ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CHU THỊ THU THIỆN

HÌNH ẢNH CON NGƯỜI HÀ NỘI TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CHU THỊ THU THIỆN

HÌNH ẢNH CON NGƯỜI HÀ NỘI TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Diệu Linh

Thái Nguyên - 2018

i

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của TS. Nguyễn Diệu Linh.

Nội dung đề tài nghiên cứu của luận văn chưa được ai công bố trong bất kì

công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn

Chu Thị Thu Thiện

ii

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám

hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Trường Đại học Khoa học, Đại học

Thái Nguyên và các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá

trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Diệu Linh -

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận

văn.

Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

đã luôn động viên, giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn cũng như toàn bộ

khóa học.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018

LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn

Chu Thị Thu Thiện

iii

MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN ..............................................................................................i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ................................................................ 8

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 9

5. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 10

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 10

7. Cấu trúc luận văn.......................................................................................... 10

NỘI DUNG ...................................................................................................... 11

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............ 11

1.1. Một số khái niệm liên quan ....................................................................... 11

1.1.1. Khái niệm “nhân vật” và “thế giới nhân vật” trong tác phẩm văn học 11

1.1.2. Hình ảnh con người trong thế giới nhân vật của tác phẩm văn học.... 14

1.2. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam hiện đại ................ 17

1.2.1. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX

đến năm 1975 ...................................................................................... 17

1.2.2. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam sau 1975 ......... 20

1.3. Nguyễn Khải và đề tài Hà Nội .................................................................. 22

1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Nguyễn Khải .... 22

1.3.2. Đề tài Hà Nội trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải ................. 27

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 31

CHƯƠNG 2. PHẨM CHẤT NGƯỜI HÀ NỘI TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN KHẢI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ........................................................ 32

iv

2.1. Nét thanh lịch, chất trí tuệ và đức hi sinh của những người phụ nữ Hà Nội

xưa ............................................................................................................ 32

2.1.1. Nét thanh lịch, trí tuệ ........................................................................... 32

2.1.2. Sự tảo tần, hi sinh vì gia đình .............................................................. 39

2.2. Chất tài hoa, kẻ sĩ của người Hà Nội ........................................................ 45

2.2.1. Nét tài hoa của những nghệ nhân muốn lưu giữ nét đẹp văn hóa Hà

Nội ....................................................................................................... 45

2.2.2. Cái tài và cái tâm của những văn sĩ chân chính .................................. 49

2.3. Sự sáng tạo và khả năng thích ứng của người Hà Nội trước vận hội mới 54

2.3.1. Sự sáng tạo, linh hoạt của những người trẻ tuổi đầy tài năng ............. 54

2.3.2. Những người chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của thời buổi kinh tế thị

trường ................................................................................................. 57

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 60

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH ẢNH CON NGƯỜI HÀ

NỘI .................................................................................................................. 61

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và tâm lý nhân vật.................................... 61

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả dung mạo nhân vật ............................................... 61

3.1.2. Sự tài tình trong việc miêu tả tâm lý nhân vật .................................... 68

3.2. Hình tượng người kể chuyện ..................................................................... 73

3.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật .......................................................................... 73

3.2.2. Sự hóa thân thành hình tượng nhân vật ............................................... 75

3.3. Sử dụng chất liệu ngôn ngữ bình dân ........................................................ 81

3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ đời thường, mang tính khẩu ngữ .......................... 82

3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................. 84

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 87

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 91

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Hà Nội - mảnh đất ngàn năm văn hiến, là nơi hội tụ những tinh hoa văn

hóa của người Việt. Vẻ đẹp của đất và người Hà Nội đã được thể hiện trong rất

nhiều tác phẩm văn chương. Ở mỗi giai đoạn, trong sang tác của từng tác giả, Hà

Nội lại mang một vẻ đẹp riêng. Có những nhà văn sinh ra ở Hà Nội, họ viết về Hà

Nội như một phần máu thịt của mình. Nhưng cũng có những người chỉ một lần tới

Hà Nội cũng có đủ xúc cảm để viết nên những tác phẩm làm lay động lòng người.

Hà Nội trở thành một mảng đề tài quan trọng gắn liền với tên tuổi nhiều nhà thơ,

nhà văn nổi tiếng. Các tác giả viết về Hà Nội từ những thứ bình dị, quen thuộc nhất

như các món ăn đến nét đẹp văn hóa mang giá trị hồn cốt của đất kinh kỳ. Nhắc đến

các nhà văn thành công ở mảng đề tài này phải kể đến Thạch Lam, Nguyễn Tuân,

Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải…Những nhà văn đã mang vẻ đẹp Hà

Nội đến với bạn đọc Việt Nam và thế giới.

1.2. Trong nền văn học nửa sau thế kỷ XX, Nguyễn Khải là một trong số

những gương mặt tiêu biểu, thường ở vị trí hàng đầu. Các sáng tác của ông gắn

liền với mỗi thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc. Trước 1978, Nguyễn Khải

nổi tiếng với những tác phẩm như Mùa lạc, Một chặng đường, Tầm nhìn

xa…Ông khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập giữa cũ - mới, tốt - xấu,

ta - địch…với cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo. Sau 1978, những tác phẩm của ông lại thể

hiện cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Nguyễn

Khải đặc biệt chú ý tới con người trong mối quan hệ với lịch sử, dân tộc, gia

đình…để qua đó khẳng định những giá trị nhân văn cao đẹp.

1.3. Là một nhà văn sinh ra và gắn bó một thời gian dài với Hà Nội, Nguyễn

Khải đã viết nên những trang văn mang đậm nét đặc trưng của mảnh đất kinh kỳ.

Nhà văn đã viết về Hà Nội với một hoài niệm, một nỗi nhớ da diết, một tình yêu

lớn lao. Nhà văn hướng tới những con người Hà Nội xưa và nay với niềm trân quý

sâu sắc. Những tác phẩm viết về Hà Nội của Nguyễn Khải trong thời kỳ đổi mới

đã góp phần quan trọng vào việc khẳng định tài năng và cốt cách của nhà văn.

2

1.4. Sáng tác của Nguyễn Khải đã được đưa vào dạy học trong chương trình

THPT và Đại học. Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn cấp THPT trước

đây có truyện ngắn Mùa lạc và trong sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành có truyện

ngắn Một người Hà Nội. Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khải là một trong những

tác giả lớn và được quan tâm đúng mức của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hình ảnh con người Hà Nội

trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới với mong muốn tìm hiểu một

cách có hệ thống những đóng góp của nhà văn Nguyễn Khải trong thời kỳ đổi mới

qua những tác phẩm viết về Hà Nội nói chung và qua hình ảnh con người Hà Nội

nói riêng. Hơn nữa, với việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ phần nào

giúp các thầy cô giáo và các bạn học sinh, sinh viên có thêm tư liệu trong việc

giảng dạy và học tập tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khải.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải bắt đầu từ cuộc kháng chiến chống

Pháp, kéo dài cho đến những năm sau đổi mới, trong đó giai đoạn sau hòa bình là

giai đoạn nhà văn gặt hái được nhiều thành công nhất. Cho đến nay, theo thống kê

chưa đầy đủ thì có khoảng trên dưới 100 công trình nghiên cứu về Nguyễn Khải,

từ những bài báo đăng trên các tạp chí đến các chuyên luận, các cuốn sách…Tất

cả những công trình ấy đều khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khải là

một trường hợp hiếm có của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong bài Những

chặng đường văn Nguyễn Khải, Hà Công Tài đã ghi nhận: “Nguyễn Khải là một

trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi cách mạng sau 1945...Cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự nghiệp,

nuôi dưỡng tài năng và phong cách của nhà văn…Tác phẩm của ông vừa mang

tính thời sự nóng hổi, vừa có tầm khái quát cao thể hiện nhiều vấn đề thiết thực

của cuộc sống, nhiều vấn đề mang tính triết lý, đạo đức, nhân sinh sâu sắc” [42,

13].

3

Nguyễn Khải đến với văn học bằng nhiều thể loại khác nhau, như truyện

ngắn, tiểu thuyết, kịch, ký, tạp văn…Ở thể loại nào ông cũng có những thành công

nhất định. Các nhà nghiên cứu nhìn chung đều có chung nhận định: mỗi tác phẩm

của Nguyễn Khải đều dung chứa một hiện thực cuộc sống lớn lao. Nguyễn Khải

đặc biệt chú ý đến đề tài nông thôn trong việc cải tạo và xây dựng cuộc sống mới:

“Một vùng nông thôn công giáo toàn tòng, nông trường Điện Biên, một hợp tác

xã tiên tiến - những miền đất tự bản thân nó đã là một hoàn cảnh điển hình có sức

khái quát cao để tác giả đưa ra những vấn đề đáng suy nghĩ, để nhân vật có điều

kiện bộc lộ tính cách một cách đầy đủ nhất” [42, 15].

Vương Trí Nhàn trong Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Khải đã khẳng định:

“Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại. Với cuộc cách mạng này,

những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng chứng,

một tài liệu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại với tất cả cái hay

cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ,

phải đọc Nguyễn Khải” [35, 61].

Chu Nga cũng là người có sự quan tâm đặc biệt đối với Nguyễn Khải. Trong

các bài viết như Đặc điểm của ngòi bút hiện thực Nguyễn Khải; Đặc điểm sáng

tác Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu căn cứ trên cơ sở những yêu cầu xã hội theo

tiêu chí nhận diện văn học lúc bấy giờ để lý giải một số đặc điểm sáng tác của

Nguyễn Khải. Tác giả nhận định: “Với con mắt sắc sảo của mình, nhìn vào ngõ

ngách nào của cuộc sống, Nguyễn Khải cũng có thể rất nhanh nhạy phát hiện ra

những vấn đề phức tạp. Và anh như một chánh án công bằng và nghiêm khắc,

không thể nào làm ngơ trước những biểu hiện chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của cuộc

đời - anh buộc phải dùng ngòi bút chiến đấu của mình để phê phán chúng, vạch

ra chỗ đúng chỗ sai” [29, 65].

Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu về Nguyễn Khải được

in trong các cuốn Nhà văn Việt Nam 1945-1975 (tập 2) của nhà nghiên cứu Phan

Cự Đệ, Nguyễn Khải - Đời người, đời văn của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khải

- Một đời văn gắn bó với dân tộc và thời đại của Bích Thu…Những công trình

4

nghiên cứu về văn học Việt Nam từ sau 1945 cũng có nhiều trang viết đề cập đến

Nguyễn Khải và những sáng tác của ông, như: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của

Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam 1975 - 1985 tác phẩm và dư luận (Nhiều tác

giả), Nhà văn - tư tưởng và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Văn học trên

hành trình của thế kỷ XX của Phong Lê…

Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết tập trung nghiên cứu về các tác phẩm

cụ thể. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: Đọc Xung đột của Nguyễn Khải

(Vũ Tú Nam); Mùa lạc - một thành công mới của Nguyễn Khải (Thành Duy);

Những bước đi khỏe khoắn (Đọc Hãy đi xa hơn nữa của Nguyễn Khải) (Vũ Cao);

Tính hiện thực và tính chiến đấu trong Người trở về và Tầm nhìn xa (Nguyễn

Phan Ngọc); Từ Họ sống và chiến đấu đến Ra đảo của Nguyễn Khải (Thanh

Nguyên); Chủ tịch huyện và nghệ thuật viết truyện của Nguyễn Khải (Nguyễn

Văn Hạnh); Tháng Ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải và thể ký (Phan Hồng

Giang); Gặp gỡ cuối năm - Một tiếng nói nghệ thuật khẳng định cuộc sống (Lê

Thành Nghị); Âm hưởng chính: khẳng định quá khứ (Đọc Thời gian của người

của Nguyễn Khải) (Vương Trí Nhàn)…

Mỗi tác phẩm của Nguyễn Khải đều được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân

tích kỹ lưỡng để thấy được những giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như khẳng

định tài năng của Nguyễn Khải ở từng giai đoạn sáng tác. Với những tác phẩm

viết về chiến tranh cách mạng: “Nguyễn Khải đã thể hiện một cách đặc sắc hiện

thực sôi động của cuộc chiến đấu của quân dân ta…Đời văn ông gắn liền với

những yêu cầu lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa.

Ông luôn khao khát có mặt trong cuộc sống, tranh biện với người đương thời, đưa

ra những vấn đề thiết cốt và đóng góp cho những quá trình đấu tranh xã hội” [42,

21]. Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước, các nhà nghiên cứu lại khẳng định:

“Nguyễn Khải có dịp đến với nhiều miền đất lạ, trở lại những miền ông đã từng

đi qua, đã lấy tư liệu để viết suốt một thời tuổi trẻ…Ngòi bút Nguyễn Khải thật da

diết, ân tình, đau xót khi viết về những cảnh đời với những số phận trắc trở, trớ

trêu…Chính trong những bối cảnh trên Nguyễn Khải lại phát hiện nhiều vấn đề

5

nhân sinh ẩn giấu sau những cuộc đời, những quan niệm về đạo đức truyền thống,

lợi ích kinh tế, lợi ích đồng tiền…” [42, 26].

Trong những năm gần đây, tác phẩm của Nguyễn Khải trở thành đề tài cuốn

hút các nhà nghiên cứu thực hiện luận văn, luận án. Có thể kể đến một số luận án

Tiến sĩ như: Một số đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải của Trần Văn Phương,

Tìm hiểu phong cách văn xuôi Nguyễn Khải của Nguyễn Thị Tuyết Nga, Cảm

hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Khải của Đào

Thủy Nguyên…Bên cạnh đó, những tác phẩm của Nguyễn Khải cũng được nghiên

cứu trong nhiều luận văn Thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp...

Như vậy có thể thấy, song hành với các chặng đường sáng tác của Nguyễn

Khải là sự quan tâm của bạn đọc và các nhà nghiên cứu. Tất cả các công trình tìm

hiểu về tác phẩm của Nguyễn Khải đều nhằm khẳng định những giá trị nghệ thuật

và tài năng của nhà văn. Đó là một tài năng nghệ thuật hiếm có, nếu không muốn

nói là không thể thay thế, trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

2.2. Các công trình nghiên cứu về đề tài Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải

thời kỳ đổi mới

Nguyễn Khải sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, ông sống ở Hà Nội khoảng nửa

đời người rồi chuyển vào Sài Gòn từ sau ngày đất nước thống nhất. Chính thời

gian sống ở Sài Gòn, hình ảnh Hà Nội và con người thủ đô ngàn năm văn hiến đã

được ông thể hiện trong những trang văn ấm nồng hoài niệm. Hầu hết những

truyện ngắn viết về đề tài Hà Nội được tập hợp trong tập Hà Nội trong mắt tôi

và một số truyện tập hợp trong Tuyển tập truyện ngắn. Những tác phẩm viết về

cuộc sống và con người Hà Nội đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm

tìm hiểu và có những đánh giá xác đáng.

Khi đánh giá về chặng đường sáng tác trong thời kỳ đổi của Nguyễn Khải,

trong đó có đề tài viết về Hà Nội, Hà Công Tài cho rằng: “Đó là những trang viết

ấm áp đầy thương cảm. Ông viết về người cô họ, cô Hiền, một người bình thường

như bao người bình thường khác nhưng trong suy nghĩ và tình cảm của bà lại ẩn

giấu nhiều giá trị nhân văn làm nên một phong thái Hà Nội…So với những sáng

6

tác thời tuổi trẻ, cái nhìn của Nguyễn Khải thực đằm thắm và bao dung. Ngòi bút

nhà văn tìm hiểu, khám phá nhiều giá trị nhân văn sâu sắc ẩn chứa sau những

nhân vật rất đỗi đời thường trong cuộc sống. Trong những câu chuyện cảm động

về những con người bình thường của Hà Nội, thường lấp lánh những suy tư khiến

người đọc phải chiêm nghiệm, thấm thía” [42, 27].

Tác giả Nguyễn Văn Long trong Nguyễn Khải và sự đổi mới quan niệm về

con người trong Một người Hà Nội cũng nêu rõ: “Với nhà văn Nguyễn Khải, Hà

Nội có một vị trí đặc biệt trong tình cảm, kỷ niệm, cả trong đời sống và văn chương

của ông…Viết về Hà Nội, với Nguyễn Khải không chỉ là để trải tấm lòng mình với

mảnh đất từng gắn bó, nhiều duyên nợ, mà quan trọng hơn, bởi Đất kinh kỳ chứa

đựng nhiều điều hấp dẫn, bí ẩn nhất là trong tầng sâu văn hóa, lối sống, các giá

trị tinh thần của người Hà Nội luôn mời gọi và là một dư địa cho ngòi bút ưa tìm

tòi, triết lý của Nguyễn Khải thỏa sức khai vỡ” [55].

Trong bài viết Nhớ về Hà Nội - cốt cách và tài hoa Nguyễn Khải, Đoàn

Trọng Huy nhấn mạnh: “Nguyễn Khải đã viết về Hà Nội với một hoài niệm tràn

đầy, một nỗi nhớ da diết, một tình yêu lớn lao. Một Hà Nội với bao “người xưa,

cảnh cũ”, “Năm tháng qua đi nhưng vẫn còn lưu lại mùi hương đã nhạt của một

thời, cả những vệt nước mắt vừa khô của một thời”(Một chiều mùa đông). Một

Hà Nội của hôm nay và mãi mãi “Những giấc mộng đẹp, những cách sống đẹp,

những mặt người tuyệt đẹp thời nào cũng có xuất hiện nối tiếp nhau cho tới vĩnh

viễn”(Đã từng có ngày vui)[53]. Đoàn Trọng Huy cũng cho rằng Nguyễn Khải

“viết về Hà Nội với những con người mang cốt cách tinh hoa của Hà Nội văn hiến

- Hà Nội có truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Chính vì vậy Hà Nội trong

mắt tôi chỉ viết về những nhân cách với tấm lòng trọng thị những con người đẹp

xưa cũng như nay - mang tinh thần cốt cách phong hóa của đất đế đô có nghìn

năm lịch sử” [53].

Trong Nguyễn Khải với Hà Nội, tác giả Đinh Quang Tốn cho rằng: “Hà Nội

chỉ là một đề tài trong truyện Nguyễn Khải. Mà ông chỉ chăm chú vào những vấn

đề của người Hà Nội…Người Hà Nội hiện lên trong truyện Nguyễn Khải như

7

những nhân cách sống. Họ là những con người bình thường, không có công tích

gì nhiều, kể cả các nhà văn thì cũng là những con người lặng lẽ sống, lặng lẽ viết.

Nhưng nhân cách của họ thì cao đẹp, trước sự thay đổi bể dâu của cuộc đời, họ

vẫn ngời ngợi sáng” [50, 375-376]. Hay khi nói về tập Hà Nội trong mắt tôi, tác

giả viết: “Mỗi truyện một vấn đề, mỗi người một nhân cách. Cả tập truyện là tập

hợp những nhân cách Hà Nội. Mỗi người một vẻ, nhưng không ai hèn” [50, 378].

Nhà nghiên cứu Trần Thanh Phương khi đọc Hà Nội trong mắt tôi nhận

thấy những nhân vật trong tác phẩm: “…với cách sống rất riêng của mình, họ đã

góp phần giữ gìn cho Hà Nội cái vẻ đẹp vốn có của nó. Viết về họ, hình như

Nguyễn Khải muốn khẳng định rằng những gia đình dòng dõi lại luôn có cốt cách

sống vững vàng sao cho xứng đáng với dòng dõi của họ, bất chấp thời thế thay

đổi thế nào” [38, 379].

Bên cạnh việc khẳng định những giá trị nội dung của các tác phẩm viết về

con người Hà Nội, các công trình nghiên cứu còn cho thấy tài năng nghệ thuật và

phong cách độc đáo của Nguyễn Khải ở mảng đề tài này. Đoàn Trọng Huy cho

rằng, cái tài hoa của nhà văn nằm ở chỗ ông đã có một “cảm quan rất thức thời,

Nguyễn Khải luôn luôn nhạy bén với những vấn đề “ngày hôm nay” còn “ngổn

ngang, bề bộn” những sự kiện của Hà Nội” [53]. Nguyễn Khải còn có cái tài phân

tích tâm lý nhân vật “với mặt phải và mặt trái với chiều thuận và chiều nghịch.

Những khủng hoảng về mặt tâm lý nhất thời, những cái mạnh, cái yếu của một

tính cách được phân tích sâu sắc, tế nhị, thông qua những mâu thuẫn có thực và

giả tạo của lớp người xưa và nay, lớp nhà văn dấn thân và lớp nhà văn gác bút

ẩn dật, những vật lộn của con người làm ăn mới trên thương trường như chiến

trường” [53].

Ngọc Huy khi đọc truyện ngắn Một người Hà Nội cũng cho rằng: “Dấu ấn

sâu đậm trong tác phẩm để làm nên phong cách Nguyễn Khải đó là ngòi bút bắt

rất nhanh vào những vấn đề thời sự, chính luận kết hợp với chất thông minh, sắc

sảo trong triết lý, triết luận về đời sống tư tưởng, tâm hồn con người” [54].

8

Trong bài Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt tôi, Trần Thanh Phương

khẳng định: “Sự đổi mới cách viết của Nguyễn Khải được thể hiện ra ở hình thức

thể loại. Hà Nội trong mắt tôi không tuân thủ theo những khuôn mẫu thông

thường của truyện ngắn truyền thống đòi hỏi phải có cốt truyện và những pha hấp

dẫn ly kỳ của sự thắt nút, cởi nút…Cũng trong Hà Nội trong mắt tôi, tác giả

thường xuyên sử dụng thủ pháp tự giễu mình, giễu nhại cái nghề của mình và giễu

cả bạn bè đồng nghiệp. Cách giễu nhại ấy có tác dụng xóa nhòa khoảng cách giữa

nhà văn với nhân vật, kéo độc giả gần lại với mình, tạo ra sự bình đẳng thân mật,

thậm chí có thể vỗ vai cợt nhả nữa” [38, 381-382].

Những công trình nghiên cứu trên đã giúp bạn đọc phần nào thấy được đóng

góp của Nguyễn Khải ở mảng đề tài Hà Nội trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu chuyên

sâu và hệ thống về hình ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải

thời kỳ đổi mới. Những công trình nêu trên sẽ là nguồn tư liệu hữu ích để chúng

tôi làm cơ sở cho việc nghiên cứu một cách nghiêm túc đề tài Hình ảnh con người

Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới.

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu hình ảnh con người

Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới; trong đó người viết sẽ đi

sâu, làm rõ phẩm chất người Hà Nội.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu hệ thống hình ảnh con

người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới. Qua đó khẳng định

những đóng góp của Nguyễn Khải cho văn học Việt Nam hiện đại nói chung và

văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng. Luận văn cũng góp phần làm nổi bật

vị trí, tài năng của “một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại”, đồng thời

9

cung cấp thêm tư liệu cho những người quan tâm đến Nguyễn Khải và các sáng

tác của ông.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn để thực hiện đề tài.

- Nghiên cứu về hình ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải

thời kỳ đổi mới.

- Nghiên cứu nghệ thuật xây dựng hình ảnh con người Hà Nội trong truyện

ngắn Nguyễn Khải.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phương pháp và

thủ pháp chủ yếu sau:

- Phương pháp hệ thống: Đây là phương pháp quan trọng giúp người thực

hiện luận văn xâu chuỗi các hiện tượng văn học đơn lẻ, đặt chúng trong mối quan

hệ biện chứng để nhận diện hình ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn

Khải thời kỳ đổi mới.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để làm nổi bật những đặc sắc và đóng

góp của Nguyễn Khải khi viết về con người Hà Nội, chúng tôi đã đối chiếu, so

sánh những sáng tác của Nguyễn Khải với những tác phẩm cùng đề tài của các

nhà văn khác.

- Phương pháp thống kê, phân loại: Trong đề tài này, chúng tôi đã tiến hành

khảo sát, thống kê, phân loại những biểu hiện cụ thể trên phương diện nội dung và

nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới viết về Hà Nội.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này nhằm kết hợp đồng

bộ các phương pháp nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác như lịch sử, địa lí, văn hóa

để tìm hiểu, phân tích, lí giải các đặc điểm hình ảnh con người Hà Nội trong truyện

ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới.

10

5. Phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu, khảo sát tập truyện ngắn

Hà Nội trong mắt tôi (2014), Nxb Văn hóa - Thông tin và một số truyện ngắn

viết về đề tài Hà Nội trong Tuyển tập truyện ngắn (1996), Nxb Văn học.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần nhận diện nét đẹp truyền thống và sự thay đổi của một bộ

phận người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới. Từ đó giúp

bạn đọc thấy được tài năng nghệ thuật cũng như những đóng góp của Nguyễn Khải

đối với nền văn xuôi đương đại. Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích

cho những ai yêu mến và nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Khải.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được chia

thành 03 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

Chương 2. Phẩm chất người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời

kỳ đổi mới

Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh con người Hà Nội

11

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Một số khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm “nhân vật” và “thế giới nhân vật” trong tác phẩm văn học

Văn học là hoạt động sáng tạo nghệ thuật của nhà văn và thành quả của sáng

tạo nghệ thuật đó là tác phẩm văn học. Dưới ngòi bút của nhà văn, tác phẩm văn

học được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu yếu tố nhân vật. Trong

cuốn Lý luận văn học do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành, nhà nghiên cứu Hà

Minh Đức cho rằng: “Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ

bản để qua đó nhà văn miêu tả thế giới một cách hình tượng”. Một tác phẩm có thể

có ít hoặc nhiều nhân vật, nhưng thường không thể khuyết thiếu yếu tố này. Nhân

vật xuất hiện trong các tác phẩm văn học như một mặc định nghệ thuật.

Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm (tiếng Hy Lạp: persona, tiếng

Anh: personage, tiếng Nga: personaj). Theo tiếng Hi Lạp cổ, persona ban đầu có

nghĩa là “chiếc mặt nạ”- một dụng cụ biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Về

sau, từ này được dùng phổ biến hơn và trở thành thuật ngữ chỉ nhân vật văn học.

Theo thời gian, thuật ngữ “nhân vật” ngày càng được sử dụng nhiều hơn, thường

xuyên hơn để chỉ đối tượng mà văn học miêu tả và thể hiện trong tác phẩm. Có

thể hiểu, “nhân vật” là khái niệm không chỉ được dùng trong văn học mà còn được

dùng trong nhiều lĩnh vực khác.

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì

“nhân vật” là khái niệm được hiểu theo hai nghĩa. Theo cách hiểu thứ nhất, “nhân

vật” là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn

học. Khái niệm “nhân vật” được hiểu theo cách thứ hai là một con người có vai

trò nhất định trong xã hội, đời sống nghệ thuật lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Trong luận văn này chúng tôi chỉ tìm hiểu khái niệm “nhân vật” theo cách hiểu

thứ nhất mà bộ Từ điển đề cập đến, tức là nhân vật trong tác phẩm văn chương.

12

Tính đến thời điểm hiện nay, có nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu phê

bình văn học về nhân vật. Trong các quan niệm đó có thể có những điểm tương

đồng hoặc khác biệt. Chúng tôi sẽ đề cập đến một số quan niệm gần gũi với vấn

đề luận văn đang nghiên cứu.

Trong giáo trình Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, các tác giả viết:

“Nói đến nhân vật trong văn học là nói đến con người được miêu tả thể hiện trong

tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như Tấm, Cám,

Thạch Sanh,...đó là những nhân vật không tên như thằng bán Tơ, Mụ nào trong

Truyện Kiều của Nguyễn Du, đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại,

thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội

dung ý nghĩa con người...Khái niệm nhân vật có khi chỉ sử dụng một cách ẩn dụ,

không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm.

Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta

nhận biết” [22, 277].

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân quan niệm:

“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác

của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân

vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người. Một trong những dấu hiệu về

sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người,

nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường

được gán cho các đặc điểm giống con người” [2, 241]. Với quan niệm này, tác giả

Lại Nguyên Ân đã xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính sáng tạo,

phong cách nhà văn, khuynh hướng, trường phái văn học.

Giáo sư Hà Minh Đức và các tác giả cuốn giáo trình Lí luận văn học định

nghĩa: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, đó không phải là

sự sao chụp đầy đủ một chi tiết biểu hiện đầy đủ của con người mà chỉ là sự thể

hiện con người qua đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…và cần

chú ý thêm một điều thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một

phạm vi lớn hơn nhiều, đó không chỉ là những con người, những con người có tên

13

và không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác

phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách

con người…Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ

là một hiện tượng về con người hoặc liên quan đến con người, được thể hiện nổi

bật trong tác phẩm” [8, 102].

Qua việc tìm hiểu trên, chúng tôi nhận thấy có nhiều quan niệm và định nghĩa

về khái niệm “nhân vật” trong tác phẩm văn học của các nhà nghiên cứu phê bình

văn học trong và ngoài nước. Nhưng dù có nhiều quan niệm và định nghĩa khác

nhau thì họ vẫn gặp nhau ở những ý cơ bản như sau: Thứ nhất, “nhân vật” là đối

tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học; Thứ hai, “nhân

vật” có thể là con người hoặc con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn

con người, đó là hình ảnh ẩn dụ về con người; Thứ ba, “nhân vật” là đối tượng

mang tính ước lệ và có tính cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó được khúc

xạ qua lăng kính chủ quan của các tác giả văn học.

