ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ TUYẾN
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓ A VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ TUYẾN
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓ A VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Điệp
THÁI NGUYÊN - 2017
MỤC LỤC
MỤC LỤC .......................................................................................................................... i
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 5
7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................................... 6
8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 6
Chương 1 .......................................................................................................................... 7
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NÓI CHUNG VÀ THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG..... 7
1.1. Thế giới nghệ thuật..................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................................ 7
1.1.2. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên thế kỉ XXI ....... 9
1.1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình ..................................................................................... 9
1.1.2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ nói chung ................................................................... 11
1.2. Vài nét khái quát về thơ Thái Nguyên và thơ trẻ Thái Nguyên đầu thế
kỉ XXI .............................................................................................................................. 12
1.2.1. Khái quát thơ Thái Nguyên .................................................................................. 12
1.2.2. Khái quát thơ trẻ Thái Nguyên ............................................................................. 14
1.2.2.1. Khái niệm thơ trẻ................................................................................................ 14
1.2.2.2. Những mạch nguồn phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên ................................. 14
1.2.2.3. Quá trình vận động và phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên ............................. 22
i
* Tiểu kết chương 1: ........................................................................................................ 27
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ CẢM HỨNG VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH ................ 29
TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN ....................................................................... 29
2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ trẻ Thái Nguyên .......................................................... 29
2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên .............................................................. 37
2.2.1. Cái tôi trong trẻo, hồn nhiên ................................................................................. 37
2.2.2. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé ........................................................................................... 44
* Tiểu kết chương 2: ........................................................................................................ 56
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN, THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN ........................................ 57
3.1. Về ngôn ngữ ............................................................................................................. 57
3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc ................................................................................. 57
3.1.2. Ngôn ngữ lạ hóa .................................................................................................... 64
3.2. Về không gian .......................................................................................................... 70
3.2.1. Không gian phố thị ................................................................................................ 70
3.2.2. Không gian làng quê ............................................................................................. 72
3.3. Về thời gian .............................................................................................................. 76
* Tiểu kết chương 3: ........................................................................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 84
ii
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Công cuô ̣c đổ i mớ i năm 1986 là mô ̣t sự kiê ̣n quan tro ̣ng làm nướ c ta thay đổ i trên tất cả các mă ̣t: kinh tế, chính tri ̣, văn hóa và văn ho ̣c. Tính từ năm 1986 đến nay, thơ Viê ̣t Nam có nhiều bướ c tiến vươ ̣t bâ ̣c vớ i nhiều thử nghiê ̣m đa da ̣ng xuất phát từ sự thay đổ i sâu sắc về tư duy nghê ̣ thuâ ̣t củ a các tác giả. Đó là cái nhìn cuô ̣c đờ i bằng ánh mắt tỉnh táo, sắc la ̣nh và thơ ca như một sự an ủ i cho những con ngườ i đang không ngừ ng tự tra vấn mình. Họ đã truyền tải và
kết nối thơ ca đến bạn đọc bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú và hơn thế
nữa là góp phần tạo ra những hiệu ứng tích cực cho đời sống thơ ca trước sự
bùng nổ của các phương tiện truyền thông nghe, nhìn…
1.2. Thái Nguyên là một trong những trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị,
xã hội lớn của vùng Trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam; là nơi hội tụ, giao
thoa của nhiều nền văn hóa các tộc người miền núi và miền xuôi; nơi tập trung
đông đảo đội ngũ trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo...; Có lẽ bở i vâ ̣y nên văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng ở mảnh đất này đã có một chặng đường dài phát triển với sự xuất hiện của nhiều thế hệ các nhà thơ nối tiếp nhau sáng tạo, góp phần không nhỏ tạo nên một diện mạo thơ Thái Nguyên – vừa có
những nét chung vừa có những đặc điểm riêng trong đời sống thơ ca thời kì
hiện đại và đổi mới. Đặc biệt, trong những năm gần đây thơ ca Thái Nguyên đã
có sự chuyển mình mô ̣t cách ma ̣nh mẽ với các hiê ̣n tươ ̣ng thơ và những cách
tân, những thử nghiê ̣m mới mẻ, đa da ̣ng bên cạnh một dòng thơ truyền thống.
1.3. Cuối thế kỉ XX sang đầu thế kỉ XXI cùng với quá trình đổi mới
của xã hội nói chung và văn học nói riêng, thơ ca Thái Nguyên đã có nhiều
nỗ lực trong quá trình tìm tòi, cách tân để tự làm mới bản thân và đã gặt hái
được những thành công đáng kể, ghi dấu ấn trên thi đàn đương đại với
1
những tên tuổi như: Võ Sa Hà, Hồ Triệu Sơn, Trần Thị Vân Trung, Nguyễn
Thúy Quỳnh, Mai Thắng... Họ có vai trò quan trọng, tạo tiền đề cho sự đổi
mới và phát triển của các cây bút ở giai đoạn sau.
Trong gần hai thập kỉ đầu thế kỉ XXI, thơ Thái Nguyên đã xuất hiện một
thế hệ các cây bút trẻ sung sức, tài năng, mang khát vọng đổi mới, sáng tạo. Có
thể kể tên một số tác giả tiêu biểu như: Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh,
Pha ̣m Văn Vũ, Nguyễn Nhâ ̣t Huy, Trần Thi ̣ Nhung, Doãn Long, Hoàng Thị
Hiền, Gia Hân... Ho ̣ sinh ra và lớ n lên giữa thờ i đa ̣i mà đất nướ c có nhiều biến
đô ̣ng về mo ̣i mặt; sự phát triển mạnh mẽ củ a nền kinh tế thi ̣ trường, sự mở cử a giao thương rô ̣ng rãi không chỉ khiến ảnh hưởng đến tình hình xã hô ̣i, mà hơn thế nữa cũng để lại những dấu ấn đậm nét trong cả đờ i số ng tâm lí con ngườ i. Các tác giả trẻ cũng dần thích ứ ng vớ i cuô ̣c số ng, họ chi ̣u ảnh hưở ng từ văn hó a củ a các nướ c phương Tây và không ngừng ho ̣c hỏ i, tiếp thu xu hướ ng phát triển chung củ a nền văn ho ̣c hiện đa ̣i thế giớ i. Điều này thể hiện rõ qua sự nỗ lực cách tân và tinh thần thể nghiê ̣m, tìm tò i những điều mớ i la ̣ trong quá trình sáng ta ̣o nghê ̣ thuật. Có thể nói đây là sự phát triển có tính kế thừa liên tục, góp phần
đem lại một sinh khí mới, một diện mạo mới cho thơ Thái Nguyên, là cơ sở
giúp thơ ca Thái Nguyên có được một nền tảng vững vàng và ẩn chứa những
tiềm năng lớn.
Xuất phát từ những lí do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài:
Thế giớ i nghê ̣ thuật trong thơ trẻ Thá i Nguyên làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình vớ i mong muố n đó ng gó p mô ̣t cái nhìn đầy đủ hơn về thơ ca Thái Nguyên trong dò ng chảy chung của nền thơ ca Việt Nam đương đa ̣i.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Thái Nguyên
Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống văn hóa, văn học, có những
điều kiện thuận lợi để nuôi dưỡng và phát triển văn học nói chung và thơ ca nói
riêng. Thơ Thái Nguyên thời kì hiện đại đã có một chặng đường lịch sử lâu dài
2
với những tên tuổi như: Khánh Kiểm, Trần Văn Loa, Ma Trường Nguyên,
Nguyễn Thúy Quỳnh,Võ Sa Hà, Trần Thị Vân Trung, Ba Luận, Hồ Thủy
Giang, Nguyễn Đức Hạnh… Sáng tác của các tác giả này cũng được quan tâm
trong nhiều bài báo khoa học, là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn, khóa
luận tốt nghiệp Đại học, … Có thể nói, với những nghiên cứu đó, sáng tác của
các nhà thơ Thái Nguyên tiêu biểu đã được tìm hiểu trên nhiều phương diện, từ
nội dung đến hình thức nghệ thuật, từ ngôn ngữ, hình ảnh đến cấu trúc, nhịp điệu
hay những sáng tạo mới mẻ và những nỗ lực cách tân nghệ thuật trong thơ. Việc
nghiên cứu về thơ Thái Nguyên đã và đang diễn ra không ngừng, đó vẫn là mảnh
đất đầy tiềm năng cho những ai quan tâm và yêu mến thơ của các nhà thơ Thái
Nguyên có thể tìm hiểu, khai thác để tìm ra những cái hay, cái mới, cái thú vị
trong những sáng tác đầy tâm huyết của các nhà thơ trên mảnh đất này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ trẻ Thái Nguyên
Thơ trẻ là những nhà thơ thuộc thế hệ 8X 9X, họ trẻ về tuổi đời và cả
tuổi làm thơ. Họ mang sinh khí mới, diện mạo mới và đang là mối quan tâm
của nhiều nhà phê bình. Thơ trẻ Thái Nguyên là một bộ phận của thơ Thái
Nguyên từ đầu thế kỉ XXI đến nay. Tuy nhiên, những nghiên cứu về thơ trẻ
Thái Nguyên còn rất khiêm tốn và chưa thực sự nhận được sự quan tâm sâu sắc
của cả người đọc và giới nghiên cứu, trừ một số ít sáng tác đã đạt các giải
thưởng trong các cuộc thi thơ trong những năm gần đây.
Có thể nói, cho đến thờ i điểm hiê ̣n ta ̣i chưa có công trình nào nghiên cứ u một cách công phu, có cái nhìn tổng quát, có hệ thống và chi tiết về thế
giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên. Các tài liệu về thơ trẻ Thái
Nguyên đến nay chủ yếu là những bài cảm nhận ngắn, những đoạn giới
thiệu trên các trang mạng, các diễn đàn văn học của một số nhà phê bình và
bạn bè của các tác giả. Tiếng nói của thơ trẻ Thái Nguyên chủ yếu thông
qua diễn đàn báo chí, mạng internet, những trao đổi tự bạch, hoặc đánh giá
về thế hệ mình thông qua tham luận tại các buổ i gă ̣p mă ̣t, hội nghị, hội thảo
3
về văn học.
Nhìn chung, lịch sử vấn đề nghiên cứu về các cây bút trẻ Thái Nguyên cò n là khoảng trố ng ít ngườ i đă ̣t chân đến. Chúng tôi hiểu rằng, điều đó vừa là thuận lợi nhưng đồ ng thờ i cũng là thách thức không nhỏ trong quá trình thực hiện luận văn. Vớ i tinh thần làm việc nghiêm túc và sự cố gắng trong quá trình nghiên cứ u, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ góp thêm cái nhìn đầy đủ , toàn diê ̣n hơn trong công tác nghiên cứ u, đánh giá và phê bình các cây bút trẻ hiê ̣n nay. Đồ ng thờ i chú ng tôi cũng mong muố n, khi hoàn thành luâ ̣n văn sẽ là mô ̣t trong những công trình giới thiệu thơ trẻ Thái Nguyên đến với bạn đọc gần, xa. 3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu khái quát và chỉ ra những đặc điểm nổi bật về thế giớ i nghê ̣
thuâ ̣t trong sáng tác củ a các cây bút trẻ Thái Nguyên.
Chỉ ra những đóng góp của các cây bút trẻ Thái Nguyên trong quá trình nỗ lực cách tân, sáng tạo trong thơ ca của tỉnh Thái Nguyên đầu thế kỉ XXI và những đóng góp của họ cho thơ trẻ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ thơ trẻ của Thái Nguyên từ đầu thế kỉ XXI đến nay. Tập trung
vào nghiên cứu một số sáng tác của các tác trẻ tiêu biểu như: Dương Thu Hằng,
Phạm Văn Vũ, Vũ Thị Tú Anh, Nguyễn Nhật Huy, Trần Thị Nhung, Doãn
Long, Hoàng Thị Hiền, Gia Hân…
Phân tích một số tác phẩm thơ của các tác giả thuộc các thế hệ nhà thơ
Thái Nguyên để đối chiếu, so sánh… và chỉ ra sư ̣ tương đồ ng và khác biê ̣t, từ
đó có những nhận xét, đánh giá về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của một
số tác giả trẻ Thái Nguyên tiêu biểu.
4.2. Phạm vi nghiên cứ u
Luận văn này nghiên cứ u các sáng tác củ a một số tác giả thơ trẻ Thái
Nguyên từ năm 2000 đến nay. Đi sâu nghiên cứu thơ của một số tác giả trẻ tiêu
4
biểu như:
Dương Thu Hằng thể hiện qua tập thơ: Men đầu (2000), Đón lá (2005).
Pha ̣m Văn Vũ thể hiện qua hai tâ ̣p thơ: Trong nỗi nhớ mà u chà m
(2007), Mo ̣c (2015).
Nguyễn Nhâ ̣t Huy thể hiê ̣n qua: Tuyển tập thơ Thá i Nguyên (2006 -
2015) (In chung), Bả n hòa âm thá ng chín (In chung) và thơ đăng trên các báo,
ta ̣p chí.
Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên như
Vũ Thị Tú Anh, Trần Thị Nhung, Doãn Long, Hoàng Thị Hiền, Gia Hân… đã
công bố trên các sách, báo, tạp chí của trung ương và địa phương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề chung có liên quan tới thế giới nghệ thuật như
khái niệm Thế giới nghệ thuật, nghệ thuật thể hiện cái Tôi trữ tình; về ngôn
ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ,…
- Tìm hiểu và phân tích một số đặc điểm cơ bản của thế giới nghệ thuật
trong thơ trẻ Thái Nguyên như: đặc điểm về cảm hứng và cái tôi trữ tình, đặc
điểm về ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê khảo sát: Trong quá trình triển khai luận văn,
chúng tôi tiến hành thố ng kê, khảo sát trên các phương diện của thế giới nghệ thuật để từ đó làm cơ sở cho việc so sánh, đối chiếu và đưa ra nhận xét.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Trên cơ sở kết quả của phương pháp
thống kê khảo sát, chúng tôi tiến hành so sánh đố i chiếu trên nhiều phương
diện của thế giới nghệ thuật từ hình tượng nghệ thuật, cái tôi trữ tình, ngôn
ngữ, hình ảnh, cấu trúc, nhịp điệu thơ... giữa các sáng tác của cùng một tác
giả, giữa sáng tác của tác giả này với tác giả khác, giữa những tác phẩm
5
cùng hay khác chủ đề... để thấy sư ̣ tương đồ ng và khác biê ̣t, từ đó có những
nhận xét, đánh giá về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của một số nhà thơ
trẻ Thái Nguyên tiêu biểu.
- Phương pháp hệ thống: Chúng tôi quan niệm sáng tác của mỗi nhà thơ
là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Vì vậy, song song với việc thống kê, khảo
sát và so sánh, đối chiếu; chúng tôi cũng nhìn nhận thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t trong mối quan hệ hệ thống với các phương diện khác của tác phẩm để có được cái
nhìn đầy đủ và toàn diện.
Ngoài ra, luâ ̣n văn của chú ng tôi còn sử du ̣ng các phương pháp nghiên cứ u khác như: phương pháp nghiên cứ u liên ngành, phương pháp phân tích tổng hợp tác phẩm…
7. Đóng góp mới của luận văn
Trong pha ̣m vi luâ ̣n văn, chú ng tôi cố gắng chỉ ra những nét nổi bật trong thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t trong thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Tính tớ i thờ i điểm hiện ta ̣i, luận văn này là một trong những công trình đầu tiên tìm hiểu về thế giớ i nghệ thuật trong thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Từ đó gó p phần khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo và đó ng góp củ a các tác giả trẻ với nền văn ho ̣c Thái Nguyên nó i riêng và với thơ hiê ̣n đa ̣i Việt Nam nó i chung.
Qua luận văn, chúng tôi mong muốn góp thêm cái nhìn đầy đủ , toàn diê ̣n hơn trong công tác nghiên cứ u, đánh giá và phê bình đối với các cây bú t trẻ hiê ̣n nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo, phần Nội dung được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về thế giới nghệ thuật trong thơ nói
chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng
Chương 2: Đặc điểm về cảm hứng và cái tôi trữ tình trong thơ trẻ
Thái Nguyên
Chương 3: Đặc điểm về ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật trong
6
thơ trẻ Thái Nguyên
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NÓI CHUNG VÀ THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG
1.1. Thế giới nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm
Nghệ thuật là một sản phẩm thẩm mĩ độc đáo phản ánh ý thức xã hội,
đồng thời là sự bày tỏ thái độ của người sáng tạo trước đời sống hiện thực, thế
giới thực tại. Tuy nhiên, đó lại là một sản phẩm được sáng tạo theo quy luật của
cái đẹp và hướng đến khát vọng chân, thiện, mĩ nên thế giới trong tác phẩm
nghệ thuật không đơn thuần là sự phản ánh thế giới hiện thực mà là một thế
giới được sáng tạo theo những nguyên tắc riêng.
Thế giới nghệ thuật là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong sáng tạo
nghệ thuật. Nói đến tác phẩm nghệ thuật không thể không nói đến thế giới nghệ
thuật được thể hiện trong tác phẩm đó. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về
thế giới nghệ thuật ở những phạm vi rộng, hẹp khác nhau của nội hàm khái
niệm. Chúng tôi có thể điểm lại một số định nghĩa tiêu biểu.
Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học định nghĩa thế giới nghệ thuật là “khái niệm chỉ tính
chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng
tác của tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác
nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng,
khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó
phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian
riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,
thang bậc giá trị riêng,... chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ
7
thuật” [27, tr.302-303].
Trong cuốn Lí luận văn học tập 2 (Trần Đình Sử chủ biên), khẳng định:
“Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất
không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo
của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ có
trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật… Thế giới nghệ thuật là thế
giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [53, tr.81-
82]. Rõ ràng, thế giới nghệ thuật là một thế giới đặc biệt, nó có thể phản ánh
hiện thực nhưng không phải là thế giới hiện thực, nó là thế giới tồn tại trong
mỗi tác phẩm văn học. Khi đọc một tác phẩm văn học cũng là bước vào một
thế giới nghệ thuật mà nhà văn, nhà thơ đã xây dựng, trong đó chưa đựng bao
buồn vui, bao tâm tư, bao suy ngẫm, bao cảm xúc sống động. Chính vì thế giới
nghệ thuật là linh hồn, là bầu khí quyển bao trùm, là không gian cho mọi sáng
tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ nên khám phá thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm cũng là tìm hiểu những quan niệm của tác giả về thế giới, về cuộc đời,
khám phá chiều sâu trong tâm hồn người nghệ sĩ. Khám phá thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm còn mở ra vô vàn điều thú vị về nhà thơ và phong cách nghệ
thuật của nhà thơ đó. Có thể nói, “Một thế giới nghệ thuật nhất định với tư
cách là hệ thống không chỉ đặc trưng cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho
cả nhà văn nói chung… Nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật vừa cho ta
hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới,
vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi
phối sự hình thành phong cách nghệ thuật” [53, tr.83].
Từ những định nghĩa trên có thể thấy rằng, thế giới nghệ thuật là một
phạm trù rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa
những nghiên cứu đã có, để tiện cho quá trình nghiên cứu, trong khuôn khổ
luận văn này, chúng tôi đưa ra cách hiểu của mình thế giới nghệ thuật như sau:
Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học là thế giới được xây dựng
8
trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất định. Nó là một chỉnh thể của
sáng tạo nghệ thuật, phản ánh những quan niệm của người nghệ sĩ về thế giới,
đồng thời thể hiện chiều sâu cảm xúc trong tâm hồn người viết. Thế giới nghệ
thuật là một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật, bao gồm những thành tố được
cấu trúc theo những quy tắc thống nhất, là thế giới xuất hiện một cách ước lệ
trong tác phẩm nghệ thuật.
Thơ trữ tình là thể loại văn học bộc lộ trực tiếp thế giới cảm xúc với
những trạng thái tình cảm, những suy tư, nỗi niềm trăn trở của nhà thơ hoặc của
nhân vật trữ tình trước những vấn đề, các hiện tượng trong cuộc sống. Thơ là
tiếng hát của tâm hồn, nơi phản ánh những biểu hiện phức tạp và sâu sắc trong
thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Chính vì vậy, thế giới nghệ thuật trong thơ
trữ tình vừa mang những đặc điểm chung của thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm văn học nói chung, vừa có những đặc điểm riêng biệt. Đó là kết quả của
quá trình “nội cảm hóa thế giới khách quan”, khi người nghệ sĩ biến những cảm
xúc, tình cảm thẩm mĩ, cách khám phá và cắt nghĩa thế giới khách quan phản
ánh vào các hình tượng nghệ thuật, các phương diện của thế giới nghệ thuật.
Có thể nói, thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình là sự thống nhất giữa
các yếu tố là kết quả của quá trình tư duy đặc biệt đó. Mặc dù thế giới nghệ
thuật bao gồm rất nhiều phương diện nhưng trong khuôn khổ luận văn này,
chúng tôi nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái
Nguyên tiêu biểu trên các phương diện tiêu biểu là sự biểu hiện của thế giới
nghệ thuật trong việc phản ánh cuộc sống xã hội đa chiều, sự biểu hiện của thế
giới nghệ thuật trong việc đi sâu vào cái tôi cá nhân con người và sự biểu hiện
của thế giới nghệ thuật qua ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật.
1.1.2. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên thế kỉ XXI
1.1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình
Cái tôi là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có
của mỗi con người. Đó là khái niệm đánh dấu ý thức của con người về bản thể
9
tồn tại của chính mình. Trong cuốn Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại, Hà Minh Đức khẳng định: “Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện,
một sự thôi thúc tự bên trong nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của
đời sống gây nên. Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng” [21, tr. 61]. Cái tôi trữ tình trong thơ là sự thể hiện một cách
nhận thức, sự cảm nhận về thế giới thông qua các hình tượng của cái tôi trữ
tình trong tác phẩm. Qua hình tượng cái tôi trữ tình, một thế giới độc đáo qua
cảm nhận của nhà thơ được gửi đến người đọc.
Từ cái tôi của nhà thơ đến cái tôi trữ tình trong tác phẩm thơ ca là một
quá trình. Những cung bậc cảm xúc được thể hiện trong thơ vừa gắn liền với
hiện thực đời sống, nhưng sâu xa hơn là tiếng nói của chính trái tim và tâm hồn
người nghệ sĩ. “Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ với cái tôi trữ tình trong
sáng tác là một hiện tượng khá phổ biến với thơ… Tuy nhiên một vấn đề quan
trọng cần quan tâm là không thể đồng nhất cái tôi của nhà thơ trong đời sống
với cái tôi trữ tình trong tác phẩm” [21, tr.64–65]. Mặc dù không đồng nhất
nhưng cái tôi nhà thơ thống nhất với cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Bởi lẽ, từ
cái tôi nhà thơ đến cái tôi trữ tình trong tác phẩm về căn bản vẫn là con người
ấy, tâm hồn ấy; có thể ở từng giai đoạn, từng thời điểm khác nhau trong hành
trình sáng tác, cái tôi trữ tình được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau
nhưng vẫn là sự thống nhất trong một chủ thể sáng tạo. Và chính nhà thơ – con
người ấy, tâm hồn ấy – là cơ sở sáng tạo của thơ ca.
