ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ TUYẾN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓ A VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ TUYẾN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓ A VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Điệp

THÁI NGUYÊN - 2017

MỤC LỤC

MỤC LỤC .......................................................................................................................... i

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 2

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4

6. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 5

7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................................... 6

8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 6

Chương 1 .......................................................................................................................... 7

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ NÓI CHUNG VÀ THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG..... 7

1.1. Thế giới nghệ thuật..................................................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm ................................................................................................................ 7

1.1.2. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên thế kỉ XXI ....... 9

1.1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình ..................................................................................... 9

1.1.2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ nói chung ................................................................... 11

1.2. Vài nét khái quát về thơ Thái Nguyên và thơ trẻ Thái Nguyên đầu thế

kỉ XXI .............................................................................................................................. 12

1.2.1. Khái quát thơ Thái Nguyên .................................................................................. 12

1.2.2. Khái quát thơ trẻ Thái Nguyên ............................................................................. 14

1.2.2.1. Khái niệm thơ trẻ................................................................................................ 14

1.2.2.2. Những mạch nguồn phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên ................................. 14

1.2.2.3. Quá trình vận động và phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên ............................. 22

i

* Tiểu kết chương 1: ........................................................................................................ 27

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ CẢM HỨNG VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH ................ 29

TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN ....................................................................... 29

2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ trẻ Thái Nguyên .......................................................... 29

2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên .............................................................. 37

2.2.1. Cái tôi trong trẻo, hồn nhiên ................................................................................. 37

2.2.2. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé ........................................................................................... 44

* Tiểu kết chương 2: ........................................................................................................ 56

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN, THỜI GIAN

NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN ........................................ 57

3.1. Về ngôn ngữ ............................................................................................................. 57

3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc ................................................................................. 57

3.1.2. Ngôn ngữ lạ hóa .................................................................................................... 64

3.2. Về không gian .......................................................................................................... 70

3.2.1. Không gian phố thị ................................................................................................ 70

3.2.2. Không gian làng quê ............................................................................................. 72

3.3. Về thời gian .............................................................................................................. 76

* Tiểu kết chương 3: ........................................................................................................ 83

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 84

ii

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Công cuô ̣c đổ i mớ i năm 1986 là mô ̣t sự kiê ̣n quan tro ̣ng làm nướ c ta thay đổ i trên tất cả các mă ̣t: kinh tế, chính tri ̣, văn hóa và văn ho ̣c. Tính từ năm 1986 đến nay, thơ Viê ̣t Nam có nhiều bướ c tiến vươ ̣t bâ ̣c vớ i nhiều thử nghiê ̣m đa da ̣ng xuất phát từ sự thay đổ i sâu sắc về tư duy nghê ̣ thuâ ̣t củ a các tác giả. Đó là cái nhìn cuô ̣c đờ i bằng ánh mắt tỉnh táo, sắc la ̣nh và thơ ca như một sự an ủ i cho những con ngườ i đang không ngừ ng tự tra vấn mình. Họ đã truyền tải và

kết nối thơ ca đến bạn đọc bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú và hơn thế

nữa là góp phần tạo ra những hiệu ứng tích cực cho đời sống thơ ca trước sự

bùng nổ của các phương tiện truyền thông nghe, nhìn…

1.2. Thái Nguyên là một trong những trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị,

xã hội lớn của vùng Trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam; là nơi hội tụ, giao

thoa của nhiều nền văn hóa các tộc người miền núi và miền xuôi; nơi tập trung

đông đảo đội ngũ trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo...; Có lẽ bở i vâ ̣y nên văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng ở mảnh đất này đã có một chặng đường dài phát triển với sự xuất hiện của nhiều thế hệ các nhà thơ nối tiếp nhau sáng tạo, góp phần không nhỏ tạo nên một diện mạo thơ Thái Nguyên – vừa có

những nét chung vừa có những đặc điểm riêng trong đời sống thơ ca thời kì

hiện đại và đổi mới. Đặc biệt, trong những năm gần đây thơ ca Thái Nguyên đã

có sự chuyển mình mô ̣t cách ma ̣nh mẽ với các hiê ̣n tươ ̣ng thơ và những cách

tân, những thử nghiê ̣m mới mẻ, đa da ̣ng bên cạnh một dòng thơ truyền thống.

1.3. Cuối thế kỉ XX sang đầu thế kỉ XXI cùng với quá trình đổi mới

của xã hội nói chung và văn học nói riêng, thơ ca Thái Nguyên đã có nhiều

nỗ lực trong quá trình tìm tòi, cách tân để tự làm mới bản thân và đã gặt hái

được những thành công đáng kể, ghi dấu ấn trên thi đàn đương đại với

1

những tên tuổi như: Võ Sa Hà, Hồ Triệu Sơn, Trần Thị Vân Trung, Nguyễn

Thúy Quỳnh, Mai Thắng... Họ có vai trò quan trọng, tạo tiền đề cho sự đổi

mới và phát triển của các cây bút ở giai đoạn sau.

Trong gần hai thập kỉ đầu thế kỉ XXI, thơ Thái Nguyên đã xuất hiện một

thế hệ các cây bút trẻ sung sức, tài năng, mang khát vọng đổi mới, sáng tạo. Có

thể kể tên một số tác giả tiêu biểu như: Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh,

Pha ̣m Văn Vũ, Nguyễn Nhâ ̣t Huy, Trần Thi ̣ Nhung, Doãn Long, Hoàng Thị

Hiền, Gia Hân... Ho ̣ sinh ra và lớ n lên giữa thờ i đa ̣i mà đất nướ c có nhiều biến

đô ̣ng về mo ̣i mặt; sự phát triển mạnh mẽ củ a nền kinh tế thi ̣ trường, sự mở cử a giao thương rô ̣ng rãi không chỉ khiến ảnh hưởng đến tình hình xã hô ̣i, mà hơn thế nữa cũng để lại những dấu ấn đậm nét trong cả đờ i số ng tâm lí con ngườ i. Các tác giả trẻ cũng dần thích ứ ng vớ i cuô ̣c số ng, họ chi ̣u ảnh hưở ng từ văn hó a củ a các nướ c phương Tây và không ngừng ho ̣c hỏ i, tiếp thu xu hướ ng phát triển chung củ a nền văn ho ̣c hiện đa ̣i thế giớ i. Điều này thể hiện rõ qua sự nỗ lực cách tân và tinh thần thể nghiê ̣m, tìm tò i những điều mớ i la ̣ trong quá trình sáng ta ̣o nghê ̣ thuật. Có thể nói đây là sự phát triển có tính kế thừa liên tục, góp phần

đem lại một sinh khí mới, một diện mạo mới cho thơ Thái Nguyên, là cơ sở

giúp thơ ca Thái Nguyên có được một nền tảng vững vàng và ẩn chứa những

tiềm năng lớn.

Xuất phát từ những lí do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài:

Thế giớ i nghê ̣ thuật trong thơ trẻ Thá i Nguyên làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình vớ i mong muố n đó ng gó p mô ̣t cái nhìn đầy đủ hơn về thơ ca Thái Nguyên trong dò ng chảy chung của nền thơ ca Việt Nam đương đa ̣i.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Thái Nguyên

Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống văn hóa, văn học, có những

điều kiện thuận lợi để nuôi dưỡng và phát triển văn học nói chung và thơ ca nói

riêng. Thơ Thái Nguyên thời kì hiện đại đã có một chặng đường lịch sử lâu dài

2

với những tên tuổi như: Khánh Kiểm, Trần Văn Loa, Ma Trường Nguyên,

Nguyễn Thúy Quỳnh,Võ Sa Hà, Trần Thị Vân Trung, Ba Luận, Hồ Thủy

Giang, Nguyễn Đức Hạnh… Sáng tác của các tác giả này cũng được quan tâm

trong nhiều bài báo khoa học, là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn, khóa

luận tốt nghiệp Đại học, … Có thể nói, với những nghiên cứu đó, sáng tác của

các nhà thơ Thái Nguyên tiêu biểu đã được tìm hiểu trên nhiều phương diện, từ

nội dung đến hình thức nghệ thuật, từ ngôn ngữ, hình ảnh đến cấu trúc, nhịp điệu

hay những sáng tạo mới mẻ và những nỗ lực cách tân nghệ thuật trong thơ. Việc

nghiên cứu về thơ Thái Nguyên đã và đang diễn ra không ngừng, đó vẫn là mảnh

đất đầy tiềm năng cho những ai quan tâm và yêu mến thơ của các nhà thơ Thái

Nguyên có thể tìm hiểu, khai thác để tìm ra những cái hay, cái mới, cái thú vị

trong những sáng tác đầy tâm huyết của các nhà thơ trên mảnh đất này.

2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ trẻ Thái Nguyên

Thơ trẻ là những nhà thơ thuộc thế hệ 8X 9X, họ trẻ về tuổi đời và cả

tuổi làm thơ. Họ mang sinh khí mới, diện mạo mới và đang là mối quan tâm

của nhiều nhà phê bình. Thơ trẻ Thái Nguyên là một bộ phận của thơ Thái

Nguyên từ đầu thế kỉ XXI đến nay. Tuy nhiên, những nghiên cứu về thơ trẻ

Thái Nguyên còn rất khiêm tốn và chưa thực sự nhận được sự quan tâm sâu sắc

của cả người đọc và giới nghiên cứu, trừ một số ít sáng tác đã đạt các giải

thưởng trong các cuộc thi thơ trong những năm gần đây.

Có thể nói, cho đến thờ i điểm hiê ̣n ta ̣i chưa có công trình nào nghiên cứ u một cách công phu, có cái nhìn tổng quát, có hệ thống và chi tiết về thế

giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên. Các tài liệu về thơ trẻ Thái

Nguyên đến nay chủ yếu là những bài cảm nhận ngắn, những đoạn giới

thiệu trên các trang mạng, các diễn đàn văn học của một số nhà phê bình và

bạn bè của các tác giả. Tiếng nói của thơ trẻ Thái Nguyên chủ yếu thông

qua diễn đàn báo chí, mạng internet, những trao đổi tự bạch, hoặc đánh giá

về thế hệ mình thông qua tham luận tại các buổ i gă ̣p mă ̣t, hội nghị, hội thảo

3

về văn học.

Nhìn chung, lịch sử vấn đề nghiên cứu về các cây bút trẻ Thái Nguyên cò n là khoảng trố ng ít ngườ i đă ̣t chân đến. Chúng tôi hiểu rằng, điều đó vừa là thuận lợi nhưng đồ ng thờ i cũng là thách thức không nhỏ trong quá trình thực hiện luận văn. Vớ i tinh thần làm việc nghiêm túc và sự cố gắng trong quá trình nghiên cứ u, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ góp thêm cái nhìn đầy đủ , toàn diê ̣n hơn trong công tác nghiên cứ u, đánh giá và phê bình các cây bút trẻ hiê ̣n nay. Đồ ng thờ i chú ng tôi cũng mong muố n, khi hoàn thành luâ ̣n văn sẽ là mô ̣t trong những công trình giới thiệu thơ trẻ Thái Nguyên đến với bạn đọc gần, xa. 3. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu khái quát và chỉ ra những đặc điểm nổi bật về thế giớ i nghê ̣

thuâ ̣t trong sáng tác củ a các cây bút trẻ Thái Nguyên.

Chỉ ra những đóng góp của các cây bút trẻ Thái Nguyên trong quá trình nỗ lực cách tân, sáng tạo trong thơ ca của tỉnh Thái Nguyên đầu thế kỉ XXI và những đóng góp của họ cho thơ trẻ hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Toàn bộ thơ trẻ của Thái Nguyên từ đầu thế kỉ XXI đến nay. Tập trung

vào nghiên cứu một số sáng tác của các tác trẻ tiêu biểu như: Dương Thu Hằng,

Phạm Văn Vũ, Vũ Thị Tú Anh, Nguyễn Nhật Huy, Trần Thị Nhung, Doãn

Long, Hoàng Thị Hiền, Gia Hân…

Phân tích một số tác phẩm thơ của các tác giả thuộc các thế hệ nhà thơ

Thái Nguyên để đối chiếu, so sánh… và chỉ ra sư ̣ tương đồ ng và khác biê ̣t, từ

đó có những nhận xét, đánh giá về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của một

số tác giả trẻ Thái Nguyên tiêu biểu.

4.2. Phạm vi nghiên cứ u

Luận văn này nghiên cứ u các sáng tác củ a một số tác giả thơ trẻ Thái

Nguyên từ năm 2000 đến nay. Đi sâu nghiên cứu thơ của một số tác giả trẻ tiêu

4

biểu như:

Dương Thu Hằng thể hiện qua tập thơ: Men đầu (2000), Đón lá (2005).

Pha ̣m Văn Vũ thể hiện qua hai tâ ̣p thơ: Trong nỗi nhớ mà u chà m

(2007), Mo ̣c (2015).

Nguyễn Nhâ ̣t Huy thể hiê ̣n qua: Tuyển tập thơ Thá i Nguyên (2006 -

2015) (In chung), Bả n hòa âm thá ng chín (In chung) và thơ đăng trên các báo,

ta ̣p chí.

Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên như

Vũ Thị Tú Anh, Trần Thị Nhung, Doãn Long, Hoàng Thị Hiền, Gia Hân… đã

công bố trên các sách, báo, tạp chí của trung ương và địa phương.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những vấn đề chung có liên quan tới thế giới nghệ thuật như

khái niệm Thế giới nghệ thuật, nghệ thuật thể hiện cái Tôi trữ tình; về ngôn

ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ,…

- Tìm hiểu và phân tích một số đặc điểm cơ bản của thế giới nghệ thuật

trong thơ trẻ Thái Nguyên như: đặc điểm về cảm hứng và cái tôi trữ tình, đặc

điểm về ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng những

phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp thống kê khảo sát: Trong quá trình triển khai luận văn,

chúng tôi tiến hành thố ng kê, khảo sát trên các phương diện của thế giới nghệ thuật để từ đó làm cơ sở cho việc so sánh, đối chiếu và đưa ra nhận xét.

- Phương pháp so sánh đối chiếu: Trên cơ sở kết quả của phương pháp

thống kê khảo sát, chúng tôi tiến hành so sánh đố i chiếu trên nhiều phương

diện của thế giới nghệ thuật từ hình tượng nghệ thuật, cái tôi trữ tình, ngôn

ngữ, hình ảnh, cấu trúc, nhịp điệu thơ... giữa các sáng tác của cùng một tác

giả, giữa sáng tác của tác giả này với tác giả khác, giữa những tác phẩm

5

cùng hay khác chủ đề... để thấy sư ̣ tương đồ ng và khác biê ̣t, từ đó có những

nhận xét, đánh giá về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của một số nhà thơ

trẻ Thái Nguyên tiêu biểu.

- Phương pháp hệ thống: Chúng tôi quan niệm sáng tác của mỗi nhà thơ

là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Vì vậy, song song với việc thống kê, khảo

sát và so sánh, đối chiếu; chúng tôi cũng nhìn nhận thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t trong mối quan hệ hệ thống với các phương diện khác của tác phẩm để có được cái

nhìn đầy đủ và toàn diện.

Ngoài ra, luâ ̣n văn của chú ng tôi còn sử du ̣ng các phương pháp nghiên cứ u khác như: phương pháp nghiên cứ u liên ngành, phương pháp phân tích tổng hợp tác phẩm…

7. Đóng góp mới của luận văn

Trong pha ̣m vi luâ ̣n văn, chú ng tôi cố gắng chỉ ra những nét nổi bật trong thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t trong thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Tính tớ i thờ i điểm hiện ta ̣i, luận văn này là một trong những công trình đầu tiên tìm hiểu về thế giớ i nghệ thuật trong thơ của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Từ đó gó p phần khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo và đó ng góp củ a các tác giả trẻ với nền văn ho ̣c Thái Nguyên nó i riêng và với thơ hiê ̣n đa ̣i Việt Nam nó i chung.

Qua luận văn, chúng tôi mong muốn góp thêm cái nhìn đầy đủ , toàn diê ̣n hơn trong công tác nghiên cứ u, đánh giá và phê bình đối với các cây bú t trẻ hiê ̣n nay.

8. Cấu trúc của luận văn

Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham

khảo, phần Nội dung được triển khai trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về thế giới nghệ thuật trong thơ nói

chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng

Chương 2: Đặc điểm về cảm hứng và cái tôi trữ tình trong thơ trẻ

Thái Nguyên

Chương 3: Đặc điểm về ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật trong

6

thơ trẻ Thái Nguyên

NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ NÓI CHUNG VÀ THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG

1.1. Thế giới nghệ thuật

1.1.1. Khái niệm

Nghệ thuật là một sản phẩm thẩm mĩ độc đáo phản ánh ý thức xã hội,

đồng thời là sự bày tỏ thái độ của người sáng tạo trước đời sống hiện thực, thế

giới thực tại. Tuy nhiên, đó lại là một sản phẩm được sáng tạo theo quy luật của

cái đẹp và hướng đến khát vọng chân, thiện, mĩ nên thế giới trong tác phẩm

nghệ thuật không đơn thuần là sự phản ánh thế giới hiện thực mà là một thế

giới được sáng tạo theo những nguyên tắc riêng.

Thế giới nghệ thuật là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong sáng tạo

nghệ thuật. Nói đến tác phẩm nghệ thuật không thể không nói đến thế giới nghệ

thuật được thể hiện trong tác phẩm đó. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về

thế giới nghệ thuật ở những phạm vi rộng, hẹp khác nhau của nội hàm khái

niệm. Chúng tôi có thể điểm lại một số định nghĩa tiêu biểu.

Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ

điển thuật ngữ văn học định nghĩa thế giới nghệ thuật là “khái niệm chỉ tính

chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng

tác của tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác

nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng,

khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó

phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian

riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,

thang bậc giá trị riêng,... chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ

7

thuật” [27, tr.302-303].

Trong cuốn Lí luận văn học tập 2 (Trần Đình Sử chủ biên), khẳng định:

“Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất

không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo

của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ có

trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật… Thế giới nghệ thuật là thế

giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [53, tr.81-

82]. Rõ ràng, thế giới nghệ thuật là một thế giới đặc biệt, nó có thể phản ánh

hiện thực nhưng không phải là thế giới hiện thực, nó là thế giới tồn tại trong

mỗi tác phẩm văn học. Khi đọc một tác phẩm văn học cũng là bước vào một

thế giới nghệ thuật mà nhà văn, nhà thơ đã xây dựng, trong đó chưa đựng bao

buồn vui, bao tâm tư, bao suy ngẫm, bao cảm xúc sống động. Chính vì thế giới

nghệ thuật là linh hồn, là bầu khí quyển bao trùm, là không gian cho mọi sáng

tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ nên khám phá thế giới nghệ thuật trong tác

phẩm cũng là tìm hiểu những quan niệm của tác giả về thế giới, về cuộc đời,

khám phá chiều sâu trong tâm hồn người nghệ sĩ. Khám phá thế giới nghệ thuật

trong tác phẩm còn mở ra vô vàn điều thú vị về nhà thơ và phong cách nghệ

thuật của nhà thơ đó. Có thể nói, “Một thế giới nghệ thuật nhất định với tư

cách là hệ thống không chỉ đặc trưng cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho

cả nhà văn nói chung… Nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật vừa cho ta

hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới,

vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi

phối sự hình thành phong cách nghệ thuật” [53, tr.83].

Từ những định nghĩa trên có thể thấy rằng, thế giới nghệ thuật là một

phạm trù rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa

những nghiên cứu đã có, để tiện cho quá trình nghiên cứu, trong khuôn khổ

luận văn này, chúng tôi đưa ra cách hiểu của mình thế giới nghệ thuật như sau:

Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học là thế giới được xây dựng

8

trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất định. Nó là một chỉnh thể của

sáng tạo nghệ thuật, phản ánh những quan niệm của người nghệ sĩ về thế giới,

đồng thời thể hiện chiều sâu cảm xúc trong tâm hồn người viết. Thế giới nghệ

thuật là một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật, bao gồm những thành tố được

cấu trúc theo những quy tắc thống nhất, là thế giới xuất hiện một cách ước lệ

trong tác phẩm nghệ thuật.

Thơ trữ tình là thể loại văn học bộc lộ trực tiếp thế giới cảm xúc với

những trạng thái tình cảm, những suy tư, nỗi niềm trăn trở của nhà thơ hoặc của

nhân vật trữ tình trước những vấn đề, các hiện tượng trong cuộc sống. Thơ là

tiếng hát của tâm hồn, nơi phản ánh những biểu hiện phức tạp và sâu sắc trong

thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Chính vì vậy, thế giới nghệ thuật trong thơ

trữ tình vừa mang những đặc điểm chung của thế giới nghệ thuật trong tác

phẩm văn học nói chung, vừa có những đặc điểm riêng biệt. Đó là kết quả của

quá trình “nội cảm hóa thế giới khách quan”, khi người nghệ sĩ biến những cảm

xúc, tình cảm thẩm mĩ, cách khám phá và cắt nghĩa thế giới khách quan phản

ánh vào các hình tượng nghệ thuật, các phương diện của thế giới nghệ thuật.

Có thể nói, thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình là sự thống nhất giữa

các yếu tố là kết quả của quá trình tư duy đặc biệt đó. Mặc dù thế giới nghệ

thuật bao gồm rất nhiều phương diện nhưng trong khuôn khổ luận văn này,

chúng tôi nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái

Nguyên tiêu biểu trên các phương diện tiêu biểu là sự biểu hiện của thế giới

nghệ thuật trong việc phản ánh cuộc sống xã hội đa chiều, sự biểu hiện của thế

giới nghệ thuật trong việc đi sâu vào cái tôi cá nhân con người và sự biểu hiện

của thế giới nghệ thuật qua ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật.

1.1.2. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên thế kỉ XXI

1.1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình

Cái tôi là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có

của mỗi con người. Đó là khái niệm đánh dấu ý thức của con người về bản thể

9

tồn tại của chính mình. Trong cuốn Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện

đại, Hà Minh Đức khẳng định: “Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện,

một sự thôi thúc tự bên trong nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của

đời sống gây nên. Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc

biệt quan trọng” [21, tr. 61]. Cái tôi trữ tình trong thơ là sự thể hiện một cách

nhận thức, sự cảm nhận về thế giới thông qua các hình tượng của cái tôi trữ

tình trong tác phẩm. Qua hình tượng cái tôi trữ tình, một thế giới độc đáo qua

cảm nhận của nhà thơ được gửi đến người đọc.

Từ cái tôi của nhà thơ đến cái tôi trữ tình trong tác phẩm thơ ca là một

quá trình. Những cung bậc cảm xúc được thể hiện trong thơ vừa gắn liền với

hiện thực đời sống, nhưng sâu xa hơn là tiếng nói của chính trái tim và tâm hồn

người nghệ sĩ. “Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ với cái tôi trữ tình trong

sáng tác là một hiện tượng khá phổ biến với thơ… Tuy nhiên một vấn đề quan

trọng cần quan tâm là không thể đồng nhất cái tôi của nhà thơ trong đời sống

với cái tôi trữ tình trong tác phẩm” [21, tr.64–65]. Mặc dù không đồng nhất

nhưng cái tôi nhà thơ thống nhất với cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Bởi lẽ, từ

cái tôi nhà thơ đến cái tôi trữ tình trong tác phẩm về căn bản vẫn là con người

ấy, tâm hồn ấy; có thể ở từng giai đoạn, từng thời điểm khác nhau trong hành

trình sáng tác, cái tôi trữ tình được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau

nhưng vẫn là sự thống nhất trong một chủ thể sáng tạo. Và chính nhà thơ – con

người ấy, tâm hồn ấy – là cơ sở sáng tạo của thơ ca.

