ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHÙNG THANH HẢO

NGHĨA TÌNH THÁI ĐÁNH GIÁ CỦA CÂU

TRONG CÁC VĂN BẢN TRUYỆN VÀ KÍ

GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHÙNG THANH HẢO

NGHĨA TÌNH THÁI ĐÁNH GIÁ CỦA CÂU

TRONG CÁC VĂN BẢN TRUYỆN VÀ KÍ

GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhung

Thái Nguyên - 2015

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ: Nghĩa tình thái đánh giá của câu

trong các văn bản truyện, kí giảng dạy ở trường trung học phổ thông là kết

quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.

Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Phùng Thanh Hảo

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn

Thị Nhung, cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên

cứu để hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,

Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên cùng các thầy giáo

ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, trường Đại

học Sư phạm Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.

Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã

động viên khích lệ tôi để hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2015

Tác giả luận văn

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Phùng Thanh Hảo

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

Danh mục từ viết tắt ........................................................................................... iv

Danh mục các bảng .............................................................................................. v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5

4. Đối tượng và phạm vi khảo sát của đề tài ....................................................... 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 6

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN ........................................ 8

1.1. Sơ lược về câu xét trên hai bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa ................................ 8

1.1.1. Khái niệm câu và thuật ngữ câu ................................................................ 8

1.1.2. Sơ lược về câu xét trên bình diện cấu trúc .............................................. 10

1.1.3. Sơ lược về câu xét trên bình diện ngữ nghĩa ........................................... 13

1.2. Sơ lược về từ, tổ hợp từ, cặp từ, từ loại. ..................................................... 24

1.2.1. Từ ............................................................................................................. 24

1.2.2. Tổ hợp từ .............................................................................................. 24

1.2.3. Cặp từ, cặp tổ hợp từ ............................................................................... 25

1.2.4. Từ loại ...................................................................................................... 25

1.3. Sơ lược về truyện và kí ............................................................................... 26

1.3.1. Khái niệm truyện và kí ............................................................................ 26

1.3.2. Nhân vật văn học ..................................................................................... 27

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

1.3.3. Chủ đề trong truyện và kí ........................................................................ 27

1.4. Đôi nét về việc dạy học truyện và kí, dạy học nghĩa của câu và giảng

dạy văn hoá cho học sinh ở trường trung học phổ thông. ................................. 28

1.4.1. Tình hình dạy học truyện và kí ở trường phổ thông ................................ 28

1.4.2. Đôi nét về việc dạy học nghĩa của câu ở trường phổ thông ................... 31

1.4.3. Sơ lược về việc dạy học văn hoá cho học sinh ở trường phổ thông ........ 33

1.5. Tiểu kết ....................................................................................................... 35

Chƣơng 2: CÁC PHƯƠNG TIỆN, CÁC SẮC THÁI NGHĨA TÌNH THÁI

ĐÁNH GIÁ CỦA CÂU TRONG NHỮNG VĂN BẢN TRUYỆN VÀ KÍ

GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .......................... 36

2.1. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các văn

bản truyện và kí giảng dạy ở trường trung học phổ thông ................................ 36

2.1.1. Các phương tiện biểu thị tình thái đánh giá xét theo vị trí trong câu ...... 36

2.1.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá xét theo cấu tạo và

từ loại...........................................................................................................40

2.2. Các sắc thái nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các văn bản truyện

và kí……………. .............................................................................................. 47

2.2.1. Kết quả khảo sát ...................................................................................... 47

2.2.2. Nhóm sắc thái đánh giá về lượng ............................................................ 48

2.2.3. Nhóm sắc thái đánh giá về chất ............................................................... 55

2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 62

Chƣơng 3: VẬN DỤNG NGHĨA TÌNH THÁI ĐÁNH GIÁ VÀO VIỆC

DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ............ 64

3.1. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện và kí vào

việc dạy học Văn học ở trường trung học phổ thông ........................................ 64

3.2. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện và kí vào

việc dạy học tiếng Việt ...................................................................................... 71

3.2.1. Đối với việc dạy lí thuyết nghĩa của câu ................................................ 72

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.2.2. Đối với việc dạy luyện tập nghĩa của câu ................................................ 72

3.3. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện và kí vào

việc giáo dục văn hóa cho học sinh trung học phổ thông.................................. 76

3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 85

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 87

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 90

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

C-V: Chủ ngữ - vị ngữ

NTT: Nghĩa tình thái

NTTKQ: Nghĩa tình thái khách quan

NTTCQ: Nghĩa tình thái chủ quan

NTTNT: Nghĩa tình thái nhận thức

NTTĐG: Nghĩa tình thái đánh giá

NTTCX: Nghĩa tình thái cảm xúc

NTTĐL: Nghĩa tình thái đạo lí

NTTTĐ: Nghĩa tình thái thái độ

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THPT : Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá xét theo vị trí

trong câu ............................................................................................ 36

Bảng 2.2. Phân loại các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá

xét theo cấu tạo và từ loại .................................................................. 40

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Bảng 2.3. Các sắc thái nghĩa tình thái đánh giá ................................................ 47

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về các thành phần cơ bản trong nghĩa tường minh của câu, bên cạnh

nghĩa miêu tả, còn có thành phần thể hiện quan hệ của điều được nói tới trong

câu với hiện thực khách quan, quan hệ của người nói với điều được nói tới

trong câu và với người nghe. Thành phần này được gọi là nghĩa tình thái (NTT)

của câu.

Trong những năm gần đây, NTT nổi lên như một trong những trọng tâm

nghiên cứu của ngôn ngữ học. Có thể nói, sự quan tâm đến tình thái là một tất

yếu trong quá trình phát triển của ngôn ngữ học. Bởi lẽ nếu không quan tâm

NTT, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là

công cụ con người dùng để phản ánh thế giới trong hoạt động nhận thức và

tương tác xã hội. Không có một nội dung giao tiếp nào có thể tách rời khỏi

những nhân tố như mục đích, nhu cầu, thái độ, sự đánh giá… của người nói đối

với điều được nói ra xét trong quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và

các nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp. Bally đã rất đúng khi cho rằng NTT là

linh hồn của phát ngôn. Tuy nhiên, NTT là một khái niệm vô cùng phức tạp.

Nhiều nhà nghiên cứu phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy hai tác giả có

quan niệm hoàn toàn thống nhất với nhau về NTT trong ngôn ngữ. NTT đã và

đang được chú ý và ngày càng được giới ngôn ngữ học nghiên cứu chuyên sâu,

tiếp cận theo nhiều hướng, nhiều phương diện khác nhau: nghĩa tình thái của

từ, nghĩa tình thái của câu, vị từ tình thái… Nghĩa tình thái đánh giá (NTTĐG)

là một phương diện của NTT trong câu đến nay chưa được công trình nào tìm

hiểu một cách chuyên sâu. Đây là bộ phận biểu thị thái độ, sự đánh giá của

người nói đối với sự thể được nói tới trong câu. Tìm hiểu loại NTT này sẽ giúp

ta nắm được rõ hơn nghĩa của câu, mục đích sử dụng câu, từ đó hiểu hơn toàn

bộ ngôn bản.

1.2. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy:

- Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương

1

trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Dự thảo

Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm

2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình theo

định hướng năng lực. Theo đó, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, mà

năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ

thẩm mĩ là những năng lực đặc thù của môn học.

- Các văn bản văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn trung học phổ

thông (THPT) – chương trình chuẩn, tương đối đa dạng. Trong đó, văn bản

nghệ thuật chiếm số lượng rất lớn ở cả 3 khối lớp. NTT của câu trong những

văn bản đó có nhiều biểu hiện đa dạng, phong phú. Việc tìm hiểu chúng có thể

giúp thấy được các nét bản chất của NTT trong câu, góp phần làm sáng tỏ

những vấn đề lí luận chung về NTT và các bộ phận của nó trong tiếng Việt,

phục vụ thiết thực cho việc nâng cao chất lượng dạy học Văn học, Tiếng Việt,

đặc biệt là phần nghĩa của câu. Đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển

các năng lực học tập của môn học.

Từ những lí do trên, đề tài: Nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các

văn bản truyện và kí giảng dạy ở trường trung học phổ thông được chọn làm

hướng nghiên cứu cho luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề

Trong ngôn ngữ học, vấn đề NTT đã được các nhà nghiên cứu quan tâm

đến từ lâu. Nhưng khi đề cập đến các phương tiện biểu hiện và phân loại NTT

thì các tác giả lại có những quan niệm khác nhau và có nhiều điểm còn tranh

luận. NTTĐG – một phương diện của NTT cũng đã được một số nhà ngôn ngữ

quan tâm. Ở đây, chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu NTTĐG của một

số tác giả Việt Nam và thế giới.

2.1. Trên thế giới các nhà ngôn ngữ học như: Resches, Volf, Lyon…đã

tìm hiểu và có những nhận định ban đầu về NTTĐG.

Resches – một trong những người tiên phong nghiên cứu về NTT cho

rằng: ngoài tình thái tất suy, nhận thức và đạo nghĩa, còn có tình thái thời đoạn,

mong ước, những tình thái đánh giá và tình thái nhân quả. Trong đó, TTĐG

2

được diễn giải là: “ thật tốt/ tuyệt vời/tồi tệ là P” [Dẫn theo 16, tr.81].

Trong ngôn ngữ học, khi vai trò của chủ thể giao tiếp là con người được

chú ý đến thì đồng thời ý nghĩa đánh giá cũng được đặt vào vị trí xứng đáng

của nó. Khi xem xét ngữ nghĩa chức năng của đánh giá, E.M.Volf đã đưa đánh

giá vào phạm trù tính tình thái. Tác giả nhận xét: “Có thể xem đánh giá như là

một trong những dạng của tính tình thái, tức là cái được đặt chồng lên thêm cho

một nội dung mô tả có trong sự thể hiện bằng ngôn ngữ” [Dẫn theo 45, tr.93].

J. Lyons trong cuốn Ngữ nghĩa của ngôn ngữ nêu ra ba loại ý nghĩa tình

thái: Tình thái tất yếu và khả năng, tình thái nhận thức, tình thái nghĩa vụ. Đồng

thời tác giả cũng chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa phát ngôn có tính tình thái

chủ quan và phát ngôn có tính tình thái khách quan là ở chỗ: Tình thái khách

quan có thể coi như chứa thành tố phi đánh giá; tình thái chủ quan có thể phân

tích như là bao hàm một đánh giá [Dẫn theo 45, tr.34].

2.2. Ở Việt Nam, khi đề cập đến cách hiểu về tình thái, Nguyễn Văn

Hiệp trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp cũng đưa ra cách hiểu về

khái niệm NTT trong ngôn ngữ theo những kiểu ý nghĩa rất khác nhau. Có thể

nêu ra những kiểu cơ bản nhất sau đây:

- Các ý nghĩa khác nhau thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường của

người nói đối với nội dung thông báo: người nói đánh giá nội dung thông báo

về độ tin cậy, về tính hợp pháp của hành động, xem nó là điều tích cực (mong

muốn) hay tiêu cực (không mong muốn), là điều bất ngờ, ngoài chờ đợi hay

bình thường, đánh giá về khả năng, tính hiện thực của điều được thông báo…

- Các ý nghĩa phản ánh các đặc trưng khác của phát ngôn và hành động

phát ngôn có liên quan đến ngữ cảnh, xét theo quan điểm của người nói. Ví dụ

sự đánh giá của người nói về mức độ hiểu biết của người nghe, sự đánh giá của

người nói đối với các quan điểm, ý kiến khác nhau…(…). [16, tr.91,92].

Cũng trong cuốn sách này, khi đề cập đến một số đối lập chủ yếu của

tình thái trong ngôn ngữ, tác giả cũng chỉ ra những đối lập mang tính “lập

trường” thuộc chủ quan của người nói. Tác giả cho rằng: nói đến tình thái trong

ngôn ngữ còn nói đến những đánh giá chủ quan, có tính cá nhân khác, của

3

người nói đối với điều được nói ra trong câu, xét theo sự tình là tích cực hay

tiêu cực, đánh giá về lượng (nhiều/ít), về chủng loại (phong phú/nghèo nàn), về

thời điểm (sớm/muộn)…những nội dung này có thể gọi chung là “lập trường”

của người nói, là những nội dung vốn không được tính đến trong khung nội

dung tình thái khách quan [16, tr. 127].

Trong cuốn: Câu tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thị Lương đã đề cập đến

tình thái thể hiện sự đánh giá. Theo tác giả: “Đánh giá là nêu ý kiến nhận xét –

thường là chủ quan – của người nói về sự việc được nêu trong câu, do đó nội

dung đánh giá ít nhiều cũng hàm chứa thái độ của người đánh giá như: hài lòng

không hài lòng, thán phục hoặc chê bai, vui mừng hay tức giận….” [22, tr.187].

Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số cách đánh giá thường gặp như:

- Đánh giá về tính hiện thực/ phi hiện thực của sự việc trong câu.

- Đánh giá về tính tích cực/ tiêu cực của điều được nói tới trong câu.

- Đánh giá về lượng, mức độ.

Phạm Hùng Việt với Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại đã bàn đến chức

năng đánh giá, xem xét ý nghĩa đánh giá của trợ từ xét theo quan hệ của người

nói với nội dung phát ngôn, ý nghĩa đánh giá của trợ từ xét theo quan hệ của

người nói với người nghe.

Lưu Văn Hưng với Tình thái nhận thức trong truyện ngắn Nguyễn Minh

Châu (Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội, 2005) cũng

có nhắc đến các phương tiện biểu hiện tình thái nhận định biểu thị sự đánh giá.

Trong Một số vấn đề cơ bản về ngữ nghĩa học (trên cứ liệu tiếng Việt) – Đề

cương bài giảng dành cho Cao học Ngôn ngữ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhung quan

niệm: “NTTĐG là một loại của tiểu nhóm nghĩa tình thái biểu thị quan hệ giữa

người nói với điều được nói tới nằm trong nhóm nghĩa tình thái chủ quan

(NTTCQ), biểu thị sự đánh giá của người nói về sự thể được nói tới trong câu”

[33, tr.130,131].

Tổng hợp quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về khái niệm tình thái

đánh giá, chúng tôi nhận thấy: hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận

4

NTTĐG là một loại của NTT, nó thuộc về cái tôi chủ quan của người nói.

Trong công trình này chúng tôi theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Thị

Nhung về NTTĐG, bởi nội dung định nghĩa chi tiết, phù hợp với việc

nghiên cứu đề tài luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Thông qua việc khảo sát, miêu tả NTTĐG của câu tiếng Việt trong các

văn bản truyện và kí giảng dạy ở trường phổ thông, có thể hiểu sâu hơn về

NTTĐG nói riêng và NTT nói chung trong câu tiếng Việt.

- Góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp, góp phần phục vụ tốt hơn cho

việc dạy học Văn học, Tiếng Việt và giáo dục văn hóa cho học sinh THPT.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí luận của đề tài.

- Thống kê, phân loại, miêu tả các phương tiện biểu thị và các sắc thái

NTTĐG của câu trong văn bản.

- Trên cơ sở ngữ liệu thống kê, phân tích vai trò của NTTĐG trong việc

góp phần xây dựng hình tượng nhân vật, phản ánh chủ đề tác phẩm; trong việc

dạy học nghĩa của câu và trong việc giáo dục văn hóa cho học sinh.

4. Đối tƣợng và phạm vi khảo sát của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: NTTĐG của câu tiếng Việt (qua

các văn bản truyện và kí) xét về các phương diện: hình thức biểu hiện, các sắc

thái ngữ nghĩa và vai trò trong câu, trong văn bản.

4.2. Phạm vi khảo sát

Thông qua khảo sát sơ bộ của tiến sĩ Nguyễn Thị Nhung, các phương

tiện biểu hiện NTTĐG ở thể loại truyện và kí có tỉ lệ cao hơn so với các thể

loại: thơ, kịch, nghị luận. Vì vậy, NTTĐG được chúng tôi nghiên cứu trong

phạm vi khảo sát là các tác phẩm thuộc thể loại truyện và kí (gồm các tác phẩm

5

và đoạn trích) viết bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ trong sách Ngữ văn THPT.

Các văn bản truyện và kí có trong các cuốn sách sau:

- Ngữ văn 10, tập một, NXBGD, 2006, gồm 176 trang, khổ 17 x 24 cm.

- Ngữ văn 11, tập một, NXBGD, 2006, gồm 216 trang, khổ 17 x 24 cm.

- Ngữ văn 12, tập một, NXBGD, 2006, gồm 218 trang, khổ 17 x 24 cm.

- Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD, 2006, gồm 216 trang, khổ 17 x 24 cm.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp điều tra khảo sát

- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.

+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết.

- Phương pháp miêu tả: được sử dụng để thấy được về cơ bản diện mạo

của nghĩa tình thái, của từng bộ phận nghĩa tình thái trong câu văn của văn bản

văn học thuộc thể loại truyện và kí giảng dạy ở trường THPT. Trong phương

pháp này, chúng tôi sử dụng những thủ pháp giải thích bên trong và giải thích

bên ngoài.

+ Các thủ pháp giải thích bên trong: thủ pháp phân loại và hệ thống hóa,

thủ pháp thống kê toán học, thủ pháp phân tích nghĩa tố là những thủ pháp

giúp chúng tôi xác định số lượng câu, thống kê các tiểu loại câu có chứa

NTTĐG, phân tích các sắc thái NTTĐG.

+ Các thủ pháp giải thích bên ngoài:

Thủ pháp phân tích ngôn cảnh được sử dụng để thấy được những yếu tố

cụ thể, phương diện cụ thể của ngôn cảnh tình huống và ngôn cảnh văn hoá

trong đó câu được sử dụng, lấy đó làm cơ sở để giải thích cũng như thấy được

giá trị của NTTĐG trong các tác phẩm thuộc thể loại truyện và kí.

6. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình lần đầu tiên tìm hiểu các phương diện của NTTĐG

trong các văn bản văn học ở trường THPT. Đề tài hoàn thành có thể đem lại

6

những đóng góp nhất định về mặt lí luận và thực tiễn.

Về mặt lí luận: các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ những

vấn đề lí luận chung về NTT và NTTĐG của câu tiếng Việt.

Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham

khảo góp phần nâng cao chất lượng dạy học nghĩa của câu, dạy học các văn bản

truyện, kí và giáo dục văn hóa cho học sinh THPT.

7. Cấu trúc của luận văn

Phần 1: Mở đầu

Phần 2: Nội dung

Phần 3: Kết luận

Phần nội dung, chia làm ba chương với các nội dung chính sau:

Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn

- Cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài: Khái quát về câu, nghĩa của

câu, NTT và NTTĐG. Sơ lược về từ, tổ hợp từ, cặp từ, cặp tổ hợp từ, từ loại.

- Cơ sở thực tiễn là vấn đề dạy học truyện và kí, dạy học NTT và giáo

dục văn hóa cho học sinh ở trường THPT

Chƣơng 2: Các phƣơng tiện, các sắc thái nghĩa tình thái đánh giá

của câu trong những văn bản truyện và kí

Trong chương này, chúng tôi thống kê các phương tiện biểu thị NTTĐG,

phân loại các sắc thái đánh giá theo hai nhóm: sắc thái đánh giá về lượng; sắc

thái đánh giá về chất.

Chƣơng 3: Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá vào việc dạy học Ngữ

văn ở trƣờng trung học phổ thông

Trong chương này, luận văn tập trung phân tích những ứng dụng của NTTĐG

7

vào việc dạy Văn học, Tiếng Việt và giáo dục văn hóa cho học sinh THPT.

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

1.1. Sơ lƣợc về câu xét trên hai bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa

1.1.1. Khái niệm câu và thuật ngữ câu

1.1.1.1. Khái niệm câu

Sau khi khảo sát các tài liệu khác nhau về định nghĩa câu, chúng tôi thấy

nổi lên năm khuynh hướng chính: định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa; định

nghĩa câu dựa riêng vào mặt hình thức; định nghĩa câu dựa vào cả mặt ý nghĩa

và hình thức; định nghĩa câu dựa vào khối lượng và chức năng; khuynh hướng

định nghĩa câu tổng hợp toàn diện. Trong khuynh hướng cuối này nổi bật là hai

định nghĩa:

- Tác giả Diệp Quang Ban đã đưa ra định nghĩa: “Câu là đơn vị ngôn ngữ

có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang

một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có

thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện,

truyền đạt tư tưởng tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng

ngôn ngữ” [3, tr.106].

- Tác giả Nguyễn Như Ý cho rằng câu là: " Phạm trù ngữ pháp cơ bản

của cú pháp học. Nó là đơn vị độc lập nhỏ nhất của lời nói, đơn vị hiện thực

của giao tiếp được cấu tạo từ từ và ngữ theo quy luật ngữ pháp và ngữ điệu của

một ngôn ngữ, là đơn vị cơ bản để hình thành, thể hiện và thông báo ý nghĩa,

cảm xúc với thực tại và mối quan hệ của chúng với người nói" [46, tr.32].

- Tác giả Nguyễn Thị Nhung trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt cho rằng:

trong các khuynh hướng trên, hai khuynh hướng định nghĩa cần chú ý hơn cả là:

+ Định nghĩa giúp phân biệt câu với những đơn vị nhỏ hơn và lớn hơn

nó. Đó là: Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất. Chức năng thông báo giúp phân

biệt câu với đơn vị nhỏ hơn là từ, tính chất nhỏ nhất trong số các đơn vị thông

8

báo giúp phân biệt câu với đơn những đơn vị lớn hơn là đoạn văn và văn bản.

+ Định nghĩa đem lại cái nhìn toàn diện về câu, có thể phát biểu là: “Câu

là đơn vị ngôn ngữ được tạo ra trong quá trình tư duy và giao tiếp, do các từ,

ngữ trực tiếp tạo thành theo một quy tắc ngữ pháp, sử dụng một ngữ điệu kết

thúc nhất định, thường biểu đạt một sự tình thường kèm theo thái độ, sự đánh

giá của người nói. Câu đồng thời là đơn vị lời nói nhỏ nhất có chức năng thông

báo” [31, tr.148].

Định nghĩa này giúp thấy được những nét khái quát về các mặt: sự hình

thành, hình thức, nội dung và chức năng của câu. Vì vậy để phục vụ cho việc

nghiên cứu nghĩa của câu mà cụ thể là NTT của câu trong luận văn này, chúng

tôi theo quan niệm về câu của tác giả Nguyễn Thị Nhung.

1.1.1.2. Về thuật ngữ câu trong luận văn

Giới nghiên cứu ngôn ngữ học lâu nay vẫn phân biệt câu với phát ngôn.

Câu theo nghĩa khắt khe của nó, được coi là một đơn vị trừu tượng của hệ

thống ngôn ngữ. Nó chỉ có thể được nhận thức thông qua các biến thể trong lời

nói, đó là phát ngôn. Vậy phát ngôn là đơn vị hiện thực của câu.

Trong luận văn này, đối tượng khảo sát là những đơn vị hiện thực nói

trên, nhưng đồng thời nó cũng là đơn vị có khi được nhìn nhận ở mặt tĩnh tại,

khái quát của nó.