Khi đi vào tác phẩm, từ cái tôi của nhà thơ đến cái tôi trữ tình là một quá
trình nâng cao hơn, qua trái tim đầy suy tư và trăn trở của nhà thơ để biểu hiện
dưới những hình thức phong phú, mang chiều sâu trong tác phẩm. Cái tôi trữ
tình có liên hệ chặt chẽ với cái tôi nhà thơ, nhưng từ cái tôi nhà thơ đến cái tôi
trữ tình trong tác phẩm là cả một quá trình với sự chi phối của nhiều yếu tố. Cái
tôi trữ tình trong thơ nhiều khi vượt ra khỏi cái tôi của nhà thơ, thậm chí có một
10
đời sống riêng độc lập tương đối với chủ thể sáng tạo nghệ thuật sản sinh ra nó.
Trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên tiêu biểu như Phạm Văn
Vũ, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Nguyễn Nhật Huy, Trần Thị Nhung,
Doãn Long, Hoàng Thị Hiền… mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình một hướng đi
riêng, một cách thể hiện cá tính và cái tôi trữ tình độc đáo trong thơ.
1.1.2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ nói chung
Sáng tác thơ ca trước hết là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc
mãnh liệt từ bên trong khiến mọi cảm xúc bộc lộ thành ý thơ. Cái tôi trữ tình là
một vấn đề quan trọng trong thơ ca. Cái tôi trữ tình của mỗi nhà thơ có sự gắn
bó mật thiết với cuộc đời tác giả: “Những cung bậc tình cảm của nhà thơ dù là
một niềm vui hồ hởi hay một nỗi buồn sâu lắng thiết tha, dù kéo dài triền miên
trĩu nặng tâm hồn hay thoáng qua trong giây lát đều gắn liền với một cái gì
của đời sống bên ngoài, nhưng sâu xa hơn là tiếng nói thầm kín của trái tim và
tâm hồn người nghệ sĩ” [21, tr.62]. Có thể nói, giữa cuộc đời riêng của mỗi nhà
thơ và sáng tác thơ ca có mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Thơ là nơi in đậm dấu ấn
cảm xúc, dấu ấn từ cuộc đời riêng của mỗi nhà thơ trong sáng tác.
Cái tôi trữ tình trong thơ có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, có khi trực tiếp, có khi gián tiếp. Cái tôi nhà thơ khi thể hiện những tình
cảm riêng tư hay những câu chuyện, những sự việc gắn với cuộc đời riêng của
nhà thơ là cái tôi trữ tình được bộc lộ dưới hình thức trực tiếp. Cuộc đời thực tế
của nhà thơ trở thành chất liệu cho cuộc sống được miêu tả trong thơ, cái tôi trữ
tình của nhà thơ cũng gần gũi hoặc nhiều khi chính là cái tôi trữ tình của tác
giả. Trong những trường hợp ấy, cái tôi trữ tình thường được bộc lộ qua chữ
“tôi” hoặc chữ “ta”.
Cái tôi trữ tình trực tiếp rất phổ biến trong thơ, vì thơ trước hết là một
hình thức tự biểu hiện. Nhà thơ sáng tác không phải nói những vấn đề xa xôi,
mà muốn hướng ngòi bút của mình về những điều đang diễn ra trong cuộc sống
của chính mình, từ đó thể hiện thái độ, quan niệm, cách nhìn nhận của mình
11
riêng về cuộc sống. Khi nhà thơ cảm nhận về chính mình, về cuộc sống của
chính mình, về những điều riêng tư của bản thân là khi cái tôi trữ tình trực tiếp
được sử dụng đắc lực để bộc lộ những điều về chính bản thân tác giả.
Bên cạnh hình thức biểu hiện trực tiếp, cái tôi trữ tình trong thơ nhiều
khi cũng được thể hiện dưới hình thức gián tiếp. Trong trường hợp những hoàn
cảnh, những sự việc trong thơ không phải cảnh ngộ của cuộc đời tác giả, cái tôi
trữ tình thường được bộc lộ dưới hình thức gián tiếp. Khi đó, nhà thơ không
miêu tả, thể hiện cuộc sống của chính mình mà nói lên cảm nhận, suy nghĩ về
những điều từng chứng kiến hoặc từng trải qua. Trong những hoàn cảnh đó, cái
tôi trữ tình thường là nhân vật trữ tình chủ yếu trong bài thơ. Ngoài ra, cái tôi
trữ tình của nhà thơ còn được thể hiện khi nhà thơ miêu tả về một loại, một
kiểu nhân vật cụ thể (chẳng hạn như bà mẹ kháng chiến, anh bộ đội cụ Hồ…).
Những nhân vật này xuất phát từ những điển hình, từ những nguyên mẫu trong
thực tế, họ tiêu biểu cho một kiểu nhân vật điển hình là sản phẩm của một giai
đoạn lịch sử - xã hội nhất định. Ở kiểu sáng tác đó, “nhân vật trữ tình của sáng
tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà thơ” [21, tr.74].
Có thể nói, dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cái tôi trữ tình cũng là
nhân vật trữ tình quan trọng trong thơ. Cái tôi trữ tình là một phương diện quan
trọng, là một đặc trưng không thể thiếu của thơ ca. Trong thơ của các nhà thơ
trẻ Thái Nguyên, mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình những dạng thức phù hợp để
thể hiện cái tôi trữ tình trong sáng tác, đó có thể là cái tôi trong trẻo, hồn nhiên;
có khi lại là cái tôi cô đơn, nhỏ bé; đôi khi lại lắng đọng với những suy tư, trăn
trở và đặc biệt luôn nỗ lực trên hành trình tự ý thức, tự hoàn thiện mình.
Nghiên cứu sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên tiêu biểu sẽ làm rõ hơn
những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ.
1.2. Vài nét khái quát về thơ Thái Nguyên và thơ trẻ Thái Nguyên đầu thế
kỉ XXI
1.2.1. Khái quát thơ Thái Nguyên
Đầu thế kỉ XXI là giai đoạn đánh dấu sự thay da đổi thịt của mảnh đất
12
Thái Nguyên. Cùng với sự chuyển mình của đời sống xã hội, đời sống văn học,
thơ ca cũng có những đổi thay đáng kể. Trước hết, sự lớn mạnh của thơ ca Thái
Nguyên được thể hiện ở một đội ngũ sáng tác đông đảo. Nhiều nhà thơ Thái
Nguyên là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, có những tác phẩm tạo được tiếng
vang như Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh… Đặc biệt, hai
nhà thơ nữ Thái Nguyên là Trần Thị Vân Trung và Nguyễn Thúy Quỳnh là hai
gương mặt nữ nhà thơ tiêu biểu trong cuốn “33 gương mặt thơ nữ tiêu biểu”
của tác giả Vũ Nho. Bên cạnh đó, thơ Thái Nguyên còn đạt được nhiều thành
tựu, nhiều giải thưởng như Giải nhì về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các
Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh (2004),
Giải Ba về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật
Việt Nam cho tác giả Võ Sa Hà (2004), Giải khuyến khích cuộc thi thơ trên báo
Tài hoa trẻ của tác giả Phạm Văn Vũ (2005), Giải C Hội Văn học Nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam của tác giả Ma Trường Nguyên (2007), Nguyễn
Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà đã được nhận giải thưởng về thơ
của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội... Như vậy có thể nói, những nhà
thơ đầu thế kỉ XXI đã góp phần khẳng định vị thế của thơ Thái Nguyên trong
dòng chảy chung của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh những tác giả tiêu biểu với những giải thưởng khẳng định vị
thế của thơ Thái Nguyên, sự phát triển và lớn mạnh của thơ ca trong đời sống
xã hội còn được khẳng định ở sự tham gia của đông đảo những người yêu thơ
trong những chi hội thơ như: Hội Văn học Nghệ thuật thành phố Thái Nguyên,
Hội Văn học Nghệ thuật Định Hóa, Chi hội Văn học Nghệ thuật Phổ Yên, Chi
hội Văn học Nghệ thuật Đại Từ..., các Câu lạc bộ thơ như: Câu lạc bộ thơ Mùa
thu, Câu lạc bộ thơ Tháng năm, Câu lạc bộ thơ Đường… và các nhóm bút trong
các nhà trường phổ thông, đại học, cao đẳng… Điều đó góp phần tạo ra sức lan
tỏa của thơ ca trong đời sống xã hội hiện đại. Chính đội ngũ sáng tác đông đảo
ấy và sự lan tỏa của thơ ca vào từng ngóc ngách của đời sống là tiền đề cho sự
13
phát triển của thơ Thái Nguyên hôm nay.
Thái Nguyên là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, văn học, là cửa ngõ
giao lưu giữa miền núi và đồng bằng nên có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển thơ ca. Hơn thế nữa, các nhà thơ Thái Nguyên đa phần là những trí
thức, nhà giáo, nhà báo… nên có điều kiện nghiên cứu, sáng tác văn chương
nghệ thuật. Cùng với niềm đam mê nghệ thuật, vốn tri thức, vốn văn hóa, mỗi
nhà thơ Thái Nguyên là những con người luôn nỗ lực hết mình trên hành trình
sáng tạo không ngừng để khẳng định vị thế của thơ ca Thái Nguyên hôm nay.
1.2.2. Khái quát thơ trẻ Thái Nguyên
1.2.2.1. Khái niệm thơ trẻ
Nói về thơ trẻ Thái Nguyên, trước hết cần xác định phạm vi của khái
niệm. Trong luận văn này, chúng tôi quan niệm thơ trẻ là thơ của những tác giả
thuộc thế hệ 8X, 9X, họ trẻ về tuổi đời và cả tuổi làm thơ. Đó là những con
người mang sinh khí mới, là mối quan tâm của nhiều nhà phê bình.
Bên cạnh đó, còn có những người viết trẻ về tuổi nghề nhưng không còn
trẻ về tuổi đời như Phan Thái, Dương Văn Mưu, Dương Văn Oanh… Ở giai
đoạn hiện nay, thơ trẻ Thái Nguyên phát triển sôi nổi và có nhiều thành tựu hơn
cả so với văn xuôi với một lực lượng sáng tác rất đông đảo. Trong luận văn
này, chúng tôi điểm qua một số cây bút trẻ Thái Nguyên tiêu biểu, có nhiều
sáng tác khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ ca Thái Nguyên đương
đại như: Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy,
Doãn Long, Hoàng Thị Hiền, Trần Thị Nhung, Gia Hân…
1.2.2.2. Những mạch nguồn phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên
Thái Nguyên được biết đến là nơi phát hiện những dấu tích từ rất sớm
của người Việt cổ, đồng thời cũng là mảnh đất có vị trí địa lý là cửa ngõ giao
lưu của nhiều nền văn hóa. Văn học đương đại nói chung và thơ ca đương đại
nói riêng đều được nuôi dưỡng từ nguồn mạch chung của văn học dân gian.
Lịch sử lâu đời cùng bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa là điều kiện nuôi
14
dưỡng và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của văn học. Quá trình giao thoa văn
hóa giữa các dân tộc cùng sinh sống trong một phạm vi địa lý đã tổng hòa
thành đời sống văn hóa, văn học dân gian của một địa phương. Đồng thời, vốn
văn hóa, văn học dân gian ấy cũng chịu sự chi phối của những điều kiện địa lý
tự nhiên, lịch sử, xã hội trong quá trình giao thoa, hòa nhập để trở nên phong
phú về nội dung, bền vững về phong cách, đa dạng về sắc thái.
Văn học Thái Nguyên vừa mang sự pha trộn trong quá trình giao lưu văn
hóa, vừa mang nét bản sắc đặc trưng của địa lý tự nhiên và đời sống cộng đồng
của dân cư Thái Nguyên, là sự thống nhất trong đa dạng. Có thể nói, sự phát
triển nói chung của văn học Thái Nguyên đương đại được nuôi dưỡng từ mạch
nguồn văn học dân gian của các dân tộc nơi đây. Những bài hát Sli, Lượn;
những câu ca dao mượt mà, đằm thắm; những câu tục ngữ, các bài hát mo... là
những hình thức sinh hoạt dân gian còn lưu giữ đến ngày nay có ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành và phát triển của thơ ca Thái Nguyên. Văn học dân gian
là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tinh thần, tình cảm, trí tuệ trong cộng đồng
các dân tộc anh em cùng nhau sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên; là cội
nguồn, là nền tảng cho sự phát triển của thơ ca Thái Nguyên đương đại nói
chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng.
Cùng với quá trình phát triển lịch sử của văn học Việt Nam đương đại
nói chung, văn học Thái Nguyên, thơ ca Thái Nguyên cũng có quá trình phát
triển gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, hòa chung nhịp đập với thơ ca của các nhà thơ dân tộc
thiểu số vùng chiến khu cách mạng Việt Bắc, các nhà thơ Thái Nguyên đã có
những sáng tác bằng tiếng dân tộc (Tày, Nùng…) góp thêm màu sắc đa dạng
cho văn nghệ kháng chiến, đồng thời cổ vũ tức thời tinh thần đấu tranh của
đồng bào Việt Bắc trong kháng chiến.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để kịp thời động viên
phong trào cách mạng của quân và dân các dân tộc Việt Bắc trong kháng chiến,
15
ngày 19/8/1946, Báo Chiến khu thuộc Chiến khu I – tiền thân của Báo Quân
khu I ngày nay phát hành số đầu tiên. Báo Chiến khu thời kì đó luôn bám sát
các chỉ thị, chủ trương, nghị quyết của cấp trên, phản ánh kịp thời các hoạt
động và phong trào thi đua quyết thắng địa phương, hướng đến mục tiêu chung
là cổ vũ cách mạng, cổ vũ kháng chiến giành thắng lợi: “Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, mỗi phóng viên, biên tập viên, công
nhân viên Tòa soạn đều hành động quên mình dưới bom rơi, đạn nổ để có những
bài phóng sự, ghi nhanh, tin tức nóng hổi từ mặt trận gửi về, từ hậu phương gửi ra
tiền tuyến” [65]. Tờ báo Quân khu I là nơi góp phần tạo nên những tên tuổi như:
Đặng Vương Hưng, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Anh Nông…
Sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, để phù hợp với
điều kiện cách mạng trong tình hình mới, Trung ương Đảng và Bác Hồ rời thủ
đô Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc. Thái Nguyên được chọn làm trung tâm
kháng chiến, thủ đô cách mạng của cả vùng Việt Bắc. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Thái Nguyên cũng như nhiều tỉnh thuộc
an toàn khu Việt Bắc đã trở thành cái nôi của văn chương cách mạng, văn học
kháng chiến. Đến những năm 1949 – 1950, Hội Văn nghệ Việt Nam và Báo
Văn nghệ đặt trụ sở tại xóm Chòi, xã Mỹ Trạng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên. Mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng có thể nói, đây là cái nôi
văn nghệ trong kháng chiến, một mảnh đất gắn liền với lịch sử cách mạng của
dân tộc, đồng thời in dấu lịch sử báo chí, văn chương nghệ thuật Việt Nam
trong kháng chiến. Trong bối cảnh đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Pháp,
văn nghệ sĩ không chỉ là người cầm bút mà đồng thời cũng là những chiến sĩ
tham gia chiến đấu trên chiến trường ác liệt. Đó là những năm tháng không thể
nào quên trong lịch sử dân tộc, cũng là điều kiện cho sự bồi dưỡng, phát triển,
nuôi dưỡng mầm sống, cũng là nơi khởi sinh những truyền thống và di sản văn
chương đồ sộ, hào hùng thời chiến của văn học nghệ thuật Thái Nguyên nói
16
riêng và văn học Việt Nam trong kháng chiến nói chung.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thành công, Trung ương Đảng và
Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Đến năm 1957, Hội Văn nghệ Việt
Bắc được thành lập ở thị xã Thái Nguyên. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa đối
với văn học Thái Nguyên nói riêng mà đã tạo nên một cuộc hội tụ, giao lưu
giữa các nhà thơ ở sáu tỉnh Việt Bắc đã từng sát cánh trong kháng chiến chống
Pháp. Trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc được đặt ở chính thủ đô gió ngàn, thủ
đô kháng chiến Thái Nguyên. Không chỉ là trung tâm của các tỉnh miền núi
phía Bắc, Thái Nguyên còn là trung tâm văn hóa, văn nghệ của cả chiến khi
Việt Bắc nói chung. Hội Văn nghệ Thái Nguyên là một tổ chức văn học có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với văn học các tỉnh miền núi phía Bắc. Có thể kể
đến những tên tuổi tiêu biểu như các tác giả dân tộc thiểu số: Nông Quốc Chấn,
Bàn Tài Đoàn… Có thể nói, những tác giả người dân tộc thiểu số trong giai
đoạn này cũng là những tên tuổi đầu tiên làm nên nền văn học chiến khu
Việt Bắc và văn học Thái Nguyên sau này. Sự thành lập của Hội Văn nghệ
Việt Bắc đã tạo điều kiện cho nền văn học của các dân tộc Việt Bắc, trong
đó có Thái Nguyên, có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Có thể kể đến những
sáng tác tiêu biểu như: Tiếng ca người Việt Bắc của nhà thơ dân tộc Tày
Nông Quốc Chấn, Muối của Cụ Hồ, Xuân về trên núi của nhà thơ người Dao
Bàn Tài Đoàn… đều ra đời trong giai đoạn này. Sự thành lập của Hội Văn
nghệ Việt Bắc có trụ sở ở Thái Nguyên là điều kiện thuận lợi cho văn học
Thái Nguyên có sự giao lưu giữa các dân tộc, các vùng miền, là tiền đề quan
trọng tạo nên tính đa dạng nhưng vẫn thống nhất của văn học trên quê hương
cách mạng anh hùng.
Khi đất nước một lần nữa chìm trong bom đạn của cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ, nhân dân Thái Nguyên đem sức mình đóng góp vào cuộc
kháng chiến giành độc lập dân tộc và văn học Thái Nguyên cũng không nằm
ngoài dòng mạch chung của văn học kháng chiến giai đoạn này. Những tác
17
phẩm văn học giai đoạn này mang hơi thở của thời đại, cổ vũ cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Có thể kể đến những sáng
tác tiêu biểu của văn học kháng chiến giai đoạn này như: Trận địa giữa ruộng
bậc thang (Nông Minh Châu); Suối gang; Lên cao (Xuân Cang); Người chia
ánh sáng (Vi Hồng); Suối Lê Nin (Trần Văn Loa); Gái Quan Lang (Lê Thoa)…
Nói đến văn học nghệ thuật Thái Nguyên không thể không nhắc đến văn
nghệ khu gang thép một thời. Ngày 20/12/1963, khu gang thép Thái Nguyên
được khánh thành. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, khu gang thép
Thái Nguyên ngày ấy, Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên ngày nay đã
phát triển, lớn mạnh. Trong suốt chặng đường phát triển ấy, khu gang thép Thái
Nguyên không chỉ khẳng định mình với “tinh thần thép” trong lao động, sản
xuất mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, văn nghệ, tạo nên một
thời văn nghệ gang thép lừng danh với những tên tuổi như: Trịnh Thanh Sơn,
Xuân Cang, Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Đình Quang… Nhà thơ Nguyễn
Thúy Quỳnh – Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Tổng
biên tập tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam – nhân
dịp kỷ niệm 50 năm xây dựng và phát triển của Công ty cổ phần gang thép Thái
Nguyên đã nói về một lịch sử xây dựng, trưởng thành của công ty gắn liền với
đời sống văn hóa, văn học luôn được quan tâm dù trong bất kì hoàn cảnh khó
khăn nào: “Nhưng có một điều thật lạ Công ty gang thép vẫn duy trì các hoạt
động văn hóa nghệ thuật sinh động và sung mãn. Vào thời đó mà Gang thép tổ
chức được hẳn hai trại viết văn. Những người viết như nhà văn Xuân Cang nhà
văn Chu Hồng Hải nhà thơ Trịnh Thanh Sơn và các cây bút Ngô Khuyến
Phong (Đội phòng cháy chữa cháy) Hồng Nguyên (Xưởng Vật Liệu chịu lửa).
Phan Chừng (xưởng Xe máy) Đào Thành Lạng (Xưởng cơ khí) Trọng Thể
(Xưởng Công trình I) Vũ Đảm (Xưởng Luyện gang)... vẫn được triệu tập về dự
trại viết. Nhờ thế mà Khu Gang thép đã có được một tập truyện ngắn và một
tập ký mang đầy không khí của Khu Gang thép Thái Nguyên lúc ấy” [48].
18
Chính sự quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần ấy đã làm nên sức mạnh của
khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên dù trong bất kì hoàn cảnh khó khăn
nào, đồng thời tạo nên một phong trào văn hóa, văn nghệ có ảnh hưởng sâu
rộng và những tên tuổi có nhiều thành tựu sáng tác được ghi nhận.
Sau khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, đến năm 1987,
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên được thành lập đã tạo nên một dấu
ấn quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt mới của thơ ca Thái Nguyên trong
thời kì đổi mới. Từ chỗ là trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc (năm 1957), cho
đến nay, Thái Nguyên vẫn ghi dấu với những tác giả lớn có kinh nghiệm sáng
tác dày dặn như: Khánh Kiểm, Trần Văn Loa, Ma Trường Nguyên, Thế Chính,
Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh, Hiền Mặc Chất, Nguyễn
Long, Nguyễn Đức Hạnh, Hữu Tiệp, Mai Thắng, Minh Hằng, Ba Luận, Vũ Đình
Toàn… Trong thơ của mình, mỗi nhà thơ đều cố gắng tạo cho mình một phong
cách nghệ thuật riêng, khẳng định cá tính sáng tạo và cái tôi riêng không hòa lẫn.
Những tên tuổi tiêu biểu của thơ ca Thái Nguyên không chỉ khẳng định được vị
trí của mình trên chính quê hương Thái Nguyên mà còn được đón nhận, khẳng
định mình trong sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại.
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển không ngừng của đất nước,
trong bối cảnh quá trình hội nhập, giao lưu và phát triển, thơ ca Thái Nguyên
cũng đạt được những thành công mới, đánh dấu vị trí của mình trong sự phát
triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại. Thơ ca Thái Nguyên khẳng định vị
trí của mình cả về số lượng và chất lượng, cả về lực lượng sáng tác và giá trị
nghệ thuật của tác phẩm. Bên cạnh những tên tuổi có nhiều kinh nghiệm như
Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Ma Trường Nguyên, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Hoàng Tố Nga, Cao Hồng, Lưu Thị Bạch Liễu, Minh Thắng… một lực lượng
đông đảo các tác giả đã xuất hiện từ cuối thế kỷ trước đang dần được khẳng
định vị trí của mình ở đầu thế kỉ này như: Dương Thu Hằng, Phan Thái,
Nguyễn Kiến Thọ, Hồ Triệu Sơn, Ngọ Quang Tôn… Ở giai đoạn văn học này,
19
nếu như văn xuôi Thái Nguyên chỉ phát triển một cách bình lặng, không có
nhiều tên tuổi được chú ý như những giai đoạn trước cũng như không có
những giải thưởng đánh dấu sự thành công của đội ngũ sáng tác thì thơ ca lại
phát triển rất sôi nổi. Những giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các
hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trong các năm 2004 đến 2011 trao cho các
tập thơ Mưa mùa đông của Nguyễn Thúy Quỳnh, Cánh chim về núi của Võ
Sa Hà, Rét ngọt của Minh Thắng; Ba giải thưởng thơ của hai tờ báo lớn: Văn
nghệ Quân đội và Báo văn nghệ trao cho ba tác giả: Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà - đã khẳng định vị thế của thơ ca Thái
Nguyên trong sự phát triển chung của thơ ca đương đại, đưa vị thế thơ của
Thái Nguyên lên một tầm cao mới trong cả nước.
Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống lịch sử, văn học từ rất sớm với
trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc, từng là trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Nam
và Báo Văn nghệ trong những năm 1949 – 1950, có khu gang thép Thái
Nguyên với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa văn nghệ sôi nổi, có tờ báo
Quân khu I (Tiền thân là báo Chiến khu), có Hội Văn học Nghệ thuật Thái
Nguyên luôn quan tâm bồi dưỡng, phát triển đội ngũ sáng tác của tỉnh nhà…
Tất cả những điều kiện ấy tạo thuận lợi cho các nhà thơ, nhà văn Thái Nguyên
có cơ hội được tiếp xúc và thừa hưởng truyền thống văn hóa, văn học của địa
phương làm nền tảng và mạch nguồn nuôi dưỡng tình yêu văn chương nghệ
thuật trong thế hệ trẻ.
Thái Nguyên là tỉnh có điều kiện địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao lưu
kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với vùng đồng bằng và
thủ đô Hà Nội, là trung tâm vùng của các tỉnh trung du miền núi, đồng thời là
khu vực đông dân cư, là trung tâm đào tạo, giáo dục lớn (đứng thứ ba cả nước
và thứ nhất ở khu vực miền núi phía Bắc). Ở Thái Nguyên, lực lượng trí thức
chiếm một số lượng đông đảo và được tỉnh quan tâm, tạo điều kiện phát triển
nên có ưu thế hơn so với các địa phương khác. Chính những điều kiện đó đã
20
giúp các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có điều kiện tiếp xúc với một nền văn hóa,
giáo dục để phát triển bản thân và tạo thuận lợi cho quá trình bồi dưỡng, phát
triển năng khiếu trong sáng tác văn chương nghệ thuật. Hơn thế nữa, hầu hết
các nhà thơ trẻ Thái Nguyên đều là nhà giáo nên có điều kiện, môi trường
thuận lợi để tiếp xúc với giới sáng tác, phê bình, có điều kiện giao lưu học hỏi
và kế thừa kinh nghiệm của những người đi trước. Lực lượng sáng tác trẻ của
tỉnh Thái Nguyên luôn nhận được sự quan tâm của các cơ quan, đều được tham
gia lớp tập huấn viết văn do Hội Văn nghệ tổ chức. Bên cạnh đó, những người
có đam mê trong sáng tác văn học, những cây bút trẻ cũng được tham dự nhiều
cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, nói chuyện với các nhà văn, nhà thơ lớn, qua đó có thêm
kinh nghiệm trong sáng tác.
Ngoài các nhà thơ với kinh nghiệm sáng tác đã đạt được những thành
công góp phần khẳng định vị thế của thơ Thái Nguyên thì giai đoạn hiện nay,
thơ Thái Nguyên còn ghi dấu với hàng loạt những tên tuổi trẻ như Dương Thu
Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long, Trần Thị
Nhung… với những cá tính riêng, những cách tân nghệ thuật độc đáo tạo nên
những nét riêng biệt trong thơ. Sự xuất hiện của đội ngũ các nhà thơ trẻ bên
cạnh những nhà thơ cũ ghi dấu tên tuổi mình với nhiều phong cách nghệ thuật
riêng, nhiều sáng tạo độc đáo với những tìm tòi trên hành trình sáng tạo nghệ
thuật đã tạo cho thơ ca Thái Nguyên sự đa dạng, phong phú. Trong sáng tác của
các nhà thơ trẻ Việt Nam nói chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng, mỗi nhà
thơ đều cố gắng xác lập cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng biệt, độc
đáo, không trùng lặp: “Có nhà thơ còn quan niệm thơ hay phải là thơ không
thể hiểu được. Càng bí hiểm càng tốt. Không ít bài thơ cứ như những câu đố
không có lời giải. Hỏi, tác giả cũng không biết gì hơn. Ông bảo, nếu ông biết
bài thơ nói gì thì ông đã nói toẹt ra rồi, còn làm thơ làm gì nữa. Ngược lại, có
nhà thơ lại tìm đến sự giản dị, khai thác những số phận riêng của mỗi con
người. Có bài thơ như truyện ngắn, hoặc như cả một cuốn tiểu thuyết, có cốt
21
truyện, có nhân vật, có mở, có thắt” [30].
Thế kỉ XXI đánh dấu sự phát triển nổi bật của thơ Thái Nguyên nói
chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng với những cây bút có ý thức tìm tòi và
đổi mới thơ. Có thể nói rằng, thơ Thái Nguyên thế kỉ XXI đã có sự thay đổi về
chất. Một số cây bút trẻ như Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy bước đầu được
ghi nhận thành công qua các Giải thưởng thơ của Văn nghệ Quân đội và Báo
Văn nghệ, giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ
thuật Việt Nam... Họ đã và đang không ngừng cố gắng để khẳng định bản thân
trong nền thơ ca của tỉnh nhà. Để làm được điều đó, mỗi cây bút đều cố gắng
lựa chọn cho mình một phong cách, một lối đi riêng, hướng ngòi bút của mình
vào những biểu hiện muôn màu của cuộc sống hiện đại. Có người lựa chọn
khuynh hướng truyền thống, có người đi theo khuynh hướng cách tân nghệ
thuật nhưng tất cả đều là những con người cần mẫn, nghiêm túc trong sáng tác
để khẳng định giá trị thực sự và vai trò quan trọng của văn chương nghệ thuật.
Ngoài những thuận lợi về truyền thống lịch sử, văn hóa, văn nghệ, các
nhà thơ trẻ Thái Nguyên đều là những trí thức, được trang bị những kiến thức
và kinh nghiệm liên quan tới sáng tác. Nhiều người trong đó sớm được tiếp xúc
với môi trường văn chương, môi trường sáng tác. Sự phát triển của đội ngũ
đông đảo các nhà thơ trẻ Thái Nguyên còn phải kể đến sự quan tâm, giúp đỡ,
tạo điều kiện của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, báo Thái Nguyên… có kế hoạch
bồi dưỡng để các cây bút trẻ từng bước trưởng thành trong sáng tác. Những
điều kiện đó đã tạo thuận lợi cho văn học Thái Nguyên nói chung, các nhà thơ
trẻ Thái Nguyên nói riêng có điều kiện để phát triển và hoàn thiện, từng bước
khẳng định vị thế của mình và vị thế của thơ ca Thái Nguyên trong sự phát
triển chung của thơ ca Việt Nam.
1.2.2.3. Quá trình vận động và phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên
Thái Nguyên - mảnh đất giao lưu của nhiều nền văn hóa đã trở thành nơi
hội tụ của những giá trị văn hóa, văn học. Văn học Thái Nguyên hôm nay là
22
một quá phát triển lâu dài, vừa chọn lọc, vừa kế thừa và sáng tạo, trong đó
không thể không kể đến những đóng góp quan trọng của lực lượng sáng tác là
những nhà thơ trẻ Thái Nguyên.
Trong sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại, thơ Thái
Nguyên cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung. Về hình thức và
khuynh hướng sáng tác, thơ ca Thái Nguyên nói chung, thơ trẻ Thái Nguyên
nói riêng chủ yếu sáng tác theo hai khuynh hướng: khuynh hướng trung thành
với thơ truyền thống và khuynh hướng cách tân nghệ thuật trong thơ. Thơ Thái
Nguyên không có những tác giả sáng tác theo khuynh hướng nổi loạn. Những
tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng truyền thống có thể kể đến như Doãn Long,
Phan Thái. Những tác giả đi theo khuynh hướng cách tân nghệ thuật có số
lượng đông đảo hơn với những tên tuổi tiêu biểu như Phạm Văn Vũ, Nguyễn
Nhật Huy, Trần Thị Nhung, Gia Hân, Hoàng Thị Hiền… Đây cũng là khuynh
hướng sáng tác có những cây bút gặt hái được nhiều thành công và khẳng định
vị trí của mình trong nền thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng và thơ trẻ Việt Nam
đương đại nói chung.
Nhìn chung, thơ trẻ Thái Nguyên đã bước đầu bắt kịp sự phát triển của
nền thơ trẻ toàn quốc, có những tác giả với những sáng tác được đánh giá cao
qua các cuộc thi, các giải thưởng văn học trong cả nước. Tiêu biểu cho những
thành tựu của thơ trẻ Thái Nguyên có thể kể đến hai gương mặt: Phạm Văn Vũ
là Nguyễn Nhật Huy. Họ đều là những người đến với văn chương nghệ thuật từ
rất sớm và sớm khẳng định được bản thân với phong cách sáng tác riêng qua
những tập thơ chủ yếu theo khuynh hướng tìm tòi, cách tân nghệ thuật mới mẻ.
Bên cạnh hai gương mặt tiêu biểu trên, thơ trẻ Thái Nguyên có một đội ngũ
sáng tác đông đảo vẫn luôn say sưa, cần mẫn, đam mê trong sáng tạo văn
chương nghệ thuật, luôn cố gắng tìm tòi những cái hay, cái mới trên hành
trình đổi mới và phát triển của thơ Thái Nguyên nói riêng và nền thơ ca nước
nhà nói chung. Hầu hết những nhà thơ trẻ đều là những trí thức, những nhà
23
giáo, nhà báo, thiết nghĩ, đó là là lực lượng sáng tác quan trọng, là đội ngũ
nuôi dưỡng và vun đắp tình yêu văn chương trong thế hệ trẻ Thái Nguyên
hôm nay.
Có thể nói, chưa có giai đoạn nào, thơ ca lại xác lập cho mình diện mạo
phong phú, đa dạng với nhiều phong cách, nhiều xu hướng, nhiều giọng điệu
riêng biệt như giai đoạn hiện nay. Thơ trẻ Thái Nguyên thực sự trở thành một
bộ phận trong nền thơ ca Thái Nguyên có lẽ bắt đầu từ năm 2000 đến nay.
Trước đó, thơ Thái Nguyên ghi nhận một vài gương mặt thơ trẻ như Dương
Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh và Phạm Văn Vũ.
Tác giả trẻ Dương Thu Hằng có tác phẩm đăng báo từ khi còn rất trẻ
với 2 tập thơ: Men đầu (2000), Đón lá (2004). Bên cạnh đó chị đã xuất bản 2
tập truyện ngắn Ngày cho em (2002), Lá thư không gửi (2003), đến nay chị đã
có hàng trăm bài thơ, truyện ngắn được đăng tải với một số giải thưởng văn học
như: Giải ba Hương đầu mùa báo Hoa học trò năm 1993 - 1994, Giải thưởng
Văn học tuổi xanh (1994), Tặng thưởng tác phẩm Văn học tuổi xanh báo Tiền
phong (1997), Giải thưởng Truyện ngắn báo Gia đình và Trẻ em (2004),… Thơ
chị không cầu kỳ, gọt giũa mà có sự trong trẻo, tinh khôi của tuổi trẻ nhưng
không kém phần sâu sắc và nhạy cảm.
Thơ Vũ Thị Tú Anh khá thông minh, sâu sắc và có phần tinh nghịch.
Song chị viết ít, thi thoảng độc giả mới bắt gặp một vài bài thơ của chị trên các
trang báo Thái Nguyên.
Đại diện cho thơ trẻ Thái Nguyên trước năm 2010 nổi bật hơn cả đó là
Phạm Văn Vũ. Anh sinh năm 1984, là người dân tộc Tày, quê ở Định Hóa,
Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ đã từng dạy học tại huyện Định Hóa và hiện làm
việc tại Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên.
Phạm Văn Vũ là người có niềm đam mê đối với văn chương, anh theo
học tại trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và trở thành hội viên trẻ nhất của
Hội Văn học nghệ thuật Thái Nguyên khi là sinh viên năm thứ hai của Khoa
24
Ngữ văn. Là cây bút sớm có tình yêu và bén duyên với văn chương nghệ thuật,
Phạm Văn Vũ đến với sáng tác và trở thành hội viên hội văn học nghệ thuật từ
khi còn rất trẻ. Năm 2005, khi đang là sinh viên Khoa Ngữ văn – Trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên, Phạm Văn Vũ đạt giải thưởng cuộc thi Bút Hoa –
Báo Tài hoa Trẻ. Năm 2006, Phạm Văn Vũ dự Hô ̣i nghi ̣ Những ngườ i viết văn
trẻ toàn quốc lần thứ 7 ở Hô ̣i An, khi ấy Phạm Văn Vũ 22 tuổi và cũng là đa ̣i biểu trẻ nhất của hội nghị.
Là cây bút sáng tác với tuổi đời còn trẻ nhưng Phạm Văn Vũ đã sớm gặt
hái được những thành công trên con đường nghệ thuật với những giải thưởng
khẳng định tài năng và tạo cá tính sáng tạo riêng. Tâ ̣p thơ đầu tay mang tên
Trong nỗi nhớ mà u chà m (2007) bộn bề những nỗi niềm củ a mô ̣t người trẻ cô đơn, nhiều suy tư, trăn trở..., một người trẻ tuổi nhưng “già” trướ c tuổ i. Nhưng có thể nói, đáng quý nhất là của tập thơ là sự trong trẻo trong tâm hồn của một
cây bút trẻ. Ngoài tập thơ đầu tay Trong nỗi nhớ màu chàm (2007), Phạm Văn
Vũ còn khẳng định cá tính thơ của mình với tập thơ Mọc (2016). Bên cạnh sáng
tác văn học, anh còn xuất bản tác phẩm Ngẫu luận (trò chuyện văn chương,
2011) là những cuộc trò chuyện với các nhà thơ, nhà văn của Thái Nguyên.
Mỗi cuộc trò chuyện là một quan niệm về các vấn đề văn chương nghệ thuật
được các tác giả và người viết cùng nhau trao đổi, qua đó cung cấp cho người
đọc những tư liệu quan trọng khi tìm hiểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng
tác, phong cách nghệ thuật của các cây bút Thái Nguyên mọi lứa tuổi.
Nói đến thơ trẻ Thái Nguyên trong những năm gần đây, chúng ta còn
nhắc đến một tác giả khá tiêu biểu là Nguyễn Nhật Huy. Anh sinh ngày
18/6/1987, trước đây là sinh viên Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên và hiện nay là cán bộ giảng dạy ở bộ môn Lý luận văn học – Văn
học nước ngoài tại khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Trong cuộc trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Nhật Huy, Phạm Văn Vũ
từng nhận xét: “Là một giảng viên Sư phạm, nhưng anh chưa bao giờ có ý định
25
xây dựng hình ảnh mô phạm trước học trò và đồng nghiệp. Là người sáng tác,
nhưng anh không có thói quen ngồi trầm tư, mà luôn bắt tay vào những công
việc có thể kiếm ra tiền bằng sức lao động. Thật ra, đằng sau cái vẻ ngoài của
một trai trẻ bông phèng đến bất cần ấy là một con người nghiêm túc, tự trọng,
mang tư chất của một nghệ sĩ đầy khao khát” [65].
Thơ Nguyễn Nhật Huy mang một cá tính riêng, và thơ anh nhiều khi
khiến người ta khó đọc, khó hiểu. Tự nói về bản thân mình, nhà thơ Nguyễn
Nhật Huy từng chia sẻ: “Tôi không đại diện được cho những người viết trẻ,
nhưng bản thân thấy cái “tạng” tôi không thích sự ổn định của thể loại. Nó
như một thứ đạo đức cũ đôi khi trói buộc con người. Tôi rất thích phá vỡ các
thể loại. Đi tìm cái mới thì anh phải chấp nhận đập vỡ cái cũ, đập vỡ chính bản
thân mình. […] Tất nhiên tôi không phủ định quá khứ. Tôi chỉ luôn có cảm giác
không thỏa mãn với những lý giải của người đi trước, thậm chí có nhiều vấn đề
không phục. Nó thúc đẩy tôi đi tìm một hình thức mới, một lý giải mới về cuộc
sống” [65]. Nguyễn Nhật Huy cho ta thấy một cái tôi rất đời thường nhưng
cũng luôn trăn trở với những điều trong cuộc sống, luôn cố gắng lý giải, cắt
nghĩa những vấn đề của cuộc sống hiện đại bằng con mắt của người trẻ tuổi.
Bằng cuộc sống và sáng tác, Nguyễn Nhật Huy cho ta hình ảnh một con người
luôn nghiêm túc và đầy khát khao trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Bên cạnh công việc giảng dạy, Nguyễn Nhật Huy còn tham gia cộng tác
với một số báo như: Báo Văn nghệ, Văn nghệ Thái Nguyên, Tạp chí Cửa biển,
Tạp chí Non nước, Báo tuổi trẻ.... Anh cũng là thành viên của Câu lạc bộ Văn
học Trẻ Thái Nguyên, Có truyện ngắn và thơ đăng trên các báo: Văn nghệ Thái
Nguyên, Tuổi trẻ, Văn nghệ… Đồng thời, Nguyễn Nhật Huy cũng khẳng định
vị trí của mình với một số giải thưởng như: Giải ba thơ Người đô thị của Liên
hiệp các hội văn học nghệ thuật Đà Nẵng, Giải Nhì thơ, Giải Ba truyện ngắn
trong Cuộc thi Sáng tác văn học 2014 – 2016 trên báo Văn nghệ Thái Nguyên.
Những giải thưởng đó cho dù không phải là tất cả nhưng phần nào đã khẳng
định được vị thế của tác giả với một cái tôi riêng, một cá tính mạnh mẽ trong
26
sáng tác.
Thơ trẻ Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2010 đến nay có sự tăng mạnh về
số lượng người cầm bút. Bên cạnh những cái tên như Dương Thu Hằng, Phạm
Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy còn có thể kể đến những cái tên khác như Doãn
Long, Hoàng Thị Hiền, Trần Thị Nhung, Gia Hân… Lí giải cho sự xuất hiện
của một loạt các tác giả mới ấy có lẽ phải kể đến sự quan tâm, chăm lo của Hội
Văn học nghệ thuật Thái Nguyên và Báo Văn nghệ Thái Nguyên khi đã tổ chức
các lớp bồi dưỡng viết văn trẻ, mời các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu (Y Phương,
Cao Duy Sơn,…), các nhà thơ hiện đại có sự cách tân (Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Bình Phương). Đây là dịp các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có dịp học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm với các bậc chú, bác trong nghiệp thơ. Hơn nữa, ngày thơ
Việt Nam như một liều thuốc tinh thần, kích thích sự đam mê sáng tác của các
tác giả trẻ. Ngoài ra, sự giao lưu giữa các nhà thơ trẻ của các địa phương cũng
là dấu ấn quan trọng có tác dụng kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển của
thơ trẻ Thái Nguyên. Điều đặc biệt không thể không nhắc tới đó là các tác giả
của thơ trẻ Thái Nguyên đa phần đều xuất thân là nhà giáo. Họ may mắn được
sinh ra và học tập ở nơi trung tâm về văn hóa giáo dục với nhiều thế hệ tác giả
am hiểu sâu sắc và yêu quý, đam mê thơ ca. Đó là những tiền đề quan trọng
cho sự ươm mầm tài năng văn chương cũng như điều kiện thuận lợi góp phần
tạo nên một lực lượng sáng tác đông đảo về số lượng, không ngừng nâng cao
về chất lượng cho thơ trẻ Thái Nguyên hôm nay.
* Tiểu kết chương 1:
Trong chương 1, chúng tôi khái quát một số vấn đề lí luận và thực tiễn
làm cơ sở cho việc nghiên cứu luận văn.
Trước hết, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất quan trọng của sáng
tạo nghệ thuật, được xây dựng trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất
định. Nó là một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật, phản ánh những quan niệm
của người nghệ sĩ về thế giới, đồng thời thể hiện chiều sâu cảm xúc trong tâm
27
hồn người viết.
Cái tôi là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có
của mỗi con người. Đó là khái niệm đánh dấu ý thức của con người về bản thể
tồn tại của chính mình.
Thái Nguyên là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa,
hơn thế nữa lại là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng
hào hùng. Nơi đây còn được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa,
văn học. Tất cả những điều kiện ấy đã trở thành nền tảng và mạch nguồn nuôi
dưỡng tình yêu văn chương nghệ thuật, hun đúc nên một đội ngũ những nhà thơ
Thái Nguyên trong đó có những nhà thơ trẻ hôm nay.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, thơ trẻ Thái Nguyên đang từng
bước khẳng định mình không chỉ trong nền thơ Thái Nguyên mà còn trong sự
phát triển chung của thơ ca đương đại trên toàn quốc. Đội ngũ các nhà thơ trẻ
Thái Nguyên là một lực lượng sáng tác quan trọng, triển vọng để đưa thơ Thái
Nguyên phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam.
Trong chương 1, chúng tôi đã khái quát những vấn đề lí luận về thế giới
nghệ thuật, cái tôi trữ tình cũng như những nét chung nhất về mảnh đất Thái
Nguyên - mảnh đất khởi nguồn cho thơ và phác thảo diện mạo chung của thơ
trẻ Thái Nguyên trên hành trình phát triển. Đây sẽ là những tiền đề quan trọng
cho việc nghiên cứu cụ thể về thơ trẻ Thái Nguyên mà chúng tôi sẽ trình bày ở
28
những chương sau.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM VỀ CẢM HỨNG VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN
2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ trẻ Thái Nguyên
Cảm hứng thế sự không phải là loại cảm hứng mới mẻ trong thơ nói
chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng. Có thể nói cảm hứng thế sự là sự phát
triển tất yếu của một nền thơ ca. Bởi lẽ, khi đã hoàn thành sứ mệnh chính trị
cách mạng thiêng liêng thì thơ ca có xu hướng quay về với những lo toan, trăn
trở đời thường, những vấn đề cốt lõi trong cuộc sống và con người... Đó là
những trạng thái phức tạp của tâm hồn người cầm bút trước những vấn đề gai
góc của cuộc sống và con người, là hạnh phúc và khổ đau, là được mất - hơn
thua, là thật thà và gian trá, là bản ngã và chân lí… Tất cả đều được soi chiếu
qua lăng kính thơ. Trong những thập niên đầu thế kỉ XXI cảm hứng thế sự đã in
dấu rất đậm trong thơ của các tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Kiến Thọ,
Lưu Thị Bạch Liễu… Họ là những người đã từng dằn vặt, trăn trở để tìm ra
một định nghĩa về cuộc đời vốn dĩ rất phức tạp.
Mẹ không muốn ru
Bằng những câu chuyện thần tiên
Rằng chỉ cần sống hiền là đủ
Con hay nhìn những đóa hoa tội nghiệp kia
Chúng không nỡ làm đau một cánh bướm
Mà lũ sâu vẫn cắn xé tơi bời
(Lưu Thị Bạch Liễu – Hát ru)
Đến thế hệ các nhà thơ trẻ 8X, 9X, cảm hứng thế sự cũng là nỗi niềm, là
những suy ngẫm trở đi trở lại trong thơ. Bởi lẽ, thơ là một hình thức biểu hiện
cái tôi cá nhân của tác giả. Thông qua những hình ảnh, biểu tượng trong thơ,
qua ngôn ngữ nghệ thuật thơ, nhà thơ thể hiện những trăn trở, suy tư, chiêm
29
nghiệm về thế giới.
Con người giữa cuộc sống hiện đại tấp nập, ồn ào nhưng đâu đó vẫn là những góc khuất, những con người như đứng ngoài nhịp sống xã hội. Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đã từng xót xa về những số phận như thế, đó là hình ảnh em bé bán củi bị ướt mưa:
Phiên chợ ngày mưa, thưa thớt bóng người Em cõng củi dầm chân đứng đó Tôi khoác túi bồn chồn về phố Có vệt khói dài lặng lẽ lan theo
(Một sáng Đồng Văn) Hay một người hát rong (Nghe câu hát từ xe hàng rong) hay người dân quê nghèo phải đến nơi đất khách quê người kiếm sống (Một chuyến xe khách)… Đến Doãn Long, thì đó là hình ảnh “người điên” đầy trăn trở:
Không áo Che đầu là mái tóc xù Có chiếc quần đính thân Lũ trẻ trâu – không đùa nữa!