Khi đi vào tác phẩm, từ cái tôi của nhà thơ đến cái tôi trữ tình là một quá

trình nâng cao hơn, qua trái tim đầy suy tư và trăn trở của nhà thơ để biểu hiện

dưới những hình thức phong phú, mang chiều sâu trong tác phẩm. Cái tôi trữ

tình có liên hệ chặt chẽ với cái tôi nhà thơ, nhưng từ cái tôi nhà thơ đến cái tôi

trữ tình trong tác phẩm là cả một quá trình với sự chi phối của nhiều yếu tố. Cái

tôi trữ tình trong thơ nhiều khi vượt ra khỏi cái tôi của nhà thơ, thậm chí có một

10

đời sống riêng độc lập tương đối với chủ thể sáng tạo nghệ thuật sản sinh ra nó.

Trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên tiêu biểu như Phạm Văn

Vũ, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Nguyễn Nhật Huy, Trần Thị Nhung,

Doãn Long, Hoàng Thị Hiền… mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình một hướng đi

riêng, một cách thể hiện cá tính và cái tôi trữ tình độc đáo trong thơ.

1.1.2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ nói chung

Sáng tác thơ ca trước hết là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc

mãnh liệt từ bên trong khiến mọi cảm xúc bộc lộ thành ý thơ. Cái tôi trữ tình là

một vấn đề quan trọng trong thơ ca. Cái tôi trữ tình của mỗi nhà thơ có sự gắn

bó mật thiết với cuộc đời tác giả: “Những cung bậc tình cảm của nhà thơ dù là

một niềm vui hồ hởi hay một nỗi buồn sâu lắng thiết tha, dù kéo dài triền miên

trĩu nặng tâm hồn hay thoáng qua trong giây lát đều gắn liền với một cái gì

của đời sống bên ngoài, nhưng sâu xa hơn là tiếng nói thầm kín của trái tim và

tâm hồn người nghệ sĩ” [21, tr.62]. Có thể nói, giữa cuộc đời riêng của mỗi nhà

thơ và sáng tác thơ ca có mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Thơ là nơi in đậm dấu ấn

cảm xúc, dấu ấn từ cuộc đời riêng của mỗi nhà thơ trong sáng tác.

Cái tôi trữ tình trong thơ có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác

nhau, có khi trực tiếp, có khi gián tiếp. Cái tôi nhà thơ khi thể hiện những tình

cảm riêng tư hay những câu chuyện, những sự việc gắn với cuộc đời riêng của

nhà thơ là cái tôi trữ tình được bộc lộ dưới hình thức trực tiếp. Cuộc đời thực tế

của nhà thơ trở thành chất liệu cho cuộc sống được miêu tả trong thơ, cái tôi trữ

tình của nhà thơ cũng gần gũi hoặc nhiều khi chính là cái tôi trữ tình của tác

giả. Trong những trường hợp ấy, cái tôi trữ tình thường được bộc lộ qua chữ

“tôi” hoặc chữ “ta”.

Cái tôi trữ tình trực tiếp rất phổ biến trong thơ, vì thơ trước hết là một

hình thức tự biểu hiện. Nhà thơ sáng tác không phải nói những vấn đề xa xôi,

mà muốn hướng ngòi bút của mình về những điều đang diễn ra trong cuộc sống

của chính mình, từ đó thể hiện thái độ, quan niệm, cách nhìn nhận của mình

11

riêng về cuộc sống. Khi nhà thơ cảm nhận về chính mình, về cuộc sống của

chính mình, về những điều riêng tư của bản thân là khi cái tôi trữ tình trực tiếp

được sử dụng đắc lực để bộc lộ những điều về chính bản thân tác giả.

Bên cạnh hình thức biểu hiện trực tiếp, cái tôi trữ tình trong thơ nhiều

khi cũng được thể hiện dưới hình thức gián tiếp. Trong trường hợp những hoàn

cảnh, những sự việc trong thơ không phải cảnh ngộ của cuộc đời tác giả, cái tôi

trữ tình thường được bộc lộ dưới hình thức gián tiếp. Khi đó, nhà thơ không

miêu tả, thể hiện cuộc sống của chính mình mà nói lên cảm nhận, suy nghĩ về

những điều từng chứng kiến hoặc từng trải qua. Trong những hoàn cảnh đó, cái

tôi trữ tình thường là nhân vật trữ tình chủ yếu trong bài thơ. Ngoài ra, cái tôi

trữ tình của nhà thơ còn được thể hiện khi nhà thơ miêu tả về một loại, một

kiểu nhân vật cụ thể (chẳng hạn như bà mẹ kháng chiến, anh bộ đội cụ Hồ…).

Những nhân vật này xuất phát từ những điển hình, từ những nguyên mẫu trong

thực tế, họ tiêu biểu cho một kiểu nhân vật điển hình là sản phẩm của một giai

đoạn lịch sử - xã hội nhất định. Ở kiểu sáng tác đó, “nhân vật trữ tình của sáng

tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà thơ” [21, tr.74].

Có thể nói, dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cái tôi trữ tình cũng là

nhân vật trữ tình quan trọng trong thơ. Cái tôi trữ tình là một phương diện quan

trọng, là một đặc trưng không thể thiếu của thơ ca. Trong thơ của các nhà thơ

trẻ Thái Nguyên, mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình những dạng thức phù hợp để

thể hiện cái tôi trữ tình trong sáng tác, đó có thể là cái tôi trong trẻo, hồn nhiên;

có khi lại là cái tôi cô đơn, nhỏ bé; đôi khi lại lắng đọng với những suy tư, trăn

trở và đặc biệt luôn nỗ lực trên hành trình tự ý thức, tự hoàn thiện mình.

Nghiên cứu sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên tiêu biểu sẽ làm rõ hơn

những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ.

1.2. Vài nét khái quát về thơ Thái Nguyên và thơ trẻ Thái Nguyên đầu thế

kỉ XXI

1.2.1. Khái quát thơ Thái Nguyên

Đầu thế kỉ XXI là giai đoạn đánh dấu sự thay da đổi thịt của mảnh đất

12

Thái Nguyên. Cùng với sự chuyển mình của đời sống xã hội, đời sống văn học,

thơ ca cũng có những đổi thay đáng kể. Trước hết, sự lớn mạnh của thơ ca Thái

Nguyên được thể hiện ở một đội ngũ sáng tác đông đảo. Nhiều nhà thơ Thái

Nguyên là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, có những tác phẩm tạo được tiếng

vang như Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh… Đặc biệt, hai

nhà thơ nữ Thái Nguyên là Trần Thị Vân Trung và Nguyễn Thúy Quỳnh là hai

gương mặt nữ nhà thơ tiêu biểu trong cuốn “33 gương mặt thơ nữ tiêu biểu”

của tác giả Vũ Nho. Bên cạnh đó, thơ Thái Nguyên còn đạt được nhiều thành

tựu, nhiều giải thưởng như Giải nhì về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các

Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh (2004),

Giải Ba về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật

Việt Nam cho tác giả Võ Sa Hà (2004), Giải khuyến khích cuộc thi thơ trên báo

Tài hoa trẻ của tác giả Phạm Văn Vũ (2005), Giải C Hội Văn học Nghệ thuật

các dân tộc thiểu số Việt Nam của tác giả Ma Trường Nguyên (2007), Nguyễn

Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà đã được nhận giải thưởng về thơ

của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội... Như vậy có thể nói, những nhà

thơ đầu thế kỉ XXI đã góp phần khẳng định vị thế của thơ Thái Nguyên trong

dòng chảy chung của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bên cạnh những tác giả tiêu biểu với những giải thưởng khẳng định vị

thế của thơ Thái Nguyên, sự phát triển và lớn mạnh của thơ ca trong đời sống

xã hội còn được khẳng định ở sự tham gia của đông đảo những người yêu thơ

trong những chi hội thơ như: Hội Văn học Nghệ thuật thành phố Thái Nguyên,

Hội Văn học Nghệ thuật Định Hóa, Chi hội Văn học Nghệ thuật Phổ Yên, Chi

hội Văn học Nghệ thuật Đại Từ..., các Câu lạc bộ thơ như: Câu lạc bộ thơ Mùa

thu, Câu lạc bộ thơ Tháng năm, Câu lạc bộ thơ Đường… và các nhóm bút trong

các nhà trường phổ thông, đại học, cao đẳng… Điều đó góp phần tạo ra sức lan

tỏa của thơ ca trong đời sống xã hội hiện đại. Chính đội ngũ sáng tác đông đảo

ấy và sự lan tỏa của thơ ca vào từng ngóc ngách của đời sống là tiền đề cho sự

13

phát triển của thơ Thái Nguyên hôm nay.

Thái Nguyên là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, văn học, là cửa ngõ

giao lưu giữa miền núi và đồng bằng nên có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự

phát triển thơ ca. Hơn thế nữa, các nhà thơ Thái Nguyên đa phần là những trí

thức, nhà giáo, nhà báo… nên có điều kiện nghiên cứu, sáng tác văn chương

nghệ thuật. Cùng với niềm đam mê nghệ thuật, vốn tri thức, vốn văn hóa, mỗi

nhà thơ Thái Nguyên là những con người luôn nỗ lực hết mình trên hành trình

sáng tạo không ngừng để khẳng định vị thế của thơ ca Thái Nguyên hôm nay.

1.2.2. Khái quát thơ trẻ Thái Nguyên

1.2.2.1. Khái niệm thơ trẻ

Nói về thơ trẻ Thái Nguyên, trước hết cần xác định phạm vi của khái

niệm. Trong luận văn này, chúng tôi quan niệm thơ trẻ là thơ của những tác giả

thuộc thế hệ 8X, 9X, họ trẻ về tuổi đời và cả tuổi làm thơ. Đó là những con

người mang sinh khí mới, là mối quan tâm của nhiều nhà phê bình.

Bên cạnh đó, còn có những người viết trẻ về tuổi nghề nhưng không còn

trẻ về tuổi đời như Phan Thái, Dương Văn Mưu, Dương Văn Oanh… Ở giai

đoạn hiện nay, thơ trẻ Thái Nguyên phát triển sôi nổi và có nhiều thành tựu hơn

cả so với văn xuôi với một lực lượng sáng tác rất đông đảo. Trong luận văn

này, chúng tôi điểm qua một số cây bút trẻ Thái Nguyên tiêu biểu, có nhiều

sáng tác khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ ca Thái Nguyên đương

đại như: Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy,

Doãn Long, Hoàng Thị Hiền, Trần Thị Nhung, Gia Hân…

1.2.2.2. Những mạch nguồn phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên

Thái Nguyên được biết đến là nơi phát hiện những dấu tích từ rất sớm

của người Việt cổ, đồng thời cũng là mảnh đất có vị trí địa lý là cửa ngõ giao

lưu của nhiều nền văn hóa. Văn học đương đại nói chung và thơ ca đương đại

nói riêng đều được nuôi dưỡng từ nguồn mạch chung của văn học dân gian.

Lịch sử lâu đời cùng bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa là điều kiện nuôi

14

dưỡng và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của văn học. Quá trình giao thoa văn

hóa giữa các dân tộc cùng sinh sống trong một phạm vi địa lý đã tổng hòa

thành đời sống văn hóa, văn học dân gian của một địa phương. Đồng thời, vốn

văn hóa, văn học dân gian ấy cũng chịu sự chi phối của những điều kiện địa lý

tự nhiên, lịch sử, xã hội trong quá trình giao thoa, hòa nhập để trở nên phong

phú về nội dung, bền vững về phong cách, đa dạng về sắc thái.

Văn học Thái Nguyên vừa mang sự pha trộn trong quá trình giao lưu văn

hóa, vừa mang nét bản sắc đặc trưng của địa lý tự nhiên và đời sống cộng đồng

của dân cư Thái Nguyên, là sự thống nhất trong đa dạng. Có thể nói, sự phát

triển nói chung của văn học Thái Nguyên đương đại được nuôi dưỡng từ mạch

nguồn văn học dân gian của các dân tộc nơi đây. Những bài hát Sli, Lượn;

những câu ca dao mượt mà, đằm thắm; những câu tục ngữ, các bài hát mo... là

những hình thức sinh hoạt dân gian còn lưu giữ đến ngày nay có ảnh hưởng sâu

sắc đến sự hình thành và phát triển của thơ ca Thái Nguyên. Văn học dân gian

là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tinh thần, tình cảm, trí tuệ trong cộng đồng

các dân tộc anh em cùng nhau sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên; là cội

nguồn, là nền tảng cho sự phát triển của thơ ca Thái Nguyên đương đại nói

chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng.

Cùng với quá trình phát triển lịch sử của văn học Việt Nam đương đại

nói chung, văn học Thái Nguyên, thơ ca Thái Nguyên cũng có quá trình phát

triển gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc. Trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp, hòa chung nhịp đập với thơ ca của các nhà thơ dân tộc

thiểu số vùng chiến khu cách mạng Việt Bắc, các nhà thơ Thái Nguyên đã có

những sáng tác bằng tiếng dân tộc (Tày, Nùng…) góp thêm màu sắc đa dạng

cho văn nghệ kháng chiến, đồng thời cổ vũ tức thời tinh thần đấu tranh của

đồng bào Việt Bắc trong kháng chiến.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để kịp thời động viên

phong trào cách mạng của quân và dân các dân tộc Việt Bắc trong kháng chiến,

15

ngày 19/8/1946, Báo Chiến khu thuộc Chiến khu I – tiền thân của Báo Quân

khu I ngày nay phát hành số đầu tiên. Báo Chiến khu thời kì đó luôn bám sát

các chỉ thị, chủ trương, nghị quyết của cấp trên, phản ánh kịp thời các hoạt

động và phong trào thi đua quyết thắng địa phương, hướng đến mục tiêu chung

là cổ vũ cách mạng, cổ vũ kháng chiến giành thắng lợi: “Trong hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, mỗi phóng viên, biên tập viên, công

nhân viên Tòa soạn đều hành động quên mình dưới bom rơi, đạn nổ để có những

bài phóng sự, ghi nhanh, tin tức nóng hổi từ mặt trận gửi về, từ hậu phương gửi ra

tiền tuyến” [65]. Tờ báo Quân khu I là nơi góp phần tạo nên những tên tuổi như:

Đặng Vương Hưng, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Anh Nông…

Sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, để phù hợp với

điều kiện cách mạng trong tình hình mới, Trung ương Đảng và Bác Hồ rời thủ

đô Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc. Thái Nguyên được chọn làm trung tâm

kháng chiến, thủ đô cách mạng của cả vùng Việt Bắc. Trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Thái Nguyên cũng như nhiều tỉnh thuộc

an toàn khu Việt Bắc đã trở thành cái nôi của văn chương cách mạng, văn học

kháng chiến. Đến những năm 1949 – 1950, Hội Văn nghệ Việt Nam và Báo

Văn nghệ đặt trụ sở tại xóm Chòi, xã Mỹ Trạng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái

Nguyên. Mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng có thể nói, đây là cái nôi

văn nghệ trong kháng chiến, một mảnh đất gắn liền với lịch sử cách mạng của

dân tộc, đồng thời in dấu lịch sử báo chí, văn chương nghệ thuật Việt Nam

trong kháng chiến. Trong bối cảnh đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Pháp,

văn nghệ sĩ không chỉ là người cầm bút mà đồng thời cũng là những chiến sĩ

tham gia chiến đấu trên chiến trường ác liệt. Đó là những năm tháng không thể

nào quên trong lịch sử dân tộc, cũng là điều kiện cho sự bồi dưỡng, phát triển,

nuôi dưỡng mầm sống, cũng là nơi khởi sinh những truyền thống và di sản văn

chương đồ sộ, hào hùng thời chiến của văn học nghệ thuật Thái Nguyên nói

16

riêng và văn học Việt Nam trong kháng chiến nói chung.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thành công, Trung ương Đảng và

Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Đến năm 1957, Hội Văn nghệ Việt

Bắc được thành lập ở thị xã Thái Nguyên. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa đối

với văn học Thái Nguyên nói riêng mà đã tạo nên một cuộc hội tụ, giao lưu

giữa các nhà thơ ở sáu tỉnh Việt Bắc đã từng sát cánh trong kháng chiến chống

Pháp. Trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc được đặt ở chính thủ đô gió ngàn, thủ

đô kháng chiến Thái Nguyên. Không chỉ là trung tâm của các tỉnh miền núi

phía Bắc, Thái Nguyên còn là trung tâm văn hóa, văn nghệ của cả chiến khi

Việt Bắc nói chung. Hội Văn nghệ Thái Nguyên là một tổ chức văn học có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng đối với văn học các tỉnh miền núi phía Bắc. Có thể kể

đến những tên tuổi tiêu biểu như các tác giả dân tộc thiểu số: Nông Quốc Chấn,

Bàn Tài Đoàn… Có thể nói, những tác giả người dân tộc thiểu số trong giai

đoạn này cũng là những tên tuổi đầu tiên làm nên nền văn học chiến khu

Việt Bắc và văn học Thái Nguyên sau này. Sự thành lập của Hội Văn nghệ

Việt Bắc đã tạo điều kiện cho nền văn học của các dân tộc Việt Bắc, trong

đó có Thái Nguyên, có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Có thể kể đến những

sáng tác tiêu biểu như: Tiếng ca người Việt Bắc của nhà thơ dân tộc Tày

Nông Quốc Chấn, Muối của Cụ Hồ, Xuân về trên núi của nhà thơ người Dao

Bàn Tài Đoàn… đều ra đời trong giai đoạn này. Sự thành lập của Hội Văn

nghệ Việt Bắc có trụ sở ở Thái Nguyên là điều kiện thuận lợi cho văn học

Thái Nguyên có sự giao lưu giữa các dân tộc, các vùng miền, là tiền đề quan

trọng tạo nên tính đa dạng nhưng vẫn thống nhất của văn học trên quê hương

cách mạng anh hùng.

Khi đất nước một lần nữa chìm trong bom đạn của cuộc chiến tranh xâm

lược của đế quốc Mỹ, nhân dân Thái Nguyên đem sức mình đóng góp vào cuộc

kháng chiến giành độc lập dân tộc và văn học Thái Nguyên cũng không nằm

ngoài dòng mạch chung của văn học kháng chiến giai đoạn này. Những tác

17

phẩm văn học giai đoạn này mang hơi thở của thời đại, cổ vũ cho sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Có thể kể đến những sáng

tác tiêu biểu của văn học kháng chiến giai đoạn này như: Trận địa giữa ruộng

bậc thang (Nông Minh Châu); Suối gang; Lên cao (Xuân Cang); Người chia

ánh sáng (Vi Hồng); Suối Lê Nin (Trần Văn Loa); Gái Quan Lang (Lê Thoa)…

Nói đến văn học nghệ thuật Thái Nguyên không thể không nhắc đến văn

nghệ khu gang thép một thời. Ngày 20/12/1963, khu gang thép Thái Nguyên

được khánh thành. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, khu gang thép

Thái Nguyên ngày ấy, Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên ngày nay đã

phát triển, lớn mạnh. Trong suốt chặng đường phát triển ấy, khu gang thép Thái

Nguyên không chỉ khẳng định mình với “tinh thần thép” trong lao động, sản

xuất mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, văn nghệ, tạo nên một

thời văn nghệ gang thép lừng danh với những tên tuổi như: Trịnh Thanh Sơn,

Xuân Cang, Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Đình Quang… Nhà thơ Nguyễn

Thúy Quỳnh – Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Tổng

biên tập tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam – nhân

dịp kỷ niệm 50 năm xây dựng và phát triển của Công ty cổ phần gang thép Thái

Nguyên đã nói về một lịch sử xây dựng, trưởng thành của công ty gắn liền với

đời sống văn hóa, văn học luôn được quan tâm dù trong bất kì hoàn cảnh khó

khăn nào: “Nhưng có một điều thật lạ Công ty gang thép vẫn duy trì các hoạt

động văn hóa nghệ thuật sinh động và sung mãn. Vào thời đó mà Gang thép tổ

chức được hẳn hai trại viết văn. Những người viết như nhà văn Xuân Cang nhà

văn Chu Hồng Hải nhà thơ Trịnh Thanh Sơn và các cây bút Ngô Khuyến

Phong (Đội phòng cháy chữa cháy) Hồng Nguyên (Xưởng Vật Liệu chịu lửa).

Phan Chừng (xưởng Xe máy) Đào Thành Lạng (Xưởng cơ khí) Trọng Thể

(Xưởng Công trình I) Vũ Đảm (Xưởng Luyện gang)... vẫn được triệu tập về dự

trại viết. Nhờ thế mà Khu Gang thép đã có được một tập truyện ngắn và một

tập ký mang đầy không khí của Khu Gang thép Thái Nguyên lúc ấy” [48].

18

Chính sự quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần ấy đã làm nên sức mạnh của

khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên dù trong bất kì hoàn cảnh khó khăn

nào, đồng thời tạo nên một phong trào văn hóa, văn nghệ có ảnh hưởng sâu

rộng và những tên tuổi có nhiều thành tựu sáng tác được ghi nhận.

Sau khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, đến năm 1987,

Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên được thành lập đã tạo nên một dấu

ấn quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt mới của thơ ca Thái Nguyên trong

thời kì đổi mới. Từ chỗ là trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc (năm 1957), cho

đến nay, Thái Nguyên vẫn ghi dấu với những tác giả lớn có kinh nghiệm sáng

tác dày dặn như: Khánh Kiểm, Trần Văn Loa, Ma Trường Nguyên, Thế Chính,

Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh, Hiền Mặc Chất, Nguyễn

Long, Nguyễn Đức Hạnh, Hữu Tiệp, Mai Thắng, Minh Hằng, Ba Luận, Vũ Đình

Toàn… Trong thơ của mình, mỗi nhà thơ đều cố gắng tạo cho mình một phong

cách nghệ thuật riêng, khẳng định cá tính sáng tạo và cái tôi riêng không hòa lẫn.

Những tên tuổi tiêu biểu của thơ ca Thái Nguyên không chỉ khẳng định được vị

trí của mình trên chính quê hương Thái Nguyên mà còn được đón nhận, khẳng

định mình trong sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại.

Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển không ngừng của đất nước,

trong bối cảnh quá trình hội nhập, giao lưu và phát triển, thơ ca Thái Nguyên

cũng đạt được những thành công mới, đánh dấu vị trí của mình trong sự phát

triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại. Thơ ca Thái Nguyên khẳng định vị

trí của mình cả về số lượng và chất lượng, cả về lực lượng sáng tác và giá trị

nghệ thuật của tác phẩm. Bên cạnh những tên tuổi có nhiều kinh nghiệm như

Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Ma Trường Nguyên, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Hoàng Tố Nga, Cao Hồng, Lưu Thị Bạch Liễu, Minh Thắng… một lực lượng

đông đảo các tác giả đã xuất hiện từ cuối thế kỷ trước đang dần được khẳng

định vị trí của mình ở đầu thế kỉ này như: Dương Thu Hằng, Phan Thái,

Nguyễn Kiến Thọ, Hồ Triệu Sơn, Ngọ Quang Tôn… Ở giai đoạn văn học này,

19

nếu như văn xuôi Thái Nguyên chỉ phát triển một cách bình lặng, không có

nhiều tên tuổi được chú ý như những giai đoạn trước cũng như không có

những giải thưởng đánh dấu sự thành công của đội ngũ sáng tác thì thơ ca lại

phát triển rất sôi nổi. Những giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các

hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trong các năm 2004 đến 2011 trao cho các

tập thơ Mưa mùa đông của Nguyễn Thúy Quỳnh, Cánh chim về núi của Võ

Sa Hà, Rét ngọt của Minh Thắng; Ba giải thưởng thơ của hai tờ báo lớn: Văn

nghệ Quân đội và Báo văn nghệ trao cho ba tác giả: Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà - đã khẳng định vị thế của thơ ca Thái

Nguyên trong sự phát triển chung của thơ ca đương đại, đưa vị thế thơ của

Thái Nguyên lên một tầm cao mới trong cả nước.

Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống lịch sử, văn học từ rất sớm với

trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Bắc, từng là trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Nam

và Báo Văn nghệ trong những năm 1949 – 1950, có khu gang thép Thái

Nguyên với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa văn nghệ sôi nổi, có tờ báo

Quân khu I (Tiền thân là báo Chiến khu), có Hội Văn học Nghệ thuật Thái

Nguyên luôn quan tâm bồi dưỡng, phát triển đội ngũ sáng tác của tỉnh nhà…

Tất cả những điều kiện ấy tạo thuận lợi cho các nhà thơ, nhà văn Thái Nguyên

có cơ hội được tiếp xúc và thừa hưởng truyền thống văn hóa, văn học của địa

phương làm nền tảng và mạch nguồn nuôi dưỡng tình yêu văn chương nghệ

thuật trong thế hệ trẻ.

Thái Nguyên là tỉnh có điều kiện địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao lưu

kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với vùng đồng bằng và

thủ đô Hà Nội, là trung tâm vùng của các tỉnh trung du miền núi, đồng thời là

khu vực đông dân cư, là trung tâm đào tạo, giáo dục lớn (đứng thứ ba cả nước

và thứ nhất ở khu vực miền núi phía Bắc). Ở Thái Nguyên, lực lượng trí thức

chiếm một số lượng đông đảo và được tỉnh quan tâm, tạo điều kiện phát triển

nên có ưu thế hơn so với các địa phương khác. Chính những điều kiện đó đã

20

giúp các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có điều kiện tiếp xúc với một nền văn hóa,

giáo dục để phát triển bản thân và tạo thuận lợi cho quá trình bồi dưỡng, phát

triển năng khiếu trong sáng tác văn chương nghệ thuật. Hơn thế nữa, hầu hết

các nhà thơ trẻ Thái Nguyên đều là nhà giáo nên có điều kiện, môi trường

thuận lợi để tiếp xúc với giới sáng tác, phê bình, có điều kiện giao lưu học hỏi

và kế thừa kinh nghiệm của những người đi trước. Lực lượng sáng tác trẻ của

tỉnh Thái Nguyên luôn nhận được sự quan tâm của các cơ quan, đều được tham

gia lớp tập huấn viết văn do Hội Văn nghệ tổ chức. Bên cạnh đó, những người

có đam mê trong sáng tác văn học, những cây bút trẻ cũng được tham dự nhiều

cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, nói chuyện với các nhà văn, nhà thơ lớn, qua đó có thêm

kinh nghiệm trong sáng tác.

Ngoài các nhà thơ với kinh nghiệm sáng tác đã đạt được những thành

công góp phần khẳng định vị thế của thơ Thái Nguyên thì giai đoạn hiện nay,

thơ Thái Nguyên còn ghi dấu với hàng loạt những tên tuổi trẻ như Dương Thu

Hằng, Vũ Thị Tú Anh, Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long, Trần Thị

Nhung… với những cá tính riêng, những cách tân nghệ thuật độc đáo tạo nên

những nét riêng biệt trong thơ. Sự xuất hiện của đội ngũ các nhà thơ trẻ bên

cạnh những nhà thơ cũ ghi dấu tên tuổi mình với nhiều phong cách nghệ thuật

riêng, nhiều sáng tạo độc đáo với những tìm tòi trên hành trình sáng tạo nghệ

thuật đã tạo cho thơ ca Thái Nguyên sự đa dạng, phong phú. Trong sáng tác của

các nhà thơ trẻ Việt Nam nói chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng, mỗi nhà

thơ đều cố gắng xác lập cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng biệt, độc

đáo, không trùng lặp: “Có nhà thơ còn quan niệm thơ hay phải là thơ không

thể hiểu được. Càng bí hiểm càng tốt. Không ít bài thơ cứ như những câu đố

không có lời giải. Hỏi, tác giả cũng không biết gì hơn. Ông bảo, nếu ông biết

bài thơ nói gì thì ông đã nói toẹt ra rồi, còn làm thơ làm gì nữa. Ngược lại, có

nhà thơ lại tìm đến sự giản dị, khai thác những số phận riêng của mỗi con

người. Có bài thơ như truyện ngắn, hoặc như cả một cuốn tiểu thuyết, có cốt

21

truyện, có nhân vật, có mở, có thắt” [30].

Thế kỉ XXI đánh dấu sự phát triển nổi bật của thơ Thái Nguyên nói

chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng với những cây bút có ý thức tìm tòi và

đổi mới thơ. Có thể nói rằng, thơ Thái Nguyên thế kỉ XXI đã có sự thay đổi về

chất. Một số cây bút trẻ như Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy bước đầu được

ghi nhận thành công qua các Giải thưởng thơ của Văn nghệ Quân đội và Báo

Văn nghệ, giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ

thuật Việt Nam... Họ đã và đang không ngừng cố gắng để khẳng định bản thân

trong nền thơ ca của tỉnh nhà. Để làm được điều đó, mỗi cây bút đều cố gắng

lựa chọn cho mình một phong cách, một lối đi riêng, hướng ngòi bút của mình

vào những biểu hiện muôn màu của cuộc sống hiện đại. Có người lựa chọn

khuynh hướng truyền thống, có người đi theo khuynh hướng cách tân nghệ

thuật nhưng tất cả đều là những con người cần mẫn, nghiêm túc trong sáng tác

để khẳng định giá trị thực sự và vai trò quan trọng của văn chương nghệ thuật.

Ngoài những thuận lợi về truyền thống lịch sử, văn hóa, văn nghệ, các

nhà thơ trẻ Thái Nguyên đều là những trí thức, được trang bị những kiến thức

và kinh nghiệm liên quan tới sáng tác. Nhiều người trong đó sớm được tiếp xúc

với môi trường văn chương, môi trường sáng tác. Sự phát triển của đội ngũ

đông đảo các nhà thơ trẻ Thái Nguyên còn phải kể đến sự quan tâm, giúp đỡ,

tạo điều kiện của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, báo Thái Nguyên… có kế hoạch

bồi dưỡng để các cây bút trẻ từng bước trưởng thành trong sáng tác. Những

điều kiện đó đã tạo thuận lợi cho văn học Thái Nguyên nói chung, các nhà thơ

trẻ Thái Nguyên nói riêng có điều kiện để phát triển và hoàn thiện, từng bước

khẳng định vị thế của mình và vị thế của thơ ca Thái Nguyên trong sự phát

triển chung của thơ ca Việt Nam.

1.2.2.3. Quá trình vận động và phát triển của thơ trẻ Thái Nguyên

Thái Nguyên - mảnh đất giao lưu của nhiều nền văn hóa đã trở thành nơi

hội tụ của những giá trị văn hóa, văn học. Văn học Thái Nguyên hôm nay là

22

một quá phát triển lâu dài, vừa chọn lọc, vừa kế thừa và sáng tạo, trong đó

không thể không kể đến những đóng góp quan trọng của lực lượng sáng tác là

những nhà thơ trẻ Thái Nguyên.

Trong sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại, thơ Thái

Nguyên cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung. Về hình thức và

khuynh hướng sáng tác, thơ ca Thái Nguyên nói chung, thơ trẻ Thái Nguyên

nói riêng chủ yếu sáng tác theo hai khuynh hướng: khuynh hướng trung thành

với thơ truyền thống và khuynh hướng cách tân nghệ thuật trong thơ. Thơ Thái

Nguyên không có những tác giả sáng tác theo khuynh hướng nổi loạn. Những

tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng truyền thống có thể kể đến như Doãn Long,

Phan Thái. Những tác giả đi theo khuynh hướng cách tân nghệ thuật có số

lượng đông đảo hơn với những tên tuổi tiêu biểu như Phạm Văn Vũ, Nguyễn

Nhật Huy, Trần Thị Nhung, Gia Hân, Hoàng Thị Hiền… Đây cũng là khuynh

hướng sáng tác có những cây bút gặt hái được nhiều thành công và khẳng định

vị trí của mình trong nền thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng và thơ trẻ Việt Nam

đương đại nói chung.

Nhìn chung, thơ trẻ Thái Nguyên đã bước đầu bắt kịp sự phát triển của

nền thơ trẻ toàn quốc, có những tác giả với những sáng tác được đánh giá cao

qua các cuộc thi, các giải thưởng văn học trong cả nước. Tiêu biểu cho những

thành tựu của thơ trẻ Thái Nguyên có thể kể đến hai gương mặt: Phạm Văn Vũ

là Nguyễn Nhật Huy. Họ đều là những người đến với văn chương nghệ thuật từ

rất sớm và sớm khẳng định được bản thân với phong cách sáng tác riêng qua

những tập thơ chủ yếu theo khuynh hướng tìm tòi, cách tân nghệ thuật mới mẻ.

Bên cạnh hai gương mặt tiêu biểu trên, thơ trẻ Thái Nguyên có một đội ngũ

sáng tác đông đảo vẫn luôn say sưa, cần mẫn, đam mê trong sáng tạo văn

chương nghệ thuật, luôn cố gắng tìm tòi những cái hay, cái mới trên hành

trình đổi mới và phát triển của thơ Thái Nguyên nói riêng và nền thơ ca nước

nhà nói chung. Hầu hết những nhà thơ trẻ đều là những trí thức, những nhà

23

giáo, nhà báo, thiết nghĩ, đó là là lực lượng sáng tác quan trọng, là đội ngũ

nuôi dưỡng và vun đắp tình yêu văn chương trong thế hệ trẻ Thái Nguyên

hôm nay.

Có thể nói, chưa có giai đoạn nào, thơ ca lại xác lập cho mình diện mạo

phong phú, đa dạng với nhiều phong cách, nhiều xu hướng, nhiều giọng điệu

riêng biệt như giai đoạn hiện nay. Thơ trẻ Thái Nguyên thực sự trở thành một

bộ phận trong nền thơ ca Thái Nguyên có lẽ bắt đầu từ năm 2000 đến nay.

Trước đó, thơ Thái Nguyên ghi nhận một vài gương mặt thơ trẻ như Dương

Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh và Phạm Văn Vũ.

Tác giả trẻ Dương Thu Hằng có tác phẩm đăng báo từ khi còn rất trẻ

với 2 tập thơ: Men đầu (2000), Đón lá (2004). Bên cạnh đó chị đã xuất bản 2

tập truyện ngắn Ngày cho em (2002), Lá thư không gửi (2003), đến nay chị đã

có hàng trăm bài thơ, truyện ngắn được đăng tải với một số giải thưởng văn học

như: Giải ba Hương đầu mùa báo Hoa học trò năm 1993 - 1994, Giải thưởng

Văn học tuổi xanh (1994), Tặng thưởng tác phẩm Văn học tuổi xanh báo Tiền

phong (1997), Giải thưởng Truyện ngắn báo Gia đình và Trẻ em (2004),… Thơ

chị không cầu kỳ, gọt giũa mà có sự trong trẻo, tinh khôi của tuổi trẻ nhưng

không kém phần sâu sắc và nhạy cảm.

Thơ Vũ Thị Tú Anh khá thông minh, sâu sắc và có phần tinh nghịch.

Song chị viết ít, thi thoảng độc giả mới bắt gặp một vài bài thơ của chị trên các

trang báo Thái Nguyên.

Đại diện cho thơ trẻ Thái Nguyên trước năm 2010 nổi bật hơn cả đó là

Phạm Văn Vũ. Anh sinh năm 1984, là người dân tộc Tày, quê ở Định Hóa,

Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ đã từng dạy học tại huyện Định Hóa và hiện làm

việc tại Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên.

Phạm Văn Vũ là người có niềm đam mê đối với văn chương, anh theo

học tại trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và trở thành hội viên trẻ nhất của

Hội Văn học nghệ thuật Thái Nguyên khi là sinh viên năm thứ hai của Khoa

24

Ngữ văn. Là cây bút sớm có tình yêu và bén duyên với văn chương nghệ thuật,

Phạm Văn Vũ đến với sáng tác và trở thành hội viên hội văn học nghệ thuật từ

khi còn rất trẻ. Năm 2005, khi đang là sinh viên Khoa Ngữ văn – Trường Đại

học Sư phạm Thái Nguyên, Phạm Văn Vũ đạt giải thưởng cuộc thi Bút Hoa –

Báo Tài hoa Trẻ. Năm 2006, Phạm Văn Vũ dự Hô ̣i nghi ̣ Những ngườ i viết văn

trẻ toàn quốc lần thứ 7 ở Hô ̣i An, khi ấy Phạm Văn Vũ 22 tuổi và cũng là đa ̣i biểu trẻ nhất của hội nghị.

Là cây bút sáng tác với tuổi đời còn trẻ nhưng Phạm Văn Vũ đã sớm gặt

hái được những thành công trên con đường nghệ thuật với những giải thưởng

khẳng định tài năng và tạo cá tính sáng tạo riêng. Tâ ̣p thơ đầu tay mang tên

Trong nỗi nhớ mà u chà m (2007) bộn bề những nỗi niềm củ a mô ̣t người trẻ cô đơn, nhiều suy tư, trăn trở..., một người trẻ tuổi nhưng “già” trướ c tuổ i. Nhưng có thể nói, đáng quý nhất là của tập thơ là sự trong trẻo trong tâm hồn của một

cây bút trẻ. Ngoài tập thơ đầu tay Trong nỗi nhớ màu chàm (2007), Phạm Văn

Vũ còn khẳng định cá tính thơ của mình với tập thơ Mọc (2016). Bên cạnh sáng

tác văn học, anh còn xuất bản tác phẩm Ngẫu luận (trò chuyện văn chương,

2011) là những cuộc trò chuyện với các nhà thơ, nhà văn của Thái Nguyên.

Mỗi cuộc trò chuyện là một quan niệm về các vấn đề văn chương nghệ thuật

được các tác giả và người viết cùng nhau trao đổi, qua đó cung cấp cho người

đọc những tư liệu quan trọng khi tìm hiểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng

tác, phong cách nghệ thuật của các cây bút Thái Nguyên mọi lứa tuổi.

Nói đến thơ trẻ Thái Nguyên trong những năm gần đây, chúng ta còn

nhắc đến một tác giả khá tiêu biểu là Nguyễn Nhật Huy. Anh sinh ngày

18/6/1987, trước đây là sinh viên Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm

Thái Nguyên và hiện nay là cán bộ giảng dạy ở bộ môn Lý luận văn học – Văn

học nước ngoài tại khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

Trong cuộc trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Nhật Huy, Phạm Văn Vũ

từng nhận xét: “Là một giảng viên Sư phạm, nhưng anh chưa bao giờ có ý định

25

xây dựng hình ảnh mô phạm trước học trò và đồng nghiệp. Là người sáng tác,

nhưng anh không có thói quen ngồi trầm tư, mà luôn bắt tay vào những công

việc có thể kiếm ra tiền bằng sức lao động. Thật ra, đằng sau cái vẻ ngoài của

một trai trẻ bông phèng đến bất cần ấy là một con người nghiêm túc, tự trọng,

mang tư chất của một nghệ sĩ đầy khao khát” [65].

Thơ Nguyễn Nhật Huy mang một cá tính riêng, và thơ anh nhiều khi

khiến người ta khó đọc, khó hiểu. Tự nói về bản thân mình, nhà thơ Nguyễn

Nhật Huy từng chia sẻ: “Tôi không đại diện được cho những người viết trẻ,

nhưng bản thân thấy cái “tạng” tôi không thích sự ổn định của thể loại. Nó

như một thứ đạo đức cũ đôi khi trói buộc con người. Tôi rất thích phá vỡ các

thể loại. Đi tìm cái mới thì anh phải chấp nhận đập vỡ cái cũ, đập vỡ chính bản

thân mình. […] Tất nhiên tôi không phủ định quá khứ. Tôi chỉ luôn có cảm giác

không thỏa mãn với những lý giải của người đi trước, thậm chí có nhiều vấn đề

không phục. Nó thúc đẩy tôi đi tìm một hình thức mới, một lý giải mới về cuộc

sống” [65]. Nguyễn Nhật Huy cho ta thấy một cái tôi rất đời thường nhưng

cũng luôn trăn trở với những điều trong cuộc sống, luôn cố gắng lý giải, cắt

nghĩa những vấn đề của cuộc sống hiện đại bằng con mắt của người trẻ tuổi.

Bằng cuộc sống và sáng tác, Nguyễn Nhật Huy cho ta hình ảnh một con người

luôn nghiêm túc và đầy khát khao trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.

Bên cạnh công việc giảng dạy, Nguyễn Nhật Huy còn tham gia cộng tác

với một số báo như: Báo Văn nghệ, Văn nghệ Thái Nguyên, Tạp chí Cửa biển,

Tạp chí Non nước, Báo tuổi trẻ.... Anh cũng là thành viên của Câu lạc bộ Văn

học Trẻ Thái Nguyên, Có truyện ngắn và thơ đăng trên các báo: Văn nghệ Thái

Nguyên, Tuổi trẻ, Văn nghệ… Đồng thời, Nguyễn Nhật Huy cũng khẳng định

vị trí của mình với một số giải thưởng như: Giải ba thơ Người đô thị của Liên

hiệp các hội văn học nghệ thuật Đà Nẵng, Giải Nhì thơ, Giải Ba truyện ngắn

trong Cuộc thi Sáng tác văn học 2014 – 2016 trên báo Văn nghệ Thái Nguyên.

Những giải thưởng đó cho dù không phải là tất cả nhưng phần nào đã khẳng

định được vị thế của tác giả với một cái tôi riêng, một cá tính mạnh mẽ trong

26

sáng tác.

Thơ trẻ Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2010 đến nay có sự tăng mạnh về

số lượng người cầm bút. Bên cạnh những cái tên như Dương Thu Hằng, Phạm

Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy còn có thể kể đến những cái tên khác như Doãn

Long, Hoàng Thị Hiền, Trần Thị Nhung, Gia Hân… Lí giải cho sự xuất hiện

của một loạt các tác giả mới ấy có lẽ phải kể đến sự quan tâm, chăm lo của Hội

Văn học nghệ thuật Thái Nguyên và Báo Văn nghệ Thái Nguyên khi đã tổ chức

các lớp bồi dưỡng viết văn trẻ, mời các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu (Y Phương,

Cao Duy Sơn,…), các nhà thơ hiện đại có sự cách tân (Nguyễn Quang Thiều,

Nguyễn Bình Phương). Đây là dịp các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có dịp học hỏi,

trao đổi kinh nghiệm với các bậc chú, bác trong nghiệp thơ. Hơn nữa, ngày thơ

Việt Nam như một liều thuốc tinh thần, kích thích sự đam mê sáng tác của các

tác giả trẻ. Ngoài ra, sự giao lưu giữa các nhà thơ trẻ của các địa phương cũng

là dấu ấn quan trọng có tác dụng kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển của

thơ trẻ Thái Nguyên. Điều đặc biệt không thể không nhắc tới đó là các tác giả

của thơ trẻ Thái Nguyên đa phần đều xuất thân là nhà giáo. Họ may mắn được

sinh ra và học tập ở nơi trung tâm về văn hóa giáo dục với nhiều thế hệ tác giả

am hiểu sâu sắc và yêu quý, đam mê thơ ca. Đó là những tiền đề quan trọng

cho sự ươm mầm tài năng văn chương cũng như điều kiện thuận lợi góp phần

tạo nên một lực lượng sáng tác đông đảo về số lượng, không ngừng nâng cao

về chất lượng cho thơ trẻ Thái Nguyên hôm nay.

* Tiểu kết chương 1:

Trong chương 1, chúng tôi khái quát một số vấn đề lí luận và thực tiễn

làm cơ sở cho việc nghiên cứu luận văn.

Trước hết, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất quan trọng của sáng

tạo nghệ thuật, được xây dựng trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất

định. Nó là một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật, phản ánh những quan niệm

của người nghệ sĩ về thế giới, đồng thời thể hiện chiều sâu cảm xúc trong tâm

27

hồn người viết.

Cái tôi là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có

của mỗi con người. Đó là khái niệm đánh dấu ý thức của con người về bản thể

tồn tại của chính mình.

Thái Nguyên là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa,

hơn thế nữa lại là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng

hào hùng. Nơi đây còn được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa,

văn học. Tất cả những điều kiện ấy đã trở thành nền tảng và mạch nguồn nuôi

dưỡng tình yêu văn chương nghệ thuật, hun đúc nên một đội ngũ những nhà thơ

Thái Nguyên trong đó có những nhà thơ trẻ hôm nay.

Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, thơ trẻ Thái Nguyên đang từng

bước khẳng định mình không chỉ trong nền thơ Thái Nguyên mà còn trong sự

phát triển chung của thơ ca đương đại trên toàn quốc. Đội ngũ các nhà thơ trẻ

Thái Nguyên là một lực lượng sáng tác quan trọng, triển vọng để đưa thơ Thái

Nguyên phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam.

Trong chương 1, chúng tôi đã khái quát những vấn đề lí luận về thế giới

nghệ thuật, cái tôi trữ tình cũng như những nét chung nhất về mảnh đất Thái

Nguyên - mảnh đất khởi nguồn cho thơ và phác thảo diện mạo chung của thơ

trẻ Thái Nguyên trên hành trình phát triển. Đây sẽ là những tiền đề quan trọng

cho việc nghiên cứu cụ thể về thơ trẻ Thái Nguyên mà chúng tôi sẽ trình bày ở

28

những chương sau.

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM VỀ CẢM HỨNG VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN

2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ trẻ Thái Nguyên

Cảm hứng thế sự không phải là loại cảm hứng mới mẻ trong thơ nói

chung và thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng. Có thể nói cảm hứng thế sự là sự phát

triển tất yếu của một nền thơ ca. Bởi lẽ, khi đã hoàn thành sứ mệnh chính trị

cách mạng thiêng liêng thì thơ ca có xu hướng quay về với những lo toan, trăn

trở đời thường, những vấn đề cốt lõi trong cuộc sống và con người... Đó là

những trạng thái phức tạp của tâm hồn người cầm bút trước những vấn đề gai

góc của cuộc sống và con người, là hạnh phúc và khổ đau, là được mất - hơn

thua, là thật thà và gian trá, là bản ngã và chân lí… Tất cả đều được soi chiếu

qua lăng kính thơ. Trong những thập niên đầu thế kỉ XXI cảm hứng thế sự đã in

dấu rất đậm trong thơ của các tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Kiến Thọ,

Lưu Thị Bạch Liễu… Họ là những người đã từng dằn vặt, trăn trở để tìm ra

một định nghĩa về cuộc đời vốn dĩ rất phức tạp.

Mẹ không muốn ru

Bằng những câu chuyện thần tiên

Rằng chỉ cần sống hiền là đủ

Con hay nhìn những đóa hoa tội nghiệp kia

Chúng không nỡ làm đau một cánh bướm

Mà lũ sâu vẫn cắn xé tơi bời

(Lưu Thị Bạch Liễu – Hát ru)

Đến thế hệ các nhà thơ trẻ 8X, 9X, cảm hứng thế sự cũng là nỗi niềm, là

những suy ngẫm trở đi trở lại trong thơ. Bởi lẽ, thơ là một hình thức biểu hiện

cái tôi cá nhân của tác giả. Thông qua những hình ảnh, biểu tượng trong thơ,

qua ngôn ngữ nghệ thuật thơ, nhà thơ thể hiện những trăn trở, suy tư, chiêm

29

nghiệm về thế giới.