Chúng tôi chọn thuật ngữ thông dụng là câu để gọi tên đối tượng mang

NTT được nghiên cứu trong câu. Có thể coi đây là câu hiểu theo nghĩa rộng,

bao hàm cả hai loại đơn vị được phân biệt nói trên.

Trong luận văn, ở những trích dẫn ý kiến của các nhà nghiên cứu đi

trước, đôi khi, đối tượng này vẫn được gọi là phát ngôn.

1.1.2. Sơ lƣợc về câu xét trên bình diện cấu trúc

1.1.2.1. Thành phần câu

Thành phần câu là những bộ phận trực tiếp tạo nên cấu trúc ngữ pháp của

câu. Tâm điểm của cấu trúc ngữ pháp câu là nòng cốt câu. Đó là thành phần

9

đảm bảo cho câu được trọn nghĩa và độc lập về ngữ pháp.

Dựa vào quan hệ với nòng cốt câu, có thể chia thành phần câu làm hai nhóm:

- Các thành phần chính: là những thành phần trực tiếp tạo nên nòng cốt

câu, việc lược bỏ sẽ ảnh hưởng tới tính độc lập của câu; trong trường hợp bình

thường, bao gồm chủ ngữ, vị ngữ.

+ Chủ ngữ: là một trong hai thành phần chính của câu, có quan hệ trực

tiếp, chặt chẽ, qua lại và quy định lẫn nhau với vị ngữ, chỉ đối tượng có đặc

trưng hoặc quan hệ được nói đến ở vị ngữ.

Ví dụ (1): Tôi là học sinh.

+ Vị ngữ: là một trong hai thành phần chính của câu, có quan hệ trực tiếp,

chặt chẽ, qua lại và quy định lẫn nhau với chủ ngữ, chỉ đặc trưng hoặc quan hệ

của đối tượng được nói đến ở chủ ngữ.

Ví dụ (2): Tôi đang học bài.

- Các thành phần phụ: là thành phần không đóng vai trò quyết định đối

với tính trọn vẹn về nghĩa, độc lập về ngữ pháp của câu, nó có quan hệ với cả

nòng cốt câu để bổ sung cho nòng cốt câu một ý nghĩa nào đó, việc lược bỏ

không ảnh hưởng tới tính độc lập của câu. Thành phần phụ của câu bao gồm:

trạng ngữ, khởi ngữ, tình thái ngữ, hô ngữ, liên ngữ, phụ chú ngữ. Trong đó

thành phần tình thái ngữ có vai trò rất quan trọng đối việc xác định và biểu thị

NTT nói chung và NTTĐG nói riêng.

Tình thái ngữ được hiểu là một bộ phận phụ của câu dùng để thể hiện

mục đích nói, ý kiến, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với sự việc được

nói đến trong câu và quan hệ, thái độ của người nói đối với người nghe.

Tình thái ngữ thường do tình thái từ, trợ từ, quán ngữ tình thái đảm nhiệm.

Ví dụ (3): Hành thì nhà thị may lại còn. (Nam Cao, Chí Phèo)

Tuy nhiên, tình thái ngữ không phải là bộ phận duy nhất trong câu có thể

biểu thị NTT.

1.1.2.2. Phân loại câu

1/ Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhung, dựa vào cấu trúc, có thể chia câu tiếng

10

Việt thành một hệ thống các nhóm, loại ở các cấp độ khác nhau.

Trước hết dựa vào tiêu chí kiểu nòng cốt, có thể chia câu tiếng Việt thành

2 nhóm: nhóm nòng cốt không phải là cụm C- V (gọi là câu đặc biệt) và nhóm

nòng cốt là cụm C-V (bao gồm tất cả các kiểu câu còn lại mà chúng tôi tạm gọi

là câu bình thường).

Dựa vào số lượng nòng cốt, có thể chia nhóm thứ nhất thành câu đặc biệt

đơn và câu đặc biệt phức, chia nhóm thứ hai thành 2 kiểu: câu có 1 cụm C-V

(gọi là câu đơn) và câu có hai cụm C- V trở lên (gọi là câu phức).

Dựa vào quan hệ giữa các cụm C-V, có thể tiếp tục chia câu phức thành

câu phức mà quan hệ giữa các cụm C-V là quan hệ bao nhau và câu phức mà

quan hệ giữa các cụm C-V là không bao nhau. Loại thứ nhất (gọi là câu phức

thành phần) chỉ có một kết cấu C- V làm nòng cốt câu, các kết cấu C-V còn lại

giữ vai trò làm thành phần bên trong của nòng cốt câu. Loại thứ hai (gọi là câu

ghép) không kết cấu C-V nào bao kết cấu C-V nào. Ở mỗi kiểu này lại có thể

tiếp tục chia thành những kiểu nhỏ hơn nữa.

Ngoài ra, dựa vào sự có mặt hay tạm thời vắng mặt của bộ phận nòng cốt, có thể

chia câu đơn, câu phức thành 2 kiểu đối lập nhau là câu tỉnh lược và câu không tỉnh

lược (31, tr. 182- 183).

2/Phân loại câu theo mục đích nói

Dựa vào mục đích nói, câu trong tiếng Việt lâu nay được các nhà Việt ngữ

học thống nhất được chia ra thành 4 kiểu: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm

thán và câu cầu khiến.

- Câu trần thuật được dùng với mục đích tả, kể, trình bày, giới thiệu hay nêu

ý kiến (vì thế còn được gọi là câu kể, câu miêu tả).

- Câu nghi vấn là câu được người nói dùng để nêu điều mình chưa biết và

mong muốn người nghe giải đáp.

- Câu cảm thán (hay câu cảm) là câu sử dụng các từ ngữ chuyên biệt để biểu

thị những cảm xúc mạnh, đột ngột, có tính bộc phát tức thì của người nói,

11

thường được dùng trong ngôn ngữ sinh hoạt và ngôn ngữ văn chương.

- Câu cầu khiến (câu mệnh lệnh, khuyến lệnh) là kiểu câu phân chia theo

mục đích nói, có dấu hiệu hình thức riêng nhằm yêu cầu, nhắc nhở, khuyên

bảo...người nghe nên/ không nên thực hiện một việc gì đó.

1.1.3. Sơ lƣợc về câu xét trên bình diện ngữ nghĩa

1.1.3.1. Nghĩa của câu

Là một đơn vị tín hiệu, câu có đặc tính hai mặt: hình thức và nội dung.

Mặt nội dung chính là mặt nghĩa của các đơn vị tín hiệu ngôn ngữ. Theo đó

nghĩa của câu là toàn bộ nội dung mà câu biểu thị.

Nghĩa của câu được biểu thị bởi hình thức cấu tạo của câu, còn hình thức

cấu tạo của câu được tạo thành bởi các phương tiện từ vựng và các phương tiện

ngữ pháp. Các phương tiện từ vựng và ngữ pháp khác nhau sẽ tạo nên các câu

có ý nghĩa khác nhau.

Các nhà nghiên cứu thường chia nghĩa của câu thành hai loại lớn: nghĩa

tường minh và nghĩa hàm ẩn.

Nghĩa tường minh là loại nghĩa được biểu thị trực tiếp bằng các từ ngữ

trong câu. Nghĩa hàm ẩn là loại nghĩa không được biểu thị trực tiếp bằng các từ

ngữ có trong câu. Muốn hiểu nó, người đọc, người nghe phải suy ra từ nghĩa

tường minh và tiền giả định của nghĩa tường minh cùng ngữ cảnh.

Nghĩa tường minh lại gồm nghĩa miêu tả và NTT

Nghĩa miêu tả (nghĩa biểu hiện, nghĩa mệnh đề, nghĩa sâu) là thành tố

nghĩa phản ánh những mảng của thế giới hiện thực hay một thế giới nào khác

ngoài ngôn ngữ. Mỗi câu biểu hiện một sự tình. Mỗi sự tình là một cấu trúc

nghĩa gồm bản thân sự tình đó do vị từ biểu hiện và quây quanh nó là các tham

thể, biểu thị những vai nghĩa nào đó. Nghiên cứu nghĩa miêu tả của câu chính

là nghiên cứu câu ở bình diện ngữ nghĩa.

Trong luận văn này tập trung vào nghiên cứu bộ phận nghĩa thứ hai của

12

câu- NTT

1.1.3.2. Nghĩa tình thái

1/ Khái niệm nghĩa tình thái

a. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài.

Ở nước ngoài có các công trình nghiên cứu về NTT của các tác giả như:

Vinogradov,O.B. Xirotinina, Lyons, N. Chomsky....

- Theo Lyons: “ Tình thái là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề

mà câu biểu thị hay sự tình mà mệnh đề miêu tả” [Dẫn theo 16, tr.85].

- Liapol quan niệm: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện

các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh

giá chủ quan khác nhau với điều được thông báo” [Dẫn theo 16, tr.85].

- Ch. Bally cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến vấn đề

tình thái một cách hệ thống. Ông chủ trương phân biệt trong cấu trúc nghĩa của

phát ngôn hai thành phần cơ bản tương ứng là dictum (tình thái) và modus

(ngôn liệu). Trong đó, dictum là bộ phận biểu hiện nội dung sự tình ở dạng tiềm

năng. Nó gắn với chức năng kinh nghiệm, chức năng miêu tả của ngôn ngữ.

Còn mudus thì gắn với bình diện chủ quan, thể hiện những nhân tố như ý chí,

thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều được nói ra, xét trong các chiều

kích quan hệ với thực tế, quan hệ với người đối thoại và quan hệ với hoàn cảnh

giao tiếp. Modus tham gia vào quá trình thực tại hóa, nhờ đó nội dung sự tình

còn ở dạng tiềm năng có thể trở thành phát ngôn hiện thực. Modus cho biết sự

tình nêu trong phát ngôn chỉ là khả năng hay đã là hiện thực, là khẳng định hay

phủ định, cho biết mức độ cam kết của người nói đối với độ xác thực của điều

được nói ra, thể hiện đánh giá của người nói đối với hành động được nêu ra

trong câu, cho biết ý chí, mong muốn, mục đích của người nói khi phát ngôn

câu nói,… [Dẫn theo 16, tr.86].

Xuất phát từ hai thuật ngữ dictum và modus trên, Ch. Bally đã đưa ra

định nghĩa như sau: “Tình thái là thái độ của người nói được biểu thị đối với sự

13

việc hay trạng thái diễn đạt trong câu” [Dẫn theo 33, tr.104].

Như vậy, trên thế giới có quan niệm rộng, hẹp khác nhau về NTT.

- Theo quan niệm hẹp, NTT thường được cho là phần nghĩa phản ánh

mối quan hệ, thái độ, ý định của người nói đối với nội dung phát ngôn và quan

hệ nội dung phát ngôn đối với thực tế.

- Theo quan niệm rộng, tình thái – nói theo Bybee – là “tất cả những gì

mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”.

b. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam.

- Theo Diệp Quang Ban thì câu có nghĩa miêu tả và NTT. Nghĩa miêu tả

phản ánh vật, việc, hiện tượng được nói đến trong câu. NTT chỉ ý định (ý chí, ý

muốn), thái độ, tình cảm của người nói đối với điều được nói ra (còn được gọi

là nghĩa liên nhân, nghĩa bộc lộ). Ngoài ra, phần nghĩa chỉ quan hệ của người

nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào NTT (1, tr.180,181).

- Nguyễn Văn Hiệp cho rằng “NTT là phạm trù ngữ nghĩa bao gồm những

quan điểm, thái độ khác nhau của người nói, được hiểu như là những thông tin

kèm theo, có tác dụng định tính cho nội dung được miêu tả trong câu, xét trong

mối quan hệ với người nghe, với hoàn cảnh giao tiếp” [16, tr.84].

- Nguyễn Thiện Giáp đã phân biệt tình thái trong lô gích và trong ngôn

ngữ. Lô gích học quan tâm tới tình thái khách quan, chỉ quan tâm tới giá trị

chân lí của mệnh đề. Tình thái trong ngôn ngữ liên quan đến thái độ chủ quan

của người nói. Đó là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị

hay tình trạng mà mệnh đề đó miêu tả, là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái

độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói ra [11, tr.334 - 335].

- Nguyễn Thị Lương định nghĩa: “Tình thái là một phần nghĩa của câu

thể hiện thái độ, ý định, mục đích hay quan hệ giữa người nói với người nghe,

giữa người nói với hiện thực (sự tình) được phản ánh trong câu, giữa nội dung

được phản ánh trong câu với hiện thực ngoài thực tế khách quan” [22, tr.178].

- Nguyễn Thị Nhung, trong Đề cương bài giảng dành cho học viên sau

14

Đại học, theo quan niệm rộng. Tác giả cho rằng: "NTT của câu là tất cả những

gì mà người nói thể hiện kèm theo nội dung mệnh đề khi thực hiện một lời nói,

giúp biến nội dung mệnh đề ở thế tiềm năng trở thành các phát ngôn khi giao

tiếp. Nó biểu thị quan hệ của điều được nói đến trong câu với hiện thực khách

quan; nhận thức, thái độ, sự đánh giá của người nói với điều được nói đến trong

câu, và mong muốn, thái độ của người nói với người nghe" [33, tr.107].

Có thể nói thêm rằng, ở đây, tác giả chọn thuật ngữ NTT chứ không

dùng cách gọi tình thái. Bởi tình thái thuộc về ngữ nghĩa. Điều này đã được

Joan Bybee và Suzanne Fleischman khẳng định trong một công trình của mình:

“Tình thái là một miền ngữ nghĩa gắn liền với các yếu tố về ngữ nghĩa mà một

ngôn ngữ thể hiện” [47, tr.2].

2/ Phân loại nghĩa tình thái

a. Cách phân loại của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài

- Rescher (1969) đã đề nghị một hệ thống mở về tình thái. “Bên cạnh các loại

tình thái tất suy và đạo lí ông đề cập các loại tình thái: tình thái thời đoạn, mong ước,

những tình thái đánh giá và những tình thái nhân quả” [Dẫn theo 16, tr.80 - 81].

- M. Liapon có cách chia khác như sau: “Ông chia ý nghĩa tình thái thành

hai loại là tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan là

dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kì, biểu thị mối quan hệ giữa cái được

thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực tính và phi hiện thực tính. Tình thái

chủ quan là dấu hiệu không bắt buộc của một phát ngôn, biểu thị quan hệ của

người nói với điều được thông báo. Khái niệm “đánh giá” làm nên cơ sở ngữ

nghĩa cho “thái chủ quan” nó bao gồm không chỉ các đánh giá lô gich (lí tính,

duy lí) mà cả các dạng khác nhau về phản ứng có tính cảm giác (phi lí tính)”

[Dẫn theo 16, tr. 79].

b. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam

- Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên)

phân biệt tình thái khách quan với tình thái chủ quan. Tình thái khách quan

15

“biểu hiện mối quan hệ của điều được thông báo đối với hiện thực khách quan

(có thật hay không có thật, có thể hay không có thể, tất yếu hay ngẫu nhiên)

bằng các phạm trù thức, phạm trù thời, các loại ngữ điệu khác nhau v.v…” [46,

tr.297]. Tình thái chủ quan “biểu hiện thái độ (quan hệ) của người nói đối với

điều được thông báo (tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, đánh giá,

biểu cảm) bằng trật tự từ, ngữ điệu, phép kí từ, từ tình thái, tiểu từ, từ cảm, từ

xen, v.v…” [46, tr.297].

- Nguyễn Văn Hiệp cho rằng, phải qua những đối lập thì bức tranh về

tình thái mới hiện ra một cách rõ ràng nhất, đúng bản chất nhất. Tác giả đã đưa

ra các thể đối lập: tình thái trong logic và tình thái trong ngôn ngữ; trong ngôn

ngữ lại có đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa, đối lập giữa

tình thái nhận thức và tình thái căn bản, đối lập giữa tình thái hướng tác thể và

tình thái hướng người nói, đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình

thái của lời phát ngôn và cuối cùng là những đối lập tình thái mang tính “lập

trường” thuộc chủ quan của người nói [16, tr.96 - 127].

- Diệp Quang Ban cũng phân biệt tình thái của hành động nói và tình thái

của phát ngôn: “Tình thái của hành động nói là ý định (ý chí, ý muốn, còn gọi

là cái đích, mục đích) thực hiện một hành động nào đó của người nói khi nói ra

một lời.

Tình thái của phát ngôn là cách đánh giá, thái độ của người nói đối với

sự thể (vật, việc, hiện tượng) được nói đến trong phát ngôn” [1, 181].

Tình thái của phát ngôn gồm tình thái khách quan và tình thái chủ quan.

Tình thái khách quan có thể kiểm tra được tính đúng sai, gồm tình thái khẳng

định và tình thái phủ định. Tình thái chủ quan là thứ tình thái không kiểm tra

được tính đúng sai, chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói đối với vật, việc,

hiện tượng được nói đến. Ngoài ra, tình thái chỉ ý kiến và tình thái chỉ quan hệ

của người nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào phạm trù tình thái trong

16

câu [1, tr.201, 204].

Tác giả Nguyễn Thị Nhung cho sự không thống nhất này là điều

dễ hiểu. Bởi có thể giải thích như Joan Bybee và Suzanne Fleischman: “Thứ

nhất, vì miền chức năng/ngữ nghĩa của tình thái quá lớn; thứ hai, vì tình thái,

như chúng ra đã thấy, nên được xem xét trong ngữ cảnh xã hội và giao tiếp; thứ

ba, và có lẽ là quan trọng nhất, vì sự khác biệt giữa các ngôn ngữ trong việc sắp

xếp những nội dung ngữ nghĩa vào cùng một hình thức ngôn ngữ” [47, tr.4].

Do vậy, theo tác giả, người nghiên cứu tiếng Việt có thể đưa ra cách

phân loại NTT của mình cho phù hợp với quan niệm về NTT mà mình đưa ra

trong trường hợp áp dụng vào tiếng Việt, và cần giúp nhìn nhận NTT như một

hệ thống, để có thể nhận diện, phân loại toàn bộ bức tranh NTT trong tiếng Việt

một cách tương đối chi tiết, có lớp lang.

Trước hết, tác giả đưa ra tiêu chí tính chủ quan và kết quả phân chia các

nhóm NTT

Cần hiểu thuật ngữ chủ quan ở đây không phải là thuật ngữ mang nghĩa

xấu chỉ kiểu ý chí luận phi khoa học không thể kiểm chứng được. Tính chủ

quan ở đây được hiểu là sự tập trung vào người nói, liên quan đến việc nhận

diện người nói. Một câu như: Nhưng để đi vào quỹ đạo một vật thể phải (must)

tăng tốc đến tốc độ tâm 17500 dặm một giờ... thì người nói không lộ diện, vậy

nó không đạt tính chủ quan dù trong câu có từ tình thái phải.

Như vậy, có thể hiểu rằng tính chủ quan thể hiện ở vai trò của người nói,

còn tính khách quan thì thể hiện ở sự loại trừ vai trò của người nói. Tiêu chí

chính để xác định tính chủ quan trong NTT của câu là phải nhận diện được

người nói ra câu đó. Việc nhận diện có thể tiến hành qua các dấu ấn thể hiện cái

tôi, cái bản ngã của chủ thể như các phương tiện trực chỉ (tôi, tao, mày, hôm

nay, hôm qua, đây, kia,...). Tính chủ quan là đặc điểm điển hình của NTT nên

được lựa chọn làm tiêu chí hàng đầu để phân chia NTT. Theo tiêu chí này, NTT

trước hết được phân thành 2 nhóm lớn: nhóm NTT có tính chủ quan (gọi là

17

NTT chủ quan) và nhóm NTT không có tính chủ quan (gọi là nhóm NTT khách

quan). Nhóm NTT chủ quan (NTTCQ) có dung lượng ngữ nghĩa rộng hơn

dung lượng ngữ nghĩa của TT khách quan (NTTKQ) và hết sức phức tạp nên sẽ

là mối quan tâm chủ yếu tiếp theo của chúng tôi.

Tiếp theo, tác giả đề cập tới tiêu chí đối tượng có quan hệ với người nói và

kết quả phân loại là các tiểu nhóm NTT chủ quan

Do tính chủ quan là sự tập trung vào người nói nên các tiểu nhóm nằm trong

nhóm NTTCQ cần phải được phân xuất dựa vào tiêu chí các đối tượng có quan

hệ với người nói. Mà qua câu thì người nói thường có quan hệ với hai đối

tượng là điều được nói tới trong câu và người nghe. Vì vậy, cần coi đây là tiêu

chí thứ hai để tiếp tục chia nhóm NTTCQ thành 2 tiểu nhóm là tiểu nhóm biểu

thị quan hệ giữa người nói với điều được nói tới trong câu và tiểu nhóm biểu

thị quan hệ giữa người nói với người nghe.

Kiểu quan hệ có thể xác lập giữa người nói với từng đối tượng là tiêu chí để

tác giả tiếp tục phân loại NTT trong hai tiểu nhóm.

Với đối tượng được nói tới trong câu, người nói có thể có hiểu biết về đối

tượng, sự nhận định về giá trị của đối tượng hay tình cảm, cảm xúc với đối

tượng và biểu lộ những điều này trong câu. Vì vậy, tiểu nhóm biểu thị quan hệ

giữa người nói với đối tượng sẽ bao gồm 3 loại NTT là NTT nhận thức

(NTTNT), NTT đánh giá (NTTĐG) và NTT cảm xúc (NTTCX).

Còn với người nghe, người nói có thể xuất hiện những mong muốn hay tình

cảm, thái độ và biểu lộ những điều này trong câu. Vì vậy, tiểu nhóm biểu thị

quan hệ giữa người nói với người nghe được coi là gồm NTT tập trung vào

nghĩa vụ hay sự cho phép - gọi là NTT đạo lí (NTTĐL) và NTT biểu thị tình

18

cảm, thái độ với người nghe - gọi là NTT thái độ (NTTTĐ).

Có thể hình dung cách phân loại của tác giả qua sơ đồ sau:

NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU

NTTKQ phi hiện thực

Nhóm NTTKQ Nhóm NTTCQ

NTTKQ phản hiện thực

NTTKQ hiện thực

Tiểu nhóm NTT biểu thị quan hệ giữa người nói với người nghe

Tiểu nhóm NTT biểu thị quan hệ giữa người nói với sự tình được nói tới

NTTNT NTTĐG NTTCX NTTĐL NTTTĐ

3/ Các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái

Các phương tiện biểu hiện NTT trong tiếng Việt rất đa dạng.

Những phương tiện chính thường được nhắc đến là:

a. Phƣơng tiện ngữ âm

- Ngữ điệu: là yếu tố không thể thiếu được của câu, của phát ngôn. Ngữ

19

điệu là một khúc đoạn của lời nói và bao giờ cũng phải có ý nghĩa thông báo

nhất định (cả việc biểu thị ý nghĩa thông báo tối thiểu có hoặc không). Trong

những câu vắng mặt các phương tiện từ ngữ tình thái thì ngữ điệu chính là

phương tiện ngữ âm biểu thị ý NTT. Có thể khẳng định, ngữ điệu không chỉ là

nhân tố cấu thành câu mà còn là một phương tiện biểu hiện NTT của câu.

- Trọng âm: Đó là “âm tiết mang trọng âm trong từ nói chung là âm tiết

được phát âm căng hơn, dài hơn so với các âm tiết còn lại” [2, tr.20]. Trong

một số trường hợp ngữ điệu kết hợp với trọng âm trong câu để thể hiện tình

thái đánh giá về nội dung hiện thực của lời nói.