Trước quán ăn Manh quần cộc hẫng Tóc cũng cần một chút nắng trưa Mượn nơi cỏ nằm để đứng
(Doãn Long – Người điên)
Giữa trăm nghìn người lướt qua trong cuộc sống, hình ảnh người điên hiện lên như một mảnh ghép đặc biệt. Và hơn hết, hình ảnh ấy được đặt trong một không gian đối lập:
Trong quán ăn Khách nâng chén lên, rượu tràn mâm lênh láng Chảy xuống gầm sàn…
Kẻ bên đường vẫn ngồi bất động Chỉ còn đôi môi nhấp nháy Đợi miếng thức ăn văng xa!
30
(Doãn Long – Người điên)
Nếu như trước quán ăn là hình ảnh người điên với đầu trần, “không áo”,
và “manh quần cộc hẫng” thì trong quán ăn là hình ảnh “khách” nâng chén,
“rượu tràn mâm lênh láng”. Đối lập giữa một bên cái gì cũng thiếu và một bên
là sự thừa thãi bỏ đi. Con người đang đứng ngoài quán kia chỉ chờ miếng thức
ăn thừa “văng ra” từ bữa tiệc đang diễn ra trong quán. Sự đối lập càng được tác
giả diễn tả ở một mức cao hơn:
Họ cụng ly chúc điều tốt lành
Người đứng bên đường mơ một bữa qua ngày
Mọi điều thất vọng!
Những ánh nhìn day dứt buổi trưa
(Doãn Long – Người điên)
Thu lại từ sự chờ đợi ấy chỉ là cơn đói vẫn cồn lên trong bụng và sự thất
vọng đến vô cùng. Tiếng cụng ly chúc mừng nhau những điều tốt đẹp trong
quán ăn đối lập hoàn toàn với sự cô đơn, trống trải, lẻ loi một mình của “người
điên” đang đứng chờ trước quán ăn. Từ sự đối lập ấy, ta thấy cái tôi nhạy cảm,
trăn trở nhưng cũng đầy nhân văn của tác giả. Dẫu luôn trăn trở trong lòng
nhưng làm sao có thể thay đổi hiện thực cuộc sống đang diễn ra, và rồi người
điên không còn đứng đó, chỉ còn bụi đường “xoáy vào tiệc vui”. Nỗi buồn lẫn
vào niềm vui, khổ đau lẫn cùng hạnh phúc, thiếu thốn hòa cùng dư thừa, đó vẫn
là những điều ta vẫn gặp nhưng không khỏi khiến ta day dứt, trăn trở, không
thể khiến ta có những giây phút thấy lòng lặng đi trước những điều tưởng
chừng rất bình thường trong cuộc sống.
Nếu Doãn Long trăn trở với hình ảnh “người điên” thì Phạm Văn Vũ lại
đầy suy tư về hình ảnh những em bé ở lớp trẻ tật nguyền khi hát quốc ca:
Các em hát quốc ca bằng tay
Miệng không cất được lên từ “Tổ quốc”
Các em hiểu thế nào là đất nước
Mà tay nhịp nhàng
Câu hát vô thanh
31
(Phạm Văn Vũ – Một lần hát)
Những đứa trẻ tật nguyền hát bài hát quốc ca không thành lời đã trở
thành nỗi ám ảnh của bất cứ ai chứng kiến cảnh tượng ấy đang diễn ra trước
mắt. Không phải một bài hát bình thường nào khác mà chính là quốc ca – là bài
hát đại diện cho Tổ quốc mình nhưng những đứa trẻ tật nguyền không thể cất
lên hai từ “Tổ quốc”. Tiếng hát ấy không vang lên bằng âm thanh mà vang lên
bằng âm điệu của trái tim yêu nước, người nghe không thể nghe bằng thính
giác mà phải cảm nhận trọn vẹn bằng chính tâm hồn và trái tim mình. Các em
bé tật nguyền hát quốc ca bằng tình yêu Tổ quốc, bằng sự cảm nhận trọn vẹn
thế nào là đất nước. Bài hát quốc ca bỗng chốc trở nên thiêng liêng theo một
cách rất riêng:
Chưa bao giờ gặp bài hát vẹn tròn như thế
Vậy mà không dám vỗ tay
Bỏ chạy
Bước chân vô thủy vô chung
Nhẩm quốc ca
Câu nào cũng vấp
Mới hay mình tật nguyền
(Phạm Văn Vũ – Một lần hát)
Một bài hát “vẹn tròn” nhưng lại mang đến bao ngậm ngùi cho những
người nghe. Một bài hát không có âm thanh, không có tiếng nhạc mà chỉ lắng
nghe nó bằng nhịp đập trái tim của những con người cùng chung Tổ quốc.
Những đứa trẻ tật nguyền dù không cất lên được hai từ “Tổ quốc” nhưng Tổ
quốc luôn nằm trong trái tim mỗi đứa trẻ. Ấy vậy mà với những người bình
thường, những con người hoàn toàn lành lặn thì “Nhẩm quốc ca câu nào cũng
vấp”. Nếu không có hoàn cảnh của những đứa trẻ tật nguyền có lẽ con người
kia cũng chưa một lần nghĩ đến mình không thuộc quốc ca. Phải chăng, những
đứa trẻ tật nguyền kia chỉ là tật nguyền của cơ thể chứ hoàn toàn vẹn tròn trong
32
trái tim, trong tâm hồn. Còn những người lành lặn, bình thường mới chính là
những người sống với tâm hồn sứt mẻ, thiếu thốn, mang một trái tim tật
nguyền. Từ những điều bình dị diễn ra trong cuộc sống khiến nhà thơ không
thôi trăn trở, suy tư về những chuẩn mực giá trị của cuộc sống, những điều
đáng trân trọng và cả những điều đáng phê phán ở cuộc sống hôm nay.
Vòng xoáy của đồng tiền khiến người ta quên đi những giá trị đích thực,
quên đi những điều thiêng liêng của cuộc sống mà hình ảnh người bình thường
mới hay mình hát quốc ca “câu nào cũng vấp” chỉ là một trong số rất nhiều
những biểu hiện thờ ơ của cuộc sống hiện đại. Cuộc sống mỗi ngày lại thêm tấp
nập, nhộn nhịp nhưng giữa dòng đời bon chen ấy, con người lại có cảm giác
“nhạt” trong thế giới của chính mình:
Cái bắt tay hờ
Câu chuyện ve vuốt
Lời chào lệ
Cuộc rượu suông
Câu hát hụt hơi
Bài thơ nhạt thếch
Đến cả nụ hôn còn mở mắt…
Anh về dốc muối pha trà
Mặn toát mồ hôi!
(Phạm Văn Vũ – Nhạt)
Có lẽ, sự giả dối, hư danh trong cuộc sống hiện đại không còn là điều xa
lạ. Để tìm được một chút chân thành khó hơn so với việc tìm những hành động
giả dối hướng đến những cái đích nhất định. Và để đạt được cái đích đó con
người cần “học” nhiều điều:
Ngoài việc nhem nhuốc và chai sần
Còn phải học cách trắng trẻo và mềm mại
Ngoài việc cầm nắm mang vác
Còn phải học cách vuốt ve và xoa tay
33
(Phạm Văn Vũ – Nói chuyện với tay)
Và cũng sẵn sàng làm nhiều điều khó tưởng:
Có người
Cầm dao kề cổ bố mẹ
Vắt chân bình thiên hạ làm ăn
Bán ruộng mua áo mới
(Hoàng Thị Hiền - Con đường nằm trong bàn tay)
Cuộc sống phức tạp, đa chiều khiến nhà thơ cảm thấy bất an, nhưng đồng
thời cuộc sống cũng không thiếu những điều giản đơn, ý nghĩa và đáng trân
trọng. Với một nhà giáo như Phạm Văn Vũ, có lẽ một bài văn điểm mười của
học sinh là niềm vui không có gì sánh được đối với một người thầy. Và những
lời tâm sự, suy ngẫm về tương lai, về cuộc sống bên ngoài trang sách, những
điều mà một người thầy nhìn thấy trong ánh mắt của học trò là những điều trăn
trở của người thầy:
Thầy không thể bắt các em thôi đọc truyện ngôn tình
Có nhà xuất bản nào cầm tay phụ huynh
kí hợp đồng mua sách
Chúng ta tự mua bán chính mình?
Thầy không thể bắt các em thôi chơi game
Khi lúc nào thầy cũng dạy học trò
phải thành người chiến thắng
Chúng ta ai cũng một cuộc chơi?
Thầy muốn dạy các em bằng tin cậy, say mê
Nhưng những điều mắt thấy tai nghe
Chẳng lẽ chỉ biết say mê, tin cậy?
Thầy không muốn nghe nói dối
Nhưng khi nhiều người cùng nói dối
Chẳng lẽ nói thật lại thành có lỗi?
34
(Phạm Văn Vũ – Ngày 15 tháng 10)
Giữa trang sách trong nhà trường và cuộc đời đang trôi chảy ngoài kia
luôn có một khoảng cách. Người thầy muốn dạy học trò không đơn thuần là
những điều trong sách vở mà hơn thế nữa là những bài học của cuộc đời.
Những trăn trở, suy tư, những điều tâm sự về cuộc sống đã được Phạm Văn Vũ
gửi gắm qua những lời tâm sự với học trò để sau này mỗi người sẽ trưởng
thành, “sẽ lớn lên”.
Trần Thị Nhung được biết đến là cây bút có giọng thơ nhẹ nhàng nhưng
đôi khi những câu thơ của chị cũng đầy suy tư, trăn trở. Trong bài thơ Mưa, đi
qua những khổ thơ đầu với giọng thơ hồn nhiên trong trẻo, nhà thơ còn cho ta
thấy một cái tôi đầy suy ngẫm trong dòng đời:
Giờ con đi tìm
Chẳng thấy bông cau
Nơi góc vườn trăng đẹp
Thấy cơn mưa ngày xưa
Con dầm trong dòng đời
có những màu trắng đen, trong đục
Lại muốn mẹ ngồi
Đính lại một màu cho con
(Trần Thị Nhung – Mưa)
Một cơn mưa gợi về trong lòng người bao cảm xúc. Thời gian trôi chảy,
vẫn là một cơn mưa bất chợt nhưng những điều thân quen xưa kia không còn
nữa. Giờ đây, con không chỉ dầm trong cơn mưa của đất trời mà “dầm trong
dòng đời” tấp nập, bon chen. Những điều thân thương, bình dị đã trở thành quá
khứ, hình bóng mẹ cũng mãi đi xa, chỉ còn lại cơn mưa và hình ảnh con đơn
độc trong dòng đời trôi chảy. Dẫu chỉ là một cơn mưa nhưng lại gợi về bao nhớ
nhung, bao yêu thương, bao điều thân thuộc của một thời. Trái tim của cây bút
trẻ đã rung lên những nhịp đập khi nhớ về những kỉ niệm một thời đã qua.
Tâm sự suy tư, trăn trở là nỗi lòng không của riêng ai trong cuộc sống.
Trong bài thơ Và mỗi sớm mai chim vẫn hót, tác giả Phan Thái từ những điều
35
bình dị đã nói lên bao nỗi niềm:
Bị nhốt trong lồng, chim quên mình bị nhốt
Mỗi sớm mai vẫn hót gọi mặt trời
Ta vùi mặt giữa hư danh, cơm áo
Chẳng như chim thản nhiên đón ánh ngày
Đời trong đục, vui buồn không thể giấu
Đôi khi nén khóc cười rót tỉnh vào say
(Phan Thái - Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)
Cuộc sống con người vốn dĩ phức tạp, con người quay cuồng trong vô
vàn trắng đen. Sự đối lập giữa hình ảnh chim bị nhốt trong lồng nhưng quên
mình bị nhốt, vẫn hót chào ngày mới vào mỗi buổi sớm mai. Hoàn cảnh bị nhốt
trong lồng không hề chi phối đến việc ngày mai mặt trời vẫn mọc, và loài chim
chỉ đi theo những lối mòn quen thuộc của sự vận động tự nhiên hết đêm đến
ngày. Nhưng con người thì khác, không thể thản nhiên đón ánh bình mình vì
“vùi mặt giữa hư danh, cơm áo”. Con người nhận ra đó chỉ là hư danh, hão
huyền, là những giá trị “ảo” những vẫn cố công theo đuổi; con người bị cuốn
vào vòng cơm áo gạo tiền quẩn quanh khiến việc đón bình minh thản nhiên
cũng trở thành điều xa xỉ. Con người không sống theo nhịp vận động của tự
nhiên mà quay cuồng trong vòng quay của đời sống xã hội, đôi khi là sự dối trá
chính lòng mình: “nén khóc cười rót tỉnh vào say”. Cuộc sống của con người
khi trưởng thành có quá nhiều điều khiến con người bận lòng suy nghĩ và đôi
khi trong sự mỏi mệt của cuộc sống ta lại mong được quay về với tuổi thơ.
Cuộc sống hiện đại đầy rẫy bon chen, xô bồ, con người bị cuốn vào vòng
quay không ngừng của hư danh nhưng trong một lúc nào bỗng như dừng lại khi
ta nhớ về với câu hát ru ngọt ngào của mẹ:
Trái tim ta đâu chỉ để yêu thương
Học im lặng khó hơn học nói
Lưng mẹ gập trên đồng như dấu hỏi
Câu hát ru con thanh thản ru mình
36
(Phan Thái - Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)
Cuộc sống của người mẹ xưa kia có thể vất vả “Lưng mẹ gập trên đồng
như dấu hỏi” nhưng lại thanh thản với câu hát ru con như tự ru mình. Cuộc
sống lao động ấy dù có vất vả nhưng con người có được sự thảnh thơi trong
tâm hồn, nó đối lập hoàn toàn với đời sống biến động không ngừng ngày hôm
nay. Những sự đối lập ấy khiến nhà thơ không thôi trăn trở, không thôi suy
ngẫm về cuộc sống của chính mình trong vòng quay không ngừng nghỉ của đời
sống hiện đại.
Tóm lại, thơ ca của các cây bút trẻ Thái Nguyên nói chung mang dấu ấn
của thời đại họ đang sống và họ phản ánh cuộc sống ấy một cách chân thực,
thẳng thắn. Họ không ngại nói ra những mặt khuất lấp, những mặt trái của cuộc
sống nên thơ của họ không phải ai cũng có thể dễ dàng tiếp nhận. Đặc biệt là
với những bạn đọc vốn quen với thơ ca truyền thống. Cũng có thể nói, viết về
cảm hứng thế sự với các tác giả trẻ như một cách để đấu tranh, để gìn giữ
những giá trị đích thực của cuộc sống.
Có thể thơ hôm nay khiến người ta suy ngẫm, giật mình hoặc thậm chí
bất an trước xã hội đang sống nhưng chính điều đó phần nào lại thôi thúc con
người bước tiếp trên hành trình thanh lọc xã hội.
2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên
2.2.1. Cá i tôi trong trẻo, hồn nhiên
Cái tôi trữ tình trong thơ là vốn là sự thể hiện một cách nhận thức, sự
cảm nhận về thế giới thông qua các hình ảnh, biểu tượng trong văn học. Qua
lăng kính của nhà thơ, một thế giới độc đáo được gửi đến người đọc như một
thông điệp về cuộc sống. Thơ trẻ – thơ được viết bởi những nhà thơ trẻ có thể
mang nhiều sắc thái, thể hiện nhiều cảm nhận khác nhau về cuộc sống nhưng
không thể thiếu một nét cá tính sáng tạo rất đặc trưng, đó là cái tôi trong trẻo,
hồn nhiên.
Với cây bút Nguyễn Nhật Huy, bên cạnh những dòng thơ đầy trăn thở
37
thơ anh cũng không thiếu cái tôi trong trẻo, hồn nhiên:
Nhớ khúc hát ngọt khoai sắn vùi rơm
Mùi khói thơm là mẹ
(Nguyễn Nhật Huy - Khói)
Khúc hát ru vốn gợi lên cảm giác về sự ngọt ngào, thân thương của tình
mẹ, những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm. Trong thơ Nguyễn Nhật Huy, khúc hát ấy
được so sánh “ngọt khoai sắn vùi rơm”. Vị ngọt thơm của khoai sắn vốn rất
quen thuộc, gắn liền với tuổi thơ của mỗi người. Trên cánh đồng khi vụ gặt vừa
xong, mùi khói đốt rơm quyện hòa của vị thơm ngọt của mùi khoai sắn nướng.
Cái vị thơm bình dị, cái hương vị đồng quê ấy khiến ai đã từng được biết đến sẽ
không thể nào quên, nhẹ nhàng nhưng cứ tự nhiên in dấu trong kí ức. Bởi lẽ,
mùi khói thơm ấy không phải điều gì xa lạ mà thân thuộc như chính người mẹ:
“Mùi khói thơm là mẹ”. Từ khúc hát đến vị ngọt bùi khoai sắn và hình ảnh
người mẹ là một chuỗi liên hoàn gợi nhớ những kỉ niệm trong trẻo, hồn nhiên
của tuổi thơ.
Trong một bài thơ về cuộc sống của con người giữa thời hiện đại –
bài thơ Nhà anh không có điều hòa, Nguyễn Nhật Huy hiện lên với một
giọng thơ dí dỏm, hồn nhiên:
Nếu nhiệt độ từ bốn mươi đổ lên
Mọi câu thơ đều vặn vẹo
Em có tin không tình yêu mình sẽ chết
Nếu không có điều hòa
(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)
Những câu thơ rất đời thường, rất bình dị về cuộc sống hằng ngày. Tác
giả như đang kể câu chuyện thực giữa một ngày hè nóng bực, khi nhiệt độ “từ
bốn mươi đổ lên”, khi đài báo cắt điện và khi nhà anh không có điều hòa. Đó
có lẽ là vấn đề tất cả mọi người đều quan tâm giữa những ngày hè oi bức. Và
dù có tâm hồn của một nhà thơ thì cũng không ai có thể tách ra khỏi thế giới
38
mà mình đang sống, tách ra khỏi bầu không khí nóng nực giữa những ngày hè:
Xin đừng làm thơ giải nhiệt
mà đi cày tiền cho hóa đơn điện vừa tăng
Mình đã buông tay nhau không phải vì hết yêu
mà do đài báo chiều nay cắt điện
Nhìn mắt em đã không còn biêng biếc
như hồi mình tưởng sống chỉ để yêu
(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)
Và thời tiết mùa hè, khi mất điện, khi không có điều hòa không chỉ khiến
người ta gác lại văn chương mà lo “đi cày tiền”, hơn thế nữa còn có thể khiến
người ta “buông tay nhau” trong tình yêu. Một cái tôi hồn nhiên, hóm hỉnh khi
viết về những điều rất bình dị, giản đơn, rất đời thường trong cuộc sống con
người là những điều người đọc ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ Nhà anh không
có điều hòa.
Khác với một số cây bút trẻ Thái Nguyên như Nguyễn Nhật Huy, Phạm
Văn Vũ, Doãn Long, Phan Thái… thơ Trần Thị Nhung là tiếng của một tâm
hồn phụ nữ với đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc trong cuộc sống. Giọng thơ tâm
tình trong trẻo, hồn nhiên trong thơ Trần Thị Nhung được thể hiện rất đặc sắc
trong bài thơ Gửi bà:
Bà ơi
Đã đến mùa hoa mào gà xấu hổ
đỏ tía tai
Đã đến mùa giậu chín mọng mùng tơi,
lũ trẻ con tha hồ bứt quả.
Con lại tìm về
con đường làng
ban trưa không ngủ.
Lang thang theo mùa hoa cỏ
39
Tìm cánh mào gà cài quyển vở bỏ quên.
Về chạy theo lũ trẻ con
dãi nắng cả trưa, tóc mai vàng ruộm.
Về đi lội sông
tìm viên đá cuội
kì cọ mực tím bàn tay.
(Trần Thị Nhung – Gửi bà)
Những kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với người bà thân yêu được Trần Thị
Nhung tái hiện qua bức tranh muôn màu sinh động, trong trẻo, hồn nhiên trong
bài thơ Gửi bà. Đó là hình ảnh hoa mào gà xấu hổ đỏ tía tai, là hình ảnh giậu
mùng tơi chín mọng mà lũ trẻ con tha hồ bứt. Có lẽ không riêng gì nhà thơ
Trần Thị Nhung mà rất nhiều những đứa trẻ ở nông thôn khác cũng không xa lạ
gì với hình ảnh của những loài hoa, loài cây, loài quả quen thuộc được nhắc
đến trong bài thơ. Con đường làng quen thuộc là nơi bọn trẻ chơi những trò
chơi, lang thang trong những buổi trưa không ngủ. Con đường với hoa cỏ theo
mùa, với những đặc trưng của vùng quê mình trở thành một kỉ niệm không thể
phai mờ trong kí ức tuổi thơ. Hình ảnh những đứa trẻ con dãi nắng những buổi
trưa, lang thang lội suối tìm những viên đá cuội để kì mực trên bàn tay là hình
ảnh rất quen thuộc mà có lẽ không chỉ nhà thơ Trần Thị Nhung ấn tượng mà
còn là kí ức chung về tuổi thơ của rất nhiều đứa trẻ ở mọi miền quê. Trần Thị
Nhung không chỉ nói được những kỉ niệm tuổi thơ của riêng mình mà còn nói
hộ tiếng lòng biết bao nhiêu người đã từng trải qua một tuổi thơ êm đềm như
thế. Và trong dòng kí ức ấy, không thể thiếu hình ảnh của người bà thân yêu:
Tuổi thơ đâu đây
con ngỡ đã lạc mất.
Hoa mào gà và quả mùng tơi
không bao giờ hết hạt
Bà giữ hộ tuổi thơ con.
40
(Trần Thị Nhung – Gửi bà)
Thơ ca Việt Nam có không ít tác giả viết về kỉ niệm tuổi thơ gắn với
hình ảnh thân thương của người bà nhưng bài thơ Gửi bà của Trần Thị Nhung
mặc dù cũng nằm trong mạch cảm hứng đó nhưng vẫn có một vị trí riêng,
khẳng định được cái riêng của tác giả. Một người phụ nữ với tâm hồn giàu cảm
xúc khi viết về kỉ niệm tuổi thơ mình đã gọi tên những hình ảnh, những loài
cây, loài hoa, những con đường, dòng suối quen thuộc nhất gắn với tuổi thơ êm
đềm. Những kỉ niệm tuổi thơ tưởng chừng như thời gian có thể làm lạc mất
nhưng hóa ra lại không bao giờ phai nhạt vì luôn gắn với hình ảnh thân yêu của
người bà. Đó có lẽ không chỉ là kỉ niệm của riêng tác giả mà còn là kí ức tuổi
thơ sâu đậm của biết bao đứa trẻ ở mọi miền quê trên quê hương Thái Nguyên,
trên đất nước Việt Nam nói chung.
