ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐẶNG THỊ THÚY NHÀI

NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2009

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

MỤC LỤC

Ch ¬ng 1. Mét sè vÊn ®Ò lÝ luËn vµ thùc tiÔn vÒ nguån nh©n lùc cho c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n ........................... 7

1.1. Nguån nh©n lùc vµ ph¸t triÓn nguån nh©n lùc ..................................... 7

1.1.1. Nguån nh©n lùc....................................................................... 7

1.1.2. Ph¸t triÓn nguån nh©n lùc ..................................................... 15

1.2. C«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n vµ yªu

cÇu ®èi víi nguån nh©n lùc ............................................................... 19

1.2.1. §Æc ®iÓm c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp,

n«ng th«n .............................................................................. 19

1.2.2. Yªu cÇu cña c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp,

n«ng th«n ®èi víi nguån nh©n lùc ......................................... 24

1.3. C¸c yÕu tè ¶nh h ëng ®Õn viÖc ph¸t triÓn nguån nh©n lùc cho

c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n ..................... 27

1.3.1. Gi¸o dôc - ®µo t¹o ................................................................... 27

1.3.2. DÞch vô y tÕ, ch¨m sãc søc kháe ............................................. 28

th«n .............................................................................................................. 29

1.3.3. HÖ thèng chÝnh s¸ch ph¸t triÓn nguån nh©n lùc n«ng nghiÖp, n«ng

1.3.4. ThÞ tr êng lao ®éng n«ng th«n ....................................... 30

1.4. Kinh nghiÖm cña mét sè n íc vÒ ph¸t triÓn nguån nh©n lùc

trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ .......................... 32

1.4.1. Kinh nghiÖm cña mét sè n íc vÒ ph¸t triÓn nguån nh©n lùc cho qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n ................................................ 32

1.4.2. Bµi häc rót ra cho ViÖt Nam vÒ ph¸t triÓn nguån nh©n lùc cho qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n ........................................................ 34

4

hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, N«ng th«n vïng ®ång b»ng s«ng

hång ............................................................................................................... 36

Chương 2. Thùc tr¹ng nguån nh©n lùc Cho c«ng nghiÖp hãa,

2.1. Thùc tr¹ng nguån nh©n lùc vïng ®ång b»ng s«ng Hång sau h¬n

10 n¨m ®Èy m¹nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp,

n«ng th«n .......................................................................................... 36

2.1.1. Sè l îng vµ c¬ cÊu nguån nh©n lùc n«ng nghiÖp, n«ng

th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ........................................... 36

2.1.2. ChÊt l îng nguån nh©n lùc n«ng nghiÖp, n«ng th«n vïng

®ång b»ng s«ng Hång ........................................................... 39

2.1.3. T×nh h×nh sö dông nguån nh©n lùc n«ng nghiÖp, n«ng

th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ........................................... 46

2.2. §¸nh gi¸ chung vÒ kh¶ n¨ng ®¸p øng vµ nh÷ng tån t¹i cña nguån

nh©n lùc vïng ®ång b»ng s«ng Hång hiÖn nay cho qu¸ tr×nh

c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n cña vïng ...... 54

2.2.1. Kh¶ n¨ng cung øng hiÖn t¹i cña nguån nh©n lùc vïng

®ång b»ng s«ng Hång cho qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa,

hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n cña vïng...................... 54

2.2.2. Nh÷ng tån t¹i trong viÖc ph¸t triÓn nguån nh©n lùc vïng

®ång b»ng s«ng Hång trong nh÷ng n¨m qua ......................... 55

2.3. Nguyªn nh©n chñ yÕu dÉn ®Õn nh÷ng tån t¹i trong qu¸ tr×nh ph¸t

triÓn nguån nh©n lùc trong nh÷ng n¨m qua ë n«ng th«n ®ång b»ng

s«ng Hång ................................................................................................ 57

Hång...................................................................................... 57

2.3.1. Gi¸o dôc vµ ®µo t¹o nguån nh©n lùc n«ng th«n ®ång b»ng s«ng

2.3.2. §êi sèng kinh tÕ vµ c¸c dÞch vô ch¨m sãc søc kháe, v¨n

ho¸, tinh thÇn cña ng êi d©n n«ng th«n ................................. 65

2.3.3. §Çu t cña nhµ n íc, hÖ thèng chÝnh s¸ch ............................ 69

5

nh©n lùc cho c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp,

n«ng th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ........................................... 76

Chương 3. Ph ¬ng h íng vµ gi¶i ph¸p ph¸t triÓn nguån

3.1. Ph ¬ng h íng ph¸t triÓn nguån nh©n lùc cho c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ®Õn 2020 ................................................................................. 76

3.1.1. §Þnh h íng c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp,

n«ng th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ®Õn 2020 .................. 76

3.1.2. Ph ¬ng h íng ph¸t triÓn nguån nh©n lùc ®¸p øng yªu cÇu míi cña qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n ®Õn 2020 .................................................. 79

3.2. Mét sè gi¶i ph¸p c¬ b¶n ph¸t triÓn nguån nh©n lùc cho c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n vïng ®ång b»ng s«ng Hång ®Õn 2020 ................................................................................... 86

3.2.1. Ph¸t triÓn gi¸o dôc ®µo t¹o nãi chung vµ ®µo t¹o nghÒ

nãi riªng ............................................................................... 86

3.2.2. KiÓm so¸t tû lÖ t¨ng d©n sè vµ c¶i thiÖn ®êi sèng ng êi

lao ®éng ................................................................................ 93

3.2.3. Gia t¨ng tèc ®é gi¶i quyÕt viÖc lµm ....................................... 94

3.2.4. Thu hót vµ n©ng cao hiÖu qu¶ sö dông nh©n tµi ................... 104

KẾT LUẬN .................................................................................................... 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 110

3.2.5. C¸c chÝnh s¸ch vµ sù hç trî cña nhµ n íc ........................... 105

6

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn được đặt ở vị trí rất quan trọng.

Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã khẳng định: “Coi công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Tuy nhiên, sự nghiệp đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn chỉ có thể thành công khi chúng ra có được

nguồn nhân lực có chất lượng. Bởi vì, ngày nay lợi thế so sánh của sự phát triển

nhanh đang chuyển dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ

sang lợi thế về trình độ trí tuệ cao của con người. Nguồn nhân lực trở thành

nguồn tài sản quý giá, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển của mọi

quốc gia, vùng lãnh thổ. Điều này được minh chứng qua mô hình tăng trưởng

kinh tế của Nhật, Singapore và một số nước khác cũng như từ thực tế của Việt

Nam qua những năm đổi mới.

Đồng bằng sông Hồng là một trong hai đồng bằng lớn nhất nước, với 11

tỉnh và thành phố, bao gồm Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây,

Thành phố Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và Thành phố

Hải Phòng. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp truyền thống, có tiềm năng lớn để

phát triển một nền nông nghiệp, thuỷ sản hàng hoá đa dạng, năng suất, chất

lượng cao. Tuy nhiên ngoài số lượng, thì chất lượng nguồn nhân lực trong nông

nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Hồng đang ở trình độ thấp (về cả thể lực, trí

lực, tâm lực), chế độ quản lý và sử dụng còn tồn tại nhiều bất cập, chưa tương

xứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp của

1

vùng.

Để có thể thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn trong vùng cần có giải pháp thiết thực phát triển nguồn nhân

lực tương xứng. Với mong muốn góp tiếng nói vào quá trình tìm kiếm giải pháp

đó, đề tài “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng” đã được chọn làm đối tương nghiên cứu

trong luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề được nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm

nghiên cứu. Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu.

Các cuộc điều tra lao động việc làm hàng năm từ 1996 đến nay do Bộ Lao

động, Thương binh và Xã hội thực hiện là các cuộc điều tra toàn diện và có hệ

thống về lực lượng lao động, việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam. Các cuộc điều

tra này đã thu thập được nhiều thông tin cơ bản về lao động và việc làm trong

nông nghiệp, nông thôn nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng.

Nghiên cứu về nguồn nhân lực ở đồng bằng sông Hồng cũng được một số

tác giả chọn lựa làm đề tài luận án tiến sĩ. Ví dụ, Luận án tiến sĩ của Trần Văn

Luận (1995), nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng nguồn lao

động nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng trong nền kinh tế thị trường;

Luận án tiến sĩ của Trần Thị Tuyết (1996) nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu

lao động nông thôn nhằm tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng

đồng bằng sông Hồng”. Trong những công trình này các tác giả đã phân tích thực

trạng sử dụng nguồn nhân lực, các bước chuyển biến, xu thế vận động của nguồn

nhân lực nông thôn đồng bằng sông Hồng trong quá trình phát triển kinh tế thị

trường, chỉ ra những tồn tại của việc thu hút lao động trong nông nghiệp và đề

2

xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức nhân dụng ở đồng bằng sông Hồng.

Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Tiến (2004) nghiên cứu vấn đề chuyển

dịch cơ cấu lao động nông thôn đã chỉ ra những bất cập của nguồn nhân lực nông

thôn (chủ yếu về trình độ chuyên môn kĩ thuật) và đề xuất giải pháp tăng cường

xã hội hoá dạy nghề cho lao động nông thôn. Đề tài cấp bộ của Nguyễn Hữu

Dũng (2003) cũng bàn về sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, phân tích

mặt mạnh, yếu của lực lượng lao động nông thôn, của thị trường lao động nông

thôn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông

nghiệp, nông thôn đối với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn.

Gần đây là luận án tiến sĩ của Đào Quang Vinh với đề tài hết sức tổng

quát về sự phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn. Tác giả đã luận giải mối quan hệ, tác động qua lại giữa công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển nguồn nhân lực,

từ đó đưa ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp nông thôn đến 2010 và những năm tiếp theo. Các giải pháp

bao gồm:

(1) Xây dựng khung thể chế cho phát triển nguồn nhân lực;

(2) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo khu vực nông thôn;

(3) Nâng cao thể lực nguồn nhân lực nông thôn;

(4) Phát triển thị trường lao động nông thôn.

Có thể nói, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến

những khía cạnh khác nhau của vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và những công trình đó hoặc là xem xét một các tổng

quát vấn đề trên trong phạm vi cả nước hoặc ở những địa phương khác. Tuy

nhiên, những nội dung cụ thể của nguồn nhân lực và việc phát triển nguồn nhân

lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng

3

sông Hồng thì chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.

Đề tài luận văn sẽ tiếp thu và kế thừa những kết quả nghiên cứu của các

công trình trước đây, cố gắng hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó

đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong những

năm tới.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích nghiên cứu của luận văn:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng đồng bằng sông

Hồng.

* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

- Tổng quan những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực và chủ trương phát

triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

ở nước ta hiện nay.

- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong

nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu trong luận văn

* Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguồn nhân lực cho công nghiệp

4

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Hồng.

* Phạm vi nghiên cứu:

Nguồn nhân lực là phạm trù rất rộng, do khuôn khổ thời gian hạn hẹp,

luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực dưới góc độ hẹp tức là những

người trong độ tuổi lao động ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, không xét

đến trẻ em chưa đến tuổi lao động, người quá tuổi lao động vẫn tiếp tục làm

việc.

“Đồng bằng sông Hồng” được hiểu là 11 tỉnh theo phân vùng kinh tế của

Tổng cục Thống kê, trước khi điều chỉnh địa giới Hà Nội. Thời gian nghiên cứu

là từ 1996 đến 2020.

Yêu cầu đối với nguồn nhân lực từ phía công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn của vùng chủ yếu xét trên phương diện yêu cầu về trình

độ của dân cư ở nông thôn trong vùng để có thể đảm đương quá trình chuyển

nông nghiệp lên nền sản xuất hiện đại, phù hợp kinh tế thị trường. Nguồn nhân

lực được xem xét chủ yếu từ phía cung lao động cho phù hợp với cầu lao động

của thị trường lao động ở nông thôn.

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong các văn kiện, tài liệu của Đảng. Đồng thời, đề tài sử dụng có chọn lọc

các số liệu thống kê và một số thành tựu khoa học đã được công bố trong các

sách báo, tạp chí.

Ngoài phương pháp luận chung là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,

trong luận văn có sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh

và sử dụng các số liệu điều tra có sẵn.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn đã làm rõ hơn những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá,

5

hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đối với nguồn nhân lực.

- Luận văn đã phân tích thực trạng, chỉ ra được khả năng đáp ứng và những

tồn tại của nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cho quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của vùng.

- Luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực

cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian

tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương, 9 tiết:

Chƣơng 1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Chƣơng 2. Thực trạng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.

Chƣơng 3. Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

6

Hồng.

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC

CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực

1.1.1. Nguồn nhân lực

1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực

Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, nguồn nhân lực được hiểu và sử

dụng khá khác nhau. Theo quan điểm của Liên hợp quốc thì nguồn nhân lực là

tất cả những kiến thức, các kỹ năng, năng lực và sức sáng tạo có liên quan đến

sự phát triển của quốc gia. Ở đây, nguồn nhân lực được hiểu là tào bộ các yếu tố

liên quan đến con người được sử dụng vào quá trình phát triển.

Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí lực, kỹ

năng nghề nghiệp,... do các cá nhân sở hữu. Cách hiểu này bao hàm cả những

yếu tố liên quan đến con người không và chưa được sử dụng vào quá trình phát

triển của quốc gia.

Theo Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì nguồn

nhân lực là tổng thể năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy

động vào quá trình sản xuất. Với quan niệm này, nguồn nhân lực được quan

niệm khá hẹp.

Tiến sĩ Lê Thị Ngân cho rằng, nguồn nhân lực được quan niệm là tổng thể

sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận dụng cho quá trình sản xuất xã

hội...

Phân tích, sàng lọc kỹ các quan niệm khác nhau có thể thấy, khái niệm

nguồn nhân lực thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp.

Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là “số dân và chất lượng con

7

người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm

chất” [17, tr.328], là tổng thể tiềm năng của con người, của một quốc gia, vùng

lãnh thổ, địa phương hay một công ty có khả năng huy động được vào quá trình

phát triển kinh tế xã hội [12, tr.12].

Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là nguồn lao động, bao gồm những người

đủ 15 tuổi trở lên thực tế đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động

có khả năng lao động nhưng thất nghiệp (hai bộ phận này còn gọi là lực lượng

lao động), cộng với nguồn lao động dự trữ (những người đang được đào tạo

trong các trường Đại học, Cao đẳng, Dạy nghề, đang làm nội trợ trong gia đình,

những người hiện chưa có nhu cầu làm việc và những người khác…).

Bộ phận quan trọng nhất của nguồn nhân lực là lực lượng lao động, đó là

nguồn nhân lực thực tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội tại một giai

đoạn xác định. Ngoài lực lượng lao động còn có nguồn nhân lực dự trữ, tức là

nguồn nhân lực sẽ bổ sung thêm vào nguồn nhân lực thực tế sau một thời gian

nhất định (đối với người đi học), hoặc trong những điều kiện cụ thể (đối với

những bộ phận khác như: người làm nội trợ, những người khác…).

Như vậy, nói đến nguồn nhân lực là nói đến quy mô và chất lượng của

một đầu vào, của một loại nguồn lực - nguồn lực con người. Nguồn lực này, chỉ

khi nào được sử dụng và phát triển phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế mới trở

thành động lực của sự phát triển, thành nguồn vốn con người. Nói cách khác,

khái niệm nguồn nhân lực có liên quan đến các khía cạnh chính như dân số (tạo

ra số lượng), giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khoẻ (tạo ra chất lượng).

Khi đề cập đến nguồn nhân lực phải chú trọng cả hai phương diện số

lượng và chất lượng.

- Về số lượng: Nguồn nhân lực được được xem xét trên các khía cạnh:

quy mô, tốc độ tăng nguồn nhân lực, sự phân bố theo khu vực và theo lãnh thổ.

- Về chất lượng: Nguồn nhân lực được xem xét trên các khía cạnh: trí lực,

8

thể lực và nhân cách, thẩm mĩ của người lao động, trong đó, trí lực thể hiện ở

trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, là yếu tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên

tiềm năng sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn hoá tinh thần của con người. Chất

lượng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực.

Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ bắp,

mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt, là sức mạnh của niềm tin

và ý chí, là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết để duy

trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt

động thực tiễn, dể biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ

chỉ có thể phát huy được lợi thế khi thể lực của con người được phát triển. Nói

cách khác, “trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức

khoẻ là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó” [19, tr.16].

Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực không thể không xét đến yếu tố nhân

cách, thẩm mĩ, quan điểm sống. Đó là sự thể hiện nét văn hoá của người lao

động, được kết tinh từ một loạt các giá trị: đạo đức, tác phong, tính tự chủ và

năng động, kỉ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc, khả năng hợp tác,

làm việc theo nhóm, khả năng hội nhập với môi trường đa văn hoá, đa sắc tộc và

các tri thức khác về giá trị của cuộc sống. Trong mối quan hệ với các yếu tố

khác cấu thành nguồn nhân lực, trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đóng vai

trò quan trọng, vì nó đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt hơn các chức

năng xã hội và nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn.

Lẽ tất nhiên, như Hồ Chí Minh đã nói: “có đức mà không có tài, làm việc

gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bởi vậy, sẽ

không đầy đủ khi nói đến chất lượng nguồn nhân lực mà không đề cập đến sự

kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố thể lực, trí lực và tâm lực, vì nó là điều kiện tạo

nên sức mạnh trong mỗi con người, cộng đồng và cũng là để hướng người lao

9

động đến sự phát triển toàn diện.

Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung được phân bố và hoạt động

trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và cho nông nghiệp, nông thôn. Hơn nữa,

nguồn nhân lực này phải hỗ trợ và tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trên thực tế, có thể có một bộ phận nguồn nhân

lực nằm ngoài khu vực nông nghiệp, nông thôn nhưng có đóng góp tích cực cho

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như một số nhà khoa học,

nhà quản lý, nhà đầu tư. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi

không xét đến bộ phận nguồn nhân lực này mà chỉ giới hạn ở nguồn nhân lực

sống và hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.

1.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực ở nông thôn

So với người thành thị, người sống ở nông thôn mang một số đặc điểm

đặc thù vừa có tính văn hóa truyền thống, vừa phản ánh trình độ sản xuất và mức

sống thấp của đa phần dân cư ở đây. Cụ thể là:

- Nguồn nhân lực ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn nhân lực

của quốc gia nhưng thường là những người có trình độ văn hóa thấp, ít được

đào tạo nghề cơ bản. Hiện nay dân cư ở nông thôn vẫn chiếm trên 70% dân số

và hơn 50% lực lượng lao động ở nước ta. Với tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn còn cao

hơn ở thành thị trong nhiều năm tới, dân cư và lao động ở nông thôn vẫn tiếp tục

chiếm tỷ trọng lớn trong dân số và lao động cả nước.

Tuy đông về số lượng nhưng chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn mọi

vùng trong cả nước còn ở mức thấp xét cả về học vấn, trình độ đào tạo nghề lẫn

ý thức tổ chức, kỷ luật. Cuộc tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006

của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong nhiều năm, tỷ lệ lao động chưa qua đào

tạo và không có bằng/chứng chỉ chuyên môn ở nông thôn hầu như không thay

đổi, luôn ở mức 97,53%. Trong tổng số lao động, chỉ có 1,35% có trình độ sơ

10

cấp, công nhân kỹ thuật, 0,89% có trình độ trung cấp, 0,13% có trình độ cao

đẳng và 0,11% có trình độ đại học và trên đại học. Trình độ chuyên môn của

những người phụ trách các đơn vị nông, lâm, thuỷ sản (giám đốc doanh nghiệp,

chủ nhiệm hợp tác xã, chủ trang trại, chủ hộ) có khá hơn nhưng cũng còn rất hạn

chế với 95,3% chưa qua đào tạo và không có bằng/chứng chỉ chuyên môn, trong

đó 34,5% giám đốc doanh nghiệp, 37,9% chủ nhiệm hợp tác xã, 89,9% chủ

trang trại và 95,4% chủ hộ. Như vậy, phần lớn lao động trong nông, lâm nghiệp

và thuỷ sản là các lao động thủ công, theo kinh nghiệm. Đây là trở ngại lớn cho

việc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.

- Nguồn nhân lực ở nông thôn thường được sử dụng đa dạng ngành nghề

nhưng hiệu quả không cao, thu nhập đem lại thấp. Theo số liệu của Tổng điều

tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006 của Tổng cục Thống kê số người trong độ

tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp năm 2006: lao động chuyên

nông nghiệp chiếm 58,2%, lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm

27,6% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm

14,2%. Do tính chất đa dạng ngành nghề như vậy nên lao động nông nghiệp vừa

khó đào tạo, vừa rất thiếu kỹ năng lao động chuyên sâu thành thạo.

Tình trạng thiếu việc làm khá nghiêm trọng, hiện mới có 85% lao động có

việc làm, tỷ lệ thời gian chưa sử dụng là hơn 23% (tương đương 7 triệu người)

[46, tr.75-76]. Do áp lực việc làm và thu nhập nên lao động ở nông thôn thường

dễ chấp nhận làm các công việc đơn giản, thu nhập thấp, nhất là các công việc

có thể làm trong thời kỳ nông nhàn.

Mức thu nhập của lao động ở nông thôn thường thấp hơn lao động ở

thành thị ngoài nguyên nhân năng suất lao động của dân cư ở nông thôn thấp (sử

dụng công cụ thủ công, kỹ năng đơn giản, vận động bằng sức người là chính)

còn do ngành nông nghiệp có giá trị gia tăng thấp và thường chịu sức ép giảm

11

giá trên thị trường.

- Nguồn nhân lực ở nông thôn thường chịu ảnh hưởng của văn hóa làng,

xã, của các tập tục, thói quen sống vừa nặng tình nghĩa, lề thói, vừa bảo thủ, trì

trệ, ngại thay đổi, không quen với cường độ lao động và kỷ luật công nghiệp.

Mặc dù đã chuyển sang sản xuất hàng hóa và thực hiện công nghiệp hóa nông

nghiệp trong nhiều năm, nhưng xã hội nông thôn vẫn sống trong môi trường văn

hóa làng xã cũ. Nhiều thói quen sống cũ rất chậm được thay đổi như thói quen

an phận thủ thường, thói quen bình quân chủ nghĩa, không ưa người giàu có hơn

mình, nhưng lại sẵn sàng nhường cơm, xẻ áo cho người thua kém mình, thói

quen lao động tự do không theo quy trình công nghệ và thời gian chặt chẽ, hành

động cảm tính,... Những đặc tính này là nguyên nhân của các phong trào đua

nhau trồng hoặc nuôi một loại cây trồng nào đó dẫn đến mất cân đối cung cầu,

thua thiệt rồi lại đua nhau chặt bỏ của nông dân nước ta thời gian qua. Cũng vì

thói quen lao động tự do nên nhiều thanh niên nông thôn được chính quyền bố

trí việc làm trong các khu công nghiệp nhưng không trụ lại được.

- Mức độ biến động của nguồn nhân lực ở nông thôn khá cao. Do còn một

lượng lớn lao động và thời gian lao động chưa được sử dụng ở nông thôn, do

tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp nên hàng năm có số lượng lớn lao

động ở nông thôn di cư tạm thời ra thành phố kiếm việc làm tạm bợ. Khảo sát

của Tổng cục thống kê năm 2006 ở 8 xã thuộc ba vùng nông nghiệp trọng điểm

cho thấy, nhiều vùng nông thôn hầu như không còn lao động dưới 40 tuổi. Tình

trạng di cư tạm thời này gây ra nhiều hậu quả.

Thứ nhất, lao động còn lại ở nông thôn kém chất lượng cả về trí lực, thể

lực nên gây khó khăn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn.

Thứ hai, biến động dân số gây khó khăn cho quá trình quản lý và hỗ trợ

lao động ở nông thôn. Vì không có điều kiện và không có ý định trụ lại thành thị

nên bộ phận lao động nông thôn di cư này gây ra các biến động dân số theo chu

12

kỳ rất rõ ở cả nông thôn và thành thị và cản trở các nỗ lực xây dựng cơ sở sản

xuất ổn định cả ở nông thôn và thành thị. Hơn nữa, do không có kỹ năng lao

động cao nên bộ phận lao động di cư này biến động rất lớn, chỉ cần có sự chênh

lệch không đáng kể thu nhập giữa các lĩnh vực, ngành nghề hoặc lãnh thổ là họ

có thể di chuyển, gây ra tình trạng thừa thiếu lao động cục bộ.

Thứ ba, ảnh hưởng đến quá trình đưa nông nghiệp lên sản xuất ở quy mô

lớn. Người nông dân vào thành phố chỉ là sinh kế tạm bợ. Khi không còn có thể

bám víu vào thu nhập khác, đa phần bộ phận di cư này quay lại nghề nông.

Chính vì thế, người nông dân di cư tạm thời ra thành phố không có ý định

chuyển nhượng đất nông nghiệp cho người khác. Hậu quả là đất đai nông nghiệp

rất khó tích tụ.

Những đặc điểm nói trên cho thấy rằng, phát triển nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù riêng.

1.1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn

Nguồn nhân lực có vai trò quyết định đối với thành công của quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong bốn nguồn lực để

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tài nguyên, vốn, lao động và thể chế,

chính sách thì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, thể hiện qua các

khía cạnh sau:

- Dưới góc độ kinh tế, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ vốn nhân lực

bao gồm thể lực, trí lực và kĩ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu. Nghĩa

là, con người ở đây được xem xét như một nguồn vốn, thậm chí là nguồn vốn

quan trọng nhất cho sản xuất, có khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong

tương lai hoặc như là nguồn của cải có thể làm tăng sự phồn thịnh về kinh tế.

Nguồn vốn này là tập hợp những kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm, năng lực và

13

tính sáng tạo của con người có được thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức

khoẻ và kinh nghiệm tích luỹ được nhờ tham gia vào quá trình lao động sản

xuất.

- Nguồn nhân lực không chỉ là động lực, mục tiêu mà còn là yếu tố có ảnh

hưởng đến chính sách và thể chế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, dù là quá trình tiến hóa khách quan,

nhưng không mang mục đích tự thân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn là phương thức để cư dân ở nông thôn có cuộc sống tốt hơn,

để nông nghiệp có thể trụ vững trong điều kiện kinh tế thị trường. Do đó, kỹ

năng, ý chí của người lao động ở nông thôn sẽ quyết định tốc độ, quy mô và chất

lượng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

Người ta sẽ không thành công nếu chỉ đem máy móc, thiết bị hiện địa và giống

mới về sử dụng thành công ở nông thôn nếu như những người làm nông nghiệp

không muốn và không có kỹ năng, tri thức để sử dụng thành thạo các loại tư liệu

sản xuất đó.

Hơn nữa, nếu nông dân không có lợi thì họ cũng sẽ không ủng hộ quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì thế, các chương trình công nghiệp hóa

chỉ có giá trị khi làm cho cuộc sống của dân cư nông thôn được cải thiện.

Trong chế độ quản lý dân chủ, vì nhân dân của hệ thống chính trị xã hội

chủ nghĩa, các chính sách, thể chế liên quan đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn luôn phản ánh ý nguyên của dân cư nông thôn. Người

lao động cũng ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng hiệu quả vốn và tài nguyên. Vì

thế, nguồn nhân lực không những có vai trò của một yếu tố đầu vào cho quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà còn ảnh hưởng

sâu sắc đến các yếu tố còn lại.

- Nguồn nhân lực vừa có sức mạnh của yếu tố sản xuất, vừa có sức mạnh

của sự đổi mới, sáng tạo để công nghiệp hóa, hiện đại hóa có hiệu quả hơn.

14

Nguồn nhân lực, ngoài việc tham gia trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn tích cực tạo ra các tiền đề cho cong

nghiệp hóa như cải tiến kỹ thuật, lai tạo giống mới, xây dựng các hình thức tổ

chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả... Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, sự đóng

góp của tri thức đối với sản lượng đã vượt xa sự đóng góp của các yếu tố vật

chất và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Con người với những kiến thức có được

đã trở thành yếu tố cạnh tranh mũi nhọn của từng công ty, cộng đồng và quốc

gia. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới đã bước sang kỉ nguyên phát triển kinh tế

lấy tri thức làm động lực, vai trò của nguồn nhân lựu càng trở nên quan trọng

hơn bao giờ hết.

- Nguồn nhân lực là yếu tố có khả năng tái sinh mạnh mẽ. Khác với một

số loại tài nguyên thiên nhiên và vốn, nguồn nhân lực không bị hao mòn qua quá

trình thực hiện công nghiệp hóa. Người lao động này già đi có thế hệ khác thay

thé với kỹ năng và tri thức hoàn hảo hơn. Hơn nữa, một số thành quả do nguồn

nhân lực tạo ra có giá trị sử dụng vính hằng theo thời gian như tri thức khoa học,

phát minh, sáng chế... Vì thế, nếu biết đầu tư đúng mức cho nguồn nhân lực thì

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ đạt được thành

công mỹ mãn trong ngắn hạn mà còn tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn

phát triển bền vững. Đây là căn cứ để Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt

Nam lần thứ VIII xây dựng chính sách “lấy việc phát huy nguồn lực con người

làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.

1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực

1.1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực

Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta có những cách định nghĩa

khác nhau về khái niệm phát triển nguồn nhân lực.

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) cho

rằng phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn

15

luôn phù hợp với sự phát triển của đất nước. Cách hiểu nàylà gắn phát triển

nguồn nhân lực với phát triển sản xuất và chỉ giới hạn trong phạm vi phát triển

kĩ năng lao động và đáp ứng yêu cầu việc làm.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng phải hiểu phát triển nguồn nhân

lực theo nghĩa rộng hơn, không chỉ là sự lành nghề của dân cư hoặc bao gồm cả

vấn đề đào tạo nói chung (trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kĩ thuật) mà còn

là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có

được việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân

[12, tr.15]. Cách hiểu này ngoài khía cạnh kinh tế, còn nhấn mạnh khía cạnh xã

hội của phát triển nguồn nhân lực.

Theo quan điểm của UNDP, phát triển nguồn nhân lực chịu sự tác động

của 5 nhân tố: giáo dục - đào tạo, sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm

và sự giải phóng con người. Trong quá trình tác động đến sự phát triển nguồn

nhân lực, những nhân tố này luôn gắn bó, hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau; trong

đó, giáo dục - đào tạo là nhân tố nền tảng, là cơ sở của tất cả các nhân tố khác.

nhân tố sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con

người là những nhân tố thiết yếu, nhằm duy trì và đáp ứng sự phát triển bền

vững nguồn nhân lực. Nền sản xuất càng phát triển thì phần đóng góp của trí tuệ

thông qua giáo dục - đào tạo ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với sự đóng góp

của các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động.

Kế thừa những quan điểm trên, theo chúng tôi, dưới góc độ nghiên cứu

tổng thể, phát triển nguồn nhân lực là phát triển nguồn lực con người dưới dạng

tiềm năng thành “vốn con người, vốn nhân lực”. Xét ở góc độ cá nhân, đó là

nâng cao tri thức, sức khoẻ, kĩ năng thực hành để tăng năng suất lao động dẫn

đến tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Xét ở góc độ xã hội, là quá

trình tạo dựng một lực lượng lao động cả về số lượng, chất lượng và sử dụng

chúng có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc

16

gia, vùng lãnh thổ trong từng thời kì.

Do vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ là

quá trình tạo ra sự biến đổi số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cùng với việc

nâng cao hiệu quả sử dụng chúng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát

triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng.

Tất nhiên, cần phân biệt giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển con

người. Phát triển nguồn nhân lực là khái niệm hẹp hơn so với phát triển con

người. Phát triển nguồn nhân lực nhìn nhận dưới góc độ là yếu tố của sản xuất,

một nguồn lực của xã hội, mục đích là tăng sự đóng góp có hiệu quả của nó cho

quá trình tái sản xuất để phát triển kinh tế xã hội. Còn phát triển con người được

nhìn nhận dưới góc độ con người là một chủ thể tự nhiên và xã hội, vì thế, phát

triển con người là trung tâm của sự phát triển, mục đích là hướng tới sự phát

triển toàn diện của con người. Có nghĩa là phát triển con người không chỉ xem

xét dưới góc độ là nguồn lực đóng góp cho sự phát triển xã hội mà còn là sự

thoả mãn các nhu cầu để con người sớm có điều kiện phát triển toàn diện.

1.1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực

Từ khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trên đây thì

nội dung cơ bản của phát triển nguồn nhân lực bao gồm:

- Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng.

- Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

* Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng.

Nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ về mặt số lượng thể

hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi. Theo đó, nguồn nhân lực được

gọi là đông về số lượng khi quy mô dân số lớn, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động

cao. Tất nhiên, ở góc độ phát triển, chúng ta không thể không xét đến tỉ lệ gia

17

tăng dân số hàng năm. Nghĩa là về mặt số lượng, nguồn nhân lực chịu ảnh

hưởng trực tiếp của quy mô dân số tại thời điểm gốc và chính sách phát triển dân

số của các quốc gia và vùng lãnh thổ.

* Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.

Thực chất của phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng là sự phát triển

trên cả 3 mặt: trí lực, thể lực và tâm lực của người lao động.

Phát triển trí lực là phát triển năng lực trí tuệ. Đó là quá trình nâng cao

trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức sáng tạo và kĩ năng, kĩ xảo

của người lao động trong thực tiễn. Quá trình này chịu ảnh hưởng, tác động của

nhiều nhân tố, trong đó giáo dục - đào tạo giữ vai trò quyết định, vì nó trước hết

là sản phẩm của giáo dục - đào tạo. Do vậy, trong thời đại ngày nay, đồng thời

với việc xem con người là nguồn lực quan trọng nhất, thì giáo dục - đào tạo đều

được các quốc gia đặt ở vị trí số 1 trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

mình. Đây cũng chính là cơ sở để Nhà nước ta xác định: trong khi nguồn lực vật

chất và tài chính còn hạn hẹp thì cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục - đào

tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu.

Phát triển thể lực là gia tăng chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, sức mạnh và độ

dẻo dai của thần kinh, cơ bắp. Vấn đề này phụ thuộc vào một loạt các yếu tố:

điều kiện tự nhiên, giống nòi, thu nhập và cách thức phân bố chi tiêu, môi

trường và điều kiện làm việc, chế độ nghỉ ngơi, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ

cộng đồng (giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao…). Trong đó, ngoài yếu tố

giống nòi thì thu nhập và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ giữ một vai trò đặc biệt

quan trọng. Tất nhiên, những yếu tố này chỉ có thể được cải thiện trên cơ sở phát

triển kinh tế - xã hội.

Phát triển tâm lực là phát triển yếu tố văn hoá, tinh thần và quan điểm

sống như tính tích cực, dám nghĩ, dám làm, đạo đức, tác phong, lối sống, ý thức

tổ chức kỷ luật… trong mỗi con người lao động. Đó là quá trình nâng cao trình

18

độ nhận thức các giá trị cuộc sống, tinh thần trách nhiệm, khả năng hoà nhập với

cộng đồng, đấu tranh với các tệ nạn xã hội để xây dựng lối sống lành mạnh và

hình thành tác phong lao động công nghiệp. Thực chất là quá trình phát huy

những giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu những

tinh hoa văn hoá nhân loại. Đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển,

quá trình này chịu ảnh hưởng của các nhân tố: văn hoá và phong cách của người

sản xuất nhỏ, tiểu nông, hệ quả còn sót lại của cơ chế quản lý tập trung, đặc biệt

là mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập.

* Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực là nguồn tài sản - tài sản nhân lực. Do vậy, phát triển

nguồn nhân lực sẽ không được coi là toàn diện nếu không quan tâm nâng cao

hiệu quả sử dụng nguồn tài sản này.

Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực được đánh giá bằng mức độ toàn dụng

nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và thời gian được sử dụng. Do vậy,

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực đồng nhất với nâng cao hệ số sử dụng

số lượng nhân lực; nâng cao hiệu suất sử dụng nhân lực, hay giá trị tăng thêm

được tạo ra từ việc sử dụng nhân lực và nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao

động.

Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là một quá trình chịu ảnh

hưởng trực tiếp từ tình hình cung cầu trên thị trường lao động, chất lượng nguồn

nhân lực và chính sách lao động, việc làm, tiền lương của nhà nước. Cụ thể, đó là

tốc độ giải quyết việc làm và tình trạng thất nghiệp, chính sách thu hút, bố trí, sử

dụng và đặc biệt là chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Theo đó, hiệu quả sử

dụng nguồn nhân lực sẽ đồng biến với tốc độ giải quyết việc làm, nghịch biến với

tỉ lệ thất nghiệp và phụ thuộc vào chính sách thu hút, bố trí, sử dụng và chế độ đãi

ngộ. Nếu những chính sách này hợp lý sẽ kích thích được tinh thần làm việc, khả

19

năng sáng tạo của người lao động, trên cơ sở đó hiệu quả sẽ được nâng cao.

1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu

đối với nguồn nhân lực

1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn bao gồm 2 quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông thôn.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông

nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện đại. Quá trình này thực chất là:

đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất; đổi mới và hiện đại hoá quản lý sản

xuất kinh doanh; nâng cao chất lượng và hoàn thiện cơ cấu lực lượng lao động

ngành nông nghiệp. Đó cũng là quá trình làm thay đổi căn bản phương thức sản

xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất nhằm xây dựng một

nền nông nghiệp hàng hoá với kĩ thuật công nghệ tiên tiến, có sức cạnh tranh

cao và đảm bảo phát triển bền vững.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản

phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng

lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân, biến người nông dân truyền

thống thành người nông dân hiện đại, có tri thức, có kĩ thuật, có khả năng ứng

dụng khoa học công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn diễn ra

đồng thời với hai quá trình: thứ nhất, quá trình đô thị hoá làm thu hẹp nông thôn

do một phần lãnh thổ nông thôn chuyển thành đô thị; thứ hai, thay đổi bản thân

xã hội nông thôn trên nhiều phương diện khác nhau như phương thức sản xuất,

tổ chức dân cư, phương thức sinh hoạt văn hoá, xã hội, tổ chức cung cấp các

dịch vụ kinh tế và xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn sẽ làm thay

đổi cơ cấu nghề nghiệp, mà xu hướng cơ bản là chuyển một bộ phận lao động

20

nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông thôn sẽ làm thay đổi lề lối làm việc, nếp nghĩ, tư duy kinh tế và cách ứng

xử văn minh, hiện đại của người nông dân.

Tuy nhiên, do sự gắn kết chặt chẽ có tính hữu cơ của nông nghiệp và nông

thôn và do tầm quan trọng của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nước ta nên 2

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá này phải được tiến hành đồng thời và

thực tế là không thể tách rời nhau. Nông thôn là địa bàn của nông nghiệp, còn

nông nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng nhất, có vị trí hàng đầu trong các

hoạt động kinh tế ở nông thôn. Thực trạng hiện nay ở nước ta là kinh tế nông

thôn là nền kinh tế nông nghiệp và văn minh nông thôn là văn minh nông

nghiệp, văn minh lúa nước. Chính vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mang những đặc điểm sau:

Một là, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở đảm bảo an toàn

lương thực quốc gia. Trước hết, để chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp phải

hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn để có điều kiện ứng

dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh

tế cao, tính hàng hóa cao; chuyên canh để có nông sản hàng hóa nhiều về số

lượng, tốt về chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng

nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản, bao gồm cả lâm sản và thuỷ, hải

sản, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối

lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm quốc gia có

lợi thế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải hướng tới nâng tỷ trọng và tốc

độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn góp

phần phân công lại lao động ở nông thôn theo hướng giảm lao động thuần nông,

tăng lao động trong những ngành phi nông nghiệp trên cơ sở phát triển các

ngành nghề, làng truyền thống và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công

21

nghiệp chế biến, công nghiệp nông thôn sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất

khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,

công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất

và đời sống nhân dân v.v... Muốn vậy phải tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và

nông thôn, ưu đãi, khuyến khích mọi người dân, mọi thành phần kinh tế và đầu

tư nước ngoài phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn nhằm phát

triển kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập ở nông thôn. Xây dựng những khu công

nghiệp quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế - xã hội ở các vùng nông thôn . Trong

phát triển công nghiệp nông thôn thì phải đặc biệt chú ý phát triển công nghiệp

chế biến nông sản để đảm bảo tiêu thụ nông sản cho nông dân. Hiện nay, nhiều

cơ sở chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp, kể cả cơ sở quy mô lớn, thiết bị và

công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả thấp, chưa làm được vai trò là người bao mua

tin cậy của nông dân, chưa có cơ chế hợp lý để gắn lợi ích của các nhà máy chế

biến với lợi ích của nông dân, các hộ nông dân sản xuất nguyên liệu thường phải

chịu thiệt thòi, thậm chí thua lỗ. Vì vậy, việc ưu tiên đầu tư nâng cấp, mở rộng

các kho chứa, thiết bị phơi sấy, bảo quản sau thu hoạch, các cơ sở chế biến thuộc

các thành phần kinh tế trong nông nghiệp đi đôi với chấn chỉnh hoạt động theo

hướng gắn kết hài hòa hiệu quả của nhà máy với lợi ích của nông dân, phải được

coi là yêu cầu quan trọng để mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân

và nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu.

Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nông thôn theo sở trường, thế

mạnh về năng lực và bàn tay khéo léo của người Việt Nam, phù hợp với nhu cầu

thị trường. Công nghiệp và dịch vụ sẽ là những ngành kinh tế ngày càng chiếm

vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh tế nông thôn.

Hai là, về nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ: Trong nông nghiệp,

nông thôn, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ chính là việc thực

hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, tăng nhanh trang bị kỹ thuật, đổi mới

công nghệ sản xuất nông nghiệp và nông thôn, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật

22

tiên tiến cho nông dân. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và

sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp. Coi công nghệ sinh học và công

nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch nông - lâm - thủy, hải sản để nâng cao

giá trị và sức cạnh tranh của hàng nông sản là nội dung cốt lõi của công nghiệp

hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Lựa

chọn và nhanh chóng tiếp thu những công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý

tiên tiến ở những khâu, những ngành then chốt, có ý nghĩa quyết định và tác

động trực tiếp đến việc đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành

khác.

Ba là về phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Nét đặc trưng trong việc phát

triển cơ sở hạ tầng nông thôn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp nông thôn là phải ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi, phát triển

mạng lưới giao thông nông thôn, hệ thống điện, hệ thống thông tin tạo ra mối

liên hệ chặt chẽ giữa các vùng. Trong đó, phát triển hệ thống thuỷ lợi theo

hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng chống, hạn

chế và giảm nhẹ thiên tai. Áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới -

tiêu tiết kiệm nước trong việc xây dựng và quản lý công trình thuỷ lợi. Phát

triển các tổ chức hợp tác dùng nước và quản lý thuỷ nông của nông dân. Phát

triển mạnh mẽ mạng lưới giao thông theo phương châm “nhà nước và nhân dân

cùng làm” để phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn; nâng cấp các

tuyến đường đã có, từng bước cứng hoá mặt đường, xây dựng cầu, cống vĩnh

cửu và xoá bỏ "cầu khỉ", phục vụ cho vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân

dân. Phát triển hệ thống điện nhằm cung cấp có hiệu quả, chất lượng cao điện

cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn. Phát triển các dịch vụ bưu

chính, viễn thông và các điểm văn hoá đến tất cả các xã, phát triển hệ thống

thông tin nông nghiệp hiện đại; từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong

23

nông nghiệp và nông thôn.

Ngoài ra về cơ sở hạ tầng xã hội, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn cũng tập trung phát triển các yếu tố về giáo dục, y tế,

văn hoá… nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Tuy nhiên nét

đặc thù ở đây là: Trong văn hoá, đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, xã văn

hoá, phục hồi và phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình làng, nghĩa xóm,

sự giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng

cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hoá, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch

sử, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy

tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Phát triển công tác thông tin đại chúng và các

hoạt động văn hoá, khuyến khích, động viên những nhân tố mới, kịp thời phê

phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, bảo vệ

thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Về phát triển giáo dục, y tế đáng chú ý là phải

tăng cường về số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, y tế

phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân ở nông thôn. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện để

người nghèo ở nông thôn được học tập, có chính sách tuyển chọn người giỏi để

đào tạo cán bộ, công nhân phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn.

Từ những đặc điểm trên, có thể nói quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt

chẽ với nhau. Những thành tựu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn sẽ tạo ra những điều kiện vật chất quan trọng cho phát triển nguồn

nhân lực. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra những nhiệm vụ rất lớn đối với

việc phát triển nguồn nhân lực, đó là phải đáp ứng tốt hơn yêu cầu áp dụng và

sáng tạo khoa học công nghệ, áp dụng các phương pháp sản xuất mới, phương

pháp quản lý mới, tăng năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

nông thôn và trong nội bộ ngành nông nghiệp. Trong phát triển nguồn nhân lực

24

cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần tập trung tăng

cường đội ngũ lao động có chuyên môn kĩ thuật, đội ngũ doanh nhân, các nhà

quản lý, các nhà khoa học cả về kiến thức, kĩ năng, phong cách và thể lực.

1.2.2. Yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn đối với nguồn nhân lực

Muốn đưa sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến thắng lợi chúng

ta không chỉ dựa vào nguồn lực tự nhiên sẵn có mà phải dựa vào nguồn lực con

người và nguồn nhân lực này phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý

về cơ cấu.

a) Yêu cầu về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực

Sự phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng đặt ra yêu cầu

khách quan là phải thay thế lao động thủ công trình độ thấp bằng lao động kĩ

thuật trình độ cao. Do vậy, trong quá trình đó, một mặt lao động nông nghiệp,

nông thôn sẽ giảm dần về số lượng, nhưng chất lượng phải ngày càng được nâng

cao.

Các lí thuyết phát triển đã chỉ ra rằng, khi nền kinh tế còn kém phát triển,

nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng

cao trong tổng số lao động xã hội. Tuy nhiên, cùng với quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, nguồn nhân lực trong nông nghiệp, vận động theo hướng giảm

dần cả về tương đối và tuyệt đối. Quá trình đó diễn ra theo 2 giai đoạn:

Giai đoạn I: Khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá, nông nghiệp chuyển

sang sản xuất hàng hoá, năng suất lao động nông nghiệp có tăng lên, một số lao

động được giải phóng trở nên dư thừa và được các ngành khác thu hút, sử dụng

vào các hoạt động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Nhưng do tốc độ tăng thu

nhập của lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn hơn tốc độ thu hút lao

động dư thừa từ nông nghiệp, nên thời kì này lao động nông nghiệp mới giảm

25

tương đối, số lượng tuyệt đối còn tăng lên.

Giai đoạn II: Nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao hơn, năng suất lao

động nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao hơn,

số lao động dôi ra do nông nghiệp giải phóng đã được các ngành khác thu hút

hết. Lao động nông nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt đối.

Như vậy, nhìn chung, trình độ phát triển kinh tế càng cao, thể hiện trước

hết ở chỉ số GDP bình quân đầu người hàng năm càng cao thì tỷ trọng dân số

nông thôn và lao động nông nghiệp càng giảm.

Về cơ cấu nguồn nhân lực, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ diễn ra phù hợp với quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với quy luật này, trong những năm tới, quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi cơ cấu

nguồn nhân lực phải vận động theo hướng:

Thứ nhất, chuyển dịch lao động từ độc canh, thuần lúa sang lao động sản

xuất nông nghiệp hàng hoá đa dạng với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.

Hiện nay, mặc dù số lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp còn

lớn, nhưng để đáp ứng được yêu cầu mới của việc đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trong những năm tới, chất lượng đội ngũ

này phải được nâng lên một bước, số lao động qua đào tạo phải được tăng nhanh

cả về số lượng, tỷ trọng và chất lượng.

Thứ hai, chuyển dịch một bộ phận lao động từ thuần nông sang làm các

ngành nghề phi nông nghiệp - quá trình giải phóng lao động nông nghiệp.

Những năm gần đây, các ngành nghề sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp đã và

đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là khu vực ven đô, gần

các khu công nghiệp, khu chế xuất. Xu hướng chính của quá trình này là: khôi

phục các ngành nghề truyền thống, phát triển các ngành nghề mới, phát triển

thương mại, du lịch và các loại hình dịch vụ nông thôn, phát triển doanh nghiệp

26

vừa và nhỏ, mở rộng liên kết công nghiệp, dịch vụ với sản xuất nông nghiệp.

Thứ ba, chuyển dịch từ lao động thủ công, công nghệ, kĩ thuật lạc hậu,

năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, khả năng cạnh tranh thấp sang lao

động có hàm lượng trí tuệ cao với công nghệ, kĩ thuật hiện đại, tổ chức lao động

khoa học, có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cả về thể chất và tinh thần,

sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc, kỉ

luật lao động và sự hiểu biết về luật pháp trong điều kiện kinh tế thị trường phát

triển theo hướng toàn cầu hoá.

Những xu hướng vận động này về thực chất là quá trình đổi mới và hoàn

thiện cơ cấu chất lượng của nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

b) Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực

Hiện nay, trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng, cùng với việc

đáp ứng những yêu cầu về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực thì điều quan

trọng nhất hiện nay là cần phát triển nguồn lực con người Việt Nam tạo ra khả

năng lao động ở một trình độ mới, với chất lượng cao hơn nhiều so với trước

đây.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đặt ra

những yêu cầu cao đối với sự phát triển về chất lượng nguồn nhân lực trên cả ba

phương diện thể lực, trí lực và phẩm chất tâm lý xã hội.

Về mặt thể lực: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất tiên tiến, các thiết

bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng của

người lao động như:

+ Sức chịu đựng dẻo dai.

+ Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị

công nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế

27

giới.

+ Luôn luôn có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần, những điều này lại phụ

thuộc chủ yếu vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật công nghệ

càng tinh vi, đòi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; mặt khác giá trị của nhiều

loại sản phẩm rất lớn, chỉ một sơ suất nhỏ trong động tác lao động có thể gây tổn

thất to lớn.

Về mặt trí lực: một lực lượng lao động đông đảo có trình độ chuyên môn

kỹ thuật ngày càng cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành

công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Đi vào công nghiệp

hoá, hiện đại hoá thì không có lĩnh vực hoạt động nào lại không đòi hỏi người

lao động phải có trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật cao, nhất là lĩnh vực

công nghệ cao, công nghệ tin học, tự động hóa và công nghệ sinh học hiện đại.

Vì vậy, đòi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn nhân lực phải cao và phải được đào

tạo về chuyên môn kỹ thuật.

Về phẩm chất tâm lý xã hội: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất tâm lý sau: Có tác phong

công nghiệp (khẩn trương, đúng giờ giấc...); có ý thức kỷ luật tự giác cao; có

niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn; sáng tạo, năng động trong công việc; có

khả năng chuyển đổi công việc cao, thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực

công nghệ và quản lý.

Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

đòi hỏi người lao động phải được phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về

khả năng lao động, năng lực sáng tạo, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm. Đây

cũng chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

mà chúng ta đang tiến hành từng bước trong công cuộc đổi mới toàn diện đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho

28

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

1.3.1. Giáo dục - đào tạo

Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm

nâng cao kiến thức và kĩ năng của con người trong suốt cả cuộc đời.

Giáo dục phổ thông (giáo dục cơ bản) nhằm cung cấp những kiến thức cơ

bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học (đào tạo)

vừa giúp người học có kiến thức đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kĩ năng

và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người được đào tạo biết

được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì? Yêu cầu kĩ năng cũng như

chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào?

Vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

được phân tích qua các nội dung sau.

Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là

tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới

do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Thứ hai, giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kĩ năng

làm việc với năng suất cao là cơ sở thúc đẩy nhanh và bền vững quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu

“tỷ suất lợi nhuận cho giáo dục”. Về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư giáo

dục cũng giống lợi nhuận đầu tư vào bất kì dự án nào khác. Đó là tỷ lệ phần

trăm của lợi nhuận từ đầu tư ở một mức độ giáo dục nhất định so với tổng các

chi phí. So sánh chỉ số này giữa các cấp giáo dục có thể giúp cho việc đánh giá

lợi ích kinh tế của đầu tư giáo dục ở cấp học nào có hiệu quả hơn.

Thứ ba, giáo dục giúp cho việc cung cấp kiến thức và những thông tin để

con người, đặc biệt là phụ nữ, có thể sử dụng những công nghệ nhằm tăng cường

sức khoẻ, dinh dưỡng. Chẳng hạn sử dụng công nghệ dinh dưỡng và y tế nhằm

29

giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, tăng tỷ lệ trẻ em khẻ mạnh, nâng cao học vấn của cha

mẹ, đặc biệt của người mẹ, về thói quen sinh hoạt vệ sinh hơn hay biết cách sử

dụng những thức ăn giàu dinh dưỡng hơn… Với ý nghĩa trên giáo dục còn góp

phần vào việc bổ sung cho các dịch vụ y tế (giảm nhu cầu về những dịch vụ y tế).

1.3.2. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe

Sức khoẻ có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai.

Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp

bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao trong khi làm

việc.

Sức khoẻ của người lao động thông thường, được đánh giá ở thể lực

(chiều cao, cân nặng). Điều này lại phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng và chăm

sóc sức khoẻ.

Đối với người đang làm việc, thể lực và tuổi thọ của họ một mặt phụ

thuộc vào yếu tố dinh dưỡng song mặt khác còn phụ thuộc vào dịch vụ chăm sóc

sức khoẻ thường xuyên (đặc biệt đối với những ngành nghề độc hại) và chính

sách bảo hiểm y tế đối với người lao động.

Trên thực tế hầu hết các nước còn quan tâm đến chất lượng nguồn nhân

lực trong tương lai thể hiện ở việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ

em. Đây là cách thức để giúp cho thế hệ trẻ phát triển tốt thể lực, lành mạnh về

tinh thần và do đó cũng giúp trẻ có đủ năng lực để nhanh chóng tiếp thu kiến

thức, kĩ năng qua giáo dục ở nhà trường.

Như vậy có thể nói hoạt động giáo dục và hoạt động y tế, chăm sóc sức

khoẻ có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung nhau trong cải thiện chất lượng nguồn

nhân lực.

1.3.3. Hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn

Hệ thống các chính sách xã hội đúng đắn vì mục tiêu của con người là

động lực to lớn cho phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nguồn nhân lực trong

30

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Phương hướng lớn

của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công

bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt giữa tăng trưởng

kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp

ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể

và cộng đồng xã hội.

Có thể nói các chính sách của nhà nước có tác động quan trọng tới

việc phát triển nguồn nhân lực với một quy mô hợp lý và chất lượng ngày

càng nâng cao.

Một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nếu muốn thực hiện thành công quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có một quy mô dân số thích hợp với sự

phân bố dân cư hợp lý. Quy mô đó phải phù hợp với từng giai đoạn của tiến

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của vùng cũng như cả nước. Đó chính là

mục tiêu của chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.

Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội như: chính sách giáo dục

và đào tạo, y tế, chính sách sử dụng, tuyển dụng lao động, chính sách tiền

lương, bảo hiểm xã hội... có tác động rất lớn đến việc nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực. Vì các chính sách này đã tạo ra môi trường pháp lý cho

quá trình hình thành và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Các

chính sách của nhà nước phù hợp với từng giai đoạn của quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm quá trình này

cũng như kìm hãm việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, hệ thống các chính sách của quốc gia phải theo hướng

mở, thúc đẩy, kích thích người lao động, doanh nghiệp, nhà nước và toàn

31

xã hội chăm lo đến chất lượng lao động. Có như vậy người lao động mới

phát huy được khả năng trí tuệ của bản thân để đóng góp cho xã hội và qua

đó chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia sẽ được nâng cao.

1.3.4. Thị trường lao động nông thôn

Thị trường nói chung và thị trường lao động nói riêng là nơi phát ra

những tín hiệu về cung, cầu, giá cả của hàng hoá. Nhu cầu lớn, đa dạng, có chất

lượng (thậm chí chất lượng cao và rất cao) của thị trường đối với yếu tố lao

động thường xuyên tác động đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.

Như chúng ta đều biết thị trường lao động ra đời gắn liền với sự ra đời và

vận động của một loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động. Các yếu tố cơ

bản trên thị trường lao động trước hết và quan trọng hơn hết là hàng hóa sức lao

động, là cung cầu, giá cả sức lao động.

Nguồn cung và cầu về sức lao động thực chất là cung và cầu về nguồn

nhân lực được hình thành từ các yếu tố khác nhau. Nguồn cung về nhân lực được

hình thành từ các cơ sở đào tạo như các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các

cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung còn được thể hiện từ những người đang tìm việc

làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc nguồn cung còn được thể hiện từ

nguồn lao động nhập khẩu. Một nguồn cung khác được bổ sung thường xuyên từ

những người đến độ tuổi lao động.

Nguồn cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ

chức hoặc từ nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài. Sự tác động qua lại

của cung cầu hình thành nên giá cả sức lao động, khoản thù lao mà người lao

động nhận được phản ánh trạng thái cân bằng trên thị trường sức lao động.

Do vậy, sự phát triển của thị trường lao động nông thôn về quy mô,

phương thức hoạt động và cơ cấu cung cầu sẽ là định hướng tích cực cho việc

chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề và giữa các vùng, nâng cao

32

hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

Hơn nữa những đòi hỏi của thị trường lao động còn là nhân tố quan trọng

tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng. Nguồn nhân lực

lạc hậu, không nắm bắt được công nghệ mới, năng suất lao động thấp, không

được học tập văn hoá, không được đào tạo về chuyên môn, kĩ thuật... sẽ khó gia

nhập thị trường, đặc biệt là các thị trường kén chọn chất lượng nguồn nhân lực

(khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao...).

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Phát triển thị trường

sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy

tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính

sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn.

Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề,

lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao

động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy công quyền” [16, tr.82].

Như vậy, phát triển nguồn nhân lực chịu sự tác động mạnh mẽ của nhiều

yếu tố diễn ra đồng thời trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung

và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Từng yếu tố

có sức tác động riêng, mặt khác, chúng có liên quan chặt chẽ với nhau.

1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc về phát triển nguồn nhân lực

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục tình trạng tụt hậu xa hơn nữa về kinh

tế là vấn đề hết sức cần thiết. Để làm tốt điều đó, cần nghiên cứu và tham khảo

kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của các quốc gia đi trước, nhất là các

quốc gia trong khu vực ASEAN vốn có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.

1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nguồn nhân lực

33

cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy để tăng trưởng kinh tế cần có sự đồng

bộ trong tiến trình phát triển, sự đồng bộ trong các yếu tố, các bộ phận cấu thành

lực lượng sản xuất, trong đó nhân tố quan trọng là nguồn nhân lực: “không một

chính sách công nghệ nào có thể mang lại kết quả nếu không có chuyên gia làm

chủ và áp dụng kỹ thuật mới” [29, tr.78].

Chính vì lẽ đó trong xây dựng và phát triển kinh tế việc đào tạo xây dựng

và phát triển nguồn nhân lực phải đi trước một bước. Sự thiếu hụt trong lĩnh vực

đào tạo nhất là đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật ắt hẳn sẽ không tiến

kịp theo đà phát triển kinh tế. Ngay trong đào tạo theo quan điểm của họ tùy

từng giai đoạn phát triển khác nhau trong giai đoạn đầu cần phải chú trọng giảng

dạy các kiến thức khoa học ứng dụng nhiều hơn các kiến thức khoa học cơ bản.

Ở Đài Loan, cấp tiểu học có tỷ lệ đến trường là 100%, trung học là 94%,

đại học cao đẳng là 32%. Hàn Quốc đứng đầu về tỷ lệ dân số đăng ký học các

môn khoa học cơ bản, khoa học tự nhiên và kỹ thuật.

Ở Malaysia tiến trình công nghiệp hóa đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế

nhanh. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải phát triển tương ứng

nhưng trong thực tiễn ở nước này đã không giải quyết được, vì vậy một loạt vấn đề

đặt ra cần phải giải quyết về đào tạo nguồn nhân lực phát triển tương ứng [29,

tr.79].

Họ cho rằng sự thiếu hụt nhân công có trình độ cao là do hệ thống giáo dục

kém, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao là do giáo dục bậc đại học. Ở

Malaysia tỷ lệ bậc trung học là 72% so với bậc học phổ thông thì tỷ lệ nhập học bậc

đại học chỉ còn 10% tính cả số sinh viên đang được đào tạo ở nước ngoài. Không

chỉ tình trạng thiếu nguồn nhân lực có trình độ do lĩnh vực giáo dục đào tạo, mà cơ

cấu ngành nghề được đào tạo đảm bảo cân đối cho sự phát triển kinh tế cũng là

kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ

34

chuyên môn kỹ thuật.

Ở Thái Lan văn học và sư phạm thu hút gần 2/3 số sinh viên; luật 24%, trong

khi các ngành có nhu cầu khá nhiều như: chế tạo, cơ khí, nông học thì chỉ có

khoảng 2 - 2,3% số sinh viên theo học. ở Malaysia, tỷ lệ giữa sinh viên khối văn và

sinh viên các khối khoa học khác cân đối ổn định khoảng 47%. Ngược lại với trình

độ “chứng chỉ” ưu thế nghiêng hẳn về các môn khoa học và kỹ thuật là (15-85)

trước đây và 40 - 60 trong các kế hoạch gần đây” [29, tr.79-80].

Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản cho thấy đây là một

nước có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực vững chắc có tác động quan trọng

đến quá trình tạo dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nhật Bản là nước đứng

đầu thế giới trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực từ xa thông qua quá trình giáo

dục từ tiền phổ thông cho đến khi thạo nghề làm ra sản phẩm. Cách giáo dục của

họ đã tạo dựng được nguồn nhân lực cần cù, kiên trì, bền bỉ, kỷ luật lao động

nghiêm, trung thành tận tụy với công việc và gắn bó sống còn với tổ chức mà họ

đang làm việc. “Ngay từ những ngày đầu bước chân vào trường tiểu học, người

Nhật đã tạo cho trẻ thói quen kỹ thuật, tinh thần hợp tác trong sinh hoạt cũng như

trong lao động. Năm 1972, Nhật Bản thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc với khẩu

hiệu: “Văn minh và khai hóa, làm giàu và bảo vệ đất nước, học tập văn minh và

kỹ thuật Âu - Mỹ bảo trì truyền thống văn hóa đạo đức Nhật Bản” [29, tr.82].

Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản nhấn mạnh đào tạo

phát triển nguồn nhân lực. Thông thường hoạt động giáo dục đào tạo được chia

thành hai loại; đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài xí nghiệp. Trong đó dạng

đào tạo tại chỗ vừa học vừa làm giữ vai trò quan trọng nhất. Sở dĩ người Nhật

Bản chú ý loại hình này vì họ cho rằng đây là dạng đào tạo ít tốn kém, người lao

động học hỏi ngay trong quá trình làm việc, hơn nữa hoạt động đào tạo tại chỗ

có tính linh hoạt cao, có thể điều chỉnh những hoạt động để đáp ứng nhu cầu

thực tiễn, đặc điểm và năng lực của từng cá nhân. Hơn thế, đào tạo tại chỗ cho

phép tập trung sự chú ý trực tiếp vào việc phát triển các tri thức và kỹ năng cần

35

thiết ngay trong công việc thường ngày của đối tượng được đào tạo. “Nhật Bản

đã mở rộng chế độ giáo dục phổ cập không mất tiền từ 6 năm thành 9 năm trong

hệ thống giáo dục 12 năm… Các trường đại học kỹ thuật hệ 1 năm và 2 năm đào

tạo các kỹ sư thực hành rất được chú ý phát triển” [26, tr.387].

1.4.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực cho

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

Từ kinh nghiệm của các nước nêu trên có thể rút ra một số bài học bổ

ích sau đây cho Việt Nam:

Thứ nhất, đào tạo xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phải đi trước

một bước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn. Hàn Quốc, Đài Loan, những nước đã rất thành công

trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn do đã làm tốt khâu

chuẩn bị nhân lực này.

Thứ hai, coi trọng đào tạo nhân lực chát lượng cao là một trong những

yếu tố để nâng cao hiệu quả thực thi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn. Nhờ đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao mà Nhật

Bản và Hàn Quốc đã nâng cao được năng suất lao động nông nghiệp, áp dụng

nhiều thành tựu khoa học vào sản xuất nông nghiệp, nhất là cơ giới hóa và sinh

học hóa. Các thành tựu đó vừa giúp nâng cao thu nhập cho nông dân, vừa tạo

động lực công nghiệp hóa nhanh.

Thứ ba, trong đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn cần chú trọng cơ cấu cân đối giữa các ngành nghề, nhất

là cơ cấu đòa tạo nghề và đào tạo đại học, cơ cấu giữa các ngành kỹ thuật và

các ngành nhân văn… Malaysia, do không chú ý đúng mức đến cơ cấu đào tạo

nên đã gây ra tình trạng không tương hợp giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng.

Thứ tư, cần tận dụng mọi hình thức đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của

36

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhất là tăng cường đào

tạo tại chỗ, đào tạo theo chứng chỉ và đào tạo theo nhu cầu để cho những người

đang làm việc có thể bổ sung kiến thức và kỹ năng cần thiết.

Thứ năm, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo lao động nông

nghiệp theo một chiến lược dài hạn để không chỉ hỗ trợ thích đáng nông dân mà

còn tạo điều kiện co công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bền

37

vững. Nhật bản đã khá thành công trong lĩnh vực này.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

2.1. Thực trạng nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng sau hơn 10

năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

2.1.1. Số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn

vùng đồng bằng sông Hồng

Dân số và nguồn nhân lực là vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Sự

thay đổi của quy mô, tốc độ phát triển dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô

tốc độ phát triển của nguồn nhân lực. Tính đến năm 2007, quy mô dân số nông

thôn vùng đồng bằng sông Hồng khoảng gần 14 triệu người (chiếm 74,9% dân

số toàn vùng). Sau hơn 10 năm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc

độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ tỷ trọng dân số nông thôn của vùng có xu hướng

giảm nhưng với tốc độ rất chậm, bình quân hàng năm giảm 0,57%. Ngoại trừ 2

thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, cho đến năm 2007, các tỉnh còn lại của

vùng đồng bằng sông Hồng đều là các tỉnh có tỷ lệ dân số nông thôn chiếm từ

80% trở lên, đặc biệt là các tỉnh thuần nông như Thái Bình là 92,58%, Hà Nam

là 90,15% (Bảng 2.1.1).

Các số liệu sau cho thấy, nếu xét theo tỷ trọng dân số thì đến nay đối với

Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng, nông thôn vẫn là

khu vực có tiềm năng cung cấp nguồn lao động cho xã hội nhiều nhất, nhưng

38

đồng thời nó cũng rất có thể là khu vực có nguy cơ thiếu việc làm gay gắt nhất.

Bảng 2.1.1. Tỷ lệ dân số nông thôn Đồng bằng sông Hồng (1996 - 2007)

Đơn vị tính: %

1996 1998 2000 2002 2004 2006 2007

C¶ n íc 78,9 76,9 75,8 74,9 73,5 72,9 72,6

§BSH 82,7 80,5 79,8 78,8 75,5 75,4 74,9

Hµ Néi 46,1 42,9 42,1 41,3 35,1 34,8 33,7

VÜnh Phóc 92,1 90,2 89,3 88,8 86,1 85,6 82,8

B¾c Ninh 95,0 90,6 90,5 89,7 86,9 86,8 86,8

Hµ T©y 92,7 92,2 92,0 91,6 89,8 89,6 89,5

H¶i D ¬ng 91,0 86,3 85,9 85,2 84,5 84,4 84,4

H¶i Phßng 67,2 66,4 65,0 63,5 54,5 59,6 59,5

H ng Yªn 96,1 91,5 90,6 90,0 89,0 88,9 88,9

Th¸i B×nh 94,5 94,3 94,2 93,9 92,8 92,6 92,6

Hµ Nam 92,5 92,1 92,0 91,6 90,4 90,2 90,2

Nam §Þnh 87,9 87,7 87,3 86,8 84,5 83,9 83,8

Ninh B×nh 90,9 87,3 86,9 86,2 86,4 84,7 84,1

Nguån: Tæng côc thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª (1996-2007), Nxb.

Thèng kª, Hµ Néi.

Nhê thùc hiÖn cã hiÖu qu¶ chÝnh s¸ch d©n sè kÕ ho¹ch ho¸ gia ®×nh,

chÝnh s¸ch y tÕ, ch¨m sãc søc khoÎ nh©n d©n, møc sèng d©n c ® îc c¶i thiÖn vµ

tuæi thä kÐo dµi ®· dÉn ®Õn nh÷ng thay ®æi ®¸ng kÓ vÒ quy m« vµ c¬ cÊu d©n sè

n«ng th«n cña vïng, kÐo theo nh÷ng biÕn ®éng vÒ nguån lao ®éng vµ lùc l îng

lao ®éng. Tû träng d©n sè tõ 15 tuæi trë lªn ho¹t ®éng kinh tÕ trong d©n sè n«ng

th«n cña vïng t¨ng tõ 44,4% n¨m 1996 lªn 56,9% n¨m 2005. Do ®ã lùc l îng lao

®éng n«ng th«n cña vïng còng t¨ng lªn, vÒ quy m«, tõ n¨m 1996 ®Õn 2005 t¨ng

39

thªm gÇn 1.8 triÖu ng êi, b×nh qu©n mçi n¨m t¨ng thªm h¬n 200 ngh×n lao ®éng.

BiÓu ®å 2.1.1. D©n sè vµ nguån lao ®éng n«ng th«n ®ång b»ng s«ng Hång

1996 -2005 (ngh×n ng êi)

Nguồn: Điều tra lao động việc làm hàng năm 1996 - 2005, Nxb. Lao động - xã

hội, Hà Nội.

Tỷ lệ dân số tham gia lực lượng lao động của nông thôn đồng bằng sông

Hồng năm 1996 là 77,7%, năm 2005 là 74,4%. Như vậy, tỷ lệ dân số tham gia

lực lượng lao động của nông thôn đồng bằng sông Hồng trong những năm qua

có xu hướng giảm. Thực trạng này được lý giải bằng số người từ 15 tuổi trở lên

không tham gia hoạt động kinh tế vì lí do đang đi học có xu hướng ngày càng

tăng, năm 1996 chiếm 29,75%, đến năm 2005 con số này là 42,02%. Điều đó có

nghĩa là tiềm năng về lao động có trình độ văn hoá và chuyên môn kĩ thuật của

lao động nông thôn trong vùng sẽ ngày càng nâng cao. Đây là chuyển biến tích

40

cực trong cơ cấu lao động nông thôn của vùng.

2.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn vùng đồng

bằng sông Hồng

Nếu xét trên góc độ trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật và thể

lực của người lao động, có thể nói rằng vẫn còn khoảng cách khá xa về mặt chất

lượng lao động giữa nông thôn và thành thị. Khoảng cách này lớn hơn khi xem

xét ở các loại lao động có trình độ cao.

- Về trình độ học vấn.

Vùng nông thôn Đồng bằng sông Hồng là vùng có bước phát triển giáo

dục cao nhất của cả nước. Tỷ lệ không biết chữ của lực lượng lao động nông

thôn đồng bằng sông Hồng đã giảm dần qua các năm từ 1,79% năm 1996, đến

năm 2005 chỉ còn 0,66%. Đây là tỉ lệ thấp nhất trong nông thôn cả nước. Đặc

biệt, đến năm 2005, có tới 75,75% số người từ 15 tuổi trở lên có trình độ trung học

cơ sở hoặc trung học phổ thông, trong đó tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ

thông là 19,74%, mức cao nhất cả nước. Năm 2005, chỉ còn 5,44% số người từ 15

tuổi trở lên có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống, giảm đáng kể so với năm

1996 với tỷ lệ tương ứng là 11,43% (Bảng 2.1.2). Đây thực sự là một thế mạnh về

nguồn nhân lực của nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trái với vùng đồng bằng

sông Cửu Long, mặc dù cũng có nguồn nhân lực dồi dào nhưng trình độ văn hoá

của lực lượng lao động nông thôn vùng này lại thấp hơn nhiều.

Xét riêng các tỉnh, ở Hà Nội, tỷ lệ người chưa biết chữ chỉ chiếm 0,17%,

tập trung chủ yếu ở ngoại thành và người cao tuổi. Hà Nội là thành phố đầu tiên

trong cả nước hoàn thành phổ cập tiểu học, phổ cập trung học cơ sở, đang phấn

đấu tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Ở Bắc Ninh 99% số người lao động

biết chữ, trong đó có 40% đã tốt nghiệp trung học cơ sở và 13% tốt nghiệp trung

học phổ thông, bình quân có 2533 học sinh trên 1 vạn dân. Tỉnh Hà Nam có

99,8% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học, 90% trẻ em trong độ tuổi đi học

41

trung học. Người dân Hải Dương có trình độ dân trí và học vấn tương đối cao, tỷ

lệ người chưa biết chữ chỉ chiếm 4,97% dân số, số năm đi học trung bình của

dân cư là 6,9 năm. Ở Nam Định, 100% số xã có trường tiểu học và trung học cơ

sở, cứ 1 vạn dân có 2305 học sinh phổ thông và 76 giáo viên, số dân đi học tăng

gần 5%/năm. Tỉnh Ninh Bình số người biết đọc, biết viết trở lên đạt 92,07% dân

số, số người mù chữ chỉ còn 1,22%, số người có trình độ tốt nghiệp trung học cơ

sở trở lên chiếm 68,25% dân số hoạt động kinh tế. Tỉnh Hà Tây có số người

chưa học hết tiểu học (cao nhất trong vùng) cũng chỉ là 10,77%, tỷ lệ người mù

chữ là 2,22%... [17, tr.193-194].

Bảng 2.1.2. Cơ cấu lực lƣợng lao động theo trình độ học vấn ở thành thị

và nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng 1996 - 2005

1996

2002

2005

Thành

Nông

Thành

Nông

Thành

Nông

thị

thôn

thị

thôn

thị

thôn

Không biết chữ

0,53

1,79

0,17

0,80

0,29

0,66

Chưa tốt nghiệp

4,27

9,64

1,87

6,92

1,49

4,78

tiểu học

Tốt nghiệp tiểu học

8,65

19,48

9,92

22,39

8,00

18,81

Tốt nghiệp trung

36,61

56,05

29,52

53,26

28,66

56,01

học cơ sở

Tốt nghiệp trung

49,94

13,04

58,52

16,62

61,56

19,74

học phổ thông

Đơn vị tính: %

Nguồn: Điều tra lao động việc làm hàng năm 1996 - 2007, Nxb. Lao

động - xã hội, Hà Nội.

Tuy vậy, nếu so với khu vực thành thị của vùng thì trình độ học vấn của

lao động nông thôn còn thấp và còn khoảng cách khá xa, mặc dù khoảng cách này

42

đã từng bước được rút ngắn. Năm 1996 tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ

thông của khu vực nông thôn là 13,04% so với 49,94% của khu vực thành thị,

thấp hơn gần 4 lần. Đến năm 2005, khoảng cách vẫn còn là 3,11 lần. Điều này

cho thấy, nhìn chung trình độ học vấn của dân cư nông thôn đồng bằng sông

Hồng đang dần được nâng lên song điều kiện tiếp cận với giáo dục bậc cao - trung

học phổ thông còn hạn chế. Nguyên nhân là do ở nông thôn, nhiều bậc phụ huynh

cho rằng không cần học lên cao, chỉ cần biết chữ là đủ. Kết quả là, họ không quan

tâm tới việc nâng cao trình độ học vấn cho họ và con cái họ, vô hình tạo ra những

khó khăn lớn cho việc tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ, nhất là

trên lĩnh vực nông nghiệp.

- Về trình độ chuyên môn kĩ thuật.

Đại bộ phận lao động nông thôn chưa được qua đào tạo nghề, không có

chuyên môn kĩ thuật, đây là đặc điểm nổi bật nhất về chất lượng lao động của cả

nước, không ngoại trừ đồng bằng sông Hồng nói chung và khu vực nông thôn

của vùng nói riêng.

Cho đến năm 2005, lao động nông thôn không có chuyên môn kĩ thuật

vẫn còn chiếm tới 73,86%, mặc dù đã giảm đáng kể so với năm 1996 (90,46%)

và trong số 26,14% lao động có chuyên môn kĩ thuật thì chỉ có 2,98% là có trình

độ cao đẳng, đại học trở lên (Bảng 2.1.3). Ngoài Hà Nội và Hải Phòng là 2 thành

phố có trình độ chuyên môn kĩ thuật của lao động nông thôn cao hơn hẳn, còn lại

các địa phương khác số lao động đã qua đào tạo rất thấp. Những địa phương có tỷ

lệ lực lượng lao động chưa qua đào tạo lớn nhất là Vĩnh Phúc và Hải Dương với

tỷ lệ tương ứng năm 2005 là 83,71% và 80,36%. Sự thiếu vắng đội ngũ lao động

có chuyên môn kĩ thuật đã hạn chế khả năng tạo việc làm phi nông nghiệp và

chuyển đổi cơ cấu lao động, tiếp nhận khoa học công nghệ để công nghiệp hoá,

43

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Bảng 2.1.3. Cơ cấu lực lƣợng lao động nông thôn theo trình độ

chuyên môn kỹ thuật vùng đồng bằng sông Hồng 1996 - 2006

Đơn vị tính: %

1996 2002 2005 2006

100

100 90,46

88,23 3,23

6,31

4,74 5,49* 1,54** Tổng số Không có chuyên môn kỹ thuật Sơ cấp, học nghề Công nhân kỹ thuật không có bằng Công nhân kỹ thuật có bằng Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng, đại học 100 82,30 4,79 5,22 2,02 3,23 2,43 100 73,84 1,07 14,36 3,11 4,64 2,98

Nguồn: Điều tra lao động việc làm hàng năm 1996 - 2005, Nxb. Lao

động - xã hội, Hà Nội.

Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản 2006 (2007),

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

* Trung học chuyên nghiệp và cao đẳng

** Đại học

Trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông

thôn của vùng, số người có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên năm

2006 đã tăng gần gấp đôi so với năm 1996, từ 6,31% lên 11,77%. Tuy nhiên đây

vẫn còn là một tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu lực lượng lao động nông thôn của vùng.

Đặc biệt, số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên chỉ tăng từ 2,43%

năm 2002 lên 2,98% năm 2005, riêng trình độ đại học, năm 2006 mới chiếm

1,54%. Điều đó cho thấy, lực lượng lao động được đào tạo và đào tạo ở trình độ

cao ở khu vực nông thôn còn rất mỏng và chưa ngang tầm với sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

44

Có 3 lý do cơ bản của tình hình này:

Thứ nhất, tỷ lệ thi đỗ vào đại học, cao đẳng của học sinh nông thôn trong

vùng thấp hơn nhiều so với học sinh khu vực thành thị;

Thứ hai, đa số sinh viên (kể cả sinh viên xuất thân từ nông thôn) khi tốt

nghiệp đại học và cao đẳng vẫn cố gắng bám trụ và tìm việc làm ở khu vực

thành thị. Nguyên nhân ở đây là chênh lệch về tiền lương, mức sống giữa thành

thị và nông thôn, cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ đào tạo và cơ hội phát

triển nghề nghiệp trong môi trường đô thị tốt hơn so với nông thôn.

Thứ ba, thiếu một cơ chế phân cấp rõ ràng và hữu hiệu, đảm bảo xác định

đúng nhu cầu lao động theo các cấp trình độ xuất phát từ yêu cầu thực tế của cơ

sở và lập kế hoạch đào tạo trên cơ sở nguồn lực có được tại địa phương.

Ngoài ra, chất lượng đào tạo cũng còn nhiều bất cập, đang tồn tại một

thực tế là đa số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề

còn thiếu nhiều kỹ năng thực hành để có thể thực hiện công việc ngay sau khi

được tiếp nhận vào làm việc. Học sinh học nghề sau khi tốt nghiệp vẫn cần

doanh nghiệp bổ túc thêm một thời gian nhất định mới có thể làm việc với thiết

bị, máy móc đang sử dụng.

Tuy nhiên, so với các vùng nông thôn khác và nông thôn cả nước, tỷ lệ

lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của nông thôn vùng đồng

bằng sông Hồng đạt mức khá cao. Năm 2005, lao động qua đào tạo ở nông thôn

của vùng đạt tỷ lệ cao nhất cả nước: 26,16% (cả nước là 16,79%). Chất lượng

của lực lượng lao động vùng đồng bằng sông Hồng đang ngày càng được nâng

cao tạo ra tiềm năng và thế mạnh của vùng trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập.

Như vậy, tuy có khá hơn so với các vùng khác và so với cả nước nhưng so

với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn, lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn của vùng cả về số lượng và

45

chất lượng vẫn còn một khoảng cách khá xa.

- Tâm lực nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn.

Cùng với trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, các đặc điểm,

yếu tố về tâm lực như: lề lối, tác phong làm việc, hiểu biết và ý thức tuân thủ

pháp luật cũng là những khía cạnh quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực.

Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập, cạnh tranh ngày

càng khốc liệt không chỉ với các đối thủ trong nước mà còn với các đối thủ quốc

tế, thì yêu cầu về kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, hiểu biết luật pháp và

ý thức tuân thủ luật pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối với cá nhân, cộng đồng

và quốc gia.

Từ lâu đời, đồng bằng sông Hồng vốn là một vùng thuần nông, độc canh

cây lúa là chủ yếu với trình độ sản xuất lạc hậu. Đại bộ phận dân cư nông thôn

trong vùng chỉ thạo nghề nông với tính chất tự cung, tự cấp nặng nề, ít am hiểu

các lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Mặt khác, tính liên kết cộng đồng dòng

họ, láng giềng được hình thành từ lâu đời vừa thể hiện sự cố kết bền chặt, đoàn

kết gắn bó, tình làng nghĩa xóm giữa những cư dân của cộng đồng làng xã, vừa

là lực cản triệt tiêu hay hạn chế tính chủ động, sáng tạo của cá nhân, không

khuyến khích tìm tòi hướng phát triển mới, kìm hãm việc tìm nghề mới, nhất là

những nghề phi nông nghiệp.

Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng

“trọng nông ức thương”, coi thường buôn bán, sự giàu có và hướng về các giá trị

truyền thống trọng nông, ngại mọi sự đổi mới, cách tân. Vì vậy, khi thực hiện

chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm mạnh sản xuất thuần nông sang phát

triển các ngành nghề khác theo hướng công nghiệp hiện đại, phát triển dịch vụ,

mở rộng thị trường lưu thông hàng hoá, người nông dân trong vùng gặp rất

nhiều khó khăn, lúng túng và chậm chuyển đổi sang nghề mới.

Vận dụng những đặc điểm văn hoá và lối sống này trong phát triển nguồn

46

nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là phương pháp có sự tham gia,

hay các mô hình khuyến nông từ dân đến dân, thành lập các quỹ khuyến học

theo dòng họ, thôn, làng rất có hiệu quả. Ngoài ra, nhận thấy đặc điểm tâm lý

này của người nông dân, đòi hỏi phải có chiến lược và chính sách đào tạo bồi

dưỡng về kiến thức và ý thức chấp hành luật pháp, nhận thức về xã hội công dân

và ý thức công dân, ý chí vươn lên làm giàu và tính năng động xã hội cho người

nông dân.

- Thể lực nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn.

Dinh dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sức khoẻ. Một chế độ

dinh dưỡng hợp lý là rất cần thiết để duy trì sức khoẻ tốt và lâu dài cho con

người. Nhờ mức sống không ngừng được nâng cao trong thời gian qua, thực

hiện tốt các chương trình y tế quốc gia có mục tiêu như: Chương trình tiêm

chủng mở rộng, sốt rét, bướu cổ, bại liệt, lao, phong, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ

trẻ em, sức khoẻ sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng, chương trình nước sạch

nông thôn trong phạm vi cả nước. Nhờ đó đã mang lại những thành quả to lớn

cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, trong đó có sức khỏe của người dân

ở nông thôn. Trẻ em dưới 5 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng/tuổi năm 2001

là 30,3% (mức thấp thứ ba trong các vùng) đến năm 2004 giảm còn 24,6%, suy

dinh dưỡng chiều cao/tuổi năm 2001 là 31,6% (mức thấp thứ hai) đến 2004 giảm

còn 28,2%. Nhờ hệ thống y tế phổ cập, tuổi thọ trung bình của nhân dân cao hơn

khoảng 11 tuổi so với các vùng khác. Chiều cao trung bình của thanh niên độ

tuổi 18-22 là 163,3 cm (nam) và 152,2 cm (nữ).

Tuy nhiên, tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em còn nghiêm trọng, tình

trạng mắc các bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, viêm não vi rút, viêm gan…

tăng lên, giá thuốc cao trong khi đời sống nông dân còn thấp. Do điều kiện sống

của khu vực nông thôn còn nhiều khó khăn, dịch vụ chăm sóc y tế và dinh

dưỡng còn hạn chế nên khả năng về thể lực và sức khoẻ của người dân nông

47

thôn còn hạn chế. Theo điều tra mức sống năm 2006, đồng bằng sông Hồng có

đến 11,8% số phụ nữ và trẻ em bị ốm nặng, phải chăm sóc tại giường. Tỷ lệ suy

dinh dưỡng của người lớn khoảng 50% với nam và 30% với nữ.

Tóm lại, người dân nông thôn đồng bằng sông Hồng còn hạn chế về sức

bền, độ nhanh, chiều cao và cân nặng do chưa được hướng dẫn, chăm sóc rèn

luyện và bảo đảm dinh dưỡng ngay từ khi còn là thai nhi và mức sống thấp. Do

đó, phát triển nguồn nhân lực cần chú trọng công tác chăm sóc sức khoẻ và dinh

dưỡng nhằm nâng cao thể lực cho người dân.

2.1.3. Tình hình sử dụng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn vùng

đồng bằng sông Hồng

- Cơ cấu lao động việc làm

Đặc điểm nổi bật nhất là tỷ lệ lao động làm việc trong nông, lâm, ngư

nghiệp của vùng mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, đến năm 2006 vẫn

còn chiếm 60,42%, thấp hơn tỷ lệ trung bình của nông thôn cả nước (71,17%)

(bảng 4). Đồng bằng sông Hồng cũng là vùng nông thôn có tốc độ chuyển dịch

cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I nhanh nhất

nước (từ 1996 đến 2006 giảm 24,79% trong khi mức chung của nông thôn cả

nước là 11,24%. Đi đôi với quá trình này, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực II

và III của vùng tăng nhanh. Từ năm 1996 đến 2006, tỷ lệ lao động làm việc

trong khu vực II tăng thêm 14,77% và khu vực III tăng thêm 10,02%.

Bảng 2.1. 4. Cơ cấu lực lƣợng lao động có việc làm của nông thôn

Đồng bằng sông Hồng chia theo nhóm ngành kinh tế

1996 2002 2005 2006*

Cơ cấu (%) 100 100 100 100

Nông, lâm, ngư nghiệp (khu vực I) 85,21 69,27 64,15 60,42

48

Công nghiệp và xây dựng (khu vực II) 6,29 16,48 20,56 21,06

Dịch vụ (khu vực III) 8,5 14,25 15,29 18,52

Nguồn: Điều tra lao động việc làm hàng năm 1996 - 2005, Nxb. Lao

động - xã hội, Hà Nội.

Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản 2006 (2007),

49

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

* Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.

Điều đáng quan tâm là ở khu vực I của vùng không chỉ giảm về tỷ trọng

mà số lượng lao động làm việc trong khu vực này cũng đã giảm chứng tỏ nông

nghiệp không còn là khu vực tạo việc làm chủ yếu. Kết quả tổng điều tra nông

thôn, nông nghiệp, thuỷ sản 2006 cũng cho thấy nhiều hộ gia đình ở nông thôn

trong vùng đang chuyển sang làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp. Tỷ

trọng hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ 17,9% năm 2001 lên 33,4% năm

2006.

Tuy nhiên, khu vực I vẫn là khu vực chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất và

cũng là khu vực có số lao động chưa qua đào tạo nghề tập trung đông nhất. Có

một thực tế hiện nay là khi người nông dân bị thu hồi đất cho các khu công

nghiệp, mặc dù nhu cầu lao động ở những nơi này thường rất lớn nhưng hầu hết

số nông dân bị thu hồi đất lại không đáp ứng được những yêu cầu về trình độ

chuyên môn kĩ thuật. Tình trạng thiếu lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật

và thừa lao động không có kĩ năng nghề nghiệp đang trở thành vấn đề kinh tế xã

hội nóng bỏng hiện nay không chỉ của riêng vùng Đồng bằng sông Hồng.

Mặt khác, xét cơ cấu lao động trong nội bộ nhóm ngành: theo kết quả

tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản 2006, trong nhóm nông,

lâm, ngư, khoảng 96,96% số người làm việc trong nông nghiệp; ngư nghiệp

thu hút khoảng 2,94%, hiện đang có xu hướng tăng lên song rất chậm; lâm

nghiệp chỉ thu hút được một lượng rất nhỏ 0,1% và lại đang có xu hướng

giảm xuống. Trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng thì lao động trong

ngành công nghiệp chiếm phần lớn (72%). Trong ngành dịch vụ, riêng thương

nghiệp đã thu hút khoảng 55% số lao động. Riêng trong ngành nông nghiệp,

vẫn còn tới 52,76% lao động chuyên nông nghiệp, 20,96% lao động nông

nghiệp kiêm các ngμnh nghề khác và mới chỉ có 26,28% lao động các ngμnh

50

phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp.

Như vậy, có thể nói, đến nay cơ cấu lao động nông thôn vẫn còn lạc hậu

và quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp. Lao động chủ yếu

phân bố trong nhóm ngành nông, lâm, ngư, trong đó chủ yếu là trong nông

nghiệp và trong nông nghiệp là trồng trọt.

- Thị trường lao động nông thôn và tình hình sử dụng nguồn nhân lực

Đại đa số lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng làm việc trong khu

vực tự làm hoặc làm kinh tế gia đình, với những đặc trưng cơ bản là quy mô nhỏ

và manh mún. Đó là khu vực không có quan hệ lao động, sử dụng lao động

trong hộ gia đình là chính. Đến năm 2005, lao động làm việc trong khu vực này

vẫn chiếm 80% tổng số người có việc làm và trong tổng số 18,67% số người làm

công ăn lương thì có đến 67,8% là làm trong khu vực ngoài nhà nước, mà chủ

yếu là trong khu vực phi kết cấu, làm thuê cho các hộ gia đình. Do vậy, cầu lao

động nông thôn của vùng chủ yếu là cầu lao động làm thuê trong các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, làng nghề.

Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong thu hút lực

lượng lao động phi nông nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, “ly nông

bất ly hương”, tạo bộ mặt mới cho nông thôn của vùng bằng việc phát triển ngành

nghề mới. Từ khi luật doanh nghiệp 2000 được thực hiện, số lượng doanh nghiệp

đăng ký kinh doanh ở nông thôn của vùng tăng nhanh. Đến 2004, khu vực nông

thôn của vùng có 6089 doanh nghiệp với tổng số gần 200 nghìn lao động.

Bảng 2.1.5. Số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ vùng đồng bằng sông

Hồng phân theo quy mô lao động năm 2004*

Tổng

CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng

25,152 6098

Dưới 5 người 6,579 761

5-9 người 7092 1667

10-49 người 9388 2975

50-199 người 1937 652

200-299 người 156 43

Đơn vị: doanh nghiệp

51

Nguồn: www.agro.gov.vn/images/2007/12/SMEs-data_2004.xls

* Chỉ tính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: vốn đăng ký không quá 10 tỷ,

lao động không quá 300 người.

Tuy nhiên, qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy trong số các doanh

nghiệp vừa và nhỏ của vùng thì chủ yếu là các doanh nghiệp với quy mô lao

động dưới 50 người (88,6%). Đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lao động trên

200 người chỉ chiếm 0,7%. Điều đáng quan tâm hơn nữa là điều kiện làm việc

của người lao động. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là điều

kiện làm việc của người lao động chưa đảm bảo. Theo kết quả khảo sát của

phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại các doanh nghiệp vừa,

nhỏ và cực nhỏ cho thấy: có tới 70,2% không có các văn bản hợp đồng cho

người lao động; 83,7% không đóng bảo hiểm xã hội; 85,3% không đóng bảo

hiểm y tế; 80,1% không có quần áo bảo hộ lao động [38]. Trình độ kĩ thuật và

công nghệ ở các doanh nghiệp này nhìn chung thấp kém, máy móc cơ khí mới

được sử dụng khoảng 37% còn lại là làm bằng tay. Phần lớn các gia đình đều

sản xuất thủ công, sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất hoặc kho chứa hàng, môi

trường và an toàn vệ sinh lao động hầu như không được quan tâm.

Hiện nay, vùng đồng bằng sông Hồng có trên 900 làng nghề truyền thống;

trong đó, các tỉnh có nhiều làng nghề như: Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Vĩnh

Phúc, Thái Bình... Việc phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng bên cạnh những hiệu quả kinh tế còn giúp giải quyết việc làm tại chỗ, thu

hút một lượng lớn lao động dôi dư và lao động thời vụ thuộc nhiều lứa tuổi.

Chẳng hạn, các làng nghề Hà Tây thu hút được khoảng 127 nghìn lao động làm

các nghề tiểu thủ công nghiệp; Nam Định có 12 vạn lao động chuyên hoặc bán

chuyên ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất phi nông

nghiệp; ở Thái Bình các làng nghề cũng đã giải quyết việc làm cho hơn 200.000

người với mức thu nhập khá ổn định [21, tr.117-118].

Tại thời điểm 01/7/2006, Đồng bằng sông Hồng có 13863 trang trại,

52

chiếm 12,2% của cả nước, trong đó 7562 trang trại chăn nuôi, chiếm 54,6% của

vùng. Các trang trại của vùng đã sử dụng 40,42 nghìn lao động thường xuyên;

trong đó lao động của chủ hộ trang trại là 31,1 nghìn người, chiếm 76,9% tổng số

lao động, còn lại là lao động thuê mướn [1, tr.81- 87]. Do tính chất thời vụ của

sản xuất nông, lâm, thuỷ sản nên ngoài lao động thuê mướn thường xuyên, các

trang trại còn thuê mướn lao động thời vụ. Những trang trại trồng cây hàng năm,

cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng nhiều lao động thường xuyên nhất.

Tuy nhiên lao động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ

thông, chưa qua đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn

như làm đất, trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn...; có rất ít

lao động đảm nhiệm các khâu yêu cầu trình độ kĩ thuật như điều khiển máy móc,

chọn giống cây, con, kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, mua vật tư, bán sản phẩm...

Phần lớn lao động làng nghề trình độ học vấn hạn chế, không qua đào tạo cơ bản

và còn chưa tách khỏi nông nghiệp nên chậm tiếp thu công nghệ và hoạt động

theo tính thời vụ. Điều đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách đào tạo nguồn nhân lực

có trình độ chuyên môn kĩ thuật cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Phần lớn các trang trại, làng nghề phát triển còn mang tính tự phát và

phân tán, manh mún trong các hộ gia đình; thị trường tiêu thụ hạn hẹp và không

ổn định, độ rủi ro cao. Do vậy, nhiều trang trại, làng nghề trước những biến

động xấu về kinh tế xã hội trong và ngoài nước làm ăn sa sút và hệ luỵ là hàng

vạn lao động tại các cơ sở, sau một thời gian lại thất nghiệp hoặc quay trở lại lao

động thuần nông, làm tăng đội quân thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn

của vùng vốn đã chiếm tỷ lệ đáng kể.

Bảng 2.1.6. Tình trạng việc làm của số ngƣời từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng

Đơn vị tính: %

53

Đủ việc làm Thiếu việc làm Thất nghiệp 1996 97,68 1,87 0,45 2005 94,96 4,55 0,5 2008* 90,48 8,23 1,29

Nguồn: Tính toán theo: - Điều tra lao động - việc làm 1996 - 2005, Nxb. Lao

động - xã hội, Hà Nội và Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007,

* Tình trạng việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi.

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy đặc điểm nổi bật của tình trạng

việc làm trong nông thôn của vùng cũng như các vùng nông thôn khác là tỷ lệ

thất nghiệp thấp, song tỷ lệ thiếu việc làm lại cao. Điều này có nghĩa là: (1) Lao

động đang bị dồn nén trong nông thôn và nông nghiệp; (2) Tính chất thời vụ trong

sản xuất nông nghiệp còn chi phối mạnh tình hình việc làm trong nông thôn, trong

khi đó các hoạt động phi nông nghiệp vẫn còn kém phát triển để có thể cung cấp

việc làm khi nông nhàn; (3) Hệ thống phúc lợi ở nông thôn kém phát triển,

người lao động phải làm bất cứ việc gì để có thu nhập đảm bảo cuộc sống.

Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn của vùng thể hiện ở khả năng sử dụng

thời gian lao động. Với hơn 60% lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lại

vốn là vùng có bình quân diện tích đất nông nghiệp tính theo đầu người thấp nhất

cả nước, việc canh tác chủ yếu dựa vào lao động thủ công nên người lao động chưa

sử dụng hết thời gian và khả năng của mình. Việc sử dụng thời gian lao động của

họ còn rất lãng phí. Mặc dù tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn của vùng có

chuyển biến tiến bộ, nếu năm 1996 là 75,88%, tới năm 2004 tăng lên 80,21% và sơ

bộ năm 2006 là 80,65% thì sự lãng phí lao động vẫn là điều đáng lo ngại: tới gần

20% (bảng 2.1.6). Đây chính là tình trạng thất nghiệp trá hình trong nông nghiệp và

ở nông thôn nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho

năng suất lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa cao. Tình trạng đó vô

hình trung tự làm thất thoát một khối lượng sản phẩm không nhỏ, gây không ít khó

khăn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn của vùng, cũng như việc nâng cao hiệu

quả lao động và mức sống cho người nông dân. Mặt khác, tình trạng đó cũng là

54

nguyên nhân đồng thời là thủ phạm của không ít tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè,

nghiện hút... diễn ra ngay trên chính địa bàn nông thôn, trực tiếp cản trở bước tiến

của nông nghiệp, tạo chướng ngại không nhỏ trong tiến trình xây dựng nông thôn

55

mới của vùng.

Bảng 2.1.7. Tỷ lệ thời gian làm việc đƣợc sử dụng của lao động

trong độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng

Đơn vị tính: %

Sơ bộ 1996 1998 2000 2002 2004 2006

Cả nƣớc 72.28 71.13 74.16 75.42 79.10 81.79

Đồng bằng sông Hồng 75.88 72.51 75.53 76.08 80.21 80.65

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb.

Thống kê, Hà Nội.

Một vấn đề đáng quan tâm nữa là trong số những người không có việc

làm và thiếu việc làm ở nông thôn của vùng, thì đại bộ phận không có nghề,

không có vốn, chưa qua đào tạo, một số không có việc làm do không có ruộng

đất. Điều này cần được quan tâm trong các chương trình tạo việc làm.

Xét riêng việc sử dụng lao động trong nông nghiệp, do xu hướng chuyển

dịch lao động nông nghiệp sang các khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,

xây dựng và dịch vụ diễn ra chậm chạp; dịch vụ nông thôn bị thả lỏng, công

nghiệp nông thôn tự phát, quy mô nhỏ, làm cho tình trạng thừa lao động, thiếu

việc làm trong nông nghiệp trở nên phổ biến. Tình trạng nông dân bám đất, sản

xuất lương thực để tự sản tự tiêu vẫn phổ biến nên việc làm cho nông dân còn

khó khăn. Số ngày làm việc của lao động nông nghiệp vùng đồng bằng sông

Hồng chỉ đạt khoảng 100 ngày trong năm, thấp nhất so với các vùng khác của cả

nước. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm trong ngành trồng trọt càng

nghiêm trọng hơn. Số thời gian lao động thuần nông chỉ đạt 1/2 tổng quỹ thời

gian trong năm. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ở tỉnh

Vĩnh Phúc, hộ lao động thuần nông chỉ sử dụng tối đa 56,87% tổng quỹ thời

56

gian; ở Hà Tây là 50%. Đặc biệt, nếu chỉ chuyên trồng trọt, số giờ làm việc thực

tế chỉ đạt khoảng 630 giờ/4.800 giờ làm việc, tức là chỉ sử dụng hết 13,13% tổng

quỹ thời gian trong năm [23].

Trong nông thôn của vùng còn có một hiện tượng đáng quan tâm khác đó

là thị trường đổi công tương đối lớn. Tuy nhiên, thị trường đổi công chỉ sôi động

trong một vài khoảng thời gian nhất định của năm, đó là mùa gieo trồng và mùa

thu hoạch, trong khi các hộ cần thuê nhân công lại muốn thuê thường xuyên và

công việc họ thuê thường liên quan đến hoạt động phi nông nghiệp. Vì vậy,

những thay đổi từ công việc nông nghiệp sang phi nông nghiệp đang góp phần

nâng cao thời gian lao động được sử dụng của vùng.

Về sử dụng lao động được đào tạo, hiện tại đồng bằng sông Hồng cũng

đang nằm trong tình trạng chung của cả nước. Đó là lực lượng lao động đã qua

đào tạo không tìm được việc làm, không được bố trí đúng chuyên ngành đào tạo

hoặc trình độ đào tạo vẫn chiếm một tỷ lệ khá cao, chế độ sử dụng lao động

chưa gắn liền với việc nâng cao trình độ của người lao động đang là hiện tượng

phổ biến. Nó cũng cho thấy sự bất cập trong cơ cấu ngành nghề đào tạo so với

nhu cầu của xã hội. Điều này không những đã làm hạn chế khả năng phát huy

sáng tạo, kĩ năng nghề nghiệp và sự đóng góp của họ cho xã hội, mà còn gây

lãng phí trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của vùng.

Tất cả những phân tích trên cho thấy, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp thấp, nhưng

nguồn cung lao động hiện đã quá dư thừa trong khi sức hút lao động từ các

ngành nghề phi nông nghiệp còn hạn chế nên mức độ toàn dụng nguồn nhân lực

ở nông thôn đồng bằng sông Hồng còn hạn chế. Hơn nữa lực lượng lao động có

thể sẽ tăng thêm 200 nghìn lao động mỗi năm trong những năm tới càng làm mất

cân bằng giữa nguồn cung và cầu lao động, từ đó có thể dẫn tới gia tăng tỷ lệ

57

thất nghiệp và thiếu việc làm nếu không có biện pháp khắc phục.

2.2. Đánh giá chung về khả năng đáp ứng và những tồn tại của nguồn

nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cho quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng

2.2.1. Khả năng cung ứng hiện tại của nguồn nhân lực vùng đồng bằng

sông Hồng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn của vùng

Về số lƣợng, nông thôn đồng bằng sông Hồng có nguồn nhân lực dồi dào.

Đó là một lực lượng lao động gần 8 triệu người (chiếm gần 57% dân số nông

thôn của vùng) và tốc độ gia tăng hàng năm khá cao (trung bình mỗi năm có

thêm hơn 200 nghìn lao động).

Về chất lƣợng

Một là, trình độ học vấn của nguồn nhân lực nông thôn của vùng được

đánh giá khá cao và không ngừng được nâng lên với tỷ lệ lao động không biết

chữ thấp nhất và tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông cao nhất so với các vùng

nông thôn khác trong cả nước. Với mặt bằng dân trí và học vấn của người dân

nông thôn đồng bằng sông Hồng như vậy là tiền đề, điều kiện thuận lợi cho việc

thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng. Bởi

những người nông dân có trình độ học vấn tương đối cao, là điều kiện tốt cho

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào

sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là chúng

ta sẽ làm gì để phát huy điều kiện thuận lợi này vào sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng.

Hai là, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động vùng đồng

bằng sông Hồng ngày càng được nâng cao. Năm 2005, lao động qua đào tạo ở

nông thôn của vùng đạt tỷ lệ cao nhất cả nước: 26,16% ( cả nước là 16,79%).

Đây là dấu hiệu khởi đầu cho những chuyển biến về lao động có chuyên môn kĩ

58

thuật trong những năm tiếp theo.

Ba là, phần lớn người lao động có truyền thống yêu nước, có tư chất khá

thông minh, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với những thử thách

trong cuộc sống, có tinh thần đoàn kết, hợp tác. Đây là nhân tố nội lực quan

trọng có thể tạo ra sự thay đổi nhanh chóng chất lượng nguồn nhân lực khi được

đầu tư hợp lý.

2.2.2. Những tồn tại trong việc phát triển nguồn nhân lực vùng đồng

bằng sông Hồng trong những năm qua

Về số lƣợng: Mặc dù tỷ lệ dân số nông thôn trong tổng dân số của vùng

có giảm nhưng về quy mô mỗi năm vẫn tăng thêm khoảng 100 nghìn người. Do

vậy, đây vẫn là một trong những nguyên nhân dẫn đến sức ép về việc làm đối

với nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Về chất lƣợng

Nhìn chung nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông

Hồng còn yếu về thể lực và thấp về trình độ. Phần lớn lao động nông thôn chưa

qua đào tạo chuyên môn, lao động có chuyên môn kĩ thuật chỉ chiếm một tỷ lệ

nhỏ trong cơ cấu lao động nông thôn của vùng (11,77%) đặt ra yêu cầu cấp bách

phải có chiến lược đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt

là sự thiếu hụt đội ngũ lao động trình độ cao. Ngoài ra, chất lượng đào tạo vẫn

còn là một tồn tại lớn khi đa số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường lớp

thiếu kĩ năng thực hành đặc biệt là khả năng vận dụng thực tiễn. Do vậy, lực

lượng lao động nông thôn của vùng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường

việc làm và chưa đóng góp tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông

thôn.

Bên cạnh đó, do phần lớn lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng xuất

thân từ nông dân, làm nông nghiệp nên ít nhiều còn mang nặng tác phong của

nền kinh tế tiểu nông (tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi), đồng thời chưa trang bị

59

kiến thức, kĩ năng, tinh thần và thái độ làm việc của nền văn hoá công nghiệp.

Đó là kĩ năng làm việc theo nhóm, tinh thần hợp tác, khả năng phát huy sáng

kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc, tính tổ chức, kỉ luật tự giác cũng như

lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao.

Hơn nữa, do hệ quả của sự duy trì quá lâu cơ chế quản lý cũ mà hiện tượng bảo

thủ, trì trệ, ngại đổi mới, ít chịu khó suy nghĩ độc lập, thích làm theo hơn là sáng

tạo đã ăn sâu vào trong tiềm thức của một bộ phận không nhỏ người lao động.

Về hiệu quả sử dụng

Cơ cấu lao động - việc làm còn bất hợp lý khi mà tỷ lệ lao động nông,

lâm, ngư nghiệp vẫn chiếm trên 60%. Có thể xem đây là tồn tại lớn dẫn đến hiệu

quả thấp trong sử dụng nguồn nhân lực hiện nay và cũng là trở ngại hàng đầu

cho việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng.

Do phần lớn lao động nông thôn của vùng chưa qua đào tạo nên khả năng

cạnh tranh việc làm kém, năng suất lao động không cao, tiền lương thấp và thực

tế họ chỉ tham gia được vào thị trường lao động “tầng thấp”- thị trường lao động

không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, thị trường không chính thức, khu vực

phi kết cấu. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp thấp, mà lý do chính là kinh tế hộ gia đình

có sự chia việc giữa những người lao động trong gia đình nên tình trạng thiếu

việc làm còn rất nghiêm trọng với khoảng gần 20% thời gian lao động chưa

được sử dụng.

Thể chế thị trường lao động nông thôn kém phát triển. Hệ thống dịch vụ

việc làm chưa vươn tới khu vực nông thôn. Gia đình, bạn bè, người thân và hàng

xóm là nguồn cung cấp lao động chính. Do vậy phát triển thị trường lao động để

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết trong phát triển

nguồn nhân lực của vùng.

Tóm lại, có thể nói, tuy có khá hơn so với các vùng khác và so với cả

60

nước nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn thì nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn của vùng cả về số

lượng, chất lượng và hiệu quả sử dụng vẫn còn một khoảng cách khá xa.

2.3. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong quá trình phát

triển nguồn nhân lực trong những năm qua ở nông thôn đồng bằng sông

Hồng

2.3.1. Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực nông thôn đồng bằng sông Hồng

a) Giáo dục ở nông thôn đồng bằng sông Hồng

Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng có truyền thống hiếu học, dưới chế

độ mới truyền thống đó được khuyến khích, hệ thống giáo dục phổ thông mở ra

rộng khắp. Theo kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản 2006,

khu vực nông thôn của vùng có 99,41% số xã có trường mầm non, 100% số xã

có trường tiểu học, 99,14% số xã có trường trung học cơ sở, 11,71% số xã có

trường trường trung học phổ thông, 100% các huyện có từ 1 - 4 trường trung học

phổ thông. So với các vùng, miền khác trong cả nước thì hệ thống trường, lớp,

giáo viên và học sinh ở khu vực đồng bằng sông Hồng chiếm một tỷ lệ khá cao.

Không chỉ dừng lại ở số lượng, nếu nhìn một cách khái quát hệ thống giáo

dục hiện nay so với hệ thống giáo dục đã từng tồn tại trong lịch sử thì đã có

nhiều cải biến rõ rệt về chất lượng: hệ thống cơ sở vật chất các trường học ở

nông thôn của vùng không ngừng được nâng cao. Trên 90% số trường các cấp

đều được xây dựng kiên cố. Trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học được đầu

tư bổ sung, nâng cấp với những phương tiện hiện đại. Đội ngũ giáo viên được

tăng cường về số lượng, được nâng cao về trình độ và các chính sách ưu tiên cho

giáo viên được coi trọng, đặc biệt là ở vùng núi, vùng biển.

Ngoài các cơ sở trong hệ thống giáo dục chính thống còn xuất hiện nhiều

trung tâm học tập cộng đồng chủ yếu là ở các trung tâm xã, huyện nông thôn,

góp phần nâng cao dân trí và tìm việc làm cho người lao động. Đây chính là

61

nguyên nhân lý giải về sự phát triển vượt bậc của nông thôn đồng bằng sông

Hồng về giáo dục, trình độ dân trí và học vấn cao hơn so với các vùng nông thôn

khác trong cả nước, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong giáo dục ở nông thôn của vùng và cũng

là hạn chế chung của nền giáo dục cả nước là chất lượng giáo dục. Chất lượng

giáo dục do nhiều nguyên nhân, từ vai trò của người dạy, người học đến đến nội

dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học. Tuy nhiên, một

trong những nguyên nhân trực tiếp làm cho chất lượng giáo dục không cao, một

bộ phận không nhỏ người học sau khi ra trường thiếu năng động, sáng tạo chính

là phương pháp dạy và học mang tính thụ động theo kiểu “thầy đọc, trò viết”,

“thầy nói sao, trò nói vậy”. Mặt khác việc đào tạo sư phạm, bồi dưỡng giáo viên

vẫn còn những bất cập. Dù bảo đảm được số lượng giáo viên, nâng tỷ lệ chuẩn

hoá vượt bậc so với nhiều năm trước nhưng so với yêu cầu của nhà trường hiện

nay, giáo viên các môn năng khiếu và kỹ thuật, nhạc, hoạ, tin học… vẫn còn

thiếu. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học, kỹ

năng tổ chức học sinh học tập, nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học…

vẫn còn là những vấn đề giáo viên phải "tích cực phấn đấu".

Gánh nặng chi phí giáo dục đang đè nặng lên vai người dân nông thôn,

ngay cả khi được miễn, giảm học phí, nông dân không có đủ tiền để cho con em

đi học và học lên cấp cao hơn. Cộng với tâm lý, quan điểm của nhiều bậc phụ

huynh cho rằng không cần học lên cao, chỉ cần biết chữ là đủ. Kết quả là, họ

không quan tâm tới việc nâng cao trình độ học vấn cho họ và con cái họ dẫn đến

trẻ em bỏ học vì nhiều lý do. Trường hợp xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái

Bình là một ví dụ. Theo báo cáo của ban giám hiệu các trường thì từ năm học

1996 - 1997 đến nay, trường tiểu học không có học sinh bỏ học. Nhưng chỉ có

khoảng 83,7% học sinh tiểu học tiếp tục vào trung học cơ sở. Từ năm học 1996 -

1997 đến năm học 2002 - 2003, có 112 học sinh trung học cơ sở bỏ học. Theo

62

điều tra, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi 6 - 15 bỏ học giữa chừng là 8,5%, tập trung

chủ yếu ở lớp 8 và lớp 9. Các em bỏ học vì những nguyên nhân: lao động phụ

giúp gia đình 34,5%, học kém 17,2%, chán học 17,2% (vì nhiều lý do), điều

kiện gia đình khó khăn 10,3%... [20, tr.29-30].

Nhìn vào số liệu trên có thể thấy rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng học

sinh bỏ học chủ yếu lại là do giúp gia đình làm kinh tế. Những lợi ích kinh tế

trước mắt đã làm gia tăng tỷ lệ trẻ em bỏ học. Chi phí cho một trẻ đi học mất

14% thu nhập của gia đình nghèo nhất và 7% thu nhập của gia đình giàu. Đối với

các gia đình nông thôn, việc trang trải kinh phí cho con cái họ đi học quả là một

gánh nặng lớn. Và càng học cao thì các khoản chi phí ngày càng nhiều. Trong khi

đó, một đứa trẻ nghỉ học ở nhà vừa bớt được một khoản chi lại vừa có thể tăng

thêm thu nhập cho hộ gia đình nhờ lao động của chúng. Những địa phương mà

làng nghề phát triển thì tỷ lệ trẻ bỏ học ở nhà giúp gia đình làm kinh tế càng cao.

Do vậy để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn của vùng thì một nhiệm vụ cốt yếu là phải tiếp tục giữ vững và

phát triển mạnh mẽ hơn nữa giáo dục ở nông thôn, nhất là về mặt chất lượng. Và

vấn đề có ý nghĩa quyết định là chúng ta sẽ làm gì để huy động và sử dụng trình

độ học vấn, dân trí của người lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng vào sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở đây.

b) Đào tạo cao đẳng, đại học và dạy nghề

Việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cho khu vực nông

thôn của vùng được thực hiện thông qua hệ thống các cơ sở đào tạo của quốc gia

nằm trên địa bàn vùng đồng bằng sông Hồng. Hệ thống các trường cao đẳng, đại

học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở phía Bắc chủ yếu được đặt tại vùng

đồng bằng sông Hồng. Riêng cao đẳng, đại học, theo thống kê của bộ giáo dục

và đào tạo tính đến 10/8/2009 vùng đồng bằng sông Hồng hiện có 134 trường

(67 đại học, 67 cao đẳng) với 12340 giảng viên, mỗi năm đào tạo khoảng gần

63

450 nghìn sinh viên, các trường trung học chuyên nghiệp trong vùng mỗi năm

cũng đào tạo được khoảng 100 nghìn học sinh có tay nghề. Hệ thống các cơ sở

dạy nghề của vùng khá phát triển. Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề toàn

vùng có 70 trường dạy nghề, chiếm 30,5% tổng số trường nghề của cả nước. Hệ

thống các trung tâm dạy nghề đã phát triển mạnh, đặc biệt là các trung tâm dạy

nghề cấp huyện. Cùng với sự phát triển của hệ thống trường dạy nghề, trung tâm

dạy nghề, hệ thống các trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp có chức

năng và nhiệm vụ dạy nghề của vùng cũng phát triển, chiếm 33,6%, trong đó lại

tập trung lớn ở Hà Nội (ở Hà nội chiếm 16,0% so với cả nước).

Tuy nhiên vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của nông thôn đồng bằng sông

Hồng còn nhiều bất cập. Sự bất cập này thể hiện ở chỗ:

+ Cơ cấu đào tạo còn mất cân đối giữa các cấp đào tạo và ngành đào

tạo: Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu nguồn nhân

lực của vùng trong thời gian qua, song hiện tại vẫn chậm được khắc phục. Đó là

tình trạng mất cân đối trong quy mô đào tạo giữa bậc đại học, cao đẳng với trung

học chuyên nghiệp, và dạy nghề. Theo tiêu chuẩn của nhiều nước trong khu vực

và trên thế giới, cơ cấu nguồn nhân lực được coi là hợp lý khi nó thể hiện là một

cơ cấu hình tháp, nghĩa là: tỷ trọng công nhân kỹ thuật là lớn nhất, sau đó là tỷ

trọng những người có trình độ trung học chuyên nghiệp, và đỉnh tháp là những

người có trình độ cao đẳng, đại học. Theo tiêu chuẩn này, cơ cấu đào tạo của các

nước là 10 - 4 - 1, trong khi đó ở đồng bằng sông Hồng cơ cấu này là 6,22 - 1,56

- 1. Cơ cấu này của vùng tuy tiến bộ hơn so với các vùng nông thôn khác và so

với cả nước nhưng đây vẫn là một sự bất hợp lý thể hiện việc đào tạo thiên về

các bậc đại học và cao đẳng, không chú ý đến việc dạy nghề. Một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là hoạt động giáo dục hướng nghiệp để phân

luồng học sinh, sinh viên còn bị xem nhẹ. Đề tài khoa học cấp nhà nước KX-05-

09 mang tên "Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp - nền tảng để phát triển

nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá" đã tiến hành khảo sát học

64

sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh, cán bộ quản lý trên phạm vi 8 tỉnh, thành phố.

Kết quả khảo sát cho thấy có tới 85 - 90% học sinh trung học cơ sở (được điều

tra) muốn được tiếp tục học lên, chỉ có 6,1% số học sinh muốn được thôi học để

đi làm, kiếm tiền. Lẽ ra sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở phải có một bộ phận

đáng kể được chuẩn bị để sẵn sàng tham gia vào thị trường việc làm. Khó có thể

chấp nhận một tỷ lệ tới gần 90 % học sinh hết trung học cơ sở lại không sẵn

sàng tham gia vào thị trường việc làm, chỉ muốn học lên! Vì sao như vậy? Theo

số liệu đánh giá trên mẫu điều tra giáo viên thì có tới 70% học sinh tốt nghiệp

trung học phổ thông bước vào đời không được giáo dục hướng nghiệp đầy đủ.

Lý do: nhà trường thiếu cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động giáo dục hướng

nghiệp (84,3 %); thiếu sự hỗ trợ của địa phương và các tổ chức xã hội (58,6%);

đa số học sinh chưa có nhu cầu (55,1%). Đáng lưu ý là có tới gần 60% giáo viên

chưa coi trọng hoặc thiếu khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục hướng

nghiệp. Có 89% số giáo viên được khảo sát cũng thừa nhận trong nhà trường

phổ thông chưa quan tâm đến công tác hướng nghiệp, hoặc có hướng nghiệp

nhưng chưa chú ý phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hoặc có nghĩ

đến nhưng làm chưa hiệu quả [26].

Sự bất hợp lý còn thể hiện trong cơ cấu ngành nghề đào tạo. Hiện nay, do

xu hướng của sự phát triển kinh tế, tâm lý của đa phần học sinh đều lựa chọn các

khối ngành kinh tế, tài chính ngân hàng, trong khi lại thờ ơ với một số ngành

đạo tạo về dệt may, chế biến lâm sản, thủy sản, phát triển nông thôn và khuyến

nông, cơ khí nông lâm, cơ khí chế biến bảo quản nông sản, thực phẩm. Vì vậy,

đào tạo ở bậc đại học của vùng cũng như cả nước nói chung đang có xu hướng

nghiêng nhiều về các ngành kinh tế, xã hội trong khi các ngành điện tử, kỹ thuật,

công nghệ, nông, lâm ngư nghiệp mới có nhu cầu rất lớn cho khu vực nông thôn

nhưng chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng thiếu nhiều lao động

có trình độ trong những lĩnh vực này. Đa số các trường dạy nghề đều có xu

hướng tập trung đào tạo các ngành nghề phổ biến như: kế toán, tin học ứng

65

dụng, ngoại ngữ mà ít chú trọng tới việc đào tạo lao động công nhân kỹ thuật, cơ

khí, sửa chữa, và lao động trong các ngành nông nghiệp. Theo thống kê của

Tổng cục Dạy nghề, 56,3% số trung tâm dạy nghề có đào tạo nghề nguội (nhóm

nghề cơ khí) và nhóm nghề may; 49,5% số trung tâm dạy nghề có đào tạo nhóm

nghề tin học; 38,8% số trung tâm dạy nghề có đào tạo nhóm nghề kỹ thuật điện;

35% số trung tâm dạy nghề có đào tạo nghề lái xe ôtô và nhóm nghề kỹ thuật

điện tử; 19,5% số trung tâm dạy nghề có đào tạo các nghề như kỹ thuật sắt, mỹ

nghệ, điện lạnh, kế toán, dịch vụ cá nhân.

+ Đào tạo không gắn với nhu cầu thực tế, thiếu sự hợp tác giữa các cơ sở

đào tạo với các đơn vị sử dụng, dẫn đến tình trạng lao động làm việc ở các lĩnh

vực trái với chuyên ngành được đào tạo là phổ biến. tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp

đại học, cao đẳng làm không đúng ngành nghề khá cao. Đây là thực trạng chung

của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, đó là việc đào tạo, cung cấp nhân lực theo

khả năng của các trường, chứ không theo nhu cầu của xã hội. Đây cũng là đặc

điểm của kinh tế kế hoạch cũ, đào tạo theo cung chứ không theo cầu, khả năng

đào tạo được bao nhiêu là đào tạo bấy nhiêu, “sản phẩm” được đào tạo có chất

lượng như thế nào xã hội cũng phải chấp nhận.

Mặt khác, trước đây công tác đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp trong

vùng chủ yếu đáp ứng nhu cầu của các cơ quan tỉnh, các xí nghiệp và nông, lâm

trường quốc doanh. Hiện nay, bên cạnh nhu cầu này, khu vực nông thôn của

vùng đã xuất hiện ngày càng nhiều những nhu cầu mới, hướng về cơ sở huyện,

xã, phục vụ kinh tế hộ, trang trại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phát

triển làng nghề, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật cho người nông dân. Những nhu

cầu mới này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải thay đổi nội dung, phương pháp,

cách thức đào tạo.

+ Chất lượng đào tạo thấp: Đây được coi là vấn đề rất nan giải, chưa đáp

ứng được yêu cầu đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung và khu vực nông thôn

66

vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Hệ thống đào tạo phát triển chưa đạt yêu

cầu và sản phẩm đào tạo chưa được các nhà tuyển dụng chấp nhận. Lý do chính

là chương trình, nội dung đào tạo tuy có đổi mới, song cũng vẫn còn nhiều nội

dung chưa gắn với thực tiễn, hiện tượng dạy chay còn phổ biến. Do vậy số

người lao động sau khi tốt nghiệp các trường đào tạo, dạy nghề đều không thể

thích ứng với yêu cầu công việc mà phải qua các lớp đào tạo lại, đào tạo bổ

sung, gây ra sự lãng phí lớn cho gia đình và xã hội. Các doanh nghiệp luôn than

phiền chương trình đào tạo của các đại học còn mang tính sách vở và thiếu tính

thực tiễn. Chẳng hạn một doanh nghiệp chế biến tôm cho biết, thậm chí sau khi

học, đến doanh nghiệp, người lao động không biết phân biệt các loại tôm. Thiết

bị chế biến thủy sản không được cung cấp tại trường học vì quá đắt. Một số

doanh nghiệp sau khi tuyển dụng, phải gửi lao động tới các trường đào tạo nghề

để học thêm. Người lao động thiếu kỹ năng thực sự là vấn đề gây đau đầu các

nhà quản lý quản lý doanh nghiệp. Bản thân các trường đào tạo cũng không có

đủ khả năng và kỹ năng để làm việc này. Khó khăn này còn ở chỗ, có thể nguy

hiểm trong cạnh tranh khi người lao động, sau qua đào tạo, lại chuyển sang làm

việc cho chính đối thủ của doanh nghiệp đã đào tạo họ, hoặc các doanh nghiệp

nước ngoài, nơi có mức lương cao hơn.

Theo thống kê mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 63% sinh viên tốt

nghiệp không có việc làm, 37% được tuyển dụng không đáp ứng được công

việc, nhiều công ty phải mất 1 - 2 năm đào tạo lại. Tuy nhiên điều đáng nói ở

đây là những sinh viên này thà chấp nhận thất nghiệp tạm thời hoặc làm trái

ngành ở thành phố chứ hiếm ai muốn quay về quê làm việc với nhiều lý do. Thứ

nhất là làm việc ở thành phố lương cao hơn, đời sống tiện nghi, hiện đại hơn so

với cái buồn tẻ và lạc hậu ở nông thôn. Thứ hai là, họ lo lắng trình độ bị cùn

mòn, do không có điều kiện tiếp xúc với trang thiết bị hiện đại, lại không được

thử sức ở môi trường chuyên môn cao nếu về quê làm việc. Thế nên, đã dẫn đến

tình trạng nông thôn thiếu thốn lực lượng lao động có trình độ mà ở thành phố

67

sinh viên ra trường lại thất nghiệp.

c) Các hệ thống khác đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Bên cạnh các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy

nghề, việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn có hệ thống khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến ngư; việc đào tạo truyền nghề tại các làng nghề, chương

trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn thuộc dự án của Tổng cục dạy nghề,

của Hội Nông dân Việt Nam…

Trong các làng nghề, đào tạo tại chỗ theo hình thức kèm cặp rất phổ biến.

Một số lượng lớn lao động được đào tạo, được truyền nghề và quan trọng hơn là

gắn với việc làm, tăng thu nhập. Hình thức này không có chứng chỉ, bằng cấp,

nhưng sau nhiều năm, nhiều người lao động có thể đạt được trình độ rất cao,

nhiều lao động trở thành nghệ nhân.

Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề trong các làng nghề của vùng còn nhiều

bất cập và hạn chế, chủ yếu là kèm cặp, ngắn hạn, thiếu khung quy định, thiếu

giám sát, đánh giá chất lượng trình độ tay nghề. Ngoài ra, đa số người lao động

làm việc trong các làng nghề có trình độ học vấn thấp. Đó là trở ngại lớn đối với

truyền nghề và đào tạo nghệ nhân.

Khu vực nông thôn của vùng có hệ thống khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến ngư hoàn chỉnh từ trung tâm khuyến nông tỉnh đến các trạm khuyến

nông huyện, xã hình thành mạng lưới khuyến nông, lâm, ngư phong phú, đa

dạng với nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ kĩ thuật cho nông dân, rèn luyện tay

nghề cho nông dân và cung cấp thông tin kinh tế, thị trường cho họ.

Tuy nhiên, hệ thống khuyến nông của vùng còn chưa đủ mạnh để chuyển

giao kết quả nghiên cứu, các tiến bộ công nghệ mới trong nông nghiệp vào sản

xuất. Chỉ mới khoảng 77,32% số xã có cán bộ khuyến nông, lâm, ngư; 17,31%

số thôn có cộng tác viên khuyến nông, lâm, ngư [37, tr.200]. Kinh phí cho hoạt

động khuyến nông còn hạn chế, trong khi đó phân bổ lại không hợp lý, rất ít

68

kinh phí cho đào tạo và không có kinh phí cho hoạt động marketing. Mối liên hệ

giữa hệ thống khuyến nông - hệ thống nghiên cứu còn yếu, tính hợp tác chưa

cao. Hoạt động khuyến nông của Trung ương chỉ mới bó hẹp trong một số nội

dung kĩ thuật như chuyển giao kĩ thuật, xây dựng mô hình trình diễn, tập

huấn,… phương pháp khuyến nông áp dụng chưa phù hợp với nhu cầu thực tế

của từng đối tượng, từng địa phương.

Gần đây, công tác dạy nghề cho nông dân được đẩy mạnh với đề án “Đào

tạo nghề cho lao động nông thôn đến 2020’’. Đề án nhằm hướng tới mục tiêu

đào tạo hàng triệu lao động nông thôn đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các

cơ sở công nghiệp và tham gia sản xuất nông nghiệp hiện đại. Nếu đề án được

thực hiện thành công sẽ tạo ra bước đột phá lớn trong việc nâng cao trình độ kĩ

thuật cho lao động nông thôn cả nước nói chung, vùng đồng bằng sông Hồng nói

riêng. Tuy nhiên làm thế nào để đề án này thực hiện đạt hiệu quả như mong

muốn mới là điều đáng quan tâm.

Tóm lại, thời gian qua, đã có những chuyển biến tích cực trong đào tạo

nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn của vùng, nhờ đó số lượng lao

động qua đào tạo tăng nhanh, chất lượng đào tạo được nâng lên một bước, đáp

ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn của vùng. Tuy nhiên, công tác đào tạo nguồn nhân lực

cho nông nghiệp, nông thôn của vùng vẫn còn một số tồn tại như cơ cấu đào tạo

chưa hợp lý, chất lượng đào tạo chưa cao, đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội

dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn còn thấp, hiệu quả

sử dụng nguồn lao động còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn của vùng.

2.3.2. Đời sống kinh tế và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn hoá, tinh

69

thần của người dân nông thôn

Trên thực tế, nền tảng của nguồn nhân lực là thể trạng và sức khoẻ, đây là

kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố: điều kiện kinh tế, môi trường sống, chăm

sóc sức khoẻ, các dịch vụ hỗ trợ đời sống văn hoá, tinh thần...

Về điều kiện kinh tế, sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, với

chủ trương coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao đất sử dụng lâu

dài, cùng nhiều chính sách giải phóng người lao động ở nông thôn, đời sống của

người dân trong vùng đã từng bước được cải thiện. Vốn tích luỹ bình quân của 1

hộ nông thôn ngày càng tăng lên. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông

nghiệp và thuỷ sản, vốn tích luỹ bình quân 1 hộ nông thôn thời điểm 1/7/2006

của vùng là 7,6 triệu đồng, gấp 2,4 lần so với năm 2001. Đặc biệt, nếu xét riêng

các loại hộ nông thôn thì vốn tích luỹ bình quân của 1 hộ nông, lâm, thuỷ sản là

8,3 triệu, hộ công nghiệp, xây dựng là 8,9 triệu, đặc biệt, bình quân vốn tích luỹ

của 1 hộ dịch vụ lên tới 13,1 triệu đồng, trong khi đó tính riêng hộ nông nghiệp

thì chỉ có 5,2 triệu đồng. Điều đó cho thấy tác động mạnh mẽ của việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế đến việc làm và thu nhập của người dân nông thôn.

Sự chênh lệch về thu nhập kéo theo sự chênh lệch về mức sống và các

khoản chi tiêu cho giáo dục, y tế và văn hoá của các hộ gia đình. Điều này ảnh

hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và trình độ văn hoá, chuyên môn kĩ thuật của

người lao động, bởi những hộ nghèo ngoài việc khó đảm bảo một chế độ dinh

dưỡng tốt cho sức khoẻ còn ít có cơ hội tiếp cận được với các dịch vụ y tế giáo

dục.

Về chăm sóc sức khoẻ cho người dân nông thôn, so với các vùng miền

trong cả nước, đồng bằng sông Hồng là khu vực có cơ sở hạ tầng về y tế khá tốt.

Theo kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản 2006: 100% các

xã có trạm y tế, trong đó 99,73% trạm được xây dựng kiên cố, bán kiên cố.

Trung bình cứ trên 7.000 người dân thì có một trạm y tế xã. Tỷ suất trung tâm y

tế cơ sở trên số dân như vậy tương đương với Thái Lan, là nước có mức thu

70

nhập cao gấp 4 lần Việt Nam. Số bác sĩ trên 10.000 dân là 1,14; 88,52 số thôn có

cán bộ y tế thôn. Công tác vệ sinh phòng dịch được triển khai rộng khắp. Các

chương trình y tế quốc gia như phòng chống sốt rét, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và

trẻ em, kế hoạch hoá gia đình, tiêm chủng mở rộng… được thực hiện tốt nhờ hệ

thống y tế tuyến xã.

Những đóng góp của hệ thống y tế cơ sở của vùng là không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, chất lượng hoạt động của các trạm y tế xã nhìn chung còn thấp, thiết

bị khám chữa bệnh nghèo nàn, đội ngũ y bác sĩ thiếu và yếu về chuyên môn,

nghiệp vụ. Vẫn còn hơn 70% số người không tiếp cận với các dịch vụ y tế khi

ốm đau, phải tự chữa chạy lấy mà không có sự tham gia của các nhân viên y tế.

Ngay trong số những người đến các cơ sở y tế công hoặc tư để chữa bệnh thì chỉ

có 50% trường hợp là đến khám chữa bệnh ở trạm y tế xã. Chính vì hệ thống y

tế xã chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân nên ở đồng

bằng sông Hồng, hệ thống y tế tư nhân khá phát triển, có tới 48,41% số xã có cơ

sở khám bệnh tư nhân trên địa bàn xã. Nhưng sự phân biệt y tế công và y tế tư

nhân ở nông thôn của vùng chỉ là tương đối. Vì những người hoạt động y tế tư

nhân đôi khi lại chính là các nhân viên y tế công, họ khám chữa bệnh ngoài giờ

(đôi khi cả trong giờ hành chính và sử dụng những thiết bị của trạm y tế xã).

Góp mặt trong hệ thống y tế tư nhân ở nông thôn là các thầy lang, bà đỡ, họ

chữa bệnh bằng thuốc nam, bắc và kinh nghiệm cổ truyền. Các hiệu bán thuốc

tân dược cũng đang mở ra ở khắp khu vực nông thôn của vùng.

Tuy nhiên, đến nay vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn 37,4% số trạm y

tế thiếu thuốc, 22,5% trạm y tế thiếu cán bộ y tế, tới 62% trạm y tế khả năng đáp

ứng dịch vụ y tế thấp. Công tác quản lý nhà nước về y tế chậm được đổi mới.

Chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến tỉnh, huyện chưa đáp ứng được yêu cầu của

người dân, nên dẫn đến tình trạng các bệnh viện tuyến trung ương, các thành

phố lớn bị quá tải do người dân tự vượt tuyến, còn các bệnh viện tỉnh, đặc biệt

bệnh viện huyện, thường sử dụng không hết công suất. Những tiêu cực trong y

71

tế, y đức chậm được khắc phục.

Về môi trường sống, tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề

nghiêm trọng ở nhiều vùng nông thôn trong đó có đồng bằng sông Hồng. Trong

sản xuất nông nghiệp, việc lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm ô

nhiễm đất, nước và tỷ lệ thuốc tồn dư trong nông sản chưa được kiểm soát. Tại

các làng nghề, ô nhiễm khói bụi, chất thải rất trầm trọng. Công tác quy hoạch,

xây dựng kết cấu hạ tầng, quản lý môi trường phát triển công nghiệp và đô thị

kém đang góp phần tạo nên những dòng sông chết, làng ung thư. ước tính, chỉ

2,5% chất thải rắn ở nông thôn được xử lý. Nông dân cũng là đối tượng thường

xuyên phải sử dụng máy móc, công cụ sản xuất không đảm bảo an toàn, sử dụng

hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật thiếu kiểm soát.

Tiếp cận nước sạch và sử dụng hố xí hợp vệ sinh góp phần bảo vệ sức

khoẻ cho con người, song mức độ sử dụng ở nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng còn rất thấp: chỉ có 5,53% số hộ sử dụng nước máy và 24,49% số hộ có sử

dụng hố xí tự hoại.

Về các dịch vụ hỗ trợ đời sống văn hoá, tinh thần: Những năm gần đây,

cấp uỷ và chính quyền địa phương các tỉnh trong vùng đã quan tâm phát triển

các dịch vụ hỗ trợ đời sống văn hoá, tinh thần cho người dân. Các hoạt động văn

hoá chuyên nghiệp tăng nhanh, đến nay vùng đồng bằng sông Hồng chiếm

khoảng 26% số đơn vị nghệ thuật, 33% số rạp hát, 20% rạp chiếu bóng của cả

nước. Các hoạt động văn hoá nghệ thuật đem lai kết quả thiết thực, nhiều loại

hình văn hoá nghệ thuật truyền thống ở các làng quê được phục hồi; các hoạt

động lễ hội truyền thống được khôi phục và phát huy tác dụng tốt trong việc

nâng cao truyền thống và tự hào dân tộc; hương ước được phát triển rộng khắp;

gia đình văn hoá, cơ quan văn hoá và làng văn hoá được phát triển; nhân dân có

ý thức đấu tranh chống tệ nạn xã hội, đặc biệt triển khai có kết quả việc giảm

thiểu tai nạn giao thông, tạo lòng tin và phấn khởi trong nhân dân.

Bảng 2.3.1. Các cơ sở phục vụ hoạt động văn hoá, tinh thần

72

ở đồng bằng sông Hồng

Số lượng Tỷ lệ (%)

1661 89,25 Xã có điểm b−u điện văn hoá

54,49 Xã có điểm dịch vụ internet t− nhân trên địa bμn xã 1014

917 49,27 Xã có nhà văn hoá xã

51,59 Thôn có nhà văn hoá thôn, nhμ sinh hoạt cộng đồng 7511

5207 35,76 Thôn đ−ợc công nhận lμng văn hoá

1846 99,19 Xã có tủ sách pháp luật

236 12,68 Xã có th− viện

Nguồn: Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thuỷ sản 2006 (2007),

Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.106-107.

Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở vật chất cần và đủ cho các hoạt động văn

hoá, tinh thần diễn ra thường xuyên và hiệu quả còn là vấn đề nan giải. Đa phần

các xã chỉ có một sân bãi để chơi thể thao hoặc tổ chức các hoạt động chung,

gần 50% số xã chưa có nhà văn hoá, nhà sinh hoạt cộng đồng. Cán bộ văn hoá

xã là cán bộ kiêm chức. Kinh phí dành cho hoạt động văn hoá còn quá khiêm

tốn. Nội dung sinh hoạt của từng loại hình chưa thực sự phù hợp với nhịp sống,

sinh hoạt của cư dân nông thôn.

Như vậy, so với các vùng khác trong cả nước, đời sống kinh tế của người

lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng tuy có khá hơn song vẫn còn nhiều

khó khăn, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, văn hoá tinh thần còn ở trình độ thấp

và chưa thực sự hiệu quả. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến chất lượng cuộc

sống của người lao động chậm được cải thiện và do đó làm hạn chế sự phát triển

không chỉ thể lực mà cả trí lực và nhân cách, thẩm mỹ của họ.

2.3.3. Đầu tư của nhà nước, hệ thống chính sách

73

a) Chính sách tài chính

- Chính sách tài chính giáo dục

Nguồn tài chính quan trọng nhất của giáo dục đào tạo là ngân sách Nhà

nước. Được coi là quốc sách hàng đầu, Nhà nước ưu tiên tăng chi cho giáo dục

đào tạo, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008. Riêng đào tạo nghề

cho lao động nông thôn, ngày 27/11/2009, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đào

tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 với tổng kinh phí lên đến gần 26

nghìn tỷ đồng. Ngoài ra còn có nhiều chương trình mục tiêu, dự án đầu tư cho

giáo dục đào tạo đã được triển khai với kinh phí của Nhà nước hàng năm lên đến

hàng chục nghìn tỷ đồng.

Mặc dù chi ngân sách Nhà nước chung cho giáo dục đào tạo tăng lên hàng

năm nhưng sự phân bổ ngân sách cho giáo dục các tỉnh theo dân số như hiện nay

còn chưa hợp lý, gây khó khăn cho các tỉnh nghèo. Mức chi trả cho giáo dục vẫn

còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng thu nhập của người dân nông thôn. Các nghiên

cứu gần đây cho thấy, một hộ dân phải dành từ 4 - 6% thu nhập cho riêng học phí

chưa kể các khoản chi ngoài học phí. Các khoản chi công cộng cho giáo dục tiểu

học thường có lợi cho nhóm xã hội có mức sống thấp nhưng các khoản chi công

cộng cho giáo dục nói chung lại có lợi cho tầng lớp khá giả vì phần lớn trợ cấp

nhà nước chi cho bậc đại học là nơi có tương đối ít học sinh từ những gia đình

nghèo. Các khoản chi công cộng cho giáo dục đại học là rất không công bằng vì

trợ cấp cho mỗi sinh viên đại học cao hơn mức trợ cấp đó cho giáo dục cơ bản,

hơn thế nữa, phần lớn sinh viên đại học là con em các gia đình có điều kiện kinh

tế khá giả. So với thu nhập của người dân ở nông thôn hiện nay thì việc chi trả

học phí và chi phí ăn ở, sinh hoạt cho một người theo học đại học vượt quá thu

nhập của một hộ nông dân có mức sống trung bình.

Mặt khác, vấn đề tăng học phí ở bậc đại học đang được cân nhắc và áp

dụng trong thời gian tới. Điều này đã khiến cho nhiều sinh viên có nguồn gốc

xuất thân từ nông thôn và các gia đình nghèo gặp nhiều khó khăn để có thể theo

74

học đại học. Mặc dù, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với một số Bộ, ngành liên

quan có đề ra giải pháp cho vay tín dụng đối với sinh viên trong quá trình học,

phần lãi và gốc được trả sau khi tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên, so với khả

năng xin việc làm của sinh viên sau khi ra trường để có thể hoàn trả lại ngân

hàng thì giải pháp này chưa thực sự hiệu quả và bền vững bởi có đến 68% tỷ lệ

thanh niên khó có thể tìm kiếm được một việc làm ổn định.

Ngân sách Nhà nước bố trí cho dạy nghề nói chung và dạy nghề cho lao

động nông thôn nói riêng chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và nâng cao

chất lượng dạy nghề. Kinh phí Dự án "Tăng cường năng lực dạy nghề" thuộc

chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo đến năm 2010 trong những

năm qua tăng nhanh, nhưng số lượng trường và trung tâm dạy nghề được hỗ trợ

đầu tư của Dự án còn ít. Mức kinh phí hỗ trợ cho các trung tâm dạy nghề huyện

cũng hạn chế, mỗi trung tâm dạy nghề mới được hỗ trợ với mức 500-800 triệu

đồng/năm, nhiều trung tâm dạy nghề mới được đầu tư trong 1-2 năm gần đây. Dự

án mới chỉ bố trí kinh phí để xây dựng các chương trình khung dạy nghề trình độ

trung cấp nghề, cao đẳng nghề, chưa bố trí kinh phí để xây dựng chương trình,

giáo trình, học liệu dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên;

kinh phí dạy nghề cho lao động nông thôn trong Dự án mới chỉ hỗ trợ cho

khoảng 300.000 người/năm. Mức hỗ trợ như vậy là thấp so với yêu cầu thực tế.

Chính sách xã hội hoá, huy động nguồn lực từ nhiều nguồn khác nhau cho

giáo dục đào tạo như doanh nghiệp, hộ gia đình, và kể cả thu hút đầu tư nước

ngoài đã được coi trọng, song vẫn còn nhiều cản trở và thiếu cơ chế khuyến khích

rõ ràng nên sự tham gia của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài còn hạn chế.

Những bất cập trong chính sách tài chính giáo dục hiện nay đang làm tăng

thêm gánh nặng về chi phí cho giáo dục và đào tạo của các hộ gia đình nông

thôn Việt Nam nói chung, vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Chính điều này

đang gây khó khăn cho phát triển nguồn nhân lực nông thôn của vùng.

75

- Chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ

Chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ của Nhà nước được thể hiện chủ

yếu trong các chính sách tài chính liên quan đến 3 nguồn tài chính chủ yếu cho

hoạt động y tế là ngân sách Nhà nước, viện phí và bảo hiểm y tế. Các chính sách

này đều nhằm mục tiêu chung là chăm sóc sức khoẻ công bằng, hiệu quả và phát

triển. Ngày 19/3/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 25/2001/QĐ-

TTg phê duyệt chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn

2001-2010, trong đó xác định rõ Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho

y tế. Từng bước phấn đấu tăng mức chi thường xuyên cho y tế trong tổng chi

ngân sách nhà nước. Ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa về các

hoạt động y tế dự phòng, các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại cơ sở,

khám chữa bệnh cho người nghèo, đối tượng chính sách, bảo vệ bà mẹ trẻ em.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã đầu tư cho các bệnh viện tuyến huyện,

bệnh viện khu vực, trạm y tế xã, trung tâm y tế dự phòng,... nhờ đó, chất lượng

khám chữa bệnh cho người dân đã có những cải thiện rõ rệt. Cơ cấu tài chính y

tế trong những năm qua đang có những chuyển biến tích cực với sự gia tăng tỷ

lệ chi tiêu công và chi tiêu tư giảm dần.

Cùng với ngân sách Nhà nước, bảo hiểm y tế là một nguồn tài chính y tế

quan trọng ở Việt Nam và diện bao phủ của bảo hiểm y tế xã hội ngày càng

được mở rộng. Bên cạnh đó, viện trợ nước ngoài cho ngành y tế cũng không

ngừng tăng trong những năm qua, chiếm 8% tổng ngân sách chi cho lĩnh vực y

tế.

Tuy nhiên, tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho y tế trong GDP và trong tổng

chi ngân sách Nhà nước tăng không nhiều, mặc dù ngân sách Nhà nước đầu tư

cho y tế hàng năm vẫn tăng (22%), song không đảm bảo chi phí cho công tác

khám chữa bệnh và phòng bệnh cho nhân dân. Tài trợ của Nhà nước cho các

dịch vụ chăm sóc sức khoẻ phân bổ “chưa vì người nghèo và vùng nghèo”, cân

đối cho tuyến cơ sở gặp nhiều khó khăn. Do đó, tài trợ cho dịch vụ y tế cơ bản

76

mà người dân nghèo ở nông thôn có thể tiếp cận được là quá ít ỏi. Chỉ có 3%

dành cho y tế dự phòng và 2% dành cho đầu tư cơ sở y tế nông thôn [20, tr.52].

Tỷ lệ chi tiêu tư cho y tế (do người dân tự trả) vẫn còn rất cao, chiếm gần 70%

tổng chi tiêu y tế. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế vẫn còn thấp, tính bền vững chưa

cao, mức đóng bảo hiểm y tế vẫn thấp so với chi phí dịch vụ. Chất lượng phục

vụ kém, tiêu cực trong quá trình khám chữa bệnh, giá thuốc tăng cao và không

kiểm soát được… Tất cả những hạn chế trên đã làm cho việc tiếp cận các dịch

vụ y tế trở nên khó khăn và đắt đỏ, đang gây ra nhiều bức xúc trong nhân dân.

Chính những bất cập này đã làm hạn chế tác dụng của các chính sách về y tế và

chăm sóc sức khoẻ đến phát triển nguồn nhân lực nông thôn.

b) Các chính sách xã hội khác

- Chính sách dân số, việc làm

Chính sách kiểm soát dân số và kế hoạch hóa gia đình đã được thực hiện

cụ thể với 3 chương trình là: (1) Nâng cao năng lực bộ máy làm công tác dân số,

kế hoạch hoá gia đình từ tỉnh, huyện đến xã, thôn, làng; (2) chương trình cung

cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình theo hướng đa dạng hoá phương pháp,

phương tiện, kênh cung cấp dịch vụ này; (3) chương trình thông tin - giáo dục -

tuyên truyền về dân số kế hoạch hóa gia đình. Kết quả, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

ở khu vực đồng bằng sông Hồng thời gian gần đây không cao. Hầu hết các gia

đình nông thôn đã nhận thấy tác hại của việc sinh nhiều con. Mặt khác, một số

địa phương đã thi hành nhiều biện pháp tương đối cứng rắn nhằm hạn chế tình

trạng sinh con thứ ba.

Song thực tế quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong xã hội

nông thôn. Vì thế cho nên còn nhiều gia đình sinh con thứ ba. Việc sử dụng các

biện pháp tránh thai đối với người dân nông thôn chưa phổ biến cũng là một

77

nguyên nhân dẫn tới tình trạng gia tăng dân số.

Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, giảm sức ép về việc làm,

Nhà nước đã ban hành “Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm”

với các dự án:

+ Dự án tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông

qua Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm.

+ Dự án nâng cao năng lực và hiện đại hoá các Trung tâm dịch vụ việc

làm.

+ Dự án điều tra, thống kê thị trường lao động và xây dựng hệ thống

thông tin thị trường lao động.

+ Dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết việc làm

Chương trình đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên sau một

thời gian thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu

quả tạo việc làm. Đó là do nguồn vốn của các chương trình này còn quá thấp so với

nhu cầu thực tế nên chưa đáp ứng được yêu cầu của các dự án. Do nguồn vốn thấp

nên mức cho vay bình quân trong 5 năm chỉ đạt 3,3 triệu đồng/1 lao động, bằng

22% so với mức cho vay quy định tối đa là 15 triệu đồng. Mặt khác, mức cho vay

bình quân thấp, đối tượng cho vay lại nhiều, đầu tư dàn trải, nên khi xét duyệt dự

án, ở các địa phương thường chia đều, chưa thực sự quan tâm đầu tư vào các

ngành nghề có thế mạnh, có khả năng tạo mở nhiều việc làm như công nghiệp

nông thôn, dịch vụ. Chất lượng việc làm còn thấp, chủ yếu là lao động giản đơn,

thu nhập thấp, tính ổn định không cao, chưa có sự đột phá để làm thay đổi cơ cấu

lao động ở khu vực nông thôn.

Mặt khác, trong chiến lược phát triển kinh tế của vùng chưa thấy rõ sự

gắn bó chặt chẽ với chiến lược tạo việc làm. Việc phân bổ vốn cho các ngành,

các khu vực chưa tính đến vấn đề này mà chỉ quan tâm trước hết đến sản lượng

và lợi nhuận. Một số chính sách, cơ chế chưa thông thoáng, hoặc bất cập so với

78

thực tiễn, làm hạn chế việc mở rộng cơ hội việc làm. Và đặc biệt, vấn đề tư duy

tuy có nhiều đổi mới, năng động và linh hoạt hơn, song trong nếp nghĩ vẫn còn

có tư tưởng mong đợi vào sự điều tiết và tạo việc làm từ phía Nhà nước. Đây là

những cản trở không nhỏ đối với vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn đồng

bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay.

- Chế độ đãi ngộ đối với người lao động và chính sách thu hút, sử dụng

nhân tài

Bộ Luật lao động năm 1994 và sửa đổi bổ sung năm 2002 đã tạo khung

khổ pháp lý cho các chính sách việc làm thông thoáng, không rào cản, tạo điều

kiện cho mọi người lao động được phát huy tài năng và khả năng làm việc bất

cứ đâu và cho bất cứ ai. Hợp đồng lao động và các tiêu chuẩn lao động được luật

pháp đảm bảo.

Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu mà người lao động quan tâm là thu nhập, cơ hội

thăng tiến, điều kiện làm việc và các yếu tố khác liên quan đến lợi ích của họ

chưa được quan tâm đúng mức. Thực tế cho thấy, học sinh nông thôn sau khi

học xong đều muốn tìm cách ở lại thành phố - nơi có nhiều cơ hội tìm việc làm

có thu nhập cao và phát triển tri thức.

Gần đây, Nhà nước có chủ trương đưa trí thức trẻ về nông thôn nhằm tăng

cường nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực này. Thực hiện chủ trương

này, nhiều tỉnh trong vùng đã ban hành các chế độ khuyến khích nhằm thu hút

lao động trình độ cao, lao động có tay nghề về làm việc, tiêu biểu là Hải Dương,

Hưng Yên… Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có chính sách đồng bộ, cơ chế rõ ràng,

mức ưu đãi chưa thực sự hấp dẫn, phạm vi chưa rộng nên kết quả là các địa

phương trong vùng chưa trưng dụng được nhiều nhân lực có trình độ cao.

Tóm lại, thời gian qua nhiều chính sách đã được ban hành nhằm tăng

cường sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, cũng như huy động sự tham gia và nguồn

lực của các địa phương cho phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn

79

đồng bằng sông Hồng. Những chính sách này đã góp phần quan trọng vào thành

tựu về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn của vùng. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy đang tồn tại

những khiếm khuyết và bất cập trong các chính sách này như kinh phí đầu tư, hỗ

trợ còn thấp, phân bổ không hợp lý, một số khuyến khích về vật chất cho người

lao động còn quá nhỏ, những phiền hà trong thủ tục làm cho chính sách không đi

vào cuộc sống, sự thiếu nhất quán trong thực hiện chính sách làm nản lòng

người lao động.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG

80

THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

3.1. Phƣơng hƣớng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đến 2020

3.1.1. Định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn vùng đồng bằng sông Hồng đến 2020

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 của nước ta được Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua đã xác định vị thế và định hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng Đồng bằng sông

Hồng là chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao

động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi

khác.

Phát triển nông nghiệp đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông thành

một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa màu;

mở rộng nuôi, trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí

phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông

thôn.

Trong vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các khu công nghiệp, khu công

nghệ cao, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở

cơ khí đóng tàu, luyện kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao;

các trung tâm mạnh của vùng và cả nước về đào tạo, khoa học và công nghệ,

thương mại, y tế, văn hoá, du lịch.

Hoàn thành và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến quốc lộ,

các cảng khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay [16, tr.182-183].

Với lợi thế của mình, vùng đồng bằng sông Hồng phấn đấu đi đầu đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng, nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn và xây dựng thành công nông thôn mới, thúc đẩy sự

81

chuyển biến của cả nước. Cụ thể:

- Phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản gắn với giải quyết tốt vấn đề nông

dân và theo hướng sản xuất hàng hoá chất lượng, năng suất và hiệu quả cao gắn

với phát triển các làng nghề; đảm bảo an ninh lương thực cho cả vùng và các

tỉnh vùng Trung du, Miền núi phía Bắc; đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thuỷ sản, giảm dần tỷ trọng ngành

trồng trọt; phát triển ngành nghề nông thôn để chuyển một số lớn lao động nông

nghiệp sang các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Phát triển các mô hình nông

thôn mới và nhanh chóng nhân ra diện rộng.

- Đảm bảo cho người nông dân có tỷ lệ nông sản hàng hoá tương ứng

60% (Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới với mức GDP/người tương

đương khoảng 800-1.000USD, người dân phải dành tới 60% thu nhập để chi

dùng cho các khoản không phải là thực phẩm) đảm bảo giá trị sản xuất của các

ngành phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng trên 70% trong nông thôn (hiện

nay khoảng 40%). Kéo theo đó dân số nông thôn đến năm 2010 còn khoảng 50-

60%. Để làm được điều này, cần tập trung vào:

+ Chuyển mạnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng

phát triển nền nông nghiệp sinh thái sạch với công nghệ cao và công nghệ sinh

học. Thực hiện đổi mới phân công lao động, trong đó chỉ khoảng 30-40% lao

động làm nông nghiệp (khoảng 2,7-3 triệu lao động), còn lại làm phi nông

nghiệp, dịch vụ.

+ Hình thành các vùng sản xuất lúa, rau, chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm,

hoa, cây cảnh... theo hướng phát triển có quy mô thích hợp và chất lượng cao

phục vụ xuất khẩu và cung cấp sản phẩm sạch cho nhân dân (nhất là cho đô thị

và khu công nghiệp) trên cơ sở đa dạng các loại hình sản xuất, trang trại, hộ gia

đình, phát triển mạnh kinh tế hợp tác và hợp tác xã; mở rộng liên kết giữa các

thành phần kinh tế. Các cây trồng, con vật nuôi chủ lực của vùng đồng bằng

82

sông Hồng tiêu biểu là lúa chất lượng cao, rau thực phẩm cao cấp; hoa, cây

cảnh, cây ăn quả, giống cây, con, lợn siêu nạc, bò kiêm dụng thịt và sữa, vịt siêu

trứng và vịt thịt chất lượng cao.

+ Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và nước lợ, đặc biệt trong các

vùng bãi triều và 8 vùng bãi bồi ven biển (Hải Phòng 3, Thái Bình 2, Nam Định

2, Ninh Bình 1). Năm 2010, chuyển dịch cơ cấu ruộng trũng, đưa diện tích nuôi

trồng đạt 17 vạn ha và đưa năng suất nuôi trồng thuỷ sản bình quân lên trên 2

tấn/ha, sản lượng đạt 38 vạn tấn. Phát triển mạnh đánh bắt hải sản ngoài khơi xa,

sản lượng đến năm 2010 đạt khoảng 74 nghìn tấn. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2010

đạt khoảng 200 triệu USD.

+ Lâm nghiệp hướng vào khai thác có hiệu quả vùng đồi, hình thành các

khu rừng ven biển, các dải cây xanh ven các thành phố lớn, bảo tồn danh thắng

và các vườn rừng quốc gia. Giữ ổn định đất lâm nghiệp đến năm 2010 khoảng

40 vạn ha, trồng rừng 1 vạn ha, kết hợp với phát triển du lịch sinh thái.

+ Phát triển bền vững các làng nghề, khôi phục các làng nghề truyền

thống và hình thành nhiều làng nghề mới: sản xuất hàng tiểu thủ công mỹ nghệ,

hàng cơ, kim khí tiêu dùng, sản xuất đồ gỗ cao cấp, dệt may, cơ khí sửa chữa và

sản xuất vật liệu xây dựng. Nâng kim ngạch xuất khẩu hàng tiểu thủ công

nghiệp đến năm 2010 đạt khoảng 850-900 triệu USD.

+ Hình thành nhiều cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với xây dựng các

làng văn hóa mới, làm vệ tinh cho các trung tâm công nghiệp lớn. Các trung tâm

công nghiệp lớn trong vùng có chức năng cung cấp thiết bị và công nghệ, làm

hạt nhân cho các hoạt động công nghiệp gia công và sản xuất chi tiết thiết bị

máy móc cho các làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.

Với định hướng trên, đòi hỏi quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn từ nay đến 2020, lực lượng lao động vùng Đồng bằng sông

83

Hồng cần có sự thay đổi lớn về số lượng, năng suất lao động và tỷ trọng sử dụng

lao động trong các lĩnh vực kinh tế để đến năm 2020, hoàn thành cơ bản việc

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

3.1.2. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới của

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến 2020

a) Yêu cầu của nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn mới

Định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong

những năm tiếp theo và đến 2020 của vùng là phát triển nông nghiệp đa dạng;

cùng với lương thực, đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng

chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa màu; mở rộng nuôi, trồng thuỷ sản; phát

triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm

công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn.

Với định hướng này, phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần có bước phát triển hơn nữa theo những

hướng cơ bản sau:

- Hình thành nhanh đội ngũ lao động mới được đào tạo có trình độ chuyên

môn kỹ thuật cao và “thói quen công nghiệp”, có ý thức chấp hành kỷ kuật lao

động và “lương tâm nghề nghiệp". Muốn làm được điều này cần phát triển mạnh

y tế, nâng cao thể lực của người dân; đảm bảo có đội ngũ giáo viên phổ thông,

giảng viên đại học có chất lượng nhiều mặt ngang với chuẩn mực khu vực; giáo

dục pháp luật và lối sống mới ở nông thôn; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động

nông thôn nhất là lao động trong khu vực nông nghiệp.

- Đồng thời với việc đào tạo, cần sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động

đặc biệt là lao động kỹ thuật bằng cách:

+ Hình thành và phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động và xuất

khẩu lao động, gắn hệ thống giáo dục, đào tạo và dạy nghề với thị trường lao

84

động.

+ Phát triển các Trung tâm xúc tiến việc làm, hỗ trợ học nghề, khuyến

khích tự tạo và tìm việc làm, nhất là việc làm phi nông nghiệp, phát triển các

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết hợp cho vay vốn với mở rộng đào tạo nghề và

hướng dẫn người lao động ứng dụng công nghệ mới.

+ Sử dụng đồng thời chiến lược sử dụng ít vốn, nhiều lao động, đưa nhanh

tiến bộ khoa học công nghệ vào các ngành nghề truyền thống trong vùng với

chiến lược sử dụng nhiều vốn, công nghệ cao, sử dụng lao động ít để có năng

suất và chất lượng cao. Tạo bứt phá mới về năng suất lao động.

- Cơ cấu lao động nông thôn cần tiếp tục chuyển dịch theo hướng: giảm

số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ trọng

lao động công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Trong ngành nông,

lâm, ngư nghiệp: tăng số lượng và tỷ trọng lao động lâm nghiệp, thuỷ sản; giảm

số lượng và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tạo cơ cấu lao động đa ngành, xoá bỏ

tình trạng thuần nông trong nông nghiệp. Tăng tỷ trọng lao động làm kinh tế

trang trại, kinh tế tập thể và tỷ trọng lao động làm công ăn lương ngày càng tăng

theo nhịp độ phát triển thị trường lao động.

- Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân để cải thiện tình

trạng thể lực của lao động nông thôn trong vùng hiện nay. Nâng cao tuổi thọ và

chiều cao trung bình, tăng khẩu phần và chất lượng dinh dưỡng của người dân,

85% dân số nông thôn được dùng nước sạch; 75% số hộ gia đình nông thôn có

hố xí hợp vệ sinh; dân đi lại dễ dàng và được chăm sóc sức khỏe tốt.

- Cần có những quyết sách quan trọng nhằm khai thác có hiệu quả lực

lượng lao động dồi dào; làm giảm áp lực do thiếu công ăn việc làm hiện nay. Dự

báo đến năm 2020, vùng đồng bằng sông Hồng dân số nông nghiệp có khoảng

13,5 triệu người. Theo kinh nghiệm và tính toán của các chuyên gia kinh tế thì

với 77,8 vạn ha đất nông nghiệp, vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có thể thu hút

85

được khoảng 2,8 triệu lao động làm nông nghiệp, còn lại khoảng 3,2 triệu lao

động phải giải quyết việc làm từ các ngành phi nông nghiệp. Từ nay đến năm

2020 phải giải quyết việc làm cho thêm khoảng hơn 3 triệu lao động, bình quân

mỗi năm giải quyết việc làm từ phi nông nghiệp cho khoảng 30 vạn lao động.

Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi tiến hành đồng bộ các chủ trương, biện pháp thúc đẩy

mạnh mẽ việc làm phi nông nghiệp từ nông thôn.

b) Yêu cầu phát sinh do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp

Trong những năm gần đây, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì tốc độ đô thị hoá và phát triển các khu công

nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn… diễn ra khá nhanh ở nhiều tỉnh,

thành phố vùng đồng bằng sông Hồng như: Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hưng Yên, Hải

Dương, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội, Hải Phòng… Việc phát triển các khu

đô thị mới, các khu công nghiệp mới đã làm cho bộ mặt nông thôn đồng bằng

sông Hồng mang diện mạo của khu công nghiệp và đô thị, góp phần rút ngắn

khoảng cách giàu nghèo và sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị. Năm

1996 dân số thành thị vùng đồng bằng sông Hồng là 2818,2 nghìn người, chiếm

17,3% tổng dân số toàn vùng. đến năm 2007, dân số thành thị của vùng tăng lên

4622,1 nghìn người, chiếm 25,1%. Như vậy sau hơn 10 năm, dân số thành thị

vùng đồng bằng sông Hồng đã tăng 1803,9 nghìn người.

Tuy nhiên, đô thị hoá nhanh và phát triển các khu công nghiệp cũng dẫn

đến những hậu quả lớn mà hiện nay nhiều tỉnh trong vùng phải đối mặt, điển

hình là vấn đề việc làm cho nông dân. Hiện nay tình trạng nông dân mất đất sản

xuất do phải chuyển đổi mục đích sử dụng phục vụ phát triển đô thị, phát triển

khu công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn… đang ngày càng gia

tăng khiến cho một bộ phận nông dân không có đất hoặc thiếu đất để sản xuất,

do đó, tỷ lệ người thất nghiệp tăng và nhu cầu về việc làm cho nông dân ngày

càng lớn. Tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi giai đoạn 2001 - 2005

khoảng 18.563 ha; dự kiến giai đoạn 2006 - 2010 là 26.946 ha. Việc thu hồi đất

86

với tốc độ nhanh đã làm cho khoảng 25 vạn nông dân trong độ tuổi lao động bị

mất việc làm (giai đoạn 2001 - 2005); dự kiến giai đoạn 2006 - 2010, số nông

dân trong vùng bị mất việc làm cũng sẽ khoảng 24 vạn người, bình quân mỗi

năm gần 5 vạn người. Trong 5 năm (2001-2004), số người bị mất việc do bị thu

hồi đất phục vụ cho các nhu cầu trên ở Hà Nội là gần 800.000 người; Hà Nam:

12.360 người; Hải Phòng: 13.274 người; Hải Dương: 11.964 người; Bắc Ninh:

2.222 người… [21, tr.7].

Điều đáng quan tâm là phần lớn nông dân bị mất việc làm vì nguyên nhân

này đều đã ở độ tuổi trung niên (khoảng 35 - 50 tuổi), vì vậy, giải quyết việc làm

cho đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn, một mặt do sức khỏe và khả năng

thích ứng với nghề mới, nhất là những nghề đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao của họ

hạn chế, mặt khác, nhiều doanh nghiệp từ chối tiếp nhận đối tượng này vào làm

việc. Số còn lại là con em họ lại chưa được đào tạo nghề nên cũng gặp khó khăn

trong việc tìm kiếm việc làm. Nếu không có biện pháp giải quyết cơ bản vấn đề

này thì tình trạng nghèo khó, bần cùng hoá trong một bộ phận nông dân sẽ diễn

ra phổ biến trong vòng vài năm tới khi số tiền đền bù của các hộ này đã dần cạn

kiệt do tiêu xài chủ yếu vào tiêu dùng, mua sắm những tiện nghi đắt tiền trong

khi lẽ ra phải được đầu tư vào đào tạo nghề, tạo việc làm mới. Vì vậy, phân cực

giàu nghèo sẽ diễn ra thêm phần gay gắt và đó là nguy cơ tiềm tàng dẫn đến

những điểm nóng, thậm chí bùng phát những rối loạn trật tự xã hội ở nông thôn,

làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Mặt khác, do mất đất sản xuất, không có việc làm hoặc thiếu việc làm

trong nông nghiệp và nông thôn, một bộ phận lớn nông dân của các tỉnh vùng

đồng bằng sông Hồng ở các độ tuổi khác nhau đang kéo ra các thành phố lớn,

các khu đô thị để tìm việc làm. Phần lớn trong số họ phải chấp nhận làm những

công việc giản đơn, nặng nhọc nhưng thu nhập thấp và nhiều rủi ro. Đồng thời,

điều này đang đặt ra nhiều vấn đề cho các địa phương phải giải quyết (cả nơi đi

lẫn nơi đến) như việc quản lý nguồn nhân lực, tệ nạn xã hội gia tăng, vấn đề ô

87

nhiễm môi trường, bảo vệ quyền lợi người lao động... Hiện nay, trên địa bàn Hà

Nội có khoảng 20 đến 25 vạn lao động đến từ các vùng nông thôn của các tỉnh

vùng đồng bằng sông Hồng. Điều này đang đặt ra nhiều vấn đề cho các địa

phương phải giải quyết (cả nơi đi lẫn nơi đến), như việc quản lý nguồn nhân lực,

tệ nạn xã hội gia tăng, vấn đề ô nhiễm môi trường, bảo vệ quyền lợi người lao

động…

Thời gian qua, Nhà nước (kể cả trung ương và các địa phương trong

vùng) đã có một số chính sách và giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao

động khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Nghị định số

22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ đã quy định: “người lao động bị

thu hồi đất sẽ được hỗ trợ kinh phí đào tạo để chuyển làm nghề khác” và các đơn

vị sử dụng đất “nếu có nhu cầu tuyển dụng lao động thì phải ưu tiên tuyển dụng

lao động thuộc các đối tượng có đất bị thu hồi”. Nghị định này cũng đã có

những quy định cụ thể về việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm và

đào tạo nghề bằng cách cho đi học tại các cơ sở dạy nghề. Quyết định số

81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy

nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn trong đó ưu tiên lao động bị mất đất sản

xuất do bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng. Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg

ngày 27/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc

làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã tạo

thêm một hành lang pháp lý nữa cho việc xây dựng các chính sách đối với người

lao động thuộc diện bị thu hồi đất trong vùng. Bên cạnh đó các địa phương cũng

có những chính sách hỗ trợ cụ thể. Ví dụ, Hà Nội quy định, nếu hộ bị thu hồi từ

30-50% diện tích đất thì được hỗ trợ chuyển nghề cho 1 lao động, 50-70% thì

được hỗ trợ cho 2 lao động, trên 70% thì được hỗ trợ cho tất cả lao động trong

hộ. Mỗi lao động được hỗ trợ là 3,8 triệu đồng. Hải Dương miễn phí đào tạo

nghề cho lao động của các hộ bị thu hồi từ 50% diện tích đất canh tác trở lên,

88

dưới 50% diện tích đất thì được hỗ trợ 70% học phí đào tạo nghề. Hải Phòng hỗ

trợ đào tạo nghề và hướng nghiệp cho một lao động nông nghiệp mất hoàn toàn

ruộng canh tác với tiền học nghề là 2 triệu đồng/1 lao động…

Tuy nhiên, nhìn chung, việc thực hiện các chính sách trên còn nhiều khó

khăn và vướng mắc, kế hoạch đào tạo chưa cụ thể, chưa có giải pháp tổng thể và

hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho lao động ở các vùng mất đất nông

nghiệp, ở các vùng đô thị hoá. Ngoài ra, chưa có giải pháp giải quyết những vấn

đề xã hội phát sinh tại các khu công nghiệp tập trung và các vùng đô thị hoá.

Để giải quyết việc làm cho lao động khu vực chuyển đổi mục đích sử

dụng đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, cần kết hợp kế hoạch phát

triển nguồn nhân lực với các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của

từng địa phương và kế hoạch phát triển của cả vùng. Đặc biệt, dạy nghề và đào

tạo chuyển nghề cho nông dân cần được quan tâm ngay từ đầu.

c) Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế

Trong thời đại mở cửa, hội nhập và tiến vào nền kinh tế tri thức, phát triển

nguồn nhân lực là một trong những vấn đề sống còn của mỗi quốc gia nói chung

và từng vùng lãnh thổ nói riêng nhằm ứng dụng rộng rãi và nhanh chóng các

thành tựu của khoa học và công nghệ, tăng nhanh khả năng cạnh tranh. Tham

gia vào quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho lao động của vùng không những

phải nâng cao khả năng cạnh tranh về trình độ CMKT, tay nghề mà còn các

phẩm chất khác như: ngoại ngữ, tác phong và văn hoá ứng xử công nghiệp hiện

đại, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, hiểu biết pháp

luật... Ngoài ra, đặc điểm của nền sản xuất - kinh doanh hiện đại, kinh tế thị

trường với cạnh tranh cao đỏi hỏi người lao động nước ta phải có phẩm chất mới

như: thích ứng, linh hoạt, các khả năng hợp tác trong quá trình hoạt động, sức

khoẻ dẻo dai... Nhìn chung, các phẩm chất mới này của nguồn nhân lực đồng

89

bằng sông Hồng còn có bất cập, đặc biệt là với lao động nông thôn, lao động

chưa một lần làm việc trong môi trường sản xuất - kinh doanh công nghiệp. Nói

chung nguồn nhân lực phải được đào tạo tốt đảm bảo một số yêu cầu cơ bản sau:

Trước hết, nguồn nhân lực cần có năng lực cạnh tranh cao. Điều này có

nghĩa là phải quán triệt phương châm phát triển nguồn nhân lực toàn diện và liên

tục, trên tất cả các mặt chuyên môn, phẩm chất đạo đức, thể chất…

Đối với mỗi cá nhân, năng lực cạnh tranh không chỉ thể hiện ở trình độ

tay nghề và kĩ năng, mà còn thể hiện ở những yêu cầu khác như thái độ nghề

nghiệp, ý thức luật pháp, cũng như tình trạng sức khoẻ. Người lao động cần tôn

trọng các giá trị văn hoá của cộng đồng, của doanh nghiệp, có thái độ và hành vi

cư xử đúng đắn trong mối quan hệ với cộng động, xã hội và tự nhiên.

Đối với mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương, năng lực cạnh tranh của

nguồn nhân lực được thể hiện qua các chỉ số về chất lượng của hệ thống giáo

dục, các chỉ số đánh giá mức độ sẵn có của lao động sản xuất chất lượng cao,

mức độ sẵn có của lao động hành chính chất lượng cao, mức độ sẵn có của cán

bộ quản lý chất lượng cao, mức độ thành thạo tiếng Anh và chỉ số đánh giá mức

độ thành thạo công nghệ.

Thứ hai, nguồn nhân lực cần có tính linh hoạt cao.

Phát triển nguồn nhân lực cần giúp cho đội ngũ lao động có khả năng tự

điều chỉnh để thích ứng với môi trường xung quanh đang thay đổi nhanh chóng

trong điều kiện mở cửa và hội nhập. Theo đó, người lao động phải có ý thức

trách nhiệm, tính chính xác, tinh thần hợp tác, tính năng động và lòng mong

muốn học hỏi cao để đáp ứng yêu cầu của sự chính xác, tốc độ, sự mạnh mẽ, sự

linh hoạt, sự phức hợp và đa dạng của kĩ thuật và công nghệ.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực, do vậy, cần có cách tiếp cận mới

nhấn mạnh năng lực giải quyết các vấn đề vướng mắc trong những hoàn cảnh

không chắc chắn và hay thay đổi. Ví dụ, đối với cấp đại học, cần kết hợp giữa cơ

90

sở học thuật vững chắc với cách tiếp cận đa ngành trong giải quyết vấn đề.

Với những yêu cầu mới đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp,

nông thôn của vùng đòi hỏi phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, trong

đó có vai trò quyết định của giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo.

3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đến 2020

3.2.1. Phát triển giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu để phát triển nguồn nhân lực. Điều

này xuất phát từ vai trò của giáo dục - đào tạo với tư cách là yếu tố trực tiếp

đóng vai trò quyết định chất lượng nguồn nhân lực; từ những bất cập trong giáo

dục - đào tạo được xác định là nguyên nhân chính yếu dẫn đến những tồn tại

trong phát triển nguồn nhân lực của đồng bằng sông Hồng.

Tất nhiên, đồng bằng sông Hồng chỉ là một vùng lãnh thổ, một bộ phận

của tổng thể cả nước, vì vậy các giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo của vùng

không thể tách rời các giải pháp phát triển giáo dục đào tạo cả nước như:

- Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo.

- Mở rộng phạm vi và cấp học phổ cập giáo dục.

- Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo.

- Đổi mới công tác quản lý giáo dục - đào tạo.

Áp dụng những giải pháp đó vào điều kiện cụ thể của nông thôn vùng

a) Trước hết, tiếp tục giữ vững và phát triển mạnh mẽ hơn giáo dục phổ thông

đồng bằng sông Hồng, chúng ta cần phải thực hiện những giải pháp sau:

Số liệu thống kê ở chương 2 cho thấy nông thôn đồng bằng sông Hồng có

sự phát triển vượt bậc về giáo dục phổ thông, dẫn đầu trong cả nước. Tuy nhiên,

để đáp ứng nhu cầu của việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn

của vùng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư từ mẫu giáo, tiểu học, trung học

cơ sở đến trung học phổ thông để không ngừng nâng cao hơn nữa trình độ học

91

vấn cho người lao động. Để đạt được điều đó cần thực hiện chuẩn hoá về quy

mô trường, lớp, về nội dung, chương trình, về phương pháp giáo dục, về số

lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, về cơ sở vật

chất - kĩ thuật, trang thiết bị dạy và học, về tiêu chí đánh giá giáo viên và học

sinh. Các địa phương cần sớm xây dựng các trường đạt chuẩn trong huyện, tỉnh

theo các tiêu chí mà Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành. Trong đó:

- Về quy mô trường, lớp, nên chuyển sang chế độ học 2 buổi cho học sinh

mỗi cấp và một lớp học trung bình chỉ có khoảng 30 - 35 học sinh. Các tỉnh,

huyện, xã trong vùng cần chú trọng phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi

nhọn, trên cơ sở đảm bảo chất lượng ở tất cả các cấp học. Đặc biệt cần mở rộng

hệ thống giáo dục mầm non trên địa bàn nông thôn, nhất là ở những vùng khó

khăn…

- Về nội dung, phương pháp giáo dục, nhà trường các cấp ở vùng đồng

bằng sông Hồng cần đổi mới theo hướng hiện đại hoá, tăng cường giáo dục tư

duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm của học sinh, sinh

viên. Các địa phương trong vùng cần chú trọng giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng

nhu cầu phát triển nguồn nhân lực cho vùng. Hiện đại hoá giáo dục phải được

thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục và hoạt động của bộ máy giáo

dục theo hướng hiện đại, cập nhật với trình độ chug của các nước trong khu vực

và cộng đồng quốc tế.

- Tăng cường công tác đào tạo lại đội ngũ giáo viên ở nông thôn để nâng

cao hơn nữa chất lượng đội ngũ nhà giáo.

- Tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo bằng nhiều nguồn vốn huy động

khác nhau: ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, các tổ chức, các cá

nhân... để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật: trường, lớp, trang thiết bị dạy và

học đầy đủ cho học sinh. Phát triển hệ thống phân phối thiết bị, sách giáo khoa

đến các huyện nhằm đáp ứng nhu cầu về thiết bị, phương tiện, sách giáo khoa

92

cho việc dạy và học của các trường, giáo viên và học sinh trong toàn vùng; đảm

bảo các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đều có phòng thí nghiệm

và thư viện.

Ngoài ra, cần thực hiện xã hội hoá giáo dục, phát triển các loại hình giáo

dục không chính quy, các trung tâm giáo dục thường xuyên ở các huyện, xã để

người dân có thể học tập suốt đời, hướng tới một xã hội học tập.

b) Trên cơ sở trình độ học vấn tiếp tục được nâng cao ở đây, đẩy mạnh

đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn

Rõ ràng là không thể chuyển dịch được cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp

sang các ngành nghề phi nông nghiệp nếu lực lượng lao động không được đào

tạo nghề, đặc biệt là dạy nghề dài hạn để tạo ra đông đảo đội ngũ lao động kĩ

thuật bậc trung đang thiếu trầm trọng. Hơn nữa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng phải phát triển theo hướng

sản xuất hàng hoá, trên cơ sở vừa tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vừa tăng

năng suất lao động, đảm bảo nông sản có giá trị hàng hoá cao, giá thành hạ, tạo

ra thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Mục tiêu này đòi hỏi

phải đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học, hoá học, sử dụng

máy móc thiết bị có năng suất cao. Do vậy giải pháp cấp thiết nhất hiện nay là

đẩy mạnh việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói chung, lao động nông

nghiệp nói riêng ở đồng bằng sông Hồng.

Đối với đào tạo nghề, vấn đề hướng nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn.

Định hướng nghề nghiệp đúng đắn sẽ góp phần nâng cao uy tín của hệ thống dạy

nghề vốn đang bị đánh giá thấp trong con mắt phụ huynh và học sinh. Việc đào

tạo nghề phải gắn với giáo dục phổ thông. Gắn giáo dục phổ thông với hướng

nghiệp, dạy nghề là khâu yếu của giáo dục nước ta nói chung. Để cải thiện tình

trạng này, cần có sự chuyển biến cơ bản về vấn đề kết hợp giáo dục phổ thông

và hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh nông thôn đồng bằng sông Hồng từ Bộ

93

Giáo dục và Đào tạo.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với lao động qua đào tạo nghề,

điều cốt yếu là phải hoàn thiện hệ thống mạng lưới đào tạo nghề, thể hiện chủ

yếu trên 2 khía cạnh sau đây: (1) làm cho mọi người lao động có thể hiểu và tiếp

cận được với cơ sở dạy nghề và (2) nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề và

gắn dạy nghề với cải thiện cơ hội việc làm. Để đạt được điều này, hệ thống đào

tạo nghề cần hoàn thiện theo các hướng sau:

- Quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở đào tạo nghề, tăng độ bao phủ của

các cơ sở đào tạo và dạy nghề, nâng cấp các cơ sở dạy nghề cấp huyện, liên xã.

- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề, các hình thức và thời gian đào

tạo phù hợp: tập trung, không tập trung, ngắn hạn, dài hạn, tại chức, bồi dưỡng

thường xuyên, dạy nghề qua các phương tiện thông tin đại chúng…

- Có các chính sách và biện pháp khuyến khích các cá nhân học nghề. Áp

dụng các chương trình dạy nghề cho người lớn tuổi nằm trong các kế hoạch dạy

nghề mở rộng. Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn đi xuất khẩu lao

động, cho người tàn tật còn khả năng lao động. Kết hợp các chương trình học

nghề với các chính sách thị trường lao động, chính sách tín dụng nhằm tăng cơ

hội việc làm. Có chính sách đặc biệt đào tạo lao động nông thôn vùng chuyển

đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp do quá trình công nghiệp hoá và đô thị

hoá, trước khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; trong chi phí đền bù và giải

phóng mặt bằng phải bao gồm chi phí đào tạo nghề.

- Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, lâm, ngư: Điều quyết định đến hiệu

quả của các hoạt động này là phải đa dạng hoá các hình thức đào tạo, nội dung

chương trình linh hoạt, phù hợp với từng địa phương, chẳng hạn, các lớp tập

huấn đầu bờ, đầu thửa, các mô hình trình diễn dễ hiểu ngay trên mảnh đất của

người nông dân. Các cán bộ làm công tác khuyến nông, lâm, ngư ngoài trình độ

kiến thức, nhiệt tình còn cần am hiểu nông dân, nông thôn, thực sự là “bạn của

94

nhà nông”.

- Để việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng thật

sự có chất lượng và hiệu quả cần nhanh chóng xây dựng một đội ngũ thầy dạy

nghề bao gồm các nhà khoa học nông nghiệp, các cán bộ làm công tác khuyến

nông, lâm, ngư, các cán bộ kĩ thuật và một số nông dân sản xuất giỏi; tổ chức

biên soạn tài liệu phù hợp với đối tượng lao động nông thôn, sao cho dễ học, dễ

hiểu và dễ làm theo.

- Xây dựng và phát triển các trung tâm học tập cộng đồng: Đây là cơ sở

giáo dục tổ chức học tập theo phương thức không chính quy, là một mô hình

giáo dục tích cực góp phần phát triển nguồn nhân lực nông thôn, cung cấp cơ

hội học tập cho nhiều đối tượng người dân không có điều kiện học tập chính

quy, tập trung, dài hạn. Có thể nói trung tâm học tập cộng đồng làng xã là nơi

học tập suốt đời của mọi người, thể hiện vai trò như các trung tâm huấn luyện

dạy nghề, thư viện đọc sách làng xã, địa điểm hội họp, trung tâm văn hoá, thể

dục, thể thao của cộng đồng. Để xây dựng, phát triển các trung tâm học tập cộng

đồng làng xã ở nông thôn đồng bằng sông Hồng cần: (1) Duy trì củng cố các

trung tâm hiện có và đẩy nhanh việc thành lập mới các trung tâm khác ở các

làng, xã, thị trấn; (2) Xây dựng đội ngũ cộng tác viên đủ sức hoàn thành chất

lượng chương trình nội dung đề ra; (3) Duy trì nề nếp, chất lượng hoạt động của

các trung tâm; (4) Xây dựng củng cố các điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho

hoạt động của các trung tâm.

- Xã hội hoá công tác dạy nghề, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất phục

vụ việc đào tạo theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huy

động toàn bộ nguồn lực trong nhân dân, động viên khuyến khích, cho phép các

tổ chức, cá nhân có điều kiện được mở cơ sở dạy nghề, truyền nghề, kêu gọi sự

đóng góp, hỗ trợ của các địa phương, của bản thân người học nghề, các nguồn

95

lực hợp tác và trợ giúp của các ngành, các đoàn thể trong và ngoài nước.

- Xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn dạy nghề và cơ chế thanh tra dựa trên

đó có thể đánh giá, điều chỉnh một cách có hiệu quả các chương trình đào tạo

nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.

c) Phát triển mô hình Cao đẳng cộng đồng

Để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, ứng

dụng tiến bộ khoa học công nghệ và tăng năng suất lao động, cần thiết phải

hướng vào các chương trình đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đào tạo cao

đẳng và đại học. Trong điều kiện hiện nay, các chương trình đào tạo theo mô

hình cao đẳng cộng đồng, với chu kì rút ngắn 2 năm là rất phù hợp với điều kiện

và nhu cầu cấp thiết đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn của vùng

nói riêng và cả nước nói chung. Chương trình cao đẳng cộng đồng có một số ưu

điểm sau:

- Giảm nhẹ tình trạng thi tuyển đầu vào, không giới hạn tuổi tác. Thời

gian học tập linh hoạt, thuận lợi cho mọi người vừa đi làm vừa đi học. Các

chứng chỉ được bảo lưu suốt đời, khi nào lấy đủ các chứng chỉ thì được cấp bằng

tốt nghiệp.

- Mặc dù chỉ đào tạo 2 năm, nhưng các học phần được tính tương đương

với 2 năm đầu của hệ đại học 4 năm, những học sinh có điều kiện và có nhu cầu

học tiếp vẫn có thể tiếp tục đi học để nhận bằng đại học đầy đủ.

- Chương trình đào tạo chú trọng tới tính ứng dụng, đào tạo các nghề cơ

bản, có tính thời sự tại địa phương, do đó, sinh viên dễ dàng tìm được việc làm

ngay sau khi tốt nghiệp.

- Chi phí đào tạo được cho là thấp hơn nhiều so với học tập tại các trường

đại học. Với ưu thế là chi phí thấp, loại hình này rất phù hợp với khu vực nông

thôn và học sinh các gia đình có thu nhập thấp.

Mô hình này còn có thể giúp người lao động đào tạo lại để thay đổi nghề

96

nghiệp khi không còn thích nghi với công việc và hoàn cảnh hiện tại, đặc biệt là

trong một thế giới mà khoa học và công nghệ thay đổi nhanh chóng như hiện

nay. Các trường cao đẳng cộng đồng rất phù hợp với khu vực nông thôn, nơi mà

đa số học sinh, mặc dù rất hiếu học, thậm chí rất có năng lực, song do hoàn cảnh

gia đình khó khăn, không thể được học tiếp trong các trường cao đẳng, đại học

công lập hoặc tư thục. Phát triển mô hình này còn giúp giải toả tâm lý của hàng

triệu người ước ao được vào đại học, cao đẳng vì con đường này được rộng mở

đối với họ. Ngoài ra, với sự phát triển mô hình này, cơ hội học tập suốt đời cho

mọi người dân cũng được rộng mở.

d) Nhanh chóng triển khai các mô hình liên kết trong giáo dục - đào tạo

Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn của vùng là

rất lớn và tăng nhanh chóng. Khoa học công nghệ cũng thay đổi liên tục đòi hỏi

người lao động phải được đào tạo linh hoạt, được cập nhật kiến thức, thời gian

từ nghiên cứu sang triển khai ứng dụng đại trà cần phải được rút ngắn. Trước

tình hình đó, cần xây dựng và phát triển mối liên hệ khăng khít và hữu cơ giữa

các viện nghiên cứu nông nghiệp với các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và

hệ thống khuyến nông nhằm huy động và phát huy tốt hơn các nguồn lực cho

nghiên cứu và phát triển. Sự liên kết này cũng rất có lợi cho đào tạo nguồn nhân

lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Bên cạnh đó, để đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và phát huy

hiệu quả của nghiên cứu phát triển, gắn liền đào tạo với sử dụng, khắc phục tình

trạng đào tạo xa rời với thực tiễn, cần đẩy mạnh liên kết các viện, các trường với

các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại và chính quyền địa phương các cấp. Đây

là mô hình liên kết hiệu quả vì những ưu điểm sau:

- Gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục - đào tạo với doanh nghiệp: đào tạo thoả

mãn nhu cầu doanh nghiệp, doanh nghiệp đánh giá chất lượng đào tạo và phản

97

hồi để điều chỉnh nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo.

- Sự tham gia của doanh nghiệp cùng phối hợp đào tạo với nhà trường là

cơ sở để quán triệt nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành”, “nhà trường gắn

liền với lao động sản xuất”, đồng thời chia sẻ những thông tin khoa học - công

nghệ một cách kịp thời cho yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực.

- Nhà trường thực hiện việc nghiên cứu khoa học công nghệ theo đúng

yêu cầu của doanh nghiệp và là điểm tựa về khoa học công nghệ cho doanh

nghiệp, trên cơ sở đó tạo ra sự thoả mãn cao hơn cho yêu cầu của sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sự liên kết này không những sẽ rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến ứng

dụng mà còn nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng.

3.2.2. Kiểm soát tỷ lệ tăng dân số và cải thiện đời sống người lao động

Dân số đông, mật độ dân số cao, mức độ gia tăng dân số nhanh đang là một

trong những nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng cuộc sống thấp và sức ép về

việc làm đối với nông dân vùng đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, mật độ dân số vùng đồng bằng sông Hồng rất cao (1,224 người/km2) và mật độ này sẽ không

ngừng tăng lên hằng năm, trong khi diện tích đất nông nghiệp bình quân cho một

lao động nông nghiệp thấp và ngày càng giảm mạnh, lại bị chia cắt, manh mún

đang tạo ra những áp lực lớn trong vấn đề giải quyết việc làm cho dân cư trong

vùng, nhất là đối với nông dân. Do vậy, xét trên quy mô cả vùng cũng như từng địa

phương cần phải xây dựng chiến lược phát triển dân số tổng thể dài hạn, hướng tới

mục tiêu giảm tốc độ tăng dân số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm dần

sức ép về việc làm. Một số giải pháp cụ thể nhằm kiểm soát tỷ lệ tăng dân số:

(1) Tăng cường các chương trình và thời lượng truyền thông dân số, sức

khoẻ sinh sản vị thành niên dưới nhiều hình thức khác nhau như: truyền thanh,

98

truyền hình, báo chí, phát tờ rơi; tổ chức các đội truyền thông lưu động về dân

số đến từng thôn, làng; nêu gương các gia đình điển hình trong công tác kế

hoạch hoá gia đình hạn chế gia tăng dân số, giảm sức ép về cung lao động.

(2) Phát động phong trào xây dựng gia đình, thôn, làng văn hoá trên cơ sở

làm tốt công tác dân vận; phong trào kế hoạch hoá gia đình.

(3) Phát triển các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình: tư vấn, hướng dẫn sử

dụng các dụng cụ tránh thai, đưa cơ sở y tế về xã, nhân viên y tế về thôn, làng.

Bên cạnh việc kiểm soát tỷ lệ tăng dân số, để nâng cao chất lượng cuộc

sống của người lao động cần phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nhằm

tăng cường thể lực cho người lao động trong vùng, bằng các biện pháp sau:

(1) Phát động phong trào toàn dân nâng cao tri thức về chăm sóc sức khoẻ

trên cơ sở làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục.

(2) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kĩ thuật cho các công trình dịch vụ

chăm sóc sức khoẻ cho người lao động theo phương thức “Nhà nước và nhân

dân cùng làm” và thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế.

(3) Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, y đức nghề nghiệp của cán

bộ, nhân viên y tế, trong đó chú trọng đội ngũ nhân viên y tế, hộ sinh ở tuyến xã

bằng các biện pháp như: tổ chức bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; tham quan, hội

thảo, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao kĩ thuật nghiệp vụ với các cán bộ y tế

giỏi ở các tuyến trên; có chính sách đãi ngộ hợp lý để khuyến khích cán bộ, bác

sĩ trẻ về công tác tại các cơ sở y tế tuyến xã.

(4) Nâng cao hiệu quả chế độ bảo hiểm y tế, có chính sách trợ giá các loại

thuốc chữa bệnh cho nông dân nghèo.

Bên cạnh đó, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho người lao

động cũng sẽ góp phần quan trọng cải thiện đời sống cho họ. Đây là tiền đề quan

trọng để phát triển nguồn nhân lực, vì đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của

người lao động có ý nghĩa quyết định đến trí lực, thể lực, nhân cách, sức sáng

99

tạo và sự đam mê của họ với công việc.

3.2.3. Gia tăng tốc độ giải quyết việc làm

Gia tăng tốc độ giải quyết việc làm nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao

hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, đồng thời tạo điều kiện để người lao động

phát triển toàn diện, tăng thu nhập cho cá nhân, tăng cường sự đóng góp của

người lao động vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn của vùng, bằng các giải pháp cụ thể sau:

a) Phát triển nhanh nông nghiệp và công nghiệp

Đây là giải pháp quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động ở

đồng bằng sông Hồng theo hướng “ly nông bất ly hương”. Vì chính nó trực tiếp

tạo ra khả năng thu hút lao động tại chỗ của vùng. Các biện pháp thực hiện:

(1) Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề trong nội bộ

ngành nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hoá cây trồng, vật

nuôi, hình thành các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá, trên cơ sở đó, tăng

nhanh tỷ trọng sản xuất hàng hoá, nhất là trái cây, rau màu, gia súc, gia cầm và

thuỷ sản, bằng cách:

- Nâng cao hệ số hiệu quả sử dụng đất trồng cây hàng năm thông qua

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao;

chuyển đổi một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang các cây trồng khác có

hiệu quả cao hơn.

- Đầu tư hơn nữa cho nông nghiệp bằng cách nâng cao trình độ cơ giới

hoá, đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào

sản xuất để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo

hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái sạch.

- Khẩn trương hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp

hàng hoá để tạo điều kiện đưa nhanh cơ giới hoá và áp dụng kĩ thuật mới vào

sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và hình

100

thành các cụm công nghiệp nông thôn.

(2) Tăng cường vai trò đầu mối của hợp tác xã và phát triển mạnh kinh tế

hộ gia đình, trong đó chú trọng kinh tế trang trại ở nông thôn trên tất cả các lĩnh

vực, các ngành hoạt động mà kinh tế hộ có thể tham gia. Tính đến 01/7/2006,

đồng bằng sông Hồng có 13.863 trang trại, nếu tính bình quân mỗi trang trại thu

hút thêm 2 lao động thì chỉ bằng việc phát triển trang trại, mỗi năm cũng tạo thêm

hơn hai chục nghìn việc làm cho người nông dân. Có thể thấy rằng mấu chốt để

thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết việc làm trong nông, lâm, thuỷ sản mà đặc biệt

là trong lâm nghiệp, thuỷ sản. Để phát triển mô hình kinh tế trang trại cần:

- Phát triển mạng lưới tín dụng nông thôn, các trung tâm giống, trung tâm

chuyển giao kĩ thuật - công nghệ trên toàn vùng để nông dân có điều kiện tiếp

cận với nhiều nguồn vốn, giống cây, con có chất lượng cao, công nghệ mới, kĩ

thuật hiện đại trên cơ sở đó nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi

và hiệu quả kinh tế.

- Tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, thủ tục trong việc tập trung đất đai,

dồn điền đổi thửa, cũng như việc huy động vốn tín dụng để đẩy nhanh việc hình

thành và phát triển kinh tế trang trại trên toàn vùng.

- Thành lập và phát huy tác dụng của các quỹ hỗ trợ nông dân như: quỹ

bình ổn giá để trợ giá vật tư đầu vào và giá tiêu thụ sản phẩm đầu ra; quỹ tín

dụng đào tạo nghề, chuyển giao kĩ thuật, công nghệ; quỹ bảo hiểm nông nghiệp,

nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, có các chính sách hỗ trợ về tín dụng, thuế và

thực hiện nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, trước hết là hệ thống

giao thông nông thôn, điện, chợ, trường học và bệnh viện.

(3) Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (các công ty trách nhiệm hữu

hạn, cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ

sản...) ở nông thôn của vùng.

Phát triển ngành nghề sản xuất và dịch vụ thông qua các doanh nghiệp

101

nhỏ và vừa là giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề lao động ở nông thôn. Hiện

nay, cùng với tốc độ đô thị hoá, hình thành các khu, cụm công nghiệp thì số dân

không còn đất canh tác ngày càng nhiều. Một số có sức khoẻ thực hiện khẩu

hiệu “đâu có việc ta cứ đi”, ra thành phố làm cửu vạn, chạy xe ôm; chị em phụ

nữ buôn thúng, bán bưng; một số rất ít đi xuất khẩu lao động… Đại đa số vẫn

thiếu việc làm. Kinh nghiệm của các nước và một số địa phương cho thấy, vấn

đề việc làm ở nông thôn phải được giải quyết chủ yếu bằng việc phát triển ngành

nghề sản xuất và dịch vụ qua các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hiện nay, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn của vùng chưa

nhiều (tính đến 2004 có 6.098 doanh nghiệp, cả nước là 25.152 doanh nghiệp),

nguyên nhân có thể từ nhiều phía: do cơ chế, thiếu vốn, cơ sở hạ tầng yếu kém...

Giải quyết vấn đề này cần:

- Tập trung đầu tư phát triển một số doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn

có tính chất làm “đầu mối” cung ứng đầu vào và giải quyết đầu ra cho cả vùng

bằng cách tăng cường liên kết, hợp tác giữa các địa phương để tập trung nguồn

vốn, phân bộ hợp lý vị trí các doanh nghiệp, cũng như xác định ngành nghề kinh

doanh chủ yếu, trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của từng địa phương.

- Thành lập hiệp hội nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại và tư vấn

đầu tư, kinh doanh khu vực. Tổ chức này, một mặt, là “cầu nối” giữa các nhà

sản xuất, phân phối trong với ngoài vùng, với các nước trong khu vực và trên thế

giới; mặt khác, là thực hiện chức năng đào tạo và tư vấn cho các doanh nghiệp

thành viên.

- Có chính sách hỗ trợ và ưu đãi để khuyến khích những người muốn khởi

nghiệp kinh doanh trong vùng và thu hút những người ngoài vùng đến đầu tư

thành lập doanh nghiệp dưới các hình thức: cải tiến thủ tục cấp giấy chứng nhận

đăng kí kinh doanh và các thủ tục quản lý hành chính khác, ưu đãi lãi suất tín

102

dụng, thuê mặt bằng, sử dụng đất...

- Thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để giảm thiểu rủi ro cho các doanh

nghiệp mới đi vào hoạt động dưới các hình thức như: quỹ trợ giá, quỹ hỗ trợ

xuất nhập khẩu, quỹ bảo hiểm xuất khẩu... để những người muốn khởi sự lập

doanh nghiệp yên tâm đầu tư cho hoạt động kinh doanh.

b) Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưóng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản

phẩm và lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,

thương mại - dịch vụ; giảm dần tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động trong sản

xuất nông nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu nông sản và hàng hoá lớn cho xuất

khẩu. Muốn vậy phải thực hiện thật tốt các công việc chủ yếu sau đây:

(1) Đầu tư nâng cao, mở rộng ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ

thuật và công nghệ, đặc biệt công nghệ cao.

- Đối với công nghiệp: Phát triển nhanh công nghệ cao, nhất là trong các

lĩnh vực công nghiệp cơ bản, then chốt; công nghệ sạch; đẩy mạnh tự động hóa.

- Đối với sản xuất nông nghiệp: tập trung phát triển công nghệ giống,

công nghệ sau thu hoạch, chế biến nhằm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng

giá trị trên 1 ha đất nông nghiệp. áp dụng công nghệ sinh học vào một số lĩnh

vực chủ yếu phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu như:

+ Nâng cao chất lượng gạo.

+ Phát triển công nghệ cao trong sản xuất rau sạch.

+ Phát triển lợn có tỷ lệ nạc cao.

+ Phát triển các giống cây ăn quả đặc sản như cam, bưởi, quýt, vải, nhãn.

