ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHETSAMONE PHOUTSADY NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC, TỈNH XIÊNG KHOẢNG NƯỚC CHDCND LÀO (1986 - 2016) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thái Nguyên - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHETSAMONE PHOUTSADY NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC, TỈNH XIÊNG KHOẢNG NƯỚC CHDCND LÀO (1986 - 2016) Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8 22 90 13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ THỊ THU THỦY Thái Nguyên - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn

đầy đủ theo quy định.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019

TÁC GIẢ

Phetsamone PHOUTSADY

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành

tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lịch sử trường Đại học

Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và

hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.

Với lòng biết ơn chân thành, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Hà Thị

Thu Thủy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn

thành Luận văn Thạc sĩ.

Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cùng các thầy cô trong

Trường Cao Đẳng Sư Phạm Khangkhay đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình

học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn tới Phòng Thông tin Văn hoá, Phòng

Kế hoạch và đầu tư huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng, Hội đồng Cụm bản Nhot Ngừm,

Lat Buôc, Thông Háy, Phan, Lat Huông...đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình

tìm hiểu tư liệu để hoàn thành Luận văn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã

động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân

thành cảm ơn.

TÁC GIẢ

Phetsamone PHOUTSADY

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... iv

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN ..................................... v

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ....................................................................................... 2

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .......................................... 6

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 7

5. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 7

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC, TỈNH

XIÊNG KHOẢNG ...................................................................................................... 9

1.1. Vài nét về huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng ............................................................. 9

1.2. Khái quát về người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng .............................. 12

1.2.1. Nguồn gốc tộc người Mông .............................................................................. 12

1.2.2. Kinh tế - xã hội của người Mông ở huyên Pẹc trước năm 1986 ...................... 18

Chương 2.ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC,

TỈNH XIÊNG KHOẢNG (1986 - 2016) .................................................................. 22

2.1. Nông nghiệp ......................................................................................................... 22

2.1.1. Trồng trọt .......................................................................................................... 22

2.1.2. Chăn nuôi .......................................................................................................... 38

2.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên ............................................................................... 40

2.3. Thủ công nghiệp .................................................................................................. 42

2.3.1. Nghề rèn, đúc .................................................................................................... 42

2.3.2. Nghề mộc .......................................................................................................... 44

2.3.3. Nghề dệt ............................................................................................................ 45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.3.4. Nghề nấu rượu ngô ........................................................................................... 48

2.3.5. Nghề bốc thuốc chữa bệnh................................................................................ 49

2.4. Trao đổi hàng hóa ................................................................................................ 50

Chương 3. VĂN HÓA CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC, TỈNH

XIÊNG KHOẢNG (1986 - 2016) ............................................................................. 53

3.1. Văn hóa vật chất .................................................................................................. 53

3.1.1. Nhà cửa ............................................................................................................. 54

3.1.2. Đời sống ẩm thực .............................................................................................. 55

3.1.3. Mặc (trang phục) ............................................................................................... 60

3.2. Đời sống tinh thần ................................................................................................ 62

3.2.1. Tín ngưỡng, tôn giáo......................................................................................... 62

3.2.2. Phong tục tập quán ............................................................................................ 69

3.4. Lễ hội ................................................................................................................... 79

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 87

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 1.1.Thống kê dân số ở huyện Pẹc Tỉnh Xiêng Khoảng năm 2016 ..................... 16

Bảng 1.2.Thống kê về người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng (năm 2016) ... 17

Bảng 1.3. Số liệu điều tra nghề nghiệp trong số hộ gia đình của người Mông (2016) .... 17

Bảng 2.1.Phân loại đất nương của người Mông ở huyện Pẹc........................................ 24

Bảng 2.2.Nông lịch của người Mông ở huyện Pẹc. ........................................................ 31

Bảng 2.3.Sản lượng thu hoạch và tổng thu nhập từ trồng trọt của người Mông ở

huyện Pẹc, năm 2016 ....................................................................................... 32

Bảng 2.4.Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm bản Nhot Ngừm năm 2016 .. 33

Bảng 2.5.Sản lượng thu hoạch và tổng thu nhập từ trồng trọt của người Mông ở

Cụm bản Lat Buốc huyện Pẹc, năm 2016 ..................................................... 33

Bảng 2.6.Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm bản Lat Buốc năm 2016 ....... 33

Bảng 2.7.Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông ở Cụm bản Thông

Háy huyện Pẹc năm 2016 ................................................................................ 34

Bảng 2.8.Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm bản Thông Háy năm 2016 ... 34

Bảng 2.9.Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông ở Cụm bản Phan

huyện Pẹc, năm 2016 ....................................................................................... 34

Bảng 2.10.Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm bản Phan năm 2016 ............ 35

Bảng 2.11.Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông ở Cụm bản Lat

Huổng ở huyện Pẹc năm 2016. ....................................................................... 35

Bảng 2.12.Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm Bản Lat Huổng năm

2016.................................................................................................................... 35

Bảng 2.13. Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm Bản thuộc huyện Pẹc

năm 2016 ........................................................................................................... 36

Bảng 2.14. Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm Bản thuộc huyện Pẹc

năm 2016 ........................................................................................................... 36

Bảng: 2.15. Thống kê chăn nuôi theo số điều tra của người Mông ở huyện Pẹc

tỉnh Xiêng Khoảng năm 2016 ......................................................................... 39

Bảng: 2.16. Thu nhập từ chăn nuôi của người Mông ở huyện Pẹc tỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Xiengkhhouang năm 2016. ............................................................................. 40

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

STT Họ và tên Tuổi Chỗ ở

1 Ông Vasoualee Bản Viêng Khoan, xã Lat Buôc 62

2 Ông Vasayneng Bản Lat Buôc, xã Lat Buôc 73

3 Ông Kayeng Trưởng bản Tha Chôc, xã Nhot Ngừm 54

4 Chị Kalia Bản Na SA La, xã Nhot Ngừm 43

5 Ông Leeseng Bản Lat Ngon, xã Thông Hay 65

6 Ông Hervang Bản Na Hoi, xã Thông Hay 50

7 Anh Valee Bản Phôn Xay, xã Phăn 38

8 Ông Chamoua Bản Nong, xã Phăn 71

9 Bà Jongher Bản Lat Huông, xã Lat Huông, 60

10 Ông thorporxiong Bản Năm Tôm, xã Lat Huông 63

11 Anh Choyang Bản Khang Khay 41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

12 Ông Beelor Bản Phôn Savang 54

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một quốc gia đa dân tộc. Theo số

liệu thống kê năm 2015, nước Lào có 49 dân tộc cùng sinh sống và mỗi dân tộc lại có

một sắc thái riêng, độc đáo và được chia thành 04 nhóm ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ

Lào - Thái (Tày), nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme, nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, nhóm

ngôn ngữ Hán - Tây Tạng. Qua chiều dài lịch sử, các dân tộc đã luôn kề vai sát cánh

cùng sinh sống, sản xuất và chống ngoại xâm. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Nhân

dân Cách mạng Lào luôn coi vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng và xây

dựng chính sách dân tộc nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc để thực hiện sự nghiệp

đấu tranh chống thực dân đế quốc, phong kiến và tay sai, nhằm giành độc lập dân tộc,

xây dựng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Trong cộng đồng các dân tộc ở Lào, người Mông có số dân đông chiếm vị trí

thứ 3. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh từ miền Bắc đến miền Trung của Lào

như Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Bo Kéo, Luổng Năm Tha, Ụ Đôm Xay, Luổng Pha

Bang, Viêng Chăn, Bo Li Khăm Xay. Trong điều kiện lịch sử của nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND) Lào, người Mông có vai trò đặc biệt quan trọng

trong sự nghiệp cách mạng và trong sản xuất. Trải qua quá trình dựng nước và giữ

nước, họ đã góp phần sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, đã tích cực tham gia

các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, nhất là đấu tranh chống ngoại xâm, giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng chính mình. Bằng lao động sáng tạo

của mình, người Mông cũng đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát

triển kinh tế cho đất nước.

Ngày nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được nhiều thành tựu

to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,

quan hệ đối ngoại được mở rộng, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên.

Cơ chế kinh tế mới đã làm cho mọi hoạt động của người dân Lào nói chung, người

Mông nói riêng càng trở nên năng động, sáng tạo hơn. Tuy nhiên, trên bước đường

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, sự phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động tiêu cực đến các tầng

lớp xã hội, trong đó có người Mông. Bức tranh tổng thể vẫn là sự chênh lệch về trình

độ phát triển mọi mặt giữa các dân tộc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tập quán

canh tác lạc hậu, cơ sở hạ tầng nhiều nơi còn yếu kém, điều kiện sống của nhân dân

còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ

đến việc kế thừa, giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc.

Muốn phát triển một xã hội lành mạnh, bền vững và ổn định thì các dân tộc

nói chung và người Mông nói riêng phải được quan tâm đúng mức. Điều đó có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở Lào hiện

nay. Bởi lẽ, việc nghiên cứu về người Mông một mặt sẽ góp phần làm sáng tỏ quá

trình tộc người với các hình thức tiến triển của các loại hình kinh tế văn hóa mang

dấu ấn riêng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng

cung cấp thêm những luận cứ khoa học làm cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát

huy các giá trị văn hóa của địa phương.

Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu về dân tộc Mông là vấn đề cần thiết

và cấp bách. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh

Xiêng Khoảng nước CHDCND Lào (1986 - 2016)” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Liên quan đến đề tài này có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau đây:

Tác giả Đuông Xay Đuông Pha Sỷ với cuốn Lịch sử Lào, đất nước và con

người Lào (1995) do nhà xuất bản Quốc gia Lào phát hành đã trình bày một cách

tổng thể về các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước Lào, những nét chính về đặc

điểm văn hóa xã hội của những tộc người chính trên đất nước Lào.

Công trình “Lịch sử Lào” (1998) do Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Việt

Nam) hợp tác với các nhà nghiên cứu của Viện khoa học Xã hội Lào, đã nghiên cứu

những vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển, văn hóa của các dân tộc

ở nước Lào từ thời tiền sử đến hiện nay. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu từ

những vấn đề quan trọng như: Di tích văn minh thời tiền sử và sơ sử đến sự hình

thành các bang, tiểu bang cổ đại trên đất Lào; Vương quốc Lào Lạn Xạng thời kỳ xây

dựng và bảo vệ đất nước; Nước Lào trong thời kỳ thuộc Pháp (1893-1954); Cuộc đấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tranh của nhân dân Lào chống chủ nghĩa đế quốc mới của Mỹ dưới sự lãnh đạo của

Đảng NDCM Lào; Thắng lợi vĩ đại năm 1975 và sự lựa chọn con đường phát triển

của Lào trong 20 năm sau cách mạng giải phóng dân tộc Lào (1976 - 1995). Công

trình này là cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc làm rõ những giá trị văn hóa truyền

thống của các dân tộc Lào nói chung và người Mông nói riêng.

Tác giả Văn Vinh với cuốn “Tập quán và lễ hội cổ truyền các dân tộc Lào”

(2000). Đây là cuốn sách viết về vùng dân tộc với đầy đủ nội hàm, khía cạnh như: đặc

điểm tự nhiên, văn hóa xã hội, đặc điểm dân tộc và phong tục tập quán của các dân tộc ở

Lào. Một luận điểm mới đã được tác giả đề cập và đi sâu vào phân tích: Giải quyết mối

quan hệ giữa văn hóa truyền thống của các dân tộc và văn hóa, văn minh hiện đại.

Năm 2005, tác giả Khampheng Thipmountaly công bố công trình “Quá trình

hình thành và phát triển các dân tộc ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” do

Viện Nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo Lào phát hành. Cuốn sách trình bày về nguồn

gốc và văn hóa của các dân tộc của Lào, trong đó có văn hóa của người Mông.

Cuốn “Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng dân tộc Lào” (2006)

của Ma Hà Bun My Thếp Sỹ Mương. Công trình này khái quát lịch sử hình thành và

phát triển trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc Lào; là tư liệu quan trọng trong việc

tìm hiểu về các dân tộc Lào; cung cấp số liệu dân tộc; lịch sử hình thành và phát triển

của các dân tộc Lào trong từng giai đoạn.

Năm 2007, Bộ Giáo dục và Thể thao Lào phát hành giáo trình “Lào sức sá” và

đề tài “Văn hóa của các dân tộc Lào” cũng nói đến văn hóa của dân tộc Mông tại đất

nước Lào một cách khái quát.

Tác phẩm“Tìm hiểu các dân tộc ở Lào” của Viện Khoa học xã hội (2009)

được nhà xuất bản Quốc gia Lào phát hành. Nội dung chính của cuốn sách tổng hợp

về địa lý của nước Lào, lịch sử hình thành và phát triển của xã hội và các dân tộc: hệ

thống tổ chức quản lý của các dân tộc. Từ đó cuốn sách đưa ra một số quan điểm,

chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về vấn đề dân tộc ở Lào. Cuốn sách là một tài

liệu có giá trị trong việc tiếp cận nghiên cứu những vấn đề dân tộc nhất là những quan

điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước Lào về vấn đề dân tộc.

“Tài liệu phổ biến tên gọi và chỉ số các dân tộc ở Cộng hòa Dân chủ Nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân Lào” của Ủy ban Dân tộc của Quốc hội Lào (2009). Tài liệu này được phát hành

và phổ biến theo Quyết định số 213/QH ngày 14/9/2008 về việc thừa nhận tên gọi và

chỉ số dân tộc ở CHDCND Lào. Với mục đích là: cho mọi người nhận thức đúng đắn

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thừa nhận tên gọi 49 dân tộc

ở Lào, cho phù hợp với những thực tiễn và khoa học; cùng với đó là kiềm chế, giải

quyết và tiến tới xóa dần tên gọi dân tộc không phù hợp dẫn đến sự chia rẽ (Ví dụ:

dân tộc Lào Lúm, Lào Thầng và Lào Sủng...); tài liệu này tạo sự tăng cường khối đại

đoàn kết, thống nhất của các dân tộc và bảo vệ, phát triển phong tục tập quán và văn

hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo môi trường để các dân tộc cùng nhau đoàn kết thực

hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tài liệu này cung cấp các tên gọi

của các dân tộc ở CHDCND Lào theo tình hình thực tiễn cuộc sống và văn hóa của

các dân tộc. Cuốn sách là tài liệu quan trọng, để tác giả luận văn tiếp thu những quan

điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc và giải quyết những vấn đề dân

tộc ở nước CHDCND Lào để tiếp tục triển khai các nội dung vào luận văn.

Tác giả A Loun Boun Mi Xay với luận án “Những giá trị văn hóa chính trị

truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân

dân Lào hiện nay” (2013). Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận chung về văn hóa.

Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tập trung nghiên cứu về tình hình chính trị qua

các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau của các quốc gia, các dân tộc, mối quan

hệ giữa truyền thống văn hóa và hoạt động chính trị, chủ yếu biểu hiện tập trung ở

các phương diện cơ bản là những giá trị: độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường, cụ thể

làm sáng rõ những giá trị yêu nước và đoàn kết dân tộc, đề cao đạo lý, tôn trọng

chính nghĩa và bảo vệ công lý; tác giả còn đề xuất ý nghĩa lý luận và thực tiễn những

giá trị văn hóa truyền thống Lào với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.

Công trình “Tăng cường bảo vệ quyền lợi của các dân tộc ở nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào” của Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng đất nước (2013).

Nội dung chính của cuốn sách là về đoàn kết dân tộc, truyền thống tinh thần yêu

nước, tổng quan những quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước về vấn

đề dân tộc, đoàn kết dân tộc. Cuốn sách là một tài liệu quan trọng giúp cho tác giả

luận văn tiếp cận các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc và giải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quyết những vấn đề dân tộc tôn giáo ở Lào trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng.

Tác phẩm“Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về công tác dân

tộc ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” (2016) của Phu Thong Sỹ Văn Thong

Khăm. Tác giả đã khái quan những quan điểm cơ bản về dân tộc của Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào qua các kỳ Đại hội. Từ đó, đề ra một số giải pháp nhằm tằng cường

công tác dân tộc có hiệu quả hơn trong thời gian tới như: Tăng cường việc xây dựng -

hoàn thiện hệ thống trị trị cơ sở vững mạnh theo hướng xây dựng tỉnh thành đơn vị

chiến lược, huyện thành đơn vị kế hoạch và bản thành đơn vị tổ chức thực hiện; Đẩy

mạnh sản xuất và mở rộng lưu thông hàng hóa nhằm thay đổi từ sản xuất dựa vào tự

nhiên sang sản xuất hàng hóa, phát huy tiềm năng của các địa phương miền núi vùng

cao và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nêu trên đã cung

cấp những thông tin dưới nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau: Thứ nhất, các công

trình nghiên cứu đã luận giải các vấn đề lý luận cơ bản về các tộc người ở Lào nói

chung dưới những góc độ khác nhau. Thứ hai, một số công trình đã phân tích thực

trạng, chuyển biến về kinh tế - xã hội và văn hóa của người Mông ở Lào trong những

giai đoạn khác nhau. Thứ ba, một số học giả đã xác định những vấn đề đang đặt ra

trong việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của người Mông trên một

số khía cạnh: về yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, về cần cù, sáng tạo trong lao động,

về ý thức đoàn kết cộng đồng.

Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu luận bàn

về người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng trong giai đoạn 1986 - 2016. Trong

quá trình đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước Lào luôn chú trọng đến

vấn đề kế thừa và phát triển các giá trị đặc sắc của từng tộc người. Đáp ứng yêu cầu

đó, luận văn tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau: Thứ nhất, khái quát quá trình tộc

người và làm rõ tình hình kinh tế xã hội, văn hóa của người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh

Xiêng Khoảng trước năm 1986 nhằm tạo cơ sở xác định những vấn đề kế thừa,

chuyển biến trên từng phương diện của người Mông sau năm 1986. Thứ hai, khôi

phục lại bức tranh toàn cảnh về đời sống kinh tế, văn hóa của người Mông huyện Pẹc,

tỉnh Xiêng Khoảng trong khoảng thời gian 30 năm (1986 - 2016). Thứ ba, luận văn

đánh giá thực trạng và lý giải một số vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế, văn hóa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người Mông trong khoảng thời gian trên.

Tóm lại, trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước, với

công trình của mình, tác giả luận văn mong muốn sẽ góp phần không chỉ làm rõ hơn

một số vấn đề lý luận về tộc người Mông mà còn khôi phục một cách có hệ thống về

kinh tế văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Xiêng Khoảng trong khoảng thời gian 30 năm

sau đổi mới ở Lào (1986 - 2016).

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người Mông tại huyện Pẹc, tỉnh Xiêng

Khoảng nước CHDCND Lào (1986 - 2016).

3.2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ bức tranh toàn cảnh về đời sống kinh tế, văn hóa của người

Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng trong thời kì năm 1986 - 2016, luận văn đánh

giá thực trạng và lý giải một số vấn đề đặt ra cho cộng đồng tộc người này trong

khoảng thời gian nêu trên, cung cấp một nghiên cứu trường hợp về sự thay đổi trong

mô hình sinh kế và những ứng xử văn hóa đi cùng của tộc người Mông ở Lào trong

xã hội đương đại.

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khái quát về tỉnh Xiêng Khoảng: Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, quá trình

lịch sử, dân cư, các thành phần dân tộc, nguồn gốc, địa bàn cư trú của người Mông ở

huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng.

- Nghiên cứu về người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng thời kì từ năm

1986 đến năm 2016 và luận giải những giá trị của nó trong đời sống kinh tế văn hóa

của tộc người này hiện nay.

3.4. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận văn nghiên cứu các làng, bản người Mông ở huyện Pẹc,

tỉnh Xiêng Khoảng, trong đó tập trung ở những nhóm bản có đông người Mông cư trú

như: xã Nhot Ngừm, xã Lat Buôc, xã Thông Háy, xã Phan, xã Lat Huông.

Về thời gian: Đề tài giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1986 đến năm 2016.

Mốc thời gian năm 1986 chính là sự kiện Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng

Lào đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó, khâu then chốt là thực hiện mở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cửa, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế, phát triển kinh tế theo hướng XHCN,

từng bước đưa CHDCND Lào hội nhập với dòng chảy chung của khu vực và thế giới.

Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, sau hơn 30 năm, các dân tộc trên đất nước Lào

đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa

lịch sử về kinh tế, chính trị, đối ngoại, văn hóa, xã hội. Vì lẽ đó, mốc năm 2016 là

khoảng thời gian lý tưởng đề nhìn nhận lại những chuyển biến của lịch sử và rút ra

những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc

sống của người Mông nói riêng và xây dựng thành công nước Lào hòa bình, độc lập,

dân chủ, thống nhất, thịnh vượng theo định hướng XHCN nói chung.

Về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ những đặc điểm chính về vị trí địa lý,

diều kiện tự nhiên, dân cư của địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, trình bày một cách

toàn diện về đời sống kinh tế, văn hóa của tộc người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng

Khoảng giai đoạn 1986 - 2016.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

Nguồn từ liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn là tài liệu điền dã ở tỉnh Xiêng

Khoảng. Ngoài ra, tác giả còn chú ý khai thác nguồn tư liệu là các công trình nghiên

cứu, sách, báo, tạp chí của các tác giả người Việt và tác giả người Lào có liên quan

đến khía cạnh tiếp cận của đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng phương pháp lịch

sử kết hợp với phương pháp logic. Với phương pháp lịch sử, chúng tôi cố gắng trình

bày các sự kiện, hiện tượng theo trình tự thời gian và không gian từ quá khứ đến hiện

tại thông qua việc làm rõ quá trình hình thành, phát triển về đời sống kinh tế - văn

hóa của người Mông. Phương pháp logic được sử dụng nhằm đi sâu tìm hiểu bản

chất, nét đặc trưng trong hoạt động kinh tế và văn hóa của người Mông ở địa phương.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp điền dã dân tộc học, so sánh và

đối chiếu, thống kê nhằm giải quyết căn bản những vấn đề đặt ra.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện về dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng.

Luận văn góp phần cung cấp những căn cứ lý luận trong việc đề xuất quan

điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Lào cho Đảng bộ tỉnh, chính quyền

các cấp trong việc hoạch định chính sách trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã

hội. Cung cấp dữ liệu cụ thể ở cấp vi mô nhằm bổ sung vào những lý thuyết về sự

thích nghi, sự chủ động về sinh kế của người dân tộc.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những người

quan tâm về dân tộc học nói chung và người Mông nói riêng.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo phụ lục. Phần nội

dung của luân văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Khái quát về người Mông

ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng. Chương 2: Đời sống kinh tế của người Mông ở

huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng (1986 - 2016). Chương 3: Văn hóa của người Mông ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng (1986 - 2016).

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MÔNG

Ở HUYỆN PẸC, TỈNH XIÊNG KHOẢNG

1.1. Vài nét về huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng

Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

Huyện Pẹc nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Xiêng Khoảng, tiếp giáp với 4

huyện: phía Đông giáp với huyện Khăm, phía tây giáp với huyện Phạ Xay, phía Bắc

giáp với huyện Phu Kut và phía Nam giáp với huyện Khun. Nằm ở đường kinh tuyến

103°22’28, vĩ tuyến 19°23’26. Địa hình của huyện là đồng bằng xen lẫn các dãy núi

phức tạp, một số chỗ là vực thẳm dốc. Huyện có phong cảnh tự nhiên đẹp, không khí

trong lành, có các cánh đồng cỏ rộng lớn phù hợp cho việc chăn nuôi, có di tích lịch

sử Cánh Đồng Chum [22, tr.34].

Sự thuận lợi của yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự hình thành một đời sống

kinh tế, xã hội hài hòa, gần gũi với thiên nhiên của người Mông. Đây là một đặc điểm

văn hóa truyền thống, về sau ăn sâu vào những giá trị văn hóa truyền thống - người

Mông yêu cuộc sống thanh bình, yên ổn, hơn là thay đổi. Như vậy, khi lẽ sống cách

ứng xử đã trở thành thói quen, thành phong tục tập quán hoặc trở thành những yếu tố

quan trọng của đời sống tinh thần thì dù có biến đổi ít hoặc nhiều, chúng cũng thay

đổi chậm hơn so với sự thay đổi trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, v.v.. Do vậy, bên

cạnh mặt tích cực thì đặc điểm đó cũng có mặt hạn chế trong sự hình thành nên

những giá trị văn hóa mới, khi nó phải đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng, sự đòi

hỏi cao hơn của thời đại.

Lịch sử hình thành

Thời kỳ cổ xưa trong sử sách Lào đã ghi rằng: Có nhiều bộ tộc người chuyển

đến sinh sống tại mảnh đất này và trải qua nhiều đời đã xây dựng vùng đất này phát

triển phồn vinh như ta thấy rõ nhất hiện nay đó là chum đá của người dân Chương.

Bộ tộc sinh sống tại mảnh đất này trước đây là nhóm người thuộc dòng họ Ô Sạ Tô

Nê Xiên thuộc tộc người Mã lai - Chăm có màu da vàng mà sử sách Lào gọi là: Khá,

Khỏm hoặc Khơ Mú, tiếp đến là bộ tộc sử dụng ngôn ngữ Thái hoặc Thái Lào thuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dòng họ Khủn Bu Lôm đến từ Mường Thanh (Điện Biên Phủ) chuyển đến [26, tr.45].

Theo Sử kí của Trung Quốc, trong giai đoạn vương triều nhà Thanh thế kỷ

XVIII, ghi chép lại rằng: Phía bắc của vương quốc Tô Liêu có một vương quốc tên là

vương quốc Lào Mông, dân tộc cổ xưa sinh sống là Mã lai - Chăm, tiếp đấy mới có

Thái Lào -Thái Phuôn kế thừa từ vương triều Khủn Bu Lôm ở huyện Thẻn hay huyện

Thanh (Điện Biên Phủ) chuyển đến.

Trong sách lịch sử về huyện Phuôn của Ông Phumy VONGVICHIT có viết:

Về tổng thể, tỉnh Xiêng Khoảng là tỉnh có đông dân tộc Phuôn, sinh sống xen lẫn với

dân tộc Khơ Mú là dân bản địa của vùng đất này từ trước, và sau này mới có dân tộc

Mông chuyển đến vào cuối thế kỷ XIX. Theo sách cổ của Lào (lưu hành ở các chùa)

Khủn Bu Lôm - chuyện Chàng Hùng Chàng Chương: Trước kia huyện Pẹc có tên là

huyện Phạ Kăn hay huyện Pạ kăn, huyện Pẹc là nơi mà ông Chương (quan đại thần)

đã tạo chum đá thành di tích cổ xưa.

Cũng theo lịch sử của địa phương thì huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng đã trải qua

sự cai trị của nhiều vị vua trong thời kì phong kiến. Theo lịch sử huyện Phuôn viết

rằng đã có 23 vị vua trị vì, đến thời kì vua Ngùm đã thống nhất vương quốc triệu voi

Lào thành một quốc gia trong thế kỉ XIV. Năm 1535, vua Ngùm đã đưa đạo Phật vào

phổ biến tại Lào, đạo Phật cũng đã rất phổ biến tại huyện Pẹc với hệ thống các chùa

chiền mọc lên. Cuối thế kỉ XVIII, Vương quốc Triệu voi bước vào giai đoạn suy

thoái. Đất nước bị chia thành nhiều vương quốc. Điều đó đã tạo cơ hội cho sự xâm

chiếm của người Xiêm năm 1778 và trở thành thuộc địa của Xiêm 115 năm (1778 -

1893). Trong thời kì đó, cư dân tại huyện Pẹc đã bị đuổi đi. Đặc biệt trong giai đoạn

vua Sản cai trị, tại Xiêng Khoảng, người Xiêm đã gây sức ép, xua đuổi gia đình bộ

tộc Phuôn đến Phăn Lăm với số lượng lên đến 6000 người. Ngoài ra, cư dân còn phải

chạy giặc Hó Cơ Đăm (Hó Cờ Đen) đến ở Luông Pha Bang và Viêng Chăn.

Đến cuối thế kỷ XIX, khi các nước tư bản bước vào giai đoạn đế quốc chủ

nghĩa nên tăng cường xâm chiếm các nước châu Á. Tại bán đảo Đông Dương, thực

dân Pháp xâm chiếm Căm Pu Chia, Việt Nam, Lào. Ngày 3/10/1893, thực dân Pháp

và Xiêm đã ký hiệp ước quyết định chia nước Lào thành hai phần: Bên trái sông Mê

Kông thuộc Pháp, phần bên phải thuộc Xiêm mà không phân chia theo đường biên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giới của Vương quốc Triệu voi đã có từ trước [23, tr.56].

Sau khi quân Xiêm trả phần đất bên trái của sông Mê Kông cho người Pháp,

người Pháp đã đưa quân đội và quan chức người Pháp đến thay phiên làm tỉnh trưởng

ở Xiêng Khoảng. Năm 1916, Bac Tê Lê Mi trở thành tỉnh trưởng đã tập hợp 8 vùng lại

và chia thành 4 huyện và lấy tên là tỉnh Tạ Lăn Nin. Do huyện Pẹc có những cánh rừng

thông lớn mọc ở khắp mọi nơi. Do vậy, để phù hợp với đặc điểm trên, Bac Tê Lê Mi và

chủ tịch huyện đã quyết định lấy tên của loài cây xanh tươi mọc trên chính quê hương

này đặt tên cho huyện là huyện cây Thông (Pẹc) hay là huyện Pẹc. Qua khảo sát các

cánh đồng của huyện Pẹc, người Pháp nhận thấy đây là địa điểm thuận lợi cho việc cất

và hạ cánh máy bay và họ đã cho xây dựng các sân bay tại cánh đồng Lát Sẻn, cánh

đồng Bản Ngôi, cánh đồng Khăng Má Lèn (Cánh Đồng Chum). Cánh Đồng Chum có 4

sân bay đạt cấp độ 3 là điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa cũng như đi

lại và cũng chính vì điều này mà Cánh Đồng Chum đã trở thành địa điểm chiến lược

quan trọng của quân đội tại miền Bắc Lào cũng như của cả nước Lào.

Do là vùng chiến lược trọng yếu, cánh đồng chum của huyện Pẹc trở thành nơi

tranh chấp của các lực lượng đế quốc với quan điểm: “Ai chiếm được đồng cỏ Cánh

Đồng Chum - Xiêng Khoảng người đó sẽ trở thành vua miền Bắc Lào và có sức ảnh

hưởng rất lớn cho toàn khu vực Đông Bắc châu Á”. Nếu như nước Lào được ví là

một con voi lớn thì cánh đồng chum được ví như cái đầu voi đó. Vì thế, nếu ai cưỡi

được lên con cổ con voi người đó sẽ cai trị đất nước Lào. Bỏi vậy thực dân Pháp và

sau này là đế quốc Mĩ luôn muốn chiếm cánh đồng chum. Nơi đây cũng là căn cứ địa

lớn nhất của Lào.