Tóm lại, “nhân vật” là thành tố không thể thiếu trong tác phẩm văn học. Vai

trò của nhân vật trong tác phẩm văn học là vô cùng quan trọng. Nó là sự hình

tượng hóa và cụ thể hóa ý tưởng nghệ thuật của nhà văn, là nơi nhà văn chuyển tải

đến độc giả nội dung tư tưởng của tác phẩm. Do đó, nhân vật luôn là yếu tố được

nhà văn dụng công xây dựng và là yếu tố để lại những ấn tượng sâu sắc cho người

đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Nhân vật là yếu tố giúp nhà văn thể hiện quan niệm

nghệ thuật về con người và khái quát giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm và tác

giả. Đó cũnglà phương tiện để nhà văn phản ánh cuộc sống và được nhà văn xây

dựng bằng các yếu tố nghệ thuật độc đáo. Khi nghiên cứu tác phẩm văn học, người

nghiên cứu không thể không chú ý đến “nhân vật” trong tác phẩm văn học đó để

chỉ ra được những đóng góp riêng của tác giả.

“Thế giới nhân vật” là một phạm trù có hàm nghĩa rất rộng. Nó được hiểu là

tổng thể những hệ thống nhân vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và

chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong

sáng tác nghệ thuật của nhà văn, có tổ chức và có sức sống riêng, phụ thuộc vào ý

14

thức sáng tạo của các tác giả. Có thể hiểu, “thế giới nhân vật” là sự cảm nhận một

cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất

hiện trong tác phẩm văn học, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩa,

tư tưởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong các mối quan hệ với

gia đình, xã hội…Nằm trong thế giới nghệ thuật, “thế giới nhân vật” cũng là sản

phẩm tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất

hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là mô hình nghệ thuật

có cấu trúc riêng, có quy luật riêng thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí, thời

gian, không gian, xã hội. Dưới lăng kính chủ quan của tác giả, “thế giới nhân vật”

trong các tác phẩm văn học hiện lên hết sức phong phú. Trong thế giới ấy, người

ta có thể chia thành các kiểu nhân vật nhỏ hơn dựa vào những tiêu chí nhất định.

Một trong những nhiệm vụ của đối tượng tiếp nhận văn học là tìm ra hướng để

khám phá thế giới nhân vật trong mỗi tác phẩm văn học và thấy được dụng ý nghệ

thuật các tác giả gửi gắm qua việc xây dựng thế giới nhân vật ấy.

1.1.2. Hình ảnh con người trong thế giới nhân vật của tác phẩm văn học

Dưới ngòi bút của các tác giả, thế giới nhân vật trong các tác phẩm văn học

được hiện lên rất phong phú, đa dạng. Đó không chỉ là con người mà còn có thể là

đồ vật, sự vật, hiện tượng…Nhưng dù nhân vật trong tác phẩm văn học là ai, là cái

gì, có tính chất, đặc điểm như thế nào thì cũng luôn được xây dựng để hướng đến

việc phản ánh đời sống đa dạng của con người. Có thể khẳng định, con người là

hình ảnh trung tâm và được phản ánh nhiều nhất trong thế giới nhân vật của các tác

phẩm văn học. Đối tượng thẩm mĩ của văn học là con người. Chức năng của nhân

vật là “khái quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện những hiểu biết,

những ao ước và kì vọng về con người” [22, 279]. Các nhân vật của tác phẩm nghệ

thuật không phải giản đơn là mô phỏng y nguyên hình ảnh của những con người

trong cuộc sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng

của tác giả. Do đó, các nhà văn thường thông qua hình ảnh con người trong tác

phẩm văn học để khẳng định tài năng và thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình.

Hình ảnh con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm văn học bằng các phương

15

tiện của văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh

động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc,

giữ vai trò nhiều hay ít trong tác phẩm.

MacximGroki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Văn học là một

bộ môn nghệ thuật, lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy hình

tượng làm phương thức biểu đạt nội dung và lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng

hình tượng. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do đó, con người chính

là đối tượng chủ yếu của văn học. Nói cách khác, con người chính là nhân vật

trung tâm của văn học. Con người là đối tượng thẩm mĩ thể hiện quan niệm của

tác giả về cuộc sống. Thông qua hình ảnh con người, tác giả thể hiện chủ đề tư

tưởng của tác phẩm.

Trong lịch sử hình thành và phát triển nền văn học của nhân loại, hình ảnh

con người được các tác giả xây dựng rất phong phú, đa dạng. Ở Việt Nam, điều

đó cũng được thể hiện rõ trong suốt tiến trình văn học từ dân gian, trung đại đến

hiện đại. Đó là con người trong quan hệ xã hội, con người và ý thức cá nhân, con

người trong mối quan hệ quốc gia dân tộc, con người trong quan hệ với thế giới

tự nhiên. Thực tế cho thấy, không có một tác giả, một tác phẩm văn học nào không

ít nhiều đề cập đến các vấn đề liên quan đến con người. Trong truyện cổ tích, thần

thoại dù miêu tả thần linh, ma quỷ, đồ vật…cũng là để nói đến cái hiện thực tồn

tại trong đầu óc con người, góp phần thể hiện ước mơ, khát vọng của con người.

Ông Bụt trong truyện cổ tích Tấm Cám là nhân vật không có thật, được các tác

giả dân gian hư cấu nên. Mỗi lần Tấm gặp trắc trở, bất hạnh Bụt lại hiện lên phù

trợ cho cô. Như vậy, từ hình ảnh một nhân vật thần kỳ không có thật, dân gian đã

gửi gắm vào đó những ước mơ, khát vọng của con người. Đó là ước mơ về sự

công bằng trong xã hội, ước mơ những người ở hiền như cô Tấm sẽ luôn gặp lành.

Kho tàng tục ngữ, ca dao cũng tập trung thể hiện hình ảnh con người bình dân

và thế giới tâm hồn của họ. Đó là những con người gắn liền với cuộc sống lao động:

“Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” (Ca dao)

16

Hình ảnh con người gắn liền với thiên nhiên tươi đẹp:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” (Ca dao)

Trong thời kỳ trung đại, nhiều tác phẩm văn học đã để lại cho độc giả những

dấu ấn không thể mờ phai về cuộc đời, số phận của các nhân vật. Đó có thể là nhân

vật đám đông như bức tượng đài về những nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế nghĩa

sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, đó có thể là cuộc đời cá nhân đầy bi kịch

như nàng Kiều trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du…Cũng có nhiều tác

phẩm viết về thiên nhiên, cảnh vật nhưng lại là nơi bộc lộ, gửi gắm những tâm tư,

tình cảm của nhân vật trữ tình. Đó là hình tượng cây tùng, cúc, trúc, mai tượng trưng

cho khí tiết thanh cao của các nhà nho chân chính:

“Trong ghềnh thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.”

(Côn Sơn ca- Nguyễn Trãi)

Hình ảnh rừng thông, núi trúc thể hiện lý tưởng ẩn dật, thoát khỏi vòng danh

lợi tầm thường của các bậc hiền nhân. Hay như nỗi lòng tha thiết của người chinh

phụ gửi đến người chồng đang chinh chiến nơi xa được Đặng Trần Côn diễn tả

thật xúc động với bút pháp tả cảnh ngụ tình:

“Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

(Chinh phụ ngâm)

Cả một không gian rộng lớn với gió, mây, non, nước như thấm đượm nỗi

lòng thương nhớ của người chinh phụ. Như vậy, từ hình ảnh thiên nhiên, cảnh vật,

17

các nhà thơ, nhà văn đã gửi gắm những tình cảm, ước vọng và khắc họa hình ảnh

của con người.

Đến thời kỳ văn học hiện đại, hình ảnh con người hiện lên trong các tác phẩm

văn học càng sinh động, phong phú và đa dạng. Các tác giả có thể nói đến một

nhóm người, một lớp người trong xã hội hoặc có thể chỉ nói đến một cá nhân cụ

thể. Nhưng dù xây dựng hình ảnh cá nhân hay tập thể, khi đọc một tác phẩm văn

học, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc chính là số phận, tình cảm,

cảm xúc, suy tư của con người được nhà văn thể hiện. Những nhân vật trong Số

đỏ của Vũ Trọng Phụng giúp người đọc hình dung về xã hội thượng lưu thành thị

của Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhân vật Chí Phèo trong

tác phẩm cùng tên của Nam Cao lại giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc cuộc đời, số

phận của những người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trong xã hội cũ.

Qua hình ảnh con người, các nhà văn đã gửi đến người đọc những thông điệp có

ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

Hầu hết các tác phẩm từ văn học Việt Nam đến văn học thế giới, từ văn học

dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận con người. Các tác

phẩm phác họa hình ảnh con người bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ trân

trọng và ngợi ca của các tác giả. Riêng đối với văn học Việt Nam, có thể nhận

thấy, qua hình ảnh con người Việt Nam trong các tác phẩm văn học, các nhà văn

đã góp phần gìn giữ, phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, đồng thời

góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ con người Việt Nam.

1.2. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam hiện đại

1.2.1. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX

đến năm 1975

Thăng Long - Hà Nội, mảnh đất với lịch sử hơn một nghìn năm văn hiến, là

mảnh đất đã làm “tốn văn, tốn chữ, tốn nhạc” của bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ…

Trong văn học, hình ảnh đất và người Hà Nội đã xuất hiện từ thời kỳ trung đại. Từ

thời Lý- Trần, nhiều tác phẩm tự sự viết về Thăng Long - Hà Nội đã xuất hiện như

Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp...Giai

18

đoạn lịch sử trải qua nhiều biến cố khi chế độ phong kiến suy tàn, các tác phẩm

như Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô gia

văn phái đã giúp người đọc hình dung một phần quang cảnh, cuộc sống ở kinh đô

nước Việt lúc bấy giờ. Trải qua những thăng trầm cùng với lịch sử của cả dân tộc,

bước sang đầu thế kỉ XX, Hà Nội lại trở về là trung tâm văn hóa chính trị với vị

trí là trái tim của cả nước. Đề tài Hà Nội xuất hiện nhiều hơn trong các tác phẩm

văn học hiện đại. Một trong những phương diện được các nhà văn quan tâm phản

ánh nhiều nhất trong các tác phẩm của mình khi viết về đề tài Hà Nội là cuộc sống

và con người Hà Nội.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đề tài Hà Nội được xuất hiện trong

cả tác phẩm văn học lãng mạn lẫn hiện thực. Nhiều nhà văn viết theo khuynh

hướng lãng mạn đã phản ánh, khắc họa sâu sắc đời sống tâm hồn, tình cảm của

con người Hà Nội. Nhóm tác giả Tự lực văn đoàn đã có những tác phẩm tiêu biểu

theo khuynh hướng đó, như tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nửa

chừng xuân của Khái Hưng…Các nhân vật chính trong Tố Tâm đều thể hiện khá

rõ cốt cách Hà Nội. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: những nhân vật

trong Tố Tâm đều phảng phất giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố

Tâm “nền” lắm. Cô là con nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo

bánh sắt- chứ không bao giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng

chỉ diện tới mức bịt khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ. Có thể thấy

được hình ảnh con người Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám đã được Hoàng

Ngọc Phách khắc họa khá rõ nét trong tác phẩm.

Cũng như nhiều nhà văn viết về Hà Nội, Thạch Lam đặc biệt quan tâm, trân

trọng những nét văn hóa đặc trưng của mảnh đất kinh kỳ. Những nét văn hóa đó

được nhà văn gửi gắm trong lối kiến trúc các ngôi nhà cổ ở Hà Nội, nét văn hóa

ẩm thực của người dân Hà Thành…Và qua những nét văn hóa đó, người đọc nhận

rõ vẻ thanh lịch, tinh tế và sâu sắc trong tâm hồn người Hà Nội.

Cùng trong khuynh hướng lãng mạn với những nhà văn viết về Hà Nội,

nhưng Nguyễn Tuân lại khắc họa hình ảnh của những tao nhân mặc khách, những

19

trí thức Hán học qua những thú chơi tao nhã như thả thơ, thưởng trà, hát ca

trù...Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân đã gợi về những vẻ đẹp của một thời

quá vãng, qua đó người đọc cảm nhận được những nếp sống cũ của người Hà Nội.

Nếu như ở khuynh hướng lãng mạn, các nhà văn viết về Hà Nội thường đi

sâu khám phá thế giới tâm hồn, tình cảm, tâm trạng của người Hà Nội thì ở khuynh

hướng hiện thực, các tác giả lại tập trung phản ánh cuộc đấu tranh của người Hà

Nội với các tầng lớp áp bức thống trị lên cuộc sống của họ. Dưới cái nhìn hiện

thực, các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tô Hoài,

Nguyễn Huy Tưởng…hướng ngòi bút vào cuộc sống hiện thực của người dân Hà

Nội. Đó là những phóng sự nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng như: Cơm thầy cơm

cô, Cạm bẫy người, Làm đĩ…tái hiện một Hà Nội bát nháo, nhầy nhụa và nhếch

nhác. Đó còn là bản hùng ca Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, tập

bút ký Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài…

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hà Nội trở thành thủ đô của nước Việt

Nam mới. Đề tài Hà Nội, trong đó có hình ảnh con người Hà Nội, lại được các tác

giả quan tâm phản ánh với nhiều phương diện mới.

Vũ Bằng là một trong những cây bút hàng đầu viết về Hà Nội. Tác phẩm

Miếng ngon Hà Nội của ông tập trung thể hiện văn hóa ẩm thực của người Hà

Nội. Nhà văn Vũ Bằng đã thể hiện rõ nét thanh lịch của người thủ đô, sự khéo léo

của người dân Hà thành trong việc chế biến và thưởng thức các món ăn. Từ đó,

Vũ Bằng cho thấy ẩm thực không chỉ là một nhu cầu thiết yếu của con người mà

còn là một nghệ thuật, một nét văn hóa tiêu biểu của người Tràng An.

Cũng viết về ẩm thực Hà Nội, ngoài Vũ Bằng và Nguyễn Tuân, còn có các

cây bút tài hoa khác cũng đã thể hiện cái nhìn của mình về đất và người Hà Nội

trong các tác phẩm. Tiêu biểu có thể kể đến Hà Nội băm sáu phố phường của

Thạch Lam, Hà Thành hương và vị của Nguyễn Hà, Hương vị quê hương của

Mai Khôi, Thú ăn chơi người Hà Nội của Băng Sơn…Khởi nguồn cảm hứng

sáng tác của các tác phẩm ấy là những món ăn ngon của mảnh đất kinh kỳ. Qua

đó, người đọc thấy được giá trị văn hóa biểu hiện trong mỗi tác phẩm. Đặc biệt,

20

văn hóa ứng xử của người Hà Nội đã được các nhà văn khắc sâu, tô đậm trong

mỗi trang văn. Người Hà Nội đã hội tụ được nhiều nét đẹp của dân tộc Việt Nam

mà nổi bật là sự thanh lịch. Thanh lịch trở thành nét đẹp tinh thần của người Hà

Nội:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Nét thanh lịch ấy của người Hà Nội được hội tụ và tỏa sáng trong các trang

viết về Hà Nội của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Mai Khôi,

Nguyễn Hà…Gắn với nghệ thuật ẩm thực Hà Nội, nét thanh lịch của người Tràng

An được thể hiện từ cách chế biến, cách trình bày cho đến cách thưởng thức mỗi

món ăn. Trong cách nấu nướng, người Hà Nội tinh sành từ cách chọn, chế biến và

phối hợp nguyên liệu, cách pha trộn gia vị…Sự khéo léo của những đầu bếp Hà

Thành tạo ra những món ăn ngon, như nhà văn Vũ Bằng đã đúc kết: “Hà Nội ngon

là ngon từ cái dưa, quả cà, trách mắm; Hà Nội ngon là ngon từ bát canh hoa lý

nấu suông, mấy cái trứng cáy chưng lên ăn với gạo Mễ Trì hay đĩa rau muống xào

có gia thêm một chút mắm tôm; Hà Nội ngon là ngon từ miếng cá thu kho với nước

mía ăn với gạo tám thơm vào đầu đông, mấy bìa đậu sống ở Phú Thụy chấm với

mắm tôm chanh ớt vào một ngày oi bức hay một chén sấu dầm nhót vào một ngày

đìu hiu cuối thu”[40, 128]. Trong cách trình bày mỗi món ăn, người Hà Nội chú ý

tới sự sạch sẽ, lịch sự và trang nhã tạo ra sự ngon miệng và ngon mắt. Thạch Lam

đã quan sát một cô hàng cơm khéo léo trong cách nắm cơm, bày hàng: “Cơm nắm

từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải màu trắng tinh để che

ruồi, muỗi. Con dao cắt sáng như nước và lưỡi đưa ngọt như đường phèn. Cơm

cắt ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gọt bỏ lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng

miếng nhỏ vuông cạnh và dài, để bầy trên đĩa”. Sự thanh lịch trong thưởng thức

ẩm thực của người Hà Nội cũng được chú ý ở cả ba phương diện: khẩu thực, nhãn

thực và tâm thực. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tâm huyết, tình cảm của các

nhà văn dành cho đất và người Hà Nội thể hiện trong mỗi trang văn.

1.2.2. Hình ảnh con người Hà Nội trong văn học Việt Nam sau 1975

21

Chiến thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt

Nam. Sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, xã hội kéo theo sự thay đổi của đời sống

văn học. Trong thời kì đổi mới, nhiều tác giả vẫn dành hầu hết các trang văn của

mình để viết về Hà Nội như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Đỗ Phấn…

Nguyễn Việt Hà là nhà văn được nhiều người biết đến qua các tiểu thuyết

như Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người hay các tập tạp văn

như Con giai phố cổ, Đàn bà uống rượu...Trong các tác phẩm này, hình ảnh Hà

Nội dần hiện ra qua mỗi trang văn. Đó là hình ảnh Hà Nội trong suốt 600 năm trong

tác phẩm Ba ngôi của người; Hà Nội với những sự đổi thay, hao hụt các giá trị tinh

thần thời đương đại với các tác phẩm Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn. Không

gian trở đi trở lại trong những sáng tác của Nguyễn Việt Hà là khu phố cổ gắn với

Hồ Gươm, rộng hơn chút là quận Hoàn Kiếm. Đó là nơi Nguyễn Việt Hà gắn bó,

yêu thương và trân trọng. Hà Nội trong trang văn của Nguyễn Việt Hà mang hơi

thở náo nhiệt đương đại nhưng cũng giữ những nét xưa cũ. Dù viết về Hà Nội trong

lịch sử hay lúc đương thời, diện mạo Hà Nội cũng hiện lên với những con người

mang trong mình “một phẩm tính đặc biệt - độ tinh tế” như chính nhà văn đã bày

tỏ.

Nguyễn Trương Quý lại được biết đến qua những bài tản văn viết về Hà Nội.

Hà Nội hiện lên thật gần gũi, thân quen trong những tác phẩm Ăn phở rất khó

thấy ngon, Tự nhiên như người Hà Nội, Hà Nội là Hà Nội, Mỗi góc phố một

người đang sống, Còn ai hát về Hà Nội…Và điều đặc biệt là ở mỗi tác phẩm này,

hình ảnh người Hà Nội được Nguyễn Trương Quý khắc họa từ những góc độ khác

nhau. Đó là hình ảnh những người chốn công sở trong Ăn phở rất khó thấy ngon

hay hình ảnh những người dân sống và gắn bó với các không gian đặc trưng của

Hà Nội như phố cổ, Hồ Gươm, công viên, chợ...Trong Tự nhiên như người Hà

Nội, Mỗi góc phố một người đang sống nhà văn lại dựng lên chân dung những

người Hà Nội bình dị, thân quen với những gương mặt, lời ăn tiếng nói, lối giao

tiếp, sinh hoạt hàng ngày.

22

Nhà văn Đỗ Phấn vốn là một họa sĩ. Anh đã chuyển từ cầm cọ vẽ sang cầm

bút viết. Đỗ Phấn viết nhiều thể loại như tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết. Trong

những tác phẩm của anh, ta có thể nhận thấy tình yêu tha thiết với Hà Nội xưa

cùng những vẻ đẹp của mảnh đất này, đồng thời là nỗi xót xa trước những đổi thay

trong thời kinh tế thị trường. Với Dằng dặc triền sông mưa, tuổi thơ của một đứa

trẻ sinh ra và lớn lên gắn với Hà Nội thời chiến tranh, đi sơ tán rồi lại trở về đã

được Đỗ Phấn kể lại thật sống động với thái độ thật trìu mến, dịu dàng. Trong các

tác phẩm khác như Vắng mặt, Chảy qua bóng tối, Rừng người, Rụng xuống

ngày hư ảo, Rong chơi miền kí ức…Đỗ Phấn đã khắc họa hình ảnh những người

Hà Nội vô danh gắn với các sự kiện đời sống hàng ngày ở đô thị. Đằng sau những

câu chuyện đó là sự tiếc nuối về Hà Nội xưa cũ với những nếp sinh hoạt, thú ăn

chơi; những con người nho nhã và tinh tế. Hà Nội trong văn Đỗ Phấn là sự trộn

lẫn của những gì trong trẻo, đẹp đẽ của xưa kia và một đời sống hiện đại với những

xô bồ, danh lợi thời hiện tại.

Trả lời câu hỏi “Hà Nội của Hà là gì” trong buổi tọa đàm với chủ đề “Hà

Nội của Hà” tối ngày 07 tháng 01 năm 2015 tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn Việt Hà

đã từng nói: “Hà Nội chẳng của riêng ai. Nhưng trong từng người, Hà Nội lại có

từng ý riêng, cách nhìn và tình cảm riêng với mảnh đất này”. Điều này thật đúng

khi ta nhìn lại những sáng tác về Hà Nội từ xưa đến nay. Biết bao nhà văn, nhà

thơ đã viết về Hà Nội. Cũng bao người đang viết về Hà Nội. Và chắc chắn, đất Hà

Nội, người Hà Nội còn tiếp tục trở thành đề tài trong biết bao trang viết của các

nhà thơ, nhà văn của hiện tại và tương lai.

1.3. Nguyễn Khải và đề tài Hà Nội

1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Nguyễn Khải

Quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tư tưởng, là thước đo sự tiến bộ

nghệ thuật của một nhà văn. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Quan niệm

nghệ thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình

thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong

cách của nhà văn, làm thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ

23

thuật”[9, 275]. Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, Giáo

sư Trần Đình Sử cũng cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải,

cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương

tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ

thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật đó” [41, 55].

Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn

và chiều sâu triết lý của tác phẩm. Đây là một trong những yếu tố cơ bản, then

chốt nhất của chỉnh thể nghệ thuật. Quan điểm nghệ thuật góp phần tạo nên sự độc

đáo của tác phẩm. Mỗi nhà văn có thế giới quan, lý tưởng thẩm mỹ và cá tính sáng

tạo riêng nên mỗi người có cách lựa chọn thể hiện nhân vật riêng. Thậm chí ngay

trong một nhà văn, ở mỗi giai đoạn sáng tác khác nhau quan niệm nghệ thuật về

con người cũng có thể thay đổi. Nguyễn Khải chính là một nhà văn như thế. Ông

là nhà văn sớm hình thành bản lĩnh nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của ông đã

tạo nên một hệ thống luôn vận động qua các giai đoạn lịch sử và thống nhất trong

toàn bộ hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình.

Nguyễn Khải sinh ra ở Hà Nội trong một gia đình quan lại nhưng lại mang

thân phận của con vợ lẽ nên phải chịu nhiều tủi hờn cay đắng. Nguyễn Khải sống

với mẹ và em trai trong sự tẻ nhạt và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tình cảm. Ông đã

sớm phải lăn lộn mưu sinh để kiếm sống, nuôi mẹ và nuôi em. Chính những trải

nghiệm với những đắng cay tủi nhục ngay từ thời niên thiếu đã ảnh hưởng phần nào

tới cuộc đời và văn chương của ông. Cuộc đời riêng của ông có những đổi thay gắn

liền với những bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Có thể nói, Cách mạng tháng Tám

và cuộc kháng chiến chống Pháp đã mang đến cho ông nhiều thay đổi lớn, đem lại

cho ông cơ hội tự khẳng định mình, cơ hội tạo dựng cho mình một cuộc đời, một sự

nghiệp. Đầu năm 1947, ông gia nhập đội tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó

vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Ông tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và chống Mĩ với tư cách là một nhà văn quân đội. Trong cuộc đời cầm bút của

mình, dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Khải cũng luôn thể hiện sự nhạy bén và năng lực

khám phá sâu sắc hiện thực đời sống. Là nhà văn mặc áo lính, ông luôn ý thức đúng

24

đắn về vai trò và sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt

nhất của cuộc chiến giành độc lập dân tộc. Khi đất nước thống nhất, trở về với thời

bình, ông cũng là một trong những nhà văn sớm nhận thức rõ nhu cầu đổi mới văn

học và trở thàn một trong những cây bút đi tiên phong trong việc đổi mới văn học

thời kỳ sau 1975.

Trong giai đoạn 1945-1975, văn chương trở thành một thứ vũ khí phụng sự

đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Đa số các tác giả văn học Việt Nam quan niệm

vẻ đẹp con người gắn với ý thức về sứ mạng và lý tưởng cách mạng, với sức mạnh

và hành động cải tạo, xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Trên cơ sở quan

niệm ấy, các nhà văn đã sáng tạo ra các hình tượng điển hình, sống động, khắc họa

chân dung và vẻ đẹp tinh thần của con người Việt Nam trong một chặng đường

lịch sử vẻ vang của dân tộc. Đó là con người cộng đồng, gắn bó với cộng đồng,

hiện thân cho dân tộc và thời đại. Vào thời điểm bắt đầu khẳng định được vị trí

của mình, Nguyễn Khải đã viết: “Đối với mỗi người bắt đầu bước vào nghề viết

hiện nay thì người đỡ đầu quan trọng nhất, có tác dụng quyết định nhất, là cuộc

sống (…) và Đảng Cộng sản thân yêu, nơi nương tựa vững chắc, tin cậy về đời

sống tinh thần, phương hướng của mọi suy nghĩ và hoạt động, là lẽ sống, là cội

nguồn của những đức tính đẹp nhất của mỗi chúng ta” [42, 471]. Các nhân vật

của Nguyễn Khải trong giai đoạn này chủ yếu được soi chiếu trên bình diện giai

cấp và cuộc sống tập thể. Nguyễn Khải cho rằng: “Chỉ có người chiến sĩ với các

trận đánh của họ mới là đáng viết. Còn cuộc sống kháng chiến của một cơ quan,

một gia đình, một bản làng heo hút bỗng chốc trở nên nhộn nhịp, của những dãy

phố bất thần mọc lên rồi bất thần mất đi, chỉ là những chuyện tẻ nhạt thường ngày,

không đáng viết, cũng chả cần ghi chép. Viết cái thường ngày là văn học cũ, viết

cái phi thường là văn học mới. Viết về những hi sinh, những day dứt, những nỗi

khổ đau của cá nhân là văn học cũ. Viết về những chiến công của tập thể, những

hi sinh không tính toán cho tập thể là văn học mới” [42, 270]. Nguyễn Khải đã thể

hiện cái nhìn lí tưởng hóa về hiện thực và con người phù hợp với yêu cầu chính

trị và quan niệm thẩm mĩ của thời đại. Sự khắc họa miêu tả nhân vật thường để

25

làm nổi bật một khía cạnh, một vấn đề nào đó đang đặt ra trong đời sống xã hội,

chính trị của đất nước. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn Nguyễn Khải thường rất

tỉnh táo khi dẫn dắt nhân vật theo một đường hướng nhất định, luôn chỉ cho họ

phải làm gì để phục vụ cho mục đích, tư tưởng mà tác giả đề xuất. Trong Tầm

nhìn xa, Biền là một nhân vật tiêu biểu cho kiểu quan niệm trên. Các nhân vật

Huân, Đào trong truyện ngắn Mùa lạc cũng là những minh chứng cho quan niệm

nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải trong giai đoạn này.

Sau năm 1975, đời sống xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi của văn học.

Cùng với sự “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật”, các nhà văn có sự đổi mới

trong quan niệm nghệ thuật về con người. Từ con người sống đời sống cộng đồng,

gắn bó với cộng đồng, hiện thân cho dân tộc và thời đại chuyển sang con người cá

nhân, con người tự ý thức. Mỗi con người được nhìn nhận là một cá thể bình

thường trong những môi trường sống bình thường. Nguyễn Khải cũng thể hiện rõ

sự chuyển biến đó đặc biệt là từ năm 1978. Con người trong sáng tác của ông được

đặt trong nhiều chiều, được định vị với những giá trị có tính căn bản, bền vững,

phổ quát chứ không chỉ phiến diện một chiều.

Ngòi bút Nguyễn Khải đã đạt đến chiều sâu nhân bản đáng trân trọng khi đề

cập đến cuộc đời, số phận con người trong đời thường. Nguyễn Khải đã làm cuộc

truy vấn chính mình khi nhìn lại những trang viết cũ: “Mấy chục năm qua tôi đã

viết về những ai nhỉ? Thì vẫn là viết về đồng đội, viết về bạn bè, về người thân kẻ

thuộc, là những người cùng thời với mình mà chính tôi là kẻ sinh ra họ cũng cảm

thấy còn xa lạ. Hình như họ sạch sẽ quá, thơm tho quá như từ khoảng không bước

ra chứ không phải từ bùn đất của Việt Nam sinh ra. Họ không có chỗ đứng cụ thể,

không có điểm tựa cụ thể, nội lực tự sinh chứ không qua bất kỳ sự gạn lọc nào từ

các nguồn nuôi dưỡng. Nó không thuộc cõi người nên không thể bay lên cõi văn

chương. Nghĩ mà tiếc cho những năm tháng đã qua, chỉ hiểu đời có một nửa, chỉ

biết người có một nửa, cái nửa ai cũng nhìn thấy, còn lại bỏ hẳn cái nửa mà chỉ

nhà văn mới nhìn thấy. Nên bây giờ lớn tuổi rồi mà vẫn cứ phải đi. Đi để tìm lại

những cái mà mình đã đánh mất” [42, 460]. Với cái nhìn toàn diện, Nguyễn Khải

26

thực sự trở thành nhà văn của đời thường, ông quan tâm nhiều đến những vấn đề

có tính chất triết lý nhân sinh hơn là đưa ra những vấn đề có tính chất chính luận.