Với Trần Thị Nhung, có thể nói cái tôi trong trẻo, hồn nhiên là một nét rất
đặc trưng trong thơ của nữ thi sĩ này. Không chỉ trong bài thơ Gửi bà, nét trong
trẻo, hồn nhiên còn được thể hiện theo một cách rất riêng trong bài thơ Mưa:
Những bất chợt
Cho trời đổ mưa mau
Thương mùa cau
Mới trổ hoa đã rụng
Con quay về
Tìm lại ngày bông chưa kịp lượm
Xâu chuỗi vòng tay
(Trần Thị Nhung – Mưa)
Những điều bất chợt đến như một cơn mưa cũng có thể gợi hứng cho nhà
thơ viết nên những câu thơ êm đềm, gợi cảm xúc nhớ về mùa cau “mới trổ hoa
đã rụng”, những kỉ niệm bình dị thân thương của một thời. Một cơn mưa cũng
41
có thể đem lại cho người ta bao cảm xúc:
Tìm vầng trăng dịu hiền
Chẳng dám ló khuôn mặt ngây thơ
Cứ quẩn quanh khâu kín rèm mây xám
Con ngồi bên hiên
Xem mưa làm bong bóng
Tiếc trên sân nhà vỡ những ánh trăng non.
Tìm chiếc áo mẹ đính lại cho con
Ngày dầm mưa lỡ tuột mất cúc trắng
Tuổi thơ con đem cúc đem cặm cụi ngồi đính
Mẹ dỡ đi rồi
Con còn chẳng hiểu vì sao?
(Trần Thị Nhung – Mưa)
Một cơn mưa tưởng chừng như vô tình nhưng lại có thể gợi cho ta bao
cảm xúc. Cơn mưa làm biến mất vầng trăng dịu hiền có “khuôn mặt ngây thơ”,
mưa làm bong bóng ngoài sân cũng trở thành những ấn tượng sâu sắc từ tuổi
thơ gợi về. Cơn mưa ấy có lẽ không đơn thuần là cơn mưa của tự nhiên mà đó
còn là cơn mưa kỉ niệm, cơn mưa gắn với những kí ức êm đềm của một thời đã
qua. Cơn mưa ấy còn gợi nhớ về hình ảnh người mẹ với chiếc áo “lỡ tuột mất
cúc trắng” trong một ngày mưa như thế. Dẫu chỉ là những điều hết sức bình dị
nhưng giờ đây cơn mưa kia bỗng chốc lại gọi về tha thiết trong trái tim tác giả.
Trong nền thơ trẻ Thái Nguyên đương đại, Phan Thái là một tác giả tiêu
biểu sáng tác theo khuynh hướng trung thành với thơ truyền thống. Thơ Phan
Thái đi theo xu hướng truyền thống từ việc sử dụng hình thức lục bát có cội
nguồn từ ca dao, dân ca – một thể thơ thuần túy Việt Nam cho đến việc sử dụng
những chất liệu quen thuộc trong thơ ca truyền thống. Điều này đã làm nên một
42
giọng thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, trong trẻo:
Sớm chiều má nhọ bùn non Đêm sương giá lại lo đon mạ gầy.
Bốn mùa trông đất trông mây Bão giông bợt bạc rạc cây lúa mềm.
Nhọc nhằn quẩy nắng vào đêm
Làng như áo mẹ bạc thềm heo may. Gió đi hoang trễ tràng ngày Biết đâu muối mặn gừng cay ở đời.
(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)
Có thể nói, ấn tượng đầu tiên khi đọc thơ Phan Thái là sắc thái nhẹ nhàng, tình cảm, du dương như chính lời ru của mẹ. Câu thơ như tìm về những giá trị văn hóa trong truyền thống, tìm về những điều bình dị mà thiêng liêng của cuộc sống ngày trước. Đó là cuộc sống lao động vất vả của người nông dân từ sớm chiều đến đêm sương, cuộc sống phụ thuộc thiên nhiên trông trời trông đất trông mây nhưng ở đó người đọc vẫn cảm nhận được sự lạc quan, tươi sáng:
Tiếng cười chật nếp nhà tranh
Chẳng ai lấy cái rách lành để so
(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)
Cuộc sống dẫu có vất vả, có gian nan nhưng ngôi nhà tranh đơn sơ vẫn luôn đầy ắp tiếng cười. Niềm vui trong cuộc sống, niềm vui lao động tạo nên một bức tranh tươi sáng, đầy màu sắc. Rời xa cuộc sống hiện đại đầy rẫy sự bon chen, khi con người tìm về những bình yên của cuộc sống ngày xưa, những điều thân thương như đang hiện ra ngay trước mắt:
Bến sông ngơ ngác cánh cò
Qua cầu thèm tiếng “ơi đò”… xa xôi.
…
Bờ đê cong nhịp gánh gồng Mảnh ao lõm nắng phập phồng đợi mưa.
Ta về nhốt gió ngày xưa Nhặt câu hát một thời chưa là mình.
43
(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)
Bằng hàng loạt những chất liệu văn hóa truyền thống, những chất liệu
vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca như lời ru của mẹ, câu hò, bến nước,
cánh cò, bờ đê, nếp nhà tranh… Phan Thái đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp về
cuộc sống bình yên của con người. Nhưng những điều đó có lẽ khó còn được
thấy trong vòng xoáy của cuộc sống ngày nay. Vì vậy, nhà thơ muốn “nhốt gió
ngày xưa” – níu giữ lại, đừng để gió cuốn đi nhịp sống êm đềm trong quá khứ.
2.2.2. Cá i tôi cô đơn, nhỏ bé
Cuộc sống hiện đại tấp nập, ồn ào, náo nhiệt nhưng chính trong hiện thực
đời thường đang diễn ra trước mắt ấy, con người – đặc biệt là tâm hồn của
những người làm thơ – lại luôn cô đơn. Ban đầu với họ sự cô đơn ấy cũng chỉ
là một cảm giác bình thường lẫn trong muôn vàn những xúc cảm khác:
Này
Sự đơn độc có gì đáng ghê ?
(Phạm Văn Vũ – Rượu mà cũng thở dài)
Nhưng dần dần họ cảm thấy không phải vậy, cái cô đơn kia cứ trở đi trở
lại qua mỗi ngày khi họ nhìn vào cuộc sống và khi họ nhìn vào chính lòng
mình. Để từ đó, họ bơ vơ và thảng thốt đi tìm những điều lấp đầy khoảng trống
trong lòng nhưng cuộc tìm kiếm đó cứ mãi dang dở. Và chính từ đó thơ của các
cây bút trẻ Thái Nguyên mang cái tôi cô đơn, nhỏ bé rõ nét.
Nguyễn Nhật Huy trong bài thơ Khói đã nói về một tâm trạng cô đơn của
cái tôi giữa cuộc đời:
Đi nửa đời nứt nẻ
Mà đường cày con không thuộc nổi
Nỗi cô đơn bấm xuống thành hạt ngô khoai
(Nguyễn Nhật Huy – Khói)
Nỗi cô đơn của nhà thơ được miêu tả tỉ mỉ, hiện hình thành sự vật cụ thể:
“Nỗi cô đơn bấm xuống thành hạt ngô khoai”. Con người lớn lên từ những kỉ
44
niệm tuổi thơ trong trẻo như khúc hát, vị ngọt thơm của khoai sắn vùi rơm, mùi
khói thơm nhưng đi qua “nửa đời nứt nẻ” mà không thể thuộc nổi một điều
quen thuộc: “đường cày”. Những hình ảnh trong thơ đều là những hình ảnh
quen thuộc, gần gũi, gắn liền với nông thôn Việt Nam, gắn liền với một cuộc
sống rất đỗi bình dị của con người. Những giữa dòng đời tấp nập hôm nay, khi
nghĩ về những điều bình dị ấy, phải chăng con người lại cảm thấy nó xa lạ,
những điều tưởng chừng thân quen mà lại không hề thuộc nổi. Tâm lí ấy khiến
con người cảm thấy cô đơn, trống trải, cảm thấy mình lạc lõng ngay trong thế
giới của chính mình.
Một lần khác, trong bài thơ Tưởng tượng, cây bút Nguyễn Nhật Huy
cũng nói về tâm trạng cô đơn, lạc lõng của chính mình:
Khi trí tưởng tượng vừa lưng chừng ngọn cây
Một viên đạn bắn xuyên đôi cánh
Tôi không biết họng súng nằm đâu
Trong giấc mơ tôi kẻ thủ ác mỉm cười
Họng súng đen
Và viên đạn đẫm tưởng tượng nằm đó
(Nguyễn Nhật Huy – Tưởng tượng)
Con người lo lắng, bất an không chỉ khi đối diện với một điều đáng sợ
bên ngoài xã hội mà lo lắng, hoảng sợ ngay cả trong giấc mơ của chính mình.
Nhưng từ đâu khiến con người bất an ngay cả trong những giấc mơ? Có lẽ,
giữa cuộc sống hiện đại quá nhiều bon chen, xô bồ này, con người sống vẫn
cảm thấy mình cô đơn khi không có được một tiếng nói đồng cảm, sẻ chia,
không tìm được những con người hiểu thấu trái tim mình. Con người lo lắng –
không phải chỉ ở cuộc sống thực tại – mà nỗi lo lắng ấy ám ảnh cả trong những
giấc mơ. Tâm trạng cô đơn, sự cảm thấy mình nhỏ bé giữa dòng đời ấy có thể
không gọi thành tên, nhưng nó là một tâm trạng cứ trở đi trở lại và hằn sâu
trong kí ức, trong tiềm thức của con người khiến người ta ám ảnh ngay cả trong
giấc ngủ. Hình ảnh “kẻ thủ ác mỉm cười”, “họng súng đen”, “viên đạn đẫm
45
tưởng tượng” trong giấc mơ càng làm sâu sắc thêm ấn tượng về cảm giác cô
đơn, lạc lõng con người giữa cuộc sống đời thường. Và trước nỗi bất an ấy
trong giấc mơ, con người lựa chọn một hành động:
Tôi bỏ mặc trí tưởng tượng nằm đấy mà đuổi
theo phía bóng đêm
Tiếng kêu sau lưng thoi thóp vừa chui ra từ vỏ trứng
Giật mình tỉnh dậy
Khẩu súng trong tay mình vẫn bắn vô thanh
(Nguyễn Nhật Huy – Tưởng tượng)
Dẫu cho tất cả chỉ là giấc mơ song nỗi ám ảnh ấy khiến tâm trạng con
người rơi vào trạng thái khủng hoảng đến hãi hùng. Một bóng đêm mơ hồ mà
con người dù không biết nó là gì nhưng vẫn đuổi theo, một “tiếng kêu thoi
thóp” và cả “Khẩu súng trong tay mình vẫn bắn vô thanh” là bằng chứng cho
nỗi hoảng sợ của con người trước một giấc mơ ám ảnh, mà có lẽ những điều ấy
bắt nguồn từ chính cuộc sống hiện đại mà con người đang sống. Nếu không có
những bon chen, những dồn nén trong cuộc sống đời thường thì liệu con người có
ám ảnh, có tưởng tượng về những điều ghê sợ ngay trong giấc ngủ của mình?
Và sự cô đơn còn được đẩy lên đến đỉnh điểm khi con người càng cố
gắng bước đi để thoát khỏi sự lẻ loi, càng mong ngóng tìm được người đồng
hành trên con đường cuộc đời thì kết quả nhận được lại là con số không lạnh
lùng. Không người đi bên cạnh, không ai ở phía sau và phía trước càng không
có ai đợi chờ:
Gạt gió bước đi
Chân tóc buôn buốt
Sau con đường bụi
Ai đợi mình không
46
(Phạm Văn Vũ – Báo tin)
Đó có lẽ không phải vấn đề của riêng nhà thơ mà là tâm lý chung, ám
ảnh chung của một lớp người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong cuộc sống hiện đại
hôm nay.
Bên cạnh cái tôi cô đơn, nhỏ bé trước cuộc đời thì các nhà thơ trẻ cũng
mang trong mình nỗi cô đơn, cảm giác nhỏ bé trong tình yêu:
Bậc thang nhà không anh bước lên
Em buồn thương chín bậc
Nương nhà không anh ghé thăm
Em chưa cần trỉa bắp
Con dao thì cùn rồi
Cái bếp nhà hết củi
Máng nước vừa vỡ bong…
Em nhớ tàn khói bếp
Em nhớ mùi mồ hôi
Đợi anh về
Gieo hạt cùng em…
(Nguyễn Doãn Long – Anh)
Sự mong mỏi “anh” trở về, bao lần ngỡ anh về khi nghe một tiếng gió
thổi lay vách nhà khe khẽ hay tiếng gió rít trong đêm trăng, nghe tiếng khèn
trong hơi sương khàn bạc. Sự thiếu vắng “anh” khiến cho cả không gian và tâm
hồn “em” cảm thấy thiếu vắng, trống trải, cô đơn bất tận. Những nơi thân thuộc
nhất như ngôi nhà nơi ta sống hàng ngày hay bậc thang khi không có bước chân
anh cũng trở nên ảm đạm. Những nơi gắn liền với cuộc sống lao động hàng
ngày như nương ngô, không có anh cũng trở nên vô nghĩa – “Em chưa cần trỉa
bắp”. Khi thiếu vắng “anh”, mọi không gian quen thuộc với cuộc sống sinh
hoạt và lao động hàng ngày đều trở nên trống trải, cô đơn, đều khiến “em” cảm
thấy buồn thương khắc khoải. Cảm giác cô đơn ấy bao trùm cả không gian và
47
xâm chiếm cả tâm hồn của nhân vật “em”.
Thiếu vắng “anh” không đơn thuần chỉ là cảm giác cô đơn, trống trải mà
hơn thế nữa còn là thiếu vắng đi những sự đỡ đần rất cần thiết trong cuộc sống.
Khi không có bàn tay anh, cuộc sống thường ngày dường như đảo lộn: con dao
thì cùn không có ai mài, bếp nhà hết củi không có ai lấy, và máng nước vỡ
cũng không có ai sửa… Giữa ngôi nhà quen thuộc của chính mình, giữa những
sự vật thân quen trong cuộc sống nhưng con người vẫn cảm thấy cô đơn vì
thiếu đi ngọn lửa ấm áp, thiếu đi người truyền hơi ấm, đưa linh hồn vào cuộc
sống. Và trong không gian thân thuộc ấy, “em” nhớ về những điều rất gần gũi
hiện hữu khi trước đây có “anh”: nhớ tàn khói bếp, nhớ mùi mồ hôi… Những
điều bình dị ấy trước đây con người ta có thể không chú ý đến, nhưng đến nay
khi thiếu đi anh mới cảm thấy nó thân thương đến nhường nào. Giờ đây, em
đợi anh về để cùng em làm tiếp những công việc trong cuộc sống thường ngày:
“Gieo hạt cùng em”. Gieo hạt ở đây còn là gieo mầm sống, gieo niềm vui, niềm
tin vào cuộc sống. Bao trùm bài thơ của Doãn Long là nỗi cô đơn, cảm giác
trống vắng, lẻ loi nhưng kết thúc bài thơ vẫn là niềm tin, hi vọng vào những
điều tốt đẹp. Chính vì vậy, bài thơ dẫu buồn nhưng không bi quan mà vẫn
hướng về ánh sáng, chan chứa niềm tin trong cuộc sống.
Trần Thị Nhung là cây bút có giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, hướng vào
những cung bậc cảm xúc của trái tim người phụ nữ. Trong những cảm xúc ấy là
iếng nói cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng của một trái tim phụ nữ trong tình yêu trong
hoàn cảnh đất nước chiến tranh được thể hiện qua bài thơ Cổ tích Khau Áng:
Chiều Khau Áng nắng rối lòng mưa Đường mòn thênh thang vô cớ Mua rừng tím nở Tím bầm nỗi nhớ nhung
Một ngày nên nghĩa vợ chồng Em chiều lòng duyên nợ Thời chiến chinh, mua rừng cũng hóa cô phụ Ngày mai anh đi
48
(Trần Thị Nhung - Cổ tích Khau Áng)
Chiến tranh khiến người ra đi không bao giờ trở lại, chỉ còn lại là nỗi
đau khôn nguôi cho những người ở lại ngóng trông:
Chiều Khau Áng, gió rối lòng mưa
Cánh mua ngậm đầy nước mắt
Ầng ậng lòng em.
Viên đạn chiến tranh, quay cuồng duyên nợ
Hoa ở lại với núi đồi bất tử
Người đi vào hư vô.
(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)
Mất mát, đau thương là thực tế gắn liền với mỗi cuộc chiến tranh: mất
mát vật chất, mất mát tinh thần, mất mát cả về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Đạn bom chiến tranh không chỉ gieo đau thương trên chiến trường ác liệt mà
còn nỗi đau phủ đầy đất nước, ngay cả ở những điều riêng tư nhất là tình yêu
đôi lứa: “Viên đạn chiến tranh, quay cuồng duyện nợ”. Lời hứa trước lúc ra đi
được trả lời bằng đáp án: “Hoa ở lại với núi đồi bất tử/ Người đi vào hư vô”.
Dường như bài thơ Cổ tích Khau Áng của tác giả Trần Thị Nhung là một
câu chuyện về tình yêu nhưng câu chuyện ấy lại không có một hồi kết có hậu
với hạnh phúc, đoàn tụ mà nặng lòng thay lại là sự cô đơn dồn ứ đến đau xót.
Hay đó còn l à sự cô đơn, lặng lẽ từ những đêm đứng khoanh tay bên cửa
sổ của người phụ nữ đến sau “người vợ cả”:
Đứng nhìn sao trốn vào lòng trời cùng kiệt
Bước chân thời gian đi miết... qua em
(Dương Thu Hằng - Người vợ cả)
Và sự cô đơn, nhỏ bé của người con gái tha thiết trong tình yêu nhưng lại
gặp phải một tình yêu “chung chiêng” nên buộc lòng phải từ bỏ dù đau đớn đến
49
vô cùng:
Thôi đi về phía ấy đi anh
Để em một trái tim lành vẹn nguyên
Trách chi kiềng bếp chung chiêng
Ba chân thì vững, chuyện riêng thì đừng
Yêu thương bởi chút muối gừng
Gừng cay muối mặn đã từng vì ai
Trên tay là tháng là ngày
(Vũ Thị Tú Anh – Lặng lẽ)
Để lí giải một cách cặn kẽ cho cái tôi cô đơn, nhỏ bé trong sáng tác của
các cây bút trẻ Thái Nguyên có lẽ không dễ nhưng cũng không khó để thấy
xuất phát của cái tôi cô đơn ấy đôi khi là sự mất niềm tin vào con người, vào
những khuất lấp của bức tranh cuộc sống. Cô đơn, hụt hẫng khi họ đứng giữa
những cuộn xoáy của cuộc đời mà trong những cuộn xoáy ấy những thứ thuộc
về vật chất là yếu tố chi phối tất cả đích đến. Có lẽ bởi vậy nên cái tôi cô đơn
trở đi, trở lại thành một ám ảnh trong sáng tác của họ. Cô đơn trong chính lòng
mình với nhiều cung bậc và sắc thái.
2.2.3. Cá i tôi trên hành trình tự ý thứ c
Cùng với sự trôi chảy của thời gian, con người cũng từng bước trưởng
thành và tự rút ra cho mình những bài học chiêm nghiệm về cuộc sống. Trên
hành trình ấy, con người tự ý thức về cái tôi cá nhân và dần tìm ra lối đi riêng
của chính mình.
Trong cuộc trò chuyện với Phạm Văn Vũ, nhà thơ Nguyễn Nhật Huy
từng chia sẻ: “Nhiều bậc cha mẹ, sau những năm tháng đói khổ bao cấp, đã
quá chăm bẵm những đứa con của mình như một sự bù đắp. Những đứa trẻ ấy
lớn lên trở nên yếu ớt, ích kỷ và bước ra cuộc sống chúng hoàn toàn mất
phương hướng trước cuộc đời. Gần đây người ta hay nhắc đến khái niệm
“những đứa trẻ tuổi 30” cũng vì như vậy. Suốt mười năm đầu tuổi trẻ, tôi
50
luôn đi tìm câu hỏi tại sao. Tại sao thế giới mà tôi được dạy từ khi bé và thế
giới thực tế nó khác nhau đến vậy. Đó giống như một sự mất mát niềm tin”
[48]. Tuy nhiên, khi nói về bài thơ Mặt trời, nhà thơ Nguyễn Nhật Huy rất
thích hình ảnh dây leo bám vào vách đá leo lên và trên cao là mặt trời và
nhận xét: “Dù thế nào chúng ta vẫn phải sống” [48]. Mười năm đầu tuổi trẻ,
nhà thơ băn khoăn đi tìm câu hỏi tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa thế
giới mình được dạy từ khi còn bé và thế giới thực tế mà nhà thơ đang sống.
Sự khác biệt ấy có lẽ làm con người mất niềm tin vào cuộc đời, bởi cuộc đời
thực không giống với những gì mà người ta tưởng tượng và mong ước. Tuy
nhiên, như vậy không có nghĩa là quá bi quan bởi vì dẫu sao con người vẫn
phải sống. Và để sống một cách có ý nghĩa thì phải tìm ra con đường đi của
riêng mình, một cái tôi đủ bản lĩnh giữa cuộc đời. Trên hành trình tìm kiếm
không ngừng nghỉ ấy, con người tự ý thức và chiêm nghiệm về những điều
trong cuộc sống. Bài thơ Mặt trời của tác giả Nguyễn Nhật Huy thể hiện một
cái tôi trên hành trình tự ý thức:
Mỗi ngày sau những thử nghiệm
trong căn phòng những bông hoa lịm đi
màn đêm đánh gục cả những chiếc lá kiên cường nhất
(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)
Cuộc sống là một chuỗi ngày thử nghiệm không ngừng để tìm được một
lối đi phù hợp, tìm thấy ánh sáng và tìm ra chân lý cho riêng mình. Nhà thơ ví
mình như những dây leo, dù nhỏ bé nhưng kiên cường bám trụ trong cuộc
sống. Sau những trải nghiệm mỗi ngày, con người ta có thể mệt mỏi như
“những bông hoa lịm đi” nhưng không vì thế mà chịu khuất phục và gục ngã:
nhưng chỉ cần một giọt nhựa
thì bình minh vẫn thức dậy như mọi ngày
bình minh gọi tôi bám tiếp vào những vách đá mà tồn tại
51
(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)
Ý chí, nghị lực và sự kiên cường là những nét rất đặc trưng có thể nhận
ra từ hình ảnh dây leo bám vào vách đá trong bài thơ. Vì sao mà dây leo vẫn
luôn bám trụ và vươn lên? Bởi lẽ trên cao kia là ánh sáng mặt trời đang soi
chiếu, là cái đích cuối cùng muốn vươn tới. Dù cho “màn đêm đánh gục cả
những chiếc lá kiên cường nhất” thì khi bình minh thức dậy, khi một ngày mới
bắt đầu, “bình minh gọi tôi bám tiếp vào những vách đá mà tồn tại”. Con người
dẫu cho bi quan đến đâu, dẫu có bị vùi dập đến đâu thì vẫn cần sống tiếp, và
phải sống sao cho thật ý nghĩa:
giọt nhựa chảy ra từ tâm trí
sau những nhát chém phũ phàng
giọt nhựa chảy ra từ đôi mắt
sau những giờ phút tĩnh lặng
bình minh lại mọc
và khoác lên vai huy hiệu của cuộc sống
chỉ còn một giọt nhựa
lòng mình vẫn bám rễ mà leo lên
trên cao
mặt trời vẫn dang tay rộng lắm
(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)
Hình ảnh “giọt nhựa chảy ra từ tâm trí” như những điều tâm huyết từ tận
sâu thẳm trái tim và khối óc của con người, nhưng những điều ấy có thể bị cuộc
sống này vùi dập bằng “những nhát chém phũ phàng”. Tuy nhiên, thời gian vẫn
không ngừng trôi chảy, cuộc sống vẫn không ngừng tiếp diễn, và mỗi khi bình
minh thức dậy, ngày mới bắt đầu, một nhịp sống mới lại mở ra để con người
tiếp tục vươn lên và khẳng định chính mình. Điều không thay đổi trong cuộc
sống là mặt trời vẫn luôn ở trên cao và soi sáng khắp mặt đất, vì vậy dẫu chỉ
nhỏ bé, yếu ớt, dẫu cho chỉ còn “một giọt nhựa” thì đó vẫn là mầm sống để
52
vươn lên, hướng về ánh sáng. Khi cuộc sống chưa lụi tắt hoàn toàn thì con
người không thể gục ngã, dẫu đó chỉ là những mầm sống yếu ớt như những giọt
nhựa thì vẫn “bám rễ mà leo lên”. Từ bài thơ Mặt trời, một lần nữa cho ta rõ
hơn cảm quan về sự mất mát trong sáng tác của Nguyễn Nhật Huy. Tuy nhiên,
dẫu cuộc đời đầy rẫy những điều bi quan thì nhà thơ lại tìm thấy niềm tin trong
cách sống, cách làm việc của chính mình. Cuộc sống là vươn lên không ngừng,
sáng tác thơ cũng là một quá trình tự hoàn thiện và khẳng định cái tôi cá nhân.