Con người giữa cuộc sống hiện đại tấp nập, ồn ào nhưng đâu đó vẫn là những góc khuất, những con người như đứng ngoài nhịp sống xã hội. Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đã từng xót xa về những số phận như thế, đó là hình ảnh em bé bán củi bị ướt mưa:

Phiên chợ ngày mưa, thưa thớt bóng người Em cõng củi dầm chân đứng đó Tôi khoác túi bồn chồn về phố Có vệt khói dài lặng lẽ lan theo

(Một sáng Đồng Văn) Hay một người hát rong (Nghe câu hát từ xe hàng rong) hay người dân quê nghèo phải đến nơi đất khách quê người kiếm sống (Một chuyến xe khách)… Đến Doãn Long, thì đó là hình ảnh “người điên” đầy trăn trở:

Không áo Che đầu là mái tóc xù Có chiếc quần đính thân Lũ trẻ trâu – không đùa nữa!

Trước quán ăn Manh quần cộc hẫng Tóc cũng cần một chút nắng trưa Mượn nơi cỏ nằm để đứng

(Doãn Long – Người điên)

Giữa trăm nghìn người lướt qua trong cuộc sống, hình ảnh người điên hiện lên như một mảnh ghép đặc biệt. Và hơn hết, hình ảnh ấy được đặt trong một không gian đối lập:

Trong quán ăn Khách nâng chén lên, rượu tràn mâm lênh láng Chảy xuống gầm sàn…

Kẻ bên đường vẫn ngồi bất động Chỉ còn đôi môi nhấp nháy Đợi miếng thức ăn văng xa!

30

(Doãn Long – Người điên)

Nếu như trước quán ăn là hình ảnh người điên với đầu trần, “không áo”,

và “manh quần cộc hẫng” thì trong quán ăn là hình ảnh “khách” nâng chén,

“rượu tràn mâm lênh láng”. Đối lập giữa một bên cái gì cũng thiếu và một bên

là sự thừa thãi bỏ đi. Con người đang đứng ngoài quán kia chỉ chờ miếng thức

ăn thừa “văng ra” từ bữa tiệc đang diễn ra trong quán. Sự đối lập càng được tác

giả diễn tả ở một mức cao hơn:

Họ cụng ly chúc điều tốt lành

Người đứng bên đường mơ một bữa qua ngày

Mọi điều thất vọng!

Những ánh nhìn day dứt buổi trưa

(Doãn Long – Người điên)

Thu lại từ sự chờ đợi ấy chỉ là cơn đói vẫn cồn lên trong bụng và sự thất

vọng đến vô cùng. Tiếng cụng ly chúc mừng nhau những điều tốt đẹp trong

quán ăn đối lập hoàn toàn với sự cô đơn, trống trải, lẻ loi một mình của “người

điên” đang đứng chờ trước quán ăn. Từ sự đối lập ấy, ta thấy cái tôi nhạy cảm,

trăn trở nhưng cũng đầy nhân văn của tác giả. Dẫu luôn trăn trở trong lòng

nhưng làm sao có thể thay đổi hiện thực cuộc sống đang diễn ra, và rồi người

điên không còn đứng đó, chỉ còn bụi đường “xoáy vào tiệc vui”. Nỗi buồn lẫn

vào niềm vui, khổ đau lẫn cùng hạnh phúc, thiếu thốn hòa cùng dư thừa, đó vẫn

là những điều ta vẫn gặp nhưng không khỏi khiến ta day dứt, trăn trở, không

thể khiến ta có những giây phút thấy lòng lặng đi trước những điều tưởng

chừng rất bình thường trong cuộc sống.

Nếu Doãn Long trăn trở với hình ảnh “người điên” thì Phạm Văn Vũ lại

đầy suy tư về hình ảnh những em bé ở lớp trẻ tật nguyền khi hát quốc ca:

Các em hát quốc ca bằng tay

Miệng không cất được lên từ “Tổ quốc”

Các em hiểu thế nào là đất nước

Mà tay nhịp nhàng

Câu hát vô thanh

31

(Phạm Văn Vũ – Một lần hát)

Những đứa trẻ tật nguyền hát bài hát quốc ca không thành lời đã trở

thành nỗi ám ảnh của bất cứ ai chứng kiến cảnh tượng ấy đang diễn ra trước

mắt. Không phải một bài hát bình thường nào khác mà chính là quốc ca – là bài

hát đại diện cho Tổ quốc mình nhưng những đứa trẻ tật nguyền không thể cất

lên hai từ “Tổ quốc”. Tiếng hát ấy không vang lên bằng âm thanh mà vang lên

bằng âm điệu của trái tim yêu nước, người nghe không thể nghe bằng thính

giác mà phải cảm nhận trọn vẹn bằng chính tâm hồn và trái tim mình. Các em

bé tật nguyền hát quốc ca bằng tình yêu Tổ quốc, bằng sự cảm nhận trọn vẹn

thế nào là đất nước. Bài hát quốc ca bỗng chốc trở nên thiêng liêng theo một

cách rất riêng:

Chưa bao giờ gặp bài hát vẹn tròn như thế

Vậy mà không dám vỗ tay

Bỏ chạy

Bước chân vô thủy vô chung

Nhẩm quốc ca

Câu nào cũng vấp

Mới hay mình tật nguyền

(Phạm Văn Vũ – Một lần hát)

Một bài hát “vẹn tròn” nhưng lại mang đến bao ngậm ngùi cho những

người nghe. Một bài hát không có âm thanh, không có tiếng nhạc mà chỉ lắng

nghe nó bằng nhịp đập trái tim của những con người cùng chung Tổ quốc.

Những đứa trẻ tật nguyền dù không cất lên được hai từ “Tổ quốc” nhưng Tổ

quốc luôn nằm trong trái tim mỗi đứa trẻ. Ấy vậy mà với những người bình

thường, những con người hoàn toàn lành lặn thì “Nhẩm quốc ca câu nào cũng

vấp”. Nếu không có hoàn cảnh của những đứa trẻ tật nguyền có lẽ con người

kia cũng chưa một lần nghĩ đến mình không thuộc quốc ca. Phải chăng, những

đứa trẻ tật nguyền kia chỉ là tật nguyền của cơ thể chứ hoàn toàn vẹn tròn trong

32

trái tim, trong tâm hồn. Còn những người lành lặn, bình thường mới chính là

những người sống với tâm hồn sứt mẻ, thiếu thốn, mang một trái tim tật

nguyền. Từ những điều bình dị diễn ra trong cuộc sống khiến nhà thơ không

thôi trăn trở, suy tư về những chuẩn mực giá trị của cuộc sống, những điều

đáng trân trọng và cả những điều đáng phê phán ở cuộc sống hôm nay.

Vòng xoáy của đồng tiền khiến người ta quên đi những giá trị đích thực,

quên đi những điều thiêng liêng của cuộc sống mà hình ảnh người bình thường

mới hay mình hát quốc ca “câu nào cũng vấp” chỉ là một trong số rất nhiều

những biểu hiện thờ ơ của cuộc sống hiện đại. Cuộc sống mỗi ngày lại thêm tấp

nập, nhộn nhịp nhưng giữa dòng đời bon chen ấy, con người lại có cảm giác

“nhạt” trong thế giới của chính mình:

Cái bắt tay hờ

Câu chuyện ve vuốt

Lời chào lệ

Cuộc rượu suông

Câu hát hụt hơi

Bài thơ nhạt thếch

Đến cả nụ hôn còn mở mắt…

Anh về dốc muối pha trà

Mặn toát mồ hôi!

(Phạm Văn Vũ – Nhạt)

Có lẽ, sự giả dối, hư danh trong cuộc sống hiện đại không còn là điều xa

lạ. Để tìm được một chút chân thành khó hơn so với việc tìm những hành động

giả dối hướng đến những cái đích nhất định. Và để đạt được cái đích đó con

người cần “học” nhiều điều:

Ngoài việc nhem nhuốc và chai sần

Còn phải học cách trắng trẻo và mềm mại

Ngoài việc cầm nắm mang vác

Còn phải học cách vuốt ve và xoa tay

33

(Phạm Văn Vũ – Nói chuyện với tay)

Và cũng sẵn sàng làm nhiều điều khó tưởng:

Có người

Cầm dao kề cổ bố mẹ

Vắt chân bình thiên hạ làm ăn

Bán ruộng mua áo mới

(Hoàng Thị Hiền - Con đường nằm trong bàn tay)

Cuộc sống phức tạp, đa chiều khiến nhà thơ cảm thấy bất an, nhưng đồng

thời cuộc sống cũng không thiếu những điều giản đơn, ý nghĩa và đáng trân

trọng. Với một nhà giáo như Phạm Văn Vũ, có lẽ một bài văn điểm mười của

học sinh là niềm vui không có gì sánh được đối với một người thầy. Và những

lời tâm sự, suy ngẫm về tương lai, về cuộc sống bên ngoài trang sách, những

điều mà một người thầy nhìn thấy trong ánh mắt của học trò là những điều trăn

trở của người thầy:

Thầy không thể bắt các em thôi đọc truyện ngôn tình

Có nhà xuất bản nào cầm tay phụ huynh

kí hợp đồng mua sách

Chúng ta tự mua bán chính mình?

Thầy không thể bắt các em thôi chơi game

Khi lúc nào thầy cũng dạy học trò

phải thành người chiến thắng

Chúng ta ai cũng một cuộc chơi?

Thầy muốn dạy các em bằng tin cậy, say mê

Nhưng những điều mắt thấy tai nghe

Chẳng lẽ chỉ biết say mê, tin cậy?

Thầy không muốn nghe nói dối

Nhưng khi nhiều người cùng nói dối

Chẳng lẽ nói thật lại thành có lỗi?

34

(Phạm Văn Vũ – Ngày 15 tháng 10)

Giữa trang sách trong nhà trường và cuộc đời đang trôi chảy ngoài kia

luôn có một khoảng cách. Người thầy muốn dạy học trò không đơn thuần là

những điều trong sách vở mà hơn thế nữa là những bài học của cuộc đời.

Những trăn trở, suy tư, những điều tâm sự về cuộc sống đã được Phạm Văn Vũ

gửi gắm qua những lời tâm sự với học trò để sau này mỗi người sẽ trưởng

thành, “sẽ lớn lên”.

Trần Thị Nhung được biết đến là cây bút có giọng thơ nhẹ nhàng nhưng

đôi khi những câu thơ của chị cũng đầy suy tư, trăn trở. Trong bài thơ Mưa, đi

qua những khổ thơ đầu với giọng thơ hồn nhiên trong trẻo, nhà thơ còn cho ta

thấy một cái tôi đầy suy ngẫm trong dòng đời:

Giờ con đi tìm

Chẳng thấy bông cau

Nơi góc vườn trăng đẹp

Thấy cơn mưa ngày xưa

Con dầm trong dòng đời

có những màu trắng đen, trong đục

Lại muốn mẹ ngồi

Đính lại một màu cho con

(Trần Thị Nhung – Mưa)

Một cơn mưa gợi về trong lòng người bao cảm xúc. Thời gian trôi chảy,

vẫn là một cơn mưa bất chợt nhưng những điều thân quen xưa kia không còn

nữa. Giờ đây, con không chỉ dầm trong cơn mưa của đất trời mà “dầm trong

dòng đời” tấp nập, bon chen. Những điều thân thương, bình dị đã trở thành quá

khứ, hình bóng mẹ cũng mãi đi xa, chỉ còn lại cơn mưa và hình ảnh con đơn

độc trong dòng đời trôi chảy. Dẫu chỉ là một cơn mưa nhưng lại gợi về bao nhớ

nhung, bao yêu thương, bao điều thân thuộc của một thời. Trái tim của cây bút

trẻ đã rung lên những nhịp đập khi nhớ về những kỉ niệm một thời đã qua.

Tâm sự suy tư, trăn trở là nỗi lòng không của riêng ai trong cuộc sống.

Trong bài thơ Và mỗi sớm mai chim vẫn hót, tác giả Phan Thái từ những điều

35

bình dị đã nói lên bao nỗi niềm:

Bị nhốt trong lồng, chim quên mình bị nhốt

Mỗi sớm mai vẫn hót gọi mặt trời

Ta vùi mặt giữa hư danh, cơm áo

Chẳng như chim thản nhiên đón ánh ngày

Đời trong đục, vui buồn không thể giấu

Đôi khi nén khóc cười rót tỉnh vào say

(Phan Thái - Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)

Cuộc sống con người vốn dĩ phức tạp, con người quay cuồng trong vô

vàn trắng đen. Sự đối lập giữa hình ảnh chim bị nhốt trong lồng nhưng quên

mình bị nhốt, vẫn hót chào ngày mới vào mỗi buổi sớm mai. Hoàn cảnh bị nhốt

trong lồng không hề chi phối đến việc ngày mai mặt trời vẫn mọc, và loài chim

chỉ đi theo những lối mòn quen thuộc của sự vận động tự nhiên hết đêm đến

ngày. Nhưng con người thì khác, không thể thản nhiên đón ánh bình mình vì

“vùi mặt giữa hư danh, cơm áo”. Con người nhận ra đó chỉ là hư danh, hão

huyền, là những giá trị “ảo” những vẫn cố công theo đuổi; con người bị cuốn

vào vòng cơm áo gạo tiền quẩn quanh khiến việc đón bình minh thản nhiên

cũng trở thành điều xa xỉ. Con người không sống theo nhịp vận động của tự

nhiên mà quay cuồng trong vòng quay của đời sống xã hội, đôi khi là sự dối trá

chính lòng mình: “nén khóc cười rót tỉnh vào say”. Cuộc sống của con người

khi trưởng thành có quá nhiều điều khiến con người bận lòng suy nghĩ và đôi

khi trong sự mỏi mệt của cuộc sống ta lại mong được quay về với tuổi thơ.

Cuộc sống hiện đại đầy rẫy bon chen, xô bồ, con người bị cuốn vào vòng

quay không ngừng của hư danh nhưng trong một lúc nào bỗng như dừng lại khi

ta nhớ về với câu hát ru ngọt ngào của mẹ:

Trái tim ta đâu chỉ để yêu thương

Học im lặng khó hơn học nói

Lưng mẹ gập trên đồng như dấu hỏi

Câu hát ru con thanh thản ru mình

36

(Phan Thái - Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)

Cuộc sống của người mẹ xưa kia có thể vất vả “Lưng mẹ gập trên đồng

như dấu hỏi” nhưng lại thanh thản với câu hát ru con như tự ru mình. Cuộc

sống lao động ấy dù có vất vả nhưng con người có được sự thảnh thơi trong

tâm hồn, nó đối lập hoàn toàn với đời sống biến động không ngừng ngày hôm

nay. Những sự đối lập ấy khiến nhà thơ không thôi trăn trở, không thôi suy

ngẫm về cuộc sống của chính mình trong vòng quay không ngừng nghỉ của đời

sống hiện đại.

Tóm lại, thơ ca của các cây bút trẻ Thái Nguyên nói chung mang dấu ấn

của thời đại họ đang sống và họ phản ánh cuộc sống ấy một cách chân thực,

thẳng thắn. Họ không ngại nói ra những mặt khuất lấp, những mặt trái của cuộc

sống nên thơ của họ không phải ai cũng có thể dễ dàng tiếp nhận. Đặc biệt là

với những bạn đọc vốn quen với thơ ca truyền thống. Cũng có thể nói, viết về

cảm hứng thế sự với các tác giả trẻ như một cách để đấu tranh, để gìn giữ

những giá trị đích thực của cuộc sống.

Có thể thơ hôm nay khiến người ta suy ngẫm, giật mình hoặc thậm chí

bất an trước xã hội đang sống nhưng chính điều đó phần nào lại thôi thúc con

người bước tiếp trên hành trình thanh lọc xã hội.

2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Thái Nguyên

2.2.1. Cá i tôi trong trẻo, hồn nhiên

Cái tôi trữ tình trong thơ là vốn là sự thể hiện một cách nhận thức, sự

cảm nhận về thế giới thông qua các hình ảnh, biểu tượng trong văn học. Qua

lăng kính của nhà thơ, một thế giới độc đáo được gửi đến người đọc như một

thông điệp về cuộc sống. Thơ trẻ – thơ được viết bởi những nhà thơ trẻ có thể

mang nhiều sắc thái, thể hiện nhiều cảm nhận khác nhau về cuộc sống nhưng

không thể thiếu một nét cá tính sáng tạo rất đặc trưng, đó là cái tôi trong trẻo,

hồn nhiên.

Với cây bút Nguyễn Nhật Huy, bên cạnh những dòng thơ đầy trăn thở

37

thơ anh cũng không thiếu cái tôi trong trẻo, hồn nhiên:

Nhớ khúc hát ngọt khoai sắn vùi rơm

Mùi khói thơm là mẹ

(Nguyễn Nhật Huy - Khói)

Khúc hát ru vốn gợi lên cảm giác về sự ngọt ngào, thân thương của tình

mẹ, những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm. Trong thơ Nguyễn Nhật Huy, khúc hát ấy

được so sánh “ngọt khoai sắn vùi rơm”. Vị ngọt thơm của khoai sắn vốn rất

quen thuộc, gắn liền với tuổi thơ của mỗi người. Trên cánh đồng khi vụ gặt vừa

xong, mùi khói đốt rơm quyện hòa của vị thơm ngọt của mùi khoai sắn nướng.

Cái vị thơm bình dị, cái hương vị đồng quê ấy khiến ai đã từng được biết đến sẽ

không thể nào quên, nhẹ nhàng nhưng cứ tự nhiên in dấu trong kí ức. Bởi lẽ,

mùi khói thơm ấy không phải điều gì xa lạ mà thân thuộc như chính người mẹ:

“Mùi khói thơm là mẹ”. Từ khúc hát đến vị ngọt bùi khoai sắn và hình ảnh

người mẹ là một chuỗi liên hoàn gợi nhớ những kỉ niệm trong trẻo, hồn nhiên

của tuổi thơ.

Trong một bài thơ về cuộc sống của con người giữa thời hiện đại –

bài thơ Nhà anh không có điều hòa, Nguyễn Nhật Huy hiện lên với một

giọng thơ dí dỏm, hồn nhiên:

Nếu nhiệt độ từ bốn mươi đổ lên

Mọi câu thơ đều vặn vẹo

Em có tin không tình yêu mình sẽ chết

Nếu không có điều hòa

(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)

Những câu thơ rất đời thường, rất bình dị về cuộc sống hằng ngày. Tác

giả như đang kể câu chuyện thực giữa một ngày hè nóng bực, khi nhiệt độ “từ

bốn mươi đổ lên”, khi đài báo cắt điện và khi nhà anh không có điều hòa. Đó

có lẽ là vấn đề tất cả mọi người đều quan tâm giữa những ngày hè oi bức. Và

dù có tâm hồn của một nhà thơ thì cũng không ai có thể tách ra khỏi thế giới

38

mà mình đang sống, tách ra khỏi bầu không khí nóng nực giữa những ngày hè:

Xin đừng làm thơ giải nhiệt

mà đi cày tiền cho hóa đơn điện vừa tăng

Mình đã buông tay nhau không phải vì hết yêu

mà do đài báo chiều nay cắt điện

Nhìn mắt em đã không còn biêng biếc

như hồi mình tưởng sống chỉ để yêu

(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)

Và thời tiết mùa hè, khi mất điện, khi không có điều hòa không chỉ khiến

người ta gác lại văn chương mà lo “đi cày tiền”, hơn thế nữa còn có thể khiến

người ta “buông tay nhau” trong tình yêu. Một cái tôi hồn nhiên, hóm hỉnh khi

viết về những điều rất bình dị, giản đơn, rất đời thường trong cuộc sống con

người là những điều người đọc ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ Nhà anh không

có điều hòa.

Khác với một số cây bút trẻ Thái Nguyên như Nguyễn Nhật Huy, Phạm

Văn Vũ, Doãn Long, Phan Thái… thơ Trần Thị Nhung là tiếng của một tâm

hồn phụ nữ với đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc trong cuộc sống. Giọng thơ tâm

tình trong trẻo, hồn nhiên trong thơ Trần Thị Nhung được thể hiện rất đặc sắc

trong bài thơ Gửi bà:

Bà ơi

Đã đến mùa hoa mào gà xấu hổ

đỏ tía tai

Đã đến mùa giậu chín mọng mùng tơi,

lũ trẻ con tha hồ bứt quả.

Con lại tìm về

con đường làng

ban trưa không ngủ.

Lang thang theo mùa hoa cỏ

39

Tìm cánh mào gà cài quyển vở bỏ quên.

Về chạy theo lũ trẻ con

dãi nắng cả trưa, tóc mai vàng ruộm.

Về đi lội sông

tìm viên đá cuội

kì cọ mực tím bàn tay.

(Trần Thị Nhung – Gửi bà)

Những kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với người bà thân yêu được Trần Thị

Nhung tái hiện qua bức tranh muôn màu sinh động, trong trẻo, hồn nhiên trong

bài thơ Gửi bà. Đó là hình ảnh hoa mào gà xấu hổ đỏ tía tai, là hình ảnh giậu

mùng tơi chín mọng mà lũ trẻ con tha hồ bứt. Có lẽ không riêng gì nhà thơ

Trần Thị Nhung mà rất nhiều những đứa trẻ ở nông thôn khác cũng không xa lạ

gì với hình ảnh của những loài hoa, loài cây, loài quả quen thuộc được nhắc

đến trong bài thơ. Con đường làng quen thuộc là nơi bọn trẻ chơi những trò

chơi, lang thang trong những buổi trưa không ngủ. Con đường với hoa cỏ theo

mùa, với những đặc trưng của vùng quê mình trở thành một kỉ niệm không thể

phai mờ trong kí ức tuổi thơ. Hình ảnh những đứa trẻ con dãi nắng những buổi

trưa, lang thang lội suối tìm những viên đá cuội để kì mực trên bàn tay là hình

ảnh rất quen thuộc mà có lẽ không chỉ nhà thơ Trần Thị Nhung ấn tượng mà

còn là kí ức chung về tuổi thơ của rất nhiều đứa trẻ ở mọi miền quê. Trần Thị

Nhung không chỉ nói được những kỉ niệm tuổi thơ của riêng mình mà còn nói

hộ tiếng lòng biết bao nhiêu người đã từng trải qua một tuổi thơ êm đềm như

thế. Và trong dòng kí ức ấy, không thể thiếu hình ảnh của người bà thân yêu:

Tuổi thơ đâu đây

con ngỡ đã lạc mất.

Hoa mào gà và quả mùng tơi

không bao giờ hết hạt

Bà giữ hộ tuổi thơ con.

40

(Trần Thị Nhung – Gửi bà)

Thơ ca Việt Nam có không ít tác giả viết về kỉ niệm tuổi thơ gắn với

hình ảnh thân thương của người bà nhưng bài thơ Gửi bà của Trần Thị Nhung

mặc dù cũng nằm trong mạch cảm hứng đó nhưng vẫn có một vị trí riêng,

khẳng định được cái riêng của tác giả. Một người phụ nữ với tâm hồn giàu cảm

xúc khi viết về kỉ niệm tuổi thơ mình đã gọi tên những hình ảnh, những loài

cây, loài hoa, những con đường, dòng suối quen thuộc nhất gắn với tuổi thơ êm

đềm. Những kỉ niệm tuổi thơ tưởng chừng như thời gian có thể làm lạc mất

nhưng hóa ra lại không bao giờ phai nhạt vì luôn gắn với hình ảnh thân yêu của

người bà. Đó có lẽ không chỉ là kỉ niệm của riêng tác giả mà còn là kí ức tuổi

thơ sâu đậm của biết bao đứa trẻ ở mọi miền quê trên quê hương Thái Nguyên,

trên đất nước Việt Nam nói chung.

