BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

-----š›&š›-----

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ

TRONG CA DAO NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH, 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

-----š›&š›-----

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ

TRONG CA DAO NAM BỘ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Mã số: 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG LƯU

Vinh , 2011

Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CA DAO VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC

NGHỆ THUẬT CỦA CA DAO ........................................................... 7

1.1. Ca dao và các hướng nghiên cứu ca dao ở Việt Nam..................................... 7

1.2. Vấn đề nghiên cứu hình thức nghệ thuật của ca dao ................................... 11

1.3. Tu từ nghệ thuật trong ca dao ....................................................................... 14

1.4. Ca dao Nam Bộ và việc sử dụng các hình thức nghệ thuật trong ca dao Nam Bộ..........16

Tiểu kết chương 1................................................................................................. 27

CHƯƠNG 2:MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TU TỪ TRONG CA DAO NAM BỘ ... 28

2.1. Dẫn nhập ...................................................................................................... 28

2.2. Một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ............................................ 28

2.2.1. Phương tiện tu từ từ ngữ trong ca dao Nam Bộ ................................... 28

2.2.2. Phương tiện tu từ ngữ nghĩa trong ca dao Nam Bộ .............................. 57

Tiểu kết chương 2................................................................................................. 76

CHƯƠNG 3 :MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG CA DAO NAM BỘ ......... 77

3.1. Khái niệm biện pháp tu từ ............................................................................ 77

3.2. Một số biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ ............................................... 78

3.2.1. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong ca dao Nam Bộ.................................. 78

3.2.1.1. So sánh ............................................................................................. 78

3.2.1.2. Chơi chữ .......................................................................................... 87

3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ...................................... 95

3.2.2.1. Sóng đôi ............................................................................................ 96

3.2.2.2. Biện pháp lặp .................................................................................... 99

3.2.2.3. Câu hỏi tu từ ..................................................................................... 106

Tiểu kết chương 3............................................................................................... 115

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 116

BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............. 119

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao chiếm một vị

trí quan trọng. Ca dao là tiếng nói phản ánh đời sống tâm hồn, tình cảm của

quần chúng nhân dân, phản ánh lịch sử xã hội, và do vậy, nó là một kho tài

liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và

tinh thần của nhân dân lao động. Nội dung trữ tình của ca dao hết sức phong

phú. Ta bắt gặp trong ca dao những "tiếng tơ đàn" ngân lên những giai điệu

về tình yêu đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi, tiếng hát than thân,

tiếng cười trào lộng… Xét về hình thức, ca dao là kho kinh nghiệm quí báu

trong lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ. Không phải ngẫu nhiên, nhiều nhà thơ tài

năng ở các thời đại khác nhau đã tìm thấy ở ca dao những bài học sáng tạo

đáng giá. Ta mới hiểu vì sao, đối với ngành Ngữ văn lâu nay, việc học tập,

tìm hiểu, nghiên cứu ca dao vẫn chưa hề mất tính thời sự. Từ những góc nhìn

khác nhau, các nhà nghiên cứu không ngừng cho ra đời các công trình có giá

trị về mảng đề tài này.Tuy thế, ca dao Việt Nam, nhất là bộ phận ca dao thuộc

các vùng miền vẫn ẩn chứa những vấn đề thú vị, đòi hỏi được tìm hiểu kĩ

lưỡng, sâu sắc thêm.

1.2. Trên tấm "bản đồ văn hóa dân gian Việt Nam" miền đất Nam Bộ

có nhiều nét đặc thù. Bộ phận ca dao của vùng đất này là một minh chứng

sinh động. Với những gì đã sưu tập được, ta có thể thấy tính đa dạng, phong

phú và đặc sắc của ca dao Nam Bộ ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức

biểu hiện.Trong thực tế, việc nghiên cứu ca dao Nam Bộ vẫn chưa được tiến

hành đầy đủ, đúng với những gì lẽ ra nó được tìm hiểu. Chọn vấn đề Một số

phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ làm đề tài luận văn

thạc sĩ, chúng tôi muốn đi sâu vào một trong những biểu hiện đa dạng và đặc

sắc nhất của hình thức ca dao vùng này, nhằm khám phá sâu sắc thêm các giá

trị tiềm ẩn, cắt nghĩa sức sống lâu bền của nó, đồng thời hiểu được những nét

2

riêng về văn hoá của một vùng đất. Đặt vấn đề này trong bối cảnh nghiên cứu

của ngành Ngữ văn hiện nay, chúng tôi cho rằng đây là sự lựa chọn có ý

nghĩa.

1.3. Hiện nay, trong chương trình Ngữ văn THPT và nhất là bậc đại học, ca

dao được đưa vào giảng dạy và học tập với số lượng tác phẩm đáng kể. Các

nhà soạn sách giáo khoa đã có quan điểm đúng khi chú ý đến ca dao của người

Kinh và của các tộc người thiểu số, của vùng Bắc cũng như vùng Trung và Nam

Bộ. Việc có mặt các tác phẩm ca dao thuộc nhiều vùng miền khác nhau như vậy

mới phản ánh được sự đa sắc của nó. Trước tình hình ấy, sự lựa chọn đề tài nghiên

cứu của chúng tôi có thêm ý nghĩa thực tiễn. Nếu công trình thực sự có chất

lượng, giải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, chắc chắn sẽ góp phần thiết thực

nhất định cho việc tìm hiểu, học tập ca dao ở các bậc học trong nhà trường.

2. Lịch sử vấn đề

Việc tìm hiểu tu từ nghệ thuật (nghiên cứu ở phương tiện tu từ ngữ nghĩa)

trong ca dao đã và đang được nhiều người quan tâm từ hai góc độ: lý luận và

nghiên cứu ứng dụng. Tất nhiên, trong những công trình, bài viết mang tính lý

luận vẫn có những ví dụ minh họa như là một phần ứng dụng. Ngược lại, trong

những công trình ứng dụng, không thể thiếu những luận điểm lý thuyết.

Cho đến nay, đã có không ít công trình với những tính chất và qui mô

khác nhau về ca dao Nam Bộ. Ca dao dân ca Nam Bộ (Bùi Mạnh Nhị chủ biên,

Nxb Tp.HCM, 1984) là một cuốn sưu tập, nhưng cũng đã phác họa được đôi nét

về đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này. Cuốn Ca dao Đồng Tháp Mười

(Đỗ Văn Tân, Sở VH - TT Đồng Tháp, 1984) đã tập hợp trên 900 câu ca dao -

một thành công đáng kể trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá

dân tộc ở vùng Đồng Tháp Mười. Giang Minh Đoán có Kiên Giang qua ca dao

(Nxb Tp.HCM, 1997) sưu tầm 272 câu ca dao về thiên nhiên, con người ở vùng

đất Kiên Giang, qua đó, tác giả nêu lên một số nét trong phong tục tập quán của

vùng sông nước, khu sinh thái U Minh Thượng. Tập thể tác giả của Khoa Ngữ

3

văn Trường đại học Cần Thơ đã sưu tầm các tác phẩm văn xuôi và văn vần dân

gian, trong đó có 1020 câu ca dao đề cập đến phong tục tập quán, cách sinh hoạt

và những đặc sản vùng miền ở 12 tỉnh thành của vùng đồng bằng sông Cửu

Long. Những nội dung đó được thể hiện qua công trình Văn học dân gian đồng

bằng sông Cửu Long, Nxb Giáo dục, 1997).

Trong những công trình sưu tập, không thể không nhắc đến cuốn Ca

dao - Dân ca Nam kỳ lục tỉnh của Huỳnh Ngọc Trảng, Nxb Đồng Nai, 1998,

với 952 câu ca dao dân ca Nam Bộ, dựa trên các tài liệu sưu tập ca dao - dân

ca được công bố từ những năm 50, 60 của thế kỉ XX.

Về nghiên cứu, đáng chú ý có bài của tác giả Đặng Văn Lung (1968): Những

yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Tạp chí Văn học số 10 - 1968, sau này

được in trong cuốn Văn học Việt Nam, Văn học dân gian - Những công trình

nghiên cứu. Tác giả đề cập đến “những hình ảnh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần

trong ca dao, mỗi hình ảnh được khai thác ở một số khía cạnh nhất định: hình

ảnh con cò, cây tre, trăng, thuyền với bến, cà với muối, cuội với trăng, quán mát

với cây đa, bến xưa với đò cũ, mận với đào, lê với lựu… người nghe đã cảm

thấy tâm hồn rung động vì đã hiểu được ý người hát, đã bắt đầu đồng cảm.

Chính sự lặp đi lặp lại nhiều lần đã làm cho hình ảnh ấy trở nên thân thuộc.

Những hình ảnh ấy được vận dụng qua hai cách so sánh trực tiếp và so sánh gián

tiếp trong ca dao” [54]. Như vậy, tác giả chỉ đề cập đến phương tiện tu từ ngữ

nghĩa (ẩn dụ) và biện pháp tu từ (so sánh) nhằm thể hiện sự tinh luyện về ngôn

ngữ hình ảnh, lối nói ví von của nhân dân ta.

Với đề tài Hình ảnh sông nước Nam Bộ qua ca dao dân ca, tác giả Lê

Ngọc Trinh (1992) [75] cho rằng sông - nước như một “hằng số” lặp đi lặp lại

trong thơ ca dân gian Nam Bộ làm nên một nét văn hóa đặc thù, làm nên một diện

mạo riêng biệt không lẫn vào đâu được. Trong bài viết Thiên nhiên trong ca dao -

dân ca trữ tình Nam Bộ (1997) [65], Trần Thị Diễm Thúy đã nghiên cứu tính chất

phong phú, đa dạng của những hình tượng thiên nhiên liên quan đến: sông nước,

4

miệt vườn, ruộng rẫy, các hiện tượng tự nhiên, vật thể vũ trụ… Đặc biệt, bài viết

đề cập rất cụ thể về thế giới nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình Nam Bộ: thiên

nhiên và các hiện tượng so sánh, ẩn dụ, biểu tượng… Tác giả xác định: “thiên

nhiên thay đổi trong tiến trình khai phá thì văn hóa dân gian cũng in dấu rõ nét”.

Đề tài đã góp phần tìm hiểu những đặc điểm riêng của văn hóa vùng đất Nam Bộ.

Bùi Thị Tâm - tác giả luận văn thạc sĩ với đề tài Những đặc điểm ngôn ngữ trong

ca dao đồng bằng sông Cửu Long (1998) - đã nghiên cứu sự phong phú và đa

dạng của lớp từ ngữ mang sắc thái địa phương, đặc điểm câu và câu thơ trong

ngôn ngữ ca dao đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, luận văn cũng đề cập một

số công thức mang ý nghĩa biểu trưng như so sánh, ẩn dụ mặc dù công công trình

không đi sâu nghiên cứu các phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao [61].

Với bài viết Hình ảnh “thân em” trong ca dao trữ tình đồng bằng sông Cửu

Long (2000), tác giả Nguyễn Văn Nở đề cập đến vấn đề so sánh tu từ trong ca dao

qua cấu trúc so sánh nổi “Thân em như…” [55]. Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã phân

loại, miêu tả các biểu tượng nghệ thuật thông qua các hình thức so sánh nổi, ẩn dụ

tu từ trong ca dao, đồng thời trình bày cấu tạo và vai trò của chúng đối với thi pháp

ca dao người Việt trong luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền

thống người Việt (2002) [17]. Lê Thị Thu Thủy có bài Biểu tượng kênh, rạch, sông

trong ca dao dân ca Nam Bộ (2002) [67] đề cập đến những hình ảnh quen thuộc

với người dân vùng sông nước nơi đây là chiếc ghe, con đò, dòng sông, chiếc cầu...

Trong luận án tiến sĩ Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ (2004), Trần Văn Nam đã

nghiên cứu về biểu trưng trong ca dao xét trên bình diện thi pháp học, từ đó, tác giả

đã nêu bật vai trò của các biểu trưng trong việc thể hiện đặc điểm văn hóa của vùng

đất và con người Nam Bộ [46]. Huỳnh Thị Kim Liên với bài Truyền thống và biến

đổi trong ca dao dân ca Nam Bộ (2006) đã nghiên cứu sự biến đổi trong ca dao dân

ca xét trên bình diện thi pháp học, xét tính biến đổi của ca dao dân ca Nam Bộ về

mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, từ vựng; có sự so sánh ca dao - dân ca tiêu biểu của người

Việt ở cả ba miền Bắc- Trung - Nam [42].

5

Trên trang web Vannghesongcuulong.org.vn, có bài viết Cảm xúc về

sông nước qua ca dao Nam Bộ (2000) của Trần Phỏng Diều. Tác giả cho

rằng, trong ca dao dân ca Nam Bộ, tác giả dân gian thường mượn các hình

ảnh quen thuộc để ví von nhằm bộc lộ những gì mình muốn nói [13]. Bài viết

của tác giả Nguyễn Thị Na Biểu trưng của hình ảnh sông nước trong ca dao

Nam Bộ (2008) tập trung nghiên cứu về sông nước trong đời sống văn hóa vật

chất và tinh thần của người dân Nam Bộ [43]. Trong luận văn thạc sĩ Từ địa

phương trong ca dao - dân ca Nam Bộ (2008), Trần Đức Hùng tìm hiểu các

lớp từ địa phương được sử dụng trong ca dao - dân ca. Tác giả còn chỉ ra vai

trò nghệ thuật của từ địa phương như: từ địa phương với biểu tượng và cấu

trúc sóng đôi; từ địa phương trong vai trò so sánh, ẩn dụ; vai trò nghệ thuật

chơi chữ… [27]. Với đề tài Cấu trúc so sánh “Thân em…” trong ca dao Nam

Bộ về chủ đề thân phận người phụ nữ (2009), Cao Thị Cẩm Tú tập trung phân

tích giá trị của cấu trúc so sánh “Thân em như...” trong ca dao Nam Bộ để làm

nổi bật chủ đề thân phận người phụ nữ [70].

Nhìn chung, vấn đề tu từ trong ca dao Nam Bộ được đề cập trong

không ít bài viết, công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những bài

viết lẻ, hoặc chỉ là một vài tiểu mục nào đó trong luận văn, luận án, nghĩa là

vẫn chưa có công trình nào khảo sát một cách đầy đủ, có hệ thống các phương

tiện và biện pháp tu từ nghệ thuật. Điều đó càng kích thích chúng tôi mạnh

dạn đi vào đề tài này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm tu từ nghệ thuật

trong ca dao Nam Bộ. Tư liệu khảo sát chính về ca dao Nam Bộ là quyển Ca

dao dân ca Nam Bộ [18]. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những quyển

như: Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long [33] (tập 3), Ca dao Đồng

Tháp Mười [60], Ca dao dân ca Nam kỳ lục tỉnh [74].

6

4. Mục đích nghiên cứu

- Nhận diện một cách đầy đủ các phương tiện và biện pháp tu từ được sử

dụng ở ca dao Nam Bộ, phân tích giá trị biểu đạt; so sánh, đối chiếu để làm nổi

bật những nét riêng, đặc sắc của ca dao Nam Bộ so với ca dao các vùng miền

khác, từ đó, thấy được những nét riêng trong bản sắc văn hóa của vùng đất này.

- Vận dụng thao tác phân tích ngôn ngữ học vào việc tiếp cận tác phẩm

ca dao, rút ra những nguyên tắc cần thiết cho việc đọc hiểu ca dao đang đặt ra

trong nhà trường hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng và phối hợp các phương pháp

chính sau đây:

- Phương pháp thống kê,

- Phương pháp hệ thống,

- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học,

- Phương pháp so sánh,

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Ca dao và vấn đề nghiên cứu hình thức nghệ thuật của ca dao.

Chương2: Một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ.

Chương 3: Một số biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ.

Sau cùng là Tài liệu tham khảo.

7

Chương 1

CA DAO

VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT

CỦA CA DAO

1.1. Ca dao và các hướng nghiên cứu ca dao ở Việt Nam

1.1.1. Khái quát về ca dao Việt Nam

Trong ngành nghiên cứu Ngữ văn nước ta, ca dao là đối tượng được

nghiên cứu khá sớm và đạt nhiều thành tựu. Riêng vấn đề thuật ngữ, khái

niệm ca dao đã được lí giải ở nhiều công trình.

Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm cho rằng: "Ca dao (ca:

hát; dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân

gian, thường tả tính tình, phong tục của người bình dân" [Việt Nam văn học sử

yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu Sài Gòn in năm 1968, tr.11].

Từ điển thuật ngữ văn học, (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc

Phi chủ biên) định nghĩa: "Ca dao còn gọi phong dao. Thuật ngữ ca dao được

dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có

khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn

bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc

điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca" [21, tr.31].

Các tác giả công trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1 viết: "Ca dao là

những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân

tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm" [73, tr.3].

Theo Vũ Ngọc Phan, “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được

như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các làn điệu dân ca” [56, tr.42].

Các nhà nghiên cứu văn học dân gian Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên cho

rằng: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu thông thường thì ca

dao là lời của các bài dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy, hoặc ngược

lại là những câu thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca” [31, tr.295-296].

8

Các định nghĩa về ca dao đã trình bày ở trên mặc dù có khác nhau ít

nhiều, nhưng cơ bản vẫn thống nhất trên những điều cơ bản: ca dao là những

câu thơ có thể hát lên, ngâm lên thành những làn điệu dân ca.

Ca dao là lời dân ca tách khỏi điệu nhạc, dân ca là lời thơ dân gian đi

kèm với điệu nhạc. Tuy nhiên, lời và nhạc gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong

văn chương, người ta đề cập tới ca dao dân ca như là thơ dân gian.

Ca dao - dân ca bao gồm: dân ca nghi lễ, dân ca lao động, ca dao - dân

ca trữ tình. Ca dao - dân ca trữ tình là tiếng hát "đi từ trái tim lên miệng",

phản ánh trực tiếp những cảm xúc tâm trạng của con người, thái độ cảm xúc

của con người đối với thực tại xung quanh.

Như vậy, ca dao là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu dân

ca, hát ru… hoặc ca dao là lời dân ca đã lược bỏ những luyến láy khi hát. Ca

dao thực sự là những sáng tạo của nhân dân ở phương diện ngôn ngữ văn học.

Ca dao là một thể loại quan trọng của văn học dân gian. Ca dao Việt

Nam là nơi lưu giữ nhiều giá trị tinh thần của nhân dân ta. Có thể nói, muốn

biết tình cảm của nhân dân Việt Nam dồi dào, thắm thiết, sâu sắc đến mức độ

nào, rung động nhiều về khía cạnh nào của cuộc đời thì không thể không

nghiên cứu ca dao. Thật vậy, ca dao diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình

cảm của nhân dân trong các quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước,…

Ra đời trong xã hội cũ, ca dao trữ tình là những tiếng hát than thân, phản

kháng; những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời còn nhiều xót

xa, cay đắng nhưng đằm thắm ân tình của người bình dân Việt Nam sau lũy

tre xanh, bên giếng nước, gốc đa, sân đình,… Bên cạnh đó, còn có những bài

ca dao hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao động.

Ngoài việc biểu hiện đời sống vật chất, tinh thần của con người, ca dao

còn phản ánh ý thức lao động, sản xuất của nhân dân Việt Nam và tình hình

xã hội thời xưa về nhiều mặt kinh tế, chính trị,…

9

Ca dao không chỉ bộc lộ cảm xúc chân thành mãnh liệt thắm thiết của

người bình dân, mà còn cho ta thấy phẩm chất của họ trong quan hệ với thiên

nhiên và xã hội.

Ca dao có những đặc điểm nghệ thuật riêng, khác với thơ của văn học

viết. Lời ca dao thường ngắn, phần lớn đặt theo thể lục bát hoặc lục bát biến

thể, ngôn ngữ gần gũi với lời nói hằng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ và

đặc biệt là lối diễn đạt bằng một số phương thức mang đậm sắc thái dân gian.

1.1.2. Nghiên cứu ca dao dưới góc độ văn học

Phải khẳng định rằng, cho đến nay, nghiên cứu về ca dao, thành tựu chủ

yếu vẫn thuộc về các nhà nghiên cứu văn học.

Từ những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945, một số nhà nghiên

cứu đã có ý thức sưu tầm ca dao Việt Nam (lúc bấy giờ người ta còn gọi là phong

dao). Một trong những người đi tiên phong là Nguyễn Văn Ngọc với công trình

Tục ngữ phong dao, Nxb Vĩnh Hưng Long, 1928. Ngoài ra phải kể đến Phong

dao và ca dao mới, Nhà in Phúc Văn, Hà Nội, 1932; Phong dao, ca dao, phương

ngôn tục ngữ của Nguyễn Tấn Chiểu, Nhà in Thái Sơn, Hà Nội, 1934; Ca dao

ngạn ngữ của Trần Công Hoán, Editions Hương Phong, 1939...

Sau cách mạng, việc sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian nói chung, ca

dao dân ca nói riêng được đẩy mạnh. Về sưu tầm, có thể kể đến một số công trình

tiêu biểu như: Ca dao Việt Nam trước cách mạng của Tổ Văn học dân gian (Viện

văn học), Nxb Văn học, 1963; Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa của nhóm Lam Sơn,

Nxb Văn học, 1963; Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản,

1971; Ca dao Nghệ Tĩnh, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao biên soạn, Sở Văn

hóa Thông tin Nghệ Tĩnh xuất bản, 1984;... Qui mô hơn cả là bộ Kho tàng ca dao

người Việt do Nguyễn Xuân Kính chủ trì biên soạn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà

Nội, 2001. Đây là bộ sách tập hợp đầy đủ nhất ca dao Việt Nam trên cơ sở những

tài liệu đã có từ trước.

10

Bên cạnh sưu tầm, việc tìm hiểu, nghiên cứu ca dao cũng đã được chú ý

đúng mức. Ngay từ những năm trước cách mạng, trong cuốn Việt Nam văn học sử

yếu - một bộ sách giáo khoa đồng thời là một bộ lịch sử văn học - Dương Quảng

Hàm đã có cách nhìn nhận, đánh giá về ca dao Việt Nam. Sau cách mạng, các bộ

Lịch sử văn học Việt Nam của các trường đại học đều có phần viết về văn học dân

gian, trong đó có ca dao. Công trình Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam

của Cao Huy Đỉnh (1974) đã dành một phần đáng kể viết về thơ ca trữ tình dân

gian. Tác giả Hoàng Tiến Tựu là nhà giáo, từng có công sưu tầm ca dao và giảng

dạy ca dao ở trường đại học. Bên cạnh phần viết về Văn học dân gian của bộ Lịch

sử văn học Việt Nam, ông còn là tác giả của công trình Bình giảng ca dao, Nxb

GD, Hà Nội, 1992. Nghiên cứu ca dao từ góc độ thi pháp, Nguyễn Xuân Kính đã

có cái nhìn khá toàn diện vấn đề hình thức ca dao, từ ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu,

thời gian và không gian nghệ thuật, một số biểu tượng hình ảnh... Những nội dung

này được trình bày trong cuốn Thi pháp ca dao, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2004.

Như vậy, vấn đề nghiên cứu ca dao Việt Nam từ góc độ văn học đã có một

bề dày lịch sử. Công việc sẽ còn được tiếp tục ở các thế hệ sau - những thế hệ có

điều kiện tiếp cận với những phương pháp nghiên cứu mới của thế giới về folklore.

1.1.3. Nghiên cứu ca dao dưới góc độ ngôn ngữ học

Bên cạnh hướng nghiên cứu văn học, ca dao còn được tìm hiểu dưới góc độ

ngôn ngữ học, và hướng nghiên cứu khá mới mẻ này cũng đã gặt hái được nhiều

thành công.

Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, ca dao được tìm hiểu khá toàn diện về hình

thức. Có thể nói, hầu như mọi cấp độ ngôn ngữ ca dao đều đã được nghiên cứu.

Phong phú nhất, có lẽ là các bài viết, công trình tìm hiểu về từ ngữ trong ca dao. Có

những bài đi sâu phân tích, thẩm bình nghệ thuật dùng từ ở những bài ca dao cụ thể

(các bài bình ca dao của Hoàng Tiến Tựu). Nhiều bài đi sâu khảo sát một phương

diện nào đó về từ ngữ trong ca dao. Đó là vấn đề địa danh của các địa phương trong

ca dao; vấn đề phương ngữ, thành ngữ, tục ngữ, từ gốc Hán, điển cố gốc Hán trong

11

ca dao; là hiện tượng từ trái nghĩa trong ca dao; so sánh cách dùng từ ngữ trong ca

dao và trong thơ bác học; ý nghĩa của những con số thường gặp trong ca dao; cách

sử dụng từ xưng hô trong ca dao...

Về tu từ, không ít bài đi vào các phương tiện và biện pháp cụ thể mà ca dao

sử dụng. Nguyễn Văn Liên tìm hiểu Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong

ca dao tình yêu đôi lứa xứ Nghệ (Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Vinh, 1999);

Hà Châu bàn về Cách so sánh trong ca dao ngày nay (Tạp chí Văn học, số 9,

1966); Nguyễn Thị Ngọc Điệp nghiên cứu Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao

truyền thống người Việt (Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh,

2002); Hoàng Thị Kim Ngọc khảo sát So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình

người Việt (Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ, 2004). Chuyên luận Thi pháp ca dao

của Nguyễn Xuân Kính cũng là công trình đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến

ngôn ngữ ca dao. Đây là điều tất yếu, bởi thi pháp là khoa học nghiên cứu hình

thức trong mối quan hệ hữu cơ với nội dung tác phẩm.

Ngoài ra, có không ít công trình, bài báo đặt nhiệm vụ nghiên cứu một

cách toàn diện ngôn ngữ ca dao, từ các thể thơ, cách hiệp vần, đến giá trị biểu

trưng của hình ảnh được sử dụng trong ca dao.

Như vậy, việc nghiên cứu ca dao từ góc độ ngôn ngữ học là hướng đi đầy

triển vọng. Với phương pháp nghiên cứu đặc thù, nó có thể khám phá những

giá trị của ca dao truyền thống mà hướng nghiên cứu khác chưa đạt được.

1.2. Vấn đề nghiên cứu hình thức nghệ thuật của ca dao

Khi nhắc đến các phạm trù hình thức trong ca dao, người ta thường đề

cập đến thể thơ và cấu tứ trong ca dao.

Về thể thơ: trong ca dao truyền thống của người Việt có mặt hầu hết các

thể thơ được dùng trong các thể loại văn vần khác nhau của dân tộc như: tục

ngữ, câu đố, vè… Các thể thơ đơn giản (câu ngắn, ít âm tiết) thường được gọi

là các thể nói lối hay các thể vãn (bao gồm vãn hai, vãn ba, vãn bốn, vãn năm,

12

mỗi câu gồm hai, ba, bốn, năm âm tiết). Các thể thơ này đều thấy có trong tục

ngữ, câu đố và được dùng phổ biến trong đồng dao và ca dao nghi lễ, phù chú.

Thể vãn hai và vãn bốn thường dễ lẫn với nhau, khó phân biệt rạch ròi. Vì

câu thơ bốn âm tiết (vãn bốn) được ngắt theo nhịp 2/2 thì đọc lên nghe cũng tương

tự như câu thơ hai âm tiết (vãn hai). Ngược lại, những câu hai âm tiết, nếu đọc

nhanh (không ngừng lâu ở âm tiết thứ hai) thì nghe cũng gần như thể vãn bốn.

Chẳng hạn, những câu thơ sau đây có thể đọc thành vãn hai hay vãn bốn đều được:

Chi chi chành chành Cái đanh nổi lửa Con ngựa chết trương Ba vương thượng đế Cấp kế đi tìm Ú tim ù ập…

Ngoài yếu tố nhịp, thể vãn hai hay vãn bốn còn dễ hòa lẫn với nhau do

yếu tố vần. Vần trong thể vãn bốn được gieo cả ở tiếng bằng lẫn tiếng trắc, cả

ở câu cuối (vần cuối - cược vận) lẫn giữa câu (vần lưng - yêu vận), cho nên

khi đọc muốn chuyển thành vãn hai rất dễ dàng, thuận lợi.

Thể vãn ba, tuy ít được dùng nhưng tính độc lập rất cao, khó lẫn với

các thể khác:

Xỉa cá mè Đè cá chép Chân nào đẹp Đi buôn men…

Hai thể thơ được dùng nhiều nhất đồng thời cũng tiêu biểu và quan

trọng nhất trong ca dao truyền thống là lục bát và song thất lục bát.

Thể lục bát (bao gồm cả lục bát chỉnh thể - mỗi câu gồm hai vế, vế trên sáu

âm tiết, vế dưới tám âm tiết: “thượng lục hạ bát” và “lục bát biến thể” - số âm tiết

trong mỗi vế có thể tăng hoặc giảm) được sử dụng rộng rãi và thường xuyên nhất

trong ca dao các địa phương trong cả nước. Đây là thể thơ phù hợp với ngôn ngữ

13

Việt và tâm hồn Việt. Do đó, nó cũng là thể thơ sở trường nhất của các nhà thơ

Việt, kể cả văn học dân gian và bác học. Nhiều áng thơ hay trong văn học dân tộc

thuộc thể lục bát (Truyện Kiều, thơ lục bát Nguyễn Bính, Huy Cận, Nguyễn Duy..).

Thể song thất lục bát (hay lục bát gián thất) tuy không phổ biến và giàu sức

biểu hiện bằng lục bát, nhưng cũng là một thể thơ dân gian, bắt nguồn từ dân ca mang

cốt cách dân tộc độc đáo, khác với thể thơ bảy chữ (thất ngôn) của Trung Quốc. Thơ

thất ngôn của Trung Quốc gieo vần ở cuối câu (vần chân - cước vận), ngắt nhịp ở

tiếng thứ tư (nhịp 4/3), còn thể song thất lục bát của Việt Nam thì hai câu bảy được

gieo vần trắc ở câu thứ nhất và tiếng thứ năm câu thứ hai (nghĩa là có cả vần chân và

vần lưng), ngắt nhịp ở tiếng thứ ba (nhịp 3/4). Do những đặc điểm đó mà thể thơ này

có khả năng thể hiện riêng, khác với thể thất ngôn Trung Quốc và cũng khác với thể

lục bát. Nó diễn tả được những trạng thái tình cảm đặc biệt, những nỗi buồn đau uất

hận ở mức độ cao, những sự gay cấn, khúc mắc, xung đột gay gắt trong tâm trạng.

Khả năng biểu hiện đặc biệt này, phần lớn là do sự gieo vần ở tiếng trắc gây ra.

Ngoài vần trắc (ở cuối câu thứ nhất và tiếng thứ năm câu thứ hai), thể song

thất trong ca dao còn có thêm vần bằng ở giữa câu thứ nhất, có khi mở bài và kết

thúc bằng thơ lục bát, còn bốn câu bảy nằm ở giữa như cái lõi của bài ca dao.

Về cấu tứ trong ca dao: trong mỗi bài ca dao không chỉ có ý mà còn có

tứ. Ý là nội dung tương đối độc lập với hình thức, còn tứ đã được tổ chức, thể

hiện dưới một hình thức nghệ thuật nhất định, làm nên cái hay riêng của mỗi

bài ca dao. Trong ca dao truyền thống, những câu, những bài giống nhau hoặc

gần nhau về ý nhưng có cấu tứ khác nhau khá phổ biến. Khi giảng dạy và học

tập ca dao, điều khó nhất là tìm được, nắm được cái tứ riêng của từng bài để

hiểu đúng được cái hay riêng của nó. Nếu chỉ sa vào việc tìm ý mà coi nhẹ

hoặc bỏ qua việc tìm tòi, phát hiện tứ và cấu tứ của từng bài thì sẽ làm cho

công việc giảng dạy và học tập ca dao trở nên nghèo nàn, đơn điệu, khô cứng.

14

Khi nói đến cấu tứ và nghệ thuật làm ca dao, các nhà nghiên cứu thường

nêu lên ba kiểu cấu tứ phổ biến trong ca dao là thể phú, thể tỉ, thể hứng và coi hầu

hết ca dao truyền thống đều được làm theo một trong ba thể ấy.

Dựa vào sự phân chia cấu tứ, có thể phân ca dao truyền thống thành hai bộ

phận lớn: bộ phận thứ nhất gồm những bài (kể cả những câu độc lập) không có cấu

tứ độc đáo (hay nói cách khác là sự cấu tứ còn ở trình độ rất thấp, rất tự nhiên, ngộ

nghĩnh nhiều khi có tính chất ngẫu nhiên, tản mạn). Phần lớn những bài đồng dao,

những bài ca khấn nguyện, những câu hát bông đùa bâng quơ đều thuộc loại này.

Bộ phận thứ hai, gồm những bài có cấu tứ độc đáo rõ rệt. Phần lớn những bài ca

dao trữ tình có giá trị, được nhiều người lưu truyền ưa thích đều thuộc bộ phận này.

Vì thế, mỗi bài có cấu tứ riêng rất độc đáo và nhiều khi rất tinh tế, không bài nào

giống bài nào (dù là về nội dung tức là về ý rất gần nhau hoặc giống nhau).

1.3. Tu từ nghệ thuật trong ca dao

1.3.1. Khái niệm tu từ nghệ thuật

Phong cách học là khoa học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, là khoa

học về các quy luật nói và viết có hiệu lực cao, nghĩa là, nói và viết đạt được tính

chính xác và tính thẩm mĩ trong mọi phạm vi hoạt động của giao tiếp xã hội.

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ

được sử dụng có hiệu quả cao có nghĩa là ngôn ngữ phải giúp con người chuyển

tải được một cách đầy đủ nhất những nội dung cần thực hiện trong giao tiếp (kể

cả dạng nói và dạng viết). Phong cách học là khoa học hướng tới những nhiệm

vụ thiết thực nêu trên của ngôn ngữ.

Theo một cách lí giải, “Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học

nghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ

các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất

định trong những phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định” [69, tr.29].

Phong cách học có vai trò to lớn trong việc nghiên cứu, xác định cái đẹp

của ngôn ngữ; nghiên cứu tác dụng trở lại của hình thức ngôn ngữ đối với nội

15

dung diễn đạt tức là cũng nghiên cứu sự lựa chọn, sử dụng các phương tiện

ngôn ngữ phù hợp nhất với nội dung tư tưởng, tình cảm trong những điều kiện

hoàn cảnh giao tiếp nhất định.

Muốn cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, cần khảo sát, phân loại và

miêu tả có hệ thống phương tiện tu từ và biện pháp tu từ được sử dụng trong văn

bản. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được giá trị nghệ thuật của các phương tiện tu từ và

biện pháp tu từ ấy trong việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác phẩm văn học.

Do đó, phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý

nghĩa sữ vật - lôgic) ra, chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ; còn

biện pháp tu từ là cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện

ngôn ngữ, không kể trung hòa hay tu từ (còn được gọi là diễn cảm) trong một ngữ

cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ.

1.3.2. Vấn đề tu từ nghệ thuật trong ca dao

Phương tiện tu từ và biện pháp tu từ là khái niệm cơ sở của phong cách

học. Mọi hoạt động ngôn ngữ đều có mục đích, phương tiện (công cụ) biện pháp

(cách thức) nhất định. Muốn cảm nhận, chiếm lĩnh giá trị đích thực của tác phẩm

văn học cần phải nắm vững và đánh giá được chức năng và vai trò của phương

tiện tu từ và biện pháp tu từ - những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mĩ.

Phân loại, phân tích đánh giá được các phép tu từ là nắm chắc chìa khóa để mở

cánh cửa đi vào cảm thụ giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn chương.

Phương tiện và biện pháp tu từ là những yếu tố quan trọng tạo nên vẻ

đẹp của tác phẩm văn học dân gian, nhất là thơ ca trữ tình. Do yêu cầu biểu

đạt của nó, ca dao là thể loại mà ở đó, các phương tiện và biện pháp tu từ

được sử dụng một cách rộng rãi nhất.

Chỉ cần đọc qua ca dao của bất cứ vùng đất nào, có thể dễ dàng nhận thấy

tác giả dân gian thật phóng túng về phương diện tu từ. Về tu từ ngữ âm, cách gieo

vần, tạo nhịp, phối ứng thanh điệu, sử dụng từ láy, phép điệp âm... là những biện

pháp được dùng với tần suất cao. Về tu từ từ vựng, có thể nhận thấy sự khác biệt

16

của các lớp từ mang dấu ấn phong cách như từ địa phương, từ địa danh, từ nghề

nghiệp, từ thi ca, từ sinh hoạt... trong ca dao thuộc mọi chủ để. Về tu từ ngữ nghĩa,

so sánh, nhân hóa, thậm xưng, chơi chữ, nói giảm, nói tránh... là những biện pháp

rất được ưa dùng trong ca dao. Về tu từ cú pháp, phép song song, phép lặp, câu

hỏi tu từ... cũng được sử dụng nhiều. Có thể khẳng định, ca dao là mảnh đất màu

mỡ cho việc nghiên cứu các biện pháp và phương tiện tu từ trong văn học.

Từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thi pháp học đã ít

nhiều đề cập đến vấn đề tu từ trong ca dao trữ tình Việt Nam như Vũ Ngọc Phan,

Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Hoàng Tiến Tựu, Triều Nguyên… Các tác

giả đã đưa ra những kiến giải, kết luận có giá trị về đặc điểm tu từ, màu sắc tu từ

trong các tác phẩm văn chương nói chung, trong ca dao nói riêng dưới ánh sáng

của phong cách học, thi pháp học. Các tác giả đã đánh giá sắc thái tu từ qua việc

lựa chọn, sử dụng các phương tiện, biện pháp tu từ qua các mặt từ vựng, ngữ

nghĩa, ngữ pháp và ngữ âm, từ đó, đưa ra những kết luận khoa học có giá trị.

1.4. Ca dao Nam Bộ và việc sử dụng các hình thức nghệ thuật trong

ca dao Nam Bộ

1.4.1. Vài nét về vùng đất và con người Nam Bộ

1.4.1.1. Vài nét vùng đất Nam Bộ

Nam Bộ là một vùng đất cuối cùng phía Nam của Tổ quốc - miền đất vừa rất

cổ lại vừa rất mới. Từ lâu đã có những nền văn hóa độc đáo nằm rải trên một địa

bàn rộng lớn ở cả vùng trên, vùng dưới lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

Trước thế kỷ XVI, miền đất này chìm trong hoang sơ của rừng rậm, sình lầy… Từ

đầu thế kỉ XVII, cùng với số dân bản địa ít ỏi và thưa thớt (chủ yếu là người Chăm

và người Khơ-me), những người Việt lớp trước và lớp sau, bằng nhiều con đường

vượt bể, xuyên rừng, băng núi, với mọi nỗ lực phi thường, đã đến miền đất này lật

thêm những trang sử vàng chói lọi cho một thời kì khai phá mới.

Từ đó tới nay, hơn 300 năm, trên vùng đất mới này của Tổ quốc đã trải qua

những biến động lớn. Từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, cuộc khẩn hoang vĩ đại nhất

17

của dân tộc ta về chiều rộng cũng như chiều sâu. Trận thủy chiến vang lừng của

nghĩa quân Tây Sơn đã tiêu diệt năm vạn quân Xiêm xâm lược. Nơi đây, chứng

kiến sự nổi dậy và ngã gục của triều đình phong kiến nhà Nguyễn; chứng kiến bước

đường xâm lược và sự thất bại nhục nhã của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Chính

nơi này, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được giữ gìn và phát huy rực rỡ,

phong phú. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, thực hiện chính sách “chia để trị”,

chia nước Việt Nam thành 3 kì: Bắc kì, Trung kì, Nam kì. Trái với ý đồ của kẻ thù,

nhân dân ta với tư tưởng và tình cảm hướng về một cội nguồn, một chỉnh thể thống

nhất giữa các miền của Tổ quốc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông

có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh).

Xét về mặt địa lí tự nhiên, vùng đất Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước

trở xuống phía nam và hai thành phố là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần

Thơ. Miền đất Nam Bộ đã hình thành hai khu vực lớn: Đông Nam Bộ và Tây Nam

Bộ. Nối liền hai khu vực đó là thành phố Hồ Chí Minh. Đông Nam Bộ rộng khoảng 26.000 km2 , bao gồm các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà

Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Vùng đất này cao, phù sa cổ đệm giữa cao

nguyên với châu thổ Cửu Long; có những ngọn núi thưa thớt xen giữa các triền đồi

đất đỏ hoặc đất xám trùng điệp, lượn sóng nhấp nhô, rừng bạt ngàn, ít sông rạch.

Những cư dân người Việt đã cư ngụ đầu tiên ở mảnh đất này trước khi lấn xuống đồng bằng sông Cửu Long. Còn Tây Nam Bộ với diện tích hơn 40.000 km2, bao gồm

các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu

Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ.

Nhìn chung, vùng Tây Nam Bộ được khai thác muộn hơn Đông Nam Bộ. Nếu như

trước đây, cư dân bản địa không thể khai phá rộng rãi và cư ngụ lâu dài ở châu thổ

sông Cửu Long, buộc phải thu mình trên những giồng đất, gò đồi, thì sau này, những

cư dân Việt đã làm được điều đó. Đồng bằng Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng

sông Cửu Long. Là sản phẩm bồi tụ của sông Cửu Long - một trong mười con sông

lớn nhất thế giới. Đồng bằng sông Cửu Long tương đối thấp, bằng phẳng, khí hậu

18

mát mẻ, điều hòa quanh năm, là châu thổ phì nhiêu, trung tâm công nghiệp lớn nhất

của nước ta. Trên đồng bằng này có nhiều dòng chảy tự nhiên, tạo nên một mạng lưới

sông rạch chi chít. Theo thời gian con người đã đan thêm vào hệ thống đường thủy tự

nhiên ấy những hệ thống kênh đào dày đặc, phục vụ cho các mục đích kinh tế, văn

hóa, quốc phòng. Hiếm có nơi nào mà đời sống con người lại gắn bó mật thiết với

sông nước như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, ở vùng đồng bằng sông

Cửu Long còn có những cánh đồng mênh mông, màu mỡ - vựa lúa của nước ta và

khu vực Đông Nam Á. Chính điều kiện tự nhiên và con người nơi đây đã góp phần

quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân gian đồng bằng sông

Cửu Long, trong đó có ca dao Nam Bộ.

Theo lịch sử, trước kia nơi đây vốn là lãnh thổ của nước Phù Nam và Chân

Lạp. Thời chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, vùng đất này là xứ Gia Định, mới được

khai khẩn từ thế kỷ 17. Năm 1698, xứ Gia Định được chia thành 3 dinh: PhiênTrấn,

Trấn Biên và Long Hồ. Vua Gia Long nhà Nguyễn gọi vùng này là Gia Định

Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là

Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. Năm 1834, vua Minh Mạng gọi

là Nam Kỳ. Năm 1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lược

đất Việt Nam. Ngày 13 tháng 4 năm 1862, triều đình Huế cắt 3 tỉnh miền Đông

Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) nhượng cho Pháp. Năm 1867, Pháp

đơn phương tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Từ đó, Nam Kỳ

được hưởng quy chế thuộc địa, với chính quyền thực dân, đứng đầu là một thống

đốc người Pháp. Năm 1887, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong Liên

bang Đông Dương. Tháng 3 năm 1945, Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ

thành Nam Bộ. Năm 1945, thời Đế quốc Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim

tuyên bố sáp nhập Nam Kỳ lại thành một bộ phận của nước Việt Nam độc lập. Sau

khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ đó ra mắt

ngày 25 tháng 8 năm 1945 do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Sau cuộc đảo chính

Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại

19

quyền độc lập cho Việt Nam do vua Bảo Đại cai trị. Cùng với việc thành lập chính

phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành

chính, trong đó Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kì cũ. Thực dân Pháp nổ

súng ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 rồi dần dần đánh rộng ra chiếm lại Nam

Bộ. Chính phủ Nam Kỳ quốc được thành lập theo sự chỉ đạo của Pháp hòng tách

Nam Bộ ra khỏi Việt Nam với tên Nam Kỳ Quốc. Không đánh bại được Việt Minh,

Pháp phải dựng "giải pháp Bảo Đại", công nhận nền độc lập và sự thống nhất của

Việt Nam. Cuối cùng ngày 22 tháng 5 năm 1949, Quốc hội Pháp chính thức bỏ

phiếu thông qua việc trả Nam Bộ cho Việt Nam. Nam Bộ trở thành lãnh thổ nằm

trong Quốc gia Việt Nam.

Trải qua hơn 300 năm với nhiều tên gọi khác nhau, cuối cùng tên gọi Nam

Bộ dùng để chỉ mảnh đất phía Nam của Tổ quốc. Nam Bộ là tên gọi được sử dụng

lâu dài nhất cho đến ngày nay.

Văn hóa Nam Bộ được tính mốc là năm 1623 khi vua Chân Lạp cho chúa

Nguyễn di dân Việt đến định cư ở Prey Kụr (thành phố Hồ Chí Minh hiện nay).

Vùng đất Nam Bộ bấy giờ chỉ là một vùng hoang dại với hệ thống đất đai trũng,

úng, sình lầy và sông rạch chằng chịt. Bắt đầu từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp,

Cửa Tiểu, Cửa Đại trở vào, dân cư chủ yếu là người Chăm và Khơ- me. Cuối thế

kỷ 17, chúa Nguyễn tiếp nhận một đoàn người Hoa đến quy thuận và cho họ đến

khai phá và định cư ở Biên Hoà - Đồng Nai. Tiếp đó mộ dân từ Quảng Bình vào

và chia đặt doanh, huyện, lập hộ tịch. Như vậy, phải gần một thế kỷ sau Nam Bộ

mới bước đầu được định hình một vùng văn hóa. Một nền văn hóa vùng miền

hình thành qua thời gian một thế kỷ không phải là dài và khi người Việt đến vùng

đất mới mang theo hành trang với vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc

Việt đã góp phần tạo nên nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Những giá trị

trải qua quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội trong lịch sử, dần

tạo nên những giá trị của nền văn hóa Nam Bộ như hiện nay.

20

Đất Nam Bộ cũng là một vựa lúa chính, đồng thời là vựa trái cây nổi tiếng

với đủ các chủng loại hoa quả miền nhiệt đới. Từ chôm chôm, vú sữa, măng cụt,

sầu riêng cho đến mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam, quít... Mỗi địa phương đều có bảo

tồn loại sản vật riêng, đa dạng và phong phú. Với ưu thế sông ngòi, kênh rạch chằng

chịt, bưng biền ngập nước mênh mông là nơi sinh sống lý tưởng của rắn rết, cá sấu,

rùa , ba ba, tôm, cá, cua, còng... và cả các loại chim chóc nữa. Nam Bộ tập trung

nhiều món ăn ngon, nhiều sản vật lạ từ lâu đó đi vào kho tàng văn học dân gian.

Nam Bộ là vùng đất vừa có bề dày lịch sử văn hóa lại vừa giàu sức trẻ do

các tộc người ở đây đang dày công gây dựng nên. Từ vị thế địa lý, văn hóa, Nam

Bộ đang trở thành trung tâm của quá trình tiếp biến văn hóa. Điều đó phần nào tạo

cho vùng đất này những nét đặc thù, diện mạo mới đối với các vùng văn hóa khác

ở Việt Nam. Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ là truyền thống văn hóa dân tộc và những

giá trị cốt lõi hình thành phong cách văn hóa riêng của vùng. Tính mở của một

vùng đất mới đã làm nên tính năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm của người

dân Nam Bộ. Tính mở là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến thành công nhiều

giá trị văn hóa cao và tiến tới một nền văn minh hiện đại.

Như vậy, vùng đất Nam Bộ hiện lên với vẻ hoang sơ nhưng rất cởi mở thuần

hậu và chất phác,… Những nét độc đáo về địa hình sông nước và văn hóa của vùng

“đất trẻ” đã tạo nên một Nam Bộ với sức sống riêng: mạnh mẽ, độc đáo và hấp dẫn.

1.4.1.2. Vài nét về con người Nam Bộ

Khi nghiên cứu ca dao Nam Bộ, chúng ta cần tìm hiểu về con người và

tính cách đặc trưng của con người nơi đây. Bởi vì, ca dao Nam Bộ đã nêu bật

được những nét tính cách, văn hóa, ngôn ngữ một cách rõ nét nhất. Khi

nghiên cứu về tính cách người Việt ở Nam Bộ, các nhà nghiên cứu đều thống

nhất cho rằng người Nam Bộ rất năng động sáng tạo, hào hiệp trong cuộc

sống, hiếu khách, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ, yêu nước nồng nàn,

trọng nhân nghĩa, bộc trực, thẳng thắn.

21

Thứ nhất là tính năng động sáng tạo của người Nam Bộ. Tính cách này thể

hiện rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau như khả năng thích nghi với cuộc sống khắc

nghiệt trên vùng đất mới, sự cải biến các yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần để hòa

hợp với điều kiện mới. Chính điều này đã tạo cho người dân Nam Bộ có những nét

riêng khá độc đáo so với các vùng miền khác. Vùng đất mới còn hoang sơ vừa khơi

dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối với những

con người muốn dấn thân. Nếu như không phát huy được tính cần cù, dũng cảm

vốn có của người dân Việt thì khó có thể tồn tại được. Trong buổi đầu khai khẩn

vùng đất Nam Bộ, chúng ta thấy có đủ hạng người đến đây quần tụ: phần đông là

những người mất phương kế sinh nhai nơi quê cũ vì bị tước đoạt ruộng đất, những

người chống đối lại triều đình, trốn lính, hay những kẻ phải mang những bản án tù

tội. Tất cả họ đều muốn tìm một cuộc sống mới trên vùng đất mới dù biết trước

những khó khăn, khắc nghiệt không dễ vượt qua. Phải nói rằng vùng đất phương

Nam từ khi bắt đầu khai phá và phát triển trải qua mấy thế kỷ đến nay vẫn là địa

bàn sôi động nhất, dẫn dụ mọi người đến mưu sinh.

Thứ hai là lòng yêu nước nồng nàn. Yêu nước là một truyền thống tốt đẹp từ

ngàn đời của dân tộc ta. Đối với người dân Nam Bộ, tính cách này được thể hiện

một cách phóng khoáng, sinh động. Chẳng hạn, Nguyễn Trung Trực không chịu đi

nhận một chức vụ cao hơn theo lệnh của triều đình vì nhà Nguyễn muốn dẹp yên

phong trào kháng chiến ở Nam Bộ để lấy lòng chính quyền Pháp. Câu nói khẳng

khái của ông được lưu truyền trong nhân dân đến tận ngày nay: “Bao giờ người Tây

nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Ngoài ra, các nhà thơ yêu

nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa... là những con người

khí khái được mảnh đất Nam Bộ nuôi lớn, hun đúc cho một ý chí, một tấm lòng để

rồi chính tên tuổi họ còn lưu danh mãi khi người ta nói về Nam Bộ.

Thứ ba là, tính hào phóng hiếu khách. Đây là một nét tính cách đặc trưng

của người Việt ở Nam Bộ. Trong tất cả các mối quan hệ diễn ra trong cuộc sống

hàng ngày, tính cách này luôn được bộc lộ một cách rõ ràng, sinh động và đầy tính

nhân văn. Trong gia đình, khi có khách đến nhà lúc nhà đang ăn cơm, chủ nhà

mời mà khách từ chối thì hay bị hiểu lầm là khinh rẻ chủ nhà, đã ăn no rồi thì cũng

22

nên ngồi vào mâm cùng ăn, cho vừa lòng chủ. Người dân Nam Bộ muốn dành

những gì đẹp nhất trong đối nhân xử thế với hàng xóm, bạn bè và người thân của

mình. Tiêu xài rộng rãi là một đặc điểm thường được nhắc tới khi nói về tính cách

người Nam Bộ. Thiên nhiên hào phóng thì cũng sẽ tạo ra những con người hào

phóng, người ta ít lo lắng cho cuộc sống của mình ở ngày mai.

Thứ tư là, trọng nhân nghĩa. Con người Nam Bộ từ nhiều vùng đất khác

nhau đến nơi đây lập nghiệp nên họ cùng nhau quần tụ lại, lập thành xóm thành

làng, cùng nhau khai khẩn, cùng sát cánh với nhau trong cuộc mưu sinh đầy gian

khổ, trở thành “bà con một xứ”. Hàng xóm dù không thích nhau, nhưng những

khi tối lửa tắt đèn cần sự giúp đỡ thì họ cũng sẵn sàng. Do vậy, người Nam Bộ

rất quý trọng, tin cậy bạn bè. Bạn bè sa sút, túng quẫn lại vẫn được chia sẻ, cảm

thông. Người Nam Bộ thích làm quen với người nghèo, giúp đỡ kẻ sa cơ thất

thế, ghét cay ghét đắng những kẻ thay lòng đổi dạ, xu nịnh quyền tước.

Thứ năm là, người Nam Bộ rất bộc trực, thẳng thắn, ít khi nói chuyện văn

hoa dài dòng, rào trước đón sau. Khi gặp những chuyện bất bình hoặc không vừa ý

thì họ sẽ nói ngay không cần suy nghĩ và cũng chẳng sợ người nghe giận dữ.

Nhưng khi câu chuyện được giải thích rõ ràng cặn kẽ, hợp tình hợp lý thì họ sẽ tiếp

thu một cách tích cực, vui vẻ, thấy mình sai thì sẵn sàng nhận lỗi. Khi nói chuyện

với người Nam Bộ, ta có được cảm giác rất gần gũi, họ không câu nệ chuyện ngôi

thứ, lớn nhỏ, giai cấp, bốn bể là nhà, tứ hải giai huynh đệ. Ngôn ngữ của người

nông dân Nam Bộ đậm vẻ hài hước, tinh tế thể hiện sự lạc quan, yêu cuộc sống.

Lịch sử Nam Bộ dù có trải qua nhiều bước thăng trầm, con người Nam

Bộ vẫn giữ được những tính cách rất riêng đáng quý ấy.

1.4.1.3. Vài nét về ca dao Nam Bộ

Ca dao là nơi thể hiện sinh động tính cách tâm hồn văn hóa truyền thống của

dân tộc, của các vùng miền. Cũng như ca dao các vùng miền khác của dân tộc, ca

dao Nam Bộ lại mang âm hưởng riêng của mình.

Ca dao Nam Bộ là bộ phận sáng tác dân gian ra đời muộn cùng với sự hình

thành của vùng đất mới phía Nam, tuy vậy bản sắc riêng của ca dao vùng này khá

23

đậm nét. Ca dao Nam Bộ nằm trong dòng chảy của ca dao Việt Nam nên về hình

thức và nội dung ca dao Nam Bộ cũng như ca dao các miền khác là vừa có cái

chung của ca dao dân tộc vừa có cái riêng gắn với hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh

lịch sử, xã hội, văn hóa, tâm lý, tính cách con người ở địa phương Nam Bộ.

Ca dao Nam Bộ là nơi ghi nhận tình cảm của con người miền này. Từ ca

dao, chúng ta có thể thấy được cách ứng xử giữa con người với con người, giữa

con người với hoàn cảnh sống. Hình ảnh con người cùng với mọi cung bậc tình

cảm được thể hiện sinh động qua ca dao. Những biểu hiện tình cảm đó đã làm

nổi bật những tính cách chung, đặc thù Nam Bộ. Điều kiện sinh sống vùng sông

nước Nam Bộ buộc con người gắn bó mật thiết vào thiên nhiên. Từ thuở khai

hoang lập địa, con người đã quen hình thức săn bắt, hái lượm sản vật tự nhiên

hơn việc tổ chức sản xuất độc canh, ngoại trừ cây lúa vốn là đặc điểm nổi bật của

cộng đồng cư dân nông nghiệp vùng Đông Nam Á. Với thiên nhiên hùng vĩ, trù

phú của vùng Nam Bộ, con người có nhiều cơ hội để hòa vào tự nhiên hơn.

Thiên nhiên hoang sơ trở thành đối tượng chính trong công cuộc khẩn đất, khai

hoang và khám phá vùng đất mới. Con người và thiên nhiên gắn bó chặt chẽ với

nhau trong một tổng thể phức tạp mà cũng thật đơn giản.

Xét về hình thức: hình thức diễn xướng tổng hợp của ca dao Nam Bộ được

thể hiện ở các thể loại: hò, hát, lý…, mỗi thể loại có những môi trường và hình

thức thể hiện khác nhau.

Về hò, gồm có hò chèo ghe, hò cấy… Hò chèo ghe là biểu hiện tập trung của

hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trên sông nước. Nhân dân đã biến sông nước

thành những thủy lộ giao thông và những trung tâm sinh hoạt văn hóa cho mình. Đó

là nơi họ bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình qua câu hò. Hò cấy còn được gọi là hò

công cấy, được hình thành trên đồng ruộng vào các mùa cấy, giúp cho người lao

động tìm được niềm vui và lòng hăng say trong công việc.

Về hát, là những hình thức diễn xướng tổng hợp hay sân khấu như hát ru,

hát bội. Hát ru còn được gọi là hát đưa em, hát ru là tiếng hát của bà đưa cháu, của

mẹ đưa con, của chị đưa em. Đây là loại bài ca gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt gia

đình và các mối quan hệ gia đình.

24

Bên cạnh những điệu hò, câu hát trữ tình, ca dao Nam Bộ còn có những bài

lý. Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm với các nhịp điệu phong phú và

sinh động. Lý có thể được hát trong nhà, trên đường hay ngoài đồng ruộng, sông

rạch, khi lao động hay lúc giải trí.

Nhìn chung, mỗi hình thức diễn xướng trong ca dao Nam Bộ đều thể hiện

những khía cạnh khác nhau của tình cảm con người nơi đây.

Xét về nội dung: ca dao dân ca Nam Bộ có thể chia thành ba thể loại: thơ ca

nghi lễ, dân ca lao động và ca dao dân ca trữ tình.

Thơ ca nghi lễ là một thể loại sáng tác dân gian có nguồn gốc rất cổ, nảy sinh

trong quá trình lao động, sinh hoạt, gắn chặt với thế giới quan của người nguyên

thủy cũng như ý thức tôn giáo của con người. Nội dung của thể loại này phản ánh

kinh nghiệm lao động, biểu thị những khát vọng, mơ ước của nhân dân cũng như tài

nghệ sử dụng tiếng mẹ đẻ diễn đạt tinh tế nỗi khát khao mong muốn một cuộc đời

yên vui, hạnh phúc, thịnh vượng.

Dân ca lao động là những bài ca được hò hát trong lao động với điều

kiện là tiết tấu, nhịp điệu, sắc thái biểu cảm, tốc độ, cường độ và cách thức

diễn xướng của nó phải gắn chặt với các quá trình của một công việc cụ thể

nào đó của nhân dân. Dân ca lao động chỉ nảy sinh trên cơ sở của những công

việc có sự lặp đi lặp lại về nhịp điệu và động tác lao động. Đó là những công

việc như chèo ghe, đương đệm, tát nước, phát cỏ, kéo gỗ, giã gạo, xay lúa…

Một bộ phận của những bài hát ru cũng được xếp vào loại này.

Tuy nhiên, không phải mọi bài ca được hát trong lao động đều thuộc thể loại

dân ca lao động. Trong lao động có rất nhiều câu hát, điệu hò mà nội dung của nó

không trực tiếp liên quan đến công việc đang làm, tiết tấu nhịp điệu của nó không

bám sát với lao động. Loại bài ca này được xếp vào thể loại ca dao - dân ca trữ tình.

Ca dao - dân ca trữ tình (hay sinh hoạt) là những bài ca mà nội dung và

hình thức diễn xướng của nó không nhằm mục đích nghi lễ và không kèm những

động tác có tính chất nghi lễ. Những bài ca này vẫn được hát trong lao động,

nhưng nội dung cơ bản của nó là nhằm bộc lộ tâm tư tình cảm của nhân vật trữ

tình, bộc lộ tình yêu tha thiết của nhân dân đối với quê hương đất nước, tình cảm

25

lứa đôi, tiếng ca tình nghĩa của nhân dân trong quan hệ gia đình và những mối

quan hệ xã hội khác. Các bài ca của mỗi thể loại này mang một vẻ đẹp riêng và nó

thể hiện thế giới nội tâm vô cùng đa dạng và đậm chất trữ tình.

Cùng với ca dao các vùng, ca dao Nam Bộ cũng có các mảng chủ đề chung

mang tính thống nhất làm thành dòng chảy của ca dao dân tộc. Ca dao in đậm trong

trí nhớ, khắc sâu trong tâm hồn của mỗi người. Vì thế, ở vùng đất mới Nam Bộ, ta

vẫn thấy rõ những bài ca cũ còn giữ nguyên vẹn phần lời, phần nghĩa, chỉ thay đổi

về môi trường diễn xướng, điều kiện diễn xướng và ít nhiều về cách diễn xướng.

Tính thống nhất của ca dao Nam Bộ thể hiện rõ rệt ở chủ đề của thể loại. Nội dung

đó biểu hiện qua các mảng chủ đề sau:

- Tình cảm của người dân Lục tỉnh đối với quê hương, đất nước;

- Quan hệ yêu đương và suy tư của nam nữ thanh niên;

- Tiếng ca tình nghĩa của người lao động trong quan hệ gia đình;

- Những khúc ca vui buồn của nhân dân trong các mối quan hệ xã hội khác.

Các mảng chủ đề này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan cài vào nhau, trong

nhiều trường hợp khó xác định một cách dứt khoát bài ca thuộc mảng chủ đề nào.

Ca dao Nam Bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam Bộ nên nó mang

đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con người

ở đây. Song toàn bộ ca dao Nam Bộ không nằm ngoài các nội dung chủ yếu nêu

trên. Chẳng hạn, cùng chủ đề quan hệ yêu đương và những suy tư của nam nữ

thanh niên lao động nhưng ca dao Nam Bộ lại nổi rõ những khía cạnh độc đáo của

nó trong sắc thái biểu hiện tình cảm, trong cách sử dụng từ ngữ…

Cùng là bày tỏ tình yêu, cùng quan điểm yêu đương gắn liền với lao động

với giai cấp và với hôn nhân, nhưng sắc thái biểu hiện tình cảm ấy ở ca dao Nam

Bộ có những điểm không hoàn toàn giống với ca dao ở các miền khác. Nhân vật trữ

tình trong ca dao Bắc Bộ bộc lộ tình yêu của mình:

Bây giờ mận mới hỏi đào,

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa,

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào?

26

Còn đây là tâm trạng của một cô gái mới bước vào yêu đương được nói

đến trong ca dao Nam Bộ:

Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,

Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.

Em thương anh không dám nói ra,

Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời.

Em với anh cũng muốn kết đôi,

Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.

Khác với ca dao các miền khác, ca dao Nam Bộ thể hiện niềm thương

nỗi nhớ, thể hiện tình yêu một cách bộc trực, tự nhiên hơn. Phải chăng vì

người ta ít chịu ràng buộc hơn bởi các kỉ cương?

Khi yêu, không phải chỉ có các chàng trai, mà ngay cả các cô gái cũng quyết

liệt, vượt qua những trở lực của lễ giáo phong kiến để bảo vệ hạnh phúc của mình.

Khi một chàng trai nào đó còn do dự chuyện mai mối thì đã có những cô gái quả

quyết hơn:

Thò tay ngắt đọt trâm bầu,

Thôi, anh có thương em thì thương đại đừng cầu ông mai.

Khi đã yêu thì họ thể hiện tình yêu thật mãnh liệt:

Anh thương em,

Thương lún, thương lụn,

Thương lột da óc,

Thương tróc da đầu,

Ngủ quên thì nhớ,

Thức dậy thì thương,…

Hoặc:

Thương sao thương quá bất nhơn,

Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào.

27

Tình cảm ở đây được bộc lộ một cách trực tiếp, nói thẳng, không bóng

gió xa xôi, không úp mở, nhằm nói cho được hết cái thương cái nhớ đang

cháy bỏng trong lòng mình, tưởng như không cần trau chữ, chuốt lời:

Anh về em nắm vạt áo em la làng, Phải bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho em.

Hoặc:

Tui xa mình không chết cũng đau,

Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền.

Những cách biểu hiện tình cảm như vậy đã cho thấy sắc thái độc đáo

của ca dao Nam Bộ.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đề cập một số vấn đề có tính chất khái quát. Sau

khi tổng thuật các cách giới thuyết về khái niệm ca dao, chúng tôi đã trình bày

những hướng nghiên cứu ca dao ở nước ta và giới thiệu những thành tựu chính đã

đạt được (nghiên cứu từ góc độ văn học, nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ). Về

hướng nghiên cứu ngôn ngữ học, luận văn nhấn mạnh yêu cầu của việc khảo sát các

phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao người Việt nói chung, ca dao các vùng

miền trên đất nước nói riêng. Phần cuối của chương 1, luận văn giới thiệu về mảnh

đất, con người và ca dao Nam Bộ, làm tiền đề cho việc đi sâu các nội dung nghiên

cứu ở hai chương tiếp theo.

28

Chương 2

MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TU TỪ

TRONG CA DAO NAM BỘ

2.1. Dẫn nhập

Để rèn luyện kĩ năng lĩnh hội văn bản hay đánh giá được thái độ và chủ định

của người nói, người viết qua văn bản, nhất là đánh giá được giá trị thẩm mỹ của

văn bản nghệ thuật, nhất thiết phải nhận diện, phân tích được hình thức biểu đạt của

nó, trong đó có các phương tiện tu từ. Chính các phương tiện tu từ đó đã làm cho

văn bản có được những phẩm chất thẩm mĩ. Cái hay trong văn chương không chỉ ở

nội dung mà còn ở hình thức trình bày, lối diễn đạt mới mẻ. Điều đó tạo ra sự khác

biệt lớn giữa ngôn ngữ nghệ thuật với ngôn ngữ phi nghệ thuật, ngôn ngữ tự nhiên.

Phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa

sự vật - logic), chúng còn có ý nghĩa bổ sung, có màu sắc tu từ.

Cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Việt có nhiều phương tiện tu

từ, gắn với các cấp độ ngôn từ trong văn bản như: phương tiện tu từ ngữ âm,

phương tiện tu từ từ ngữ, phương tiện tu từ ngữ nghĩa, phương tiện tu từ cú pháp,

phương tiện tu từ văn bản [39, tr.160-175]. Nói một cách khái quát, tu từ có mặt ở

mọi cấp độ của văn bản.

2.2. Một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ

Trong tiếng Việt, số lượng các phương tiện tu từ tương đối nhiều,

phong phú. Với đề tài đã chọn, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát phương tiện tu

từ từ ngữ, phương tiện tu từ ngữ nghĩa, trong ca dao Nam Bộ bởi đây là

những bình diện rất tiêu biểu cho sự trau chuốt ngôn từ ở bộ phận ca dao này.

2.2.1. Phương tiện tu từ từ ngữ trong ca dao Nam Bộ

Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa, từ ngữ là phương tiện được tiếp

nhận hiển nhiên nhất, đơn vị thực hiện đầy đủ các chức năng ngôn ngữ vừa phản

ánh hiện thực khách quan, vừa bộc lộ thái độ chủ quan của người dùng. Phương

29

tiện sử dụng từ ngữ trong văn bản nghệ thuật thực hiện đồng thời hai chức năng trên,

đó là phương tiện tu từ từ ngữ [39, tr.161].

Nói đến phương tiện tu từ từ ngữ, người ta thường nói đến các lớp từ:

- Lớp từ Hán - Việt so với từ thuần Việt tương đương;

- Lớp từ xưng hô so với đại từ nhân xưng;

- Lớp từ địa phương so với từ ngữ toàn dân;

- Lớp từ thông tục so với từ ngữ sách vở (hay lớp từ thi ca so với lớp từ thông tục);

- Lớp thành ngữ so với lớp từ ngữ tương đương.

Sau đây, chúng tôi lần lượt đi vào tìm hiểu cách sử dụng các lớp từ

ngữ trên với tư cách là phương tiện tu từ từ ngữ nhằm tìm hiểu màu sắc tu

từ của các phương tiện này trong ca dao Nam Bộ.

2.2.1.1. Từ ngữ thi ca

Từ thi ca là lớp từ chuyên dùng trong thơ ca hoặc văn xuôi nghệ thuật,

không dùng trong ngôn ngữ phi nghệ thuật, nếu được dùng cũng chỉ có ý

nghĩa tu từ hoặc vì một mục đích nào khác. Đây vốn là lớp từ đắc dụng trong

văn thơ xưa, ngày nay nếu dùng để chỉ những con người, sự vật hiện đại thì

thấy kệch cỡm, buồn cười [39, tr.13].

Từ thi ca xuất hiện không nhiều trong ca dao Nam Bộ một mặt vì tính

chất xưa cũ của nó, mặt khác, cách nói năng, giao tiếp của người Nam Bộ khá

thẳng thắn và chân tình, nên nói văn hoa, bóng bẩy lại có vẻ không phù hợp.

Tuy nhiên, ẩn bên trong những con người chất phác, thẳng thắn ấy là

những tâm hồn rất đỗi thơ mộng, rất đằm thắm và có một nét duyên rất thi vị.

Chính cái hay, cái thú vị và độc đáo đó đã được bộc lộ rõ qua mảng từ ngữ

thi ca trong ca dao Nam Bộ. Theo khảo sát của chúng tôi, trong 2816 câu ca dao, có

53 từ thi ca, với 117 lượt dùng, chiếm 4,15%. Số liệu cụ thể được phản ánh trong

bảng thống kê sau đây (khảo sát từ cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang,

Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn, 1984, Nxb Tp. HCM).

30

Bảng 2.1. Thống kê từ thi ca trong ca dao Nam Bộ

TT

TỪ THI CA

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNG SỐ TỪ TRONG BÀI

SỐ LƯỢT TỪ THI CA 1 2 1 1 1 1 1 3

32 59 28 17 39 22 15 17

1 Bài 734/ 234 2 Bài 742/236 3 Bài 840/ 249 4 Bài 970/267 5 Bài 1034/ 276 6 Bài 1569/ 344 7 Bài 1599/ 348 8 Bài 1623/ 352

3

20

9 Bài 1766/ 370

1 1 2 4

48 14 28 26

10 Bài 501/202 11 Bài 586/ 214 12 Bài 60 / 137 13 Bài 694/ 228

3

24

14 Bài 539/ 207

thục nữ anh hào, thuyền quyên nguyệt lão song thân tam tòng quần hồng giọt châu ông tơ, bà nguyệt, phụ mẫu dương gian, âm phủ, thác chàng tơ hồng nam thanh, nữ tú kim lang, kim ngọc, chàng, lụy thiếp, nam nhi, tào khương phụ mẫu nàng liệt nữ phu thê sầu từ mẫu, hiếu trung lụy thuyền quyên bách niên giai ngẫu suối vàng đệ huynh sơn hà tài tử giai nhân màn loan gối phụng phòng đào phu quân thập tử nhất sanh

2 2 1 1 1 2 1 1 2 1 1 1 2 2 1 1 2

36 42 18 30 14 28 17 14 14 14 14 28 28 14 33 15 17

15 Bài 217/ 163 16 Bài 27 / 131 17 Bài 1336 / 314 18 Bài 762 / 239 19 Bài 1426/ 326 20 Bài 1442/ 328 21 Bài 1539/341 22 Bài 802/ 244 23 Bài 1499/ 336 24 Bài 1346/ 315 25 Bài 2704 / 491 26 Bài 2721/ 493 27 Bài 1372/ 319 28 Bài 1339/ 314 29 Bài 1995 / 399 30 Bài 1660 / 356 31 Bài 1960/ 395

31

32 Bài 1849 / 380 33 Bài 1883/ 384 34 Bài 1910 / 388 35 Bài 1848 / 380 36 Bài 2604 / 478 37 Bài 1557/ 343 38 Bài 1366/ 318 39 Bài 1003/ 271 40 Bài 1067/ 280 41 Bài 730 / 233 42 Bài 866/ 252 43 Bài 1562/ 343 44 Bài 493/ 201

14 14 28 31 18 44 30 56 28 21 37 26 16

1 1 1 1 1 1 2 1 1 2 1 1 1

dung nhan ưu phiền loan phụng chương đài thủ tiết đoạn trường hiệp nghĩa, phu thê nhân ngãi phu phụ kim tiền, cổ hậu loan hiệp ngôn dung quân tử

Qua bảng thống kê, dễ nhận thấy từ thi ca trong ca dao Nam Bộ gồm những từ dùng để chỉ người, dùng để xưng hô, hoặc nói về tâm lí, tính cách, tình cảm của con người.

Để chỉ người, lớp từ thi ca có các từ: quân tử, trang anh hùng, thục nữ,

anh hào, thiên kim, chàng, nam nhi, nam thanh nữ tú...

Thuyền quyên phải sánh anh hào

Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều

Kiểng kia ai để bìm leo Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn.

Thuyền quyên chỉ những người con gái đẹp nết, đẹp người; anh hào chỉ những chàng trai tuấn kiệt, văn võ toàn tài trong xã hội. Đây là những từ xuất hiện khá phổ biến trong thơ xưa, khi quan hệ giữa trai anh hùng - gái thuyền quyên luôn giữ một vị trí rất quan trọng và tình yêu đôi lứa luôn là một đề tài muôn thuở trong thơ ca.

Trong thơ ngày nay, nếu dùng từ nàng, ta cảm thấy có vẻ kiểu cách, không

phù hợp, nhưng ở những câu ca dao sau, từ này xuất hiện hoàn toàn tự nhiên:

- Chợ Ba Tri thiếu gì cá biển Anh thương nàng anh nguyện về đây. - Anh ngó vô nhà nhỏ Thấy có đôi liễn đỏ Có bốn chữ vàng

Gia đường chưa biết, thấy nàng vội thương.

32

Trong quan hệ xưng hô, ta gặp các từ thi ca: mẫu thân, song thân, thiếp,

phu quân, huynh đệ...

Phu quân ơi, bỏ bạn sao đành

Dưới sông cá lội, trên nhành chim kêu

Phu quân là chồng theo cách gọi của người phụ nữ thời xưa, ngày nay

không ai còn dùng từ này, trừ khi muốn dùng tạo sắc thái hài hước. Tuy nhiên,

trong ca dao, cách nói này lại rất phù hợp, có thể khơi gợi cảm xúc cho người

nghe. Cũng vậy, những từ nam nhi, thiếp, chàng, tào khương... được dùng rất

tự nhiên, có giá trị biểu đạt cảm xúc chân thành của chủ thể trữ tình:

- Cây chi trên rừng không lá

Con cá chi dưới biển không xương ?

Trai nam nhi đối đặng, thiếp kết tào khương với chàng.

Trong câu hát giao duyên xưa, không thể thiếu từ thi ca bởi lớp từ này làm

câu hát trở nên duyên dáng, thi vị tạo sự ngân vang lớn, vang vọng vào tâm trí

người nghe.

Trong số 53 từ thi ca thì từ phụ mẫu xuất hiện nhiều nhất: 23 lần, chiếm

0,82 % số câu mà chúng tôi khảo sát.

- Anh tham chi nhiều điều mặn lạt

Em rút cây lông nhím bạc trao liền

Em về phụ mẫu lo phiền

Lỗi em chịu lỗi, nói đi cấy ruộng miền mất tiêu.

- Em đành phụ mẫu không đành

Hai đứa mình trải chiếu ngoài thành lạy vô.

Người dân Nam Bộ thường gọi cha mẹ là tía má nhưng trong cả hai bài

ca dao trên đều sử dụng từ phụ mẫu nhằm thể hiện tình cảm yêu quí, sự tôn

kính và sắc thái trang trọng đối với cha mẹ vì công ơn của mẹ cha đối với con

cái còn cao hơn núi và sâu hơn biển cả, đó là sự hiếu kính của người con đối

với cha mẹ. Dù trong hoàn cảnh nào thì hiếu đễ vẫn được đặt lên hàng đầu.

33

Ta còn gặp trong ca dao Nam Bộ những từ thi ca chỉ sự giao duyên: màn rồng,

màn loan - gối phụng, chương đài, phòng loan, loan phụng, phòng đào, kết nguyền,

thủ tiết... Người dân Nam Bộ nhìn nhận cuộc đời với một cái nhìn lạc quan, nhân ái,

nên trong từng lời ăn, tiếng nói mộc mạc chân thành vẫn không thiếu chất thơ. Thi ca

đã trở thành một phần xương máu, nó bắt nguồn cho một cái nhìn lãng mạn hơn, trữ

tình hơn về vùng đất “Chín Rồng”. Chúng ta bắt gặp trong ca dao Nam Bộ nét mạnh

mẽ của các chàng trai; sự e ấp, đằm thắm, dịu dàng của các cô gái trong tình duyên

được biểu đạt bằng lối nói văn hoa. Gặp gỡ nhau, muốn thổ lộ lòng mình để không bị

đối phương chê trách thì sử dụng từ thi ca là lựa chọn khôn ngoan:

Gặp lúc trăng thanh gió mát

Thú nào vui bằng thú hát huê tình

Trời xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên.

Ở bài ca dao trên, nếu không dùng từ thi ca, nét duyên sẽ không được thể

hiện và tính thơ mộng trong giao kết nên đôi sẽ mất đi. Cũng như những vùng

miền khác, người Nam Bộ khi đến tuổi thành gia lập thất cũng hay tổ chức các

buổi gặp gỡ, hò đối đáp, giao duyên. Hát huê tình là hát đối giao duyên. Nếu có

duyên gặp gỡ trong ngày hội này, được xe chỉ tơ hồng sẽ kết duyên giai ngẫu - trở

thành vợ chồng, cùng chia bùi xẻ ngọt, vĩnh kết đồng tâm.

Trong lớp từ thi ca giao duyên, phụng, loan cũng là hai từ xuất hiện khá nhiều.

- Thương em chưa cạn chung trà

Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa.

- Trên rừng băm sáu thứ chim

Thiếu gì loan phụng sao anh tìm quạ khoang?

Theo quan niệm xưa, chim loan phụng biểu tượng cho đôi lứa gắn bó.

Loan là chim mái, phụng là chim trống. Đó là sự gắn bó keo sơn, không thể

chia lìa.

Lớp từ thi ca chỉ tình cảm, tính cách con người cũng xuất hiện khá

nhiều. Đó là những từ: lệ, ưu phiền, lụy nhỏ, lụy ứa, giọt châu, sầu...

34

Đi xa một chút ngó chừng

Thấy em lệ nhỏ rưng rưng hai hàng.

Lệ là nước mắt, khi khóc mới chảy ra nước mắt. Đó là nỗi sầu khổ khi

chia xa, nhất là xa cách trong tình yêu. Từ lệ biểu hiện cho tâm trạng của chủ

thể trữ tình: quá sầu muộn, đau khổ nhưng không biết làm sao nên đành phải

để nước mắt tuôn chảy. Bài ca dao gợi nhiều cảm xúc xót xa cho đôi tình

nhân không được ở cạnh bên nhau, phải chia tay trong nước mắt.

Vùng đất Nam Bộ vẫn còn rất nhiều điều đặc biệt, gây bất ngờ và thú vị

cho người tìm hiểu. Ở đây, không phải chỉ có những con người học cao hiểu

rộng mới “xuất khẩu thành thơ”. Với lớp từ thi ca, ca dao Nam Bộ đã cho ta

thêm một bằng chứng về "chất thi sĩ" của người nông dân miệt vườn.

2.2.1.2. Từ ngữ Hán-Việt

Từ Hán-Việt là những từ vay mượn từ tiếng Hán, là những từ Hán được

Việt hóa theo cách đọc, cách hiểu và cách dùng của người Việt.

Ngày nay, trong kho từ ngữ tiếng Việt vẫn tồn tại hàng loạt cặp từ

thuần Việt và Hán Việt có nghĩa tương đương hay khác nhau về sắc thái ý

nghĩa, về màu sắc biểu cảm, cảm xúc, phong cách. Đa số người Việt không

hiểu chính xác tiếng Hán, nhưng vẫn dùng theo thói quen và có thể cảm nhận

được các sắc thái tu từ của từ Hán - Việt.

Vậy từ Hán-Việt trong ca dao Nam Bộ xuất hiện với số lượng như thế

nào, giá trị tu từ của bộ phận từ ngữ này ra sao? Để trả lời câu hỏi này, chúng

tôi đã khảo sát, từ tìm hiểu về lượng, phân tích, đánh giá về định tính.

Về lượng, chúng tôi đã thống kê lượt từ Hán-Việt được sử dụng trong 44

bài ca dao trên tổng số từ có mặt. Tất cả có 141 từ Hán-Việt, xuất hiện 234

lần trên 2816 câu ca dao, chiếm 8,3%. Số liệu cụ thể ở các bài được thể hiện

trong bảng thống kê sau đây:

35

Bảng 2.2. Thống kê từ Hán-Việt trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNGSỐ TỪ TRONG BÀI

TỪ HÁN-VIỆT

SỐ LƯỢT TỪ HÁN-VIÊT 1 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 5

14 52 34 36 17 14 31 31 14 15 19 14 28 24 52

1 Bài 161/ 155 2 Bài 173/157 3 Bài 316/ 177 4 Bài 554/209 5 Bài 352/ 182 6 Bài 749/ 237 7 Bài 761/ 239 8 Bài 1024/274 9 Bài 794/ 243 10 Bài 335/ 180 11 Bài 854/ 251 12 Bài 363/ 184 13 Bài 967/ 266 14 Bài 969/ 267 15 Bài 1080/ 282

1 3 1 2 1 3

15 30 28 23 18 30

16 Bài 1035/ 276 17 Bài 1047/ 277 18 Bài 1067/ 280 19 Bài 1085/283 20 Bài 1171/ 293 21 Bài 1174/ 293

6

28

22 Bài 1196/ 296

2 1 5

42 32 25

23 Bài 1277/ 307 24 Bài 1288/ 308 25 Bài 1312/ 311

1 4

16 14

26 Bài 1318/ 312 27 Bài 1499/ 336

3

17

28 Bài 1549/ 342

quân tử tào khang, kim cải phụ mẫu nhơn ngãi căn duyên tố hộ huỳnh tuyền ái ân gia can cang thường tái sanh mẫu từ vãng lai, ngãi nhân nhơn đạo, thịnh trị nhơn tình, thuyền quyên, thục nữ, nhơn nghĩa dương trần mẫu thân, vô đệ, vô huynh phu phụ hội ngộ, huê tình ngao du thiên kim, phấn thổ, nhân ngởi họa cốt, họa bì nan họa cốt / tri nhơn, tri diện, bất tri tâm hữu duyên, vô duyên song loan bất hành, bất đáo, bất đả, bất minh, minh bạch giao ngôn bách niên, giai ngẫu, ngọc trầm, thủy thượng nhị nhân, đối khẩu, giao hòa

36

29 Bài 1200/ 296 30 Bài 1886/ 385

107 63

3 6

31 Bài 1539/ 340 32 Bài 1764/ 370 33 Bài 1718/ 363 34 Bài 1896/ 387 35 Bài 1600/ 348 36 Bài 1871/ 383 37 Bài 1879/ 384

14 19 20 14 14 24 15

1 1 1 2 1 3 3

38 Bài 1939/ 392

29

3

39 Bài 1854/ 381 40 Bài 2797/ 502

14 24

1 4

41 Bài 2719/ 493 42 Bài 2721/ 493 43 Bài 1372/ 319

14 28 28

1 2 3

44 Bài 1423/ 326

14

1

ấu tử, nam nhi nữ nhi, nam tử, kinh sử, xướng tùy, đăng sơn, nhập hải náu nương thiên đình song kiều quân tử nhứt ngôn tơ duyên thiên, nguyệt, thượng vân sơn băng, thủy kiệt, nhật nguyệt lâm nguy, bất kiến đệ huynh thanh tân tửu, nhơn diện, nhơn tâm, thế gian ngũ luân sơn hà, trượng phu tài tử, minh quân, giai nhân cầu thân

Từ Hán-Việt trong ca dao Nam Bộ có thể là danh từ, tính từ, động từ. Cách

sử dụng cũng hết sức linh hoạt trong từng ngữ cảnh. Danh từ có mặt ở 91 bài / 234

bài, chiếm 39%; động từ có mặt 80 bài/ 234 bài, chiếm 34%; tính từ có mặt ở 63

bài / 234 bài, chiếm 27%.

Xét về trường từ vựng - ngữ nghĩa, từ Hán-Việt trong ca dao Nam Bộ khá

phong phú. Nói về mẫu người lí tưởng thời phong kiến có: anh hùng, thuyền

quyên, quân tử, anh hào, trượng phu, thục nữ, liệt nữ, thiên kim, nam nhi, nữ nhi,

quý nhân, kim ngọc, kim lang, công hầu, nam thanh, nữ tú, minh quân, tài tử, giai

nhân… Nói về mối quan hệ gia đình, nghĩa tình hay quan niệm về tình yêu mang

màu sắc Nho giáo có: phu thê, phụ mẫu, nhơn ngãi, căn duyên, keo sơn, đoạn

trường, nhân hậu, gá nghĩa, tái sanh, tri âm, tri kỉ, nhơn đạo, gia can, can thường,

song thân, hồng nhan, đôn hậu, ái ân, nhân tình, mẫu thân, huynh đệ, keo

37

sơn…Nói về thế giới tự nhiên có: sơn băng, thủy kiệt, nhật nguyệt, tứ hải, hoạn

dương, dã tràng, tùng lâm, non đoài, sơn hà, cù lao, giang san... Nói về luân lí,

đạo đức con người: tào khang, tam tòng, tứ đức, ông tơ, bà nguyệt, ô thước,

chương đài, loan phụng, ngôn dung, song kiều, thiên lí mã, vạn lí cân, tam cương,

ngũ thường, hiếu trung…Các từ nói về nơi chốn, chỗ ở, đồ dùng, tính cách của

người đẹp: quần thoa, nguyệt hoa, loan phòng, phấn thổ, quần hồng, giọt châu,

nhu mì, màn loan, màn rồng, gối phụng, thủ tiết...

- Đời phải đời thịnh trị Cuộc phải cuộc văn minh Kìa là gió mát trăng thanh

- Anh gặp em đây đứng lại giữa đàng

Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui. Muốn phân nhơn ngãi, em ngỡ ngàng khó phân - Thương em chưa cạn chung trà Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa.

Phần lớn từ Hán-Việt trong ca dao Nam Bộ giữ nguyên hình thức ngữ âm như khi chúng được dùng trong thơ ca dân gian ở vùng miền khác hoặc trong văn chương bác học. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có một số từ Hán Việt có hiện tượng biến âm theo hướng phương ngữ hóa, chẳng hạn nhơn đạo, nhơn ngãi, phú quới, loan phụng... Trong ca dao Nam Bộ, không ít từ Hán-Việt được sử dụng để chỉ đồ

đạc, nơi ở, tính cách của giai nhân. Phải chăng với dân gian, những gì thuộc

về giai nhân đều đẹp, đều sang trọng, cao quí.

Thuyền em đậu bến Châu Giang

Bấy lâu đóng cửa phòng loan đợi chờ.

Xưa nay, tình yêu đôi lứa luôn là một đề tài muôn thuở, cho nên việc

mượn từ Hán-Việt nhất là động từ nhằm thể hiện tâm tư, tình cảm, ý nguyện

của người dân luôn được các tác giả dân gian hướng đến, đó là ước mong xây

đắp được một tình yêu đẹp, nên thơ; là thể hiện sự giao duyên, kết nghĩa

chung tình, là thể hiện tình yêu thủy chung trọn vẹn.

38

Gặp lúc trăng thanh, gió mát

Thú nào vui bằng thú hát huê tình

Trời xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên.

Hội ngộ là gặp nhau nhưng nếu dùng hai chữ gặp nhau của từ thuần Việt

lại rất đỗi bình thường, đó có thể là sự gặp gỡ của bạn bè, của anh chị em, của bà

con xóm giềng. Còn hội ngộ lại mang nhiều tầng nghĩa, phải có duyên mới được

gặp nhau. Bài ca dao chính là một lời tỏ tình ngụ ý, bóng gió xa xôi về chuyện tình

duyên đôi lứa. Hội ngộ chứa đựng nguồn cảm xúc sâu nặng của người nói, dồn

nén nhiều tâm tư tình cảm và sự vui mừng khi gặp được người có thể nên duyên.

Vì thế, trong bài ca dao trên, không có từ thuần Việt cùng nghĩa nào có thể thay

thế được hai chữ hội ngộ. Trường hợp bài ca dao sau đây, từ Hán-Việt cũng được

dùng đắc địa:

Chị Hạnh Ngươn thủ tiết

Ai có biết chăng là

Sống nhơ không chịu, chẳng thà chết thơm.

Hạnh Ngươn tức Hạnh Nguyên - nhân vật trong truyện Nhị Độ Mai. Hạnh

Nguyên là con gái Trần Đông Sơ, đã hứa hôn với Mai Bích - tên tự là Lương Ngọc,

con trai của Mai Bá Cao. Vì cha Hạnh Nguyên có hiềm khích với quan thái sư là

Lư Kỷ nên Lư Kỷ trả thù, tâu vua bắt Hạnh Nguyên đi cống Hồ. Đi nửa đường,

Hạnh Nguyên đã gieo mình xuống sông để thủ tiết, may nhờ có thần cứu trợ, về sau

được sum họp cùng Lương Ngọc. Khó có từ thuần Việt mang nghĩa tương đương

nào thay thế cho từ thủ tiết mà vẫn giữ được ý nghĩa và sắc thái biểu cảm như khi

dùng hai từ này được. Thủ tiết là giữ và bảo vệ tình cảm thủy chung, son sắt đối với

người mình yêu thương. Thủ tiết khơi gợi một tư thế gìn giữ, bảo vệ chắc chắn

phẩm tiết với một quyết tâm cao độ, chính lẽ đó, nó có một âm hưởng vang vọng,

tạo sắc thái trang trọng, tao nhã; đặc biệt, tạo được cảm giác quí trọng ở người nghe.

Trong ca dao Nam Bộ, từ Hán-Việt cũng thường được dùng để thể hiện

tính cách của con người. Đặc biệt, trong sự đối lập với từ thuần Việt, giá trị

biểu đạt của chúng càng thể hiện rõ:

39

Nên thì lập kiểng trồng hoa

Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê.

Chẳng nên thiếp trở lộn về

Dưỡng nuôi từ mẫu trọn bề hiếu trung.

Hai chữ hiếu trung là chỉ sự kính yêu, biết ơn của con cái đối với hai

đấng sinh thành, hiếu trung đồng nghĩa với hiếu thảo nhưng hiếu thảo là tấm

lòng hướng về cha mẹ, có thể không ngày đêm cận kề chăm sóc, còn hiếu

trung là tận tâm, suốt đời ở bên cạnh chăm sóc, lo lắng, báo đáp cho mẹ cha.

Tình nghĩa phụ tử là ghi lòng tạc dạ; tình nghĩa phu thê là thủy chung,

son sắt. Tục ngữ có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Ở đây, quan

trọng là phải có sự yêu thương, tin tưởng từ hai phía. Vợ chồng phải đồng

lòng, cùng nhau xây dựng và vun đắp hạnh phúc. Khi phu xướng thì phụ phải

tùy, cuộc sống vợ chồng viên mãn, hạnh phúc.

Thông kinh sử ấy phần nam tử

Giữ nét na là phận nữ nhi

Xử sao vẹn chữ xướng tùy

Tiếng ừ thì dễ em lo nghì về sau.

Từ Hán-Việt có thể được dùng tương đương nghĩa với từ thuần Việt, hay

cũng có những từ Hán-Việt được dùng mà không có từ thuần Việt mang nét nghĩa

tương đương. Ngoài ra còn có sự kết hợp giữa hai thành tố Hán-Việt. Chính sự đa

dạng trong việc sử dụng các từ có cấu tạo khác nhau đã mang lại cho lớp từ Hán-

Việt một giá trị biểu đạt nổi bật và ấn tượng trong các sáng tác của ca dao Nam Bộ.

2.2.1.3. Từ nghề nghiệp

Theo Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ

tiếng Việt, "từ nghề nghiệp là những từ biểu thị công cụ lao động, sản phẩm

lao động, quá trình sản xuất của một nghề nào đó thường chỉ được người

trong ngành đó biết và sử dụng" [37, tr.28].

Chúng tôi đã tiến hành thống kê và nhận thấy có 47 từ nghề nghiệp với

60 lần xuất hiện (2,13%). Khảo sát cụ thể từ nghề nghiệp ở một số bài ca,

chúng tôi có bảng thống kê sau đây:

40

Bảng 2.3. Thống kê từ nghề nghiệp trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

TỪ NGHỀ NGHIỆP

BÀI CA DAO/ TRANG 1 Bài 54 / 135 2 Bài 774/240 3 Bài 162 / 155 4 Bài 169/ 156 5 Bài 177 / 158 6 Bài 453 / 195 7 Bài 847 / 250 8 Bài 1922/ 390 9 Bài 1923 / 390 10 Bài 1926 / 390 11 Bài 1504 / 336

TỔNG SỐ TỪ 14 14 55 28 30 28 17 15 15 18 29

SỐ LƯỢT TỪ NGHỀ NGHIỆP 1 2 2 2 1 1 1 3 3 1 4

1 1 1 2 1 1 1 3 2 1 1 1 1 4 1 1 1 4 1 1 1 1 1 2

đưa đò bứt choại, bện đăng bán muối cuốc đất, trồng cau buôn làm mướn trồng đắp đập, be bờ, lờ gánh gạch xây thành, trồng cây xe sợi đắp lũy bồi thành, trồng cây, hái trái thổi kèn thợ bào thợ cưa hò, hát quăng câu bán chèo ghe chèo ghe, bắt cua, bắt rùa bắt nhái, cắm câu bắt kéc đi đăng đi cày bán khoai thông ngôn, thợ bạc, kí lục ghe chài hát bội lưới cắt, may, đột, viền vá rẫy lờ nhuộm hái kép, đào

17 16 17 25 16 14 14 14 14 14 28 28 28 30 17 17 23 14 14 15 15 16 14 24

12 Bài 1332 /314 13 Bài 1334 / 314 14 Bài 1333/ 314 15 Bài 1338 / 314 16 Bài 1359 / 317 17 Bài 2597 / 478 18 Bài 2600 / 478 19 Bài 2602 / 478 20 Bài 2607 / 479 21 Bài 2608/ 479 22 Bài 2610 / 479 23 Bài 2611 /480 24 Bài 2612/ 480 25 Bài 2743/ 496 26 Bài 2688 / 489 27 Bài 112 / 145 28 Bài 274 / 172 29 Bài 297/ 175 30 Bài 298 / 175 31 Bài 354/ 183 32 Bài 356/ 183 33 Bài 411/ 190 34 Bài 507 203 35 Bài 510/ 204

41

chài, lưới chẻ tre, bện sáo chẻ tre, lựa lóng, đan sàng om, lò gánh cấy mướn bán vàm buôn bán, làm mướn chèo đò xay gạo bắt ốc, hái rau nóp tát nước may cần câu

21 14 14 28 28 14 14 32 14 14 14 16 14 28 86

3 2 3 3 4 2 2 2 1 1 2 1 1 1 9

36 Bài 573/ 212 37 Bài 588/ 214 38 Bài 590 / 214 39 Bài 233/ 166 40 Bài 223/ 164 41 Bài 197 / 161 42 Bài 668/ 225 43 Bài 680/ 227 44 Bài 770/ 240 45 Bài 773/ 240 46 Bài 959/ 265 47 Bài 1210/ 299 48 Bài 1394 / 322 49 Bài 1498/ 335 50 Bài 228/ 165 Từ nghề nghiệp trong ca dao Nam Bộ là lớp từ được tác giả dân gian sử

dụng nhằm phản ánh, diễn tả cuộc sống lao động, cung cách sinh hoạt về vật

chất và tinh thần của người dân vùng này.

Tùy theo phạm vi, mức độ phản ánh gắn với đặc điểm riêng của lớp từ

cụ thể về nghĩa mà chúng tôi đã phân loại và tìm hiểu luôn cả những cách sử

dụng từ nghề nghiệp trong ca dao Nam Bộ.

a) Lớp từ nghề nghiệp gắn với các phương tiện giao thông trên sông nước

Nói đến Nam Bộ, người ta nghĩ ngay tới một vùng sông nước bao la,

cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu gắn liền với sông nước nên ghe, đò,

xuồng... đã trở thành phương tiện di chuyển, là "chân đi" của người dân vùng

Nam Bộ. Vì vậy, dù nghèo khó, người dân Nam Bộ vẫn cố dành dụm sắm cho

mình chiếc ghe, chiếc xuồng làm phương tiện đi lại. Từ những chiếc ghe,

xuồng bơi, chèo, chống, luồn lách trong kênh, rạch nhỏ đến những chiếc ghe,

tàu vài chục tấn, vài trăm tấn bằng động cơ máy nổ được sử dụng đan xen với

nhau tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng sông nước phương Nam này.

Thậm chí, ghe, xuồng, thuyền... còn là mái ấm của nhiều gia đình. Việc

ăn, ngủ, nghỉ trên đó đã trở thành nếp sinh hoạt của dân Nam Bộ và họ đã

dùng những phương tiện đó phục vụ cho nhu cầu mưu sinh của mình.

42

Chẳng hạn, có những nghề liên quan tới “chân đi” như nghề đưa đò,

chèo ghe, ghe chài…

Chừng nào chợ Quán hết vôi Thủ Thiêm hết gạo, em thôi đưa đò.

Nghề đưa đò là nghề chèo đò chở khách qua sông. Nam Bộ vốn là một

vùng sông nước bao la, cuộc sống của người dân nơi đây gắn liền với sông

nước. Thuở xa xưa, vùng đất này không có cầu như bây giờ, họa chăng chỉ có

mấy cây cầu khỉ bắc qua rạch, mương còn những con sông lớn phải dùng ghe,

đò mới có thể sang bờ bên kia được.

Đừng ham hốt bạc ghe chài

Cột buồm cao bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi.

Ghe xuồng không chỉ phục vụ việc đi lại và chuyên chở của con người mà

còn là phương tiện đánh bắt thủy hải sản. Cư dân Nam Bộ có tập quán sống ven

sông rạch, có nguồn cá tôm rất dồi dào nên người ta dùng chiếc ghe, chiếc xuồng

của mình để đánh bắt cá, tôm: câu tôm, câu cá, giăng lưới, cất vó, đặt lọp, xây nò,

đóng đáy cọc, chài lưới, thả câu... Chiếc xuồng, chiếc ghe, con đò còn phục vụ

cho việc buôn bán rồi kết thành điểm chợ buôn bán, trao đổi hàng hóa trên sông,

hình thành nên các khu chợ nổi hội tụ đủ các loại người tứ xứ đến buôn bán, làm

ăn. Từ những người dân bình thường đến những kẻ tứ cố vô thân, rời bỏ quê

hương tha phương kiếm sống, với một chiếc ghe chất đầy hàng hóa, nay họ ở chỗ

này, mai chỗ khác, len lỏi vào tận những con kênh, con rạch, những đường nước

hẹp đem hàng hóa phục vụ đến tận nhà...

Sông nước là một đặc trưng nổi bật của vùng đất Nam Bộ mà gắn liền

với nó là các sự vật, hiện tượng có liên quan và tất cả đã trở nên quen thuộc

với người dân nơi đây. Đây là lớp từ có sự đa dạng về tên gọi, phong phú và

đậm nét, góp phần biểu hiện nét đặc trưng văn hóa rất riêng của Nam Bộ .

b) Lớp từ nói về nghề đánh bắt thủy sản

Miền tây Nam Bộ có diện tích mặt nước trên đồng ruộng, diện tích mặt

nước trên sông, rạch, ao, hồ, đìa, đầm, vuông, xẻo… là nơi cung cấp nguồn

43

lợi thủy sản như: cá, tôm, cua,… vùng nước ngọt, nước lợ. Đây là nguồn thực

phẩm tự nhiên, sạch, an toàn và ngon.

Do đó, khi đi tìm hiểu ca dao Nam Bộ, chúng ta bắt gặp nhiều nghề nghiệp

gắn liền với sông nước: giăng câu, cắm câu, bắt cua, bắt rùa, bắt nhái... hay những

dụng cụ lao động quen thuộc phục vụ việc đánh bắt như: thõng, lờ, lưới...

Chèo ghe xuống biển bắt cua

Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi.

Cua, rùa là những loại động vật của miền sông nước nên chúng cũng trở

thành thức ăn chính của người dân nơi đây. Việc đánh bắt những loài rùa, rắn, cá,

tôm đã trở thành nghề để mưu sinh khi cuộc sống còn quá nhiều lo toan, vất vả.

Bấy lâu đến ngọn sông chờ

Muốn tìm cá lớn phải nhờ trời mưa Tiếc công đắp đập be bờ Để ai quảy đó mang lờ đến đơm.

Lờ làm bằng ruột tre, cọng chuốt nhỏ. Lờ mảnh khảnh hơn lọp và nò nhiều

lần vì lờ chỉ để đặt các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt mà thôi. Có loại lờ bốn hom

và loại lờ hai hom. Gặp phải lươn rằn chui vào thì sức lờ chịu không nổi.

Ngoài lờ còn có dụng cụ đánh bắt khác như nơm - vật dụng làm bằng các

thanh tre vót nhẵn, đầu nhọn hướng xuống phần miệng. Trên túm lại cỡ bằng cái tô,

dưới miệng lớn bằng miệng thúng nhỏ. Những vũng nước nhỏ nghi có cá, người ta

dùng nơm để bắt. Một dụng cụ khác là trúm - một ống tre già được thông mắt, mắt

cuối cùng được chừa lại. Miệng trúm có hom, hom được đan bằng các thanh tre vót

nhỏ, bện bằng dây lạt cà bắp (cây lá dừa nước còn non, chưa thành tàu lá), mồi nhử

thường là cá, cua chết có mùi hôi, đặt trúm nơi bưng biền lắm lát, nhiều sậy. Lươn

thích ăn thịt cá chết, tìm đến chui vào trúm và kẹt luôn trong đó.

Người ta cũng có thể đánh cá bằng hình thức câu. Cần câu cá thường

làm bằng trúc, tre. Cần câu có nhiều loại, tùy theo từng loại cá, mồi và cách

cắm cũng khác nhau, chẳng hạn:

44

Mặt nhìn trăng, trăng lại còn khuya

Muốn quăng câu sợ cá mê đìa không ăn.

Một số dụng cụ đánh bắt cá khác được người dân Nam Bộ quen dùng như

chài, vó, dớ, đuôi chuột, lưới, sệp... Cách cấu tạo mỗi loại có khác nhau, nhưng chủ

yếu là để bắt cá dưới sông. Chài được người vãi ra chụp lấy cá, tôm. Lưới thì giăng

những nơi cá, rắn thường qua lại, vó có loại đặt cố định, có loại cất lên, đặt xuống;

đuôi chuột bện bằng lưới, ven đăng rồi đặt suốt ngày đêm; sệp là lưới mắc vào hai

thanh tre gác tréo rồi dùng sức người đẩy.

Người Nam Bộ còn dùng lọp bắt cá. Lọp làm bằng tre, có hai hom: hom

trước và hom sau. Cá, rùa, cua, tôm chui vào không tìm được đường ra, vì bị hom

sau chặn đường, cứ thế, chủ đến “đổ lọp” mang về.

Thủy sản vùng Nam Bộ rất phong phú. Nghề đánh bắt cũng đa dạng. Điều

này phản ánh rõ qua lớp từ chỉ nghề nghiệp trong ca dao vùng đất này.

c) Lớp từ chỉ nghề nông nghiệp

Nam Bộ là nơi có những miệt vườn tốt tươi và đa dạng với nghề trồng

lúa, trồng cây ăn trái. Trong những bài, câu ca dao Nam Bộ, vùng đất miệt

vườn hiện lên rất đặc trưng với những sản phẩm thiên nhiên mang đậm sắc

thái địa phương.

Đất Kỷ cang anh trồng hàng vạn thọ

Anh đi cưới vợ vườn về đọ với em.

Vạn thọ là loài hoa tượng trưng cho sự vĩnh hằng, việc chàng trai trồng

một hàng vạn thọ ngụ ý muốn thể hiện tấm lòng sắt son dành cho cô gái.

Chàng trai mong muốn cưới được người vợ cùng nghề nghiệp canh điền như

mình, có như thế tình cảm mới vững bền.

Ngoài ra, lớp từ chỉ thiên nhiên, hoa trái miệt vườn cũng đem lại nhiều

màu sắc: chôm chôm, nhãn, quýt, cam, dừa, kiểng, măng cụt, mãng cầu, sầu

riêng, nhãn lồng, mù u, bình bát, bòn bon...

45

Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn

- Cam sành rã rượt bờ ao Tưởng không anh hái, có rào thì thôi . - Bến Tre nước ngọt lắm dừa Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm, Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.

Thế nhưng, nghề chính của người dân nơi đây vẫn là nghề lúa, quanh

năm suốt tháng cày cấy. Việc đồng áng đã ăn sâu vào nếp suy nghĩ, nếp ăn ở

và cả nếp sinh hoạt của Nam Bộ.

Chiều chiều ông Ngữ đi cày

Chiều chiều ông Ngữ đi đồng Bắt được cá lóc nhăn răng cười hoài Trâu kéo gãy ách khoanh tay ngồi bờ.

Sự phong phú của lớp từ nghề nhiệp đã tạo nên dấu ấn rất riêng về vùng đất

được thiên nhiên ưu đãi. Những từ biểu thị các nghề được khảo sát và phân tích

trên đây phần nào minh chứng cho cung cách sinh hoạt của những con người vùng

sông nước Cửu Long dạt dào tình nghĩa, chất phác, thật thà.

2.2.1.4. Từ địa phương

Từ địa phương là những từ chỉ được dùng trong các phương ngữ, các thổ ngữ

[39, tr.30]; là lớp từ chỉ thông dụng trong một địa phương mà không phổ biến ở các

địa phương khác.

Sự xuất hiện của từ địa phương trong ca dao Nam Bộ là điều tất yếu. Trong

cuốn Ca dao Nam Bộ (Bảo Định Giang chủ trì biên soạn), có 705 từ địa phương với

5009 lần xuất hiện, chiếm 25,04%, trong đó, danh từ có 309 đơn vị, chiếm 10,9%/

2816 bài ca dao; động từ có 178 đơn vị, chiếm 6,3%/ 2816 bài ca dao; tính từ có 160

đơn vị, chiếm 5,7%/ 2816 bài ca dao; đại từ có 16 đơn vị, chiếm 0,58%/ 2816 bài ca

dao; phụ từ có 25 đơn vị, chiếm 0,9%/ 2816 bài ca dao.

Kết quả cụ thể được phản ánh trong bảng thống kê sau:

46

Bảng 2.4. Thống kê từ địa phương trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNG SỐ TỪ

TỪ ĐỊAPHƯƠNG ĐƯỢC SỬ DỤNG

SỐ LƯỢT TỪ ĐỊA PHƯƠNG 2 3 5 1 1 5 1 1 1 1 1 4 1 2 1 1 3 1 1 1 1 1 1 2 2 2 1 1 1 1 2 1 1 1 1

cẳng trổ bậu, qua má đươn qua tui miệt tèm hem trển thiệt đẻ, má heo rày, đặng phang xí gạt hun chỉ giựt ưng chun rầu mần thơm tỏ, lờ sanh ẳm đờn vắn trái thằng bữa tía mình ên thủng thẳng

112 42 16 14 28 28 44 14 14 19 25 15 14 28 14 30 28 47 14 28 14 30 15 18 26 37 14 19 14 15 14 17 28 15 28

1 Bài 113/ 146 2 Bài 58/ 136 3 Bài 372 / 185 4 Bài 286 / 174 5 Bài 342 / 181 6 Bài 165 / 157 7 Bài 557 / 210 8 Bài 05 / 126 9 Bài 2681/ 488 10 Bài 1809/ 375 11 Bài 882/ 255 12 Bài 2068/ 408 13 Bài 769/ 240 14 Bài 1063/ 280 15 Bài 802/ 244 16 Bài 1838/ 379 17 Bài 955/ 265 18 Bài 1054/ 278 19 Bài 172/ 157 20 Bài 1071/ 281 21 Bài 2087/ 410 22 Bài 1047/ 329 23 Bài 1364/ 318 24 Bài 813/ 245 25 Bài 877/ 254 26 Bài 952/ 264 27 Bài 860/ 252 28 Bài 854/251 29 Bài 1081/282 30 Bài 1164/ 292 31 Bài 2603/ 478 32 Bài 789/ 242 33 Bài 2612/ 480 34 Bài 2647/ 484 35 Bài 1378/ 320

47

1 1 1 1 1 5 1 2 2 1 1 1

14 14 14 14 14 28 30 19 14 14 18 17

chửa bớ khứa bển giò cậu, mợ, đờn, hờn nức đờn, quờn nường lượm coi lột

36 Bài 1136/ 289 37 Bài 1470/ 332 38 Bài 1434/ 327 39 Bài 1453/ 330 40 Bài 2683/ 489 41 Bài 2809/ 504 42 Bài 1824/ 377 43 Bài 1847/ 380 44 Bài 1938/ 391 45 Bài 11/ 127 46 Bài 1344/ 315 47 Bài 933/ 262

Từ địa phương Nam Bộ trong ca dao thể hiện những khía cạnh khác

nhau của tự nhiên, đời sống xã hội cũng như những cung bậc khác nhau trong

tâm tư, tình cảm của con người Nam Bộ.

Danh từ trong từ địa phương Nam Bộ chiếm số lượng khá lớn. Thông

qua lớp từ địa phương, ta thấy con người Nam Bộ ăn mặc rất giản dị và thể

hiện rõ nét đặc trưng của vùng sông nước: áo bà ba, áo vá vai, áo vá quàng,

khăn rằn... không lẫn với vùng miền khác trong nước Việt Nam. Chẳng hạn:

- Khăn rằn nhúng nước ướt mem

Tại anh chậm bước nên em có chồng.

- Áo vá vai vợ ai không biết Áo vá quàng chí quyết vợ anh.

Khăn rằn là loại khăn thưa, có sọc ô vuông, có ô đen trắng hoặc xanh dương

trắng, thường được dân Nam Bộ đi đường mang theo quấn ở cổ; áo vá quàng là áo

có vá ở vai qua lưng, chỉ sự nghèo khổ, áo bà ba là loại áo không có bâu, thân ngắn,

tay dài có xẻ hở ở hai bên hông, được mặc thường ngày, khá phổ biến của phụ nữ

Nam Bộ.

Khi nhắc đến Nam Bộ, người ta nghĩ ngay tới một vùng sông nước bao la,

cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu gắn liền với sông nước nên các danh từ địa

48

phương chỉ các phương tiện di chuyển, là "chân đi" thậm chí là mái ấm (nơi ăn uống,

ngủ nghỉ) của người dân vùng Nam Bộ: ghe, đò, xuồng... cũng xuất hiện khá nhiều.

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.

Phổ biến nhất trong các phương tiện đi lại là ghe. Ghe gắn liền với

vùng sông nước bao la, ghe được ghép từ nhiều miếng ván (có thể từ 13 - 21

miếng), thường có mui che. Đây là một phương tiện phổ biến nhất, gắn liền

trong sinh hoạt đời sống của người Nam Bộ: ghe làm nhà ở, ghe bán hàng,

ghe đưa đò, ghe đi chở thuê, có nhiều tên gọi để phân biệt ghe dựa vào đặc

điểm hình dáng khác nhau của chúng như: ghe bầu, ghe lê.

Còn bưng, nếu không phải dân Nam Bộ, khó ai hiểu được bưng là gì.

Bưng là vùng đất hoang vu, ít có người đặt chân đến.

Những từ địa phương trên xuất hiện là bắt nguồn từ thực tế ứng xử của

người Nam Bộ với môi trường sông nước, đó là chứng tích của một nền văn

minh sông nước trong ca dao.

Trong ca dao, động từ là lớp từ mang đậm sắc thái địa phương, chẳng hạn:

Ví dầu nhà dột cột xiêu

Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng ăn

Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ

Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho nhau.

Động từ nói trong bài ca dao trên có nghĩa là dạm hỏi, đi hỏi vợ, nghĩa là

gia đình người con trai đến nhà người con gái để xin hỏi cưới người con gái cho

con trai của mình. Nếu trong phương ngữ miền Trung, từ rầy để chỉ sự xấu hổ,

mắc cỡ thì trong phương ngữ Nam Bộ, từ rầy có nghĩa là la, mắng, trách:

Trăng lên con nước rong đầy

Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em.

Từ xài là từ được dùng rất phổ biến trong giao tiếp của người Nam Bộ

bởi tính chất đặc sắc và linh hoạt của nó.

49

Anh đừng ham chữ phú mà phụ chữ bần

Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây.

Từ xài có rất nhiều nghĩa: xài1 tiêu sử dụng tiền vào việc mua sắm, ăn chơi; xài2 dùng, sử dụng mang lại một tiện ích nào đó cho con người; xài3

hay thay đổi trong quan hệ, hoặc sử dụng người, cách nói có hàm ý phê phán.

Như vậy, từ xài trong bài ca dao trên đồng nghĩa với tiêu, dùng trong

tiếng Việt toàn dân; tuy nhiên, tiêu, dùng không phải là hai từ đồng nghĩa cho

nên từ xài có nghĩa rất rộng khiến cho chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau

và hiểu như thế nào là phụ thuộc vào ngữ cảnh nhất định.

Trong các sáng tác của ca dao Nam Bộ, tính từ cũng có một vai trò rất

lớn trong việc thể hiện sắc thái địa phương Nam Bộ. Đây là lớp từ biểu thị

tính chất, đặc tính khác nhau của sự vật, hiện tượng.

Nhóm tính từ biểu thị mức độ nhẹ: líu ríu, lờ đờ, rưng rưng, le the, lắt

lẻo. Những từ này tồn tại chủ yếu dưới dạng từ láy làm cho sắc thái có giảm

nhẹ nên khi đọc ta có cảm giác êm ái, dễ nghe.

Gió hiu hiu chín chiều ruột thắt

Nhìn sao bên bắc, nước mắt chảy bên đông

Ai xui chi những vợ vợ chồng chồng

Không biết đây với đó dây tơ hồng có xe ?

Khi dùng nhóm tính từ này mục đích mà tác giả dân gian muốn hướng

đến là làm giảm tính chất của sự việc, tạo cảm giác dễ chịu, êm ái lẫn dễ nghe.

Nhóm tính từ biểu thị mức độ cao: chua lét, héo don, héo xàu, tèm hem,

tối hụ, non èo, rũ liệt... Những từ này chủ yếu là từ ghép, chúng hàm chứa ý

nghĩa tuyệt đối về đặc trưng tính chất. Trong ca dao Nam Bộ, nhóm từ này

làm nổi rõ đặc điểm của sự vật ở mức độ cao nhất, nó được nhấn mạnh nhằm

gây hiệu quả, tác động đến người nghe.

Chim chuyền nhành ớt líu lo

Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn.

50

Cái phép dụng vần trong ca dao không phải chỉ cốt đọc sao cho trơn tru mà

cao hơn, nó thể hiện chiều sâu của ý, góp phần tạo hình tượng cho thơ: từ ốm o

biểu thị tình trạng của con người, chỉ mức độ gầy gò chỉ còn da bọc xương.

Gió lao rao tàu cau ngã liệt

Anh xa em rồi rũ riệt chân tay.

Rũ riệt chỉ sự mệt mỏi đến tột cùng có thể không gượng dậy nổi. Có thể thấy,

lớp tính từ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất là lớp từ mang tính khẩu ngữ,

bình dị và thân quen của người dân Nam Bộ: vừa gây ấn tượng, vừa gợi hình cụ thể.

Đặc biệt nhất là sự xuất hiện của từ láy trong lớp tính từ hết sức riêng biệt nhưng

đầy lí thú về lời ăn, tiếng nói của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Bên cạnh danh từ, động từ, tính từ, trong ca dao Nam Bộ, cách dùng đại

từ cũng rất đáng chú ý. Theo khảo sát của chúng tôi, những đại từ có tần số

xuất hiện cao nhất trong cuốn Ca dao Nam Bộ: bậu (198 lần, chiếm 7,03%),

qua (85 lần, chiếm 3,01% ), tui (14 lần, chiếm 0,49%).

Những số liệu trên đây đã cho thấy sự phong phú của lớp đại từ này trong ca

dao của Nam Bộ. Trong quan hệ giao tiếp hiện nay, người Nam Bộ ít khi dùng bậu,

qua, nhưng trong ca dao xưa, những đại từ này vẫn được sử dụng rất phổ biến.

- Phong Bình đẹp lắm ai ơi

Bậu về bên đó cho tôi về cùng.

- Ai che con mắt bậu đi

Bậu coi đồng bạc, đồng chì như nhau.

Hai đại từ bậu, qua được dùng trong quan hệ xưng hô nam - nữ, vợ -

chồng hoặc người yêu. Trong phương ngữ Nam Bộ, bậu nghĩa là bạn, qua nghĩa

là tôi, ta và hai từ này ta chưa bao giờ bắt gặp ở phương ngữ Bắc Bộ. Sự khác biệt

trong lối xưng hô này đã tạo nên một sắc thái rất riêng của vùng đất Nam Bộ.

Mặc dù nhóm đại từ trong sáng tác ca dao của Nam Bộ có số lượng

không nhiều, nhưng cũng đã góp phần thể hiện sắc thái địa phương rất rõ, ví

dụ: bển (bên ấy), ổng (ông ấy), trển (trên ấy), chỉ (chị ấy), ngoải (ngoài ấy).

51

- Em thương anh hết sức thương, nhớ hết sức nhớ

Gặp anh vô cớ em chẳng dám nhìn

Sợ chị lớn ở nhà chỉ sanh tâm biến tánh, hốt hỏa lôi đình

Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

- Tay nắm tay cho chắc, mặt giáp mặt cho tường

Để chiều nay về trển đôi đường cách xa.

Những từ trên là hiện tượng rút gọn trong cách nói của người Nam Bộ,

đây là một hiện tượng rất độc đáo mà ta không thể tìm thấy trong các sáng tác

ca dao của Bắc và Trung Bộ.

Ngoài ra, trong ca dao Nam Bộ, lớp phụ từ tuy số lượng không nhiều

nhưng cách sử dụng cũng có những nét đặc sắc. Có những phụ từ mang sắc

thái địa phương rõ rệt: mình ên, dữ... Nếu là người địa phương khác, khi đọc

những câu ca dao như vậy, khó có thể hiểu ngay được ý nghĩa của nó.

Từ đặng là một ví dụ điển hình, so với ngôn ngữ toàn dân, từ đặng có nghĩa

tương ứng là được nhưng theo cách giải thích của Từ điển từ ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín [68, tr.48], từ đặng có bốn nghĩa: đặng1 có khả năng hiểu hoặc chấp nhận một điều gì đó; đặng2 sở hữu, có được một cái gì đó thường là tốt đối với mình; đặng3 đạt tiêu chuẩn, đạt yêu cầu, làm cho có thể hài lòng hoặc đủ điều kiện để thực hiện; đặng4 thắng trong một hoạt động nào đó có tranh hơn thua.

- Ở đây chợ Quán thâm sầu

Cơm ăn chẳng đặng, ăn trầu giải khuây.

- Bao giờ cho đặng sum vầy

Giao hoan đôi mặt dạ này mới vui.

Tuy nhiên, trong ca dao Nam Bộ, từ đặng tùy từng trượng hợp giao tiếp

cụ thể mà có những sắc thái nghĩa khác nhau:

52

- Em vái ông tơ vài ve rượu thiệt

Cầu bà nguyệt năm bảy con gà

Xui cho đôi lứa hiệp hòa

Sao em trả lễ đặng mà đáp ơn.

- Ngó lên am tự chùa vàng

Tu thời đặng đó bỏ nàng ai nuôi ?

Trong hai bài ca dao trên, đặng ở đây có nghĩa là để, để mà. Với nghĩa này,

đặng đã làm cho bài ca dao vừa có ý nhẹ nhàng vừa đạt được mục đích diễn đạt.

Trong vốn từ của một dân tộc, từ ngữ địa phương có sắc thái phong

cách hết sức rõ rệt. Không phải ngẫu nhiên, trong các sáng tác dân gian, từ địa

phương thường xuất hiện với tần số cao. Nhờ lớp từ này mà chúng ta có thể

hiểu rõ hơn sắc thái văn hóa trong cách sử dụng từ ngữ của người dân một

vùng miền cụ thể. Có thể thấy rõ điều này trong ca dao Nam Bộ. Việc sử

dụng phong phú, đa dạng từ địa phương là một nét đặc biệt của ngôn ngữ văn

hóa Nam Bộ, nhờ đó, đời sống tinh thần của con người vùng đồng bằng sông

Cửu Long mới được biểu hiện đầy đủ đến thế.

2.2.1.5. Từ láy

Từ láy là những từ "được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc

theo những qui tắc nhất định sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ

vừa điệp vừa đối hài hòa với nhau về âm, và có giá trị biểu trưng hóa"

[39, tr.33].

Trong thơ ca nói chung, thơ ca dân gian nói riêng, từ láy thường

được sử dụng rất nhiều. Ca dao Nam Bộ cũng không phải là ngoại lệ.

Khảo sát 2816 câu trong cuốn Ca dao Nam Bộ (Bảo Định Giang),

chúng tôi thấy có 166 từ được sử dụng, với 281 lượt xuất hiện, chiếm tỉ

lệ 10%. Số liệu cụ thể ở một số bài như sau:

53

Bảng 2.5. Thống kê từ láy trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

TỪ LÁY

BÀI CA DAO/ TRANG

SỐ LƯỢT TỪ LÁY

TỔNG SỐ TỪ ĐƯỢC SỬ DỤNG 14 28 14 28 29 14 14 27 28 28 28 14 14 59 14 14 19 31 14 22 14 17 16 15 20 39 22 16 28 14 14 34 14 17 14

1 Bài 1 / 126 2 Bài 9 / 127 3 Bài 18/ 129 4 Bài 20/ 129 5 Bài 21 / 130 6 Bài 46/ 134 7 Bài 69/ 138 8 Bài 65/ 138 9 Bài 75 / 139 10 Bài 103/ 143 11 Bài 109/ 145 12 Bài 110/145 13 Bài 117/ 146 14 Bài 742/ 236 15 Bài 139/ 151 16 Bài 191/ 160 17 Bài 269 / 171 18 Bài 307/ 176 19 Bài 323/ 178 20 Bài 341/ 181 21 Bài 345/ 182 22 Bài 352 /182 23 Bài 359/ 183 24 Bài 415/ 191 25 Bài 422 / 192 26 Bài 435 / 193 27 Bài 436 / 193 28 Bài 439 / 194 29 Bài 444/ 194 30 Bài 449/ 195 31 Bài 478/ 199 32 Bài 516/ 205 33 Bài 537/ 207 34 Bài 526/ 206 35 Bài 587/ 214

1 1 1 1 1 1 1 3 2 2 1 1 2 2 1 1 1 1 1 1 1 2 1 2 1 2 1 2 1 1 1 1 1 1 1

lai láng lạnh lùng lờ đờ thong dong so đo chiều chiều lấp lánh ròng ròng, hủng hỉnh, lia thia linh đinh, dật dờ lù mù, lưa thưa thon thon róc rách mênh mông, óng ánh xinh xinh, nho nhỏ lênh đênh cúm núm lòng thòng lêu lêu vòi vọi rung rinh xao xác bát ngát, bâng khuâng đỏng đảnh bòng bòng cheo leo khoan khoan, sẵn sàng vật vờ le the, lúp xúp cha chả xa xôi rộn ràng long đong thủng thẳng ngại ngùng lận đận

54

1 1 1 1 1 1 2 1 2 1 1 3

29 14 14 14 29 14 14 24 21 19 33 33

bơ vơ tang tình thỏ thẻ thăm thẳm se sẻ hân hấn rủ rỉ, rù rì phũ phàng bồn chồn, dè dặt vấn vương trắc trở tăng lăng, tíu líu, lịu địu

36 Bài 609/ 217 37 Bài 644/ 222 38 Bài 650/ 223 39 Bài 658 / 224 40 Bài 664/ 225 41 Bài 1854/ 381 42 Bài 922/ 261 43 Bài 677/ 226 44 Bài 690/ 228 45 Bài 712/ 230 46 Bài 727 / 233 47 Bài 735/ 234

Xét về số lượng âm tiết, từ láy tiếng Việt có láy đôi, láy ba, láy tư. Trong ca

dao Nam Bộ, chỉ có láy đôi, tức là từ láy hai âm tiết. Lớp từ này lại có nhiều kiểu láy

khác nhau.Theo cách phân loại của tác giả Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ

Nam Bộ [34, tr 109], lớp từ láy đôi gồm 166 từ lại được chia ra làm hai loại :

Lớp từ láy hoàn toàn: hồng hồng; dõi dõi; xanh xanh; khăng khăng; rưng

rưng; ròng ròng; thon thon; tăm tăm; lêu lêu; vòi vọi; bòng bòng; khoan khoan...

Chẳng hạn:

- Cô kia đôi má hồng hồng

Sao chưa lấy chồng còn đợi chờ ai.

- Đèn treo trong sáo xanh xanh

Sầu mình tôi chết một canh ba bốn lần.

Lớp từ láy bộ phận: lờ đờ; thong dong; dật dờ; róc rách; so; rù rì; ngặt

nghèo... Chẳng hạn :

Bánh tráng Mỹ Lồng

Bánh phồng Sơn Đốc

Măng cụt Hàm Luông

Vỏ ngoài nâu, trong trắng như bông gòn

Anh đây nói thiệt sao em còn so đo?

55

Theo tiêu chí ngữ nghĩa, từ láy có thể chia hai loại: từ láy tượng thanh

và từ láy tượng hình.

Từ láy tượng thanh là những từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên. Ví dụ:

Nhất cao núi Cấm xa xanh

Suối tuôn róc rách chảy quanh núi Dài.

Bộ phận từ láy tượng thanh trong ca dao Nam Bộ khá phong phú.

Những từ láy này mô phỏng âm thanh của tự nhiên, mô phỏng tiếng nói, tiếng

cười của con người, tiếng vang vọng của sự vật, sự việc qua đó cũng nhằm

diễn tả tâm trạng: ròng ròng, róc rách, xao xác, dầm dề, rủ rỉ, rù rì...

Đêm qua rủ rỉ rù rì

Tiếng nặng bằng bấc, tiếng chì bằng bông.

Rủ rỉ rù rì có nghĩa là thì thầm, đây là từ láy mô phỏng âm thanh tiếng

người nói, là lời chuyện trò của hai nhân vật trữ tình với nhau. Từ láy rủ rỉ rù

rì vừa mô phỏng âm thanh vừa diễn tả tâm trạng: rủ rỉ rù rì gợi âm thanh êm

ái, nhẹ nhàng nhưng phải cố lắng tai mới nghe thấy được, đó là lời tâm sự, lời

chia sẻ tình cảm với những người mà ta yêu thương nhất.

Gió thổi lao xao hàng rào nghe răng rắc

Nghe giọng em hò Nam Bắc anh ưng

Lao xao tức là nơi có nhiều âm thanh hoặc tiếng động nhỏ rộn lên xen lẫn

vào nhau, nghe không rõ, không đều. Khi đưa vào trong bài ca dao cụ thể, ta mới

thấy rõ hết cái hay, cái thi vị của hai từ lao xao: thoảng đâu đây trong gió, chàng

trai nghe được một giọng ai hò tha thiết làm tim anh xao xuyến, bâng khuâng.

Dân Nam Bộ cũng có một nét văn hóa rất đặc trưng và riêng biệt là hò đối đáp,

trao duyên, hò để bày tỏ tình cảm. Chính câu hò của cô gái nghe thoang thoảng

đâu đây có thể sẽ bắt nguồn cho một chuyện tình yêu đôi lứa nên thơ, thi vị.

Từ láy tượng hình là những từ mô phỏng hình dáng của sự vật. Đây là

loại từ láy có giá trị tạo hình rất cao. Ví dụ:

56

Đường đi lên quanh quanh quéo quéo Đường đi xuống quẹo quẹo cong cong Hai đứa mình sắp thành vợ, thành chồng Ai bày mưu sắp kế cho dây tơ hồng đứt ngang?

Một loạt các từ láy mô phỏng con đường đi quanh co, khúc khuỷu:

quanh quanh, quéo quéo , quẹo quẹo , cong cong vừa có sức gợi tả vừa hàm

chứa ý ẩn dụ về một chuyện tình có nhiều trắc trở. Quanh quanh, quéo quéo,

quẹo quẹo, cong cong diễn tả con đường vòng vèo, hàm chỉ lòng người cũng

phức tạp, lắt léo không ngờ. Việc tác giả dân gian lựa chọn, sắp xếp, kết hợp

những từ láy mô phỏng con đường vật thể nhằm ngụ ý tả những diễn biến đầy

éo le, phức tạp, đầy biến ảo của tình duyên, của lòng người trong tình ái.

Bên cạnh đó, còn có bộ phận từ láy thể hiện tâm trạng, khao khát, ước

mơ: vấn vương, hớn hở, tơ tưởng, mơ màng...

Đêm năm canh, ngày sáu khắc rõ ràng

Đặt lưng xuống chiếu mơ màng nhớ anh.

Nhớ thương, xa cách, mong đợi là những trạng thái tâm lí của con người

hay đôi khi lại có những phút giây tưởng tượng ra hình bóng của người yêu. Chọn

từ láy mơ màng và đặt đúng vào trong văn cảnh, tác giả dân gian đã diễn tả rất đạt

tâm trạng của nhân vật trữ tình: mơ tưởng, mộng ảo hình bóng người thương.

Mơ màng vừa gợi tả giây phút thăng hoa của tâm tưởng với một tâm trạng

lãng đãng khó nắm bắt nhưng có thực lại vừa thổ lộ nỗi lòng da diết nhớ thương

nên nhân vật trữ tình đã biểu hiện hình bóng người thương một cách huyền ảo. Từ

láy mơ màng đặt đúng văn cảnh tạo nên chất trữ tình, lãng mạn và bay bổng.

Nhóm từ biểu thái diễn tả tâm trạng thiết tha, thương nhớ: lạnh lùng,

trắc trở, dầm dề, rưng rưng, lờ đờ, xao xuyến….

- Anh thương em lẩn đẩn lờ đờ Giả như Tôn Cát ngồi chờ Bạch Viên. - Nước mắm ngon Thượng Thủ Thả miếng đu đủ nó nổi lờ đờ Phận em còn nhỏ còn khờ

Làm dâu chưa đặng thì nhờ có anh.

57

Lờ đờ là từ láy vừa tạo hình vừa biểu hiện tâm trạng: gợi tả một hình dáng

lờ mờ, đờ đẫn, không bình thường, không tự chủ. Nó cũng mở ra một trạng thái

tâm lí ngù ngờ, ngẩn ngơ không còn tỉnh táo vì quá thương nhớ đến sầu muộn

mà không biết phải làm sao, trạng thái này càng rõ nét hơn khi kết hợp với từ lẩn

đẩn, càng có sức lay động mạnh vào tâm can đối tượng tiếp nhận.

Nhóm từ diễn tả nỗi dằn vặt, bối rối, ngậm ngùi: than thở, thảm thiết,

bịn rịn, bồi hồi...

Bấy giờ cách mặt bạn vàng

Bây giờ gặp mặt, ngỡ ngàng khó phân.

Tóm lại, từ láy trong ca dao Nam Bộ thể hiện nét đặc trưng riêng biệt trong

cách phản ánh, đáng giá con người nơi đây. Từ láy đã được các tác giả dân gian sử

dụng rất đặc sắc, đa dạng thể hiện được sắc thái riêng trong cách dùng từ ngữ của

người dân Nam Bộ về lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật đồng thời cũng phản ánh tính

cách phóng khoáng trong cách sử dụng từ ngữ của người dân nơi đây.

2.2.2. Phương tiện tu từ ngữ nghĩa trong ca dao Nam Bộ

Phương tiện tu từ ngữ nghĩa là những định danh thứ hai mang màu sắc

tu từ của sự vật, hiện tượng [39, tr.44].

Căn cứ vào loại hình ảnh được sử dụng, phương tiện tu từ ngữ nghĩa được

chia ra:

- Phương tiện tu từ dùng hình ảnh số lượng : phóng đại, thu nhỏ, nói giảm.

- Phương tiện tu từ dùng hình ảnh chất lượng: ẩn dụ, cải danh, nhân hóa,

phúng dụ, hoán dụ, nói mỉa, cải dung, uyển ngữ, nhã ngữ, nói mỉa.

Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa, các phương tiện tu từ ngữ

nghĩa có thể chia thành ba tiểu nhóm, mỗi nhóm có một phương thức tiêu

biểu: nhóm so sánh tu từ, nhóm ẩn dụ tu từ, nhóm hoán dụ tu từ [39, tr.188].

Với quan điểm phân nhóm như trên, chúng tôi tiến hành khảo sát các

phương tiện tu từ ngữ nghĩa chủ yếu: ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại.

58

2.2.2.1. Ẩn dụ

Phép ẩn dụ tu từ là lối so sánh ngầm trong đó vế so sánh giảm lược đi

chỉ còn vế được so sánh. Như vậy, phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa

của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét

nghĩa tương đồng nào đó [39, tr.193].

Ẩn dụ nhằm bộc lộ cảm xúc thẩm mỹ, thái độ đánh giá, bình phẩm của

nhân vật trữ tình. Có người đã nhận xét “Thơ ca là vương quốc của ẩn dụ”.

Có thể khẳng định, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến nhất

trong ca dao Nam Bộ. Theo sự khảo sát của chúng tôi, tần số xuất hiện của

phép ẩn dụ trong ca dao Nam Bộ là nhiều nhất nếu so với các phép tu từ khác,

với tổng số lần xuất hiện là: 371bài / 2816 bài, chiếm 13,2%.

Bảng 2.6. Thống kê ẩn dụ trong ca một số dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNG SỐ CÂU

CÂU CA DAO DÙNG ẨN DỤ

SỐ CÂU SỬ DỤNG ẨN DỤ 1 2

4 4

Bài 148/153 Bài 169/156

1 2

1 1 2

7 5 2

Bài 173/157 Bài 179/158 Bài 207/162

3 4 5

1

2

Bài 213/163

6

1

2

Bài 237/ 167

7

1

2

Bài 241/167

8

1 1

2 2

Bài 276/172 9 10 Bài 423/192

4

4

11 Bài 475/198

Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai. Chừng nào trầu nọ bén lên, Cau kia bén trái lập nên cửa nhà. Đã đành trâm gãy gương tan. Biết em buông mối chỉ hồng, Anh đừng ham bông quế mà bỏ phế bông lài, Mai sau quế rụng bông lài thơm lâu. Vườn quê mới lập, lựu với đào còn non. Gối loan không đặng giao đầu thì thôi. Anh ơi, hai mái đầu xanh có tội tình chi mà chia ly nam, bắc, Anh về dọn dẹp phòng loan. Bông cúc ngả ngang con bướm vàng nhận nhụy, Bướm già thì bướm có râu, Thấy bông vừa nở cắm đầu bướm

59

1 2

12 Bài 648/222 13 Bài 742/236

4 10

2

2

14 Bài 937/263

1 1 2

2 4 2

15 Bài 943/263 16 Bài 978/268 17 Bài 1310/311

2

4

18 Bài 1448/329

1 1 3

2 2 4

19 Bài 1468/331 20 Bài 1495/335 21 Bài 1540/341

1

7

22 Bài 1572/345

1 2

6 2

23 Bài 1981/397 24 Bài1982/ 398

2

2

25 Bài 2010/400

2

2

26 Bài 2115/413

1 2

2 4

27 Bài 2124/414 28 Bài 2043/417

3

4

29 Bài 2148/418

châm, Bướm châm mà bướm lại lầm, Bông kia nở sớm, ong châm mất rồi. Chim khôn mắc phải lưới hồng, Thuyền quyên phải sánh anh hào, Phụng hoàng đâu sánh thấp cao với diều, Đò còn đưa nhưng bến thôi đưa, Cây đa bến cũ nó chưa lìa cành. Đó vàng đây cũng kim ngân. Củi tre chen lộn với trầm, Lọng vàng che nải chuối xanh, Tiếc chim loan phụng đậu nhành cây khô. Ngày nay lựu đặng gặp đào, Kiểng sầu gặp nước dạ nào chẳng thương. Ngó lên mây bạc trời hồng. Ngọc còn ẩn đá chờ vàng, Nhạn kêu sương, cò đương ngóng cổ, Phụng giao đầu, hạc đỗ nhành mai. Áo vải bận ngoài, áo lụa bận trong. Ngãi trăm năm vương vất sợi tơ mành. Tơ hồng đâu khéo vấn vương, Tơ lụa, gấm nhiễu không màng, Thương cô áo chọt vá quàng nửa vai. Trách lòng tham đó bỏ đăng, Thấy lê quên lựu thấy trăng quên đèn. Vàng mười chê mắc không mua, Mua lấy vàng bảy thiệt thua trăm đường. Vén mây thấy cặp rồng xanh, Vóc bồ liễu gặp cơn gió bụi, Đóa hoa đào sợ hãi nắng sương. Vũng nước trong một dòng nước đục,

60

1 2

30 Bài 2283/437 31 Bài 2295/439

4 2

2

32 Bài 2344/445

2

1

33 Bài 2418/455

4

1 1

Một trăm người tục, một chục người thanh. Ôm duyên chờ đợi cho liễu khô mai tàn Đũa vàng dọng xuống mâm sơn, Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu đời đắng cay. Ngồi bên cửa sổ chạm rồng, Chăn loan gối phụng không chồng cũng như. Trúc hiệp cùng mai cho tài xứng sắc. Chuối non giú ép chát ngầm, Bông búp không bán để tàn ai mua.

4 2

34 Bài 2461/460 35 Bài 2541/471

Ẩn dụ được hình thành dựa trên mối quan hệ tương đồng của cái được biểu

đạt và cái biểu đạt. Cảm nghĩ không được nói ra trực tiếp mà chủ yếu là trình bày

gián tiếp thông qua sự liên tưởng. Tìm hiểu mối quan hệ tương đồng giữa hình ảnh

ẩn dụ và đối tượng được nói đến, chúng ta sẽ thấy được cơ sở để hình thành ẩn dụ.

Khảo sát các quan hệ được đề cập đến qua các ẩn dụ của ca dao Nam

Bộ, chúng tôi nhận thấy có các kiểu: tương đồng về trạng thái; tương đồng về

tính chất; tương đồng về hành động, hoạt động; tương đồng về giá trị.

a) Mối quan hệ tương đồng về trạng thái

Mối quan hệ này có 45 trường hợp, trong đó có các trạng thái cụ thể

được nói đến trong ca dao Nam Bộ:

- Xa cách, trắc trở: sáo sổ lồng - sáo bay, con vịt xa chuồng, trâm gãy

gương tan, chiếu lạnh giường quạnh hiu, phụng hoàng lẻ bạn, nhạn nam én

bắc, sóng bỏ gành, cù lao bỏ bể…Ví dụ:

Anh dốc lòng trồng cúc ngay hàng

Không dè cúc mọc mỗi đàng một cây.

Trong ca dao Nam Bộ, tác giả dân gian thường dùng ẩn dụ để bộc lộ thái

độ, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Với bài ca dao trên, hình ảnh cúc mọc mỗi

đàng một cây chỉ sự xa cách của đôi lứa, đúng hơn chính là sự nuối tiếc của

61

chàng trai khi chàng ra sức bỏ công vun vén cho duyên tình, nhưng người con

gái lại phụ tấm chân tình đó, ra đi, để lại mình chàng buồn thương, sầu não.

- Gắn bó: tơ với nguyệt, bướm ong, lựu đào, trăng sao, loan phụng,

rồng mây, cá với nước, cây đa bến đò, chài lưới, nguyệt hoa…

Cây đa cũ, bến đò xa Gặp mặt em đây con bóng đang trưa

Ông trời vội tối phân chưa hết lời.

Cây đa, bến nước đã trở thành một mô-típ quen thuộc trong khá nhiều lời

ca dao với ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu tượng. Không gian Nam Bộ thường

khoáng đạt, rộng mở với những cây bần, cây đước... dù vậy, hình ảnh cây đa làng,

bến nước cũ nơi cố hương vẫn luôn in dấu trong tâm hồn mỗi con người.

Theo thống kê của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ, cây đa - bến nước xuất

hiện 8 lần, chiếm 0,28% với ba phạm trù ý nghĩa: gợi hứng bắt vần, biểu vật và biểu

tượng. Cây đa, bến nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, không tách rời, nó

còn biểu tượng cho sự bền vững, chung thủy, kiên định đợi chờ của lứa đôi.

- Bấp bênh, không vững: thuyền nghiêng, tàu nghiêng, cây đa trốc gốc,

chuyến đò ngang…

Bước xuống cầu, cầu oằn cầu oại

Bước xuống thuyền, thuyền chích thuyền nghiêng Cả tiếng kêu người nghĩa phong điền

Người nghĩa ơi, duyên đây không kết còn tìm nơi đâu? Với hình ảnh thuyền nghiêng, ta nhận thấy trạng thái bấp bênh, chao

đảo, không vững vàng. Phép ẩn dụ gợi cảm xúc sự lo lắng, buồn phiền của

nhân vật trữ tình khi người mình yêu đang còn chọn lựa nghĩa tình.

b) Tương đồng về tính chất

Nét nghĩa này 30 trường hợp, trong đó:

- Nét nghĩa tàn phai: cây xanh lại héo, cá xếp vi, bóng xế rũ mành,

nhánh mai ủ dột, vách tường nhện giăng, xót ngọc tiếc hương, áo rách, quần

thưa, biển cạn láng khô, núi lở non mòn …

62

Sự xa cách trong duyên tình đôi lứa luôn gợi cảm giác xót xa, đau đớn.

Người dân Nam Bộ đã thể hiện nét nghĩa tàn phai, xa cách đó thông qua hình

ảnh ẩn dụ như một lối nói giảm nhẹ.

Bồn xa bông bồn khô, bông héo Lựu xa đào, lựu ngã đào nghiêng Vàng trên tay rớt xuống khôn phiền

Buồn vì một nỗi nợ duyên không thành.

Bài ca dao trên là lời bộc lộ sự đau đớn khi lìa xa người mình yêu,

thông qua các hình ảnh: bồn xa bông, lựu xa đào. Chỉ có ẩn dụ mới có thể thể

hiện hết ý nghĩa, cảm xúc ẩn chứa trong tâm tư, tình cảm của con người.

- Nét nghĩa tốt đẹp, phát triển: lên ngựa xuống xe, chim oanh ương kết

bầy, cá vầy đôi bạn, bắp non trổ cờ, gió thổi bốn mùa, sóng trào biển dâng,

bông thơm bướm đậu, cây đắng sanh trái ngọt…

Bể sâu con cá vẫy vùng

Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay

Bài ca dao này biểu trưng cho một lối sống nghĩa khí hào hiệp của con

người Nam Bộ. Người Nam Bộ luôn cứng cỏi, ngang tàng, khí phách giữa

cuộc đời đầy biến động, được thể hiện qua các biểu trưng chim, cá vẫy vùng.

- Nét nghĩa khập khiễng, không tương xứng: khúc lở khúc bồi, đèn tối

tăm, cầu cao ván yếu, mái nổi mái chìm…

Trong ca dao Nam Bộ, nét nghĩa khập khiễng, không tương xứng

thường xuất hiện trong những bài ca dao nói về tình duyên. Chẳng hạn:

Bông tàn, nhụy lại ngát hương

Đôi ta gặp mặt người thương đã rồi.

Tính chất khập khiễng, không hài hòa bông tàn, nhụy lại ngát hương lại

thể hiện một thứ tình cảm da diết của đôi lứa. Hình ảnh ẩn dụ đó vừa lạ lùng

vừa có giá trị gợi hình ảnh, gợi cảm xúc đồng thời còn diễn tả một cách khái

quát nét mộc mạc, chân tình trong tình cảm của người dân Nam Bộ.

63

c) Nét nghĩa tương đồng về giá trị

Nét nghĩa này có 25 trường hợp, trong đó:

- Nét nghĩa phù hợp giá trị: vảy cá trê vàng, gan con tép bạc, tấm ngói

vàng, uyên ương sánh với phụng loan, chổi tiên, sân thần…

Chữ phú nằm trên chữ quí Kim ngọc đối với kim lang Cầm khăn lau mặt cho nàng

Xin đừng rơi lụy giữa đàng khó phân.

- Nét nghĩa không tương xứng giá trị: bạc vàng, chim khôn kiểng tàn,

quạ đen cò trắng, ếch ngắn rắn dài, con rắn hổ con rắn rồng, tiền kẽm tiền

đồng, dĩa than bịt vàng…

Anh với tôi làm đôi sao xứng Bạc với vàng sao đứng đồng cân Trách ai tham phú phụ bần

Tham xa mà bỏ ngãi gần thuở xưa.

Bạc với vàng đối lập với nhau hoàn toàn về giá trị, bạc với vàng mà đặt

lên bàn cân thì càng trớ trêu hơn. Với bài ca dao này, phép ẩn dụ có giá trị

biểu đạt nỗi phẫn uất trước kẻ ham giàu sang mà phụ nghĩa bạc tình.

d) Một cái nhìn rất đặc sắc về tình yêu lí tưởng trong ca dao Nam Bộ

thể hiện qua thế giới hình ảnh ẩn dụ

Người dân Nam Bộ đã rất tinh tế khi mượn thế giới sự vật, hiện tượng để bộc

lộ nội tâm. Những hình ảnh đó đã được hình tượng hóa, tâm trạng hóa cho phù hợp

với quan niệm, sắc thái, những cung bậc tình cảm trong duyên tình đôi lứa.

- Hình ảnh biểu trưng cho chuyện tình duyên đôi lứa

+ Thế giới tự nhiên, thiên nhiên: sông nước, sao trời, cây cỏ, hoa lá, trời xanh

mây trắng, trăng thanh gió mát, cây đa bến cũ, thuận buồm xuôi gió…Chẳng hạn:

Đời phải đời thịnh trị Cuộc phải cuộc văn minh Kìa là gió mát trăng thanh

Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui.

64

+ Thế giới thảo mộc: mận đào, lựu đào, trầu cau, bông hường, hoa mai,

hoa chanh, trầm hương, tơ hồng…Ví dụ:

Ngày nay lựu đặng gặp đào Kiểng sầu gặp nước dạ nào chẳng thương Ngày nay tơ nguyệt vấn vương

Ngàn năm vẫn giữ tào khương trọn đời.

+ Thế giới sinh vật: chim, nhạn, cá, hạc, bướm, tơ, tằm, chìa vôi, ong,

phụng loan, vạc…

Lăng xăng bướm lượn vòng hoa

Đôi ta mới gặp, mẹ già chưa hay.

Chúng ta thấy trong ca dao Nam Bộ, tỉ lệ xuất hiện các hình ảnh mượn

thế giới tự nhiên làm ẩn dụ nhằm thể hiện tâm hồn của con người nhất là

duyên tình đôi lứa chiếm một tỉ lệ khá cao. Vật mẫu tự nhiên được mượn làm

hình ảnh ẩn dụ rất gần gũi với cuộc sống của người dân nơi đây: chim, cá, đò,

thuyền, cây…và những vật mẫu này đã được cảm xúc hóa khiến chúng có

những phẩm chất, tính cách như con người.

+ Thế giới vật thể nhân tạo: mực - nghiên, mâm - cỗ, áo bà ba - áo bành

tô, áo dài - quần thưa, gối - mền, lửa - vàng ròng, chiếu- giường, nút - khuy,

ngọc - vàng, bát - cơm, đèn - dầu, chăn - mền, cá - cần câu, đũa tre - đũa mun…

Chẳng hạn:

Anh đi em ở lại nhà

Em chăm vườn đậu, vườn cà trổ bông

Bông xứng bông, hình lại xứng hình

Mực với nghiên xứng viết, hai đứa mình xứng đôi.

Với bài ca dao trên, người dân Nam Bộ đã dùng những vật dụng rất

quen thuộc gắn bó với cuộc sống là mực với nghiên để ẩn dụ cho tâm tư, tình

cảm của bản thân. Đó là một lối ẩn dụ rất kín đáo và tế nhị nhằm diễn tả ý

nguyện, khát vọng muốn xây dựng một duyên tình nồng thắm.

65

“Sức mạnh của ẩn dụ là biểu cảm”, phép ẩn dụ ở đây chứa đựng sức sống,

sinh lực dồi dào của những rung động nội tâm vừa mãnh liệt, dạt dào những khao

khát đắm đuối vươn tới cái hay, cái đẹp trong sâu thẳm con tim của người dân

Nam Bộ.

Tóm lại, ẩn dụ trong ca dao Nam Bộ rất sâu sắc, có tác động mạnh đến

tâm trí người đọc. Đây là cách thể hiện rất điêu luyện vừa tinh tế, bình dị vừa

hàm súc, khái quát lại mang tính hình tượng cao. Với bất kì hình tượng ẩn dụ

nào cũng đều ẩn chứa một tâm hồn, một trí tuệ, một nỗi khát khao, một nỗi

nhớ nhung hay u sầu, day dứt. Phép ẩn dụ ở đây không những là phương tiện

xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm.

2.2.2.2. Nhân hoá

Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu

hiệu của người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người,

nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm

cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình [39, tr.63].

Khảo sát trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi thấy có 97/2816 bài ca dao

dùng phép nhân hóa, chiếm 3,4%.

Phép nhân hóa có các cách thể hiện như sau:

a) Lấy thuộc tính, hoạt động của con người biểu thị những thuộc tính,

hoạt động của đối tượng không phải là người

Nhằm biểu đạt những cung bậc, sắc thái tình cảm phong phú và phức tạp,

người dân Nam Bộ đã lựa chọn và sử dụng những hình ảnh trong thế giới động -

thực vật hay thế giới tự nhiên, xã hội rồi cảm xúc hóa, tâm trạng hóa, nhân cách hóa

các sự vật, hiện tượng đó mang những tâm tư, tình cảm như con người.

- Nhân cách hóa những con vật trong thế giới động vật

Theo khảo sát của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ, thế giới động vật

được nhân cách hóa chiếm 47 bài (1,7%).

66

Những con vật như: nhạn, tôm, hạc, đỉa, chim, ong, con cò, loan

phụng… rất quen thuộc với truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ của cư dân

phương Nam, tương đồng với đời sống tình cảm của con người.

+ Hoạt động: bướm đậu cheo leo, bướm dạo vườn bông, bướm dật dờ,

cá bống đi tu, cá thu khóc, cá lóc rầu, cá tham ăn …

Cá bống đi tu Cá thu nó khóc Cá lóc nó rầu Phải chi anh có phép mầu

Hóa ra con cá trắng lội hầu bên em.

+ Thuộc tính: phụng hoàng sầu tư, bướm lụy, bướm buồn, bướm già,

bướm giỡn, cá dại, cá lý ngư sầu tư, con én rũ, chim khôn…

Ai làm cho dạ em buồn

Cho con bướm lụy, chuồn chuồn bay theo.

Bướm mà biết lụy, biết đau, biết khổ như con người sao? Tất cả những

thuộc tính trên là của riêng con người, chỉ có con người mới có tâm trạng, cảm

xúc nhưng khi mượn hình ảnh của bướm, chuồn chuồn cho mang các thuộc tính

của con người càng khiến nội dung của bài ca dao thêm sâu sắc. Hình ảnh bướm,

chuồn chuồn luôn quấn quýt bên nhau, không xa rời trong tình yêu là một hình

ảnh đẹp, hạnh phúc. Vậy mà “bướm lụy, chuồn chuồn bay theo” chứng tỏ tình

duyên đang gặp trắc trở, người con gái trong bài đang mang một nỗi sầu chất

ngất. Sự đớn đau của nàng đã được thể hiện rõ hơn, tự nhiên hơn, xúc động hơn

nhưng cũng ý nhị, kín đáo nhờ phương tiện nhân hóa.

Đưa loài vật vào thế giới của con người đặc biệt vào những khung cảnh say

sưa, tình tứ của đôi lứa trong mùa tình duyên, lúc đó, những vật vô tri, vô giác ấy

sẽ được truyền linh hồn, tâm trạng như người với một sự tươi trẻ, tràn đầy sức

sống hay cũng buồn thương, nhớ nhung, đau đớn, dằn vặt, hẹn hò, ấp ủ…

Ba năm hạc đáo về đình

Không cho hạc đậu, tức mình hạc bay.

67

Hạc chỉ là loài chim trong tưởng tượng, nhưng ở đây lại được nhân

cách hóa như con người (tức mình). Với cái nhìn phát hiện, sự lựa chọn hình

ảnh giàu sức khái quát, giàu ý nghĩa biểu tượng: hạc cũng biết bực mình, cũng

biết giận dỗi như con người.

Hình ảnh đó được khắc họa thật sống động, chân thật giàu sức khơi gợi,

liên tưởng đến tâm trạng buồn bã, bực bội của con người: ba năm dài đằng

đẵng vậy mà khi trở về lại không được chào đón, còn nỗi khổ nào đau đớn

hơn nữa không, hình ảnh “tức mình hạc bay” nhằm diễn tả sự dỗi hờn của

nhân vật trữ tình khi duyên tình không như ý nguyện.

+ Nhân cách hóa cỏ cây, hoa lá trong thế giới thực vật

Nếu so sánh với thế giới động vật thì cỏ cây, hoa lá được nhân cách hóa

ít hơn, cụ thể, có 35 bài (1,24%).

Đó là thế giới thực vật gắn liền với vùng đất Nam Bộ: trầu cau, mai,

đào, lựu, hoa, bưởi, bông sậy, cúc…

Những loại cây này gắn bó với cuộc sống của những người nông dân

sông nước Cửu Long vốn khắc nghiệt nhưng tận sâu thẳm trong trái tim vẫn

rất dạt dào tình cảm. Những loại cỏ cây, hoa lá này đã biểu hiện rõ đời sống

nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp, tế nhị trong duyên tình đôi lứa hay bộc

lộ niềm say mê phong cảnh quê hương mình.

Khế với chanh một lòng chua xót

Mật với gừng một ngọt một cay.

Hình ảnh khế, chanh thường rất chua, giống như đôi tình nhân đang

trong một tâm trạng đớn đau vì tình duyên không trọn vẹn. Khế, chanh như

cùng có tâm trạng chơi vơi, sầu đau, khổ sở. Còn hình ảnh mật, gừng lại trái

ngược nhau hoàn toàn: mật thì ngọt như tình duyên đôi lứa đang say đắm,

nồng nàn nhất; gừng cay thì đại diện cho sự chung thủy, sắt son của tình nghĩa

non sâu. Bài ca dao trên đã mượn bốn hình ảnh của tự nhiên, nhân hóa chúng

để chúng mang tâm trạng, tình cảm, cảm xúc như con người.

68

Trong tình duyên, nhân vật trữ tình luôn muốn gửi gắm, kí thác nỗi

lòng, xúc cảm của mình vào những hình ảnh, những vật tưởng như vô tri, vô

giác:

Vóc bồ liễu gặp cơn gió bụi

Đóa hoa đào sợ hãi nắng sương

Biết đâu là khách đài gương

Ngãi nhân giữ được bậc thường vậy chăng?

Cây bồ liễu, đóa hoa đào vốn là những vật vô tri, vô giác được đặt vào

trong một văn cảnh thấm đẫm chất trữ tình lại được gán cho những phẩm chất,

hành vi, tâm trạng của con người. Trong tình duyên, không phải lúc nào cũng

gặp được nhân duyên như ý. Ta bắt gặp sự lo lắng, trăn trở cho thân phận của

người con gái khi đối mặt với sóng gió trong cuộc đời. Thân con gái mười hai

bến nước, biết bến nào đục, bến nào trong mà gởi gắm, nương tựa. Những

trăn trở, suy tư, băn khoăn đó được thể hiện rõ ràng thông qua những hình ảnh

tự nhiên được nhân cách hóa mang tính cách như con người.

- Nhân cách hóa những sự vật, hiện tượng tự nhiên

Những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên như: mây, gió, trăng, sao,

sông, nước, cù lao, gành, thuyền…cũng được nhân hóa, được nhuốm màu sắc

tâm trạng và nỗi niềm cảm xúc như đời sống của con người.

Biển cạn láng khô, thuyền vô không đặng

Có năm sáu nàng thuyền lặng đi luôn.

Trong ca dao nhất là ca dao yêu thương tình nghĩa, hình ảnh thuyền

tượng trưng cho người con trai, rày đây mai đó không ổn định. Thuyền đi

không biết bến bờ, không nơi neo đậu. Bài ca dao trên, diễn tả xúc cảm của

thuyền hay của chàng trai khi hoàn cảnh khắc nghiệt không cho phép thuyền

gắn bó với một nơi có quá nhiều bến đỗ.

Thiên nhiên cũng có cảm xúc, cũng giao hòa, cũng biết tỏ tình, cũng

biết yêu thương, sầu đau hay khao khát chung tình như con người:

69

Bồn xa bông, bồn khô bông héo

Lựu xa đào lựu ngã, đào nghiêng

Vàng trên tay rớt xuống khôn phiền

Buồn vì một nỗi nợ duyên không thành.

Lối nói nhân hóa ở đây làm cho cảnh vật tự nhiên như sống trong một

không khí đầy chất tình tứ, lãng mạn: không có hình ảnh nào đẹp, hạnh phúc

bằng hình ảnh đôi lứa bên nhau cũng giống như bồn - bông, lựu - đào; nhưng

ở đây, bồn lại xa bông, lựu lại xa đào khiến mọi thứ trở nên héo rũ, tàn phai.

Thông qua các hình ảnh này, ta nhận thấy tác giả dân gian đã rất tinh tế

khi thể hiện tình cảm ẩn sâu trong tâm hồn. Nhờ phép nhân hóa, những vật vô

tri, vô giác cũng biết thổn thức, cũng cựa quậy, sầu héo hay phai tàn vì tình

duyên không trọn vẹn hoặc e ấp, nồng nàn khi bày tỏ lời yêu.

Việc đưa thế giới tự nhiên vào trong ca dao nhằm đề cập tình yêu đôi lứa là

một nét độc đáo rất riêng của người dân Nam Bộ. Những vật vô tri, vô giác được

truyền linh hồn như con người với những hoạt động tràn đầy sức sống. Lúc này,

người và vật cùng giao hòa, giao cảm với nhau, tạo nên một điệu nhạc mê đắm,

cuồng nhiệt. Ca dao Nam Bộ luôn dùng hình ảnh tự nhiên rồi gieo vào đó thế giới

cảm xúc của nội tâm, phô bày tình cảm một cách kín đáo nhằm bộc lộ tâm trạng

của thế giới con người, tạo hiệu quả tác động tích cực đến người đọc.

2.2.2.3. Phóng đại

Theo Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa, "phóng đại còn có tên gọi là

ngoa dụ, khoa trương, thậm xưng tức là phương thức cường điệu một mức độ,

tính chất hay đặc điểm nào đó của sự vật. Phóng đại là dùng từ ngữ hoặc cách

diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện

tượng nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả nhằm

gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ" [39, tr.46].

70

Phóng đại là một phương tiện đắc dụng trong thơ ca hài hước, trào lộng.

Trong ca dao, phóng đại tuy xuất hiện không nhiều, nhưng thường gây ấn

tượng mạnh cho người đọc.

Phóng đại không phải là thổi phồng sự thật hay xuyên tạc sự thật để lừa

dối, nó không làm người ta tin vào điều nói ra mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu

được điều nói lên.Cơ sở của phóng đại là tâm lí của người nói muốn điều

mình nói gây được sự chú ý và tác động cao nhất làm người nhận hiểu được

nội dung và ý nghĩa của người nói đến mức tối đa.

Qua việc khảo sát 2816 bài ca dao Nam Bộ, chúng tôi thống kê được

189 bài sử dụng phóng đại, chiếm 6,71%. Căn cứ vào mức độ phóng đại,

chúng tôi có thể chia phóng đại trong ca dao Nam Bộ ra làm hai loại:

a) Phóng đại ở mức độ thấp

Là cách nói nhấn mạnh, nói quá hơn so với cái có thật trong thực tế nh-

ưng chưa đến mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Phóng đại ở mức độ này

thường dùng trong các sinh hoạt hằng ngày không có hoặc ít có giá trị tu từ.

Loại này có 56 / 189 bài, chiếm 29,6%. Chẳng hạn:

Anh than một tiếng nát miếu xiêu đình

Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao quỳnh vội xếp vi.

Phóng đại trạng thái tâm lý bằng hình ảnh: đó là những trạng thái tâm

lý rất đỗi bình thường của con người

- Vui: ba năm tượng rách còn thờ, đắp lũy bồi thành, bắc cây cầu mời

tám ván - lập quán mười chín tầng - bán buôn nuôi mẹ, cầm chừng đợi anh…

- Buồn lo: nhà nhỏ - nợ nhiều, bãi cỏ lau khô sầu ai rã rượi, đá nổi

vông chìm - muối chua chanh mặn tìm đặng em, cầu oằn cầu oại, cất mái

chèo ruột thắt từng cơn, ruộng sâu sầu tấc dạ - cho sông cạn nước…

- Tương tư: thương - để trong túi áo, thương em từ thuở tóc bỏ lòng

thòng, anh móc mồi con chim phụng câu rồng trên mây…

Chẳng hạn:

71

Chờ em cho mãn kiếp chờ

Cho rau muống vượt lên bờ trổ bông.

Chờ đợi tình duyên đã được cụ thể hóa bằng hình ảnh gắn bó mật thiết

với người dân Nam Bộ: rau muống lên bờ trổ bông. Trong sự chờ đợi đó, ta

còn bắt gặp cả nỗi buồn nhớ vô hình được chất chứa trong lòng, có hình dáng,

có trọng lượng. Lối nói phóng đại đã nhấn mạnh nỗi buồn, nhớ, sự trông chờ

nặng trĩu trong lòng, đồng thời còn khẳng định tình yêu chung thủy, kiên định

mà chàng trai đã dành cho cô gái.

Một bài ca dao khác:

Ngó lên trời thấy sao giăng phụng vẽ

Ngó xuống phàm trần thấy một lẽ anh gần em

Anh về cậy mối cậy mai

Chớ đừng có liếc mắt xem, họ đồn.

Hình ảnh sao giăng phụng vẽ gợi lên sự lãng mạn, tình tứ khi thể hiện tình

cảm. Chẳng phải là hình ảnh sao giăng cho phụng vẽ thật mà đó chính là tâm tư,

tình cảm của nhân vật trữ tình đã tưởng tượng rồi vẽ nên. Lấy hình ảnh sao giăng

phụng vẽ để diễn tả sự tha thiết của tình cảm là cách nói phóng đại rất nhẹ nhàng

và ý nhị nhưng tạo hiệu quả rất cao. Bài ca dao trở nên thú vị, gây cảm giác bất

ngờ, xúc động cho đối tượng mà nhân vật trữ tình muốn thổ lộ.

- Nhấn mạnh khát vọng, sự chung tình, son sắt bất chấp cả điều kiện

khó khăn, thiếu thốn: khó nghèo cùng chịu - chớ hoài bỏ nhau, dầu thương áo

rách vá quàng cũng thương, thương anh đến thác cũng còn thương anh, lòng

tôi chuộng ngãi chẳng nài giàu sang…Ví dụ:

Thiếp đứng gần chàng hơn vàng chín nén

Chàng đứng gần thiếp hơn chén thuốc tiên.

Vàng hay ngọc ngà châu báu rất quí giá, quan trọng với cuộc sống của con

người. Còn “tiên” là vị thần xuất hiện trong sự tưởng tượng của con người, thuộc

về thế giới tâm linh, thế giới của sự trường sinh bất tử, là niềm mơ ước của mọi

72

vật trên thế gian. Với đôi lứa đang yêu nhau, tình yêu còn quan trọng hơn mọi thứ

quí giá, quan trọng hơn cả sự bất tử của cuộc đời. Với con người, tình nghĩa hay

tình duyên là quan trọng nhất. Tác giả dân gian hiểu được tâm lý đó nên đã phóng

đại chúng lên rồi so sánh với những thứ quí giá nhất. Phóng đại trong trường hợp

này vẫn đạt được hiệu quả nghệ thuật, tạo ấn sâu sắc trong tâm tưởng người đọc.

b) Phóng đại ở mức độ cao

Là cách nói cường điệu hóa đến độ phi lí không thể tin được. Phóng đại ở

mức độ này thường xuất hiện nhiều trong ngôn ngữ nghệ thuật, sáng tạo nên những

hình ảnh, biểu tượng đặc sắc. Loại này có 133/ 189 bài, chiếm 70,4%. Ví dụ:

Anh ơi, quần áo rách tả tơi mỗi nơi một miếng Đứt chín đoạn lòng nghe một tiếng anh than.

Phóng đại bao giờ cũng gắn với hình ảnh. Hình ảnh phóng đại trong ca

dao Nam Bộ khá phong phú.

- Phóng đại mức độ phi lí

Là mức độ phóng đại các thuộc tính, đặc điểm, tính chất của đối tượng

đến mức phi thường để làm nổi bật bản chất của đối tượng, nhằm khắc sâu

cảm giác đối với vấn đề được nói đến.

+ Phóng đại tính chất phi lí các hiện tượng tự nhiên

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.

Sông Đồng Nai là tên con sông lớn thứ nhì đất Nam Bộ, chiếm gần đại bộ

phận miền Đông Nam Bộ. Chùa Thiên Mụ (còn gọi chùa Linh Mụ) là một ngôi

chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương - ngôi chùa cổ nhất ở Huế. Với bài

ca dao trên, tác giả dân gian đã lấy cái vô hạn của thiên nhiên - dòng chảy triền

miên của sông Đồng Nai và di sản văn hóa đất nước được bảo tồn - chùa Thiên Mụ

để nêu lên một giả định “cạn lạch Đồng Nai / nát chùa Thiên Mụ” thì mới “sai lời

nguyền” nhằm khẳng định một chân lý: tình yêu giữa đôi lứa mãi mãi trường tồn,

bền vững như sông Đồng Nai, mãi mãi vĩnh hằng như chùa Thiên Mụ.

73

Cũng có khi phóng đại được sử dụng theo khuynh hướng phủ định:

Bao giờ đá nổi vông chìm

Muối chua chanh mặn mới tìm đặng em.

Lối nói phóng đại ở đây: nêu lên giả định trái với quy luật của đời sống: đá

- nổi, vông - chìm, muối - chua, chanh - mặn nhằm khẳng định một sự thật khá

phũ phàng, ẩn sâu tận trong tâm khảm: cô gái chưa bao giờ yêu chàng trai. Kết

hợp với cách điệp kiểu nói, điệp cấu trúc và cách nói tương phản, lối nói phóng

đại đến mức trái với quy luật ở đây có tác dụng phơi bày bản chất của vấn đề và

thái độ cự tuyệt, quyết liệt, dứt khoát trong sự lựa chọn của người con gái.

+ Phóng đại các yếu tố tâm lý

Trong lối suy nghĩ về cuộc sống, nhất là trong tình yêu, con người luôn

có những trạng thái tâm lý rất khác thường. Nghệ thuật phóng đại rất phù hợp

để những con người đang yêu có thể diễn tả các cung bậc, sắc thái tình cảm

lúc nồng nàn, lúc say đắm; đến những khổ đau, hụt hẫng, bi kịch, hay trạng

thái quyết liệt sắt đá, bảo vệ cho tình yêu của chính mình.

Thương nhau chẳng biết làm sao

Đổ nước vào dĩa làm ao trầm mình.

Phép phóng đại giúp chàng trai, cô gái Nam Bộ thể hiện tình yêu

thương của mình: lấy cái nhỏ bé, quen thuộc nhất với cuộc sống là cái dĩa

đựng đồ ăn; phóng đại lên thành cái ao nước để trầm mình nhằm thể hiện

sự hài hước. Yêu nhau thì không thể chết được, chết rồi làm sao có thể

yêu nhau. Điều này hoàn toàn trái ngược với những chàng trai cô gái thất

tình mượn cái chết để giải thoát bi kịch.

Ca dao còn có lối phô diễn về trạng thái tâm lý khác thường khi xa vắng

nhau. Kinh Thi - quyển sách cổ xưa của Trung Quốc - có câu Nhất nhật bất kiến

như tam thu hề tức là Một ngày không gặp tưởng dài như ba năm. Việc cường

điệu thời gian tâm tưởng để nhấn mạnh tình cảm nhớ thương dồn nén trong lòng

và khao khát được gặp gỡ cũng được thể hiện trong ca dao Nam Bộ.

74

Vắng em một bữa chau mày

Cũng bằng cha mẹ đem đày biển Đông.

Chỉ vắng người mình thương có một bữa (chứ chưa được một ngày) thôi

mà chàng trai cảm nhận cuộc sống xung quanh là vô nghĩa, có cảm tưởng bản

thân bị đem đày ra tận biển Đông vô tận. Sự kết hợp giữa lối nói tương phản và lối

nói phóng đại khiến sự đau khổ khi phải xa cách người mình thương càng được

nhân lên nhiều lần, đồng thời có tác dụng khơi gợi nỗi đau giằng xé trong nội tâm.

Ca dao Nam Bộ cũng vận dụng lối nói cường điệu bằng hình ảnh thể

hiện nỗi đau khổ về thể xác và tâm hồn khi tình yêu tan vỡ.

Anh có vợ rồi sao anh còn gian còn giấu Em vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh

Anh đừng lấy vải thưa che mắt thánh, nói gái nữ thanh đui mù.

Tác giả dân gian diễn tả nỗi đau của người con gái khi biết một sự

thật phũ phàng: người con trai mình hết dạ yêu thương đã có người nâng

khăn sửa túi. Cái cảm giác bị lừa dối vì quá cả tin mà đau khổ đến choáng

váng. Hình ảnh phóng đại nỗi đau đó được diễn tả một cách tài tình. Cô

gái trong trắng, ngây thơ bị phụ tình, bị lừa gạt. Cô gái đau đớn đến độ

phải kêu thấu tới tận ông trời, mong ông thấu hiểu cho tình cảnh của cô:

vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh, một hành động quyết liệt, mạnh

mẽ. Ban đầu, cô gái tin yêu, hi vọng, khát khao về một tương lai tươi sáng.

Sau cùng, cô gái lại thất vọng bởi sự gian dối của người yêu. Nỗi đau đó

được thể hiện bằng hình ảnh phóng đại, và chỉ có phép phóng đại mới đủ

sức khơi gợi ngọn nguồn xúc cảm trong tâm hồn của chủ thể trữ tình.

Đôi lứa dù đói nghèo, sống chết nhưng vẫn giữ trọn niềm tin yêu,

chung thủy dành cho nhau. Lối nói cường điệu đã thể hiện bản lĩnh phi

thường và sức mạnh của tình yêu đích thực:

Mải mê hò, mê hát

Chiều về nhà phụ mẫu đánh thịt nát xương tan

Đau bao nhiêu tôi cũng chịu, bấm gan chờ chàng.

75

Phép tu từ phóng đại đã khắc họa sắc nét tính chất thiêng liêng của lời

thề: cho dù có thịt nát xương tan thì thiếp vẫn bền gan chờ đợi chàng. Cách

nói phóng đại rất nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ diễn tả khát vọng xây đắp một

tình yêu vĩnh hằng, vượt lên tất cả mọi quyền uy, lễ giáo, vượt ra khỏi vòng

sinh tử của kiếp người. Lời thề nguyền thủy chung đó đã khắc vào thời gian,

không gian, khắc tạc đá vàng, gửi hậu thế muôn đời quyền được sống cho tình

yêu, vì tình yêu; dù có chết cũng cam lòng. Họ sẵn sàng chết cùng nhau ở cõi

vĩnh hằng thì tình yêu của họ sẽ trở thành bất tử.

Tóm lại, phóng đại là một biện pháp nghệ thuật mà các tác giả dân

gian Nam Bộ rất ưa dùng, xuất hiện khá nhiều trong các sáng tác ca dao,

đặc biệt ở chủ đề tình cảm nam nữ. Đặc sắc của phép tu từ này là cường

điệu bằng hình ảnh ở mức độ phi thường: những hiện tượng tự nhiên trái

quy luật, những yếu tố tâm lý ở trạng thái đỉnh điểm, những mê say,

những hụt hẫng, bi kịch khổ đau, những trạng thái quyết liệt bảo vệ tình

yêu chung thủy, những nỗi sầu muộn lúc chia ly, tan vỡ. Lối nói cường

điệu bằng hình ảnh có tác dụng vừa khắc họa đậm nét hình tượng vừa thể

hiện sáng tỏ bản chất đối tượng vừa có sức dồn nén dung lượng xúc cảm

nên có sức lay động, làm xúc động lòng người.

Phép tu từ phóng đại giúp người Nam Bộ thể hiện tình cảm rất

thẳng thắn của họ: yêu ghét rạch ròi, thương hết mình, ghét tận xương tủy,

yêu thương, mơ mộng, đau khổ một cách hồn nhiên, bộc bạch. Qua phép

tu từ phóng đại, chúng ta có thể thấy người dân Nam Bộ dù được mệnh

danh là “ruột để ngoài da”, ăn ngay nói thẳng nhưng vẫn có trí tưởng tư-

ợng bay bổng, óc liên tưởng phong phú, tâm hồn nhạy cảm, hài hước có

duyên và rất lãng mạn.

76

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, luận văn đã tập trung nghiên cứu các phương tiện

tu từ trong ca dao Nam Bộ. Ở phương tiện tu từ từ vựng, luận văn đi sâu

tìm hiểu từ thi ca, từ thông tục, từ Hán Việt, từ nghề nghiệp, từ địa

phương, từ láy. Ở phương tiện tu từ ngữ nghĩa, ẩn dụ, nhân hóa, phóng

đại là những vấn đề đã được khảo sát, tìm hiểu. Khi nghiên cứu bất cứ

phương tiện tu từ nào, chúng tôi đều nhất quán tuân thủ thao tác khảo sát

định lượng, phân tích giá trị sử dụng trong các bài ca dao tiêu biểu, từ đó

đánh giá khái quát về mặt định tính. Qua sự phân tích các dẫn chứng ở

các phương tiện tu từ cụ thể, chúng tôi luôn cố gắng chỉ ra những nét đặc

sắc nghệ thuật của ca dao Nam Bộ, đồng thời bước đầu nêu lên những

nhận xét về đặc điểm văn hóa của con người vùng đất này.

77

Chương 3

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ

TRONG CA DAO NAM BỘ

3.1. Khái niệm biện pháp tu từ

Bên cạnh khái niệm phương tiện tu từ, còn tồn tại khái niệm biện pháp

tu từ. Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói

các phương tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không, trong một

ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh

cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh).

Biện pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt trong một hoàn cảnh

cụ thể, nhằm một mục đích tu từ nhất định. Nó đối lập với biện pháp sử dụng ngôn

ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh nhằm mục đích diễn đạt lí trí [39, tr.142].

Việc tìm hiểu các biện pháp tu từ là rất cần thiết trong nghiên cứu thơ

ca, nghệ thuật. Về tác dụng, các biện pháp tu từ sẽ làm cho những tâm tư,

nguyện vọng lẫn cảm xúc của những người dân Nam Bộ được biểu hiện một

cách rõ nét. Cùng với những phương diện khác của hình thức nghệ thuật, các

biện pháp tu từ cũng cho thấy rõ sức sáng tạo của nhân dân lao động vùng đất

Nam Bộ ở bộ phận thơ ca dân gian. Mặt khác, từ những biện pháp tu từ, ta có

thể nhận ra những nét đặc sắc riêng của thơ ca dân gian Nam Bộ so với thơ ca

những vùng miền khác trên đất nước Việt Nam. Xét đến cùng đây cũng là một

trong những chứng tích bản sắc văn hóa của một vùng miền. Những điều ấy

được thể hiện cụ thể qua các bài ca dao đặc sắc.

Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được phối

hợp sử dụng, các biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng, biện

pháp tu từ ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp, biện pháp tu từ văn bản, biện

pháp tu từ ngữ âm - văn tự.

78

3.2. Một số biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ

Trong các biện pháp tu từ của tiếng Việt, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát

biện pháp tu từ ngữ nghĩa và biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ.

3.2.1. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong ca dao Nam Bộ

3.2.1.1. So sánh

a) Khái niệm

So sánh là "phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự

vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ

thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe" [39, 188].

So sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng khá đa dạng

trong ca dao Việt Nam với mật độ khá cao trong một số kết cấu phổ biến. Nhờ

biện pháp so sánh mà giá trị nhận thức, giá trị tạo hình và giá trị biểu cảm của

ca dao trở nên sâu sắc hơn.

Trong bài báo Từ so sánh đến ẩn dụ, Nguyễn Thế Lịch đã đề cập mô

hình cấu trúc hoàn chỉnh của so sánh gồm 4 yếu tố sau đây:

a. Yếu tố cần so sánh, gọi là yếu tố được hay bị so sánh tuỳ theo việc so

sánh tích cực hay tiêu cực (YTĐ/ BSS).

b. Yếu tố biểu thị tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động có

vai trò nêu rõ phương diện so sánh (YTPD).

c. Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH).

d. Yếu tố nêu ra làm chuẩn để so sánh (YTSS).

b

d

c

Bốn yếu tố đó được cấu trúc trong mô hình như sau:

YTQH như

YTPD tươi

YTSS hoa

a YTĐ/BSS Mặt Xuất phát từ mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh này, muốn đánh giá

những thành công về nghệ thuật so sánh trong văn học (kể cả văn học dân

gian và văn học viết), chúng ta sẽ xem xét hai phương diện. Thứ nhất: hình

ảnh so sánh được đưa ra (yếu tố d) có gì mới mẻ đặc sắc? Thứ hai: từ mô hình

79

chung, tác giả có những cải biến như thế nào trong từng trường hợp cụ thể

làm cho cách so sánh trở nên linh hoạt, hấp dẫn? Bất cứ một sự so sánh có giá

trị nào cũng không nằm ngoài thước đo của hai phương diện ấy.

Trong ca dao Nam Bộ, sự biểu hiện khá đa dạng của hình thức so sánh

nghệ thuật không chỉ làm phong phú thêm những hình thức biểu hiện và giá

trị biểu đạt mà còn mang ý nghĩa biểu cảm lớn, góp phần thể hiện đậm nét sắc

thái địa phương. Bảng thống kê sau đây sẽ cho ta một cái nhìn về số lượng

của biện pháp so sánh được sử dụng trong ca dao Nam Bộ.

Bảng 3.1. Thống kê biện pháp so sánh trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNG SỐ CÂU

CÂU CA DAO DÙNG SO SÁNH

SỐ CÂU SỬ DỤNG SO SÁNH 1 2

2 2

Bài 44/134 Bài 74/139

1 2

1 1

2 2

Bài 102/143 Bài 112//149

3 4

2

2

Bài 151/153

5

2

4

Bài 199/161

6

1 1

2 2

Bài 285/173 Bài 411/190

7 8

1

2

Bài 542/208

9

2

3

10 Câu 573/212

1 1 1

2 4 2

11 Bài 748/237 12 Bài 805/244 13 Bài 825/246

2

6

14 Bài 870/253

Ngó về Thị Đội, ruột đau như dần. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh. Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân. Thấy buồm anh chạy như dao cắt lòng. Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm. Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền, Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội dền như bánh canh. Để em khô héo như nhành mai khô. Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng. Em là con tép nhỏ lộn rong khó tìm. Giả như cây vải nhuộm chàm mau bay. Bao nnhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu Em là con cá liệt ở khơi, Anh là lưới bên bủa nơi dọc gành. Con cò trắng tợ như vôi Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga. Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu. Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh, Bánh nào trắng bằng bánh bò bông.

80

1

2

15 Bài 957/265

1 1 2

2 4 2

16 Bài 963/266 17 Bài 1012/273 18 Bài 1044/277

1 2

4 2

19 Bài 1071/281 20 Bài 1679/358

1 1 1

2 2 2

21 Bài 1684/359 22 Bài 1724/364 23 Bài 1756/369

1 2

3 8

24 Bài 1821/376 25 Bài 1836/378

3

4

26 Bài 1871/383

2

2

27 Bài 2036/404

4

6

28 Bài 2053/406

1

2

29 Bài 2056/406

1 2

7 2

30 Bài 2217/428 Bài 2246/431

1 2

4 4

31 Bài 2269/435 32 Bài 2271/435

1

Khác nào nhạn chích lạc loài kêu sương. Đôi ta như thể đôi tằm. Một nàng vừa đẹp vừa sang như mình. Em như nút, anh như khuy; Như Thúy Kiều-Kim Trọng biệt ly sao đành. Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh. Qua như chim nọ đương bay. Em như cá nọ mắc rày lưới giăng. Qua tỉ như chùm gửi đáp nhờ. Rách mà khéo vá hơn lành vụn may. Chị Thúy Kiều sầu anh Kim Trọng tỉ như em sầu chàng. Thân em giả tỉ như chiếc thuyền tình, Thân em xét kỹ, Cũng tỉ như đồng bạc đầu hình. Thân anh xét chắc, Như tủ sắt để hờ. Thiếp tợ thiên biên nguyệt, Quân như lãnh thượng vân. Cũng như biển Sở non Tần cách xa. Trắng như tiên không phải duyên anh không tiếc. Đen như cục than hầm, duyên hợp anh ưng. Trời cao hơn trán, Trăng sáng hơn đèn, Kèn kêu hơn quyển, Biển rộng hơn sông, Anh tìm em như thể khiến vàng tìm cây.. Đôi ta như quế với gừng Chồng như anh, vợ đặng như nàng, Giả như tô gấm đũa vàng để bôn. Ngỡi nhơn như bát nước đầy, Đạo cang thường khó lắm bạn ơi, Chẳng như ong bướm đậu rồi lại bay. Gối lụa không mềm bằng gối tay em.

4

33 Bài 2278/436

81

1

2

34 Bài 2281/437

1 2

2 2

35 Bài 2297/439 36 Bài 2392/452

2

4

37 Bài 2409/454

4

4

38 Bài 2438/457

1

2

39 Bài 2455/460

1 2

4 2

40 Bài 2466/461 41 Bài 2476/462

1 2

2 2

42 Bài 2489/464 43 Bài 2513/467

2

4

44 Bài 2531/469

Gánh gạo đưa chồng nước mắt như mưa. Làm trai hai vợ như dây buộc mình Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại, Tỷ như đóa hoa lài cắm bãi cứt trâu. Trầu nào cay bằng trầu xà lẹt, Thịt nào khét bằng thịt kên kên. Vợ như nàng, chồng đặng như anh, Giả như đờn bầu đờn tranh hợp hòa. Chồng như anh, vợ đặng như nàng. Giả như tô gấm đũa vàng gác trên. Cha mẹ tôi già như đèn cháy nhấp nhem. Con cò trắng tợ như vôi Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con như bùn. Mẹ dữ như hùm, ai dám làm dâu. Mẹ già như chuối già hương, Như xôi nếp mật như đường mía lau. Ơn hoài thai như biển, Ngãi dưỡng dục tợ sông.

2

5

45 Bài 2543/ 470

2

3

46 Bài 2543/471

1 2

2 2

47 Bài 2707/492 48 Bài 2727/494

1 1

Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Trầu ăn là nghĩa, Thuốc xỉa là tình, Thấy gái thì thèm hư chửa thèm chua. Mặt rổ như tổ ong bầu, Cái răng khấp khểnh như cầu rửa chân. Tôi nay khác thể chiếc nem lột trần. Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm.

2 2

49 Bài 2753/497 50 Bài 2780/500

Ví dụ: yếu tố so sánh là từ địa phương và yếu tố được so sánh là từ toàn dân

Bứt đi thì dạ không đành

Cách xa nhân ngãi như chỉ mành thắt gan.

Bài ca dao là sự kết hợp tài tình giữa lối so sánh với lối nói ngoa dụ nhằm

làm nổi bật sự đau xót khi lìa xa người mình yêu thương. Ví tình yêu như sợi chỉ

82

mành mong manh, khi xa cách nhau tưởng chừng như sợi chỉ mảnh đó thắt đến

đau đớn ruột gan nhưng bứt nó, cắt đứt nó thì không đành lòng.

Một trường hợp khác:

Kiểng xa bồn kiểng rũ héo queo

Anh xa người ngãi như đèn treo hết dầu.

Trong bài ca dao này, hình ảnh so sánh không chỉ mang tính chất tạo

hình mà còn mang ý nghĩa biểu cảm rất đậm nét. Hình ảnh anh xa người ngãi

được so sánh như đèn treo hết dầu là một lối so sánh cụ thể, gần gũi nhưng

độc đáo thể hiện cái chân chất, mộc mạc của người dân Nam Bộ.

Những hình ảnh so sánh và được so sánh trong hai bài ca dao trên là

những hình ảnh rất giản dị mà sâu sắc, chân thực bởi sự hồn hậu của những

con người nơi đây; đồng thời còn bộc lộ rõ tính cách đẹp đáng trân trọng đáng

được đề cao, đó là tính chung thủy, son sắt của người dân Nam Bộ.

Với biện pháp so sánh, việc lựa chọn hình ảnh trong ca dao Nam Bộ

cũng giống các vùng miền khác, nhưng nét độc đáo của các hình ảnh được so

sánh trong ca dao Nam Bộ là những hình ảnh được xuất phát từ thực tế của

một vùng đất vốn gắn bó với sông nước, miệt vườn và thói quen như: bông

hường, cá lia thia, cầu rầu…

Một hình ảnh mang tính độc đáo nhất là hình ảnh trái bần. Bần là một loại

cây to mọc dọc theo bờ sông có rễ nhọn, xốp; quả tròn, dẹt, ăn chua và chát.

Trong ca dao của người dân Nam Bộ, hình ảnh trái bần lại đồng âm với

tính “bần” nghĩa là nghèo tạo nên sự cộng hưởng về nét nghĩa biểu hiện.

Bần gie, bần ngã, bất khả viễn vông Anh với em như sợi chỉ lộn vòng

Kiếm sao đặng mối bá tòng mới vui.

Về từ so sánh, ngoài cách dùng quen thuộc từ so sánh: như, trong ca dao Nam

Bộ còn sử dụng các từ so sánh khác: tỉ như, giả như, tợ… Cách dùng từ như vậy làm

cho ca dao Nam Bộ có nét đặc thù so với ca dao các vùng miền khác. Chẳng hạn:

83

- Biểu em đừng thấy giàu có mà ham

Giả như cây vải nhuộm chàm mau bay. - Ở đâu bằng xứ Lung Tràm

Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm.

Các từ so sánh: giả như, tợ rất quen thuộc với người dân Nam Bộ.

Ngày nay, các từ so sánh ấy được dùng thông dụng trong lời ăn tiếng nói hằng

ngày mộc mạc, tự nhiên.

b) Cách thể hiện phép so sánh tu từ trong ca dao Nam Bộ

- Cái so sánh - vật mẫu, ví như là những cái cụ thể, vật thể để biểu hiện cái

được so sánh là những cái trừu tượng: số lượng 120 bài / 2816, chiếm 4,26 %.

- Cái so sánh - vật mẫu ví như là cái cụ thể biểu hiện cái trừu tượng: số

lượng 94 bài / 120, chiếm 78,3%. Ví dụ:

Anh ơi, thương thời thương chứ chẳng đặng ăn nằm

Cũng như trái lựu chín còn nằm trên cây.

- Cái so sánh là cái cụ thể biểu hiện cái cụ thể: số lượng là 26 bài / 120,

chiếm 21,6%. Ví dụ:

Em như nút, anh như khuy

Như Thúy Kiều - Kim Trọng biệt li sao đành.

Lối ví von dùng cái cụ thể để biểu hiện cái trừu tượng chứng tỏ người

dân Nam Bộ thích dùng lối diễn đạt so sánh bằng hình ảnh vật thể làm cho

hiện tượng, sự vật được nói đến trở nên sáng rõ và đậm nét hơn, đồng thời ta

còn thấy được cả thái độ, tính cách và cảm xúc của họ.

Vật mẫu là những sự vật cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống có khả năng

diễn tả đời sống nội tâm phong phú, sâu sắc, phức tạp với nhiều sắc thái, cung bậc

khác nhau. Cho nên, phép so sánh tu từ là một phương tiện sắc bén để khám phá,

nhận thức và biểu hiện đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ. Qua vật mẫu

được so sánh, ta thấy cái nhìn, quan niệm của người dân Nam Bộ về cuộc sống,

nhân sinh.

84

Người dân Nam Bộ thường lấy hình ảnh rất gần gũi, quen thuộc trong

môi trường sống vùng sông nước, trong thế giới vật thể nhân tạo để thể hiện

quan niệm về lẽ sống, vẻ đẹp của con người nhất là trong tình yêu cả ở mặt

tích cực lẫn mặt tiêu cực của nó.

Những vật mẫu gợi liên tưởng vẻ đẹp, hạnh phúc lẫn bất hạnh của cuộc

sống nhân sinh:

+ Hiện tượng tự nhiên: đẹp như sao mai, sao mọc như giăng, chờ anh

như sao chờ trăng, gắn bó như sơn cùng thủy tận …

Bởi thương nên ốm nên gầy

Cơm ăn không đặng gần đầy ba trăng Ngó lên sao mọc như giăng Thấy em có nghĩa mấy trăng cũng chờ.

Vùng đất Nam Bộ bao la sông nước, bao phủ bởi bạt ngàn rừng tràm, rừng

đước. Thiên nhiên nơi đây gắn bó mật thiết, hài hòa với con người, các hiện tượng

tự nhiên cũng vậy. Với cư dân sông nước, cái ăn, cái mặc đều nhờ tự nhiên mà có,

nên các hiện tượng tự nhiên: sao, trăng, gió mây… cũng là một phần của cuộc sống.

Lối so sánh ví von niềm thương, nỗi nhớ bằng hình ảnh sao mọc, chờ

trăng càng làm cho tình cảm đôi lứa trở nên nồng nàn, thi vị thấm đẫm cảm

xúc, giàu tính biểu cảm.

+ Thế giới thực vật: trong trắng như bông gòn, ngọt lịm như chè đậu

xanh, như cánh bèo trôi, như trái lựu chín, như dưa…

Gái chưa chồng trong lòng hớn hở Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh

Ngó ra biển rộng trời xanh Ở đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi.

Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh là lối so sánh lạ, hiếm gặp, khiến người

đọc mới nghe lần đầu khó hình dung và cảm nhận hết được ý nghĩa mà tác giả

dân gian muốn thể hiện. Phải chăng chàng trai muốn thể hiện sự son sắt, bền

chặt như từng múi chanh quyện chặt vào nhau không rời. Hình ảnh so sánh này

làm rõ sự thủy chung, vững bền, một lòng trong tình yêu của nhân vật trữ tình.

85

Phải duyên túc đế

Như cây cỏ để ngoài Huế anh cũng tìm

Không phải lương duyên

Như cây cúc mọc dựa thềm anh cũng không.

Lối nói này cũng khẳng định một niềm tin tưởng sắt đá vào lương

duyên thiên định. Người dân nơi đây gói trọn niềm tin yêu, ý thức nhân phẩm

và mong mỏi một tình yêu đích thực. Tất cả những ý tứ đó thể hiện rõ nét qua

một hình thức so sánh.

+ Thế giới động vật: sầu tư như phụng hoàng, như cá biển hồ, tỷ như

con cá, giả như châu chấu, như chim về cội, như con thỏ, con cò trắng tợ như

vôi, như loan với phụn, như ong bướm…

Bậu không biết nghĩ, bậu tỷ như vầy:

Chim oanh ương còn biết kết bầy

Cá bỉ mục còn vầy đôi bạn

Chẳng qua vận hạn

Anh mới xa nàng

Chớ ai có muốn bạn vàng lẻ loi.

Ta bắt gặp hình ảnh của động vật xuất hiện rất nhiều trong ca dao Nam

Bộ ở hầu hết các phương tiện hay biện pháp tu từ. Thế giới động vật cũng

xuất hiện khá nhiều trong so sánh tu từ như: chim, cá, tằm, nhện… Trong ca

dao nói về tình yêu đôi lứa, tỉ lệ so sánh càng cao. Chim oanh ương, cá bỉ mục

mãi mãi không lìa xa, mãi mãi có đôi, có cặp được mượn để ví von cho tình

cảm đang trong giai đoạn gặp trắc trở, khó khăn chứ lòng nhân vật trữ tình

luôn mong muốn được hạnh phúc bên nhau trọn đời.

+ Thế giới vật thể nhân tạo: như là gấm thêu, như sợi chỉ, như nút với

khuy, như tơ với nguyệt, như guộng chỉ tơ, như dao cắt, như dầu đượm, như

người dệt lụa, như bình nước, như cái võ môn, giả như cây vải nhuộm chàm,

như chiếc thuyền, như cung nỏ, như đũa trong kho…

86

Bây giờ anh kiếm đặng em rồi

Tỷ như cây kim đi tầm sợi chỉ

Sao em không biết nghĩ, biết suy

Em ham nơi quyền quí, không nghĩ gì tới anh.

Trong thơ ca xưa và nay, ta thường thấy tình yêu được so sánh với hoa,

bướm, thiên nhiên nhưng so sánh duyên tình đôi lứa với cây kim, sợi chỉ là một lối

so sánh khá lạ, độc đáo. Kim, chỉ là hai vật dụng luôn đi liền với nhau, không thể

tách rời cũng như trong tình duyên phải có đủ đôi lứa. Vậy mà, chàng trai trong

bài ca dao trên đang thầm khóc thương cho duyên tình hẩm hiu của mình.

Vật mẫu được dùng để so sánh gần gũi, quen thuộc với người dân Nam

Bộ nhưng cũng có giá trị nghệ thuật, biểu cảm rất cao. Nó biểu trưng cho sự

gắn kết nồng nàn, vững bền của đôi lứa.

Mẫu vật được so sánh lấy từ những vật dụng của đời sống có giá trị

biểu đạt rất phong phú. Không chỉ phù hợp với sắc thái trữ tình, nhiều lúc,

chúng tỏ ra thật đắc dụng với tiếng cười trào lộng:

Cô kia cứ hát ghẹo trai Cái mồm méo xệch như quai chèo đò.

Lối ví von hài hước làm nổi rõ tính chất phê phán thói hư, tật xấu của

cô con gái thiếu nết na. Với bản chất bộc trực, người dân thường phê phán

những việc trái tai, gai mắt bằng những hình ảnh so sánh rất đắt.

Một bài ca dao khác cũng cho thẩy cách sử dụng so sánh của người Nam Bộ:

Trắng như bông lòng anh không chuộng Đen như cục than hầm lòng muốn dạ thương.

Trắng như bông, đen như cục than hầm hoàn toàn đối lập nhau. Hai

hình ảnh này được mượn để so sánh với cái vẻ bề ngoài của người con gái.

Xưa nay, cái đẹp ngoại hình của phái nữ vẫn có sức thu hút đặc biệt đối với

các chàng trai. Nhưng nhân vật trữ tình trong bài ca này có "lập trường" riêng

của mình. Phải chăng điều mà chàng trai ngưỡng mộ là cái "duyên ngầm", là

cái đẹp trong tâm hồn của người con gái?

87

Qua khảo sát và thống kê, chúng tôi nhận thấy phép so sánh tu từ xuất

hiện trong ca dao Nam Bộ nhiều thứ hai sau phép ẩn dụ. Từ so sánh “như”

được dùng nhiều nhất. Vật mẫu được dùng để so sánh chủ yếu là những cái cụ

thể; bản thân vật thể vốn là những hình ảnh quen thuộc, thân thương trong thế

giới tự nhiên hay cuộc sống của con người vùng đồng bằng sông nước Nam Bộ.

Xu hướng chính của so sánh là hướng về cảnh sắc và cuộc sống nông nghiệp,

đánh bắt, chăn thả. Trong đó, tỉ lệ vật mẫu so sánh là cái cụ thể biểu hiện cái trừu

tượng xuất hiện nhiều. Bởi vì, người dân Nam Bộ thích so sánh bằng hình ảnh cụ

thể để diễn đạt tình ý của mình cũng rất cụ thể, ít mơ hồ, trừu tượng. Ngoài ra,

người Nam Bộ còn mượn vật mẫu so sánh trong môi trường sống của mình nhằm

thẩm mỹ hóa, tâm trạng hóa hoặc thổi linh hồn vào tạo vật, nhào nặn lại ngoại giới

để phô diễn cái nhìn mới mẻ, giàu chất trữ tình và bộc lộ thái độ, cảm xúc đậm nét.

Qua phép so sánh, ta thấy được một quan niệm, một lý tưởng về một

cuộc sống nhân sinh tràn đầy niềm tin yêu với mọi cung bậc: nồng cháy, mãnh

liệt, gắn bó, thủy chung, đau khổ, bất hạnh... So sánh thể hiện nhận thức qua

cách đối chiếu hai sự vật có nét tương đồng, thể hiện một cách cảm thụ đời

sống cũng như lối tư duy của người dân Nam Bộ. Đó là cái nhìn nghệ thuật có

khả năng phát hiện chính xác bất ngờ những điều tinh vi trong cuộc sống.

3.2.1.2. Chơi chữ

a) Khái niệm

Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc và

Nguyễn Thái Hòa định nghĩa: "Chơi chữ là phương thức dùng âm thanh, từ

ngữ, hàm ý để tạo ra lượng nghĩa bất ngờ, thú vị" [39, tr.219].

Theo Từ điển tiếng Việt, "Chơi chữ là lợi dụng các hiện tượng đồng

âm, đa nghĩa, v.v... trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như

bóng gió, châm biếm, hài hước,...) trong lời nói" [58, tr.166]

Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ“ và giải thích:

"Một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống

88

nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong

cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người đọc, người nghe" [21, tr.128]. Các

hình thức của lộng ngữ rất phong phú: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm,

dùng từ đồng nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau. Theo các tác giả từ

điển này, nhìn chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử

dụng trong văn thơ trào phúng.

Hữu Đạt xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ

Việt Nam: "Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào những khả

năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu từ học

(là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các

đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác triệt để tính chất nước đôi của

các đơn vị ngôn ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh".

Trong các cách hiểu trên về chơi chữ, có mấy điểm chung:

Thứ nhất, chơi chữ là một biện pháp tu từ được dùng trong ngôn ngữ

nghệ thuật (văn thơ);

Thứ hai, biện pháp chơi chữ được thực hiện dựa trên các tiềm năng về

chất liệu ngôn ngữ dân tộc. Các tiềm năng về âm thanh, chữ viết, từ đồng âm,

đồng nghĩa,... càng phong phú càng tạo điều kiện cho chơi chữ phát triển.

Thứ ba, chơi chữ tạo ra những liên tưởng bất ngờ, lý thú về nhận thức,

đồng thời có tác dụng châm biếm, hài hước, thư giãn bằng chữ nghĩa, v.v..

Trong các tài liệu về Tu từ học hoặc Nghiên cứu văn học, chưa có sự

đồng thuận cao về phạm vi sử dụng và về kết quả phân loại các kiểu chơi chữ.

a) Về phạm vi sử dụng, nếu Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng

chơi chữ “chỉ dùng phổ biến trong văn thơ trào phúng", thì Hữu Đạt xem

đó là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ Việt Nam, tức là xem chơi

chữ như một biện pháp tu từ nghệ thuật được dùng phổ biến trong thơ ca

Việt Nam.

89

Qua khảo sát ngữ liệu về hiện tượng này, chúng tôi thấy: chơi chữ là một thói

quen sử dụng ngôn ngữ có tính nghệ thuật của người Việt. Thói quen này có từ xa

xưa, được dùng rộng rãi không chỉ trong văn chương bác học mà còn cả trong văn

chương truyền miệng (như ca dao, câu đố, câu đối,...) và trong lời ăn tiếng nói hàng

ngày của người Việt. Đây là một trong những truyền thống ngữ văn quý báu của

người Việt. Truyền thống này cho thấy sự thông minh, sắc sảo và hóm hỉnh, v.v.. của

người Việt. Trong khi sử dụng ngôn ngữ, người Việt đã tận dụng tối đa các ưu thế về

chất liệu của ngôn ngữ dân tộc để đồng thời đạt đến nhiều mục đích khác nhau.

b) Chơi chữ trong ca dao Nam Bộ

Chơi chữ cũng gắn liền với lời nói và cung cách sinh hoạt hằng ngày của

người dân Nam Bộ và trở thành một thành tố nghệ thuật không thể thiếu trong ca

dao. Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn Ca dao Nam Bộ [27], có 58 bài ca

dao sử dụng hình thức chơi chữ, thể hiện trong bảng thống kê sau:

Bảng 3.2. Thống kê biện pháp chơi chữ trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

CÂU CA DAO CHƠI CHỮ

1 Bài 61/167

TỔNG SỐ CÂU 2

SỐ CÂU CHƠI CHỮ 2

2

4

2 Bài 65/138

2

4

3 Bài 80/140

2

2

4 Bài 92/142

1 4

2 6

5 Bài 211//163 6 Bài 508/203

2

2

7 Bài 682/227

2

4

8 Bài 694 /228

Đầu gàng có con ba ba, Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa. Rô, trê, sặt, dầy dầy, Ròng ròng, hủng hỉnh, lộn bầy lia thia. Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng, Về bưng ăn cá về đồng ăn cua. Le le, vịt nước, bồng bồng, Con cua, con rạm, con còng sáu con. Anh đừng môi miếng, miếng môi. Canh chua lét sao rằng canh ngọt? Cá không chân sao gọi là cá leo. Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít. Chuối non èo sao gọi llà chuối “già” Chuối khoe mình chuối lòng trinh, Chuối oở một mình sao chuối có con? Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang.

90

4

6

9 Bài 723/232

2

5

10 Bài 731/233

1 2

2 2

11 Bài 759/238 12 Bài 768/240

1 1

2 3

13 Bài 797/243 14 Bài 908/259

1 2

2 4

15 Bài 917/260 16 Bài 951/264

2

2

17 Bài 957/265

1 1 1

2 4 2

18 Bài 979/268 19 Bài 1041/276 20 Bài 1083/283

1 1 2

4 2 4

21 Bài 1162/292 22 Bài 1185/294 23 Bài 1219/300

2

3

24 Bài 1239/302

2

2

25 Bài 1330/314

1

3

26 Bài 1580/346

1 4

27 Bài 1582/346 28 Bài 2024/402

2 11

Con cá đối nằm trên cối đá, Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo, Con mmỏ kiến nằm trong miếng cỏ, Con chim vàng lông đáp dự vòng lang Nó kêu lăng lăng líu líu, Đôi đứa ta lận đận lịu địu, sao nỡ dứt tình. Con quạ đen lông kêu bằng ô thước. Con xe kia đang đứng bơ thờ, Anh quyết lòng vọt pháo, ai ngờ sĩ ngăn. Cửa song loan sớm mở, tối gài, Thương yêu quá bộ, quên đường tử sanh. Đem nằm tơ tưởng tưởng tơ. Đố ai tầm được vảy con cá trê vàng, Tầm được gan con tép bạc, bạn vàng theo không. Đôi ta chẳng được xum vầy, Khác nào nhạn chích lạc bầy kêu sương. Đũa bếp có đôi, chìa vôi lẻ bạn. Sóng ba đào mưa nắng chẳng nao. Ướm lời hỏi bạn, nghèo giàu chuộng ai? Hạc giao đầu, phụng lại giao đuôi, Dầu ai câu trạnh câu rùa mặc ai. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng. Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng. Lựu, lê, bình bát, mãng cầu Bốn cây tứ quý anh sầu một cây Nước chảy linh binh, lục bình trôi lỉnh bỉnh Nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu. Một trăm thứ dầu, dầu nhị thiên đường là dầu không thắp, Một trăm thứ bắp, bắp chuối là bắp không rang, Một trăm thứ than, thang leo là thang

91

29 Bài 2130/415

4

2

30 Bài 2200/425

4

4

31 Bài 2258/433

2

2

32 Bài 2576/475

2

2

33 Bài 2601/478

2

1

34

Bài 2652/484

2

2

35 Bài 2773/499

4

2

không quạt không quạt? Một trăm thứ bạc, bạc ngãi là bạc không mua . Ví dầu cá bống hai mang Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu. Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng, Chữ đề tên bbậu có chồng hay chưa? Có chồng năm ngoái năm xưa, Năm nay chồng để như chưa có chồng. Cóc nhái ếch xào lộn với tương, Gá vô vòng chồng vợ ba Khương ở đời. Bấy lâu sao chẳng nói năng, Bây giờ năng nói thì trăng xế tà. Chèo ghe đi bán lòng tong, Nước chảy ròng ròng chẳng thấy ai mua Con mèo không rách sao kêu mèo vá, Con cá không thờ sao gọi cá linh? Rượu kia nào có say người Hỡi người say rượu chớ cười rượu say.

Trong ca dao Nam Bộ, thường gặp các kiểu chơi chữ sau đây:

- Chơi chữ bằng các phương tiện ngữ âm

+ Hình thức chơi chữ theo cách điệp một âm tiết, ví dụ:

Nước chảy linh binh, lục bình trôi lỉnh bỉnh

Bảy, Tám ơi, đi cấy chi có một mình

Phải chi ở đặng, bạn mình cày chung.

Một bài ca dao khác:

Nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu

Anh ở một mình khi đau yếu ai nuôi ?

Các từ linh binh, lỉnh bỉnh, mình và liu riu, riu ríu là điệp một bộ phận của

âm tiết. Đó là các vần: inh, iu thể hiện sự nhỏ nhắn của nhân vật được nói tới.

Trong bài ca dao trước, việc điệp lại từ inh cho thấy sự cô độc đáng

thương của người được nói tới, khiến chủ thể trữ tình bộc lộ sự xúc động lẫn

niềm mong mỏi có thể chia sẻ nỗi niềm cô đơn đó. Đây là bài ca dao gửi lời

92

ngỏ với đối tượng mà chủ thể trữ tình đang nói tới - lời nhắn nhủ thiết tha,

mong mỏi được bên nhau, san sẻ vui buồn, san sẻ công việc.

Còn ở bài sau, việc điệp từ iu lại cho thấy một tình cảm thật chân thật,

nhẹ nhàng nhưng vô cùng ý nhị mà cô gái muốn gửi tới chàng trai. Thông qua

hình ảnh nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu, cô gái cũng bày tỏ niềm cảm

thương sâu sắc, vô bờ khi hiểu về hoàn cảnh côi cút của chàng trai.

+ Chơi chữ bằng cách dùng từ trái nghĩa

Trong ca dao Nam Bộ, bên cạnh việc sử dụng các từ cùng nghĩa thì tác

giả dân gian còn sử dụng những từ trái nghĩa nhằm mục đích chơi chữ hay là

sử dụng hình thức khai thác yếu tố đồng âm nhưng trái nghĩa để tạo nên một

hình thức nghệ thuật độc đáo, riêng biệt :

- Canh chua lét sao rằng canh ngọt ? Cá không chân sao gọi cá leo ?

Trai nam nhi anh đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng. - Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít Chuối non èo sao gọi là chuối “già” Đối như anh vậy chắc là xứng đôi.

Ca dao được lưu truyền cho đến ngày nay là nhờ các hình thức sinh hoạt

dân gian trong lao động, lúc nghỉ ngơi hoặc trong các hội hè, đình đám của nhân

dân. Trong các hình thức sinh hoạt dân gian thì hình thức đối đáp giao duyên giữ

một vai trò rất quan trọng. Việc đối đáp nhằm bộc lộ tình cảm giữa người con

trai với người con gái. Hình thức này rất phổ biến và được ưa chuộng, trai gái

mến nhau và yêu nhau qua tài ứng đối nhanh nhẹn; đồng thời cảm hóa nhau về

đức hạnh, tính nết và sự cần cù. Người Nam Bộ dùng từ bình dị, không chải

chuốt. Họ đưa những gì gần gũi nhất với họ vào trong lối đối đáp giao duyên.

Trong bài ca dao trên, tác giả dân gian vừa sử dụng hình thức chơi chữ vừa

dùng các từ trái nghĩa như: chua lét - ngọt, không chân - leo, nhiều - ít, non èo - già.

Cô gái muốn thử tài của chàng trai nhưng chàng trai ứng đối cũng rất nhanh nhạy,

chàng khẳng định: tài ứng đối của mình đủ sức kết nghĩa ngãi nhân với cô gái .

93

+ Chơi chữ theo cách tập hợp các từ cùng trường sự vật với nhau

Đây cũng là một hình thức chơi chữ rất độc đáo trong ca dao Nam Bộ,

góp phần tạo nên sự đa dạng của nghệ thuật, ví dụ :

Đầu gành có con ba ba Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa.

Bài ca dao trên vừa sử dụng cặp từ đồng nghĩa kêu - la vừa tập hợp tên gọi

các loại rùa: ba ba, trạnh (loại rùa sống ở biển), rùa , đó là các từ địa phương có

nghĩa tương tự với nhau. Chỉ cùng một loại động vật nhưng có rất nhiều tên gọi

khác nhau, đây cũng là một nét riêng trong nền văn hóa của người dân Nam Bộ.

Một trường hợp khác:

Đố anh mấy thứ cá đồng

Một câu nói trọn mới hồng đáng khen

Rô, trê, sặt, dầy dầy

Ròng ròng, hủng hỉnh lộn bầy lia thia.

Vùng sông nước Nam Bộ là nơi sinh sống của rất nhiều các loại cá, tôm,

ếch, lươn, rắn, rùa... Đây là những sinh vật nước có thể bắt gặp bất cứ nơi đâu

ở vùng đồng bằng sông nước. Nam Bộ - vùng sông nước mênh mông, sông

ngòi chằng chịt là điều kiện thuận lợi để cá tôm phát triển.

Với bài ca dao này, ta bắt gặp rất nhiều tên gọi của các loại cá ở dưới

nước như: rô, trê, sặt (cá mình dẹt, sống ở các mương, ao), dầy dầy (loại cá

mỏ dài có thân sẫm nâu), ròng ròng (loại cá lóc con), hủng hỉnh (loại cá nhỏ

sống ở mương, rạch có dạng như cá lia thia), lia thia (loại cá nước ngọt thân

nhỏ, có màu xanh đậm hoặc đen, có vây ngũ sắc).

Chỉ một bài ca dao, chúng ta đã bắt gặp 5 loại cá trong vô vàn các loại

cá khác nhau của vùng đất Nam Bộ. Đó là niềm tự hào của người dân Nam

Bộ về sự phong phú của những sản vật mà thiên nhiên đã ban tặng cũng như

nói lên sự gắn bó đối với quê hương xứ sở bằng một cuộc sống vô cùng giản

dị. Chẳng hạn:

94

Le le, vịt nước, bồng bồng

Con cua, con rạm, con còng sáu con.

Bài ca dao này có hai loại động vật xuất hiện : thứ nhất là tên gọi của

các loại vịt: le le, vịt nước, bồng bồng (chim cùng loại với vịt trời, le le), thứ

hai là tên gọi của các giống cua: con cua, con rạm, con còng.

Với ba bài ca dao trên, chúng tôi thấy hình thức chơi chữ tập hợp các từ cùng

trường sự vật với nhau là một hình thức chơi chữ đặc biệt chỉ xuất hiện nhiều trong

ca dao Nam Bộ. Chính điều này đã tạo một nét đặc trưng rất riêng, là một nét khu

biệt lớn nếu đem so sánh ca dao Nam Bộ với ca dao, dân ca các vùng miền khác.

+ Chơi chữ bằng cách nói lái

Đây là một hình thức chơi chữ rất đặc biệt của tiếng Việt, được sử dụng

nhiều trong ca dao, dân ca, hát ví… Trong ca dao Nam Bộ, ta cũng bắt gặp

hình thức chơi chữ này.

- Con cá đối nằm trên cối đá

Con mèo cụt đuôi nằm mút đuôi kèo

Anh mà đối được dẫu nghèo cũng ưng

- Con mỏ kiến nằm trong miếng cỏ

Con chim vàng lông đáp dựa vồng lang

Đây anh đã đối được, vậy nàng ưng chưa ?

Nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu giữa hai hoặc ba tiếng, trong

một từ, ngữ, câu với nhau được dân gian sử dụng để đố vui và tạo thêm những

nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp. Hình thức “nói lái” có những nét

độc đáo thường được người nói, viết chú ý.

Trong văn học dân gian, người ta nói lái trong những lúc vui vẻ hoặc

trong những hoàn cảnh khó xử, khó nói. Trong ca dao, có những đôi trai gái

khéo léo dùng hình thức nói lái gởi gắm tình cảm cho nhau, bài ca dao trên

cũng mượn nói lái trong đối đáp để trao đổi duyên tình.

95

Nhìn chung, chơi chữ không phải là biện pháp tu từ được sử dụng nhiều

trong ca dao Nam Bộ. Tuy nhiên, cùng với các phương tiện và biện pháp tu từ

khác, nó góp phần làm cho nghệ thuật biểu đạt của thể loại văn học dân gian

này thêm phong phú. Hình thức chơi chữ cũng cho thấy sắc thái địa phương

rất đặc trưng của con người Nam Bộ, với nét tính cách chân thành, thẳng thắn,

bộc trực, ít khi nói vòng vo, đố chữ.

3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ

Biện pháp tu từ cú pháp là "những cách phối hợp sử dụng các kiểu câu

trong một ngữ cảnh rộng(trong chỉnh thể trên câu, trong đoạn văn và trong

văn bản trọn vẹn) nhằm đem lại ý nghĩa biểu cảm và cảm xúc cho những

mảnh đoạn của lời nói do chúng cấu tạo nên" [39, tr.183].

Căn cứ vào tính chất của các mối quan hệ giữa các kiểu câu, vào các

phương thức chuyển đổi ý nghĩa của các kiểu câu và vào tính chất của mối

liên hệ giữa các thành tố của những kiểu câu này, biện pháp tu từ cú pháp

được chia thành ba nhóm :

Nhóm 1: các biện pháp tu từ dựa trên những tác động qua lại về hình

thái và nghĩa giữa một số kiến trúc cú pháp hoặc một số câu trong một số ngữ

cảnh nhất định. Đó là các biện pháp tu từ: sóng đôi, đảo đối, lặp đầu, lặp cuối.

Nhóm 2: các biện pháp tu từ dựa trên sự chuyển đổi ý nghĩa của cấu trúc

cú pháp hoặc của kiểu câu trong một ngữ cảnh nhất định. Đó là các biện pháp tu

từ làm nên sự chuyển dịch ngữ nghĩa trong những câu có cấu trúc bề mặt là: cấu

trúc nghi vấn, cấu trúc cảm thán, cấu trúc khẳng định, cấu trúc phủ định.

Nhóm 3: các biện pháp tu từ dựa trên sự chuyển đổi ý nghĩa của phương

thức liên hệ ngữ pháp, giữa các thành tố của các câu hoặc giữa các câu. Đó là các

biện pháp tu từ: tách biệt, dùng đẳng lập thay cho chính phụ và ngược lại.

Các biện pháp tu từ về mặt cú pháp thường tập trung vào ba dụng ý sau đây:

- Người nói muốn nhấn mạnh ý nghĩa một thông báo;

- Người nói muốn nhấn mạnh một phần trong thông báo;

- Người nói muốn thể hiện các tình thái khác nhau.

96

Người Việt sử dụng rất nhiều dụng ý trong các sáng tác nghệ thuật của

mình. Khi nghiên cứu biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi

chọn nhóm 1 để khảo sát nhằm thấy rõ hơn cái hay, cái đặc sắc của một nét

nghệ thuật rất riêng trong các loại hình nghệ thuật của vùng đất phương Nam.

3.2.2.1. Sóng đôi

"Sóng đôi là biện pháp tu từ cú pháp dựa trên sự cấu tạo giống nhau

giữa hai hay nhiều câu hoặc hai hay nhiều bộ phận của câu.

Sóng đôi có thể đầy đủ hoặc không đầy đủ hoặc là bộ phận" [39, tr.184].

Sóng đôi còn được gọi là phép điệp cú pháp, được dùng khi người nói

muốn nhấn mạnh ý nghĩa một thông báo và để triển khai theo hướng đối lập

hay bổ sung thì thường dùng biện pháp này.

Trong ca dao Nam Bộ, sóng đôi được thể hiện qua mối quan hệ về nghĩa

giữa các từ với nhau vừa tránh sự trùng lặp vừa tạo nên sự đa dạng trong cách

biểu hiện. Việc xuất hiện của cấu trúc sóng đôi trong ca dao cũng góp phần làm

cho câu thơ vừa có sự nhịp nhàng, cân đối tạo nên sự liên kết bền vững trong các

bài ca dao vừa mang giá trị khái quát và tạo nên giá trị thẩm mĩ nhất định.

Căn cứ vào sự đổ đầy từ vựng của các yếu tố trong cấu trúc song hành,

sóng đôi có thể diễn đạt sự đối chiếu hoặc sự đối lập.

Phải gặp ông tơ hỏi sơ cho biết

Phải gặp bà nguyệt gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa nhành

Nợ duyên sao sớm dứt, chẳng đành dạ em?

Ông tơ, bà nguyệt là một hình tượng độc đáo trong tín ngưỡng của

người bình dân. Hình tượng ấy đã đi vào đời sống tâm hồn của người dân Việt

vừa trở nên gần gũi thân thiết qua những vần ca dao nói về tình duyên.

Có khi sóng đôi được thể hiện thành hai vế trong một dòng thơ:

Non cao vòi vọi, biển lớn mênh mông

Thương thay cho phận quần hồng

Vì duyên vì nợ nặng lòng tương tư.

97

Hai hình ảnh: non cao vòi vọi, biển lớn mênh mông luôn đi cùng, sóng

đôi không thể tách rời, thể hiện sự vô cùng vô tận của trời đất. Tình cảm của

đôi lứa cũng mênh mông, vô bờ, vô bến được thể hiện qua hai chữ nợ duyên -

phải nợ, phải duyên mới nên cầm sắt. Tác giả dân gian rất tinh tế khi dùng cấu

trúc sóng đôi để thể hiện mối lương duyên do trời đất xếp đặt.Với cấu trúc sóng

đôi, bài ca dao trở nên sâu sắc, nhẹ nhàng, mang nhiều ý vị, đậm đà cảm xúc.

Phép sóng đôi cũng thường được sử dụng để biểu đạt sự đối lập, chẳng hạn:

Nước chảy xuôi, làn sóng ngược

Sông đầy không được, dồn xuống biển Ba Tri

Em ơi đừng sợ chuyện đó làm chi

Anh đây chưa vợ, nhu mì nết na.

Thưở ban đầu của tình yêu, chúng ta gặp khó khăn trong việc bày tỏ nỗi

lòng với người mình yêu. Khi đã thương nhau thì có gặp gian khổ chúng ta cũng

quyết tâm vượt qua. Hai câu ca dao đã lột tả được sự quyết tâm rất dễ thương đó:

Nước chảy xuôi, làn sóng ngược/ Sông đầy không được, dồn xuống biển Ba Tri.

Trong ca dao Nam Bộ những hình ảnh: nước, làn sóng để nói lên tình cảm chân

thật, sâu đậm của người dân vùng đồng bằng sông nước mênh mông.

Tìm hiểu ca dao Nam Bộ, chúng tôi phát hiện thêm một nét độc đáo

nữa trong cấu trúc sóng đôi, ví dụ :

Anh mất cây hộp quẹt, bực đà quá bực

Dang tay đấm ngực, căm đà quá căm

Đũa so le đôi chiếc khó cầm

Liệu sao em liệu, thương thầm khó thương.

Hay :

Bậu nói với qua bậu không bẻ lựu hái đào

Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay.

Ở hai bài ca dao trên đây, chúng tôi nhận thấy cấu trúc sóng đôi có thể là giữa

từ địa phương với từ toàn dân: bực, căm, liệu, thương hoặc sóng đôi từ địa phương

với nhau: bậu, qua. Chỉ có cấu trúc sóng đôi mới có thể lột tả được hết ý niệm, tâm tư,

suy nghĩ mà tác giả dân gian muốn thể hiện trong những tình huống cụ thể.

98

Phổ biến nhất trong ca dao Nam Bộ ở loại hình này là dùng từ địa

phương đồng nghĩa với từ toàn dân, ví dụ như :

Bánh canh cọng vắn, cọng dài

Bánh tầm xe cọng dài, cọng vắn.

Hoặc như:

- Tới đây xứ sở lạ lùng

Chim kêu phải sợ, cá vùng phải kinh.

- Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng

Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi.

Trong ca dao Nam Bộ, các tác giả dân gian đã sử dụng những cặp biểu

tượng có từ địa phương nhằm thể hiện nét đặc trưng riêng biệt trong việc sử

dụng các hình ảnh quen thuộc trong đời sống. Có lúc, xuất hiện một chuỗi

hình ảnh, xếp thành từng cặp sóng đôi để nói về tình cảm của con người trong

quan hệ tình yêu đôi lứa hay quan hệ gia đình:

Anh thương em

Thương lún thương lụn

Thương lột da cóc

Thương tróc da đầu

Ngủ quên thời nhớ

Thức dậy thời thương

Giục ngựa bươn cương

Trên đường hoạn lộ

Trời hỡi trời ! Sao nỡ xa nhau ?

Tóm lại, sóng đôi cú pháp bao gồm cấu trúc và biểu tượng sóng đôi trong

các sáng tác ca dao luôn có khả năng tạo nghĩa, kết hợp đa dạng, uyển chuyển và

đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung, đồng thời có thể đáp

ứng trọn vẹn nhu cầu biểu đạt tâm tư, tình cảm, của người dân Nam Bộ.

99

3.2.2.2. Biện pháp lặp

a) Khái niệm

Phép lặp (phép điệp) là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích

nhấn mạnh ý , mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những xúc cảm

trong lòng người đọc, người nghe [37, tr.93].

Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc và

Nguyễn Thái Hòa định nghĩa: "Điệp ngữ là biện pháp lặp một hay nhiều lần

những từ, ngữ v.v… nhằm mục đích mở rộng nghĩa, gây ấn tượng mạnh hoặc

gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe" [39, tr.209].

Phép lặp trong câu có tác dụng kích thích tâm lí của người tiếp nhận:

một yếu tố nào đó xuất hiện nhiều lần sẽ khiến người ta chú ý, gây ấn tượng

mạnh hoặc gợi xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe. Về phía người viết,

phép điệp có tác dụng tô đậm, khắc sâu một ấn tượng, một cảm xúc, một nhận

xét, và trong nhiều trường hợp, nó tạo nên một nét nhấn trong âm điệu lời văn.

b) Phân loại

Có nhiều cách phân chia phép lặp:

- Theo các yếu tố: lặp từ, lặp ngữ, đoạn câu…

- Theo vị trí: lặp đầu cuối câu, giữa câu, cách quãng, lặp liên tiếp, lặp

vòng tròn.

- Theo tính chất: lặp đơn giản và lặp phức hợp.

c) Phép lặp trong ca dao Nam Bộ

Người dân Nam Bộ sử dụng phép lặp với tần số khá cao và đặc biệt

phong phú về hình thức. Có khi phép lặp lại một từ, một ngữ nào đó trong

một câu, một bài ca dao.Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn Ca dao Nam

Bộ [18], có 387/2816 bài ca dao sử dụng phép lặp, chiếm tỉ lệ 13,4%.

100

Bảng 3.3. Thống kê biện pháp lặp trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

BÀI CA DAO/ TRANG

TỔNG SỐ CÂU

CÂU CA DAO DÙNG BIỆN PHÁP LẶP

1 Bài 49/134

SỐ CÂU DÙNG BIỆN PHÁP LẶP 2

2

2

2 Bài 156/154

2

2

3 Bài 194/160

2

2

4 Bài 196/161

4

4

5 Bài 228/165

17

3

6 Bài 267/171

9

2

7 Bài 405/189

2

4

8 Bài 406/190

6

2

9 Bài 419/191

4

2

10 Bài 453/195

2

2

11 Bài 475/198

4

1 2

12 Bài 532/266 13 Bài 552/209

2 2

3

14 Bài 566/211

4

2

15 Bài 581/213

14

Chiều chiều ra đứng gốc cây, Trông trời trời quạnh, trông mây mây buồn. A đem con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng sáo bay. Anh đi em một ngó chừng, Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng cao. Bởi anh thua bạc nên nghèo, nợ treo, Nợ treo mặc kệ nợ treo. Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. Cần câu phải, Cần câu khôn. Thương lún, thương lụn, Thương lột da óc, Thương tróc da đầu. Biển đông sóng dợn ba đào, Ngãi nhơn khác thể sóng trào biển đông. Chữ gì chôn dưới đất, Chữ gì cất trên thang, Chữ gì mang không nổi, Chữ gì thổi không bay, Bồn xa bông, bồn khô bông héo, Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng Bước lên cầu, cầu oằn, cầu oại, Bước xuống tàu, tàu chạy, tàu nghiêng Thấy bông vừa nở cắm đầu bướm châm, Bướm châm mà bướm lại lầm. Oán căn, oán nợ, xin đừng oán em. Cây khô chết đứng rừng xanh, Em đây chết đứng vì anh phân trần. Bớ người nhân nghĩa có buồn hát chơi, Hát chơi cũng chịu hát chơi, Có chồng mà lại hát chơi nỗi gì. Chỉ điều bốn mối xe lơi, Chỉ điều bốn mối xe săn, Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

1

16 Bài 616/218

2

101

2

5

17 Bài 663/224

4

4

18 Bài 747/237

1

4

19 Bài 828/247

4

4

20 Bài 920/260

1 2

2 2

21 Bài 1040/276 22 Bài 1181/294

2

4

23 Bài 1196/296

1 2

2 2

24 Bài 1255/304 25 Bài 1279/307

4

4

26 Bài 1904/387

2

2

27 Bài 1938/391

1 2

2 2

28 Bài 1998/399 29 Bài 2031/403

2

2

30 Bài 2032/403

2

2

31 Bài 2064/407

2

2

32 Bài 2071/408

2

2

33 Bài 2077/409

1 3

2 4

34 Bài 2107/412 35 Bài 2136/416

Bấy lâu con cá nọ ở đìa, Bây giờ con cá nọ đã lìa ao sâu, Con cò núp bụi lúa xanh, Chờ con cá đến như anh chờ nàng, Con cò núp bụi lúa vàng, Chờ con cá đến như nàng chờ anh. Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài. Đêm qua gió bấc mưa dầm, Đèn lầm với bóng, bóng lầm với ai? Đêm qua gió bấc mưa dầm, Đèn lầm với bóng, bóng lầm với anh. Em khuyên anh đừng lại lại qua qua, Hai tay xách nước tưới trầu, Trầu bao nhiêu lá dạ sầu bấy nhiêu. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm. Không xong đã biết không xong, Làm thơ trái ấu,gởi thấu cho mưa, Mưa đưa cho gió, gió đưa cho chàng. Thương cha thương mẹ có khi, Thương em lúc đứng, lúc đi, lúc ngồi. Thương cha thương mẹ có hồi, Thương em lúc đứng, lúc ngồi cũng thương. Tiếc tiền mua cá, cá ươn, Mua rau, rau héo, mua nường, nường hư. Khi thương thương vội, khi lìa lìa xa. Trăng trăng, nước nước, trời trời, Người thương chẳng thấy, thấy trời nước trăng. Trăng tròn thì mặc trăng tròn, Bậu xinh mặc bậu, bậu xằng anh chê. Trời mưa ướt bãi ướt bờ, Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em. Trông anh trông đứng trông ngồi, Trông từ canh một trông hồi canh năm. Trồng hường bẻ lá che hường, Hường bao nhiêu lá thương nàng bấy nhiêu. U u minh minh thực phỉ chi tình, Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng ăn. Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ. Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho

102

2

36 Bài 2180/423

4

2

37 Bài 2182/423

2

1 4

38 Bài 2263/434 39 Bài 2278/436

2 4

1 2

40 Bài 2281/437 41 Bài 2298/439

2 2

3

42 Bài 2380/450

3

3

43 Bài 2566/474

4

2

44 Bài 2567/474

2

2

45 B ài 2568/475

2

2

46 Bài 2580/476

2

2

47 Bài 2597/478

2

2

48 Bài 2907/479

2

nhau. Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay, Móng tay móng vắn, móng dài. Anh đừng thấy đó bỏ đăng, Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn. Dây bìm bìm lá cũng bìm bìm, Đêm nằm gối gấm không êm, Gối lụa không mềm bằng gối tay em. Tay em tay trắng tay tròn, Không cho anh gối sợ mòn tay em. Đi đâu gánh gánh gồng gồng Hai tay cầm bốn trái dưa, Trái ăn, trái để, trái đưa cho chàng. Tay tôi lần theo đám cỏ bấc, Tay tôi cắt mấy cọng bàng, Cực khổ tôi tôi chịu, để cho chàng phong lưu. Áo trắng không vắn không dài, Sao anh không mặc, mặc hoài áo đen? Áo trắng xếp cất, áo đen đi làm. Ba cô đi cúng chùa ngoài, Cúng cam, cúng quýt, cúng xoài cà lăm. Ba năm hạc đáo về đình, Không cho hạc đậu tức mình hạc bay Bông liên, bông lý, bông lài, Phù dung, vạn thọ, nở ngày bông trang. Chanh chua thì khế cũng chua, Chanh bán có mùa, khế bán tư niên. Chiều chiều bắt nhái cắm câu, Nhái kêu cái ẹo,thảm sầu nhái ơi.

Trong ca dao Nam Bộ, chúng ta thường gặp các kiểu lặp sau đây:

- Lặp đầu câu bằng các từ, ngữ, cụm từ. Lặp đầu là biện pháp tu từ cốt

ở việc lặp lại một vài yếu tố ở đầu câu trong một số câu tiếp theo. Số bài sử

dụng hình thức lặp đầu là 87/387 bài, chiếm tỉ lệ 22,4%. Ví dụ:

103

- Anh đi thuyền gạo Gò Công, Anh về Bao Ngược bị giông rách buồm, Rách buồm nước chảy có cuồn, Anh đi về đó dựng buồm chạy luôn - Thấy dừa thì nhớ Bến Tre, Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang. - Cần câu nhơn, Cần câu ngãi, Cần câu phải, Cần câu khôn. Ân ai các đảng cô hồn, Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu

Lặp đầu "Anh đi", "Thấy", "Cần câu", được sử dụng trong các bài ca

trên nhằm nhấn mạnh đối tượng được đề cập cũng như thái độ, nỗi niềm của

chủ thể trữ tình trước đối tượng đó.

- Lặp cuối là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài yếu tố ở cuối câu

trong một số câu tiếp theo. Trong cuốn Ca dao Nam Bộ, lặp cuối có số lượng

là 11/387 bài, chiếm tỉ lệ 2,8%.Ví dụ:

- Anh đi ghe rổi chín chèo, Bởi anh thua bạc nên nghèo, nợ treo. Nợ treo mặc kệ nợ treo, Em bán bánh bèo trả nợ nuôi anh. - Anh đến đây đàng cũng xa đàng, Hai bên lạ hết, có mình nàng anh quen. Anh muốn quen, lên xuống thời quen, Muốn gần qua lại đôi phen thời gần.

Ở bài ca dao trên, dù biết nhân vật anh nghèo, đang mắc nợ “nợ treo”

nhưng em thuyết phục anh hãy chấp nhận em, em sẽ cố gắng bán buôn để

kiếm tiền trả nợ thay anh. Ở bài ca dao dưới, từ “quen” ở câu trước chỉ sự để

104

ý của chàng trai, lặp lại từ “quen” ở câu sau nhằm nhấn mạnh mức độ gần gũi

thân mặt theo chiều hướng tình cảm tốt đẹp hơn trước.

Ngoài ra có những trường hợp từ ngữ ở đầu câu, đầu bài được lặp lại ở

cuối câu, hay cuối bài ca dao. Trường hợp lặp này có 9/387 bài, chiếm 2,3%:

- Choàng tay qua cổ, nước mắt đổ ướt mình,

Anh thương, em chẳng nghĩ tình anh thương

- Ăn sao cho được mà mời,

Thương sao cho được vợ người mà thương.

- Biển đông sóng dợn ba đào,

Ngãi nhơn khác thể sóng trào biển đông.

- Lặp cách quãng: là dạng lặp trong đó những từ ngữ được lặp lại đứng

cách xa nhau. Theo khảo sát của chúng tôi, đây là hình thức lặp phổ biến nhất

trong quyển Ca dao dân ca Nam Bộ, với số lượng 241/387 bài, chiếm tỉ lệ 62,3%.

- Bánh canh cọng vắn, cọng dài,

Bánh tầm xe cọng dài, cọng vắn.

- Hỏi cô gánh nước đường xa,

Còn bao gánh nữa để qua gánh dùm.

- Đến đây anh mở miệng ngỡ ngàng,

Lạ người, lạ mặt, lạ làng khó phân.

Ở các bài ca dao trên, hình thức lặp đứng xa nhau từ “gánh” ở câu trước diễn

tả cô gái đang làm công việc nặng nhọc là gánh nước về nhà để dùng. Từ “gánh” lặp

lại lần 2 ở giữa câu sau, người con trai hỏi số lượng gánh nước còn lại mà cô gái phải

làm. Từ “gánh” lặp lại lần thứ 3 ở cuối câu sau, chàng trai muốn chia sẻ với cô gái

công việc nặng nhọc là gánh nước. Thật là một anh chàng rất "ga lăng".

- Lặp liên tiếp: là dạng lặp trong đó những từ ngữ được lặp lại trực tiếp

đứng bên nhau nhằm tạo nên ấn tượng mới mẻ có tính chất tăng tiến. Dạng

lặp này chỉ có 26/387 bài, chiếm 6,8%.Ví dụ:

105

- Em khuyên anh đừng lại lại qua qua, Mẹ cha biết đặng, đánh la tụi mình. - Không ai hôm sớm bạn cùng, Nương mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu. - Muốn người ta, người ta không muốn, Xách cây dù đi xuống, đi lên. -Tiếc tiền mua cá, cá ươn,

Mua rau, rau héo, mua nường, nường hư.

Việc lặp lại từ “người ta” phía trước là ý chàng trai thương thầm cô gái

ấy, nhưng “người ta” lặp lại kề bên là cô gái ấy không thích chàng trai. Do vậy,

trai phải nhiều lần nhọc công “đi xuống, đi lên” để tạo ấn tượng cho cô gái ấy,

hy vọng rằng, sự kiên trì của mình sẽ làm cho cô gái đổi ý trong tương lai. Bài ca

dao kế tiếp, diễn tả sự thất vọng, đau khổ của nhân vật anh trữ tình - anh ấy bỏ

tiền ra để mua cá, mua rau về ăn nhưng thất vọng vì bị lừa mua nhằm cá thì ươn,

rau thì héo… những thức ăn không tươi nên anh ấy tiếc tiền. Sự tiếc nuối, thất

vọng ấy ngày càng tăng lên khi cuối bài anh ấy lại thất vọng não nề khi bỏ tiền ra

để cưới vợ hiền về chăm lo cho gia đình, nhưng kết quả là cưới nhằm một người

vợ không ra gì.

- Lặp vòng tròn: là một dạng lặp có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối câu

trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm cho câu văn, câu thơ

liền nhau như đợt sóng. Người ta thường dùng nó trong thơ trữ tình để diễn tả

một cảm giác triền miên. Có 13/387 bài sử dụng cách lặp vòng tròn, chiếm tỉ

lệ 3,4%. Ví dụ:

- Đường xa thì thiệt là xa, Mượn mình làm mối cho ta một nàng. Một nàng ở đất Mỹ An, Một nàng vừa đẹp vừa sang như mình. - Ví dầu nhà dột cột xiêu, Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng ăn. Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ. Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho nhau.

106

Ở bài ca dao đầu, từ “một nàng” ở cuối câu là nhân vật anh nhờ nhân

vật em - nhân vật là “mình” làm mai cho anh một người con gái khác. Nhưng

“một nàng” lặp lại ở đầu câu sau phải ở đất Mỹ An, phải đẹp, phải sang như

bà mối - nhân vật đang trò chuyện cùng anh. Anh chàng này tỏ tình rất khéo

léo, nhờ người ta làm mai cho mình một người con gái phải hội đủ những

ngoại hình, tính cách như “bà mai” đang đứng trước mặt mình. Nếu “bà

mai” không giúp được anh tìm cô gái giống như anh yêu cầu thì “bà mai”

phải nhận lời lấy anh. Có chút tinh quái trong sự tính toán của chàng trai.

Tóm lại, phép lặp được sử dụng trong ca dao dân ca rất đa dạng và

phong phú, phép lặp giúp ca dao có khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh,

diễn tả nhiều sắc thái khác nhau của tình cảm người dân Nam Bộ: vui mừng,

cảm động, thiết tha, trìu mến, đau thương, thâm trầm, mỉa mai, hài hước.

3.2.2.3. Câu hỏi tu từ

Câu hỏi tu từ "là câu hỏi mà về thực chất là câu khẳng định hoặc phủ

định có cảm xúc. Nó có dạng không đòi hỏi câu trả lời mà chỉ nhằm tăng

cường tính diễn cảm của phát ngôn" [39, tr.194].

Câu hỏi tu từ là loại câu hỏi được dùng nhiều trong văn học - nghệ

thuật. Câu hỏi tu từ không nhằm mục đích tìm hiểu, làm rõ vấn đề, không cần

câu trả lời, mà nhằm mục đích khẳng định lại, nhấn mạnh hơn nội dung mà

tác giả muốn gửi gắm. Về chủ thể, người nêu câu hỏi có thể xác định được,

nhưng không xác định rõ ràng người được hỏi là ai.

Trong ca dao Nam Bộ, câu hỏi tu từ được sử dụng với số lượng đáng kể.

Xin quan sát bảng thống kê sau đây:

107

Bảng 3.4. Thống kê câu hỏi tu từ trong một số bài ca dao Nam Bộ

TT

CÂU CA DAO DÙNG CÂU HỎI TU TỪ

BÀI CA DAO/ TRANG 1 Bài 21/130 2 Bài 27/ 131

TỔNG SỐ CÂU 5 6

SỐ CÂU HỎI TU TỪ 1 1

3 Bài 44/ 134

2

2

4 Bài 105/ 144

1

3

5 Bài 134/ 150

18

3

Anh đây nói thiệt sao em còn so đo? Làm trai Thanh Phú cưới nàng được chăng? Cầu nào cao bằng cầu Cái Cối, Gái nào giỏi bằng gái Bến Tre Bánh phồng, bánh tráng đất này đâu ngon? Kinh nào chạy thẳng nối liền hai nơi? Đèn nào cao nhất tiếng đời đều nghe? Hồ nào với biển cặp kè bên nhau? Ai che con mắt bậu đi?

1

2

6 Bài 154/154

1 1 2

8 2 4

7 Bài 162/155 8 Bài 166/156 9 Bài 217/163

1 1 1

2 3 2

10 Bài 250/168 11 Bài 274/172 12 Bài 295/175

1 1 1

2 2 2

13 Bài 304/176 14 Bài 375/185 15 Bài 385/186

1

3

16 Bài 390/187

1 1

2 2

17 Bài 395/188 18 Bài 408/190

2

2

19 Bài 441/194

1 1 2

2 2 6

20 Bài 460/196 21 Bài 495/201 22 Bài 508/203

Anh đây đối đặng má hồng tính sao? Ăn cơm không đũa, ăn trầu không vôi? Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không? Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang như thế nào? Em bước vô nhà thấy ai nằm đó? Biết chừng nào anh cưới đưoợc em? Anh xót ngọc tiếc hương sao ngoài sương không che đậy? Ai đơm cho bậu hay là bậu đơm? Để coi cây quế ngả tàn về đâu? Tình xưa nghĩa cũ, nhớ chút nào hay không? Phụ mẫu hay đặng, không lẽ đánh mình, giết em? Hai đứa mình kết vợ chồng nghen? Lòng em thương ai biết, dạ em chờ ai hay? Buổi chợ đông em em chẳng bán hàng, Để tan buổi chợ dạo làng bán chuyên? Tại sao rơi lụy ướt đầm gối hoa? Chuyện khôn, chuyện dại ai bày cho em? Canh chua lét sao rằng canh ngọt? Cá không chân sao gọi cá leo? Hay là em có tư tình với ai?

1

4

23 Bài 527/206

108

2

6

Bài 539/207

2

8

24 Bài 524/219

1

5

25 Bài 654/223

1 1 1 1 1

4 4 2 2 2

26 Bài 666/225 27 Bài 675/226 28 Bài 682/227 29 Bài 692/228 30 Bài 712/230

1

6

31 Bài 723/232

1 2

5 2

32 Bài 731/233 33 Bài

1885/385

1

Con cá chi dưới biiển không xương? Trai nam nhi đối đặng, thiếp lường tính sao? Người nào là vợ Vân Tiên? Người nào người ngỡi tôi đâu? Cơm ăn chẳng đặng, bạn vàng biết chăng? Hay là em có nơi nào phụ anh? Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn? Chuối ở một mình sao chuối có con? Đêm nằm nghĩ lại coi ai bạc tình? Qua về xứ sở, hỏi bậu vấn vương nơi nào? Đây anh đã đối được, vậy nàng đã ưng chưa? Kết duyên rồi lại bạc tình sao nên? Thông thổ mồ tổ anh ở đâu? Anh tới đây, anh bủa lưới giăng câu một mình? Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường?

4

34 Bài

1944/392

1

Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu?

7

35 Bài

1951/393

1

Chồng em còn thuốc, theo anh làm gì?

2

36 Bài

1968/396

1

4

37 Bài

1995/399

4

11

38 Bài

2024/402

1

4

39 Bài

2045/405

1

Xuân thu anh đáng mấy, hường nhan anh thế nào? Trăm thứ dầu, dầu gì không thắp? Trăm thứ bắp, bắp gì không rang? Trăm thứ than, than gì không quạt? Trăm thứ bạc, bạc gì không mua? Thiếu gì loan phụng sao anh tìm quạ khoang? Còn chút xíu nữa tại sao không thành?

2

40 Bài

2095/411

1

2

41 Bài

2114/413

1

Mình xa tôi nhớ, sao tôi xa mình, mình quên? Hỏi thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa?

2

42 Bài

2161/420

109

43 Bài

3

1

Miệng thời nói vậy, nào hay tấc lòng?

2170/421

44 Bài

4

1

Để coi vợ ruột phụng thờ ra sao?

2184/423

45 Bài

5

1

2208/426

46 Bài

4

1

Muốn vô chắp nối, em có bằng lòng hay không? Cái nghĩ tao khang sao chàng vội đứt?

2216/427

47 Bài

2

1

2285/437

48 Bài

2

1

Về làm dâu, cha mẹ chồng dằn mâm đập chén, anh có đau lòng không? Vợ xa chồng biết tính kế nào đây?

2341/444

49 Bài

2

1

Vợ chồng xa cách hỏi ai không buồn?

2371/448

50 Bài

11

1

2377/449

51 Bài

4

1

Ối Mười ơi! Sao em để vậy còn gì áo anh? Chỉ con vùa rưỡi hỏi mình tính sao?

2388/451

52 Bài

2

1

Bên tình bên nghĩa bên nào nặng hơn?

2411/454 Theo sự khảo sát của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ, hình thức câu

hỏi tu từ cú pháp thường hay đi kèm với lối nói có chút phô trương, cường

điệu, có chút phóng đại, khoa ngôn nhưng chỉ có hình thức kết hợp này thì

tính đề cao nội dung biểu đạt mới được phát huy tối đa tác dụng. Ví dụ :

- Cầu nào cao bằng cầu Cái Cối ?

Gái nào giỏi bằng gái Bến Tre ?

- Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ ?

Gió nào dữ bằng gió Đồng Nai ?

Trai nào khôn bằng trai Cao Lãnh ?

Gái nào bảnh bằng gái Ba Tri ?

Nhưng ít ai nghĩ, từ cách nói ấy mà tác giả dân gian đã có một sự liên

tưởng hết sức bất ngờ. Cái cao, cái đẹp, cái giỏi, cái khôn, cái bảnh… ít nhiều

đều lộ ra bên ngoài và dễ nhận thấy; mà nhận thấy được thì mới đáng được đề

110

cao - là một niềm tự hào vô biên. Sự sáng tạo của tác giả dân gian thật giản dị,

thô sơ, mộc mạc mà vô cùng thâm thúy.

Người Nam Bộ đôi khi dùng lối nói quanh co, không đi ngay vào đề tài

chính, chủ yếu là để tranh thủ thời gian tìm ý nhằm diễn tả điều muốn bày tỏ:

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc

Đất nào dốc bằng đất Nam Vang

Một tiếng anh than hai hàng lụy nhỏ

Em có chút mẹ già biết bỏ ai nuôi ?

Cô gái trong bài ca dao muốn từ chối lời tỏ tình của chàng trai nên cô

không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi bóng gió, là cái cớ nêu ra để từ chối

nhưng khi đã vào đề, cô lại nói rất thẳng thắn, sở dĩ cô từ chối lời tỏ tình của

chàng trai vì còn phải lo phụng dưỡng mẹ già. Lời từ chối nhẹ nhàng này đã

được câu hỏi tu từ cú pháp diễn đạt rất thi vị, đạt được ý nguyện mà cô gái

muốn gửi gắm.

Nam Bộ là một vùng sông nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt, cho

nên từ lâu hình ảnh chiếc ghe, con đò, dòng sông, chiếc cầu... là hình ảnh hết sức

quen thuộc với người dân nơi đây. Ngay từ thuở lọt lòng, họ đã được tắm gội

bằng dòng nước trong xanh. Khi lớn lên, họ lại đi trên những chiếc cầu tre nối

nhịp đôi bờ; những khi buông câu, thả lưới, lúc chở hàng ra chợ bán... họ đều

gắn chặt cuộc đời mình với dòng nước mênh mông. Vì vậy, trong những câu ca

dao, ít nhiều hình ảnh dòng sông, chiếc ghe, con đò cũng hiện hữu trong đó.

Ghe ai đỏ mũi xanh lườn,

Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em ?

Từ phải là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi tu từ. Không cần người

đáp, hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có phải thì hãy đến nơi hẹn, hãy thẳng nơi

mà đến còn không phải thì chỉ việc đi ngang qua. Trong bài ca dao, người con gái

nhận dạng chiếc ghe của người yêu mình - chiếc ghe của người yêu cô có đặc điểm:

"đỏ mũi, xanh lườn", nên khi thấy chiếc ghe có đặc điểm này thì cô gái mừng thầm,

111

đinh ninh là ghe của người yêu xuống thăm mình. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn

trọng, không hấp tấp vội vã. Vì cả vùng sông nước này có biết bao chiếc ghe có

cùng đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ, nên cô gái mới đặt lời ướm hỏi.

Người Nam Bộ thường có thói quen dùng lối nói ví von, mượn các hình

ảnh quen thuộc, gần gũi của đời thường để nêu lên ý mình định nói. Các hình

ảnh quen thuộc được lặp đi lặp lại trong cách nói của họ cho đến khi thành tiềm

thức, để khi có dịp thì tự động bật ra. Người dân Nam Bộ hay dùng câu hỏi tu

từ để ngợi ca cái hay, cái đẹp về con người và vùng đất họ đang sinh sống.

- Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh

Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ ?

- Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ

Làm chi nay đợi mai chờ

Linh đinh Phong Mỹ, dật dờ Hòa An.

Các câu hỏi trong hai bài ca dao trên chỉ yếu để khẳng định cái hay, cái

đẹp của quê hương, xứ sở, đồng thời còn là sự bày tỏ tình yêu tha thiết của tác

giả dân gian với quê hương Nam Bộ bao quanh sông nước, nơi đất lành chim

đậu, quanh năm cây trái tốt tươi.

Câu hỏi tu từ không thực sự là câu hỏi, nó không được hỏi để chờ câu

trả lời, chúng chỉ là lời khẳng định bằng cách hỏi. Tác giả dân gian thường

dùng câu hỏi tu từ như một cách thức bộc lộ niềm tự hào, mến thương với

những gì gắn bó:

Bước xuống cầu, cầu oằn cầu oại

Bước xuống thuyền, thuyền chích thuyền nghiêng

Cả tiếng kêu người nghĩa phong điền

Người nghĩa ơi, duyên đây không kết, còn tìm nơi đâu ?

Ca dao đọng lại trong tâm hồn con người bằng cái tình quê dung dị, hiền

hòa, nhất là tình nghĩa con người sâu nặng: người nghĩa ơi, duyên đây không

112

kết, còn tìm nơi đâu? Câu hỏi được đặt ra không nhất thiết phải có người trả lời

vì làm sao trả lời được câu hỏi thấm đẫm nghĩa tình của xứ sở “muỗi kêu như

sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh”. Người dân Nam Bộ đã góp nhặt những tiếng

nói ân tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính

biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có

hình ảnh cây bần, một loại cây rất gần gũi với bà con Nam Bộ.

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ?

Cây bần là loại cây đặc thù ở vùng đất bồi lắng phù sa. Cây bần còn gọi là

cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh rạch hay xen lẫn trong những đám lá

dừa nước. Là loại cây sống trong môi trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô

lên khỏi mặt bùn. Bà con Nam Bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái.

Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình

với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá

mới lạ về loài cây này.

Bài ca dao trên, tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số phận

hẩm hiu của người phụ nữ: hình ảnh gió dập sóng dồi cộng thêm câu hỏi tu từ

biết tấp vào đâu ? thật sắc sảo vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi. Khi

nước tràn về các con sông, kênh, rạch, lung, đìa… làm cho trái bần trôi dạt

theo dòng nước mà không biết sẽ về đâu.

Có khi câu hỏi tu từ của ca dao Nam bộ gắn với hình ảnh bèo khá gần

gũi, thân thuộc, từng có mặt trong ca dao của nhiều miền đất nước:

Thân em như thể bèo trôi

Sóng dập gió dồi biết dựa vào đâu ?

Bài ca dao miêu tả thân phận, cuộc đời của người phụ nữ, có số kiếp

hẩm hiu, bạc bẽo. Các câu ca dao này đã thể hiện nỗi cảm thông sâu sắc đối

với thân phận người phụ nữ. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia bị lệ thuộc, ràng

buộc bằng nhiều sợi dây, hữu hình và vô hình, khiến họ không thể vươn lên:

113

Thân em như cá ở trong lờ

Hết phương vùng vẫy, không biết nhờ nơi đâu ?

Dân gian thường dùng những từ ngữ rất mang tính địa phương: lờ hay

từ láy: vùng vẫy. Từ những sự vật, hình ảnh cụ thể, người xưa đã thổi hồn vào

nó, mang đến cho người đọc những ý nghĩa rất sâu sắc, nhân văn, thể hiện

tâm hồn nghĩa tình của người dân Việt.

Ngoài ra, các câu ca dao dạng câu hỏi tu từ thường kết hợp với biện

pháp tu từ so sánh bằng các hình ảnh: cá vô lờ, trái bần... là những hình ảnh

rất quen thuộc với đời sống nông thôn, giúp người đọc dễ nhận biết.

Tình yêu nam nữ là phạm trù mang tính đa dạng, đầy màu sắc và mang

nhiều cung bậc tình cảm khác nhau: buồn vui, thương nhớ, tương tư, hờn

dỗi… Trong quá trình khảo sát câu hỏi tu từ trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi

nhận thấy cách thức bày tỏ tình cảm giữa nam và nữ trong ca dao cũng được

các tác giả dùng rất nhiều trong các sáng tác của mình. Hay nói cách khác họ

xem đó là hình thức "tỏ tình".

Tóc ngang vai vừa tay em bới

Em để chi dài bối rối dạ anh ?

Cách nói hồn nhiên, thành thật và dễ thương của chàng trai. Anh nói như

van xin, khẩn cầu cô gái hãy búi tóc lên cao đừng để tóc chấm ngang vai khiến

lòng anh khổ não, bối rối nhưng thật ra đó lại là một lời trách rất đáng yêu,

đáng quý, một cách trách khôn khéo, trách để mà khen và để thổ lộ tình yêu, để

giãi bày tâm sự cùng cô gái. Chàng trai xao xuyến làm vì hình dáng của người

con gái có duyên. Quả đúng như Hoài Thanh nhận xét: "Nhiều câu có lối nói

tưởng như không biết gì mà vẫn thấy hay…đâu phải là chuyện yêu cầu bối tóc

vì tóc khi đã được bối lên, chắc gì đã khiến anh hết bối rối, bâng khuâng".

Mảnh đất Nam Bộ luôn chứa trong mình những câu ca dao nói về tình

yêu đầy dấu ấn. Con người Nam Bộ vốn dĩ rất mộc mạc, chân thành, hồn

nhiên, giản dị và điều đó thể hiện thật đậm nét trong những vần ca dao của họ.

114

Chính yếu tố bình dị, mộc mạc, dễ hiểu đã làm cho ca dao Nam Bộ có sức

sống mãnh liệt.

Tình yêu trong ca dao Nam Bộ là những tiếng hát thầm kín, chân thành

nhất. Các chàng trai, cô gái khi hát lên những tiếng hát về tình yêu - chính là

những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, đồng thời nói lên

quan niệm của mình về cái đẹp lí tưởng của con người.

Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng cần ai trả lời, bởi đó là

cách nói khó, chỉ có câu hỏi tu từ cú pháp mới thể hiện được ý nghĩa của hình

thức nghệ thuật này. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến

của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi.

Nước không chân sao kêu nước đứng

Con cá không trèo sao nói cá leo ?

Ai mà đối đặng giàu nghèo em cũng ưng.

Nhiều lúc câu hỏi tu từ cú pháp lại được sử dụng để bày tỏ nỗi lòng

chua chát, trách móc của nhân vật trữ tình:

Áo bà ba cái ngắn cái dài

Sao anh không bận, bận hoài chiếc áo bành tô?

Cô gái sử dụng câu hỏi tu từ để trách móc nhẹ nhàng chàng trai, trách

người ấy đã làm việc lẽ ra không nên làm để làm buồn lòng, sầu khổ cho cô.

Câu hỏi tu từ còn có tác dụng thể hiện nỗi niềm xót xa cho thân phận lỡ

duyên của nhân vật trữ tình. Có nhiều người ế muộn vì hoàn cảnh, có người ế

muộn vì quá kén chọn lúc còn trẻ, hãy nghe tâm tư của cô gái lỡ thì, ế chồng.

Buổi chợ đông sao em chẳng bán hàng

Để tan buổi chợ dạo làng bán chuyên ?

Tóm lại, câu hỏi tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ có tính hình tượng

rất cao vì qua cách hỏi nhằm giải bày tình cảm, có thể thấy được chân dung

cảnh vật hay con người. Ngoài ra, phép tu từ này còn sử dụng các từ ngữ gần

115

gũi với đời sống, dễ hiểu, có tính đa nghĩa và hàm súc, tăng khả năng khơi gợi,

liên tưởng, lời ít mà hàm ý sâu xa.

Câu hỏi tu từ cú pháp mang tính truyền cảm vì nó có khả năng gợi cảm

xúc, tạo nên những hiệu ứng, sự giao cảm của văn bản với người đọc. Tính

truyền cảm được thể hiện trực tiếp bằng ngôn từ, giọng điệu, thể hiện được

nét riêng, cá tính sáng tạo của tác giả dân gian trong các sáng tác của mình.

Tiểu kết chương 3

Toàn bộ chương 3 đã được dành để khảo sát, phân tích cách sử dụng

các biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ. Luận văn đã đi sâu và hai nội dung

cơ bản: một số biện pháp tu từ ngữ nghĩa và một số biện pháp tu từ cú pháp.

Đây là những vấn đề, theo chúng tôi, khá nổi bật trong ca dao Nam Bộ.

Về tu từ ngữ nghĩa, các biện pháp đã được tìm hiểu, lí giải là so sánh,

chơi chữ. Từ mô hình chung của phép so sánh, chúng tôi đánh giá những nét

đặc sắc của cách so sánh trong ca dao Nam Bộ trên ba tiêu chí: hình ảnh so

sánh và cấu trúc so sánh và cách dùng từ so sánh. Lối chơi chữ của người

Nam Bộ trong ca dao cũng có những nét riêng so với ca dao ở các vùng miền

khác. Những điều này được làm rõ qua các số liệu và sự phân tích ngữ liệu.

Về tu từ cú pháp, chúng tôi đi sâu nghiên cứu phép sóng đôi, phép lặp

và câu hỏi tu từ. Ở mỗi biện pháp, luận văn đều đưa ra bảng thống kê để có

cái nhìn định lượng, trên cơ sở đó, cảm nhận và phân tích những giá trị biểu

hiện của chúng.

116

KẾT LUẬN

Qua khảo sát một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam

Bộ, chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:

1. Ca dao Nam Bộ là một bộ phận hữu cơ trong nền thơ ca dân gian Việt

Nam, là tiếng nói phản ánh tâm tư, tình cảm, đời sống lao động, đấu tranh,

những nhu cầu và khát vọng... của con người nơi mảnh đất "Chín Rồng".

Những nét riêng của ca dao nơi vùng đất này không chỉ ở mặt nội dung, ở hiện

thực cuộc sống và tâm tình con người nó đã tái hiện, mà còn ở phương diện

hình thức, trong đó, có các phương tiện và biện pháp tu từ - tức là cái cách trau

dồi ngôn từ để ca dao Nam Bộ ánh lên những vẻ đẹp riêng của nó.

2. Trước khi đi vào khảo sát cụ thể các phương tiện và biện pháp tu từ

trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã tập trung giải quyết một số vấn đề có tính

chất khái quát hoặc liên quan đến lí thuyết. Đó là khái niệm ca dao, sự phân

biệt ca dao với các thể tài gần gũi; tình hình nghiên cứu ca dao từ góc độ văn

học và góc độ ngôn ngữ học; vấn đề tu từ nghệ thuật và nghiên cứu tu từ trong

ca dao... Cũng trong chương 1, luận văn đã phác dựng một cách đại lược miền

đất và con người Nam Bộ, giới thiệu tổng quát về ca dao Nam Bộ trong tương

quan với ca dao của các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam.

3. Khảo sát một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ là nhiệm vụ

của chương 2. Trên cơ sở khái niệm phương tiện tu từ và việc sử dụng

phương tiện tu từ trong văn bản nghệ thuật, luận văn tập trung đi vào khảo sát

một số phương tiện chủ yếu. Trước hết là lớp từ ngữ thơ ca. Về lượng, lớp từ

ngữ này có tỉ lệ không cao trong vốn từ được dùng, song sự có mặt của chúng

trong ca dao tạo nên nét tương phản hình thức rất đặc biệt: con người Nam Bộ

vốn chân chất mộc mạc, vậy mà trong biểu đạt tình cảm, có khi lại cũng hết

sức thi vị, trữ tình. Bên cạnh lớp từ thi ca, lớp từ Hán-Việt cũng rất đáng chú

ý. Thực ra, lớp từ này có sự "giao thoa" với lớp từ thi ca; nói cách khác, hầu

hết các từ thi ca, xét về nguồn gốc, là từ Hán-Việt. Từ Hán-Việt có thể được

117

dùng tương đương nghĩa với từ thuần Việt, hay cũng có những từ Hán-Việt

không có từ thuần Việt với nghĩa tương đương. Chính sự đa dạng trong sử

dụng đã mang lại cho lớp từ Hán-Việt một giá trị biểu đạt nổi bật trong ca dao

Nam Bộ. Ngoài ra, chúng tôi cũng khảo sát rất kĩ lớp từ nghề nghiệp, lớp từ

địa phương, lớp từ láy. Sự khảo sát, phân tích và đánh giá bao giờ cũng trên

nguyên tắc: từ định lượng đến định tính. Ở mỗi lớp từ, chúng tôi đều lập bảng

thống kê, và mọi sự phân tích đều dựa trên những cứ liệu cụ thể.

Về tu từ ngữ nghĩa, chúng tôi nghiên cứu một số phương tiện nổi bật:

ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại. Ẩn dụ được dùng rất phổ biến trong ca dao Nam

Bộ. Đây cũng là nét chung của ca dao. Tìm hiểu ca dao Nam Bộ, chúng tôi

nhận thấy, được dùng nhiều là những hình ảnh: tơ với nguyệt, bướm ong, lựu

đào, trăng sao, loan phụng, rồng mây, cá với nước, cây đa bến đò, chài lưới,

nguyệt hoa, lên ngựa xuống xe, chim oanh ương kết bầy, cá vầy đôi bạn, bắp

non trổ cờ, gió thổi bốn mùa, sóng trào biển dâng, bông thơm bướm đậu, cây

đắng sanh trái ngọt…Đây là những hình ảnh hết sức quen thuộc trong đời

sống của con người nơi vùng đất này. Lối nhân hóa, phóng đại của ca dao

Nam Bộ cũng được thực hiện trên nguyên tắc ấy. Do đó, qua các phương tiện

tu từ ngữ nghĩa, ta có thể nhận diện một cách khá dễ dàng những nét riêng của

con người Nam Bộ biểu hiện qua ca dao.

4. Các biện pháp tu từ của ca dao Nam Bộ là nội dung được giải quyết

ở chương 3 của luận văn. Về tu từ ngữ nghĩa, chúng tôi tìm hiểu kĩ hai biện

pháp: so sánh và chơi chữ. So sánh vốn là biện pháp đắc dụng ở thơ ca, ca

dao Nam Bộ cũng không ngoài thông lệ đó. Khảo sát cả bình diện cấu trúc so

sánh và bình diện hình ảnh so sánh, chúng tôi nhận thấy ca dao Nam Bộ có

cách xử lí riêng. Nếu cấu trúc so sánh thường linh hoạt, ít tính khuôn mẫu, thì

hình ảnh so sánh thường là những gì quen gặp trong đời sống con người nơi

đây, kể cả thế giới thiên tạo và thế giới nhân tạo. Vì thế, đọc ca dao Nam Bộ,

gặp những câu có sử dụng so sánh, không thể nhầm lẫn với ca dao của bất cứ

118

miền nào khác. Chơi chữ là biện pháp được sử dụng không nhiều, và đặc biệt,

rất ít tính "bác học" như ca dao Bắc Bộ hoặc ca dao Nghệ Tĩnh. Lối chơi chữ

của con người Nam Bộ trong ca dao thường ít lắt léo, ít tính chất sách vở, hài

hước một cách nhẹ nhàng, không quá thâm trầm, sâu sắc.

Về tu từ cú pháp, chúng tôi đi sâu ba biện pháp: sóng đôi, lặp và câu

hỏi tu từ. Sóng đôi vốn rất đậm tính cổ điển, được văn học viết ưa dùng. Ca

dao Nam Bộ sử dụng sóng đôi, nhưng không quá chặt chẽ về hình thức. Có

khi sóng đôi thể hiện ở từng vế trong một câu, có khi sóng đôi biểu hiện ở

từng cặp câu, do vậy, lời ca vẫn rất phóng túng. Tương tự, phép lặp trong ca

dao Nam Bộ cũng rất biến hóa: lặp từ, lặp cụm từ, lặp hình ảnh, lặp vế câu

hoặc lặp câu. Về vị trí, có lặp đầu, lặp cuối, lặp vòng, mục đích là nhấn mạnh

và gây ấn tượng cho người đọc. Câu hỏi tu từ trong ca dao Nam Bộ cũng

không đơn điệu về hình thức. Có khi câu hỏi ở cuối mỗi bài, có khi hỏi dồn

dập ở các câu. Tùy trường hợp mà ta có thể cảm nhận được trạng thái tình

cảm của chủ thể trữ tình.

Tu từ trong ca dao Nam Bộ là vấn đề khá rộng, những gì chúng tôi đã

trình bày trong luận văn này mới chỉ là kết quả khảo sát bước đầu. Có những

nội dung đã được tìm hiểu, phân tích kĩ lưỡng, nhưng cũng có những vấn đề

đang cần được tiếp tục suy nghĩ. Với những vấn đề đó, hi vọng sau này chúng

tôi sẽ có dịp trở lại, tìm hiểu, nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc hơn.

119

BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Nguyễn Thị Thanh Hằng, Khảo sát những phương tiện tu từ từ ngữ trong

ca dao dân ca Nam Bộ, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, tập 40, số

2B, 2011, tr.26-34.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Đào Duy Anh (2009), Hán Việt từ điển giản yếu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

[2]. Nguyễn Văn Ái chủ biên, (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Tp.HCM.

[3]. Lại Nguyên Ân chủ biên, (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

[4]. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên

nghiệp, Hà Nội.

[5]. Nguyễn Phương Châm (1998), "Sự khác nhau giữa ca dao người Việt

xứ Nghệ và xứ Bắc", Tạp chí Văn hoá dân gian, Hà Nội, (3), tr.9-12.

[6]. Nguyễn Phương Châm (2000), Ngôn ngữ và thể thơ trong ca dao người Việt

ở Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ, Viện nghiên cứu Văn hoá dân gian, Hà Nội,

tr.237.

[7]. Nguyễn Phương Châm (2001), "Từ gốc Hán, điển tích Hán trong ca dao người

Việt ở Nam Bộ", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, (6), tr.54-57.

[8]. Hà Châu (1996), "Cách so sánh trong ca dao ngày nay", Tạp chí Văn học,

Hà Nội, (9), tr.15-20.

[9]. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và

THCN, Hà Nội.

[10]. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[11]. Mai Ngọc Chừ (1991), "Ngôn ngữ ca dao Việt Nam", Văn học, Hà Nội.

tr.24-28.

[12]. Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian và phương pháp nghiên cứu

liên ngành, Tủ sách Đại học tổng hợp Tp.HCM.

[13]. Trần Phỏng Diều (2000), "Cảm xúc về sông nước qua ca dao, dân ca Nam

Bộ", Vannghesongcuulong.org.vn.

[14]. Nguyễn Định (1999), Ngôn ngữ và thể thơ ca dao Nam Trung Bộ, Luận

văn thạc sĩ, Viện nghiên cứu Văn hoá dân gian, 102 trang.

[15]. Giang Minh Đoán (1997), Kiên Giang qua ca dao, Nxb Văn nghệ

Tp.HCM.

[16]. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2001), "Thế giới biểu tượng sóng đôi trong ca

dao người Việt", Tạp chí Văn hóa dân gian, Hà Nội, (3).

[17]. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền

thống người Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường đại học Sư phạm Tp.

HCM.

[18]. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984),

Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb Tp. HCM.

[19]. Vũ Minh Giang chủ biên, (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

[20]. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Từ vựng học tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội.

[21]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, (1992), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[22]. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (tập 1 và 2),

Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

[23]. Đỗ Đức Hiểu, Nguyện Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên

(2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[24]. Nguyễn Thái Hòa (1995), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN,

Hà Nội.

[25]. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[26]. Hoàng Văn Hành chủ biên, (1994), Từ điển từ láy tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

[27]. Trần Đức Hùng (2008), Từ địa phương trong ca dao - dân ca Nam Bộ,

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ, Đại học Vinh.

[28]. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb KHXH, Hà Nội.

[29]. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên, (1995), Kho tàng ca dao

người Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

[30]. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1994), Văn học dân gian Việt Nam (tập 1),

Nxb Đại học và THCN, Hà Nội.

[31]. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1977), Văn học dân gian Việt Nam (tập 2),

Nxb đại học và THCN, Hà Nội.

[32]. Đinh Gia Khánh chủ biên, (1983), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

[33]. Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian đồng

bằng sông Cửu Long (tập 3), Nxb GD, Tp. HCM.

[34]. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

[35]. Trần Thị Ngọc Lang (2009), “Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ trong ca dao

- dân ca”, Khoa học xã hội, số 10 (134), tr.53-59.

[36]. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1993), Thực hành phong cách học

tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[37]. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

[38]. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[39]. Đinh Trọng Lạc chủ biên, (2004), Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học tiếng

Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[40]. Nguyễn Thế Lịch (1991), "Từ so sánh đến ẩn dụ", Ngôn ngữ, số 3, Hà Nội.

[41]. Nguyễn Văn Liên (1999), Một số phương tiện tu từ và biện pháp tu từ

trong ca dao tình yêu đôi lứa xứ Nghệ, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý

luận ngôn ngữ.

[42]. Huỳnh Thị Kim Liên (2006), Truyền thống và biến đổi trong ca dao dân

ca Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Trường đại học KHXH và NV

Tp.HCM.

[43]. Nguyễn Thị Na (2008), Biểu trưng của hình ảnh sông nước trong ca dao

Nam Bộ, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Đồng Tháp.

[44]. Sơn Nam (1985), Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Nxb Văn hóa

TP.HCM.

[45]. Trần Văn Nam (2003), “Xu hướng lựa chọn cái biểu đạt trong sự hình

thành các biểu trưng nghệ thuật của ca dao Nam Bộ", Tạp chí Văn hóa

dân gian, Hà Nội, số 1, tr.48-56.

[46]. Trần Văn Nam (2004), Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ, Luận án tiến sĩ

Ngữ văn, chuyên ngành Lý thuyết và lịch sử văn học, Trường đại học

KHXH và NV Tp.HCM.

[47]. Nguyễn Thị Ngọc (2010), Đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa lớp danh từ

trong ca dao xứ Nghệ và dân ca Nam Trung Bộ, Luận văn thạc sĩ chuyên

ngành Ngôn ngữ học, Đại học Vinh.

[48]. Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

[49]. Triều Nguyên (2001), Bình giảng ca dao, Nxb Thuận Hoá, Huế.

[50]. Triều Nguyên (2003), Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo

mô hình cấu trúc, Nxb Thuận Hoá, Huế.

[51]. Triều Nguyên (2009), Tiếng cười từ kho tàng ca dao người Việt, Nxb

Thuận Hoá, Huế.

[52]. Bùi Mạnh Nhị (1984), "Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao dân ca Nam

Bộ", Ngôn ngữ, (1), Hà nội.

[53]. Bùi Mạnh Nhị (1988), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo dục

An Giang.

[54]. Bùi Mạnh Nhị chủ biên, (1999), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp,

Văn học Việt Nam, Văn học dân gian - Những công trình nghiên cứu, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

[55]. Nguyễn Văn Nở (2000), "Hình ảnh “thân em” trong ca dao trữ tình đồng

bằng sông Cửu Long", Ngôn ngữ và Đời sống, số 10, Hà Nội.

[56]. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

[57]. Nguyễn Tấn Phát (1984), “Vài nét về nội dung ca dao dân ca Nam Bộ”, Ca

dao dân ca Nam Bộ, Nxb Tp.HCM, Tr.19-57.

[58]. Hoàng Phê chủ biên, (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội -

Trung tâm Từ điển học, Hà Nội

[59]. Thuần Phong (1958), Ca dao - giảng luận, Nxb Á Châu, Sài Gòn.

[60]. Đỗ Văn Tân (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa Thông tin Đồng Tháp.

[61]. Bùi Thị Tâm (1998), Những đặc điểm ngôn ngữ trong ca dao đồng bằng

sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,

Trường đại học KHXH và NV Tp.HCM.

[62]. Bùi Thị Tâm (2000), Đặc điểm ngôn ngữ trong ca dao Đồng bằng sông

Cửu Long, Đề tài nghiên cứu cấp Trường, Đại học Cần Thơ.

[63]. Lê Thị Minh Tâm (2010), Từ ngữ và biện pháp so sánh tu từ trong truyện ngắn

Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học, Đại học Vinh.

[64]. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ - Những phác thảo,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[65]. Trần Thị Diễm Thúy (1997), Thiên nhiên trong ca dao dân ca trữ tình

Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường đại

học KHXH và NV Tp.HCM.

[66]. Trần Thị Diễm Thúy (2003), “Người phụ nữ và hình tượng mù u trong câu

ca dao Nam Bộ”, Tạp chí Văn học, số 1 (371), tr.22-25.

[67]. Lê Thị Thu Thủy (2002), "Biểu tượng kênh, rạch, sông trong ca dao dân ca

Nam Bộ", Vannghesongcuulong.org.vn.

[68]. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.

[69]. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Đại

học và THCN, Hà Nội.

[70]. Cao Thị Cẩm Tú (2009), Cấu trúc so sánh “Thân em...” trong ca dao Nam Bộ về

chủ đề thân phận người phụ nữ, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Đồng Tháp.

[71]. Hoàng Tiến Tựu (1997), Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[72]. Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy - nghiên cứu

văn học dân gian, Nxb Giáo dục.

[73]. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[74]. Huỳnh Ngọc Trảng (1998), Ca dao dân ca Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Đồng Nai.

[75]. Lê Ngọc Trinh (1992), Hình ảnh sông nước Nam Bộ qua ca dao - dân ca,

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn, Trường đại học KHXH và NV

Tp.HCM.

[76]. Đoàn Thị Thu Vân (2008), “Hóm hỉnh trong ca dao tình yêu Nam Bộ”,

Văn hiến Việt Nam, số 12 (117), tr.22-23.

[77]. Viện ngôn ngữ học (1995), Từ điển từ láy tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[78]. Nguyễn Như Ý chủ biên, (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[79]. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.