+ Phát triển công nghệ sau thu hoạch, giảm hao hụt sau thu hoạch, tập

trung vào các khâu phơi - sấy, bảo quản, chế biến nông sản.

+ Hoàn thiện mạng lưới khuyến nông, khuyến ngư, mạng lưới kỹ thuật

103

viên đến từng xã để tạo điều kiện đẩy mạnh công tác khuyến nông, hỗ trợ nông

dân sử dụng công nghệ mới. Xây dựng các điểm trình diễn kỹ thuật và chuyên

môn hoá sản xuất.

+ Xây dựng các trung tâm nông nghiệp công nghệ cao ở các tỉnh để sản

xuất giống có chất lượng cao.

- Đối với thuỷ sản: phát triển mạnh các loại thuỷ sản có giá trị cao phục

vụ xuất khẩu và tiêu dùng, kết hợp với đổi mới kỹ thuật và công nghệ nuôi, vừa

tránh bão gió, vừa hạn chế ảnh hưởng của mưa bão và thời tiết lạnh của mùa

đông. Đẩy nhanh việc nghiên cứu và sản xuất các giống thuỷ sản có giá trị cao.

(2) Quy hoạch các khu, cụm công nghiệp nông thôn gắn với chế biến

nông, lâm, thủy sản, gắn với thị trấn, thị tứ. Mỗi tỉnh có từ 3-5 khu, cụm công

nghiệp nông thôn tập trung. Có chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng, có giá thuê đất rẻ, thủ tục nhanh gọn.

(3) Chuyển đổi sử dụng đất nông, lâm nghiệp: Tập trung vào chuyển đổi

những diện tích đất lúa, lúa màu hiệu quả thấp sang phát triển các loại cây trồng

vật nuôi có hiệu quả cao hơn như: chuyển đất lúa vùng trũng sang lúa+thuỷ sản

(khoảng 25 - 28 nghìn ha); chuyển đất lúa màu vùng cao hạn, vùng đất bãi ven

sông sang phát triển rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả (khoảng

35 - 40 nghìn ha); chuyển đất lúa, cói, đất làm muối vùng ven biển sang nuôi

tôm cua (khoảng 3 - 4 nghìn ha); cải tạo vườn tạp thành vườn kinh tế trồng cây

ăn quả. Đồng thời khai thác có hiệu quả các loại đất chưa sử dụng (bãi bồi ven

biển, vùng nội đồng, đất bằng đất núi...) vào chăn nuôi thuỷ, hải sản và phát

triển sản xuất.

(4) Giảm sự độc canh cây lúa ở các tỉnh vùng Nam đồng bằng sông Hồng,

phát triển mạnh chăn nuôi. Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng các vùng chuyên

canh hàng hoá rau màu, cây công nghiệp, sản xuất thức ăn chăn nuôi; gắn vụ

đông với vụ đông xuân ở các vùng lúa các tỉnh thuộc tiểu vùng Nam đồng bằng

104

sông Hồng. Tập trung vào cơ sở hạ tầng thuỷ lợi phục vụ tưới chủ động, bảo

quản, chế biến nông sản phẩm. Đến 2010 đảm bảo vụ đông phát triển trên đất

lúa chiếm tỷ trọng 30-35% diện tích canh tác lúa.

(5) Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, trước hết xây dựng khu công nghiệp

chuyên nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và công nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp

hiện có (Khu sinh dưỡng công nghiệp) cho cả Vùng đồng bằng sông Hồng.

Chuyển một phần đất nông nghiệp cho phát triển khu công nghiệp, đô thị và

dịch vụ (dự kiến khoảng 38-40 nghìn ha) đem lại hiệu quả cao hơn.

Các biện pháp trên nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế nông thôn hiện đại,

hiệu quả. Đây là tiền đề cơ bản để giải quyết việc làm cho người lao động, vì

chính nó tạo ra các điều kiện cần thiết kích thích đầu tư và sản xuất kinh doanh

phát triển.

c) Khôi phục, đổi mới và phát triển các làng nghề

Lịch sử nông thôn đồng bằng sông Hồng gắn liền với quá trình phát triển

nông nghiệp và các làng nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền

thống kinh tế - văn hoá của xã hội nông thôn Việt Nam nói chung và vùng đồng

bằng sông Hồng nói riêng. Trong tiến trình đổi mới hiện nay, việc “hiện đại

hoá” công nghệ truyền thống và “truyền thống hoá” công nghệ hiện đại ở các

làng nghề là một nội dung của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn nhằm tăng trưởng kinh tế và giải quyết một số vấn đề xã hội.

Phát triển làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng, bên cạnh tăng thu nhập cho

người lao động, sẽ tạo ra nhiều việc làm cho lao động dư thừa, nhàn rỗi sau

những vụ mùa ở nông thôn, giảm áp lực di dân vào đô thị. Ngoài ra, các làng

nghề thủ công truyền thống còn có vai trò giáo dục, không chỉ nhân cách thẩm

mỹ mà cả truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ.

Hiện nay toàn vùng có gần 900 làng nghề với gần 168 nghìn hộ. Tính

bình quân mỗi hộ tạo việc làm ổn định cho 4 lao động và cho 3 người lúc nông

105

nhàn thì số lao động được sử dụng ổn định là 672 nghìn lao động và khoảng 504

nghìn người làm việc lúc nông nhàn. Như vậy, trong tương lai, nếu có định

hướng chiến lược ổn định, có quy hoạch phát triển cụ thể và có chính sách

khuyến khích các ngành nghề ở từng địa phương trong vùng thì chắc chắn sẽ đạt

được các mục tiêu về việc làm cho lao động nông thôn của vùng.

Các giải pháp chủ yếu để phát triển làng nghề của vùng trong thời gian tới:

(1) Quy hoạch phát triển các làng nghề gắn với quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước, vùng, tỉnh và ngành. Nhà nước cần quy hoạch phát

triển và có chính sách khuyến khích phát triển theo quy hoạch của các ngành

nghề cần ưu tiên, ví dụ các ngành mà tỉnh có lợi thế so sánh, các ngành thủ công

mỹ nghệ. Hiện nay, các cơ sở sản xuất - kinh doanh trên địa bàn làng nghề chủ

yếu tồn tại dưới hình thức hộ kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra tại

nơi ở của hộ gia đình. Đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên nhà xưởng quá

hẹp, môi trường bị ô nhiễm, không có khả năng mở rộng sản xuất, kết cấu hạ

tầng cho sản xuất - kinh doanh không đảm bảo. Hướng tiến tới trong quá trình

phát triển làng nghề là phải tách khu vực sản xuất khỏi khu vực nhà ở và phải

đảm bảo kết cấu hạ tầng, đảm bảo nhà xưởng cho sản xuất - kinh doanh và bảo

vệ môi trường. Phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp tích cực

hữu hiệu để thực hiện được các vấn đề trên.

(2) Phát triển thị trường cho các làng nghề. Phát triển các thị trường đầu

vào (lao động, thông tin, khoa học công nghệ, nguyên vật liệu…) và thị trường

sản phẩm cho các làng nghề. Hiện nay, Nhà nước bỏ ngỏ thị trường các làng

nghề, tư thương thao túng thị trường này. Cần phát triển các thành phần kinh tế

hoạt động trên thị trường, trong đó nêu cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước

trong cung ứng các yếu tố đầu vào quan trọng (công nghệ, thông tin…) và tiêu

thụ sản phẩm cho các làng nghề. Thông qua các hình thức như gia công đặt hàng

và hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp ở thành thị với các cơ sở sản xuất

106

kinh doanh ở nông thôn để tạo thị trường lớn và ổn định các làng nghề.

(3) Tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của làng nghề. Cần chú

ý các giải pháp như: Khai thác các thị trường ngách, phát triển quan hệ gia công

cho các doanh nghiệp lớn ở thành thị, tích cực thực hiện các biện pháp đảm bảo

và nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh ứng

dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các làng nghề. Nhà nước cần có cơ chế

bảo trợ và hỗ trợ vốn cho đổi mới công nghệ ở các làng nghề. Coi trọng công tác

tư vấn, đào tạo và áp dụng mô hình chuyển giao công nghệ cho các làng nghề.

Có chính sách khuyến khích nghiên cứu sản xuất và sử dụng máy móc thiết bị

cho các làng nghề, chính sách cho vay ưu đãi bao gồm vay ngắn hạn, trung hạn

và dài hạn để có vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ và cho sản xuất kinh doanh.

Phát triển các trung tâm đảm nhận nhiệm vụ thiết kế mẫu mã, đào tạo cho các

làng nghề.

(4) Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các làng nghề. Hình thức tổ

chức kinh doanh phổ biến trong các làng nghề ở nông thôn ĐBSH hiện nay là

kinh tế hộ gia đình, chiếm khoảng 96%. Hộ kinh tế gia đình có ưu điểm tận dụng

các loại lao động vào sản xuất công nghiệp, huy động được vốn nhàn rỗi trong

dân, tạo động lực phát triển, nhưng lại có nhiều hạn chế về đổi mới công nghệ,

vốn, mở rộng sản xuất, tiếp cận thị trường. Để các làng nghề đi vào sản xuất

hàng hoá, cần phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành

phần kinh tế khác nhau trên địa bàn nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ

này được hình thành theo 2 cách: từ các hộ kinh tế gia đình tích tụ và tập trung

thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ (đây là cách chủ yếu) hoặc lập mới một số

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn bằng cách gọi vốn đầu tư từ những người

sống ở thành thị và tỉnh khác.

(5) Kêu gọi các dự án quốc tế đầu tư, hỗ trợ phát triển các làng nghề

107

truyền thống của vùng.

Với các giải pháp trên việc phát triển nghề mới và khôi phục, phát triển

làng nghề truyền thống tại địa phương chính là một trong những lời giải cho bài

toán giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn đồng bằng sông Hồng.

d) Phát triển thị trường lao động nông thôn

Giải quyết việc làm là sự kết hợp giữa mở rộng thị trường lao động với

trang bị kĩ năng cho người lao động. Một thị trường lao động năng động, hoạt

động hiệu quả sẽ là môi trường tốt cho cung, cầu lao động được thực hiện, góp

phần giải quyết việc làm.

Một trong những chức năng quan trọng của thị trường lao động là phải tạo ra

sự chuyển tiếp “trôi chảy” từ “nhà trường đến việc làm”. Để đạt được điều này cần:

Thứ nhất, tạo ra những đòn bẩy khuyến khích học sinh cố gắng học tập để

đạt được kết quả cao nhất, và chính điều này lại thúc đẩy cải thiện môi trường

nhà trường và nâng cao chất lượng giảng dạy;

Thứ hai, phải cung cấp sớm cho học sinh những thông tin cần thiết về công

việc, những phương án lựa chọn sau khi ra trường, và thông tin thị trường lao động

nói chung cho những ai không có ý định học tiếp lên các cấp học cao hơn;

Thứ ba, chuẩn bị nghề nghiệp tích cực trên cơ sở kết hợp giáo dục phổ

thông với đào tạo tại chỗ và sự chuẩn bị này được kéo dài trong một số năm cuối

cùng trước khi mỗi cá nhân được chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng làm việc (tham

gia thị trường lao động).

Do đó, để có thể gắn với phát triển nguồn nhân lực, thị trường lao động

nông thôn của vùng cần được hoàn thiện theo một số nội dung cơ bản sau đây:

- Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước của vùng trong

việc quản lý và giám sát hoạt động của thị trường lao động. Thành lập cơ quan

nhà nước chuyên trách quản lý về thị trường lao động, thực hiện chức năng

nghiên cứu pháp luật và thể chế về thị trường lao động để định hướng phát triển

108

thị trường lao động, tham mưu cho hoạt động đào tạo, điều phối cung - cầu lao

động trên thị trường giữa các địa phương trong vùng nhằm khắc phục tình trạng

mọi chức năng quản lý nhà nước về lao động đều thuộc về sở Lao động - thương

binh và xã hội của các tỉnh và phòng Lao động - Thương binh và Xã hội của các

huyện như hiện nay.

- Xây dựng hạ tầng cơ sở cho hệ thống thông tin thị trường lao động để gắn

đào tạo nguồn nhân lực với cầu lao động một cách hiệu quả. Các kế hoạch đào tạo

nguồn nhân lực riêng lẻ phải được xây dựng trên cơ sở nhu cầu thị trường cụ thể và

có phân tích dự báo nhu cầu về lao động có tay nghề từ mỗi ngành và địa phương

trong vùng (cũng như ý thích của người học). Xây dựng hệ thống thông tin thị

trường lao động do nhiều công ty tư vấn cung cấp, sao cho có thể giúp học sinh khi

lựa chọn được ngành nghề phù hợp và những loại hình đào tạo sẵn có.

- Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm. Hiện nay ở đồng bằng

sông Hồng có không ít các trung tâm giới thiệu việc làm, nhưng tập trung phần lớn

ở các thành phố và thị xã. Đáng nói hơn, hoạt động của những tổ chức này chưa

mang tính chất là dịch vụ hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp, vì thế chưa

thực sự mang lại hiệu quả. Từ thực tế đó, để giúp thị trường lao động phát triển, hệ

thống trung tâm giới thiệu việc làm cần được kiện toàn theo những hướng sau:

Khuyến khích, hỗ trợ phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm

phân bố hợp lý ở khu vực nông thôn trên toàn vùng, trong đó chú trọng những

nơi có thị trường hoạt động mạnh, những địa bàn có nhiều người tìm kiếm việc

làm, đồng thời hoàn thiện quy chế tổ chức hoạt động theo quy định của Bộ luật

Lao động.

Đầu tư xây dựng, nâng cấp trang thiết bị, nâng cao trình độ nghiệp

vụ của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng hoạt động của các

trung tâm.

Tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với các trung tâm, thông

109

qua việc ban hành và tổ chức thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra, giám sát đối

với hoạt động của trung tâm, nhằm ngăn ngừa và hạn chế các hoạt động tiêu

cực, nghiêm trị các tổ chức hoặc cá nhân vi phạm pháp luật về giới thiệu việc

làm gây thiệt hại cho người lao động hoặc người sử dụng lao động.

3.2.4. Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nhân tài

Đây là một giải pháp quan trọng đối với phát triển nguồn nhân lực nông

nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Do vậy để thực hiện tốt việc nâng

cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực đặc biệt là nhân tài cần lưu ý một số điểm sau

đây:

Tìm kiếm đánh giá phát hiện những triển vọng tài năng bằng các mô hình

học tập và làm việc theo nhóm, tổ chức các cuộc thi sáng tạo đa dạng và phong

phú.

Đầu tư phát triển nhân tài bằng cách cử đi học tập đào tạo ở trong và

ngoài nước, lâu nay các tỉnh trong vùng đã làm song chúng ta mới chỉ chú trọng

ở trong nước, chưa chú trọng đến đội ngũ có chất lượng cao, đội ngũ lao động

đầu ngành, đầu đàn, cần hỗ trợ kinh phí học tập, sáng tạo gắn với một số chế tài

đảm bảo đối tượng tham gia đào tạo trở về phục vụ cho địa phương nhất là đội

ngũ đào tạo ở nước ngoài.

Cần có chính sách kêu gọi nhân tài của các tỉnh sau khi học tập về phục

vụ quê hương nhất là học tập ở nước ngoài. Đồng thời có chính sách hỗ trợ và

thu hút nhân tài từ các nơi khác đến làm việc cho vùng. Nâng cao nhận thức của

đội ngũ cán bộ lãnh đạo của các tỉnh trong việc đổi mới cơ chế, trọng dụng nhân

tài, sử dụng và phát triển tài năng của thế hệ trẻ một cách hợp lý; chống các

quan điểm tiêu cực, cục bộ trong việc bố trí và sử dụng nhân tài. Bên cạnh đó có

chính sách, chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần theo phương châm “trải chiếu

hoa mời gọi nhân tài” chính sách tiền lương và khen thưởng hợp lý.

Đối với đội ngũ lực lượng lao động hiện có cần tạo điều kiện môi trường làm

110

việc thuận lợi cho người lao động, việc đào tạo và đào tạo lại cho người lao động

thích nghi với sự phát triển của khoa học công nghệ của kinh tế thị trường phải

được tiến hành thường xuyên. Tổ chức các hình thức thi đua động viên, khuyến

khích nâng cao tay nghề, năng lực chuyên môn và có chính sách khen thưởng hợp

lý. Tạo môi trường làm việc thông thoáng cho người lao động, nâng cao trách

nhiệm xã hội thông qua các hoạt động của các tổ chức đoàn thể như công đoàn,

đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động văn hóa, dã ngoại, du lịch... Tổ chức y tế

khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ công chức nhất là những cán bộ công chức mắc

các bệnh nghề nghiệp, giao lưu với các đơn vị, nâng cao sự hiểu biết, nâng cao đời

sống văn hóa tinh thần cho người lao động. “Xây dựng hệ thống luật pháp về lao

động và thị trường sức lao động nhằm đảm bảo quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi

cư trú của người lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm

quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động” [17, tr.243-244].

3.2.5. Các chính sách và sự hỗ trợ của nhà nước

Để phát triển nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn cần thiết phải thực hiện triển khai có hiệu quả các chính

sách và sự hỗ trợ của Nhà nước phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng như:

+ Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X

về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó nhiệm vụ và giải pháp quan

trọng là “Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển

nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn.

Thực hiện tốt việc xã hội hóa công tác đào tạo nghề. Đến 2020, đạt tỷ lệ lao

động nông thôn qua đào tạo trên 50%;

+ Nghị quyết 24 của Chính phủ về chương trình hành động thực hiện

Nghị quyết 26 của Ban chấp hành Trung ương trong đó đặt ra nhiệm vụ: tập

trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ

trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch

111

vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp thì

được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện

đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ

cơ sở.

+ Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 vừa được

chính phủ phê duyệt (11/2009). Theo đề án, từ nay đến năm 2020 bình quân mỗi

năm sẽ đào tạo cho hơn 1 triệu lao động nông thôn, trong đó, đào tạo và bồi

dưỡng cho 100.000 cán bộ và công chức xã. Để từ đó, nâng cao chất lượng và

hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập lao động nông thôn;

góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Song song với việc đào

tạo nghề để án cũng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã có bản lĩnh chính

tri, vững vàng, có trình độ, năng lực, phẩm chẩt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản

lý hành chính , quản lý điều hành kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Theo dự tính thì tổng kinh phí thực hiện

Đề án vào khoảng 25.980 tỷ đồng.

Để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho nông

nghiệp, nông thôn cần có chính sách hỗ trợ phù hợp, có tính khả thi cao. Đó là:

- Tiếp tục đầu tư kinh phí cho kiên cố hóa phòng học ở khu vực nông thôn

chưa hoàn thành. Hỗ trợ 100% kinh phí sách giáo khoa và sinh hoạt phí cho học

sinh thuộc diện nghèo hoặc đối tượng chính sách xã hội cho học sinh các trường

nội trú.

- Hỗ trợ thúc đẩy dạy nghề, bằng việc điều chỉnh, bố trí ngân sách hỗ trợ

mua sắm thiết bị đào tạo nghề cần thiết cho các trung tâm giáo dục cộng đồng.

Tăng kinh phí đầu tư xây dựng các mô hình khuyến nông, xây dựng mô hình

nông thôn mới hơn trước. Hỗ trợ kinh phí để ít nhất mỗi huyện có một Trung

tâm dạy nghề tổng hợp theo chuẩn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (do

112

doanh nghiệp đầu tư và thực hiện). Giúp cho người học nghề được vay ngân

hàng không lãi suất tiền học phí (ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất ngân hàng).

Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo công nhân (bằng chính

sách hỗ trợ một phần kinh phí dạy nghề cho công nhân, nhân viên mới tuyển

chưa có chứng chỉ nghề).

- Hỗ trợ 100% kinh phí cho đào tạo cán bộ cơ sở và có chính sách đưa cán

bộ khoa học - kỹ thuật về nông thôn thông qua việc yêu cầu thực hiện chế độ

nghĩa vụ đối với sinh viên đại học (các ngành liên quan đến nông nghiệp, nông

thôn) về công tác tại cơ sở xã thời hạn từ 3 đến 5 năm. Cùng với áp dụng nghĩa

vụ đi thực tế và phục vụ nông thôn là khuyến khích chế độ đãi ngộ. Ngoài tiền

lương, đối tượng này còn được hưởng ít nhất 50% lương và sau thời hạn nghĩa

vụ, họ sẽ được ưu tiên xét tuyển bổ sung cho lượng công chức và các đơn vị sự

113

nghiệp nông nghiệp các cấp.

KẾT LUẬN

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được coi là nhiệm

vụ rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đảm bảo thành công sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng. Quá trình này đòi hỏi phải

được đảm bảo bằng một nguồn nhân lực có chất lượng: có năng lực sáng tạo,

nhạy bén, năng động, thích ứng và làm chủ quá trình biến đổi, có tri thức khoa

học, công nghệ và năng lực vận dụng tri thức đó vào thực tiễn, có thể chất và

tinh thần tốt, có tư tưởng vững vàng.

Thông qua vận dụng các phương pháp biện chứng duy vật gắn với các

phương pháp logic, lịch sử, phân tích tổng hợp, khảo sát, chứng minh, luận văn

đã đạt được một số kết quả sau:

Thứ nhất, luận văn trình bày một cách có hệ thống những những lý luận

cơ bản về nguồn nhân lực, các khái niệm về nguồn nhân lực, phát triển nguồn

nhân lực, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực; những đặc

điểm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và yêu

cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực. Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân

lực thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc để

rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và đồng bằng sông

Hồng nói riêng.

Thứ hai, từ những lý luận trên soi rọi vào thực tiễn nông thôn vùng đồng

bằng sông Hồng, luận văn phân tích thực trạng nguồn nhân lực nông nghiệp,

nông thôn của vùng qua các khía cạnh: về số lượng, chất lượng và hiệu quả sử

dụng trên góc độ cung - cầu về lao động và việc làm… Từ đó, làm rõ những

thành tựu đồng thời đưa ra những tồn tại, hạn chế và đánh giá những nguyên

114

nhân của những vấn đề trên.

Một là, trong những năm gần đây, việc phát triển nguồn nhân lực nông

nghiệp, nông thôn của vùng đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ như: gia

tăng về số lượng và chất lượng (cả về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kĩ

thuật, nhân cách, thẩm mỹ cũng như thể lực của người lao động); các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề, hợp tác xã, trang trại phát triển góp phần tạo

thêm nhiều việc làm, thu hút một lực lượng lớn lao động thời vụ ở nông thôn,

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của vùng.

Hai là, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì quá trình phát triển

nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn của vùng còn nhiều tồn tại như: chất

lượng nguồn nhân lực thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của vùng; hiệu quả sử dụng

nguồn nhân lực chưa cao. Nguyên nhân là do đào tạo nguồn nhân lực của vùng

còn nhiều bất cập cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng và chưa gắn với yêu cầu của

thị trường lao động; chất lượng dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cho người

dân nông thôn trong vùng còn thấp; đầu tư cho giáo dục và y tế còn hạn chế; hệ

thống chính sách chưa đồng bộ và tác dụng chưa cao.

Thứ ba, từ thực trạng trên luận văn đưa ra phương hướng và những giải

pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020. Trong đó nhấn mạnh giải

pháp quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định đến phát triển nguồn nhân lực là

phát triển giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn

nói riêng.

Với những kết quả nghiên cứu nói trên, hy vọng rằng luận văn với đề tài

“Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

vùng đồng bằng sông Hồng” có thể góp thêm tiếng nói vào quá trình phát triển

khu vực, quê hương của tác giả. Tuy nhiên, với khả năng và thời gian có hạn,

chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận

115

được sự góp ý của các nhà khoa học để hoàn thiện về sau./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo Trung ương tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản

(2006), Báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và

thuỷ sản năm 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

2. Lê Xuân Bá (2005), “Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam”, Tạp chí quản lý kinh tế, (3).

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008 - 2009,

phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ

thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008 -

2009, Đà Nẵng.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng

(2005), Tư liệu vùng đồng bằng sông Hồng 2004 - 2005, Nxb. Khoa học

và kĩ thuật.

5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1997), Thực trạng Lao động - việc

làm ở Việt Nam 1996, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

6. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2004), Lao động - việc làm ở Việt

Nam 1996- 2003, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

7. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2005), Số liệu thống kê Lao động -

việc làm ở Việt Nam 2004, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

8. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu thống kê Lao động -

việc làm ở Việt Nam 2005, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

9. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Quyết định

116

số 667/TTg của Chính phủ về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể kinh tế -

xã hội vùng đồng bằng sông Hồng thời kì 1996 - 2010,

http://www.vbqppl.moj.gov.vn.

10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Chương trình

hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 54/NQ-TW của Bộ

Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng

đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,

http://www.vbqppl.moj.gov.vn.

11. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Quyết định

số 1956/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động

nông thôn đến năm 2020”, http://www.chinhphu.vn.

12. Nguyễn Sinh Cúc (2008), “Phát triển khu công nghiệp vùng đồng bằng

sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản,

(14/158).

13. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (2004), Phát triển lao động kĩ thuật ở Việt

Nam lý luận và thực tiễn, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

14. Đại học Công đoàn Việt Nam (2005), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Nâng cao

hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại

hoá ở Việt Nam và vai trò của tổ chức công đoàn, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Nxb.

117

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân,

nông thôn, http://www.vbqppl.moj.gov.vn

20. Lê Quý Đức (2005), Vai trò của văn hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá

- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb.

Văn hoá - Thông tin và Viện văn hoá, Hà Nội.

21. Phạm Minh Hạc (1998), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Lưu Văn Hưng (2006), “Thách thức việc làm đối với lao động nông thôn

nước ta hiện nay”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, kỳ I.

23. Phan Thanh Khôi (2006), Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb. Lý luận

chính trị, Hà Nội.

24. Bùi Thị Ngọc Lan (2006), “Hướng giải quyết việc làm cho nông dân đồng

bằng sông Hồng”, Tạp chí Cộng sản, (110).

25. Bùi Thị Ngọc Lan (2007), Việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông

Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Lý luận chính

trị, Hà Nội.

26. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và

đào tạo, kinh nghiệm Đông Á, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Lê (2003), Đề tài nghiên cứu khoa học“Kết quả khảo sát

giáo dục phổ thông với việc chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa” - Đề tài nhánh của đề tài KX-05.

28. Phương Loan (2007), Doanh nghiệp tái mặt vì đào tạo lại nhân lực,

118

http://vietnamnet.vn/giaoduc/2007/10/750556

29. Trần Văn Luận (1995), Sử dụng nguồn lao động nông nghiệp ở vùng đồng

bằng sông Hồng trong nền kinh tế thị trường, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà

Nội.

30. Hoàng Ngân, Phát triển bền vững các làng nghề đồng bằng sông Hồng,

thực trạng và giải pháp, http://www.saga.vn/Kynangquanly

31. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân, (2004), Quản lý mguồn nhân lực ở

Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

32. Bùi Văn Nhơn (2009), Giáo trình Quản lý nguồn nhân lực xã hội, Nxb.

Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

33. Trương Thị Minh Sâm (2003), Những luận cứ khoa học của việc phát triển

nguồn nhân lực công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

34. Nguyễn Đình Phan (2002), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê 2000, Nxb. Thống kê, Hà

Nội.

36. Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2006,

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

37. Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp

và thuỷ sản 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

38. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống kê, Hà

Nội.

39. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb. Thống kê, Hà

Nội.

40. Nguyễn Thị Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực đồng bằng sông Cửu

119

Long, Luận án tiến sĩ Kinh tế.

41. Nguyễn Văn Trung (1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn,

nông nghiệp nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư (2006), Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế -

xã hội vùng đồng bằng sông Hồng thời kì đến năm 2010 và những năm

tiếp theo đến năm 2020, http://ncseif.gov.vn.

43. Trần Thị Tuyết (1996), Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nhằm tạo

việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng,

Luận án tiến sĩ Kinh tế.

44. Viện Chính sách và chiến lược phát triên nông nghiệp, nông thôn (2008),

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam- Hôm nay và mai sau, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đào Quang Vinh (2005), Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Luận án tiến sĩ Kinh tế.

46. Vụ Lao động - Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008),

Việc làm cho thanh niên ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông

nghiệp và nhu cầu tìm việc làm của thanh niên nông thôn ở khu công

nghiệp tại Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hải Phòng, Nxb. Lao động

- xã hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Trọng Xuân (2006), Đề tài khoa học cấp bộ: Luận cứ khoa học góp

phần thực hiện điều chỉnh định hướng chiến lược phát triển vùng đồng bằng

120

Sông Hồng theo nguyên lý bền vững, Viện kinh tế Việt Nam, Hà Nội.