Với Trần Thị Nhung, có thể nói cái tôi trong trẻo, hồn nhiên là một nét rất

đặc trưng trong thơ của nữ thi sĩ này. Không chỉ trong bài thơ Gửi bà, nét trong

trẻo, hồn nhiên còn được thể hiện theo một cách rất riêng trong bài thơ Mưa:

Những bất chợt

Cho trời đổ mưa mau

Thương mùa cau

Mới trổ hoa đã rụng

Con quay về

Tìm lại ngày bông chưa kịp lượm

Xâu chuỗi vòng tay

(Trần Thị Nhung – Mưa)

Những điều bất chợt đến như một cơn mưa cũng có thể gợi hứng cho nhà

thơ viết nên những câu thơ êm đềm, gợi cảm xúc nhớ về mùa cau “mới trổ hoa

đã rụng”, những kỉ niệm bình dị thân thương của một thời. Một cơn mưa cũng

41

có thể đem lại cho người ta bao cảm xúc:

Tìm vầng trăng dịu hiền

Chẳng dám ló khuôn mặt ngây thơ

Cứ quẩn quanh khâu kín rèm mây xám

Con ngồi bên hiên

Xem mưa làm bong bóng

Tiếc trên sân nhà vỡ những ánh trăng non.

Tìm chiếc áo mẹ đính lại cho con

Ngày dầm mưa lỡ tuột mất cúc trắng

Tuổi thơ con đem cúc đem cặm cụi ngồi đính

Mẹ dỡ đi rồi

Con còn chẳng hiểu vì sao?

(Trần Thị Nhung – Mưa)

Một cơn mưa tưởng chừng như vô tình nhưng lại có thể gợi cho ta bao

cảm xúc. Cơn mưa làm biến mất vầng trăng dịu hiền có “khuôn mặt ngây thơ”,

mưa làm bong bóng ngoài sân cũng trở thành những ấn tượng sâu sắc từ tuổi

thơ gợi về. Cơn mưa ấy có lẽ không đơn thuần là cơn mưa của tự nhiên mà đó

còn là cơn mưa kỉ niệm, cơn mưa gắn với những kí ức êm đềm của một thời đã

qua. Cơn mưa ấy còn gợi nhớ về hình ảnh người mẹ với chiếc áo “lỡ tuột mất

cúc trắng” trong một ngày mưa như thế. Dẫu chỉ là những điều hết sức bình dị

nhưng giờ đây cơn mưa kia bỗng chốc lại gọi về tha thiết trong trái tim tác giả.

Trong nền thơ trẻ Thái Nguyên đương đại, Phan Thái là một tác giả tiêu

biểu sáng tác theo khuynh hướng trung thành với thơ truyền thống. Thơ Phan

Thái đi theo xu hướng truyền thống từ việc sử dụng hình thức lục bát có cội

nguồn từ ca dao, dân ca – một thể thơ thuần túy Việt Nam cho đến việc sử dụng

những chất liệu quen thuộc trong thơ ca truyền thống. Điều này đã làm nên một

42

giọng thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, trong trẻo:

Sớm chiều má nhọ bùn non Đêm sương giá lại lo đon mạ gầy.

Bốn mùa trông đất trông mây Bão giông bợt bạc rạc cây lúa mềm.

Nhọc nhằn quẩy nắng vào đêm

Làng như áo mẹ bạc thềm heo may. Gió đi hoang trễ tràng ngày Biết đâu muối mặn gừng cay ở đời.

(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)

Có thể nói, ấn tượng đầu tiên khi đọc thơ Phan Thái là sắc thái nhẹ nhàng, tình cảm, du dương như chính lời ru của mẹ. Câu thơ như tìm về những giá trị văn hóa trong truyền thống, tìm về những điều bình dị mà thiêng liêng của cuộc sống ngày trước. Đó là cuộc sống lao động vất vả của người nông dân từ sớm chiều đến đêm sương, cuộc sống phụ thuộc thiên nhiên trông trời trông đất trông mây nhưng ở đó người đọc vẫn cảm nhận được sự lạc quan, tươi sáng:

Tiếng cười chật nếp nhà tranh

Chẳng ai lấy cái rách lành để so

(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)

Cuộc sống dẫu có vất vả, có gian nan nhưng ngôi nhà tranh đơn sơ vẫn luôn đầy ắp tiếng cười. Niềm vui trong cuộc sống, niềm vui lao động tạo nên một bức tranh tươi sáng, đầy màu sắc. Rời xa cuộc sống hiện đại đầy rẫy sự bon chen, khi con người tìm về những bình yên của cuộc sống ngày xưa, những điều thân thương như đang hiện ra ngay trước mắt:

Bến sông ngơ ngác cánh cò

Qua cầu thèm tiếng “ơi đò”… xa xôi.

Bờ đê cong nhịp gánh gồng Mảnh ao lõm nắng phập phồng đợi mưa.

Ta về nhốt gió ngày xưa Nhặt câu hát một thời chưa là mình.

43

(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)

Bằng hàng loạt những chất liệu văn hóa truyền thống, những chất liệu

vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca như lời ru của mẹ, câu hò, bến nước,

cánh cò, bờ đê, nếp nhà tranh… Phan Thái đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp về

cuộc sống bình yên của con người. Nhưng những điều đó có lẽ khó còn được

thấy trong vòng xoáy của cuộc sống ngày nay. Vì vậy, nhà thơ muốn “nhốt gió

ngày xưa” – níu giữ lại, đừng để gió cuốn đi nhịp sống êm đềm trong quá khứ.

2.2.2. Cá i tôi cô đơn, nhỏ bé

Cuộc sống hiện đại tấp nập, ồn ào, náo nhiệt nhưng chính trong hiện thực

đời thường đang diễn ra trước mắt ấy, con người – đặc biệt là tâm hồn của

những người làm thơ – lại luôn cô đơn. Ban đầu với họ sự cô đơn ấy cũng chỉ

là một cảm giác bình thường lẫn trong muôn vàn những xúc cảm khác:

Này

Sự đơn độc có gì đáng ghê ?

(Phạm Văn Vũ – Rượu mà cũng thở dài)

Nhưng dần dần họ cảm thấy không phải vậy, cái cô đơn kia cứ trở đi trở

lại qua mỗi ngày khi họ nhìn vào cuộc sống và khi họ nhìn vào chính lòng

mình. Để từ đó, họ bơ vơ và thảng thốt đi tìm những điều lấp đầy khoảng trống

trong lòng nhưng cuộc tìm kiếm đó cứ mãi dang dở. Và chính từ đó thơ của các

cây bút trẻ Thái Nguyên mang cái tôi cô đơn, nhỏ bé rõ nét.

Nguyễn Nhật Huy trong bài thơ Khói đã nói về một tâm trạng cô đơn của

cái tôi giữa cuộc đời:

Đi nửa đời nứt nẻ

Mà đường cày con không thuộc nổi

Nỗi cô đơn bấm xuống thành hạt ngô khoai

(Nguyễn Nhật Huy – Khói)

Nỗi cô đơn của nhà thơ được miêu tả tỉ mỉ, hiện hình thành sự vật cụ thể:

“Nỗi cô đơn bấm xuống thành hạt ngô khoai”. Con người lớn lên từ những kỉ

44

niệm tuổi thơ trong trẻo như khúc hát, vị ngọt thơm của khoai sắn vùi rơm, mùi

khói thơm nhưng đi qua “nửa đời nứt nẻ” mà không thể thuộc nổi một điều

quen thuộc: “đường cày”. Những hình ảnh trong thơ đều là những hình ảnh

quen thuộc, gần gũi, gắn liền với nông thôn Việt Nam, gắn liền với một cuộc

sống rất đỗi bình dị của con người. Những giữa dòng đời tấp nập hôm nay, khi

nghĩ về những điều bình dị ấy, phải chăng con người lại cảm thấy nó xa lạ,

những điều tưởng chừng thân quen mà lại không hề thuộc nổi. Tâm lí ấy khiến

con người cảm thấy cô đơn, trống trải, cảm thấy mình lạc lõng ngay trong thế

giới của chính mình.

Một lần khác, trong bài thơ Tưởng tượng, cây bút Nguyễn Nhật Huy

cũng nói về tâm trạng cô đơn, lạc lõng của chính mình:

Khi trí tưởng tượng vừa lưng chừng ngọn cây

Một viên đạn bắn xuyên đôi cánh

Tôi không biết họng súng nằm đâu

Trong giấc mơ tôi kẻ thủ ác mỉm cười

Họng súng đen

Và viên đạn đẫm tưởng tượng nằm đó

(Nguyễn Nhật Huy – Tưởng tượng)

Con người lo lắng, bất an không chỉ khi đối diện với một điều đáng sợ

bên ngoài xã hội mà lo lắng, hoảng sợ ngay cả trong giấc mơ của chính mình.

Nhưng từ đâu khiến con người bất an ngay cả trong những giấc mơ? Có lẽ,

giữa cuộc sống hiện đại quá nhiều bon chen, xô bồ này, con người sống vẫn

cảm thấy mình cô đơn khi không có được một tiếng nói đồng cảm, sẻ chia,

không tìm được những con người hiểu thấu trái tim mình. Con người lo lắng –

không phải chỉ ở cuộc sống thực tại – mà nỗi lo lắng ấy ám ảnh cả trong những

giấc mơ. Tâm trạng cô đơn, sự cảm thấy mình nhỏ bé giữa dòng đời ấy có thể

không gọi thành tên, nhưng nó là một tâm trạng cứ trở đi trở lại và hằn sâu

trong kí ức, trong tiềm thức của con người khiến người ta ám ảnh ngay cả trong

giấc ngủ. Hình ảnh “kẻ thủ ác mỉm cười”, “họng súng đen”, “viên đạn đẫm

45

tưởng tượng” trong giấc mơ càng làm sâu sắc thêm ấn tượng về cảm giác cô

đơn, lạc lõng con người giữa cuộc sống đời thường. Và trước nỗi bất an ấy

trong giấc mơ, con người lựa chọn một hành động:

Tôi bỏ mặc trí tưởng tượng nằm đấy mà đuổi

theo phía bóng đêm

Tiếng kêu sau lưng thoi thóp vừa chui ra từ vỏ trứng

Giật mình tỉnh dậy

Khẩu súng trong tay mình vẫn bắn vô thanh

(Nguyễn Nhật Huy – Tưởng tượng)

Dẫu cho tất cả chỉ là giấc mơ song nỗi ám ảnh ấy khiến tâm trạng con

người rơi vào trạng thái khủng hoảng đến hãi hùng. Một bóng đêm mơ hồ mà

con người dù không biết nó là gì nhưng vẫn đuổi theo, một “tiếng kêu thoi

thóp” và cả “Khẩu súng trong tay mình vẫn bắn vô thanh” là bằng chứng cho

nỗi hoảng sợ của con người trước một giấc mơ ám ảnh, mà có lẽ những điều ấy

bắt nguồn từ chính cuộc sống hiện đại mà con người đang sống. Nếu không có

những bon chen, những dồn nén trong cuộc sống đời thường thì liệu con người có

ám ảnh, có tưởng tượng về những điều ghê sợ ngay trong giấc ngủ của mình?

Và sự cô đơn còn được đẩy lên đến đỉnh điểm khi con người càng cố

gắng bước đi để thoát khỏi sự lẻ loi, càng mong ngóng tìm được người đồng

hành trên con đường cuộc đời thì kết quả nhận được lại là con số không lạnh

lùng. Không người đi bên cạnh, không ai ở phía sau và phía trước càng không

có ai đợi chờ:

Gạt gió bước đi

Chân tóc buôn buốt

Sau con đường bụi

Ai đợi mình không

46

(Phạm Văn Vũ – Báo tin)

Đó có lẽ không phải vấn đề của riêng nhà thơ mà là tâm lý chung, ám

ảnh chung của một lớp người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong cuộc sống hiện đại

hôm nay.

Bên cạnh cái tôi cô đơn, nhỏ bé trước cuộc đời thì các nhà thơ trẻ cũng

mang trong mình nỗi cô đơn, cảm giác nhỏ bé trong tình yêu:

Bậc thang nhà không anh bước lên

Em buồn thương chín bậc

Nương nhà không anh ghé thăm

Em chưa cần trỉa bắp

Con dao thì cùn rồi

Cái bếp nhà hết củi

Máng nước vừa vỡ bong…

Em nhớ tàn khói bếp

Em nhớ mùi mồ hôi

Đợi anh về

Gieo hạt cùng em…

(Nguyễn Doãn Long – Anh)

Sự mong mỏi “anh” trở về, bao lần ngỡ anh về khi nghe một tiếng gió

thổi lay vách nhà khe khẽ hay tiếng gió rít trong đêm trăng, nghe tiếng khèn

trong hơi sương khàn bạc. Sự thiếu vắng “anh” khiến cho cả không gian và tâm

hồn “em” cảm thấy thiếu vắng, trống trải, cô đơn bất tận. Những nơi thân thuộc

nhất như ngôi nhà nơi ta sống hàng ngày hay bậc thang khi không có bước chân

anh cũng trở nên ảm đạm. Những nơi gắn liền với cuộc sống lao động hàng

ngày như nương ngô, không có anh cũng trở nên vô nghĩa – “Em chưa cần trỉa

bắp”. Khi thiếu vắng “anh”, mọi không gian quen thuộc với cuộc sống sinh

hoạt và lao động hàng ngày đều trở nên trống trải, cô đơn, đều khiến “em” cảm

thấy buồn thương khắc khoải. Cảm giác cô đơn ấy bao trùm cả không gian và

47

xâm chiếm cả tâm hồn của nhân vật “em”.

Thiếu vắng “anh” không đơn thuần chỉ là cảm giác cô đơn, trống trải mà

hơn thế nữa còn là thiếu vắng đi những sự đỡ đần rất cần thiết trong cuộc sống.

Khi không có bàn tay anh, cuộc sống thường ngày dường như đảo lộn: con dao

thì cùn không có ai mài, bếp nhà hết củi không có ai lấy, và máng nước vỡ

cũng không có ai sửa… Giữa ngôi nhà quen thuộc của chính mình, giữa những

sự vật thân quen trong cuộc sống nhưng con người vẫn cảm thấy cô đơn vì

thiếu đi ngọn lửa ấm áp, thiếu đi người truyền hơi ấm, đưa linh hồn vào cuộc

sống. Và trong không gian thân thuộc ấy, “em” nhớ về những điều rất gần gũi

hiện hữu khi trước đây có “anh”: nhớ tàn khói bếp, nhớ mùi mồ hôi… Những

điều bình dị ấy trước đây con người ta có thể không chú ý đến, nhưng đến nay

khi thiếu đi anh mới cảm thấy nó thân thương đến nhường nào. Giờ đây, em

đợi anh về để cùng em làm tiếp những công việc trong cuộc sống thường ngày:

“Gieo hạt cùng em”. Gieo hạt ở đây còn là gieo mầm sống, gieo niềm vui, niềm

tin vào cuộc sống. Bao trùm bài thơ của Doãn Long là nỗi cô đơn, cảm giác

trống vắng, lẻ loi nhưng kết thúc bài thơ vẫn là niềm tin, hi vọng vào những

điều tốt đẹp. Chính vì vậy, bài thơ dẫu buồn nhưng không bi quan mà vẫn

hướng về ánh sáng, chan chứa niềm tin trong cuộc sống.

Trần Thị Nhung là cây bút có giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, hướng vào

những cung bậc cảm xúc của trái tim người phụ nữ. Trong những cảm xúc ấy là

iếng nói cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng của một trái tim phụ nữ trong tình yêu trong

hoàn cảnh đất nước chiến tranh được thể hiện qua bài thơ Cổ tích Khau Áng:

Chiều Khau Áng nắng rối lòng mưa Đường mòn thênh thang vô cớ Mua rừng tím nở Tím bầm nỗi nhớ nhung

Một ngày nên nghĩa vợ chồng Em chiều lòng duyên nợ Thời chiến chinh, mua rừng cũng hóa cô phụ Ngày mai anh đi

48

(Trần Thị Nhung - Cổ tích Khau Áng)

Chiến tranh khiến người ra đi không bao giờ trở lại, chỉ còn lại là nỗi

đau khôn nguôi cho những người ở lại ngóng trông:

Chiều Khau Áng, gió rối lòng mưa

Cánh mua ngậm đầy nước mắt

Ầng ậng lòng em.

Viên đạn chiến tranh, quay cuồng duyên nợ

Hoa ở lại với núi đồi bất tử

Người đi vào hư vô.

(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)

Mất mát, đau thương là thực tế gắn liền với mỗi cuộc chiến tranh: mất

mát vật chất, mất mát tinh thần, mất mát cả về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

Đạn bom chiến tranh không chỉ gieo đau thương trên chiến trường ác liệt mà

còn nỗi đau phủ đầy đất nước, ngay cả ở những điều riêng tư nhất là tình yêu

đôi lứa: “Viên đạn chiến tranh, quay cuồng duyện nợ”. Lời hứa trước lúc ra đi

được trả lời bằng đáp án: “Hoa ở lại với núi đồi bất tử/ Người đi vào hư vô”.

Dường như bài thơ Cổ tích Khau Áng của tác giả Trần Thị Nhung là một

câu chuyện về tình yêu nhưng câu chuyện ấy lại không có một hồi kết có hậu

với hạnh phúc, đoàn tụ mà nặng lòng thay lại là sự cô đơn dồn ứ đến đau xót.

Hay đó còn l à sự cô đơn, lặng lẽ từ những đêm đứng khoanh tay bên cửa

sổ của người phụ nữ đến sau “người vợ cả”:

Đứng nhìn sao trốn vào lòng trời cùng kiệt

Bước chân thời gian đi miết... qua em

(Dương Thu Hằng - Người vợ cả)

Và sự cô đơn, nhỏ bé của người con gái tha thiết trong tình yêu nhưng lại

gặp phải một tình yêu “chung chiêng” nên buộc lòng phải từ bỏ dù đau đớn đến

49

vô cùng:

Thôi đi về phía ấy đi anh

Để em một trái tim lành vẹn nguyên

Trách chi kiềng bếp chung chiêng

Ba chân thì vững, chuyện riêng thì đừng

Yêu thương bởi chút muối gừng

Gừng cay muối mặn đã từng vì ai

Trên tay là tháng là ngày

(Vũ Thị Tú Anh – Lặng lẽ)

Để lí giải một cách cặn kẽ cho cái tôi cô đơn, nhỏ bé trong sáng tác của

các cây bút trẻ Thái Nguyên có lẽ không dễ nhưng cũng không khó để thấy

xuất phát của cái tôi cô đơn ấy đôi khi là sự mất niềm tin vào con người, vào

những khuất lấp của bức tranh cuộc sống. Cô đơn, hụt hẫng khi họ đứng giữa

những cuộn xoáy của cuộc đời mà trong những cuộn xoáy ấy những thứ thuộc

về vật chất là yếu tố chi phối tất cả đích đến. Có lẽ bởi vậy nên cái tôi cô đơn

trở đi, trở lại thành một ám ảnh trong sáng tác của họ. Cô đơn trong chính lòng

mình với nhiều cung bậc và sắc thái.

2.2.3. Cá i tôi trên hành trình tự ý thứ c

Cùng với sự trôi chảy của thời gian, con người cũng từng bước trưởng

thành và tự rút ra cho mình những bài học chiêm nghiệm về cuộc sống. Trên

hành trình ấy, con người tự ý thức về cái tôi cá nhân và dần tìm ra lối đi riêng

của chính mình.

Trong cuộc trò chuyện với Phạm Văn Vũ, nhà thơ Nguyễn Nhật Huy

từng chia sẻ: “Nhiều bậc cha mẹ, sau những năm tháng đói khổ bao cấp, đã

quá chăm bẵm những đứa con của mình như một sự bù đắp. Những đứa trẻ ấy

lớn lên trở nên yếu ớt, ích kỷ và bước ra cuộc sống chúng hoàn toàn mất

phương hướng trước cuộc đời. Gần đây người ta hay nhắc đến khái niệm

“những đứa trẻ tuổi 30” cũng vì như vậy. Suốt mười năm đầu tuổi trẻ, tôi

50

luôn đi tìm câu hỏi tại sao. Tại sao thế giới mà tôi được dạy từ khi bé và thế

giới thực tế nó khác nhau đến vậy. Đó giống như một sự mất mát niềm tin”

[48]. Tuy nhiên, khi nói về bài thơ Mặt trời, nhà thơ Nguyễn Nhật Huy rất

thích hình ảnh dây leo bám vào vách đá leo lên và trên cao là mặt trời và

nhận xét: “Dù thế nào chúng ta vẫn phải sống” [48]. Mười năm đầu tuổi trẻ,

nhà thơ băn khoăn đi tìm câu hỏi tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa thế

giới mình được dạy từ khi còn bé và thế giới thực tế mà nhà thơ đang sống.

Sự khác biệt ấy có lẽ làm con người mất niềm tin vào cuộc đời, bởi cuộc đời

thực không giống với những gì mà người ta tưởng tượng và mong ước. Tuy

nhiên, như vậy không có nghĩa là quá bi quan bởi vì dẫu sao con người vẫn

phải sống. Và để sống một cách có ý nghĩa thì phải tìm ra con đường đi của

riêng mình, một cái tôi đủ bản lĩnh giữa cuộc đời. Trên hành trình tìm kiếm

không ngừng nghỉ ấy, con người tự ý thức và chiêm nghiệm về những điều

trong cuộc sống. Bài thơ Mặt trời của tác giả Nguyễn Nhật Huy thể hiện một

cái tôi trên hành trình tự ý thức:

Mỗi ngày sau những thử nghiệm

trong căn phòng những bông hoa lịm đi

màn đêm đánh gục cả những chiếc lá kiên cường nhất

(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)

Cuộc sống là một chuỗi ngày thử nghiệm không ngừng để tìm được một

lối đi phù hợp, tìm thấy ánh sáng và tìm ra chân lý cho riêng mình. Nhà thơ ví

mình như những dây leo, dù nhỏ bé nhưng kiên cường bám trụ trong cuộc

sống. Sau những trải nghiệm mỗi ngày, con người ta có thể mệt mỏi như

“những bông hoa lịm đi” nhưng không vì thế mà chịu khuất phục và gục ngã:

nhưng chỉ cần một giọt nhựa

thì bình minh vẫn thức dậy như mọi ngày

bình minh gọi tôi bám tiếp vào những vách đá mà tồn tại

51

(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)

Ý chí, nghị lực và sự kiên cường là những nét rất đặc trưng có thể nhận

ra từ hình ảnh dây leo bám vào vách đá trong bài thơ. Vì sao mà dây leo vẫn

luôn bám trụ và vươn lên? Bởi lẽ trên cao kia là ánh sáng mặt trời đang soi

chiếu, là cái đích cuối cùng muốn vươn tới. Dù cho “màn đêm đánh gục cả

những chiếc lá kiên cường nhất” thì khi bình minh thức dậy, khi một ngày mới

bắt đầu, “bình minh gọi tôi bám tiếp vào những vách đá mà tồn tại”. Con người

dẫu cho bi quan đến đâu, dẫu có bị vùi dập đến đâu thì vẫn cần sống tiếp, và

phải sống sao cho thật ý nghĩa:

giọt nhựa chảy ra từ tâm trí

sau những nhát chém phũ phàng

giọt nhựa chảy ra từ đôi mắt

sau những giờ phút tĩnh lặng

bình minh lại mọc

và khoác lên vai huy hiệu của cuộc sống

chỉ còn một giọt nhựa

lòng mình vẫn bám rễ mà leo lên

trên cao

mặt trời vẫn dang tay rộng lắm

(Nguyễn Nhật Huy – Mặt trời)

Hình ảnh “giọt nhựa chảy ra từ tâm trí” như những điều tâm huyết từ tận

sâu thẳm trái tim và khối óc của con người, nhưng những điều ấy có thể bị cuộc

sống này vùi dập bằng “những nhát chém phũ phàng”. Tuy nhiên, thời gian vẫn

không ngừng trôi chảy, cuộc sống vẫn không ngừng tiếp diễn, và mỗi khi bình

minh thức dậy, ngày mới bắt đầu, một nhịp sống mới lại mở ra để con người

tiếp tục vươn lên và khẳng định chính mình. Điều không thay đổi trong cuộc

sống là mặt trời vẫn luôn ở trên cao và soi sáng khắp mặt đất, vì vậy dẫu chỉ

nhỏ bé, yếu ớt, dẫu cho chỉ còn “một giọt nhựa” thì đó vẫn là mầm sống để

52

vươn lên, hướng về ánh sáng. Khi cuộc sống chưa lụi tắt hoàn toàn thì con

người không thể gục ngã, dẫu đó chỉ là những mầm sống yếu ớt như những giọt

nhựa thì vẫn “bám rễ mà leo lên”. Từ bài thơ Mặt trời, một lần nữa cho ta rõ

hơn cảm quan về sự mất mát trong sáng tác của Nguyễn Nhật Huy. Tuy nhiên,

dẫu cuộc đời đầy rẫy những điều bi quan thì nhà thơ lại tìm thấy niềm tin trong

cách sống, cách làm việc của chính mình. Cuộc sống là vươn lên không ngừng,

sáng tác thơ cũng là một quá trình tự hoàn thiện và khẳng định cái tôi cá nhân.