Ví dụ: (4)

(a) Cái áo này một triệu cơ đấy!

(b) Nó mà làm được thì tôi đi đầu xuống đất.

b. Từ:

- Các động từ tình thái: có thể, nên, cần, phải, bị, được,....

- Các tính từ: trắng bệch, vàng chóe,…

- Các trợ từ: những, chỉ, cả, chính, đích,...

- Các vị từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện về

ngôi, thời, …): ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, van, xin,...

- Các phó từ: đã, sẽ, không, chưa, đừng, vẫn, cứ,...

c. Tổ hợp từ

- Các quán ngữ cảm thán: ối làng nước ơi, trời ơi là trời, chán ơi là

chán, ôi mẹ ơi...

- Các từ, tổ hợp từ chuyên dùng với NTT xuất hiện ở bậc câu: có thể, có

lẽ, chắc chắn, hình như, có chăng, cốt sao, miễn sao, biết đâu, ngờ đâu,...

đ. Cặp từ, cặp tổ hợp từ

Đây là trường hợp hai từ/ tổ hợp từ phối hợp với nhau tạo nên một kết

cấu biểu thị một quan hệ, hướng tới một sự đánh giá nào đó. Cụ thể:

- Các cặp từ biểu thị quan hệ qua lại, tạo kiểu câu ghép qua lại hoặc câu

20

có hai vị ngữ: chưa...đã, đã...mới,...

- Cặp từ biểu thị quan hệ chính phụ, tạo kiểu câu ghép chính phụ, hay

câu có trạng ngữ, câu hai vị ngữ: giá...thì, vì...nên,...

- Các cặp từ/ tổ hợp từ dùng để nhấn mạnh: chỉ là...mà thôi, bao

nhiêu...nữa, chỉ...duy nhất,...

e. Thành phần câu

- Thành phần nòng cốt câu: Tiếng Việt có cấu trúc câu: X nghĩ (rằng) P,

X tin (rằng) P, X cho (rằng) P,... Cấu trúc này gồm hai bộ phận: bộ phận chính

xuất hiện ở đầu phát ngôn (X nghĩ (rằng) và một bộ phận thứ hai có chức năng

làm rõ nghĩa cho bộ phận vừa nêu (P). Bộ phận chính xuất hiện ở đầu phát

ngôn đã thể hiện trực tiếp sự đánh giá chủ quan của người nói.

- Thành phần phụ của câu: tình thái ngữ (chính, đích...), hô ngữ (ơi, dạ,

ê, vâng...)

NTT của câu vốn rất đa dạng đòi hỏi nhiều phương tiện biểu hiện khác

nhau, tạo nên một bức tranh đa dạng trong tiếng Việt. Những phương tiện biểu

hiện NTT mà luận văn vừa nêu trên, hoàn toàn có thể khảo sát chúng ở phạm vi

của câu trong các đoạn hội thoại cũng như mọi phát ngôn khác nữa. Tuy nhiên,

riêng với ngữ điệu, do nó là một phương tiện ngữ âm khó xác định nên chúng

tôi chưa có điều kiện khảo sát ở đây.

1.1.3.3. Khái quát về nghĩa tình thái đánh giá

1/ Khái niệm nghĩa tình thái đánh giá

Như đã nói ở trên, tình thái đánh giá là một phạm trù của NTT, nhưng đến

nay chưa có công trình nghiên cứu nào miêu tả đầy đủ về nó. Vì vậy để có một

khái niệm thể hiện được đầy đủ những đặc trưng của nó là rất khó. Từ việc tổng

hợp những ý kiến của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng như ở Việt Nam,

theo chúng tôi, có thể hiểu về NTTĐG như sau: "NTTĐG là một loại của tiểu

nhóm nghĩa tình thái biểu thị quan hệ giữa người nói với điều được nói tới nằm

21

trong nhóm NTTCQ, biểu thị sự đánh giá của người nói về sự thể được nói tới

trong câu. Phương tiện chính để biểu thị loại nghĩa này là các trợ từ, tổ hợp từ

biểu thị sự đánh giá và các cặp phó từ, cặp kết từ" [33, tr.130,131].

2/ Các sắc thái của nghĩa tình thái đánh giá

Dựa vào đối tượng được đánh giá, có thể cho rằng, loại NTT này bao

gồm các nhóm sắc thái: đánh giá về lượng và đánh giá về chất.

a. Nhóm sắc thái NTTĐG về lượng

Nhóm sắc thái này, gồm những đánh giá về lượng của sự vật, thời gian,

không gian; và mức độ của tính chất, hiện tượng. Đây là những đánh giá tồn tại

theo từng cặp mang ý nghĩa đối lập.

- Đánh giá về tính chất ngắn/ dài, sớm/ muộn của thời gian, nhanh/ chậm

của tốc độ, gần/ xa của không gian. Ví dụ (5) :

(a) Mai mới hai mươi tuổi; (b) Suốt từ sáng đến tối, nó làm việc không nghỉ.

(c) Bây giờ mới 6 giờ thôi; (d) Bây giờ đã 6 giờ rồi.

(đ) Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, Sông Hương đã chuyển dòng

một cách liên tục.(Hoàng Phủ Ngọc Tường); (e) Nó làm mãi chưa xong việc.

(g) Nhà nó ở ngay Thái Nguyên; (h) Nhà nó ở tận Hà Giang.

- Đánh giá về lượng nhiều/ ít của sự vật. Ví dụ (6):

(a) Nó ăn mỗi ba bát cơm.

(b) Nó ăn những ba bát cơm..

- Đánh giá về tính cùng cực của tính chất, hiện tượng. Ví dụ (7):

Ít nhất thì nó cũng phải được học sinh tiên tiến.

b. Nhóm sắc thái NTTĐG về chất

Nhóm này bao gồm những đánh giá về tính tích cực hay tiêu cực, đánh giá

về tính hợp lí hay không hợp lí, đánh giá về ưu thế, đánh giá về tính bất ngờ,

bất thường, đánh giá về tầm quan trọng của thông tin (nhấn mạnh thông tin):

- Đánh giá về tính tích cực hay tiêu cực là đánh giá rằng hiện tượng nào đó

có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển, nảy sinh những điều tốt đẹp.

22

Ví dụ (8):

(a) May mà nó về kịp.

(b) Tôi lại bị cô khiển trách mới chán/ mới buồn chứ.

- Đánh giá về tính hợp lí hay không hợp lí biểu hiện ở chỗ người nói cho

rằng sự thể được nói tới trong câu nên hay không nên tồn tại. Ví dụ (9):

(a) Hôm đó, tôi cùng đi với anh mới phải/ mới đúng.

(b) Lẽ nào cậu cứ nghỉ học bừa như thế.

Ở nội dung nghĩa này thường có kèm nét nghĩa biểu thị sự mong muốn,

tiếc nuối.

- Đánh giá về ưu thế là sự đánh giá rằng dù đều không hay nhưng điều A

còn tốt hơn, có ưu thế hơn điều B, bằng chứng là người nói vẫn sẵn sàng chấp

nhận điều A thay cho điều B. Ví dụ (10):

Thà ở vậy còn hơn lấy chồng hèn.

- Đánh giá về tính bất ngờ, bất thường nhằm biểu thị rằng điều nói tới trong

câu nằm ngoài dự tính của người nói hoặc khác với thường lệ. Ví dụ (11):

(a) Có ngờ đâu tình hình lại xấu đến thế.

(b) Ngay cả chủ nhật cũng không được nghỉ.

- Đánh giá về tầm quan trọng của thông tin là sự nhấn mạnh nêu bật thông

tin quan trọng đáng chú ý trong văn bản để hướng dẫn người nghe phân bổ sự

chú ý của mình một cách thích hợp và xử lí chúng chính xác. Ví dụ (12):

(a) Đây mới là người tôi cần.

(b) Không những nó hát hay mà còn học rất giỏi..

* Lưu ý:

- Có những trường hợp một phương tiện có thể biểu thị một vài sắc thái

NTTĐG: Cái áo này 300 nghìn là ít; vừa đánh giá về lượng (tính cùng cực của

giá cái áo), vừa đánh giá về chất (cái áo thuộc loại đẹp, có chất lượng).

- Khi xét các sắc thái không nên chỉ dựa vào biểu thức tình thái mà phải dựa

vào cả câu. Ví dụ cùng dùng hẳn nhưng trong: “Nó mua hẳn hai cái váy.” có

sắc thái nhấn mạnh và đánh giá về lượng, còn trong “Nó mua hẳn cái váy mới”

23

lại có sắc thái nhấn mạnh và đánh giá về chất.

- Đôi khi, một biểu thức trong câu vừa biểu thị NTTĐG vừa thể hiện loại

NTTCQ khác.

Quả bưởi này ngon đây; Quả bưởi này trông thế mà ngon đấy. Là hai ví dụ

vừa chứa sắc thái nhấn mạnh của NTTĐG vừa chứa NTTNT (sắc thái tất yếu

hiện thực dựa trên cơ sở dấu hiệu bằng chứng có tính tức thời, hoặc những bằng

chứng đã có trong qúa khứ).

1.2. Sơ lƣợc về từ, tổ hợp từ, từ loại.

1.2.1. Từ

Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Để tiện lợi cho việc

nghiên cứu, chúng tôi chọn định nghĩa sau:

“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái

hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu” [31, tr.43].

Có thể phân chia từ dựa vào nhiều tiêu chí.

Dựa vào phương thức cấu tạo, có thể phân từ thành: từ đơn, từ ghép, từ láy.

Dựa vào ngữ nghĩa, có thể phân biệt: từ đơn nghĩa với từ đa nghĩa, từ

đồng nghĩa, từ gần nghĩa với từ trái nghĩa.

Dựa vào ngữ pháp, có thể phân biệt: thực từ và hư từ.

Từ là vật liệu trực tiếp góp phần biểu thị tình cảm, sự đánh giá, thái độ và

ý chí chủ quan của người nói đối với điều được nói tới trong câu.

1.2.2. Tổ hợp từ

Từ kết hợp với từ một cách có tổ chức và có ý nghĩa làm thành những tổ

hợp từ, tức là những kiến trúc lớn hơn từ. Mỗi từ trong tổ hợp từ là một thành

tố: tổ hợp từ có thể là một câu, có thể là một kiến trúc tương đương với câu

nhưng chưa thành câu, cũng có thể là một đoạn có nghĩa của câu (chưa kể ngữ

cố định là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học) [1, tr.33].

Các tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ

nghĩa của các yếu tố hợp thành (còn được gọi là quán ngữ) được chúng tôi xếp

24

vào kiểu kết cấu này.

Tổ hợp từ - quán ngữ có vai trò không nhỏ trong việc biểu thị lớp ý NTT

của câu. Nó được lặp đi lặp lại trong các loại diễn ngôn thuộc phong cách khác

nhau. Chức năng của chúng là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên

kết. Đây là kiểu tổ hợp xuất hiện phổ biến trong phong cách hội thoại, khẩu

ngữ; cũng có khi nó được dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận )

như: là cùng, là may, thì khốn, chắc chắn, miễn sao,...

1.2.3. Cặp từ, cặp tổ hợp từ

Chúng tôi sử dụng cặp từ, cặp tổ hợp từ ở đây để chỉ những đơn vị gồm

từ hai từ (giá... thì, vừa... đã) hay hai tổ hợp từ (chỉ là...mà thôi) kết hợp với

nhau theo một mối quan hệ ngữ pháp, ngữ nghĩa nhất định nhằm tạo nên những

kiểu kết cấu câu:

- Kết cấu chính phụ: giá A thì B, vì A nên B

- Kết cấu qua lại: chưa A đã B, vừa A đã B

- Kết cấu nhấn mạnh thông tin: chỉ là X mà thôi, mà lại X đến thế.

1.2.4. Từ loại

1.2.4.1. Khái niệm

Từ loại là những lớp từ được phân định dựa vào đặc điểm chung về ý

nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp.

1.2.4.2. Tiêu chí phân định từ loại

Từ loại tiếng Việt được phân loại căn cứ vào ba tiêu chuẩn: ý nghĩa khái

quát, khả năng kết hợp, chức vụ ngữ pháp.

Dựa vào các tiêu chuẩn đó, từ loại tiếng Việt được phân thành: Thực từ

và hư từ. Hư từ có thể tiếp tục được chia thành các nhóm nhỏ:

- Hư từ ngữ pháp:chuyên làm các phương tiện biểu thị ý nghĩa ngữ pháp,

gồm phó từ, kết từ.

+ Phó từ: hầu như không có nghĩa từ vựng. Chúng chỉ có ý nghĩa ngữ

25

pháp phạm trù thời thể, phạm trù số lượng, phạm trù mức độ.

+ Kết từ: là những từ dùng để nối kết các đơn vị ngôn ngữ (từ, cụm từ,

câu, đoạn văn) với nhau và biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các đơn vị đó.

- Hư từ tình thái chuyên biểu thị các NTT, gồm trợ từ, thán từ, tình thái từ.

+ Tình thái từ (à, ư, nhỉ, ạ,...) là những từ dùng để biểu thị mục đích nói

của câu và các sắc thái tình cảm của người nói. Đây là lớp từ không thuần nhất.

Trong câu, chúng có vị trí linh hoạt, có thể làm thành phần tình thái ngữ, tình

thái từ có thể độc lập tạo thành câu đặc biệt.

+ Trợ từ (chỉ, những, chính, đích,...) là những từ dùng để nhấn mạnh một

chi tiết hoặc biểu thị sự đánh giá của người nói với một sự tình nào đó trong câu.

Trợ từ thường đi kèm các từ ngữ chỉ nội dung mà nó nhấn mạnh hoặc đánh giá.

+ Thán từ (ơi, dạ, ối, ái,...): là những từ được dùng làm tiếng gọi, tiếng

đáp, tiếng kêu than hoặc là dấu hiệu của cảm xúc nào đó.

Hệ thống hư từ tình thái tiếng Việt này có vai trò rất quan trọng đối việc xác

định và biểu thị NTT nói chung và NTTĐG nói riêng.

1.3. Sơ lƣợc về truyện và kí

1.3.1. Khái niệm truyện và kí

1.3.1.1. Truyện

Thuật ngữ truyện có nhiều nghĩa. Với nguồn gốc chữ Hán truyện ban đầu

có nghĩa là giải thích kinh nghĩa. Sau này, nó có thêm nghĩa thứ hai là bài văn

xuôi ghi chép một sự tích nào đó. Trong Từ điển tiếng Việt thuật ngữ truyện “chỉ

tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật, diễn biến sự kiện thông qua lời kể

của nhà văn, như truyện cổ tích, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn... ”[34, tr.1054].

Khác với thơ ca in đậm dấu ấn chủ quan, truyện phản ánh đời sống trong

tính khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện được miêu tả và kể lại

bởi một người kể chuyện nào đó

1.3.1.2. Kí

Đây là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học,

26

gồm nhiều thể loại chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự,

kí sự, nhật kí, tùy bút. Đây là những tác phẩm không có một xung đột thống

nhất; phần khai triển chủ yếu mang tính miêu thuật; đề tài là các vấn đề trạng

thái dân sự (kinh tế, xã hội) hay trạng thái tinh thần (phong hóa đạo đức);

hướng tới những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng (theo 10, tr.137).

1.3.2. Nhân vật văn học

“Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con

người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, sáng tạo, thể

hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [ 38, tr.114].

Trong tác phẩm tự sự, nhân vật văn học có bản chất hai mặt. Một mặt, nó

là chủ thể của hành động, là động lực thúc đẩy cốt truyện phát triển, vì thế có

thể coi chúng như yếu tố mang hành động, mang chức năng, ý nghĩa nhất định.

Mặt khác, trong tác phẩm, nhân vật có một ý nghĩa độc lập, không phụ thuộc

vào cốt truyện, nó xuất hiện như là người mang đặc điểm, phẩm chất ổn định,

vững bền, trở thành những tính cách độc đáo điển hình.

Trong tác phẩm Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là

phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng.

Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân

nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.

1.3.3. Chủ đề trong truyện và kí

“Chủ đề là vấn đề chủ yếu, vấn đề trung tâm được đặt ra từ toàn bộ hiện

thực mà tác phẩm thể hiện” [10, tr.119]. Như vậy, sự hình thành chủ đề của tác

phẩm có mối liên hệ mật thiết với hiện thực đời sống và với ý đồ sáng tác của

nhà văn. Những tác phẩm có giá trị bao giờ cũng lấy thực tế khách quan làm cơ

sở, từ đó phát hiện một cách kịp thời và chính xác những vấn đề quan trọng

nhất, cấp thiết nhất của đời sống và lí giải vấn đề đó một cách đúng đắn.

Chủ đề có một vai trò rất quan trọng. Nó thể hiện bản sắc tư duy, chiều

27

sâu tư tưởng, khả năng thâm nhập vào bản chất đời sống của nhà văn.

Chủ đề không phải là chất liệu trực tiếp tạo thành tác phẩm. Nó là một

nhân tố thuộc nội dung khái quát của tác phẩm, nó được thực hiện, được cụ thể

hóa qua những chất liệu trực tiếp khác. Trước hết, dấu hiệu về chủ đề hay được

bộc lộ qua tên gọi (nhan đề, đầu đề) của tác phẩm; có thể bộc bộc lộ trực tiếp

trong những lời phát biểu của tác giả. Nhưng về cơ bản, chủ đề thường được

biểu hiện qua hệ thống hình tượng, hệ thống nhân vật, nhất là qua hình tượng

chính, nhân vật chính.

1.4. Đôi nét về việc dạy học truyện và kí, dạy học nghĩa của câu và giảng

dạy văn hoá cho học sinh ở trƣờng trung học phổ thông.

1.4.1. Tình hình dạy học truyện, kí ở trƣờng phổ thông

Theo tác giả Đỗ Ngọc Thống: Ở trường phổ thông hiện nay, môn Ngữ

văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính :

1. Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống

về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù

hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt,

tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là

phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.

3. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu

gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý

tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh

trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và

phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.

Xuất phát từ mục tiêu đó, chương trình Ngữ văn THPT đã lựa chọn các

tác phẩm thuộc mọi thể loại khác nhau của văn học Việt Nam (bao gồm văn

28

học dân gian và văn học viết). Tuy nhiên nội dung khảo sát của luận văn chỉ

tiến hành trên hai thể loại: truyện, kí. Vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu khái quát

về tình hình dạy học hai thể loại này ở trường phổ thông.

Tổng số các văn bản truyện và kí được giảng dạy trong chương trình phổ

thông là 25. Song đối tượng khảo sát của chúng tôi chỉ trong phạm vi là các

văn bản viết bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ nên số lượng tác phẩm khảo sát

của luận văn là: 21. Để tiện cho sự trình bày, chúng tôi tạm chia các văn bản

khảo sát của mình thành: truyện dân gian, truyện hiện đại, kí hiện đại như bảng

dưới đây:

Lớp STT Thể loại Tác giả - tác phẩm 10 11 12

1 Truyện Truyện An Dương Vương và Mị Châu - x

dân gian Trọng Thuỷ

2 Tấm Cám x

3 x Nhưng nó phải bằng hai mày

4 x Tam đại con gà

5 x Hai đứa trẻ - Thạch Lam

6 x Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân

7 x Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh

8 x Chí Phèo - Nam Cao

Truyện 9 x Tinh thần thể dục - Nguyễn Công Hoan

hiện đại 10 x Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng

Phụng

11 x Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

12 x Vợ nhặt - Kim Lân

13 x Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi

29

14 x Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành

15 Một người Hà Nội - Nguyễn Khải x

16 Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu x

17 Bắt sấu rừng U Minh Hạ - Sơn Nam x

18 Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng x

19 Kí hiện Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ x

đại Ngọc Tường

20 Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân x

21 Những năm tháng không thể nào quên - Võ x

Nguyên Giáp.

Tiếp cận với các văn bản truyện dân gian Việt Nam, học sinh sẽ hiểu

thêm về lịch sử dân tộc, hiểu thêm tâm hồn, tính cách Việt Nam, từ đó, hình

thành ý thức và tinh thần dân tộc một cách tự nhiên sâu sắc.

So với phần văn học dân gian, phần văn học hiện đại chiếm một tỉ lệ

lớn trong chương trình Ngữ văn ở bậc THPT (14/21 tác phẩm). Truyện hiện

đại được viết bằng chữ Quốc Ngữ, thuộc bộ phận văn học Việt Nam từ đầu

thế kỉ XX đến hết thế kỉ XX, chủ yếu xoay quanh khuynh hướng: lãng mạn và

hiện thực.

Đây là những tác phẩm có sự thống nhất cao độ giữa tư tưởng và tài năng

của tác giả, giữa nội dung và hình thức của tác phẩm. Mặt khác chính những

tác phẩm văn học hiện đại ở chương trình Ngữ văn THPT đã phản ánh được

lịch sử dân tộc.

Quan sát bảng ở trên, chúng ta thấy: các văn bản kí được tập trung học ở

lớp 12, nội dung chính của nó là ca ngợi vẻ đẹp và sức hấp dẫn của cuộc sống,

con người và quê hương.

Khi giảng dạy các văn bản này, giáo viên đã bám sát mục tiêu dạy học bộ

môn, nắm vững phương pháp khai thác các tác phẩm theo đặc trưng thể loại;

30

vận dụng các kiến thức về ngôn ngữ để dẫn dắt học sinh khám phá, phát hiện

cái hay, cái đẹp của các kiểu loại văn bản, đặc biệt là văn bản nghệ thuật. Qua

mỗi giờ học, học sinh không chỉ được rèn luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác

phẩm văn học mà còn được phát triển về vốn từ ngữ, thấy được những cách

thức lựa chọn, vận dụng ngôn ngữ để tạo lập các kiểu loại văn bản một cách

hiệu quả nhất.

Tìm hiểu ngôn ngữ qua ngữ liệu là các văn bản giảng dạy ở trường phổ

thông, vận dụng tri thức ngôn ngữ vào việc phân tích phục vụ việc giảng dạy

văn học là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, trong số những tri

thức ngôn ngữ được vận dụng vào phân tích văn học, NTT còn ít được đề cập.

Vì lẽ đó, kết quả của đề tài Nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các văn

bản truyện và kí giảng dạy ở trường trung học phổ thông sẽ có những đóng

góp nhất định vào việc nâng cao chất lượng tìm hiểu các văn bản nghệ thuật và

góp phần cụ thể hóa mục tiêu dạy học Ngữ văn như đã nêu ở phần trên.

1.4.2. Đôi nét về việc dạy học nghĩa của câu ở trƣờng phổ thông

1.4.2.1. Mục tiêu dạy học nghĩa của câu

Trong Phân phối chương trình Ngữ Văn 11 - chương trình chuẩn, (thực

hiện tại Sở GD & ĐT Thái Nguyên) bài Nghĩa của câu được giảng dạy và học

tập ở tiết 74 và tiết 81 (tuần 20 và 23) thuộc chương trình học kì II. Sách giáo

khoa đã xác định mục tiêu của bài học trên ba phương diện: kiến thức, kĩ năng

và thái độ.