Sau khi nước Lào được giải phóng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

được thành lập, trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 1986, huyện được chia

thành 4 xã: xã Thái, xã Khơng, xã Xểng, xã Sui và đặt tên là huyện Phu Kut. Kể từ

ngày đất nước được giải phóng huyện Pẹc trở thành trung tâm thị chính của tỉnh

Xiêng Khoảng.

Về đặc điểm dân cư

Đồng bào các dân tộc ở huyện Pẹc bao gồm nhiều tộc người khác nhau. Trong

thế kỉ XX, dân số là 29.640 người. Ngoài ra, ở huyện còn có người ngoại kiều sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống như người Trung Quốc có 161 người, người Việt Nam có 218 người, chia thành

2 thôn (Trung Quốc một thôn và Việt Nam một thôn). Đến năm 2000, dân số tăng lên

62.444 người, người ngoại kiều 103 người, mật độ trung bình là 15 người/km2.

Huyện Pẹc được chia thành 3 nhóm ngôn ngữ và 3 dân tộc: Nhóm ngôn ngữ Thái,

nhóm ngôn ngữ Mon-Khơme và nhóm ngôn ngữ H’mông, cụ thể như sau:

Nhóm ngôn ngữ Thái có khoảng 21.406 người, sinh sống ở 64 thôn, bao gồm

các dân tộc Phuôn, Thái đen, Thái đỏ. Phần lớn sinh sống ven sông suối và đồng

bằng. Họ chủ yếu kiếm sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và buôn bán. Từ thời

vua Phá Ngùm, ngài đã truyền bá đạo Phật khắp cả nước và đạo Phật trở thành tôn

giáo chính, nhân dân huyện Pẹc theo tín ngưỡng đạo Phật và đã xây dựng được 84

ngôi chùa. Chùa chiền đã trở thành trường học, nơi tập trung của sự đoàn kết, lời dạy

của Phật giáo trở thành phong tục tập quán tốt đẹp, khơi dậy lòng yêu hòa bình, biết

giúp đỡ, sống công bằng, siêng năng cần cù và đầy lòng nhân ái. Khi các nước đế

quốc xâm chiếm và thực hiện chính sách cai trị, bọn chúng cố gắng lợi dụng Phật

giáo để chia rẽ nhân dân, phá hoại tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân tộc.

Nhóm ngôn ngữ Mon-khơme: dân tộc Khơ-mú có 595 người, sinh sống ở 13

thôn. Họ thờ cúng tổ tiên, con cái gia đình được đặt theo họ của bố như: dòng họ Nốc

Suổn Hóc, Nốc Đet Đáu, Nốc Tắng Lo, Phăc kut, Nển Mong…ở huyện Pẹc, người

dân tộc Khơ Mú Chương Chương ở nhà sàn, sinh sống ở vùng ven núi làm nương

rẫy, chăn nuôi và săn bắn.

Nhóm ngôn ngữ H’mông: có 7.260 người. Thế kỉ 19 người Mông trắng, Mông

đen, Mông lai dân tộc H’mông đã di cư từ cao nguyên Tây Tạng, Siberia, Trung Quốc

di cư đến Việt Nam, Lào và Thái lan. Về tín ngưỡng, họ thờ tổ tiên của mình, về việc

nối dõi thì nối dõi theo dòng họ bố. Dân tộc Mông chia theo dòng họ gọi là Xỉng như:

Xỉng Lo, Xỉng Vàng, Xỉng Dàng, Xỉng Hơ… Họ chủ yếu là làm rẫy, trồng trọt chăn

nuôi và hiện nay phân lớn chuyển sang nghề làm ruộng.

1.2. Khái quát về người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng

1.2.1. Nguồn gốc tộc người Mông

Dân tộc Mông có các tên gọi (bao gồm cả tên tự nhận) là Mông, Mèo, Mẹo, cư

trú trên 8 tỉnh miền núi phía Bắc, chủ yếu ở các tỉnh: Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Bo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Kéo, Luông Năm Tha, Ụ Đôm Xay, Luông Pha Bang, Viêng Chăn, Bo Li Khăm Xay.

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan

trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Lào, có số lượng cư dân đứng hàng thứ

3 trong bảng danh sách các dân tộc Lào. Nhìn chung, ý kiến của các nhà dân tộc học

ở Lào về lịch sử hình thành dân tộc Mông là tương đối thống nhất khi cho rằng người

Mông di cư vào Lào sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước.

Từ những thế kỷ trước khi di cư đến Lào, người Hán gọi người Mông là

“Mèo”. Tộc danh Mèo theo âm Hán Lào cũng là “Mèo” [3, tr.22]. Đây là tên gọi một

tộc người sớm biết nghề trồng lúa nước, lâu dần trờ thành tên gọi chính thức. Theo

truyền thuyết, tổ tiên của người Mông đã ở vùng hồ Bành Lãi (thuộc Giang Tây) và

hồ Động Đình (Thuộc Hồ Bắc), ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm trước công nguyên.

Trong suốt hàng chục thế kỷ, người Mông di cư theo hướng Bắc - Tây Nam, tập trung

đông ở Hồ Bắc, Nghệ An (Việt Nam) trước khi đến Lào.

Cũng theo truyền thuyết thì xưa kia, dân tộc Mông cũng có một số quốc gia

riêng với biểu tượng hình đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, tại một số vùng

người Mông ở huyện Pẹc vẫn ít nhiều còn duy trì những dấu ấn ấy qua các phong tục,

biểu hiện cụ thể ở tấm vải đỏ treo thước cửa nhà hay người chết không phân biệt già

trẻ đều có tấm vải đỏ che miệng. Họ cũng có bộ sừng trâu dùng làm chốt cửa trên hai

cánh cửa chính của mỗi nhà. Hay như đội khăn quấn đầu có hình hai sừng trâu của

người Mông ở một số vùng hiện nay của Trung Quốc.

Người Mông đến nước Lào có thể gồm nhiều đợt với quy mô lớn nhỏ khác

nhau: Từ Việt Nam sang, từ Lào, Quảng Tây sang cư trú ở các vùng núi phía Bắc.

Theo các nhà nghiên cứu, dựa trên kết quả điền dã dân tộc học ở tại một số vùng

người Mông ở phía Bắc và tây Bắc, cũng như việc nghiên cứu biến động của tộc

Miêu ở Trung Quốc, có thể người Mông thiên di đến Lào với ba đợt quy mô lớn.

Thời kỳ đầu tiên, cách đây 300 năm, người Mông đã từ Việt Nam sang Lào. Cuộc

thiên di này đã được dân ca Mông ghi lại:

Người Mông ở Việt Nam đến

Vì người Mông không biết chữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thua kiện người Lào mới đi...[31, tr.12].

Đợt thiên di thứ hai, cách ngày nay khoảng 200 năm, sau thất bại của phong

trào khởi nghĩa của người Mông ở Việt Nam (1776 - 1820). Đợt thiên di thứ ba là

cuộc thiên di lớn nhất của người Mông đến Lào cách đây khoảng 100 -120 năm. Cuộc

khởi nghĩa Hàm Đồng (năm 1853) dưới sự lãnh đạo của Trương Tú Ni, xuất phát từ

Đông Nam Việt Nam, sau lan rộng sang Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng

rã đã khiến vương triều nhà Thành tàn sát những người tham gia khởi nghĩa. Người

Mông đến huyện Pẹc cách đây khoảng 2 đến 3 đời, chủ yếu từ 2 tỉnh như: tỉnh Hủa

Phăn và tỉnh Luông Pha Bang. Năm 1980, một bộ phận nhỏ khác lại di cư từ Bo Li

Khăm Xay sang. Năm 1990-1991, lại tiếp tục một đợt di cư nữa của người Mông đến

với huyện Pẹc. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, có thể người Mông di cư

sang Lào sớm hơn, cách đây khoảng 400 năm, đời nhà Minh, hoặc xa hơn, những gia

đình người Mông đầu tiên đã đến vùng Hủa Phăn cách đây 600 năm. Người Mông

vốn có gốc gác là những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi Mèo, Mông có nguồn cội cư

trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa.

Mặt khác, qua một số truyện cổ và đặc biệt là kho tàng ca dao, dân ca phong

phú của người Mông, ta cũng có thể tin rằng người Mông xưa kia vốn cũng sinh sống

ở những vùng đất đai có sông ngòi và làm nhiều ruộng. Văn học dân gian truyền

thông của người Mông luôn nhắc tới “sông nước”, “thuyền bè”, tới các “đường dài -

đường rộng”, “bãi bằng - bãi phẳng”, tới ruộng, tới trâu...như là sự phản ánh hiện

thực xa xưa với một niềm luyến tiếc, cũng như hàm chứa một sự so sánh trong nhận

thức và hiện tại.

Đến Lào, đến với một vùng đất mới, không có chiến tranh sắc tộc, chấm dứt

một gian đoạn đằng đẵng của lịch sử gắn liền với những cuộc thiên di đầy nước mắt

và máu, người Mông đã tìm thấy một quê hương mới và cuộc sống hứa hẹn những

ấm no và hạnh phúc. Những câu chuyện dân gian của người Mông vẫn còn ghi lại:

“Lào là nơi đất đai màn mỡ để làm ăn, nơi có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có

thể khoét lỗ chui vào đó đẻ; nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn. Nơi trồng cây lương

thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa” [29, tr.23]. Vì thế, cùng với quá trình lao

động sáng tạo, người Mông đã coi những địa danh như Bo Li Khăm Xay là quê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hương thứ hai của mình.

Sau cách mạng tháng Tám, thể theo nguyện vọng của đồng bào, từ ‘Mèo’ được

thay thế bằng từ ‘Mông’. Đây là một âm tiết phát âm từ âm mũi. Bởi vì trong hệ

thống phụ âm tiếng Lào không có âm tố nào ghi âm chính xác được âm tiết đó, nên

các nhà ngôn ngữ học đã mượn phụ âm, trong hệ thống phụ âm tiếng Mông để ghi âm

từ ‘Mông’. Do sự phát âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay. Nhà nước ta đã thống nhất

phiên âm tên gọi của đồng bào là ‘Mông’ và dùng cách viết ‘Mông’ thay cho Lào

Cao. Cách gọi và cách ghi danh này được người Mông không đồng ý. Người Lào,

người Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn thuộc phía Nam Trung Quốc, Việt

Nam, Thái Lan. Sau năm 1975, cộng đồng người Mông còn di cư sang sinh sống ở

các nước như: Trung Quốc, Việt Nam... con số lên tới hành trăm nghìn người, trong

đó lượng dân di cư từ Việt Nam chiếm nhiều nhất. Hiện nay, Trung Quốc có số lượng

người Mông đông đảo hơn cả với hơn 10 triệu người (số liệu thống hê năm 1990),

phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam,

Hồ Bắc. Thực tế cho thấy, các cư dân người Mông ở Lào vẫn có quan hệ với cư dân

đồng tộc ở các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Lào, Việt Nam

và Trung Quốc.

Ở Lào, dân tộc Mông thường cư trú ở độ cao từ 800m đến 1200 m so với mực

nước biển, dọc theo biên giới Trung - Việt và Việt - Lào.

Những xóm làng của người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao”, nơi tập trung

đông cũng chỉ dăm chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên các trền núi

hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về khô nhưng cũng hết sức giá lạnh, khắc nghiệt về

mùa mưa. Điều kiện đi lại, giao lưu rất đỗi khó khăn. Nước phục vụ cho sinh hoạt

thiếu thốn, thậm chí khan hiếm. Cho nên người Mông giỏi canh tác nương rẫy hơn là

làm ruộng nước. Ở những nơi chỉ toàn núi cao, người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ

vào những hốc đá để tra ngô. Sống biền biệt trên các vùng cao quanh năm sương phủ,

sự hẻo lánh làm cho đời sống xã hội của người Mông kém phát triển. Kinh tế hoàn

toàn mang tính chất tự cấp, tự túc, lệ thuộc vào thiên nhiên. Vì hoàn cảnh sống vất và

khó khăn nên trước đây phần lớn đồng bào Mông sống du canh, du cư hoặc đã định

cư nhương còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống của người Mông đã có những bước cải thiện đáng kể lịch sử của cộng đồng

người Mông ở Lào là lịch sử của những cuộc thiên di, là một bản trường ca đầy bi

tráng mà mỗi trang đều được viết lên bằng nước mắt và máu. Lịch sử đau thương và

hào hùng cùng với điều kiện sống hết sức khắc nghiệt đã góp phần hun đúc lên một

diện mạo tâm hồn Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm đến táo bạo.

Huyện Pẹc cũng là một trong 8 huyện ở tỉnh Xiêng Khoảng có nhiều dân tộc

làm ăn và sinh sống. Trong đó dân tộc Lào chiếm tỷ lệ đông nhất chiếm 58.3% của

dân số cả huyện, tiếp theo là dân tộc Mông chiếm 38.3% của dân số cả huyện, sau đó

là dân tộc Khơ Mú chiếm 2.3% dân tộc vẫn là chiếm 0.2% của dân số cả huyện người

nước ngoài 0.8%. Dưới đây là những thống kế dân số của các dân tộc ở huyện Pẹc

tỉnh Xiêng Khoảng. Theo thống kê năm 2016, huyện Pẹc bao gồm 6 xã với 103 bản,

có 14.816 hộ gia đình, toàn huyện có 80.327 người, trong đó có 39.935 nữ.

Bảng 1.1. Thống kê dân số ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng năm 2016

Số lượng (người) Tỷ lệ/ dân số cả TT Dân tộc huyện (%) Tổng Nam Nữ

1 Lào 46973 23.388 23585 58.3

2 Khơ Mú 1872 965 907 2.3

3 Mông 30863 15.853 15010 38.3

4 Tày (Thái Đen, Kháo…) 181 75 106 0.2

5 Lư 3 1 2 0.003

6 Dân tộc khác 613 288 325 0.8

100 Tổng cộng 80.327 40.570 39.935

(Nguồn: Phòng Kế hoạch và Đầu tư huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng)

Qua số liệu bảng trên cho thấy, chiếm đại đa số trong dân cư của huyện là dân

tộc Lào, Mông, Khơ Mú. Trong đó, Khơ Mú là cư dân cổ nhất, có mặt sớm nhất ở

vùng đất này. Tiếp đến là người Lào và người Thái. Họ là những cư dân nông nghiệp

trồng lúa, thường canh tác tại các vùng ven sông, ven suối, vùng chân núi.

Nhìn chung, trải qua quá trình sinh sống, di cư, lập bản, nhiều dân tộc đã đến

định cư ở vùng huyện Pẹc. Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa, các dân tộc đã

có sự giao lưu về văn hóa, tạo nên một nền văn hóa đa dạng nhưng vẫn mang nhiều

đặc trưng riêng của từng dân tộc. Trong đó, nổi lên là dân tộc Mông mà tác giả sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trình bày rõ ở phần sau của luận văn.

Bảng 1.2. Thống kê về người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng

(năm 2016)

Số Số nhà Số dân Nữ TT Tên nhóm bản bản người Mông (người) (người)

1 Cụm Bản Nhot Ngừm 19 862 5.513 2.646

2 Cụm Bản Lat Buôc 16 1 5 2

3 Cụm Bản Thông Háy 11 226 1.496 688

4 Cụm Bản Phan 11 217 1.461 707

5 Cụm Bản Lat Huổng 7 409 2.752 1.290

6 Cụm Bản lên với huyện Pẹc 39 2.943 19.636 9.677

Tổng cộng 103 4.658 30.858 15.010

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả)

Dân tộc Mông là một trong 49 dân tộc anh em của Lào, họ đã cư trú tại đất

nước Lào từ lâu đời. Dân tộc Mông có nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển gắn

bó với nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của dân tộc Lào và đất nước Lào.

Người Mông định cư ở các tỉnh miền Bắc của Lào từ tỉnh Bo Li Khăm Xay đến

thượng Lào. Tập trung ở tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Luông Nặm Thà, Luông Phạ

Bang… Người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng có bản sắc văn hóa đặc trưng

riêng biệt của mình, góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú nền văn hóa của tỉnh.

Bảng 1.3. Số liệu điều tra nghề nghiệp trong số hộ gia đình

của người Mông (năm 2016)

Stt Nghề nghiệp Số hộ gia đình Tỷ lệ (%)

1 Nông dân 1386 29,76

2 Cán bộ 1740 37,3

3 Buôn bán 1532 32,8

Tổng cộng 4658 100

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả)

Nghề truyền thống của người Mông ở huyện Pẹc chủ yếu là làm nông nghiệp:

làm ruộng trồng lúa nước, làm nương rẫy, làm vườn và chăn nuôi. Bên cạnh đó, họ cũng

làm nghề thủ công như: dệt vải và chế tạo công cụ lao động…Những hoạt động kinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của người Mông đã góp phần làm đa dạng thêm hàng hóa ở tỉnh Xiêng Khoảng. Hiện

nay,trình độ dân trí của người Mông được nâng cao. Người Mông có nhiều cơ hội tiếp

xúc giao lưu với các dân tộc khác, nhất là dân tộc Lào. Từ đó đã thúc đẩy sự phát triển

của dân tộc này về mọi mặt.

1.2.2. Kinh tế - xã hội của người Mông ở huyên Pẹc trước năm 1986

Trong khung cảnh vùng cao, từ lâu người Mông được xem như đại diện cho

một sắc thái, nếp sống rẻo cao. Ở bất cứ nơi đâu, người Mông cũng mang theo đặc

thù của dân tộc mình đến nơi di cư mới. Đến huyện Pẹc sinh sống, người Mông chủ

yếu là du canh du cư. Theo tài liệu thống kê của tỉnh Hủa Phăn tính đến năm 1986

người Mông ở huyện Pẹc có khoảng 1756 người, cư trú chủ yếu ở những nơi vùng

sâu, vùng xa nhất của huyện như: Bản Lao Phôn Thong, bản Nhot Ngừm...Trước năm

1986 về kinh tế - xã hội người Mông có những đặc điểm cơ bản sau:

Về kinh tế

Người Mông cư trú ở bất cứ một trường nào đều tạo ra khả năng thích nghi

một cách linh hoạt. Người Mông ở huyện Pẹc cư trú ở vùng núi cao đã canh tác trên

loại hình nương cao. Các mảnh nương này nằm cheo leo trên các sườn núi cao, nhỏ

hẹp, tiếng Mông gọi “tế kho dế”. Để bảo vệ đất khỏi xói mòn, đồng bào xếp đá be bờ.

Tùy theo địa hình, việc be bờ theo từng kiểu khác nhau. Ở những núi cao đất ít, người

Mông nhặt các hòn đá xếp thành gờ nhỏ giữ đất cho từng hốc, từng mảnh đất nhỏ. Ở

các vạt đất rộng, người Mông dùng đá cao be thành các bờ dải giữ đất, chống xói

mòn. Ở loại nương Mông dùng cuốc làm đất.

Nhìn chung, người Mông khai phá và canh tác nương rẫy theo nhiều loại địa

hình khác nhau và có kiểu canh tác khác nhau. Trên nương ruộng bằng và nương bậc

thang người Mông dùng cày. Trên nương hốc đá tai mèo, người Mông dùng cuốc.

Trên nương dốc núi đất, người Mông dùng gậy chọc lỗ, hoặc cuốc bướm. Bộ nông cụ

làm đất của người Mông khá độc đáo, thích hợp với từng loại địa hình.

Người Mông còn áp dụng kỹ thuật xem canh gối vụ, giữa các hốc ngô lại trồng

xen vài ba khóm đậu. Họ còn áp dụng việc dùng phân hữu cơ bón cây trồng. Mỗi gia

đình có hố ủ phân bò, trâu, ngựa với tro bếp. Phân gia súc phơi khô và đem ủ một

thời gian với tro bếp đến khi phân chuyển thành mầu trắng trộn với hạt ngô bón lót.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sau một thời gian sẽ làm cỏ và bón thúc một lượng phân nhỏ cho ngô.

Chăn nuôi cũng được người Mông chú trọng nhưng người Mông chỉ chăn nuôi

một số con vật cơ bản như gà, vịt, lợn, chó, ngựa, trâu, bò và dê...phục vụ cho cuộc

sống sinh hoạt gia đình. Trong kinh tế người Mông còn sáng tạo một số nghề thủ

công tinh xảo đạt đến đỉnh cao của ngành nghề thủ công các dân tộc miền núi như

nghề rèn, đúc, trồng lanh dệt vải, nghề mộc.

Như vậy, đến trước năm 1986 nền kinh tế của người Mông ở huyện Pẹc vẫn là

nền kinh tế nương rẫy mang nặng tính tự cấp và tự túc, vẫn còn chậm phát triển. Cơ

cấu kinh tế chưa có sự chuyển biến. Đời sống của người Mông còn thấp, khó khăn

thiếu thốn nhiều mặt nạn đói, thiếu mặc vẫn thường xuyên xảy ra. Theo số liệu khảo

sát của huyện Pẹc, trước năm 1986, “tổng số hộ nghèo của người Mông ở huyện Pẹc

là 368 hộ chiếm khoảng 95% tổng số người Mông ở huyện Pẹc. Nhà ở thì hầu như

đến trong tình trạng tạm bợ. Hơn 90%số người Mông thiếu ăn từ 4 tháng đến 5

tháng/ năm” [19]. Nhìn chung cuộc sống kinh tế của người Mông cho đến khi đó vẫn

còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.

Về văn hóa xã hội

Người Mông ở huyện Pẹc do đến từ nhiều nơi nên có nhiều họ và dòng họ

khác nhau. Trong quan hệ đối xử, những người có chung họ hàng với nhau thường

thân thích hơn. Các thành viên trong họ dù có xa đến mấy cũng tuyệt đối không được

có quan hệ hôn nhân với nhau.

Số đồng bào cư trú từ lâu đời thường tạo thành làng. Làng của người Mông có

từ vài đến vài chục nóc nhà, ở một địa điểm hay nhiều địa điểm, gồm những người có

cùng dòng họ. Những làng như vậy có chung thổ thần và những quy ước về lệ làng,

về chăn nuôi, về giúp đỡ nhau, quan hệ dòng họ còn khá chặt chẽ. Trong khu vực mà

có nhiều dòng họ thì mỗi dòng họ chiếm giữ một khu riêng biệt. Đứng đầu dòng họ

thường là trưởng tộc, là người có đạo đức, uy tín, luôn quan tâm đến các thành viên

của dòng họ. Trưởng tộc phải là người có kinh nghiệm sản xuất và hiểu các phong tục

tập quán của dòng họ. Những người trong cùng dòng họ phải quan tâm giúp đỡ nhau

trong các công việc như cưới xin, ma chay và làm nhà...Nhưng càng về sau thì tính

chất đan xen giữa các dòng họ ngày càng phổ biến. Một làng có thể có mấy dòng họ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cùng nhau sinh sống.

Địa bàn cư trú là các khu vực núi cao, vùng đầu nguồn thường khó khăn về

giao thông, khắc nghiệt về khí hậu, thiếu nước sinh hoạt, sản xuất trong mùa hanh

khô. Cách dựng nhà của người Mông tương đối giống nhau. Thường là nhà đất gồm

hai gian ba trái, gian giữa đặt bàn thờ hai bên là bếp và buồng ngủ. Nhà thường có từ

hai đến ba cửa. Hàng ngày mọi người trong gia đình nhất là phụ nữ phải ra vào cửa

phụ. Trong nhà là nơi chứa lương thực, thực phẩm, các chuồng gia súc cũng làm

không cách xa gia đình.

Cũng như các dân tộc khác, người Mông rất coi trọng mối quan hệ gia đình.

Đồng bào Mông gọi gia đình là “chúa dỉ”. Gia đình tồn tại phổ biến dưới các hình thức

hai và ba thế hệ. Trong gia đình người Mông, nam giới được coi trọng và đảm nhiệm

các việc lớn như thờ cúng tổ tiên, tham gia các công việc của cộng đồng. Họ chỉ được

coi là đã trưởng thành khi có con đầu long và được làm lễ đặt tên đệm mới. Phụ nữ

Mông là người phải chịu nhiều thiệt thời hơn cả.

Trang phục của người Mông cầu kì, con gái người Mông trên 10 tuổi đã chuẩn

bị áo cưới, đến khi 13 - 14 tuổi là họ kết hôn nhân một vợ, một chồng. Nạn tảo hôn

vẫn còn tồn tại nhiều trong người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng cho đến

trước năm 1986.

Tệ nạn nghiện hút vẫn còn rất cao, đời sống thấp kém, nạn mù chữ chiếm tới

85% đến 90% dân số. Tỷ lệ học sinh đi học thấp chiếm chỉ khoảng 5% đến 10% (số

liệu thống kê huyện Pẹc năm 1986). Tiếng phổ thông và chữ viết là cầu nối người

Mông với tri thức văn minh nhưng nhiều phụ nữ Mông không biết tiếng phổ thông

còn nam giới biết tiếng phổ thông nhưng lại không biết đọc, biết viết. Do cư trú ở

vùng núi cao, điều kiện địa lí đã cản trở chính trong việc tiếp xúc xã hội và giao lưu

bên ngoài làm cho xã hội Mông phát triển chậm. Người Mông tồn tại một hệ thống

các thần và thờ cúng tổ tiên. Một năm họ có 1 tháng ngày tết chính. Người Mông có

những sinh hoạt truyền thống đặc sắc có trình độ thẩm mĩ, mang bản sắc riêng biệt và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

độc đáo của dân tộc mình.

Tiểu kết chương 1

Huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng thuộc địa bàn vùng núi cao nguyên, là nơi người

Mông chiếm số dân đông. Những đặc điểm tự nhiên này đã tạo nên những dấu ấn đậm

nét trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân ở đây, nhất là dân tộc

Mông. Dân tộc Mông có những đặc trưng riêng về văn hóa, song do sinh sống cùng

một số dân tộc khác cho nên ít nhiều về kinh tế, văn hóa của họ cũng bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, do không có chênh lệch về trình độ và phát triển, đa dạng về phong tục tập

quán, lối sống và tín ngưỡng nhưng không có xung đột và hơn nữa còn hội tụ được

những tinh hoa từ các tộc người trong quá trình hình thành quốc gia- dân tộc. Họ lại

có chung một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, cư trú chung trong những điều kiện địa

lý khí hậu tự nhiên gần gũi nhau, vì họ có đặc trưng chung của văn hóa các dân tộc

trong khu vực Đông Nam Á, và qua bao đời có sự tác động qua lại với nhau, nên

người Mông đã cùng các dân tộc Lào cùng nhau góp phần xây dựng nên văn hóa

chung của dân tộc Lào.

Trước năm 1986, đời sống kinh tế - xã hội của người Mông ở huyện Pẹc vẫn

mang nặng tính chất cổ truyền, ít nhiều lạc hậu. Những đặc điểm về kinh tế văn hóa,

xã hội của người Mông trước thời kì đổi mới cũng là tác nhân, là tiền đề ảnh hưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tới mọi mặt đời sống của dân tộc Mông trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2016.

Chương 2

ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC,

TỈNH XIÊNG KHOẢNG (1986 - 2016)

Lào là một quốc gia có 49 dân tộc anh em. Các dân tộc này đều lấy nông

nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Kinh tế nông nghiệp cũng là ngành kinh tế chính của

người Mông. Từ khi thực hiện đổi mới (năm 1986), trong kinh tế nông nghiệp, trồng

trọt vẫn là ngành sản xuất chính của người Mông. Các hoạt động kinh tế khác như

chăn nuôi, làm nghề thủ công, buôn bán, khai thác nguồn lợi tự nhiên (chủ yếu là săn

bắn, hái lượm) vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của đồng bào

dân tộc Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng .

Nét nổi bật ở đồng bào Mông ở huyện Pẹc là cư trú ở vùng có nhiều đồi núi.

Trước đây, đồng bào sống du canh, du cư, phát nương làm rẫy. Hiện nay, đồng bào đã

định canh, định cư, khai hoang, phục hóa làm nương rẫy và ruộng nước ở các thung

lũng hoặc ruộng bậc thang trên các trền núi. Mặc dù sống ở các vùng núi có điều kiện

tự nhiên không mấy thuận lợi song người Mông ở huyện Pẹc đã sớm thích nghi với

từng vùng sinh thái và hình thành tập quán sản xuất khá hoàn chỉnh, bao gồm nông

nghiệp, khai thác nguồn lợi tự nhiên, nghề thủ công và trao đổi hàng hóa.

2.1. Nông nghiệp

Để duy trì cuộc sống lâu dài trên vùng núi cao, người Mông đã sớm thích nghi

với từng vùng sinh thái. Họ đã xác lập cho mình một hệ thống nông nghiệp bao gồm

trồng trọt, chăn nuôi...tùy theo điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng xã. Nguồn

sống chính của người Mông ở huyện Pẹc là nông nghiệp. Nông nghiệp của người

Mông chủ yếu là hình thức canh tác nương rẫy, ruộng bậc thang, ruộng nước.

2.1.1. Trồng trọt

Từ xa xưa, người Mông trên cả nước nói chung và ở huyện Pẹc nói riêng là cư

dân trồng trọt. Trong quan niệm từ rất lâu đời của người Mông ở huyện Pẹc, ruộng và

nương có vai trò quan trọng. Bởi vậy, ở đây họ cho rằng canh tác theo phương thức

nào thì còn tùy thuộc vào diện tích mà họ có nhiều hay ít. Nếu ở vùng Đà Vị ngược

lên Sinh Long, Côn Lôn, khau Tinh thì đây là vùng núi đồi nhiều nên diện tích canh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tác nương rẫy của đồng bào nhiều hơn ruộng nước. Những vùng như: Xuân Lập,

Thúy Loa thì là vùng núi nhưng chủ yếu là núi đất nên vẫn có những thung lũng có

thể khai phá thành ruộng nước, do đó diện tích trồng lúa nước của người Mông vùng

núi nhiều hơn cả. Trong trồng trọt có hai loại hình canh tác chủ yếu: nương rẫy và

ruộng nước.

2.1.1.1. Nương rẫy.

Làm nương là một loại hình sản xuất nông nghiệp rất phổ biến của dân tộc

Mông. Trải qua quá trình làm nương lâu dài, những kinh nghiệm và thói quen sản

xuất dần trở thành thói quen sinh hoạt của người Mông.

Đồng bào người Mông bắt đầu làm nương khoảng tháng 4 - 5 dương lịch

(tháng 9, 10 lịch Thái) khi những trận mưa đầu mùa đổ xuống cũng là lúc đầu mùa

reo hạt. Cách reo hạt trước đây là: đàn ông đi trước dùng gậy đã vót nhọn đầu, chọc

lỗ, phụ nữ đi theo sau tra hạt vào mỗi lỗ từ 5 đến 6 hạt giống. Sau đó người ta dùng

cành cây tươi buộc thành chổi quét đất, lấp lỗ tra hạt.