Sự thành công và vị trí của Nguyễn Nhật Huy trong nền thơ trẻ Thái Nguyên

hôm nay là sự khẳng định cho những cố gắng bền bỉ, không mệt mỏi của một

con người luôn hướng về những giá trị chân chính trong văn chương và cả

trong cuộc sống.

Nói đến thơ trẻ Thái Nguyên không thể không nhắc đến tên tuổi của một

tác giả rất tiêu biểu là Phạm Văn Vũ. Thơ anh đi theo khuynh hướng tìm tòi

những cách tân nghệ thuật mới mẻ, đổi mới cả về nội dung và hình thức. Hành

trình tìm tòi những cách tân nghệ thuật cho thơ ca cũng là hành trình nhà thơ tự

ý thức về chính mình, tự chiêm nghiệm về cuộc sống:

Người khổ không biết mình sướng

Người sướng không biết mình khổ

Ai đó

Không biết mình sướng hay khổ

Hạnh phúc?

Câu hỏi làm ta bối rối

Câu hỏi không có tội

Như đinh ốc xoáy trong đầu

Vặn không vào rút không ra

Điều có thật mà không thể

Giờ mới hay mình không hay.

53

(Phạm Văn Vũ – Điều chưa định nghĩa)

Sướng – khổ vốn dĩ là những phạm trù đối lập trong đời sống, nhưng

những điều tưởng chừng như đối lập ấy đôi khi lại không phải vậy: người khổ

không biết mình sướng, người sướng lại chẳng biết mình khổ. Mọi giá trị

không có gì là tuyệt đối mà tất cả dường như đều mơ hồ. Câu hỏi “Hạnh phúc

là gì?” tưởng chừng như đơn giản nhưng lại không thể trả lời sao cho đúng, câu

hỏi ấy khiến ta “bối rối”. Phạm Văn Vũ đã sử dụng những hình ảnh so sánh rất

hình tượng: “Như đinh ốc xoáy trong đầu/ Vặn không vào rút không ra”. Ở một

hoàn cảnh mà con người bối rối, lúng túng không thể trả lời cho một câu hỏi

tưởng như đơn giản: “Hạnh phúc là gì?”. Chính vì vậy, định nghĩa một giá trị là

điều không dễ dàng gì trong cuộc sống. Những điều con người tưởng như mình

đã biết thì giờ mới nhận ra “Giờ mới nhận ra mình không hay”.

Cuộc sống là một quá trình tìm tòi, trải nghiệm để từ đó con người tự rút

ra những bài học, những điều cần thiết cho bản thân. Từ việc định nghĩa về

hạnh phúc trong cuộc sống, con người mới tự nhận thấy những điều mình

tưởng rằng đã biết thì thực ra lại chưa hề biết. Điều ấy thôi thúc cái tôi con

người từng bước đi tìm những gì là giá trị, định nghĩa những phạm trù của cuộc

sống và từng bước tự ý thức về chính mình.

Từ những suy tư, trăn trở, mỗi nhà thơ từng bước ý thức về cuộc sống, về

thế giới và quan trọng hơn hết có lẽ là về chính mình. Phan Thái từ hình ảnh

con chim bị nhốt trong lồng vẫn hót vui đón bình minh mỗi sáng đặt trong sự

đối lập với đời sống hiện đại đã nhận ra những chân lý trong cuộc sống:

Mấy ai hiểu trong mồ hôi nước mắt

Có bao phần đắng ngọt mong manh

Người tử tế không bởi quần áo đẹp

Kẻ tiện nhân gáo vỡ đẽo môi lành

Vấp bụi phố vịn lời ru của mẹ

Mới hay dại khôn không khép những chân trời

Bước nhân thế bao lở bồi, được mất

Ông nọ bà kia… đâu phải đã nên người.

54

(Phan Thái – Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)

Cuộc sống hiện đại nhiều khi con người lẫn lộn giữa hư danh và thực tế.

Mọi giá trị không xác lập bằng vẻ bề ngoài mà bằng những giá trị bên trong

con người. Chính vì vậy, bộ quần áo đẹp không khiến con người trở thành tử tế,

“Người tiện nhân gáo vỡ đẽo môi lành”. Và trong dòng tấp nập của cuộc sống,

con người nhận ra cuộc sống luôn vận động với bao “lở bồi, được mất” nhưng

“ông nọ bà kia” – địa vị xã hội, giàu sang phú quý… chưa hẳn đã quy định bản

chất con người ấy như thế nào. Giá trị con người không nằm ở bộ quần áo đẹp,

ở địa vị xã hội nhưng rõ ràng cuộc sống vẫn dùng những tiêu chí ấy để đánh

giá, phán xét, nhìn nhận về con người. Giữa xô bồ của đời sống, con người tìm

về sự bình yên, thanh thản, những giá trị thực sự trong lời ru của mẹ. Nhưng

cuộc sống vẫn cứ là cuộc sống, tuổi thơ với lời ru êm đềm qua đi không thể nào

trở lại. Giữa cuộc sống hôm nay, con người lại càng hiểu hơn những giá trị của

quá khứ, càng trân trọng hơn lời ru câu hát của mẹ để rồi hiểu đời và tìm cho

mình một lối sống:

Nếu chỉ sống chắc gì tồn tại

Lộng ngôn tình chưa hẳn đã yêu

Mắc câu ru giữa bình yên chim hót

Chợt thấy mình chưa lớn được bao nhiêu!

(Phan Thái – Và mỗi sớm mai chim vẫn hót)

Bằng những trải nghiệm trong đời sống, con người mới nhận ra những

điều tưởng chừng như đúng, như chân lý thực ra lại không hề đúng. Sống và

tồn tại, ngôn tình và yêu là những trạng thái hoàn toàn không đồng nhất. Điều

con người mong muốn là sự “tồn tại” có ý nghĩa thực sự chứ không chỉ là sự

“sống” vô nghĩa lý; là “tình yêu” chứ không đơn thuần chỉ là “ngôn tình” với

sáo rỗng cảm xúc. Chính trong hoàn cảnh ấy, con người tự nhận ra mình dù có

lớn nhưng thực ra lại “chưa lớn được bao nhiêu” – chưa đủ hiểu đời, hiểu cuộc

sống, hiểu chính mình. Sự trưởng thành của con người không đo bằng tuổi tác

55

mà đo bằng sự trưởng thành của trí tuệ, của tâm hồn, sự trưởng thành để con

người tồn tại như một con người thực sự, đó mới là điều mà con người cần

vươn tới trong cuộc sống.

* Tiểu kết chương 2:

Cảm hứng thế sự là một cảm hứng nổi bật trong sáng tác của các cây bút

trẻ Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long là những tác

giả tiêu biểu cho cái tôi thế sự giàu chất suy tư, luôn trăn trở, suy ngẫm trước

những điều đang diễn ra trong cuộc sống. Trước sự thay đổi những chuẩn mực

giá trị của cuộc sống hiện đại, con người đôi khi giật mình thấy bản thân lạc

lõng giữa thế giới và cô đơn trong chính mình.

Với hai tác giả Phan Thái và Trần Thị Nhung, nét nổi bật hơn cả có lẽ là

ở cái tôi trữ tình trong trẻo, hồn nhiên được thể hiện bằng một giọng điệu thơ

nhẹ nhàng, đằm thắm, sâu lắng, hướng về những giá trị truyền thống, sử dụng

những chất liệu sáng tác truyền thống từ thể thơ đến hình ảnh, ngôn ngữ. Bên

cạnh đó, cùng với nét hồn nhiên, trong trẻo, mỗi nhà thơ còn cho người đọc

một góc nhìn khác, một cảm nhận về những suy tư, trăn trở hay cảm giác cô

đơn, nhỏ bé trong cuộc sống.

Có thể nói, nét riêng trong việc lựa chọn đối tượng phản ánh đã làm

nên những đặc sắc cho sáng tác của các tác giả trẻ Thái Nguyên. Chính điều

đó đã góp phần vào sự thành công cũng như khẳng định bước đi vững chắc

của thơ trẻ Thái Nguyên trong hành trình phát triển chung của thơ trẻ Việt

56

Nam đương đại.

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRẺ THÁI NGUYÊN

3.1. Về ngôn ngữ

3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc

Ngôn ngữ là một phương diện quan trọng trong thế giới nghệ thuật thơ

ca. Thơ ca nói riêng, văn học nói chung là loại hình nghệ thuật ngôn từ, sử

dụng ngôn ngữ làm chất liệu sáng tác. “Đó vừa là tiếng nói chân thực, giàu có

của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói bay bổng của trí tưởng tượng diệu kì,

lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động. Chiều sâu của sức suy

nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh tế của sức sáng tạo, những trạng thái rung

động của tâm hồn… tất cả, tất cả chỉ có thể đến được với người đọc thông qua

vai trò của ngôn ngữ” [21, tr.361]. Ngôn ngữ là chiếc cầu nối đưa chúng ta

bước vào thế giới phong phú, muôn màu của tâm hồn nhà thơ. Không đi qua

cây cầu ngôn ngữ đó, người đọc không thể tiếp cận và khám phá thế giới nghệ

thuật trong thơ ca nói riêng và trong tác phẩm văn học nói chung.

Ngôn ngữ thơ ca là sự biểu hiện tập trung nhất của tính hàm súc trong

ngôn ngữ. Có thể nói, đặc điểm riêng của thơ ca là dung lượng tác phẩm không

lớn, chính vì vậy ngôn ngữ trong thơ bao giờ cũng là sự chắt lọc và hàm súc

đến mức tối đa. “Mỗi bài thơ thể hiện một niềm vui, một nỗi buồn, một niềm

hứng khởi, một mối lo lắng, suy tư nên nó thường được thể hiện ngắn gọn, cô

đọng. Đọc bài thơ là cách để tiếp xúc với tâm hồn nhà thơ qua ngôn từ. Dung

lượng bài thơ càng nhỏ, lượng thông tin và chất cảm xúc càng được nén chặt.

Lời càng ít mà nén thì ý càng nhiều và phong phú, sức gợi càng mạnh mẽ” [42,

tr.49]. Ngôn ngữ trong một bài thơ hay phải cô đọng và giàu sức biểu hiện. Một

câu thơ cô đọng, súc tích chứa đựng biết bao điều muốn nói trong thẳm sâu trái

tim nhà thơ, như chạm đến tận đáy cùng của chiều sâu cảm xúc. Câu thơ cô

đúc, ngắn gọn, số từ hạn định nhưng biên độ của sự biểu hiện lại vô cùng rộng

lớn. Ngôn ngữ trong thơ là kết quả của “Một sự tìm tòi công phu, cân nhắc kĩ

57

lưỡng, chọn lọc có sáng tạo” [21, tr.362].

Mỗi nhà thơ sáng tạo cho mình một thế giới ngôn ngữ riêng, phù hợp với cái tôi, cá tính sáng tạo và phong cách trong sáng tác để phản ánh đầy đủ, sâu sắc và trọn vẹn nhất những điều mình muốn nói. Nhà thơ trong sáng tác luôn đặc biệt chú ý đến sự chọn lọc và tìm tòi chữ nghĩa để thể hiện cho thật trọn vẹn, thật đầy đặn cái hồn, cái cốt lõi của mỗi câu thơ, bài thơ. Sự chọn lọc thể hiện trong ngôn ngữ thơ không chỉ đảm bảo thể hiện được chính xác một nội dung, gợi lên chính xác những điều nhà thơ muốn nói mà còn phải sáng tạo và tinh tế. Thông qua sự chọn lọc ngôn ngữ, “nhà thơ vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc của ngôn ngữ đời sống lại vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo” [21, tr.366].

Trong sự phát triển không ngừng của thơ ca đương đại, mỗi nhà thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng đều cố gắng lựa chọn cho mình một phong cách, một hướng đi để tạo cho thơ của mình tiếng nói riêng. Có những tác giả sáng tác bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, hướng về những điều bình dị của cuộc sống đời thường như Doãn Long, Dương Thu Hằng hay Phan Thái…

Doãn Long là tác giả tiêu biểu cho điều này, thơ anh mang hơi thở của

thơ ca truyền thống, đặc biệt ở phương diện ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị.

Trong thơ của Doãn Long, ta rất hay bắt gặp ngôn ngữ thơ mộc mạc, chân chất như những gì quen thuộc trong thơ ca truyền thống. Những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống đời thực của chính anh, những gì gắn với nông thôn, miền núi đều đi vào thơ một cách tự nhiên nhất. Trong các sáng tác của anh, ta có thể bắt gặp hình ảnh cuộc sống lao động và thói quen của người miền núi:

Người Mông lấy ngô làm gạo Đãi khách Mèn mén thay cơm Khách đến thì quý Người Mông bận rộn lời mời. Thơm lâu như mùa Thắng cố Núi rừng nhuộm váy người Mông Nợ tình hẹn nhau xuống chợ Ướt đầm mắt Khau Vai!

58

(Doãn Long – Người Mông)

Cuộc sống bình dị của đồng bào dân tộc Mông với những nét đặc trưng

rất riêng biệt không thể lẫn như lấy ngô làm gạo, ăn mèn mén thay cơm, những

đặc sản như món thắng cố, những bộ trang phục rực rỡ sắc màu cùng với tấm

lòng hiếu khách, phong tục đi chợ tình. Cuộc sống bình dị ấy được nhà thơ

Doãn Long thể hiện bằng những ngôn ngữ mộc mạc nhất. Doãn Long không

nói những gì xa lạ, những gì quá mới lạ nhưng chỉ bằng việc tìm về những nét

văn hóa truyền thống bằng thứ ngôn ngữ giản dị ấy đã tạo cho thơ anh một

giọng điệu riêng, dù truyền thống nhưng không hề “cũ” mà vẫn khiến người

đọc yêu thích, say mê.

Ngôn ngữ thơ ấy không chỉ được thể hiện ở cách miêu tả cuộc sống đời

thường mà còn thể hiện trong cách bộc lộ tình yêu:

Em bả o nếu thương nhau thật

Phải lấy được nước dướ i chân nú i kia Vượt qua đồi Khau Dục

Lấy được lá thơm đem tắ m?

(Doãn Long – Yêu nhau thì lên núi)

Những câu thơ tâm tình bằng ngôn ngữ mộc mạc như lời ăn tiếng nói

hàng ngày, qua đó tình yêu hiện lên rất đỗi bình dị. Cách nói trong thơ cũng

mang hơi thở của cuộc sống con người miền núi, sự chân thành trong tình yêu

cũng được đong đếm bằng việc lấy được nước dưới chân núi, vượt qua đồi cao,

lấy được lá thơm đem tắm… Ngôn ngữ trong thơ Doãn Long cũng giản dị như

chính cuộc sống mà nhà thơ miêu tả.

Thơ Doãn Long không chỉ đặc biệt với nét nhẹ nhàng, trong trẻo, mang

màu sắc truyền thống qua hình ảnh, biểu tượng trong thơ mà hơn thế nữa, ngôn

ngữ, cấu trúc, nhịp điệu trong thơ anh cũng đậm dấu ấn thi pháp thơ ca truyền

thống. Doãn Long không hướng đến những cách tân táo bạo, những sự mới lạ

trong cách làm thơ nhưng thơ anh vẫn tạo được dấu ấn riêng biệt, có sức hấp

59

dẫn riêng bởi một giọng thơ không quá khác lạ nhưng ấn tượng. Có những bài

thơ của Doãn Long, thể thơ năm chữ truyền thống với vần điệu nhịp nhàng

được nhà thơ sử dụng:

Thu gử i màu bông cú c

Gieo hạt nắng vườ n ươm

Chuồn kim se sợi ó ng

Bưởi ngẩn ngơ sau vườ n.

Em dà i hơn bím tó c Sông cong mềm bờ trăng

Anh một mùa cho tuổi

Trờ i sao đêm dát và ng.

Em để quên đá y mắ t Nơi cá nh đồng tuổi thơ Liềm trăng đau đáu cắ t

Những dại khờ vu vơ.

Thu một đời vẫn thế

Ngườ i năm xưa đã già Trăng trọn đời mãi trẻ Anh tìm mù a đã xa…

(Doãn Long – Thu)

Từ chủ đề mùa thu – một chủ đề quen thuộc của thi ca gắn với những

hình ảnh thơ rất điển hình: bông cúc, ánh trăng vàng…; từ thể thơ năm chữ

chuẩn mực, đảm bảo về số chữ trong mỗi câu thơ đến vần điệu nhịp nhàng,

uyển chuyển. Tất cả những điều đó cho người đọc một cảm nhận trọn vẹn về

một bài thơ được sáng tác theo khuynh hướng truyền thống, từ nội dung cho

60

đến hình thức nghệ thuật. Không chỉ riêng bài thơ Thu, đọc nhiều sáng tác của

Doãn Long, người đọc cũng thấy những hình ảnh rất gần gũi, quen thuộc,

những câu thơ với nhịp điệu nhịp nhàng, với tính nhạc vốn có trong thơ. Có thể

nói, Doãn Long là một trong số ít những nhà thơ trẻ Thái Nguyên lựa chọn đi

theo khuynh hướng truyền thống, sáng tạo thơ ca bằng ngôn ngữ giản dị, mộc

mạc nhưng vẫn tạo được dấu ấn cho riêng mình.

Trong sáng tác của các cây bút trẻ Thái Nguyên thường sử dụng ngôn

ngữ mộc mạc, bình dị, bên cạnh Doãn Long còn phải kể đến Dương Thu Hằng,

điển hình như trong bài thơ Đã sắp qua mùa thu:

Đã sắp qua mùa thu

Hoa vàng dâng lối nhỏ

Những trái bàng chín đỏ

Hỏi em sao chưa chồng

Hai mùa thu phập phồng

Qua những làn gió mỏng

Ối bao vầng trăng cong

Trong mắt người thiếu nữ

Đã định rồi đấy chứ

Người xa người chưa về

Mưa vẹt một triều đê

Cỏ may ghim thương nhớ

Đã định rồi đấy chứ

Cửa sổ xanh vẫn mở

Nước giếng trong vắt chờ

61

Thảng thốt từng giấc mơ...

Lại đã sang mùa thu

Thản nhiên màu lá đỏ

Em bước qua ngõ nhỏ

Ngập nắng vàng tương tư

(Dương Thu Hằng – Đã sắp qua mùa thu)

Viết về tình yêu, về sự đợi chờ nhưng không phải với những ngôn từ thể

hiện cảm xúc bồn chồn của sự chờ đợi, đau đáu trong ngóng trông mà tình yêu

trong thơ Dương Thu Hằng lại được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ nhẹ nhàng, xuyến

xao của tâm hồn người thiếu nữ chưa chồng với trái bàng chín đỏ, làn gió mỏng

manh, hoa cỏ may. Còn với tác giả Vũ Thị Tú Anh, tình yêu đôi lứa cũng được chị

đưa vào thơ với những ngôn từ, hình ảnh trong trẻo, mộc mạc nhất:

Cầu vồng bảy sắc lung linh

Ánh mắt anh nhìn em chín đỏ

Mười niềm thương dạt dào suối nhỏ

Ơi cô gái có theo anh về

(Vũ Thị Tú Anh – Cầu vồng bảy sắc)

Cùng với Doãn Long, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh thì Phan Thái

cũng là một cây bút điển hình cho ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị:

Sớm chiều má nhọ bùn non

Đêm sương giá lại lo đon mạ gầy.

Bốn mùa trông đất trông mây

Bão giông bợt bạc rạc cây lúa mềm.

Nhọc nhằn quẩy nắng vào đêm

Làng như áo mẹ bạc thềm heo may.

Gió đi hoang trễ tràng ngày

62

Biết đâu muối mặn gừng cay ở đời.

Lo toan theo dọc kiếp người

Rạ rơm vương cả trong lời ru xanh

Tiếng cười chật nếp nhà tranh

Chẳng ai lấy cái rách lành để so

Bến sông ngơ ngác cánh cò

Qua cầu thèm tiếng “ơi đò”… xa xôi.

Trăm năm làng cũng da mồi

Trăng om chín cả mồi hôi trên đồng

Bờ đê cong nhịp gánh gồng

Mảnh ao lõm nắng phập phồng đợi mưa.

Ta về nhốt gió ngày xưa

Nhặt câu hát một thời chưa là mình.

Vốc trăng têm lại chữ tình

Cho thơ có một mái đình để neo!

(Phan Thái – Ta về nhốt gió ngày xưa)

Bài thơ lục bát với vần điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu tính nhạc,

giàu hình ảnh có cội nguồn từ ca dao, ngôn ngữ giản dị, đậm sắc màu truyền

thống… ta cảm nhận được một bức tranh làng quê thanh bình, yên ả, một bức

tranh mà ở đó chất họa thấm đẫm chất nhạc, chất thơ, âm vang lên qua từng

con chữ. Tác giả gợi ra không gian cho người đọc suy ngẫm, cho người đọc

đắm chìm vào trong thơ và cảm nhận bằng trái tim của mỗi người.

Trong hành trình phát triển không ngừng của thơ trẻ Thái Nguyên, rất

nhiều cây bút trẻ không ngừng sáng tạo, cách tân về mọi mặt trong đó có ngôn

ngữ để tạo nên dấu ấn riêng nhưng vẫn luôn có những tác giả lựa chọn sáng tác

63

bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc và tạo được dấu ấn riêng trong thơ. Từ sự tiếp

thu và kế thừa ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị trong thơ ca truyền thống nhiều

nhà thơ trẻ đã khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình trong lòng bạn đọc,

khẳng định được chỗ đứng của mình trong dòng chảy không ngừng của thơ ca

đương đại.

3.1.2. Ngôn ngữ lạ hóa

Cuộc sống hiện đại với xu thế hội nhập, với cái nhìn cuộc sống đa chiều

thôi thúc các nhà thơ, đặc biệt là thế hệ trẻ có những đổi mới và sáng tạo mới

mẻ. Bên cạnh một số nhà thơ trẻ Thái Nguyên sáng tác theo khuynh hướng

truyền thống thì cũng phải thấy rằng, rất nhiều nhà thơ lựa chọn cho mình

hướng đi theo khuynh hướng cách tân nghệ thuật thơ. Môi trường sống, hoàn

cảnh sống, lối sống của xã hội hiện đại đã mở ra cho người viết trẻ những đối

tượng nghệ thuật, đối tượng thẩm mĩ mới. Để thể hiện những đối tượng thẩm

mĩ mới của cuộc sống hiện đại, thơ ca cũng phải có những sự đổi mới về ngôn

ngữ. Nếu thơ truyền thống chú ý đến miêu tả thì các nhà thơ trẻ chú ý nhiều

hơn đến khả năng gợi, để người đọc tự mở ra thế giới rộng lớn bằng cảm nhận

riêng của mỗi người khi đọc thơ. Ngay từ đầu thế kỉ XXI, trong một số sáng tác

của các nhà thơ Thái Nguyên đã bước đầu sử dụng ngôn ngữ theo hướng lạ

hóa, chẳng hạn như trong các sáng tác của Hiền Mặc Chất, Lưu Thị Bạch Liễu,

Hồ Triệu Sơn…

Trong thơ Hiền Mặc Chất có những con chữ đột xuất:

Nhặt mảnh vỡ trăng

Ghép lại hoa Quỳnh

Lấp lánh âm dương

Khỏa hương thanh khiết

Biết giữ dòng thơm bằng gì?

(Hiền Mặc Chất - Mảnh vỡ trăng)

Hay tác giả Lưu Thị Bạch Liễu có những câu thơ thể hiện sự tìm tòi,

64

sáng tạo, thể hiện bằng những cách nói rất riêng:

Mình sẽ đi

Qua những con đường đuổi nhau bong bóng vỡ

Qua những dòng suối nhỏ

Qua đồi chè he hé mắt non

(Lưu Thị Bạch Liễu - Người yêu)

Có thể nói rằng, ngay từ đầu thế kỉ XXI, ngôn ngữ trong sáng tác của các

nhà thơ Thái Nguyên đã hướng đến sự sáng tạo, họ thổi vào những con chữ

quen thuộc một sức gợi tả bất ngờ. Đó cũng là những bước đi đầu tiên mở

đường cho xu hướng chuyển biến tích cực trong ngôn ngữ của các sáng tác thơ

trẻ giai đoạn sau, đặc biệt trong thơ trẻ Thái Nguyên hôm nay.

Sự chuyển đổi ngôn ngữ thơ từ tả sang gợi có thể coi là một cách tân

nghệ thuật của thơ trẻ Thái Nguyên nói riêng và thơ trẻ đương đại nói chung.

Tuy nhiên, đối với các nhà thơ trẻ Thái Nguyên, ngôn ngữ thơ chưa có những

đột phá quá lớn nhưng đã có sự mới mẻ trong câu chữ, đồng thời sử dụng nhiều

hình tượng thơ mang tính ẩn dụ. Những nỗ lực cách tân nghệ thuật này có thể

tìm hiểu qua những sáng tác của các nhà thơ trẻ như Trần Thị Nhung, Gia Hân

hay tiêu biểu hơn là Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy.

Trần Thị Nhung là cây bút nữ tiêu biểu của thơ ca Thái Nguyên đương

đại. Với tâm hồn phụ nữ giàu cảm xúc, nhạy cảm, lắng đọng suy tư, trong thơ

Trần Thị Nhung chan chứa cảm xúc trữ tình, những rung cảm của chính tâm

hồn nhà thơ. Bài thơ Cổ tích Khau Áng tiêu biểu cho một tâm hồn phụ nữ giàu

cảm xúc được thể hiện trong thơ chị:

Chiều Khau Áng nắng rối lòng mưa

Đường mòn thênh thang vô cớ

Mua rừng tím nở

Tím bầm nỗi nhớ nhung

65

(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)

Tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ được biểu hiện qua hình ảnh mang tính

ẩn dụ: “hoa mua rừng”. Bằng việc sử dụng một hình ảnh rất gần gũi, quen

thuộc trong đời sống, bằng loài hoa đặc trưng của núi rừng, Trần Thị Nhung đã

diễn tả những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ thời chiến tranh. Hình ảnh

bông hoa mua rừng gắn với từng sự kiện, từng bước đi, từng cảm xúc của nhân

vật trữ tình. Bông hoa của núi rừng ấy như đang sống cuộc đời của chính người

phụ nữ trong thơ, là hình ảnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ:

Thời chiến chinh, mua rừng cũng hóa cô phụ

Em dùng dằng, nhàu bông hoa tím

Sức mạnh nào tím loài hoa dịu dàng ấy?

Cánh mua ngậm đầy nước mắt

Góa phụ tóc bồng ấp vào lòng bông hoa cũ

(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)

Từ một hình ảnh vốn dĩ rất quen thuộc trong cuộc sống của người miền

núi – hình ảnh hoa mua, nhà thơ đã có những sáng tạo mới mẻ, truyền cho bông

hoa ấy một sức sống, một linh hồn, như đang thổn thức những nỗi niềm của tác

giả. Bông hoa ấy tượng trưng cho hình ảnh của người phụ nữ thời chiến tranh,

người phụ nữ mòn mỏi chờ mong người chồng giữa mưa bom bão đạn của cuộc

chiến đấu ác liệt. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, bông hoa ấy – người phụ nữ

sinh ra từ núi rừng ấy vẫn kiên cường, mỏng manh nhưng chưa lỗi hẹn, vẫn đợi

chờ. Một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc đã nói được bao điều, đã diễn tả được bao

cung bậc cảm xúc từ hạnh phúc, chờ đợi, khắc khoải, đau thương, nhớ mong…

Bên cạnh Trần Thị Nhung, tác giả Gia Hân cũng có những sáng tạo về

66

ngôn ngữ rất thú vị. Trong thơ chị, những cách liên tưởng độc đáo, những ẩn dụ

ngôn ngữ được sử dụng rất sáng tạo. Đặc biệt trong bài thơ Cha, hình ảnh

người cha “Kết giọt mồ hôi cha đan áo cho con” thay cho người mẹ chỉ còn là

tấm hình, người cha “mắc cả thời gian trên chiếc xích lô” là những hình ảnh

gây xúc động mạnh mẽ với người đọc:

Hai mươi nhăm nhăm

Cha cất những hào hoa nhuộm mùi hoa cúc kê tấm hình của mẹ

Hai mươi nhăm nhăm

Kết giọt mồ hôi cha đan áo cho con

Con đã thấy…

Những đêm

Cha khum mình trong khói thuốc

Những ngày

Cha mắc cả thời gian trên chiếc xích lô

(Gia Hân – Cha)

Nói đến sự đổi mới, cách tân của thơ trẻ Thái Nguyên trên phương diện

đổi mới về ngôn ngữ thơ phải kể đến Phạm Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy. Họ

đã thành công với việc sử dụng thứ ngôn ngữ, hệ từ vựng mới, trong đó có

những từ ngữ là sản phẩm sáng tạo của chính nhà thơ.

Phạm Văn Vũ là nhà thơ người dân tộc Tày, quê ở huyện Định Hóa

nhưng anh không giống như một số nhà thơ khác tìm về khuynh hướng truyền

thống mà lại lựa chọn cho mình hướng đi theo khuynh hướng đi tìm những

cách tân nghệ thuật trong thơ, và trong đó không thể không kể đến những cách

tân, sáng tạo về phương diện ngôn ngữ. Điển hình như trong bài thơ Nhắn:

Về đây

Kể nhau nghe câu chuyện lặng lời

Biết rằng bận bịu làm người

Chẳng để dành đôi cuộc làm ta

67

(Phạm Văn Vũ – Nhắn)

Hoặc:

Đâu đó

Con đường vừa đi vừa khó thở

Những khúc quanh hoài nghi giận dữ

(Phạm Văn Vũ – Búng tay)

Cách nói “bận bịu làm người” khiến người đọc bất ngờ, bởi trước nay ta

chỉ quen từ bận bịu khi nó gắn với công việc chứ đã ai nói bận bịu làm người ?

Cũng như vậy, “con đường vừa đi vừa khó thở” cũng thật lạ, nó như có điều gì

đó bất thường, có điều gì đó như là ẩn ức. Không thể phủ nhận, tác giả đã tạo ra

độ nhòe về ngữ nghĩa giàu sức gợi tả mới bất ngờ.

Trong thơ Nguyễn Nhật Huy, nhà thơ sử dụng một hệ từ vựng mới,

những từ ngữ mà chính quá trình sáng tác thôi thúc nhà thơ sáng tạo để tìm ra

một cách diễn đạt thật sát, thật trúng những điều đang diễn ra trong cuộc sống

đa chiều đầy phức tạp. Từ sự say sưa, khao khát khám phá những điều mới lạ

của cuộc sống, thơ Nguyễn Nhật Huy xuất hiện nhiều hình ảnh mới lạ, mang

nét cá tính riêng của nhà thơ trẻ. Những cách diễn đạt như: đi nửa đời nứt nẻ, đi

mót nỗi buồn, bông lúa cởi chiếc áo xanh… (bài thơ Khói); bông hoa lịm đi

(bài thơ Mặt trời), câu thơ “vặn vẹo” (bài thơ Nhà anh không có điều hòa)… là

những ví dụ cho thấy sự sáng tạo mới mẻ về ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ

Nguyễn Nhật Huy. Hay trong bài thơ Bóng cây, những ngôn ngữ rất riêng, cách

diễn đạt mới lạ của thơ Nguyễn Nhật Huy cho người đọc tự mình suy ngẫm để

có những cảm nhận của riêng mình:

Lóp nhóp bò ra từ lọ mực

Cố viết trưa nay trong ngộp thở nắng đông đặc

Vậy mà những trang giấy vẫn không một gợn mây

Có nhiều khuôn mặt bay qua trưa nay

Bò ra khỏi lọ mực để cố bắt hình cảm thông nhễ nhụa

68

Những người ngủ trưa bên hè phố

Cuộc đời như buổi trưa không gió

Làm trang giấy trắng trơn

Bò ra khỏi lọ mực để hiểu cuộc đời vốn buồn

Cảm thông chỉ hiếm hoi như bóng cây hè phố

mà bao nhiêu người trú ngụ

(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)

Hình ảnh “Lóp nhóp bò ra từ lọ mực”, “nắng đông đặc”, cách dùng từ

ngữ “cảm thông nhễ nhụa”… là những sáng tạo hình ảnh, sáng tạo ngôn ngữ

đầy mới mẻ của Nguyễn Nhật Huy. Những cách dùng từ rất mới, rất gợi, thể

hiện được cái phần hồn, cái biểu hiện trong sâu thẳm là những điều Nguyễn

Nhật Huy luôn nỗ lực trong quá trình cách tân nghệ thuật thơ trẻ. Cuộc sống

hiện đại là đa diện và cách cảm nhận về nó cũng là đa chiều. Tác giả sử dụng

những ngôn ngữ, hình ảnh là sản phẩm sáng tạo của chính mình để thể hiện cái

nhìn, cách cảm nhận về những điều trong cuộc sống. Trong thế giới ấy, hình

ảnh của chính tác giả, của cái tôi hiện lên:

Tôi giọt mực nghèo nàn

Cố tìm câu chuyện từ những buổi trưa lang thang

mà lời lý giải vẫn không mây

Chiều

đóng nắp ngày rồi lại rơi vào lọ mực

Giọt mực vẫn đen trở mình

Về một buổi trưa không rõ nghĩa

Về những bóng cây đã chạy mất khỏi loài người.

(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)

Hình ảnh người nghệ sĩ với những nỗ lực trên hành trình sáng tạo, cách

tân nghệ thuật thơ trẻ được Nguyễn Nhật Huy thể hiện bằng cái nhìn của chính

69

mình, của một con người trong cuộc. Những điều trăn trở, day dứt, biết bao suy

ngẫm không rõ nghĩa là những cảm nhận có lẽ không chỉ của riêng nhà thơ mà

của biết bao con người đang sống trong cuộc sống hiện đại hôm nay.

Các cây bút trẻ Thái Nguyên hôm nay luôn nỗ lực với những cách tân

nghệ thuật trong thơ để khẳng định tiếng nói của bản thân cũng như giành cho

thơ trẻ Thái Nguyên có một vị trí xứng đáng trên hành trình phát triển của thơ

ca đương đại. Họ là thế hệ trẻ bằng trí tuệ và tài năng văn chương đã góp phần

tạo nên những thành công bước đầu, những dấu ấn trên phương diện đổi mới,

cách tân về mặt ngôn ngữ của thơ trẻ Thái Nguyên.

3.2. Về không gian

3.2.1. Không gian phố thị

Trong dòng chảy chung của văn học, không gian phố thị thường xuyên

xuất hiện trong thơ của các tác giả, đặc biệt là những cây bút trẻ. Bởi đó là

không gian thực họ đang sống và làm việc mỗi ngày, họ hiểu rõ về nó và viết

về nó như một lẽ thường. Đó có thể là không gian của những ngôi nhà cao tầng

bề thế hay những căn phòng trọ nhỏ bé như trong thơ Phạm Văn Vũ:

Căn phòng tôi

Ở cuối con đường lẻ

Đi hết nỗi buồn thì tới phố phường

Căn phòng tôi

Ở cuối ngày ẩm ướt

Đi hết cơn giông thì tới cánh đồng

Chẳng có gì đâu

Trong bức tường vuông thẳng

Ánh đèn nghiêng!

70

(Phạm Văn Vũ – Nghiêng)

Hay trong bài thơ Sẽ chẳng bao giờ như thế nữa, Phạm Văn Vũ một lần

nữa miêu tả một không gian căn phòng ngột ngạt giữa chốn thị thành:

Mỗi sớm

Báo động giấc ngủ

Chống trộm căn nhà

Con đường xiết người

Sân khấu xiết hoa

Căn phòng thiếu khí thở và thừa ánh mắt

Bão thông tin 24 giờ ngập lụt

Vuông vuông vuông vuông vuông

(Phạm Văn Vũ – Sẽ chẳng bao giờ như thế nữa)

Phố thị còn là nơi con người ta mong được nhìn thấy màu xanh mát của

cây cối hơn là màu xám của những con đường to nhỏ quoanh co, màu đỏ của

những mái nhà cao thấp lô nhô:

Em hái búp chè

Gửi màu xanh xuống phố

Phố chật chội người

(Doãn Long – Hương chè)

Còn với tác giả Nguyễn Nhật Huy, phố thị gắn với những ngày nhiệt độ

từ bốn mươi đổ lên, với chiếc điều hòa, với những hóa đơn tiền điện:

Nếu nhiệt độ từ bốn mươi đổ lên

Mọi câu thơ đều vặn vẹo

Em có tin không tình yêu mình sẽ chết

Nếu không có điều hòa

Xin đừng làm thơ giải nhiệt

Mà đi cày tiền cho hóa đơn điện vừa tăng

71

(Nguyễn Nhật Huy – Nhà anh không có điều hòa)

Và phố thị cũng là nơi những người nghèo bươn ra để kiếm sống bất kể

nắng mưa, trưa tối:

Những người ngủ trưa bên hè phố

Cuộc đời như buổi trưa không gió

(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)

Phố thị cũng là nơi mà sự đối lập giữa thừa - thiếu, giàu - nghèo được thể

hiện rõ nét, là nơi con người ta sống nhưng thiếu đi phần nào đó sự sẻ chia với

nhau. Điều này được tác giả Doãn Long thể hiện rõ nét trong bài thơ Người

điên với sự đối lập của hai hình ảnh, hình ảnh người điên với “manh quần cộc

hẫng”, ngồi bất động bên đường đợi một “miếng thức ăn văng xa” để rồi thất

vọng khi chẳng được nổi một miếng thừa, trong khi:

Trong quán ăn

Khách nâng chén lên, rượu tràn mâm lênh láng

Chảy xuống gầm sàn

(Doãn Long – Người điên)

Nếu trong thơ Nguyễn Nhật Huy, không gian phố thị hiện lên chủ yếu ở

những biểu hiện rất đời thường, phổ biến của cuộc sống thành thị thì thơ Phạm

Văn Vũ, Doãn Long lại có nét trầm lắng hơn, nhìn vào những lặng lẽ, những

góc sâu thăm thẳm giữa chốn thị thành, sự cô đơn, hiu quạnh giữa không gian

tưởng chừng như náo nhiệt, xô bồ. Có thể thấy, mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình

một góc nhìn riêng, phản ánh một phương diện riêng nhưng tất cả cùng góp

phần tạo nên cái nhìn đa chiều về cuộc sống chốn thị thành.

3.2.2. Không gian làng quê

Bên cạnh không gian phố thị ồn ào, náo nhiệt trong sáng tác của các cây

bút trẻ Thái Nguyên còn xuất hiện một không gian khác khá phổ biến, đó là

không gian làng quê. Một không gian mà con người “tìm về” sau những

bon chen của cuộc sống thị thành, trong không gian đó nổi bật là hình ảnh

72

của cánh đồng, của những bông lúa xanh vươn mình trong gió, của mùi rơm

rạ sau mỗi vụ mùa. Hơn thế, đây cũng là không gian gắn với rất nhiều kỉ

niệm của mỗi người.

Cánh đồng là hình ảnh quen thuộc, trở đi trở lại trong thơ của các cây bút

trẻ Thái Nguyên. Nếu trong bài thơ Cánh đồng của Doãn Long, hình ảnh cánh

đồng sau cơn mưa mang nét đượm buồn thì hình ảnh cánh đồng gắn liền với ký

ức tuổi thơ của tác giả trong bài thơ Cánh đồng tuổi thơ lại mang một sắc thái

vui tươi, trong trẻo:

Cánh đồng rủ tôi theo lũ cào cào châu chấu

Mồ hôi dính bết lên mái tóc hạt dẻ

Đàn sẻ tập bay chíu chít ngọn tre.

Tôi nhả y lên bằ ng bước đi chân sá o Miệng già nhai trầu đỏ au gọi khan ngà y nắng

Những đứa trẻ mình trần mải học bơi sau đàn trâu qua suối

Vỡ nhịp buổi trưa…

Trên mái nhà mẹ gài chiếc roi tre

Lũ trẻ chăn trâu cả mùa chân đất

Nhé p nháp bùn non Lưng đen hơn sá cày đi nắng.

Dòng suối dạy tôi bơi

Màu xanh đồng, mẹ vun từ khi tôi còn trong bụng...

Tiếng cuốc tiếng cày, tôi biết nghe từ ấy

Đuôi mắt mẹ hằn nốt chân chim qua bao mù a nứt nẻ

Bàn tay mẹ run run...

Chỉ về cánh đồng xưa khôn lớ n.

(Doãn Long – Cánh đồng tuổi thơ)

Cánh đồng gắn với những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ tác giả. Những trò

chơi đuổi theo lũ cào cào châu chấu trên đồng, những buổi trưa đuổi theo đàn

73

chim sáo hay học bơi sau đàn trâu qua suối… có lẽ là những kỉ niệm không bao

giờ quên về một thời tuổi thơ. Chính cánh đồng ấy là nơi dạy nhà thơ bao điều

trong cuộc sống, cánh đồng ấy còn gắn với những vất vả tảo tần của người mẹ

đã nuôi con khôn lớn từng ngày. Có thể nói, dù nay có đi xa nhưng cánh đồng

tuổi thơ vẫn là một phần sâu đậm trong kí ức, gắn liền với những gì trong sáng,

mộc mạc, đẹp đẽ nhất của một thời tuổi thơ tác giả.

Trong thơ Trần Thị Nhung, hình ảnh cánh đồng cũng được nhắc đến

trong bài thơ Sợi yêu:

Cánh đồng

Nằm đợi mùa lên sương

lạnh cơn gió mỏng.

Mảnh trăng chiều

Trằn trọc giấc ngủ

lên non.

Em ngồi gỡ

Chân tím vết hoàng hôn

Bòng bong

Rối trong đám cỏ

(Trần Thị Nhung – Sợi yêu)

Còn trong thơ Phạm Văn Vũ hình ảnh cánh đồng lại hiện về trong một

giấc mơ:

Dành dụm hơi ấm từ khoanh lửa rơm lũ trẻ đánh rơi

Ngọn khói đêm nay cuộn mình thiêm thiếp

...

Trở mình chạm lưỡi liềm mùa cũ

Dụi mình gặp chùm rễ trầm tư

Trong mái tóc lơ phơ năng nắng

Khe khẽ cựa mình một tiếng hát ru

74

(Phạm Văn Vũ – Cánh đồng về sáng)

Ở một góc nhìn khác, trong thơ Doãn Long hình ảnh làng quê còn lồng

trong cuộc sống của những người dân miền núi:

Mọi điều trở thành bỡ ngỡ

Khi bước chân lên cầu thang gỗ

Rồi thấy lạ lùng

Giữa nhà quần quanh khói bếp.

Người già ngồi tẽ ngô, nhóm củi

Trẻ nhỏ so mình sau vuông cửa

Khói bếp hun lên mùi thức ăn dà nh từ vụ trước Đãi khách chơi nhà.

(Doãn Long – Vào bản)

Nhưng sẽ thật thiết sót nếu nói về không gian làng quê mà không nhắc

đến hai bóng hình quen thuộc, thân thương ở nơi đó. Đó là hình ảnh của người

mẹ in đậm trong tâm trí từ khi con còn là đứa trẻ ham chơi, mỗi trưa trốn ngủ

tập bơi ngoài suối khiến mẹ phải gài chiếc roi trên mái nhà để dọa:

Những đứa trẻ mình trần mải học bơi sau đàn trâu qua suối

Vỡ nhịp buổi trưa… Trên mái nhà mẹ gài chiếc roi tre

Cho đến tận ngày con khôn lớn và bước đi của thời gian thêm hằn rõ trên

khuôn mặt mẹ:

Đuôi mắt mẹ hằn nốt chân chim qua bao mù a nứt nẻ Bàn tay mẹ run run...

(Doãn Long – Cánh đồng tuổi thơ)

Mẹ vẫn luôn người phụ nữ cả cuộc đời tần tảo, hi sinh vì con:

Mẹ tôi bao tháng bao ngày

Bao nhiêu cơ cực đắng cay ắp tràn

Đường đời bao hướng gian nan

Bế con qua khắc cơ hàn truân chuyên

75

(Dương Thu Hằng – Mẹ tôi)

Trở về nơi mình đã sinh ra là trở về bên vòng tay của mẹ, và không thể

thiếu nữa đó là hình ảnh của bà - người lưu giữ cho mỗi người kỉ niệm của cả

một thời thơ ấu:

Tuổi thơ đâu đây

Con ngỡ lạc mất

Hoa mào gà và quả mùng tơi

Không bao giờ hết hạt

Bà giữ hộ tuổi thơ con

(Trần Thị Nhung – Gửi bà)

Có lẽ, bên cạnh cánh đồng thì hình ảnh của bà và mẹ chính là điều làm

nên cái hồn của làng quê trong mỗi người.

Có thể thấy, trong sáng tác của mình mỗi cây bút lại có một cách thể hiện

riêng khi viết về không gian làng quê. Đó có thể là hình ảnh làng quê gắn liền

với những cánh đồng, gắn với bóng hình của mẹ của bà hay hình ảnh những

bản làng miền núi gắn với hình ảnh nhà sàn, bếp lửa… nhưng tất cả đều thống

nhất khi tạo nên một bức tranh làng quê đầy màu sắc trong sáng tác của các nhà

thơ trẻ Thái Nguyên.

3.3. Về thời gian

Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là khái niệm chỉ

hình thức tồn tại của thế giới, chỉ trong không gian – thời gian thì sự vật mới có

tính xác định. Thời gian nghệ thuật là một phương tiện trong sáng tạo nghệ

thuật để nhà thơ nhận thức và phản ánh đời sống. Trong sáng tác của các nhà

thơ trẻ Thái Nguyên, phạm trù không gian cũng là một phương tiện nghệ

thuật đắc lực để người viết thể hiện những nhận thức, cảm nhận, suy ngẫm

về cuộc sống.

Thờ i khắc củ a những buổ i chiều luôn đem la ̣i cho con người rất nhiều những xú c cảm. Đó là khi mă ̣t trờ i dần lặn, ánh sáng dần nhường chỗ cho màn

76

đêm, mỗi người sau một ngày hố i hả lại trở về vớ i mâm cơm gia đình. Trong

thơ của các cây bút trẻ Thái Nguyên, thờ i khắc củ a những buổ i chiều tà không ồ n ào mãnh liê ̣t, không cháy bỏ ng nồ ng nàn mà là khoảng thờ i gian mà cái tôi trữ tình ngồ i lă ̣ng yên đầy chiêm nghiê ̣m về cuô ̣c đờ i.

Đó có thể là sự suy tư về cuộc đời đầy bon chen, đen trắng lẫn lộn:

Chiều

Đóng nắp ngày rồi lại rơi vào giọt mực

Giọt mực vẫn đen trở mình

Về một buổi trưa không rõ nghĩa

Về những bóng cây đã chạy mất khỏi loài người

(Nguyễn Nhật Huy – Bóng cây)

Buổi chiều còn là thờ i gian mà sự cô đơn xâm chiếm tâm hồ n, sự cô đơn bắt nguồ n từ sự trố ng vắng khi nhớ về quê hương, về mùi rơm rạ, nhớ về bóng

mẹ mòn mỏi:

Chiều khói bay

Không phải khói mẹ

(Nguyễn Nhật Huy – Khói)

Bên ca ̣nh đó, buổ i chiều trong thơ trẻ Thái Nguyên còn là khoảng thờ i gian củ a nỗi buồn thấm thía, nỗi đau khắc khoải của người con gái mất đi người yêu trong bom đạn chiến tranh:

Chiều Khau Áng, gió rối lòng mưa

Cánh mua ngậm đầy nước mắt

Ầng ậng lòng em

(Trần Thị Nhung – Cổ tích Khau Áng)

Trong thời gian lắng đọng của buổ i chiều tà, hình ảnh củ a người con trai si tình, ngồ i thẫn thờ nhìn những giọt nước mắt của người yêu rơi được miêu tả trong thơ Phạm Văn Vũ:

Cơn mưa ấy

Suốt một chiều tự ướt

Khi nhìn em

Ngồi len lén khóc thầm

77

(Phạm Văn Vũ – Sau một cơn mưa)

Tuy nhiên, ngoài buổ i chiều của yêu thương, buổ i chiều trong thơ cò n là khoảng thời gian để các cây bút trẻ nhìn về cuộc số ng vớ i những bộn bề lo toan, lặng nhìn vào những kiếp mưu sinh với những gánh nă ̣ng cơm áo ga ̣o tiền. Chiều muộn, trên đườ ng mọi chiếc xe đều chỉ mong đi được thật nhanh để tìm về mái nhà sau mô ̣t ngày mỏ i mê ̣t. Những hình bó ng đó đi vào trang thơ, mô ̣t cách giản di ̣ mà đo ̣ng lại bao nỗi niềm:

Em cứ nghèo đi không chỉ bởi những bữa cơm

Mà còn sách bút áo quần cho trẻ nhỏ

Chiều chiều đón con tan trường

Chầm chậm hai mẹ con

Tím ngan ngát ven đường

Bạt ngàn hoa xấu hổ dâng hương...

(Dương Thu Hằng – Người vợ cả)

Thẳm sâu trong những vần thơ là biết bao nỗi lò ng, biết bao tâm trạng

ngổn ngang thổn thức. Lờ i thơ chù ng xuố ng, nhi ̣p thơ châ ̣m la ̣i và âm hưở ng thơ cũng mang mô ̣t nỗi sầu day dứ t không thôi.

Có thể nói rằng buổ i chiều trong thơ của các cây bút trẻ Thái Nguyên,

vẫn luôn là những lắng đo ̣ng nhẹ nhàng, thiết tha mà trong trẻo, là yếu tố không nhỏ ta ̣o nên chất suy tư trong thơ. Tuy nhiên, đó la ̣i là nỗi buồ n nhe ̣ nhàng mang vẻ đẹp tinh tế của những tâm hồn tinh tế. Buổ i chiều ta ̣o nên những điều rất riêng trong tâm hồn mà rất khó có thể lí giải nó một cách cụ thể. Chỉ có thể thấy rõ một điều đó là thời gian chiều tà mỗi ngày được nhìn qua lăng kính của

các cây bút trẻ Thái Nguyên chất chứa những suy tư, những nỗi nhớ và lò ng trắc ẩn tình đờ i.

Bên cạnh thời gian chiều tà, trong thơ trẻ Thái Nguyên cũng thường xuất

78

hiện thời gian ban đêm. Nếu như buổ i sáng là thờ i khắc củ a những cảm xú c nhe ̣ nhàng trong trẻo, buổi chiều là khoảng thờ i gian củ a những triết lí, những giá tri ̣ củ a cái tôi suy tư lă ̣ng lẽ mà thấm thía thì trong đêm tố i, là sự khoảng thời

gian củ a những cảm xú c dữ dô ̣i và mãnh liê ̣t nhất. Thơ trẻ Thái Nguyên viết nhiều về đêm tố i, lấy đêm tố i làm bầu ba ̣n, mươ ̣n đêm tố i là cái cớ để giãi bày lò ng mình:

Lấy đi ồn ào căng thẳng của ngày công việc

Cả những hư danh cứ nêm vào nhau

Dạn nứt từng thớ thịt

Ăn sâu ý nghĩ

Đêm tặng tôi sự thanh bình

Chỉ mình thôi cùng ấm trà vừa đủ

Khói thuốc cho thêm cần mẫn

Nghĩ về hôm qua

(Doãn Long – Đêm)

Trong đêm tố i, mo ̣i khát khao đươ ̣c thể hiện, mo ̣i trố ng trải được biểu lô ̣,

mo ̣i ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn, cũng theo đó mà tràn về. Đêm tố i, là

khoảng thời gian của một cái tố i trần trụi, củ a cái tôi đã tự bó c tách các lớ p vỏ

bọc bên ngoài, mô ̣t cái tôi dù cô đơn nhưng đươ ̣c số ng thâ ̣t vớ i chính mình.

Bóng nến liêu diêu

Ngã vào đêm

Không ngủ

Cháy đến cạn mình

Chưa thắp nổi giấc mơ

(Phạm Văn Vũ – Ánh nến)

Trước hết, đêm tối là khoảng thờ i gian củ a nỗi cô đơn dài bất tâ ̣n, nỗi cô

đơn đến cháy lò ng. Tự cháy sáng rồ i la ̣i rơi vào nguội la ̣nh cô đơn, đêm tố i, là

khoảng thờ i gian mà cái tôi tự trải lòng mình như thế, nhưng nỗi cô đơn thì

79

xâm chiếm tâm hồ n mãnh liê ̣t:

Cô ấy

trẻ hơn

đẹp hơn

tươi hơn...

Em biết thế trong những đêm đứng khoanh tay

Đứng nhìn sao trốn vào lòng trời cùng kiệt

Bước chân thời gian đi miết... qua em

(Dương Thu Hằng – Người vợ cả)

Trong không gian tĩnh lă ̣ng mô ̣t mình, cô ̣ng vớ i tâm hồ n thường trực những nhớ thương, cái tôi đa cảm cồn lên sự khắ c khoải mong muốn được

giãi bày:

Đêm tràn vào biển…

Nào ngủ đi hạt cát

Nào nói đi ánh trăng

(Phạm Văn Vũ – Gió về)

Chỉ trong đêm tối, ta mớ i thấy cái tôi trữ tình trong thơ như thế. Và cũng chỉ trong đêm mọi cảm xúc của con người dường như la ̣i đươ ̣c cô ̣ng hưởng thêm gấp bô ̣i phần. Cái tôi trữ tình trong đêm tố i lú c nào cũng trằn tro ̣c, trở mình mãi không nguôi vớ i nỗi buồn và những trăn trở, suy tư bộn bề:

Con đã thấy…

Những đêm

Cha khum mình trong khói thuốc

(Gia Hân - Cha)

80

Dườ ng như, đêm tố i luôn là ngườ i bạn tri kỉ của những cái tôi đa cảm đa sầu, để cù ng giãi bày, để cù ng chia sẻ. Đêm tối, đã luôn đi vào thơ văn bằng những điều như thế, như mô ̣t biểu tươ ̣ng thờ i gian mà muôn đờ i vẫn mãi bầu ba ̣n, sẻ chia.

Nhưng đêm tố i không đơn thuần là một khoảng thờ i gian, là người bạn đồng điệu tâm hồn với các cây bút trẻ, mà đôi khi đêm tối là nỗi ám ảnh với họ.

Đó là khi sự cô đơn trong họ bị bóng đêm bủa vây, màn đêm đen như đặc

quoánh khiến họ vùng vẫy nhưng không thể thoát ra:

màn đêm đánh gục cả nhưng chiếc lá kiên cường nhất

(Nguyễn Nhật Huy - Mặt trời)

Trong giấc mơ chập chờn mỗi đêm họ thấy mình tự “bay đi”, bay đi một

phần của chính mình:

Có phải thủa bé nhốt đom đóm vào lọ

Nên giờ đây mỗi đêm lại chập chờn

Mỗi lần lọ mở nắp

Là một lần mình bay đi

(Phạm Văn Vũ – Linh)

Nếu thờ i khắc buổ i chiều là khoảng củ a những rung đô ̣ng nhe ̣ nhàng, sâu lắng, của những suy tư về cuô ̣c số ng, về nhân thế thì khi màn đêm buông xuố ng, tiếng go ̣i buốt la ̣nh trong tâm tư la ̣i tràn về. Đó , là khoảng thờ i gian củ a nỗi cô đơn đến cháy lò ng, là khoảng thờ i gian củ a nỗi buồ n xâm chiếm. Đêm tối là lú c con người ta trở về với chính bản năng củ a mình, về vớ i những giâ ̣n hờ n, những mê ̣t mỏ i, những khát khao còn dang dở. Đêm tố i, là lú c con người ta tìm thấy mình chân thâ ̣t nhất, là lú c những lớp mặt nạ bên ngoài bị cở i bỏ , chỉ cò n cái tôi nguyên bản củ a chính mình bởi vậy nên khoảng thời gian này lú c nào cũng mang la ̣i cảm giác sâu lắng nhất, chân thành nhất và cũng mãnh liê ̣t nhất.

81

Tuy nhiên, thờ i gian chiều hay tố i cũng chỉ mang ý nghĩa tươ ̣ng trưng, là cái cớ để cái tôi trữ tình qua đó bô ̣c lô ̣ rõ ràng hơn những cung bâ ̣c cảm xú c củ a lò ng mình. Đó là thờ i gian nhuố m màu tâm tra ̣ng, là khoảnh khắc củ a cảm xú c lên ngôi trong sáng tác. Thờ i gian nghê ̣ thuâ ̣t, không gian nghê ̣ thuâ ̣t cù ng vớ i cái tôi trữ tình ta ̣o thành những chân kiềng vững chắc hình thành nên thế giớ i nghê ̣ thuâ ̣t thơ trẻ Thái Nguyên.

Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, người cầm bút nói chung và các cây

bút trẻ Thái Nguyên nói riêng luôn cố gắng tìm tòi để tạo ra sự mới lạ trong thi

pháp và trong tư tưởng. Họ thường không bằng lòng với những gì sẵn có mà

luôn tự khám phá, tạo cho mình những con đường riêng. Có thể nói trên những

con đường sáng tạo nghệ thuật ấy, họ đã có những thành công nhất định nhưng

cũng không thể phủ nhận thơ trẻ Thái Nguyên vẫn chưa thực sự có sự cách tân,

đổi mới mang tính đột phá, triệt để và trở thành hệ thống.

Thứ nhất, những cách tân đổi mới chủ yếu tập trung ở hai cây bút Phạm

Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy. Với các cây bút khác, thơ phần nhiều vẫn mang

dấu ấn truyền thống, chưa thực sự có nhiều thử nghiệm, sáng tạo.

Thứ hai, với bản thân hai cây bút Phạm Văn Vũ và Nguyễn Nhật Huy,

mặc dù họ có nhiều tìm tòi, thể nghiệm song sự sáng tạo đó mới chỉ dừng lại ở

một số phương diện nhất định chứ chưa thực sự trở thành phong cách, chưa tạo

cho người cầm bút một chân dung sáng tạo hoàn toàn mới mẻ.

Thứ ba, trong sáng tác của một số tác giả, sự cô đơn nhỏ bé đôi khi bị

đẩy tới mức cực đoan. Trên con đường đi tìm giá trị và niềm tin cuộc sống

dường như họ càng cố định hình thì lại càng bế tắc, càng cố bước đi lại càng

hoang mang. Họ phản ánh điều đó trong thơ và phần nào khiến bạn đọc bất an

khi nhìn nhận cuộc sống.

Nghiên cứu về thơ trẻ Thái Nguyên và chỉ ra vấn đề này, luận văn không

chỉ dừng lại ở việc nhìn vào những vấn đề mang tính hạn chế của thơ trẻ Thái

Nguyên mà hơn nữa là để khẳng định sự cách tân, đổi mới trong thơ là một quá

trình lâu dài và đầy thách thức. Nó đòi hỏi người cầm bút phải thực sự nghiêm

túc, tự giác, tâm huyết và có tinh thần thể nghiệm để tiệm cận đến sự thành

công, quan trọng hơn nữa là góp phần làm cho thơ ca Thái Nguyên vận động

82

tích cực theo hướng ngày càng chuyên nghiệp hơn.

* Tiểu kết chương 3:

Trong chương 3, chúng tôi đã nghiên cứu về một số đặc điểm về ngôn

ngữ, không gian, thời gian tiêu biểu trong thơ trẻ Thái Nguyên.

Về ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên theo hai khuynh hướng là sử

dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và ngôn ngữ lạ hóa. Đại diện tiêu biểu cho

khuynh hướng sáng tác bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc là các nhà thơ như

Doãn Long, Dương Thu Hằng, Vũ Thị Tú Anh… Tiêu biểu cho việc sử dụng

ngôn ngữ lạ hóa là các tác giả như Trần Thị Nhung, Gia Hân, Phạm Văn Vũ,

Nguyễn Nhật Huy.

Về không gian, trong thơ trẻ Thái Nguyên thường nói về không gian phố

thị và không gian làng quê. Một bên là cuộc sống giản dị, bình yên nơi làng quê

với hình ảnh người mẹ và người bà, một bên là những ồn ào, bon chen của thị

thành. Tất cả cùng làm nên một bức tranh cuộc sống đa sắc màu trong thơ trẻ

Thái Nguyên.

Về thời gian, các tác giả trẻ Thái Nguyên thường nói về thời gian của

buổi chiều tà hay khi đêm về. Đó là khoảng thời gian khi cuộc sống lao động đã

lùi lại sau lưng, nhưng xô bồ, náo nhiệt nhường chỗ cho tĩnh lặng. Đó là

khoảng thời gian gợi cho con người nhiều cảm xúc, nhiều suy tư lắng đọng,

83

cũng là thời gian người nghệ sĩ tìm về với thơ ca.

KẾT LUẬN

Trong luận văn Thế giới nghê ̣ thuật trong thơ trẻ Thá i Nguyên, từ việc

nghiên cứu những vấn đề lý luận chung đến những khía cạnh cụ thể của thế

giới nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ trẻ Thái Nguyên, chúng tôi đưa

ra một số kết luận như sau:

1. Thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất quan trọng của sáng tạo nghệ

thuật, được xây dựng trên những nguyên tắc tư tưởng, thẩm mĩ nhất định. Cái tôi

là sự khẳng định bản thân, khẳng định cá tính, bản chất vốn có của mỗi con người.

Thái Nguyên là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược, là trung tâm kinh tế –

chính trị, văn hóa, giáo dục… của vùng trung du miền núi phía Bắc, đồng thời

là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Những điều kiện thuận lợi ấy

tạo cho các nhà thơ trẻ Thái Nguyên có cơ hội được tiếp xúc và thừa hưởng

truyền thống văn hóa, văn học của địa phương làm nền tảng và mạch nguồn

nuôi dưỡng tình yêu văn chương nghệ thuật, hun đúc nên một đội ngũ những

nhà thơ Thái Nguyên trong đó có những nhà thơ trẻ hôm nay.

2. Cảm hứng thế sự là một cảm hứng nổi bật trong sáng tác của các nhà

thơ trẻ Thái Nguyên. Phạm Văn Vũ, Nguyễn Nhật Huy, Doãn Long là những

nhà thơ tiêu biểu cho cái tôi thế sự giàu chất suy tư, luôn hướng về cuộc sống,

luôn trăn trở trước những điều đang diễn ra trong cuộc sống, trước những đổi

thay của cuộc sống hiện đại. Với nhà thơ Phan Thái và Trần Thị Nhung, sáng

tác thơ của họ vừa điển hình ở cái tôi trữ tình trong trẻo, hồn nhiên, vừa thể

hiện một cảm nhận về những suy tư, trăn trở hay cảm giác cô đơn, nhỏ bé trong

cuộc sống.

3. Trong sáng tác, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên đã đạt được những thành

tựu nghệ thuật trên các phương diện về ngôn ngữ, không gian, thời gian. Về

ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ Thái Nguyên sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị,

một số khác lại thường dùng ngôn ngữ lạ hóa. Về không gian, thơ trẻ Thái

84

Nguyên thường viết về không gian phố thị và không gian làng quê. Về thời

gian, các tác giả trẻ Thái Nguyên thường nói về thời gian của buổi chiều tà hay

khi đêm về. Thời gian gợi cho con người nhiều cảm xúc, nhiều suy tư lắng

đọng, cũng là thời gian người nghệ sĩ tìm về với thơ ca.

4. Trên con đường phát triển của mình, thơ Thái Nguyên đã có nhiều dấu

mốc quan trọng nhờ sự trưởng thành không ngừng của đội ngũ sáng tác, nhờ

cảm hứng mở rộng phong phú và nhờ tìm tòi đổi mới nghệ thuật. Với các cây

bút trẻ hiện nay, bên cạnh việc kế thừa thành công của những thế hệ trước họ

luôn nỗ lực vượt qua bản thân để làm mới mình và làm mới thơ. Có thể nói

hành trang của họ giờ là chính là sự đam mê và nhiệt huyết. Tuy nhiên thơ ca

chưa bao giờ là con đường bằng phẳng, vì vậy trong cuộc “chạy bền” mang

tính nghệ thuật đó mỗi người cầm bút vẫn cần không ngừng học hỏi để nâng

tầm về trình độ tri thức và nền tảng văn hóa. Đây là yếu tố quan trọng, quyết

định trong quá trình đưa thơ ca của tỉnh nhà có những bước phát triển mới và

85

hội nhập mạnh mẽ góp phần tạo nên diện mạo văn học chung của cả nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Minh Cảnh (Chủ biên - 2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 3,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

4. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nô ̣i. 5. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng

trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Nông Quốc Chấn (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

7. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Hoàng Minh Châu (1990), Bàn về thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

10. Miên Di (2013), Thơ Miên Di, Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nô ̣i.

11. Xuân Diệu (1994), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

12. Nguyễn Đặng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam - đỉnh cao Đại Việt, Nxb Hà Nội.

13. Hữu Đa ̣t (1996), Ngôn ngữ thơ Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 14. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu Văn hóa, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

15. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Đăng Điê ̣p (2002), Giọng điê ̣u thơ trữ tình, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nội. 17. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại – tiến trình và hiện

tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.

18. Phong Điê ̣p (2007), Mạn đà m văn chương thời @, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 19. Phong Điê ̣p (2014), Cuộc phiêu lưu của những cá i tôi, Nxb Tổ ng hơ ̣p thành

86

phố Hồ Chí Minh.

20. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Văn

học, Hà Nội.

21. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

22. Hà Minh Đức (2004), Văn chương, tài năng và phong cách, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

23. Hà Minh Đức (2011), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

24. Hồ Thủy Giang (2010), Thái Nguyên một dòng chảy văn chương, Nxb Hội

nhà văn.

25. Hồ Thủy Giang (2012), “Văn chương hiện đại, hậu hiện đại dưới góc nhìn

của một người sáng tác”, Báo Văn nghệ Thái Nguyên số 30 (470), ngày

20/10/2012.

26. Đỗ Thu Hà (2011), Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỉ XXI, Luận văn

Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.

27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), (2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Dương Thu Hằng (2000), Men đầu, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

29. Dương Thu Hằng (2005), Đón lá, Nxb Đại học Thái Nguyên.

30. Trần Đăng Khoa (2013), Trần Đăng Khoa nói về thơ Việt ở Paris,

http://vov.vn/blog/tran-dang-khoa-noi-ve-tho-viet-o-paris-263418.vov, ngày

26/5/2013.

31. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiê ̣n đại Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 32. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trú c của thơ, Nxb Đa ̣i ho ̣c Quố c gia, Hà Nô ̣i.

33. Lưu Thị Bạch Liễu (2009), Sông Cầu đang chảy đâu đây, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

34. Vi Thù y Linh (2014), Thế giớ i nghê ̣ thuật thơ Miên Di, Luâ ̣n văn Tha ̣c sĩ

87

khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồ ng chủ biên), (2000), Văn học Viê ̣t Nam

sau 1975 - Những vấn đề giả ng dạy và nghiên cứ u, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.

36. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

37. Phương Lựu (Chủ biên), (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Hồ Á Mẫn (2011), Giáo trình văn học so sánh, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

39. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

40. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin,

Hà Nội.

41. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể

loại, NXb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

42. Vũ Nho (2012), Thơ và dạy học thơ, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.

43. Nhiều tác giả (2003), Văn học so sánh - Nghiên cứu và dịch thuật, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

44. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

45. Nhiều tác giả (2015), Tuyển tập thơ Thá i Nguyên (2006 – 2015), Nxb Đa ̣i

ho ̣c Thái Nguyên.

46. Nhiều tác giả (2016), Bả n hò a âm thá ng chín, Nxb Hô ̣i nhà văn, Hà Nội. 47. Hoàng Phê (Chủ biên), (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung

tâm Từ điển học, Hà Nội.

48. Nguyễn Thúy Quỳnh (2009), Tinh thần thép và tầm vóc văn hóa,

http://nguyenthuyquynh.vnweblogs.com/a200619/tinh-than-thep-va-tam-voc-

van-hoa/page-1.html, ngày 29/11/2009.

49. Nguyễn Thúy Quỳnh (2011), Những tích tắc quanh tôi, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

88

50. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao Thơ mớ i, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.

51. Trần Đình Sử (1995), Những thế giớ i nghê ̣ thuật thơ, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i. 52. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

53. Trần Đình Sử (2009), Giáo trình Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

54. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình Lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

55. Trần Ngọc Thêm (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

56. Trần Ngọc Thêm (2014), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,

NXB Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

57. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

58. Nguyễn Kiến Thọ (2017), Thơ Thái Nguyên: nghĩ từ thơ trẻ,

http://vannghethainguyen.vn/2017/02/03/tho-thai-nguyen-nghi-tu-tho-tre/,

ngày 03/2/2017.

59. Nguyễn Kiến Thọ (2017), 30 năm thơ Thái Nguyên,

http://vannghethainguyen.vn/2017/07/31/30-nam-tho-thai-nguyen/, ngày 31/7/2017.

60. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Nguyễn Đình Vinh (2014), Thơ Truyền thống - Nền tảng của thơ hiện đại,

http://tacphammoi.net/tho-truyen-thong-nen-tang-cua-tho-hien-

dai_n530.aspx, ngày 09/02/2014.

62. Pha ̣m Văn Vũ (2007), Trong nỗi nhớ mà u chà m, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên. 63. Pha ̣m Văn Vũ (2011), Ngẫu luận (trò chuyê ̣n văn chương), Nxb Hô ̣i nhà

văn, Hà Nội.

64. Pha ̣m Văn Vũ (2016), Mọc, Nxb Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.

65. Phạm Văn Vũ (2016), http://khoavan.dhsptn.edu.vn/455_Tac-gia-tre-

Nguyen-Nhat-Huy-THO-CA-DAY-TOI-NHIEU-DIEU-.html, ngày 28/8/2016.

89

66. https://vi.wikipedia.org/wiki/Mái_Đá_Ngườm.