văn đã xây dựng
những chiết hiện thực trong câu chuyện được đan xen với những chi tiết huyền ảo tạo nên
một cốt truyện hấp dẫn với người đọc. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời, số phận của một
cô gái sinh ra bị tật nguyệt không được hưởng hạnh phúc như bao đứa trẻ khác.Thậm chí
78
ngay cả người mẹ sinh ra cô khi bế ẫm và cho con bú là một cực hình đối với bà. Đứa con
luôn làm cho bà khiếp sợ và đau đớn vì hình hài, gương mặt dị dạng, xấu xí. Và khi lớn
lên cô gái ấy không tin vào mắt mình khi soi vào ang nước nhìn thấy khuôn mặt xấu xí
của cô :“Tôi chỉ còn là một con thú. Một con lạ hình người đi được bằng hai chi sau” vì
thế cô đã bỏ vào rừng sống, nhưng chính nơi này cô lại tìm được sự đồng cảm của cây
Gội già tàn tật. Tiếng của cây Gội thì thầm và rất ấm nói với cô:“ Ai bảo là con tàn phế?
Không đúng đâu con à?...Con chỉ bị tật thôi mà! Con bị tật, nhưng miễn sao trong lòng
con không bị tật. Con phải sống thật đẹp, thật vui thì lòng con mới thanh thản được.
Đúng không con? Lòng con thanh thản tức là con đã chữa lành những dị tật trên cơ thể
của con rồi” [7,tr.381]. Và lá của cây Gội như bàn tay nhăn nheo của Bà Ngoại: “ Bàn
tay yếu ớt của người già đã nhiều lần xoa dịu nỗi đau trên da thịt đứa cháu yêu”. Cây
Gội che chở, bao bọc trở thành ngôi nhà của của cô, tiếp thêm cho cô nghị lực và sức
sống để cô đến được với hạnh phúc đích thực của đời mình đó là được sống trong tình
yêu của một chàng trai Mường tốt bụng có một gia đình hạnh phúc. Trong câu chuyện ta
thấy yếu tố huyền ảo đã tạo nên nét hấp dẫn qua không gian, cảnh sắc của khu rừng yên
ả, với gốc Gội già nua xấu xí tuy nó đã ngàn năm tuổi nhưng nó vẫn bao dung với con
người biết bao. Cây Gội là ngôi nhà, nơi che nắng, che mưa, nơi bao bọc cho cô gái có số
phận không may mắn, nơi loài thú hoang dã và quý hiếm tìm về. “Con người. Loài thú
hoang giã. Rừng già dựa vào nhau, nương tựa vào nhau mà sống một cuộc sống bình yên
và phẳng lặng”. Không gian ấy đã khiến cho bao nhiêu muộn phiền nơi miền núi, những
khó khăn nhọc nhằn những tưởng chẳng thể nào vơi đi, nhưng ở đây, chỉ cần nhìn cảnh
vật ấy, khung cảnh ấy thì hình như bao nhiêu muộn phiền đều được giảm đi, nỗi buồn
như được xóa tan đi bởi cảnh vật nên thơ huyền ảo.
3.2.2. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện
Không như tiểu thuyết, truyện ngắn thường tập trung vào một tình huống/ tình
thế, một chủ đề tư tưởng nhất định. Ở truyện ngắn, thường cốt truyện bắt đầu từ những sự
kiện có vấn đề, gọi là tình huống. Nó được xem như một lát cắt của cuộc sống. Tình
huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tình huống cũng chi phối
sự phát triển của truyện và cách thức xây dựng các nhân vật. Đối với truyện ngắn, tình
huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được
tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý
79
đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
Là một cây bút viết truyện ngắn, với một lối văn nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu cảm
xúc, Hà Thị Cẩm Anh thường chọn cho mình một cách dựng truyện và xây dựng tình
huống chứa đựng những dấu ấn sáng tạo riêng. Đây là một biệt tài là “cái duyên” của Hà
Thị Cẩm Anh trong quá trình sáng tác truyện ngắn của bà. Đọc truyện ngắn của bà, người
đọc hầu như không tìm thấy những sự kiện, chi tiết, tình tiết, tình huống, hành động,… li
kì, lối mở đầu hay kết thúc thể hiện những dụng ý nghệ thuật khác nhau, mà thường lắng
đọng bên trong những câu chuyện đời thường là sự trỗi dậy mạnh mẽ của những miền
xúc cảm, với bao niềm vui, hạnh phúc cùng bao nỗi buồn, khổ đau, cùng những xót xa,
trăn trở, những xẻ chia chân thành của tác giả về cuộc đời số phận của người phụ nữ
Mường, được thể hiện trong cách xây dựng tình huống truyện trong các tác phẩm của Hà
Thị Cẩm Anh.
3.2.2.1. Tình huống truyện đầy bất ngờ với tình tiết được dấu kín đầy kịch tính
Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh có thể thấy, nhà văn như dành sẵn bao tấm
lòng ưu ái, yêu thương của mình cho biết bao mảnh đời thân phận của những cô gái
Mường. Mà viết về họ thì có bao nhiêu là câu chuyện đau lòng, nhất là trong hoàn cảnh
đất nước có chiến tranh, cuộc sống nghèo khó, túng quẫn ở thung lũng Si Dồ. Mỗi một
câu chuyện được viết ra từ xúc cảm trào dâng của tác giả, và tình huống truyện xuất
hiện hợp lí, thậm chí như một điều tất yếu của hiện thực. Trong truyện ngắn Cha mẹ và
tôi...và tác giả tạo dựng một tình huống độc đáo làm nên sức hấp dẫn không cưỡng
được ở người đọc khi tiếp xúc với câu chuyện thấm đẫm tình người này được kể qua lời
của nhân vật “tôi”. Người đọc từng bước dõi theo lời kể của nhân vật tôi khi nói về tình
huống nhà có khách đến thăm. Cuộc viếng thăm của vị khách này cùng với thái độ ngạc
nhiên “trời ơi! Giống quá.” Cùng những câu hỏi liên tiếp của nhân vật “tôi” mà vị
khách không trả lời. Đã gợi lên hình ảnh về người mế. Một người mẹ trẻ xinh đẹp , giỏi
giang bị oan uổng suốt mấy chục năm trời vì cái tội “chồng đi bộ đội, chiêu hồi, đầu
hàng giặc”. Người mẹ sống trong sự khinh bỉ của bản mường, chịu khổ đau, uất ức, bế
tắc tột cùng nên bị “câm bặt”. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống
nghoặt nghèo, một hoàn cảnh sống có vấn đề. Nhưng với chi tiết vừa nhìn thấy người
khách, người mế bao lâu nay câm lặng không nói thì nay đã cất tiếng hỏi: “Mình ơi!