Những năm gần đây, do kinh tế phát triển và tri thức được nâng cao, người

Mông đã sử dụng các công cụ và phương tiện hiện đại vào việc canh tác như: máy

cày bánh lồng, máy kéo bánh lồng, máy phay và máy gặt… làm cho chất lượng và

năng suất sản xuất nông nghiệp được nâng lên. Ngoài việc trồng lúa nương, đồng

bào còn trồng thêm nhiều loại rau quả khác như: ngô, sắn, mía, chuối, lạc vừng...

Trước đây, nông nghiệp nương rẫy của người Mông ở huyện Pẹc có hai loại cơ

bản là nương rẫy và nương du canh. Dù là nương rẫy hay nương du canh thì người

Mông vẫn chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm và tri thức bản địa của dân tộc mình.

Để có thể làm nương đạt được hết quả tốt, họ đã đúc kết kinh nghiệm trong một thời

gian dài và đã đưa những kinh nghiệm đó vào quá trình sản xuất.

Chọn đất làm nương của người Mông ở huyện Pẹc chủ yếu là do kinh nghiệm

của ông cha để lại. Theo họ, để có thể làm nương đạt kết quả tốt thì việc chọn đất có

một ý nghĩa hết sức quan trọng vì chọn đất sẽ là tiền đề, là bước đầu tiên cho việc làm

nương. Kĩ thuật chọn đất để phát nương như sau:

Trước hết là phải xem khu đất đó có đủ điều kiện để làm nương hay không,

hướng nương phải đủ ánh sáng, nương không quá dốc...Họ cho rằng đất để làm

nương tốt thường là nơi có nhiều cây mọc tốt. Họ chia đất ra thành từng loại khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhau để phù hợp với từng loại cây khác nhau.

Bảng 2.1: Phân loại đất nương của người Mông ở huyện Pẹc

Loại đất Cây trồng ưu tiên

Đất đen, tơi xốp Ngô

Đất pha cát Khoai sọ, khoai lang

Đất vàng Lúa nương

Đất soi bãi Lạc, đậu

Đất thịt Lúa, sắn

(Nguồn: Kết quả điền dã tháng 7/2018 của tác giả)

Sau khi đã chọn được khu đất để phát nương, người ta đã đánh dấu bằng cách

đặt ở 4 góc mỗi góc một cây cọc được đóng xuống đất với mục đích làm dấu hiện cho

người khác biết rằng chỗ đất đó là chỗ đã có chủ, không ai được phép làm nương trên

chỗ đất đó nữa.

Khi việc chọn đất đã hoàn thành, họ tiến hành phát và đốt nương. Công việc

này thường được người Mông ở đây tiến hành vào mùa khô vì đây là thời gian thích

hợp. Độ ẩm lúc này ít cho nên nương có thể cháy nhanh và gọn. Việc làm đầu tiên mà

người ta phải làm là phát cỏ và bụi cây trước, sau đó mới chặt cây to. Với quy trình

phát từ dưới lên cây sẽ không bị dính vào nhau, phát dễ hơn. Để thực hiện công việc

một cách nhanh và gọn nhất, người Mông đã huy động nhân lực gồm toàn bộ các

thành viên trong gia đình từ trẻ em đang đi học đến những người già cả. Sự phân

công lao động trong gia đình diễn ra một cách tự nhiên: những người đàn ông khỏe

mạnh thì đảm nhiệm những công việc nặng nhọc nhất (chặt cây to, phát những nơi

rậm rạp khó phát); phụ nữ trẻ em, người già có nhiệm vụ chặt cành, gom lại thành

từng đống một sau đó tiến hành dọn dẹp những vùng đất xung quanh cho thật sạch.

Khi công việc phát nương cơ bản đã hoàn thành, người ta để phơi nắng những

đống cây đã được gom vào vài ngày, thậm chí là vài tuần để cho các cây được phát ra

đó khô rồi tiến hành đốt. Khi đốt, họ chọn ngày nắng to, khô hanh. Thời gian đất

nương vào lúc chiền tối vì khi đó, gió sẽ mạnh hơn. Việc đất nương thực hiện theo

nguyên tấc: đất từ chân nương lên đến đỉnh nương. Sau khi đất xong lần thứ nhất, cần

để 3 - 4 ngày mới đất tiếp lần hai. Như vậy những cành to và cây to mới khô hản, mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đất cháy hết được. Thời tiết cũng có ảnh hưởng nhiều tới việc phát và đốt nương. Nếu

năm nào, trời mưa nhiều, việc đốt nương và dọn dẹp nương sẽ gặp nhiều khó khăn

hơn. Để tránh cháy rừng, người Mông ở huyện Pẹc sử dụng kinh nghiệm vốn có là

tạo ra khoảng trống xung quanh bốn mặt chỗ đất đã chọn (nơi có cây cối bao quanh,

cao khoảng 2m đến 2,5m).

Người Mông ở huyện Pẹc cho rằng những đám nương nào là nương mới đốt

lần đầu thì không cần phải cày hay cuốc cho tơi đất mà chỉ cần cuốc hố là gieo được

hạt. Còn những mảnh nương đã canh tác lần thứ hai thì nhất thiết phải được cấy hay

cuốc cho đất trở nên tơi xốp. Như vậy, việc gieo trồng mới đạt được kết quả. Nương

lúc này đã trở thành nương cày. Đối với những mảnh nương có độ dốc thỏi cao, dùng

trâu hoặc bò để cày vỡ đất nhưng không tạo thành luống mà tạo thành hết đường cày

này đến đường cày khác. Sau khi cày đất xong, họ dọn sạch cỏ và những gốc cây cũ.

Làm được như vậy, đất đã có thể gieo được hạt.

Ngoài những mảnh nương có thể dùng cày để cày được thì người Mông còn

làm nương ở những nơi hốc đá, không dùng được cày. Do vậy, công việc cụ làm đất

của họ chủ yếu là cuốc và dao. Họ dùng cuốc và dao làm sạch cỏ và cây dại trong các

hốc đá sau đó tiến hành tra hạt [29, tr.65].

Chọn giống và gieo hạt: Theo người Mông ở huyện Pẹc, việc chọn giống có

một vai trò rất quan trọng trong quá trình trồng trọt. Để có giống cây trồng cho vụ

sau, khi chọn giống nhất thiết phải chọn những cây to, hạt to, chắc, mẩy và sai hạt...

những chỗ đó sẽ khoanh lại, chăm sóc tốt hơn và khi thu hoạch cũng được để riêng.

Đặc biệt, đối với những cây lương thực chính, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống

của người Mông thì việc chọn và bảo quản giống rất được quan tâm. Đối với giống

lúa, thời gian chọn giống lúa thường vào vụ gặt. Lúa giống sau khi gặt được bó riêng

lại, trên bác bếp hoặc treo lên sàn nhà dùng cho vụ sau. Đối với giống ngô, chọn loại

bắp to, hạt đều. Khi thu hoạch, ngô được để cả vỏ, buộc thành túm vài bắp lại với

nhau rồi treo lên gác bếp và sàn nhà trính bị mọt. Các giống đậu và lạc sẽ chọn những

cây sai quả, hạt to, đều sau đó bóc vỏ phải khô và bỏ vào ống tre, đậy lại bằng lá

chuối rồi treo những ống đó lên bên cạnh bếp. Cách bảo quản đó của người Mông rất

có hiệu quả, đảm bảo hạt giống không những rất khô ráo, không bị mối mọt và nhất là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không bị lẫn vào các hạt giống khác.

Đến mùa gieo hạt, người ta lấy những bó lúa giống đó đi tuốt hoặc vo, làm

sạch, loại bỏ những hạt không tốt, sau đó ủ từ 3 đến 5 ngày cho nẩy mầm rồi mang đi

gieo. Đối với giống ngô, sau khi tẽ hạt ngô ra khỏi bắp ngô, người ta mang những hạt

ngô đưa đi ngâm một vài ngày cho ngô giống no. Đối với những giống khác như đậu,

lạc, họ thường gieo trực tiếp không cần phải ngâm.

Việc gieo trồng: Sau khi chuẩn bị giống thật tốt, khi mang đi gieo, người gieo

hạt đầu tiên phải là chủ nhà. Trong quan niệm của họ, làm như vậy thì cây mới tốt

tươi và nhiều hạt. Sau khi chủ nhà gieo xong thì mới đến các thành viên khác trong

gia đình. Đặc biệt, người Mông có quan niệm rằng nếu gia đình chưa gieo trồng xong

thì chưa được phép bán giống và trao đổi giống cho người khác. Nếu không thực hiện

đúng, cả vụ mùa sẽ không may mắn. Khi thực hiện việc gieo hạt giống trên người

nương, tất cả các thành viên trong gia đình đều phải thực hiện. Đàn ông thường là

người cuốc hốc, phụ nữ gieo hạt, người già và trẻ em đi đằng sau để lấp đất vào các

hốc đã được gieo hạt.

Trước khi thự hiện việc gieo hạt, người Mông đã chuẩn bị phân bón khá chu

đáo. Phân bo chủ yếu là phân bón tự nhiên như phân chồng được ủ kĩ hay phân

xanh... Trước ngày gieo hạt, họ thường vận chuyển phân bón ra nương sẵn để sau khi

gieo hạt xong họ có thể bón cho từng hốc cây. Họ dùng tay để bốc phân bón. Ngày

nay, người Mông ở huyện Pẹc cũng đã dùng các loại phân hóa học để bón cho cây

nhưng số lượng không nhiều, chủ yếu là do Nhà nước cấp. Số gia đình bỏ tiền ra mua

phân hóa học rất ít. Theo họ, phân hóa học tuy tốt nhưng lại đắt. Họ không thể có tiền

để mua được.

Việc gieo trồng các loại cây lương thực, thực phẩm của người Mông ở huyện

Pẹc khá đơn giản. Đối với những nương đất bằng và khô, họ cày của cuốc đất cho

nhỏ, gieo hạt ngô và đậu vào tháng 1 hoặc tháng 2 âm lịch. Tùy theo từng loại đất mà

người ta trồng các giống ngô thích hợp. Ví dụ: Những nơi đất mới khai phá thì có thể

trồng ngô nếp; Còn những nới đất không tốt thì họ trồng ngô tẻ (ngô tẻ có 3 loại: Ngô

tẻ màu vàng, ngô tẻ màu trắng và ngô tẻ màu tím lẫn trắng). Ngô tẻ rất phù hợp với

thổ nhưỡng và khí hậu ở huyện Pẹc. Vì vậy, ngô tẻ thường được trồng nhiều hơn ngô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nếp (chiếm khoảng 70% đến 80% diện tích đất trồng ngô ở đây). Từ những năm đầu

thập niên 90 của thế kỉ XX đến nay, nhờ sự phát triển, tiến bộ của khoa học kĩ thuật,

đồng bảo Mông nơi đây đã được tiếp nhận những giống ngô mới. Song những giống

ngô mới này không phù hợp với phương pháp canh tác cũng như thời tiết và khí hậu

nơi đây. Do đó, đến nay giống ngô được trồng chủ yếu vẫn là giống ngô truyền thống

(chiếm khoảng 60% đến 80% diện tích trồng ngô).

Cách thức trồng ngô của người Mông ở huyện Pẹc cũng giống cách thức trồng

ngô của người Mông ở nơi khác. Sau khi mảnh nương được khai phá và làm đất song,

họ dùng cuốc tạo thành từng hốc nhỏ, mỗi hốc tra từ 3 đến 4 hạt giống, khoảng cách

giữa các gốc từ 30cm đến 40cm. Nếu tra quá thưa sẽ lãng phí đất, tra quá dày sẽ làm

cho cây ngô không được to và bắp sẽ không có nhiều hạt...Việc gieo trồng thường

được hoàn thành trong một đến hai ngày. Ngoài trồng cây ngô là chính, người Mông

ở huyện Pẹc còn trồng các cây trồng khác trên nương rẫy. Từ lâu, sắn và khoai đã trở

thành cây trồng quen thuộc ở huyện Pẹc. Các loại cây này là cây bổ trợ cho họ vào

những lúc đói kém, mất mùa. Đó còn là các loại thức ăn dùng trong chăn nuôi, là

nguyên liệu để nấu rượu. Mùa trồng sắn bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5. Họ trồng

bằng thân cây sắn. Sau khi những thân cây sắn được chặt thành từng đoạn dài 20 - 25

cm, họ cuốc hố nhỏ và đặt các thân cây đã chạt vào, vùi lại; khoảng cách giữa mỗi

hốc cây khoảng từ 80cm - 100cm.

Để tiết kiệm đất, người Mông ở huyện Pẹc còn trồng xen lẫn hoặc xen canh

gói vụ các loại cây lương thực, thực phẩm khác như bí đỏ: khi trồng ngô xong, ngô

mọc, người Mông thương trồng cây bí xen vào các vườn ngô. Bí đỏ là loại cây ưa đất

nương cho nên lớn nhanh và có quả nhanh. Ngoài quả, bí đỏ còn lấy ngọn để ăn. Cây

bí thường chỉ trồng một vụ theo cây ngô (tháng 4 đến tháng 7). Đậu tương là cây

trồng xen theo ngô và được trồng 1 vụ một năm. Bên cạnh đó, người Mông còn trồng

các cây khác như: dưa chuột, su su và trồng các loại loại rau cải, rau rền.

Thu hoạch và cất giữ là khâu cuối cùng của việc làm nương của người Mông.

Việc thu hoạch thường được tiến hành vào tháng 6 đến tháng 7 và tháng 10 đến tháng

11. Trước tiên, họ thu hoạch các cây trồng xen canh như bí, đậu, khoai và rau...tiếp

đến mới thu hoạch ngô. Ngô được thu hoạch vào mùa khô. Theo kinh nghiệm của họ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngô thu hoạch vào mùa này thì sẽ khô nhanh và ít bị mọt ăn trong khi bảo quản. Khi

thu hoạch ngô, người ta tiến hành thu hoạch từ dưới chân nương lên đến đỉnh nương.

Công việc thu hoạch này do cả gia đình đảm nhiệm. Họ dùng tay bẻ các bắp ngô, cho

vào gùi hoặc sọt, gùi về nhà bóc bớt vỏ và phân loại từng loại ngô: loại nào tốt thì để

ăn còn loại nào xấu có thể dùng để chăn nuôi. Phân loại xong, họ để riêng từng loại,

phơi cho thật khô mới mang cất giữ.

2.1.1.2. Trồng lúa nước

Trong trồng trọt, việc trồng lúa nước là phố biến nhất. Ruộng nước được người

Mông gọi là “na” (khoảng đất có mặt bằng). Ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng, ngay

từ thời gian đầu đặt chân đến mảnh đất này, người Mông đã tập trung vào việc khai

phá ruộng đất ở những thung lũng thành những cánh đồng ruộng lớn. Bộ nông cụ làm

ruộng như: cày, mai, xẻng; cùng các biện pháp kĩ thuật liên hoàn (làm đất, làm mạ,

gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch), đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi “dẫn thuỷ nhập điền”

mương, phai, lái, lịn và cọn nước. Kết hợp với các nghi lễ tín ngưỡng liên quan. Như

vậy người Mông ngay từ rất sớm đã có các kỹ thuật cho nghể trồng lúa nước.

Ruộng của họ chủ yếu là là ruộng bậc thang. Đây là hình thức canh tác lúa

nước của dân tộc Mông ở môi trường núi cao. Theo lời kể của các cụ già người Mông

ở nông thôn thì đây là hình thức canh tác xuất hiện khá muộn so với kinh tế nương

rẫy. Nó chỉ phổ biến ở những khu vực có nhiều khe nước. Tuy số lượng ruộng nước

của người Mông ở huyện Pẹc không nhiều những việc trồng lúa nước ở ruộng bậc

thang của đồng bào đã góp phần giải quyết vấn để lương thực trong bối cảnh họ từng

chỉ biết sống nhờ vào rừng và đất rừng [29, tr.77].

Chọn đất: Làm ruộng nước được tiến hành theo một qui trình riêng. Người

Mông tiến hành khai phá đất làm ruộng sau khi đã tìm được nguồn nước. Ruộng bậc

thang được vỡ trên các sườn núi cao, chiều rộng hẹp, chiều dài uốn theo sườn núi nên

có những mảnh ruộng dài tới vài chục mét. Để làm được ruộng, việc chọn đất là hết

sức quan trọng đối với người Mông. Muốn biết đất có tốt không, người ta đã dựa vào

kinh năm của mình: trên mảnh đất cây cối mọc như thế nào? nhiều hay ít, tốt hay

xấu? khả năng tưới tiêu như thế nào? Nói tóm lại, người Mông thường chọn những

chỗ đất có chất đất tốt và gần nguồn nước tưới tiêu để phù hợp với cây trồng.

Làm đất: sau khi đã chọn được chỗ đất làm ruộng người ta tiến hành khai phá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đất. Công cụ khai phá chủ yếu là cuốc và cày. Người ta dùng cuốc để vỡ đất và phá

bỏ những cây trên đất. Sau đó ngời ta dùng cày để cày sâu mãi vào trong sườn núi;

vừa cày vừa san đất cho đến khi nào thành tuộng mới thôi. Nhiều chỗ, người ta phải

đào sâu xuống từ 1m đến 3m. Ruộng của người Mông chủ yếu để trồng lúa nước

nhưng do thường thiếu nước cho nên mỗi năm họ chỉ trồng được một vụ mà thôi. Vỡ

đất xong, họ tiếp tục làm đất. Đây là khâu rất quan trọng, có tác dụng làm tơi xốp đất.

Ruộng của người Mông thường được chuẩn bị khá kĩ lưỡng trước khi cấy lúa. Họ

thường cày ải, ủ đất qua thời gian dài. Khi những cơn mùa xuân đầu tiên đổ xuống,

họ tiến hành cày bừa đất. Việc cày bừa này thường được tiến hành từ 1đến 2 lần: Lần

đầu tiên họ cày để vỡ đất. Sau khi thu hoạch xong, người ta cày lên để có thể làm đất

ải, làm cho cỏ, gốc dạ được vùi xuống đất khi đất tơi xốp; Lần tiếp theo họ cày khi

những cơn mưa đầu tiên của một năm xuất hiện. Người ta cày đất lên, ngâm nước vài

ngày rồi dùng bừa bừa kĩ làm cho thật tơi xốp.

Nguồn nước cung cấp cho ruộng là yếu tố quan trọng. Thông thường, người

Mông phải đào các con mương nhỏ chạy ngang qua sườn núi để dẫn nước từ khe suối

về ruộng. Chiều dài con mương có thể dài vài trăm mét tới vài ba cây số tùy thuộc

vào nguồn nước ở xa hay gần. Mương phải đào sâu từ 40cm đến 50cm, rộng từ 80cm

đến 100cm. Mạch mương chảy theo đường lượn của đường đồi chảy vào thửa ruộng

đầu tiên. Khi gặp địa hình gẫy cắt, người Mông ở huyện Pẹc còn biết khoét thân gỗ to

làm máng (đường kính từ 40cm - 50cm). Nơi có địa hình hiểm trở phải làm cả một

dàn máng dẫn nước. Người Mông còn đào các rãnh dẫn nước từ ruộng trên xuống

ruộng dưới theo nguyên tắc so le nhằm tránh vỡ bờ, trôi màu. Nước bao giờ cũng

được dẫn vào thửa ruộng trên cùng và theo rãnh nhỏ chạy xuống các thửa ruộng dưới.

Gieo trồng và thu hoạch: Để có một vụ mùa bội thu, người Mông đã chuẩn bị

cho việc cấy lúa rất kĩ càng, từ khâu chọn lúa giống, cách gieo trồng cho đến khâu thu

hoạch.Trước đây, người Mông ở huyện Pẹc, khi làm ruộng nước chỉ biết gieo thẳng

hạt lúa giống xuống chỗ ruộng được chuẩn bị, chưa biết đến gieo mạ. Từ những năm

90 của thể kỉ XX trở lại đây, do có sự giao lưu với các dân tộc khác cũng như được sự

giúp đỡ của cán bộ nông nghiệp, người Mông ở huyện Pẹc đã biết đến việc gieo mạ.

Họ nhận thấy việc gieo mạ sẽ khiến cho lúa mọc đều hơn và cho năng suất lúa đạt cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hơn so với khi họ gieo thẳng hạt giống.

Cách gieo mạ của người Mông ở huyện Pẹc cũng giống như các dân tộc khác.

Họ chọn một đám ruộng thật tốt và bằng phẳng, cày cho thật hĩ lưỡng sau đó đánh

bằng mặt ruộng rối mới gieo mạ. Có như vậy mạ mới tốt, khi nhổ sẽ dễ dàng. Trước

khi gieo mạ, thóc giống được mang ngâm 3 ngày và ủ với tro bếp, ra mầm lúa, mang

gieo xuống mảnh đất đã được làm sẵn. Gieo xong, họ làm những hình bù nhìn để

chim chóc không đến ăn. Theo kinh nghiệm của người Mông, cứ 3kg thóc thì cấy

được 1 sào. Những ngày nay thì chỉ cần 2kg đến 2,5kg lúa giống thì người Mông sẽ

cấy được một sào. Mạ gieo khoảng 25 đến 28 ngày là có thể nhổ mạ để mang đi cấy.

Khi nhổ mạ, người ta thường làm thật nhẹ nhàng, cẩn thận để làm sao cho gốc mạ

không bị đứt, xước. Nhổ xong, bó thành từng bó một và mang ra những đám ruộng đã

chuẩn bị để cấy. Sau khi cấy xong khoảng 1 tháng, họ tiến hành làm cỏ và bón phân,

be bờ giữ nước. Khoảng 2 tháng rưỡi lúa đơm bông và chuẩn bị được thu hoạch.

Chăm sóc

Làm cỏ: Ruộng lúa cần được theo dõi, làm cỏ thường xuyên. Các thời điểm

cần lưu ý là 10-15 ngày sau khi sạ hoặc cấy cần theo dõi và nhổ cỏ sót trên ruộng để

giảm nguy cơ cạnh tranh dinh dưỡng ngay từ đầu vụ. Sau 30 - 35 ngày khi sạ hoặc

cấy là thời điểm sinh sôi của 1 số loại cỏ (cỏ lồng vực, đuôi phụng…) hay lúa dại có

kiểu hình khác với lúa nhà nên rất dễ dàng phát hiện và loại trừ.

Bón phân: Dinh dưỡng cho lúa được bón bổ sung ở các thời điểm sau: Bón lót,

(trước khi cấy), bón thúc lần 1 (bón vào 7-10 ngày sau cấy). Bón thúc lần 2 (bón khi

50% chồi chính trên đồng có đòng 1mm). Bón bổ sung: Có thể phun phân qua lá để

bổ sung khi lúa trỗ đều nếu cần thiết.

Điều tiết nước trên ruộng cấy

Giai đoạn cây con: Rút cạn nước trước khi sạ và giữ khô mặt ruộng trong vòng

3 ngày. Ngày thứ 4, sau khi sạ xong cho nước láng mặt ruộng 1 ngày. Sau đó tiếp tục

rút cạn để đảm bảo đủ ẩm bề mặt ruộng. Giai đoạn sinh trưởng: Sau khi sạ 7 - 10

ngày, bắt đầu cho nước từ từ vào ruộng và giữ nước trên mặt ruộng ở mức 3 - 5 cm.

Trong giai đoạn này, thay nước trong ruộng lúa từ 2 - 3 lần. Sau mỗi lần thay nước,

cần giữ cạn trong 2 - 3 ngày. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Giữ nước trong ruộng

ở mức 3 - 5cm. Giai đoạn chín: Giữ nước trong ruộng ở mức 5 - 10cm cho đến giai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đoạn chín vàng. Trước khi thu hoạch 7 - 10 ngày tháo cạn nước trong ruộng.

Thu hoạch: Khi thấy 85 - 90% số hạt trên bông đã chín vàng. Nếu cắt sớm hay

muộn đều làm tăng tỷ lệ hao hụt, giảm chất lượng khi xay xát. Sau khi cắt tiến hành

tuốt ngay, không nên phơi mớ trên ruộng. Sử dụng máy đập lúa trục dọc (tuốt lúa,

máy nhai) để tuốt lúa trong trường hợp dùng máy gặt xếp dãy. Theo người Mông ở

huyện Pẹc, mỗi chu kì trăng tròn gồm 30 ngày và dựa vào đó người ta tính tháng 12

con vật sẽ tượng trưng cho 12 tháng của người Mông. Tháng mở đầu sẽ là con thỏ

(tức tháng 1) và tháng kết thúc là con hổ (tức là tháng 12). Tên mặt trăng trở thành

tên tháng và tên mặt trời sẽ trờ thánh tên ngày. Dựa trên cơ sở những biến đổi của

thời tiết 12 tháng và các yếu tố khác, người Mông xây dựng cho mình chu kì sinh

hoạt truyền thống của cộng đồng trong năm. Lịch thời vụ và sinh hoạt được cấu trúc

khá thống nhất cho dù họ ở những địa điểm khác nhau, thuộc nhóm Mông nào. Để

truyền kinh nghiệm cho người sau, người Mông đã tạo thành một bản Nông lịch phục

vụ cho trồng trọt.

Bảng 2.2: Nông lịch của người Mông ở huyện Pẹc

Tháng

Tháng tượng trưng cho

Công việc chính

âm lịch

con vật của người Mông

Thu hoạch chuẩn bị củi, làm nhà mới, cưới

Tháng 1

Con thỏ

xin

Con rồng

Chăm sóc ruộng và nương

Tháng 2

Con rắn

chuẩn bị đất làm ruộng nước, cấy lúa

Tháng 3

Con ngựa

Dọn nương, trồng ngô sớm, đậu, khoai lang

Tháng 4

Con dê

Chăm sóc ruộng và nương

Tháng 5

Con khỉ

Nghỉ ngơi, sửa chữa nhà cửa

Tháng 6

Con gà

Thu hoạch các loại cây ăn quả

Tháng 7

Con chó

Thu hoạch ngô

Tháng 8

Con lợn

Thu hoạch lúa

Tháng 9

Con chuột

Thu hoạch nốt hoa mầu

Tháng 10

Con bò

Nghỉ ăn tết, thu hoạch ngô

Tháng 11

Con hổ

Sữa chữa nhà cửa, cưới xin

Tháng 12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

[4, tr.35]

Theo điều tra, hình thức canh tác chủ yếu của người Mông là thuận theo tự

nhiên. Như vậy họ sống theo tự nhiên, không lạm dụng hoá chất, công nghệ, nhưng

sự cải tiến trong canh tác còn quá ít. Đây cũng là hạn chế làm giảm năng suất cây

trồng. Do hình thức canh tác tự nhiên nên nguồn giống cây trồng cũng chủ yếu là tận

dụng từ nguồn tự nhiên. Việc nhập giống cây trồng ngoại rất ít, chưa phổ biến trong

cộng đồng người Mông chỉ chiếm 1/10 số hộ được điều tra.

Bên cạnh những thuận lợi, trong quá trình sản xuất nông nghiệp trồng trọt của

người Mông còn tồn tại một số khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn, trình độ khoa học kỹ

thuật chưa được áp dụng vào sản xuất. Vì vậy năng suất trung bình còn thấp. Cư dân

người Mông cũng chưa biết tìm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình,

phần lớn là tự cung tự cấp.

Cũng chính từ những khó khăn trên, thu nhập của các hộ nông dân từ sản xuất

nông nghiệp không cao, nhưng so với các hộ khác cùng huyện vẫn cao hơn. Sản

phẩm từ nông nghiệp của người Mông đã góp phần làm cho hàng hóa trên thị trường

ở huyện Pẹc đa dạng và phong phú. Một số sản phẩm đã trở thành đặc sản nổi tiếng

của địa phương. Dưới đây là bảng thống kê những sản phẩm nông nghiệp của một số

làng bản Mông ở huyện Pẹc có thể sản xuất được:

Bảng 2.3. Sản lượng thu hoạch và tổng thu nhập từ trồng trọt của người Mông

ở huyện Pẹc, năm 2016

Diện tích Sản lượng Tổng thu nhập Loại cây trồng (ha) (tấn) (kíp)

Lúa 6 18 54.000.000

Ngô 2 10 10.000.000

Lạc 3 6 60.000.000

Rau 1 5 15.000.000

Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu 2 8 24.000.000

Cây ăn quả 1 2 2.000.000

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Nhot Ngừm năm 2016)

Bảng 2.4. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm bản Nhot Ngừm năm 2016

Tổng thu nhập Vật nuôi Số lượng Bán ra (kíp)

Trâu 242con 85 con 255.000.000

Bò 854 con 489 con 733.500.000

Lợn 891 con 536 con 28.800.000

Dê 895con 352con 18.000.000

Gà, vịt 4823 3857 115.710. 000

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Nhot Ngừm năm 2016)

Bảng 2.5. Sản lượng thu hoạch và tổng thu nhập từ trồng trọt của người Mông ở

Cụm bản Lat Buốc huyện Pẹc, năm 2016

Diện tích Sản lượng Tổng thu nhập Loại cây trồng (ha) (tấn) (kíp)

6 18.000.000 2 Lúa

2 2.000.000 1 Ngô

3 9.000.000 1 Rau

500 kg 4.000.000 3000 m2 Lạc

Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu 800 kg 2.400.000 2000 m2

Cây ăn quả 500 kg 500.000 1000 m2

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Lat Buốc năm 2016)

Bảng 2.6. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm bản Lat Buốc năm 2016

Vật nuôi Số lượng Bán ra Tổng thu nhập (kíp)

3 1 4000.000 Trâu

15 3 6.000.000 Bò

5 1 1.000.000 Lợn

8 2 250.000 Dê

87 20 600.000 Gà, vịt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Lat Buốc năm 2016)

Bảng 2.7. Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông

ở Cụm bản Thông Háy huyện Pẹc năm 2016

Diện tích Tổng thu nhập Loại cây trồng Sản lượng (ha) (kíp)

12 108.000.000 36 Lúa

1 2.000.000 2 Ngô

4000 m2 800 kg 6.400.000 Lạc

Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu 2000 m2 2000 kg 6.000.000

- - - Rau

- - - Bí đỏ

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Thông Háy năm 2016) Bảng 2.8. Thống kê chăn nuôi của người Mông ở Cụm bản Thông Háy năm 2016

Tổng thu nhập Vật nuôi Số lượng Bán ra (kíp)

8.000.000 2 con Trâu 6

21.600.000 12 con Bò 87

8.700.000 87 con Lợn 263

13.200.000 83 con dê 284

40.260.000 1342 gà và vịt 2469

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Thông Háy năm 2016)

Bảng 2.9. Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông

ở Cụm bản Phan huyện Pẹc, năm 2016

Diện tích Tổng thu nhập Loại cây trồng Sản lượng (ha) (kíp)

90.000.000 30 Lúa

10 6000 m2 1.500.000 1,5 Ngô

- - - Lạc

2 18.000.000 6 Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu

- - - Rau

- - - Bí đỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Phan năm 2016)

Bảng 2.10. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm bản Phan năm 2016

Vật nuôi Số lượng Tổng thu nhập (kíp) Bán ra

Trâu 65 10 con 40.000.000

Bò 123 83 con 124.500.000

Lợn 451 289 con 89.000.000

dê 65 12con 3.600.000

à và vịt 985 476 con 14.280.000

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Phan năm 2016)

Bảng 2.11. Sản lượng thu hoạch từ trồng trọt của người Mông

ở Cụm bản Lat Huổng ở huyện Pẹc năm 2016

Diện tích Tổng thu nhập Loại cây trồng Sản lượng (ha) (kíp)

6 18 1.296.000.000 Lúa

3000 1 1000.000 Ngô

- - - Lạc

2 6000.000 Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu 3000m2

1 3 3000.000 Rau

- - - Bí đỏ

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Lat Huổng năm 2016]

Bảng 2.12. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm Bản Lat Huổng năm 2016

Tổng thu nhập Vật nuôi Số lượng Bán ra (kíp)

Trâu 6 con 1 con 4.000.000

Bò 98 20 con 30.000.000

Lợn 53 con 10 con 6.000.000

dê 25 con 7 con 2.100.000

Gà và vịt 842 289 8.670.000

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản Lat Huổng ở huyện Pẹc năm 2016)

Bảng 2.13. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm Bản thuộc huyện Pẹc năm 2016

Diện tích Sản Tổng thu nhập Loại cây trồng (ha) lượng (kíp)

18 1.296.000.000 Lúa 20

Ngô 2 1 1000.000

Lạc 4000m2 1 8000.000

2000m2 1 3000.000 Dưa chuột, dưa bở, dưa hấu

Rau 3 9 27.000.000

Bí đỏ - - -

(Nguồn: Báo cáo nhóm của Cụm bản thuộc huyện Pẹc năm 2016)

Bảng 2.14. Thống kê chăn nuôi của người Mông

ở Cụm Bản thuộc huyện Pẹc năm 2016

Đối tượng vật nuôi Số lượng Tổng thu nhập (kíp) Bán ra

Trâu 146 con 45 con 180.000.000

Bò 386 con 123 con 221.400.000

Lợn 332 con 129 con 29.000.000

dê 857 con 249 con 7.150.000

gà và vịt 4854 con 2689 con 941.500.000

(Nguồn: Báo cáo của Cụm bản thuộc huyện Pẹc năm 2016)

Bảng số liệu thống kê cho thấy năng suất lúa, ngô bình quân hàng năm của

người Mông có tăng những tăng không đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện Pẹc

vẫn chủ yếu tập trung trong các gia đình người Mông. Qua khảo sát năm 2016 thì

75 % số hộ nghèo là dân tộc Mông. Như vậy so với người Mông ở các nơi khác thì

người Mông ở huyện Pẹc trong trồng trọt vẫn chưa có sự chuyển dịch cơ cấn cây

trồng, vẫn chủ yếu là các cây trồng truyền thống không có giá trị kinh tế cao.