- Về kiến thức: Qua hai giờ học bài Nghĩa của câu học sinh nhận biết

được câu có hai thành phần nghĩa tường minh: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái .

- Về kĩ năng: Qua hai tiết học, cần cung cấp cho học sinh một số kĩ năng

cơ bản như: kĩ năng phân tích, lĩnh hội nghĩa của câu và kĩ năng đặt câu thể

hiện được các thành phần nghĩa phù hợp nhất. Qua đó học sinh vận dụng các kĩ

năng được rèn luyện vào phần Đọc hiểu, tạo lập văn bản, tạo nền tảng để đọc

31

văn đạt hiệu quả cao.

- Về thái độ: Giúp học sinh nhận thức được vai trò, vị trí, ý nghĩa của

việc học nghĩa của câu đối với hoạt động giao tiếp giữa con người với con

người, đồng thời thấy được vai trò của việc học nghĩa của câu đối với việc học

văn và làm văn. Hình thành cho học sinh ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng

Việt, giúp học sinh có trách nhiệm trau dồi, bồi dưỡng ngôn ngữ mẹ đẻ, làm

cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn.

1.4.2.2. Thực tế giảng dạy nghĩa của câu

Nghĩa của câu là phần kiến thức cơ bản và rất được coi trọng ở cấp

THPT. Dạy học nghĩa của câu vừa phải trang bị cho học sinh một số kiến thức

tối thiểu về ngôn ngữ học vừa rèn luyện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt có hiệu

quả trong từng hoàn cảnh giao tiếp.

Khi dạy bài Nghĩa của câu, có thể nhận thấy :

- Trong hai thành phần nghĩa của câu (nghĩa sự việc, NTT), học sinh dễ

dàng nhận biết được nghĩa sự việc bởi thành phần nghĩa này thường được biểu

hiện nhờ những thành phần ngữ pháp như: chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi

ngữ và các thành phần phụ khác. Còn thành phần NTT là vấn đề khó đối với

học sinh phổ thông. Bởi nó vô cùng phong phú, phức tạp, thường được thể hiện

bằng các từ không có nghĩa từ vựng rõ ràng thậm chí nhiều loại NTT có thể hòa

quện với nhau trong một phương tiện ngôn ngữ hay đan xen với nghĩa sự việc.

- Thành phần NTT được giảng dạy ở sách Ngữ văn 11 chỉ tập trung vào

hai trường hợp:

+ Một là: sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc

được đề cập đến trong câu.

+ Hai là: Tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe.

Đây là hai trường hợp có ý nghĩa thiết thực với việc vận dụng để lĩnh hội

và tạo lập văn bản. Tuy nhiên, trong quá trình học tập, học sinh còn gặp khó

khăn trong việc nhận diện các phương tiện biểu thị NTT. Trước những yêu cầu

32

thực hành hình thành kĩ năng nhận diện, phân tích, vận dụng, tạo lập câu theo

dữ liệu cho trước, theo những yêu cầu và hoàn cảnh giao tiếp nhất định, nhiều

em còn lúng túng, hoặc chưa hiểu rõ yêu cầu.

Từ những điều đã trình bày, khi dạy về nghĩa của câu, chúng tôi luôn

trăn trở là làm thế nào để học sinh có kĩ năng phân tích, nhận diện, lĩnh hội

nghĩa của câu. Đặc biệt là thành phần NTT bởi nó hết sức đa diện và phức tạp. Việc

phân tích loại nghĩa này có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp nhận, tạo lập câu.

Kết quả nghiên cứu của đề tài một mặt góp phần làm sáng tỏ khái niệm

tích hợp dạy học, vận dụng thành tựu nghiên cứu của tiếng Việt vào dạy học

Ngữ văn. Mặt khác những ứng dụng được trình bày có thể là tài liệu tham khảo

cho giáo viên áp dụng trong thực tế dạy học Ngữ văn nói chung và dạy nghĩa

của câu nói riêng.

1.4.3. Sơ lược về việc dạy học văn hoá cho học sinh ở trường phổ thông

Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác

giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

Như một thuộc tính quan trọng bậc nhất, văn hóa chi phối toàn bộ quá

trình hình thành và phát triển của con người nói riêng và nhân loại nói

chung. Văn hóa tổ chức và điều chỉnh xã hội, giúp con người giao tiếp và thông

tin, văn hóa giáo dục và đưa con người gia nhập vào cộng đồng xã hội. Văn hóa

có vai trò quan trọng như vậy cho nên giáo dục văn hóa cho học sinh là một

việc làm cần thiết ở các nhà trường. Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em đã đạt

được sự phát triển về mặt thể chất. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát

triển tới mức cao. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát

triển mạnh. Nhà trường lúc này có vai trò đặc biệt quan trọng bởi có thể giúp

các em không chỉ trang bị kiến thức mà còn hoàn thiện nhân cách của mình.

Ở trường phổ thông việc dạy học văn hoá được tổ chức lồng ghép trong

các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động hướng nghiệp...đặc biệt là được tích

33

hợp qua các môn học.

Đối với môn Văn hiện nay, dạy học theo hướng tích hợp chủ yếu là tích

hợp các kiến thức của cả ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn hoặc tích

hợp kiến thức của các môn học khác như: Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân...

Còn vấn đề tích hợp giáo dục văn hoá trong dạy học Văn cũng đã được đề cập

đến song chưa thật cụ thể.

Thực tế cho thấy: Văn học là một thành tố của văn hóa, văn hóa chính là

môi trường rộng lớn để cho văn học ra đời, kiếm tìm đề tài, chủ đề và thể hiện

bằng ngôn ngữ. Một mặt văn học có nguồn gốc từ văn hóa, chịu sự chi phối của

văn hóa, mặt khác văn học cũng tác động trở lại văn hóa. Bằng nghệ thuật ngôn

từ, các nhà văn có thể đấu tranh, phê phán một số biểu hiện văn hóa tiêu cực

đồng thời cũng khẳng định ngợi ca những giá trị văn hóa chân chính của dân

tộc. Cho nên, dạy văn hóa qua tác phẩm văn học chính là giúp cho học sinh có

hiểu biết về những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cảm xúc thẩm mĩ của dân

tộc… được tác giả phản ánh, trình bày trong các tác phẩm. Với bậc học phổ

thông, người giáo viên có thể qua việc dạy các tác phẩm văn học mà dạy về văn

hóa, và ngược lại, qua văn hóa để hiểu về ngôn ngữ của một dân tộc. Từ việc

tìm hiểu ngôn ngữ của mỗi tác phẩm văn học, ta tìm thấy những đặc trưng tri

nhận của nhà văn. Đồng thời góp phần lý giải phong cách tác giả, thị hiếu độc

giả và con đường phát triển nói chung của văn học. Giữa văn học và văn hoá có

mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc tích hợp dạy văn hóa qua Văn

học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã

văn hoá được bao hàm bên trong nó. Trong NTT của câu có một bộ phận

nghĩa liên quan đến tính hợp thức về đạo đức hay các chuẩn mực xã hội mà

nắm được chúng, ta có thể chiếm lĩnh văn bản từ góc độ văn hoá. Thêm vào

đó, những hiểu biết về văn hoá Việt cũng được sâu sắc hơn khi làm sáng tỏ

NTT của câu trong các văn bản văn học ở các thời kì khác nhau, của các vùng

miền khác nhau.

Do vậy, có thể khẳng định, sự tìm hiểu NTT của câu trong các văn bản

truyện và kí giảng dạy ở trường THPT có tác dụng thiết thực với việc dạy - học

34

Tiếng Việt, Văn học và việc giáo dục văn hoá, đạo đức cho học sinh THPT.

1.5. Tiểu kết

Ở chương 1, chúng tôi đã trình bày hai mảng vấn đề làm cơ sở cho việc

nghiên cứu luận văn.

Các cơ sở lí thuyết cho việc nghiên cứu đề tài luận văn là: định nghĩa

câu, các bình diện nghiên cứu câu, nghĩa của câu, thành phần câu; các vấn đề

về NTT: định nghĩa, phân loại, các phương tiện biểu thị. Trong đó, NTTĐG

được chúng tôi tìm hiểu kĩ hơn bởi đây là đối tượng nghiên cứu chính của đề

tài. NTTĐG được làm rõ về khái niệm, các phương tiện biểu đạt và các sắc thái

đánh giá. Bên cạnh đó là các lí thuyết giúp nhận diện từ, tổ hợp từ, cặp từ,

truyện, kí, chủ đề, nhân vật. Các nội dung này chủ yếu phục vụ cho việc nghiên

cứu chương 2, ngoài ra cũng phục vụ việc triển khai chương 3 của luận văn.

Cơ sở thực tiễn được đề cập ở đây là: đôi nét về thực tế dạy học Văn học,

Tiếng Việt, văn hóa ở trường phổ thông. Đây là những hiểu biết nền tảng giúp

35

chúng tôi nghiên cứu các vấn đề của chương 3.

Chƣơng 2

CÁC PHƢƠNG TIỆN, CÁC SẮC THÁI NGHĨA TÌNH THÁI

ĐÁNH GIÁ CỦA CÂU TRONG NHỮNG VĂN BẢN TRUYỆN

VÀ KÍ GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

2.1. Các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các

văn bản truyện và kí giảng dạy ở trƣờng trung học phổ thông

2.1.1. Các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá xét theo vị trí

trong câu

2.1.1.1. Kết quả khảo sát

Phương tiện biểu thị NTTĐG xuất hiện rất linh hoạt ở các vị trí khác

nhau trong câu. Điều này được thể hiện qua bảng dưới đây:

Bảng 2.1. Các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá

xét theo vị trí trong câu

STT Phƣơng tiện Ví dụ Số lần sử dụng Vị trí trong câu

Lại say rồi phải không? Đầu Từ 22 1

Ai đời lại còn đi lấy chồng tổ hợp từ 13

tỉ lệ 35(11,9%)

từ 199

Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây.

tổ hợp từ 24

Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống.

Giữa 2 cặp từ/cặp tổ 17

hợp từ

36

Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục.

Cụ bà sung sướng kêu: "ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi"

tỉ lệ 240(81,4%)

Cuối từ Còn xuân chán. 9 3

tổ hợp từ 4

Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán cứ oặt người đi khóc mãi không thôi.

tỉ lệ 13(4,4%)

Giữa và cặp từ/cặp tổ Chính ông ta cũng không ngờ 4 4

cuối hợp từ rằng giá trị đôi sừng hươu vô

hình trên đầu ông ta mà lại to

đến như thế.

tỉ lệ 4(1,4%)

Đầu và cặp từ/cặp tổ 3 Mới trông thấy hắn vào đến 5

giữa hợp từ sân, Bá Kiến đã biết hắn đến

sinh sự rồi.

tỉ lệ 3(0,9)

Tổng 295(100)

2.1.1.2. Nhận xét

a. Vị trí đầu câu

Các phương tiện biểu thị NTTĐG có ở vị trí đầu câu như: Mới, chỉ, lại,

quả, được, phải, suốt, mãi, thà, cả, chính, thật, chỉ còn, nhỡ ra, ai đời, thôi thì...

Ở vị trí đầu câu, phương tiện được sử dụng để biểu thị NTTĐG là từ và

37

tổ hợp từ với số lần sử dụng là 35, chiếm 11,9 %.

Ví dụ:

(1) Ai đời lại còn đi lấy chồng. (Chí Phèo - tr.150)

Ngoài ra, ta có các ví dụ tương tự như:

(1a) Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chắc rồi mặc thây cha nó, nó có

chửi thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe!

(Chí Phèo - tr.148)

(1b) Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng.

(Vợ chồng A Phủ - tr.5)

Ví dụ: (2) Lại say rồi phải không. (Chí Phèo - tr.148)

Hoặc các ví dụ tương tự như:

(2a) Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng, với lứa tuổi chúng

tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh là cực kì khoan khoái.

(Một người Hà Nội - tr.91)

(2b) Phải giấu tên, giấu họ hoài, con đến thăm cũng phải núp lén, không

dám đến chán chường.

(Cha con nghĩa nặng - tr.166)

b. Vị trí giữa câu

Các phương tiện biểu thị NTTĐG có vị trí ở giữa câu như: bị, trở thành,

ngay, tận, bỗng, sinh nghi, may, chợt, may mà, may ra, đáng nhẽ, bao nhiêu,

nhìn đi nhìn lại, hóa ra, thì ra, té ra, vừa... đã, giá... thì, đã không... mà lại,

càng... càng, đã... chưa, đã... lại,...

Các phương tiện biểu thị NTTĐG đứng ở vị trí giữa câu có cấu tạo là

từ, tổ hợp từ và cặp từ hoặc cặp tổ hợp từ với số lần sử dụng cao nhất (240

lần, chiếm 81,4%).

Ví dụ

(3): Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển

dòng một cách liên tục.

38

(Ai đã đặt tên cho dòng sông - tr.198)

Ngoài ra có các ví dụ tương tự như:

(3a): Các cụ ông thì chưa bước lên cầu thang đã nói oang oang..

(Rừng xà nu - tr.40)

(3b): Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây.

(Tinh thần thể dục - tr.176)

(3c): Cụ bà sung sướng kêu: "ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa

được to, may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi"

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.126)

c. Vị trí cuối câu

Ở vị trí cuối câu là các phương tiện như: chán, quá, mãi không thôi, biết

bao, đến thế mà thôi, đấy, đến nỗi...

Ví dụ :

(4) Còn xuân chán.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.126)

(5) Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán

cứ oặt người đi khóc mãi không thôi.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.128)

Phương tiện biểu thị NTTĐG ở vị trí cuối câu chủ yếu có cấu tạo là từ

hoặc tổ hợp từ với số lần sử dụng là 13, chiếm 4,4%.

d. Vị trí giữa và cuối câu: Phương tiện được sử dụng chủ yếu là cặp

từ/cặp tổ hợp từ như: chỉ là...mà thôi, chỉ...duy nhất, chỉ...là cùng,....

Ví dụ:

(6) Điều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh chỉ là mời luật sư đến

chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.124)

(7) Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.

39

(Hai đứa trẻ - tr.99)

Các phương tiện tham gia biểu thị NTTĐG ở vị trí giữa và cuối câu

xuất hiện 4 lần, chiếm 1,4%.

đ. Vị trí đầu và giữa câu: Phương tiện được sử dụng chủ yếu là cặp từ/

cặp tổ hợp từ gồm: mới...đã, thoáng...đã, chỉ có...chỉ còn. Số lần sử dụng các

phương tiện ở vị trí này rất thấp, chiếm 0,9%.

Ví dụ:

(8) Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi.

(Chí Phèo - tr.148)

(9) Mới trông thấy hắn vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi.

(Chí Phèo- tr.153)

Như vậy, vị trí giữa câu được khẳng định là vị trí phổ biến nhất của

phương tiện biểu thị NTTĐG. Thứ đến là vị trí đầu câu, cuối câu, giữa và cuối

câu và hạn chế đứng ở vị trí đầu và giữa câu.

2.1.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá xét theo cấu tạo và

từ loại

2.1.2.1. Kết quả khảo sát

Bảng 2.2. Phân loại các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá xét theo cấu tạo và từ loại

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng

1 Từ Động phải 20 Hắn vẫn phải dọa nạt hay là cướp

từ giật.

được 10 Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn

được người đàn bà cho.

bị 9

40

A Phủ bị bắt sống trói gô chân tay lại.

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng 3 trở thành Ngày nay, Nhà nước đã trở thành

của số đông...

sinh nghi 1 Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường

mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh

nghi, bèn bảo Cám đi rình.

may 4 Hiện tại thì nó may hơn anh nó,

Tính từ nhưng nếu anh nó còn sống rồi cũng

chưa biết đứa nào may hơn đứa nào

hẳn 4 Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới

đầu chẳng ai biết hắn là ai.

suốt 3 Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy

chục người hút.

thật Tuy chị có cao hơn mình một chút thật. 3

chán 1 Còn xuân chán.

trợ từ 54 Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, chỉ

vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

mới 36 A Phủ mới mười tuổi.

chính 14 Liên thấy động lòng thương nhưng

chính chị cũng không có tiền mà cho

chúng.

được 11 Có được chữ ông Huấn mà treo là

có một vật báu trên đời.

cả 8 Cả các ông các bà nữa về đi thôi chứ.

ngay 8 Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu

giường thằng con mình thế kia?

đấy 7 Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử

41

giày đấy.

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng

tận 6 Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi

mà cũng chưa trả được nợ.

Ngô biện chè lá những mười đồng. những 3

quả 2 Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm

nhạc cổ điển Huế đã được sinh

thành trên mặt nước của dòng sông

này, trong một khoang thuyền nào

đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của

những mái chèo khuya.

Thật ồn ào như chợ. thật 3

...thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái cái 4 Phó từ

thằng liều lĩnh kể ra cũng đáng

thương còn gì đáng thương bằng đau

ốm nằm còng queo một mình.

Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. quá 3

Tnú học chậm hơn, mà lại hay nổi nóng hay 2

2 Mị chợt nhớ lại đêm năm trước chợt

Thằng này rất ngạc nhiên. rất 2

Lại say rồi phải không? lại 1

1 Mãi sau Mị mới đứng dậy... mãi

Thạch trận bày vừa xong thì cái 1 vừa

thuyền vụt tới.

A Sử đang sắp bước ra, bỗng lấy bỗng 1

làm lạ.

Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. lắm 1

42

Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. thà 1 Kết

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào Số lần sử dụng 1 từ nhỡ

biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc

khẽ, tuy vậy trong lòng vẫn thấp thỏm.

Tỉ lệ 33(48)

230 (78)

Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy 2 chỉ có 9

ông ngồi tán suông...

Tổ hợp từ Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đến nỗi 4

đền bia vừa mới chữa khỏi cho một

người ho lao và một người cảm thương

hàn bằng bùn đen và cứt trâu công

hiệu đến nỗi họ mất mạng.

Có biết bao người mê, ngày đêm thổi biết bao 3

sáo đi theo Mị.

Cụ bà sung sướng kêu: "ấy giá không may mà 3

có món ấy thì là thiếu chưa được to,

may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi".

Rồi may ra ông giời cho khá..biết thế may ra 3

nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba

đời...

Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng chỉ còn 3

thác luồng sinh.

Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật thôi thì 2

chắc rồi mặc thây cha nó, nó có chửi

thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe!

Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết té ra 2

43

rồi, té ra cha còn sống.

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng

đến thế mà thôi 1 Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế

mà thôi.

cho tới Cho tới năm ấy Mị đã lớn... 1

vừa lúc Vừa lúc thống lí Pá Tra tới. 1

thế ra Thế ra y văn võ toàn tài cả. 1

1

nhìn đi nhìn lại

Cũng có người, các bà cụ, cầm cả cây đuốc còn cháy rực, soi lên mặt Tnú nhìn đi nhìn lại thật kĩ rồi ném bó đuốc vào bếp.

nhỡ ra Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. 1

đáng nhẽ 1

A phủ, mày đánh con quan làng, đáng nhẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ.

ai đời Ai đời lại còn đi lấy chồng. 1

ai ngờ 1

Nói thế Tràng cũng tưởng nói đùa, ai ngờ thị về thật.

hóa ra Ngỡ là gì, chẳng hóa ra nằm vạ! 1

thì ra Thì ra hắn định đến đây nằm vạ. 1

mãi không thôi

1 Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán cứ oặt người đi khóc mãi không thôi.

Tỉ lệ 20 (29)

41 (14)

3 càng...càng 3

44

Cặp từ/ cặp Cứ thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng 3 vừa...đã

Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục.

tổ hợp từ 3 chưa...đã

Các cụ ông thì chưa bước lên cầu thang đã nói oang oang...

3 giá...thì

Cụ bà sung sướng kêu: "ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi"

1

chỉ có...chỉ còn Chỉ có một cách...biết không!...chỉ còn...một cách là cái này biêt không.

1 đã...lại

Từ nhở tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa.

1 Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao

bao nhiêu...nữa nhiêu lần bây giờ nữa.

chỉ là...mà thôi

1 Điều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh chỉ là mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi.

1

chỉ... duy nhất

Trong các dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thương nghe nói đến hình như chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.

mới... đã

1 Mới trông thấy hắn vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi.

chưa... thì

1 Ông chưa biết bảo thế nào thì Mị bảo bố rằng: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố.

thoáng...đã 1

45

Thoáng nhìn qua cụ đã hiểu cơ sự rồi.

STT Ví dụ Cấu tạo Từ loại Phƣơng tiện

Số lần sử dụng 1

đã không... mà lại

1

mà lại...đến như thế đã... chưa 1

1

Cụ bà sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế... Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế. Tuy ta tranh được quyền độc lập đã năm tháng song các nước chưa công nhận ta. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.

Tỉ lệ chỉ... là cùng 16 (23)

Tổng 69 (100)

2.1.2.2. Nhận xét

24 (8) 295 (100)

Bảng kết quả khảo sát cho thấy, 69 phương tiện biểu thị NTTĐG có 3

kiểu cấu tạo: từ, tổ hợp từ, cặp từ/cặp tổ hợp từ. Trong đó phương tiện có kiểu

cấu tạo là từ phổ biến nhất: chiếm 48%. Thứ đến là tổ hợp từ: chiếm 29%. Còn

kiểu cấu tạo cặp từ/cặp tổ hợp từ là ít nhất: chiếm 23%.

Về số lần sử dụng thì từ cũng được sử dụng với tần số cao nhất: chiếm

78% tổng số lượt dùng. Đứng thứ hai là tổ hợp từ chiếm: 14% tổng lượt dùng.

Cuối cùng ít được sử dụng hơn cả là kiểu cặp từ/cặp tổ hợp từ chiếm: 8%.

Phương tiện biểu thị NTTĐG thuộc 5 từ loại: động từ, tính từ, trợ từ, phó

từ, kết từ. Trong đó trợ từ được sử dụng phổ biến hơn cả. Cụ thể có 10 trợ từ

tham gia làm phương tiện biểu thị NTTĐG với 149 lần sử dụng. Cũng có thể

nói thêm rằng các từ nằm trong những cặp từ mà chúng tôi khảo sát được phần

46

lớn thuộc từ loại phó từ (như càng... càng, vừa... đã, chưa... đã,...).

2.2. Các sắc thái nghĩa tình thái đánh giá của câu trong các văn bản truyện

và kí

2.2.1. Kết quả khảo sát

Bảng 2.3. Các sắc thái nghĩa tình thái đánh giá

STT Các sắc thái Ví dụ Số lƣợng (Tỉ lệ %)

1 Đánh giá về lượng 178 (60,3)

2 Đánh giá về chất 117 (39,7)

- Ngô biện chè lá những mười đồng. - Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. - A Phủ mới mười tuổi. - Mới trông thấy hắn đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi. - Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền bia vừa mới chữa khỏi cho một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu công hiệu đến nỗi họ mất mạng. - Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây. - Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời. - Ai đời lại còn đi lấy chồng - Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng - Liên thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng. - Lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống.

Tổng 2 295(100)

Từ bảng kết quả trên có thể nhận thấy: NTTĐG trong các văn bản truyện

và kí gồm 2 nhóm: NTTĐG về lượng chiếm: 60,3%, nhóm NTTĐG về chất

chiếm 39,7%.

Dưới đây chúng tôi sẽ đi vào miêu tả cụ thể từng nhóm sắc thái đánh giá

47

có trong các văn bản truyện và kí.