Nguyễn Khải đặc biệt chú ý đến khát vọng tinh thần và những giá trị đạo đức,

nhân cách bền vững trước mọi tác động của hoàn cảnh. Vì thế, nhà văn thường thể

hiện sự tâm đắc với các nhân vật có trí tuệ, có cốt cách, biết lựa chọn cho mình

một lối sống, một cách sống mà họ tin là đúng.

Sau khi đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đứng trước

vận hội mới, các nhà văn quan tâm đến khả năng thích ứng của con người. Mỗi

người cần có sự lựa chọn phù hợp với thời đại nhưng mặt khác không đánh mất

mình. Nguyễn Khải đã đi tìm những giá trị tương ứng với con người, với thời đại

khi xây dựng thế giới nhân vật của mình. Đó là những giá trị nhân bản bền vững,

đó là cái thiện và những giá trị văn hóa tinh thần bền vững. Nhà văn Nguyễn Khải

đã coi con người là trung tâm của sự khám phá và suy ngẫm về hiện thực. Ông lấy

nhân vật là nơi thể hiện các quan niệm nghệ thuật và gửi gắm vấn đề mà mình

muốn đặt ra trong tác phẩm. Khi miêu tả diện mạo nhân vật, Nguyễn Khải ít chú

ý tới việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Ông chỉ tập trung vào một số chi tiết ngoại

hình tiêu biểu, gợi được nét tính cách và dự báo được số phận của nhân vật. Nhà

văn cũng ít chú ý tới việc khắc họa tính cách nhân vật qua hành động mà tập trung

sử dụng ngôn ngữ đối thoại như một phương tiện quan trọng giúp nhân vật tự biểu

hiện mình một cách rõ nhất. Ông còn trao cho nhân vật của mình quyền bình đẳng

về tư tưởng. Ông hay đưa cái tôi cá nhân của mình hoặc những người gần gũi mình

thành nhân vật trong tác phẩm để nói về những vấn đề của hôm nay, những vấn

đề thế sự và khai thác một cách triệt để tính cách, số phận nhân vật.

Khi tuổi đã cao, Nguyễn Khải vẫn say mê khám phá, bám sát đời sống và thể

hiện trong các tác phẩm của mình. Ông miệt mài viết lên những trang văn thể hiện

rõ cái nhìn và sự trải nghiệm về con người và cuộc đời. Chính sự thay đổi trong

quan niệm nghệ thuật về con người đã góp phần tạo nên sức sống và sự lôi cuốn

cho văn xuôi Nguyễn Khải. Ông xứng đáng là một trong những nhà văn tiên phong

của vănhọc Việt Nam thời kỳ đổi mới. Với những cống hiến trong đời văn, Nguyễn

27

Khải đã được nhận nhiều giải thưởng có giá trị. Đặc biệt, năm 2000, ông đã vinh

dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật và giải thưởng

Asean.

1.3.2. Đề tài Hà Nội trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải

Trong hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Khải tự phân chia quá trình sáng tác

của mình thành hai giai đoạn: “Từ 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách. Từ

1978 đến nay tôi sáng tác theo cách khác”. Và ở giai đoạn thứ hai, như chúng ta

đã biết, sáng tác của Nguyễn Khải thực sự nở rộ, và ông đặc biệt thành công ở thể

loại truyện ngắn. Một trong những đề tài được ông viết nhiều, viết hay nhất trong

giai đoạn này là đề tài Hà Nội. Đó là mảnh đất Nguyễn Khải đã sinh ra và sống

nửa đời người ở đó nên ông gắn bó và am hiểu sâu sắc về Hà Nội. Chính vì vậy,

Hà Nội hiện diện trong sáng tác của ông như một tất yếu. Nhưng có một điều đặc

biệt là ông viết về Hà Nội khi không còn sống trên mảnh đất đó nữa. Những năm

cuối đời sống ở Sài Gòn, trong lòng ông luôn khắc khoải khôn nguôi nỗi nhớ Hà

Thành như tâm trạng hoài cựu:

“Từ thuở mang gươm đi dựng nước

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ)

Ông nhớ về Hà Nội, nhớ những người con của thủ đô nghìn năm văn hiến.

Nguyễn Khải viết về Hà Nội dấu yêu với những kỷ niệm ấm nồng trong một tâm

thế mới. Chính Nguyễn Khải đã từng bộc bạch: “Không bỏ Hà Nội đi, làm sao viết

về Hà Nội với niềm nhớ thương khắc khoải lòng người đến thế”. Nguyễn Khải viết

về Hà Nội với một hoài niệm tràn đầy, một nỗi nhớ da diết, một tình yêu lớn lao.

Hà Nội hiện lên trong sáng tác của ông với bao “cảnh cũ, người xưa”. Một Hà Nội

của hôm nay và mãi mãi về sau với “Những giấc mộng đẹp, những cách sống đẹp,

những mặt người tuyệt đẹp thời nào cũng có xuất hiện nối tiếp nhau cho tới vĩnh

viễn” [17, 188].

Sự độc đáo của nhà văn ở ngay sự lựa chọn đề tài. Có thể nói, Hà Nội chỉ là

một đề tài trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và khi viết về Hà Nội, ông chỉ chăm

chú vào những vấn đề của người Hà Nội. Những câu chuyện về Hà Nội của ông

28

thường có cốt truyện nhẹ nhàng nhân văn đậm chất đời thực. Nguyễn Khải đã đi

thăm những nơi ông đã sống, gặp lại những người thân thiết hoặc quen biết của

ông, và ông viết về họ. Ông viết về cuộc sống hôm nay của những người chung

quanh, của bạn bè đồng nghiệp. Ông viết về số phận của những người trong họ

hàng nội ngoại của mình, những ông cậu, bà mợ, bà cô mà tâm tư tình cảm của

ông còn quyến luyến. Mỗi nhân vật trong mỗi câu chuyện đều ít nhiều liên quan

trực tiếp đến tác giả. Hình ảnh con người Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Khải

hiện lên thực phong phú. Ở đó có trẻ, có già; có người thông minh, tháo vát, có

người vụng về chậm chạp; có kẻ lạc thời bế tắc và có người gặp thời; có người

chân thật và cũng có kẻ xảo trá…Nguyễn Khải cũng viết khá nhiều về lớp người

trẻ tuổi - những nhân vật chính của một vận hội mới - thời mở cửa hội nhập kinh

tế thị trường. Ông đánh giá đúng tiềm năng của họ, họ giỏi tính toán làm ăn, hợp

với thời buổi kinh tế thị trường. Nhưng ông cũng nhận ra những khiếm khuyết của

họ trước sự chi phối mạnh mẽ của đồng tiền. Qua những trang văn của ông, chúng

ta có thể thấy rõ những gương mặt người Hà Nội trong các giai đoạn, hoàn cảnh

khác nhau. Những truyện ngắn trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi đã thể hiện

rõ sự yêu thương, trân trọng và kính phục những con người Hà Nội. Hình ảnh

người Hà Nội hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Khải thật đẹp, mỗi người có

một dáng vẻ, cách ứng xử trước thời thế khác nhau.

Người Hà Nội hiện lên trong sáng tác của Nguyễn Khải như những nhân cách

sống. Đó là những người gắn với mảnh đất nơi ông sinh ra và có bao kỷ niệm thời

trẻ. Họ là những con người bình thường, đa số họ đều lặng lẽ sống, nếu là nhà văn

thì cũng lặng lẽ viết. Nhưng nhiều người trong số họ có nhân cách thật đẹp, họ vẫn

giữ được phẩm cách đó trước những dâu bể của cuộc đời. Trong những câu chuyện

cảm động của Nguyễn Khải về những con người bình thường ở Hà Nội thường ẩn

chứa những suy tư, chiêm nghiệm làm người đọc phải suy ngẫm: “Chỉ có cái tâm

tốt của con người mới làm nảy nở cái mầm yêu thương” (Nắng chiều); “Cái nghĩa

tình thầm lặng, nhỏ nhoi của mỗi gia đình, của mỗi vùng đất luôn bị quên đi trong

cái ồ ạt, xáo động, ngầu đục của dòng đời vẫn cứ là mạch nước ngầm trong suốt,

vô nhiễm để nuôi sống những tinh hoa của dân tộc” (Đất kinh kỳ); “Ở đời chỉ có

29

cái đức là trường tồn, càng có nhiều càng tốt, không sợ thừa. Kì dư những thứ

khác đều là phù du cả, có đấy, mất đấy, phúc đấy, họa đấy, không tính trước được

đâu” (Người của ngày xưa). Hình ảnh người Hà Nội như “hạt bụi vàng” của Hà

Nội, và nhà văn ao ước “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà

Nội, hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ sáng chói những ánh vàng” (Một

người Hà Nội). Nhà văn đã gửi gắm vào mỗi tác phẩm tâm nguyện to lớn mà suốt

cuộc đời ông luôn trăn trở.

Như vậy có thể thấy, khi viết về đề tài Hà Nội, những tác phẩm của Nguyễn

Khải đã dựng nên một chân dung khá toàn vẹn và sống động về Hà Nội với các

nhân vật, các cuộc đời được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Tác giả đã

quan sát và ghi chép hiện thực ở nhiều góc độ, nhiều phương diện, nhiều lát cắt.

Những tác phẩm của ông làm nổi lên các chủ đề chính: Vẻ đẹp văn hóa của Hà

Nội và của người Hà Nội, nếp nhà, sự tha hóa của nhân cách con người trong bối

cảnh mới, nguy cơ đánh mất các giá trị truyền thống, chân dung của các nghệ sĩ

đất Hà Thành…Nguyễn Khải cũng thể hiện trong đó những lo âu, những cảnh báo,

và cả những yêu thương, ấm áp một niềm tin sâu sắc vào con người, vào cuộc đời,

vào sự trường tồn của cốt cách con người Hà Nội. Thông qua những tác phẩm viết

về Hà Nội, Nguyễn Khải đã thể hiện tính triết luận sâu sắc. Đó là những trăn trở

về một xã hội kim tiền, những giá trị văn hóa, gia phong của người Hà Nội trước

ngưỡng cửa đổi mới. Đó là những suy tư của nhà văn về những đổi thay trong văn

hóa ứng xử, những lo lắng có phần xa xôi của người bà cô cho tương lai của ngôi

nhà khi viết sẵn di chúc và phân chia tài sản ngay khi còn khỏe mạnh…

Nguyễn Khải đã thể hiện sự thay đổi về nhận thức khi chuyển từ tính triết

luận mang cảm hứng chính trị thời đại sang tính triết luận mang hơi thở của cuộc

sống thường nhật. Ông tập trung vào những con người bình thường, những “hạt

bụi vàng” để trăn trở với thời cuộc. Những tác phẩm viết về Hà Nội của Nguyễn

Khải như một sự “nhìn lại” của ông, một sự lắng, tĩnh cần thiết trước những xô bồ

của xã hội đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Bằng cái nhìn riêng của mình, nhà

văn đã khẳng định và lưu giữ những dấu ấn văn hóa của đất kinh kỳ. Đó là nếp

sống sang trọng, thanh lịch của Một người Hà Nội; những ước vọng bình dị, đẹp

30

đẽ của Nghệ nhân ở làng; là nỗi lòng của một bà cô suốt đời lo việc giữ Nếp

nhà...Nhân vật của Nguyễn Khải có những con người rất truyền thống nhưng cũng

có những nhân vật là đại diện của vận hội mới, một thời đại mới. Ông nhận thấy

những tiềm năng to lớn ẩn chứa trong họ nhưng ông cũng có những đánh giá thẳng

thắn và chiêm nghiệm sâu sắc: “Còn phải gạn lọc chán những giá trị ấy mới trở

thành giá trị thật để chấn hưng dân tộc” (Chúng tôi và bọn hắn). Ông thể hiện rõ

sự trân trọng, nâng niu những “hạt bụi vàng” bay lên từ đất kinh kỳ…

31

Tiểu kết chương 1

Ở chương này, chúng tôi tập trung xác định rõ nội hàm các khái niệm “nhân

vật” và “thế giới nhân vật”, để thấy được vị trí và vai trò của con người trong thế

giới nhân vật của các tác phẩm văn học. Từ cơ sở đó người viết khẳng định con

người là nhân vật thường gặp nhất trong các tác phẩm văn học hình ảnh con người

góp phần thể hiện thế giới nhân vật mà các nhà văn xây dựng lên trong các tác

phẩm của mình. Chúng tôi cũng tìm hiểu sơ lược về đề tài Hà Nội trong văn học

hiện đại Việt Nam. Đây là một đề tài quen thuộc, hấp dẫn thu hút nhiều nhà thơ,

nhà văn và nhiều tác giả đã thành danh với đề tài này.

Nhà văn Nguyễn Khải có một vị trí quan trọngvà những đóng góp đặc biệt

trong nền văn học Việt Nam nói chung và nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới

nói riêng. Khi viết về đề tài Hà Nội, Nguyễn Khải đã có cách khám phá, khai thác

riêng khiến những trang văn của ông không thể bị trộn lẫn hay nhòe mờ. Ông tập

trung vào khắc họa hình ảnh con người Hà Nội ở những thời kỳ khác nhau để qua

đó bộc lộ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người.

Với những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn ban đầu đó, chúng tôi tập trung

nghiên cứu hình ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ

đổi mới ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

32

CHƯƠNG 2.

PHẨM CHẤT NGƯỜI HÀ NỘI

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. Nét thanh lịch, chất trí tuệ và đức hi sinh của những người phụ nữ Hà

Nội xưa

Mảnh đất Thăng Long - Hà Nội đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nơi chứng

kiến sự hưng vong của rất nhiều triều đại. Đây cũng là nơi tinh hoa văn hóa dân

tộc hội tụ và lan tỏa. Theo thời gian, trước những xô bồ đổi thay của cuộc sống,

trước tác động của thời kỳ hội nhập, rất nhiều thứ, nhiều giá trị đã bị thay đổi, song

những người Hà Nội vẫn luôn âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của đất Tràng

An xưa. Điều đó được thể hiện ở lối ăn mặc, nói năng và ứng xử với thời đại. Dẫu

đó là thời kỳ bao cấp khó khăn, thời chiến tranh ác liệt hay thời kỳ hội nhập phát

triển sau này. Người Hà Nội xưa và nay luôn có những nét tính cách nổi bật. Qua

thời gian, các nét đẹp trong tính cách người Hà Nội được lịch sử kết tinh, được

nâng lên thành phẩm chất đặc trưng, thành phẩm cách của người Hà Nội. Nhiều

nhà thơ, nhà văn đã dụng công, dụng tâm khi khắc họa hình ảnh con người Hà Nội

với những phẩm chất đặc trưng của họ. Nhà văn Nguyễn Khải cũng vậy. Ngòi bút

của ông đặc biệt chú ý tới hình ảnh những người phụ nữ Hà Nội xưa để khám phá,

phát hiện những nét đẹp của họ.

2.1.1. Nét thanh lịch, trí tuệ

Nét thanh lịch là đặc trưng lớn, nổi bật và dễ nhận thấy của người Hà Nội,

được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau trong cuộc sống. Nét thanh lịch của

người Hà Nội vừa mang bản sắc riêng, vừa là kết quả hội tụ nhiều nét đẹp ở các

vùng miền khác nhau. “Thanh” được hiểu là: thanh cao, tươi tắn, dịu hiền; “lịch”

là: khéo léo, khuôn phép, hiểu biết, cởi mở…Nét thanh lịch của người Hà Nội

được biểu hiện ở nhiều phương diện: đi đứng, nói năng, ăn mặc…và trong cách

ứng xử từ gia đình đến ra ngoài xã hội.

33

Người Hà Nội, đặc biệt là người phụ nữ, luôn tự hào với vẻ thanh lịch và dấu

ấn Hà Thành cổ kính trong văn hóa mặc của mình. Họ mặc đẹp, cái đẹp của sự

nền nã, kín đáo chứ không phô trương, lòe loẹt và luôn đề cao sự thanh lịch. Nét

văn hóa đặc trưng này luôn được họ giữ gìn ngay cả trong thời chiến tranh thiếu

thốn, những năm tháng bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc của thời kì đổi mới.

Qua trang phục của các nhân vật trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi đã giúp

độc giả nhận diện các thời đại. Người Hà Nội luôn ưa chuộng sự gọn gàng, chỉnh

tề và trang nhã. Là những người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, chị em bà Tú

Dâu trong Một người Hà Nội ăn mặc theo đúng mốt của thời ấy: “Khăn vấn bỏ

đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc quần lĩnh bưởi và đi

hài” [17, 115]. Hình ảnh quen thuộc của các cô gái tân thời cuối những năm 30

của thế kỉ XX “tóc vấn trần, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng chạm vừa thô

vừa nặng”. Hình ảnh cô Hiền trong Một người Hà Nội thì tân tiến hơn với “cạo

răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết, hoặc trắng hết. Còn

nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn” [17, 115].

Trong thời kì chống Mĩ cứu nước, trong khi phần lớn người dân cả nước sống

theo phong cách thời chiến thì gia đình cô Hiền vẫn giữ cách ăn mặc sang trọng,

quý phái: “Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy đi giày da, bà mặc áo măng tô cổ

lông, đi giày nhung đính hạt cườm” [17, 113]. Rõ ràng, nhà cô Hiền có cách ăn

mặc không giống với số đông. Khi phong trào bình dân đang lan rộng khắp đời

sống xã hội thì gia đình cô vẫn giữ lối sống như trước. Phải chăng đó là biểu hiện

của giai cấp tiểu tư sản, phải chăng đó là họ không có lòng yêu nước và tinh thần

dân tộc? Nhưng cô Hiền đã khẳng định, gia đình cô “có bộ mặt rất tư sản, một

cách sống rất tư sản nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”

[17, 119]. Họ vẫn giữ nguyên lối cũ trong cách mặc của những người trong gia

đình chỉ vì họ thấy không cần thiết. Họ là những con người luôn coi trọng những

nét đẹp riêng vốn có của Hà Nội, họ không muốn cái thanh lịch, sang trọng mang

nét đặc trưng của Hà Nội bị mất đi. Họ không muốn mình trở thành những kẻ xu

thời chạy theo phong trào bình dân của thời đại. Đó không phải là biểu hiện của

34

sự bảo thủ, không chịu tiếp nhận cái mới. “Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn,

quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt

đầu” [17, 124]. Nhưng trong những bữa ăn họp mặt bạn bè “những tên tuổi đã

thành danh của đất kinh kỳ”, họ vẫn diện những trang phục sang trọng của ngày

xưa như một sự trân trọng đối với quá khứ và thể hiện bản sắc văn hóa riêng của

con người Hà Nội. Điều đó còn bộc lộ sự sâu sắc của những người rất mực trân

trọng nét đẹp của Hà Nội đã có từ xa xưa.

Nét thanh lịch, chất trí tuệ và sự đảm đang của người phụ nữ Hà Nội được

biểu hiện rõ rệt trong việc họ gìn giữ nếp nhà. Người Việt Nam có lối sống duy

tình, trọng nghĩa. Sự gắn bó, yêu thương trong cộng đồng dân tộc, trong mỗi gia

đình đã trở thành nét đẹp trong truyền thống người Việt. Với Nguyễn Khải, khi

viết về mỗi ngôi nhà, mỗi gia đình, ông đặc biệt chú trọng “nếp nhà”. Và trong

mỗi gia đình ấy, để giữ được gia phong vai trò đầu tiên và quan trọng nhất phải kể

đến là những người phụ nữ. Nhà văn chú ý khai thác cá tính, nhân cách, bản lĩnh

của họ trước mọi tác động của hoàn cảnh. Họ là những con người mang đậm cốt

cách văn hóa Hà Nội, luôn lựa chọn cho mình một lối sống mà họ tin tưởng là

đúng, một lối sống để khẳng định nhân cách của mình. Viết về họ, Nguyễn Khải

đã khám phá ra nhiều giá trị nhân văn sâu sắc ẩn chưa đằng sau những con người

rất đỗi nhỏ bé, bình thường giữa cuộc sống thường. Ở họ sáng lên vẻ đẹp tâm hồn,

nhân cách cao thượng, biết sống tự trọng và tự hào về nơi mình đang sống. Nhà

văn chú ý khai thác vẻ đẹp trí tuệ và bản lĩnh của những người phụ nữ đó, họ luôn

tỉnh táo và lý trí trước thời cuộc, chèo chống gia đình giữa dòng xoáy của xã hội.

Họ chính là những người yêu và gắn bó với mảnh đất Hà Nội hơn ai hết.

Có thể nhận thấy Nguyễn Khải đã dành nhiều tâm sức để viết về những người

phụ nữ thông minh, sắc sảo, luôn gìn giữ nề nếp gia phong cho cả gia đình. Điều

này được thấy rõ qua nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội. Có

thể nói, đây là tác phẩm chứa nhiều tình cảm, sự ngưỡng vọng của nhà văn về

mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến. Gia đình cô Hiền là một hình ảnh

điển hình còn giữ được những cốt cách văn hóa Hà Nội. Cô Hiền chính là người

35

có vai trò quan trọng nhất trong việc giữ gìn truyền thống, nếp nhà mình. Cũng

như bao người Hà Nội khác, cuộc đời cô Hiền đã trải qua bao thăng trầm cùng

lịch sử, nhưng cô vẫn giữ được cốt cách, bản lĩnh văn hóa người Hà Nội. Thời

chiến, cô và gia đình không đi tản cư mà ở lại Hà Nội vì họ “không thể rời xa Hà

Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác” [17, 112]. Mỗi thành

viên trong gia đình cô đều là những người Hà Nội sống có phẩm chất và nhân

cách cao đẹp. Những người con thuộc về một thế hệ thanh niên hăng hái lên

đường nhập ngũ vì mong muốn được cống hiến cho đất nước. Vợ chồng cô Hiền

thuộc tầng lớp thượng lưu luôn cố gắng lưu giữ nét thanh lịch, sang trọng từ cách

ăn mặc, cách đi đứng, nói năng theo những chuẩn riêng của người Hà Nội. Cô

Hiền là nhân vật hội tụ đầy đủ vẻ đẹp nhân cách người Hà Nội. Là một người

phụ nữ thông minh, sắc sảo, giỏi thích ứng, cô thu xếp, tính toán việc nhà việc

nước một cách khôn khéo tài tình. Với tư cách là một người vợ, người mẹ, người

giữ lửa trong gia đình, ở nhân vật này luôn toát lên một vẻ đẹp của nhân cách,

của lối sống văn hóa, của bản lĩnh mạnh mẽ. Cô luôn sống và hướng gia đìnhmình

theo những quan niệm riêng, không bị biến suy theo những đổi thay của thời

cuộc. Cô Hiền và gia đình luôn tỉnh táo sáng suốt, không xu thời cũng không bị

lạc thời. Trước những đổi thay của đất nước, cô Hiền vẫn giữ cho mình và gia

đình một nếp sống rất đáng nể trọng. Cô không ép buộc, gò bó bản thân và gia

đình theo mực thước của thời xưa, cũng không cho phép sống buông thả tùy tiện.

Trong khi xã hội đang chuyển theo xu thế bình dân, mọi người đều sống bình

dân, có khi còn cố làm ra vẻ bình dân thì cô Hiền vẫn dạy con theo nề nếp cũ. Cô

chú ý sửa cho con từ cách ngồi, cách cầm bát, cầm đũa, cách múc canh, cả cách

nói chuyện trong bữa ăn. Cô nhắc nhở con cháu phải luôn ý thức rõ mình là người

Hà Nội và phải sống sao cho xứng đáng với điều đó. Cô giữ gìn khuôn phép gia

đình theo một nề nếp gia phong với chuẩn mực là lòng tự trọng: “Chúng mày là

người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện,

buông tuồng. Có lần tôi cãi: Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy

con cái theo thời bình là khó lắm. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: Tao chỉ dạy

36

chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra sao là tùy” [17,

122]. Việc dạy dỗ con cái của cô Hiền không chỉ chú trọng những hành vi cụ thể

trong cách đi đứng, nói năng, ăn uống mà trên hết cô hướng tới nhân cách con

người với cốt lõi là lòng tự trọng. Cô coi lòng tự trọng là cái gốc, là nền tảng của

mọi cách sống, là quy chuẩn của mọi giá trị. Con người dù sống ở bất kì thời đại

nào, hoàn cảnh nào cũng cần có lòng tự trọng. Chính nhờ cách giáo dục về lòng

tự trọng mà các con cô Hiền đều biết sống có trách nhiệm với cộng đồng, đất nước.

Khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, việc hai người con của cô

xung phong nhập ngũ đã thể hiện rõ lòng tự trọng của họ. Cô Hiền đau đớn mà

bằng lòng cho các con đi chính là giữ cho con và cho chính mình lòng tự trọng:

“Tao đau đớn mà bằng lòng vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của

bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng…Tao không khuyến khích cũng không

ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng

là một cách giết chết nó…Tao cũng muốn được sống bình đẳng như các bà mẹ

khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì” [17, 122-123].

Ở cô Hiền ngời sáng một nhân cách cao đẹp của một người Hà Nội. Cô chính

là “người giữ hồn thiêng của đất kinh kỳ”, là đại diện cho vẻ đẹp của lối sống,

nhân cách Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha

trộn”. Điều đó đã giúp cô Hiền giữ được nếp nhà qua bao thăng trầm sóng gió của

thời đại, góp phần giữ được tinh hoa văn hóa đất Hà Thành. Nguyễn Khải đã ví cô

như “một hạt bụi vàng của Hà Nội”. “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi

góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh

vàng” [17, 130].

Nhân vật bà cô trong Nếp nhà cũng được nhà văn khắc họa nổi bật với một

lối sống, một cá tính luôn tự tin, dễ dàng hòa hợp với thời đại, luôn khuôn phép,

truyền thống mà không bảo thủ, cố chấp. Chính trí tuệ sắc sảo giúp bà có cách

cư xử khéo léo, uyển chuyển trong cuộc sống, để gia đình được ấm êm, thuận

hòa. Bà sống với dâu, rể rất tế nhị, tinh tế nên được cả con dâu và con rể quý

mến, nể trọng. Người con dâu của bà vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, kiêu

37

hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Thế nhưng hai người phụ nữ ấy sống trong

một gia đình rất thuận hòa. Bởi lẽ, bà đối xử với con dâu khéo léo, chân tình.

Chính bà đã nhận thấy: “Đúng là tôi có phần phải chịu nó, nhưng nó cũng có

phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu một nửa” [17, 9]. Con dâu đối với bà là “vàng

trời cho”. Bà đã nghĩ: “Mình không có công đẻ ra nó, cũng không nuôi nó ăn học

ngày nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái cho dòng họ, cáng

đáng mọi việc từ trẻ đến già, không lễ sống nó thì thôi còn hạnh họe nỗi gì” [17,

9]. Suy nghĩ của bà chứng tỏ bà là người có trí tuệ sắc sảo và tân tiến. Bà chiều

và quý trọng con dâu thật lòng nên cả hai cô con dâu đều cởi mở, gắn bó với bà.

Không phải một sớm một chiều mà họ có thể sống được với nhau như vậy. Đó

là cả một quá trình hình thành nếp sống, nếp nghĩ qua nhiều thế hệ mà tạo thành

vậy.

Người Hà Nội rất coi trọng gia đình, gia phong bởi đó là cái nôi tạo nên các

thế hệ tương lai của đất nước. Cha mẹ, ông bà luôn là tấm gương cho con cháu noi

theo. Trong Nếp nhà, tính triết luận của Nguyễn Khải dường như hòa quyện vào

cách nghĩ, cách ứng xử trong gia đình. Đó là cách ứng xử rất văn hóa của một gia

đình nề nếp đến cổ điển: “Trong nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu

mày, câu tao” [17, 10]. Ngay cả việc chia tài sản vốn là chuyện dễ gây những mối

bất hòa thậm chí có thể làm tan nát một gia đình, thế nhưng cách ứng xử của nhân

vật bà cô tỏ ra rất thuyết phục. Bà chia tài sản thành sáu phần không ai hơn ai,

không ai phải bỏ phần của mình ra để lo việc chung, đó là cách giữ cho nếp nhà

luôn được êm ấm. “Chia khéo thì trai gái dâu rể mãi mãi là con của mình, mãi

mãi là anh em ruột thịt của nhau. Chia vụng thì xẻ đàn tan nghé ngay tức khắc,

càng đông con cháu càng lắm mối họa” [17, 13]. Bà sống theo những nguyên tắc

của riêng mình, dù “thời thế có thay đổi nhưng cách sống của bè dứt khoát không

thay đổi. Đó là: Sống thẳng thắn, sống lương thiện và sống theo pháp luật hiện

hành” [17, 6].

Bà cũng là người đã chèo lái gia đình qua bao sóng gió của thời cuộc. Sống

giữa thủ đô nhộn nhịp với những đổi thay của thời cuộc, nhiều người đều mải miết

38

đi tìm sự giàu sang bằng mọi cách, nhưng bà vẫn giữ nguyên vẹn suy nghĩ: “Thời

bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu,

nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo

dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm

mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở

trong tay mình nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không

dễ” [17, 10].