Từ bảng thu nhập về trồng trọt và chăn nuôi của người Mông ở các Cụm bản

huyện Pẹc cũng như qua khảo sat, chúng tôi thấy được sự chênh lệch về thu nhập từ

trồng trọt của người Mông giữa các huyện trong tỉnh. Các loại cây trồng của huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Pẹc luôn có diện tích, sản lượng và tổng thu nhập đều cao nhất tỉnh, đặc biệt trồng lúa

và trồng cây ăn quả đạt trên 2 tỷ kíp (tiền Lào)/1 năm. Còn huyện Khăm nhiều loại

cây trồng không có như Lạc, đậu, khoai sắn và các cây trồng khác thì diện tích, sản

lượng và tổng thu nhập lớn hơn huyện Pẹc. Năng suất lúa ruộng nước của người

Mông rất thấp vì kĩ thuật canh tác của họ còn kém phát triển. Đặc biệt, họ không có

phân bón và bị thú rừng, chim chóc phá hại. Những năm đầu thập kỉ 90 của thể kỉ

XX, năng suất chỉ đạt 40kg đến 50kg lúa/sào (360m). Đến nay, năng suất đã đạt cao

hơn khoảng 100kg - 120kg/ sào.

Người Mông cũng có những tri thức nhất định về thời tiết có liên quan đến sản

xuất: Người Mông vốn là cư dân trồng trọt, trải qua bao thế hệ gắn với núi rừng, lấy

canh tác nương rẫy làm chính, họ đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm về việc dự đoán

thời tiết phục vụ sản xuất. Ví dụ: người Mông thấy trong tháng 4, tháng 5 có cơn mưa

đầu mùa thì tổ chức trồng ngô, khi cây bưởi, hoa gạo bắt đầu nở hoa, con chim Kỳ

Giàng kêu thì trồng ngô, khi thấy hoa sắn nở thì trồng lúa.

Với người Mông ở huyện Pẹc, trong trồng trọt, nương rẫy và ruộng nước là hai

hình thức canh tác chủ yếu và lâu đời nhất. Tuy nhiên, ngoài hai hình thức canh tác

chính, ở đây còn xuất hiện nghề làm vườn. Những mảnh vườn trong mỗi gia đình

người Mông trước kia thường trồng cây thuốc phiện để phục vụ cho nhu cần của gia

đình nay đã được trồng rất nhiều loại cây mang giá trị kinh tế, phù hợp với điều hiện

địa hình nơi họ sinh sống. Đó là cây đào, cây mận, cây Dứa, cây Giềng... đặc biệt, đã

có những gia đình người Mông trồng được những vườn khoai lang tốt tươi, mang lại

giá trị kinh tế cao. Nhưng những gia đình có những mảng vườn trồng cây đó vẫn chỉ

chiếm một phần nhỏ trong nền kinh tế của người Mông.

Phương tiện vận chuyển và công cụ lao động: Vùng cư trú của người Mông

chủ yếu là ở vùng sâu, vùng xa giao thông khó khăn. Đường đi chủ yếu là con

đường mòn. Phương tiện đi lại chủ yếu là đi bộ và bằng ngựa. Mấy năm gần đây,

Nhà nước đã đầu tư mở mang đường xá. Nhiều con đường liên xã được hình

thành, giao thông có phần thuận tiện hơn, đã xuất hiện những phương tiện vận

chuyển mới như xe đạp, xe máy nhưng chưa thật phổ biến. Phương tiện vận

chuyển chủ yếu của người Mông ở huyện Pẹc vẫn là dùng sức người và những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chiếc gùi với hai quai đeo. Chiếc gùi dùng để chyên chở các sản phẩm khô từ nơi

này sang nơi khác và từ chỗ thu hoạch về nhà. Đây cũng là vật dùng để đi chở của

các bà các chị. Đó là vật dụng hữu hiệu của người Mông nơi đây. Với những sản

phẩm có kích thước lớn và nặng thì người Mông đã sử dụng phương tiện vận

chuyển là ngựa. Đây là phương tiện vận chuyển hữu hiệu, nó phù hợp với địa hình

đồi núi và giao thông nơi người Mông sinh sống.

Công cư lao động của người Mông còn rất thô sơ. Bộ công cụ làm đất của họ

chỉ đơn giản là dao phát, mai, cuốc, cây, bừa, vồ...Trong trồng trọt, họ cũng đã sớm

biết đến việc dùng sức kéo trâu bò. Loại cày mà người Mông ở huyện Pẹc thường

dùng là cày thân cán một tay cầm bắp cong. Đây là loại cày không có náng, lưỡi to,

dày và cong rất thích hợp với địa hình nơi đây. Loại cày này không chỉ cày được

ruộng mà còn cày được cả nương. Người Mông ở huyện Pẹc dùng hai loại bừa cơ bản

là bừa đứng và bừa nằm.

Những phương thức vận chuyển cơ bản và công cụ lao động sản xuất được

chính bản thân những người Mông ở đây tự tạo ra để phục vụ cho cuộc sống lao

động, sản xuất của mình.

2.1.2. Chăn nuôi

Bên cạnh trồng trọt thì chăn nuôi là ngành không thể thiếu trong kinh tế nông

nghiệp. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi: núi đồi, ao hồ, đồng cỏ nhiều nên việc chăn

nuôi của cư dân tộc Mông ở huyện Pẹc rất thuật lợi chủ yếu là trâu, bò, ngoài ra còn dê,

lợn, gà, vịt. Các gia đình người Mông đều quan tâm đến chăn nuôi. Trâu, bò được chăn

nuôi để làm sức kéo và vận chuyển làm hàng hoá trao đổi, buôn bán.

Trong chăn nuôi truyền thống người Mông đặc biệt chú trọng tới việc phát triển

đàn trâu. Trâu là loại gia súc được chăn nuôi khá nhiều và trở thành vật nuôi quan trọng

nhất. Trâu là vật nuôi được sử dùng vào trong quá trình sản xuất, nó còn được xem

như thứ hàng hoá trao đổi trên thị trường. Trâu thường được coi là tài sản lớn nhất

của người nông dân. Người Mông có nhiều kinh nghiệm trong việc chọn giống chăn

nuôi, nhất là chăn nuôi trâu bò. Theo người Mông, giống trâu bò tốt là phải có chân

to, dáng cao, cổ lớn nhưng ngắn. Ngoài ra, họ còn xem sừng, khoáy, khấu đuôi của

con vật để đánh giá giống xấu hay tốt. Người Mông thường thả rông trâu, bò vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

rừng kiếm ăn. Khoảng một tháng sau mới đi tìm. Buổi tối họ thường buộc trâu bò

dưới gầm sàn nhà. Ngày nay, phương tiện phục vụ sản xuất ngày càng được cơ giới

hóa, do vậy trâu, bò không giữ được vị trí quan trọng như xưa nữa nhưng trên thị

trường đây vẫn là một mặt hàng giá trị cao.

Lợn cũng là vật nuôi quan trọng trong gia đình và là con vật gần gũi với đời

sống của dân tộc Mông. Việc chăn nuôi lợn trong các gia đình người Mông không chỉ

để cung cấp thịt cho bữa ăn, mà còn là được coi là lễ vật trong các lễ hội, đình, đám.

Lợn được nuôi trong hộ gia đình, theo lối thả rông, được thả trong các khu vườn của

gia đình. Cách chọn giống lợn của dân tộc Mông cũng giống như các dân tộc khác là

phải chọn lợn có vóc dáng cao to, đòn dài, lưng thẳng, ngực rộng, đùi to, vai nở sức

khỏe tốt mới nuôi được hiệu quả cao. Hiện nay, có nhiều gia đình người Mông ở

huyện Pẹc đã nuôi lợn làm kinh doanh để phát triển kinh tế gia đình của mình. Ngoài

ra, người Mông ở huyện Pẹc rất chú trọng chăn nuôi gà, vịt...nuôi để làm thức ăn

hàng ngày hoặc sử dụng trong tế lễ, đãi khách.

Bảng: 2.15. Thống kê chăn nuôi theo số điều tra của người Mông

ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng năm 2016

Stt Vật nuôi chính Số hộ gia đình điều tra Tổng số hộ điều tra

1 Trâu 468

2 Bò 1.563

3 Lợn 1.944 4685

4 Gà và Vịt 12,235

6 Dê 14,056

(Nguồn: Số liệu điều tra điền dã của tác giả)

Hoạt động kinh tế chăn nuôi ở huyện Pẹc dần trở thành hoạt động kinh tế

chiếm vị trí quan trọng. Nhưng việc chăn nuôi mới phát triển ở phạm vi gia đình và

chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu tự cấp, tự túc là chính. Phương thức chăn nuôi ở đây

vẫn là: nửa thả rông, nửa chăm sóc. Trong chăn nuôi, người Mông cũng có sự phân

công lao động theo giới. Các loại gia súc lớn chủ yếu là do nam giới và thanh niên

đảm nhận. Còn gia cầm chủ yếu là do phụ nữ chăm sóc. Có thể nói, chất lượng chăn

nuôi của người Mông chưa được chú trọng đúng mực. Nhưng dù sao chăn nuôi cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đóng vai trò quan trọng đối với đời sống tự cấp tự túc của cộng đồng dân tộc này.

Bảng: 2.16. Thu nhập từ chăn nuôi của người Mông ở huyện Pẹc

tỉnh Xiêng Khoảng năm 2016.

Đối tượng vật nuôi Số lượng con Tổng thu nhập (kíp)

Trâu 144 491.000.000

Bò 739 1.137.000.000

Lợn 1.052 162.500.000

Dê 585 15.500.000

Gà và vịt 8682 260.460.000

(Nguồn: Số liệu điều tra điền dã của tác giả)

Bảng thu nhập từ chăn nuôi của người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiengkhhouang

thể hiện rõ sự đa dạng con vật nuôi trong chăn nuôi, trong đó bò và trâu là vật nuôi

với số lượng nhiều nhất. Trong 6 nhóm Bản của người Mông ở huyện Pẹc, chúng tôi

nhận thấy đây vẫn là huyện có sự đa dạng vật nuôi và số lượng loại vật nuôi nhiều,

đồng thời thu nhập từ vật nuôi cũng cao nhất tỉnh.

2.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên

Huyện Pẹc là vùng đất có đặc điểm thực vật là rừng lá rộng, có hệ thực vật

phong phú, đa dạng, nhiều sông suối rất thuận lợi cho việc hái lượm, săn bắn và đánh

cá. Từ năm 1986 đến nay, nhờ công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế

của nước Lào đã chuyển sang cơ chế thị trường mở cửa. Vùng sâu, vùng xa, vùng dân

tộc thiểu số được quan tâm đúng mức. Vì vậy, diện mạo ở vùng dân tộc thiểu số nói

chung, người Mông nói riêng đã có những chuyển biến và thay đổi rõ rệt.

Săn bắt

Săn bắt và hái lượm là hai hoạt động cơ bản của việc khai thác nguồn lợi tự

nhiên. Săn bắt là công việc chủ yếu của người đàn ông, đây là sự phân công lao động

theo giới tính đã tồn tại từ lâu trong cộng đồng người Mông. Có hai hình thức săn bắt

tự nhiên: săn bắt tập thể và săn bắt cá nhân. Săn bắt tập thể là hình thức săn bắt có tổ

chức mang tính cộng đồng sâu sắc. Mùa săn của người Mông thường diễn ra vào mùa

khô, tức là từ tháng 3 năm trước đến tháng 3 năm sau. Săn bắt cá nhân chủ yếu do cá

nhân thực hiện, săn bắt thú nhỏ gần như thường xuyên, phổ biến. Săn bắt tập thể và

cá nhân không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần mở mang sinh hoạt văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hóa cộng đồng. Hái lượm là công việc thường xuyên của người phụ nữ Mông, nhằm

đáp ứng nhu cầu thực phẩm rau xanh và nhu cầu thuốc chữa bệnh của người Mông.

Sản phẩm hái lượm là những loại cây, rau,củ, quả có sẵn trong tự nhiên, như các loại

rau rừng, nấm, mộc nhĩ...có nhiều trong mùa mưa. Các loại cây củ thường được kiếm

vào vụ giáp hạt hay mất mùa. Đến mùa rau củ quả người Mông thường rủ nhau thành

nhóm vào rừng hái những sản phẩm của mùa vụ đó. Sản phẩm họ hái lượm được

thường đem chế biến theo nhiều cách khác nhau phù hợp với nhu cầu sử dụng.

Người Mông định cư ở ven sông suối nên họ, giỏi bắt cá, thích ăn cá. Cá đã

trở thành món ăn hàng ngày và không thể thiếu được khi có khách. Người Mông ở

ngoài việc khai thác cá từ nguồn tự nhiên như ở sông suối, họ còn rất quan tâm đến

việc nuôi thả cá ở ao và ruộng. Họ kết hợp thả cá vào ruộng khi lúa đã xanh cây. Mùa

gặt, tháo nước để bắt cá và đây chính là phương thức canh tác rất đặc trưng của người

Mông. Đồng bào có nhiều cách đánh cá: vó, chài, lưới, đơm, chém...thường tổ chức

đánh cá theo từng nhóm ở bên cạnh những dòng suối hay sông như: Sông Nặm

Ngeum, sông Nặm Kean, sông Nặm Yuan, sông Nặm Kat... Cá mà họ bắt được có

nhiều loại như: pá tong (cá còm), pá khỏ (cá tràu), pá cốt (cá bò), pá cặng (cá sộp), pá

khếng (cá rô), pá sỏi (cá nhỏ), pá xiu (cá cơm), pá phăn, củng (tôm), pú (cua)…. Còn

phụ nữ dân tộc Mông thường dùng vợt, xúc, câu bắt cá.

Hái lượm

Cùng với săn bắt, hái lượm là một hình thức phổ biến của các gia đình người

Mông ở huyện Pẹc. Rừng đã cung cấp cho họ một lượng ăn từ hái lượm rất lớn như

rau, củ, quả. Bên cạnh đó các loại lâm sản qúy, các loại cây thuốc chữa bệnh cũng là

một nguồn bổ trợ cho người Mông ở huyện Pẹc.

Từ rất xa xưa, công việc hái lượm do phụ nữ và trẻ em đảm nhiệm. Công việc

này diễn ra quanh năm vì mỗi mùa lại có một loại riêng biệt. Công cụ hái lượm cũng

rất đơn giản chủ yếu là dùng dao, thuổng. Ở vùng này thường cò các loại rau đắng,

rau rới, hoa chuối rừng, rau bò khai... Đây là những loại rau được người Mông hái

quanh năm nhưng nhiểu nhất là mùa mưa. Những loại rau này được người Mông sử

dụng vào bữa ăn hàng ngày của mình với nhiểu cách chế biến khác nhau. Các loại củ

như củ nâu, củ mài, củ sắn, củ rong... cũng là nguồn thức ăn của người Mông. Người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mông có thể dùng các loại củ này để thay thế cho các loại lương thực như: gạo, ngô.

Họ có thể nấu các loại củ này để ăn trực tiếp cho các bữa ăn hàng ngày, cũng có thể chế

biến thành bột để ăn vào những ngày giáp hạt. Đối với người Mông ở huyện Pẹc,

măng được coi là loại thực phẩn quan trọng. Họ kiếm măng đắng vào tháng 1 đến

tháng 3, măng nứa, măng giang vào tháng 4, tháng 5; măng nứa vào tháng 5 đến

tháng 8. Khi hái măng về, bất cứ loại măng nào cũng có thể luộc, xào ăn ngay. Họ

cũng có thể ngâm chua để ăn dần, cũng có thể phơi khô và mang đi bán. Bên cạnh đó,

mộc nhĩ, nấm hương và nấm là các loại cây thường được người Mông thu hoạch vào

tháng 6 đến tháng 8. Khi mùa mưa đến, độ ẩm cao các loại cây này thường rất tốt.

Trước kia người Mông thường chỉ dùng các loại này để phục vụ bữa ăn gia đình

mình. Nhưng nay các loại này đã được mang bán vì có giá trị kinh tế cao.

Có thể nói, việc khai thác nguồn lợi tự nhiên đã đem lại nguồn thực phầm

quan trọng trong cuộc sống tự cấp, tự túc của người Mông. Hoạt động này tồn tại và

phát triển mạnh khi dân số chưa tăng; điều kiện tự nhiên còn khá thuận lợi; rừng,

sông, suối còn nguyên sinh. Còn hiện nay, khi dân số gia tăng nhanh chóng; tài

nguyên rừng, sông dần cạn kiệt thì hoạt động sắn bắt, hái lượm của người Mông ít

hiệu quả nhưng hoạt động này vẫn tồn tại ở vùng xa, vùng nông thôn.

2.3. Thủ công nghiệp

Nền kinh tế tự cung tự cấp đã biến mỗi gia đình người Mông trở thành một

đơn vị kinh tế độc lập. Dưới mỗi nóc nhà ấy, họ đã làm ra mọi thứ thiết yếu phục vụ

cho cuộc sống của mình. Phương thức hoạt động chủ yếu lại mang tính chất mùa vụ.

Người Mông ở huyện Pẹc có những nghề thủ công chủ yếu: nghề rèn, nghề mộc,

nghề dệt, đan lát, nấu rượu. Các sản phẩm này vừa có chất lượng sản phẩm cao, vừa

mang đậm yếu tố nghệ thuật và đặc biệt thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc.

2.3.1. Nghề rèn, đúc

Tồn tại và phát triển trong tất cả các làng của người Mông. Tuy nhiên, không

phải gia đình nào cũng biết nghề này bởi nó không chỉ đòi hỏi yếu tố kĩ thuật, bí

quyết, kinh nghiệm mà cần đến bàn tay khéo léo của những người yêu thích công

việc đó. Vĩ thế, nghề rèn đúc thường mang tính cha truyền con nối. Họ rèn cuốc,

xẻng, dao, lưỡi cày...Hiện nay, nghề rèn đã bị mai một nhiều. Lò rèn không còn sản

xuất những sản phẩm mới mà chỉ ra chữa những công cụ sản xuất nguyên nhân: ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nay công cụ sản xuất (được bán với giá rẻ, mẫu mã đẹp).

Kỹ thuật tiến hành: Để triến hành nghề rèn, yêu cầu lớ nhất là phải có lò rèn.

Lò rèn đúc của người Mông có cấu tạo khá đơn giản, giống như lò rèn của các dân

tộc khác trong vùng và dân tộc Mông ở những nơi khác, bao gồm: Bếp lò được đúc

bằng đất sét. Bễ dùng để thổi gió vào bếp lò. Bễ là một thùng gỗ kín dài khoảng

2,2m; rộng 0,25m; bên trong có một lá gió hình tròn được làm bằng gỗ, xung quanh

được buộc lông gà cho dễ kéo và kín hơi, giữa ống bễ có một lỗ thông gió nối sang

bếp lò bằng một ống tre kín (ngày nay bễ đã được làm bằng kim loại hoặc bằng tôn).

Gáo sắt thường có chiều dài 0,3m sâu 0,25m. Phần trong của gáo được đắp một lượt

đất sét trắng đã trộn kĩ với than củi. Gáo sắt dùng để đựng gang thép khi nung chảy.

Khuôn đúc lưỡi cày được làm bằng gỗ tốt, bên trong đắp một lớp đất sét trắng.

Việc đúc lưỡi cày được làm khá công phu, từ việc xếp các mảnh gang xen lẫn than

củi đến việc nhóm bếp lò, xem màu nước gang chảy để chọn thời điểm đúc. Với kinh

nghiệm truyền thống, người Mông đã làm ra lưỡi cày rất đặc thù và phù hợp với địa

hình nơi họ cư trú.

Đề có thể tiến hành rèn đúc, người Mông dùng những dụng cụ sau: Búa tạ: có

trọng lượng tù 2hg đến 4kg, dùng để đập sắt tạo hình. Búa tay: nặng 0,7kg đến 1,5kg.

Đây là dụng cụ chính của thợ cả. Họ thường dùng búa này để làm hiệu lệnh chỉ đạo

cho búa tạ đập vào chỗ nào trên thanh sắt và phác ra hình thù của sản phẩm định chế

tạo. Sau đó, thợ cả dùng búa tay để chỉnh sửa lại sản phẩm. Kìm gồm hai loại: Kìm

lưỡi thẳng và kìm lưỡi cong. Đe dùng để đập dàn sắt mỏng ra và là nơi tỳ uốn tạo

dáng sản phẩm. Nạo sắt: l công cụ gồm hai bộ phận, phận lưỡi sát bản rộng gần bằng

hai ngón tay, được tôi hỹ, cắm vào xa cán mà hai đầu cán có gắn hai quá nắm để cầm

cho chắc. Người thợ rèn dùng nạo để nạo mỏng sản phẩm vừa được chế tạo, giúp cho

việc mài nhanh chóng hơn. Chạm chặt sắt: giống lưỡi rìu chặt gỗ được cắm và buộc

vào cán gỗ. Lưỡi chạm sắt được tộ rất kĩ sao cho vừa có độ sng lại vừa có độ dai để

có thể chạt được các thanh sắt khác.

Cách tạo ra than: Than là nguyên liệu không thể thiếu cho nghề rèn. Để có

than họ phải tìm, chọn loại gỗ tốt, gỗ cứng trong rừng sâu hoặc trên núi cao để đốt lấy

than. Sau khi kiếm được các loại gỗ như mong muốn, người Mông tiến hành đốt gỗ

lấy than. Công việc này khá đơn giản. Họ đào hố có độ to hay nhỏ tùy thuộc vào số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lượng gỗ cần đốt. Đào xong hố, họ cho gỗ xuống đốt. Khi gỗ cháy gần hết thì lấy lá

tươi phủ lên trên, lấy lá chuối tươi đắp lên trên cùng, lấp đất kín. Người ta ủ như vậy,

vài ngày sau đào lấy than ra.

Nghề rèn của người Mông khá phát triển và đạt đến trình độ khá cao. Họ đã có

thể tự khoan nòng súng kíp. Việc khoan nòng súng kíp là quy trình phức tạp nhất

trong quá trình làm khẩu súng.Trước tiên họ phải giữ thanh thép cho thật nóng trên

một cái giá cố định. Mũi khoan nòng súng cũng là một que thép có một đầu nhọn với

đường kính 1cm và cũng được giữ cố định. Kĩ thật khoan nhất là điểm khoan đầu tiên

phải thật khéo léo, chính xác và phải làm sao để mũi khoan chuyển động theo sợ vận

hành của ròng rọc và bánh quay một cách đều đặn. Một người thợ phải làm liên tục

trong năm ngày mới khoan xong một nòng súng.

Bên cạnh đó, người Mông đã tự làm ra những công cụ sản xuất cho dân tộc mình

như cuốc, liềm, hái, rìu, dao và thuổng...Chất lượng công dụ khá tốt, độ bền cao, sắc bén,

dễ sử dụng, phù hợp với điều kiện địa hình cư trú của người Mông. Sản phẩm phổ biến

của nghề rèn đúc Mông là lưỡi cày to khỏe, những con dao sắc, lưỡi cuốc bướm.

Phương pháp rèn đúc là phương pháp thủ công nhưng kỹ thuật đã đạt trình độ

cao, nhất là khả năng nhìn màu thép để đưa vào tôi. Đây là bí quyết để tạo nên những

sản phẩm nổi tiếng. Các sản phẩm rèn của người Mông không khác gì những sản

phẩm rèn của người Mông ở các tỉnh khác như: Hau Phanh, Bo Keo, Luông Năm

Tha, U Đôm Xay, Luông Pha Băng, Viêng Chăn, Bo Li Khăm Xay...Tuy nhiên, hiện

nay do có nhiều sản phẩm công nghiệp sản xuất giá rất rẻ nên nghề rèn truyền thống

của người Mông đã và đang dần bị mai một. Lò rèn thủ công của các gia đình người

Mông đã không còn được đưa vào sử dụng. nhiều bản Mông ở huyện Pệc trước đây,

bản nào cũng có vài lò rèn nhưng giò chỉ còn vài bản còn sử dụng. Khôi phục, bảo

tồn và phát huy, phát triển nghề rèn truyền thống của người Mông là một việc làm hết

sức cấp bách đang đặt ra, bởi nó không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế xã hội mà còn

góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo riêng của dân tộc. Và đó cũng chính là trăn

trở và mong ước của những người muốn “giữ lửa” cho nghề rèn truyền thống của

dân tộc hôm nay.

2.3.2. Nghề mộc

Nghề mộc là một nghề tồn tại khá lâu trong cuộc sống của người Mông. Nghề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mộc đối với người Mông cũng rất được coi trọng. Họ đóng thùng đựng nước, nhuộm

chàm, làm chậu muôi, thìa gỗ...Công cụ làm mộc rất đơn giản. Chỉ một chiếc rìu, một

con dao không có bào, đục, cưa nhưng vẫn dựng được nhà, sản xuất đồ dùng, ghép

thùng nước. Trong nghề mộc, đồng bào không sử dụng các loại đinh, chủ yếu dùng

kỹ thuật ghép mộng.

Hầu hết nam giới người Mông ở huyện Pẹc đều biết đến nghề mộc. Tuy nhiên,

đây chỉ là nghề được sử dụng chủ yếu trong việc làm ra các vật dụng dùng trong gia

đình mà không trở thành một nghề chính thức.

2.3.3. Nghề dệt

Nghề dệt phổ biến ở tất các làng người Mông. Trong truyền thống của dân tộc

này, bất kì người phụ nữ nào cũng phải biết trồng lanh dệt vải, biết kĩ thuật in hoa văn

bằng sáp ong, thêu hoa văn bằng các loại vải mầu, chỉ mầu...và họ phải học tất cả

những điều đó ngay từ bé để khi trở thành thiếu nữ, họ có đủ khả năng tạo nên các

tấm vải lanh, làm nên bộ váy áo cho bản thân và gia đình, nhất là người chồng và gia

đình người chồng sau này.

Lanh thường được gieo trồng trên mảnh đất tốt nhất của gia đình. Đó là mảnh

đất bố mẹ ưu tiên dành cho con gái để họ thực hiện chức năng của mình. Thời vụ

trồng lanh chỉ kéo dài 3 tháng: bắt đầu trồng từ tháng 2 và thu hoạch vào tháng 5,

tháng 6. Khi cây lanh mộc tốt nhất cũng là lúc người ta chặt lanh, buộc lanh thành

từng bó đem về phơi trong khoảng 10 đến 15 ngày: tước lấy vỏ cây (tớ) cho vào cối

giã, giã đến khi vỏ lanh xoăn lại, đem ra nối thành sợi dài. Phụ nữ Mông thường dắt

các túi sợi vào bên hông và tranh thủ mọi lúc mọi nơi để nối sợi lanh. Qúa trình xe vỏ

cây lanh làm sợi không phải là một công việc phức tạp nhưng đòi hỏi rất nhiều thời

gian. Điều đó đòi hỏi đức tính kiên trì, bền bị của người phụ nữ Mông. Sợi lanh có

thể cuốn trực tiếp vào tay hoặc vào que gỗ cầm tay. Khi nối sợi phải nối ngọn với,

gốc với gốc và các đoạn được nối cần phải to đều. Chỗ nào bé cần bổ sung thêm sợi.

Sợi to thì tước bớt đi. Sau đó, sọi được ngâm vào nước lạnh từ 15 phút đến 20 phút

rồi đưa lên khung soắn sợi.