Sao bây giờ anh mới về?” [7,tr.303]. Một câu nói ngắn gọn nhưng đã lý giải một cách
80
đầy đủ, ý nhị và sâu sắc tình cảm bền chặt của nhân vật mế, dù trải qua biết bao nhiêu
biến đổi của thời cuộc. Bà vẫn luôn gửi gắm, giữ vững niềm tin vào người chồng của
mình: “Con à! Mế tin cha con. Cha con không phải là người hèn nhát đâu” [7,tr.295].
Điều này khiến cho kết thúc truyện trở nên thật ý nghĩa, hấp dẫn. Truyện ngắn Quả
còn đã ghi lại tình huống gặp gỡ của cô gái Mường xinh đẹp với người chiến sỹ trẻ gặp
trên đường hành quân. Hai người cùng đối đáp hát Xương nhưng :“Lệnh hành quân đã
phát xuống. Chị chỉ kịp dúi vào tay người lính hát xường quả còn lúc nào chị cũng cất
trong người. Anh cầm quả còn rồi ngoái đầu nhìn chị. Em à! Hết giặc rồi anh sẽ về
Mường tìm gặp lại em!” [7,tr.279]. Chính tình cảm đó cùng với quả còn là chất xúc tác
dẫn đến tình huống gặp gỡ sau này của hai người. Câu truyện kết thúc với một hạnh
phúc ngọt ngào và viên mãn.
Cuộc sống khắc nghiệt thường dành những thiệt thòi, bất công cho những người
phụ nữ bất hạnh. Tình huống truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đa phần hướng đến việc
khắc sâu lòng nhân ái, bao dung, khơi tìm những phẩm chất tốt đẹp tưởng như có thể bị
vùi lấp ở họ vì những nỗi lo toan cho cuộc sống gia đình. Ngòi bút Hà Thị Cẩm Anh còn
đặc biệt chú ý xây dựng hình tượng nghệ thuật về những người phụ nữ Mường giàu nghĩa
tình thủy chung, sống trong hòa bình vẫn không quên những năm tháng cam go ác liệt
của di chứng chiến tranh để lại. Trong truyện Mẹ tôi tình thế đặc biệt của truyện được tạo
nên bởi một sự kiện đặc biệt đó là việc nàng Sam sinh ra một đứa con quái thai vì bị di
chứng của chất độc da cam nên cô bị dân làng đuổi vào rừng trong tình trạng tay không
tấc sắt, không một hạt gạo, hạt muối “với đứa con bị dị dạng còn đỏ hỏn trên tay”. Khi
xây dựng tình thế này trong truyện ngắn của mình nhà văn đã để cho nhân vật bộc lộ rõ
nét tính cách, phẩm chất của một người phụ nữ Mường. Dù gặp phải cuộc sống khó khăn,
vất vả, cực nhọc nhưng họ luôn giàu nghị lực sống, có niềm tin vào cuộc sống, sống bao
dung bằng tình thương yêu đối với mọi người và đặc biệt là bản năng của một người mẹ
với tình thương yêu dành cho hai đứa con nuôi cũng bị vứt bỏ trong rừng. Một nét đặc
sắc trong cách xây dựng tình huống truyện của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh khi viết về thân
phân, cảnh ngộ của người phụ nữ Mường. Điều này cũng được thể hiện qua truyện ngắn
Cuộc đời bị đánh cắp đó là tình huống truyện được nhà văn dẫn dắt một cách tự nhiên
như chính bản thân cuộc sống. Những chi tiết, tình tiết, sự kiện góp phần làm nên sức thu
81
hút của tình huống truyện đã được nhà văn khéo léo chọn lọc từ những trải nghiệm của
đời sống, đặc biệt là đời sống chiến trường. Ở đó, những sự ngang trái, bất thường, hy
hữu của đời sống đều có thể xảy ra. Khi cô thanh niên xung phong trên đường về tổng đội
lĩnh thuốc cho Trạm xá dã chiến, tình cờ cô gặp một sản phụ đang chuẩn bị sinh con. Vì
tình thương cô đã giúp đỡ đẻ cho người thiếu phụ trong hang đá. Nhưng nhà văn thật
khéo léo khi đưa vào một chi tiết tạo kịch tính cho câu chuyện. Sau một đêm chăm sóc
ôm con cho người thiếu phụ ngủ, tỉnh dậy cô sững sờ hốt hoảng khi biết: “Không thấy ba
lô tư trang, quân trang, thuốc men đâu nữa. Toàn bộ giấy tờ, thẻ đảng viên, giấy chứng
nhận thương tích của mấy lần bị thương phải điều trị đâu cả” [7,tr.491]. Qua chi tiết này
ta thấy cuộc đời nhân vật gặp nhiều bất hạnh: Bị mất tên tuổi, mất danh dự, không nơi
nương tựa và bị hàm oan suốt cuộc đời. Nhưng tình tiết bất ngờ của câu chuyện chính là
ở phần cuối tác phẩm khi nhà văn để cho nhân vật của mình ra đi trong đau đớn tuyệt
vọng: “Mẹ ngất đi không bao giờ tỉnh lại được nữa” [7,tr.506]. Và người giúp trả lại tên
thật cho bà (Bùi Thị Cúc Nữ thanh niên xung phong người Đảng viên), thực hiện ước
nguyện của bà trước khi chết chính là cô con dâu tốt bụng, thấu hiểu được tình cảnh của
người mẹ chồng với nỗi niềm đau đáu hướng về quê hương. Truyện ngắn Một nửa của
người đàn bà nhà văn đã khéo léo xây dựng một tình huống truyện đầy kịch tính và bất
ngờ. Tình huống truyện này gây được sự chú ý và kích thích trí tò mò của người đọc phải
theo dõi hết câu chuyện mới biết được kết quả cuối cùng như nào. Câu chuyện xảy ra
trong tình huống éo le của một người phụ nữ mường xinh đẹp khi cô bị chính người
chồng của mình lừa lọc, lợi dung để hắn được tiến thân trên con đường sự nghiệp. Hắn
đã lừa cô ngủ với một gã mà hắn giới thiệu là bạn học của hắn. Rồi lấy nó làm điều kiện
ép buộc người đàn ông kia để hắn ngồi vào “Cái ghế Chủ tịch huyện Mường Dồ”. Trước
tình cảnh ấy cô cảm thấy ghê sợ hắn và quyết định đoạn tuyệt, cắt đứt mọi mối qua hệ
“Chị với hắn coi như đã tuyệt tình”. Truyện được xây dựng từ những chi tiết, sự kiện
miêu tả hành trình của nhân vật người chị qua lời kể của cô em gái. Rất nhiều chi tiết,
tình tiết đã đan xen, gắn bó nhau để làm nên câu chuyện và làm bật ra tình huống truyện
đầy sức hấp dẫn khi câu chuyện bắt đầu bằng việc đứa con gái của người chị cứ gặng hỏi
bố mình là ai. Rồi đến tình tiết người chị kể lại câu chuyện đau lòng cô phải dấu kín suốt
những năm qua. Khiến cho người em gái phải thốt lên: “Chị tài thật! chuyện xấu xa tày
82
đình như thế mà giữ chặt trong lòng những hai mươi sáu năm trời, phải nói là sức chịu
đượng của chị thật phi thường” [7,tr.481]. Lời nói ấy không chỉ cho thấy nhân cách cao
đẹp của người phụ nữ Mường ở chị, mà còn cho thấy cách xử lý tài tình của nhà văn khi
xây dựng tình huống hiếm gặp trong cuộc sống. Điều đó càng gợi cho người đọc sự tò mò
muốn đọc hết câu chuyện xem cái nửa kia của chị và bố con Đậu là ai. Nhưng điều mà
người đọc hoàn toàn không ngờ đến là nhà văn đặt nhân vật vào trong tình huống truyện
éo le, kịch tính đến bất ngờ hoá ra: cái nửa kia của người đàn bà ở hai chị em chỉ là một
người. Đứa con gái duy nhất của chị chính là con của chồng người em.
3.2.2.2. Tình huống truyện ly kỳ với các sự kiện chồng chéo, gây cảm xúc mạnh cho
người đọc
Khi nói đến nghệ thuật dựng truyện và xây dựng tình huống tài tình ở Hà Thị
Cẩm Anh qua các truyện ngắn không thể không nói đến những tình huống truyện ly kỳ,
hấp dẫn, với các sự kiện chồng chéo, đan xen, khiến người đọc từng bước phải dõi theo
mới biết được kết cục cuối cùng đó chính là tài dẫn dắt truyện. Với các truyện Bài xường
ru từ núi, Gốc gội xù xì, Vợ liệt sỹ, Bình minh xanh, Một nửa của người đàn bà, Giải
vía... Đều có cách dẫn dắt truyện tài tình, người đọc phải theo sát diễn biến của câu
chuyện. Kiểu tình huống truyện này thường gây hấp dẫn, kích thích trí tò mò của người
đọc. Nó như một lực hút khiến người đọc muốn tìm đến những dòng kể, những chi tiết để
hiểu rõ hơn về số phận, cảnh ngộ các nhân vật. Có thể thấy sử dụng kiểu tình huống
truyện này rất phụ hợp cho nhà văn phán ảnh những số phận bất hạnh, éo le trong cuộc
đời nhưng ở họ vẫn sáng lên phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Mường. Đến với truyện
ngắn Bài xường ru từ núi chúng ta phải dõi theo từng chi tiết, sự kiện gắn với cuộc đời
của nhân vật cô Cầm thấy được bao mất mát khổ đau mà nhân vật này trải qua. Cuộc
sống khắc nghiệt thường sẵn dành những thiệt thòi, bất công cho những người phụ nữ bất
hạnh như cô Cầm. Những tình huống truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh thường hướng
đến việc khắc sâu lòng nhân ái, bao dung, của người phụ nữ Mường. Điều đó được thể
hiện qua chi tiết cuối tác phẩm Cầm quyết định đưa con trai về ở nhà “bà mẹ chồng” ích
kỷ, tàn nhẫn khi bà rơi vào cuộc sống khó khăn, vất vả. Lấy danh nghĩa là người trọ học
cho con, để sửa sang nhà cửa và chăm sóc bà, chăm sóc “người chồng đáng thương”, với
hy vọng “Khỏi bệnh rồi, nhất định ông ấy sẽ nhận ra được con trai của mình thôi Sáng
à!” [7,tr.261]. Truyện kết thúc với dòng suy nghĩ hiện ra trong đầu Cầm nhưng đó cũng
83
là lời giải thích cho lý do vì sao Cầm tha thứ cho mẹ con Lâm. Cách kết thúc truyện như
vậy càng khiến người đọc thêm yêu mến, khâm phục lòng vị tha cao thượng của Cầm. Có
thể thấy rằng trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh tình huống truyện có khi diễn ra rất
nhanh gắn với một thời điểm tức thời của truyện nhưng có khi lại diễn ra trong cả một
quá trình vận động của nhân vật. Trong truyện ngắn Giải vía ta thấy nhà văn xây dựng
tình huống truyện qua chi tiết người chồng bỏ đi không một lời từ biệt. Chị phải đi tìm
chồng khắp nơi và sống trong cô đơn chờ đợi người chồng suốt 20 năm. Một loạt các chi
tiết sự kiện đan xen xảy ra trong cuộc đời của nhân vật chị theo mạch kết nối của câu
chuyện. Sau sự việc chồng chị bỏ đi, chị chỉ biết tìm niềm vui trong công việc bảo vệ
rừng và chăm sóc các con thú bị thương. Rồi chị trở thành Kiểm lâm viên hết sức bảo vệ
khu rừng mà chị yêu quý. Bằng tài năng của mình nhà văn không để cho câu truyện về
cuộc đời của nhân vật chị kết thúc trong một tình huống éo le, bi đát. Những con người
biết yêu thương, bảo vệ thiên nhiên, sống có trách nhiệm như chị chắc chắn sẽ được đón
nhận một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc với một tình yêu đích thực bên người đàn ông
tốt bụng, yêu thương chị: “chị bước qua số phận mình giữa lúc giao thừa”. Đến truyện
ngắn Bình Minh Xanh tình huống truyện cũng hấp dẫn người đọc bởi các sự việc, chi
tiết diễn ra trong cuộc đời của cô giáo Hân.Tình huống truyện được xây dựng qua sự việc
Hân bị hai thanh niên lạ mặt bắt cóc. Người đứng sau sự việc này là Nhấm một tên trùm
buôn ma tuý đang bị truy lùng gắt gao.Tính kịch của tình huống trong câu chuyện này
càng lúc càng được tác giả đẩy cao hơn, sức hấp dẫn của truyện cũng theo đà đó mà tăng
dần thêm lên khi Hân biết người bắt cóc mình chắc chắn là Nhấm một người đem lòng
yêu cô, theo đuổi muốn lấy cô làm vợ nhưng bị từ chối. Hắn ôm hận muốn trả thù Hân và
kịch tính của tình huống được đẩy đến mức cao trào khi thằng Nhấm muốn biến Hân trở
thành một con nghiện ma tuý, để cho cô chết từ từ bằng thứ thuốc độc mà hắn tiêm vào
người Hân với liều rất cao. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống bi kịch,
vào hoàn cảnh nguy hiểm có thể mất mạng nhưng chính trong tình huống ấy nhân vật đã
bộc lộ được phẩm chất, tính cách của mình. Càng đối đầu với nguy hiểm thì Hân lại càng
mạnh mẽ, quyết liệt chống cự đến cùng dù cho mệt lả, toàn thân cô đau buốt, nhức nhối.
Cô quyết liệt khẳng định: “Đừng hòng! Mày sẽ không hại được tao đâu. Mày hãy đợi
đấy”. Lời nói này càng bộc lộ rõ tính cách mạnh mẽ, dũng cảm của Hân khi đối mặt với
khó khăn trong cuộc đời của mình. Có một chi tiết trong tác phẩm được nhà văn xây
84
dựng như một sự giải thoát cho Hân với việc cô cố tình rải những viên thuốc trên đường
đi khi bị bắt cóc làm tín hiệu để mọi người biết hướng tìm ra cứu cô thoát khỏi đôi tay
nhơ nhớp, bẩn thỉu của gã thần chết Vi Văn Nhấm cùng lũ lâu la của hắn. Truyện ngắn
kết thúc với câu nói của Hân: “ Chị à! Em yêu Pù Hu. Em sẽ ở lại Pù Hu. Pù Hu có chị,
có thầy khơi, có học trò của em. Người Pù Hu tin và rất thương em! Nhất định em sẽ vượt
qua được kiếp nạn này. Xi chị hãy tin em!” [7,tr.623], đó lại là một kết cục hợp lí của nhâ
vật Hân một con người gan dạ, có lòng tự trọng, có quyết tâm trải qua khó khăn, thách
thức trong cuộc đời. Tình huống ly kỳ trong truyện này đã góp khắc sâu những phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh xây dựng tình huống trong truyện ngắn của mình mang
dấu ấn của sự sáng tạo riêng, được nung nấu, tích lũy, chọn lọc, đúc kết từ sự phong phú,
đa dạng đến xô bồ của cuộc sống và con người. Để viết về thân phận của những người
phụ nữ Mường ở thung lũng Si Dồ của nhà văn.
Với tấm lòng thiết tha, nỗi niềm đau đáu về những kiếp người đau khổ, bất hạnh
của người phụ nữ nơi bản mường là động lực để nhà văn gần gũi, đồng cảm, sẻ chia bằng
tất cả sự sâu sắc của một trái tim yêu thương, một ngòi bút nhân ái, dành cho những thân
phận của phụ nữ xứ Mường. Hà Thị Cẩm Anh luôn thuỷ chung, yêu thương, thiết tha và
trăn trở, xót xa với mảnh đất xứ Mường, tận mắt chứng kiến biết bao câu chuyện, mảnh
đời, số phận con người, nơi đây nên bà chỉ viết ra những gì mình thật sự chiêm nghiệm,
cảm xúc và yêu mến. Đó là cách lý giải vì sao nghệ thuật dựng truyện và xây dựng tình
huống trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh rất đỗi chân thật, tự nhiên như chính bản thân
cuộc sống, gây nhiều cảm xúc mạnh cho người đọc. Khi đọc truyện ngắn của nhà văn
người đọc được trải qua bao cung bậc cảm xúc: Yêu thương, căm giận, xót xa, cảm
thông, chia sẻ cho thân phận bao người phụ nữ Mường. Các truyện ngắn Suối lạnh, Mẹ
tôi, Đêm tháng tám, Giải vía, Cuộc đời bị đánh cắp, Quả còn, Cha mẹ và tôi...và, Của
hồi môn, Ngược chiều mở cửa... Mỗi truyện ngắn đều dẫn dắt người đọc với những cảm
xúc khác nhau. Đọc truyện ngắn Suối lạnh là niềm xót xa thương cảm cho cô gái dân
quân Mường Dồ xinh đẹp, cả tin, giàu tình yêu thương lại bị chính người cô yêu lừa gạt
“ta đã yêu một đêm. Ta đã thương một ngày để rồi phải đau khổ suốt ba mươi năm. Ba
mươi năm là cả một đời người” [7,tr.105]. Những lời tự trách và ân hận như xoáy sâu vào
trái tim người đọc với nỗi niềm thương cảm cho nhân vật. Đặc biệt khi nhà văn xây dựng
85
chi tiết bỗng 30 năm sau hắn trở về thì cô biết được người cứu cô thoát khói bom đạn
năm ấy không phải là hắn, hắn đã chạy trốn khi bom đạn nổ vây quanh cô. Xây dựng
tình huống độc đáo này làm nên sức hấp dẫn không cưỡng được ở người đọc khi tiếp xúc
với câu chuyện thấm đẫm tình người này được kể qua lời của nhân vật “tôi”, đó là nước
mắt của người mế đã khóc cho người chồng tưởng đã hy sinh và khóc cho người chiến sĩ
đã chết. Và còn là tiếng khóc day dứt, ân hận vì sự cả tin của mình trong suốt 30 năm
qua. Cảm xúc của người đọc cứ đi theo dòng tâm trạng của nhân vật mế và trong nỗi đau
đớn tột cùng bà tự ngâm mình trong dòng suối lạnh của ngày đông giá rét để tự trừng
phạt mình. Người đọc cũng sẽ yêu mến, cảm thông, chia xẻ với cảnh ngộ của nhân vật cô
Sam truyện ngắn Mẹ tôi trải qua bao năm tháng khó khăn, cay cực (sinh con quái thai, bị
đuổi vào rừng sâu, không được sống trong làng bản; chồng hy sinh ở chiến trường, mẹ
chồng bị mất...), nhưng cô vẫn kiên cường sống và làm nên bao "kỳ tích", khiến cho
những người trong làng, trong xã, trong huyện phải kính trọng, nể phục và ân hận vì thái
độ ứng xử tàn nhẫn trước đó của mình. Hay là niềm xót xa, thương cảm cho cảnh ngộ số
phận cô gái trẻ trong truyện Quả còn ở Mường Bi khi mới 10 tuổi đã bị đón về Mường
Vang “lạy ma nhà chồng”. Vì chú rể đã chết ngay trong lễ Pao Chầu cách ngày cưới ba
năm. Mặc dù biết chú rể đã chết nhưng vì lời hẹn ước gả con cho nhau của hai ông bố thợ
săn, vì: “Của cải bên Mường Vang mang sang nhiều không đếm được. Làm sao mà trả
hết? Đành phải gả đứa con gái duy nhất của mình sang bên đó làm vợ ma người ta cho
đến hết đời” [44,tr.985]. Thật xót xa đau đớn cho đời một người con gái? “Để rồi bao
năm cô phải sống trong cô đơn, buồn tủi như một chiếc bóng trong chính ngôi nhà sàn
của mình. Cô đã bị tước đoạt tất cả: quyền yêu, quyền làm vợ, làm mẹ” [51,tr.262]. Từ
tình huống về làm dâu bên Mường Vang của cô gái Mường Bi mà khi đọc truyện ta
không khỏi căm giận, lên tiếng phê phán những hủ tục lạc hậu, những thói quen tập quán
xấu trong cộng đồng. Còn là tình huống truyện trong truyện ngắn Giải vía người đọc
cũng không khỏi xót xa, cảm thông cho cảnh ngộ cuộc đời của một cô gái trẻ chỉ vì bị
quan niệm có vía xấu mà phải sống cô đơn một mình trong ngôi nhà lạnh lẽo không có ai
lên thang để làm bạn. Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh người đọc thấy lắng đọng
bên trong những câu chuyện đời thường là sự day dứt, dằn vặt, trăn trở, đay nghiến do
đạo đức bị băng hoại, lòng tự trọng bị tổn thương, ý thức về sự cao đẹp của nhân phẩm bị
dập vùi trong các truyện ngắn như: Chuyện xưa, Của hồi môn, Ngược chiều cửa mở,
86
Cuộc đời bị đánh cắp, Một nửa người đàn bà. Tình huống trong truyện ngắn Của hồi
môn vừa khiến người đọc cảm thông lại vừa căm giận sự hèn nhát của người đàn ông,
bạc tình: “Cô héo hon, mòn mỏi, khổ đau, uất hận, “cằn cỗi như con Voọc già” và chết
trong cô độc. Sự ân hận muộn màng cùng với “của hồi môn” là “một bài thơ chân thực
và tử tế” của người đàn ông lãng mạn nhưng hèn nhát, vô trách nhiệm gửi cho con gái
của cô - thật là một sự mai mỉa, thật là một cái giá quá đắt đối với cuộc sống, tình yêu
với sự trong sáng, cả tin, với sự dâng hiến, hy sinh hết mình của cô đối với một kẻ bạc
tình, hèn nhát” [51,tr.264].
Đời sống vùng cao có nhiều thay đổi nhưng với sự thay đổi ấy ta không khỏi xót
xa với cảnh đời của hai mẹ con ở Chiềng Va trong truyện ngắn Ngược chiều cửa mở.
Khi nhà văn xây dựng tình huống và đưa ra tình tiết. “Công cuộc đô thị hóa với tốc độ
mau chóng ở thời mở cửa - đã lôi cuốn hai mẹ con vào cơn lốc thị trường” [51,tr.269].
Trước hiện thực ấy mối quan hệ giữa con người với nhau không còn thuần nhất, chất
phác nữa mà xen vào đó là những lọc lừa. Con người nơi đây, đặc biệt là người phụ nữ sẽ
là đối tượng chịu ảnh hưởng đầu tiên. Đó là cộc sống của hai mẹ con bị cuốn theo vòng
quay của cơ chế thị trường thời mở cửa. Từ một người mẹ chăm chỉ, chịu khó làm ăn,
“đốt rừng, làm rẫy, tra ngô, tra hạt để tự túc cái ăn, trồng bông dệt vải để tự túc cái
mặc” thì nay trong công cuộc thay đổi của thời kinh tế thị trường đã khiến người mẹ trở
thành một con người hoàn toàn khác hẳn: “Mẹ bán căn nhà sàn cổ, bán cả 5 héc ta rừng
đã khép tán... để dựng quán bán hàng tạp hóa và bán cả cơm khi có người đặt ăn nữa.
Người mẹ trở nên khéo léo, lẳng lơ mời chào, chèo kéo khách... Rồi "để tiện" và có cơ hội
cho chuyện làm ăn, người mẹ đã quan hệ "bồ bịch" với Cả Sún - Văn Sướng” [51,tr.269].
Còn cô con gái được đi làm ở Văn phòng Uỷ ban huyện do ông chủ tịch tuyển vào sau đó
lên làm “ kế toán ngân sách xã” bị cuốn vào ma lực của những tập tiền do ông chủ tịch
mua chuộc khiến cô mất đi chinh tiết của đời người con gái, cô đau khổ rơi vào nghiện
ngập, không cần tương lai.Theo như một nhà phê bình khẳng định:“Nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh đã phát hiện ra điều đó, đã đau đớn, dằn vặt, trăn trở... vì điều đó. Chị xót xa chỉ ra
sự tha hóa, sự biến chất... của bao cô gái, bao phụ nữ Mường - khi họ không đủ sức đề
kháng do không có kinh nghiệm sống, nên đã bị cuốn vào guồng quay của cuộc sống "chỉ
vì tiền" ở xứ sở Mường Dồ này một cách thảm hại” [51,tr.269].
Tình huống trong truyện ngắn có tác dụng như nhân tố kích thích câu chuyện phát
87
triển một cách liền mạch có định hướng theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Xây dựng nên
những tình huống hay, đặc sắc là yếu tố góp phần quan trọng giúp tác phẩm thành công
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh thường lựa chọn
những tình huống bộc lộ được tính cách và chiều sâu nội tâm cách nhân vật. Từ tình
huống đó khiến câu chuyện có tính tập trung và xoay quanh vấn đề để khắc họa, làm nổi
bật những đổi thay trong số phận, cuộc đời của người phụ nữ Mường. Thông qua nghệ
thuật xây dựng cốt truyện và tình huống truyện thấy được tài năng, tâm huyết, sự sáng tạo
và sự sâu sắc tinh tế của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong việc xây dựng hình tượng người
phụ nữ Mường trong các tác phẩm của mình.
* Tiểu kết chương 3
Có thể thấy, qua những sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh nhà văn đã kế thừa những
yếu tố nghệ thuật truyền thống của văn học dân gian (Mường) nhưng có sự bứt phá, sáng
tạo trong nghệ thuật viết truyện ngắn của mình. Đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật mang
những nét tính cách, phẩm chất cùng với việc sử dụng ngôn ngữ nhân vật mang đậm bản
sắc Mường qua lời độc thoại và đối thoại của nhân vật. Đặc biệt là những đặc sắc trong
nghệ thuật xây dựng cốt truyện và tình huống truyện. Bên cạnh việc kế thừa những yếu tố
nghệ thuật truyền thống trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện thì Hà Thị Cẩm Anh đã có
sự đổi mới theo lối viết của truyện hiện đại. Nhiều truyện ngắn của nhà văn có cốt truyện
miêu tả gấp khúc, đảo lộn thời gian và lối kết thúc mở, xuất hiện nhân vật lưỡng diện,
chú ý khai thác thế giới nội tâm nhân vật. Cùng với đó là những tình huống truyện, kịch
tính, hấp dẫn, ly kỳ, chứa đựng những dấu ấn sáng tạo riêng. Tất cả tạo nên một âm
hưởng riêng, bản sắc riêng góp phần khẳng định vị trị “ thương hiệu” của nhà văn cho
văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại.
88
KẾT LUẬN
1. Trong đời sống văn xuôi Việt Nam hiện đại thì bộ phận văn xuôi DTTS đã có
những đóng góp đáng trân trọng góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng, giầu màu sắc
cho thể loại văn học quan trọng này của dân tộc. Kể từ những năm 60 (thế kỷ XX) cho tới
nay, đã có nhiều thế hệ tác giả văn xuôi DTTS nối tiếp nhau tích cực sáng tác và đã
khẳng định được sự có mặt của mình trong đời sống văn học văn học nước nhà. Trong đó
các nhà văn dân tộc Tày chiếm số lượng nhiều nhất, sau đó là dân tộc Thái, tiếp đến là
dân tộc Mường với các tên tuổi tác giả qua các thời kỳ như: Vương Anh, Quách Ngọc
Thiên, Hà Lý, Bùi Minh Chức, Hà Thị Cẩm Anh Bùi Thị Tuyết Mai, Thanh Hương...
Trong đó nữ nhà văn Hà Thị Cẩm Anh là một đại diện tiêu biểu, xuất sắc của các nhà văn
Mường nói riêng, của các nữ nhà văn DTTS ở Việt Nam nói chung. Các sáng tác của Hà
Thị Cẩm Anh luôn thể hiện niềm yêu thương chan chứa, sự cảm thông chia xẻ và nỗi trăn
trở, xót xa với mảnh đất xứ Mường, với những thân phận của phụ nữ xứ Mường ở vùng
núi miền Trung đầy nắng, gió và các điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt này.
2. Hà Thị Cẩm Anh là một nữ nhà văn DTTS tiêu biểu thời kỳ Đổi Mới. Những
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh tập trung viết về con người, về phong tục, tập quán, về
thiên nhiên nơi xứ Mường. Đặc biệt là nhà văn đã giành nhiều tâm huyết và tài năng vào
việc xây dựng hình tượng người phụ nữ Mường trong cuộc sống thời kỳ hiện đại (qua các
giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước). Hình tượng người phụ nữ Mường trong truyện
ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đã được hiện lên với vẻ đẹp về ngoại hình, vẻ đẹp về tâm hồn,
về trái tim và tấm lòng giàu đức hy sinh của họ. Họ thường được đặt trong hoàn cảnh éo
le, khắc nghiệt, đầy khó khăn và thách thức, nhưng dù họ có bị rơi vào hoàn cảnh khó
khăn khắc nghiệt như thế nào đi chăng nữa thì trong họ vẫn luôn le lói, ấp ủ những ước
mơ, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, một hạnh phúc đời thường với một sức sống
mãnh liệt, một niềm tin sắt đá.
Với cái nhìn đa chiều về cuộc sống và con người miền núi thời kỳ hiện đại
nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã đi sâu vào khai thác những cuộc đời, những số phận khác
nhau của những người phụ nữ Mường với bao niềm vui, tự hào, cũng như bao nỗi buồn,
nỗi cay đắng, nỗi oan ức thiệt thòi của họ. Họ là CÁI ĐẸP, là niềm tự hào của quê hương
89
miền núi, nhưng họ cũng là nạn nhân đau khổ của những hủ tục nặng nề nơi xứ Mường
xa xôi; là nạn nhân của niềm tin, của tình yêu bị đánh cắp bởi những kẻ ích kỷ, thủ đoạn,
độc ác, bạc tình, bạc nghĩa; là nạn nhân của mặt trái xã hội thời cơ chế thị trường thời mở
cửa... Là một người phụ nữ Mường với những trải nghiệm đầy xót xa, với những sự quan
sát tinh tế và với tấm lòng cảm thông, yêu thương, chia xẻ của mình - nhà văn Hà Thị
Cẩm Anh đã rất thành công khi xây dựng nên những hình tượng người phụ nữ Mường
với những vẻ đẹp đáng ngợi ca, khẳng định, cùng những nỗi bất hạnh mà họ phải đối diện
và gánh chịu. Chính vì thế mà nhân vật phụ nữ Mường trong tác phẩm của Hà Thị Cẩm
Anh luôn được hiện lên rõ nét, sinh động và cảm động.
3. Trong nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ Mường nhà văn Hà Thị
Cẩm Anh đặc biệt chú ý đến việc khắc hoạ vẻ đẹp về ngoại hình nhân vật. Tác giả rất hay
sử dụng biện pháp so sánh (so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng, vẻ đẹp của các
loài hoa, trái trên rừng) nhằm làm toát lên vẻ đẹp đầy tự nhiên, một vẻ đẹp đầy sức sống,
rực rỡ, tươi mát – vẻ đẹp khoẻ mạnh của người lao động miền núi, vẻ đẹp phồn thực đầy
khả năng làm mẹ, làm vợ, làm “chủ các bếp”, các ngôi nhà sàn của người phụ nữ xứ
Mường. Bên cạnh đó là việc khắc vẻ đẹp nội tâm trong trái tim, tâm hồn và trong tấm
lòng giàu đức hy sinh, trong hành động cụ thể của người phụ nữ. Tác giả luôn nhấn mạnh
đến vẻ đẹp của sự thuỷ chung nhất mực trong tình yêu của những người phụ nữ Mường;
nhấn mạnh đến sức chịu đựng, đến sự hy sinh hết mình vì gia đình (chồng, con, cha, mẹ);
nhấn mạnh đến lòng vị tha cao cả của họ... Đặc biệt là nhấn mạnh đến sức sống tiềm
tàng, đến niềm tin sắt đá và khả năng gây dựng cuộc sống, chăm lo cuộc sống của những
người phụ nữ xứ Mường tưởng như bình thường mà rất phi thường này: Trong Ngôn ngữ
nghệ thuật , tác giả Hà Thị Cẩm Anh rất chú ý cách sử dụng thứ ngôn ngữ mang đậm bản
sắc Mường; chú ý đến ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật để góp phần khắc
hoạ rõ nét tính cách của nhân vật. Về cốt truyện: tác giả đã sử dụng cả ba loại cốt truyện
(truyền thống, hiện đại và cả loại cốt truyện mang dấu ấn hậu hiện đại nữa). Tác giả cũng
đã chú ý đến nghệ thuật tạo tình huống truyện. Đó là những tình huống bất ngờ, khó đoán
trước với những chi tiết được dấu đến phút cuối cùng, khiến người đọc bất ngờ, lý thú với
những câu chuyện “ bí ẩn” của những người phụ nữ...
4. Thông qua việc xây dựng nhân vật hình tượng người phụ nữ Mường trong
90
văn xuôi Hà Thị Cẩm Anh, người đọc nhận rõ được tình cảm yêu thương, tự hào nhưng
cũng đầy sự cảm thông, xót xa của tác giả đối với người phụ nữ Mường trong cuộc sống
phong phú nhưng đầy phức tạp, đầy thách thức thời kì hiện đại. Qua đó, người đọc cũng
đã nhận thấy được quan điểm nghệ thuật cũng như quan điểm về việc phản ánh hiện thực
cuộc sống của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh - một nữ nhà văn DTTS tiêu biểu thời kì Đổi
Mới: Đó là quan điểm cần phải phản ánh hiện thực, phản ánh cuộc sống con người một
cách khách quan, đa chiều, kể cả những mặt khuất lấp của nó; đồng thời cũng thể hiện rõ
thái độ phê phán, phản biện đối với cái xấu, cái tiêu cực trong cuộc sống nói chung, trong
từng gia đình, từng con người nói riêng của nhà văn xứ núi này.
Với những gì nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã làm được, đã thể hiện được trong các
tác phẩm của mình khi viết về người phụ nữ Mường trong cuộc sống thời kỳ hiện đại –
đã đủ để khẳng định: Bà chính là “nhà văn của những người phụ nữ ” mà ở đây là những
người phụ nữ DTTS, người phụ nữ Mường. Chỉ với điều này thôi cũng đã thấy được
những nét riêng, những sáng tạo riêng, những đóng góp riêng của bà đối với văn xuôi
DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại trong quá trình Đổi Mới và hội nhập.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Thị Cẩm Anh (2002), Người con gái Mường Biện, Nxb Văn hoá dân tộc.
2. Hà Thị Cẩm Anh (2004), Bài xường ru từ núi, Nxb Văn hoá dân tộc.
3. Hà Thị Cẩm Anh (2005), Nước mắt của đá, Nxb Văn hoá dân tộc .
4. Hà Thị Cẩm Anh (2008), Mưa bụi, Nxb Văn hoá dân tộc.
5. Hà Thị Cẩm Anh (2013), Một nửa của người đàn bà, Nxb Văn hoá dân tộc.
6. Hà Thị Cẩm Anh (2017), Bình Minh Xanh, Nxb Quân đội nhân nhân.
7. Hà Thị Cẩm Anh - Trần Thị Vân Trung (2016), Tuyển tập văn xuôi Hà Thị Cẩm Anh,
Nxb Đại Học Thái Nguyên.
8. Hà Thị Cẩm Anh (2013), “Niềm tin”, Báo Văn nghệ trẻ, số 13, 31 / 3 / 2013
9. Vi Anh (2018), “Mùa xuân trong văn xuôi dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội thứ 5 ngày 5/4/ 2018.
10. Nông Quốc Chấn (1964), “Mấy vấn đề về văn học các dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn
học, Số 10, tr. 36 - 44.
11. Nông Quốc Chấn, (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb giáo dục.
12. Nguyễn Thị Bích Dậu (2014), Bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị
Cẩm Anh, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Thái Nguyên.
13. Đỗ Đức (2016), “ Đọc truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh”, in trong cuốn Nghiên cứu, phê
bình về văn học dân tộc thiểu số, Nxb Đại học Thái Nguyên.
14. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),( 1999), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Thu Hiền, (2006), “Văn học hiện đại dân tộc Mường: những khuôn
mặt”, Vănchươngviet.org.
17. Cao Thu Hoài, (2015), Nửa thể kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc Việt Nam (khoảng từ 1960 đến nay), luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại
học Thái Nguyên.
18. Hội văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, (2003), Nhà văn dân tộc thiểu số Việt
Nam Đời và văn, Nxb Văn hóa dân tộc.
92
19. Hội văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hóa dân tộc.
20. Hội văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, (2007), Từ Đại hội đến Đại hội.
21. Phong Lê (1985), Bốn mươi năm văn hóa nghệ thuật các DTTS Việt Nam 1945 -
1985, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
22. Phong Lê (Chủ biên) (1988), Nhà văn các DTTS Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa
dân tộc.
23. Thy Lan (2016), “Hồn Mường trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh”, in trong cuốn
Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số, Nxb Đại học Thái Nguyên.
24. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục.
25. Vương Trí Nhàn (1996), “Phụ nữ và sáng tác văn chương”, Tạp chí văn học, số 6.
26. Phan Ngọc (2002), Bản sắc Văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học
27. Phạm Duy Nghĩa (2003), “Văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống - hiện đại”,
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 10.
28. Phạm Duy Nghĩa (2008), “Cốt truyện trong văn xuôi các dân tộc miền núi”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Số 11, tr. 52 - 60.
29. Phạm Duy Nghĩa (2010), Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi, Luận
án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.
30. Đào Thủy Nguyên (chủ biên), (2015), Bản sắc dân tộc trong văn xuôi của các nhà
văn dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đại học Thái Nguyên.
31. Nhiều tác giả (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.
32. Nhiều tác giả (1998), Nhà văn DTTS Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa dân tộc.
33. Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập văn xuôi dân tộc miền núi thế kỉ XX, Nxb Văn hoá dân tộc.
34. Nhiều tác giả (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập 1, Nxb Giáo dục.
35. Hùng Đinh Quý (1997), Tiếng nói các nhà văn dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá dân tộc.
36. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, Nxb Văn hoá dân tộc.
37. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình lí luận văn học tập 1, Nxb Đại học Sư phạm.
38. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình lí luận văn học tập 2, Nxb Giáo dục.
39. Trần Đình Sử (2009), "Thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
thế kỉ XX" , Tạp chí Nghiên cứu văn học, (2).
93
40. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học dân tộc.
41. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
42. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
43. Nguyên Tĩnh (2011), “ Hà Thị Cẩm Anh và thung lũng Si Dồ”,
Nguyentinh.vnweblog.com
44. Lã Thanh Tùng (2016), “Khi đá cũng đòi được giải oan”, in trong cuốn Nghiên cứu,
phê bình về văn học dân tộc thiểu số, Nxb Đại học Thái Nguyên.
45. Bùi Viết Thắng, (2016), “Một cây bút nữ đa tình với thiên nhiên”, Báo điện tử Quân
đội nhân dân, thứ ba ngày 2/3/2016.
46. Ngô Đức Thịnh (1997), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc.
47. Hoả Diệu Thuý (2016), “Hà Thị Cẩm Anh với những chuyện ở thung lũng Si
Dồ”, in trong cuốn Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số, Nxb Đại
học Thái Nguyên.
48. Bùi Thu Trà,Trần Thị Việt Trung (2014), “Hình tượng người phụ nữ trong thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam truyền
thống và hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
49. Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo,( 2012), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kì hiện đại – một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
50. Thị Việt Trung- Nguyễn Đức Hạnh ( Đồng chủ biên) (2014), “Văn học dân tộc thiểu
số Việt Nam truyền thống và hiện đại” , Nxb Đại học Thái Nguyên.
51. Trần Thị Việt Trung ( 2016), Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số, Nxb
Đại học Thái Nguyên.
52. Trần Thị Việt Trung (2018), “Tính hiện thực và chất nhân văn trong hình tượng
người phụ nữ Mường qua sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh”, Tạp chí lý luận phê
bình văn học nghệ thuật, số 3/ 2018.
53. Đỗ Ngọc Yên, (2015), “Người phụ nữ trong xã hội hiện đại qua những trang văn
nữ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội thứ tư,ngày 15/4/2015.
94
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN HÀ THỊ CẨM ANH
Nhân vật nữ Nhân vật nữ STT Tên tác phẩm chính phụ
1 Mế Suối lạnh
2 Vạ cát Chuyện xưa
3 Người mẹ Đêm tháng tám
4 Hảo Chỗ ngoặt của con đường
5 Mế Của hồi môn
Niên 6 Mưa bụi
7 Cầm Bài xường ru từ núi
8 Cô gái trẻ Quả còn
9 Bà Lời Cha mẹ và tôi... và
Nàng Sam 10 Mẹ tôi
Hai mẹ con 11 Ngược chiều mở cửa
Tôi, Sun 12 Gốc gội xù xì
13 Bà lão Trăng rằm
Hai chị em 14 Một nửa của người đàn bà
Vả lũ 15 Cuộc đời bị đánh cắp
Chị 16 Giải vía
Bà Xanh 17 Vợ liệt sĩ
Cô giáo 18 Nơi biển đảo có mặt trời của mẹ
Hân 19 Bình minh xanh
Bà nàng 20 Mưa đá
Thiếu phụ 21 Mơ biển
Nàng 22 Nước mắt của đá
23 Mế Làng tôi có chú đỏ khờ
Bà Quyết 24 Đêm khua luông dành cho người chết
Cô Lọn 25 Khá chồi
Chị 26 Nước mắt đỏ
27 Mế Thằng Chinh ngốc
Cô Vẹn 28 Chợ phiên
29 Người vợ Tiếng hát chiều cuối năm
Bà lão 30 Bà ngoại
Mế 31 Cưới chạy
BẢNG THỐNG KÊ BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
Tỷ lệ lượt từ so sánh / trang STT Tên tác phẩm
Số lượt sử dụng biện pháp so sánh trong truyện 17 17/28 1 Bài xường ru từ núi
17 17/25 2 Gốc gội xù xì
17 17/28 3 Quả còn
12 12/18 4 Một nửa của người đàn bà
9 9/23 5 Suối lạnh
8 8/15 6 Cha mẹ và tôi... và
7 7/15 7 Của hồi môn
7 7/39 8 Bình minh xanh
6 6/23 9 Cuộc đời bị đánh cắp
6 6/20 10 Giải vía
5 5/25 11 Ngược chiều mở cửa
5 5/10 12 Trăng rằm
5 5/14 13 Đêm tháng tám
4 4/19 14 Mẹ tôi
3 3/17 15 Mưa bụi
BẢNG THÔNG KÊ CỐT TRUYỆN THEO DÒNG THỜI GIAN
STT Tên tác phẩm
Cốt truyện theo dòng thời gian khúc, đảo lộn Cốt truyện theo thời gian tuyến tính
1 x Nước mắt của đá
2 x Làng tôi có chú đỏ khờ
3 x Ậu mây
4 x Đêm khua luông dành cho người chết
5 x Suối lạnh
6 x Chuyện xưa
7 x Đêm tháng tám
8 x Chỗ ngoặt của con đường
9 x Của hồi môn
x 10 Mưa bụi
x 11 Khá chồi
x 12 Bài xường ru từ núi
x 13 Quả còn
x 14 Cha mẹ và tôi... và
x 15 Giấc mơ của người lính già
x 16 Mẹ tôi
x 17 Gốc gội xù xì
x 18 Nước mắt đỏ
19 x Thằng Chinh ngốc
x 20 Một nửa của người đàn bà
x 21 Cuộc đời bị đánh cắp
x 22 Giải vía
x 23 Vợ liệt sĩ
x 24 Nơi biển đảo có mặt trời của mẹ
25 x Trăng rằm
x 26 Bình minh xanh
27 x Tiếng hát chiều cuối năm
x 28 Mưa đá
x 29 Bà ngoại
x 30 Mơ biển
x 31 Ngược chiều mở cửa
x 32 Cưới chạy
x 33 Chợ phiên
34 x Trở về nhà