2.2.2. Nhóm sắc thái đánh giá về lượng

Dựa trên kết quả khảo sát, nhận thấy, sắc thái đánh giá về lượng gồm hai

cặp nhỏ: đánh giá về lượng của sự vật, thời gian, không gian; và mức độ của

tính chất, hiện tượng.

2.2.2.1. Cặp sắc thái đánh giá về lượng của thời gian, không gian

Trong các văn bản truyện và kí mà chúng tôi khảo sát, đánh giá về lượng

của sự vật, thời gian, không gian tồn tại theo từng cặp mang ý nghĩa đối lập:

sớm/muộn, nhanh/chậm, dài/ngắn của thời gian, gần/xa của không gian.

Để đánh giá về thời gian là muộn, kết quả khảo sát cho thấy, các câu chủ

yếu sử dụng trợ từ mới.

Ví dụ:

(10) Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mị phải trói đứng trong cột.

(Vợ chồng A Phủ - tr.9)

Trong ví dụ (10), mới thể hiện sự đánh giá của người nói về thời điểm

mà mọi người biết Mị bị trói là quá muộn.

Tương tự, trong các ví dụ dưới đây, mới cũng thể hiện tính chất muộn

của sự việc qua sự đánh giá của người nói.

Ví dụ:

(11) Lúc bấy giờ chị mới ngẩng lên nói chuyện với Liên.

(Hai đứa trẻ - tr.98)

(12) Chị trông con cho bà cô tôi từ năm mười chín tuổi, đến năm bốn

lăm tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ.

(Một người Hà Nội - tr. 91)

(13) Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một ông quan nào

hết, cũng chả hứa hẹn gì với đám văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ,

bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu

học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc.

48

(Một người Hà Nội – tr. 93)

Khi đánh giá về thời gian là sớm, trong các phát ngôn thường sử dụng

kết cấu mới A đã B. Kết cấu mới A đã B dùng để biểu thị quan hệ thời gian bắt

đầu - nối tiếp.

Ví dụ:

(14) Mới trông thấy hắn vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi.

(Chí Phèo- tr.153)

Ở ví dụ này có hai sự việc:

Sự việc A: trông thấy hắn

Sự việc B: biết hắn đến sinh sự

Theo đánh giá của người nói thì sự việc A đã xảy ra nhưng so với sự việc B

thì nó diễn ra chưa lâu. Vì vậy trong các phát ngôn, kiểu kết cấu mới A đã B được

dùng để đánh giá thời gian xảy ra sự việc ở vế sau là sớm.

Có những trường hợp, bên cạnh sắc thái đánh giá sớm/ muộn, còn có sắc thái

đánh giá nhanh/ chậm. Đó là việc sử dụng các kết cấu: chưa A đã B, đã A chưa B.

Kết cấu chưa A đã B dùng để biểu thị quan hệ thời gian nghịch đối.

Thông thường sự việc A phải xảy ra rồi mới đến sự việc B. Nhưng trong kết

cấu chưa A đã B, sự việc B lại xảy ra trước. Khi B xảy ra trước thời điểm

thường lệ, nó bị đánh giá là sớm.

Ví dụ:

(15) Các cụ ông thì chưa bước lên cầu thang đã nói oang oang..

(Rừng xà nu - tr.40)

(16) Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi xềnh xệch đi.

(Tinh thần thể dục - tr.176)

(17) Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ. (Tấm Cám - tr.69)

Chẳng hạn, trong câu (16) có hai sự việc:

Sự việc A: bước lên cầu thang

Sự việc B: nói oang oang.

Theo lẽ thường việc bước lên cầu thang phải diễn ra xong mới dẫn đến

49

việc nói oang oang. Nhưng trong câu này, sự việc nói oang oang đã xảy ra

trong khi sự việc bước lên cầu thang chưa kịp tiến hành. Tương tự, bị lôi xềnh

xệch đi, việc cây (cau) đổ đều xảy ra trước các sự việc Thằng Cò trả lời, Tấm

xé cau - những sự việc theo lẽ thường phải diễn ra trước. Và nguyên nhân của

tình trạng nghịch đối về thời gian này chính là do các hoạt động nói, lôi, và đổ

ở đây đã diễn ra với tốc độ rất cao. Và đây chính là lí do để các kết cấu có sử

dụng cặp chưa A đã B được cho là có thêm sắc thái nghĩa đánh giá là sự việc

nêu ở vế B xảy ra nhanh.

Cũng theo lẽ thường, sự việc A xảy ra rồi mới đến sự việc B. Nhưng trong

kết cấu đã A chưa B thì sự việc B lại chưa xảy ra theo quy luật thông thường.

Ví dụ:

(18) Tuy ta tranh được quyền độc lập đã năm tháng song các nước chưa

công nhận ta.

( Những ngày đầu của nước Việt Nam mới – tr.209)

Ở ví dụ (18) có hai sự việc:

Sự việc A: ta tranh được quyền độc lập

Sự việc B: các nước chưa công nhận ta

Ở đây, các nước công nhận ta (sự việc B) phải xảy ra ngay sau khi ta

tranh được quyền độc lập (sự việc A). Nhưng sau năm tháng, điều đó vẫn chưa

được thực hiện. Vậy nên sự việc B trong kết cấu đã A chưa B thường bị đánh

giá là chậm.

Bên cạnh sự đánh giá về thời gian sớm/muộn, nhanh/chậm còn có sắc

thái đánh giá dài/ngắn.

Ví dụ:

(19) A Phủ mới mười tuổi. (Vợ chồng A Phủ - tr.12)

(20) Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng, với lứa tuổi chúng tôi

ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh là cực kì khoan khoái.

(Một người Hà Nội - tr.91)

50

(21) Mới có chín năm thôi. (Một người Hà Nội - tr.84)

Từ mới trong các ví dụ trên đây biểu thị sự đánh giá về thời gian là ngắn, là

ít. Theo đánh giá chủ quan của người nói: tuổi của A Phủ còn nhỏ (ví dụ 19), tuổi

của lứa chúng tôi còn trẻ (ví dụ 20) và 9 năm là khoảng thời gian ngắn (ví dụ 21).

Ví dụ:

(22) Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút.

(Vợ chồng A Phủ - tr.10)

Từ suốt trong ví dụ (22) đem đến thông tin về sự việc mấy người hút đã

diễn ra liên tục từ trưa đến đêm. Khi sử dụng suốt trong câu này, nó còn thể

hiện sự đánh giá thời gian của sự việc là dài.

Trong ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát được, các câu chủ yếu mang sắc

thái đánh giá thời gian với hai thái cực đối lập: sớm/muộn, dài/ngắn,

nhanh/chậm. Còn sắc thái đánh giá về không gian xuất hiện với tần số thấp

hơn và phương tiện tham gia biểu thị sắc thái này thường là các trợ từ: ngay,

tận để đánh giá không gian là gần/xa

Ví dụ:

(23) Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?

(Vợ nhặt - tr.28)

Trong tác phẩm Vợ nhặt, bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ, từng trải, có

cuộc đời trải qua nhiều gian truân: chồng và con đều đã mất, gia tài chỉ còn lại

túp lều tranh rách nát và thằng con trai xấu xí ngẩn ngơ. Bà đã già, đi đứng

lọng khọng, sức khỏe đã yếu, vừa đi vừa húng hắng ho trong bóng chiều hôm

choạng vạng, tê tái. Sự kiện có người đàn bà lạ trong căn nhà đã làm bà cụ rất

đỗi ngạc nhiên. Có hai lý do để bà ngạc nhiên: thứ nhất vì thái độ của anh

Tràng hôm nay quá đon đả. Thứ hai là bà thấy có người đàn bà đứng ngay đầu

giường thằng con mình. Sự băn khoăn, ngạc nhiên của bà cụ Tứ tập trung vào

địa điểm mà người đàn bà đang đứng: đầu giường. Có thể nhận thấy sự có mặt

của trợ từ ngay trong câu ngoài nhấn mạnh đến tính xác định của địa điểm còn

có thêm sắc thái đánh giá về khoảng cách của địa điểm được nói tới so với vị trí

51

người nói là gần.

Trong ví dụ sau, sắc thái đánh giá về không gian lại hoàn toàn ngược lại

(24) Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây.

(Tinh thần thể dục - tr.176)

Tinh thần thể dục là một truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công

Hoan. Tác phẩm phê phán thói giả dối, chính sách lừa bịp mị dân của bọn cầm

quyền thực dân phong kiến. Quan trên sức giấy xuống bắt người dân xã Ngũ

Vọng phải tập trung lên sân vận động để xem bóng đá. Nhân dân trong xã

không ai muốn đi. Người trốn chạy, người lo lót, người van xin để không phải

đi xem bóng đá. Lý trưởng phải đe dọa, bắt bớ, lùng sục những cuối cùng vẫn

không đủ số người đi xem theo lệnh quan trên. Ví dụ (24) là lời ra lệnh của ông

lí đối với quân lính của mình. Trong phát ngôn này tận có thể bị lược bỏ mà

không ảnh hưởng đến nội dung sự tình. Tuy nhiên sự vắng mặt của tận sẽ làm

cho phát ngôn bị mất đi một lượng thông tin quan trọng thể hiện sự nhấn mạnh

của người nói về địa điểm được nói tới (nhà). Theo người nói, nhà là nơi sâu

nhất mà những người lính phải đến đó để tìm cho đủ số người đi xem đá bóng.

Xét trong hoàn cảnh của câu chuyện, tận còn chứa ý nhắc nhở của ông lí

là phải làm việc có trách nhiệm, nghiêm túc, cẩn thận để gom đủ số người đi

xem đá bóng như đã quy định.

Quan sát một ví dụ khác, có thể thấy, trợ từ những không chỉ tham gia

vào việc đánh giá lượng của sự vật là nhiều mà nó còn có thể được dùng để

đánh giá về lượng đơn vị không gian là lớn, có nghĩa là xa.

(25) Nhưng thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà

con đi nắng thì cảm...

(Tinh thần thể dục - tr.174)

Đây là lời của bác Phô gái nói với ông lí khi ông này đến nhà bắt anh

Mịch đi xem đá bóng. Có thể nhận thấy ý đánh giá là xa của người nói (bác Phô

gái) được bộc lộ rõ qua từ những. Bác cho rằng chín cây lô mếch là nhiều, là rất

52

dài, rất xa trong khi chồng bác lại đang bị ốm. Vì thế nên lời nói của bác Phô

gái vừa thể hiện sự lo lắng, xót xa cho chồng vừa nhằm mục đích xin phép ông

lí cho anh Mịch ở nhà.

2.2.2.2. Cặp sắc thái đánh giá về lượng của sự vật

Sắc thái đánh giá này chủ yếu thể hiện ở hai thái cực đối lập: nhiều/ít

Ví dụ:

(26) Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

(Hai đứa trẻ - tr.95)

(27) Thiếu những mười tám thằng kia à?

(Tinh thần thể dục - tr.176)

Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn

để nói lên bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện mức sống, biểu hiện

thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào

ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Mặc dù không tả chi tiết buổi chợ phiên

nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó là: rác rưởi, vỏ bưởi,

vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Với từng ấy hình ảnh, người đọc đã có thể cảm nhận

được sức sống đầy vơi của phố huyện. Tuy nhiên trong ví dụ (26) ngoài sự cảm

nhận còn là sự đánh giá là ít về số lượng. Sắc thái đánh giá là ít được bộc lộ rõ

qua sự có mặt của trợ từ chỉ ở trong câu.

Như vậy sự kết hợp của từ chỉ với các hình ảnh rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị,

lá nhãn và lá mía đã góp phần nói lên cái xác xơ tiêu điều của phố huyện.

Ở truyện ngắn Tinh thần thể dục xoay quanh sự việc quan trên sức giấy

xuống bắt người dân xã Ngũ Vọng phải tập trung đủ một trăm người đi xem đá

bóng. Tuy nhiên khi rà soát danh sách những người đi xem thấy vẫn chưa đủ số

lượng người như đã quy định, ông lí đã quát tháo ầm ĩ: Thiếu những mười tám

thằng kia à?

Ở đây, dễ nhận thấy những hoàn toàn có thể bị lược bỏ khỏi phát ngôn

mà không ảnh hưởng đến nội dung sự tình. Nhưng nếu không có những phát

ngôn sẽ bị mất đi một lượng thông tin quan trọng thể hiện sự đánh giá chủ quan

53

của người nói là nhiều về số lượng.

2.2.2.3. Cặp sắc thái đánh giá về tính cùng cực

Ngoài sự đánh giá về lượng, trong các phát ngôn còn có sự đánh giá về tính

cùng cực của hiện tượng theo hai chiều dương (cao) và âm (thấp).

Ví dụ: (28) Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền bia vừa mới chữa

khỏi cho một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt

trâu công hiệu đến nỗi họ mất mạng.....

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.124) Trước cái chết của cụ cố tổ, cả gia đình cụ cố Hồng đã nhao lên mỗi

người một cách để thực hiện đúng cái lí thuyết nhiều thầy thối ma. Thậm chí là

họ đã nghĩ đến thuốc thánh đền Bia. Nhưng theo đánh giá của người nói thì thứ

thuốc này công hiệu đến mức người bệnh sử dụng thuốc không chữa được bệnh

mà bị mất mạng. Tổ hợp từ đến nỗi được sử dụng trong câu này biểu thị sự

nhấn mạnh về mức độ công hiệu cao của thuốc thánh đền Bia. Đồng thời tạo

nên tiếng cười mỉa mai, châm biếm cho tác phẩm.

Để đánh giá về mức độ cùng cực của hiện tượng, người nói còn có thể

sử dụng đến cặp từ: chỉ... là cùng.

Ví dụ:

(29) Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.

(Hai đứa trẻ - tr.99)

Sự có mặt của chỉ... là cùng ở trong câu, cho thấy sự đánh giá của người

nói đối với hiện tượng mua bán ở phố huyện vào buổi đêm ở mức cao nhất mới

là bao diêm, gói thuốc. Để có được sự đánh giá này, Liên trong tác phẩm Hai

đứa trẻ đã quan sát và cảm nhận cuộc sống buồn tẻ nơi phố huyện qua một thời

gian dài. Cuộc sống ấy cứ lặp đi lặp lại ngày này sang tháng khác, đơn điệu, uể

oải với những hình ảnh hết sức quen thuộc. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí lại lễ

mễ dọn hàng mỗi khi chiều xuống, chị em Liên kiểm hàng, tính tiền, rồi ngồi

trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu thì gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại

trải chiếu, đặt thau.....Mọi người lại chờ đợi những điều mọi ngày họ vẫn chờ

54

đợi: mấy chú lính trong huyện hay người nhà cụ thừa, cụ lục đi gọi người đánh

tổ tôm rẽ vào uống nước, hút thuốc... Vì vậy mà theo đánh giá chủ quan của Liên

thì việc bán được hàng trong đêm là có xảy ra nhưng chỉ ở mức độ rất thấp.

2.2.2.4. Đặc điểm các phương tiện biểu thị nhóm sắc thái đánh giá về lượng

- Về số lượng: Có tổng số 37 phương tiện tham gia biểu thị nhóm sắc

thái đánh giá về lượng

- Về vị trí: các phương tiện biểu thị sắc thái đánh giá về lượng xuất hiện

ở cả 5 vị trí:

Các phương tiện ở vị trí đầu câu như: mới, chỉ có, chỉ còn,...

Các phương tiện ở vị trí giữa câu như: ngay, chỉ, tận, những,....

Các phương tiện ở vị trí cuối câu: đến nỗi, ngay, biết bao, mãi không

thôi, quá, đến thế mà thôi.

Các phương tiện ở vị trí giữa và cuối câu như: ...chỉ...là cùng,

...chỉ...duy nhất,....

Các phương tiện ở vị trí đầu và giữa câu như: mới...đã, thoáng...đã,...

- Về cấu tạo: các phương tiện có cấu tạo là từ, tổ hợp từ, cặp từ/cặp

tổ hợp từ. Cụ thể như sau:

Từ: tính từ: suốt, hẳn; phó từ: lại, mãi, rất, hay, quá, lắm, vừa, thật; trợ

từ: tận, ngay, chỉ, cả, những, mới.

Tổ hợp từ: đến nỗi, mãi không thôi, nhìn đi nhìn lại, biết bao, chỉ còn,

đến thế mà thôi, chỉ có, vừa lúc, cho tới.

Cặp từ/cặp tổ hợp từ: chỉ có...chỉ còn, bao nhiêu...nữa, càng ...càng, chỉ

là... mà thôi, vừa ... đã, mới.. đã, chưa… đã, đã không...mà lại, thoáng... đã, đã

... chưa, chỉ...duy nhất, chỉ...là cùng....

2.2.3. Nhóm sắc thái đánh giá về chất

Trong nhóm sắc thái đánh giá về chất lại có thể chia thành các sắc thái:

đánh giá về tính tích cực hay tiêu cực, tính hợp lí hay không hợp lí, ưu thế, tính

bất ngờ, bất thường, và đánh giá tầm quan trọng của thông tin (nhấn mạnh

55

thông tin).

2.2.3.1. Cặp sắc thái đánh giá về tính tích cực hay tiêu cực của hiện tượng

Ví dụ:

(30): Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời.

(Chữ người tử tù - tr.112)

Nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

vừa có vẻ đẹp uy nghi của một hào kiệt dám dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều

đình, vừa có vẻ đẹp tài hoa trong nghệ thuật thư pháp. Tài năng ấy đã được ca

ngợi gián tiếp qua sở nguyện của viên quản ngục. Trong ví dụ (30) thông qua

từ được cho thấy: Viên quản ngục đánh giá chữ của Huấn Cao như một vật báu.

Việc có chữ ông Huấn mà treo ở trong nhà được coi là điều may mắn. NTTĐG

về tính tích cực đã được bộc lộ rất rõ qua từ được.

Tương tự như vậy, khi thể hiện sự đánh giá đối với điều được nói tới

trong câu là may mắn, đáng mong muốn, người nói còn thường sử dụng các tổ

hợp từ như: may mà, may ra.

Ví dụ:

(31) Cụ bà sung sướng kêu: "ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa

được to, may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi"

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.126)

(32) Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống - đường sắt đi ngang qua

ngay trước phố - để bán hàng, may ra còn có vài người mua.

(Hai đứa trẻ - tr.99)

Ví dụ (31) là lời nói của bà mẹ tú Tân trong đoạn trích Hạnh phúc của

một tang gia. Trong khi đưa đám, mọi người đang lào xào phê bình thái độ của

Xuân thì thấy cả đám phải dừng lại. Giữa lúc ấy, xuất hiện sáu chiếc xe, trên có

sư chùa Bà Banh, cùng hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ mõ, một của Xuân.

Điều đó khiến cho bà cụ hết sức cảm động và sung sướng. Theo đánh giá của

bà cụ thì nhờ có việc làm này của ông Xuân mà đám ma trở nên long trọng và

56

danh giá.

Như vậy, khi sử dụng tổ hợp từ may mà người nói thể hiện sự đánh giá

của mình về điều được nói tới trong câu là một thực tế đã xảy có ích cho người

nói. Vì thế, đó là điều may mắn.

Trong ví dụ (32), may ra lại được dùng để biểu hiện hi vọng về một điều

sẽ xảy ra theo chiều hướng tốt. Ở câu này thì việc còn vài người mua là có thể

xảy ra.

Các ví dụ (30), (31), (32) đều nghiêng về sắc thái đánh giá tích cực.

Ngược lại khi đánh giá về tính tiêu cực, các phát ngôn thường xuất hiện

phương tiện như: bị, phải...

Ví dụ:

(33) A Phủ bị bắt sống trói gô chân tay lại.

(Vợ chồng A Phủ - tr.10)

Bị là từ biểu thị chủ thể chịu sự tác động của việc không hay hoặc là đối

tượng của động tác, hành vi không thuận lợi đối với mình. Với ý nghĩa đó trong

ví dụ (33) từ bị chỉ sự không may, nghĩa là theo ý người nói thì chủ thể trong

phát ngôn trên thật bất hạnh khi sự tình xảy ra. Nói một cách khác là người nói

đã thể hiện sự đánh giá tiêu cực đối với việc A Phủ bị lũ bạn của A Sử đuổi

đánh và bắt được.

Như vậy có thể thấy:

Để đánh giá về tính tích cực các phát ngôn thường hay sử dụng các

phương tiện như: may, may mà, may ra, được,...

Để đánh giá về tính tiêu cực, các phát ngôn thường sử dụng các phương

tiện như: bị, phải, nhỡ ra...

2.2.3.2. Cặp sắc thái đánh giá về tính hợp lí hay không hợp lí

Sắc thái đánh giá này biểu hiện ở chỗ người nói cho rằng sự thể được nói

tới trong câu nên hay không nên tồn tại.

Ví dụ:

(34) Ai đời lại còn đi lấy chồng.

57

(Chí Phèo - tr.152)

Đây là lời bà cô nói với thị Nở, khi bà nghe cháu gái của mình hỏi ý kiến

về việc kết duyên với Chí Phèo. Theo bà, thị Nở đã ngoài ba mươi tuổi, ở cái tuổi

ấy chẳng ai còn đi lấy chồng. Hơn nữa người mà thị Nở định lấy là một thằng

không cha, không mẹ, không thước đất cắm dùi. Vì vậy theo suy nghĩ của bà cô

thì khi đã ba mươi tuổi, thị Nở không nên lấy chồng vì chẳng ai làm như thế

bao giờ.

(35) A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng nhẽ làng xử mày tội chết,

nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ.

(Vợ chồng A Phủ - tr.12)

Đây là câu nói của thống lí Pá Tra nói với A Phủ trong cuộc xử kiện tại

nhà thống lí vì A Phủ dám đánh con quan làng. Theo lẽ thường, khi A Phủ đánh

người thì anh sẽ bị làng xử tội chết. Nhưng làng đã tha cho A Phủ được sống để

nộp vạ. Khi sử dụng đáng nhẽ trong câu, người nói thể hiện sự đánh giá rằng

điều được nói đến trong câu đã xảy ra ngược lại với thực tế thông thường. Ở

trong câu này, theo chủ quan của người nói việc A Phủ bị xử tội chết mới là

đúng, là nên xảy ra.

2.2.3.3. Sắc thái đánh giá về ưu thế

Đánh giá về ưu thế là sự đánh giá rằng dù đều không hay nhưng điều A

còn tốt hơn, có ưu thế hơn điều B, bằng chứng là người nói vẫn sẵn sàng chấp

nhận điều A thay cho điều B.

Ví dụ:

(36) Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chắc rồi mặc thây cha nó, nó có

chửi thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe!

(Chí Phèo - tr.147)

Thôi thì dùng để mở đầu một lời kết thúc sự cân nhắc, bàn bạc, biểu thị

điều sắp nói ra là cách giải quyết sự việc mà cuối cùng thấy là đành phải chấp

nhận vì không còn cách nào khác. Khi sử dụng tổ hợp từ thôi thì trong ví dụ

58

(36) người nói cho thấy trong hoàn cảnh: Bá Kiến không có nhà, nhà lại toàn

đàn bà mà Chí Phèo đến trong trạng thái say rượu, tay lại nhăm nhăm cái vỏ

chai thì việc đóng cổng cho thật chắc rồi mặc thây cha nó, nó chửi thì tai liền

miệng đấy, chửi rồi lại nghe của các bà vợ Bá Kiến là một lựa chọn đúng.