Khung se sợi bao gồm các bộ phận: khung gỗ, bàn đạp bánh xe, các con lăn

cắm vào các que gỗ. Trước khi xoắn sợi, người ta lấy mỡ bôi trơn vào các rãnh để các

con lăn chuyển động. Bốn con lăn chính là bốn con suốt sợi khi bàn đạp hoạt động,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dây cô loa làm các con lăn xoay tròn. Cùng với sự tác động lúc nhìm, lúc buông của

đôi tay người se sợi, sợi dần được soắn lại.Sau đó, sợi được cuộn vào các que gỗ cắm

trong các con lăn. Khi sợi soắn xong người ta căng sợi lên dàn quay. Dàn quay được

làm bằng gỗ hay bằng tre con khoảng 90cm, một đầu cắm xuống đất, đầu trên có thể

quay tròn được và đục hai lỗ để hai thanh tre dài 500cm-600cm, bắt lại vuông góc với

nhau thành hình dấu cộng. Ở đầu thanh tre cò cài que để giữ sợi lanh. Khi vận hành,

người ta đẩy trục gỗ quay tròn và cuốn sợi lên khung tre. Khi sợi đã căng trên dàn,

người ta gỡ xuống và đem phơi một ngày. Sợi khi gỡ từ dàn xuống vẫn còn thô cứng

và còn nguyên lớp vỏ xanh của sợi lanh. Để làm sợi lanh có mầu trắng, người ta dừng

tro của cây gỗ tai để tẩy.

Để tẩy cho sợi lanh trắng, người ta cho sợi vào chảo đua cùng một ít nước, đua

đến khi sợi có độ nóng vừa phải thì người ta rắc tro của cây gỗ trai vào và đảo đều

cho sợi ngấm nước tro, ủ hai ngày cho sợi ngấm đều nước tro rồi đem giặt, giặt đến

khi sợi lanh trắng ra là được. Nếu sợi chưa trắng thì đem ngâm thêm một lần nữa. Khi

sợi đã trắng như ý muốn, luộc sợi hòa với sáp ong để cho sợi có độ bóng đẹp hơn.

Lăn sợi: là một trong những công đoạn tốn nhiều sức lực của người làm. Dụng

cụ lăn sợi là một trục lăn làm bằng gỗ tròn, một phiến đá có bản rộng từ 30cm đến

50cm. Khi lăn, người ta đặt sợi lên khúc gỗ, lấy phiến đá đặt lên trên rồi đứng lên

phiến đá cho trục gỗ lăn lại. Lăn sợi không chỉ đòi hỏi có sức khỏe mà còn phải có kỹ

thuật nhún chân một cách khéo léo, nhịp nhàng. Lăn sợi với mục đích làm cho sợi

mềm, bóng và các đầu nối của sợi được phẳng đều. Khi lăn sợi xong, người ta đưa sợi

lên dàn quay để tháo sợi ra.

Cách tháo gỗ sợi cũng khá đơn giản. Người ta đặt đầu sợi vào đáy một chiếc

gùi rồi xong dàn quay tay sợi thả dần xuống gùi. Gỡ sợi xong, người ta kéo sợi đẻ

làm con chỉ. Mỗi con chỉ thường có từ 10 đến 12 sợi.

Dệt vải: sau khi các con chỉ đã được hình thành, người ta tiến hành dựng đứng

cùng với vài thanh ngang đóng thành khung cố định. Hai thanh đứng dài 75cm -

80cm, rộng 15cm - 20cm, thanh ngang thường nhỏ hơn và được ghép vào hai thanh

đứng tạo thành khung dệt. Ngoài ra, khuang dệt còn có thot dệt. Thoi dệt dài khoảng

50cn, rô,ng 12cm, dày 5cm. Trước khi cho sợi vào khung dệt, người ta căng cho đủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

số sợi dọc của khổ vải. Khi dệt cần phải buộc dây ở trục vòng qua sau lưng, lấy chân

đạp làm tách sợi dọc ra, dùng tay đẩy thoi dệt đan sợi ngang qua lại, kéo lược ép sợi

cho thật khít thì vải mới đẹp.

Kỹ thuật nhuộm chàm: Sau khi dệt xong, để cho tấm vài thật trắng, người ta lại

dùng cây gỗ trai để tẩy vài thêm một lần nữa bằng cách hòa tro vào chậu nước cho

thật đều, lấy tấm vải nhúng vào chảo cho nước tro ngấm đều vào tấm vài sau đó mang

đi phơi khô. Khi tấm vài đã khô, họ lại mang ngâm lại lần nữa. Họ làm như vậy từ 4

đến 5 lần. Lần cuối cùng thì họ mang giặt thật sạch, rồi phơi khô. Như vậy, miếng vải

đã được làm trắng thật kĩ. Muốn để miếng vải trở nên bóng mịn hơn, người ta mang

tấm vải đó đi lăn. Miếng vải, dù có dùng để làm gì thì người ta cũng nhuộm chàm.

Nếu miếng vải đó chỉ dùng may trang phục thì không cần vẽ hoa văn.

Người Mông ở huyện Pẹc thường tự khâu cho mình những bộ trang phục bằng

những mảnh vải họ tự làm ra. Những mảnh vải của họ thường có khổ rộng từ 35cm

đến 50cm. Ho. cắt nhỏ những mảnh vải ra thành những bộ phận nhỏ tương ứng với

những thành phần có trên bộ trang phục, sau đó họ mang khâu thành váy, áo. Khi

những bộ trang phục đã hoàn thành thì công việc tiếp theo là phải tạo hoa văn trên

các bộ y phục đó. Kỹ thuật thêu cũng rất độc đáo. Họ thêu ở mặt trái của bộ trang

phục nhưng hoa văn lại được hiện lên ở mặt phải. Cách thêu của họ thật độc đáo vì nó

được tạo nên bứng bàn tay, khả năng quan sát, sự tinh tế, khéo léo của phụ nữ người

Mông (vì không thể vẽ trên vải để thêu mà phải quan sát trên mẫu có sẵn hoặc bằng

trí tưởng tưởng). Chỉ dùng để thêu thường được mua từ chợ về. Trước kia, chỉ mầu

vàng thường được sự dụng bằng tơ tằm.

Trên trang phục của người Mông ở huyện Pẹc, ngoài cách trang trí hoa văn

bằng thêu, người ta còn in hoa văn. Công cụ in hoa văn gồm có bút in bằng đồng to

nhỏ khác nhau (có loại đường thẳng, đường diềm; có loại dùng tỉa hoa, lá; có loại

chuyên dùng in hình tròn), các khung hình tam giác bằng tre, bát đựng sáp ong, chiếc

mẹt làm giá kê để in.

Kỹ thuật in: đưa sáp ong nóng chảy, nhúng một cạnh khung hình tam giác

hoặc bút vẽ vào sáp ong rồi in lên vải. Tùy kích thước đoạn thẳng dài hay ngắn mà

người in chọn khung có cạnh tương ứng. Nếu là hoa văn tròn, người ta dùng ống nữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

có tiết diện thích hợp. In xong, đem nhuộm vải nhiều lần cho đến khi vải sẫm mầu,

người ta nhúng vải vào nước ấm làm sáp ong tan chảy, để lại những hoa văn màu

xanh nhạt trắng rất đẹp.

Thêu thùa trang trí hoa văn trên vải là nét văn hóa đạc sắc của phụ nữ Mông.

Họ có cách thêu độc đáo và khéo léo, tạo hoa văn không theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn

toàn dựa vào trí nhớ và óc tưởng tượng. Kỹ thuật thêu thực hiên kim thêu trên mặt

trái của vải để hình maawu nổi lên mặt phải. Do đó, trước khi thêu, người phụ nữ

phải tính toán tỉ mỉ tới từng đường kim sợi chỉ, nhớ kích thước từng họa tiết trong

toàn bộ mảng hoa văn,tạo được tổng thể đồ án hoa văn có bố cục cân đối, hài hòa,

mang tính thẩm mỹ cao trong trang phục. Họa tiết hoa văn phổ biến là hình sừng trâu,

con ốc, các hình chữ thập ngoặc và hình móc câu...gắn với cảnh quan thiên nhiên và

quan niệm của tộc người.

Tuy hiện nay đa số phụ nữ Mông ở huyện Pẹc vẫn biết đến nghề dệt, họ vẫn có

thể dệt nên những bộ quần áo đặc trưng của dân tộc mình nhưng do ở chợ ngày nay

bán rất nhiều chỉ thêu và vải nên phụ nữ Mông đã mua những sản phẩm đó về đẻ tạo

nên các bộ quần áo rát đẹp và đỡ tốn nhiều thời gian như trước đây.

2.3.4. Nghề nấu rượu ngô

Nấu rượu ngô cũng được coi là một nghề của người Mông ở huyện Pẹc. Rượu

của người Mông ở đây uống rất êm, dễ uống nhưng lại rất dễ say. Trước đây, rượu

ngô được nấu trong mọi gia đình người Mông ở huyện Pẹc chỉ với mục đích phục vụ

cho nhu cần của gia đình mình hàng ngày cũng như trong các dịp lễ tết. Ngày nay,

khi nền kinh tế phát triển, thị trường mở rộng, nấu rượu ngô đã được trở thành một

nghề thủ công của ngượi Mông ở huyện Pẹc. Người Mông ở khắp các nơi kể cả nơi

gần hay nơi xa của huyện Pẹc một vài gia đình nấu rượu không chỉ để phục vụ gia

đình mình mà con mang ra chợ để bán.

Quy trình nấu rượu ngô của người Mông ở huyện Pẹc: Đầu tiên, họ cho ngô

hạt vào thùng gỗ, sau đó đạt lên chảo vá đồ cho hạt ngô bung hết ra. Mỗi mẻ ngô

bung có trọng lượng khác nhau tùy thuộc vào số rượu họ muốn nấu ra là bao nhiêu và

phụ thuộc vào bộ đồ nấu rượu của mỗi gia đình. Khi ngô được đồ và chín kĩ, nở bung

hết ra, người ta đổ ngô ra mẹt, để cho thật ráo nước, sau đó, họ rắc men lá. Để chưng

cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên liệu chính là ngô thì chất lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha chế từ hơn 20 loại thảo được quý

như: Cây dây nước, trầu rừng, dây ngọt...có tác dụng chữa lành vết thương, phong

thấp, thấp khớp...Sau khi các loại thảo dược đã được rửa sạch, băm nhỏ và phơi khô

thì mang trộn đều chúng lại với nhau, rã nhỏ. Đợt nước đầu dùng để nhào bột, nước

hai để ngâm gạo (gạo tẻ, không ẩm mốc). Muốn rượu được thơm ngon, gạo phải được

trộn trực tiếp với củ giềng, rau răm và lá quế đã xay nhỏ. Trộn đều men vào ngô với

một tỷ lệ nhất định, mạng ủ vào thùng gỗ từ 20 đến 30 ngày để lên men đều mới

mang chưng cất. Khi ngô đã lên men đều, họ cho ngô vào chõ gỗ và đặt vào chảo bắt

đầu nấu rượu. Khi được đun sôi ở nhiệt độ cao, hơi rượu nóng bốc lên, ngưng tụ ở

đáy chảo đặt ở trên, sau đó chảy theo đường dẫn rượu ra ngoài. Sau 3 giờ liên tục,

đun lửa đều, công đoạn chưng cất mới hoàn thành. Rượu ngô của người Mông ở

huyện Pẹc thường có độ từ 30 - 35 độ. Ngày nay rượu ngô của người Mông ở huyện

Pẹc được coi là đặc sản và được người dân ở khắp nơi ưa chuộng.

Ngoài những ngành thủ công nghiệp cơ bản, người Mông ở huyện Pẹc còn biết

đến nghề đan lát. Đây là phần việc chỉ dành cho đàn ông. Từ khi còn nhỏ đến khi

trưởng thành, người Mông đều phải học đan lát và mọi thứ đồ đan trong nhà đều do

họ làm ra. Nguyên liệu dùng đan lát là mây, tre, trúc...Việc đan lát của họ không tiến

hành theo mùa vụ. Họ chỉ đan các đồ vật khi thấy cần thiết cho sinh hoạt của mình.

2.3.5. Nghề bốc thuốc chữa bệnh

Người Mông ở huyện Pẹc có nhiều cách để đoán bệnh và chữa bệnh. Thầy

thuốc của người Mông thường là người vừa khám bệnh vừa là người bốc thuốc. Thầy

thuốc sẽ tự đi lấy cây thuốc và pha chế thuốc cho bệnh nhân. Thuốc mà họ lấy chủ

yếu là sản vật của rừng, dựa vào kinh nghiệm truyền miệng từ đời này sang đời khác

mà không có sự ghi chép. Loại bệnh mà họ chữa được chỉ là loại bệnh nhẹ và thông

thường. Ví dụ: Khi bị tắc tia sữa có thể dùng cây “Tác ká”, giã nhỏ ra, trộn với mật

ong và sau đó bôi lên đầu vú. Nếu đầu vú bị loét và trẻ bị tưa lưỡi cũng có thể làm

theo cách này. Khi bị rắn cắn có thể dùng cây Nai chộc cáu (một cây dây leo trong

rừng, lá đỏ) hái vào sáng sớm đem giã kĩ, lấy lá bọc than nóng rồi đắp vào vết

thương. Bị gãy xương thì lấy cây cần ta kéo. Bệnh tiêu chảy lấy cây châu chó hái về

đun nước uống. Bệnh cảm cúm, nhức đầu sổ mũi lấy cây gừng, cây xả và cây bưởi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đun lấy nước và xông hơi.

Như vậy để có thể tự phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt của dân tộc mình, người

Mông ở huyện Pẹc đã làm ra các vật dụng thiết yếu nhờ vào chính bàn tay, khối óc,

khả năng sáng tạo của mình [29, tr.54].

2.4. Trao đổi hàng hóa

Trước đây, nền kinh tế của người Mông ở huyện Pẹc cũng như người Mông ở

các nơi khác chủ yếu là nền kinh tế tự cấp tự túc. Mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế

độc lập, ít liên quan đến nhau. Ngày nay, khi nền kinh tế đất nước phát triển, người

Mông đã có sự giao lưu với các dân tộc khác. Đặc điểm kinh tế tự cấp tự túc đã dần

bị phá vỡ. Họ đã có sự trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Việc trao đổi hàng hóa chủ yếu

trong các chợ phiên [1, tr.297]. Người Mông thường đem những sản vật họ tự làm

cùng các sản vật lâm thổ sản ra chợ bán hoặc đổi lấy muối, vải dầu...với những dân

tộc anh em nơi họ sinh sống.

Buôn bán trao đổi là một trong nhưng hoạt động kinh tế của người Mông ở

huyện Pẹc là sự kết hợp giữa hoạt động trao đổi các sản phẩm thủ công, sản phẩm hái

lượm, săn bắn và sản xuất nông nghiệp. Huyện Pẹc là địa phương có nhiều dân tộc anh

em cùng sinh sống, đông nhất là người Lào, người Khơ Mú…Theo đó, việc trao đổi

hàng hóa của người Mông cũng xuất hiện và được duy trì không chỉ trong nội bộ của

tộc người Mông mà còn diễn ra giữa tộc người Mông với các tộc người khác. Hình

thức trao đổi chủ yếu của người Mông là vật đổi vật có định giá và không định giá. Giá

cả do hai bên thỏa thuận và tùy thuộc vào từng loại sản phẩm. Loại vật được đem ra

trao đổi chủ yếu là nông sản, gia súc, đồ đan lát. Khi đó, rất ít người Mông bán hàng tại

các chợ lớn của huyện và trung tâm bán hàng. Sự trao đổi, mua bán chỉ diễn ra tại làng

bản của họ. Trong các loại sản phẩm của người Mông thì sản phẩm từ nghề dệt được

đem trao đổi nhiều nhất như vải, váy, khăn.

Hiện nay, cơ chế thị trường phát triển, hàng hóa lưu thông. Nhiều chợ, nhiều

trung tâm trao đổi buôn bán xuất hiện, hoạt động buôn bán của người Lào, người Khơ

Mú, người Mông phát triển. Sản phẩm của họ tạo ra cũng đa dạng và phong phú hơn.

Hình thức trao đổi buôn bán cũng vì thế mà thay đổi. Ngoài buôn bán tại các chợ và

trung tâm buôn bán, họ còn xây cửa hàng tại làng bản. Đặc biệt, cũng có một số gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đình lấy nhà ở làm nơi bán hàng. Mặt hàng chủ yếu họ thường bán là những nhu yếu

phẩm cần thiết trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như: bánh kẹo, mỳ tôm, nước

ngọt, mỳ chính, muối, nước mắm, dầu ăn, thuốc lá, bật lửa…và các loại đồ uống (chủ

yếu là bia, rượu, trà, cà phê…). Ở chợ và trung tâm, người Mông thường bán quần áo,

đồ trang sức, công cụ lao động, vàng bạc…như những người buôn bán là người dân

tộc khác.

Ngoài những hoạt động kinh tế đã kể trên đây, người Mông còn làm công chức

và cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Hiện nay, có rất nhiều đơn vị và nhiều cơ quan

có nhân viên và cán bộ là người Mông. Do trình độ nhận thức được nâng cao đã giúp

họ có hiểu biết về vị trí và vài trò của những người làm công chức trong các cơ quan

nhà nước. Vì vậy, gia đình nào cũng mong muốn và động viên con cái mình học hành

để trở thành công chức nhà nước, làm việc trong nhiều lĩnh vực phục vụ cho xã hội.

Có thể nói người Mông đã góp sức mình vào nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực giáo

dục góp phần phát triển đất nước một cách toàn diện. Hiện nay, trong các cơ quan

lãnh đạo từ cấp thấp đến cấp cao đều có sự tham gia của người Mông. Đơn cử ở

Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy một trong 8 trường Cao đẳng Sư phạm của

nước CHDCND Lào có nhiệm vụ đào tạo giáo viên giảng dạy các cấp mầm non, tiểu

học, trung học cơ sở (nơi tác giả luận văn đang công tác) có 173 cán bộ giảng dạy và

cán bộ quản lý, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Trong đó, có 35 cán bộ, giảng viên là

người Mông.

Như vậy, người Mông hiện nay huyện Pẹc không chỉ gìn giữ phát huy những

ngành nghề truyền thống của tộc người mình. Mà còn nâng cao trình độ văn hóa để

tham gia các hoạt động của tỉnh nhà, của đất nước. Chứng tỏ sự năng động của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tộc người trong cộng đồng các dân tộc ở quốc gia Lào.

Tiểu kết chương 2

Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của người Mông ở huyện Pẹc từ năm 1986 đến

năm 2016 gồm ba bộ phận chính: Trồng trọt, chăn nuôi và hái lượm, tiểu thủ công

nghiệp, trao đổi buôn bán. Trong cơ cấu kinh tể, trồng trọt luôn đóng vài trò chính,

trong khi chăn nuôi, nghề thủ công chỉ đóng vài trò phụ và luôn phụ thuộc vào trồng

trọt. Chăn nuôi nhằm cung cấp sức kéo và cung cấp nguồn phân hữu cơ phục vụ thâm

canh. Ngoài ra, sản phẩm của chăn nuôi chỉ đáp ứng nhu cầu ăn thịt và các sinh hoạt

tôn giáo, văn hóa. Sản phẩm chăn nuôi chưa trở thành hàng hóa. Hoạt động của các

nghề thủ công chỉ đóng vai trò phụ. Vì thể, thời gian dành cho nghề thủ công là

những lúc nông nhàn. Bên cạnh đó, kinh tể hái lượm, trao đổi hàng hóa ở chợ phiên

cũng thực hiện chức năng hỗ trợ cho nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế này tồn tại như một

hệ thống chỉnh thể, thực hiện chức năng mang tính bổ trợ cho nhau.

Mặc dù kinh tể của người Mông từ năm 1986 đến năm 2016 có sự khởi sắc,

họ đã sống định canh, định cư, áp dụng một số phương pháp sản xuất mới như sử

dụng phân hóa học, đưa một số giống vật nuôi cây trồng vào sản xuất. Nhưng nhìn

một cách tổng thể thì nền kinh tế của người Mông ở huyện Pẹc về cơ bản vẫn mang

đậm nét nền kinh tế truyền thống, chủ yếu dựa vào trồng trọt, chăn nuôi và thủ công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghiệp gia đình, chưa có sự chuyển dịch một cách cơ bản nền kinh tể.

Chương 3

VĂN HÓA CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN PẸC,

TỈNH XIÊNG KHOẢNG (1986 - 2016)

3.1. Văn hóa vật chất

“Văn hóa” là một khái niệm mà cho đến nay còn có nhiều cách hiểu khác

nhau: Tác giả Lakheun Vongsaly định nghĩa văn hóa là những giá trị do con người

sáng tạo nên trong qúa trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Văn hóa là

những giá trị truyền thống của một cộng đồng, một dân tộc được lưu giữ qua nhiều

thế hệ. “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa

con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [3, tr.17-18]. “Văn hóa có

thể coi là tổng thể những nét riêng biệt của tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc

quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa

bao gồm: nghệ thuật, văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con

người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [5, tr. 23].

Lào là một quốc gia đa dân tộc, có nền văn hóa mang tính “thống nhất trong

đa dạng”, song mỗi dân tộc lại có địa vực cư trú, mỗi dân tộc lại tạo dựng nên một

truyền thống văn hóa đầy bản sắc, và chính bản sắc riêng đó đã xây đắp nên tổng thể

bản sắc của dân tộc Lào đa dạng và phong phú. Văn hóa của dân tộc Mông ở huyện

Pẹc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, chi tiết dựa trên tính lịch sử và tính thời đại

của vấn đề. Vì vậy, để tìm hiểu về văn hóa dân tộc Mông ở huyện Pẹc, tác giả luận

văn sử nghiên cứu trên hai góc độ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

Văn hóa vật chất là các giá trị văn hóa tồn tại một cách hữu hình mà con người

có thể nhận biết một cách cảm tính, trực tiếp thông qua các giác quan có giá trị văn

hóa, lịch sử, khoa học, được cộng đồng dân tộc, nhân loại thừa nhận. Đó là một bộ

phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống tinh thần của con người dưới hình thức

vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên

nhiên thành những sản phẩm có giá trị sử dụng và giá trị thẩm mĩ, nhằm phục vụ cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống con người.

3.1.1. Nhà cửa

Trước kia, người Mông ở huyện Pẹc thường sống trên các đồi núi cao, di canh

di cư, sống trong các ngôi nhà tạm bợ. Ngày nay, nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà

nước, nhà của người Mông ở huyện Pẹc thường được xây dựng ở nơi có gần nguồn

nước, gần nương để đi lại thuận tiện. Những nơi địa thế hiểm trở, khi làm nhà, đồng

bào phải tính đến những thay đổi của thời tiết như mưa to, gió lớn làm sụt lở đất đai.

Nguyên liệu để làm nhà chủ yếu là gỗ, tre, cỏ tranh và đất. Gỗ dùng làm cột, tre làm

đòn tay, cỏ tranh để lợp mái.

Đặc điểm nhà ở: Nhà đất 3 gian 2 chái, mái lợp bằng cỏ tranh hoặc lợp ngói,

vách chính tường đất, cột gỗ được kê trên tảng đá to. Kĩ thuật lắp giáp: có cột chống

ở giữa, kê trên đá tảng hai đầu xà, gác vào tường để chống lúa và chống mối mọt

chân cột. Gian giữa dùng để đặt bàn thờ thờ cúng tổ triên, là gian chung của cả nhà,

chuyên để làm những việc lớn như hiếu hỉ, tiếp khách. Gian thứ hai có hai bên. Một

bên là gian bếp-nơi giữ lửa; một bên dùng làm buồng ngủ của ông bà chủ (giường

ngủ thường bố trí ngang hàng với bàn thờ). Gian thứ ba là có bếp nấu cám lợn, nấu

cơm, có buồng ngủ cho các con. Gian này có một cửa phụ.

Nhà có một cửa chính và cửa phụ. Cửa chính nằm ở gian giữa, đối diện với

bàn thờ; cửa phụ nằm ở bên phải ngôi. là nơi dùng để đi lại của các thành viên trong

gia đình. Trong nhà người Mông có gác làm bằng gỗ rất chắc chắn, dùng để lương

thực. Ngô thường xếp ở gác bếp để cho khô và chống mối mọt. Hiên đầu nhà và hai

bên đầu hồi là chỗ để nông cụ. Chuồng trại chăn nuôi thường được làm sát bên trái

ngôi nhà. Một số nơi ở huyện Pẹc tỉnh Xiengkhhouang, người Mông đã tiếp thu cách

làm nhà của người Tày (nhà sàn) như ở xã Sinh Long, Đà Vị...Tuy nhiên, cách bài trí

trong nhà vẫn giữ nguyên nét truyền thống của dân tộc người Mông.

Đồ dùng trong gia đình

Đồ dùng trong gia đình người Mông ở huyện Pẹc hiện nay vẫn chủ yếu là các

đồ dùng hết sức đơn giản đa số được làm từ gỗ, tre và nứa. Chiếc chõ ‘máo của’ được

làm bằng một khúc gỗ tròn, cửa hai đầu, đục khoét rỗng ở giữa. Chõ cao khoảng

60cm, đường kính khoảng 40cm. Để hai bên mấu ở hai bên chõ làm tay xách. Đồng

bào dùng chiếc chõ để đồ cơm và mèn mén hàng ngày. Chiếc thùng đựng nước được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

làm từ nhiều mảnh gỗ ghép lại, dùng để chứa nước dùng hàng ngày và cũng dùng để

chứa nước chàm khi nhuộm vải. Chiếc chậu được ghép bằng gỗ được dùng rất phổ

biến, gia đình nào cũng có vài ba chiếc chậu. Tuy nhiên, ngày nay họ cũng đã mua

hoặc được nhà nước làm bằng kĩ thuật tiện gỗ, bát gỗ thường là bát to dùng để đựng

canh trong các bữa ăn. Thìa gỗ dùng để ăn cơm. Bàn gỗ, ghế gỗ: Trong gia đình

người Mông nào cũng có 2 chiếc bàn gỗ chuyên dùng để ăn cơm. Bàn có hình vuông,

mỗi bề khoảng 80cm đế bàn 100cm, cao khoảng 60cm. Ghế thường được làm từ

miếng gỗ ghép lại dùng để ngồi ăn cơm và sưởi ấm. Giường ngủ: Đồng bào Mông

thường làm giường ngủ bằng cây mai, cây vầu đan thành phên nan hoặc phản gỗ; có

hai loại giường: Loại giường được đóng khung vững, đạt trên mặt đất và loại dùng

cột gỗ chôn thẳng xuống đất làm chân giường, sau đó gác phên lên để ngủ. Giường

của người Mông thường hẹp và ngắn, chiều dài trung bình thường là 1m60cm đến

1m80cm, chiều rộng giường dành cho hai vợ chồng khoảng từ 80cm đến 1m20cm.

Ngôi nhà của người Mông vùng này thường có một số kiêng kị: Nếu đến nhà

mà thấy có cành lá xanh cắm ở cổng hoặc ở cạch cửa nhà đấy là dấu hiệu cấm người

ngoài vào nhà. Bởi họ quan niệm con ma có thể núp dưới bóng người và theo vào nhà

làm cho người trong nhà bọ ốm. Khi bước vào nhà thì không được giẫm lên ngưỡng

cửa. Khách cũng như chủ chỉ được qua ngưỡng cửa đi vào nhà. Phụ nữ, trẻ em không

được trèo lên gác. Con dâu không được vào buồng bố mẹ chồng, và bố mẹ chồng cũng

không được phép vào buồng của con dâu. Người trần, không ai được nằm ngủ nơi thờ

cúng tổ tiên...

3.1.2. Đời sống ẩm thực

Ẩm thực là “chiếc gương soi” chân thực cho nền văn hóa của mỗi dân tộc.

Ẩm thực cũng là một cách để mỗi dân tộc quảng bá nền văn hóa của họ. Nền văn hóa

ẩm thực của mỗi dân tộc đều lớn lên và đi cùng với mỗi bước phát triển của dân tộc

đó, là một khía cạnh để đánh giá dân tộc đó có một nền văn hóa phát triển rực rỡ, sát

cánh với nền ẩm thực đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ của quốc gia đang

phát triển từng ngày. Bên cạnh những món ăn hiện đại là cả một kho tàng phong phú

về những món ăn cổ truyền hấp dẫn muôn vàn thế hệ của các tộc người.

Truyền thống ăn uống của mỗi dân tộc là biểu hiện nét đặc tính của dân tộc đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người Mông ở huyện Pẹc trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định đã biết chế

biến các món ăn từ nguồn lương thực, thực phẩm do mình sản xuất và thu hái lượm từ

môi trường tự nhiên theo cách thức riêng của mình và đã được định hướng qua hàng

trăm thế hệ, góp một hương sắc riêng vào rừng hoa văn văn hóa các dân tộc Lào.

Một trong những đặc trưng nổi bật của dân tộc Mông là văn hóa ẩm thực, nông

sản chính của người Mông là gạo tẻ. Gạo tẻ là loại gạo được dùng chủ yếu trong bữa

ăn hàng ngày. Ngoài ra, gạo tẻ còn được dùng trong những dịp lễ tết, ngày hội, tiếp

khách; được chế biến thành nhiều loại món ăn như: bánh, xôi, nấu rượu. Bên cạnh

gạo nếp, còn có những lương thực phụ khác gồm: ngô, khoai, gạo tẻ. Dụng cụ dùng

nấu nướng và ăn uống của người Mông rất phong phú gồm: Hay khẩu là cái chõ gỗ,

hông dùng để đựng gạo, hay khẩu được đặt lên cái một nồi gọi là mỏ nựng (là cái

ninh dùng để đồ xôi, đun nước uống); mỏ keng (là cái nồi để nấu canh); mó kháng (là

cái chảo dùng để rán, rang, chiên)…Từ gạo nếp chế biến thành cơm đối với người

Mông khá cầu kỳ, mang đậm bản sắc dân tộc.

Nguồn lương thực và thưc phẩm chủ yếu của người Mông ở huyện Pẹc tỉnh

Xiengkhhouang là ngô và lúa. Từ ngô và lúa, họ đã chế biến ra nhiều loại thức ăn

khác nhau. Ngô được đồng bào chế biến thành những món như mèn mén, bánh ngô

loại bánh vào dịp lễ tết. Ngoài lúa và ngô thì người Mông cũng biết chế biến các cây

củ quả lấy được trên rừng để dùng làm thức ăn hoặc dành để ăn vào ngững ngày giáp

hạt. Nguồn lương thực, thực phẩm và cách chế biến thức ăn hành ngày đã thể hiện

những đặc tính riêng trong ăn uống của người Mông ở huyện Pẹc. Nó cũng phản ánh

môi trườngthiên nhiên nơi họ cư trú, cách thức tìm kiếm thức ăn trong tự nhiên của

họ. Xuất phát từ sự phong trong nguồn lương thực, thực phẩm, trong cách ăn uống

của mình, người Mông ở huyện Pẹc đã chế biến nhiều loại thức ăn khác nhau vừa đa

dạng vừa độc đáo.