Bà đã giãi bày về việc gìn giữ “nếp nhà”: “Con người ta ai cũng có phần

thiện phần ác. Muốn dưỡng thiện diệt ác thì trong nhà phải có gia pháp, ngoài xã

hội phải có luật pháp. Trong gia pháp có phần truyền thống và danh dự của dòng

họ, có phần đạo đức của người trên và nghĩa vụ của kẻ dưới. Gia pháp cũng phải

theo thời mà điều chỉnh, quá ngược với thời thế thì con cháu khó theo, quá xu mị

thời thế thì bỏ mất gốc rễ”[17, 14]. Điều này lí giải vì sao một ngôi nhà đáng giá

như vậy mà bà không bán đi để lấy tiền cho con cái làm ăn cho phù hợp với xu thế

thời đại lúc bấy giờ. Bà cho rằng tiếp xúc nhiều với tiền con người ta có thể sẽ

đánh mất nhân cách của mình. Có thể thấy bà luôn đúng vì bà là người rất tỉnh táo,

khôn ngoan. Nguyễn Khải gọi đó là “cái khôn ngoan cao siêu chứ không phải

khôn vặt” [17, 7]. Bà chỉ nhận những gì đáng có, có quyền được nhận, không bị

mê hoặc bởi đồng tiền hay tình cảm. Từng hành động, suy nghĩ, lời nói của bà đều

thể hiện một cốt cách sống cao đẹp và rất đáng nể trọng.

Bên cạnh những người phụ nữ thông minh, sắc sảo như cô Hiền (Một người

Hà Nội), hay bà cô (Nếp nhà) thì cô Nhật trong Đất kinh kỳ, chị Khuê trong

Người vợ, bà Mặm trong Người của ngày xưa…cũng là hình ảnh những người

phụ nữ Hà Nội đã và đang góp công lớn trong việc gìn giữ những nếp nhà. Nguyễn

Khải viết về mối tình của cô Nhật với nhà văn Hồ Dzếnh thật sâu sắc, xúc động

biết bao. Hình ảnh cô Nhật trong giây phút tiễn biệt chồng về thế giới bên kia như

đọng mãi trong tâm trí người đọc: “Suốt mấy năm bà sống với giây phút vĩnh biệt

từng giờ, nửa đêm thức giấc lại nghe có ai gọi: Mình ơi! Ông bà sống với nhau

đã bốn chục năm chứ có ít ỏi gì, lại đã ở tuổi bảy mươi mà lúc chia ly vẫn đau

đớn, vật vã như họ còn rất trẻ” [17, 37]. Chính những nghĩa tình thầm lặng, nhỏ

39

nhoi của mỗi gia đình như gia đình cô Nhật và nhà văn Hồ Dzếnh đã góp phần tạo

nên nét đẹp của văn hóa Hà Nội, tạo nên tinh hoa của dân tộc Việt Nam trọng

nghĩa trọng tình.

Còn chị Khuê - vợ của nhà văn Trần Dần - một người vợ luôn nhẫn nhịn và

nhún nhường chồng mình. Nhưng chị cũng xác định rất rõ là có thể nhân nhượng

và nín nhịn chồng đủ chuyện, chỉ giữ cho mình cái quyền dạy con. Chị coi “dạy

con là quyền của chị, chị là nhà độc tài trong lãnh vực này” [17, 56]. Chị đã xây

dựng trong gia đình mình những quy định được gọi là “luật của nhà”. Ngay cả

Trần Dần - người chồng, người cha trong gia đình ấy - có thể nói những điều mình

muốn, làm những điều mình thích, nhưng đó là ở bên ngoài. Còn khi đã về nhà là

phải tuân thủ “luật của nhà”. Sở dĩ chị Khuê làm như vậy cũng là vì các con, chị

chẳng sợ ai, chẳng sợ cái gì, nhưng lại sợ các con hư. Chị muốn các con lớn lên

trở thành những người có học, có văn hóa, tức là để giữ cho gia đình mình một

“nếp nhà”.

Trong Người của ngày xưa, bà Mặm vốn con nhà nghèo nhưng gia giáo rất

nghiêm, con cái đi đâu, làm gì cũng phải thưa trình. Đến khi lấy chồng, sinh con,

bà vẫn giữ những điều đã được răn dạy khi ở nhà cùng cha mẹ. Bà nuôi con ăn

học, dựng vợ gả chồng cho các con với những suy nghĩ và việc làm rất thấu tình

đạt lý. Khi đã ở tuổi xưa nay hiếm, bà vẫn tỉnh táo, sáng suốt căn dặn con cháu:

“Các anh chị nuôi dạy con cháu rồi cưới vợ gả chồng cho chúng nó, nhớ lấy cái

đức làm đầu, tài sắc phú quý tính sau. Ở đời chỉ có cái đức là trường tồn, càng có

nhiều càng tốt, không sợ thừa. Kỳ dư những thứ khác đều phù du cả, có đấy mất

đấy, phúc đấy họa đấy, không tính trước được đâu” [17, 67].

Có thể nhận thấy, những người phụ nữ hết lòng gìn giữ những “nếp nhà” ấy

đều là những người thấu hiểu lòng người và lẽ đời. Nhưng hơn hết là họ đều nặng

tình nặng nghĩa, muốn giữ được sự ấm êm trong mỗi mái nhà và hơn nữa là giữ

được những nét đẹp của văn hóa Hà Nội - mảnh đất ngàn năm văn hiến- trong

niềm tự hào của người dân đất Việt.

2.1.2. Sự tảo tần, hi sinh vì gia đình

40

Trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, nhiều người phụ nữ vẫn giữ nguyên

tính cách sau mọi thăng trầm và tác động của cuộc đời. Cuộc đời họ luôn gắn với

những tảo tần vàđức hi sinh cao cả. Họ là những người mẹ, người vợ sẵn sàng hi

sinh cả cuộc đời mình cho chồng, cho con. Đó là hình ảnh người vợ tảo tần, chịu

thương chịu khó như chị Vách (Đời khổ), chị Khuê (Người vợ), bà Bơ (Nắng

chiều)...Đó còn là hình ảnh những người mẹ hết lòng vì con như bà Mão (Mẹ và

các con), bà Tuất (Người của nghề)…Đối với những người phụ nữ ấy, cuộc sống

không còn là của riêng mình nữa. Họ lấy việc chăm sóc, hi sinh cho người khác

làm niềm vui, hạnh phúc. Nguyễn Khải đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn căn nguyên

từ bao đời nay, người phụ nữ Việt Nam luôn được ngợi ca với sự kiên cường, dũng

cảm và giàu đức hi sinh.

Trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải, một trong những

hình ảnh để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả về nỗi vất vả, hi sinh của người phụ

nữ là nhân vật chị Vách trong Đời khổ. Nhà văn đã viết nên những trang văn với

nỗi lòng da diết khi nói về cảnh đời trớ trêu, trắc trở của chị. Cuộc đời chị dường

như chỉ biết làm, làm không biết mệt nhọc, ốm đau, nguy hiểm. Cả cuộc đời chị

là những tháng ngày vất vả, cơ cực. Những năm kháng chiến chống Pháp, một

mình chị vừa nuôi hai con nhỏ, vừa nuôi mẹ chồng. Khi mẹ ốm một mình chị chăm

sóc, lúc bà chết một mình chị lo liệu ma chay. Vất vả, cơ cực là vậy nhưng chị coi

đó là điều đương nhiên của một người làm dâu, làm vợ, làm mẹ như từ thuở xa

xưa đã vậy. Ngay cả lúc chị sinh hai đứa con gái, rồi sinh hai thằng con trai, người

chồng cũng đi công tác vắng nhà. Những cơ cực về thể xác và tinh thần như bủa

vây quanh chị. Chồng chị là một thiếu tá quân đội, có học vấn, địa vị, còn chị lại

không biết chữ. Chính vì vậy, chị luôn kính phục, tôn thờ chồng mình. Chị nghĩ

việc lấy được người chồng như vậy là “duyên may,…lấy được là mừng, có với

nhau đã hai mặt con nghĩ lại vẫn còn mừng” [17, 152]. Chị tự cho mình cái bổn

phận phục tùng, cả đời làm kẻ hầu người hạ cho chồng. Nhưng người chồng của

chị lại không hiểu được tấm lòng và sự hi sinh của chị. Chị phải sống cảnh có

chồng mà cũng như không khi người chồng đó “về đến nhà là vùi đầu vào sách

41

báo, không hỏi đến vợ con được một câu” [17, 155]. Mọi việc lớn nhỏ đều một vai

chị gánh vác. Vất vả là vậy nhưng chị không thấy mình khổ, có lúc, chị còn tự

nhận người khổ là chồng, mình là sướng: “Giàu vì bạn sang vì vợ, có một bà vợ

như tôi ông chồng cũng hóa hèn (…) Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại

nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú” [17, 152-155].

Đến thời kỳ Mĩ ném bom miền Bắc, mẹ con chị phải sống trong cảnh túng

quẫn. Chị Vách phải lấy cái vất vả của mình để bù vào sự thiếu thốn. Người chị

ngày càng sắt lại, da xạm đi nhưng chị vẫn rất khỏe. Khỏe để làm, khỏe để chăm

lo cho một ông chồng và bốn đứa con. Còn “Chồng thì như ông thánh ông thần,

hai đứa con gái mỗi đứa một tật, hai thằng con trai càng lớn càng lêu lổng, học

đã không ra gì lại còn có tính ăn cắp vặt” [17, 157]. Đến khi chồng mất, nỗi khổ

vẫn triền miên đeo bám chị Vách. Chị vẫn phải gồng mình để chăm lo cho những

đứa con. Nhưng đến khi thằng con trai lớn mắc chứng động kinh thì chị Vách gần

như suy sụp. Thằng bé có gương mặt trí thức nhất nhà, vóc dáng cũng đẹp, hai bàn

tay rất đẹp, bàn tay của anh trí thức. Vậy mà giờ đây nó bị mất trí, nó bị điên. Chỉ

trong một tháng mà người chị gầy rộc đi, già hẳn đi và sau đó thì tả tơi như nắm

giẻ trong nỗi xót xa: “Con thẳng da bụng mẹ chùng da mắt, nuôi con hai chục năm

trời mà con trả công cha nghĩa mẹ thế này ư?” [17, 159]. Tiếng khóc tức tưởi, ai

oán của chị ở cuối truyện như gói trọn cả cuộc đời khốn khổ đến cùng quẫn. Chị

đã yếu, đã nản, đã muốn buông xuôi tất cả. Những lời nói mếu máo trong nước

mắt của chị khiến người đọc càng thêm cám cảnh: “Chung quy là tại tôi cả chú ạ,

tôi ngu đần, vụng dại nên con cái mới ra nông nỗi này, nếu như ông ấy còn

sống…” [17, 162]. Có thể thấy cả cuộc đời chị Vách đúng là Đời khổ. Cả một đời

hi sinh cho chồng cho con. Cái khổ ấy không chỉ vì sự vất vả cơ cực mà còn khổ

bởi những giới hạn trong suy nghĩ. Chính những giới hạn ấy khiến cuộc đời chị

thêm tức tưởi, xót xa.

Trong Chúng tôi và bọn hắn, một người con gái Hà Nội - con một gia đình

công chức nhỏ, đã nghĩ lấy được Phúc làm chồng là điều may mắn lớn nhất đời

của chị. Nhưng ai đâu ngờ chị đã phải chịu bao nhiêu cay đắng trong mấy chục

42

năm trời vì chồng, vì con. Trong cuộc sống hàng ngày, dường như “Phúc sinh ra

là để hoạt động xã hội, xã hội không dùng anh trở thành kẻ bất đắc chí. Chưa bao

giờ anh là người của gia đình, anh gắn vào nó một cách hờ hững, gắng gượng”

[17, 19]. Phúc gắn với gia đình hờ hững, gắng gượng nên dường như chưa bao giờ

anh thấu hiểu những nỗi nhọc nhằn của vợ. Anh chỉ biết mình thích ăn ngon, thích

mời bạn bè đến nhà ăn những bữa cơm thật ngon mà không biết rằng để có được

những bữa cơm ấy, vợ anh đã vất vả thế nào để cố xoay xở được. Đến khi chồng

ốm, người vợ ấy lại phải bỏ cả việc để nuôi chồng lúc thì ở viện, lúc ở nhà. Gương

mặt chị lúc nào cũng sầu não, dáng đi hớt hải, vội vã. Hết lòng hết sức vì chồng,

ấy vậy mà người vợ ấy phải cay đắng chịu cảnh chồng có nhân tình. Biết chuyện

chồng mang số gạo ít ỏi đến cho người tình chứ không đem về nhà cho vợ và các

con, người vợ ấy “chỉ còn biết khóc thầm khóc lén. Chị con nhà gia giáo, được

giáo dục theo kiểu cổ, chồng phụ chỉ biết khóc chứ không dám đến cơ quan chồng

tố cáo kiện tụng. Chị thì một ngày một gầy yếu vì bệnh suyễn, vì hầu hạ con cái,

vì lo tiền. Còn ông chồng càng già càng to lớn, dềnh dàng khỏe khoắn về đủ mọi

phương diện” [17, 19-20].

Nhưng đau đớn, dằn vặt vì chồng có nhân tình không đáng sợ bằng khi chị

phải đấu tranh giành giật với tử thần để cứu con gái sau khi sinh khó. Bằng quyết

tâm sắt đá của mình, chị không quan tâm đến mọi thứ xung quanh, chỉ nói một

câu duy nhất: “Mẹ sẽ cứu con! Nhất định mẹ sẽ cứu được con!”. Chị bán hết những

gì có giá trị để có tiền cứu chữa cho con, chị quên ăn quên uống, cả ngày cả đêm

không ngủ, người khô đét, mắt đỏ ngầu, môi trắng lợt chỉ với một mong muốn duy

nhất là níu giữ được sự sống cho con. Đến khi cứu được con, tưởng như chị đã

được thảnh thơi thì chị lại tiếp tục dành hết tâm sức để hầu hạ một ông chồng lúc

hiện lúc biến và ba con, một rể, thêm một cháu ngoại được mấy tháng tuổi…Vất

vả đấy, khổ cực đấy, nhưng chị vẫn cười rất tươi, lại còn hãnh diện nữa. Đúng như

nhà văn đã nói: “Chị là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn lớn

nhất mà chồng con chị đã có được ở cõi đời này” [17, 21].

43

Chị Khuê trong tác phẩm Người vợ cũng khiến ta thật cảm động trước sự hi

sinh của chị. Trong gia đình, chị như một cái bóng lặng lẽ hi sinh cho những thành

công của người chồng. Suốt một đời sống trong nước mắt, trong thiếu thốn, phải

đến lúc tuổi đã xế chiếu, sức sắp tàn, lực sắp kiệt, chị mới được ngủ trọn vẹn, cả

đêm không phải lo nghĩ gì. Dường như, cái khổ luôn đeo bám chị như muốn thách

thức sức chịu đựng của người đàn bà nhỏ bé này. Chị như người được sinh ra để

chịu khổ, để phải sống với nhọc nhằn. Khi chồng mất việc, chị phải kiếm kế mưu

sinh để nuôi cả gia đình. Chị sống lầm lũi, nhẫn nại với niềm lạc quan: “Sông có

khúc, người có lúc, không ai sướng được mãi, cũng không ai phải khổ mãi. Miễn

là các con phải được ăn học” [17, 162]. Cả một đời vất vả vì chồng vì con, nhưng

chị không hề hối hận, chị chấp nhận sự hi sinh của mình trong hạnh phúc với ước

nguyện thật đẹp: chỉ mong gia đình êm ấm, chỉ mong các con được học hành. Chị

đã góp phần làm nên bức chân dung đẹp về những người mẹ ở mảnh đất Hà Thành,

làm cho cuộc sống này trở nên đáng yêu, đáng sống hơn, ý ngĩa hơn biết bao nhiêu:

“Nếu không có những người vợ, những bà mẹ một đời nhẫn nhục gánh chịu mọi

tai họa vì những người thân yêu thì thế giới này sẽ buồn thảm lắm, sẽ lạnh lẽo

lắm” [17, 60].

Truyện ngắn Mẹ và các con lại là một câu chuyện buồn về sự hi sinh cao cả

của người mẹ dành cho những đứa con của mình, nhưng cuối cùng vẫn phải chịu

đắng cay. Người mẹ giàu đức hi sinh ấy là bà Mão. Chồng mất sớm, một mình mẹ

bồng bế dắt díu các con lên Hà Nội kiếm sống. Cuộc sống vất vả cơ cực đủ đường

nhưng bà vẫn nuôi ba người con được ăn học tử tế, khôn lớn trưởng thành. Những

tưởng những đứa con sẽ biết ơn mà báo hiếu mẹ lúc tuổi già sức yếu. Những các

con bà đã quên đi những hi sinh vất vả của mẹ dành cho mình, họ chỉ thấy bà là

một bà lão nhà quê lôi thôi, khó chịu, phiền hà. Chúng còn trách và ghê sợ bà đã

làm “một công việc quá bẩn thỉu để nuôi chúng”, chúng trách bà sống quá quê

mùa làm chúng mất mặt, chúng trách bà sống không thức thời, không sống theo

lối thành thị ngày nay. Chúng trách bà hay kể lể chuyện ngày xưa nghèo khó,

chúng cho rằng nếu có nghèo cũng phải biết che đậy đi. Những đứa con đó muốn

44

phủ nhận quá khứ nghèo khó làm chúng xấu hổ, muốn chối bỏ người mẹ đã vất vả

nuôi chúng nên người. Cả một đời hi sinh cho con cái, đến cuối đời bà phải ra

sống ở ngoài đường, tự kiếm sống qua ngày. Nhưng bà vẫn cố kiếm tiền để mua

quà cho các cháu khi bà đến thăm chúng. Các con vẫn biết bà sống ra sao nhưng

chúng vờ như không biết.

Người đọc cảm thấy ghê sợ, phẫn uất trước sự vô tâm, lạnh lùng đến ác độc

của những đứa con ấy. Nhưng bà Mão vẫn không một lời oán trách, bà cho rằng

mình là người “trái chứng”: “Người ta được mẹ hỏng con, được chồng hỏng vợ,

cảnh của tôi là được các con thì mẹ lại trái chứng. Chả ở với ai được vài ngày,

con cái có quý hóa mình đến mấy rồi cũng phải chán ghét” [17, 213]. Bà quan

niệm con cái có thể quên mẹ, bỏ mặc mẹ nhưng không có người mẹ nào có thể bỏ

con cái. Cũng giống như chị Vách trong Đời khổ, bà Mão luôn coi bổn phận của

người vợ, người mẹ là phải hi sinh hết mình vì chồng, vì con “Còn chúng tôi nhìn

thấy con cháu no đủ có phải ăn cháo cám vẫn cứ thấy sung sướng…dù có phải

róc thịt nuôi con cũng chẳng từ” [17, 221-222]. Bà nhận về mình mọi sự vất vả

khổ đau để con cái được sống hạnh phúc, thoải mái. Tấm lòng người mẹ thật vị

tha và cao cả biết nhường nào.

Còn biết bao người vợ, người mẹ đã hết lòng hi sinh vì chồng, vì con đã hiện

lên trên trang văn của Nguyễn Khải. Đó là hình ảnh người vợ của anh Dụ- một

nghệ nhân điêu khắc ở một làng nghề chuyên chạm khắc ngà voi và gỗ. Người vợ

ấy lấy chồng 15 năm, đẻ ba đứa con, nhưng chỉ được ở với chồng có một năm cuối

đời. Trong suốt 15 năm với vai trò làm vợ, làm mẹ ấy, chị phải lo toan gánh vác

mọi việc của gia đình, xã hội. Cùng với những nhọc nhằn về thể xác là đau đáu

nỗi lo cho người chồng đang ở chiến trường xa. Những lo toan chồng chất khiến

chị biết mình có bệnh mà không dám đi chữa, vì không có tiền, vì không ai chăm

con nuôi con. Chị cứ cố mãi, gắng gượng mãi, đến khi chồng về thì gan suy, thận

phù, phổi yếu không thuốc nào chữa được. Vì hi sinh cho chồng, cho con mà chị

đã không giữ được mạng sống cho mình.

45

Hay hình ảnh bà Bơ trong Nắng chiều, kết hôn khi tuổi đã xế chiều, nhưng

tình nghĩa vợ chồng vẫn thật mặn mà, sâu sắc. Chỉ hành động “gắp một miếng

thịt gà, dùng tay lọc xương ra, lại xé miếng thịt cho nhỏ, rồi gắp vào bát của

chồng”, còn ông chồng thì “đến là nhõng nhẽo, chị đợi vợ gắp thức ăn mới ăn,

cho gì ăn nấy, không tự đụng đũa vào bất cứu món nào khác” [17, 142] cũng đủ

cho thấy tấm lòng của người vợ dành cho chồng. Hình ảnh bà Tuất trong truyện

ngắn Người của nghề, hình ảnh người mẹ chồng trong Một mẹ chồng tuyệt

vời….cũng chính là những hình ảnh thể hiện tấm lòng nhân hậu, vị tha của những

người mẹ. Họ luôn dành tất cả những gì tốt đẹp nhất, dồn tất cả tình yêu thương

trong trái tim bao la của người mẹ cho những đứa con của mình. Những người

mẹ đó khiến ta nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”(Con cò)

Qua đó, ta thấy rõ đức hi sinh là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam nói

chung, của người phụ nữ Hà Nội nói riêng. Bằng những trang văn chân thực và

cảm động, Nguyễn Khải đã mang đến cho chúng ta hình ảnh những người mẹ,

người vợ đất kinh kỳ với tấm lòng hi sinh cao cả vì chồng, vì con.

2.2. Chất tài hoa, kẻ sĩ của người Hà Nội

Người Hà Nội từ xưa đến nay luôn có một đời sống vật chất và tinh thần

phong phú và đa dạng. Họ nổi tiếng tài hoa, khéo léo với gu thẩm mỹ tinh tế,

chuộng cái đẹp và biết thưởng thức cái đẹp. Nhiều người Hà Nội, từ các nghệ

sĩ đến người dân bình thường, có phong thái phóng khoảng, hào sảng. Họ luôn

trọng danh dự, trí tuệ, đạo lý và đề cao nhu cầu thẩm mĩ, giải trí của mình.

2.2.1. Nét tài hoa của những nghệ nhân muốn lưu giữ nét đẹp văn hóa Hà Nội

Hà Nội là mảnh đất lưu giữ những nét tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt

Nam. Đây cũng là vùng đất có nhiều làng nghề truyền thống, mỗi làng nghề có

một nét đặc trưng riêng. Các làng nghề hình thành, tồn tại và phát triển cùng với

sự đi lêncủa đời sống cộng đồng. Đó là làng Bát Tràng ở Gia Lâm nổi tiếng với

nghề làm gốm, làng lụa Vạn Phúc với nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ ngàn năm

46

trước, làng nghề Phú Vinh với nghề mây tre đan có từ khoảng thế kỷ XVII, làng

Ngũ Xá với nghề đúc đồng - một trong bốn nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long

xưa. Mảnh đất ấy cũng đã sản sinh và níu giữ bước chân của bao người nghệ sĩ tài

hoa. Người xưa đã truyền nhau ca: “Khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ” để nói về

những con người tài hoa đó. Bàn tay khéo léo của các nghệ nhân được in đậm trên

những sản phẩm lao động hết sức tinh xảo, cầu kỳ mang tính thẩm mỹ cao. Những

nét hoa văn trên các pho tượng cổ, những đường cong tuyệt đẹp trên mái đình,

những nét chạm khắc khéo léo trên các sản phẩm mỹ nghệ, đúc đồng…đã trở thành

những giá trị văn hóa tinh thần mang bản sắc riêng của Thăng Long ngàn năm văn

hiến. Có biết bao nghệ nhân trên mảnh đất kinh kỳ muốn lưu giữ những nét đẹp

của văn hóa Hà Nội. Họ đã góp phần làm cho Hà Nội đẹp hơn, đáng yêu hơn trong

cuộc sống bộn bề.

Trong Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải đã khắc họa nhiều nhân vật thấm

đẫm “chất” tài hoa, kẻ sĩ. Đó là nhân vật Dụ trong truyện Nghệ nhân ở làng. Anh

sống trong một làng ngoại thành Hà Nội, một làng chuyên chạm khắc ngà voi và

gỗ. Nhưng ở đó, trước ảnh hưởng của cơ chế thị trường, nhiều người vốn là những

nghệ nhân tài hoa nay trở thành những người thợ làm ra những mặt hàng mỹ nghệ

đáp ứng nhu cầu của thị trường. Họ làm nhiều tượng gỗ, tượng thánh có, tượng

Phật có, rồi ông Tiều ông Ngư, trẻ trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo, sư tử vờn cầu,

hổ nằm, hổ đứng…Những bức tượng đó đẹp nhưng dường như nó chỉ để đáp ứng

nhu cầu của quy luật mua - bán lúc bấy giờ, chứ không chứa đựng những giá trị

nghệ thuật, không có cái thần bí của nghề. Nhưng anh Dụ là người đứng ngoài cái

vòng xoáy của cơ chế thị trường khi đó. Anh vốn là một người lính phòng không,

tham gia quân ngũ trong thời chống Mĩ, trở về nhà với quân hàm đại úy. Anh đã

dồn hết tâm sức của mình để thổi hồn vào những bức tượng khắc hình những người

thân yêu, những đồng đội đã mất.

Hình ảnh “pho tượng nhỏ cao hơn gang tay, đục bằng gỗ lát, vân gỗ nổi lên

sáng bóng. Tượng một cô bé khoảng chín, mười tuổi, tóc xõa phủ kín một bên vai,

đầu ngoẹo về một bên, một ngón tay đưa lên miệng, hai chân hơi khum cong như

47

đang nhẩy nhót. Một cái mặt xấu xí nhưng nghịch ngợm, mắt nheo lại, mũi hếch

lên và cái miệng như lệch về một phía” [17, 105], giúp ta hình dung được tài năng

điêu khắc của anh. Nhưng khi được nghe anh kể câu chuyện về cuộc đời người vợ

của mình đã dành cả 15 năm hi sinh cho chồng, cho con thì ta hiểu thêm rằng pho

tượng đó không chỉ là tài năng mà còn là cả trái tim anh gửi vào đó. Cùng với đó

là những pho tượng khác như nhóm tượng Bà và Vợ: “Một cô gái có khuôn mặt

tròn, bàn tay và bàn chân đều to, quần xắn trên bụng chân ngồi ngoáy trầu và một

bà lão ngồi nép bên cô gái. Một bà lão rất nhỏ, chỉ nhìn rõ có hai hốc mắt và cái

cằm hơi lẹm vào của người nhiều tuổi. Nhưng cái khăn vuông trùm đầu thì cứng

và to. Cái váy cũng rất rộng, phủ kín hai bàn chân như cái nơm” [17, 106]; pho

tượng Ông Nội: “với gương mặt như bị băm nát bởi các nếp nhăn. Cái lưng còng

xuống, rất mỏng. Cánh tay, cẳng chân rất gầy nhưng bàn tay và bàn chân lại rất

to, sần sùi những đốt mấu” [17, 107]…

Những pho tượng đó không chỉ là kết tinh tài năng của một nghệ nhân điêu

khắc mà trong mỗi pho tượng ấy Dụ còn gửi gắm biết bao tình cảm. Những người

thân yêu của anh đã đi xa, nhưng anh như vẫn được sống mãi bên họ nhờ có những

pho tượng ấy. Mỗi khi ngắm nhìn những pho tượng, hình ảnh vợ, hình ảnh ông,

bà như sống dậy trong lòng Dụ. Với anh, việc chạm khắc những pho tượng này

không phải để thể hiện tài năng, càng không phải để kiếm tiền mà chỉ là để thổi

vào đó linh hồn của những người thân yêu, để gửi vào đó những tình cảm trong

sâu thẳm tâm hồn mình. Anh chạm khắc những gì mà anh thích, anh làm để giải

tỏa những nỗi buồn, những nỗi nhớ và cả những nỗi niềm ân hận. Anh làm để níu

kéo lại cái thời đẹp nhất đang mỗi ngày mỗi thêm xa.

Những trang viết đó khiến ta như nhớ đến hình ảnh nhà văn Nguyễn Tuân

và hành trình đi tìm kiếm vẻ đẹp một thời nay chỉ còn vang bóng. Có những điều,

những người đã thuộc về quá khứ, nhưng Dụ vẫn mong tìm lại, lưu lại ở mãi bên

mình. Hình ảnh cái lèo tủ đục chạm bốn mươi tám nhân vật chiến sĩ cao xạ cùng

nhập ngũ với Dụ nhưng đã hy sinh là một minh chứng nữa cho điều đó. Các nhà

khác đục chạm lèo tủ với những nho sóc, mai hạc, thập điểu quần mai, ngũ phúc

48

kim tiền…thì Dụ lại đục chạm toàn người mà thôi. Bốn mươi tám người, người

nào ra người nấy, không lẫn được, cũng không giống nhau trong tư thế chiến đấu

và lúc hy sinh. Và để hoàn thành được cái lèo tủ với hình hài của bốn mươi tám

chiến sĩ ấy, anh đã phải làm trong ba năm. Khi đục mỗi gương mặt đồng đội, Dụ

như được sống lại trong khoảnh khắc với người ấy. Anh mong ước những bức

tượng điêu khắc ấy “chịu sống lại trong phút chốc” vì đã cảm được cái tình của

anhdành cho họ. Thật xúc động và đáng trân trọng biết baotâm nguyện của một

người thợ vô danh đang mong muốn đoạt quyền của tạo hóa, để giữ mãi những

người thân yêu ở bên mình. Hình ảnh anh Dụ khiến ta tin hơn vào nghĩa tình của

những nghệ nhân đất Tràng An. Họ không chỉ đáng nể bởi tài, mà họ còn đáng

trọng hơn ở nghĩa tình sâu nặng. Đó chính là chữ “tâm” và như đại thi hào Nguyễn

Du đã nói: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Nếu như trong truyện Nghệ nhân ở làng, Nguyễn Khải viết về một làng

ngoại ô Hà Nội với nghề chạm khắc truyền thống thì trong Người của nghề, nhà

văn lại nói về làng Cự Đà - một làng có nghề làm tương nổi tiếng. Hà Nội có nhiều

làng nghề, mỗi làng nghề lại mang một nét đặc trưng riêng. Và người nào nắm

được những bí quyết làm nghề sẽ trở thành những nghệ nhân đích thực. Nghe cách

bà Tuất nói về cách làm được chum tương ngon, chúng ta hiểu bà chính là một

nghệ nhân của Cự Đà: “Làm tương chả khó, nhưng làm được chum tương ngon

lại rất khó. Ví như rang đậu, nếu rang bên ngoài cháy bên trong sống là sẽ chua

tương, hạt sống hạt chín cũng thế. Phải có mấy loại sàng để lọc ra các loại đậu,

mỗi loại phải rang riêng từng mẻ mới chín được đều. Ủ mốc cũng vậy, ủ sao cho

hạt gạo vàng đều màu hoa hòe thì màu tương mới đẹp. Phơi tương phải đặt mua

những chum, thống miệng rộng, vỏ mỏng nhưng được nung già, chum non miệng

hẹp là thối tương ngay” [17, 107].