Sự thành công và vị trí của Nguyễn Nhật Huy trong nền thơ trẻ Thái Nguyên
hôm nay là sự khẳng định cho những cố gắng bền bỉ, không mệt mỏi của một
con người luôn hướng về những giá trị chân chính trong văn chương và cả
trong cuộc sống.
Nói đến thơ trẻ Thái Nguyên không thể không nhắc đến tên tuổi của một
tác giả rất tiêu biểu là Phạm Văn Vũ. Thơ anh đi theo khuynh hướng tìm tòi
những cách tân nghệ thuật mới mẻ, đổi mới cả về nội dung và hình thức. Hành
trình tìm tòi những cách tân nghệ thuật cho thơ ca cũng là hành trình nhà thơ tự
ý thức về chính mình, tự chiêm nghiệm về cuộc sống:
Người khổ không biết mình sướng
Người sướng không biết mình khổ
Ai đó
Không biết mình sướng hay khổ
Hạnh phúc?
Câu hỏi làm ta bối rối
Câu hỏi không có tội
Như đinh ốc xoáy trong đầu
Vặn không vào rút không ra
Điều có thật mà không thể
Giờ mới hay mình không hay.
53
(Phạm Văn Vũ – Điều chưa định nghĩa)
Sướng – khổ vốn dĩ là những phạm trù đối lập trong đời sống, nhưng
những điều tưởng chừng như đối lập ấy đôi khi lại không phải vậy: người khổ
không biết mình sướng, người sướng lại chẳng biết mình khổ. Mọi giá trị
không có gì là tuyệt đối mà tất cả dường như đều mơ hồ. Câu hỏi “Hạnh phúc
là gì?” tưởng chừng như đơn giản nhưng lại không thể trả lời sao cho đúng, câu
hỏi ấy khiến ta “bối rối”. Phạm Văn Vũ đã sử dụng những hình ảnh so sánh rất
hình tượng: “Như đinh ốc xoáy trong đầu/ Vặn không vào rút không ra”. Ở một
hoàn cảnh mà con người bối rối, lúng túng không thể trả lời cho một câu hỏi
tưởng như đơn giản: “Hạnh phúc là gì?”. Chính vì vậy, định nghĩa một giá trị là
điều không dễ dàng gì trong cuộc sống. Những điều con người tưởng như mình
đã biết thì giờ mới nhận ra “Giờ mới nhận ra mình không hay”.
Cuộc sống là một quá trình tìm tòi, trải nghiệm để từ đó con người tự rút
ra những bài học, những điều cần thiết cho bản thân. Từ việc định nghĩa về
hạnh phúc trong cuộc sống, con người mới tự nhận thấy những điều mình
tưởng rằng đã biết thì thực ra lại chưa hề biết. Điều ấy thôi thúc cái tôi con
người từng bước đi tìm những gì là giá trị, định nghĩa những phạm trù của cuộc
sống và từng bước tự ý thức về chính mình.
Từ những suy tư, trăn trở, mỗi nhà thơ từng bước ý thức về cuộc sống, về
thế giới và quan trọng hơn hết có lẽ là về chính mình. Phan Thái từ hình ảnh
con chim bị nhốt trong lồng vẫn hót vui đón bình minh mỗi sáng đặt trong sự
đối lập với đời sống hiện đại đã nhận ra những chân lý trong cuộc sống:
Mấy ai hiểu trong mồ hôi nước mắt
Có bao phần đắng ngọt mong manh
Người tử tế không bởi quần áo đẹp
Kẻ tiện nhân gáo vỡ đẽo môi lành
Vấp bụi phố vịn lời ru của mẹ
Mới hay dại khôn không khép những chân trời
Bước nhân thế bao lở bồi, được mất
Ông nọ bà kia… đâu phải đã nên người.
54
(Phan Thái – Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)
Cuộc sống hiện đại nhiều khi con người lẫn lộn giữa hư danh và thực tế.
Mọi giá trị không xác lập bằng vẻ bề ngoài mà bằng những giá trị bên trong
con người. Chính vì vậy, bộ quần áo đẹp không khiến con người trở thành tử tế,
“Người tiện nhân gáo vỡ đẽo môi lành”. Và trong dòng tấp nập của cuộc sống,
con người nhận ra cuộc sống luôn vận động với bao “lở bồi, được mất” nhưng
“ông nọ bà kia” – địa vị xã hội, giàu sang phú quý… chưa hẳn đã quy định bản
chất con người ấy như thế nào. Giá trị con người không nằm ở bộ quần áo đẹp,
ở địa vị xã hội nhưng rõ ràng cuộc sống vẫn dùng những tiêu chí ấy để đánh
giá, phán xét, nhìn nhận về con người. Giữa xô bồ của đời sống, con người tìm
về sự bình yên, thanh thản, những giá trị thực sự trong lời ru của mẹ. Nhưng
cuộc sống vẫn cứ là cuộc sống, tuổi thơ với lời ru êm đềm qua đi không thể nào
trở lại. Giữa cuộc sống hôm nay, con người lại càng hiểu hơn những giá trị của
quá khứ, càng trân trọng hơn lời ru câu hát của mẹ để rồi hiểu đời và tìm cho
mình một lối sống:
Nếu chỉ sống chắc gì tồn tại
Lộng ngôn tình chưa hẳn đã yêu
Mắc câu ru giữa bình yên chim hót
Chợt thấy mình chưa lớn được bao nhiêu!
(Phan Thái – Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)
Bằng những trải nghiệm trong đời sống, con người mới nhận ra những
điều tưởng chừng như đúng, như chân lý thực ra lại không hề đúng. Sống và
tồn tại, ngôn tình và yêu là những trạng thái hoàn toàn không đồng nhất. Điều
con người mong muốn là sự “tồn tại” có ý nghĩa thực sự chứ không chỉ là sự
“sống” vô nghĩa lý; là “tình yêu” chứ không đơn thuần chỉ là “ngôn tình” với
sáo rỗng cảm xúc. Chính trong hoàn cảnh ấy, con người tự nhận ra mình dù có
lớn nhưng thực ra lại “chưa lớn được bao nhiêu” – chưa đủ hiểu đời, hiểu cuộc
sống, hiểu chính mình. Sự trưởng thành của con người không đo bằng tuổi tác
55
mà đo bằng sự trưởng thành của trí tuệ, của tâm hồn, sự trưởng thành để con
người tồn tại như một con người thực sự, đó mới là điều mà con người cần
vươn tới trong cuộc sống.
* Tiểu kết chương 2:
Cảm hứng thế sự là một cảm hứng nổi bật trong sáng tác của các cây bút
trẻ Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long là những tác
giả tiêu biểu cho cái tôi thế sự giàu chất suy tư, luôn trăn trở, suy ngẫm trước
những điều đang diễn ra trong cuộc sống. Trước sự thay đổi những chuẩn mực
giá trị của cuộc sống hiện đại, con người đôi khi giật mình thấy bản thân lạc
lõng giữa thế giới và cô đơn trong chính mình.
Với hai tác giả Phan Thái và Trần Thị Nhung, nét nổi bật hơn cả có lẽ là
ở cái tôi trữ tình trong trẻo, hồn nhiên được thể hiện bằng một giọng điệu thơ
nhẹ nhàng, đằm thắm, sâu lắng, hướng về những giá trị truyền thống, sử dụng
những chất liệu sáng tác truyền thống từ thể thơ đến hình ảnh, ngôn ngữ. Bên
cạnh đó, cùng với nét hồn nhiên, trong trẻo, mỗi nhà thơ còn cho người đọc
một góc nhìn khác, một cảm nhận về những suy tư, trăn trở hay cảm giác cô
đơn, nhỏ bé trong cuộc sống.
Có thể nói, nét riêng trong việc lựa chọn đối tượng phản ánh đã làm
nên những đặc sắc cho sáng tác của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Chính điều
đó đã góp phần vào sự thành công cũng như khẳng định bước đi vững chắc
của thơ trẻ Thái Nguyên trong hành trình phát triển chung của thơ trẻ Việt
56
Nam đương đại.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN
3.1. Về ngôn ngữ
3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc
Ngôn ngữ là một phương diện quan trọng trong thế giới nghệ thuật thơ
ca. Thơ ca nói riêng, văn học nói chung là loại hình nghệ thuật ngôn từ, sử
dụng ngôn ngữ làm chất liệu sáng tác. “Đó vừa là tiếng nói chân thực, giàu có
của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói bay bổng của trí tưởng tượng diệu kì,
lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động. Chiều sâu của sức suy
nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh tế của sức sáng tạo, những trạng thái rung
động của tâm hồn… tất cả, tất cả chỉ có thể đến được với người đọc thông qua
vai trò của ngôn ngữ” [21, tr.361]. Ngôn ngữ là chiếc cầu nối đưa chúng ta
bước vào thế giới phong phú, muôn màu của tâm hồn nhà thơ. Không đi qua
cây cầu ngôn ngữ đó, người đọc không thể tiếp cận và khám phá thế giới nghệ
thuật trong thơ ca nói riêng và trong tác phẩm văn học nói chung.
Ngôn ngữ thơ ca là sự biểu hiện tập trung nhất của tính hàm súc trong
ngôn ngữ. Có thể nói, đặc điểm riêng của thơ ca là dung lượng tác phẩm không
lớn, chính vì vậy ngôn ngữ trong thơ bao giờ cũng là sự chắt lọc và hàm súc
đến mức tối đa. “Mỗi bài thơ thể hiện một niềm vui, một nỗi buồn, một niềm
hứng khởi, một mối lo lắng, suy tư nên nó thường được thể hiện ngắn gọn, cô
đọng. Đọc bài thơ là cách để tiếp xúc với tâm hồn nhà thơ qua ngôn từ. Dung
lượng bài thơ càng nhỏ, lượng thông tin và chất cảm xúc càng được nén chặt.
Lời càng ít mà nén thì ý càng nhiều và phong phú, sức gợi càng mạnh mẽ” [42,
tr.49]. Ngôn ngữ trong một bài thơ hay phải cô đọng và giàu sức biểu hiện. Một
câu thơ cô đọng, súc tích chứa đựng biết bao điều muốn nói trong thẳm sâu trái
tim nhà thơ, như chạm đến tận đáy cùng của chiều sâu cảm xúc. Câu thơ cô
đúc, ngắn gọn, số từ hạn định nhưng biên độ của sự biểu hiện lại vô cùng rộng
lớn. Ngôn ngữ trong thơ là kết quả của “Một sự tìm tòi công phu, cân nhắc kĩ
57
lưỡng, chọn lọc có sáng tạo” [21, tr.362].
Mỗi nhà thơ sáng tạo cho mình một thế giới ngôn ngữ riêng, phù hợp với cái tôi, cá tính sáng tạo và phong cách trong sáng tác để phản ánh đầy đủ, sâu sắc và trọn vẹn nhất những điều mình muốn nói. Nhà thơ trong sáng tác luôn đặc biệt chú ý đến sự chọn lọc và tìm tòi chữ nghĩa để thể hiện cho thật trọn vẹn, thật đầy đặn cái hồn, cái cốt lõi của mỗi câu thơ, bài thơ. Sự chọn lọc thể hiện trong ngôn ngữ thơ không chỉ đảm bảo thể hiện được chính xác một nội dung, gợi lên chính xác những điều nhà thơ muốn nói mà còn phải sáng tạo và tinh tế. Thông qua sự chọn lọc ngôn ngữ, “nhà thơ vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc của ngôn ngữ đời sống lại vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo” [21, tr.366].
Trong sự phát triển không ngừng của thơ ca đương đại, mỗi nhà thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng đều cố gắng lựa chọn cho mình một phong cách, một hướng đi để tạo cho thơ của mình tiếng nói riêng. Có những tác giả sáng tác bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, hướng về những điều bình dị của cuộc sống đời thường như Doãn Long, Dương Thu Hằng hay Phan Thái…
Doãn Long là tác giả tiêu biểu cho điều này, thơ anh mang hơi thở của
thơ ca truyền thống, đặc biệt ở phương diện ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị.
Trong thơ của Doãn Long, ta rất hay bắt gặp ngôn ngữ thơ mộc mạc, chân chất như những gì quen thuộc trong thơ ca truyền thống. Những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống đời thực của chính anh, những gì gắn với nông thôn, miền núi đều đi vào thơ một cách tự nhiên nhất. Trong các sáng tác của anh, ta có thể bắt gặp hình ảnh cuộc sống lao động và thói quen của người miền núi:
Người Mông lấy ngô làm gạo Đãi khách Mèn mén thay cơm Khách đến thì quý Người Mông bận rộn lời mời. Thơm lâu như mùa Thắng cố Núi rừng nhuộm váy người Mông Nợ tình hẹn nhau xuống chợ Ướt đầm mắt Khau Vai!
58
(Doãn Long – Người Mông)
Cuộc sống bình dị của đồng bào dân tộc Mông với những nét đặc trưng
rất riêng biệt không thể lẫn như lấy ngô làm gạo, ăn mèn mén thay cơm, những
đặc sản như món thắng cố, những bộ trang phục rực rỡ sắc màu cùng với tấm
lòng hiếu khách, phong tục đi chợ tình. Cuộc sống bình dị ấy được nhà thơ
Doãn Long thể hiện bằng những ngôn ngữ mộc mạc nhất. Doãn Long không
nói những gì xa lạ, những gì quá mới lạ nhưng chỉ bằng việc tìm về những nét
văn hóa truyền thống bằng thứ ngôn ngữ giản dị ấy đã tạo cho thơ anh một
giọng điệu riêng, dù truyền thống nhưng không hề “cũ” mà vẫn khiến người
đọc yêu thích, say mê.
Ngôn ngữ thơ ấy không chỉ được thể hiện ở cách miêu tả cuộc sống đời
thường mà còn thể hiện trong cách bộc lộ tình yêu:
Em bả o nếu thương nhau thật
Phải lấy được nước dướ i chân nú i kia Vượt qua đồi Khau Dục
Lấy được lá thơm đem tắ m?
(Doãn Long – Yêu nhau thì lên núi)
Những câu thơ tâm tình bằng ngôn ngữ mộc mạc như lời ăn tiếng nói
hàng ngày, qua đó tình yêu hiện lên rất đỗi bình dị. Cách nói trong thơ cũng
mang hơi thở của cuộc sống con người miền núi, sự chân thành trong tình yêu
cũng được đong đếm bằng việc lấy được nước dưới chân núi, vượt qua đồi cao,
lấy được lá thơm đem tắm… Ngôn ngữ trong thơ Doãn Long cũng giản dị như
chính cuộc sống mà nhà thơ miêu tả.
Thơ Doãn Long không chỉ đặc biệt với nét nhẹ nhàng, trong trẻo, mang
màu sắc truyền thống qua hình ảnh, biểu tượng trong thơ mà hơn thế nữa, ngôn
ngữ, cấu trúc, nhịp điệu trong thơ anh cũng đậm dấu ấn thi pháp thơ ca truyền
thống. Doãn Long không hướng đến những cách tân táo bạo, những sự mới lạ
trong cách làm thơ nhưng thơ anh vẫn tạo được dấu ấn riêng biệt, có sức hấp
59
dẫn riêng bởi một giọng thơ không quá khác lạ nhưng ấn tượng. Có những bài
thơ của Doãn Long, thể thơ năm chữ truyền thống với vần điệu nhịp nhàng
được nhà thơ sử dụng:
Thu gử i màu bông cú c
Gieo hạt nắng vườ n ươm
Chuồn kim se sợi ó ng
Bưởi ngẩn ngơ sau vườ n.
Em dà i hơn bím tó c Sông cong mềm bờ trăng
Anh một mùa cho tuổi
Trờ i sao đêm dát và ng.
Em để quên đá y mắ t Nơi cá nh đồng tuổi thơ Liềm trăng đau đáu cắ t
Những dại khờ vu vơ.
Thu một đời vẫn thế
Ngườ i năm xưa đã già Trăng trọn đời mãi trẻ Anh tìm mù a đã xa…
(Doãn Long – Thu)
Từ chủ đề mùa thu – một chủ đề quen thuộc của thi ca gắn với những
hình ảnh thơ rất điển hình: bông cúc, ánh trăng vàng…; từ thể thơ năm chữ
chuẩn mực, đảm bảo về số chữ trong mỗi câu thơ đến vần điệu nhịp nhàng,
uyển chuyển. Tất cả những điều đó cho người đọc một cảm nhận trọn vẹn về
một bài thơ được sáng tác theo khuynh hướng truyền thống, từ nội dung cho
60
đến hình thức nghệ thuật. Không chỉ riêng bài thơ Thu, đọc nhiều sáng tác của
Doãn Long, người đọc cũng thấy những hình ảnh rất gần gũi, quen thuộc,
những câu thơ với nhịp điệu nhịp nhàng, với tính nhạc vốn có trong thơ. Có thể
nói, Doãn Long là một trong số ít những nhà thơ trẻ Thái Nguyên lựa chọn đi
theo khuynh hướng truyền thống, sáng tạo thơ ca bằng ngôn ngữ giản dị, mộc
mạc nhưng vẫn tạo được dấu ấn cho riêng mình.
Trong sáng tác của các cây bút trẻ Thái Nguyên thường sử dụng ngôn
ngữ mộc mạc, bình dị, bên cạnh Doãn Long còn phải kể đến Dương Thu Hằng,
điển hình như trong bài thơ Đã sắp qua mùa thu:
Đã sắp qua mùa thu
Hoa vàng dâng lối nhỏ
Những trái bàng chín đỏ
Hỏi em sao chưa chồng
Hai mùa thu phập phồng
Qua những làn gió mỏng
Ối bao vầng trăng cong
Trong mắt người thiếu nữ
Đã định rồi đấy chứ
Người xa người chưa về
Mưa vẹt một triều đê
Cỏ may ghim thương nhớ
Đã định rồi đấy chứ
Cửa sổ xanh vẫn mở
Nước giếng trong vắt chờ
61
Thảng thốt từng giấc mơ...
Lại đã sang mùa thu
Thản nhiên màu lá đỏ
Em bước qua ngõ nhỏ
Ngập nắng vàng tương tư
(Dương Thu Hằng – Đã sắp qua mùa thu)
Viết về tình yêu, về sự đợi chờ nhưng không phải với những ngôn từ thể
hiện cảm xúc bồn chồn của sự chờ đợi, đau đáu trong ngóng trông mà tình yêu
trong thơ Dương Thu Hằng lại được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ nhẹ nhàng, xuyến
xao của tâm hồn người thiếu nữ chưa chồng với trái bàng chín đỏ, làn gió mỏng
manh, hoa cỏ may. Còn với tác giả Vũ Thị Tú Anh, tình yêu đôi lứa cũng được chị
đưa vào thơ với những ngôn từ, hình ảnh trong trẻo, mộc mạc nhất:
Cầu vồng bảy sắc lung linh
Ánh mắt anh nhìn em chín đỏ
Mười niềm thương dạt dào suối nhỏ
Ơi cô gái có theo anh về
(Vũ Thị Tú Anh – Cầu vồng bảy sắc)
Cùng với Doãn Long, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh thì Phan Thái
cũng là một cây bút điển hình cho ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị:
Sớm chiều má nhọ bùn non
Đêm sương giá lại lo đon mạ gầy.
Bốn mùa trông đất trông mây
Bão giông bợt bạc rạc cây lúa mềm.
Nhọc nhằn quẩy nắng vào đêm
Làng như áo mẹ bạc thềm heo may.
Gió đi hoang trễ tràng ngày
62
Biết đâu muối mặn gừng cay ở đời.
Lo toan theo dọc kiếp người
Rạ rơm vương cả trong lời ru xanh
Tiếng cười chật nếp nhà tranh
Chẳng ai lấy cái rách lành để so
Bến sông ngơ ngác cánh cò
Qua cầu thèm tiếng “ơi đò”… xa xôi.
Trăm năm làng cũng da mồi
Trăng om chín cả mồi hôi trên đồng
Bờ đê cong nhịp gánh gồng
Mảnh ao lõm nắng phập phồng đợi mưa.
Ta về nhốt gió ngày xưa
Nhặt câu hát một thời chưa là mình.
Vốc trăng têm lại chữ tình
Cho thơ có một mái đình để neo!
(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)
Bài thơ lục bát với vần điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu tính nhạc,
giàu hình ảnh có cội nguồn từ ca dao, ngôn ngữ giản dị, đậm sắc màu truyền
thống… ta cảm nhận được một bức tranh làng quê thanh bình, yên ả, một bức
tranh mà ở đó chất họa thấm đẫm chất nhạc, chất thơ, âm vang lên qua từng
con chữ. Tác giả gợi ra không gian cho người đọc suy ngẫm, cho người đọc
đắm chìm vào trong thơ và cảm nhận bằng trái tim của mỗi người.
Trong hành trình phát triển không ngừng của thơ trẻ Thái Nguyên, rất
nhiều cây bút trẻ không ngừng sáng tạo, cách tân về mọi mặt trong đó có ngôn
ngữ để tạo nên dấu ấn riêng nhưng vẫn luôn có những tác giả lựa chọn sáng tác
63
bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc và tạo được dấu ấn riêng trong thơ. Từ sự tiếp
thu và kế thừa ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị trong thơ ca truyền thống nhiều
nhà thơ trẻ đã khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình trong lòng bạn đọc,
khẳng định được chỗ đứng của mình trong dòng chảy không ngừng của thơ ca
đương đại.
3.1.2. Ngôn ngữ lạ hóa
Cuộc sống hiện đại với xu thế hội nhập, với cái nhìn cuộc sống đa chiều
thôi thúc các nhà thơ, đặc biệt là thế hệ trẻ có những đổi mới và sáng tạo mới
mẻ. Bên cạnh một số nhà thơ trẻ Thái Nguyên sáng tác theo khuynh hướng
truyền thống thì cũng phải thấy rằng, rất nhiều nhà thơ lựa chọn cho mình
hướng đi theo khuynh hướng cách tân nghệ thuật thơ. Môi trường sống, hoàn
cảnh sống, lối sống của xã hội hiện đại đã mở ra cho người viết trẻ những đối
tượng nghệ thuật, đối tượng thẩm mĩ mới. Để thể hiện những đối tượng thẩm
mĩ mới của cuộc sống hiện đại, thơ ca cũng phải có những sự đổi mới về ngôn
ngữ. Nếu thơ truyền thống chú ý đến miêu tả thì các nhà thơ trẻ chú ý nhiều
hơn đến khả năng gợi, để người đọc tự mở ra thế giới rộng lớn bằng cảm nhận
riêng của mỗi người khi đọc thơ. Ngay từ đầu thế kỉ XXI, trong một số sáng tác
của các nhà thơ Thái Nguyên đã bước đầu sử dụng ngôn ngữ theo hướng lạ
hóa, chẳng hạn như trong các sáng tác của Hiền Mặc Chất, Lưu Thị Bạch Liễu,
Hồ Triệu Sơn…
Trong thơ Hiền Mặc Chất có những con chữ đột xuất:
Nhặt mảnh vỡ trăng
Ghép lại hoa Quỳnh
Lấp lánh âm dương
Khỏa hương thanh khiết
Biết giữ dòng thơm bằng gì?
(Hiền Mặc Chất - Mảnh vỡ trăng)
Hay tác giả Lưu Thị Bạch Liễu có những câu thơ thể hiện sự tìm tòi,
64
sáng tạo, thể hiện bằng những cách nói rất riêng:
Mình sẽ đi
Qua những con đường đuổi nhau bong bóng vỡ
Qua những dòng suối nhỏ
Qua đồi chè he hé mắt non
(Lưu Thị Bạch Liễu - Người yêu)
Có thể nói rằng, ngay từ đầu thế kỉ XXI, ngôn ngữ trong sáng tác của các
nhà thơ Thái Nguyên đã hướng đến sự sáng tạo, họ thổi vào những con chữ
quen thuộc một sức gợi tả bất ngờ. Đó cũng là những bước đi đầu tiên mở
đường cho xu hướng chuyển biến tích cực trong ngôn ngữ của các sáng tác thơ
trẻ giai đoạn sau, đặc biệt trong thơ trẻ Thái Nguyên hôm nay.
Sự chuyển đổi ngôn ngữ thơ từ tả sang gợi có thể coi là một cách tân
nghệ thuật của thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng và thơ trẻ đương đại nói chung.
Tuy nhiên, đối với các nhà thơ trẻ Thái Nguyên, ngôn ngữ thơ chưa có những
đột phá quá lớn nhưng đã có sự mới mẻ trong câu chữ, đồng thời sử dụng nhiều
hình tượng thơ mang tính ẩn dụ. Những nỗ lực cách tân nghệ thuật này có thể
tìm hiểu qua những sáng tác của các nhà thơ trẻ như Trần Thị Nhung, Gia Hân
hay tiêu biểu hơn là Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy.
Trần Thị Nhung là cây bút nữ tiêu biểu của thơ ca Thái Nguyên đương
đại. Với tâm hồn phụ nữ giàu cảm xúc, nhạy cảm, lắng đọng suy tư, trong thơ
Trần Thị Nhung chan chứa cảm xúc trữ tình, những rung cảm của chính tâm
hồn nhà thơ. Bài thơ Cổ tích Khau Áng tiêu biểu cho một tâm hồn phụ nữ giàu
cảm xúc được thể hiện trong thơ chị:
Chiều Khau Áng nắng rối lòng mưa
Đường mòn thênh thang vô cớ
Mua rừng tím nở
Tím bầm nỗi nhớ nhung
65
(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)
Tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ được biểu hiện qua hình ảnh mang tính
ẩn dụ: “hoa mua rừng”. Bằng việc sử dụng một hình ảnh rất gần gũi, quen
thuộc trong đời sống, bằng loài hoa đặc trưng của núi rừng, Trần Thị Nhung đã
diễn tả những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ thời chiến tranh. Hình ảnh
bông hoa mua rừng gắn với từng sự kiện, từng bước đi, từng cảm xúc của nhân
vật trữ tình. Bông hoa của núi rừng ấy như đang sống cuộc đời của chính người
phụ nữ trong thơ, là hình ảnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ:
Thời chiến chinh, mua rừng cũng hóa cô phụ
…
Em dùng dằng, nhàu bông hoa tím
…
Sức mạnh nào tím loài hoa dịu dàng ấy?
…
Cánh mua ngậm đầy nước mắt
…
Góa phụ tóc bồng ấp vào lòng bông hoa cũ
(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)
Từ một hình ảnh vốn dĩ rất quen thuộc trong cuộc sống của người miền
núi – hình ảnh hoa mua, nhà thơ đã có những sáng tạo mới mẻ, truyền cho bông
hoa ấy một sức sống, một linh hồn, như đang thổn thức những nỗi niềm của tác
giả. Bông hoa ấy tượng trưng cho hình ảnh của người phụ nữ thời chiến tranh,
người phụ nữ mòn mỏi chờ mong người chồng giữa mưa bom bão đạn của cuộc
chiến đấu ác liệt. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, bông hoa ấy – người phụ nữ
sinh ra từ núi rừng ấy vẫn kiên cường, mỏng manh nhưng chưa lỗi hẹn, vẫn đợi
chờ. Một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc đã nói được bao điều, đã diễn tả được bao
cung bậc cảm xúc từ hạnh phúc, chờ đợi, khắc khoải, đau thương, nhớ mong…
Bên cạnh Trần Thị Nhung, tác giả Gia Hân cũng có những sáng tạo về
66
ngôn ngữ rất thú vị. Trong thơ chị, những cách liên tưởng độc đáo, những ẩn dụ
ngôn ngữ được sử dụng rất sáng tạo. Đặc biệt trong bài thơ Cha, hình ảnh
người cha “Kết giọt mồ hôi cha đan áo cho con” thay cho người mẹ chỉ còn là
tấm hình, người cha “mắc cả thời gian trên chiếc xích lô” là những hình ảnh
gây xúc động mạnh mẽ với người đọc:
Hai mươi nhăm nhăm
Cha cất những hào hoa nhuộm mùi hoa cúc kê tấm hình của mẹ
Hai mươi nhăm nhăm
Kết giọt mồ hôi cha đan áo cho con
Con đã thấy…
Những đêm
Cha khum mình trong khói thuốc
Những ngày
Cha mắc cả thời gian trên chiếc xích lô
(Gia Hân – Cha)
Nói đến sự đổi mới, cách tân của thơ trẻ Thái Nguyên trên phương diện
đổi mới về ngôn ngữ thơ phải kể đến Phạm Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy. Họ
đã thành công với việc sử dụng thứ ngôn ngữ, hệ từ vựng mới, trong đó có
những từ ngữ là sản phẩm sáng tạo của chính nhà thơ.
Phạm Văn Vũ là nhà thơ người dân tộc Tày, quê ở huyện Định Hóa
nhưng anh không giống như một số nhà thơ khác tìm về khuynh hướng truyền
thống mà lại lựa chọn cho mình hướng đi theo khuynh hướng đi tìm những
cách tân nghệ thuật trong thơ, và trong đó không thể không kể đến những cách
tân, sáng tạo về phương diện ngôn ngữ. Điển hình như trong bài thơ Nhắn:
Về đây
Kể nhau nghe câu chuyện lặng lời
Biết rằng bận bịu làm người
Chẳng để dành đôi cuộc làm ta
67
(Phạm Văn Vũ – Nhắn)
Hoặc:
Đâu đó
Con đường vừa đi vừa khó thở
Những khúc quanh hoài nghi giận dữ
(Phạm Văn Vũ – Búng tay)
Cách nói “bận bịu làm người” khiến người đọc bất ngờ, bởi trước nay ta
chỉ quen từ bận bịu khi nó gắn với công việc chứ đã ai nói bận bịu làm người ?
Cũng như vậy, “con đường vừa đi vừa khó thở” cũng thật lạ, nó như có điều gì
đó bất thường, có điều gì đó như là ẩn ức. Không thể phủ nhận, tác giả đã tạo ra
độ nhòe về ngữ nghĩa giàu sức gợi tả mới bất ngờ.
Trong thơ Nguyễn Nhật Huy, nhà thơ sử dụng một hệ từ vựng mới,
những từ ngữ mà chính quá trình sáng tác thôi thúc nhà thơ sáng tạo để tìm ra
một cách diễn đạt thật sát, thật trúng những điều đang diễn ra trong cuộc sống
đa chiều đầy phức tạp. Từ sự say sưa, khao khát khám phá những điều mới lạ
của cuộc sống, thơ Nguyễn Nhật Huy xuất hiện nhiều hình ảnh mới lạ, mang
nét cá tính riêng của nhà thơ trẻ. Những cách diễn đạt như: đi nửa đời nứt nẻ, đi
mót nỗi buồn, bông lúa cởi chiếc áo xanh… (bài thơ Khói); bông hoa lịm đi
(bài thơ Mặt trời), câu thơ “vặn vẹo” (bài thơ Nhà anh không có điều hòa)… là
những ví dụ cho thấy sự sáng tạo mới mẻ về ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ
Nguyễn Nhật Huy. Hay trong bài thơ Bóng cây, những ngôn ngữ rất riêng, cách
diễn đạt mới lạ của thơ Nguyễn Nhật Huy cho người đọc tự mình suy ngẫm để
có những cảm nhận của riêng mình:
Lóp nhóp bò ra từ lọ mực
Cố viết trưa nay trong ngộp thở nắng đông đặc
Vậy mà những trang giấy vẫn không một gợn mây
Có nhiều khuôn mặt bay qua trưa nay
Bò ra khỏi lọ mực để cố bắt hình cảm thông nhễ nhụa
68
Những người ngủ trưa bên hè phố
Cuộc đời như buổi trưa không gió
Làm trang giấy trắng trơn
Bò ra khỏi lọ mực để hiểu cuộc đời vốn buồn
Cảm thông chỉ hiếm hoi như bóng cây hè phố
mà bao nhiêu người trú ngụ
(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)
Hình ảnh “Lóp nhóp bò ra từ lọ mực”, “nắng đông đặc”, cách dùng từ
ngữ “cảm thông nhễ nhụa”… là những sáng tạo hình ảnh, sáng tạo ngôn ngữ
đầy mới mẻ của Nguyễn Nhật Huy. Những cách dùng từ rất mới, rất gợi, thể
hiện được cái phần hồn, cái biểu hiện trong sâu thẳm là những điều Nguyễn
Nhật Huy luôn nỗ lực trong quá trình cách tân nghệ thuật thơ trẻ. Cuộc sống
hiện đại là đa diện và cách cảm nhận về nó cũng là đa chiều. Tác giả sử dụng
những ngôn ngữ, hình ảnh là sản phẩm sáng tạo của chính mình để thể hiện cái
nhìn, cách cảm nhận về những điều trong cuộc sống. Trong thế giới ấy, hình
ảnh của chính tác giả, của cái tôi hiện lên:
Tôi giọt mực nghèo nàn
Cố tìm câu chuyện từ những buổi trưa lang thang
mà lời lý giải vẫn không mây
Chiều
đóng nắp ngày rồi lại rơi vào lọ mực
Giọt mực vẫn đen trở mình
Về một buổi trưa không rõ nghĩa
Về những bóng cây đã chạy mất khỏi loài người.
(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)
Hình ảnh người nghệ sĩ với những nỗ lực trên hành trình sáng tạo, cách
tân nghệ thuật thơ trẻ được Nguyễn Nhật Huy thể hiện bằng cái nhìn của chính
69
mình, của một con người trong cuộc. Những điều trăn trở, day dứt, biết bao suy
ngẫm không rõ nghĩa là những cảm nhận có lẽ không chỉ của riêng nhà thơ mà
của biết bao con người đang sống trong cuộc sống hiện đại hôm nay.
Các cây bút trẻ Thái Nguyên hôm nay luôn nỗ lực với những cách tân
nghệ thuật trong thơ để khẳng định tiếng nói của bản thân cũng như giành cho
thơ trẻ Thái Nguyên có một vị trí xứng đáng trên hành trình phát triển của thơ
ca đương đại. Họ là thế hệ trẻ bằng trí tuệ và tài năng văn chương đã góp phần
tạo nên những thành công bước đầu, những dấu ấn trên phương diện đổi mới,
cách tân về mặt ngôn ngữ của thơ trẻ Thái Nguyên.
3.2. Về không gian
3.2.1. Không gian phố thị
Trong dòng chảy chung của văn học, không gian phố thị thường xuyên
xuất hiện trong thơ của các tác giả, đặc biệt là những cây bút trẻ. Bởi đó là
không gian thực họ đang sống và làm việc mỗi ngày, họ hiểu rõ về nó và viết
về nó như một lẽ thường. Đó có thể là không gian của những ngôi nhà cao tầng
bề thế hay những căn phòng trọ nhỏ bé như trong thơ Phạm Văn Vũ:
Căn phòng tôi
Ở cuối con đường lẻ
Đi hết nỗi buồn thì tới phố phường
Căn phòng tôi
Ở cuối ngày ẩm ướt
Đi hết cơn giông thì tới cánh đồng
Chẳng có gì đâu
Trong bức tường vuông thẳng
Ánh đèn nghiêng!
70
(Phạm Văn Vũ – Nghiêng)
Hay trong bài thơ Sẽ chẳng bao giờ như thế nữa, Phạm Văn Vũ một lần
nữa miêu tả một không gian căn phòng ngột ngạt giữa chốn thị thành:
Mỗi sớm
Báo động giấc ngủ
Chống trộm căn nhà
Con đường xiết người
Sân khấu xiết hoa
Căn phòng thiếu khí thở và thừa ánh mắt
Bão thông tin 24 giờ ngập lụt
Vuông vuông vuông vuông vuông
(Phạm Văn Vũ – Sẽ chẳng bao giờ như thế nữa)
Phố thị còn là nơi con người ta mong được nhìn thấy màu xanh mát của
cây cối hơn là màu xám của những con đường to nhỏ quoanh co, màu đỏ của
những mái nhà cao thấp lô nhô:
Em hái búp chè
Gửi màu xanh xuống phố
Phố chật chội người
(Doãn Long – Hương chè)
Còn với tác giả Nguyễn Nhật Huy, phố thị gắn với những ngày nhiệt độ
từ bốn mươi đổ lên, với chiếc điều hòa, với những hóa đơn tiền điện:
Nếu nhiệt độ từ bốn mươi đổ lên
Mọi câu thơ đều vặn vẹo
Em có tin không tình yêu mình sẽ chết
Nếu không có điều hòa
Xin đừng làm thơ giải nhiệt
Mà đi cày tiền cho hóa đơn điện vừa tăng
71
(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)
Và phố thị cũng là nơi những người nghèo bươn ra để kiếm sống bất kể
nắng mưa, trưa tối:
Những người ngủ trưa bên hè phố
Cuộc đời như buổi trưa không gió
(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)
Phố thị cũng là nơi mà sự đối lập giữa thừa - thiếu, giàu - nghèo được thể
hiện rõ nét, là nơi con người ta sống nhưng thiếu đi phần nào đó sự sẻ chia với
nhau. Điều này được tác giả Doãn Long thể hiện rõ nét trong bài thơ Người
điên với sự đối lập của hai hình ảnh, hình ảnh người điên với “manh quần cộc
hẫng”, ngồi bất động bên đường đợi một “miếng thức ăn văng xa” để rồi thất
vọng khi chẳng được nổi một miếng thừa, trong khi:
Trong quán ăn
Khách nâng chén lên, rượu tràn mâm lênh láng
Chảy xuống gầm sàn
(Doãn Long – Người điên)
Nếu trong thơ Nguyễn Nhật Huy, không gian phố thị hiện lên chủ yếu ở
những biểu hiện rất đời thường, phổ biến của cuộc sống thành thị thì thơ Phạm
Văn Vũ, Doãn Long lại có nét trầm lắng hơn, nhìn vào những lặng lẽ, những
góc sâu thăm thẳm giữa chốn thị thành, sự cô đơn, hiu quạnh giữa không gian
tưởng chừng như náo nhiệt, xô bồ. Có thể thấy, mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình
một góc nhìn riêng, phản ánh một phương diện riêng nhưng tất cả cùng góp
phần tạo nên cái nhìn đa chiều về cuộc sống chốn thị thành.
3.2.2. Không gian làng quê
Bên cạnh không gian phố thị ồn ào, náo nhiệt trong sáng tác của các cây
bút trẻ Thái Nguyên còn xuất hiện một không gian khác khá phổ biến, đó là
không gian làng quê. Một không gian mà con người “tìm về” sau những
bon chen của cuộc sống thị thành, trong không gian đó nổi bật là hình ảnh
72
của cánh đồng, của những bông lúa xanh vươn mình trong gió, của mùi rơm
rạ sau mỗi vụ mùa. Hơn thế, đây cũng là không gian gắn với rất nhiều kỉ
niệm của mỗi người.
Cánh đồng là hình ảnh quen thuộc, trở đi trở lại trong thơ của các cây bút
trẻ Thái Nguyên. Nếu trong bài thơ Cánh đồng của Doãn Long, hình ảnh cánh
đồng sau cơn mưa mang nét đượm buồn thì hình ảnh cánh đồng gắn liền với ký
ức tuổi thơ của tác giả trong bài thơ Cánh đồng tuổi thơ lại mang một sắc thái
vui tươi, trong trẻo:
Cánh đồng rủ tôi theo lũ cào cào châu chấu
Mồ hôi dính bết lên mái tóc hạt dẻ
Đàn sẻ tập bay chíu chít ngọn tre.
Tôi nhả y lên bằ ng bước đi chân sá o Miệng già nhai trầu đỏ au gọi khan ngà y nắng
Những đứa trẻ mình trần mải học bơi sau đàn trâu qua suối
Vỡ nhịp buổi trưa…
Trên mái nhà mẹ gài chiếc roi tre
Lũ trẻ chăn trâu cả mùa chân đất
Nhé p nháp bùn non Lưng đen hơn sá cày đi nắng.
Dòng suối dạy tôi bơi
Màu xanh đồng, mẹ vun từ khi tôi còn trong bụng...
Tiếng cuốc tiếng cày, tôi biết nghe từ ấy
Đuôi mắt mẹ hằn nốt chân chim qua bao mù a nứt nẻ
Bàn tay mẹ run run...
Chỉ về cánh đồng xưa khôn lớ n.
(Doãn Long – Cánh đồng tuổi thơ)
Cánh đồng gắn với những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ tác giả. Những trò
chơi đuổi theo lũ cào cào châu chấu trên đồng, những buổi trưa đuổi theo đàn
73
chim sáo hay học bơi sau đàn trâu qua suối… có lẽ là những kỉ niệm không bao
giờ quên về một thời tuổi thơ. Chính cánh đồng ấy là nơi dạy nhà thơ bao điều
trong cuộc sống, cánh đồng ấy còn gắn với những vất vả tảo tần của người mẹ
đã nuôi con khôn lớn từng ngày. Có thể nói, dù nay có đi xa nhưng cánh đồng
tuổi thơ vẫn là một phần sâu đậm trong kí ức, gắn liền với những gì trong sáng,
mộc mạc, đẹp đẽ nhất của một thời tuổi thơ tác giả.
Trong thơ Trần Thị Nhung, hình ảnh cánh đồng cũng được nhắc đến
trong bài thơ Sợi yêu:
Cánh đồng
Nằm đợi mùa lên sương
lạnh cơn gió mỏng.
Mảnh trăng chiều
Trằn trọc giấc ngủ
lên non.
Em ngồi gỡ
Chân tím vết hoàng hôn
Bòng bong
Rối trong đám cỏ
(Trần Thị Nhung – Sợi yêu)
Còn trong thơ Phạm Văn Vũ hình ảnh cánh đồng lại hiện về trong một
giấc mơ:
Dành dụm hơi ấm từ khoanh lửa rơm lũ trẻ đánh rơi
Ngọn khói đêm nay cuộn mình thiêm thiếp
...
Trở mình chạm lưỡi liềm mùa cũ
Dụi mình gặp chùm rễ trầm tư
Trong mái tóc lơ phơ năng nắng
Khe khẽ cựa mình một tiếng hát ru
74
(Phạm Văn Vũ – Cánh đồng về sáng)
Ở một góc nhìn khác, trong thơ Doãn Long hình ảnh làng quê còn lồng
trong cuộc sống của những người dân miền núi:
Mọi điều trở thành bỡ ngỡ
Khi bước chân lên cầu thang gỗ
Rồi thấy lạ lùng
Giữa nhà quần quanh khói bếp.
Người già ngồi tẽ ngô, nhóm củi
Trẻ nhỏ so mình sau vuông cửa
Khói bếp hun lên mùi thức ăn dà nh từ vụ trước Đãi khách chơi nhà.
(Doãn Long – Vào bản)
Nhưng sẽ thật thiết sót nếu nói về không gian làng quê mà không nhắc
đến hai bóng hình quen thuộc, thân thương ở nơi đó. Đó là hình ảnh của người
mẹ in đậm trong tâm trí từ khi con còn là đứa trẻ ham chơi, mỗi trưa trốn ngủ
tập bơi ngoài suối khiến mẹ phải gài chiếc roi trên mái nhà để dọa:
Những đứa trẻ mình trần mải học bơi sau đàn trâu qua suối
Vỡ nhịp buổi trưa… Trên mái nhà mẹ gài chiếc roi tre
Cho đến tận ngày con khôn lớn và bước đi của thời gian thêm hằn rõ trên
khuôn mặt mẹ:
Đuôi mắt mẹ hằn nốt chân chim qua bao mù a nứt nẻ Bàn tay mẹ run run...
(Doãn Long – Cánh đồng tuổi thơ)
Mẹ vẫn luôn người phụ nữ cả cuộc đời tần tảo, hi sinh vì con:
Mẹ tôi bao tháng bao ngày
Bao nhiêu cơ cực đắng cay ắp tràn
Đường đời bao hướng gian nan
Bế con qua khắc cơ hàn truân chuyên
75
(Dương Thu Hằng – Mẹ tôi)
Trở về nơi mình đã sinh ra là trở về bên vòng tay của mẹ, và không thể
thiếu nữa đó là hình ảnh của bà - người lưu giữ cho mỗi người kỉ niệm của cả
một thời thơ ấu:
Tuổi thơ đâu đây
Con ngỡ lạc mất
Hoa mào gà và quả mùng tơi
Không bao giờ hết hạt
Bà giữ hộ tuổi thơ con
(Trần Thị Nhung – Gửi bà)
Có lẽ, bên cạnh cánh đồng thì hình ảnh của bà và mẹ chính là điều làm
nên cái hồn của làng quê trong mỗi người.
Có thể thấy, trong sáng tác của mình mỗi cây bút lại có một cách thể hiện
riêng khi viết về không gian làng quê. Đó có thể là hình ảnh làng quê gắn liền
với những cánh đồng, gắn với bóng hình của mẹ của bà hay hình ảnh những
bản làng miền núi gắn với hình ảnh nhà sàn, bếp lửa… nhưng tất cả đều thống
nhất khi tạo nên một bức tranh làng quê đầy màu sắc trong sáng tác của các nhà
thơ trẻ Thái Nguyên.
3.3. Về thời gian
Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là khái niệm chỉ
hình thức tồn tại của thế giới, chỉ trong không gian – thời gian thì sự vật mới có
tính xác định. Thời gian nghệ thuật là một phương tiện trong sáng tạo nghệ
thuật để nhà thơ nhận thức và phản ánh đời sống. Trong sáng tác của các nhà
thơ trẻ Thái Nguyên, phạm trù không gian cũng là một phương tiện nghệ
thuật đắc lực để người viết thể hiện những nhận thức, cảm nhận, suy ngẫm
về cuộc sống.
Thờ i khắc củ a những buổ i chiều luôn đem la ̣i cho con người rất nhiều những xú c cảm. Đó là khi mă ̣t trờ i dần lặn, ánh sáng dần nhường chỗ cho màn
76
đêm, mỗi người sau một ngày hố i hả lại trở về vớ i mâm cơm gia đình. Trong
thơ của các cây bút trẻ Thái Nguyên, thờ i khắc củ a những buổ i chiều tà không ồ n ào mãnh liê ̣t, không cháy bỏ ng nồ ng nàn mà là khoảng thờ i gian mà cái tôi trữ tình ngồ i lă ̣ng yên đầy chiêm nghiê ̣m về cuô ̣c đờ i.
Đó có thể là sự suy tư về cuộc đời đầy bon chen, đen trắng lẫn lộn:
Chiều
Đóng nắp ngày rồi lại rơi vào giọt mực
Giọt mực vẫn đen trở mình
Về một buổi trưa không rõ nghĩa
Về những bóng cây đã chạy mất khỏi loài người
(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)
Buổi chiều còn là thờ i gian mà sự cô đơn xâm chiếm tâm hồ n, sự cô đơn bắt nguồ n từ sự trố ng vắng khi nhớ về quê hương, về mùi rơm rạ, nhớ về bóng
mẹ mòn mỏi:
Chiều khói bay
Không phải khói mẹ
(Nguyễn Nhật Huy – Khói)
Bên ca ̣nh đó, buổ i chiều trong thơ trẻ Thái Nguyên còn là khoảng thờ i gian củ a nỗi buồn thấm thía, nỗi đau khắc khoải của người con gái mất đi người yêu trong bom đạn chiến tranh:
Chiều Khau Áng, gió rối lòng mưa
Cánh mua ngậm đầy nước mắt
Ầng ậng lòng em
(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)
Trong thời gian lắng đọng của buổ i chiều tà, hình ảnh củ a người con trai si tình, ngồ i thẫn thờ nhìn những giọt nước mắt của người yêu rơi được miêu tả trong thơ Phạm Văn Vũ:
Cơn mưa ấy
Suốt một chiều tự ướt
Khi nhìn em
Ngồi len lén khóc thầm
77
(Phạm Văn Vũ – Sau một cơn mưa)
Tuy nhiên, ngoài buổ i chiều của yêu thương, buổ i chiều trong thơ cò n là khoảng thời gian để các cây bút trẻ nhìn về cuộc số ng vớ i những bộn bề lo toan, lặng nhìn vào những kiếp mưu sinh với những gánh nă ̣ng cơm áo ga ̣o tiền. Chiều muộn, trên đườ ng mọi chiếc xe đều chỉ mong đi được thật nhanh để tìm về mái nhà sau mô ̣t ngày mỏ i mê ̣t. Những hình bó ng đó đi vào trang thơ, mô ̣t cách giản di ̣ mà đo ̣ng lại bao nỗi niềm:
Em cứ nghèo đi không chỉ bởi những bữa cơm
Mà còn sách bút áo quần cho trẻ nhỏ
Chiều chiều đón con tan trường
Chầm chậm hai mẹ con
Tím ngan ngát ven đường
Bạt ngàn hoa xấu hổ dâng hương...
(Dương Thu Hằng – Người vợ cả)
Thẳm sâu trong những vần thơ là biết bao nỗi lò ng, biết bao tâm trạng
ngổn ngang thổn thức. Lờ i thơ chù ng xuố ng, nhi ̣p thơ châ ̣m la ̣i và âm hưở ng thơ cũng mang mô ̣t nỗi sầu day dứ t không thôi.
Có thể nói rằng buổ i chiều trong thơ của các cây bút trẻ Thái Nguyên,
vẫn luôn là những lắng đo ̣ng nhẹ nhàng, thiết tha mà trong trẻo, là yếu tố không nhỏ ta ̣o nên chất suy tư trong thơ. Tuy nhiên, đó la ̣i là nỗi buồ n nhe ̣ nhàng mang vẻ đẹp tinh tế của những tâm hồn tinh tế. Buổ i chiều ta ̣o nên những điều rất riêng trong tâm hồn mà rất khó có thể lí giải nó một cách cụ thể. Chỉ có thể thấy rõ một điều đó là thời gian chiều tà mỗi ngày được nhìn qua lăng kính của
các cây bút trẻ Thái Nguyên chất chứa những suy tư, những nỗi nhớ và lò ng trắc ẩn tình đờ i.
Bên cạnh thời gian chiều tà, trong thơ trẻ Thái Nguyên cũng thường xuất
78
hiện thời gian ban đêm. Nếu như buổ i sáng là thờ i khắc củ a những cảm xú c nhe ̣ nhàng trong trẻo, buổi chiều là khoảng thờ i gian củ a những triết lí, những giá tri ̣ củ a cái tôi suy tư lă ̣ng lẽ mà thấm thía thì trong đêm tố i, là sự khoảng thời
gian củ a những cảm xú c dữ dô ̣i và mãnh liê ̣t nhất. Thơ trẻ Thái Nguyên viết nhiều về đêm tố i, lấy đêm tố i làm bầu ba ̣n, mươ ̣n đêm tố i là cái cớ để giãi bày lò ng mình:
Lấy đi ồn ào căng thẳng của ngày công việc
Cả những hư danh cứ nêm vào nhau
Dạn nứt từng thớ thịt
Ăn sâu ý nghĩ
Đêm tặng tôi sự thanh bình
Chỉ mình thôi cùng ấm trà vừa đủ
Khói thuốc cho thêm cần mẫn
Nghĩ về hôm qua
(Doãn Long – Đêm)
Trong đêm tố i, mo ̣i khát khao đươ ̣c thể hiện, mo ̣i trố ng trải được biểu lô ̣,
mo ̣i ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn, cũng theo đó mà tràn về. Đêm tố i, là
khoảng thời gian của một cái tố i trần trụi, củ a cái tôi đã tự bó c tách các lớ p vỏ
bọc bên ngoài, mô ̣t cái tôi dù cô đơn nhưng đươ ̣c số ng thâ ̣t vớ i chính mình.
Bóng nến liêu diêu
Ngã vào đêm
Không ngủ
Cháy đến cạn mình
Chưa thắp nổi giấc mơ
(Phạm Văn Vũ – Ánh nến)
Trước hết, đêm tối là khoảng thờ i gian củ a nỗi cô đơn dài bất tâ ̣n, nỗi cô
đơn đến cháy lò ng. Tự cháy sáng rồ i la ̣i rơi vào nguội la ̣nh cô đơn, đêm tố i, là
khoảng thờ i gian mà cái tôi tự trải lòng mình như thế, nhưng nỗi cô đơn thì
79
xâm chiếm tâm hồ n mãnh liê ̣t:
Cô ấy
trẻ hơn
đẹp hơn
tươi hơn...
Em biết thế trong những đêm đứng khoanh tay
Đứng nhìn sao trốn vào lòng trời cùng kiệt
Bước chân thời gian đi miết... qua em
(Dương Thu Hằng – Người vợ cả)
Trong không gian tĩnh lă ̣ng mô ̣t mình, cô ̣ng vớ i tâm hồ n thường trực những nhớ thương, cái tôi đa cảm cồn lên sự khắ c khoải mong muốn được
giãi bày:
Đêm tràn vào biển…
Nào ngủ đi hạt cát
Nào nói đi ánh trăng
(Phạm Văn Vũ – Gió về)
Chỉ trong đêm tối, ta mớ i thấy cái tôi trữ tình trong thơ như thế. Và cũng chỉ trong đêm mọi cảm xúc của con người dường như la ̣i đươ ̣c cô ̣ng hưởng thêm gấp bô ̣i phần. Cái tôi trữ tình trong đêm tố i lú c nào cũng trằn tro ̣c, trở mình mãi không nguôi vớ i nỗi buồn và những trăn trở, suy tư bộn bề:
Con đã thấy…
Những đêm
Cha khum mình trong khói thuốc
(Gia Hân - Cha)
80
Dườ ng như, đêm tố i luôn là ngườ i bạn tri kỉ của những cái tôi đa cảm đa sầu, để cù ng giãi bày, để cù ng chia sẻ. Đêm tối, đã luôn đi vào thơ văn bằng những điều như thế, như mô ̣t biểu tươ ̣ng thờ i gian mà muôn đờ i vẫn mãi bầu ba ̣n, sẻ chia.
Nhưng đêm tố i không đơn thuần là một khoảng thờ i gian, là người bạn đồng điệu tâm hồn với các cây bút trẻ, mà đôi khi đêm tối là nỗi ám ảnh với họ.
Đó là khi sự cô đơn trong họ bị bóng đêm bủa vây, màn đêm đen như đặc
quoánh khiến họ vùng vẫy nhưng không thể thoát ra:
màn đêm đánh gục cả nhưng chiếc lá kiên cường nhất
(Nguyễn Nhật Huy - Mặt trời)
Trong giấc mơ chập chờn mỗi đêm họ thấy mình tự “bay đi”, bay đi một
phần của chính mình:
Có phải thủa bé nhốt đom đóm vào lọ
Nên giờ đây mỗi đêm lại chập chờn
Mỗi lần lọ mở nắp
Là một lần mình bay đi
(Phạm Văn Vũ – Linh)
Nếu thờ i khắc buổ i chiều là khoảng củ a những rung đô ̣ng nhe ̣ nhàng, sâu lắng, của những suy tư về cuô ̣c số ng, về nhân thế thì khi màn đêm buông xuố ng, tiếng go ̣i buốt la ̣nh trong tâm tư la ̣i tràn về. Đó , là khoảng thờ i gian củ a nỗi cô đơn đến cháy lò ng, là khoảng thờ i gian củ a nỗi buồ n xâm chiếm. Đêm tối là lú c con người ta trở về với chính bản năng củ a mình, về vớ i những giâ ̣n hờ n, những mê ̣t mỏ i, những khát khao còn dang dở. Đêm tố i, là lú c con người ta tìm thấy mình chân thâ ̣t nhất, là lú c những lớp mặt nạ bên ngoài bị cở i bỏ , chỉ cò n cái tôi nguyên bản củ a chính mình bởi vậy nên khoảng thời gian này lú c nào cũng mang la ̣i cảm giác sâu lắng nhất, chân thành nhất và cũng mãnh liê ̣t nhất.
81
Tuy nhiên, thờ i gian chiều hay tố i cũng chỉ mang ý nghĩa tươ ̣ng trưng, là cái cớ để cái tôi trữ tình qua đó bô ̣c lô ̣ rõ ràng hơn những cung bâ ̣c cảm xú c củ a lò ng mình. Đó là thờ i gian nhuố m màu tâm tra ̣ng, là khoảnh khắc củ a cảm xú c lên ngôi trong sáng tác. Thờ i gian nghê ̣ thuâ ̣t, không gian nghê ̣ thuâ ̣t cù ng vớ i cái tôi trữ tình ta ̣o thành những chân kiềng vững chắc hình thành nên thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t thơ trẻ Thái Nguyên.
Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, người cầm bút nói chung và các cây
bút trẻ Thái Nguyên nói riêng luôn cố gắng tìm tòi để tạo ra sự mới lạ trong thi
pháp và trong tư tưởng. Họ thường không bằng lòng với những gì sẵn có mà
luôn tự khám phá, tạo cho mình những con đường riêng. Có thể nói trên những
con đường sáng tạo nghệ thuật ấy, họ đã có những thành công nhất định nhưng
cũng không thể phủ nhận thơ trẻ Thái Nguyên vẫn chưa thực sự có sự cách tân,
đổi mới mang tính đột phá, triệt để và trở thành hệ thống.
Thứ nhất, những cách tân đổi mới chủ yếu tập trung ở hai cây bút Phạm
Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy. Với các cây bút khác, thơ phần nhiều vẫn mang
dấu ấn truyền thống, chưa thực sự có nhiều thử nghiệm, sáng tạo.
Thứ hai, với bản thân hai cây bút Phạm Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy,
mặc dù họ có nhiều tìm tòi, thể nghiệm song sự sáng tạo đó mới chỉ dừng lại ở
một số phương diện nhất định chứ chưa thực sự trở thành phong cách, chưa tạo
cho người cầm bút một chân dung sáng tạo hoàn toàn mới mẻ.
Thứ ba, trong sáng tác của một số tác giả, sự cô đơn nhỏ bé đôi khi bị
đẩy tới mức cực đoan. Trên con đường đi tìm giá trị và niềm tin cuộc sống
dường như họ càng cố định hình thì lại càng bế tắc, càng cố bước đi lại càng
hoang mang. Họ phản ánh điều đó trong thơ và phần nào khiến bạn đọc bất an
khi nhìn nhận cuộc sống.
Nghiên cứu về thơ trẻ Thái Nguyên và chỉ ra vấn đề này, luận văn không
chỉ dừng lại ở việc nhìn vào những vấn đề mang tính hạn chế của thơ trẻ Thái
Nguyên mà hơn nữa là để khẳng định sự cách tân, đổi mới trong thơ là một quá
trình lâu dài và đầy thách thức. Nó đòi hỏi người cầm bút phải thực sự nghiêm
túc, tự giác, tâm huyết và có tinh thần thể nghiệm để tiệm cận đến sự thành
công, quan trọng hơn nữa là góp phần làm cho thơ ca Thái Nguyên vận động
82
tích cực theo hướng ngày càng chuyên nghiệp hơn.
* Tiểu kết chương 3:
Trong chương 3, chúng tôi đã nghiên cứu về một số đặc điểm về ngôn
ngữ, không gian, thời gian tiêu biểu trong thơ trẻ Thái Nguyên.
Về ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên theo hai khuynh hướng là sử
dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và ngôn ngữ lạ hóa. Đại diện tiêu biểu cho
khuynh hướng sáng tác bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc là các nhà thơ như
Doãn Long, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh… Tiêu biểu cho việc sử dụng
ngôn ngữ lạ hóa là các tác giả như Trần Thị Nhung, Gia Hân, Phạm Văn Vũ,
Nguyễn Nhật Huy.
Về không gian, trong thơ trẻ Thái Nguyên thường nói về không gian phố
thị và không gian làng quê. Một bên là cuộc sống giản dị, bình yên nơi làng quê
với hình ảnh người mẹ và người bà, một bên là những ồn ào, bon chen của thị
thành. Tất cả cùng làm nên một bức tranh cuộc sống đa sắc màu trong thơ trẻ
Thái Nguyên.
Về thời gian, các tác giả trẻ Thái Nguyên thường nói về thời gian của
buổi chiều tà hay khi đêm về. Đó là khoảng thời gian khi cuộc sống lao động đã
lùi lại sau lưng, nhưng xô bồ, náo nhiệt nhường chỗ cho tĩnh lặng. Đó là
khoảng thời gian gợi cho con người nhiều cảm xúc, nhiều suy tư lắng đọng,
83
cũng là thời gian người nghệ sĩ tìm về với thơ ca.
KẾT LUẬN
Trong luận văn Thế giới nghê ̣ thuật trong thơ trẻ Thá i Nguyên, từ việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận chung đến những khía cạnh cụ thể của thế
giới nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên, chúng tôi đưa
ra một số kết luận như sau:
1. Thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất quan trọng của sáng tạo nghệ
thuật, được xây dựng trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất định. Cái tôi
là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có của mỗi con người.
Thái Nguyên là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược, là trung tâm kinh tế –
chính trị, văn hóa, giáo dục… của vùng trung du miền núi phía Bắc, đồng thời
là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Những điều kiện thuận lợi ấy
tạo cho các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có cơ hội được tiếp xúc và thừa hưởng
truyền thống văn hóa, văn học của địa phương làm nền tảng và mạch nguồn
nuôi dưỡng tình yêu văn chương nghệ thuật, hun đúc nên một đội ngũ những
nhà thơ Thái Nguyên trong đó có những nhà thơ trẻ hôm nay.
2. Cảm hứng thế sự là một cảm hứng nổi bật trong sáng tác của các nhà
thơ trẻ Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long là những
nhà thơ tiêu biểu cho cái tôi thế sự giàu chất suy tư, luôn hướng về cuộc sống,
luôn trăn trở trước những điều đang diễn ra trong cuộc sống, trước những đổi
thay của cuộc sống hiện đại. Với nhà thơ Phan Thái và Trần Thị Nhung, sáng
tác thơ của họ vừa điển hình ở cái tôi trữ tình trong trẻo, hồn nhiên, vừa thể
hiện một cảm nhận về những suy tư, trăn trở hay cảm giác cô đơn, nhỏ bé trong
cuộc sống.
3. Trong sáng tác, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên đã đạt được những thành
tựu nghệ thuật trên các phương diện về ngôn ngữ, không gian, thời gian. Về
ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị,
một số khác lại thường dùng ngôn ngữ lạ hóa. Về không gian, thơ trẻ Thái
84
Nguyên thường viết về không gian phố thị và không gian làng quê. Về thời
gian, các tác giả trẻ Thái Nguyên thường nói về thời gian của buổi chiều tà hay
khi đêm về. Thời gian gợi cho con người nhiều cảm xúc, nhiều suy tư lắng
đọng, cũng là thời gian người nghệ sĩ tìm về với thơ ca.
4. Trên con đường phát triển của mình, thơ Thái Nguyên đã có nhiều dấu
mốc quan trọng nhờ sự trưởng thành không ngừng của đội ngũ sáng tác, nhờ
cảm hứng mở rộng phong phú và nhờ tìm tòi đổi mới nghệ thuật. Với các cây
bút trẻ hiện nay, bên cạnh việc kế thừa thành công của những thế hệ trước họ
luôn nỗ lực vượt qua bản thân để làm mới mình và làm mới thơ. Có thể nói
hành trang của họ giờ là chính là sự đam mê và nhiệt huyết. Tuy nhiên thơ ca
chưa bao giờ là con đường bằng phẳng, vì vậy trong cuộc “chạy bền” mang
tính nghệ thuật đó mỗi người cầm bút vẫn cần không ngừng học hỏi để nâng
tầm về trình độ tri thức và nền tảng văn hóa. Đây là yếu tố quan trọng, quyết
định trong quá trình đưa thơ ca của tỉnh nhà có những bước phát triển mới và
85
hội nhập mạnh mẽ góp phần tạo nên diện mạo văn học chung của cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Minh Cảnh (Chủ biên - 2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 3,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nô ̣i. 5. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nông Quốc Chấn (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoàng Minh Châu (1990), Bàn về thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
10. Miên Di (2013), Thơ Miên Di, Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nô ̣i.
11. Xuân Diệu (1994), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Nguyễn Đặng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam - đỉnh cao Đại Việt, Nxb Hà Nội.
13. Hữu Đa ̣t (1996), Ngôn ngữ thơ Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 14. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu Văn hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
15. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Điê ̣p (2002), Giọng điê ̣u thơ trữ tình, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nội. 17. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại – tiến trình và hiện
tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Phong Điê ̣p (2007), Mạn đà m văn chương thời @, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 19. Phong Điê ̣p (2014), Cuộc phiêu lưu của những cá i tôi, Nxb Tổ ng hơ ̣p thành
86
phố Hồ Chí Minh.
20. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Văn
học, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (2004), Văn chương, tài năng và phong cách, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
23. Hà Minh Đức (2011), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Hồ Thủy Giang (2010), Thái Nguyên một dòng chảy văn chương, Nxb Hội
nhà văn.
25. Hồ Thủy Giang (2012), “Văn chương hiện đại, hậu hiện đại dưới góc nhìn
của một người sáng tác”, Báo Văn nghệ Thái Nguyên số 30 (470), ngày
20/10/2012.
26. Đỗ Thu Hà (2011), Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỉ XXI, Luận văn
Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), (2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Dương Thu Hằng (2000), Men đầu, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
29. Dương Thu Hằng (2005), Đón lá, Nxb Đại học Thái Nguyên.
30. Trần Đăng Khoa (2013), Trần Đăng Khoa nói về thơ Việt ở Paris,
http://vov.vn/blog/tran-dang-khoa-noi-ve-tho-viet-o-paris-263418.vov, ngày
26/5/2013.
31. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiê ̣n đại Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 32. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trú c của thơ, Nxb Đa ̣i ho ̣c Quố c gia, Hà Nô ̣i.
33. Lưu Thị Bạch Liễu (2009), Sông Cầu đang chảy đâu đây, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
34. Vi Thù y Linh (2014), Thế giớ i nghê ̣ thuật thơ Miên Di, Luâ ̣n văn Tha ̣c sĩ
87
khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồ ng chủ biên), (2000), Văn học Viê ̣t Nam
sau 1975 - Những vấn đề giả ng dạy và nghiên cứ u, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.
36. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
37. Phương Lựu (Chủ biên), (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Hồ Á Mẫn (2011), Giáo trình văn học so sánh, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
39. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
40. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
41. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, NXb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
42. Vũ Nho (2012), Thơ và dạy học thơ, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.
43. Nhiều tác giả (2003), Văn học so sánh - Nghiên cứu và dịch thuật, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
44. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2015), Tuyển tập thơ Thá i Nguyên (2006 – 2015), Nxb Đa ̣i
ho ̣c Thái Nguyên.
46. Nhiều tác giả (2016), Bả n hò a âm thá ng chín, Nxb Hô ̣i nhà văn, Hà Nội. 47. Hoàng Phê (Chủ biên), (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung
tâm Từ điển học, Hà Nội.
48. Nguyễn Thúy Quỳnh (2009), Tinh thần thép và tầm vóc văn hóa,
http://nguyenthuyquynh.vnweblogs.com/a200619/tinh-than-thep-va-tam-voc-
van-hoa/page-1.html, ngày 29/11/2009.
49. Nguyễn Thúy Quỳnh (2011), Những tích tắc quanh tôi, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
88
50. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao Thơ mớ i, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.
51. Trần Đình Sử (1995), Những thế giớ i nghê ̣ thuật thơ, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 52. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (2009), Giáo trình Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
54. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình Lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
55. Trần Ngọc Thêm (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Trần Ngọc Thêm (2014), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,
NXB Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
57. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
58. Nguyễn Kiến Thọ (2017), Thơ Thái Nguyên: nghĩ từ thơ trẻ,
http://vannghethainguyen.vn/2017/02/03/tho-thai-nguyen-nghi-tu-tho-tre/,
ngày 03/2/2017.
59. Nguyễn Kiến Thọ (2017), 30 năm thơ Thái Nguyên,
http://vannghethainguyen.vn/2017/07/31/30-nam-tho-thai-nguyen/, ngày 31/7/2017.
60. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nguyễn Đình Vinh (2014), Thơ Truyền thống - Nền tảng của thơ hiện đại,
http://tacphammoi.net/tho-truyen-thong-nen-tang-cua-tho-hien-
dai_n530.aspx, ngày 09/02/2014.
62. Pha ̣m Văn Vũ (2007), Trong nỗi nhớ mà u chà m, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên. 63. Pha ̣m Văn Vũ (2011), Ngẫu luận (trò chuyê ̣n văn chương), Nxb Hô ̣i nhà
văn, Hà Nội.
64. Pha ̣m Văn Vũ (2016), Mọc, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.
65. Phạm Văn Vũ (2016), http://khoavan.dhsptn.edu.vn/455_Tac-gia-tre-
Nguyen-Nhat-Huy-THO-CA-DAY-TOI-NHIEU-DIEU-.html, ngày 28/8/2016.
89
66. https://vi.wikipedia.org/wiki/Mái_Đá_Ngườm.