Với người Mông ở vùng này thì cơm có hai cách chế biến cơ bản là cơm nấu

vào nồi và cơm đồ. Đồ có gạo dùng cho các bữa ăn thì người Mông phải xay thóc, giã

gạo, làm sạch cám và làm cho gạo sách sạn, sau đó vo gạo và nấu cơm. Người Mông

nấu cơm bằng bếp củi; đồ xôi vào những ngày lễ tết hoặc khi có khách qúy tới nhà.

Như tìm hiểu ở trên, trong nền nông nghiệp của mình, người Mông ở huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Pẹc chủ yếu trồng lúa và trồng ngô. Vì vậy, lương thực chính trong bữa ăn của họ

ngoài cơm là mèn mén. Mèn mén là một món ăn phổ biến của người Mông nói

chung và của người Mông ở huyện Pẹc nói riêng. Mèn mén được làm từ hạt ngô tẻ.

Họ thường nấu mèn mén vào buổi sáng sau đó dùng để ăn cả ngày. Chế biến món

ăn này rất tốn thời gian và mất nhiều công sức, công đoạn: bóc vỏ, tách hạt ra khỏi

lõi ngô, xay hạt ngô thành bột và sàng bớt vỏ (mày ngô). Sau khi có bột ngô với ý

của mình, người ta cho bột ngô đó vào chõ và đặt chõ vào trong một cái chảo lớn có

nước lã vừa đủ để có thể đồ chín ngô. Để thành món mèn mén, người ta phải đồ hai

lần. Đồ lần đầu để tẩm nước vào bột ngô, đồng thời cũng là để làm cho bột ngô tơi,

không dính vào nhau. Bởi vậy, thời gian đồ lần đầu cần tính toán cho thích hợp với

từng loại ngô (ngô non hay ngô già). Nếu là bột ngô già thì thời gian đồ cần lâu hơn.

Nếu là bột ngô non thì chỉ sau khi nước ở trong chảo sôi, thấy hơi bốc nghi ngút lên

miệng chõ là có thể bắc ra được. Những người có kinh nghiệm đồ mèn mén thường

không vội vàng mà phải dựa vào độ lửa cháy to hay nhỏ (vì lửa nhỏ thì lâu sôi, lửa

to thì sôi nhanh). Khi bắc chõ ra khỏi chảo thì đổ bột ngô ra mẹt, dùng thìa gỗ đảo

đi, đảo lại cho bột ngô tơi ra. Nếu không làm cho bột ngô tơi thi đồ lần sau bột ngô

sẽ không chín kỹ, không thể có món mèn mén với vị thơm, dẻo, ngọt đậm đà, hơn

nữa khi ăn rất dễ bị đau bụng. Sau khi làm tơi và để nguội, người ta lại cho ngô vào

chõ đồ lần hai và lần này phải đồ cho chín thật kỹ. Ăn mèn mén, bà con thường

dùng muôi gỗ để xúc ra bát. Ăn kèm cùng một bát canh (thường là canh bí). ..Để có

thể bổ sung chất dinh dưỡng cho mình, người Mông cũng có các món ăn được làm

từ thịt, cá trứng, đậu, lạc vừng...Tuy nhiên, những món ăn giàu chất đạm chưa thực

sự phổ biến trong tất cả các gia đình người Mông ở huyện Pẹc. Điều kiện kinh tế

khó khăn khiến họ chưa thể mua các thức ăn đó. Nguồn thức ăn giàu chất đạm hàng

ngày chỉ dựa vào việc chăn nuôi của gia đình mình.

Người Mông đã chế biến nhiều loại thức ăn với nhiều cách khác nhau bằng

những nguyên liệu vốn có để tăng thêm hương vị cho bữa ăn của gia đình mình: Món

luộc đây là món ăn rất phổ biến của người Mông. Họ cho rằng món luộc phù hợp với

điều kiện kinh tế của gia đình. Món luộc không cần phải mỡ cũng không cần gia vị,

chỉ cần cho vào nước luộc chín là ăn được. Tất cả các loại như trứng gà, thịt gà, thịt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lợn, rau...đều có thể làm món luộc. Món luộc ngọt, mát và hợp với khẩu vị của nhiều

người. Món luộc được chấm với muối hay nước mắm. Món thịt luộc (thịt mỡ) được

người Mông rất thích. Trong các dịp lễ tết, đám cưới, tang ma hay khi nhà có khách

quí, họ đều dùng đến món luộc. Thịt lợn luộc thường được họ chọn những chỗ có

nhiều mỡ mềm và dễ ăn. Món sạ (xào): Món xào thường phổ biến với thực phẩm

như: thịt gà tơ, gan lợn, lòng lợn và đặc biệt là các loại thịt để lâu ngày. Họ cho rằng

nếu xào lên thì sẽ bớt được mùi thịt hôi. Khi xào thịt, người Mông ở huyện Pẹc

thường cho thêm gừng hoặc nghệ để tạo hương vị cho tất cả các món ăn xào.

Món hầm: Món hầm cũng là món ăn được người Mông rất thích. Món hầm,

nếu được ăn với mèn mén thì rất ngon. Do vậy, những món hầm: đậu, xương lợn,

măng khô, khoai tây, hoặc các loại thuộc họ tam thất rất được ưa chuộng. Hầm xong,

họ cho thêm các loại lá cây để tạo mùi thơm: như tía tô, mùi tàu...

Món rán: Đây là món ăn không được ưa chuộng của vùng này. Thỉnh thoảng

họ mới dùng đến món rán. Đây là món ăn có nhiều chất đạm và béo. Món rán thường

phức tạp. Nếu rán không cẩn thận sẽ gây sát chảo, món ăn sẽ không thành công.

Những loại thức ăn được chế biến thành món rán thường là trứng, đậu, cá.

Bên cạnh các thức ăn giàu chất đạm và được coi là thức ăn mặn thì mỗi bữa ăn

của người Mông ở huyện Pẹc không thể không có món rau. Món ăn nay thường dùng

để ăn kèm với các loại thực phẩm giàu chất đạm và béo. Họ chế biến rau thành các

món khác nhau để có thể giúp bữa ăn thêm ngon miệng.

Rau nấu canh: là món phổ biến trong mỗi gia đình người Mông ở huyện Pẹc.

mỗi mùa khác nhau, họ có thể có các loại rau khác nhau để nấu canh. Ví dụ: rau ngót,

rau ngót rừng, rau cải, rau đậu... Cách nấu canh của họ cũng khá đơn giản: rửa rau,

cho ngước vào nồi đun sôi, thả rau vào, cho muối và mì chính. Do thói quen ăn uống

và để chống lại thời tết lạnh giá nơi vùng cao người Mông thường ăn rất mặn. Món

rau xào: Món này ít được người Mông làm để ăn vì món này thường phải dùng đến

mỡ. Rau dùng để xào là các loại rau rừng: rau bò khai, rau sắng, rau lang...Tuy gọi là

xào nhưng họ vẫn cho thêm một chút nước. Món rau xào thường mặn hơn so với món

rau nấu canh.

Ngoài những món ăn thường ngày, vào các ngày lễ tết, nhất là tết Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đán, người Mông ở huyện Pẹc thường làm các món bánh như: bánh ngô và bánh.

Dân tộc Mông ở huyện Pẹc còn có món ăn đặc trưng và rất được yêu thích là

món thắng cố. Thắng cố theo nghĩa đen có nghĩa là canh chảo. Cách chế biến món ăn

này là cho tất cả các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi, tiết, của một con vật như

ngựa, châu, bò, dê, chó, gà, lợn...Chặt thành miếng rồi đem nấu chung vào một cái

chảo. Trước đây, món thắng cố này thường xuất hiện trong các phiên chợ phiên của

người Mông. Bây giờ, nó chỉ xuất hiện trong các dịp trang trọng như: lễ tết và cưới

xin, ma chay. Món thắng cố thường được dùng cùng rượu ngô.

Bảo quản thực phẩm: Để có thể bảo quản được thực phẩm của mình, đặc biệt

là thịt, người Mông thường ướp muối thịt sau đó treo lên gác bếp. Ngoài ra, họ còn

dùng cách là rán chín thịt sau đó ủ trong chum mỡ để ăn dần. Loại thịt thường được

dùng là thịt nạc lợn. Đối với các loại rau, họ có thể phơi khô sau đó cho vào ống tre,

ống nứa để ăn dần.

Đồ uống hàng ngày của người Mông là nước lã, nước đun sôi, có thể là nước

ngon khi có khách tới nhà. Trước kia, họ thường phải dùng máng dẫn nước về bản

hoặc phải gùi nước về nhà, phải tự đào giếng. Nước cũng chỉ để nấu ăn chứ không có

nước để tắm rửa. Từ khi có chương trình nước sạch của Chính phủ, họ đã sử dụng

nước sạch để dùng. Loại được dùng uống chủ yếu nhất trong các gia đình người

Mông là rượu cất (chủ yếu là rượu ngô). Hầu hết những người từ 13 tuổi trở lên

không kể nam hay nữ đều biết uống rượu. Họ uống rất nhiều rượu trong các bữa tiệc,

cỗ, đặc biệt là trong các buổi chợ phiên. Đa số người Mông vẫn thường uống rượu

thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày và khi có người đến chơi. Họ uống rượu bằng

cốc. Tình cảm của họ với khách thường được thể hiện qua cách mời rượu.

Như vậy, nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp tồn tại lâu đời được hiện rõ

nét trong cách ăn, uống của người Mông. Cách ăn uống thể hiện được tập quán

mang đặc tính của dân tộc Mông. Có thể nói, đời sống vật chất của người Mông ở

huyện Pẹc rất giản dị. Họ sống gần gũi, hòa đồng, thích nghi với tự nhiên. Đây

cũng là đặc điểm chung của cư dân nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, người Mông

ở đây cũng mang những sắc thái riêng khác với các dân tộc khác. Chính điều này

đã làm nên những giá trị riêng của người Mông.

Ngày nay, cuộc sống vật chất của người Mông ở huyện Pẹc đã có nhiều thay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đổi. Nhiều gia đình đã có những tiện nghi hiện đại phục vụ cuộc sống như: ti-vi, ra-

đi-ô, xe máy, ô tô… Đây là một dấu hiệu đáng mừng, tạo điều kiện cho người Mông

ở đây hòa mình vào sự phát triển chung của quốc gia, của dân tộc.

3.1.3. Mặc (trang phục)

Trong văn hóa vật thể của người Mông, trang phục là nét văn hóa đặc sắc nhất,

là điểm dễ nhận thấy, dễ phân biệt người Mông với các dân tộc thiểu số khác. Trang

phục của người Mông ở huyện Pẹc cũng như các trang phục các tộc người Mông ở

các địa phương khác vẫn bảo lưu được những yếu tố truyền thống. Tuy nhiên, mỗi tộc

người, mỗi nhóm địa phương đều có sắc thái riêng được thể hiện qua kiểu dáng, kỹ

thuật cắt may, các họa tết trang trí trên y phục, đặc biệt là y phục nam. Ở huyện Pẹc

có hai nhóm Mông cư trú chủ yếu là Mông Hoa (Mông lềnh) và Mông Trắng.

Trang phục thổ cẩm cổ truyền của phụ nữ Mông Hoa gồm: Khăn, áo xẻ ngực,

váy, tấm vài che phía dưới trước váy, thắt lưng, xà cạp...Với họa tiết mang tính chất

ước lệ, những trang phục này phản ánh giá trị văn hóa, thẩm mĩ của người Mông Hoa.

Với nhóm Mông Hoa ở huyện Pẹc, áo phụ nữ thường được máy ngắn, xẻ ngực và

được may hai lần vải. Cổ áo cắt hình cái thùa, xẻ tà khoảng 15cm, nẹp tà đáp thêm

vải hai mầu có hoa văn, nẹp ngực có hai miếng hoa văn. Trong lễ hội, phụ nữ Mông

Hoa còn khoác thêm chiếc áo trang trí hoa văn từ 1/3 thân áo trở xuống. Mô tuýp

trang trí hoa văn trên nền áo chủ yếu là các đường xoáy ốc giữa các đường thẳng

song. Váy may bằng loại vải lanh nhuộm chàm và trang trí hoa văn bằng kĩ thuật vẽ

sáp ong ở chân váy. Hoa văn trên thân và gấu váy được trang trí dày đạc biệt bằng

các miếng vải mầu nhép lại hoặc thêu các hình tam giác, chữ thập, xoáy ốc hoặc dấu

nhân. Màu đỏ luân là mầu chủ đạo trong bộ trang phục của phụ nữ Mông Hoa. Thắt

lưng thường chỉ là mảng vải gấp đôi. Xà cạp gồm hai loại: loại thêu (sùng chài) dùng

trong ngày cưới, đi hội; không thêu dùng vào các ngày thường. Với phụ nữ Mông

Trắng, trang phục cơ bản là giống với phụ nữ Mông Hoa nhưng vẫn có những điểm khác

biệt để dễ phân biệt. Trên chiếc váy của họ, màu trắng là màu chủ đạo, không được trang

trí nhiều như váy của phụ nữ Mông Hoa. Trang phục của phụ nữ Mông nhìn chung

không khoe vẻ đẹp của cơ thể, chủ yếu là thể hiện vẻ đẹp của cá mô tuýp trang trí và

màu sắc hoa văn.

“Lợn lên anh theo cha đi cày nương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Theo anh vào rừng săn thú

Lợn lên em theo mẹ tập thêu

Theo chị nhuộm chàm, in hoa trên áo”.

[12, tr.168]

Đến tuổi trưởng thành, thiếu nữ Mông không tiếc thời gian dài để có thể hoàn

thành bộ váy cưới cho mình. Người Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của phụ nữ

Mông qua khả năng thêu thùa bộ trang phục được mặc trong ngày cưới của cô gái đó.

Có thể nói rằng, nghề dệt vải, thêu hoa là thước đo gái trị của phụ nữ Mông. Trước

khi đi làm dâu, cô gái được mẹ tặng bộ váy áo như tặng của hồi môn. Khi về nhà

chồng, cô gái phải chuẩn bị bộ váy áo để tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Váy thêu đẹp trở

thành tài sản quí giá của người phụ nữ.

Nhằm tôn thêm vẻ đẹp của mình, phụ nữ Mông đeo rất nhiều khuyên tai (Đẩy

ta). Trẻ em gái từ khi bắt đầu tập đi đã được người mẹ cho xâu tai và đeo khuyên tai.

Khuyên tai thường được làm bằng bạc và do đồng bào tự chế tác. Ngoài ra, người

Mông còn đeo vòng cổ (Cầu sinh) là đồ trang sức chung cho cả phụ nữ và nam giới.

Có hai loại vòng cổ: Vòng làm trang sức, vòng là vòng bản mệnh. Ngoài ra, phụ nữ

Mông còn đeo rất nhiều vòng tay (Lồ phầu), nhẫn (Lề phai).

Trang phục nam người Mông gồm có quần dài, may kiểu đũng quần què, cạp

lá tọa, áo ngắn tay, ống tộng, cổ đứng, xẻ bụng, cài khuy. Quần áo đều nhuộm màu

chàm. Ngày nay, do có sự giao lưu, hội nhập trong quá trình phát trển kinh tế - xã hội

nên đa số nam giới người Mông đều mặc quần áo giống như nam giới người Lào, chỉ

có người lớn tuổi vẫn giữ nguyên bộ trang phục dân tộc vốn có.

Nhìn chung, trong trang phục của người Mông, màu đỏ đóng vai trò chủ đạo.

Màu này phối hợp màu nắng, trắng tương phản với nền chàm tạo nên sắc rực rỡ. Về

giá trị tinh thuần, nghệ thuật tạo hình trên trang phục của phụ nữ Mông phản ánh bản

chất vừa hiếu lễ, hiếu khách, trung thực, thằng thắn, mạnh mẽ và giàu tình cảm,

phóng khoáng vừa chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên vùng cao.

Không chỉ vậy, nó còn thể huện sự cần cù, chăm chỉ, đôi tay khéo léo, trí tưởng tượng

phong phú của người phụ nữ Mông, phản ánh những giá trị văn hóa, thẩm mỹ góp

phần tạo thêm sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn hóa, tỉnh thần của họ. Về cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bản trang phục của nữ Mông ở huyên Pẹc giống như trang phục của phụ nữ Mông ở

các nơi khác. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa các chi tiết trên áo của họ với phụ nữ

Mông ở Việt Nam thì thấy có những điểm khác biệt như chiếc áo của người Mông ở

Việt Nam thường ngắn hơn áo của phụ nữ Mông ở Lào. Áo của phụ nữ Mông ở Việt

Nam có màu đen hoặc màu xanh thì áo phụ nữ ở Lào thường là màu đỏ, áo của phụ

nữ Mông ở Lào thường trang trí ít cầu kì hơn áo của phụ nữ Mông ở Việt Nam.

3.2. Đời sống tinh thần

3.2.1. Tín ngưỡng, tôn giáo

Tín ngưỡng

Tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành nên văn hóa dân gian, xuất hiện cùng

với sự hình thành và phát triển của lịch sử một tộc người. Nó có sức sống dai dẳng và

mãnh liệt. Tín ngường là yếu tố quan trọng cấu thành văn hóa dân tộc.

Ngày xưa, người Mông cho rằng mọi hoạt động đời sống hàng ngày của họ là

do các lực lượng siêu nhiên chi phối. Trong xã hội của người Mông, tín ngưỡng tâm

linh là một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa tinh thần, có sức tác động

mạnh tới các yếu tố khác. Tín ngưỡng tâm linh hòa quyện với nghi lễ hội hè tạo nên

sắc thái đa dạng, phong phú trong đời sống văn hóa tinh thần của người Mông ở mọi

thời kì. Môi trường sống trên núi cao đã tạo cho người Mông một tâm hồn phóng

khoáng, ưa tự do, không cam chịu bất cứ một sự trói buộc nào. Mọi sự việc diễn ra

trong cuộc sống với người Mông đều đơn giản. Người Mông xem xét, đánh giá con

người chỉ cốt ở việc làm cụ thể chứ không ở lời nói. Tư duy của người Mông thiên về

lối tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật ở người Mông là niềm tin và lòng tự trọng.

Người Mông quan niệm: Thế giới động vật xung quanh đều có phần xác và

phần hồn. Phần xác là thực thể tồn tại có thể thấy được. Hồn nằm trong xác, là thế

giới của ma, của thánh thần mà người trần không thể nhìn thấy được. Cuộc sống của

phấn hồn và phần xác thuộc hai thế giới khác nhau. Thế giới bên xác là dương; thể

giới bên hồn là âm. Âm dương tương phản nhau, bên dương là sáng bên âm là tối.

Bên cạnh đó, người Mông cũng cho rằng con người khi sinh ra và lớn lên có

phần xác và phần hồn. Có 3 hồn trú ngụ trong cơ thể con người. Nếu khi 3 hồn này

rời khỏi xác, có nghĩa người đó đã chết. Sau khi chết, hồn thứ nhất sẽ có nhiệm vụ

gác mộ và thường xuyên liên hệ với con cháu, phù hộ hoặc quấy nhiễu họ. Sau khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

được làm ma khô, hồn thứ hai sẽ bay về với tổ tiên. Hồn thứ ba sẽ được đầu thai vào

kiếp người hoặc kiếp vật. Người Mông cũng cho rằng, để có thể tồn tại được trên thế

gian, con người luôn luôn cần sự trợ giúp của các vị thần. Các vị thần dạy họ làm ăn,

dạy họ cách ứng xử, giúp họ có đủ sức mạnh chống lại áp bức, chống lại sự đe dọa

của thiên nhiên, bảo vệ sự sống của cộng đồng. Họ luôn ghi nhớ công ơn của các vị

thần. Trong thế giới tâm linh của người Mông, thờ cúng tổ tiên và các vị thần có một

ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ thể hiện niềm tin mà còn là những hoạt

động tín ngưỡng thiêng liêng của dân tộc. Đặc biệt, thờ cúng tổ tiên là thành tố vô

cùng quan trọng góp phần tạo dựng và bảo lưu văn hóa cội nguồn của họ.

Thờ cúng tổ tiên là thờ cúng các cụ, ông bà, những người cùng dòng họ đã

mất. Gia đình người Mông theo chế độ phụ quyền. Tổ tiên trong nhà là tổ tiên của

nhà chồng. Tổ tiên bên vợ không có vai trò gì nên không được thờ cúng. Theo quan

niệm của người Mông, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn với ông

cha, với ngươi đã khuất, hay phải thực hiện lễ thức theo tục lệ rang ma, mà còn là sự

cầu mong, sự tạ lỗi, xin tha thứ, tránh sự trừng phạt...Với họ, tổ tiên có vai trò to lớn,

chi phối cuộc sống hiện tại của bản thân và gia đình. Người Mông thờ cúng tổ tiên

theo ba đời. Việc thờ cúng tổ tiên được họ thực hiện vào các dịp lễ tết. Ở huyện Pẹc,

người Mông quan niệm, ba đời gắn bó với nhau trước tiên là bởi tên họ của mình, sau

đó là mặt huyết thống. Những người có công với làng bản, tạo dựng trong dòng họ có

thể vẫn được coi là ông tổ.

Nơi thờ cúng tổ tiên của người mông gọi là Cung Pox Xiêz có nghĩa là chỗ

nghỉ chân của tổ tiên. Khác với các dân tộc khác, nơi thờ cúng tổ tiên của dân tộc

Mông đặt ở vị trí rất trang trọng của gian giữa nhà, nhìn ra cửa chính, cao độ 1,5m so

với mặt đất. Bàn thờ được biển thị bằng 3 mảnh giấy hoặc vải mầu vàng hình chữ

nhật. Không có bát hương. Khi thắp hương, họ có thể cắm ngay vào vách nhà. Vị trí

thờ tổ tiên là khu vực linh thiêng của gia đình nên phụ nữ không được phép đến gần,

chỉ có nam giới, thầy cúng mới được đến gần nơi thờ cúng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là

nơi chứng kiến các nghi lễ trong chu kì đời người của mỗi thành viên trong gia đình.

Người Mông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi gia đình có

người ốm đau, việc chăn nuôi, sản xuất gặp rủi ro. Đối với tổ tiên ở thế giới bên kia,

con cháu phải tổ chức lễ cúng theo đúng thủ tục tang ma bởi như vậy sẽ khiến tổ tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thành ma lành và sẽ phù hộ con cháu...Theo họ, nơi cư trú của tổ tiên là thiên đàng.

Thờ cúng đa thần: Đời sống tâm linh của người Mông còn tồn tại một hệ thống

thần trong nhà và thần tự nhiên với các lễ thức cúng khác nhau.

Thần ma nhà (sử ca): Đây là ma có vị trí quan trọng trong các thần trong nhà.

Xử ca gắn liền với ý niệm giàu có về tiền bạc và của cải. Họ thờ xử ca ở vách sau

gian giữa, đặc điểm nhận biết là nơi có dán tờ giấy vàng hoặc bạc có máu gà và cắm

vài cái lông gà. Khác với cúng tổ tiên, xử ca chỉ được cúng một năm một lần duy nhất

vào ngày 30 tết. Lễ vật là thịt gà trống (gà phải có lông màu hung đỏ). Chủ nhà cắt

tiết gà gần chết rồi thả gà trong nhà. Con gà khi chết quay đầu về phía nào thì người

ta có thể đoán biết năm đó gia đình họ ra sao. Nếu con gà quay đầu về phía bàn thờ

xử ca thì năm đó là một năm tốt đẹp với gia đình họ. Nếu đầu con gà quay sang phía

bếp thì năm đó họ sẽ được mùa. Nếu con gà quay đầu ra ngoài thì cả năm đó theo họ

là thật xui xẻo. Theo ông Lý Thao - người dân tộc Mông tại bản Khăng khảy, tỉnh

Xiêng Khoảng cho biết “nếu gà quay ra ngoài, họ sẽ hóa giải điều không may bằng

cách thay con gà cúng bằng một con gà khác”.

Ma buồng: Theo quan niệm của người Mông ma buồng có nhiệm vụ bảo vệ trẻ

nhỏ trong nhà và gia súc trong gia đình. Mỗi năm, họ phải cúng ma buồng một lần.

Lễ vật cúng ma buồng là một con lợn từ 12kg - 15kg, nhưng phải là con lợn có những

điểm khác biệt với các con lợn khác: Khi cúng xong, con lợn đó được thịt ra, không

được đem bán mà họ chia thành các bát khác nhau tùy thuộc vào quan niệm của dòng

họ. Ví dụ: họ Vùng ở Đà vị số bát cúng là 6 bát, họ Lương 13 bát, họ Hoàng 9 bát.

Khi cúng ma buồng, họ đòng chặt cửa không cho người lạ vào. Vị dụ cách cúng ma

buồng của họ Phùng tại bản Khăng khảy làm 5 bát như sau: Thịt lợn chia thành: thủ

lợn, lòng mề và bốn cái chân và đuôi. Sau đò thủ lợn được chia thành 5 phần. Tiếp

đến họ để mỗi bát một ít lòng và gan. Bốn bát 4 cái chân và một phần của thủ lợn, bát

thứ 5 sẽ để đuôi lợn và mũi lợn. Chủ nhà cầm thanh củi chạy khắp nhà với mục đích

đuổi các con ma khác đi, đến mâm cỗ thì họ dừng lại, tay cầm quả bầu và khấn. Họ

khấn bằng tiếng Mông. Lễ vật sau khi cúng xong, người nhà phải ăn hết và không

được chia ra ngoài.

Thần cửa: Có nhiệm vụ gác cửa, ngăn không cho ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc,

gia cầm, bảo vệ của cải, các hồn và ngăn không cho tổ tiên bỏ đi nơi khác. Theo quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

niệm của người Mông thì thần cửa ẩn trong miếng vải đỏ treo ở cửa. Nhà có người ốm

đau, chăn nuôi bị bệnh dịch, nương rẫy mất mùa là do thần cửa bị ngã vì vậy phải nâng

thần cửa dậy bằng cách cúng thần. Lễ vật cúng là lợn hoặc gà, khi cúng phải thay

miếng vải đó để ma cửa luôn có nơi trú ngụ mới.

Ma cột chính: Theo quan niệm của người mông ử vùng này trong ngôi nhà thì

cột chính có một vai trò quan trọng. Đây là nơi bảo vệ tính mạng, sức khỏe của thành

viên trong gia đình cũng là nơi lên và xuống của tổ tiên vì vậy họ phải cúng ma cột

vào những ngày quan trọng của gia đình.

Thần ma bếp: Gia đình nào cũng thờ thần bếp. Thần ma bếp có liên quan đến

việc sinh nở của phụ nữ, phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc, mùa màng và việc nấu ăn

của gia đình. Do đó, người Mông kiêng không giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại

lòng bếp lò bằng đất, kiêng gõ vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không lấy tro

trong bếp. Họ cho rằng làm như vậy sẽ gây ảnh hưởng tới thần ma bếp, nấu không

kiêng như vậy, gia súc dễ mắc bệnh, phụ nữ khó đẻ và nếu đẻ ra sẽ bị dị dạng. Họ

thường cúng thần ma bếp vào tối 30 tết hoặc khi phụ nữ khó sinh, khi gia súc bị ốm.

Họ chỉ cần cắm một nén hương vao bếp và cúng.

Thần ma lợn: Người Mông hay bị lợn rừng phá hoại nương rẫy và vì không

nuôi được lợn nhà để cúng lễ nên sinh ra nghi thức thờ thần lợn ở cột chính trong nhà.

Cúng thần ma lợn phải mổ lợn nái. Cúng lễ ăn uống xong, mang xương hàm của lợn

nái đó treo lên cột chính. Vì thế, gia đình người Mông nào cũng nuôi vài con lợn nái.

Họ làm nghi thức cúng này khi thấy bị lợn rừng phá hoại mùa màng.

Thần ma bảo vệ hồn lúa: Thần ma này thường trú ngụ trên gác bếp, nơi để

thóc, ngô. Vị thần này có thể bảo vệ mùa màng, cũng có thể sẽ làm mất mùa, tùy theo

thái độ của gia chủ. Con dâu và phụ nữ khác không được lên gác. Khi chuẩn bị thu

hoạch mùa, người Mông thường cúng thần ma với hi vọng sẽ được mùa bội thu.

Ngoài việc, cúng với các thần trong nhà, người Mông quan niệm còn có ma

núi, ma giường, ma suối, ma cây, ma nương rẫy...Các quan niệm về hồn ma là cơ sở

xuất hiện một tầng lớp thầy cúng của người Mông. Dẫn hồn người chết về với tổ tiên

hoặc khi trong nhà có người ốm đau đền cần phải có thầy cúng. Thầy cúng có vai trò

rất lớn trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của người Mông. Ước mơ có một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cuộc sống vui vẻ, khỏe mạnh, hạnh phúc đã làm nền tảng cho một số ma thuật chữa

bệnh tình yêu phát triển. Khi đau ốm, ngoài việc dùng thuốc cổ truyền dân tộc là

những cây lá trên rừng, đồng bảo còn tin vào ma và nghi thức cúng ma. Cúng ma thì

cần phải có thầy cúng. Thầy cúng sẽ điều khiển con ma của mình đi đánh nhau với

con ma làm cho người ốm. Nếu con ma thầy cúng thắng thì người ốm sẽ khỏi bệnh.

Muốn vậy, trước tiên, họ phải giết gà, lợn để mời ma nhà thầy cúng đi đánh nhau.

Đối với đồng bào Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng, ma Ngũ hải là con

ma đáng sợ nhất. Ma Ngũ hải chỉ có ở một số người. Khi có sự mâu thuẫn, xích mích

giữa hai gia đình hoặc hai hay nhiều cá nhân, người có ma Ngũ hải sẽ thả con ma đi

làm hại đối phương. Theo họ, ma Ngũ hải thường có trong các cô gái đẹp, các chàng

trai có nước da trắng hoặc con nhà giàu. Người bị ma Ngũ hải hành hạ thường bị đau

ốm quặt quẹo liên tiếp ở một chỗ nào đó, lục phủ ngũ tạng đau liên tục từng cơn trong

vài ngày liền. Nếu không cúng kịp thời để đuổi con ma đó ra thì người sẽ bị chết. Do

quan niệm như vậy, đồng bào Mông ghét người có ma Ngũ hải. Ai bị nghi là có ma

Ngũ hải, thường bị dân bản khinh ghét, sợ hãi. Khi bị nghi là có ma Ngũ hải, người

con gái, con trai khó lấy chồng, lấy vợ.

Đồng bào Mông còn tin vào ma thuật làm người ta yêu ngau. Một chàng trai yêu

một cô gái mà không được yêu lại thì anh ta sẽ bỏ bùa yêu, lập tức cô gái yêu chàng trai

đó say đắm. Ngược lại, cô gái cũng có thể bỏ bùa yêu với người con trai mình yêu.