Trong thời buổi các làng nghề đang dần bị mai một, trong đó có cả làng tương

Cự Đà, bà Tuất vẫn giữ được những bí quyết làng nghề của mình. Bà đang giữ lại

và truyền cho con cháu một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của đất Hà Thành. Dịu

- cô con gái bà Tuất - đã được mẹ truyền cho bí quyết đó, và cô đã khiến bà hãnh

49

diện khi ngả tương còn ngon hơn cả mẹ. Nước tương cô làm vừa sánh vừa ngọt,

chỉ rưới cơm ăn không cũng đã ngon. Những người như mẹ con bà Tuất đã góp

phần gìn giữ những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của làng nghề Hà Nội.

Hà Nội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân

ngày càng được nâng cao hơn, hiện đại hơn. Nhưng những làng nghề, phố nghề

truyền thống với những sản phẩm nổi tiếng đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế

hệ người Hà Nội nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Vẫn còn bao nghệ nhân

đang âm thầm gìn giữ những giá trị văn hóa quý báu của Hà Nội. Nguyễn Khải đã

nhận ra và thể hiện điều đó trên những trang văn của ông từ những thập niên 80,

90 của thế kỷ trước. Với ông, nét đẹp người Hà Nội không thể thiếu chất tài hoa

của những nghệ nhân chân chính.

2.2.2. Cái tài và cái tâm của những văn sĩ chân chính

Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Khải khi viết về Hà Nội, không thể

không nhắc đến hình ảnh các nhà văn. Chúng ta đều biết, viết về người Hà Nội,

Nguyễn Khải chủ yếu viết về những người thân trong gia đình, viết về bạn bè,

đồng nghiệp của mình. Ông viết về những văn nhân, nghệ sĩ hào hoa, lịch thiệp

của Hà Nội được nhiều người biết đến như Hồ Dzếnh, Kim Lân, Trần Dần…Cũng

có những cái tên, những gương mặt có thể quen hoặc không quen thuộc với chúng

ta nhưng họ đều là những con người có tài, hơn thế nữa là những người có tâm

trong nghiệp văn chương. Đó là Trần Quốc Tiến trong Đất kinh kỳ, đó là một cây

bút nghiệp dư trong Bạn viết cũ, đó là anh Hạnh trong Phía khuất mặt người…

Hồ Dzếnh tên chữ là Hà Triệu Anh, người gốc Hoa, sinh trưởng ở Thanh

Hóanhưng đời văn của ông rất gắn bó với Hà Nội. Ông đã từng vào Sài Gòn làm

báo nhưng rồi lại trở ra Hà Nội. Ông trở ra Hà Nội vì hai lí do: thứ nhất là không

thể sống xa Hà Nội, vì xa Hà Nội thì mất văn chương; thứ hai là không thể xa cô

Nhật - người sau này là vợ ông - vì xa cô Nhật thì mất mọi niềm vui để muốn sống.

Cả đời ông sống với nghiệp văn nên ông không thể mất văn chương, không thể xa

Hà Nội. Ngay cả khi bị suyễn, sức khỏe yếu, nhưng cứ bàn chuyện văn chương là

ông nói không dứt, vừa nói vừa thở. Hồ Dzếnh đã cảm nhận rất rõ những gì mà

Hà Nội đã đem đến cho đời văn của ông: “Cái nước sông Hồng, cái gió sông Hồng

50

nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội. Anh muốn sống ở

đâu cũng được, viết ở đâu cũng được nhưng phải tráng qua tí chút hơi hướng của

Tràng An thì mới thành văn chương đích thực, nó khác với văn chương tỉnh lẻ”

[17, 35]. Ông hiểu rằng sự phát triển của văn chương góp phần vào sự phát triển

trí tuệ của dân tộc, tác động tới đời sống tinh thần của người dân cả nước. Và sự

đánh giá quan trọng nhất với mỗi người nói chung, với nhà văn nói riêng chính là

sự đánh giá của dư luận, của công chúng.

Hồ Dzếnh ý thức được điều đó và ông sống với thứ luật bất thành văn của

người dân Hà Nội. Khi sống, ông sống với văn chương, với cái nắng cái gió của

sông Hồng, khi ông mất đi, nơi thờ ông chỉ có sách của ông thôi. Cả cuộc đời ông,

mọi suy nghĩ, khổ đau, vui sướng gói trọn trong mấy trăm trang sách. Khi ông mất

đi, mấy trăm trang sách ấy vẫn bên ông, và những câu thơ ông viết cho người vợ

vẫn làm thổn thức bao người đọc bởi cái tài, cái tình ông để lại cho đời:

“Mình vừa là chị là em

Tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời

Mai này tới phút chia đôi

Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau

Xót mình đã lắm thương đau

Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình

Cuộc đời đâu phải phù sinh

Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi!” [17, 37-38].

Nguyễn Khải cũng viết về Kim Lân với tất cả sự trân trọng của mình. Kim

Lân là một nhà văn có tính ưa nhàn, thích tự do, ông không muốn đứng về một

phe phái nào trong các cuộc tranh chấp đôi khi diễn ra ở Hội Nhà văn. Trong thời

gian làm việc ở hội, Nguyễn Khải hay lấy Kim Lân làm chuẩn mực để kiểm tra

công việc của mình. Và dường như trong cuộc sống, Nguyễn Khải cũng cảm thấy

an lòng khi được tỏ bày cùng Kim Lân, vì khi đó Kim Lân không quá sốt sắng với

những dự định của ông và cũng không giễu cợt hay trách móc nếu ông thất bại.

Kim Lân thường viết về những số phận buồn thảm, đơn độc như cặp vợ chồng

51

Tràng và Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt, ông dành cho những nhân vật đó sự cảm

thông và xót thương rất đặc biệt.

Điều mà Nguyễn Khải tiếc cho một nhà văn có tài như Kim Lân là ông viết

hơi ít. Và Nguyễn Khải cũng cho rằng có lẽ Kim Lân viết ít vì cái tạng của ông

không thích hợp với thời buổi dữ dội, quyết liệt, chói lòa ánh sáng, ầm ã tiếng

động và cuồn cuộn những dòng người. Nhưng Kim Lân lại cho rằng cái cần nhất

để viết là cảm hứng. Khi đã hết hứng rồi thì không thể viết được nữa, dù thời thế

có ra sao. Từ cuộc đời và văn nghiệp của Kim Lân, nhà văn Nguyễn Khải đã rút

ra bài học cho mình và các bạn văn nghệ sĩ: “Văn chương đâu phải là thứ để dành

được, ướp lạnh được, không dùng trước thì dùng sau hoặc dùng dần. Nó là sự

sống mà, lại là phần thiêng liêng, mong manh, dễ mất nhất của sự sống” [17, 39].

Và tài năng của Kim Lân không chỉ dừng ở những trang viết, ông còn tham gia

các đoàn làm phim, rồi tham gia Hội Sinh vật cảnh của thành phố. Ở vai trò nào,

Kim Lân cũng sống với bản chất hồn hậu, tinh tế và trái tim tràn đầy nhiệt huyết

với nghệ thuật.

Nếu như Hồ Dzếnh hay Kim Lân gắn bó với Hà Nội bởi những lẽ riêng thì

Trần Quốc Tiến theo cách nói của Nguyễn Khải là người đã đặt chân đến đất kinh

kỳ để toại chí, cầu danh. Tiến vốn là một người nông dân thuần túy, vốn quen với

việc cày ruộng và sống bằng hạt lúa. Sống trong cảnh túng quẫn, nhưng Tiến lại

ôm mộng văn chương. Anh viết văn từ năm mười chín tuổi. Cảnh viết văn của anh

cũng chẳng giống ai: “Lúc đi làm thì Tiến viết trong đầu, viết rõ rệt từng câu từng

chữ, từng cái chấm cái phẩy, về nhà thì viết ra giấy. Không có bàn thì úp cái thúng

xuống đất đặt cái mâm gỗ lên làm bàn. Không có giấy thì xin giấy học sinh đã viết

ngâm nước gạo cho phai hết mực rồi phơi khô làm giấy bản thảo” [17, 46]. Cứ

thế, Tiến miệt mài viết, viết trong cảnh túng thiếu của gia đình, viết trong sự bực

dọc giận dỗi của vợ, viết trong sự thương hại của người làng, viết trong sự chờ đợi

của các con, viết trong niềm hy vọng và niền tin của mẹ già…suốt ba chục năm

trời. Đến khi người mẹ không chờ được nữa đã qua đời thì Tiến mới được in cuốn

sách đầu tay. Không chỉ Tiến mà cả nhà, cả làng, cả xã hân hoan chào đón cuốn

52

sách ấy. Người ta đốt pháo để chúc mừng, xác pháo ngập đỏ mắt cá chân, khói

pháo bay mịt mù phủ trắng cả một xóm. Đến lúc này, Tiến đã được toại chí và cầu

danh như cái mong muốn ban đầu khi đặt chân lên mảnh đất kinh kỳ. Đó là cái

danh đích đáng, cái danh đoàng hoàng mà anh đã có được nhờ tài năng và sự nỗ

lực hết mình suốt nửa đời người.

Từ câu chuyện về đời người và đời văn của Trần Quốc Tiến, Nguyễn Khải

đã nhận thấy cái đức háo danh đã góp phần hun đúc nên nhiều bậc kỳ tài trong

thiên hạ. Và những tài danh ấy hội tụ về đất kinh kỳ để nhận và phát cái ánh

sángvăn hóa ngàn năm của nó. Như vậy ta đã hiểu một trong những lý do Hà Nội

là điểm khởi nguồn, là nơi hun đúc và khởi phát, cũng là nơi lưu chân giữ bước

biết bao bậc tài danh trong giới văn chương.

Trong truyện ngắn Người vợ, Nguyễn Khải không viết nhiều về Trần Dần

mà chủ yếu viết về người vợ của ông. Nhưng chỉ qua những dòng ngắn ngủi ấy,

người đọc cũng hình dung được hình ảnh một nhà văn Trần Dần với một sự nghiệp

có ưu có khuyết, có thành có bại như bao người. Nhưng ông khác người ở số phận

long đong vất vả vì nghề. Ông là người có tài, tài năng của ông không ai có thể

phủ nhận được, nhưng bên cạnh đó ông lại có tật. Đó là cái tính hay dạy đời, hay

nói chủ thuyết này, trường phái nọ khiến người nghe có cảm giác ông tỏ ra uyên

bác và đàn anh. Chính vì vậy nên nhiều người không thích Trần Dần, nhất là sau

khi ông bị kỷ luật. Nhưng với Nguyễn Khải, Trần Dần vẫn là một nhà văn đàn anh

đáng nể, đáng trọng.

Anh Hạnh trong truyện Phía khuất mặt người là một cây bút làm việc ở Hội

Nhà văn. Anh là bạn của những nhà văn gạo cội như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy

Tưởng, Tô Hoài…Trải qua những thăng trầm của nghề viết, anh đã ngẫm ra rằng

văn chương là cái thế giới mộng mơ của con người, là một đặc quyền thiêng liêng

của riêng con người. Anh vốn là một cậu tú hào hoa của Hà Thành, đẹp trai, học

giỏi, lắm tài, yêu nhiều, viết nhiều, mơ mộng cũng nhiều. Anh là hình ảnh của kẻ

sĩ Bắc Hà một thời. Nguyễn Khải thích anh, mê anh bởi văn anh Hạnh viết hay

lắm, viết rất kỹ: “So với ông Tuân, ông Hoài thì chả dám, nhưng viết tiếp từ bấy

53

đến nay thì cũng một mình một ghế, chả kém cạnh gì ai” [17, 242]. Nhưng khi

chiến tranh kết thúc, anh lại trở nên nhỏ bé và lạc lõng trước thời cuộc. Và con

người đã một thời đi với các trưởng lão của làng văn, giờ đây lại chỉ mong đừng

ai chú ý nhiều tới mình. Và đặc biệt, anh không muốn, không chấp nhận một sự

nhầm lẫn nào đó, nhất là sự nhầm lẫn anh với một người khác. Bởi anh là riêng

biệt, là duy nhất. Anh không chấp nhận hình ảnh của mình nhòe lẫn với một người

nào khác. Vì sự nhòe lẫn đó là một nỗi buồn, nỗi đau của một nhà văn chân chính,

làm tổn thương lòng tự trọng nghề nghiệp của họ.

Hầu hết các văn sĩ trên dù thành danh ở các mức độ khác nhau nhưng họ đều

đã để lại tên tuổi của mình trong lòng người đọc. Nhưng có những nhà văn cả một

đời thăng trầm, vất vả với nghề mà cuối đời lại lặng lẽ đi vào cõi vô danh. Nguyễn

Khải đã xây dựng nên hình ảnh một nhà văn như vậy trong Bạn viết cũ. Nhà văn

đó vốn là cán bộ tuyên huấn của nông trường Mộc Châu sau mười năm năm là

lính. Ông đã viết truyện ngắn đầu tay của mình trong những ngày về Hà Nội chăm

con ốm. Tác phẩm ấy của ông đã được xếp giải nhì trong một cuộc thi, báo hiệu

một cây bút tài năng bắt đầu khởi nghiệp. Trong suốt mười năm sau, năm nào ông

cũng có một, hai truyện đăng trên báo. Tên ông trở thành cái tên được chờ đợi

trong giới văn của Hà Nội. Tưởng rằng con đường văn chương của ông sẽ thênh

thang rộng mở, nhưng ông lại gác bút khi mẹ, vợ và con trai đã rời xa ông để về

thế giới bên kia. Ông nhận thấy mình chỉ có thể viết được khi sống với những dự

tính, những hy vọng. Khi đó, có ý tưởng gì hay được viết ra liền, câu chữ đuổi

nhau ở đầu ngọn bút, ngăn không nổi, chữ nào cũng tươi, cũng xanh…: “Viết về

người như viết về mình, lại có khoảng cách vừa phải để ngẫm nghĩ, để ngắm nghía

nên anh viết rất nhanh, hơi văn tự nhiên, chân thật, có đoạn tự mình bật cười

thành tiếng có đoạn muốn ứa nước mắt” [17, 227]. Còn đến khi không còn gì để

buồn, để lo, để hy vọng nữa thì ông cũng không thể viết nổi vì chữ nghĩa cũng héo

dần, chết dần. Đọc Bạn viết cũ, chúng ta không biết nhà văn được Nguyễn Khải

nói đến là ai, bút danh là gì, đã viết những truyện ngắn nào. Nhưng dù vô danh,

ông vẫn để lại trong mỗi chúng ta hình ảnh của một nhà văn có tài và có tâm với

54

nghề. Ông đã đúc rút được chân lý của nghiệp văn là văn chương chỉ sống khi tâm

hồn mỗi nhà văn đang sống, còn khi tâm hồn đã héo tàn thì cũng không thể viết

nên được những trang văn.

Sự nghiệp sáng tạo văn chương luôn đòi hỏi những người có tài năng, có tâm

hồn, có nhân cách và bản lĩnh. Những văn sĩ Hà Thành trong tác phẩm của Nguyễn

Khải không chỉ tài hoa mà còn mang tâm hồn kẻ sĩ. Có người là những bậc đàn

anh đi trước, có người là kẻ cùng thời; có người thành danh, có người vô

danh…nhưng họ đều là những người Nguyễn Khải yêu mến và trân trọng. Giữa

lúc cơ chế thị trường đang tác động mạnh mẽ vào đời sống con người, trong đó có

làng văn, sự bản lĩnh và nhân cách của các nhà văn như Hồ Dzếnh, Kim

Lân…khiến ta tin tưởng hơn vào cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ trước dâu bể

cuộc đời.

2.3. Sự sáng tạo và khả năng thích ứng của người Hà Nội trước vận hội mới

Người Hà Nội không chỉ tài hoa, thanh lịch mà còn rất sáng tạo, linh hoạt và

thích ứng nhanh trước hoàn cảnh. Đứng trước sự vận động của thời cuộc, nhiều

người đã nhanh chóng thay đổi để không bị lạc thời. Nền kinh tế thị trường đặt ra

nhiều thách thức, nhất là ở nơi phồn hoa đô hội như Hà Thành. Nhưng bên cạnh

những thách thức đó, người Hà Nội cũng đứng trước nhiều cơ hội mới. Và lúc

này, Hà Nội với những người đầy tài năng, thích ứng với hoàn cảnh mới, nhanh

chóng làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Nhưng cũng có một số người đã chịu

những ảnh hưởng tiêu cực từ xã hội thời kỳ đổi mới, họ đã làm cho Hà Nội ít nhiều

mất đi thiện cảm của mọi người về thủ đô nước Việt. Nhưng đó cũng là sự tất yếu

trong quá trình phát triển, vượt qua được giai đoạn đầu đổi mới, Hà Nội sẽ trở nên

đẹp hơn, văn minh hơn và ngày càng phát triển hơn.

2.3.1. Sự sáng tạo, linh hoạt của những người trẻ tuổi đầy tài năng

Trong những truyện ngắn viết về con người Hà Nội thời kì đổi mới, Nguyễn

Khải cũng đã đề cập đến một lớp người mới đang hình thành theo thời đại mới.

Đó là những người đang xây dựng nên những giá trị mới cho Hà Nội. Với Chúng

tôi và bọn hắn, ngay nhan đề truyện tác giả đã khiến người đọc liên tưởng tới một

55

trật tự xã hội mới, nơi những người như “bọn hắn” đang dần dần thắng thế trước

những thay đổi của xã hội: “Cứ nhìn vào con mình và con cái của bạn bè là biết

ngay thời thế đã thay đổi. Chúng là những nhân vật chính của một vận hội mới,

một thời buổi mới, thời mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho mình và làm giàu cho

nước, cái sự riêng chung này ly kỳ lắm, còn phải nói nhiều. Là thời mà các giá trị

cũ đã mất tính tuyệt đối. Còn những giá trị mới thì lòe nhòe, bảo là phải cũng

được, bảo là trái cũng được. Nó là những giá trị của buổi giao thời. Nghĩa là còn

phải gạn lọc chán những giá trị ấy mới trở thành giá trị thật để chấn hưng một

dân tộc” [17, 22]. Như vậy, Nguyễn Khải đã đặt lên vai những người trẻ tuổi đầy

tài năng sứ mệnh “chấn hưng một dân tộc”. Và rất nhiều người trẻ đã chứng tỏ

được tài năng của mình. Họ nhanh chóng thích ứng với những đổi thay của xã hội,

nắm bắt được những quy luật về thời thế. Họ làm giàu cho mình, cho gia đình và

xã hội.

Như hình ảnh một người cháu của nhà văn Nguyễn Khải, ngay từ buổi giao

thời đã biết chân trong chân ngoài, tay phải tay trái, vừa làm giám đốc một công

ty liên doanh của nhà nước, vừa ôm một công ty riêng và đứng sau để điều hành

nó. Cũng chính thời thế đổi thay đã giúp Lộc - một người vốn chỉ dám mơ ước

học hết đại học, xin được việc làm ở Hà Nội, được chia mấy mét vuông nhà ở, rồi

lấy vợ, sinh con…lại trở thành một ông giám đốc một xí nghiệp nhà nước khi mới

32 tuổi. Nhờ khả năng và sự nhanh nhạy của mình, Lộc đã vực dậy một xí nghiệp

đang làm ăn thất bại, đã nợ cả tỉ bạc, mất phương hướng sản xuất và kinh doanh,

không còn khả năng cạnh tranh và cũng không còn uy tín với khách hàng để trở

thành một xí nghiệp ăn nên làm ra. Công nhân viên được hưởng mức lương sống

được ở Hà Nội, tuần làm việc năm ngày rưỡi, có tiêu chuẩn đi nghỉ hàng năm và

được nhận quà vào ngày sinh nhật. Và để làm được điều đó, Lộc khẳng định yếu

tố đầu tiên và quan trọng nhất là cái đầu của anh. Ngoài ra, anh còn có hai trợ thủ

đắc lực là thời gian và thông tin. Như vậy, những người như Lộc chính là đại diện

cho một thế hệ mới: có tài năng, tâm huyết và dám nghĩ, dám làm và đầy tham

vọng. Khi được hỏi có muốn tham chính không, thì anh ta “nói ngay rằng có,

56

nhưng phải chuẩn bị đầy đủ về tài chính đã, phải có nguồn tài chính mạnh mới

nhảy vào cuộc chơi này được. Nó đắt tiền lắm” [17, 31]. Chính những con người

đó đã góp phần làm đổi thay diện mạo của Hà Nội nói riêng và diện mạo của dân

tộc ta nói chung trong những năm đầu đổi mới.

Trong thời đại mới, rất nhiềungười bị cám dỗ bởi đồng tiền. Nhưng Nguyễn

Khải nhận ra vẫn có nhiều người giữ được mình trong sạch. Nghĩa trong tác phẩm

Người của ngày xưa chính là một người như vậy. Nghĩa là cháu nội trong một gia

đình tuần phủ. Ngay từ khi còn đi học, đi bộ đội rồi đến khi mới đi làm, Nghĩa đã

tỏ ra là người nhanh nhẹn và tinh tường: “Nghĩa sống ở quê từ nhỏ cho tới năm đi

bộ đôi, làm lính chiến trường, rồi cắp sách làm sinh viên đại học những bốn năm,

lúc ra trường lại làm nhiều nghề, có bạn bè ở hầu khắp các Bộ, chuyện trong thâm

cung cũng tỏ, chuyện ngoài đường phố cũng rành, cứ như là ma xó” [17, 69]. Sau

đó, lúc thì Nghĩa làm ở Bộ Xây dựng, khi thì chuyển sang Bộ Năng lượng, rồi sau

đó làm giám đốc một công ty. Nghĩa làm giám đốc công ty đúng vào thời kỳ đổi

mới, nền kinh tế thị trường khiến đồng tiền có sự ảnh hưởng ghê gớm tới cuộc

sống con người: “Xưa kia những người chủ gia đình ở phố này chỉ nói có chuyện

chính trị, chính trị trong nước, chính trị quốc tế và các bà vợ thì ngồi nghe ké. Bây

giờ chỉ có các bà nói, các con nói, nói toàn chuyện tiền bạc, nói sự đối xử bất bình

đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, nói cảnh sát kinh tế,

nói cán bộ thuế vụ, giọng lưỡi chao chát, sát phạt, còn các đức ông chồng đã về

hưu thì ngồi nín lặng với vẻ mặt sầu muộn của người đã mất quyền” [17, 70 -71].

Nghĩa được nhiều người đánh giá là bậc cao thủ trong kinh doanh. Bản thân Nghĩa

cũng nhận thấy, anh có nhiều cơ hội nhìn thấy cả đống tiền trước mắt, nhìn ra nơi

ẩn trốn của đồng tiền trước nhiều người, nhưng anh không dám với tay để nó thuộc

về mình vì anh thấy cách kiếm tiền ấy không được đạo đức cho lắm. Trong thời

buổi nhiều kẻ quỳ gối trước sức mạnh của kim tiền, sẵn sàng làm mọi thứ kể cả

bất chính, vô lương tâm để có tiền thì một người tài năng như Nghĩa vẫn luôn nghĩ

đến lương tâm, đến nhân nghĩa. Vì vậy, dù là một doanh nhân có tài nhưng Nghĩa

vẫn nghèo, anh không bị lóa mắt vì tiền. Anh vẫn sống đoàng hoàng với những

57

đồng tiền sạch, tiền bền, những đồng tiền anh kiếm được bằng tài năng của mình.

Đó chính là tài năng, sự linh hoạt và thích ứng với thời cuộc của Nghĩa. Với Nghĩa,

bà nội anh chính là tấm gương sáng để anh soi vào và học tập. “Rồi Nghĩa khuyên

tôi nên viết về bà nội hắn, chỉ là người đàn bà tầm thường thôi nhưng cái cách

ứng xử một đời không thay đổi của bà lão lại chẳng tầm thường một chút nào:

biết thích ứng nhanh để hòa nhập nhưng không chịu để mất những niềm tin riêng,

cái cốt cách riêng của mình” [17, 73]. Những người như Lộc, Nghĩa chính là

những chủ nhân của thời đại mới, những người đang góp phần làm cho Hà Nội trở

nên đẹp hơn, giàu có và văn minh hơn mỗi ngày.

2.3.2. Những người chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của thời buổi kinh tế thị trường

Sự đổi thay của Hà Nội trong thời kỳ mới đã kéo theo sự thay đổi trật tự xã

hội biểu hiện trong từng khu phố, từng ngôi nhà và ngay trong từng con người. Có

những người vừa mới đây thôi còn là “chủ nhân” của Hà Nội giờ đang dần trở nên

thất thế và vô hình trước sức mạnh của nền kinh tế thị trường. Giờ đây, tất cả mọi

người đều bình đẳng trước thời cuộc: “Này, như thế có phải là thời thế đã thay đổi

không nhỉ? Nhưng thay đổi là tốt, tốt hơn trước nhiều. Cứ nhìn mặt người ở phố

Lý Nam Đế là biết, họ vui lắm, đi lại hối hả, tất bật, ăn nói uốn éo, kiểu cách

như…dân buôn chính hiệu” [17, 70-71]. Nguyễn Khải luôn đặt ra câu hỏi về sự

xuất hiện của những con người đang dần thay thế xã hội cũ cùng với việc chạy

đua với đồng tiền.

Sau đổi mới, ở Hà Nội cũng như nhiều nơi khác, đồng tiền len lỏi vào từng

ngõ ngách của cuộc sống và chiếm lĩnh tất cả, một thế hệ chạy đua với thời gian

để kiếm tiền, bằng mọi giá để đạt được mục đích: “Đám trẻ bây giờ chúng nó kiếm

tiền quyết liệt lắm, lạnh lùng, tàn nhẫn hơn bọn em nhiều. Và không vì một ai cả,

không thương một ai cả. Có tiền để trở thành người mạnh, thành ông chủ, chúng

bảo thế. Mỗi thời cái cách dùng đồng tiền lại một khác anh nhỉ…Bây giờ chúng

nó thích kiếm tiền một cách táo tợn, nguy hiểm, thắng thì làm vua, thua thì đi tù,

ăn cơm muối hoặc chết cũng chả sao” [17, 89-90]. Có thể thấy, đồng tiền có sức

mạnh và sự chi phối ghê gớm đối với cuộc sống của con người. Hiền là một cô gái

58

Hà Nội nhưng cô không quan tâm tới bất cứ một vẻ đẹp nào của Hà Nội: “Cô chỉ

biết có tiền, chỉ thuộc các đường ngang ngõ tắt cái mặt sau, cái phía nhày nhụa,

nhớp nháp của Hà Nội” [17, 87]. Và trong xã hội đó: “Danh phận không chỉ dành

riêng cho các quan chức nhà nước. Người có tiền và người có tài cũng có danh

phận riêng của họ. Và họ cũng được xã hội kính trọng. Xem ra kẻ có tiền đang

được xã hội kính trọng nhiều hơn” [17, 98].

Ngay cả ở làng nghề truyền thống của Hà Nội chuyên chạm khắc ngà voi và

gỗ cũng bị ảnh hưởng rõ rệt bởi đồng tiền trong cơ chế thị trường: “Tôi đã đi suốt

làng cả một buổi chiều, thăm nhiều nhà, ngắm nhìn nhiều tượng gỗ, tượng Phật

có, tượng Thánh có, rồi ông Tiều ông Ngư, trẻ trên ngồi trên lưng trâu thổi sáo,

sư tử vờn cầu, hổ nằm, hổ đứng, đẹp thì có đẹp nhưng không thích, chỉ là sản

phẩm thủ công của những ông thợ làm nghề, chỉ thấy giá tiền, nơi bán, quy luật

thương trường, chứ không được nghe một câu nào về nghệ thuật, về cái thần bí

của nghề, những chuyện của nghề. Đứng đâu ngồi đâu cũng nghe nói đến tiền,

đến chính mình cũng phải luôn luôn nghĩ đến tiền” [17, 98].