Tương tự như thôi thì, thà biểu thị điều sắp nêu ra biết rõ là không hay

nhưng sẵn sàng chấp nhận chỉ để tránh một điều khác.

Ví dụ:

(37) Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng.

(Chí Phèo - tr.153)

Ở phần cuối truyện ngắn Chí Phèo, khi hi vọng trở về với cuộc đời lương

thiện bị dập tắt, Chí Phèo một lần nữa tìm đến nhà Bá Kiến. Lúc này bá Kiến

vừa đang hơi nhức đầu vừa phải chịu nỗi bức xúc, dằn vặt, ghen tuông. Ngay

khi thấy sự xuất hiện của kẻ chuyên gây khó chịu, Bá Kiến đã lập tức đặt lên

bàn cân hai thứ: mất tiền và chịu thêm nỗi quấy rầy rồi nhanh chóng quyết định

chịu mất tiền còn tốt hơn chịu quấy rầy.

2.2.3.4. Sắc thái đánh giá về tính bất ngờ, bất thường

Đánh giá về tính bất ngờ, bất thường nhằm biểu thị rằng điều nói tới

trong câu nằm ngoài dự tính của người nói hoặc khác với thường lệ. Ví dụ:

(38) Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình

trên đầu ông ta mà lại to đến như thế.

(Hạnh phúc của một tang gia- tr.124)

Sử dụng mà lại...như thế trong câu thể hiện sự đánh giá về tính bất

thường của sự tình: ông Phán là người trong cuộc, bị cô Hoàng Hôn cắm sừng.

Nhưng ông Phán cũng không ngờ rằng mình lại được cụ cố Hồng hứa sẽ chia

thêm một số tiền là vài nghìn đồng nhờ vào cái sừng vô hình trên đầu. Như vậy,

ngay từ đầu ông Phán không biết mình sẽ thu được một số tiền từ chuyện ngoại

tình của vợ. Điều này tạo nên sự bất thường. Hay một ví dụ khác:

(39) Nói thế Tràng cũng tưởng nói đùa, ai ngờ thị về thật

59

(Vợ nhặt - tr.27)

Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên trong truyện ngắn Vợ

nhặt diễn ra thật chóng vánh, chỉ qua hai lần gặp gỡ.

Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ

mệt Muốn ăn cơm trắng mấy giò/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì. Nghe vậy,

thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha

sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái tình tứ với mình như vậy.

Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì

thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra

rồi, trong lời đáp ăn gì thì ăn, chả ăn giầu Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh

đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng

vực thẳm của cái chết, hành động thết đãi bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng

Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của

Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc.

Trong ví dụ (39) quán ngữ ai ngờ thể hiện sự việc xảy ra là bất ngờ với

Tràng. Để đánh giá về điều sắp nêu ra là điều bỗng nhiên nhận thức được, có

phần bất ngờ khác với nhận thức, ý nghĩ trước đó, người nói có thể sử dụng các

tổ hợp từ như: té ra, hóa ra, thế ra.

Ví dụ:

(40): Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống.

(Cha con nghĩa nặng - tr.165)

Đoạn trích Cha con nghĩa nặng kể lại sự việc thằng Tí chạy theo cha và

hai cha con gặp nhau trên cầu Mê Tức. Tình cha con của anh Sửu và thằng Tí

được thể hiện sâu sắc và cảm động trong màn gặp gỡ. Trần Văn Sửu đã 11 năm

biệt tích. Cuộc gặp gỡ với cha vợ và các con lần này không khiến anh quá bất

ngờ. Nó được nung nấu trong ân hận và nhớ thương. Anh đã chủ động tìm về.

Được cha vợ cho biết hai đứa con anh đã được bà hương quản Tồn thương: một

lấy làm con dâu, một chuẩn bị dựng vợ cho, Trần Văn Sửu vô cùng sung

60

sướng, mãn nguyện. Người cha trong anh chỉ khát mong có thế. Sửu chấp nhận

: Phải chịu đau đớn, cực khổ, buồn sầu, miễn là con được sung sướng. Nhưng

với Tí, sự trở về của cha là một bất ngờ lớn. Vì Tí cứ nghĩ cha đã chết từ lâu

rồi. Bất ngờ hơn, Tí đã nghe được câu chuyện giữa cha và ông ngoại. Tí đã hiểu

tình cảm của cha nó. Nó càng thương, càng quý trọng cha. Cho nên khi cha nó

nghe lời ông ngoại bỏ đi luôn, Tí đã chạy đuổi theo. Mãi tới cầu Mê Tức, nó

mới gặp cha.

Có 9 phương tiện tham gia biểu thị sắc thái đánh giá về tính bất ngờ, bất

thường. Trong đó, các phương tiện tham gia chủ yếu là các tổ hợp từ như: ai

ngờ, hóa ra, té ra, thế ra... Bên cạnh đó là các cặp từ: đã không...mà lại, mà

lại...đến như thế và phó từ: chợt, bỗng.

2.3.3.5. Sắc thái đánh giá về tầm quan trọng của thông tin (nhấn mạnh

thông tin)

Đánh giá về tầm quan trọng của thông tin là sự nhấn mạnh nêu bật thông tin

quan trọng đáng chú ý trong văn bản để hướng dẫn người nghe phân bổ sự chú

ý của mình một cách thích hợp và xử lí chúng chính xác.

Ví dụ :

(41) Dạ bẩm chính y đó. (Chữ người tử tù - tr.112)

Đây là lời của thầy thơ lại nói với viên quản ngục khi ông này còn đang

băn khoăn: Huấn cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái viết

chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?.

Khi nói: Dạ bẩm chính y đó là xác định, khẳng định dứt khoát, đồng

nhất cái đối tượng đang cần xác định trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể với

cái đối tượng được nêu ra ở trong câu là: người viết chữ rất nhanh, rất đẹp là y

chứ không phải ai khác. Theo dõi các ví dụ dưới đây chúng ta cũng thấy có ý

nghĩa tương tự như vậy:

Ví dụ:

(42) Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết.

61

( Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy - tr.41)

(43) Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó.

( Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy - tr.41)

(44) Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không "thơ đời

Đường" nhàn hạ, mà thấy nó chính là cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành

sự sống từ tay nó về tay mình.

(Người lái đò sông Đà - tr.187)

Các phương tiện tham gia biểu thị sắc thái đánh giá nhấn mạnh thông tin có

mặt ở vị trí đầu, giữa, cuối câu và chủ yếu là từ, phần lớn thuộc từ loại trợ từ:

chính, thật, đấy, quả. Ngoài ra có một cặp từ được sử dụng là: chỉ...duy nhất.

Qua phân tích trên các tư liệu đã khảo sát được, có thể nhận thấy: khi

nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin, người nói biểu hiện những suy nghĩ,

thái độ như sau:

- Nhấn mạnh vào tính chân thực của sự tình trong câu.

- Người nói có cơ sở để khẳng định chắc chắn như vậy, dựa trên sự suy

nghĩ, quan sát, chiêm nghiệm... của bản thân.

2.2.3.6. Đặc điểm các phương tiện biểu thị nhóm sắc thái đánh giá về chất

- Về số lượng: có 32 phương tiện tham gia biểu thị nhóm sắc thái đánh

về chất.

- Về vị trí: các phương tiện biểu đạt sắc thái đánh giá về chất xuất hiện ở

ba vị trí: đầu, giữa và cuối câu.

Các phương tiện ở vị trí đầu câu như: được, ai đời, thà, thôi thì...

Các phương tiện ở vị trí giữa câu như: sinh nghi, may mà, may ra, bị...

Phương tiện ở vị trí cuối câu là tính từ: chán.

- Về cấu tạo: Các phương tiện có cấu tạo là từ, tổ hợp từ, cặp từ/cặp tổ

hợp từ. Cụ thể

Từ: động từ: bị, trở thành, phải, được, sinh nghi; tính từ: may, chán, thật;

phó từ: cái, chợt, bỗng; trợ từ: chính, được, đấy, quả; kết từ: thà, nhỡ.

Tổ hợp từ: may mà, may ra, ai đời, đáng nhẽ, thôi thì, nhỡ ra, té ra,ai

62

ngờ, hóa ra, thì ra, thế ra.

Cặp từ/cặp tổ hợp từ: giá...thì, mà lại...đến như thế, đã...lại, chưa...thì.

2.3. Tiểu kết

Về phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá, luận văn thống kê có

69 phương tiện và được sử dụng trong 295 câu.

Xét theo vị trí trong câu thì vị trí giữa câu có số lần sử dụng cao nhất

(chiếm 81,4%). Kế đến là vị trí đầu đầu câu (chiếm 11,9%), tiếp theo là vị trí

cuối câu (chiếm 4,4%), vị trí giữa và cuối câu (chiếm 1,4%). Cuối cùng là vị trí

đầu và giữa câu (chiếm 0,9%).

Xét đặc điểm cấu tạo: các phương tiện biểu thị NTTĐG trong truyện và

kí có kiểu cấu tạo là: từ, tổ hợp từ, cặp từ. Trong đó phương tiện có kiểu cấu tạo

là từ phổ biến nhất: chiếm 48%. Thứ đến là tổ hợp từ: chiếm 29%. Còn kiểu

cấu tạo cặp từ/cặp tổ hợp từ là ít nhất: chiếm 23%.

Phương tiện có cấu tạo là từ trong các đoạn trích, tác phẩm thuộc 5 từ

loại: động từ, tính từ, trợ từ, phó từ, kết từ. Trong đó trợ từ được sử dụng phổ

biến hơn cả. Những kết quả khảo sát này có thể đem tới một gợi ý rằng: để biểu

thị NTTĐG, nên sử dụng phương tiện chủ yếu là từ, đặc biệt là trợ từ, với vị trí

cơ bản là giữa câu.

Về phương diện sắc thái ý nghĩa, nhóm NTTĐG về lượng chiếm: 60,3%,

nhóm NTTĐG về chất chiếm 39,7%.

Mỗi nhóm sắc thái nghĩa đánh giá đều có sự khác biệt về ngữ nghĩa và

các phương tiện biểu thị. Phần nghiên cứu về các sắc thái của NTTĐG và các

phương tiện biểu thị mỗi sắc thái đó có thể giúp nâng cao khả năng nhận diện mỗi

sắc thái của NTTĐG trong các tác phẩm truyện, kí và gợi ý về cách tạo ra chúng.

Tóm lại, chương 2 vừa giúp hiểu rõ hơn về NTTĐG vừa giúp người dạy,

người học nâng cao kĩ năng đọc hiểu các văn bản truyện kí ở trường THPT.

Đồng thời những kết quả ở đây cũng là cơ sở để chúng tôi tiến hành chương 3-

phân tích những ứng dụng của NTTĐG vào việc dạy học Văn học, Tiếng Việt

63

và giáo dục văn hóa cho học sinh THPT.

Chƣơng 3

VẬN DỤNG NGHĨA TÌNH THÁI ĐÁNH GIÁ VÀO VIỆC DẠY

HỌC NGỮ VĂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

3.1. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện và kí vào

việc dạy học Văn học ở trƣờng trung học phổ thông

Trong tác phẩm văn học, xây dựng nhân vật là vấn đề quan trọng mà nhà

văn quan tâm. Nhân vật trong tác phẩm không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của

tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị của tác phẩm. Thành bại của một

đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy những câu văn mang NTTĐG đã có

những đóng góp nhất định trong việc xây dựng nhân vật, thể hiện chủ đề và bộc

lộ các giá trị của tác phẩm. Qua việc tìm hiểu các nhân vật: Liên, bá Kiến, Mị

trong ba tác phẩm tiêu biểu cho ba khuynh hướng văn học: lãng mạn, hiện thực

phê phán và hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể thấy rõ điều đó.

Một trong những đại diện tiêu biểu của khuynh hướng văn học lãng mạn

phải kể đến Thạch Lam với tác phẩm Hai đứa trẻ.

Qua việc tái hiện không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước Cách

mạng tháng Tám năm 1945 và đời sống khó khăn của những người dân nơi

này, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn của

nhân vật Liên - một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát

khao thầm kín.

Trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện, Liên trông thấy:

những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa còn

sót lại sau khi đã vãn chợ chiều. Khoảnh khắc ấy, trong lòng Liên trào dâng

một niềm xót thương vô hạn với lũ trẻ và với chính mình trong cuộc sống khốn

64

khó này:

(1) Liên thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền mà

cho chúng.

(Hai đứa trẻ - tr.96)

Với việc sử dụng chính trong câu (1), ngoài sự nhấn mạnh đến chủ thể

của hành động thương là nhân vật vật Liên thì nó còn cho thấy Liên có cảnh

ngộ cũng giống như những đứa trẻ đó, bởi chị cũng đang từng ngày, từng giờ

phải đối mặt với những lo toan, vất vả của cuộc sống. Như vậy, sự tham gia của

trợ từ chính trong câu cho ta hiểu sâu sắc hơn về nhân vật: Liên là một đứa trẻ có

tấm lòng nhân hậu, chị đã để trái tim mình hòa chung nhịp đập với những con

người ở phố huyện. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh của nó vào

tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Nhưng Liên chỉ có tình yêu thương, trái

tim bé bỏng và tâm hồn non nớt đầy yêu thương ấy đâu có thể làm gì giúp những

đứa bé nghèo khổ và cũng chưa thể thay đổi gì cuộc sống của chính mình. Tâm

hồn nhạy cảm ấy trĩu nặng những nỗi đau, nỗi lo, niềm thương với con người và

cuộc đời,

Sống trong phố huyện tăm tối với những ánh đèn dầu le lói buồn tẻ, Liên

luôn hướng đến những niềm vui nho nhỏ của tuổi thơ. Đó là những đêm hè

cùng em ngồi trước hiên nhà lặng ngắm phố huyện chìm trong bóng tối, Liên

lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông

Thần Nông. Nhưng điều đó diễn ra không lâu:

(2) Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ

và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng

sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí

(Hai đứa trẻ - tr.98)

(3) Liên chỉ thoáng thấy những toa hạng sang trên sang trọng lố nhố

những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

(Hai đứa trẻ - tr.100)

NTTĐG về lượng thông qua từ chỉ thể hiện sự đánh giá về sự nhỏ bé, ít

65

ỏi, hạn chế của điều được nói tới:

Ở câu (2), Từ chỉ cho thấy mức độ ít ỏi của giây phút mà Liên thả hồn

mình theo bầu trời bao la để đêm tối và những vì sao xoa dịu nỗi buồn trong

tâm hồn mình. Có lẽ chị thấy lòng mình cũng bớt trĩu nặng hơn khi ánh sáng

của vòm trời hàng ngàn vì sao ganh nhau lấp lánh và vệt sáng của con đom

đóm đã soi vào mắt Liên một chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao.

Nhưng niềm an ủi đó thật nhỏ bé và ít ỏi bởi sau phút giây ấy Liên lại phải đối

với mặt với thực tại buồn tẻ, với quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn

dầu leo lét lay động trên chõng hàng của chị Tí.

Ngắm nhìn những ngôi sao xa xôi lấp lánh như ước mơ xa vời khó nắm

bắt, Liên lại nhớ về Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo với

ánh sáng rực rỡ của tháng ngày quá khứ êm đềm và tràn đầy hạnh phúc. Ước

mơ thầm kín và những khát khao cháy bỏng ấy đã được Liên gửi gắm trong

những chuyến tàu sáng trưng, huyên náo từ Hà Nội về. Nhưng tất cả như ánh

chớp của hồi ức chỉ thoáng qua cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để Liên có

thể trở lại với miền kí ức đẹp đẽ ấy chỉ trong phút giây ngắn ngủi. Rồi khi đoàn

tàu đã đi khỏi phố huyện, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh của Liên lại

chìm vào bóng tối như rơi vào vô vọng.

Như vậy, các phương tiện biểu thị NTTĐG đã góp một phần không nhỏ

vào việc khắc họa hình tượng nhân vật. Qua đây, chúng ta nhận thấy Liên là

một cô bé sống trong nghèo khổ, với những nỗi buồn thương trĩu nặng tâm hồn

đã không chỉ biết yêu thương, cảm thông cho những kiếp người nghèo khổ nơi

phố huyện mà còn là người biết ước mơ, biết hướng tới cuộc sống ở tương lai.

Nhưng điều quan trong hơn cả là qua nhân vật Liên, chúng ta thấy rõ tinh thần

lãng mạn của Hai đứa trẻ. Trong cái bóng tối nhập nhòa của đời sống phố

huyện vẫn hiện diện một tâm hồn biết sống. Liên vừa hòa vào khối người trong

bóng tối, vừa tách ra như một điểm nhìn đầy ý thức của cái tôi. Liên đã nhìn

vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra thứ hào quang cao rộng, xa xôi của kiếp

66

người. Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ, đơn điệu, tẻ nhạt

nhưng tâm hồn nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống dù

chỉ một lát, chỉ thoáng thấy.

Bằng một truyện ngắn dường như không có cốt truyện, Thạch Lam đã

thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp

sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối nơi phố huyện trước cách mạng tháng Tám.

Qua đó, tác giả bộc lộ sự cảm thông trân trọng ước mơ đổi đời tuy còn mơ hồ

của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm

Đến với văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, Nam Cao được đánh

giá là nhà văn hiện thực xuất sắc nhất. Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao đã

khắc hoạ thành công nhiều kiểu nhân vật với những tính cách điển hình. Có thể

dễ dàng nhận ra bá Kiến là một nhân vật như vậy. Đây là một nhân vật được

nhà văn dụng công miêu tả rất kĩ lưỡng không bằng ngoại hình mà bằng cách

nói năng và hành động. Đặc biệt là trong cách hành xử của hắn với Chí Phèo.

Khi biết Chí Phèo say rượu rồi rạch mặt ăn vạ, hắn đã hiểu ngay cơ sự:

(4) Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi.

(Chí Phèo - tr.148)

NTTĐG sự việc xảy ra nhanh biểu thị qua cặp thoáng... đã trong câu

cho biết Bá Kiến rất tỉnh táo trước những tình huống hỗn loạn như thế này. Vào

lúc đó, bá Kiến đã nhanh chóng tìm được kế sách phù hợp để đối phó với Chí

Phèo. Đầu tiên là hắn đuổi các mụ vợ vào nhà: Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ

lôi thôi biết gì! Rồi dịu giọng với những người trong làng: Cả các ông các bà

nữa, về đi thôi chứ. Khi đám đông được giải tán, còn trơ lại Chí Phèo

(5) Bây giờ cụ mới lại gần hắn khẽ lay mà gọi

(Chí Phèo - tr.148)

Trợ từ mới bộc lộ sắc thái đánh giá thời gian là muộn. Nhưng trong tình

huống này, tính chất muộn về mặt thời gian còn nói lên một điều: bá Kiến rất bình

tĩnh, rất bản lĩnh trong việc xử lí những chuyện không hay xảy ra với mình.

Sau đó hắn bắt đầu giả giọng đường mật vồn vã mời Chí vào nhà uống

67

nước: A, anh Chí, về rồi đấy à? Sao không đến tôi chơi?. Hãy đứng dậy vào

nhà uống chén nước cho ấm bụng..., rồi quay lại nháy mắt với lí Cường trước khi

mắng con là vô lễ với anh Chí. bá Kiến đưa Chí vào nhà và kể từ sau lần ấy, Chí

đã trở thành tay sai đắc lực cho bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Qua đó, chúng ta nhận ra bản chất gian hùng, xảo quyệt của con cáo già

này. Bên trong sự ngọt ngào của y là những thủ đoạn ma mãnh và một lòng dạ

lang sói. Một Chí Phèo cho dù có gan rạch mặt, la làng; cho dù có liều lĩnh đến

mấy cũng không thể có đủ sắc sảo để nhận ra ẩn ý thâm độc phía sau thái độ

của lão Bá.

Khi hi vọng trở về với cuộc đời lương thiện bị dập tắt, Chí Phèo một lần

nữa tìm đến nhà Bá Kiến. Lúc này bá Kiến vừa đang hơi nhức đầu vừa phải

chịu nỗi bức xúc dằn vặt ghen tuông. Tình huống đó được tác giả nhận định:

những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được.

Ngay khi thấy sự xuất hiện của kẻ chuyên gây khó chịu, bá Kiến đã lập tức đặt

lên bàn cân hai thứ: mất tiền và chịu thêm nỗi quấy rầy rồi nhanh chóng quyết

định chịu mất tiền còn tốt hơn chịu quấy rầy.

(6) Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng.

(Chí Phèo - tr.153)

NTTĐG về ưu thế này bộc lộ rõ qua từ thà. Như vậy, bá Kiến vẫn rất tỉnh

táo và không ngừng suy nghĩ. NTT trong câu qua các phương tiện: thoáng...đã,

mới, thà đã góp phần dựng lên một bá Kiến gian hùng, nham hiểm và khôn

ngoan, một bá Kiến vừa điển hình cho giai cấp địa chủ cường hào vừa có cá tính

độc đáo. Qua nhân vật bá Kiến, chúng ta thấy được trình độ xây dựng nhân vật

điển hình bậc thầy của Nam Cao. Đồng thời, nhà văn đã góp phần hoàn thiện chủ

đề và giá trị hiện thực của tác phẩm: căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát,

phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương

trân trọng con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp. Đây cũng là

68

cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945.

Ở khuynh hướng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, các nhà văn lại đặc

biệt chú ý đến thân phận người lao động. Một trong những nhân vật tiêu biểu

của khuynh hướng văn học này là Mị của Tô Hoài.

Mị vốn là một cô gái đẹp người, đẹp nết. Không những vậy, cô còn cần

cù, đảm đang, hiếu thảo, ham sống, giàu lòng yêu đời và rất mực tài hoa. Tiếng

sáo của Mị đã có sức lôi cuốn hấp dẫn đặc biệt đối với bao chàng trai Mèo.

(7) Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.

(Vợ chồng A Phủ - tr.7)

Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình yêu

đã không đến với cô gái nghèo khổ này. Mị mang bi kịch của một cô gái có

niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bị

dồn vào bước đường cùng không lối thoát. Chỉ vì món nợ truyền kiếp (ngày

trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ

cô chết, vẫn chưa trả được nợ) nên Mị phải đem thân làm dâu trừ nợ. Đã có lúc

Mị nghĩ đến cái chết nhưng:

(8) Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa.

(Vợ chồng A Phủ - tr.6)

Khi sử dụng trong hai câu trên, cụm từ biết bao, bao nhiêu...nữa, người

nói thể hiện sự đánh giá về lượng là nhiều của điều được nói tới trong câu: số

người say mê tiếng sáo của Mị (câu 7) và nỗi khổ của cha Mị (câu 8). Nhưng

xét trong ngữ cảnh của văn bản và tình huống giao tiếp trong tác phẩm, biết

bao còn nhấn mạnh đến vẻ đẹp, tài năng và sức hấp dẫn của Mị và biết bao

...nữa nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của Mị đối với cha.

Vì thương cha nên Mị đành phải quay về chấp nhận cuộc đời làm nô lệ.

Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền

núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí không bằng con vật.

(9) Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại

những việc giống nhau...

69

(Vợ chồng A Phủ - tr.6)

Bị giam hãm đày đoạ trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống

lý, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau. Bản thân từ chỉ thể hiện sự

nhấn mạnh của người nói về mức độ được coi là ít, là hạn chế của điều được

nói tới. Nhớ đi nhớ lại là sự lặp lại về số lượng của hành động nhớ nhưng chất

lượng của hành động không thay đổi. Sự kết hợp của chỉ và nhớ đi nhớ lại

trong trong câu (9) cho thấy sự đánh giá về mức độ của người nói đối với sự

việc được nói tới trong câu là ít. Nhưng đặt trong hoàn cảnh làm dâu của Mị thì

nó lại có sức tố cáo ghê gớm đối với xã hội phong kiến miền núi và khắc sâu

thêm hình ảnh Mị - người đàn bà nô lệ trong nhà thống lí. Sống ở đó ý chí của

Mị bị mài mòn, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã

mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một

vòng tròn nặng nề không lối thoát.

Khi sống ở nhà thống lí, Mị không chỉ triền miên trong những công việc

nặng nhọc mà còn thường xuyên phải chịu đựng sự hành hạ của cha con thống

lí. Mị cảm thấy:

(10) Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân,

đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày.

(Vợ chồng A Phủ - tr.6)

Nếu trợ từ chỉ biểu thị sự hạn chế thì cả nhấn mạnh về mức độ cao, phạm

vi không hạn chế của sự việc. Trong câu (10) sử dụng cặp trợ từ: cả...cả nhấn

mạnh đến nỗi vất vả cực nhọc của Mị cũng như tất cả những người con gái

sống trong nhà thống lí. Sự vất vả của con người trong gia đình ấy còn đáng sợ

hơn cả kiếp con vật. Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự

phản ánh chân thật cuộc sống, thì hình ảnh Mị là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi

thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong

kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền.

Có thể nhận thấy: các phương tiện biểu thị sắc thái đánh giá về lượng đã

góp phần làm sống lại hình ảnh người phụ nữ miền núi Tây Bắc dưới ách áp

70

bức bóc lột của thế lực thực dân phong kiến. Đồng thời là tiếng nói tố cáo chế

độ phong kiến miền núi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa

của niềm vui sống trong con người.

Tóm lại, các phương tiện và sắc thái NTTĐG đã góp phần đáng kể vào

việc xây dựng nhân vật. Sự quan sát tinh tế và tài năng sáng tạo trong nghệ

thuật sử dụng ngôn ngữ đã giúp các nhà văn tạo nên hình tượng nhân vật mang

đặc trưng thời đại. Các nhân vật ấy thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội,

họ có giới tính, độ tuổi và môi trường sống khác nhau. Đó là Liên - một cô bé

mới lớn giàu lòng yêu thương nhưng phải sống ở một phố huyện nghèo. Đó là

Mị - một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giàu khát vọng sống nhưng phải chịu sự đọa

đày, áp chế của thần quyền, cường quyền miền núi. Và đó còn là bá Kiến – một

đại diện tiêu biểu cho tầng lớp thống trị trong xã hội thực dân phong kiến.

Qua các câu có NTTĐG, người đọc có được ấn tượng sâu sắc về các

nhân vật. Đồng thời qua sự đánh giá liên quan đến mỗi nhân vật, người đọc còn

thấy được hiện thực cuộc sống ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử, thấy

được chủ đề, giá trị của tác phẩm.

3.2. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện, kí vào

việc dạy học tiếng Việt

Lí thuyết về câu qua bài Nghĩa của câu ở sách giáo khoa Ngữ văn 11

nhằm cung cấp cho học sinh nhận biết được câu có hai thành phần của nghĩa

tường minh: nghĩa sự việc, NTT.

Nghĩa sự việc của câu là thành phần nghĩa ứng với sự việc mà câu đề cập

đến. Sự việc trong hiện thực khách quan rất đa dạng, thuộc nhiều loại khác

nhau, nên nghĩa của câu cũng gồm nhiều loại: hành động, trạng thái, tính chất,

đặc điểm, quá trình, tồn tại, quan hệ.

NTT rất phức tạp, gồm nhiều khía cạnh. Trong bài học chỉ đề cập đến

NTTCQ. Đó là: sự nhìn nhận, đánh giá, thái độ của người nói (người viết) đối

với sự việc được đề cập đến trong câu như: khẳng định tính chân thực, phỏng

71

đoán sự việc, đánh giá về mức độ hay số lượng…và tình cảm, thái độ của người

nói (người viết) đối với người nghe (người đọc) như: tình cảm thân mật gần

gũi, thái độ bực tức, hách dịch, thái độ kính cẩn…

Đối với nghĩa sự việc, học sinh dễ dàng nắm bắt được khi dựa vào các

thành phần tham gia biểu hiện: chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ và một số

thành phần phụ khác. Còn NTT là thành phần khó và phức tạp. Học sinh nhận

diện NTT còn gặp nhiều khó khăn. Kết quả khảo sát của luận văn có thể đem

lại những đóng góp nhất định cho việc dạy bài Nghĩa của câu ở cả hai phần: lí

thuyết và luyện tập.

3.2.1. Đối với việc dạy lí thuyết nghĩa của câu

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo thiết thực cho

giáo viên và học sinh về khái niệm, sự phân loại NTT nói chung và NTĐG nói

riêng trong tiếng Việt. Đồng thời luận văn cũng góp phần cung cấp hệ thống

ngữ liệu để người giáo viên có thể hướng dẫn học sinh phân tích, minh họa,

tổng hợp, khái quát hóa, hình thành nên tri thức về NTT.

3.2.2. Đối với việc dạy luyện tập nghĩa của câu

Dạy học tiếng Việt, đặc biệt là dạy về nghĩa của câu không thể thiếu luyện

tập. Qua luyện tập, học sinh được khắc sâu thêm kiến thức lí thuyết về nghĩa của

câu; trực tiếp vận dụng lí thuyết nghĩa của câu vào hoạt động giao tiếp; giúp học

sinh rèn luyện các thao tác tư duy, phát triển được năng lực trí tuệ, có khả năng

xử lí tốt các tình huống ngôn ngữ gặp phải trong hoạt động giao tiếp.

Kết quả khảo sát của luận văn đã có những đóng góp thiết thực cho việc

luyện tập về nghĩa của câu. Các câu chứa NTTĐG trong các tác phẩm truyện,

kí là nguồn ngữ liệu phong phú cần thiết để người giáo viên có thể xây dựng

các dạng bài tập phần nào giúp học sinh củng cố lí thuyết về NTT và hình

thành năng lực tiếp nhận, sử dụng tiếng Việt.

a. Nhóm bài tập củng cố lí thuyết:

Đây là những bài tập mà ở đó có cho sẵn một ngữ liệu và yêu cầu phân

tích, nhận diện, phân loại NTT ở trong câu. Loại bài tập này có mục đích làm sáng

72

tỏ và củng cố, phát triển khái niệm NTT đã được tiếp thu từ bài học lí thuyết.

Bài tập 1: Những từ ngữ nào được coi là phương tiện thể hiện nghĩa tình

thái trong các câu sau? Vì sao anh/ chị khẳng định như vậy?

- Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống - đường sắt đi ngang qua

ngay trước phố - để bán hàng, may ra còn có vài người mua.

(Thạch Lam, Hai đứa trẻ)

- A Phủ bị bắt sống trói gô chân tay lại.

(Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ)

- Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng...

(Kim Lân, Vợ nhặt)

- Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi xềnh xệch đi.

(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)

- Thiếu những mười tám thằng kia à?

(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)

- Mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỉ lúc đúng

ngọ mới có mặt trời.

(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà)

- Tháng trước tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế...

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ai đã đặt tên cho dòng sông)

- Ngô biện chè lá những mười đồng.

(Truyện cười, Nhưng nó phải bằng hai mày)

- Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết.

(Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy)

- Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong.

(Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy)

Bài tập 2: Những từ ngữ in đậm trong các câu sau đây biểu thị ý nghĩa

gì?

- Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống.

73

(Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng)

- Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời.

(Nguyễn Tuân, Chữ người tử tù)

- A Phủ mới mười tuổi.

(Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ)

- Bá Kiến chỉ kịp kêu lên một tiếng. (Nam Cao, Chí Phèo)

- Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không "thơ đời Đường"

nhàn hạ, mà thấy nó chính là cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống

từ tay nó về tay mình.

(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà)

b. Nhóm bài tập rèn luyện kĩ năng tiếp nhận

Mục đích của nhóm bài tập này là giúp học sinh biết vận dụng kiến thức

đã học vào việc phân tích, bình giá, giải thích một hiện tượng ngôn ngữ cụ thể

Bài tập 3: Hãy phân tích sự khác biệt về ý nghĩa ở mỗi cặp câu dưới đây.

Chỉ rõ phương tiện tạo nên sự khác biệt đó.

a1. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền cổ điển Huế đã được sinh thành trên

mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước

rơi bán âm của những mái chèo khuya.

a2. Như vậy, toàn bộ nền cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước

của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán

âm của những mái chèo khuya.

b1. Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết.

b2. Điều đó cụ già đã báo cho ta biết.

Bài tập 4: Hãy phân tích giá trị của nghĩa tình thái trong các câu dưới

đây.

- Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong.

( Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy)

- Ngô biện chè lá những mười đồng.

74

(Truyện cười, Nhưng nó phải bằng hai mày)

- Tháng trước tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ai đã đặt tên cho dòng sông)

- Mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỉ lúc đúng

ngọ mới có mặt trời.

(Nguyên Tuân, Người lái đò sông Đà)

c. Nhóm bài tập rèn luyện kĩ năng tạo lập

Bài tập tạo lập là loại bài tập yêu cầu học sinh tự mình tạo nên (nói hoặc

viết) sản phẩm ngôn ngữ theo một yêu cầu nào đó. Việc thực hiện bài tập này

gắn với những hoạt động nói và viết hàng ngày của học sinh nhưng vẫn ở dạng

luyện tập theo yêu cầu. Đối với học sinh THPT, giáo viên có thể luyện tập tạo

lập câu hoặc tạo lập văn bản. Các bài tập tạo lập có thể ở hai mức độ nửa sáng

tạo và sáng tạo. Bài tập nửa sáng tạo có thể thuộc các dạng như điền từ, viết

tiếp câu, sáng tạo theo mẫu.

Bài tập 5: Chọn từ ngữ tình thái ở cột B điền vào chỗ trống của câu ở

cột A để tạo nên câu có nghĩa tình thái phù hợp với sự việc.

STT A B

Hắn vẫn/..../ dọa nạt hay là cướp giật. chính 1 (Nam Cao, Chí Phèo)

hay Liên trông thấy động lòng thương nhưng /.../ chị cũng

không có tiền cho chúng. 2

(Thạch Lam, Hai đứa trẻ) phải

Có/.../ người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. 3 (Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ) biết bao

Tnú học chậm hơn, mà lại /.../ nổi nóng. 4 (Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu) ai đời

75

/.../ lại còn đi lấy chồng 5 (Nam Cao, Chí Phèo) được

Bài tập 6: Viết tiếp các câu sau để tạo câu có cặp từ biểu thị nghĩa tình thái:

a. Từ nhở tôi đã là một đứa con gái xấu, lại ...

b. Tuy ta tranh được quyền độc lập đã 5 tháng song các nước chưa ...

c. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã ...

đ. Chị càng chiều con, con chị càng...

e. Cụ bà sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại ...

Bài tập 7: Đặt câu với các tổ hợp từ tình thái sau: chưa biết chừng, là

cùng, ít ra, hóa ra, sự thật là, đặt biệt là, đấy mà, ai ngờ.

Bài tập 8: Viết một đoạn văn về chủ đề mùa hè trong đó có sử dụng các

phương tiện biểu thị nghĩa tình thái. Gạch chân dưới các phương tiện đó:

Thông qua các dạng bài tập tiếng Việt, giáo viên có thể kiểm tra kết quả

hoạt động dạy của mình, học sinh củng cố được những tri thức tiếng Việt vừa

tiếp nhận và nắm vững các kĩ năng tiếp nhận và sử dụng.

3.3. Vận dụng nghĩa tình thái đánh giá trong các văn bản truyện và kí vào

việc giáo dục văn hóa cho học sinh trung học phổ thông

Ngôn ngữ là chất liệu quan trọng làm nên tác phẩm văn học và phân biệt

nó với các loại hình nghệ thuật khác như kiến trúc, hội họa, âm nhạc... Từ mã

ngôn ngữ, người đọc không chỉ hiểu được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm mà còn khám phá và hiểu về văn hóa. Tính văn hóa trong tác phẩm văn học

được hiện lên qua lối nói, cách nói, hệ thống từ ngữ tưởng chừng giản dị mà lại

hàm chứa nhiều ý nghĩa. Văn học và văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau

cho nên giảng dạy văn hóa qua văn học là một việc làm thiết thực hiệu quả.

Khi tìm hiểu NTTĐG của câu trong các văn bản truyện, kí, có thể nhận

thấy các phương tiện biểu hiện và các sắc thái NTTĐG đã góp phần không nhỏ

trong việc giáo dục giá trị văn hóa cho học sinh phổ thông. Hệ thống giá trị đó

chính là sự kết tinh những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch

76

sử để tạo nên bản sắc riêng của một dân tộc.

Chẳng hạn các phương tiện biểu thị NTTĐG đã góp phần giáo dục lòng

yêu thương con người.

Lòng nhân ái, tình yêu thương giữa con người với con người là một

truyền thống quý báu của dân tộc ta bởi bản chất của nền văn hóa Việt Nam là

trọng tình, trọng nghĩa.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, tình yêu thương con người

không chỉ được thể hiện trong mối quan hệ của Tràng với người vợ nhặt mà

còn được phản ánh sâu sắc trong cách đón nhận và đối xử với người dâu mới

của bà cụ Tứ.

Ở tác phẩm này, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ yêu con, thương con.

Việc Tràng lấy vợ khiến bà rất ngạc nhiên. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã

cúi đầu nín lặng. Bà nhìn cô con dâu đang vân vê tà áo rách bợt mà lòng đầy

xót thương. Bà thiết nghĩ người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta

mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ. Khi hiểu ra cơ sự, bà đã nhẹ

nhàng bảo các con:

(11) Ừ thôi thì, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng

mừng lòng.

(Vợ nhặt - tr.28)

Trong hoàn cảnh mình còn chưa lo nổi thân mình, không biết ngày mai

sẽ sống ra sao thì bà cụ Tứ có từ chối người đàn bà cũng không có gì đáng

trách. Nhưng vì hạnh phúc của con, bà đã sẵn sàng đón nhận người đàn bà ấy.

Ở đây sắc thái đánh giá về ưu thế đã được bộc lộ rõ qua từ thôi thì. Nghĩa là

trong sự đấu tranh giữa sự sống của bản thân với hạnh phúc của con cái, người

mẹ nghèo ấy đã gạt những lo toan sang một bên để con cái có thể được sống

trong yêu thương hạnh phúc. Bao trùm lên câu nói của bà cụ Tứ là niềm vui

nhưng ẩn sâu bên trong cái mừng lòng của người mẹ lại có cả nỗi buồn, nỗi tủi

77

thân vì làm mẹ nhưng không lo nổi cho các con. Câu nói này cũng làm nổi bật

lên hình ảnh người mẹ nhân từ, sẵn sàng cưu mang những người đói khát hơn

mình. Chính lời nói ấy của bà đã như vòng tay rộng mở để ôm người đàn bà

xác xơ ấy từ cõi chết trở về với cõi sống, từ bất hạnh trở về với yêu thương.

Chính bà đã thổi vào cuộc đời tăm tối của Thị một nguồn sáng ấm áp tin yêu.

Tình yêu thương của bà cụ Tứ còn được bộc lộ qua lời giãi bày hết sức

chân thành mà bà dành cho các con:

(12) Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình

nghèo cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này.

(Vợ nhặt - tr.29)

Được thể hiện điều mong muốn của bà cụ Tứ lúc này là có vài dăm mâm

để cho việc lấy vợ của Tràng đúng với phong tục tập quán dựng vợ gả chồng.

Đó là mong muốn hết sức chính đáng của bà cụ. Với việc sử dụng từ được

trong câu, ngoài tác dụng thể hiện sắc thái đánh giá tích cực và nhấn mạnh

thông tin của người nói thì nó còn bộc lộ tấm lòng trân trọng, tình yêu thương

của bà cụ Tứ dành người con dâu. Trong niềm hi vọng, người ta vẫn thấy nhen

nhóm trong lòng bà nỗi lo:

(13) Năm nay thì đói to đấy.

(Vợ nhặt - tr.29)

Năm nay chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu một nạn đói

khủng khiếp đã đi vào lịch sử: hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói không khí quê

hương vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, dưới

những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những

bóng ma. Ấy vậy mà, như bèo gặp nước, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh

cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ không lo

lắng. Đấy nhấn mạnh đến thông tin về cái đói mà bà cụ Tứ muốn truyền đến

các con nhưng sâu xa hơn, người nghe cảm nhận được ở đó là tình yêu, là sự lo

78

lắng quan tâm cho cuộc sống của các con.

Qua hình ảnh bà cụ Tứ, Kim Lân đã ngợi ca tấm lòng người mẹ nông

dân nghèo khổ, tấm lòng yêu thương đùm bọc của con người Việt Nam trong

hoàn cảnh khốn cùng.

Thông qua NTTĐG, có thể giáo dục tinh thần trọng chữ viết của người

Việt Nam.

Trong xã hội cũ, những người đi thi Hương, thi Hội, thi Đình phải là

những người có tài về văn chương, thơ, phú, ngoài võ thuật họ còn trang bị cho

mình nét chữ rồng bay phượng múa. Nhìn vào nét chữ, mọi người có thể biết

được cái tài, cái tâm, và tính cách của người viết. Khi đọc xong tác phẩm Chữ

người tử tù của Nguyễn Tuân, chúng ta biết được Huấn Cao là con người có tài,

đặc biệt là tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp. Tài năng đó của Huấn Cao được gián

tiếp ca ngợi qua mong muốn của viên quản ngục:

(14) Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời.

(Chữ người tử tù - tr.112)

(15) Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở

nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng

mình một đôi câu đối do ông Huấn Cao viết.

(Chữ người tử tù - tr.112)

Được thể hiện sự tiếp nhận, sự mong muốn về một cái gì đó tốt lành đối

với mình. Ở đây, mong muốn của viên quản ngục là xin được chữ, xin được

một đôi câu đối do ông Huấn viết để treo ở trong nhà.

Từ lâu, xin chữ đã là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt. Xin chữ

thể hiện sự coi trọng chữ nghĩa, trong tri thức. Còn câu đối là nơi lưu giữ những

giá trị đẹp về truyền thống văn hóa đạo đức mà người dân Việt muốn truyền

dạy cho con cháu.

Với ý nghĩa đó thì mong muốn của viên quản ngục rất đáng trân trọng.

79

Điều đó chứng tỏ: viên quản ngục là một người biết thưởng thức cái đẹp.

Nhưng quan trọng hơn là qua sở nguyện cao quý ấy của ông, người đọc thấy

được sự nâng niu trân trọng với những giá trị văn hóa truyền thống.

Qua NTTĐG còn có thể giáo dục cho học sinh niềm tự hào về con người

và quê hương đất nước.

Nếu như Người lái đò sông Đà đem đến cho người đọc niềm tự hào về

con người Việt Nam tài hoa nghệ sĩ thì bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, lại

giúp cho người đọc có thêm những hiểu sâu sắc về sông Hương.

(16) Trong các dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thương nghe nói đến

hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.

(Ai đã đặt tên cho dòng sông - tr.198)

Sắc thái đánh giá về lượng (chỉ, duy nhất) cho thấy sông Hương là quà

tặng vô giá mà tạo hóa đã dành riêng cho Huế, là yếu tố có tính quyết định

để người xưa chọn Huế làm kinh đô, là nơi hội tụ của cảnh quan và di sản văn

hóa Huế.

Ngoài ra, sông Hương còn có giá trị rất đặc biệt đối với Huế:

(17)...giống như sông xen của Pa - ri, sông Đa - nuýp của Bu - đa - pét;

sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng

thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.

(Ai đã đặt tên cho dòng sông - tr.199)

Ở đây, sắc thái đánh giá về không gian (ngay) không chỉ giới thiệu về vị

trí địa lí của sông Hương mà còn như một lời khẳng định về giá trị của dòng sông

với thành phố Huế. Trong thực tế, đa số cảnh quan, kiến trúc và di sản văn hóa

nổi tiếng của vùng đất cố đô đều hội tụ ở sông Hương và hai bên bờ sông. Từ

những công trình kiến trúc cung đình như kinh thành, lăng tẩm, đến những công

trình tín ngưỡng, tôn giáo như chùa chiền, chánh điện, cho đến các công trình văn

hóa, giáo dục, công sở, phố thị, bảo tàng, làng nghề, những con đường và công

80

viên đẹp nhất ở Huế… đều được xây dựng dọc theo hai bờ sông.

Qua những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là dòng

sông kiên cường và mạnh mẽ, anh hùng mà bất khuất. Đó là dòng sông của sử

thi ngân vang với những chiến công oanh liệt bảo vệ Tổ quốc. Sông Hương

không chỉ in dấu ấn lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử

của riêng nó - một lịch sử hào hùng và dữ dội, bất khuất và đớn đau. Xét trên

góc độ địa lí, dòng sông với cái dáng vẻ của nó đã bao quanh, ôm trọn thành

phố Huế. Và đêm đêm, trên khúc sông ấy, những bản đàn, những áng thơ đã

được cất lên tạo thành dòng sông của thi ca.

Qua các sắc thái đánh giá cho thấy, sông Hương có một vị trí rất đặc biệt

đối với đời sống văn hóa, tinh thần của người Huế. Qua đây vừa khẳng định nét

đẹp rất riêng của sông Hương vừa cho thấy niềm tự hào của tất cả mọi người

con đất Việt về dòng sông và mảnh đất cố đô.

Qua sự tiếp nhận này, người học có thái độ ngợi ca, trân trọng với những

giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đồng thời củng cố tình yêu quê hương

đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng của xã hội còn kéo theo những

hiện tượng kém văn hóa. Qua tìm hiểu NTTĐG của câu trong các văn bản

truyện, kí, chúng tôi cũng thấy: các sắc thái đánh giá đã góp phần phê phán

những hiện tượng kém văn hóa. Chẳng hạn như phê phán các hủ tục: cho vay

nặng lãi, tục xử kiện, phạt vạ người vay nợ.

Khi tìm hiểu về nguyên nhân Mị phải làm dâu gạt nợ nhà thống lí, người

đọc được biết:

(17) Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà

thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ.

(18) Mỗi năm phải đem nộp lãi một nương ngô.

(19) Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ.

81

(Vợ chồng A Phủ - tr.4)

Thống lí là người đứng đầu bộ máy chính quyền ở các bản làng vùng dân

tộc. Giàu có, lại dựa vào thế lực của Tây, cha con thống lí Pá Tra tha hồ tác oai

tác quái ức hiếp dân lành. Bằng chính sách cho vay nặng lãi, chúng bóc lột sức

lao động của người nghèo và khiến họ phải lệ thuộc vào chúng suốt đời. Sắc

thái đánh giá tiêu cực qua từ phải cho thấy: ngày ấy, bố mẹ Mị để lấy được

nhau thì không thể không đến nhà thống lí vay tiền đồng nghĩa với việc trả lãi

hàng năm bằng một nương ngô. Thời điểm về già được coi là giới hạn kết thúc

việc trả nợ. Nhưng đến thời gian đó, họ vẫn chưa trả xong. Vậy nên sắc thái

đánh giá về thời gian (tận) giống như một lời lí giải gián tiếp của việc Mị phải

làm dâu gạt nợ. Như vậy, thông qua sắc thái đánh giá tiêu cực và sắc thái đánh

giá về thời gian, chúng ta biết được tục cho vay nặng lãi ở miền núi thời phong

kiến. Đó là hiện trạng phổ biến xảy ra ở nước ta trước cách mạng.

Cũng giống như Mị, sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ, nộp phạt và

phải ở nợ nhưng nguyên nhân biến A Phủ thành người ở trừ nợ lại khác Mị.

Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh.

Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra. Cuộc xử kiện diễn ra trong

không gian của màu khói thuốc phiện xanh như khói bếp. Những kẻ tham gia

vào bộ máy xử kiện thì nằm dài cả bên khay đèn.

(20) Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra

quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh...suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng

tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

( Vợ chồng A Phủ - tr.11)

Cuối cùng, người con trai tự do của núi rừng như A Phủ cũng không

thoát khỏi nanh vuốt của lũ chúa đất. Từ đây, anh vĩnh viễn trở thành nô lệ cho

nhà Pá Tra:

(21) Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng.

82

(Vợ chồng A Phủ - tr.12)

Sắc thái đánh giá tiêu cực (phải, bị) và đánh giá về lượng (suốt,

càng...càng, cả) cho thấy bản chất của cuộc xử kiện chỉ là để thỏa mãn cho bọn

thống quản ăn chơi, hút xách. Bởi theo lẽ thường, một cuộc xử kiện chỉ diễn ra

trong một thời gian nhất định nhưng ở đây nó đã diễn ra suốt chiều, suốt đêm.

Không chỉ thời gian mà con người trong cuộc xử kiện cũng rất đặc biệt, ngoài

người xử kiện, người bị xử kiện còn có thêm người bị tra tấn và người hưởng

thụ. Sắc thái đánh giá về lượng (suốt, cả, càng...càng) được sử dụng trong câu,

cho thấy cái tàn nhẫn cũng như cái riêng biệt của cách xử tội: cùng với thời

gian (suốt chiều, suốt đêm) thì sự tra tấn (đánh,chửi) và sự hưởng thụ (hút)

được tăng lên không ngừng.

Như vậy, qua NTTĐG hình thức của tục xử kiện, phạt vạ người vay nợ ở

miền núi thời phong kiến được thể hiện một cách sinh động nhưng cũng thật

tàn nhẫn.

Bên cạnh đó thông qua các sắc thái NTTĐG, các tác giả có thể bộc lộ

thái độ phê phán, lên án những hành vi xấu trong xã hội.

Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, xoay quanh câu chuyện đám

tang của cụ cố tổ. NTTĐG đã góp phần lật tẩy bản chất thực sự của các thành

viên trong gia. Đặc biệt là ông Văn Minh - cháu đích tôn và ông cháu rể quý

hóa - ông Phán mọc sừng.

Trước cái chết của cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia,

gia đình ai cũng vui, cũng có nhưng nỗi quan tâm riêng của mình. Ông Văn

Minh là đứa cháu đích tôn, là nhà cải cách xã hội danh giá. Vậy mà trước cái

chết của ông nội, ông ta sung sướng tột đỉnh. Mọi hành động của Văn Minh

đều đối lập với trách nhiệm và tình cảm của một người cháu. Ông lúc nào mặt

cũng phân vân, đăm đăm chiêu chiêu, vò đầu bứt tai. Tác giả chú ý miêu tả

trạng thái của ông lúc đó vì điều ông quan tâm là mời luật sư đến chứng kiến

83

cái chết của ông nội để đảm bảo tính pháp lí của chúc thư

(22) Ông chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân ra sao cho phải.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.124)

(23) Điều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh chỉ là mời luật sư đến

chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.124)

Tác giả đã đưa ra đánh giá về lượng (chỉ, mà thôi): mối quan tâm, nỗi

phiền duy nhất không phải bởi cái chết của ông nội mà là bởi việc mời luật sư,

là việc xử trí với Xuân ra sao cho phải. Vì Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em

gái ông và tố cáo tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa của ông nhưng

lại gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Ông quan niệm tội bôi nhọ danh dự

của người thân trong gia đình là tội nhỏ và tội làm chết người thân trong gia

đình mới là cái ơn lớn. Tác giả đã khắc họa sâu sắc bức chân dung biếm họa

méo mó với từng góc khuất, từng hành vi, lời nói, cử chỉ. Từ đó, lên án sự bất

hiếu, giả dối của đám con cháu cụ cố cố tổ cũng như tầng lớp trí thức thành thị

rởm chạy theo phong trào Âu hóa đương thời.

Còn ông cháu rể quý hóa lại có niềm vui riêng. Ông sung sướng vì:

(24) Chính ông cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên

đầu ông ta mà lại to đến như thế.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.124)

Biểu thức tình thái chính, mà lại...đến như thế đưa ra một sự đánh giá bất

thường. Ông Phán không ngờ nhờ bị nói là mọc sừng mà ông ta có thêm vài

nghìn đồng. Ông trù tính ngay một cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ để

nhân cái số vốn ấy lên. Ước muốn của ông Phán bây giờ là gặp Xuân để trả nốt

năm đồng bởi ông mừng thầm vì cụ cố Hồng đã nói sẽ thêm cho con gái và con rể

một số tiền là vài nghìn đồng. Qua tình huống này ta thấy ông Phán là một người

coi trọng đồng tiền hơn danh dự. Là một người chồng bị vợ cắm sừng, đáng lẽ ông

84

phải đau khổ nhưng ông lại sung sướng vì giá trị của đôi sừng vô hình đó. Ông

Phán là một kẻ vô sỉ, sẵn sàng đánh mất danh dự để trục lợi từ cái chết của cụ tổ.

Đặc biệt, gây chú ý hơn cả là tiếng khóc của ông lúc sắp hạ huyệt.

(25) Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán

cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.

(Hạnh phúc của một tang gia - tr.128)

Tổ hợp mãi không thôi trong câu biểu thị mức độ kéo dài của trạng thái

khóc của nhân vật ông Phán trong đám tang là rất lâu và rất nhiều. Đằng sau

tiếng khóc đó là cử chỉ dúi vào tay nó (Xuân Tóc Đỏ) một cái giấy bạc năm

đồng gấp tư. Như vậy tiếng khóc mãi không thôi chỉ là cái cớ để che đậy hành

động giả dối của nhân vật.

Như vậy, NTTĐG trong những tác phẩm truyện và kí đã góp phần phản

ánh, giới thiệu và giáo dục về văn hóa Việt Nam. Thông qua những nét văn hóa

truyền thống, người học có được thái độ trân trọng, ý thức giữ gìn và phát huy

những nét văn hóa quý báu của dân tộc. Đối với những hiện tượng phản văn

hóa, người học có thái độ phê phán, lên án và biết cách tránh xa nó để cuộc

sống có ý nghĩa hơn.

3.4. Tiểu kết

Ở chương 3, luận văn tập trung phân tích những ứng dụng của NTTĐG

trong các văn bản truyện và kí vào việc dạy Văn học, tiếng Việt và văn hóa ở

trường phổ thông.

Đối với việc giảng dạy Văn học: NTTĐG đã góp phần không nhỏ vào

việc xây dựng hình tượng nhân vật. Các nhân vật ấy thuộc mọi tầng lớp khác

nhau trong xã hội, họ có giới tính, độ tuổi và môi trường sống khác nhau. Với

những đánh giá tinh tế sâu sắc cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ của mình, các

nhà văn đã tạo nên những hình tượng nhân vật mang dấu ấn thời đại sắc nét,

85

góp phần tạo nên giá trị hiện thực của các tác phẩm truyện, kí.

Bên cạnh đó, sự góp mặt của các phương tiện biểu thị NTTĐG đã phản

ánh những chủ đề khác nhau trong văn học. Chủ đạo là chủ đề: ngợi ca người

lao động và phê phán bộ máy thống trị ở Việt Nam trong xã hội thực dân nửa

phong kiến.

Đối với việc dạy học tiếng Việt: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ

mang tới những đóng góp nhất định giúp nâng cao chất lượng dạy học bài

Nghĩa của câu ở cả hai phần: lí thuyết và luyện tập.

Nó là nguồn tham khảo cho giáo viên và học sinh về những tri thức như

khái niệm, sự phân loại NTT và NTĐG trong tiếng Việt. Đồng thời nó cũng góp

phần cung cấp hệ thống ngữ liệu để người giáo viên có thể hướng dẫn học sinh

phân tích, minh họa, tổng hợp, khái quát hóa, hình thành nên tri thức về NTT.

Kết quả khảo sát của luận văn cũng có thể là nguồn ngữ liệu phong phú

cần thiết để người giáo viên xây dựng các dạng bài tập nhằm giúp học sinh

củng cố lí thuyết, và rèn luyện kĩ năng tiếp nhận, kĩ năng tạo lập câu có NTT

nói chung, NTTĐG nói riêng.

Đối với việc giáo dục văn hóa: thông qua các phương tiện biểu thị

NTTĐG, các nhà văn có thể đấu tranh, phê phán một số biểu hiện kém văn hóa

như: các hủ tục, thói đạo đức giả trong xã hội. Đồng thời cũng khẳng định ngợi

ca những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc: truyền thống yêu thương con

người, giáo dục tinh thần trọng chữ nghĩa, giáo dục niềm tự hào về con người

86

và quê hương đất nước.

KẾT LUẬN

1. Dựa vào phạm vi nghiên cứu, luận văn đã tiến hành xác định những

vấn đề lí thuyết làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài luận văn là: định nghĩa

câu, các bình diện nghiên cứu câu, nghĩa của câu, thành phần câu; các vấn đề

về NTT: định nghĩa, phân loại, các phương tiện biểu thị; khái niệm từ, tổ hợp

từ, cặp từ, truyện, kí, chủ đề, nhân vật. Ngoài ra, chúng tôi cũng giới thiệu đôi

nét về thực tế dạy học Văn học, Tiếng Việt, văn hóa ở trường phổ thông.

Những vấn đề này phục vụ cho việc nghiên cứu chương 2 và việc triển khai

chương 3 của luận văn.

2. Luận văn đã khảo sát các phương tiện biểu thị NTTĐG và các sắc thái

của nó trong các văn bản truyện kí giảng dạy ở trường THPT.

2.1. Có 295 câu văn chứa NTTĐG với 69 phương tiện tham gia biểu thị.

Các phương tiện này được phân loại dựa trên ba tiêu chí: vị trí trong câu, đặc

điểm cấu tạo, sắc thái ý nghĩa.

Xét theo vị trí trong câu thì vị trí giữa câu có số lần sử dụng cao nhất

(chiếm 81,4). Kế đến là vị trí đầu đầu câu (chiếm 11,9%), tiếp theo là vị trí

cuối câu (chiếm 4,4%), vị trí giữa và cuối câu (chiếm 1,4%). Cuối cùng là vị trí

đầu và giữa câu (chiếm 0,9%).

Về cấu tạo các phương tiện biểu thị NTTĐG trong truyện và kí có kiểu

cấu tạo là: từ, tổ hợp từ, cặp từ/cặp tổ hợp từ. Trong đó phương tiện có kiểu cấu

tạo là từ phổ biến nhất: chiếm 48%. Thứ đến là tổ hợp từ: chiếm 29%. Còn

kiểu cấu tạo cặp từ là ít nhất: chiếm 23%.

Phương tiện có cấu tạo là từ trong các đoạn trích, tác phẩm thuộc 5 từ

loại: động từ, tính từ, trợ từ, phó từ, kết từ. Trong đó trợ từ được sử dụng để

biểu thị NTTĐG là nhiểu nhất, tiếp đến là các từ loại động từ, tính từ, phó từ

và kết từ. Cũng có thể nói thêm rằng các từ nằm trong những cặp từ mà chúng

tôi khảo sát được phần lớn thuộc từ loại phó từ (như càng... càng, vừa... đã,

87

chưa... đã,...).

Những kết quả khảo sát trên có thể đem tới một gợi ý rằng: để biểu thị

NTTĐG, nên sử dụng phương tiện chủ yếu là từ, đặc biệt là trợ từ, với vị trí cơ

bản là giữa câu. Đồng thời những con số trên còn là minh chứng cho sự phong

phú của các phương tiện biểu thị NTT nói chung và NTTĐG nói riêng trong

tiếng Việt.

2.2. NTTĐG trong các văn bản truyện và kí ở trường THPT có các nhóm

sắc thái ý nghĩa: Đánh giá về lượng; Đánh giá về chất.

Trong 2 nhóm sắc thái NTTĐG đã khảo sát được, nhóm sắc thái đánh giá

về lượng được sử dụng nhiều hơn chiếm 60,3%.

Mỗi nhóm sắc thái nghĩa đánh giá đều có sự khác biệt về ngữ nghĩa và có

các phương tiện biểu thị đặc trưng.

Nhóm sắc thái đánh giá về lượng ở các tác phẩm truyện, kí được giảng

dạy trong trường THPT biểu hiện qua sự đánh giá về tính chất ngắn/dài,

sớm/muộn, nhanh/chậm của thời gian và tính chất gần/xa của không gian, tính

nhiều ít của sự vật, tính cùng cực của hiện tượng được nói đến trong câu. Để

biểu thị sắc thái này, các tác giả truyện, kí thường sử dụng phương tiện thuộc từ

loại trợ từ, phương tiện có cấu tạo cặp từ.

Nhóm sắc thái đánh giá về chất thì biểu hiện cụ thể bằng những đánh giá

của người nói về điều được nói tới trong câu là may mắn hay không may mắn;

nên hay không nên lựa chọn; nên hay không nên tồn tại. Để biểu thị sắc thái

này, các tác giả truyện, kí cũng sử dụng trợ từ làm phương tiện chủ yếu và

thường đứng ở vị trí giữa câu. Ngoài ra, trong nhóm NTTĐG về chất còn có

sắc thái nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin và đánh giá về tính bất ngờ

bất thường. Phương tiện chủ yếu để nhấn mạnh cũng là trợ từ, dạng cặp từ. Còn

phương tiện chủ yếu biểu thị sắc thái đánh giá về tính bất ngờ bất thường lại là

tổ hợp từ.

3. Việc phân tích các câu có NTTĐG trong truyện, kí có thể mang lại

những đóng góp nhất định cho việc dạy học Văn học, Tiếng Việt, và giáo dục

88

văn hóa cho học sinh phổ thông.

Trong giảng dạy Văn học: Qua các câu có NTTĐG, người đọc có được

ấn tượng sâu sắc về các nhân vật. Bởi qua sự đánh giá liên quan đến mỗi nhân

vật, người đọc có thể thấy được hiện thực cuộc sống ở các giai đoạn khác nhau

trong lịch sử. Bên cạnh đó, sự góp mặt của các phương tiện biểu thị NTTĐG đã

phản ánh những chủ đề khác nhau trong văn học. Chủ đạo là chủ đề: ngợi ca

người lao động và phê phán bộ máy thống trị ở Việt Nam trong xã hội thực dân

nửa phong kiến

Trong dạy học Tiếng Việt: Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tham

khảo cho giáo viên và học sinh về những tri thức như khái niệm, sự phân loại NTT

và NTĐG trong tiếng Việt. Đồng thời các câu chứa NTTĐG trong các tác phẩm

truyện, kí là nguồn ngữ liệu phong phú để người giáo viên có thể xây dựng các

dạng bài tập giúp học sinh củng cố lí thuyết về NTT và hình thành năng lực

tiếp nhận, sử dụng tiếng Việt. Đó là các dạng bài tập củng cố lí thuyết; bài tập

rèn luyện kĩ năng tiếp nhận; bài tập rèn luyện kĩ năng tạo lập.

Trong giáo dục văn hóa: Qua NTTĐG có thể bồi dưỡng văn hóa cho học

sinh, giúp các em thêm yêu mến và tự hào về những giá trị văn hóa truyền

thống, có thái độ đúng đắn đối với những hiện tượng đi ngược lại chuẩn mực

văn hóa, đạo đức của dân tộc.

Như vậy, việc nghiên cứu các sắc thái của NTTĐG của câu trong các văn

bản truyện, kí giảng dạy ở trường THPT vừa giúp hiểu rõ hơn về NTTĐG, giúp

nâng cao kĩ năng đọc hiểu các văn bản truyện, kí vừa có đóng góp cho việc dạy

học Văn học, Tiếng Việt và giáo dục văn hóa cho học sinh.

4. Đề tài luận văn có thể gợi mở những hướng nghiên cứu trên đối tượng

mới. Chẳng hạn: nghiên cứu NTTĐG trong các tác phẩm thơ, NTTĐG trong

các tác phẩm kịch và nghị luận trong sách Ngữ văn ở các cấp học.....

Chúng tôi hi vọng, công trình này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc soi sáng lí

thuyết về nghĩa của câu nói chung và NTT nói riêng. Tuy nhiên do năng lực có

hạn, người viết luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập.

Chúng tôi rất mong nhận được những đóng góp chân thành của bạn đọc, các

nhà khoa học, những người quan tâm và yêu thích ngôn ngữ để luận văn được

89

hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Diệp Quang Ban (chủ biên), Hoàng Dân (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung (2010), Ngữ Pháp Tiếng Việt, Tập I,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội. (tái bản lần thứ mười hai)

3. Diệp Quang Ban (2010), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

4. Đỗ Hữu Châu (2000), "Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ", Tạp chí Ngôn ngữ,

số 10.

5. Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học Sư phạm.

6. Đỗ Hữu Châu, (2007), Đại cương ngôn ngữ học,Tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

7. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2007), Đại cương ngôn ngữ học,Tập I, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

8. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2001), Ngữ nghĩa - ngữ dụng các tiểu từ tình

thái trong tiếng Việt, công trình cấp ĐHQG, Hà Nội.

9. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), "Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ

học", Tạp chí Ngôn ngữ, số 7.

10. Hà Minh Đức (2003 - chủ biên), Lí luận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb.Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

12. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển 1,

TP Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH.

13. Cao Xuân Hạo (2003), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt - Câu tiếng Việt,

Quyển 1 Nxb. Giáo dục, Đà Nẵng.

14. Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ Văn

học, Nxb.ĐHQG, Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Hiệp (2001), "Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các

90

tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5.

16. Nguyễn Văn Hiệp (2007), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

17. Bùi Thanh Hoa (2012), "Nhóm hư từ mang ý nghĩa đánh giá ít", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 1.

18. Bùi Thanh Hoa (2012), "Nhóm hư từ mang ý nghĩa đánh giá ít", Tạp chí Từ

điển học và Bách Khoa thư, số 1.

19. Phan Thị Hương (2012), Nghĩa tình thái đạo nghĩa trong câu văn của tác phẩm

"Tắt đèn", Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Thái Nguyên.

20. Hoàng Thị Kiều Lí (2014), Nghĩa tình thái của câu trong "Vội vàng,Tràng

giang, Đây thôn Vĩ Dạ và Từ ấy", Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn,

Trường ĐHSP Thái Nguyên.

21. Lyons J, Ngữ nghĩa học dẫn luận (bản dịch của Nguyễn Văn Hiệp,2005).

22. Nguyễn Thị Lương (2009), Câu tiếng Việt, Nxb. Đại học Sư phạm.

23. Nguyễn Ngọc Lưu Ly (2009), Tiền phụ tố tình thái trong tiếng Việt - những

dịch chuyển tương đương sang tiếng Pháp và ý nghĩa thực tiễn (Luận án

tiến sĩ).

24. Phạm Thị Ly (2002), "Tiểu từ tình thái cuối câu một trong những phương

tiện chủ yếu diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt" (Đối chiếu với

những phương tiện diễn đạt các ý nghĩa tương ứng trong tiếng Anh), Tạp chí

Ngôn ngữ, số13.

25. Nguyễn Thị Mai (2014), Nghĩa tình thái của câu trong đoạn trích "Hạnh

phúc của một tang gia", Khóa luận tốt nghiệp khoa ngữ văn, Trường ĐHSP

Thái Nguyên.

26. Ngô Thị Minh (2001), Một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái trong

câu ghép tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHQG Hà Nội.

27. Ngô Thị Minh (2005), "Bàn thêm về một số phương tiện biểu thị ý nghĩa

tình thái trong ngôn ngữ hội thoại", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9.

28. Nguyễn Thị Nhung (2012), "Tình thái phủ định trong câu đối thoại và độc

91

thoại của truyện Chí Phèo", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6.

29. Nguyễn Thị Nhung (2013), "Nghĩa tình thái của phát ngôn thuộc ngôn ngữ

nhân vật trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam)", Kỉ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học

toàn quốc, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Nhung - Phan Thị Thương (2014), "Nghĩa tình thái về đạo lí

trong câu văn tác phẩm Tắt đèn (Ngô Tất Tố)", Tạp chí Ngôn ngữ và đời

sống, số 5.

31. Nguyễn Thị Nhung (2014), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Đại học Thái Nguyên.

32. Nguyễn Thị Nhung (2015), "Tìm hiểu tính cách nhân vật bá Kiến thông qua

nghĩa tình thái của câu", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 5.

33. Nguyễn Thị Nhung (2015), Một số vấn đề cơ bản về ngữ nghĩa học (trên cứ

liệu tiếng Việt) - Đề cương bài giảng dành cho Cao học ngôn ngữ, Trường

ĐHSP Thái Nguyên.

34. Hoàng Phê (1998 - chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.

35. Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt, Nxb. Tri thức.

Hà Nội.

36. Võ Đại Quang (2008), " Tình thái trong câu - phát ngôn: một số vấn đề lí

luận cơ bản" Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3.

37. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

38. Trần Đình Sử (2012 - chủ biên), Lí luận văn học tập 2, Nxb. Sư phạm. Hà Nội

39. Anh Thi (2007), " Một số biểu thức đánh giá trong tiếng Việt" Tạp chí

Ngôn ngữ và Đời sống, số 10.

40. Lê Quang Thiêm (2006), Ngữ nghĩa học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Thìn (2003), Câu tiếng Việt và nội dung dạy - học câu ở

trường phổ thông, Nxb.Đại học Quốc gia.

42. Nguyễn Thị Thuận (2002),"Tình thái của những câu chứa 5 động từ tình

thái nên, cần, phải, bị được", Tạp chí Ngôn ngữ, số 9,10.

43. Nguyễn Thị Thu Thủy (2012), "Tính tình thái chủ quan và tính tình thái

khách quan trong các văn bản khoa học tiếng Anh và tiếng Việt", Tạp chí

92

Ngôn ngữ, số 6.

44. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư

duy, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

45. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb.KH, Hà Nội.

46. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ

học, Nxb. Giáo dục.

B. Tiếng Anh

47. Joan Bybee và Suzanne FleichmanModality in Grammar and Discourse,

93

University of New Mexico, 1994 (Đặng Việt Thái dịch, 2015)