Ma trong dòng họ: Trong xã hội người Mông, thiết chế dòng họ đóng một vai trò

rất quan trọng. Các mối quan hệ trong dòng họ có ảnh hưởng tới cộng đồng, gia đình,

bản thân mỗi con người. Vì thế, dòng họ có thể trở thành nơi đoàn kết cộng đồng, làng

bản. Tổ chức dòng họ của người mông được chia theo 3 cấp. Ở cấp cao nhất (cấp ba), họ

có thể sống chết vì nhau, coi nhau như anh em ruột. Cách cúng ma cũng khác nhau giữa

các dòng họ. Nếu không cùng dòng họ với nhau thì người Mông rất kiêng việc sinh,

tử của người khác họ trong gia đình mình. Theo họ, đó là điều không may mắn. Khi

người chết tại nhà mình, con ma ấy sẽ quấy nhiễu tổ tiên mình, khiến cho gia đình

không yên ổn.

Tính dòng họ còn ảnh hưởng đến bộ máy chính quyền. Bản nào có họ đông

nhất, mặc dù thông qua bầu cử, thì chức trưởng bản vẫn rơi vào người nhà họ đó. Vai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trò trưởng họ trong tộc người Mông không có. Vai trò đó thuộc về một tập thể những

người già (đàn ông). Đó là những người am hiều về phong tục tập quán, có kinh

nghiệm sản xuất. Mọi công việc diễn ra đều được họ bàn bạc với nhau. Những người

già am hiểu nghi lễ cúng ma và tang ma thường được kính trọng hơn vì đó là những

người có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần của cộng đồng người Mông.

Như vậy, với người Mông, dòng họ có ý nghĩa rất quan trọng kể từ khi sống

cho đến khi chết. Dòng họ luôn chi phối hoạt động cuộc đời mỗi người. Theo khảo

sát trong chuyến đi thực tế của tác giả tại các địa phương, hiện nay, ở các xã có người

Mông sinh sống, không còn khu vực nào chỉ có một dòng họ. Xã nào cũng có 5 dòng

họ khác nhau cùng sinh sống. Trong mỗi làng bản, các họ khác nhau sẽ cúng ma của

dòng họ mình theo một cách riêng. Gọi là “ma dòng họ” hay “cùng ma”. Chỉ cần

xem cách thực bày đồ cúng các loại ma, người ta có thể nhận ra đó là dòng họ nào.

Dòng họ đóng vai trò vô cùng quan trọng cho nền tảng quan hệ xã hội người

Mông. Tín ngưỡng dòng họ là khía cạnh quan trọng tạo nên sự kết nối cộng đồng

cùng huyết thống. Nó không chỉ tín hiệu để người Mông nhận biết anh em “cùng

ma” mà còn tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc Mông.

Tín ngưỡng trong nông nghiệp: Người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng

sống chủ yếu bằng nương rẫy và sống nhờ vào cây ngô, cây lúa. Họ thường thực hiện

nghi lễ cúng nương vào dịp mùng 3 tháng 3 và cúng ngô mới vào tháng 5 âm lịch.

Như vậy, trong đời sống hằng ngày, tín ngưỡng có tác động rất mạnh đến thái

độ ứng xử của đồng bào đối với bệnh tật, mùa màng. Nhiều người cho rằng, ốm đau

bệnh tật là sự tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và các lực lượng siêu

nhiên. Người Mông tin vào linh hồn trong cơ thể mình cũng như trong cơ thể động

vật, thực vật khác; tin vào sự phụ thuộc của thể xác vào linh hồn. Người Mông cũng

tin vào sự tồn tại của các thần và sự phụ thuộc của con người vào các thần. Các thần

có sức mạnh chi phối con người. Các thần có thể phù hộ hoặc gây họa cho con người,

phụ thuộc và cách ứng xử của con người với các vị thần. Vì vậy, tất cả các gia đình

đều có bàn thờ để cúng tổ tiên cũng như các vị thần.

Trước đây hầu hết các gia đình người Mông đều thờ trong nhà mình những

loại ma lành như đã nói trên với niềm tin tuyệt đối vào các vị thần. Họ luôn tin rằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các vị thần sẽ mang lại những điều như mình cầu xin. Tuy nhiên, khi nền kinh tế - xã

hội ngày càng phát triển, sự quan tâm của nhà nước và sự giao lưu với các dân tộc

anh em khác, một bộ phận người Mông đã dần thay đổi suy nghĩ. Họ giản lược bớt

các nghi thức cúng lễ. Có những gia đình chỉ có một bàn thờ tổ tiên như gia đình ông

Lý Thao. Trong tín ngưỡng nông nghiệp của người Mông, thì những nơi người Mông

sống bằng cây lúa như ở các xã Lat Huống, Thông Hay, Phắn, không còn tồn tại tín

ngưỡng này nữa. Nhờ sự quan tâm của Nhà nước, trong các bản của người Mông, bản

vào nào cũng có cán bộ y tế cấp thôn. Người Mông đã không còn hoàn toàn tin vào

thầy cúng. Họ không tin rằng thầy cúng có thể giúp cho họ khỏi bệnh.

Tôn giáo

Ở huyện Pẹc, trong số nhóm người Mông di cư đến từ thập niên 80 - 90 của

thế kỉ XX trở lại đây, có một bộ phận người Mông theo đạo Tin lành. Từ năm 1994,

thông qua hoạt động truyền đạo, trong đồng bào Mông đã hình thành nhiều nhóm

sinh hoạt đạo Tin lành. Tuy chưa có nhà thờ nhưng đạo Tin lành đã ảnh hưởng tới đời

sống tín ngưỡng và tâm linh của bộ phận người dân này. Những người Mông theo

đạo phải tuân theo và thực hiện những điều luật sau: Không được uống rượu, không

được ăn tiết canh, không được làm điều xấu, phải nghỉ làm vào ngày chủ nhật. Không

được thờ cúng tổ tiên mà phải treo tranh ảnh chúa trong nhà thay vào chỗ thờ tổ tiên

trước đây. Không được ăn đồ thờ tổ tiên của dân tộc khác.

Đối với đám cưới của người Mông các nghi lễ đã được lược đi rất nhiều. Bố

mẹ thay mặt nhà trai làm công việc mai mối. Lễ cưới được tiến hành rất đơn giản. Cô

dâu chú rể chỉ cần trình diện trước ảnh chúa chứ không phải trình diện trước gia trên

như trước kia. Sau khi trình diện trước ảnh chúa, họ bắt đầu tổ chức ăn uống. Chỉ

trong vòng một ngày, lễ cưới tiến hành xong. Để có thể có lễ cưới, người theo phải

chịu khá nhiều ràng buộc: Nữ giới bắt buộc phải lấy nam giới là người theo; nam giới

thì không cần phải lấy người theo đạo nhưng khi cưới về, cô dâu phải theo nhà chồng

và thực hiện các lễ nghi theo đạo Tin lành

Đối với những đám ma người nhà tắm rửa, mặc quần áo mới cho người chết.

Người chết được cho vào quan tài ở ngang nhà, phía dưới trải một mảnh vài lanh

trắng. Đầu được gối cao và hướng về phía ảnh chúa. Phía trên quan tài để một (hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hai) hàng nến. Chủ nhà quỳ lạy và khấn mong cho người chết đến phục vụ chúa.

Chúa phù hộ cho người này đi an toàn và phù hộ cho con cháu. Đây là lễ nghi được

tiến hành. Những người đến viếng người chết sẽ mang theo ngô, gạo, rượu và tiền.

Thông thường, người chết chỉ để một ngày ở trong nhà, ngày thứ hai đem đi chôn.

Trong thời gian còn ở trong nhà, những người đến viếng đều phải cầu nguyện cho

người chết. Đến hôm sau, chọn giờ tốt mang chôn. Những người đi đưa vừa đi vừa

cầu nguyện và làm dấu Thánh ra đến tận nơi chôn. Mộ của những người theo đạo

được cắm một cây thập giá bằng gỗ.

Ngoài đạo Tin lành, người Mông còn tồn tại các tôn giáo khác nhưng không rõ

nét: Sa man giáo là hình thức tôn giáo nguyên thủy. Ngững người này được mọi

người cho rằng họ cò khả năng phù phép, đưa bản thân mình vào trạng thái hôn mê,

trực tiếp nói chuyện với các vị thần. Trước đây, ở các vùng có người Mông sinh sống

đều có thầy sa man. Hình thức Tô tem giáo: là tàn dư của tôn giáo sơ khai, xuất hiện

từ thời nguyên thủy nhưng vẫn tác động phần nào đời sống người Mông. Những tôn

giáo như Phật giáo, Đạo giáo không tồn tại trong cộng đồng người Mông.

Như vậy có thể thấy, đời sống tâm linh là nơi trú ngụ của những niềm tin

mang tính tôn giáo. Đó là những niềm tin mãnh liệt tạo dựng lên sức mạnh tinh thần.

Xét dưới góc độ nào đó, quan niệm và niềm tin chính là ý nghĩa mục đính của cuộc

sống. Dân tộc Mông gan dạ, quật cường, có bản lĩnh vô song vì họ có niềm tin và biết

khơi dậy niềm tin. Đó là mặt mạnh đồng thời cũng là một hạn chế lớn của người

Mông trên con đường tìm đến với cuộc sống văn minh và hạnh phúc.

3.2.2. Phong tục tập quán

3.2.2.1. Tục sinh đẻ

Người Mông sinh sống trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, tỉ lệ trẻ sơ

sinh tử vong rất nhiều. Vì vậy, đồng bào Mông có nhiều nghi lễ liên quan đến việc

sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ sinh. Người Mông cho rằng nếu lấy chồng mà không có

con trai là tại vợ, không có con gái thì tại chồng. Người phụ nữ có thai thì không

được đi xa, không gánh nặng, không qua sông to, không động chạm mạnh, không

được thay đổi giường ngủ. Khi nhà có người đẻ, người Mông ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng

Khoảng lấy cành lá xanh đẻ cài vào cửa nhà và ở cổng để báo hiệu cho mọi người lạ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không được vào nhà trong thời gian này. Nếu ai mà không biết vẫn vào nhà thì khi ra

phải để lại vật gì đó người đó mang trên người như chiếc túi, chiếc áo, chiếc dép...Hết

thời gian ở cữ của người phụ nữ, người đó có thể lấy lại vật đó nếu muốn. Theo họ

làm như vậy thì người có vía nặng sẽ không làm ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh. Khi gia

đình có người chuẩn bị đẻ thì phải làm lễ để xua đuổi tà ma, trong đó quan trọng nhất

là ma nguyệt thực, để mong mẹ tròn con vuông. Lễ này được làm vào buổi tối. Chủ

nhà thắp hương tại bàn thờ tổ tiên để xin phép, rồi cầm 3 cành đào đi khắp nhà, vừa

đi vừa đập để xua đuổi tà ma ra khỏi nhà, rồi thịt một con gà để tế. Nếu có điều kiện,

gia đình còn có thể thịt lợn để trình báo với tổ tiên và nhờ tổ tiên giúp đỡ.

Khi đẻ, sản phụ ngồi ở dưới đất, phía cuối giường là người đỡ đẻ. Khi khó đẻ,

người ta quan niệm con dâu ăn ở với bà cô và mẹ chồng chưa tốt nên phải làm lễ xin

lỗi bằng cách là vái bộ mẹ chồng 3 vái hoặc bà cô của dòng họ, uống một bát nước

giặt váy của họ hay uống một bát canh do chính tay mẹ chồng nấu và đưa cho. Nếu

vẫn chưa đẻ được, người Mông sử dụng cây thuốc dân gian, hoặc cho rằng hồn sản

phụ sợ quá nên khó đẻ, vì vậy phải làm lễ để gọi hồn sản phụ về. Trứng gà được luộc

lên để làm lễ. Sau khi lễ xong, cho sản phụ ăn lòng đỏ, lòng trắng thì dùng bóp chân.

Nếu đẻ mà bị băng huyết, cần hòa tan bột tam thất uống vào là khỏi.

Khi đứa trẻ được sinh ra, để cắt rốn cho thai nhi, người ta dùng một sợi chỉ

buộc cách rốn 2 đốt ngón tay rồi dùng một cật nứa sắc để cắt. Nếu là con trai, rau thai

nhi được chôn ở cột nhà chính trong nhà với ý niệm con trai sẽ trở thành trụ cột gia

đình; nếu là con gái, rau thai nhi được chôn ở gầm giường ngủ với niềm tin con gái

sau này sẽ là người nuôi con cái, nội trợ gia đình giỏi. Sản phụ sau khi sinh xong

được cho uống bát nước có trứng và hạt tiêu để đấy hết máu độc ra ngoài, tránh đau

bụng. Sản phụ được tắm bằng nồi nước được lấy từ các loại lá cây lấy trên rừng về để

tránh hậu sản. Trong thời gian ở cữ, cả vợ lẫn chồng không được ra vào cửa nhà

chính. Nếu con trai thì kiêng 20 ngày, con gái thì phải 30 ngày. Khi phụ nữ đẻ, người

ta cũng kiêng không giặt quần áo ở sông, suối vì nếu giặt ở đó sẽ hòa tan sữa mẹ vào

sông suối và làm bẩn dòng nước. Trong vòng một tháng, sản phụ phải ăn kiêng, chỉ

được ăn thịt lợn, gà luộc nhưng không được ăn gà mới đẻ và lông trắng, không được

ăn các loại rau mất sữa như rau cái, rau bí. Sản phụ trong thời gian ở cữ phải ở trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

buồng. Sau 3 ngày hoặc 7 ngày sau khi đứa trẻ sinh ra, gia đình phải làm lễ gọi hồn

và sẽ xem chân gà để đặt tên cho đứa trẻ. Nghi lễ gọi hồn cho đứa trẻ không chỉ tổ

chức trong mỗi gia đình mà là của cả dòng họ. Lễ này phải được tiến hành từ sáng

sớm, khi mặt trời chưa mọc. Mâm cỗ cúng trời đất được bày trước cửa nhà. Mỗi mâm

gồm một con gà, rượu và mèn mén hay cơm. Người cúng là ông nội hoặc bố của đứa

trẻ. Mâm thứ hai được đặt ở phía sau cửa chính gồm 1 còn sống để gọi hồn đứa trẻ

(con trai thì cúng gà trống, con gái là gà mái), một bát gạo, một quả trứng. Khi gọi

hồn, người ta cắm hương vào bàn thờ tổ tiên, bếp lò, cắm vào bát gạo và khấn mong

cho đứa trẻ được khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn. Khi cúng xong, lấy quả trứng cho sản

phụ mớm cho con ăn. Sau khi gọi hồn nhập vào đứa trẻ, bà nội vừa bế cháu vừa hát

ru. Khi đó, họ hàng sẽ trao cho đứa trẻ các vật thiêng liêng: Vòng cổ bằng bạc trắng,

chiếc áo đính vật trừ tà, vòng cổ có khóa để giữ hồn ở lại, không cho hồn đi gây ốm

đau, bệnh tật.

Trong lúc này, ông và bố sẽ làm lễ đặt tên cho đứa trẻ. Người nhà sẽ mang một

miếng thịt gà đã luộc chín và một bát mèn mén để gia đình báo với tổ tiên, các loại

ma nhà và thổ địa, bà mụ là gia đình đã có thêm người, mong muốn giúp đứa trẻ

thành người và không ốm đau, bệnh tật. Tên của đứa trẻ không được trùng với tên tổ

tiên và những người trong gia đình. Sau đó, họ sẽ xem chân gà để đoán tương lai cho

đứa trẻ. Lễ gọi hồn, đặt tên trở thành nghi lễ cộng đồng công nhận thành viên mới. Từ

đó, đứa trẻ được đón nhận vào cộng đồng. Gia đình phải làm lễ cúng ma buồng cho

trẻ đến năm được 5 tuổi, mỗi năm ít nhất một lần. Khi qua thời gian ở cữ, sản phụ có

thể ra ngoài làm việc không phải kiêng nữa. Trẻ sẽ bú sữa mẹ cho đến khi trẻ được 6 -

7 tháng tuổi người lớn sẽ mớm mèn mén hoặc cơm nhá. Trẻ em luôn được người lớn

ưu tiên dành các phần ngon cho.

Đứa trẻ lên 1 tuổi được làm lễ mừng tuổi. Lễ vật là thịt gà, thịt lợn. Trong buổi

lễ, nếu là bé trai, ông tặng cháu một cây nỏ hoặc khối sắt đủ rèn một con dao, ngủ ý

mong cháu trở thành một chiến binh giỏi, thạo việc làm nương. Nếu là cháu gái, bà

ngoại mừng cháu bé một cuộn chỉ thêu với ý mong đứa trẻ lớn lên thạo việc may vá.

Lễ chọn bố mẹ nuôi: Khi đứa trẻ bị đau ốm người Mông ngoài cách bói để đặt tên

khác còn có thể làm lễ chọn bố mẹ nuôi cho đứa trẻ. Sau khi cần khấn việc mình làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

là chọn bố nuôi cho con, ông bố sẽ nấp vào chỗ kín đáo của một cây cầu nào đó,

Người đàn ông nào đi qua cây cầu đầu tiên được nhận là bố mẹ nuôi của trẻ. Anh ta

sẽ được mời về nhà và dùng sợi chỉ đỏ buộc vào tay đứa trẻ, với ý là buộc chặt bệnh

tật và mong cho đứa trẻ hay ăn chóng lớn. Đứa trẻ lúc này sẽ lấy tên của bố nuôi làm

tên đệm. Sau khi làm lễ đặt lại tên, người bố nuôi này có trách nhiệm với đứa trẻ như

con đẻ, đứa trẻ cũng phải coi ông như bố đẻ của mình. Đến ngày 9/9 âm lịch hằng

năm, đứa trẻ phải đi lễ bố nuôi: Năm đầu tiên phải đi lễ 2 trai rượu, một con gà; năm

thứ 2: 5 trai rượu, một con gà; năm tứ 3: 5 trai rượu và một con lợn nhỏ từ 10kg -

12kg. Sau 3 năm, hai bên chỉ đi qua thăm hỏi lẫn nhau, không phải mang lễ vặt sang

biếu nữa. Cũng có trường họp người Mông đã chọn một cây to, một tảng đá lớn ở

những vị trí linh thiêng để làm bố nuôi phù hộ cho đứa trẻ. Khi đó, người bố sẽ đem

một con gà, rượu, một ít tiền và cõng theo đứa trẻ đến tận nơi để cầu khấn gốc cây,

tảng đá nâng đỡ và che chở cho đứa bé. Làm xong, ông bố lấy một đoạn day thừng

buộc vào đứa trẻ rồi cuốn dây vào thân cây, tảng đá với ý là cột chặt đứa trẻ vào “ông

bố nuôi”. Ông bố sẽ lấy một đoạn dây và bện sợi dây đó, buộc vào tay đứa trẻ. Sợi

dây này không được phép vứt đi mà phải cất giữ cẩn thận.

3.2.2.2. Cưới xin

Đồng bào Mông quan niệm: trong cái đẹp lứa đôi, người bạn trăm năm phải

khỏe mạnh, đạo đức tốt, chăm làm và làm có hiệu quả. Con gái phải giỏi việc trồng

lanh, dệt vải, khâu thêu váy áo. Con trai phải biết cày giỏi, biết một số nghề thủ công

như rèn, mộc, đan lát, biết thổi khèn, thổi sáo, hát hay. Con trai, con gái biếng làm

ham chơi hoặc có thói hư tất xấu như lừa đảo, trộm cắp thì dân bản chê cười, khó lấy

vợ, lấy chồng. Hôn nhân của người Mông mang các nguyên tắc: nội hôn tộc người và

ngoại hôn dòng họ. Người ta quan niệm lấy vợ lấy chồng là để có con và duy trì nòi

giống mang lại thế lực cho dòng họ, cho gia đình và là nơi nương tựa lúc tuổi già. Từ

những quan niệm trên, người Mông rất chú trọng việc dựng vợ, gà chồng. Nam nữ

thanh niên cứ đến tuổi dậy thì là có thể xây dựng gia đình. Nam nữ thanh niên được

tự do lựa chọn bạn đời, song việc cưới xin phải dựa vào gia đình, dòng họ.

Người Mông nghiêm cấm kết hôn trong dòng họ nội song người Mông cho

rằng: nếu anh chết, em trai phải lấy chị dâu làm vợ là hợp nguyên tắc vì khi về làm dâu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cô gái đó đã làm ma nhà đó, không được lấy người khác. Hiện nay, ở huyện Pẹc không

còn trường hợp người Mông nào như vậy. Đến tuổi dậy thì, trai gái thường có giai đoạn

tìm hiểu nhau trước khi thành vợ chồng. Các buổi chợ phiên, những ngày tết, nam nữ

hẹn hò gặp gỡ, trò chuyện tìm hiểu nhau. Ngoài thổ lộ tình cảm bằng tiếng nói mộc

mạc hay các câu ca trữ tình, nam nữ thanh niên còn có cách tỏ tình qua tiếng khèn, sáo,

kèn là, đàn môi. Tiếng sáo véo von, du dương, tiếng khèn lá, đàn môi khỏe khoắn đã

thay lời nói lên tiếng lòng tha thiết. Dùng tiếng sáo, tiếng khèn là khúc nhạc dạo đầu

gọi người yêu là một nét đặc sắc của dân tộc Mông.

Khi đôi nam nữ có tình cảm và yêu nhau. Họ hẹn hò gặp nhau trong các dịp

chợ phiên, ngày hội, ngày tết. Lúc đó, họ có thể bày tỏ tình cảm, trao nhau những kỉ

vật: chiếc nhẫn, gương soi, chiếc lược. Đó là ngững kỉ vật làm tin cho nhau, thay lời

hứa hẹn tình duyên tốt đẹp. Không phải đôi trai gái nào yêu nhau cũng nên vợ, nên

chồng vì việc hôn nhân còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác: phải được sự đồng ý của bố

mẹ, họ hàng đôi bên và phải có số, có mệnh. Cho đến nay, đồng bào vẫn con tin vào

số mệnh, có hợp nhau thì mới cưới. Cách xem số mệnh của họ cũng rất đơn giản.

Xem số mệnh đó có những điều may rủi hay không chứ không phải xem là số như

một số dân tộc xung quanh. Khi đi hỏi dâu, nhà trai thịt gà và xem chân tốt hay xấu.

Nếu tốt thì đốt hương lên bàn thờ tổ tiên, đêm đó nằm xem mộng tốt hay xấu. Nếu tốt

thì sẽ tổ chức lễ cưới. Thông thường, khi yêu nhau, chàng trai về thưa với bố mẹ

mình. Nếu được gia đình đồng ý thì tổ chức ăn hỏi; được bố mẹ cô gái đồng ý thì xin

lá số. Khi tất cả đều thuận lợi, họ đủ điều kiện trở thành vợ chồng thì mới chuẩn bị

làm lễ cưới. Từ khi tìm hiểu đến khi cưới là một quá trình với nhiều nghi lễ, trong đó

có ba nghi lễ chính là: lễ dạm, lễ ăn hỏi và lễ cưới.

Lễ dạm hỏi và so tuổi: Thường diễn ra vào tháng 7, tháng 8. Nhà trai nhờ thầy

cúng có hai ông mối. Để chọn lễ dạm hỏi, thường trong mỗi đám cưới có hai ông

mối. Khi đã chọn được ngày tiến hành lễ dạm, ông mối sẽ thay mặt bố mẹ chàng trai

đem lễ vật đến dạm hỏi. Trước đây, lễ dạm hỏi phải có gà, rượu. Ngày nay, lễ dạm

hỏi được tiến hành đơn giải hơn: Chỉ cần có thuốc lá, rượu, và một ít tiền mặt được

gói cẩn thận trong giấy đỏ. Trước khi đi dạm hỏi, ông mối phải khấn trước bàn thờ

gia tiên mong cho mọi việc thuận lợi. Khi đi đường, họ phải tránh những chuyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không hay và phải đi một mạch đến nhà gái. Theo tục lệ, khi đi dạm, ông mối phải

đeo một tấm yếm bụng. Nếu không có tấm yếm này nhà gái sẽ không tin tưởng. Khi

được mời vào nhà, ông mối sẽ tự tay lau bàn, mượn chén mời bố mẹ co gái ngồi và

uống rượu. Nếu như bố mẹ cô gái cầm chén rượu uống thì coi như là đã thành công.

Khi đó, bố mẹ cô gái sẽ nhờ người đi tìm hai người để làm ông mối bên nhà gái. Bố

mẹ cô gái và các ông mối bàn bạc chuyện cưới xin và thách cưới. Khi có quyết định

cuối cùng, cả hai bên thống nhất ngày cưới. Khi công việc kết thúc, nhà gái sẽ mời

hai ông mối trai ăn cơm.

Người Mông ở huyện Pẹc thường thích cưới bằng tiền, thịt lợn, rượu và gà.

Hiện nay, người Mông thích cưới từ 2 đến 3 triệu kip (khoảng 6 đến 8 triệu đồng),

một con lợn to, 2 con gà, 1 trứng gà và 1 con bò. Chính vì có việc thách cưới và các

thủ tục như vậy mà nhiều người con trai Mông đã đến tuổi lấy vợ nhưng không lấy

được vợ vì gia đình nghèo, không thể có tiền làm đám cưới. Đối với người Mông, lễ

dạm hỏi đóng vai trò hết sức quan trọng trong lễ cưới. Từ đây, cô gái cũng được xác

định là có nơi, có chốn. Vì vậy, cô gái sẽ không được nhận lời dạm hỏi của gia đình

nào khác.

Lễ báo ngày cưới: Nhà trai sẽ nhờ thầy cúng hoặc người gia biết xem ngày để

xem ngày tiến hành lễ cưới. Việc chọn ngày rất khắt khe. Đó phải là ngày chẵn, tháng

chẵn, phải là ngày con trâu, con rồng hoặc con dê. Khi đã chọn được ngày, hai ông

mối nhà trai mang hai con gà đã luộc chín, một trai rượu và 2/3 đồ đã thách cưới đến.

Đến nhà gái, những đồ lễ đó sẽ được đặt lên thắp hương báo cáo tổ tiên. Trong lễ này,

hai ông mối của nhà gái cũng có mặt để kiểm tra lễ của nhà trai mang sang.

Lễ cưới: Thường diễn ra vào mùa khô khi đã thu hoạch xong ngô, lúa, sắn, khi

có của cải và đang nhàn rỗi. Khi con gái đi lấy chồng, người Mông thường cho con

gái một bộ váy, áo, vòng bạc, một cái chăn, hai cái bát ăn cơm một con lợn. Khi ra

khỏi cửa nhà gái, cô gái phải khóc to thể hiện sự hiếu thảo, quyến luyến với gia đình.

Đoàn đón dâu nhà trai và đoàn đưa dâu nhà gái cộng lại phải là số chẵn. Hai ông mối

của nhà trai phải đi đầu. Sau đó đến hai ông mối nhà gái, rồi đến cô dâu, chú rể, phù

rể. Đoàn người trên đường về sẽ dừng lại ăn đường để làm lễ cúng ma, không cho ma

nhà gái về theo. Khi về nhà trai, cô dâu phải dừng lại trước cửa để làm lễ đuổi ma.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sau đó, mẹ chồng và em chồng ra dắt tay cô dâu vào nhà để cô dâu làm lễ nhập môn

trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng. Làm lễ xong, cô dâu ra mời rượu bố, mẹ chồng và họ

hàng nhà trai. Cuối buổi lễ, cô dâu mới vào trong buồng. Trong hai ngày đầu về nhà

chồng, cô dâu không được ra khỏi buồng của mình. Sau 3 ngày thì tổ chức lễ lại mặt,

cô dâu, chú rể và bố mẹ chồng mang theo 1 chai rượu, 1 con gà, 1 cân thịt lợn. Người

Mông còn có tục cưới rể, nhất là những gia đình ít con trai.

Tục kéo vợ: thực chất là đôi trai gái yêu nhau không được bố mẹ, họ hàng hai

bên đồng ý hoặc do cô gái và chàng trai không yêu nhau nhưng bị ép gả. Khi đó, hai

bên thỏa thuận với nhau cho đón cô dâu về nhà chú rể trước rồi vài ba hôm sau mới

tiến hành các nghi lễ dạm hỏi, làm lễ cưới. Tục kéo vợ thường diễn ra như sau: Vào

thời điểm nào đó, do bố mẹ bên chàng trai quyết định (thường là ban đêm), tại địa

điểm hẹn trước như đã thỏa thuận, chàng trai đến đó cùng một số bạn bè để đón cô

dâu về làm vợ. Khi gặp nhau, chú rể nói với cô gái những lời yêu thương, cô gái

không trả lời hoặc đáp lại bằng cử chỉ. Hai người nói đi nói lại vài lần, chàng trai cầm

tay cô gái và kéo đi vài bước, các bạn đứng sau cô gái đẩy thêm, thế là cô gái đi theo

chàng trai về nhà. Các bạn của chàng trai đi theo có nhiệm vụ bảo vệ đôi trai gái nếu

có ai muốn ngăn cản công việc của họ. Trong khi con trai cùng bạn đi kéo vợ, ở nhà

bố mẹ chàng trai nhất trước 1 con gà mái. Thấy con dâu về, chuẩn bị bước qua cửa,

bố mẹ chồng lấy chân gà mái cào phía sau lưng, từ trên xuống dưới và nói hồn về.

Theo tục lệ, con gái đã sang nhà trai, thì hồn đã sang nhà trai, nhập vào dòng họ nhà

trai và khó quay về. Sang ngày thứ ba từ khi kéo cô gái về, nhà trai sẽ cử người sang

nhà cô gái báo tin chính thức về việc cô gái sang nhà trai và hết duyên với chàng trai,

xin nhà gái cho làm lễ cưới, định thời gian và thỏa thuận lễ vật. Thường thì khi được

báo tin như vậy, nhà gái phải đồng ý vì việc đã rồi. Nhà trai cử người sang nhà gái, có

cả cô dâu cùng đi, số lượng người đi là số chắn. Mọi nghi lễ khi sang nhà gái vẫn tiến

hành như đám cưới bình thường, nhưng thủ tục đơn giản hơn, lễ vật thách cưới không

nhiều như trước. Hiện nay, tục kéo vợ của người Mông không còn nhiều. Nó chỉ còn

tồn tại ở các bản xa.