Sự chi phối của đồng tiền cùng với những mặt trái của xã hội lúc bấy giờ đã

làm xuất hiện những người bị coi là “rác” của Hà Nội. Đó là hình ảnh một thằng

cha cưỡi xe Dream khi nhìn thấy một ông già chạy bộ buổi sáng từ đường Cổ Ngư

về đã hét lên: “Chạy lộn đường rồi! Văn Điển đi lối kia cụ ơi!” [17, 15]. Một người

trẻ tuổi đã đạp xe như gió và thúc mạnh vào xe của nhà văn khi đi trên đường Phan

Đình Phùng, khi nhà văn hỏi “Cậu đi đâu mà vội thế?” thì cậu ta đã không trả lời

lại còn quay trở lại bật thốt lên: “Tiên sư cái anh già”. Hay khi có người hỏi đường

trên phố ở Hà Nội, có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương

mắt nhìn một cách thiếu thiện cảm và lễ độ. Vợ chồng Dũng trong Người của

nghề khi mẹ lên phố sống cùng thì cãi cọ, gây ra lắm sự khó chịu khiến cho bà

Tuất phải về quê. Nhưng đến khi bà lão có tiền cho con mua xe máy thì vợ chồng

Dũng lại tích cực về quê thăm mẹ, vợ Dũng nói về mẹ chồng cũng khác hẳn, cái

này “mẹ em cho”, cái kia “mẹ em bảo mua rồi đưa về quê cho cụ”. Những đứa con

trong truyện ngắn Mẹ và các con dù lớn lên nhờ sự tảo tần sớm hôm của mẹ,

59

nhưng khi trưởng thành thì chúng chỉ muốn được sang. Khi bà mẹ cứ nói về cái

nghèo, cái khổ chúng cảm thấy bà đang bày ra cho thiện hạ thấy cái hèn của gia

đình. Bởi thế mà chúng ngày càng ghét mẹ, ngấm nguýt mẹ, muốn gắt lên cho bà

đi ngay tức khắc. Chúng sẵn sàng coi bà như người xa lạ để cho khỏi ngượng, khỏi

phiền.

Mặt trái của xã hội thời hội nhập làm cho những người già thấy nuối tiếc,

những lời than thở của các nhân vật có thể không trực tiếp xuất hiện trên văn bản

nhưng nó như những mạch ngầm ẩn sâu trong lớp vỏ hào nhoáng bên trên, một xã

hội với những con người cũ đang nhường bước cho lớp người mới. Hình ảnh cây

si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị đổ nghiêng, một phần rễ bật đất chổng ngược lên trời

đã báo hiệu một sự khác thường. Đó là sự dời đổi, một điềm xấu, là sự ra đi của

một thời. Điều đó khiến những con người gắn bó với Hà Nội như cô Hiền không

khỏi xót xa, nuối tiếc một thời vàng son đã qua. Nhưng một tháng sau, cây si lại

sống, lại trổ ra lá non. Đó như sự tuần hoàn của tạo vật, của đất trời. Hà Nội vẫn

đẹp, Hà Nội mãi đẹp dù có phải trải qua bao thăng trầm. Những “rác rưởi” của Hà

Nội chỉ là sản phẩm của một thời kỳ nhất định.

60

Tiểu kết chương 2

Trong những truyện ngắn viết về Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, nhà văn

Nguyễn Khải đã khắc họa thành công và khá đầy đủ về hình ảnh con người Hà

Nội với những phẩm chất tiêu biểu. Mỗi tác phẩm là sự yêu thương và trân trọng

mà nhà văn dành cho những người dân của đất Tràng An. Họ chỉ là những con

người bình thường, lặng lẽ sống và gắn bó với Hà Nội, nhưng trải qua những dâu

bể của cuộc đời, họ vẫn sáng lên nét đẹp về phẩm cách. Đó là những người phụ

nữ luôn thông minh, tỉnh táo trước chuyển xoay của thời cuộc để gìn giữ “nếp

nhà”; là những người vợ, người mẹ cả một đời tảo tần, hy sinh cho chồng, cho

con. Đó là các nghệ nhân đã góp phần lưu giữ những nét đẹp văn hóa của mảnh

đất Hà Thành, những văn nhân xuất hiện trong các tác phẩm cũng là những nhân

cách đẹp. Nguyễn Khải cũng dành nhiều trang văn để viết về người Hà Nội trước

ảnh hưởng của cơ chế thị trường. Trước những tác động của thời cuộc, nhiều người

thuộc thế hệ trẻ đã bộc lộ sự sáng tạo và khả năng thích ứng của mình.

Nguyễn Khải đã viết về Hà Nội với những con người vừa truyền thống vừa

hiện đại. Các nhân vật đều hiện lên sống động như trong cuộc đời thực. Những

trang văn vừa ngợi ca, vừa tự hào lại vừa có chút xót xa tiếc nuối của nhà văn khi

viết về những con người Hà Nội giúp người đọc cảm nhận được tấm lòng yêu

thương, trân trọng và khát vọng gìn giữ những nét đẹp trên mảnh đất nghìn năm

văn hiến của Nguyễn Khải.

61

CHƯƠNG 3.

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH ẢNH CON NGƯỜI HÀ NỘI

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và tâm lý nhân vật

Nhân vật là yếu tố vô cùng quan trọng trong tác phẩm văn học. Nhà văn dùng

nhân vật như là một phương tiện để khái quát hiện thực đời sống. Nhân vật cũng

thể hiện khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật cùng tư tưởng nghệ thuật, lý

tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Chính vì vai trò quan trọng của nhân

vật nên các nhà văn đều rất chú trọng tới nghệ thuật xây dựng nhân vật để bộc lộ

đầy đủ nhất dụng ý nghệ thuật của mình. Để xây dựng thành công một tác phẩm

văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm với các nhân vật. Điều này đòi hỏi

nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật sao

cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc.

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả dung mạo nhân vật

Có thể khẳng định, hầu hết các nhân vật trong các tác phẩm văn học đều để

lại ấn tượng cho độc giả trước hết ở ngoại hình. Nghệ thuật khắc họa ngoại hình

nhân vật là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong sáng tạo nghệ thuật của các

nhà văn. Ngoại hình là dáng vẻ bề ngoài của nhân vật bao gồm trang phục, diện

mạo, cử chỉ, tác phong…Đây là các yếu tố quan trọng nhằm cá thể hóa nhân vật.

Ngoại hình góp phần biểu hiện nội tâm nhân vật. Đây cũng chính là sự thống nhất

giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống

bên trong của nhân vật thay đổi thì nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi

theo. Ngoại hình nhân vật còn góp phần biểu hiện thời đại, xã hội mà các nhân vật

đang sinh sống. Đối với nhà văn Nguyễn Khải cũng vậy, ông luôn chú ý đến việc

khắc họa ngoại hình nhân vật. Dung mạo những con người Hà Nội trong truyện

ngắn của ông thời kì đổi mới được hiện ra trước hết ở trang phục, nét mặt, dáng

người…

Trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, để miêu tả dung mạo nhân vật,

Nguyễn Khải đã sử dụng cách miêu tả trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua ngôn ngữ

62

người kể truyện. Nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình trên tất các phương diện

để cho nhân vật được nổi bật và bộc lộ những nét riêng biệt. Người Hà Nội trong

các tác phẩm của Nguyễn Khải, dù được miêu tả ít hay nhiều cũng đều mang

những dáng vẻ khác nhau, điệu bộ khác nhau. Nguyễn Khải rất chú ý khi miêu tả

trang phục của nhân vật. Trang phục của người Hà Nội luôn toát lên vẻ thanh lịch

và dấu ấn Hà Thành cổ kính. Người Hà Nội thường coi trọng cái mặc. Họ luôn đề

cao sự thanh lịch. Thời kỳ đổi mới, có những thời điểm họ vẫn mặc những trang

phục sang trọng của ngày xưa như một sự trân trọng đối với quá khứ và thể hiện

bản sắc văn hóa riêng của con người Hà Nội.

Phần lớn những người phụ nữ Hà Nội vẫn giữ được cốt cách và phong thái

của đất Hà Thành. Cô Hiền trong Một người Hà Nội là một điển hình. Bên cạnh

đó, nhân vật bà cô trong Nếp nhà, đã tám mươi tuổi và vẫn giữ được những nét

phong thái xưa. Dù thời thế có nhiều thay đổi nhưng cách ăn mặc của bà và các

con vẫn như trước kia, không thay đổi là bao và cũng không sang trọng hơn chút

nào “Cái mặc của bà và các em cũng chả có gì sang hơn, như trước đây, ngày

trước với Hà Nội đã là sang, bây giờ là quá thường” [17, 8]. Hay bà Bơ trong

Nắng chiều hiện lên là một người “không được đẹp, lại ăn mặc xuềnh xoàng, nói

năng rất ít, luôn luôn xuất hiện ở phía sau” [17, 134-135]. Với cách miêu tả vóc

dáng và cách ăn mặc như thế, dường như Nguyễn Khải đã báo trước về số phận

của bà, người chịu quá nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Vợ Trần Dần là chị Khuê, dù

bây giờ đã già, mập ra nhiều nhưng vẫn còn những nét đẹp của ngày xưa. Rồi bà

Mặn - vợ một ông tuần phủ, nhưng lại có cách ăn mặc rất giản dị, không hề khoe

khoang: “Bà không đẹp, ăn mặc xuềnh xoàng, tên gọi cũng không sang, tên là

Mặn” [17, 61-62].

Khi miêu tả những người đàn ông Hà Nội, Nguyễn Khải cũng luôn cố gắng

miêu tả một cách cụ thể ngoại hình của từng người. Từ việc miêu tả ấy phần nào

người đọc sẽ hình dung được xuất thân, cuộc sống và có sự dự báo về số phận của

họ. Cụ Vĩnh trong Đất kinh kỳ được Nguyễn Khải miêu tả “quần áo lụa nâu, mặc

63

ngoài cái áo bông ngắn cũng màu nâu, tóc bạc, râu bạc, thần thái phiêu dật như

một đạo sĩ” [17, 40-41]. Cách ăn mặc và dáng dấp của cụ Vĩnh dễ làm người ta

liên tưởng đến một người đạo sĩ, với lối sống an nhàn thư thái của tuổi già. Từ

cách miêu tả ngoại hình ấy cũng cho ta thấy cụ được xuất thân trong một gia đình

quyền quý, với những phẩm chất đáng kính trọng. Trong Một giọt nắng nhạt, ông

tri huyện ăn mặc trông rất sang trọng và lịch sự, theo đúng chuẩn dáng dấp của

người xưa: “lúc thì mặc bộ đồ tây, lúc thì mặc đồ ta, khăn xếp, áo sa và đi giầy.

Nếu là mặc theo lối ta, ông có đeo thêm cái bài ngà, nhưng bỏ bên trong vạt áo”

[14, 62].

Trong truyện Người vợ, nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả Trần Dần giống

như một ông già với những bộ râu, tóc xù và trắng, nhưng với các dáng vẻ ấy

giúp người đọc hiểu ra được cảnh ngộ của ông: “râu tóc xù lên trắng như bông,

thoạt nhìn không nhận ra nhưng đôi mắt thì vẫn như cũ, con mắt hiếp đáp thiên

hạ, con mắt muốn làm thủ lạnh, làm đại ca” [17, 54]. Dáng vẻ ấy ẩn chứa sự

đáng thương, gặp nhiều sóng gió và bất hạnh trong cuộc đời. Thế nhưng, ánh

mắt ấy vẫn toát lên vẻ đẹp ngời sáng, nó như là điểm sáng trong tâm hồn nhà

văn.

Chồng bà Bơ (Nắng chiều) đã già nhưng vẫn rất đẹp lão. Ở cái tuổi ngoài

bảy mươi, ông được nhà văn miêu tả như những chàng trai trẻ, từ vóc dáng đến

khuôn mặt vẫn rất sắc nét: “còn đẹp lão, vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn, cái miệng

và con mắt của ông già khi cười khi nói còn rất là lẳng” [17, 140].

Nhân vật Hạnh trong Phía khuất mặt người là một người sống thầm lặng,

khép kín thể hiện ngay ở dáng vẻ bên ngoài: “Người anh đã thấp nhỏ lại mặc cái

áo ba- đờ- xuy màu lông chuột hơi dài và rộng, đội cái mũ dạ vành nhỏ kéo sụp

xuống tận chân mày, lúc đi thân người lại hơi cúi xuống, gương mặt héo hon như

bị lút đi trong khăn len, trong cổ áo, trong vành mũ, nom buồn quá, cô đơn quá”

[17, 240-241]. Chỉ qua dáng vẻ ấy thôi đã khắc họa phần nào chân dung một con

người luôn muốn thu mình lại, muốn mọi người không ai chú ý đến mình, sống

64

câm lặng như một cái bóng, đó là “người của mùa đông, những mùa buồn và

lạnh”.

Bên cạnh những nhân vật Hà Nội của ngày xưa, trong tập truyện Hà Nội

trong mắt tôi còn hiện lên những nhân vật của thời đại mới. Họ là những người

chịu sự tác động của cuộc sống, nên có những thay đổi nhất định trong cách ăn

mặc, trong suy nghĩ…

Nhân vật Hiền (Tiền), khi còn ở nhà là một người “mảnh mai, đài các”.

Nhưng khi lấy chồng, chịu nhiều vất vả, suy kiệt về sức khỏe nên “người chỉ còn

ba chục cân, mặt nhăn nheo như bà già” [17, 79]. Sau khi cô xin về làm kế toán

tại phòng lương thực, gia đình khấm khá hơn, no đủ hơn. Lúc này “cô đã là một

thiếu phụ khác rất nhiều với thời con gái. Hiền mập ra tới hai chục ký, da trắng

hồng, tóc uốn cao, tay đeo đồng hồ nữ Liên Xô, mặc áo khoác lửng màu trắng của

Đức, sang trọng như một mệnh phụ” [17, 82]. Hiền đã có sự thay đổi nhiều về

cách ăn mặc cũng như dáng dấp. Cô là một quý bà khoác lên mình những bộ đồ

rất sang trọng. Vẫn là con người ấy, nhưng ở độ tuổi hơn năm mươi “cô mập mạp

hơn trước kia nhiều, đi lại bậm bạch, chân tóc phía trước trán và hai bên vành tai

đã bạc trắng cả” [17, 88]. Nhưng cô Hiền vẫn đẹp, vẫn là một người phụ nữ khôn

ngoan và được phố phường nể trọng.

Với những nhân vật người Hà Nội trẻ tuổi, ta cũng thấy được sự phóng

khoáng và hợp thời. Họ - những chủ nhân của một thời đại mới - lại được khắc

họa với lòng nhiệt huyết, sẵn sàng chấp nhận thử thách bước vào “cuộc chơi” của

tiền bạc, quyền lợi và danh vọng. Họ thể hiện dáng vẻ của những ông chủ, bà chủ

của thời đại mới ngay từ vẻ bề ngoài. Họ đường hoàng, tự tin, đĩnh đạc với gương

mặt tươi cười, rạng rỡ. Phúc trong Chúng tôi và bọn hắn là một ví dụ điển hình.

Phúc là một người mạnh mẽ, một phong cách ăn mặc rất khác lạ so với thanh niên

cùng thời. Cái cách ăn mặc cho người đọc cảm nhận đây là một người vô lo vô

nghĩ, bàng quang với việc đời. Trước kia anh thường hay “mặc quần soọc trắng,

áo sơ mi cộc tay, tóc cúp bốc, đi giày thể thao, đứng dạng chân, hai tay thọc vào

túi quần” [17, 16]. Nhưng sau vài năm, cách ăn mặc của Phúc lại có sự thay đổi:

“anh ăn mặc giống hệt cán bộ cấp đại đội hay tiểu đoàn tôi thường gặp, quần áo

65

nâu, áo trấn thủ mặc ngoài, đeo xà cột, túi áo cài bút Oerơvơ, tay đeo đồng hồ và

sau đít cộm lên khẩu súng ngắn” [17, 17]. Cứ tưởng rằng anh sẽ sống sung sướng,

ăn mặc như cán bộ cao cấp, ai ngờ số phận đưa đẩy khiến anh trở thành một người

đàn ông phải phụ thuộc vào vợ con. Ốm đau, bệnh tật khiến anh trở nên gầy yếu,

giờ “người chỉ còn da bọc xương, nhăn nheo như một ông già, hai tay chống hai

gậy” [17, 17].

Lộc, con trai Phúc ngay từ khi mới xuất hiện trong truyện đã được nhà văn

miêu tả là một người có chức có quyền, một các bộ cấp cao, là chủ một doanh

nghiệp. Qua lời kể của nhân vật tôi, ngoại hình của Lộc hiện lên khiến ai cũng

phải chú ý: “Đúng 11 giờ, nghe có tiếng xe hơi ngoài cổng, bà vợ chạy vội ra. Một

lát sau ông con trai lớn của họ, bạn vong niên nhon nhón bước vào, comle đen

sọc, cavát, kính màu, chân giày xanh mướt như một thương nhân ngoại quốc” [17,

24]. Cách ăn mặc lịch lãm, sang trọng, Lộc như làm chủ cả ngôi nhà, ai cũng phải

nghe theo, kể cả bố mẹ. Ngay cả dáng đi “nhon nhón” cũng chứng minh anh là

một người nhanh nhẹn, hoạt bát với những suy nghĩ và tính cách chín chắn, già

dặn của người ở tuổi nghề đã lâu năm. Lộc là con người đại diện cho thời đại mới,

cuộc sống mới, lúc nào cũng tỏ ra khôn ngoan. Nhưng sự khôn ngoan ấy cũng

khiến người ta cảm thấy giật mình lo sợ. Nhân vật tôi chợt nhận ra “con người

thực, bộ mặt thật, cách sống giả dối đằng sau con người anh”. Vài năm sau gặp

lại, Lộc vẫn là một con người sang trọng: “Hắn mặc một cái áo len xám mỏng cổ

rộng, thắt cavát và đi đôi giày da cực đắt. Xe hơi Đài Loan. Hắn ẵm đứa con gái

mười tháng tuổi ngồi băng sau với tôi, tự nhiên, nền nã như vốn đã ngồi xe hơi đi

làm từ lâu đời rồi” [17, 27].

Cùng với sự đổi thay của thời đại, cách ăn mặc của con người cũng có những

thay đổi. Bước vào thời kì đổi mới, ảnh hưởng của phương Tây đối với trang phục

của người Hà Nội ngày càng rõ rệt. Nhưng trang phục của họ dẫu hiện đại, tân

thời nhưng vẫn gìn giữ nét riêng: “Bấy giờ con gái Hà Nội mặc quần chẽn đen,

gót xẻ, có dải buộc dưới bàn chân, mặc măng tô lửng, hoặc đi bít tất đen dài, quần

cộc, áo vét trùm qua mông. Đàn ông cũng diện lắm, áo vét tông các kiểu, thắt cà

66

vạt đủ màu, giày đen, cứ như họ từ các đại sảnh bước ra. Không phải đâu, chỉ là

quần áo thường ngày thôi, cũng giống như trước kia họ mặc áo bông xanh, quần

kaki vàng và đi dép nhựa. Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng

như bây giờ” [17, 8]. Hình ảnh những ông giám đốc, những doanh nhân thành đạt

thường gắn với kiểu trang phục như “comlê đen sọc, cavát, kính màu, chân râu

xanh mướt như một thương nhân ngoại quốc” hay “mặc một cái áo lên xám mỏng

cổ rộng, thắt cavát và đi đôi giày da cực đắt” [17, 27].

Ngày thường đã thế, ngày lễ hay những dịp trọng đại thì cách mặc càng được

chú trọng hơn, như một thứ lễ nghi của người Hà Nội: “Rồi cửa trong mở, bà chủ

xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh,

rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo

ngọc đeo dây đi lại uyên chuyển” [17, 124]. Hiếm có vùng đất nào mà người ta lại

chú ý đến cách ăn mặc như thế. Có lẽ bởi mỗi người Hà Nội luôn ý thức được

mình đang sống ở mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, họ cần có sự chuẩn mực

cho người ở vùng miền khác nhìn vào. Cũng có lúc, họ quan niệm quần áo càng

đắt tiền thì càng sang trọng, càng chứng tỏ sự giàu có và địa vị cao sang của người

mặc nó. Qua đó, chúng ta thấy được trong xã hội hiện nay không thiếu những con

người coi trọng đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo cho mọi quy chuẩn xã hội.

Khi xây dựng hình ảnh con người Hà Nội, Nguyễn Khải không chỉ chú ý tới

trang phục của họ mà ông còn tập trung khắc họa hình dáng, nét mặt, cử chỉ, điệu

bộ của từng người. Và khi nói về nhân vật, Nguyễn Khải thiên về kể hơn là tả. Bởi

vậy, những bức chân dung nhân vật thường không hoàn chỉnh. Nhưng nhà văn đã

nắm bắt những nét tiêu biểu và đặc sắc nhất để lột tả tính cách nhân vật.

Trong thế giới nhân vật của mình, Nguyễn Khải đặc biệt chú ý tới những

người phụ nữ. Ở họ, nhà văn làm nổi bật đức tính chịu thương, chịu khó, sự hi sinh

vì chồng vì con ẩn sau vẻ ngoài nhỏ bé, giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Đó

là hình ảnh người vợ trong Chúng tôi và bọn hắn với dáng hình gầy gò, tiều tụy

sau bao nhiêu vất vả, lo toan, chịu đựng: “Người khô đét, mắt đỏ ngầu, môi trắng

lợt, ngón tay dài ra như móng vuốt….không còn ra hồn người, đi lại lêu nghêu”

67

[17, 20]. Thời còn trẻ, chị là con gái Hà Nội cũng trẻ trung, xinh đẹp, đầy sức sống

như bao cô gái Hà Nội khác. Đến khi lấy chồng, do phải chịu bao cay đắng suốt

mấy chục năm trời nên chị mới đổi thay đến như vậy. Qua việc miêu tả sự thay

đổi của ngoại hình nhân vật, nhà văn muốn nhấn mạnh thấy sự vất vả, hi sinh mà

chị đã dành cho gia đình, chồng con. Đối lập với sự tiều tụy của người vợ là ngoại

hình của người chồng “càng già càng to lớn, dềnh dàng, khỏe khoắn về đủ mọi

phương diện” [17, 20]. Sự đối lập đó cho thấy sự đối nghịch giữa nỗi nhọc nhằn

cơ cực của người vợ và sự vô lo vô nghĩ của người chồng.

Vẻ đẹp của bà T trong Một chiều mùa đông hiện lên trong dòng kí ức xa

xăm của nhà văn là một người có vẻ đẹp lộng lẫy đến “chói lòa” hoàn toàn tương

xứng với trí tuệ và tài năng của bà- một tiến sĩ khoa luật ở Pháp, đồng thời còn là

một tay dương cầm nổi tiếng của Hà Nội một thời. Nhưng trải qua cuộc đời với

những thăng trầm dâu bể, gặp lại sau bao nhiêu năm, người phụ nữ ấy đã trở thành

một bà lão già nua, héo hắt đến tàn tạ. Gương mặt của bà lúc bấy giờ là “gương

mặt được tạc bằng cái buồn, bằng những thất vọng, bằng nhiều chán chường và

sự cam chịu” [17, 350].

Có thể nói để miêu tả các nhân vật của mình, nhà văn Nguyễn Khải đã sử

dụng hàng loạt bút pháp tả thực để miêu tả ngoại hình nhân vật. Mỗi nhân vật đều

được ông tái hiện một cách sống động, hấp dẫn như những nhân vật ngoài đơi

thực, từ dáng vẻ, điệu bộ, trang phục hết sức chân thực. Tuy nhiên, nhà văn cũng

dùng nhiều bút pháp tượng trưng để nói về các nhân vật của mình. Hình ảnh “cây

si cổ thụ” để nói đến sức sống bền bỉ, dai dẳng, quật cường của con người: “cây si

cổ thụ đổ nghiêng tán để lên hậu cung, một phần bộ rễ bật đất chổng ngược lên

trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi

cũng một thời” [17, 129]. Hình ảnh cây si khiến ngươi đọc liên tưởng đến số phận

con người. Ai cũng phải trải qua nhiều thăng trầm rồi cũng già đi và ngã xuống

như cây si già. Ai cũng phải trải qua “sinh - lão - bệnh - tử”, nhưng thế hệ trẻ sẽ

tiếp bước thế hệ đi trước. Cũng giống như cây si ấy, sự sống của con người là bất

diệt, từ thế hệ này truyền cảm hứng cho thế hệ sau, để gìn giữ và tăng nét đẹp

68

truyền thống của Hà Nội, của lịch sử dân tộc...Cái tài của Nguyễn Khải là đã vận

dụng một cách linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật để giúp bạn đọc hình dung một

cách rõ nhất từng con người Hà Nội, những người mà ông yêu mến và dành cả

tâm huyết của mình cho họ. Như vậy, khi khắc họa ngoại hình nhân vật, Nguyễn

Khải đã sắp đặt những nhân vật của mình thành những tuyến đối lập giữa người

Hà Nội già - trẻ, hợp thời - lạc thời để qua đó hình ảnh Hà Nội trong thời kì đổi

mới hiện lên chân thực và sinh động hơn.

3.1.2. Sự tài tình trong việc miêu tả tâm lý nhân vật

Các nhà nghiên cứu đều có chung nhận định, Nguyễn Khải là nhà văn có khả

năng đi sâu vào việc phân tích tâm lý của các nhân vật một cách tài tình. Điều này

xuất phát từ năng lực quan sát và phân tích tình huống một cách khá nhạy bén của

tác giả. Nhưng trên hết, để làm được điều đó thì nhà văn phải là người có một tâm

hồn nhạy bén, dễ xúc động và bao dung trước số phận của con người.

Mỗi câu chuyện của Nguyễn Khải đều được nhà văn xây dựng những tâm

trạng, suy nghĩ, những phản ứng tâm lý của nhân vật thông qua những tình huống

truyện mà nhân vật phải đối mặt và tìm cách giải quyết. Mỗi nhân vật trong truyện

lại có những số phận, cuộc đời riêng và những dòng tâm trạng riêng nhưng vô

cùng phong phú và đa cực.

Khi miêu tả một nhân vật nào đó, Nguyễn Khải thường đi sâu vào khai thác

sự chuyển biến trong tâm lý của họ, để thấy được sự thay đổi tâm trạng cũng như

những sắc thái của nhân vật trong cuộc sống. Với một nhà văn nhìn cuộc đời đa

diện, đa chiều như Nguyễn Khải thì chắc chắn con người cũng phải trải qua vô

vàn cảm xúc của tâm trạng, từ bến bờ của hạnh phúc riêng tư cho đến sự tuyệt

vọng, chán chường…Con người giờ đây không còn là con người đơn giản, xuôi

chiều phiến diện mà họ hiện lên với tất cả tính phức tạp trong một con người với

tất cả niềm vui - nỗi buồn, cái thiện - cái ác, cái cao cả - thấp hèn, niềm tin và sự

hoài nghi, hy vọng - thất vọng…Nguyễn Khải là nhà văn luôn chú ý đến sự phong

phú trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Hơn nữa, nhà văn lại là người có biệt tài

trong việc phân tích thế giới nội tâm nhân vật, nên mỗi nhân vật của ông đều thể

69

hiện dấu ấn riêng. Những suy tư trăn trở về con người cũng như cuộc sống hiện

nay, những dòng tâm thức của từng nhân vật cũng thay đổi theo từng sự kiện, từng

cảnh huống truyện.

Vợ Phúc (Chúng tôi và bọn hắn) là một người phụ nữ sống cam chịu, hoàn

cảnh sống bấp bênh nhưng chưa bao giờ than thân trách phận một lời. Đến khi

người con gái sinh con đầu lòng thì chị đã thực sự thay đổi. Chị tuyệt vọng đến

cùng cực và chỉ nghĩ làm sao để cứu được con bằng tình mẫu tử mãnh liệt: “chị

không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì, không còn biết gì” [17, 20]. Một đời hy

sinh cho chồng con, lẽ ra tuổi về già chị phải được hưởng phúc an nhàn, nhưng

không, chị vẫn cặm cụi chăm sóc con, cháu một cách vui vẻ, tươi tắn và đầy hãnh

diện. Câu chuyện cho người đọc thấy được sự xáo trộn, thay đổi trong cuộc sống

hiện đại, trong mối quan hệ gia đình. Nguyễn Khải đã có những phát hiện tinh tế

trong việc miêu tả tâm lý, để thấy được trạng thái, suy nghĩ của từng nhân vật. Đó

là khi nhân vật tôi đến nhà một ông anh chơi, mọi lần đều được giữ lại ăn cơm,

nhưng lần này “ngồi mãi đến 10 giờ 30 chả thấy ông bà bảo sao…Mà tội lắm, ông

liếc mắt nhìn bà, bà cúi mặt đưa mắt nhìn tôi, rồi lại nhìn chồng, như người có

lỗi…” [17, 23-24]. Không phải vì bữa cơm mà nhân vật tôi “thi gan” với vợ chồng

bạn già, mà muốn nán lại xem phản ứng của họ ra sao, vì sao lại không thể mời

bạn ở lại dùng cơm?

Hay sự thay đổi tâm trạng của nhân vật Khoa trong Một giọt nắng nhạt trước

những biến cố cuộc đời cũng cho thấy sự tài tình của Nguyễn Khải trong việc miêu

tả tâm lý nhân vật. Khoa sinh ra mang phận là con vợ lẽ. Mặc dù cha là quan nhưng

anh luôn sợ hãi khi gặp cha mình, nói chuyện luôn khép nép, khúm núm “Tôi ngồi

nép vào một góc, cách xa ông, càng xa càng tốt, lưng thẳng, đầu thẳng, nhưng

mắt vẫn nhìn xuống, đầu óc lù mù vì sợ hãi, vì ngượng nghịu” [14, 62]. Khoa luôn

cảm thấy sợ sệt khi phải đối diện với người thân sinh ra mình. Trong anh luôn

thường trực câu hỏi “mắt ông ra sao nhỉ? Miệng ông ra sao nhỉ? Hàm răng ông

có đều không? Có trắng không?”[14, 62]. Khoa chưa một lần dám đối diện thẳng

với cha mình. Anh cũng luôn thắc mắc: “Bố tôi có thương anh em tôi không? Bố

70

tôi có ân hận vì đã đẻ ra chúng tôi không?” [14, 63]. Đến khi Khoa đưa ông về ở

cùng, anh vẫn không dám nhìn mặt cha. Khoa sợ cái nhìn của cha dành cho mình,

anh chỉ lầm lũi lên tàu và ngồi vào chỗ của mình. Khoa cảm thấy ngột ngạt trong

chính ngôi nhà của mình, đến nỗi anh phải thốt lên “tôi không còn là tôi nữa”. Cái

tâm lý sợ sệt ấy biến Khoa trở thành con người khác, “cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như

đứa mất hồn, đi lại ngượng ngập, mặt mũi sầu thảm, đăm chiêu đến phát ngán”

[14, 71-72]. Anh dường như bị chấn thương về tâm lý, càng cảm thấy tuyệt vọng

hơn khi bị đổ oan là ăn cắp tiền. Khoa run rẩy, sợ hãi mà không nói ra được, chỉ

cam chịu những lời quát mắng, những nụ cười nhạt khiến tim anh thắt lại. Sau bao

biến cố tinh thần và bệnh tật, Khoa trở lại sống với mẹ và em của mình. Anh thấy

“sung sướng” cho dù cuộc sống nghèo khó và bệnh tật dày vò: “Đêm đó ba mẹ

con tôi nằm chung một giường, chật chội, tanh tưởi vì người tôi rất tanh, nhưng

chúng tôi vui sướng vì không phải xa nhau nữa”.

Nguyễn Khải có cái nhìn rất tinh tế trong việc nhìn đời, nhìn người. Ông luôn

có những suy nghĩvề cuộc sống hiện tại, cách mà con người đối xử với nhau trong

sự biến thiên của thực tại xã hội. Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự trân trọng

tình người, tình cảm gia đình, vợ chồng…

Nhân vật bà Bơ (Nắng chiều) là một người đã trải qua những ngày tháng bất

hạnh, buồn đau. Bà là người “rất cần thiết cho mọi người nhưng vẫn bị mọi người

bỏ quên” [17, 135]. Cả đời hy sinh cho gia đình mà không một lời phàn nàn. Nhà

văn đã rất tinh tế khi phát hiện sự hồi sinh trong tâm hồn của người già bởi tình

yêu. Nguyễn Khải đã vận dụng khá linh hoạt ngôn ngữ người kể chuyện và lựa

chọn những chi tiết đắt giá để làm nổi bật tâm lý nhân vật. Qua sự phác họa điệu

bộ, cử chỉ của bà Bơ, ông Phúc, người đọc đã hình dung ra được cảm xúc và tâm

lý của họ: “Ông anh rể ngồi lom khom trên ghế, cây gậy kẹp trong đùi, vừa nhìn

vợ làm cơm, vừa kể chuyện Đông Tây kim cổ, chuyện vui và cả chuyện buồn, giọng

kể ngọt ngào, âu yếm, còn bà vợ chạy lui, chạy tới, quay trước quay sau, hai bàn

tay không lúc nào ngưng nghỉ, chốc chốc lại quay mặt về phía chồng, hỏi một cách

ngây ngô, một cách nũng nịu: Lại ra thế hở ông? Con người đẹp thế, tốt thế lại

71

phận bạc ông nhỉ? (…) Ngón tay bà sao lạnh thế, lòng bàn tay cũng lạnh, bà đưa

hộp dầu tôi xoa cho” [17, 147-148].

Tình nghĩa vợ chồng gắn bó keo sơn, chan chứa nỗi niềm dù người phụ nữ

luôn chịu thiệt thòi nhưng chưa bao giờ trách phận. Với chị Khuê trong Người vợ

luôn lấy sự chăm sóc chồng con là niềm vui. Mặc dù bị chồng đối xử không tốt

nhưng vẫn luôn bênh vực, che chở cho chồng. Lúc nào chị cũng mang trong mình

một tâm lý nhẫn nại với một niềm tin dai dẳng “sông có khúc, người có lúc”. Niềm

tự hào lớn nhất của chị là các con. Nếu chúng xảy ra chuyện gì thì chị đau đớn, sợ

hãi, không ăn không ngủ vì chúng. Khi con trai út gặp rắc rối không thể đi Pháp,

chị chạy vạy, van xin khắp nơi, chị “không nghĩ đến đồng tiền nó sẽ kiếm được nay

mai mà chỉ nghĩ đến một cái tài đã được ấp ủ từ nhỏ có cơ hội bừng nở. Bị ngắt cụt

nó sẽ trở thành người khác, có khi còn thành tội nhân vì thất vọng, vì tuyệt vọng thì

sẽ lụi tàn dần, chết dần, họ sẽ tiêu hủy bằng cái mòn dần” [17, 59]. Chị nghĩ chỉ có

con đường đó thì nó mới vươn lên được, tài năng của nó sẽ được tỏa sáng, bởi “đây

là sinh mạng của một đứa con”. Chị luôn cảm thấy day dứt, lo lắng “hầu như không

ăn không ngủ, chỉ đi thôi, chỉ nói thôi”.

Hay bà Nhật vợ Hồ Dzếnh trước khi mất “vẫn thức để chờ, vừa nghe tiếng

còi xe đã mở toang cánh cửa đón chồng lần cuối” [17, 37]. Cả đời bà ám ảnh trước

sự ra đi của chồng, suốt quãng đời còn lại của bà “ruột đau như xé nhưng không

khóc được”, lúc nào cũng sống trong những giây phút vĩnh biệt từng giờ, nửa đêm

tỉnh giấc cũng như nghe thấy tiếng chồng gọi. Mấy chục năm tình nghĩa vợ chồng

“ông bà sống với nhau đã bốn chục năm chứ có ít ỏi gì, lại đã ở tuổi bảy mươi mà

lúc chia ly vẫn đau đớn, vật vã” [17, 35].

Nguyễn Khải đặc biệt dành nhiều tâm huyết cho các nhân vật phụ nữ. Nhà

nghiên cứu Trần Thị Thanh đã có nhận xét xác đáng: “Nhân vật nữ trong tác phẩm

của ông phần lớn có dáng người thô kệch nhưng, cục mịch, xù xì góc cạnh, ít

duyên dáng, song bản chất tâm hồn lại rất tốt, đôn hậu, vị tha, rất đỗi yêu người,

yêu đời và thiết tha gắn bó với cuộc sống”. Nỗ lực khám phá thế giới tâm hồn

người phụ nữ của Nguyễn Khải được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau

72

trong cuộc sống hiện tại. Nhà văn thực sự làm người đọc rung động về những trang

viết về tình cảm vợ chồng, tình mẫu tử thiêng liêng. Ông đã khai thác những mặt,

những vấn đề thời kỳ hậu chiến để thấy được tấm lòng của những người mẹ, người

vợ. Họ luôn muốn bình đẳng như những người mẹ, người vợ khác. Nhưng cũng

đau đớn, buồn bã như nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội: “Tao đau đớn

mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám

đi cũng là biết tự trọng” [17, 122].

Để giúp cho nhân vật của mình được hoàn thiện hơn về mặt nhân cách,

Nguyễn Khải đã xây dựng các nhân vật tự đối diện với lương tâm của mình, tự

chất vấn, tự mở những tòa án lương tâm để soi xét mình. Trong đó các nhân vật

tự đối thoại, suy nghĩ về cuộc đời “cuộc đời đâu phải phù sinh! Cái nghĩa tình

thầm lặng, nhỏ nhoi trong mỗi gia đình, một vùng đất luôn luôn bị quên đi trong

cái ồ ạt, xáo động, ngầu đục của dòng đời vẫn là mạch nước ngầm trong suốt, vô

nhiễm để nước sống những tinh hoa của dân tộc” [17, 38]. Đó là Dụ, luôn sống

trong cái tâm lý của một thời đã qua, những kỷ niệm về người thân, đồng đội của

mình. Anh muốn tạo ra những pho tượng, muốn làm sống lại những khoảng khắc

không bao giờ quên của một thời. Những đêm không ngủ được, anh lại lắng tai

nghe xem có tiếng động, tiếng cười nào từ những pho tượng ấy không, xem có ai

chịu sống lại vì cái tình mà anh dành cho họ không. Những suy nghĩ về cuộc đời,

những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi nhất ấy cũng đã đem lại niềm tin yêu cho con

người, đem lại niềm vui cho cuộc sống, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Những nhân vật của Nguyễn Khải luôn tự suy nghĩ về những thứ đang diễn

ra trong cuộc sống hiện tại với những trăn trở về các vấn đề của thời buổi kinh tế

thị trường: “tôi là một thằng đàn ông không thể nói là nghèo, lại có học, lại cũng

từng trải mà phải quỳ gối trước sức mạnh kim tiền như một thằng Mít thằng Xoài

thì cũng hèn quá, cũng nhục quá có phải không?” [17, 167]. Những câu hỏi như

chất vấn chính lương tâm của mình, để rồi tự sắp đặt lại cuộc đời mình theo ý riêng

của mình: “Tôi cũng có cách chuẩn bị của tôi. Ấy là khi tôi không kiếm được tiền

nữa, đã thành kẻ vô tích sự trong gia đình, lại bệnh tật, lại trái trứng, gây khó

73

khăn, gây phiền phức cho những người cùng sống thì tôi vẫn giúp các con tôi một

lần cuối: chết thật gọn gàng, thật sạch sẽ để chúng khỏi vì mình phải chi tiêu quá

nhiều tiền” [17, 46].

Sự suy nghĩ thâm sâu ấy vẫn là nghĩ về con cái, nghĩ cho con cái. Mấy ai

chuẩn bị sự ra đi cho mình, mấy ai ý thức được như thế. Nhà văn cố gắng khai

thác chiều sâu tâm trạng nhân vật, để từ đó thấy được những vẻ đẹp khuất lấp. Họ

chính là những túi khôn, là những giá trị sống mà nếu mất đi thì thật là đáng tiếc:

“Bà giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá! Một người như cô phải chết đi thì

thật là tiếc, lại một hạt vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió

bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng” [17, 130].

3.2. Hình tượng người kể chuyện

Mỗi câu chuyện của Nguyễn Khải về người Hà Nội đều mang đậm chất đời

thực. Các nhân vật trong mỗi tác phẩm đều ít nhiều liên quan trực tiếp với tác

giả. Mỗi người, mỗi mảnh đời, mỗi hoàn cảnh đã mang đến cho độc giả những

xúc cảm khác nhau: lúc thì ngưỡng mộ, cảm phục, bồi hồi xúc động; khi lại có

cảm giác khinh thường và chán ghét…Nguyễn Khải thường đóng vai trò người

kể chuyện trong những câu chuyện đó. Mỗi câu chuyện tác giả thường gửi gắm

một điều tuy nhỏ bé nhưng ẩn chứa tâm nguyện to lớn mà suốt đời ông luôn trăn

trở. Đỗ Hải Phong trong Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại,

đã dẫn lời của Todorov như sau: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc

kiến tạo thế giới tưởng tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện.

Ngôn ngữ của người kể chuyện tập trung ở lời người kể chuyện. Nó bao gồm

phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con người; bao gồm cả lời dẫn

thoại; lời trữ tình”. Ở đây, chúng tôi tìm hiểu hình tượng người kể chuyện thông

qua hai phương diện là cái nhìn nghệ thuật và sự tự thể hiện của tác giả thành

hình tượng.

3.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật

Trong truyện ngắn viết về con người Hà Nội thời kỳ đổi mới, nhà văn trong

vai trò người kể chuyện đã thể hiện cái nhìn hiện thực tỉnh táo về con người và

74

thời đại. Thời hiện tại theo cách đánh giá của nhà văn, đang là “thời các giá trị cũ

đã đánh mất tính tuyệt đối. Còn những giá trị mới thì lòe nhòe, bảo phải cũng

được mà bảo trái cũng được” [17, 22]. Nhiều nhân vật đã bị mất phương hướng

trước những biến động của thời cuộc, bởi trong cái thời hiện tại “đồng tiền vừa là

đầy tớ, vừa là ông chủ, vừa là bạn đường vừa là giặc cướp” [17, 14]. Cuộc sống

diễn ra xô bồ, có lúc tàn bạo, vì thế có lúc Nguyễn Khải không ngại ngần công

khai lên án nó.

Những con người Hà Nội trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi

mới phần nhiều là những người già, những người cùng thế hệ với ông, những

người đã sống qua một thời chiến tranh ác liệt nhưng hào hùng nay chiêm nghiệm

lại “thời vàng son” của họ nên buồn cũng là lẽ đương nhiên. Họ buồn nhưng không

tuyệt vọng, họ vẫn tỉnh táo để phân tích, nhận ra cái hay cái dở của mỗi thời, để

lựa chọn một cách sống, một niềm tin mà vượt lên hoàn cảnh. Trong buổi giao

thời đó, với cái nhìn hiện thực tỉnh táo, Nguyễn Khải đã chỉ rõ một bộ phận của

thế hệ trẻ tôn sùng giá trị của đồng tiền mà quên đi các giá trị lịch sử, các giá trị

đạo đức, nhân phẩm của con người. Nguyễn Khải đã thể hiện rõ sự trăn trở, day

dứt của mình trước sức mạnh và sự chi phối của đồng tiền. Ông đặc biệt quan tâm

tới đạo đức của con người trước sự biến thiên của các giá trị giữa thời buổi kinh

tế thị trường. Cơ chế thị trường khiến cho những giá trị tưởng như bền vững bị

lung lay. Nguyễn Khải tỉnh táo phê phán những hiện tượng xuống cấp của một bộ

phận thanh niên mới lớn. Họ tỏ ra sỗ sàng, hành động, nói năng thiếu giáo dục, vô

văn hóa. Nhà văn coi đó là “rác của Hà Nội” và thể hiện sự phản ứng của một cây

bút đầy trách đối với con người và cuộc sống.

Viết về con người trong cuộc sống đời thường hôm nay, Nguyễn Khải đã

khám phá ra nhiều giá trị nhân văn sâu sắc ẩn chứa đằng sau những con người rất

đỗi bình thường trong cuộc sống. Nhân vật của ông bước vào trang văn rất tự

nhiên, đượm chất đời thường. Đó là chị Vách (Đời khổ), bà mẹ (Mẹ và các con),

bà Tuất (Người của nghề)…Với cái nhìn nhân bản, nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp

nhân cách ở những con người đã chịu nhiều bất hạnh, đau khổ trong cuộc đời.

75

Niềm cảm thương của một nhà văn từng trải nghiệm nhiều cay đắng, mặn ngọt

của cuộc đời đã giúp ông nhận ra những vẻ đẹp bình lặng mà cao quý của những

con người bình thường. Đó là những con người luôn sáng lên những phẩm chất

cao đẹp, luôn sống và hy sinh vì những người thân yêu của mình. Như vậy là,

trong thời kỳ đổi mới, truyện ngắn của Nguyễn Khải nói chung và truyện ngắn

viết về con người Hà Nội nói riêng có nhiều chuyển biến theo hướng đến gần với

cuộc đời. Cái nhìn hiện thực tỉnh táo của Nguyễn Khải trong thời kỳ đổi mới là

cái nhìn có chiều sâu lịch sử và văn hóa. Chính vì thế giọng điệu trần thuật của

ông vừa có cái thâm trầm, thuần hậu của tuổi già vừa có cái góc cạnh, trải đời của

một người đã qua những xông pha, lăn lộn ở đòi.

Bên cạnh cái nhìn hiện thực tỉnh táo, trong vai trò người kể chuyện, Nguyễn

Khải cũng thể hiện cái nhìn sắc sảo và tinh tế trước những vấn đề của cuộc sống

và con người. Truyện ngắn Chúng tôi và bọn hắn đã thể hiện những đổi thay trong

đời sống hiện đại và cái tội nghiệp đáng thương của kiếp sống lệ thuộc vào con

cái của những người già. Nhân vật Tôi- một nhà văn đứng tuổi đến chơi nhà một

người bạn. Mỗi lần đến thăm trước đó Tôi đều được giữ lại ăn cơm, nhưng lần này

“ngồi đến 10 giờ 30 chả thấy ông bà bảo sao”. Thế là nhân vật Tôi cố tình, “ngồi

gan đến 11 giờ xem họ có mới cơm mình không nào. Không phải vì bữa cơm, cơm

bụi Hà Nội rẻ lắm, ăn phè phỡn cũng chỉ hết dăm nghìn, mà tự do. Chỉ là muốn

gây khó chơi, xem họ phản ứng thế nào, vì sao mà thay đổi.Mà tội lắm, ông liếc

mắt nhìn bà, bà cúi mặt đưa mắt nhìn tôi, rồi lại nhìn chồng, như người có lỗi”

[17, 23-24]. Nguyễn Khải đã kể lại chi tiết đó với giọng trần thuật thích thú đến

độc ác nhưng ẩn sau đó là một nỗi xót xa vì sự đổi thay của cuộc đời.

Trong truyện ngắn Nắng chiều, ngòi bút nhà văn đã thực sự cảm phục, nâng

niu, trân trọng hạnh phúc muộn mằn của những người già. Đó là câu chuyện của

bà Bơ, một bà chị họ “năm nhận lời xuất giá vừa tròn bảy chục tuổi”. Quả thật,

với một ngòi bút tâm lý sắc sảo, một tấm lòng đôn hậu, bao dung của người già và

cái nhìn cuộc sống, con người đằm thắm yêu thương, Nguyễn Khải đã mang đến

cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ sâu sắc và thấm đượm giá trị nhân văn.

3.2.2. Sự hóa thân thành hình tượng nhân vật

76

Trong tác phẩm văn chương bao giờ cũng có sự thể hiện hình tượng tác giả

như là một sự tự ý thức của nhà văn về vai trò chủ thể tư tưởng khi quan sát, miêu

tả sự vật hiện tượng, đánh giá cuộc sống. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học,

các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi viết: “Hình tượng tác giả

là một phạm trù thể hiện cách tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và văn học

của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi” [9, 100]. Hình thức

tự thể hiện của hình tượng tác giả thường là thông qua nhân vật người kể chuyện

ở ngôi thứ ba hoặc thông qua nhân vật “tôi” trong tác phẩm.

Trong các sáng tác của Nguyễn Khải, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học

đã nhận thấy, nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, bình diện để kể và tả. Không

chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện, tác giả còn biến hóa

thành nhiều giọng điệu phong phú khác nhau tạo nên sự đa thanh trong tác phẩm.

Đọc truyện ngắn Nguyễn Khải người đọc thường xuyên được tiếp xúc với nhân

vật người kể chuyện. Người kể chuyện khi thì là nhân vật chính tự kể lại câu

chuyện của chính mình, lấy mình ra làm đối tượng để suy ngẫm; khi thì là nhân

vật phụ trong vai trò người tổ chức, dẫn chuyện để nhân vật chính kể về mình,

hoặc trực tiếp kể lại câu chuyện của nhân vật chính. Nhân vật Người kể chuyện

trực tiếp tham dự vào câu chuyện ở nhiều vị trí khác nhau, để phù hợp với mục

đích kể chuyện và chiêm nghiệm của tác giả.

Những truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đầu thường sử dụng hình thức

trần thuật phổ biến là ngôi thứ ba - trần thuật khách quan. Nhưng đến những truyện

ngắn thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những tác phẩm viết về Hà Nội, hình tượng

tác giả xuất hiện đa dạng, phong phú hơn hẳn. Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba ít

dần đi, thay vào đó là nhà văn thể hiện cái “tôi”của mình trong tác phẩm khiến

hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất chiếm đa số. Trong tập truyện Hà Nội trong

mắt tôi do Nhà xuất bản văn hóa thông tin xuất bản năm 2014 có tới 16/19 truyện

xuất hiện nhân vật người kể chuyện hữu hình trong tư cách nhân vật xưng “tôi”

(Nếp nhà, Chúng tôi và bọn hắn, Đất kinh kỳ, Người vợ, Người của ngày xưa,

Tiền, Danh phận, Nghệ nhân ở làng, Một người Hà Nội, Nắng chiều, Đời khổ,

77

Đã từng có ngày vui, Một mẹ chồng tuyệt vời, Chị Mai, Phía khuất mặt người,

Một chiều mùa đông). Thể hiện cái “tôi” trong tác phẩm, Nguyễn Khải đã ý thức

về sự trải nghiệm của chính mình, ông lên tiếng giãi bày, đối thoại với bạn đọc về

mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống và con người Hà Nội. Sở dĩ có sự chuyển

mình đó bởi chính Nguyễn Khải cũng là một người Hà Nội, ông viết về Hà Nội,

viết về người Hà Nội cũng là viết về chính bản thân mình hay những người thân

yêu, những người xung quanh mình. Đã nhiều lần ông khẳng định điều đó trong

tác phẩm của mình:

- “Tôi là người sinh trưởng ở Hà Nội, từ trẻ đến già sống ở Hà Nội kỳ thực

cũng không hiểu về Hà Nội bao nhiêu. Tôi chỉ quen thuộc, am hiểu có giới sĩ quan

quân đội, giới văn nghệ sĩ là cái giới của tôi, và cán bộ công nhân viên chức nhà

nước là bạn của tôi. Đại loại là giới viên chức nhà nước mà tôi là thành viên” [17,

91];

- “Tôi sinh ra ở Hà Nội, mãi đến năm mười sáu tuổi mới rời Hà Nội đi kháng

chiến, trong từng ấy năm chưa bao giờ tôi bén mảng xuống vùng đất bãi của Hà

Nội gồm mấy xã Phúc tân, Phúc xá, Nghĩa Dũng, An Dương ” [17, 149].

- “Tháng 4 năm 1945, gia đình tôi dọn nhà đến phố Đỗ Hữu Vị, một đường

phố của giới viên chức Hà Nội, ở chung với bà chị ruột của mẹ tôi” [17, 1477].

- “Tôi tuy là người Hà Nội nhưng đi kháng chiến từ nhỏ, trong tám năm lúc

ở rừng lúc ở làng, bao nhiêu thói quen của người thành phố hầu như đã quên hết.

Chỉ được cái mặt, cái dáng thì vẫn là người của thành phố. Tuy tôi đã trở lại đất

kinh kỳ được hơn một năm nhưng sống với đồng đội là chính, sống trong thành,

ra đụng vào chạm chỉ có lính với lính, nói ngôn ngữ của lính, vui đùa lính, tối tối

và các ngày nghỉ kéo nhau đi bộ khắp các phố phường ngắm cảnh, ngắm người,

biết được cái bên ngoài còn phía trong những căn nhà, những tòa nhà người Hà

Nội bây giờ sống ra sao, vui buồn ra sao thì tuyệt nhiên không được biết một chút

gì” [17, 198-199].

78

- “Mùa đông năm nay Hà Nội lạnh hơn mọi năm. Người mỏng và nhẹ như lá

vón rạt sang hai bên vệ đường trắng khô của cái ống phố dài hun hút. Cái phố

này rất quen thuộc với tôi từ năm tôi mới mười hai tuổi, phố của gia đình công

chức, nhà một tầng, cửa hẹp, luôn đóng kín. Sau chín năm đi kháng chiến trở về

Hà Nội, đi bộ qua phố cũ vẫn vắng vẻ như xưa, có thêm mươi cái nhà hai tầng lợp

ngói, có rào sắt và cổng sắt (…) Tháng 8 năm 1955, tôi được trở về Hà Nội để

viết truyện anh hùng quân đội. Sau chín năm xa cách, trở lại thành phố nơi tôi đã

sinh ra và lớn lên nhìn vào cái gì cũng nhỏ. Hồ Gươm như cái ao lớn. Đường phố

chật hẹp, nhà thì thấp và tối (…) Tôi tuy là dân Hà Nội, nhưng từ nhỏ tới lúc ra

đi kháng chiến, chưa từng một lần đặt chân lên bậc thềm của tòa nhà nguy nga

này” [17, 247-250-251].

Nguyễn Khải đã không dừng ở việc trần thuật khách quan về các sự việc, con

người mà còn hóa thân vào nhân vật, trở thành nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm

để quan sát và miêu tả, kể chuyện theo cách nhìn và quan điểm cá nhân. Nhân vật

người kể chuyện trong những tác phẩm viết về Hà Nội phần nhiều là hình tượng

của chính tác giả. Nhà văn hóa thân vào nhân vật “tôi” một cách đa dạng và sinh

động, khi thì với tư cách là người chứng kiến, xác nhận; khi thì là người trong

cuộc, tự nếm trải giãi bày. Với cách trần thuật này, các nhân vật được soi chiếu ở

nhiều góc cạnh, thế giới nội tâm của nhân vật được phân tích kỹ càng và có nhiều

phát hiện sâu sắc.

Trong nhiều tác phẩm, nhân vật người kể chuyện “tôi” là nhân chứng, là

người quan sát và kể lại câu chuyện. Câu chuyện được dẫn dắt theo mạch kể của

người kể chuyện. Nội dung được kể là những sự việc, tình tiết đã từng xảy ra và

nhân vật được kể chính là người thân, bạn bè, đồng nghiệp, xóm giềng của người

kể chuyện. Những câu chuyện được soi chiếu từ nhiều phía, dưới nhiều góc độ, từ

quá khứ đến hiện tại và ngược lại. Trong Đời khổ, với tư cách một người hàng

xóm, nhà văn đã kể tỉ mỉ về cuộc sống của chị Vách từ sự phục tùng tuyệt đối của

chị đối với ông chồng vô tích sự, sự chăm lo hết mình, hết sức cho gia đình. Dõi

theo từng đoạn đời của chị Vách, người kể chuyện luôn ngạc nhiên và cũng khâm

79

phục sự chịu đựng và hy sinh của chị. Nhân vật xưng “tôi” đã quan sát và nhận

thấy rõ mọi sự kiện trong cuộc đời chị Vách, cuộc sống riêng tư của chị được kể

lại với giọng kể chân thực, khách quan. Ẩn đằng sau lời kể ấy là sự thương cảm,

xót xa của người kể chuyện với những nỗi khổ đeo đẳng suốt cuộc đời chị Vách.

Nỗi xót thương đó được thể hiện rõ trong lời bình luận của nhân vật “tôi”: “Vâng,

tại chị cả, trăm tội, ngàn tội phải đổ lên đầu chị, nếu ông chồng siêu đẳng của chị

còn sống thì chúng nó đâu đến nỗi….chính tôi, tôi cũng muốn bật khóc” [17, 162].

Tái hiện cuộc đời chị Bơ trong Nắng chiều, nhân vật “tôi” đã dùng lời kể ẩn

chứa nhiều xót xa thương cảm, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều niềm vui, sự xúc

động trước tình cảm mà mọi người dành cho chị. Với những chi tiết, hình ảnh chân

thực, giản dị, người kể đã giúp người đọc hình dung sự ngọt ngào trong hạnh phúc

muộn mằn của những người đã ở tuổi xế chiều. Cả cuộc đời chị Bơ chịu những

thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm, chỉ chăm lo cho các em, các cháu, về già mới có

chút hạnh phúc riêng. Niềm hạnh phúc đến với chị - theo lời người kể chuyện -

một phần là do “mãnh lực tình yêu” của các cụ không “tiêu xài phung phí lúc thiếu

thời” và một phần quan trọng là do “ở cái tâm tốt của con người”. Qua cuộc đời,

số phận và niềm hạnh phúc của người chị họ, người kể chuyện muốn khái quát lên

thành vấn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh về hạnh phúc, về tình yêu và mối quan

hệ giữa những điều đó với chữ “tâm” của con người.

Nổi bật trong các truyện ngắn viết về Hà Nội của Nguyễn Khải là giọng điệu

ngợi ca, trân trọng và kính phục của nhân vật “tôi” khi là nhân chứng, quan sát và

kể lại câu chuyện về những nhân vật của mình. Đó là trong câu chuyện về cô Hiền

(Một người Hà Nội), bà cô (Nếp nhà), Dụ (Nghệ nhân ở làng)…Người nào cũng

đẹp, cũng có một nhân cách đáng nể, đáng trọng. Hình ảnh các nhân vật hiện lên

trong các câu chuyện sống động như trong cuộc đời thực. Chọn cách kể chuyện ở

ngôi thứ nhất, nhà văn có điều kiện bày tỏ tình cảm của mình một cách chân thành

nhất, đồng thời gửi gắm trong đó những chiêm nghiệm, triết lý của bản thân về

con người và cuộc đời.

80

Bên cạnh việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện “tôi” là nhân chứng, là

người quan sát và kể lại câu chuyện của mọi người thì trong nhiều truyện ngắn,

Nguyễn Khải cũng để “tôi” chính tự kể về mình. Nguyễn Khải rất gắn bó và am

hiểu sâu sắc về Hà Nội nên khi viết về mảnh đất này là ông viết về những người

thân trong gia đình, những người xung quanh, những bạn bè đồng nghiệp…Và

trong đó, rất nhiều trang văn ông viết về chính mình. Cái “tôi” của người kể chuyện

nhiều khi trùng khớp với các sự kiện đời sống và tâm tư tình cảm của bản thân nhà

văn. Những cũng có khi cái “tôi” đó là để thể hiện “cái ngoài mình”, một hiện

thực cuộc sống được “khúc xạ qua lăng kính của nhà văn”. Khi đó, cái “tôi” của

người kể chuyện không hoàn toàn đồng nhất với số phận, tính cách của tác giả.

Nhưng đó đều là các tác phẩm bộc lộ chủ quan và mang sắc thái cảm xúc cao.

Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy có một người kể chuyện đóng vai tác giả là

nhà văn, nhà báo, là “chú Khải”, “ông Khải”...cũng với rất nhiều chi tiết tiểu sử

như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của

văn chương. Chính Nguyễn Khải đã từng tâm sự trong lời Tự bạch: “Nếu một

truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của người không có chuyện

của mình thì mạng sống của nó không thể dài hơn một bài báo (…). Mọi truyện

ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là của tôi cả hoặc có thể là tôi, nên

có những trang truyện được viết cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại

vẫn đem lại cho tôi những cảm nghĩ bây giờ, những xúc động bây giờ” [26, 421].

Đó là những câu chuyện rất thật, rất chân thành, rất xúc động bởi “tôi chỉ mượn

cái vỏ, cái xác của người này, người kia, còn cái hồn phải là của chính mình” [15,

36].

Đem cuộc đời mình ra viết lên những trang văn với sự thành thực, truyện

ngắn Nguyễn Khải nhiều lúc giống như tự truyện. Xâu chuỗi các sự kiện mà nhân

vật tôi kể trong các truyện ngắn thì ta nhận ra bóng dáng, tiểu sử, các mốc thời

gian trong cuộc đời Nguyễn Khải gắn bó với Hà Nội, nhất là mối quan hệ gắn bó

với những người Hà Nội trong tác phẩm của ông:

81

- “Mỗi lần ra Hà Nội việc đầu tiên là tôi phải tới thăm bà cô tôi. Chẳng có

quà cáp gì cả, đến tay không, nhưng vẫn cứ phải đến. Vì bà là cái túi khôn của tôi

mà” [17, 5].

- “Tôi và Phúc là bạn của nhau từ năm tôi mười bốn tuổi. Hai nhà sát cạnh

nhau ở phố Résident Miribel nay là phố Trần Nhân Tông, đi vài bước là ra phố

Huế, nhìn sang bên kia đường là Chợ Hôm” [17, 16].

- “…tôi đang là cây bút trẻ được xem có nhiều triển vọng….Tôi cười nói tự

tin, mặt mũi vênh váo, người đang được thời mà” [17, 33].

- “Chúng tôi gọi cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm 1955,

tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhở hơn trước, vắng hơn trước còn họ hàng chỉ

còn lại có dăm gia đình vì chồng và con đều đi theo cách mạng” [17, 112].

Cách xây dựng hình tượng người kể chuyện là một sáng tạo độc đáo của

Nguyễn Khải. Sự xuất hiện của một người kể chuyện từng trải, hiểu đời, hiểu

người trong tác phẩm, với những chia sẻ mọi suy nghĩ, buồn vui đã tạo thêm sức

hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc. Nhà nghiên cứu Đào Thủy Nguyên đã nhận xét: “Ông

đang mải miết đi giữa dòng đời xuôi ngược, chăm chú nhìn ngắm con người và

cuộc sống xung quanh, thỉnh thoảng dừng lại khen người này một câu, bình luận

về sự việc kia một chút, rồi tự giễu mình, nhạo đời, cứ tưng tửng đùa mà thật ra

ông đã phát hiện ra bao điều nghiêm túc về nhân sinh và thế sự. Ông nhìn đi rồi

ông nhìn lại, ông chiêm nghiệm rồi ông triết lý” [32, 192]. Nhà văn đã có những

chiêm nghiệm về cuộc đời, về nghề văn thông qua các nhân vật của mình hay bộc

lộ trực tiếp qua nhân vật “tôi”. Qua đó, độc giả cảm nhận được sự nuối tiếc của

một người từng gắn bó với Hà Nội trước những đổi thay như cơn lốc của thời đại

có thể cuốn đi các giá trị truyền thống từ bao đời.

3.3. Sử dụng chất liệu ngôn ngữ bình dân

Khi sáng tác bất cứ một tác phẩm văn học nào, các nhà văn bắt buộc phải sử

dụng chất liệu ngôn từ. Ngôn ngữ văn học của mỗi tác giả vừa mang tính trực giác,

vừa mang tính cá thể và cho ta thấy đặc điểm tư duy nghệ thuật và phong cách

nghệ thuật của nhà văn. Trong Hà Nội trong mắt tôi, thì ngôn ngữ bình dân là

82

một thủ pháp nghệ thuật được Nguyễn Khải sử dụng rất nhiều. Ngôn ngữ bình dân

chủ yếu là lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân lao động. Việc sử

dụng ngôn ngữ này giúp cho các câu chuyện của nhà văn trở nên đa dạng, đưa ta

đến một thế giới nhân vật hết sức chân thực nhưng cũng đầy sức sống đời thường.

Nhiều nhà nghiên cứu cùng có chung nhận định: “thực ra đặc sắc của thứ ngôn

ngữ này là ở chỗ nó miêu tả lời ăn tiếng nói ngoài đời, miêu tả một ngôn ngữ sống

chứ không chỉ dùng ngôn ngữ ấy đơn thuần như một phương tiện kể chuyện. Chính

việc vận dụng ngôn ngữ đời sống một cách tự nhiên, trưởng như không dụng công

gì cả vào trong tác phẩm đã tạo nên nét linh hoạt, dí dỏm trong văn chương

Nguyễn Khải” [62].

3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ đời thường, mang tính khẩu ngữ

Trong thời kỳ đổi mới, các sáng tác của Nguyễn Khải thiên về cảm hứng thế

sự đời tư. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ đời thường để góp phần thể hiện cái nhìn

toàn diện về mọi mặt cuộc sống. Trong nhiều tác phẩm, Nguyễn Khải sử dụng

ngôn ngữ trần thuật giản dị, đời thường như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người

dân. Lời văn của người kể chuyện giản dị, tự nhiên, dẫn dắt người đọc vào những

câu chuyện nhỏ trong cuộc sống đời thường. Tác giả còn sử dụng rất linh hoạt,

hợp lí lối dẫn dắt, nói đệm mang đậm tính khẩu ngữ, tạo ra sắc thái đặc biệt cho

lời văn và giọng điệu : “Còn chính trị, chính em là những lứa tuổi... ”, “là vì họ ở

rộng quá ”, “Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông”…Bên cạnh đó, ông

còn sử dụng cả những từ ngữ thông tục như “thằng mất dạy ”,“tiên sư cái anh

già”, “đồ vô tích sự ”, “mắt mày mù hay sao mà không nhận ra”, “đi mẹ nó sang

Mỹ”, “có mà điên”…Có thể nhận thấy, trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời

kỳ đổi mới nói chung, tập truyện Hà Nội trong mắt tôi nói riêng, có nhiều trang

viết vô cùng độc đáo, với ngôn ngữ trần thuật biểu hiện một cách tự nhiên, giản dị

lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Độc giả cũng dễ dàng nhận ra trong ngôn ngữ của nhân vật thường được nhà

văn đưa vào các câu tục ngữ, thành ngữ mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc.

83

Trong truyện ngắn Đời khổ Nguyễn Khải đã để cho nhân vật 10 lần dùng tục ngữ

và thành ngữ vào trong lời thoại, chủ yếu là trong lời nói của chị Vách:

-“Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. Ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô

chính trị…”.

-“Giàu vì bạn sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hóa hèn…”.

-“Cách nhau như trời với đất, lấy được là mừng…”.

-“Huống hồ tôi còn là người có tội, phải người chồng có máu ghen thì họ gọt

tóc bôi vôi”.

-“Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ”.

- “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ

chú”.

- “Con thẳng da bụng mẹ chùng da mắt. Nuôi con hai chục năm trời mà con

trả công cha nghĩa mẹ thế này ư?”.

- “Anh em kiến giả nhất phận, thân ai nấy lo chú ạ”.

- “Nếu cái nghiệp nó nhẹ thì nó chết trước tôi, tôi còn chôn cất ma chay được,

còn nếu nó chết sau tôi thì chiếu bó thây vùi thôi”.

Việc sử dụng nhiều các tục ngữ, thành ngữ trong lời nói của chị Vách góp

phần bộc lộ bản chất con người dân dã, mộc mạc của chị. Tuy ít học nhưng chị

Vách là người có vốn ngôn ngữ dân gian phong phú, ăn sâu vào trong tiềm thức

của chị giúp chị vận dụng linh hoạt trong mọi hoàn cảnh.

Nguyễn Khải đã vận dụng thứ ngôn ngữ bình dân vào trong tác phẩm nhằm

truyền tải những nội dung quan trọng, những triết lý, chiêm nghiệm của đời sống

hàng ngày của nhân dân. Mặt khác, nó cũng giúp cho nhân vật của mình tạo nên

sự hài hước, dí dỏm vào trong các câu chuyện mà tác giả kể. Đó là thứ hài hước

dân dã là phong tục tập quán, là văn hóa Việt Nam. Việc đưa tục ngữ, thành ngữ

vào trong ngôn ngữ của nhân vật đã góp phần giúp Nguyễn Khải làm nổi bật lên

những nét tính cách rất riêng mà ông xây dựng ở những người Hà Nội: thích triết

lý, luôn suy luận trong lời ăn tiếng nói của mình: “Giãy nảy như đỉa phải vôi. Mặt

mũi đỏ nhừ đỏ tử”, “thằng thì làm vua thua thì đi tù”, “Khinh người rẻ của”…Dù

84

sống giữa đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, những con người đó vẫn mang trong

mình những đặc trưng của nền văn minh lúa nước với thói quen vận dụng tục ngữ,

thành ngữ vào lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đó là thứ ngôn ngữ bắt nguồn từ cuộc

sống. Qua cách sáng tạo của mình, Nguyễn Khải đã vận dụng những lối so sánh,

suy nghĩ của người dân bình thường và vận dụng nhiều thuật ngữ ở các lĩnh vực

khác nhau vào trong trang viết của mình, vì vậy truyện ngắn của ông rất sinh động,

lôi cuốn người đọc hơn bao giờ hết.

3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại

Truyện ngắn của Nguyễn Khải - đặc biệt là những truyện ngắn viết trong thời

kì đổi mới - thường đề cập đến những vấn đề văn hóa- xã hội của đất nước. Nhà

văn cũng thường để cho nhân vật tự bộc lộ nhân cách của mình. Trong nhiều

truyện, Nguyễn Khải thường xây dựng các cuộc hội thoại với một nhân vật hỏi

(thường là người kể chuyện xưng “tôi”), còn nhân vật kia trả lời, trực tiếp bày tỏ

quan điểm, suy nghĩ, tình cách…của mình. Trong truyện ngắn Một người Hà Nội,

có rất nhiều các cuộc đối thoại giữa các nhân vật dưới hình thức như vậy. Phổ biến

nhất là các cuộc đối thoại của “tôi” với cô Hiền. Mỗi một câu chuyện, mỗi cuộc

đối thoại, cô Hiền bộc lộ thêm một nét tính cách của mình. Dưới đây là một cuộc

hội thoại của “tôi” với cô Hiền:

“Tôi hỏi cô:

- Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?

Cô Hiền cười rất tươi:

- Tao chưa đủ tiêu chuẩn.

Tôi cũng cười:

- Lại còn chưa đủ.

Cô nói thản nhiên:

- Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản nhưng lại không bóc lột

ai cả thì làm sao thành tư sản được” [17, 119].

Qua cuộc đối thoại trên, ta thấy cô Hiền là một con người thẳng thắn, khôn

ngoan, sắc sảo và đầy bản lĩnh. Các lời thoại khác của cô cũng thể hiện mình là

85

một con người giàu lòng tự trọng và luôn có ý thức sâu sắc về nhân cách của một

người Hà Nội:

“Tôi hỏi cô: - Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?

Cô trả lời: - Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào

sự hy sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.

(…)

Tôi lại hỏi cô: - Cô cũng đồng ý cho nó đi à?

Cô trả lời buồn bã: - Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn

cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết

nó.

Rồi cô chép miệng: - Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ

khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì” [17, 122-123].

Chỉ qua những đoạn đối thoại, nhà văn đã giúp nhân vật bộc lộ một tấm lòng,

một nhân cách cao cả thật đáng trân trọng. Cô cũng đã nói những lời chân thành

gan ruột bộc lộ tâm trạng mâu thuẫn giằng xé giữa một bên là tình yêu con sâu

đậm của một người mẹ luôn muốn giữ con bên mình và một bên là tinh thần trách

nhiệm và tình yêu Tổ quốc. Cuối cùng, cô Hiền chọn cách đau đớn mà bằng lòng

cho con ra đi thực hiện trách nhiệm với đất nước và để con được ngẩng cao đầu

với bè bạn cùng trang lứa. Nguyễn Khải đã thể hiện sự ngợi ca, trân trọng những

con người mang trong mình những phẩm chất cao quý như vậy.

Trong nhiều tác phẩm, nhà văn Nguyễn Khải để cho nhân vật trực tiếp bộc

lộ quan điểm, suy nghĩ, cách sống của mình qua lời thoại. Khi đó, nhân vật giữ vai

trò như người phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn, giúp nhà văn truyền đạt bức

thông điệp của mình đến độc giả. Những lời chia sẻ của bà Mão trong Mẹ và các

con với chị hàng nước thể hiện rõ suy nghĩ, quan điểm của một người mẹ coi việc

hi sinh cho con cái là bổn phận, là nghĩa vụ tất nhiên của một người mẹ: “Chị bán

nước vẫn nói cau có, nuôi con lúc trẻ để cậy nhờ lúc già, chứ có ai lại tình nguyện

hi sinh cả đời cho con cho cháu. Chị bảo:“Mình là con người chứ có phải con

trâu con ngựa đâu, bảo lúc khỏe thì cày thì kéo, lúc già ốm thì để chúng đập đầu

xẻ thịt”. Bà lão cười rất khó hiểu: “Được thế cũng là hay, chị ạ”. Chị bán nước

86

gắt lên: “Nhất bà đấy, chả có ai lại nghĩ ngợi dở hơi như bà”. Bà lão ngồi ngây

ra một lát rồi lại nói rủ rỉ: Nay mai về già chị cũng nghĩ như tôi thôi, con cái có

thể quên mẹ, bỏ mặc mẹ nhưng không có người mẹ nào nỡ bỏ con cái, có phải róc

xương sẻ thịt để nuôi con cũng chẳng từ…Chứ mẹ chỉ biết lo cho cái thân của mẹ

chả hóa ra nước chảy ngược à?” [17, 222].

Trong các câu chuyện của mình, Nguyễn Khải luôn chú ý bộc lộ sự khác

nhau trong suy nghĩ, tính cách của hai thế hệ già và trẻ qua lời nói của họ. Khoảng

cách giữa các thế hệ già - trẻ, quá khứ - hiện tại được bộc lộ xoay quanhnhững lời

đối thoại dưới hình thức phỏng vấn:

“Tôi hỏi: - Anh không thích nói chuyện với bọn tôi à?

Nó nhè miếng xương, nhăn mặt: - Toàn chuyện ông này ra ông kia vào, ông này

lên ông kia xuống, chuyện của các cơ quan quyền lực dính líu gì đến bọn cháu.

- Quyền lực vẫn chỉ huy kinh tế đấy anh ạ.

Nó cười: - Danh nghĩa là thế, còn thực chất vẫn là tiền chỉ huy. Đồng tiền

lớn chỉ huy đồng tiền bé.

Nó uống một ngụm rượu, vè mắt đã rần rần đỏ: - Chúng cháu chỉ có một ông

chủ thôi, đó là thị trường, mà quy luật của thị trường thì bất biến nên dễ ứng xử

lắm…” [17, 24-25].

Lời đối thoại của những người già thường chậm rãi, nhẹ nhàng, chất chứa

nhiều suy tư, mang nhiều chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời. Đó là sự từng trải

trong cuộc đời của họ. Còn những nhân vật trẻ thì luôn thể hiện sự tự tin, quyết

đoán, táo bạo, đôi khi sốc nổi, bốc đồng qua lời nói của mình. Những người già

cũng luôn có ý thức trân trọng những giá trị tinh thần, tình cảm còn giới trẻ lại

quan tâm nhiều hơn đến các giá trị vật chất. Người già sống có nhân cách, trong

mọi hoàn cảnh vẫn giữ vững nhân cách cao đẹp, lối sống có văn hóa; lớp trẻ lại dễ

bị cám dỗ của xã hội lôi kéo dẫn đến sống buông thả, vô văn hóa. Khi các nhân

vật thuộc hai lớp người già - trẻ đối thoại với nhau, suy nghĩ, tính cách của họ bộc

lộ sự tương phản rõ nét.

Nguyễn Khải còn muốn thông qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật để cá tính

hóa các nhân vật. Nhân vật bà Mặn (Người của ngày xưa) qua lời thưa gửi lễ phép

87

của mình thể hiện là một người đoan trang, được giáo dục cẩn thận: “Chúng con

tuy nghèo nhưng là con nhà thi lễ chứ không phải phường mèo mả gà đồng, xin

cụ lớn xá lỗi cho(…). Ông nhà tôi chỉ là rể làng thôi, rể làng chưa khao vọng gì

thì không có chỗ ngồi ở đình, là tục lệ từ xưa, xin các cụ chớ bỏ” [17, 62-63]. Sự

thay đổi hoàn cảnh sống cũng có thể khiến cung cách nói năng của nhân vật thay

đổi. Bà Tuất trong truyện ngắn Người của nghề sau nửa năm lên thành phố ở với

các con đã có nhiều thay đổi. Từ một bà cụ quê mùa, chân chất nay bà Tuất đã trở

thành người của thành thị. Cách nói năng của bà cũng đổi khác, khi nói chuyện bà

“cũng thưa, cũng dạ, cũng chúng tôi, một điều “nói anh bỏ lỗi”, hai điều “mong

anh bỏ quá cho”. Giọng nói thì uốn éo, cười thì gượng gạo, thớ lợ” [17, 169] hoàn

toàn khác với cách nói của một bà cụ nhà quê chân tình, mộc mạc.

Bằng tài năng và sự am hiểu sâu sắc về con người, Nguyễn Khải đã lột tả

được những nét tính cách tiêu biểu, cách cảm cách nghĩ đặc trưng mang dấu ấn

văn hóa của con người Việt Nam nói chung, người Hà Nội nói riêng trong thời kì

đổi mới.

Tiểu kết chương 3

Tài năng của Nguyễn Khải thể hiện đậm nét qua nghệ thuật xây dựng hình

ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới. Trong nghệ

thuật xây dựng nhân vật qua ngoại hình, bằng những chi tiết tả và kể về trang phục,

nét mặt, dáng vẻ…chân dung các nhân vật được khắc họa mang dấu ấn văn hóa

của mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi tầng lớp xã hội, mỗi thế hệ, mỗi con người khác nhau.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ đối thoại cũng góp phần bộc lộ nét tính cách, bản chất và

quan điểm, suy nghĩ của từng nhân vật.

Hình tượng người kể truyện cũng tạo nên nét độc đáo riêng trong truyện ngắn

Nguyễn Khải. Nhà văn đã thể hiện cái nhìn cuộc sống, con người nhiều chiều,

nhiều phương diện để từ đó đưa ra những triết lý sâu sắc. Mỗi trang văn của ông

như một trang đời của nhân vật. Qua đó, người đọc hiểu rõ hơn về tài năng và cốt

cách của ông - một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại.

88

89

KẾT LUẬN

1. Hà Nội không phải là một đề tài mới trong nền văn học Việt Nam đương

đại nhưng mỗi tác giả lại có cách cảm nhận khác nhau về mảnh đất kinh kỳ ngàn

năm văn hiến. Đặc biệt, nhiều tác giả khi viết về Hà Nội thường chú ý tới hình ảnh

con người và các giá trị văn hóa của mảnh đất này. Trong thời kỳ hiện nay, việc

giữ được bản sắc văn hóa của mỗi vùng văn hóa và mỗi quốc gia là rất quan trọng.

Hòa chung vào không khí hội nhập, nhưng người Hà Nội vẫn khẳng định được

bản sắc văn hóa riêng của mình và đại diện cho văn hóa cả dân tộc.

2. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Khải bắt đầu từ những năm cuối cuộc

kháng chiến chống Pháp. Trong suốt hơn nửa thế kỷ cầm bút, nhà văn luôn theo

sát các biến động của lịch sử. Ông đã đi nhiều nơi, viết về nhiều vùng miền trên

đất nước Việt Nam. Nhưng có thể nhận thấy, trong thời kỳ đổi mới, ông viết nhiều

và viết hay về đề tài Hà Nội. Nguyễn Khải đã viết về Hà Nội với những dấu ấn

riêng không trộn lẫn với bất cứ trang văn của một tác giả nào khác. Mỗi trang viết

chứa đựng trong đó tài năng và phong cách Nguyễn Khải.

3. Mặc dù Nguyễn Khải viết về Hà Nội thời kỳ đổi mới, nhưng người đọc vẫn

cảm nhận được bao nét truyền thống, bóng dáng một thời của mảnh đất Hà Thành.

Những con người Hà Nội vừa truyền thống vừa hiện đại, mang trong mình cả Hà

Nội xưa và nay. Những phẩm chất tiêu biểu của người Hà Nội đều được Nguyễn

Khải phản ảnh trong các trang văn của mình. Đó là nét thanh lịch, chất trí tuệ và

sự đảm đangcủa những người phụ nữ đang gìn giữ “nếp nhà”. Đó là sự tảo tần,

đức hi sinh của những người vợ, người mẹ luôn hết mình vì gia đình. Hà Nội trong

trang văn Nguyễn Khải còn là nơi hội tụ bao con người với chất tài hoa, kẻ sĩ. Họ

có thể là các nghệ nhân đã thổi hồn mình vào những tác phẩm nghệ thuật, đang

gìn giữ những nét văn hóa truyền thống của các làng nghề. Những văn sĩ luôn đề

cao tài năng, bản lĩnh và lòng tự trọng cũng được Nguyễn Khải trân trọng đưa vào

những trang viết của mình.

90

Nguyễn Khải đã phân tích nhân vật trên những khía cạnh về mặt đạo đức, cuộc

sống trong quá khứ và hiện tại. Quá khứ là một trong những nền tảng giúp con

người phấn đấu đi lên, sự đan xen giữa cái cũ và cái mới giúp con người có những

suy nghĩ và những cố gắng nhất định. Con người của hiện tại chịu nhiều ảnh hưởng

của cơ chế thị trường, nó đem đến những chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nhưng

hầu hết họ vẫn giữ được những nét truyền thống văn hóa, cho dù xã hội có biến

đổi, thời thế có khác. Họ chính là những “hạt bụi vàng” ẩn dấu ở đâu đó, những

hạt bụi mà không thể xóa bỏ được như tác giả đã khẳng định. Bên cạnh đó, tác giả

cũng phê phán một số bộ phận trẻ cố chạy theo những sai lầm trong xã hội và làm

mất đi những giá trị văn hóa tốt đẹp của con người Hà Nội. Nguyễn Khải - một

nhà văn có con mắt nhìn đời, nhìn người tinh tế, nên trong các truyện ngắn của

ông đều thể hiện những trăn trở về cuộc sống hiện tại. Các nhân vật của ông luôn

tồn tại những suy nghĩ, cách sống, cách nhìn về cuộc đời thật sâu sắc và ý nghĩa.

Qua những tác phẩm viết về Hà Nội thời kỳ đổi mới, Nguyễn Khải đã thể hiện rõ

năng lực phát hiện vấn đề và xu hướng triết luận trong văn xuôi của ông.

4. Những nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới không

chỉ có ngoại hình, mà họ còn có nội tâm vô cùng phong phú. Trong tác phẩm, nhà

văn đã khéo léo, tinh tế lựa chọn ra những hành động đắt giá của nhân vật để từ

đó đi sâu vào tìm hiểu nội tâm, tính cách của nhân vật. Khi miêu tả nhân vật,

Nguyễn Khải thường chú ý đến việc đối thoại và ngôn ngữ bình dân, để từ đó thấy

được sự chuyển biến tư tưởng của các nhân vật. Bên cạnh đó, việc xây dựng hình

tượng nhân vật “tôi” cũng đã thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật cũng như tài

năng của nhà văn Nguyễn Khải. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện sự biến đổi

quan trọng trong tư tưởng và nghệ thuật của mình trong thời kỳ đổi mới. Những

truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới viết về hình ảnh con người Hà Nội

thực sự đã dẫn người đọc đến được những giá trị văn chương bền vững và đích

thực.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu sách

1. Đào Duy Anh (2005), Nghiên cứu văn hóa và ngữ văn, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1991), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia HN.

3. Nguyễn Thanh Bình (2009), Hà Nội 36+ góc nhìn, NXB Thanh niên.

4. Nguyễn Thị Bình (1998), Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết, Văn học (7).

5. Đoàn Văn Chúc (2004), Văn hóa học, NXB Lao động, Hà Nội.

6. Phan Cự Đệ (1969), Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn Khải,

Báo Văn nghệ (322)

7. Phan Cự Đệ (1983), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975) tập 2, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội

8. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Đại học Quốc gia HN.

10. Nguyễn Thị Huệ (1999), Cảm nhận về con người trong sáng tác của Nguyễn

Khải những năm gần đây, Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo

dục

11. Đoàn Trọng Huy (1990), Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải,

Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

12. Nguyễn Khải (1963), Người viết văn phải biểu hiện được tinh thần của thời

đại, Bài phát biểu tại Đại hội nhà văn lần thứ 3

13. Nguyễn Khải (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà văn, H.

14. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập truyện ngắn, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội

15. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập truyện ngắn, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội

16. Nguyễn Khải (1997), Một thời gió bụi, tập truyện ngắn, Nxb Lao động

17. Nguyễn Khải (2014), Hà Nội trong mắt tôi, NXB Văn hóa - Thông tin

18. Nguyễn Khải (1999), Chuyện nghề, Nxb Hội nhà văn, H

19. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

92

20. Nguyễn Khải (2001), Sống ở đời, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh

21. Nguyễn Văn Long (chủ biên - 2010), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại

tập II (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945), NXB Đại học sư phạm.

22. Phương Lựu (chủ biên - 2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

23. Nguyễn Đăng Mạnh (1982), Hai cuốn tiểu thuyết gần đây, Tác phẩm mới

24. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và

phong cách, NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.

25. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội

26. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Khải - Đời người và đời văn, Nguyễn

Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

27. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội

28. Tuyết Nga (2002), Tìm hiểu phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Luận án

Tiến sĩ

29. Chu Nga (2002), Điểm nhìn ngòi bút hiện thực Nguyễn Khải, Nguyễn Khải

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

30. Thúy Nga (1988), Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả một quan niệm về

tiểu thuyết (Phỏng vấn Nguyễn Khải), Báo tuổi trẻ chủ nhật.

31. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà

Nội

32. Đào Thủy Nguyên (2002), Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong

sáng tác của Nguyễn Khải, Luận án tiến sĩ

33. Đào Thủy Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải

trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.

34. Vương Trí Nhàn (1996), Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách

mạng từ sau 1945, Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

35. Vương Trí Nhàn (1996), Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn Khải, Nxb Văn

học, Hà Nội

93

36. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng

Tám, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

37. Nhiều tác giả (2009), Hà Nội những sắc màu văn hóa, NXB Lao động.

38. Trần Thanh Phương (1998), Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn

Khải về tác gia và tác phẩm (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục

39. Trần Thanh Phương (2001), Một số đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải, Luận

án tiến sĩ

40. Băng Sơn (2002), Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb Thanh Niên

41. Trần Đình Sử (1998) Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục

42. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (2002), Nguyễn Khải về tác gia và tác

phẩm (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục

43. Bùi Quang Thắng (2003), Hành trình vào văn hóa học, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

44. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ

thống loại hình, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

46. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

NXB Trẻ, Hà Nội.

47. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Viện văn hóa và

NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

48. Bích Thu (1997), Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải những

năm 80 đến nay, Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

49. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học xã hội, H.

50. Đinh Quang Tốn (1996), Nguyễn Khải với Hà Nội, Nguyễn Khải về tác gia

và tác phẩm (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục

51. UNESCO (2003 - Trần Hải Vân dịch), Bản dịch công ước về bảo vệ di sản

văn hóa phi vật thể

94

II. Tài liệu mạng

52. Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Khải nhớ về Hà Nội,

nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-khai-nho-ve-ha-noi.html

53. Đoàn Trọng Huy (2013), Nhớ về Hà Nội, cốt cách và tài hoa Nguyễn Khải,

www.vnq.edu.vn/.../1113-truyen-ngan-mot-nguoi-ha-noi-va-phong-cach-

nguyen-khai

54. Ngọc Huy, Truyện ngắn Một người Hà Nội và phong cách Nguyễn Khải

www.vnq.edu.vn/.../1113-truyen-ngan-mot-nguoi-ha-noi-va-phong-cach

nguyen-khai

55. Nguyễn Văn Long, Nguyễn Khải và sự đổi mới quan niệm về con người

trong Một người Hà Nội daotao.vtv.vn/nguyen-khai-va-su-doi-moi-quan-

niem-ve-con-nguoi-trong-mot-nguoi

56. Người Hà Nội qua một tập truyện ngắn, www.baomoi.com/nguoi-ha-noi-

qua-mot-tap-truyen-ngan/c/4977054.epi

57. Thi Thi (2014), Cảm ơn vì đã viết về Hà Nội http://hanoimoi.com.vn/Tin-

tuc/sach/674736/cam-on-vi-da-viet-ve-ha-noi

58. Lam Thu (2014), Me Tư Hồng - Truyện người đàn bà phá tường thành Hà Nội

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/diem-sach/me-tu-

hongchuyennguoidanba-pha tuong-thanh-ha-noi-3113698.html

59. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị

http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-binh/5920-truyen-

nganduong-dai-ve de-tai-do-thi.html

60. Nguyễn Thị Phương Thúy (2016), Văn học đô thị: Khái niệm và đặc điểm

http://vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/2790-2016-04-23-08-01-44.html

61. Kỳ Thư, 2011, Lịch sử Hà Nội qua cuộc đời một “cậu ấm”

http://www.tienphong.vn/van-nghe/lich-su-ha-noi-qua-cuoc-doi-mot-cau-

am

95

62. http://123doc.org/documnet/1925423-bao-cao-nghien-cuu-khoa-hoc-dan-

da-hom-hinh-mot-sac-thai-giong-dieu-noi-bat-trong-truyen-ngan-nguyen-

khai-pptx.htm?page=4.