3.2.2.3. Tang ma

Tang lễ của người Mông là một hiện tượng văn hóa đặc sắc phản ánh những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quan niệm về lịch sử xã hội và cộng đồng dân tộc. Tang lễ của người Mông được tổ

chức rất chu đáo, không giống với các dân tộc khác. Trong gia đình người Mông,

người chết thường để từ 3 đến 7 ngày. Ngày cuối cùng mới mang đi mai táng. Lễ táng

gồm nhiều nghi thức. Người Mông có quan niệm rằng thế giới có 3 tầng: tầng trên

trời là thế giới tổ tiên, tầng giữa là thế giới con người, tầng dưới lòng đất là địa ngục,

âm phủ. Người Mông cũng quan niệm rằng con người có 3 hồn trú ngụ trong cơ thể

người. Nếu hồn rời khỏi thể xác, thì người đó sẽ chết. Khi chết, ba linh hồn lìa khỏi

xác đi 3 nơi: Linh hồn gốc đi sang thế giới tổ tiên và sống với hồn gốc của tổ tiên.

Đây là con ma người chết hay quay đầu quấy nhiễu, gây ốm đau, bệnh tật cho người

còn sống trong gia đình. Linh hồn này vẫn thường xuyên liên hệ chặt chẽ với con

cháu. Do đó, con cháu phải luôn thờ cúng tổ tiên để thỏa mãn những đòi hỏi của linh

hồn này. Linh hồn thứ hai bay lên trời để hỏi trời tại sao bắt người đó phải chết. Sau

đó, linh hồn này sẽ ở luôn trên trời, không về với phần xác nữa. Linh hồn thứ ba đi

đầu thai để được trở lại kiếp làm người, sống trên trần gian một lần nữa theo cách: kẻ

khi sống gây nhiều tội lỗi, trộm cắp, lừa đảo, loạn luân thì khi đầu thai sẽ trở thành

các con vật như trâu, bò, lợn gà, chó...để cho con người sai khiến. Sau khi gột sách

hết tội lỗi mới được đầu thai sang kiếp người. Con ai khi sống hiền lành, tốt bụng thì

khi chết đương nhiên được đầu thai thành kiếp người. Do quan niệm như vậy, để tiến

hành đưa tiễn linh hồn về ba nơi, người Mông phải tiến hành đám tang với đầy đủ

nghi thức.

Người Mông có thể tiến hành làm ma theo 2 dạng: làm ma tươi và làm ma

khô. Làm ma tươi: là làm ma cho người mới chết. Lúc này, hồn vẫn ở mộ để đi về với

con cháu nếu ma để đưa linh hồn của người chết về hẳn với tổ tiên. Nghi lễ làm ma

tươi: Trước hết là báo tin khi gia chủ có người chết, gia chủ phải báo tin cho làng bản

bằng cách thổi tù và. Người già chết thì thổi 9 tiếng, người trẻ chết thổi 3 tiếng. Sau khi

báo hiệu, con cháu trong nhà phân công nhau đi mời thấy cúng, thợ kèn và họp bàn tổ

chức lễ tang. Người chết, nếu là trẻ con mới đẻ thì phải buộc sợi chỉ đỏ vào ngón tay

trỏ, nếu là người lớn, người già thì cho một hào bạc vào mồm hay 3 hạt thóc. Theo

phong tục của người chết có bao nhiêu con thì phải nặc bấy nhiêu bộ quần áo, chân để

đất. Số quần áo mặc phải là số lẻ. Nếu không người chết có thể héo theo người khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chết. Cho một nhúm gạo vào một chiếc túi nhỏ, khâu vào áo cho người đã khuất với ý

nghĩ là làm lộ phí đi đường. Trong thời gian đợi người ta đi lấy gỗ và làm quan tài,

người Mông làm nghi lễ lên ngựa cho người chết. Người ta đặt người chết nằm trên

võng (khi mang vào nhà không được đi cửa chính), cuốn hai đòn phụ ở ngoài vào và

buộc chéo các đầu dây với nhau rồi đặt các đầu của hai đòn chích lên hai chân gỗ dựng

sẵn. Vì trí võng là phía bàn thờ tổ trên, ngang hay dọc thì tùy thuộc vào từng dòng họ.

Sau đó tiến hành lễ chỉ đường cho người chết về với tổ tiên. Đây là một trong những

nghi lễ quan trọng nhất trong một đám tang. Gia đình có khó khăn thế nào đi chăng nữa

cũng phải làm lễ tiễn người chết về với tổ tiên dù không làm được các lễ nhi khác. Khi

thầy chỉ đường đến, ông ta lấy vải đỏ, 3 sợi chỉ mầu buộc vào tay của chính mình rồi

đặt trứng, một bát cơm hoặc một bát ngô, một con gà bé cạnh người chết. Thầy khấn

mong cho người chết về với tổ tiên, đừng trở thành ma lang thang trở về quấy rối và

làm hại con cháu. Nếu là người cùng một dòng họ thì chỉ có một thầy chỉ đường duy

nhất. Chỉ có thầy đó mới biết chỉ đường cho họ về với tổ tiên.

Lễ dâng cơm cho người chết: Dâng cơm cho người chết là nghi tồn tại lâu đời

nhất trong các đám tang của người mông mà vẫn chưa bị phải nhạt, người Mông

thường làm lễ dâng cơm cho người chết 3 lần trong ngày. Chủ đám đứng trước bàn

thờ tổ tiên của gia chủ phải cầm thìa, tay trái cầm chén rượu rồi gọi hồn người chết

dậy ăn. Ngoài chủ đám thì con trưởng có thể làm cơm dâng bố mẹ trong lúc lễ dâng

cơm diễn ra thì thầy kèn thổi bài dâng cơm.

Nghi lễ đưa người chết: Đêm hôn trước khi đưa người chết thì chủ đám phải

dùng cành đào và đập lên khắp các vách nhà và các ngõ ngách của ngôi nhà để ngụ ý

là đuổi hết tà ma còn lẩn tránh trong các xó nhà đi hết. Sau đó sẽ tiến hành việc đốt

tiền vàng cho người chết. Khi trời sáng, thợ kèn phải thổi một bài hát dài nói lên tình

cảm của những người đã sống với người chết. Sau đó thì ông chủ đám cùng với con

trai trong gia đình sẽ khiêng người chết ra ngoài. Ra đến cửa thì anh em họ hàng sẽ

cùng khiêng giúp. Họ bắt đầu tiến hành lễ đưa đám tang. Đi trước là những người

thổi kèn, đánh trống, sau đến là người con dâu hoặc cháu gái cầm bó cỏ ranh hoặc bó

rơm đang cháy đi tiếp sau, rồi đến những người khiêng người chết, cuối cùng là anh

em họ hàng sẽ cùng khiêng giúp. Thầy kèn vừa đi vừa thổi bài tiễn đưa người chết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đến chỗ đất bằng phẳng đoàn đưa sẽ dừng lại và làm lễ tiễn người chết ra khỏi nhà.

Tại đây họ tiến hành dâng lễ vật cho người đã chết. Họ có thể thịt chân bò, lợn gà mà

mọi người mang đến viếng ngay tại bãi đó để cúng cho người đã chết và những hồn

ma quanh đó. Sau đó họ có thể làm thức ăn ngay tại đó cho mọi người trong đám ăn

và cho thợ kèn ăn. Sau đó đội kèn, trống thổi bài tiễn biệt và quay về nhà. Người

Mông sợ cho những người này ra chỗ chôn người chết sẽ khiến các con ma có thể

theo họ về gia đình mình.

Sau khi đưa người chết ra tới chỗ chôn, người ta đặt võng ngựa (người chết)

lên nắp quan tài, sau đó ông chủ đám sẽ hùng 5 ngọn cỏ tranh để đuổi hết những hồn

của người đào huyệt và những người đưa ma ra khỏi quan tài và rải một vài lanh vào

quan tài. Người nhà sẽ tháo người chết ra khỏi võng ngựa và cho vào quan tài rồi đậy

nắp lại, sau đó ông chủ đám là người dùng xẻng lấp đất đầu tiên trong đến người con

trưởng và tiếp theo là các con, anh em họ hàng và làng xóm họ đắp đất khi thánh mộ

cao khoảng 0,5 m và thường không xếp đá và rào mộ theo khảo sát thực tế thì chỉ có

họ sùng và một nhánh họ hoàng là xếp đó ở mộ, cách xếp thuôn đầu về phía chân mộ

là chạm đất. Họ thường chôn theo người chết một bầu rượu và một cái chén. Sau khi

chôn cất người chết xong người Mông vẫn thường làm lễ gửi lửa cho người chết

trong vòng 3 ngày. Họ ra một bãi đát trống và đột một đóng lửa to để cho người chết

có thể nhận được lửa. Họ còn làm lễ đưa cơm cho người chết, lễ này cũng được tiến

hành trong 3 ngày họ mang cơm ra gần mộ người chết và đế đó. Những ngày tiếp

theo họ ăn cơm họ vẫn lấy một cái bát và một đôi đũa để lên mâm và mời người chết

ăn. Việc này họ cũng chỉ tiến hành trong vòng 5 đến 7 ngày rồi thôi.

Nghi lễ làm ma khô: Nghi lễ này thường được tiến hành sau khi người ta tiến

hành việc mời cơm người chết. Nếu có khó khăn họ có thể làm lễ này sau vài năm

cũng được. Nghi lễ làm ma khô với mục đích là gọi hồn người chết về thăm lại nhà

một lần nữa. Nghi lễ làm ma khô được tiến hành trong vòng một ngày, một đêm.

thành phần tham dự buổi nghi lễ này thường chỉ có anh em họ hàng thổi kèn.

Trước tiên gia chủ phải chuẩn bị làm cầu vá, cầu vá là hình nộm tượng trưng

cho người chết sau đó lấy que tre cao chừng 1,5m dựng thành hình người có đầu, có

tay sau đó cắm lên bẹ chứa và để vào một nia. Một cuộn vải lanh được đặt lên đầu thể

hiện là khăn quấn đầu, người nhà lấy cái áo của người chết mặc vào. Trên mẹt để một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chén rượu và một bát mèn mén. việc làm lễ cầu vá này phải tiến hành ngoài nhà.

Người ta còn làm cổng để đón người chết bằng các cách khác nhau; thể là giết

chó để lấy chó để lấy tiết bôi lên cổng chào cũng có thể là dám dây tiền lên đó. trước

khi tiến hành nghi lễ gọi hồn người chết về, ông chủ đám và người nhà sẽ phải dùng

cành đào để đuổi hết tà ma. Và thắp hương xin tổ tiên cho người đó được về nhà lần

cuối. ông sẽ xin quẻ âm dương. Đây là vật dụng được coi là công cụ giao tiếp của chủ

đám và người chết.Ngoài ra trước đây người Mông ở đây còn tiến hành làm lễ ma.

Như vậy, để đưa được người chết về nơi an nghi cuối cùng, đưa linh hồn người chết

về được ba nơi một cách thuận lợi, người Mông đã phải tiến hành nhiều nghi lễ

không được phép sai xót và tốn kém nhiều thời gian và tiền bạc, của cải. Đây chính là

một trong những yếu tố cản trở sự phát triển cũng như sự tiến bộ của người Mông về

mọi mặt. Tuy nhiên, cách chức tổ chức tang ma đã thể hiện rõ quan điểm nhìn nhận

cũng như tín ngưỡng của người Mông.

Có thể nói phong tục tập quán là một phần cuộc sống của mỗi cộng đồng. Nó

tạo nên sự phong phú và góp phần qui định diện mạo, tính cách và tâm tồn mỗi dân

tộc. Phong tục tập quán của người Mông mang đậm bản sắc riêng, được hình thành

một phần do điều kện sống ở những miền núi cao, hẻo lánh và hoang dã. Nó góp phần

khắc họa một dấu ấn riêng không thể trộn lẫn trên người mặt của cộng đồng người

Mông. Vừa bất tử khi vượt qua cả không gian và thời gian để trường tồn.

3.4. Lễ hội

Như chúng ta đã biết lễ hội là một hình thức sinh hoạt trong văn hóa tinh thần

của nhiều tộc người. Tổ chức lễ hội có nhiều hình thức và nội dụng khác nhau, tùy

điều kiện cuộc sống của người dân đối với từng cơ sở, từng dân tộc, sự biến đổi và

phát triển xã hội của từng thời kỳ nhất định. Giống như các lễ hội của người Lào và

các dân tộc khác sinh hoạt lễ hội của người Mông được coi như sự giao lưu văn hoá,

là nơi gặp gỡ giao duyện của lứa đôi. Vẻ đẹp truyền thống của dân tộc Mông ở huyện

Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng được biểu hiện rất đầy đủ trong các buổi lễ hội. Dân tộc

Mông có rất ít lễ hội. Họ có một số lễ hộ cơ bản.

Tết Nguyên đán: Trước đây, người Mông thường tổ chức ăn tết trước tết cổ

truyền của người Mông một tháng. Ngày nay, cũng như các dân tộc khác, người

Mông tổ chức ăn tết Nguyền đán cùng thời điểm với các dân tộc khác, với dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khơ Mú. Ngày tết của đồng bào Mông, họ giết lợn, gà, gói các loại bách, cúng tổ tiên,

ăn uống, tổ chức các trò chơi dân gian và ca hát ở những bãi đất rộng quanh bản. Từ

nhiều ngày trước tết, người Mông đã lần lượt mổ lợn từng nhà một, trước hết để cúng

tổ tiên, sau đó tổ chức ăn uống để mời anh em họ hàng. Gia đình nào mời ăn, sau khi

ăn uống no say, ai cũng có một phần mang về làm quà cho người ở nhà. Số thịt còn

lại, dù nhiều hay ít, đều được họ đem ướp muối, treo lên gác bếp để ăn dần. Trong dịp

của người Mông, thiêng liêng nhất là lúa cúng giao thừa và cúng ngày mùng một Tết.

Hôn đó, cả gia đình sẽ tập trung đem dao, cuốc, ríu, súng kíp, khèn...dán lên mỗi

công cụ một mảnh giấy cúng nhằm ‘trả công’ cho những thứ đó vì năm qua đã giúp

họ làm ăn và sinh sống, nhằm cầu mong cho năm mới được may mắn. Khoảng 1 - 2

giờ sáng ngày mùng Một tết, chủ nhà sẽ mổ hai con gà (một con lông màu nâu hồng,

một con lông màu trắng) để lấy lông dán vào bàn thờ tổ tiên và cúng, mời tổ tiên và

ăn tết với con cháu. Riêng con gà mầu trắng thì phải mổ giữa nhà, vì theo quan niệm

của họ, làm như vậy là để bảo vệ ngôi nhà cho vững chắc. Sau khi cúng xong, chù

nhà sẽ xem một số bộ phận của con gà vừa cúng như lưỡi, chân, các lỗ ở xương

dùi...để đoán định những điều tốt, xấu có thể xảy ra xới vệc làm ăn, sức khỏe của các

thành viên trong gia đình trong năm mới sắp đến.

Theo tập quán, sau giao thừa người mở cửa chính đầu tiên trong năm mới phải

là đàn ông, thường do chủ nhà hoặc con trai trưởng làm. Sáng mùng một, chủ nhà mở

cửa chính là gọi tên tất xả các con vật nuôi có trong nhà để cầu nguyện một năm chăn

nuôi gặp nhiều may mắn, các con vật đều sinh sôi nảy nở. Người nấu món ăn vào

buổi sáng ngày mùng một phải là người đàn ông. Khi bày mâm cơm, khi bưng cơm

lên ăn, người đàn ông đó sẽ gắp một miếng thịt vào chân cột chính. Họ luôn quan

niệm, đàn ông là trụ cột chính trong nhà. Họ làm thế để cần khấn cho họ được vững

chắc như cái cột chính trong nhà, là chỗ dựa của cả gia đình. Người Mông ở khắp các

xã trong huyên Pẹc đều ăn tết rất dài ngày, họ ăn uống luân phiên ở các gia đình. Họ

ăn uống, chúc tụng và cùng chuyện cả ngày, nhiều khi còn kéo dài tân đêm khuya để

rồi sáng lại cùng nhau sang nhà khác, cứ như thế cho đến hết tết.

Tết cổ truyền của người Mông thực sự là ngày hội, là dịp để mọi người nghỉ

ngơi và làm tròn bổn phận của mình với tổ tiên, đồng tộc, gia đình. Mỗi bản thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

có một nơi chơi tết và tổ chức các trò chời, ca múa. Nơi đó thường là chỗ đất bằng

phẳng và là khu đất tộng gần bản. Đồng bào sẽ tổ chức các trò chơi, giải trí mang

đậm truyền thông văn hóa: chọi gà, đấu vật, đánh quay, ném quả pao, múa khèn, hát

bài hát, máu, chọi trâu, chọi bò...Cuộc vui cứ kéo dài từ ngày này ngày khác cho đến

khi hết tết. Lứa tuổi háo hức và say mê với tết nhất vẫn là nam nữ thanh niên, những

người chưa vợ chưa chồng. Họ rủ nhau đi chơi trong bản, sang các bản khác, xã khác,

ra trung tâm huyện, thị xã. Người Mông luôn coi Tết là ngày hội của họ.

Trong một năm người Mông có 4 ngày tết to, nhỏ khác nhau. Ngày tết rất quan

trọng và không thể thiếu được của những gia đình người Mông dù nhà hay nghèo.

Bên cạnh những ngày tết, người Mông còn tổ chức một vài lễ hội. Lễ hội nào sống (lễ

ăn ước hay ăn hội) được tổ chức trong từng bản, vào đầu năm mới. Người Mông quan

niệm ngày thìn (ngày con rồng) là ngày tốt để thực hiện nghi lễ này. Vì vậy hàng

năm, vào ngày thìn, các bản đều tổ chức họp hội. Người tổ chức lễ nào sồng là trưởng

bản. Cũng có nơi, người tổ chức do từng hộ luôn phiên đảm nhiệm với nhiệm kì một

năm (từ ngày hội năm nay đến ngày hội năm sau). Những người được dự lễ hội là chủ

gia đình các hộ trong bản. Nếu chủ gia đình bị ốm hay yếu thì vợ và con trai sẽ được

đi thay. Lễ nào sống rất có ý nghĩa đối với người Mông. Các quy ước của bản đề ra

được coi là thước đo chuẩn mực đạo đức của mỗi thành viên, góp phần duy trì trật tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xã hội, cùng cố tính cố kết cộng đồng trong phạm vi một bản, dòng họ và gia đình.

Tiểu kết chương 3

Trải qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, người Mông ở huyện Pẹc tỉnh

Xiêng Khoảng đã xây dựng cho mình một đời sống văn hóa hết sức phong phú và đa

dạng. Bên cạnh lưu giữ phần lớn những nét cổ truyền, trong khoảng 10 năm gần đây

đã có những chuyển biến trong trong một số điểm sau:

Về nhà cửa, nếu như trước đây họ chỉ ở nhà đất, ngủ ngay trên đất, thì hiện

nay nhiều ngôi nhà truyền thống ở huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng với mái ngói, mái

tranh hình mu rùa không còn nữa. Mà thay vào đó là những ngôi nhà cao tầng mái

bằng hiện đại xây dựng bằng bê tông cốt thép. Xu thế ngói hóa biến đổi từ mái khum

thành mái phẳng, kiểu dáng vẫn là nhà đất truyền thống nhưng kết cấu đã thay đổi

nhiều. Cầu thang lên xuống bằng gỗ được thay bằng cầu thang bê tông chắc chắn.

Cuộc sống trong thời đại mới, đặc biệt là những vùng hẻo lánh, xa xôi như huyện Pẹc

đã có nhiều thay đổi. Rất nhiều gia đình người Mông đã bỏ kiểu nhà đất truyền thống

của dân tộc mình và chuyển sang ở nhà kiểu hiện đại gọi là nhà đất. Trong hoạt động

tín ngưỡng, việc chữa bệnh bằng phương thức cúng bái hầu như chỉ tồn tại ở vùng sâu

vùng xa của huyện. Hệ thống y tế đã phát triển đến tận các làng bản, kịp thời chữa

bệnh cho bà con trong làng bản. Đồng bào người Mông ngày càng tin tưởng hơn vào

y học và khi có bệnh họ thường đến bệnh viện để khám chữa. Việc thờ cúng có phần

mai một. Họ không còn thờ ma núi, ma rừng và các vị thần bản mệnh của làng bản.

Sự biến đổi này chứng tỏ xu thế quốc gia hóa, thậm chí quốc tế ḥóa mạnh mẽ

trong đời sống của đồng bào người Mông. Tuy nhiên, không vì thế mà người Mông

nơi đây làm mất đi nếp sống văn hóa cổ truyền của mình. Ngược lại, họ biết tiếp thu

cái mới để làm phong phú thêm truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc mình. Như

vậy, văn hóa của người Mông là sản phẩm của lịnh sử, có những yếu tổ rất tích cực

nhưng cũng có những yếu tố lạc hậu, do đó việc giữ gìn và kế thừa cấn có chọn lọc.

Kế thừa là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển văn hóa. Văn hóa dân tộc

Mông không dựa vào di sản văn hóa truyền thống, không bám sát vào đó thì không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thể phát triển được.

KẾT LUẬN

Thông qua nghiên cứu đề tài “Người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng

nước CHDCND Lào (1986 - 2016)” cho phép chúng tôi đi đến một số kết luận sau :

Thứ nhất, huyện Pẹc là một huyện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng (nước CHDCND

Lào), có nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn. Đây là huyện

có tỷ lệ người Mông cư trú đông nhất trong tỉnh Xiêng Khoảng. Người Mông đã có

nhiều đóng góp vào công việc xây dựng và phát triển tỉnh Xiêng Khoảng, nhất là góp

sức vào công việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thứ hai, trong hoạt động kinh tế của người Mông ở huyện Pẹc, nông nghiệp

trồng lúa nước và làm nương rẫy giữ vai trò chính. Trong đó, cây lúa là loại cây trồng

chủ đạo (nhất là lúa nếp). Bên cạnh đó còn các cây lương thực phụ khác là sắn, khoai,

ngô… Song song với trồng lúa, chăn nuôi, làm nghề thủ công, trao đổi hàng hóa, sắn

bắn, hái lượm cũng đóng một vai trò khá quan trọng nhằm đảm bảo đủ lương thực

trong cuộc sống hàng ngày của cộng đồng người Mông. Hiện nay, đời sống kinh tế

của người Mông có nhiều thay đổi. Họ đã biết vận dụng công nghệ hiện đại vào sản

xuất nông nghiệp, từ đó hiệu quả và chất lượng sản xuất nông nghiệp được tăng lên.

Hoạt động buôn bán, trao đổi cũng được mở rộng và phát triển hơn. Nhiều gia đình

người Mông có mặt buôn bán tại các chợ và trung tâm bán hàng của huyện và các

huyện khác trong tỉnh. Họ không chỉ buôn bán những sản phẩm mà họ sản xuất được

mà c ̣òn buôn bán những mặt hàng nhập khẩu từ các nước láng giềng, nhất là hàng tạp

hóa, đồ xây dựng, trang phục, đồ trang sức, hàng điện tử, đồ dùng văn phòng…Nhìn

chung, cuộc sống kinh tế của người Mông đã có sự chuyển biến. Tuy nhiên, kinh tế tự

cung tự cấp vẫn là nét chủ đạo trong đời sống kinh tế của người Mông nơi đây.

Thứ ba, bức tranh văn hóa của người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng

mang tính đa dạng và phong phú. Điều đó được thể hiện rõ trong văn hóa vật chất ở

các phương diện ẩm thực, xây dựng nhà cửa, trong trang phục. Văn hóa tinh thần của

người Mông ở huyện Pẹc, tỉnh Xiêng Khoảng vô cùng phong phú. Nó được thể hiện

trong cuộc sống lao động và quá trình giao lưu giữa các dân tộc qua nhiều thế hệ khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhau từ khi hình thành cho đến nay. Việc tổ chức các nghi lễ trong vòng đời vẫn giữ

được bản sắc truyền thống của dân tộc, đặc biệt là lễ đám cưới, tang ma và sinh đẻ.

Nhưng hiện nay, các nghi lễ ngắn gọn hơn để tiết kiệm thời gian và chi phí.

Thứ tư, trong bối cảnh xã hội đang thay đổi từng ngày theo hướng phát triển,

đời sống kinh tế, văn hóa của người Mông ở huyện Pẹc cũng đang dần có sự chuyển

biến. Sự chuyển biến đổi này là chủ yếu là do nhân tố nội sinh nhằm phù hợp với

hoàn cảnh mới và do tác động của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa với dân tộc

khác. Những thay đổi này mang tính chất hai mặt.

Mặt tích cực của sự chuyển biến đổi trong kinh tế, văn hóa của người Mông có

thể nhận thấy thông qua việc tiếp nhận những nét văn hóa của các dân tộc khác.

Người Mông đã làm cho nền văn hóa của mình ngày càng đa dạng và phong phú hơn.

Sự giao lưu về kinh tế, văn hóa cũng tăng cường tính cố kết cộng đồng giữa các dân

tộc. Việc tiếp thu giá trị văn hóa của các dân tộc có trình độ phát triển cao hơn làm

cho văn hóa truyền thống của người Mông ngày càng bớt yếu tố lạc hậu và ngày càng

tiến bộ. Đó là những điều đáng khích lệ. Bên cạnh những biến đổi tích cực thì xu

hướng chuyển hóa làm mất dần những yếu tố truyền thống - giá trị bản sắc của mỗi

dân tộc cũng đang diễn ra ngày một nhanh hơn. Đặc biệt, văn hóa tinh thần của người

Mông ngày càng mất đi những bản sắc vốn có của nó. Bên cạnh sự mai một của yếu

tố văn hóa truyền thống, một bộ phận người Mông vẫn tồn tại một số hủ tục lạc hậu,

mê tín dị đoan. Những kiêng kị thiếu khoa học trong đời sống và sản xuất gây ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những hậu quả không nhỏ cho cuộc sống của đồng bào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía bắc) (1978) - Việt dân tộc học,

Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam (2010), Nxb giáo dục Việt Nam.

3. Cư Văn Hòa, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân

tộc Hà Nội.

4. Nguyễn Hoa Hậu (2010), Kinh tế - văn hóa người Mông ở huyện Nà Hang tỉnh

Tuyên Quang từ năm 1986 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử,

Thái Nguyên.

5. Phạm Quang Hoan (1985), Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia đình, Tạp

chí Dân tộc học, số 4.

6. Đặng Phương Kiệt (cb) (2006), Gia đình Việt Nam: Những giá trị truyền thống

và các vấn đề Tâm - Bệnh lý xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.

7. Lâm Nhân (2010), Hôn nhân và gia đình của người Chơ Ro ở Đồng Nai: Truyền

thống và biến đổi, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Hà Nội.

8. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (cb) (1998), Phát triển kinh tế - xã hội các vùng

dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

9. Phạm Minh Phúc (2005), « Tìm hiểu nguyên liệu đan lát của người Khơ Mú »,

Tạp chí Dân tộc học, số 1, trang 49 - 56.

10. Hoàng Phê (cb) (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

11. Lý Hành Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Quan hệ dân tộc vùng biên giới Việt -

Lào, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

12. Doãn Thanh (1967) Dân ca Mèo, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Toàn (2014), Định canh định cư và biển đổi kinh tế - xã hội của

người Khơ Mú và người Mông, Nxb Thế giới, Hà Nội.

14. Nguyễn Anh Tuấn (2005), “Định canh định cư và biến đổi kinh tế - xã hội của

người Khơ Mú và người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 3 - 2015.

15. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên (1972), Những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

17. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc),

Nxb KHXH, Hà Nội.

Tài Liệu Tiếng Lào

18. Báo cáo kết quả Sự điều tra dân số và nơi ở lần thứ V của phòng kế hoạch và đầu

tư tỉnh Luông Nặm Thà (2015).

19. Bài báo cáo thu nhập trồng trọt và chăn nuôi của Phòng nông nghiệp huyện Pẹc

tỉnh Xiengkhouang (2016).

20. Ban chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào (1995), Nghị quyết về

các dân tộc Lào hiện nay, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

21. Ban chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào (1995), Nghị quyết về

vấn đề tín ngưỡng tôn giáo của Lào, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

22. Bộ Giáo dục và thể thao Lào (2009), Sách giáo trình “Văn hóa xã hội Lào -

Asean”, Nxb Nhan Dan Pring House HCMC.

23. Bộ Giáo dục và thể thao Lào (2009), Giáo trình “Địa lý 4”, Pring House HCMC.

24. Kaysone PHOMVIHANE (1981), Phát huy truyền thống đoàn kết giữa các bộ

tộc trong cộng đồng dân tộc, Nxb Phủ thủ tướng Viêng Chăn.

25. Khampheng THIPMOUNTALY (2005), Quá trình sắp xếp các dân tộc ở nước

CHDCND Lào, Viện nghiên cứu dân tộc và tôn giáo Lào.

26. Maha SILAVILAVONG (1985), Lịch sử Lào, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

27. Sinxay KEOMANYVONG (2005), Các dân tộc ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân

dân Lào, Cục Dân tộc học.

28. Sisavat KHEOBOUNPHAN (2003), Gia đình văn hóa mới ở Lào, Nxb Quốc gia

Lào, Viêng Chăn.

29. Souksavang SIMANA (1984), Cuộc sống sinh hoạt của người Mông, Viện

nghiên cứu văn hóa Lào.

30. Viengmala VANGMUA (2009), “Dân tộc học”, Khoa học xã hội, Trường Đại

học quốc gia Lào.

31. Viện Dân tộc học Lào (1984), Lịch sử dân tộc Mông ở Lào, Tài liệu lưu trữ của

Viện Dân tộc học Lào, Viêng Chăn.

32. Viện Dân tộc học Lào (1990), Tình trạng dân tộc Mông, Nxb Thanh niên Lào,

Viêng Chăn.

33. Viện nghiên cứu dân tộc và tôn giáo Lào (2009), Tìm hiểu các dân tộc Lào, Nxb

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sibunhương, Viêng Chăn.

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bản đồ huyện Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Huyện Pech tỉnh Xiêng Khoảng

[Nguồn: Tác giả sưu tầm]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhà ở của người Mông ở Bản khang Khai, huyện Pach, tỉnh Xiêng Khoảng

[Nguồn: Tác giả chụp]

Bàn thờ cúng tổ tiên của người Mông - Bản Khang khay, huyện Pech,

tỉnh Xiêng Khoảng

[Nguồn: Tác giả chụp]

Nương rẫy của người Mông Vườn ngô của người Mông

[Nguồn: Tác giả chụp]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Gia súc, gia cầm của người Mông ở huyện Phech tỉnh Xiêng Khoảng

[Nguồn: Tác gia chụp]

Hoạt động trao đổi buôn bán của người Mông

[Nguồn: Tác giả chụp]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cửa hang của người Mông

[Nguồn: Tác gia chụp]

Đám cưới của người Mông

[Nguồn: Tác giả chụp]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đám ma của người Mông

[Nguồn: Tác giả chụp]

Lễ tết của người Mông

[Nguồn: Tác gia chụp]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn