ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------------------------------------------------- Nguyễn Long Quân

Khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trình bày thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của ngành thủy sản. Nêu những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở ngành thủy sản trong thời gian qua. Đưa ra một số phương hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ngành thủy sản như: xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý, tạo nhiều việc làm mới để tận dụng lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, tăng cường vai trò của Nhà nước, của ngành và chính quyền các địa phương đối với việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực Luận văn ThS Kinh tế: 60.31.01

Nghd. : TS. Phạm Tất Thắng

ĐẠI HỌC KINH TẾ

Hà Nội – 2007

QUY ƢỚC VIẾT TẮT

Nguồn nhân lực Công nghiệp hoá Hiện đại hoá Công nghiệp hoá,hiện đại hoá Kinh tế –xã hội Nhà xuất bản

NNL : CNH: HĐH : CNH,HĐH : KT-XH: NXB:

1

MỤC LỤC Trang

1

Mở đầu……………………………………………………… Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệphoá,hiện đại hoá đất nƣớc. 9 1.1.Công nghiệp hoá,hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ………………………………………………… 9 1.2.Nội dung ,nhân tố ảnh hưởng và vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực …………………………………………….. 33

Chƣơng 2. Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở ngành thủy sản. 53

53

62

2.1.Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở ngành Thủy sản………………………………. 2.2.Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở ngành Thủy sản thời gian qua…………………………………….. 2.3.Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ……………………………………. 76

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử dụngnguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở ngành Thủy sản.

84 84

3.1.Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ………… 3.2.Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở ngành thủy sản………………………………………

Kết luận.

93 109 Danh mục tài liệu tham khảo . 111

2

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài.

Hiện nay đất nước ta đang trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất

nước là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Đây là

vấn đề có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ

thuật hiện đại đẩy nhanh tốc độ phát triển của đất nước tiến kịp trình độ phát

triển của các nước trong khu vực và thế giới, song cũng không kém phần khó

khăn phức tạp. Để sự nghiệp CNH, HĐH thành công, một vấn đề hết sức quan

trọng là phải phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như vốn, nguồn

nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ.Trong đó nguồn lực con người giữ vị

trí then chốt và vai trò đặc biệt quyết định nhất.

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được coi

là “Chìa khoá” của tăng trưởng và phát triển.Vận dụng lý luận vào điều kiện cụ

thể nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam cho rằng : “Phát huy nguồn lực trí tuệ và

sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ là nền tảng và

động lực của sự nghiệp CNH,HĐH mà còn là điều kiện để phát huy nguồn lực

con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh bền

vững”(17,tr.108-109). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng

định: Phát triển nguồn nhân lực, phấn đấu đến năm 2010 có nguồn nhân lực với

cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, đến năm 2010 tỷ lệ lao động trong khu vực

nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội”(NXB Chính trị quốc gia-

Tr 215).

3

Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH,HĐH bao gồm nhiều nhiệm vụ

trong đó có nhiệm vụ đào tạo và sử dụng NNL Nhiệm vụ này vừa là nhiệm vụ

chung của cả nước, vừa là nhiệm vụ của mỗi ngành .

Cũng như các ngành khác,ngành thủy sản trong thời gian qua đã và đang có

những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNLvà đã thu được kết quả

nhất định .Song cho đến nay về cơ cấu ;chất lượng đào tạo và sử dụng NNL chưa

đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH .Tình trạng vừa thừa vừa thiếu NNL

trong sử dụng luôn xảy ra .

Để góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận , thực tiễn và tìm những lời giải

khoa học đối với việc đào tạo ,sử dụng NNL phục vụ tốt quá trình CNH,HĐH ở

ngành thủy sản .Tôi chọn đề tài : “Nguồn nhân lực trong ngành thủy sản ở Việt

nam”. nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế .

2.Tình hình nghiên cứu.

Vấn đề NNL đối với CNH,HĐH cho đến nay đã có nhiều công trình khoa

học ,nhiều cuốn sách,bài báo nghiên cứuvàđăng tải ,dưới đây là một số công

trình tiêu biểu:

- Tạp chí lý luận chính trị của Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh đã giành một chuyên mục: “Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa” cho những bài viết về vấn đề này như bài: Vài suy

nghĩ về chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa ,hiện đại hóa theo định

hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Nguyễn Văn Thụy,bài:” Mối quan hệ giữa

phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa ,hiện đại hóa” của tác

giả Nguyễn Đình Hòa.

4

- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá của tác giả

Nguyễn Trọng Chuẩn ,NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội ,năm1996.

- Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá

của Phan Xuân Dũng ,Tạp chí Cộng sản ,tháng 9/1997.

- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa của giáo

sư Tiến sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội ,năm1996.

- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp

hoá ,hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng

,Tạp chí Lý luận chính trị , tháng 8/2002.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá

,hiện đại hoá đất nước của tác giả Mai Quốc Chánh ,NXB Chính trị quốc gia ,Hà

Nội ,năm1999.

- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác giả

Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa.NXB Sự thật ,Hà Nội , năm1991.

Tuy nhiên,do nội hàm của vấn đề quá rộng và phức tạp nên chưa thể coi

những công trình nghiên cứu nói trên là đầy đủ và hoàn thiện,các giải pháp đưa

ra còn rất chung chưa thể coi là hoàn toàn thích hợp khi vận dụng ở ngành thủy

sản. .Xung quanh vấn đề đào tạovàsử dụng NNL ở ngành thủy sản tuy đã được

nghiên cứu và được thể hiện trong một số công trình và bài báo nhưng chưa

nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống, đầyđủ với tư cách như một đề tài

mang tính độc lập .

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

* Mục đích của luận văn:

5

Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong

quá trình CNH,HĐH đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy

việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH trong thời gian tới ở

ngành Thủy sản.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về NNL, đào tạo và sử dụng NNL

trong quá trình CNH,HĐH.

- Phân tích thực trạng đào tạo và sử dụng NNL ở ngành Thủy sản thời gian

qua .

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và

sử dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH thời gian tới ở ngành Thủy sản.

4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

* Đối tượng nghiên cứu :

Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH làm

đối tượng nghiên cứu .

* Phạm vi nghiên cứu :

Lấy ngành Thủy sản làm không gian nghiên cứu và giới hạn về thời gian

khảo sát từ năm 1996 đến nay .

Các giải pháp đề cập trong luận văn là những giải pháp cơ bản nhìn từ góc

độ kinh tế chính trị .

5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .

6

* Cơ sở lý luận :

Lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ,quan điểm của Đảng cộng

sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL ,về đào tạo và sử dụng

NNL.

* Phương pháp nghiên cứu :

Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng việc sử dụng phương pháp biện

chứng duy vật ,phương pháp trừu tượng hoá ,phương pháp tổng hợp và phân tích

. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng phương pháp thống kê, định

lượng, so sánh….

6.Đóng góp và ý nghĩa của luận văn.

* Đóng góp của luận văn:

- Góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đào tạo và

sử dụng NNL trong quá trinh CNH ,HĐH .

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử

dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH ở ngành Thủy sản .

*Ý nghĩa của luận văn :

- Kết quả của luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định sự

phát triển NNL trong quá trình CNH,HĐHcủa ngànhThủy sản .

- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy môn

kinh tế chính trị trong các trường đại học và cao đẳng của ngành thuỷ sản .

7.Kết cấu của luận văn .

7

Ngoài phần mở đầu,kết luận và danh mục tài liệu tham khảo , luận văn gồm

3 chương 7 tiết .

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong

quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước .

Chương 2:Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở ngànhThủy sản .

Chương 3:Phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử

dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá thời gian tới

ở ngành Thủy sản.

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO

VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC

1.1 Công nghiệp hoá,hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân

lực .

1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.

1.1.1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Công nghiệp hoá ,là một quá trình tất yếu của lịch sử phát triển xã hội.Các

nước công nghiệp trên thế giới đều đã trải qua quá trình CNH ở những thời điểm

khác nhau với quy mô,tốc độ khác nhau,trong những điều kiện lịch sử KT-XH

khác nhau.Xét về mặt lịch sử thì CNH là quá trình diễn ra trước HĐH,nhưng

trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen,tác động qua lại lẫn nhau ,hai quá

trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau.Về mặt thuật ngữ cho thấy HĐH

là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật – công nghệ và kinh tế đạt trình độ của thời

đại ngày nay.Nói cách khác,HĐH nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ thuật và

công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế của đất nước đạt được ngang với

trình độ của thời đại,đây chính là khía cạnh kinh tế kỹ thuật của HĐH.Tuy

nhiên,HĐH không chỉ như vậy mà còn bao hàm cả khía cạnh xã hội ,gắn với quá

9

trình xây dựng một xã hội văn minh .Như vậy,quá trình kinh tế – kỹ thuật và quá

trình KT-XH có quan hệ biện chứng với nhau. Quá trình kinh tế – kỹ thuật tạo

điều kiện vật chất cho việc thực hiện nội dung của quá trình KT- XH và đến lượt

mình quá trình KT-XH lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá

trình kinh tế – kỹ thuật.Sự phát triển CNH hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn còn là quá

trình xây dựng và phát triển văn hoá trong đó phát triển con người và nguồn lực

con người là nội dung cốt lõi.

Ở nước ta, một nước tiến hành CNH sau ,nên CNH phải gắn liền với HĐH

,bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật

:Cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng khoa học công

nghệ hiện đại .Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại này đã dẫn tới sự

thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất .Là nước tiến hành công nghiệp

sau ,nên chúng ta không thể thực hiện theo mô hình CNH phát triển theo kiểu

tuần tự như các nước đi trước ,nghĩa là tiến hành với nội dung căn bản là cơ khí

hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành HĐH .Đồng thời khi thực hiện

cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc được sản xuất trước đây mà phải sử

dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến .Với ý nghĩa trên Hội nghị lần thứ

7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Đại hội Đảng lần thứ IX

,nhấn mạnh về con đường CNH rút ngắn đáng kể về thời gian ,vừa có bước đi

tuần tự vừa có bước nhảy vọt ,muốn vậy CNH phải gắn liền với HĐH .Đảng ta

quan niệm CNH,HĐH là : “ Quá trình chuyển đổi căn bản ,toàn diện các hoạt

động sản xuất kinh doanh ,dịch vụ và quản lý KT-XH từ sử dụng lao động thủ

công là chính sang sử dụng lao động một cách phổ biến sức lao động cùng với

công nghệ và phương tiện ,phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển

10

của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội

cao”(14,tr.80).

Thực chất CNH,HĐH ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật dựa trên công nghệ ,phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến hiện đại

,yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH nhằm đạt năng suất

lao động xã hội cao .Tuy nhiên ,đây không chỉ là quá trình tăng thêm một cách

đơn giản về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà

còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc thường xuyên đối mới

công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững hiệu quả cao theo định

hướng XHCN trong tất cả các ngành ,các vùng và các thành phần kinh tế của nền

kinh tế quốc dân .

1.1.1.2.Nguồn nhân lực

Trước khi xem xét khái niệm nguồn nhân lực ( nguồnlực con

người),chúng ta cần tìm hiểu và làm rõ một số khái niệm liên quan với nó, như là

khái niệm con người ,nhân tố con người.

- Về khái niệm con người? Nguồn gốc bản chất con người như thế nào?

Con người có vị trí vai trò gì trong phát triển xã hội?.. xung quanh vấn đề này đã

tồn tại nhiều khái niệm khác nhau.

Lịch sử tư tưởng nhân loại đã cho thấy rằng,con người là chủ đề thu hút sự

quan tâm nghiên cứu của nghiều nhà khoa học,trở thành vấn đề trung tâm của

nhiều học thuyết.vào thời kỳ nguyên thuỷ,do các tri thức khoa học còn ít ỏi và sơ

khai nên trình độ nhận thức của con người còn hạn chế, lúc đó con người không

lý giải được các hiện tượng thông thường nhất của tự nhiên( như:mưa bão ,sấm

chớp, động đất…),nên chứng kiến các hiện tượng tự nhiên như vậy con người rất

11

lo sợ,tâm lý lo sợ đó khiến con người thần thánh hóa hiện tượng tự nhiên và để

thoát khỏi sự lo sợ con người đã tự an ủi mình bằng việc thờ cúng tế lễ.Họ tin

rằng,chính sức mạnh của tự nhiên thượng đế,các vị thần là nguồn gốc sinh ra

mình.Do vậy ở thời kỳ nàyhầu hết các tôn giáo đều quan niệm con người được

sinh ra từ một đấng bề trên nào đó,cuộc sống của con người do số phận định

đoạt.

Bước sang xã hội cổ đại,con người đã có được những tri thức nhất

định,bước đầu họ cảm nhận về vị trí và vai trò của mình trong thế giới.Những

suy tư ấy được biểu hiện trong tư tưởng của các nhà triết học mang mầm mống

duy vật,họ cho rằng con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hoá.Là thước đo

tất thảy của mọi vật.Mặc dù có nhiều hạn chế nhưng quan điểm của các nhà triết

học cổ đại là sự phát triển mới trên con đường nhận thức về bản thân mình của

con người.Nó đặt nền móng cho việc nghiên cứu về con người trong những giai

đoạn sau.

Nhận thức về con người được một bước phát triển đáng kể vào giữa thế kỷ

XVIII trong tư tưởng của các nhà duy vật Pháp và thể hiện rõ nét nhất là trong

triết học nhân bản của Phoi-ơ-bắc.Ông đã đấu tranh quyết liệt với những quan

điểm duy tâm,thần bí và tìm cách giải thích về bản chất ,nguồn gốc con người

theo quan điểm duy vật.Tuy nhiên,Phoi-ơ-bắc đã không giữ được quan điển duy

vật một cách triệt để khi đi vào giải quyết các mối quan hệ của con người.con

người trong quan niệm của ông là rất trìu tượng,con người phi xã hội,phi giai

cấp, con người tách rời các mối quan hệ xã hội và các điều kiện sinh hoạt vật

chất,chứ không phải là con người hiện thực.

Với quan niệm duy vật về lịch sử,lần đầu tiên con người được nhận thức

một cách đầy đủ và khoa học trong triết học Mác.Trên cơ sở kế thừa có phê 12

phán các quan điểm của các nhà triết học trước đó,C.Mác đã chỉ rõ,con người là

sản phẩm tiến hoá lâu dài của giới sinh vật,là một động vật bậc cao.Cũng giống

như mọi động vật khác,con người là một bộ phận của tự nhiên,tồn tại trong tự

nghiên .Nhưng có nhiều sự khác biệt giữa con người và con vật ,điểm phân biệt

lớn nhất là vì con người biết lao động sản xuất.Nhờ lao động sản xuất mà con

người quan hệ với tự nhiên,quan hệ với xã hội và quan hệ với đồng loại.các mối

quan hệ đó đều mang tính chất xã hội,quan hệ xã hội là quan hệ bản chất

nhất,bao trùm nhất trong các hoạt động của con người.Bởi vậy Mác kết luận:

“Trong tính hiện thực của nó,bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ

xã hội”.

Nghiên cứu vai trò của lao động sản xuất với sự phát triển của con người

và xã hội,Mác đã chỉ ra rằng, nhờ có lao động mà con người được chuyển hoá từ

loài vật.Thời ban đầu lao động của con người chỉ là bản năng,nhưng khi ý thức

và ngôn ngữ xuất hiện thì lao động đó mang tính xã hội.Lao động sản xuất là yếu

tố quyết định nhất trong đời sống xã hội của con người.C.Mác viết “... Sản xuất

ra tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính

đời sống vật của mình” (1, 29).

Khái niệm con người chứa một nội dung rộng và phức tạp,trong các công

trình nghiên cứu khoa học và nguồn nhân lực thuộc phạmvi chương trình KX- 07

vàKHXH- 04 đã đề cập đến một hướng tiếp cận.Theo đó,con người đươc hiểu là

một hệ thống tích hợp những đặc điểm của vũ trụ,giới sinh học,xã hội,sinh

lý.tâm lý, chứa đựng tất cả các cấp độ phản ánh: Cơ,sinh,xã hội,tâm lý.

Công trình nghiêu cứu của GS.TSKH.Phạm Minh Hạc,viện nghiên cứu về

con người,đã phân định một cách rõ ràng khái niệm con người.Với tư cách là tột

đỉnh của quá trình tiến hoá của thế giới sinh vật và tiếp tục phát triển,con người 13

trở thành cá thể rồi cá nhân và nhân cách.Khi con người là đại diện của loài

người ta gọi nó là cá thể.Với tư cách là thành viên xã hội người ta gọi cá nhân

như là một thực thể độc lập và khi nó có đủ năng lực để nó có đủ năng lực để trở

thành chủ thể của hoạt động học tập,lao động,vui chơi,con người trở thành nhân

cách”(26,139-140).

Từ hướng tiếp cận trên,đòi hỏi chúng ta khi xem xét và giải quyết các vấn

đề con người,phải được nhìn nhận một cách toàn diện,cụ thể trên các mặt trong

tính hiện thực của nó.Thực tiễn quá trình xây dựng đất nước ta,nhất là giai đoạn

trước đổi mới,đã có những lúc chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề con

mgười,nên đã coi con người như là một sản phẩm thụ động của hoàn cảnh.Cũng

do vậy,trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới,đôi khi chúng ta

đã chủ quan duy ý trí trong việc giải quyết những vấn đề về con người.Bởi thế đã

không phát huy được sự đóng góp tích cực, sáng tạo của từng cá nhân con người

trong sự nghiệp xây dựng,phát triển đất nước.Cho nên khĩ xem xét và giải quyết

những vấn đề về con người không được xem nhẹ yếu tố này,đề cao yếu tố kia và

ngược lại,vì như vậy sẽ không thấy hết được bản chất hiện thực của con người.

+ Khái niệm nhân tố con ngƣời:

Nhân tố con người là một khái niệm được phát triển từ quan niệm về vấn

đề con người của chủ nghĩa Mác.Có thể nói,trên một phạm vi nào đó,khái niệm

nhân tố con người có những điểm đan xen,trùng hợp với khái niệm con người

.Tuy vậy giữa chúng có những điểm phân biệt.Khi nó tới nhân tố con người ,tức

là nhất mạnh đến vai trò vị trí của con người tham gia vào hoạt động thực tiễn

mà trước hết là hoạt động sản xuất vật chất.Nó là động lực quan trọng bậc

nhất,thể hiện sức mạnh tổng hợp của chủ thể người trong mối quan hệ với các

14

nhân tố khác đem lại sự phát triển cho xã hội.

Nhân tố con người là một nhân tố xã hội đặc biệt,nó bao gồm hai mặt cá

thể và cộng đồng.Nên ,khi xem xét nhân tố con người trong các điều kiện kinh

tế- xã hội xác định thì nó phải được nhìn nhận trên cả hai mặt này.Trong thời kỳ

đổi mới,nhân tố con người được khảo sát trên phương diện là người lao động

mới,chủ thể của quá trình cải tạo xã hội cũ ,xây dựng xã hội mới.

Các yếu tố cấu thành nội dung của khái niệm nhân tố con người có thể

nói,chủ yêú là số lượng và chất lượng lao động của con người được thể hiện

trong hoạt động sản xuất.các yếu tố này quy định năng lực và trình độ của con

người trong việc xây dựng và cải tạo xã hội.

Mục đích việc nghiên cứu làm rõ nội hàm khái niệm nhân tố con người là

nhằm có được cái nhìn khái quát,toàn diện và cụ thể hơn về các thành tố liên

quan trực tiếp đến nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành khi nghiên cứu về vai trò của

yếu tố con người trong sự phát triển KT-XH .Nguồn nhân lực được đề cập trên

nhiều góc độ khác nhau:

- Theo nghĩa rộng

-Theo lý thuyết phát triển ,NNL được hiểu theo nghĩa rộng là nguồn lực của

một quốc gia ,một vùng lãnh thổ ,là một bộ phận cấu thành của các nguồn lực ,là

lực lượng lao động của một quốc gia có thể huy động để tham gia vào quá trình

phát triển KT- XH ,đó là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng

tham gia lao động .

-Trong lý luận về vốn ,con người được đề cập đến như một loại vốn (vốn

người “Tư bản người” ),một thành tố cơ bản của quá trình sản xuất ,kinh

doanh.Ngoài ra lý luận về vốn người còn xem xét con người từ quan điểm về

15

nhu cầu ,về các nguồn cho sự phát triển của nó .Đầu tư cho con người được phân

tích tương tự đầu tư vào các nguồn lực vật chất có tính đến tổng hiệu quả của các

đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các đầu tư đó

.Cách tiếp cận này được áp dụng một cách phổ biến ở các nước hiện nay .Theo

cách tiếp cận này Ngân hàng thế giới cho rằng:NNL là toàn bộ vốn người (Thể

lực ,trí lực,kỹ năng nghề nghiệp )mà mỗi cá nhân sở hữu .Ở đây con người được

coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như :Vốn bằng

tiền ,công nghệ tài nguyên .Việc đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong

các loại đầu tư và là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững.Do đó NNL là

nguồn vốn đặc biệt ,nhất là trong giai đoạn phát triển của kinh tế tri thức gắn với

đặc trưng của lao động trí tuệ .

- Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một địa phương là tổng

hợp những tiềm năng lao động của con người có trong một thời điểm xác

định.Tiềm năng đó bao hàm thể lực, trí lực và tâm lực (đạo đức ,lối sống, nhân

cách và truyền thống lịch sử,văn hóa dân tộc) của bộ phận dân số có thể tham gia

vào các hoạt động kinh tế – xã hội .Theo nghĩa này các nhà khoa học Việt Nam

thể hiện trong Chương trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước: “Con người

Việt Nam – mục tiêu và động lực phát triển kinh tế –xã hội”( Mã số KX-07) đã

định nghĩa: “NNL được hiểu là số dân và chất lượng con người ,bao gồm cả thể

chất và tinh thần ,sức khoẻ và trí tuệ ,năng lực ,phẩm chất ,thái độ ,phong cách

làm việc”(24,tr.28).

Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân cư và

chất lượng con người với tất cả các đặc điểm,tiềm năng và sức mạnh của nó

trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Do vậy các đặc trưng cơ bản của

16

nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ, mang tính nhân quả với các đặc trưng của

dân số ở mỗi giai đoạn phát triển.

Như vậy ,nguồn lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng .

-Về số lượng,nguồn nhân lực phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có

được của cá nhân và qui định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia .Ở Việt Nam

hiện nay,Luật Lao động qui định độ tuổi lao động đối với nam từ 15- 60,đối với

nữ từ 15-55 .Số lượng NNL ,đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT-

XH .Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa hoặc thiếu )thì sẽ

ảnh hưởng không tốt đến quá trinh CNH,HĐH .Nếu thừa sẽ dẫn đến thất nghiệp

,tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế ;nếu thiếu thì không có đủ lực

lượng nhân lực cho quá trình CNH,HĐH và phát triển kinh tế đất nước .

-Về chất lượng ,nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực ,trí lực ,tinh thần

thái độ ,động cơ ,ý thức lao động ,văn hoá lao động công nghiệp ,phẩm chất tốt

đẹp của người công dân đó là yêu nước ,yêu CNXH .Trong 3 mặt :Thể lực ,trí

lực ,tinh thần ,thì thể lực là nền tảng ,cơ sở để phát triển trí lực ,là phương thức

để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn .Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan

trọng hàng đầu của NNL bởi có nó con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và

ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội

.C.Mác và Ăngghen đã nói : “Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất

nhiên phải thông qua đầu óc của họ”(32,tr,438).

Theo nghĩa hẹp

Theo bộ luật lao động, ở một không gian và thời gian xác định, xét về khả

năng có thể sử dụng,thì khái niệm nguồn nhân lực đồng nghĩa với nguồn lao

17

động.Nếu xét về tình trạng hoạt động thì khái niệm nguồn nhân lực đồng nghĩa

với lực lượng lao động.

Ở nước ta ,khái niệm Nguồn lao động” và “Lực lượng lao động” còn có

nhiều cách hiểu khác nhau.

Nguồn lao động:

-Theo giáo trình “ Kinh tế lao động” của trường đại học kinh tế quốc dân

Hà Nội nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi (nam từ 15 đến 60,nữ 15

đến 55) trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động.

Với quan niệm này, nguồn lao động sẽ không bao gồm dân số ngoài độ tuổi

lao động đang thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.

-Theo quy định của tổng cục thống kê, khi tính toán cân đối nguồn lao

động,thì nguồn lao động bao gồm toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động có khả

năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các

ngành kinh tế quốc dân, cụ thể: “ Nguồn lao động gồm những người từ đủ 15

tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao

động nhưng đang không có việc làm (Thất nghiệp) huặc đang đi học ,đang làm

nội trợ trong gia đình mình huặc chưa có nhu cầu làm việc” 58,tr24

Khái niệm nguồn lao động này được sử dụng trong điều tra mẫu quốc gia về

lao động - việc làm hàng năm,trong công tác thu thập,tổng hợp thông tin thống

kê về thị trường lao động ở Việt nam từ năm 1996 trở lại đây.khái niệm này vừa

phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động về độ tuổi lao động,vừa bao gồm

được cả những người lao động ở dạng tích cực (Đang tham gia lao động) và

những người lao động còn đang ở dạng tiềm tàng( Có khả năng lao động nhưng

18

chưa tham gia lao động); làm căn cứ để tính toán quy mô nguồn lao động tại một

thời điểm nào đó.

Lực lượng lao động:

-Theo giáo trình “Kinh tế lao động”của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà

nội, lực lượng lao động là số người trong độ tuổỉ lao động cộng 1/2 số người lao

động trên độ tuổi và 1/3 số người lao động dưới tuổi có khả năng lao động và có

nhu cầu việc làm.

-Trong cuốn sách “ Hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt nam” của

tổng cục thống kê quy định: Lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở

lên có việc làm và không có việc làm ( Biểu thị dân số hoạt động kinh tế).

Các quan niệm nêu trên về lực lượng lao động xã hội mới chỉ làm rõ được

phần nào về mặt định tính huặc định lượng,để đánh giá về quy mô lực lượng lao

động.Bởi vì trong đó còn một số yếu tố không xác định và không phù hợp với bộ

luật lao động của Việt Nam.

Theo quan niệm của ngành lao động,lực lượng lao động gồm những người

từ 15 tuổi trở lên đang tham gia hoạt động kinh tế ,không phân biệt có việc làm

hay đang thất nghiệp.

Khái niệm này cơ bản thống nhất với quan điểm của ILO và quy định hiện

hành của Tổng cục Thống kê về lực lượng lao động( lực lượng lao động đồng

nghĩa với dân số hoạt động kinh tế).

Từ những phân tích trên cho thấy : Nguồn nhân lực là tổng hợp những con

người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với tổng thể các yếu

tố về thể lực trí lực ,tâm lực .Với cách hiểu này ,NNL bao gồm những người

19

trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền tảng sản xuất xã hội theo

luật Lao động qui định .Nguồn nhân lực được phân loại thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ phân loại nguồn nhân lực

20

TỔNG DÂN SỐ

Dân số từ 15 tuổi trở lên Dân số dưới 15 tuổi

Thuộc lực lượng lao động

Không thuộc lực lượng lao động

Lao động không qua đào tạo (Không có bằng ,chứng chỉ)

Lao động qua đào tạo (Có bằng ,chứng chỉ)

Lao động kỹ thuật (Hệ thực hành) Thuộc giáo dục nghề nghiệp

Lao động chuyên môn (Hệ hàn lâm) Thuộc hệ thống giáo dục cao đẳng ,đại học ,sau đại học:Lao động quản lý ,nghiên cứu ,chuyên gia…

Bán lành nghề Lao động quản lý

Nghiên cứu

Lành nghề-công nhân kỹ thuật

Chuyên gia

Trình độ cao: - Nhân viên kỹ thuật -Nhân viên nghiệp vụ 21 -Kỹ sƣ thực hành

1.1.1.3.Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

*Đào tạo nguồn nhân lực :

Sự xuất hiện của kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy đầu tư

cho NNL ,được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác .Đầu tư phát triển NNL

được hiểu ở cả ba mặt :Chăm sóc sức khoẻ ,nâng cao chất lượng cuộc sống và

giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng nhất .Khái niệm giáo dục luôn gắn với

khái niệm đào tạo và nhiều khi bao gồm cả khái niệm đào tạo .Theo Từ điển

Tiếng Việt ,đào tạo được hiểu là : “Đào tạo là quá trình tác động đến một con

người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức ,kỹ năng ,kỹ xảo

…một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và

khả năng nhận thức một sự phân công lao động nhất định góp phần của mình vào

sự phát triển xã hội ,duy trì và phát triển nền văn minh loài người .Tuỳ theo tính

chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động , người ta phân biệt đào tạo chuyên môn

và đào tạo nghề nghiệp .Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung

do các đòi hỏi của sản xuất ,của quan hệ xã hội ,của tình trạng khoa học ,kỹ thuật

– công nghệ và văn hoá của đất nước .Có nhiều dạng đào tạo ,đào tạo cấp tốc

,đào tạo chuyên môn ,đào tạo cơ bản ,đào tạo ngắn hạn ,đào tạo từ xa ,đào tạo tập

trung ,đào tạo chính quy và không chính quy”.Về cơ bản ,đào tạo là hoạt động

giảng dạy trong nhà trường gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và

nhân cách .Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc

vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự

học và tham gia các hoạt động xã hội ,lao động ,sản xuất ,tự rút kinh nghiệm của

người đó quyết định.Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo

một cách tích cực ,tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao .

22

Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL .Nó phải đáp ứng

nhu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau :

- Nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ .

- Nhân lực trong lĩnh vực hành chính công .

- Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp .

- Nhân lực trong lĩnh vực lao động thuộc các ngành nghề kinh tế ,kỹ thuật .

Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đó chăng nữa cũng phải đảm

bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn kỹ thuật (Tức các tri

thức ,kỹ năng ,kỹ xảo thực hành ,thái độ ,phong cách ,năng lực sáng tạo để có

khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành nghề theo sự

phân công lao động xã hội .

Từ những vấn đề trên có thể hiểu : Đào tạo NNL là quá trình tác động dạy

và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và những kinh

nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành người có hiểu

biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định ,có khả năng đảm

nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ của quá trình phát

triển KT-XH .

Đào tạo NNL tạo nên sự chuyển biến về chất của NNL ,biến những tiềm

năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù hợp

với yêu cầu của phát triển KT-XH .Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH

việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo yêu cầu ,mục tiêu sau:

- Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc nâng

23

cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .

- Đào tạo phải gắn thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng và việc làm phải

gắn và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị trường lao động .

Đào tạo NNL theo yêu cầu ,mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với nhiều

loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu cầu được

đào tạo ,bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng .Việc đào

tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề trường Đại học ,Cao đẳng ,các

trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý hoặc các trường lớp thuộc doanh

nghiệp ,trong các thành phần kinh tế ,hay tại các lớp dạy nghề do các tổ chức xã

hội và các làng nghề truyền thống tổ chức .Việc đào tạo NNL có thể được thực

hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới của nền sản xuất – xã hội và

nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề – lành nghề – trình độ cao ;đào

tạo trình độ sơ cấp –Trung học chuyên nghiệp – Cao đẳng- Đại học và sau đại

học.

*Sử dụng nguồn nhân lực :

Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ thống

các yếu tố tổ hợp thành :Sức lực ,trí tuệ ,khối lượng cùng đặc trưng về chất

lượng lao động như trình độ văn hoá ,kỹ thuật ,kinh nghiệm nghề nghiệp ,thái độ

phong cách làm việc ,tính năng động xã hội và sức sáng tạo .Đó là sức lao động

như C.Mác nói khả năng mà con người có thể thông qua lao động để biến thành

hiện thực .Từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH,HĐH và sự phát triển KT-

XH .Tuy nhiên , khi nói NNL tức là nói sức lao động ,do vậy nó còn ở trạng thái

khả năng ,ở trạng thái tĩnh ,nó phải được chuyển sang trạng thái động tức là phải

được đem phân bổ sử dụng nó một cách có hiệu quả ,phải làm thế nào để NNL

dưới dạng khả năng đó thành hiện thực ,thành vốn nhân lực .

24

Sử dụng NNL tức là tiêu dùng sức lao động của con người trong quá trình

lao động sản xuát để tạo ra của cải vật chất ,tinh thần phục vụ các nhu cầu sản

xuất và nhu cầu con người trong xã hội .Quá trình lao động sản xuất đó là quá

trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất nên việc

khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền sản xuất cùng

những cách thức của sự phát triển KT-XH .Bởi vậy,sử dụng NNL được hiểu là :

Việc khơi dậy và phát huy tất cả khả năng của con người thành hiện thực ,biến

sức lao động thành lao động trong quá trình phát triển KT-XH .

Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó phụ

thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất ,những cải

tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào tạo (Đặc

biệt là đào tạo nghề).

Trong quá trình CNH,HĐH ở nước ta ,việc khai thác sử dụng NNL có thể

được xem xét trên các khía cạnh sau :

Một là, nguồn nhân lực được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao gồm

toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế

hệ nối tiếp ,vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao động sản xuất

.Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu cầu cơ bản và chủ

yếu của sử dụng NNL .

Hai là, con người khi tham gia vào các quá trình phát triển KT-XH không

những chỉ sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc

ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển .Ngày nay thế giới đã bước vào giai

đoạn phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của lao động trí tuệ của con người thể

hiện ngày càng rõ nét .Dự báo của C.Mác và Ăng ghen : Khoa học do lao động

25

trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp .Tri

thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất và trở thành

một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển .Do đó có thể khẳng định lao

động trí tuệ ,lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu của

NNL ,do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của NNL qua đào tạo.

- Ba là,sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và

đang thay đổi tính chất ,nội dung của lao động ,cơ cấu lao động và việc làm và

làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình phát triển việc

làm .Điều đó đòi hỏi phải chuyển việc sử dụng lao động theo chiều rộng sang

khai thác sử dụng theo chiều sâu .Việt Nam là một nước chậm phát triển ,thực

hiện CNH sau ,NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và trình độ còn thấp ,vì vậy

trong quá trình sử dụng NNL ,chúng ta vẫn cần thiết phải sử dụng lao động theo

hướng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu .

Nói tóm lại ,để khai thác ,phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải căn

cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT-XH trong từng

thời kỳ của quốc gia.

1.1.2.Mối quan hệ tác động giữa công nghiệp hoá ,hiện đại hoá với đào tạo

và sử dụng nguồn nhân lực

Công nghiệp hoá ,hiện đại hoá và NNL có mối quan hệ tác động qua lại lẫn

nhau.Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mỗi quan hệ này là mỗi quan hệ

cung cầu lao động.Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao giờ cũng giữ vị

trí quyết định.Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể của quá trình CNH ,

HĐH.Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại , có khả năng biến

các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con người với tất cả những phẩm

26

chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH. Mối quan

hệ này thể hiện:

1.1.2.1.Sự tác động của công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đến đào tạo và sử dụng

nguồn nhân lực

Thứ nhất :Đối với đào tạo nguồn nhân lực

Sự nghiệp CNH,HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời đòi

hỏi rất nhiều ở giáo dục đào tạo NNL. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chỉ

có thể thực hiện bằng con đường “Phát triển rút ngắn” mới thu hẹp được khoảng

cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các nước khác trên thế

giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải có NNL đủ về số

lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt phải có NNL trình độ

cao.

-Trong suốt tiến trình CNH,HĐH một mặt bao giờ cũng kéo theo và đặt ra

yêu cầu mới cho đào tạo NNL .Với tư cách là người sử dụng NNL qua đào tạo ,

nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có trình độ học

vấn cao ,tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL .Ăng ghen nhấn

mạnh : “ Muốn nâng cao sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên một mức độ

cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù hợp thì không đủ ,mà còn cần

phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những

phương tiện đó nữa”(32.tr474).

- Mặt khác ,CNH,HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết cho việc định

hướng đào tạo và phát triển NNL .Điều đó thể hiện ở chỗ :

27

+ Công nghiệp hóa ,hiện đại hoá là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để cải

tiến nếp nghĩ, nếp làm ,vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông ,sản xuất nhỏ của

một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất thiết phải

tính đến

+ Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH,HĐH ,sự biến đổi về kinh tế ,kỹ

thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL và đòi hỏi

NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất lượng cao.

+ Công nghiệp hoá , hiện đại hoá còn là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện

mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện .Điều đó tác

động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH,HĐH đất nước.

Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH nhanh chóng đổi mới đưa kỹ

thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến ,thực hiện chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm ,công nghiệp ,dịch

vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tỷ

trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm ,tỷ trọng và số tuyệt đối lao

động công nghiệp và dịch vụ tăng .Đặc biệt CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn

đòi hỏi việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu về chất lượng mà ngày

càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng ,qui mô ,cơ cấu hợp lý về

trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp ,nông nghiệp ,dịch vụ và cho các

lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở nông thôn .Trên cơ sở đó nâng

cao năng suất lao động ,hiệu quả sử dụng lao động và sức cạnh tranh của lao

động nước ta .Vì vậy ,việc đào tạo NNL phải làm tốt công tác dự báo ,phải điều

chỉnh qui hoạch đào tạo ,bồi dưỡng thường xuyên NNL bao gồm cả đào tạo

CĐ,ĐH ,THCN và đào tạo nghề với các cấp trình độ bán lành nghề ,lành nghề

28

,trình độ cao cho các ngành ,các lĩnh vực KT-XH để khắc phục sự bất cập về

trình độ ,qui mô ,cơ cấu của NNL ,hiện nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghệ

hiện đại mới .Vấn đề này đã được nêu trong kết luận của Hội nghị trung ương 6:

“Điều chỉnh cơ cấu đào tạo ,tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp

.Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao

có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao”(18,tr129).

Như vậy ,vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất

lượng vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng ,qui mô ,cơ cấu trình độ và thực tiễn

phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau trên địa bàn lãnh thổ

khác nhau . Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực tiễn ;nhu

cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối “Rất thiếu nhưng rất thừa

nhân lực hiện nay” như định hướng của Hội nghị trung ương 6 khoá IX : “Nâng

cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục ,phát triển qui mô giáo dục cả đại trà và

mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo ,gắn đào

tạo với yêu cầu phát triển KT –XH ,đào tạo với sử dụng”(18,tr.126).

Thứ hai: Đối với sử dụng nguồn nhân lực .

Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển .Khi xác định được

chiến lược phát triển đất nước đẩy mạnh CNH,HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những

nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH ,HĐH đất

nước là con người Việt Nam ,nguồn lực tự nhiên ,cơ sở vật chất và tiềm lực khoa

học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước ( vốn ,thị trường ,công nghệ

,kinh nghiệm quản lý ).Nhưng các nguồn lực tự nó không thể tham gia vào các

quá trình KT-XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng .Để thực hiện được các

mục tiêu CNH chúng ta không thể không khai thác ,sử dụng phát huy tối đa

29

nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con người mới có thể

tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm năng thành hiện thực

.Hơn nữa ,nguồn lực con người không chỉ quyết định sử dụng hiệu quả việc khai

thác các nguồn lực tự nhiên mà con góp phần tạo ra các nguồn lực mới .Như

C.Mác-Ăng ghen đã nói : “ Những con người có năng lực phát triển toàn diện

,đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong

thực tiễn đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự

phát triển xã hội ”(32,tr.474-475).

Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan trọng

nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm năng của nó

đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng hơn .Điều này đã

được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong khu vực và

thế giới .Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay là với một nguồn lực lao

động dồi dào nhưng còn có những điểm bất cập về trình độ ,cơ cấu ,sự phân bổ

lao động trong các ngành ,vùng chưa hợp lý nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu

quá xa về kinh tế kỹ thuật bởi vậy cần phải có chính sách phân công lao động xã

hội hợp lý để có thể thu hút được tất cả lực lượng lao động xã hội tạo điều kiện

cho mọi người đều có việc làm ,có cơ hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình

cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước .Lực lượng lao động xã hội phải được xem

như một tổng thể nằm trong một cơ cấu lao động thống nhất .Ở đó mỗi cá nhân

người lao động được sử dụng đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật ,đúng công

việc mà mình yêu thích theo hướng toàn dụng lao động .Mặt khác ,dưới sự tác

động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại ,lao động trí tuệ trở thành

đặc trưng ,với ý nghĩa đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở

thành yêu cầu cơ bản nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất

30

,hiệu quả lao động cao.Trong điều kiện nền kinh tế mở ,quan hệ phân công và

hợp tác lao động quốc tế hoá ngày càng mở rộng ,việc sử dụng NNL càng mang

tính mở rộng ,tính quốc tế hoá cao .Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài

ở mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại ,cơ cấu ngành

nghề ,trình độ chuyên môn .Do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt

động kinh tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động

.Xuất khẩu lao động – một mặt nhằm giải quyết việc làm ,giảm bớt những căng

thẳng về lao động dư thừa trong nước ,tăng thu nhập cho người lao động và tăng

nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước và mặt khác ,đây còn là con đường để đào tạo

nguồn lao động cho quốc gia .Nên nhà nước cần có chính sách và sự quan tâm

thích đáng cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế nguồn lao động

dồi dào phục vụ quá trình CNH,HĐH và hội nhập quốc tế .Như vậy ,khai thác sử

dụng ,phát huy tối đa và hiệu quả NNL là điều kiện quan trọng trong quá trình

CNH,HĐH ở nước ta .

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH,HĐH ở nước ta nói

chung và quá trình CNH,HĐH ở ngành Thủy sản nói riêng hiện nay đòi hỏi phải

đào tạo NNL chất lượng cao và khai thác sử dụng một cách hiệu quả NNL đó mà

CNH,HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở nước

ta .

1.1.2.2.Sự tác động của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đối với quá trình

công nghiệp hoá ,hiện đại hoá .

Nguồn nhân lực , nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng

nhất ,quyết định nhất của lực lượng sản xuất ,của việc nhận thức ,lĩnh hội và sử

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất ,thúc đẩy

31

CNH,HĐH và phát triển KT-XH như V.I Lênin nói : “Nếu không có các chuyên

gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất thì không

thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN”(29,tr.362).NNL,đặc biệt là NNL chất

lượng cao ,một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH,HĐH ,được V.I Lênin

viết : “Việc điện khí hoá không phải do những người mù chữ thực hiện được mà

chỉ biết chữ thôi thì không đủ điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một

nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa

Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi”(29,tr.364-365).Theo V.I Lê nin cái quyết

định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới đối với xã hội cũ là năng suất lao

động bởi vậy muốn đạt được năng suất lao động cao thì cần phải thực hiện sự

phát triển NNL .Từ ý tưởng đó có thể thấy để nâng cao năng suất lao động trước

hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của nền giáo dục và văn hoá của đông đảo

quần chúng nhân dân tiếp đến phải nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động

,nâng cao tài khéo léo và trình độ thành thạo của NNL .Trên cơ sở nhận thức lý

luận và thực tiễn Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình

CNH, HĐH đất nước là nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ

sở vật chất, tiềm lực khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước nhưng trong

các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất”.Nguồn lao động

dồi dào,con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền

tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ đó là

nguồn lực quan trọng”[11, tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực lượng

duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải pháp

đúng đắn để tiến trình CNH,HĐH.Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu thế hơn hẳn

các nguồn lực khác, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh nên nó là nguồn lực

32

không bao giờ cạn như một tác giả đã viết chỉ có con người và tri thức của con

người là không bao giờ cạn: “Tri thức có tính chất không bao giờ hết”[1,tr.41]

Chính vì vậy Đảng cộng sản Việt Nam cho rằng: “Phương hướng chủ yếu

phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong lĩnh vực khoa học công

nghệ đào tạo để nâng cao dân trí đào tạo nhân lực ,bồi dưỡng nhân

tài”(13,tr.28).Đến hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII Đảng

ta nhấn mạnh rằng : “Muốn tiến hành CNH,HĐH thắng lợi phải phát triển Giáo

dục đào tạo ,lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc

phát triển nhanh và bền vững” (14,tr.19).

Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình

CNH,HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm ,hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc

vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi nền kinh tế

thế giới đã phát triển theo hướng kinh tế tri thức ,yếu tố tri thức đã chiếm tỷ

trọng lớn trong giá trị sản phẩm ,tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn

1/10 ,trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của quá trình phát

triển .Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan hệ giao lưu quốc

tế hiện nay ,các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật ,công nghệ thông

qua con đường chuyển giao ,khắc phục sự thiếu vốn qua con đường nhập khẩu

hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân hàng ,quỹ phát triển của thế giới

,nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao

động hay vay mượn khả năng sáng tạo của con người .Vì vậy ,Việt Nam cũng

như tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm đến việc đầu tư phát triển NNL

qua đào tạo .Tại Đại hội IX Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ ra rằng : “Phát huy

nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam ,coi phát triển Giáo

33

dục và đào tạo ,khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp

CNH,HĐH” (17,tr.91).

Tóm lại ,những quan điểm trên cho thấy NNL qua đào tạo có vai trò quan

trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của CNH,HĐH và sự phát

triển KT-XH .Vì vậy phải chăm lo đào tạo NNL đặc biệt cần quan tâm tới việc

nâng cao chất lượng và trình độ NNL để hướng tới sự phát triển nền kinh tế tri

thức .Cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong những

hướng chính của đầu tư phát triển .Giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc

sách hàng đầu ,hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người kịp

thời và phù hợp với yêu cầu CNH,HĐH .Xét một cách tổng thể việc đào tạo

NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung- cầu lao động cả số

lượng , chất lượng , cơ cấu ,hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý về lao động đã

qua đào tạo trên tất cả các lĩnh vực .Trước hết phải tạo ra được những con người

có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương vị công tác theo sự

phân công lao động xã hội .Đó là những con người vừa có tài vừa có đức .Theo

tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo NNL phải làm thế nào để

người học sau khi được đào tạo phải được trang bị kiến thức văn hoá ,trình độ

chuyên môn nghiệp vụ , kỹ năng , kỹ xảo thực hành ,có năng lực hợp tác trong

mọi hoạt động ,có năng lực nhận thức ,vận dụng công nghệ tiên tiến hiện đại

,hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách của Đảng ,biết lựa chọn các giải

pháp tối ưu cho các hoạt động của mình đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt

,biết đặt lợi ích của cộng đồng xã hội lên trên lợi ích cá nhân ,có ý thức trách

nhiệm cao đối với công việc ,ý thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc ,ý

chí vươn lên để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu .

34

1.2.Nội dung ,nhân tố ảnh hƣởng , vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn

nhân lực .

1.2.1.Nội dung của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

1.2.1.1.Nội dung đào tạo nguồn nhân lực

Nước ta bắt đầu thực hiện CNH,HĐH với một xuất phát điểm thấp .Từ một

nước nông nghiệp lạc hậu (72% dân số là nông nghiệp ,tỷ trọng nông nghiệp

chiếm 50% GDP chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người .Tốc độ nâng cao

dân trí ở nước ta trong nhiều năm qua còn rất chậm .Với mặt bằng dân trí thấp

thì số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn

đại học và sau đại học còn ít ,phần đông số người lao động chưa qua đào tạo về

nghề nghiệp .Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp thu khoa học công nghệ mới

nhằm đạt tới mục tiêu CNH,HĐH .Mặt khác ,do tác động của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng kinh tế tri thức là một trình độ

phát triển cao của nền kinh tế mà trong đó nền tảng lực lượng sản xuất chủ yếu

của nó là các ngành kỹ thuật công nghệ cao; tri thức khoa học và công nghệ đã

trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò quyết định đối với phát triển

kinh tế ,với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao động giản

đơn đang mất dần ý nghĩa nhường chỗ cho lao động trí tuệ .Do đó nội dung giáo

dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được xác định theo

hướng “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị ,tư tưởng

,đạo đức ,trí tuệ ,thể chất ,năng lực sáng tạo ,ý thức cộng đồng ,lòng nhân ái

,khoan dung tôn trọng nghĩa tình ,lối sống có văn hoá ,quan hệ hài hoà trong gia

đình ,cộng đồng và xã hội ,tự hoàn thiện nhân cách ,kế thừa truyền thống cách

mạng của dân tộc ,phát huy tinh thần yêu nước ,ý chí tự lực tự cường xây dựng

35

và bảo vệ tổ quốc”(16,tr.114).Như đã biết ,sự nghiệp CNH,HĐH đang đặt ra yêu

cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng ,phong phú cả về nội dung và phương thức đối

với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện nay .Nội dung đào tạo NNL ở nước ta

không chỉ là những kiến thức về khoa học ,kỹ thuật ,công nghệ ,chuyên môn

nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức ,truyền thống dân tộc .Nội dung các tri

thức cấu thành chương trình đào tạo ,các loại nhân lực cũng phải bao hàm sự kế

thừa các yếu tố truyền thống ,tiếp cận các tri thức hiện đại và tính tới sự phát

triển .Đào tạo chuyên môn ,trình độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để

tạo điều kiện cho họ có khả năng lao động ,khả năng đảm nhận một công việc

nào đó trong xã hội .Còn đào luyện “đức” chính là tạo ra cái gốc ,yếu tố cơ bản

đem lại sức khoẻ về tinh thần để làm người có văn hoá ,có tài .Đến lượt nó lại trở

thành động lực thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu

quả trong hoạt động của họ ,giúp họ biết hợp tác với ai ,biết làm cái gì ,làm vì ai

và sẽ làm như thế nào .Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp

bậc học với các mức độ khác nhau .Nhưng tác giả quan tâm chú ý đến nhiều hơn

tới bậc đào tạo trung học chuyên nghiệp ,dạy nghề ,đào tạo đại học ,cao đẳng nên

đã phân một cách khái quát qua các cấp bậc sau đây :

Thứ nhất : Đối với các cấp bậc học phổ thông đặc biệt là trung học phổ

thông .

Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự nhiên

,khoa học xã hội ,giáo dục ý thức công dân ,định hướng giá trị :Chân – thiện –

mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn cho việc

lựa chọn bước đường tiếp cho tương lai ,theo học nghề gì ,chọn trường chuyên

36

nghiệp hoặc trường cao đẳng ,đại học nào cho phù hợp với khả năng của mình và

yêu cầu của xã hội .

Thứ hai: Đối với các trường trung học chuyên nghiệp – dạy nghề – cao

đẳng - đại học đào tạo như đã nêu ở phần trên là quá trình kết hợp giữa đào tạo

ban đầu và tự đào tạo ,giữa truyền thụ tri thức ,rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp

với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các lĩnh vực hoạt

động KT-XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong hệ thống các trường

nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau :

- Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý tưởng

Cộng sản ,ý thức bảo vệ Tổ quốc ,rèn luyện sức khỏe thông qua hệ thống các

môn học chung .

- Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành trong

nền kinh tế quốc dân như công nghiệp ,nông nghiệp ,dịch vụ đặc biệt chú ý tới

các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du lịch .Gắn liền

việc truyền thụ tri thức và việc hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa

học để người học có thể tiếp tục tự hoàn thiện về nhân cách và trình độ chuyên

môn sau thời gian được đào tạo trong trường ; biết phát hiện và lý giải được

những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho nghề nghiệp .Thực tiễn cho thấy kết

quả của đào tạo không chỉ tính bằng lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu

phải tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo ,phương pháp tư duy khoa học

;khả năng thích nghi và khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động .

- Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo điều

kiện cho sinh viên trong việc giao lưu ,học hỏi ,tiếp cận các tri thức khoa học

hiện đại trên thế giới .

37

- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua các

giờ thực hành ,các đợt xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo ,các cuộc

gặp gỡ ,trao đổi học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực và nghề

nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành nghiệp vụ

được đào tạo .Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để sinh viên sau

khi tốt nghiệp có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo mình

được đảm nhận một cách có hiệu quả .Để chuẩn bị NNL chất lượng cao cho sự

phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên cập nhật các kỹ năng

mới ,nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông ,kỹ năng giải quyết ,xử lý

các vấn đề sự cố phát sinh ,kỹ năng làm việc theo nhóm

- Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện ý

thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp ,đạo đức lương tâm nghề nghiệp

,văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà người lao

động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội .

Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ tìm

hiểu về pháp luật ,truyền thống văn hoá,phong tục tập quán từng vùng của nước

nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với nước họ và tập

quán quan hệ quốc tế .

Thứ ba:Đối với việc đào tạo nhân tài .

Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối năm thứ

nhất ,hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại học sau đó

tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành nghề quan

trọng cho đất nước .Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này phải mang tính

hiện đại ,nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo ,năng

38

lực tự nghiên cứu ,học tập và làm việc độc lập cũng như hợp tác ,đồng thời

hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc dự đoán nhận định

năng lực và khai tác được tài năng của đối tác .Tuy nhiên ,cũng không thể bỏ

qua việc đào tạo ra yếu tố gốc là đạo đức .Như Bác Hồ của chúng ta từng

dạy“Có tài mà không có đức thì vô dụng .Có đức mà không có tài thì làm việc gì

cũng khó”(30,tr.252-253).

Tóm lại , nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát triển

của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ đức ,tài

,năng động sáng tạo ,thích nghi với kinh tế thị trường ,hội nhập quốc tế .

1.2.1.2.Nội dung sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo .

Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những đòi

hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những yêu cầu

mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL .Ngày nay ở hầu hết các

quốc gia con người được coi là nhân tố trung tâm của quá trình sản xuất nên đã

diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thứcvà giải pháp tối ưu sử dụng NNL

.Tuy nhiên do đặc điểm tình hình KT-XH khác nhau nên việc xác định nội dung

,giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia .Song xu hướng phổ biến

và cơ bản đều coi con người là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng phát triển kinh

tế .Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao gồm nhiều vấn đề như tạo

việc làm , phân bổ sử dụng hợp lý lực lượng lao động ,phát huy tiềm năng trí tuệ

và yếu tố tinh thần dân tộc tạo ra những kích thích và động lực của lao động để

đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả .Để khơi dậy và phát huy tiềm năng

con người nói chung việc sử dụng NNL phải được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục

đào tạo ,phổ cập nghề ,chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc sống lao

39

động đến vấn đề tự do lao động và được hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động

mà họ sáng tạo ra .Hay có thể nói vấn đề sử dụng NNL được đặt trong quan hệ

với vấn đề đào tạo NNL.Trong đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng

NNL là cơ sở ,điều kiện để sử dụng NNL có hiệu quả .Đến lượt việc sử dụng có

hiệu quả NNL sẽ tạo điều kiện mở rộng cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để

nâng cao chất lượng NNL .Trong các hình thái KT- XH khác nhau ,NNL của

một quốc gia được biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người

lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội .Trong nguồn lao động đó có

những người đã qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo ;những người

lao động sản xuất kinh doanh ,những nhà quản lý ,khoa học ,những người làm

công tác dịch vụ ,văn phòng Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng

NNL , trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý ,khai thác sử dụng hết lực lượng

lao động ,giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các

biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động ;kết hợp khai thác sử dụng với

đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng ,nâng cao chất lượng việc

làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng .Trên cơ sở đó làm tăng thu

nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động .Sự thành

công của CNH,HĐH ở nước ta nói chung và ở ngành Thủy sản nói riêng không

chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc với mức độ

lớn vào việc sử dụng NNL theo hướng toàn dụng lao động ,hợp lý và hiệu quả

;đặc biệt là khai thác sử dụng hiệu quả NNL đã qua đào tạo .

Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không phải

chỉ dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều có việc

làm mà cần phải chú ý phân bổ sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp về trình

độ trong các ngành : Nông nghiệp ,công nghiệp ,dịch vụ của nền kinh tế theo

40

hướng CNH,HĐH ;trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp - sản xuất kinh

doanh( theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp ngày càng giảm

xuống ) và trong các vùng (Thành thị - nông thôn ,các vùng kinh tế trọng điểm )

thuộc lãnh thổ quốc gia ,đồng thời cũng cần phải tính đến tỷ lệ lao động trong

tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài .Nếu không có sự phân bố

lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có đông đảo cũng không thể

trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng của nền kinh tế .

Ngoài những vấn đề trên việc toàn dụng lao động còn phải tính đến khả

năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động có

thể làm việc .Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH nhà nước cũng cần

phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển các ngành

nghề để có thể tạo nhiều việc làm trong đó có nhiều việc làm có chất lượng để

đảm bảo cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn chế tình trạng bỏ

việc một cách tuỳ tiện .

Trên cơ sở sự phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia hoạt

động kinh tế ,nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính đến việc

tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động ,các biện pháp kích thích tới

người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình .

Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội đã ngày càng cho thấy rõ

rằng :Con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không bao giờ cạn .Bởi

vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động ,các cơ sở tuyển dụng lao

động cần kết hợp một cách linh hoạt ,mềm dẻo các hình thức và nguyên tắc phân

phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia các loại hình đào tạo ,bồi

dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo

41

.Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo ,bồi đắp NNL để đáp ứng

yêu cầu phát triển trong tương lai.

Tóm lại, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả các

vấn đề :Toàn dụng lao động ,phân bố hợp lý ,nâng cao hiệu quả sử dụng và bồi

đắp NNL.

1.2.2.Những nhân tố ảnh hƣởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực .

1.2.2.1.Nguồn và chất lượng đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực .

Ở nước ta hiện nay ,giáo dục phổ thông là nền tảng cơ sở tạo ra nguyên liệu

cho giáo dục đào tạo NNL,giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp tạo ra

NNL.Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về số lượng

và chất lượng đầu vào ,do đó ảnh hưởng đến qui mô và chất lượng của đào tạo

NNL .Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có nguyện vọng dự thi

vào các trường nghề ,trung học chuyên nghiệp và cao đẳng ,đại học quá ít hoặc

quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây khó khăn cho việc tuyển

lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức ,rèn

luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự nghiên cứu để nắm bắt được tri

thức mới ,nâng cao trình độ tay nghề .

1.2.2.2.Trình độ cơ sở vật chất và tài chính ở các cơ sở đào tạo .

Cơ sở đào tạo NNLđều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất nhất

định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNLthực hiện

được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất .Ngoài

nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý

trong các trường ,còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở mang trường

42

lớp ,các thiết bị văn phòng máy tính ,dụng cụ vật tư kỹ thuật cho thí nghiệm thực

hành ,các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có chất lượng cao ,giáo trình

và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo .Thực tế đã chứng minh rằng để đáp

ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng

thực hành .Không có các điều kiện trên việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa

lạ ,sinh viên không được làm quen với các thao tác nghề ,những kiến thức lý

thuyết thu nhân được sẽ mai một dần theo năm tháng ,kỹ năng của người thợ

không được hình thành .Hơn nữa ,nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các

trang thiết bị hiện đại cho sinh viên thực hành sẽ không đáp ứng được sự phát

triển trình độ phù hợp với xu hướng biến đổi của khoa học công nghệ hiện nay

và cũng không thể đáp ứng yêu cầu phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức .

1.2.2.3.Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý.

Trong nhà trường đội ngũ giáo viên có vai trò rất quan trọng là lực

lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục,Thầy Cô giáo là những chiến sĩ trên

mặt trận tư tưởng- văn hoá. Vì vậy khi nói đến cải cách giáo dục hiện nay không

thể không đặc biệt quan tâm tới đội ngũ các Thầy, Cô giáo. Phải đặt người Thầy

vào đúng vị trí cao quý của nó. Vấn đề này từ cách nạng tháng 10 năm 1917

V.ILê Nin đã nhất mạnh: „ Người giáo viên nhân dân ở nước ta phải được đưa

lên một địa vị mà trước kia họ chưa từng có, hiện nay vẫn chưa có và không thể

có trong xã hội tư bản.Đó là một chân lý không cân phải chứng minh. Chúng ta

phải tiến tới tình hình ấy bằng công tác nâng cao một cách có hệ thống liên tục

và bền bỉ trình độ, tinh thần của giáo viên, để chuẩn bị toàn diện cho họ xứng

đáng với danh hiệu thực sự cao cả của mình;và nhất là,đặc biệt là, chủ yếu là

phải cải thiện đời sống vật chất của họ”(28,803)

43

Giáo viên là người không chỉ truyền thụ kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật,

chuyên môn nghiệp vụ, mà thông qua các môn học cụ thể còn đem cho học sinh

,sinh viên tinh thần yêu nước,thương nòi, ý chí độc lập dân tộc, sự tự lực tự

cường, quyết tâm xây dựng đất nước dân giàu nứơc mạnh xã hội công bằng dân

chủ văn minh... Bác Hồ đã khẳng định: „ Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế

hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo-người vẻ vang nhất.Dù tên

tuổi không đăng lên báo,không được thưởng huân chương, song những thầy giáo

tốt là những anh hùng vô danh” (33,331)

Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội

ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh .Chất lượng của đội ngũ giáo viên là

yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học

làm trung tâm của đào tạo .Mọi sự bất cập về số lượng ,chất lượng ,trách nhiệm

của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo

.Đối với sinh viên ,tấm gương về đạo đức ,nhân cách ,tài năng của người thầy có

tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách ,tài năng của họ.Muốn có trò

giỏi (NNL có chất lượng )ắt phải có thầy giỏi ,bởi trong thực tế người thầy

không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được .Trình độ chuyên

môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không

đầy đủ ,thậm chí còn sai lệch ,học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn

dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được .Vì vậy phải xây

dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng ,đảm bảo về chất lượng ,có trách nhiệm

và lương tâm nghề nghiệp ,đồng thời phải chú trọng việc nâng cao trình độ giáo

viên trong các trường ,tạo điều kiện cho họ được cập nhật các tri thức khoa học

hiện đại và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng .Trong các nhà trường để hoạt

44

động đào tạo đạt được kết quả ,ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu

đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực ,trình độ ,trách nhiệm cao trong bộ máy

quản lý hành chính .Thực tế cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần

được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất .Vì vậy cần phải có hệ thống

quản lý từ Ban giám hiệu đến các phòng ban chức năng để thực hiện các công

việc từ quản lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn

luyện ý thức đạo đức cho sinh viên ,cũng như hoạt động giảng dạy ,hoạt động

phục vụ cho giảng dạy ,hạch toán thu chi ,mua sắm vận hành ,bảo quản các trang

thiết bị ,cơ sở vật chất .Một bộ phận nào đó trong hệ thống bị trục trặc hay suy

yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác ,do đó ảnh

hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phi đào tạo NNL .Nhưng

việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào trình độ

năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được quyền phân

công và sử dụng đội ngũ cán bộ ,giáo viên trong nhà trường .Cho nên phải có đội

ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách

nhiệm cao.

1.2.2.4.Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết

bị kỹ thuật công nghệ trong sản xuất kinh doanh .

*Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với nhau

.Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,cơ cấu đầu tư,thực hiện qui hoạch phát triển

trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động đòi hỏi phải

chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động.Việc xây

dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia ,mở mang và nâng cấp hệ thống

hạ tầng cơ sở vật chất ,xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình

45

thích hợp ở các vùng chậm phát triển ,tăng cường các hoạt động đầu tư nước

ngoài và liên doanh liên kết với các cơ sở kinh tế địa phương đều tạo khả năng

thu hút nguồn lao động lớn đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo nguồn nhân lực .Chiến

lược phát triển KT-XH thời kỳ 2001-2010 của nước ta yêu cầu chú trọng đẩy

mạnh các ngành công nghiệp chế tác ,xây dựng một số ngành công nghệ kỹ thuật

cao ,nâng cao từng bước trình độ công nghệ trong mọi ngành sản xuất ,phát triển

công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn theo hướng văn minh hiện đại ,nâng chất

lượng và giá trị nông sản hàng hoá để tăng sức cạnh tranh ,phát triển đa dạng

thương mại dịch vụ ,phát triển du lịch sớm trở thành mũi nhọn .

Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ

sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao

động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống

50% vào năm 2010 và nâng cao tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp

dịch vụ nhưng trong đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo

theo ngành và cấp trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế nêu trên

.Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức

đối với NNLvà do đó trực tiếp tác động với đào tạoNNLcả về qui mô ,cơ cấu và

trình độ cũng như việc phân bổ ,khai thác sử dụng hợp lý NNL trong quá trình

CNH,HĐH

*Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp và các ngành kinh tế .Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao

động ,các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng

thay đổi theo hướng hiện đại ,do đó đòi hỏi phải có NNLphù hợp để trước hết có

thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả đầu tư

46

sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công

nghệ mới .Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản nhiều nhưng thiếu người lao

động và thiếu sự động bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên

môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao gây lãng phí vốn đầu tư

trong xã hội .Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và

công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chủng

loại các bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ

mới .Trong xu thế hội nhập hiện nay ,muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải

tổ chức đào tạo NNL tốt hơn ;đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử

dụng công nghệ ngoại nhập trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước

còn non yếu .Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý

,thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng

được công nghệ mới ,do đó phải đào tạoNNLđể phát triển .Việc đào tạoNNL

không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự kết hợp với

việc sử dụng NNL.Việc phân bố ,sử dụng NNL cần phải có sự cân nhắc kỹ

lưỡng sao cho việc sắp xếp ,phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý ,đúng người

đúng việc như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “Xem người ấy xứng với việc

gì ,nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc”

(30,tr.274-275).

1.2.2.5.Thị trường lao động và cơ chế chính sách tuyển dụng

*Việc hình thành và quản lý tốt thị trường sức lao động hiện nay có vai trò

quan trọng đối với đào tạo sử dụng NNL.Nó cung cấp thông tin cho đào tạo

NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về qui mô ,cơ cấu ,chất lượng cho

CNH,HĐH đồng thời thông qua thị trường sức lao động ,các cơ quan đơn vị kinh

47

tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của mình .Thông qua thị

trường sức lao động ,người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ

chuyên môn và sở trường của mình .Do đó,cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng

NNL;xác lập được quan hệ cung- cầu lao động ,giảm dần sự mất cân đối giữa

đào tạo và sử dụng ,khắc phục được tình trạng lãng phí trong đào tạo và sử dụng

NNL

*Cơ chế chính sách tuyển dụng nguồn nhân lực : đây là yếu tố có ảnh

hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác ,sử dụng NNL .Trong cơ chế

cũ nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL ,tuyển dụng ,sử dụng

cho đến khi thôi việc .Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm nảy sinh

những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn khớp ,dư

thừa lao động trình độ đại học ,thiếu công nhân ,triệt tiêu động lực thúc đẩy

người lao động làm việc có hiệu quả ,không khuyến khích được họ nâng cao

trình độ tay nghề ,chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà không chú

trọng đến hiệu quả lao động .Quan điểm sử dụng hết nguồn lao động xã hội đã

dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở nên cồng kềnh

,kém hiệu lực .Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm cho sinh viên

sau khi tốt nghiệp ,mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc như nói trên đã

không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo và dễ rơi vào tình

trạng không đúng người đúng việc ,hiệu quả lao động thấp .

Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường ,người lao động nào

đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm .Cơ chế

này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc phù hợp với

trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao ,đồng thời thông qua việc

48

được nhận thù lao động tương xứng với trình độ năng lực ,người lao động có ý

thức hơn trong việc học tập ,rèn luyện nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp

và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được nâng cao hơn nữa về chất.Trong

thời gian qua ,với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế ,chính sách tuyển

dụng NNL ở nước ta cũng được đổi mới căn bản .Chế độ tuyển dụng và sử dụng

lao động theo biên chế suốt đời trước đây được chuyển sang hình thức hợp đồng

lao động có thời hạn.Hình thức tuyển dụng “có ra có vào” này đã kích thích tính

năng động sáng tạo của người lao động ,kích thích họ không ngừng vươn lên

nâng cao trình độ để giữ được việc làm .Cơ chế này còn có tác dụng giúp các

đơn vị sản xuất kinh doanh được quyền chủ động trong tuyển dụng ,sử dụng và

sa thải lao động nên có điều kiện để tuyển lựa ,sắp xếp lao động theo yêu cầu của

công việc và phù hợp với năng lực riêng của mỗi người do đó một mặt làm tăng

hiệu quả sử dụng lao động còn mặt khác góp phần điều chỉnh quan hệ giữa cầu

với cung (đào tạo NNL ).

Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một nhân tố

có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong

quá trình CNH,HĐH ở nước ta hiện nay.

1.2.3.Vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học ,công nghệ ,đội ngũ công nhân kỹ thuật

có đủ đức tài ,có đủ khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được

đặt ra trong quá trình CNH,HĐH.Để khai thác tiềm năng to lớn của con người

Việt Nam ,cần tiếp tục triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm phát triển giáo

dục và đào tạo ,mà khâu then chốt là đào tạo NNL chất lượng cao và ứng dụng

49

nhanh nhất các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống

.Có thể nói đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có vai trò to lớn về nhiều mặt .

Thứ nhất : Ở nước ta ,đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề góp phần quan

trọng tạo ra lực lượng lao động và chuyên gia giỏi về công nghệ ,kỹ thuật và

quản lý đáp ứng yêu cầu CNH,HĐHđất nước nói chung và ở ngành thủy sản nói

riêng .Với những kiến thức cơ bản ,kỹ năng nghề nghiệp và phương pháp tư duy

sáng tạo họ không chỉ là những người tổ chức thực hiện các hoạt động trong quá

trình sản xuất mà trong quá trình đó họ còn là những người lãnh đạo và tiếp thu

khoa học công nghệ tiên tiến đồng thời sáng tạo ra những phát minh khoa học kỹ

thuật nhằm tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật mới đáp ứng việc thu hút sử dụng

hợp lý NNL với các biện pháp kích thích người lao động làm cho họ không chỉ

lao động với năng suất ,chất lượng ,hiệu quả cao mà còn say mê nghiên cứu tìm

tòi sáng tạo để tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ mới giúp giảm nhẹ sức

lao động của mình trong quá trình sản xuất .Như vậy với quá trình đào tạo NNL

,quá trình sử dụng hợp lý NNL làm cho quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật

công nghệ không ngừng diễn ra và lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát

triển .

Thứ hai :Đào tạo NNL có chất lượng và sử dụng nó có hiệu quả sẽ tác động

đến phân công lao động xã hội ,chuyển dịch cơ cấu lao động từ đó đẩy mạnh

chất lượng và nhịp độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng

CNH,HĐH .Quá trình chuyển dịch đó được thực hiện nhờ có sự đóng góp to lớn

của đào tạo và sử dụng NNL.Nhờ đẩy mạnh hoạt động Giáo dục ,đào tạo NNL

và khai thác sử dụng NNL trong thời gian qua ,cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động

ở nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng ,mặc dù tốc độ còn chậm .Về cơ cấu

50

ngành đã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công

nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ .Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP ngày càng

tăng lên và tỷ trọng của công nghiệp trong GDP ngày càng tăng lên và tỷ trọng

của nông nghiệp giảm xuống thể hiện qua bảng sau :

Bảng 1.1.Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP nước ta thời kỳ 1995-2006.

Đơn vị tính:%

TT Ngành Năm

1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

1 Công nghiệp 27,8 36,73 38,13 38,55 40,5 40,21 41,04 42,2

2 Nông nghiệp 27,2 24,3 23,24 22,99 21,7 21,81 20,81 19,5

-Thuỷ sản 2,91 3,37 3,672 3,8 3,93 4,14 4,84 5,3

3 Dịch vụ 41 39,1 38,63 38,46 37,8 37,98 38,07 38,3

Nguồn :Niên giám thống kê các năm [7].

Quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành ;đòi hỏi đẩy nhanh chuyển dịch cơ

cấu lao động theo ngành nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế

theo hướng CNH,HĐH giải quyết việc làm cho người lao động .Đánh giá quá

trình này ,hiện nay có số liệu của Tổng cục thống kê ,Bộ Kế hoạch - Đầu tư và

Bộ Lao động-Thương binh xã hội .Theo số liệu của Tổng cục Thông kê và Bộ kế

hoạch - đầu tư thời kỳ 1991-2006 tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra

theo hướng tích cực phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế (theo bảng sau ):

Bảng 1.2.Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở nước ta thời

kỳ 1991-2006.

51

Đơn vị tính:%

TT Ngành Năm

1991 1995 2000 2003 2006

13,6 13,2 13,7 18,45 1 Công 20,3

nghiệp

2 Nông 72,6 70,1 67,2 59,04 56,8

nghiệp

-Thủy sản 0,51 1,44 2,6 3,3 3,5

3 Dịch vụ 13,8 16,7 19,1 21,5 23,9

Nguồn :Niên giám thống kê các năm [7].

Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong cơ cấu lao động cũng có sự đổi mới .Năm

1996 lao động qua đào tạo mới có 13% đến năm 2000 đã đạt 20% và đến năm

2003 khoảng 21,5%.Về cơ cấu trình độ lao động : Từ năm 1996 đến 2000 tỷ lệ

lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lực lượng lao động tăng

từ 12,31% lên 15.53% .Cơ cấu trình độ cũng có sự thay đổi mặc dù còn chậm

:năm 1996 công nhân kỹ thuật 4,38% Cao đẳng đại học 2,3% Sơ cấp 1,77%

Trung cấp 3,84%. Đến năm 2000 tỷ lệ trong cơ cấu tương ứng là :5,4-1,41- 4,38

và 3,89.

52

Thứ ba: Đào tạo NNL và sử dụng hiệu quả NNL đó góp phần thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế.Nếu như trong những năm 50- 60 của thế kỷ XX

tăng trưởng kinh tế chủ yếu do CNH, sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật

chất là khâu chủ yếu cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế ,thì vài thập niên cuối thế

kỷ XX trở lại đây chỉ có một phần nhỏ thuộc về tăng trưởng kinh tế được giải

thích bởi khía cạnh đầu vào là vốn ;phần quan trọng gắn với chất lượng lao động

.Cho nên việc đầu tư cho con người sẽ là yếu tố góp phần rất quan trọng nâng

cao năng suất lao động .Và được coi là đầu tư cho phát triển .Garry Bec Ken

(người Mỹ ) nói đại ý rằng :Không có sự đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như

đầu tư vào NNL ,đặc biệt là đầu tư cho giáo dục.Thực tế lịch sử các nền kinh tế

thế giới cho thấy không có một quốc gia nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trước

khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông .Việt Nam tuy là nước đang phát

triển nhưng những kết quả về KT-XH trong thời gian qua đã chứng minh điều đó

.Theo đánh giá của tổ chức ngân hàng thế giới Việt Nam đã duy trì và đạt được

tỷ lệ tăng trưởng khá cao và ổn định .Từ năm 1996 đến năm 2000 tổng sản phẩm

trong nước đã gấp 2,07 lần so với năm 1990 .Từ năm 2001 đến nay tỷ lệ tăng

trưởng vẫn duy trì ở mức độ bình quân xấp xỉ 7,5%.

Bảng 1.3.Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ 1996-2006.

Đơn vị tính :%

Năm 1996- 2001 2002 2003 2004 2005 2006

2000

Tỷ lệ 7,5% 6,9% 7,04% 7,24% 7,79% 8,43% 8,5%

Nguồn :Niên giám thống kê[7].

53

Nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế ,bộ mặt xã hội không ngừng được cải

thiện ,chỉ số HDI được nâng lên đáng kể .Năm 1994 Việt Nam xếp thứ 116/173

nước với chỉ số 0,514 ,năm 1995 chỉ số tăng lên 0,649 , năm 2000 tăng lên 0,671

xếp thứ 108 và đến năm 2002 Việt Nam vẫn xếp thứ 108 với chiến lược phát

triển NNL của Đảng ta là đúng đắn .

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên ,có thể thấy rằng : Trong quá

trình phát triển KT-XH nói chung và CNH,HĐH nói riêng ,đào tạo và sử dụng

NNL có vai trò rất quan trọng ,song điều đó không có nghĩa một quốc gia có lực

lượng dân số động thì sẽ có lợi thế và gặt hái được nhiều thắng lợi và ngược lại

một quốc gia có lực lượng dân số ít thì không giành được thắng lợi mà vấn đề ở

đây còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đã đào tạo NNL như thế nào và đã khai

thác sử dụng nó ra sao .Bởi vậy ,để phát triển KT-XH ở Việt Nam trong thời kỳ

đẩy mạnh CNH ,HĐH nói chung và ở ngành Thủy sản nói riêng cần phải coi

trọng vấn đề đào tạo và sử dụng NNLphù hợp với điều kiện đặc thù của mình

.Chính vì vậy nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã ghi rõ:“ Đảm

bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp

trở thành căn bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm, đồng thời

tạo điều kiện cho các thành phầm kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm

việcvà tự tạo việc làm.Khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng nhà nước tổ

chức tốt giới thiệu việc làm,đào tạo nghề nghiệp” (1,251-252)

54

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ ,HIỆN ĐẠI HOÁ Ở

NGÀNH THỦY SẢN

2.1.Những thuận lợi và khó khăn ảnh hƣởng đến đào tạo và sử dụng nguồn

nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở ngành thủy sản

2.1.1.Tổng quan đặc điểm tự nhiên ,kinh tế xã hội ở ngành Thủy sản

Thủy sản là một ngành kinh tế kỹ thuật dựa trên khai thác nguồn lợi tự

nhiên, đó là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước, nếu biết khai thác và sử

dụng tái tạo nguồn lợi tài nguyên này sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển, tạo việc

làm ổn định lâu dài cho cộng đồng ngư dân làm nghề cá. Theo kết quả điều tra

đánh giá nguồn lợi thủy sản được thực hiện đến năm 2001 như sau:

- Nguồn lợi hải sản trong vùng biển dặc quyền kinh tế nước ta.

55

TT Nội dung Đơn vị Trữ lượng Khả năng khai

thác tối đa

1 Nguồn lợi cá biển Triệu tấn 4.180 1,670

2 Nguồn lợi tôm biển Ngàn tấn 58 29

3 Nguồn lợi cá mực Ngàn tấn 123 50

- Về nuôi trồng thủy sản

TT Nội dung Đơn vị tính Số lượng

1 Diện tích có khả năng nuôi trồng thủy ha 1.692.800

sản

- Diện tích mặt nước ngọt ha 911. 700

- Diện tích mặt nước mặn lợ ha 761.100

- Diện tích đất cát ven biển ha 20.000

Trong giai đoạn 2003 - 2010 tiếp tục thăm dò tìm kiếm thêm các ngư

trường mới và tiếp tục xác định các vùng thích nghi có thể đưa vào quy hoạch

phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở tất cả các vùng sinh thái: Nước mặn nước nợ và

nước ngọt nhằm phục vụ đắc lực cho các chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Từ năm 1980 đến nay,ngành Thuỷ sản đã đột phá thực hiện đổi mới theo

phương châm: <> do vậy đã có những bước tiến vượt

bậc và trở thành một ngành kinh tế xã hội quan trọng trong quá trình phát triển

56

của đất nước; Đặc biệt đến năm 1993 đã được Đảng và nhà nước xác định là một

trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước,góp phần không nhỏ vào sự

chuyển đổi cơ cấu kinh tế,giải quyết công ăn việc làm,thực hiện xoá đói giảm

nghèo cải thiện nâng cao đời sống nông,ngư dân.Tổng sản lượng Thuỷ sản đã

vượt các ngưỡng:1triệu tấn (Năm 1990),2triệu tấn(2001),3,7 triệu tấn năm 2006;

kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản đã vượt qua các mức:500 triệu USD (Năm

1995),1,7 Tỷ USD (Năm 2001) và 3,3 Tỷ USD (Năm 2006); Đã thu hút khoảng

4 triệu lao động.

Với đà phát triển và vị thế như vậy ,ngành Thuỷ sản đã đang xây dựng và

thực hiện quy hoạch, chiến luợc cho toàn ngành để dảm bảo cho sự phát triển ổn

định, bền vững nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chung của đất

nước và nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.X .

Hiện nay nước ta có 58 tỉnh, thành phố phát triển thuỷ sản với 3200 km bờ

biển có thể phân chia thành các vùng theo đặc điểm sản xuất kinh doanh thuỷ sản

như sau:

- Vùng miền núi trung du Bắc bộ gồm 14 tỉnh: Lai châu,Điện biên, Sơn la

,Hoà bình ,Hà giang,Cao bằng,Lào cai,Bắc cạn ,Lạng sơn,Tuyên quang, Yên bái,

Thái nguyên, Phú thọ, Bắc giang.

- Vùng đồng bằng sông hồng gồm 6 tỉnh : Quảng ninh, Hải phòng ,Hà nam,

Nam định, Thái bình, Ninh bình .

- Vùng ven biển phía bắc gồm 6 tỉnh : Quảng ninh. Hải phòng, Hà nam ,

Nam định , Thái bình , Ninh bình.

-Vùng ven biển bắc trung bộ gồm 6 tỉnh: Thanh hoá, Nghệ an,Hà tĩnh,

Quảng bình, Quảng trị, Thừa thiên huế.

57

- Vùng duyên hải trung bộ và tây nguyên gồm 11 tỉnh, thành phố : Đà nẵng,,

Quảng nam,,Quảng ngãi, Bình định,Phú yên ,Khánh hoà,Gia lai,Kon Tum, Đắc

lắc,Đắc nông,Lâm đồng.

- Vùng đông nam bộ gồm 8 tỉnh ,thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, ninh

thuận, Bình phước,Tây ninh, Bình dương,Đồng nai ,Bình thuận, Bà rịa –Vũng

tàu.

-Vùng đồng bằng sông cửu long gồm 13 tỉnh: Long an,Đồng tháp,An

giang,Bến tre, Trà vinh,Vĩnh long,Cần thơ,Hậu giang,Sóc trăng, Tiền giang,Cà

mau, Bạc liêu, Kiên giang.

- Đến năm 2006 số lao động thường xuyên trong lĩnh vực sản xuất của ngành

vào khoảng 4156000 người tăng thêm 756000 người so với năm 2000

Các tỉnh có phát triển thuỷ sản với số dân khoảng 48,8 triệu người chiếm

hơn 55% dân số cả nước .Tốc độ tăng dân số tự nhiên cao (1,3% năm) .Gần 90%

dân số sống ở nông thôn .Tỷ lệ dân số lao động /tổng số dân hơn 60% .Hàng

năm số lao động bổ sung thêm cho ngành thuỷ sản khoảng 14,7 đến 20 vạn

người .Số lao động trong độ tuổi có xu hướng trẻ hoá .Lao động trong khối cơ

quan quản lý nhà nước phần đông đã tốt nghiệp đại học .Trong khối sản xuất

kinh doanh cũng có nhiều kỹ sư ,chuyên gia có trình độ kỹ thuật ,quản lý kinh tế

.Song nhìn tổng thể có thể nói : hạn chế của lao động ngành thuỷ sản là thiếu

công nhân kỹ thuật lành nghề nhất là ngành nuôi thuỷ sản, chế biến ,không qua

trường lớp đào tạo ;chủ yếu làm việc bằng kinh nghiệm ,tự học hỏi hoặc chỉ qua

các lớp bồi dưỡng ngắn hạn ,cấp tốc ,thiếu lao động có kiến thức và kinh nghiệm

quản lý nhất là quản lý công nghiệp , kinh tế đối ngoại .Lao động ở nông thôn

đang thiếu việc làm ,quỹ thời gian làm việc chỉ khoảng 80% ,phổ biến là thuần

58

nông .Lao động thành thị chưa có nghề (12%) ;nghề nghiệp chưa ổn định (15%)

.các tỉnh có khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm .

Vừa qua, với xu hướng xã hội hoá trong giáo dục đào tạo .Hệ thống mạng

lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản đã được hình thành và phát triển

rộng khắp cả nước .Tính đến năm 2007 cả nước có 33 cơ sở đào tạo nguồn nhân

lực cho ngành thuỷ sản , trong đó có 25 cơ sở đào tạo hệ chính quy và 8 cơ sở

chỉ thực hiện bồi dưỡng ngắn hạn. Trong đó Bộ Thuỷ sản và các đơn vị trực

thuộc Bộ hiện có 7 cơ sở đang tổ chức đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản (

01Trường cao đẳng, 02 Trường trung cấp chuyên nghiệp ,02 Viện nghiên cứu,

01Trường công nhân ,01 Trung tâm đào tạo nghề); Bộ giáo dục- Đào tạo quản

lý16 cơ sở (11 Trường đại học,01 Phân viện đại học và 04 Trường cao đẳng); các

địa phương 05 cơ sở( Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề).

2.1.2.Những thuận lợi và khó khăn.

Từ tổng quan những đặc điểm tự nhiên KT-XH ,môi trường thể chế có thể thấy nó chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi song cũng không ít những khó khăn đối với việc đào tạo và sử dụng NNL ở ngành Thuỷ sản .

2.1.2.1.Về thuận lợi

- Ngành Thuỷ sản là ngành có tiềm năng về NNL ,đất đai ,tài nguyên nên có

nhiều lợi thế cho sự phát triển nuôi trồng Thuỷ sản và các ngành nghề ,thuận lợi

cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH như phát triển công

nghiệp khai thác,cơ khí đóng tàu thuyền ,công nghiệp chế biến ,phát triển dịch

vụ nghề cá ,do đó mở ra khả năng lớn cho việc khai thác sử dụng NNL .

- Sự quan tâm của Ban cán sự Đảngvà lãnh đạo Bộ Thuỷ sản đến sự phát

triển giáo dục - đào tạo để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của CNH,HĐH .Tại

59

Đại hội Đảng bộ lần thứ IX Ban cán sự Đảng bộ thuỷ sản đã xác định : “Tiếp

tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nhằm đáp ứng yêu cầu

CNH,HĐH .Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục toàn diện ,đa dạng

hoá các loại hình đào tạo ,mở rộng dạy nghề ,đào tạo đội ngũ công nhân có chất

lượng tay nghề cao phục vụ CNH,HĐH” . [ 20,tr.48-49].

-Trong những năm gần đây ,Thuỷ sản là một ngành sản xuất có tốc độ phát

triển nhanh chóng theo hướng sản xuất hành hoá cùng với sự thay đổi về nhận

thức của người dân về nghề nghiệp ,do đó số người có nhu cầu học nghề tăng lên

,đối tượng học nghề đa dạng ở nhiều độ tuổi khác nhau , ngân sách đầu tư cho

giáo dục - đào tạo nghề được tăng lên ,việc xã hội hoá giáo dục cũng như đào tạo

nghề bước đầu có kết quả .Lực lượng lao động nghề cá ngày càng phát triển cả

về số lượng và chất lượng.Đội ngũ ngư dân,nông dân,công nhân,doanh nhân,các

nhà khoa học giáo viên ,công chức ,tất cả đều giàu lòng tâm huyết,yêu nước ,yêu

nghề thi dua lao động sản xuất phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà

nước.

Thị trường Thuỷ sản còn rộng mở và phát triển. Các sản phẩm Thuỷ sản

bảo đảm chất lượng,vệ sinh an toàn thực phẩm và có nguồn gốc rõ vẫn tiêu thụ

tốt tại tất cả các thị trường quốc tế.Thị trường Thuỷ sản nội địa có sức mua ngày

càng tăng theo mức sống của dân cư và sự tăng trưởng của du lịch.

- Các công trình cơ sở hạ tầng đã được nhà nước tập trung đầu tư trong

những năm qua với sự đầu tư từ các nguồn vốn ODA,FDI, sự đầu tư lớn của các

doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tư nhân, cơ sở vật chất của toàn Ngành đã

tăng đáng kể là nền tảng thực hiện quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nghề

cá.

60

- Với bề dày truyền thồng từ nhiều năm nay ,các cơ sở đào tạo thuộc Bộ

thuỷ sản được đặt ở Ba miền Bắc, Trung ,Nam đã đào tạo được một lực lượng

lớn các bộ ,công nhân các chuyên ngành Thuỷ sản.cùng với sự góp sức của các

cơ sở đào tạo thuộc các Bộ ngành khác,địa phương trong cả nước, mạng lưới các

cơ sở đào tạo Thuỷ sản đã cơ bản đáp ứng được về số lượng và chất lượng nhân

lực cho ngành thuỷ sản góp phần không nhỏ trong việc thực hiện hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ chính trị của ngành. Đồng thời các trường đại học ,cao đẳng

cuả ngành ,các viện nghiên cứu gần các thành phố lớn,các Tỉnh ven biển là

những trung tâm Thuỷ sản , những trung tâm kinh tế lớn của cả nước nhận được

nhiều ảnh hưởng theo chiều thuận lợi đối với đào tạo và sử dụng NNL .

2.1.2.2. Khó khăn.

- Ngành Thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt mà đối tượng sản

xuất của nó là những cây, con sinh trưởng và phát triển theo quy luật tự nhiên

của chúng sản xuất nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản diễn ra trên phạm vi không gian

rộng lớn mang tính thời vụvà chịu ảnh hưởng của tự nhiên rất lớn.Thời tiết

những năm qua diễn biến thất thường: nắng nóng, khô hạn kéo dài,mưa lớn lũ

lụt, lũ quét xảy ra ở nhiều nơi ảnh hưởng lớn đến sản xuất Thuỷ sản, gây thiệt hại

nghiêm trọng cho sản xuất và đời sống ngư,nông dân.

- Việc chuyển dịch những vùng diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả

sang nuôi trồng Thuỷ sản trong những năm qua diễn ra khá nhanh,dẫn đến quy

hoạch không theo kịp,tác động xấu đến môi trường,trong khi đầu tư hạ tầng

không đáp ứng,là một trong những nguyân nhân dẫn đến tình trạng bệnh tôm, cá

xảy ra ở nhiều nơi.Môi trường,an toàn vệ sinhThuỷ sản, hiệu quả sản xuất trở

nên bức xúc tác động đến phát triển ngành.

61

- Lực lượng lao động trong ngành Thuỷ sản có đến hàng triệu người hàng

năm lại được bổ sung khoảng 14,7 đến 20 vạn lao động .Đây là một tiềm năng

quý đối với quá trình CNH,HĐH để phát triển KT-XH ,nhưng hiện nay số lao

động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao còn ít ,tỷ lệ lao động qua đào tạo mới

dừng lại ở con số rất khiêm tốn :khoảng 79,3% trong đó số lao động chỉ qua tập

huấn ngắn ngày chiếm 52.1% ,lượng lao động chưa qua đào tạo nghề ở các cơ sở

quốc doanh còn khá cao 21,7% . Đặc biệt trong ngư dân số lao động chưa qua

đào tạo còn khá cao, trình độ văn hoá còn rất thấp đa số ở bậc tiểu học và phổ

thông cơ sở. Vì lao động nghề cá chủ yếu tập trung ở các vùng dân cư ven biển

và Nam bộ, nơi tỷ lệ người có trình độ còn thấp so với cả nước.Do vậy ,nhiệm vụ

đặt ra cho đào tạo NNL để khai thác phát huy tiềm năng con người không kém

phần quan trọng và khó khăn .

- Mặc dù đã có sự đổi mới nhận thức trong nhân dân cũng như các cấp ,các

ngành đối với công tác đào tạo nghề ,song còn thấp xa so với thực tế vị trí của nó

trong sự nghiệp CNH,HĐH ,đặc biệt là vấn đề phân luồng học sinh sau trung học

cơ sở ,trung học phổ thông và sử dụng học sinh trung học chuyên nghiệp đã tốt

nghiệp ra trường .

- Số lượng các cơ sở đào tạo thuỷ sản còn ít phân bố chưa hợp lý, chưa đều

trên các vùng lãnh thổ mà tập trung chủ yếu ở các thành phố và các vùng phụ cận

như Hải phòng,Bắc ninh-Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh.Các địa bàn này cũng

là nơi có nhiều trường của các Bộ ngành địa phương cũng tổ chức đào tạo Thuỷ

sản huặc là nơi có nhu cầu sử dụng Thuỷ sản chưa cao. Ví dụ Hải phòng tập

trung 5 cơ sở đào tạo Thuỷ sản, gồm 2 trường ,1 viện của Bộ Thuỷ sản và 2

trường khác của Thành phố Hải phòng trong khi các Tỉnh khác trong vùng không

62

có cơ sở nào .Tỉnh Bắc ninh không phải là trung tâm lớn về Thuỷ sản nhưng có 2

cơ sở đào tạo thuộc Bộ Thuỷ sản. chưa có cơ sở đào tạo đặt tại các vùng: Miền

núi- Trung du Bắc bộ ,các tỉnh Miền trung ,đặc biệt là tại vùng đồng bằng sông

Cửu Long .Tại các vùng này,hiện nay đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản hầu hết

do các cơ sở ngoài ngành Thuỷ sản thực hiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu

đào tạo cho vùng. Điều này dẫn đến một số bất cập sau:

- Học sinh thuộc đối tượng phi nông nghiệp và nông nghiệp không có Thuỷ

sản trong các trường chiếm tỷ lệ khá cao. Khi tốt nghiệp nhiều người không có

điều kiện làm việc theo nghề đào tạo. Trong khi đó con ,em ngư dân các Tỉnh

trong vùng trống cơ sở đào tạo lại không có điều kiện đi học xa..Do vậy các

trường khó tuyển sinh mặc dù nhu cầu xã hội còn nhiều.

- Phải tổ chức nhiều lớp họctại cácđịa phương cách xa trường nên chất

lượng đào tạo không cao ,chi phí tốn kém , huặc phải tổ chức một số lớp học

theo nhu cầu của người học mà ít liên quan đến Thuỷ sản, học sinh ra trường ít

làm việc cho ngành.

- Một số cơ sở đào tạo Thuỷ sản của các Bộ ,ngành địa phương tổ chức đào

tạo thuỷ sản chủ yếu theo nhu cầu nhân lực ở địa phương (không phải là đối

tượng đào tạo chuyên ngành chính) nên thiếu về sự chuẩn bị lực lượng giáo viên

chuyên ngành, cơ sở vật chất ,chương trình,giáo trình đào tạo ( Không chuẩn và

không thống nhất) , dẫn đến chất lượng đào tạo không cao, thiếu tính chuyên

ngành. Sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài ngành Thuỷ sản chưa

được chặt chẽ thống nhất.

- Chưa hoàn chỉnh về bậc và ngành nghề đào tạo, các trường đại học tổ

chức đào tạo các bậc cao như: Tiến sĩ,Thạc sĩ, đại học hầu hết tập trung ở phía

63

nam, một số vùng ở phía Bắc còn để trống huặc chủ yếu đào tạo đại học tại chức.

Các trường thuộc Bộ Thuỷ sản mới có khả năng đào tạo các bậc Cao đẳng, trung

học và dạy nghề chính quy.đào tạo đại học tại chức theo mô hình liên kết quy mô

nhỏ không ổn định chất lượng chưa cao.

- Về ngành nghề đào tạo ngoài các trường thuộc Bộ Thuỷ sản và một số

trường có truyền thống đào tạo Thuỷ sản đã tổ chức đào tạo các nghề tương đối

đầu đủ theo sự phân công quản lý chặt chẽ của nhà nước các cở sở còn lại chủ

yếu tổ chức đào tạo về kỹ thuật nuôi Thuỷ sản.Nhiều Tỉnh nhiều vùng còn bỏ

trống đào tạo nhiều nghề.

- Sự phân bố các cơ sở đào tạo tay nghề chưa đều ,nguồn tài chính ,cơ sở

vật chất và thiết bị đều thiếu và lạc hậu trong khi nhu cầu xã hội đối với giáo dục

đào tạo tăng nhanh .phía Bắc chưa có Trường đại học thuỷ sản.

- Ở nhiều tỉnh ,tuy đã có sự phát triển các ngành nghề và đặc biệt là các làng

nghề truyền thống , nhưng số lao động và tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng

chưa cao ,tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị chiếm 5% ;hiệu quả sử dụng lao

động thấp ,tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng chưa phát triển theo

chiều sâu .

Nhìn chung Thuỷsản là một ngành sản xuất vất chất với nhiều tiềm năng

thuận lợi về tự nhiên và xã hội để phát triển một nền kinh tế đa dạng ,phong phú

và có sức cuốn hút đối với các đối tác đầu tư. Ngành Thuỷ sản có nguồn lao

động dồi dào ,thị trường trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng và nhu cầu

tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng.Đó là

những nhân tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế ,chuyển dịch cơ cấu kinh tế

.Song để có thể khai thác tốt tiềm năng của ngành trong quá trình CNH,HĐH cần

64

kết hợp thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó giải pháp đúng đắn về đào

tạo và sử dụng NNL có vai trò rất quan trọng .

2.2.Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá

trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở ngành Thuỷ sản thời gian qua

2.2.1.Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực

Sự nghiệp CNH ,HĐH đất nước nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng đã

và đang đòi hỏi đổi mới kỹ thuật ,công nghệ sản xuất kinh doanh để nhanh chóng

đưa trình độ kỹ thuật và công nghệ lên trình độ tiên tiến hiện đại ,khôi phục ,phát

triển và khai thác có hiệu quả các ngành ,nghề trong nền kinh tế .Trong bối cảnh

đó phát triển đào tạo sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu đa dạng về NNL cho

nền sản xuất xã hội ,tạo cơ hội tìm kiếm việc làm của người lao động .Trong

nhiều năm qua hoạt động đào tạo NNL ở ngành thuỷ sản đã đạt được những

thành tựu đáng kể sau đây:

Thứ nhất :Tình hình giáo dục phổ thông – số lượng và chất lượng nhìn nhận

dưới góc độ là nguồn đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực .

Tính đến nay hệ thống trường lớp được xây dựng rộng khắp trong cả nước

,các tỉnh ,đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân với các loại hình công lập ,ngoài

công lập ,phương thức chính quy và không chính quy .Song lao động nghề cá

chủ yếu tập trung ở các vùng dân cư ven biển và Nam bộ, nơi có tỷ lệ người có

trình độ còn thấp so với cả nước. các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung

học đều tổ chức cho học sinh được học nghề (85%) .Cơ sở vật chất phục vụ cho

Giáo dục có nhiều chuyển biến ,về cơ bản đã xoá bỏ được lớp học tranh tre và

tình trạng học 3 ca .Tuy nhiên giáo dục phổ thông các tỉnh vẫn còn bộc lộ những

yếu kém như :Chất lượng giáo dục toàn diện (nhất là giáo dục đạo đức ) có nhiều 65

chuyển biến ,song cần được quan tâm để đạt kết quả tốt hơn .Nhiều giáo viên

vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy và giáo dục lạc hậu ,việc đổi mới phương

pháp giảng dạy và giáo dục còn lúng túng ,nhất là khâu thí nghiệm và thực hành

.Việc phân luồng trong đào tạo còn khó khăn ,chưa đáp ứng được yêu cầu .Một

số trường còn thiếu phòng học ,bàn ghế trang thiết bị giảng dạy .Các Trung tâm

giáo dục thường xuyên ,kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp còn chưa được đầu

tư ,chưa đáp ứng yêu cầu của loại hình đào tạo không chính quy cho người học

và hướng nghiệp các nghề kinh tế kỹ thuật cao cho học sinh .

Thứ hai:Về đào tạo đại học ,cao đẳng ,trung học chuyên nghiệp và dạy nghề

Vừa qua, với xu hướng xã hội hoá trong giáo dục đào tạo .Hệ thống mạng

lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản đã được hình thành và phát triển

rộng khắp cả nước .Tính đến năm 2007 cả nước có 33 cơ sở đào tạo nguồn nhân

lực cho ngành thuỷ sản , trong đó có 25 cơ sở đào tạo hệ chính quy và 8 cơ sở

chỉ thực hiện bồi dưỡng ngắn hạn. Trong đó Bộ Thuỷ sản và các đơn vị trực

thuộc Bộ hiện có 7 cơ sở đang tổ chức đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản (

01Trường cao đẳng, 02 Trường trung cấp chuyên nghiệp ,02 Viện nghiên cứu,

01Trường công nhân ,01 Trung tâm đào tạo nghề); Bộ giáo dục- Đào tạo quản

lý16 cơ sở (11 Trường đại học,01 Phân viện đại học và 04 Trường cao đẳng); các

địa phương 05 cơ sở( Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề).

Cơ cấu các cơ sở đào tạo Thuỷ sản theo bậc đào tạo như sau:

- Đào tạo sau đại học ngành Thuỷ sản cả nước có 5 cơ sở quy mô tuyển

sinh,đào tạo cho cả năm cở sở Bình quân một năm khoảng 15-20 Tiến sĩ,100-200

Thạc sĩ .trong đó chỉ có 02 cơ sở đào tạo thuộc Bộ (Viện nghiên cứu nuôi trồng

Thuỷ sản I Bắc ninh, Viện nghiên cứu hải sản – Hải phòng) đào tạo về sinh học

66

,bảo tồn biển và nuôi trồng Thuỷ sản. Và 03 cơ sở đào tạo ngoài Bộ (Đại học

Nha trang, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông,Lâm Thành phố Hồ Chí Minh đào

tạo về nuôi khai thác, chế biến, kinh tế,cơ khí, điện lạnh Thuỷ sản.

- Đào tạo đại học, cao đẳng có 16 cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng: Quy

mô tuyển sinh,đào tạo tính chung cho 16 cơ sở, bình quân 1 năm khoảng 3500-

4000 kỹ sư,cao đẳng. Trong đó có 03 cơ sở thuộc Bộ liên kết đào tạo Đại học tại

chức( Trường cao đẳng thuỷ sản- Bắc ninh, Trường trung học Thuỷ sản I,II , có

16 cơ sở ngoài Bộ đào tạo chủ yếu chuyên ngành nuôi trồng Thuỷ sản(Đại học

Nha trang,, Nông nghiệp I, Hải phòng,Hồng đức, Vinh, Đại học Thái nguyên ,

Nông lâm Huế, Thủ đức, Cần thơ, An giang, Phân hiệu đại học Nha trang tại

Kiên giang, các trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật các Tỉnh thành phố Cần thơ,

Kiên giang, Trà vinh, Đồng tháp ,Vĩnh long)

- Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp có 15 cơ sở quy mô tuyển sinh tuyển

sinh, đào tạo tính chung cho 15 cơ sở bình quân 01 năm khoảng 3200-4000 kỹ

thuật viên. Trong đó có 03 cơ sở thuộc Bộ :Trường cao đẳng thuỷ sản, Trường

trung cấp thuỷ sản I,II ,các cơ sở đào tạo ngoài Bộ chủ yếu đào tạo chuyên ngành

nuôi trồng Thuỷ sản ( Trung học thuỷ sản Thanh hoá, các Trường trung cấp kinh

tế –Kỹ thuật các Tỉnh Cà mau, Bạc liêu, Tiền giang, các trường Đại học Nha

trang, Cần thơ, An giang, các trường cao đẳng Kinh tế- Kỹ thuật các Tỉnh Cần

thơ, Kiên giang, Trà vinh, Đồng tháp, Vĩnh long).

- Đào tạo trung cấp nghề có 13 cơ sở đào tạo trung cấp nghề với quy mô

tuyển sinh đào tạo bình quân 01 năm khoảng 4400-5000 công nhân kỹ thuật

- Đào tạo sơ cấp nghề thực hiện ở 33 cơ sở đào tạo với quy mô tuyển sinh,

đào tạo khoảng 13000-14000 lao động Thuỷ sản

67

- Kết quả hoạt động của từng mạng lưới dạy nghề nói trên đã làm cho số

lượng lao động được đào tạo nghề qua các năm ngày càng tăng.

Bảng 2.1:Số lao động được đào tạo trong 5 năm từ 2001-2005

Đơn vị tính :Người

Bậc học Tiến Thạc Cao TCCN CNKT Tổng số Đại

học sĩ sĩ đẳng

8 Số lượng 104 2592 9352 14381 27100 700

Tỷ lệ % 0.0 o.4 9.6 34.5 53.0 100% 2.6

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ- lao động [37].

Kết quả trên đã góp phần nâng tỷ lệ lao động được đào tạo ở ngành Thuỷ

sản đối với các cơ sở quốc doanh từ 76,8% năm 2001 lên 82,8% năm 2005; và

đến năm 2007 đạt tỷ lệ 85,8% Trong đó 52,1% số lao động được đào tạo qua tập

huấn ngắn ngày .Trong 5 năm qua kết quả dạy nghề tăng bình quân 1,5%/năm

.Kết quả này đã góp phần to lớn đáp ứng yêu cầu về bổ sung lao động qua đào

tạo cho các doanh nghiệp ,khôi phục phát triển làng nghề và góp phần không nhỏ

vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động đồng thời nâng cao chất lượng lao động .

Tuy nhiên số lao động được đào tạo nghề ở ngành Thuỷ sản chủ yếu là lao

động qua đào tạo ngắn hạn ,lao động qua đào tạo dài hạn rất ít .

Bảng 2.2: Cơ cấu lao động được đào tạo dài hạn và ngắn hạn

Đơn vị tính :người

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006

Tổng số 13.712 19.333 25.509 31.491 36.416 23.580

68

Dài hạn 8.487 8.903 9.867 10.631 10.341 5.150

Ngắn hạn 5.295 10.430 15.695 20.860 26.075 18.340

Tỷ lệ 38.6 53.94 61.5 66.39 71.6 77.7

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ- lao động [37].

Từ số liệu trên cho thấy ,số lượng đào tạo ngắn hạn năm 2001 chiếm 38,6%

trên tổng số người được đào tạo ,số được đào tạo dài hạn là 61,2% và đến năm

2006 là 77,7%đào tạo ngắn hạn ,đào tạo dài hạn là 22,3% .Có thể nói cho đến

nay ,ngành về cơ bản đã đáp ứng được việc đào tạo nghề ngắn hạn (85%) số còn

thiếu là 15% do các cơ sở dạy nghề ngoài ngành đào tạo .Ở ngành thuỷ sản ,các

ngành nghề được đào tạo khá đa dạng và phong phú .Có thể khái quát ở 6 nhóm

ngành như : Nuôi trồng thuỷ sản, chế biến , khai thác, cơ khí ,điện- điện tử ,tin

học ,điện - điện lạnh, ,dịch vụ ,kinh tế , quản trị kinh doanh… với tổng số hơn

50 nghề phục vụ cả 3 nhóm ngành kinh tế công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ

.Trong đó ,có những nhóm ngành phục vụ sản xuất như :điện ,cơ khí ,tin học

…,có những ngành phục vụ xuất khẩu lao động như: cơ khí điện dân dụng ,tin

học .

Tình hình hoạt động đào tạo chuyên nghiệp được xem xét ở 2 cấp trình độ

trung học chuyên nghiệp và đại học ,cao đẳng .

*Đối với bậc trung học chuyên nghiệp :

Với 15 cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp và số giáo viên ngày càng

được tăng cường (516 giáo viên năm 2001 lên 926 năm 2006 ) số học sinh được

tuyển vào và tốt nghiệp ra trường trong những năm gần đây ngày càng tăng .Có

thể thấy qua bảng số liệu sau:

69

Bảng 2.3:Số học sinh chuyên nghiệp được đào tạo từ năm 2000-2006

Đơn vị tính :người

Danh mục Năm học

2001- 2002- 2003- 2004- 2005-

2002 2003 2004 2005 2006

Tuyển mới 5.082 5.275 5.557 5.621 5602

Học sinh đang đào 7.644 10.365 11.331 15.731 15731

tạo

Học sinh tốt nghiệp 4.910 5.230 5.460 5.810 5840

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ-đào tạo [37].

Như vậy, từ năm 2000 đến năm 2005 ở ngành thuỷ sản đã có 27.070 học

sinh trung học chuyên nghiệp đã tốt nghiệp trong tổng số học sinh trung học

chuyên nghiệp được tuyển vào đào tạo, phần lớn là đào tạo dài hạn, số đào tạo tại

chức chiếm một phần rất nhỏ, tuy nhiên cũng bắt đầu tăng lên nhiều từ năm 2001

đến nay.

Bảng 2.4: Số học sinh đào tạo dài hạn – tại chức từ năm học 2000-2006

Đơn vị :Người

Danh mục Năm học

70

2000- 2001- 2002- 2003- 2004- 2005-

2001 2002 2003 2004 2005 2006

Tổng số 8.497 8.497 8.903 9.864 10.631 10261

tuyển mới

HS đào tạo 6.069 6.069 8.497 8.903 9.864 10631

dài hạn

HS tại chức 1575 1575 1.868 2.428 3.400 5100

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ-Đào tạo 3[7].

Ngoài hệ đào tạo tại chức từ năm 2003-2004 ,ở ngành thuỷ sản bắt đầu đào

tạo hệ chuyên tu cho 256 học sinh THCN .

*Đối với bậc Đại học ,Cao đẳng .

Sự hoạt động tích cực của 16 cơ sở đào tạo với số giáo viên (763 năm 2000,

877 năm 2006 ) đã cung cấp NNL chất lượng cao với số lượng không nhỏ cho

các lĩnh vực hoạt động KT-XH ở ngành thuỷ sản .Từ năm 2000 đến nay đã có

17.325 sinh viên tốt nghiệp .Số sinh viên được tuyển mới bắt đầu tăng lên nhiều

từ năm học 2003-2004 .

Bảng 2.5: Số sinh viên đại học ,cao đẳng được đào tạo từ năm 2000-2006.

Đơn vị: Người

Danh mục

2001- 2002- 2003- 2004- 2005-

2002 2003 2004 2005 2006

Tổng số tuyển mới 4.307 3.415 3.628 4659 5010

SV đang đào tạo 1.2468 13.382 12.584 13.611 15226

SV đã tốt nghiệp 6.129 4.835 3.902 3.395 3.518

Nguồn : Vụ tổ chức cán bộ-Đào tạo [37].

71

Khác với bậc trung học chuyên nghiệp ,hoạt động đào tạo ở bậc đại học

,cao đẳng được tiến hành với cả 3 loại hình :chính qui ,chuyên tu ,tại chức .Tuy

nhiên ,số lượng đào tạo chính qui vẫn là cơ bản (chiếm 70%),số lượng được đào

tạo ở loại hình chuyên tu ,tại chức bắt đầu giảm từ năm học 2003-2004 .

Bảng 2.6: Cơ cấu đào tạo sinh viên đại học ,cao đẳng theo loại hình .

Đơn vị :Người

Danh mục Năm học

2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006

Tổng số tuyển 3.415 3.628 4.307 4659 5010

mới

Chính qui 2390 2.539 3.015 3261 3507

Chuyên tu 390 410 450 550 650

Tại chức 635 679 842 848 853

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ-đào tạo [37].

Ngoài các bậc đào tạo nói trên ,nếu xem xét theo tiêu chí người Kinh và dân

tộc giữa các vùng lãnh thổ ,có thể thấy việc đáp ứng nhu cầu đào tạo NNL cho

vùng dân tộc ở các tỉnh còn hạn chế .Số học sinh và sinh viên dân tộc thiểu số

được tuyển vào rất ít so với tổng số .

Bảng 2.7 : Cơ cấu đào tạo giữa người Kinh và dân tộc giữa các vùng

lãnh thổ từ năm 2002-2006.

Đơn vị :Người

72

Năm học Danh mục

Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng -đại học

Tổng số Dân tộc Tổng số Dân tộc

2002-2003 5.275 339 225 3.628

2003-2004 5.557 219 210 4.307

2004-2005 5.621 155 190 4659

2005-2006 5602 212 117 5010

Nguồn :Vụ tổ chức cán bộ -Đào tạo [37].

Nếu xem xét dưới góc độ cơ cấu trình độ giữa bậc đào tạo trung học chuyên

nghiệp với đại học ,cao đẳng có thể thấy sự không phù hợp ,tỷ lệ trung học

chuyên nghiệp còn rất thấp so với đại học ,cao đẳng .Thể hiện qua các số liệu sau

:năm 2001-2002 :4.910/6.129 ;năm học 2002-2003 :5.230/4.835 ;năm 2003-2004

:5.460/3.902; năm học 2004-2005: 5.810/3.395; năm học 2005-2006 :5840/3518

2.2.2.Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực .

Tổng số lao động trong độ tuổi ở các tỉnh phát triển thuỷ sản chiếm khoảng

61% dân số .Trong số gần 33,68 triệu người có khoảng 80% lao động tham gia

hoạt động kinh tế .Phần lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn .Trong số

lao động tham gia hoạt động kinh tế có khoảng 80% lao động làm nông nghiệp

,lao động làm trong ngành thuỷ sản mới chiếm 10%.Riêng khu vực nông thôn có

khoảng 20% lao động làm công nghiệp ,tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ .Thời

gian sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn mới chỉ đạt hơn 70% ;năm 2000

đạt 74,16% ;năm 2001 đạt 74,26% ;năm 2002 đạt 75,42% ;năm 2003 đạt

79,1%;năm 2005 đạt 80,65% .Như vậy,còn gần 20% quĩ thời gian chưa được

khai thác sử dụng .Ước tính khu vực nông nghiệp nông thôn việc sử dụng lao

động còn để lãng phí gần 6,73 triệu lao động .Trong phạm vi toàn 58 tỉnh hiện

73

còn khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm .Năm 2005 ,số lao động

thiếu việc làm ở nông thôn và thành thị là 6,73 triệu người ;số lao động thất

nghiệp 219443 người .Trong đó ở thành thị (11551người ) chiếm 5,31% chưa có

nghề nghiệp ,15% nghề nghiệp chưa ổn định .

2.2.2.1.Về tình hình thu hút và phân bố sử dụng lao động .

Trong những năm gần đây số lao động đang làm việc được phân theo các

ngành kinh tế như sau:

Bảng 2.8: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế từ 2004-2006

Đơn vị tính :Người

TT Ngành Năm

2005 2004 2006

Tổng số 3824000 3.977.000 4.130.000

Trong đó :

1. Khai thác thuỷ sản 1.044.334 1.086.118 1127.903

2. Nuôi trồng thuỷ sản 2.294.400 2.386.200 2.978.000

3. Công nghiệp chế biến 329.246 342.419 355.593

4. Cơ khí 18.737 19.487 20.237

5. Các lĩnh vực khác 127.283 142.776 148.267

Nguồn :Vụ kế hoạch- tài chính [39].

Nếu xem xét trong ngành khai thác thì thấy rằng : số lao động công nghiệp

gồm khai thác, chế biến, cơ khí tăng dần lên từ năm 2004 đến 2006 .Năm 2004

:1392.317 người ;năm 2005: 1448.024 người ,năm 2006 1503733,đồng thời số

lao động trong ngành nuôi trồng thuỷ sản không ngừng tăng lên và chiếm tỷ

trọng chủ yếu trong ngành thuỷ sản phải ánh nuôi trồng thuỷ sản ngày một phát

triển nhất là nuôi những sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu như tôm sú ,cá Tra, cá Ba

74

sa.Trong tổng số lao động ngành thuỷ sản thì lao động trong những lĩnh vực

khác như dịch vụ, hậu cần nghề cá cũng ngày càng tăng lên đáp ứng sự phát triển

của sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế.

2.2.2.2.Việc sử dụng lao động qua đào tạo .

Việc sử dụng lao động qua đào tạo trong các ngành ,lĩnh vực thời gian qua

cho thấy :ngành nuôi trồng thuỷ sản và chế biến, cơ khí có số học sinh tốt nghiệp

làm việc đúng nghề đào tạo khá cao .Tuy nhiên ,một số sinh viên sau khi tốt

nghiệp do không tìm được việc làm đã chuyển sang làm nghề khác hoặc tiếp tục

đi học đại học .Còn số người được đào tạo nghề của các ngành khác do chủ yếu

theo học nghề ngắn hạn nên cơ bản đã tìm được việc làm và tự tạo việc làm

(khoảng 80%).Một số lao động qua đào tạo được thu hút vào các doanh nghiệp

tư nhân ,các doanh nghiệp liên doanh trên địa bàn các tỉnh ;do đáp ứng được yêu

cầu của cơ quan tuyển dụng nên về cơ bản làm việc đúng với chuyên môn được

đào tạo .Bên cạnh đó vẫn còn không ít số lao động đã được đào tạo nhưng không

tìm được việc làm ;để có việc làm họ lại bỏ tiền của và công sức để tiếp tục theo

học nghề khác mà các cơ quan tuyển dụng hiện đang cần ; thậm chí có người lao

động chấp nhận làm những công việc không đúng với khả năng ,ngành nghề đào

tạo như bảo vệ ,hoặc tạp vụ ,giúp việc gia đình …một số lao động được đào tạo

phải di chuyển đến các ngành khác để tìm được việc làm đúng nghề .Như vậy

ngành Thuỷ sản đào tạo lao động nhưng lại không thu hút sử dụng hết sản phẩm

của mình .

2.2.2.3.Về cơ cấu lao động được sử dụng .

Thựctế trong những năm qua cho thấy số lao động có trình độ đại học ,cao

đẳng trở lên tập trung khá nhiều trong khối các cơ quan quản lý nhà nước các

cấp (khoảng 80% )trên tổng số.Khối sản xuất kinh doanh cũng thu hút nhiều kỹ

75

sư ,chuyên gia có trình độ kỹ thuật ,quản lý kinh doanh giỏi song chưa đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH .Nhờ kết quả của hoạt động đào tạo chuyên

nghiệp và dạy nghề số lao động có việc làm trong toàn ngành tăng lên và góp

phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH,HĐH thể

hiện qua bảng số liệu :

Bảng 2.9: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế từ năm 2001-2006

đơn vị tính :%

Ngành Năm

2005 2006 2001 2002 2003 2004

60,3 60,4 Nuôi trồng 60,1 60,2 60,3 60,4

Thuỷ sản

Khai thác 27,31 27,32 27,33 27,32 27,33 27,3

8,9 9,1 Chế biến 8,6 8,8 8,9 9,1

0.05 0.054 Cơ khí 0.004 0.0049 0.05 0.054

Lĩnh vực khác

Nguồn :Vụ kế hoạch- tài chính Bộ thuỷ sản[39].

Tỷ lệ lao động giữa bậc trình độ đại học ,cao đẳng – trung học chuyên nghiệp –

công nhân kỹ thuật có bằng 2-2-1 .Như vậy ,có thể nói ở ngành Thuỷ sản còn

thiếu rất nhiều công nhân kỹ thuật và lao động có trình độ tay nghề cao .Đây là

tỷ lệ khá thấp và lạc hậu so với các nước trên thế giới ( thường có quan hệ 1-4-

10).

2.2.2.4.Về hiệu quả sử dụng lao động .

Từ năm 1996 đến nay ,do khai thác có hiệu quả các nguồn lực của ngành

trong đó có NNL qua đào tạo nên tổng sản phẩm trong ngành luôn đạt tốc độ

tăng trưởng khá (7%).

76

Bảng 2.11:Tốc độ tăng trưởng GDP trong Ngành từ năm 1996-2006

Theo giá so sánh năm 1994

Danh Năm

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

2005

2006

mục

5477

5530

5768

6223

6680

7748

7872

8477

9200

10232

11869

Tổng

GDP

(Tỷ

1,04

1,01

1,04

1,08

1,15

1,16 1,056 1,08

1,85

1,11

1,16

đồng)

Tốc độ

tăng(%)

Nguồn:Niên giám thống kê ngành thuỷ sản tổng cục thống kê [7].

Trong cơ cấu kinh tế của ngành ,tỷ trọng các ngành kinh tế thuộc khu vực

nông – lâm – ngư nghiệp có xu hướng giảm dần ,tỷ trọng khu vực công nghiệp

,xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên .Sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế

theo xu hướng tích cực nhờ đó sự tăng trưởng của nền kinh tế đang theo xu

hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước.Điều này chứng tỏ hiệu quả khai

thác sử dụng các tiềm năng ,đặc biệt tiềm năng lao động của ngành Thuỷ sản

được nâng cao trong thời gian qua .Có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế trong GDP qua bảng sau:

Bảng 2.12: Cơ cấu ngành kinh tế từ 1996-2006

Đơn vị tính :%

77

Ngành Năm

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Khai thác 67,4 68,6 67 67,2 55,2 47,7 42,7 39,8 36,5

Nuôi trồng 32,6 31,4 33 32,8 44,4 52,3 57,3 60,2 63,5

Thuỷ sản

Nguồn :Niên giám thống kê thuỷ sản [7]

Việc khai thác hiệu quả các tiềm năng của ngành đã làm thay đổi chỉ số thu

nhập bình quân của lao động theo chiều hướng tăng lên .Thu nhập bình quân lao

động trong ngành khai thác thuộc khu vực nhà nước do Trung ương quản lý

trong tháng 1 năm 2000 là 731,76 ngàn đồng; năm 2002 :845,2 ngàn đồng ;năm

2005: 1516,27 ngàn đồng , các ngành nuôi trồng thuỷ sản, chế biến thu nhập

bình quân của người lao động có xu hướng tăng lên được thể hiện qua bảng số

liệu sau:

Bảng 2.13: Thu nhập bình quân một người một tháng của lao động trong

khu vực nhà nước do trung ương quản lý phân theo ngành kinh tế từ 2001-2006

đơn vị tính :nghìn đồng

TT Ngành Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006

Tổng số

1 Khai thác 731.765 768.384 845.190 101.422 1318.20 1713.600

2 Nuôi trồng 618.864 649.808 682.300 818.760 982.512 1277.265

78

thuỷ sản

3 Chế biến 828.800 870.241 913.754 100.512 1105.841 1327.009

thuỷ sản

Nguồn: Vụ kế hoạch tài chính [39].

.Nếu tính GDP bình quân 1lao động thì chỉ số này ở ngành Thuỷ sản còn

thấp .Năm 2002 đạt 2,140875 triệu đồng ;năm 2004 đạt 2,313301 triệu đồng

;năm 2005 đạt 2,473887 triệu đồng .Nhìn chung hiệu quả sử dụng lao động tuy

có bước tiến bộ song còn thấp chưa ngang tầm với tiềm năng của ngành .

2.3.Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng

nguồn nhân lực

2.3.1.Đánh giá chung

2.3.1.1.Về thành tựu

Nhờ có sự thay đổi nhận thức đối với NNL,sự quan tâm chỉ đạo sát sao

của Ban cán sự Đảng và lãnh đạo BộThuỷ sản ,trong thời gian qua sự nghiệp

giáo dục và đào tạo của ngành Thuỷ sản nói chung và đào tạo NNL nói riêng đã

đạt được những thành tích đáng kể .

Thứ nhất :Hệ thống Giáo dục phổ thông và đào tạo nghề ngày càng được

mở rộng ,nhờ đó trình độ dân trí được nâng cao tạo nền tảng vững chắc cho sự

tiếp tục đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật ,trình độ tay nghề

.Công tác Giáo dục ,đào tạo nhân lực được quan tâm tới tất cả kỹ năng ,trình độ

và đạo đức công dân ,đạo đức nghề nghiệp .

Thứ hai:Về cơ bản ngành đã đảm bảo được yêu cầu đào tạo nghề ngắn hạn

;các ngành nghề đào tạo đa dạng ,phong phú ,bước đầu phù hợp với yêu cầu của

CNH,HĐH .

79

Thứ ba: Công tác xã hội hoá giáo dục đào tạo nghề đã được triển khai và

có hiệu quả .Việc khôi phục và phát triển các ngành nghề ,làng nghề được nhiều

ngành ,nhiều cấp quan tâm hơn trước .Bộ Thuỷ sản kết hợp với Bộ giáo dục đào

tạo , Bộ lao động thương binh xã hội , Chính quyền địa phương và các tổ chức xã

hội mở được nhiều lớp dạy nghề (hơn 500lớp) và khoảng 600 lớp khuyến nông

,khuyến công ,chuyển giao tiến bộ kỹ thuật công nghệ ,do đó làm tăng số làng có

nghề tiểu thủ công nghiệp hơn trước .Năm 1996 mới có 88 làng nghề đến năm

2003 đã có 1116 làng có nghề ,do vậy số việc làm mới tạo ra ngày càng nhiều ,số

lao động tham gia các hoạt động kinh tế ngày càng tăng .

Thứ tư:Ngành Thuỷ sản đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề lao động

và việc làm .Trong thời gian qua ,Ngành đã thu hút và tạo việc làm cho nhiều lao

động ,tăng thêm thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên hơn 70% và

góp một phần rất quan trọng trong việc tăng tổng sản phẩm của tỉnh ,giảm tỷ lệ

thất nghiệp và tình trạng nông nhàn ở nông thôn .

Thứ năm: Kết quả đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu lao

động .Năm 2001 có 480 lao động xuất khẩu ,năm 2002 có 1.000 lao động ,năm

2003 có 1.500 lao động ,năm 2004 việc xuất khẩu có xu hướng giảm nhưng

trong 6 tháng đầu năm mới thực hiện được hơn 40%.Đối với lao động sau khi

được đào tạo nghề đã có việc làm ổn định( khoảng 80% so với tổng số lao động

được đào tạo );còn khoảng 15% là việc làm chưa ổn định vì muốn tìm nới có thu

nhập cao hơn hoặc đi xuất khẩu lao động .

2.3.1.2.Những hạn chế

Một là :Mạng lưới đào tạo ,nhất là đào tạo nghề của ngành còn bất cập

,chưa đáp ứng được yêu cầu cho công tác đào tạo nhân lực cả về số lượng và

chất lượng cơ cấu vùng .So với yêu cầu CNH,HĐH và mục tiêu đào tạo NNL tới

80

2010 thì ngành Thuỷ sản chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo lao động có trình độ cao

,điều này thể hiện trong số lao động được qua đào tạo thì lao động có chuyên

môn kỹ thuật không bằng còn nhiều (190.351/tổng số 327.492) số công nhân kỹ

thuật cũng còn hạn chế (32.779/327/492 người ).Việc khôi phục nghề cũ ,phát

triển nghề mới tuy có sự phát triển ,số lớp và số người được học nghề ngày càng

tăng song chưa thể đáp ứng được yêu cầu khai thác tiềm năng của ngành .Trong

lực lượng lao động của ngành chủ yếu vẫn là lực lượng lao động phổ thông ,lao

động kỹ thuật tuy đã được nâng lên nhưng mới chỉ có hơn 20%.

Hai là:lao động qua đào tạo hàng năm chủ yếu vẫn là đào tạo ngắn hạn

cho các nghề thủ công nghiệp ở nông thôn giải quyết việc làm trước mắt .Do đó

những lao động qua đào tạo ở ngành thuỷ sản gặp rất nhiều khó khăn khi xin

việc làm tại các doanh nghiệp và tham gia dự tuyển lao động xuất khẩu.Việc

nuôi dưỡng nhân tài chưa được quan tâm từ phía chính quyền địa phương và các

cơ sở tuyển dụng nhân lực .Ở ngành thuỷ sản hiếm thấy sự đài thọ đối với học

sinh giỏi cấp quốc gia ,học sinh đỗ cao vào các trường Đại học có chuyên ngành

phù hợp với xu hướng phát triển và khai thác tiềm năng của ngành .

Ba là : Mức độ toàn dụng lao động ở ngành thuỷ sản còn thấp ,sự phân bố

lao động chưa hợp lý,hiệu quả khai thác sử dụng lao động chưa cao .

Những hạn chế này đã cản trở nhịp độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hướng CNH,HĐH của ngành trong thời gian qua .

2.3.1.3.Nguyên nhân

*Nhận thức về việc làm ,về nghề nghiệp chưa có sự thay đổi vượt bậc

trong nhân dân .Phần đông cho rằng phải có bằng đại học mới có việc làm và có

việc làm cho thu nhập cao .Đối với những người không có khả năng vào được

81

các trường cao đẳng ,đại học thì chỉ cần giải quyết lợi ích trước mắt là có việc

làm ngay nên chỉ theo học nghề ngắn hạn .

*Trình độ cơ sở vật chất ,qui mô số lượng trường và trình độ giáo viên

trong các trường dạy nghề không đồng đều ,số giáo viên giỏi và có trình độ cao

còn ít .Hệ thống các trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề tuy đã có nhiều cố

gắng nhưng hiệu quả chưa cao .Danh mục các ngành nghề đào tạo chưa nhiều và

còn lạc hậu .

*Ngân sách còn hạn hẹp và thu nhập của dân cư thấp nên nguồn tài chính

giành cho đào tạo nghề và nuôi dưỡng nhân tài chưa tương xứng .Việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và phát triển ngành nghề còn chậm do đó số việc làm tạo ra

chưa nhiều .Ngành thuỷ sản chưa có chính sách tuyển dụng hấp dẫn ,cuốn hút

lao động nhất là lao động chất lượng cao và số sinh viên là con em của ngành sau

khi tốt nghiệp các trường đại học về công tác tại ngành .

*Ngành thuỷ sản nói riêng và nước ta nói chung vẫn còn chậm trễ trong

đổi mới cơ chế tuyển dụng NNL nên không kích thích được việc đào tạo lại để

có thể nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng lao

động .Sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo ,trình độ học vấn và nghề nghiệp chưa

đáp ứng được yêu cầu của sản xuất xã hội .Trong thực tế điều này chỉ có thể giải

quyết được thông qua việc đào tạo lại ,phổ cập nghề cho người lao động bởi

nhân lực được đào tạo ở ngành thuỷ sản chủ yếu là ngắn hạn .

2.3.2.Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới

2.3.2.1.Tình trạng vừa thừa vừa thiếu ,bất hợp lý về cơ cấu trình độ đào tạo của

nguồn nhân lực

Xét về phương diện lý luận và thực tiễn sản xuất đều cho thấy rằng năng

suất và hiệu quả cao hay thấp cuả sản xuất đều phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con

82

người .Sự phụ thuộc này được xem xét cả về số lượng và chất lượng của NNL

hiện có và sẽ có trong tương lai .Cả hai yếu tố này lại phụ thuộc rất lớn vào các

chính sách :Dân số,đào tạo và sử dụng NNL.Vì vậy để đáp ứng yêu cầu của

CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ,phát triển kinh tế theo hướng nền kinh tế

tri thức ngành thuỷ sản cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề sau :

- Nguồn nhân lực ở ngành thuỷ sản đang đứng trước tình hình là thừa lao

động ,thiếu việc làm ,số lượng cung về lao động giản đơn rất lớn trong khi cầu

về lao động lành nghề ,lao động có hàm lượng trí tuệ cao nhưng khả năng đáp

ứng lại rất hạn chế gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động trên thị

trường .Theo số liệu đã trình bày ở trên ,dân số tự nhiên ở ngành thuỷ sản còn ở

mức cao ,tốc độ tăng lao động vẫn diễn mạnh ,hàng năm có khoảng 14,7đến 20

vạn lao động được bổ sung và cần giải quyết việc làm .Ước tính đến năm 2007

có 4,5 triệu ,lao động trong độ tuổi 1,45 triệu ,đến năm 2010 dân số khoảng 2,67

triệu ,lao động trong độ tuổi 1,5 triệu .Bên cạnh đó số lao động dư thừa lao động

chưa có việc làm hàng năm gần 20% .Nguồn lao động lớn lại tăng nhanh trong

khi tốc độ phát triển kinh tế ở ngành Thuỷ sản còn chậm ,chưa có khả năng mở

rộng tái sản xuất để thu hút lao động .Cơ cấu ngành nghề còn đang trong quá

trình chuyển dịch và lại diễn ra chậm chạp nên sự phát triển nghề về cơ bản đã

giúp giải quyết việc làm hàng năm ,song vẫn còn thấp hơn so với yêu cầu phải

giải quyết .Sự phát triển của quan hệ cung – cầu về lao động như thế dẫn đến sức

ép về giải quyết việc làm ngày càng cao .

- Mặt khác ,quá trình CNH,HĐH ở ngành Thuỷ sản thời gian qua và sắp

tới cho thấy nhu cầu đòi hỏi về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhiều

hơn lao động giản đơn .Ví dụ như theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ

sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được thủ tướng chính phủ

83

phê duyệt. Tổng nhu cầu lao động cần được đào tạo ở các bậc đào tạo đại học,

trung cấp chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật được dự tính đến năm 2010 là

1.151.779 người .Trong đó nhu cầu đào tạo bậc đại học, cao đẳng là172,556

người (Chiếm khoảng 15%) trung bình mỗi năm đào tạo 34.760 người. Nhu cầu

đào tạo bậc trung học chuyên nghiệp là 230.356 người ( Khoảng 20%), trung

bình mỗi năm đào tạo 47.370 người. Nhu cầu đào tạo bậc công nhân kỹ thuật là

748657 người ( Khoảng 65%) Mỗi năm đào tạo được 150.000 người.

- Xét theo các lĩnh vực thì nhu cầu đào tạo chuyên ngành nuôi trồng thuỷ

sản vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (61%), khai thác thuỷ sản (27%), chế biến thuỷ sản

(9%), cơ khí thuỷ sản (0,5%) và chuyên môn khác(3%) trong tổng số 1.151.779

người đào tạo cả 3 hệ.

Số lao động cần cho quá trình phát triển chủ yếu là lao động lành nghề

,lao động có chuyên môn kỹ thuật cao ,các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị trường

.Yêu cầu này đặt trước nguồn cung cấp lao động chủ yếu là lao động phổ thông

có tay nghề giản đơn ,lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp ,bộ đội xuất ngũ (số

này chiếm gần 80% lực lượng lao động ) cho thấy khả năng số người không có

việc sẽ tiếp tục tăng nếu cung đào tạo nhân lực chuyên môn không đáp ứng kịp

thời .Sự lệch pha này làm cho quan hệ cung cầu lao động vốn đã mất cân đối lại

càng mất cân đối hơn trước ,ảnh hưởng đến quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH .

-Trong thực tiễn ,quá trình CNH,HĐH việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật để thực hiện quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động kỹ thuật sử

dụng máy móc công nghệ ,có chuyên môn kỹ thuật tăng .Nhưng một điều đáng

lo ngại ở ngành thuỷ sản hiện nay là số thời gian lao động chưa được sử dụng

của lao động nông nghiệp khá cao (gần 25%) ;trong số những người không có

việc làm ở nông thôn thì đại bộ phận là không có nghề ,không có vốn và chưa

84

qua đào tạo ;số lượng bộ đội xuất ngũ hầu hết chưa qua đào tạo nghề ,trình độ

nhân lực được đào tạo lại bất hợp lý .Số lao động qua đào tạo mới đạt 21,5%

nhưng nhu cầu tới năm 2005 đòi hỏi phải đạt 35% và tới năm 2010 phải đạt

45% .Cơ cấu trình độ lao động giữa đại học ,cao đẳng ,trung học chuyên nghiệp

– công nhân kỹ thuật mới đạt tỷ lệ 4,7%-5,2%-2,47%.Trong khi đó yêu cầu của

CNH,HĐH đã được lựa chọn ở ngành thì tới 2005 tỷ lệ này trong công nghiệp

xây dựng lại cần 7,5%-15%- 4,2% và trong nông nghiệp tỷ lệ đó cũng là 2%-5%-

8%.

- Cùng với các ngành khác trong cả nước ,ngành Thuỷ sản tiến hành

CNH,HĐH trong cơ cấu mở với xu hướng khu vực hoá ,toàn cầu hoá ngày càng

tăng ,để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực đòi hỏi việc đào tạo NNL phải đáp

ứng được yêu cầu cao cả về số lượng và chất lượng .Nhờ đó có thể sản xuất

được các hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khu vực và quốc tế

đồng thời tạo được sức cạnh tranh của lao động xuất khẩu thuỷ sản trên thị

trường khu vực như Hàn Quốc ,Đài Loan ,Malaixia ; Nhật bản tiến tới tiếp cận

các thị trường mới – thị trường cao cấp ở châu Âu ,châu Phi ,đặc biệt là thị

trường Anh .Chính vì vậy ,vấn đề đặt ra cho ngành hiện nay là muốn đạt mục

tiêu xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế của nguồn lực con người cần phải

tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo NNL ,đạt ở trình độ chuẩn so

với khu vực và thế giới (kể cả lao động giúp việc gia đình và lao động chuyên

môn kỹ thuật ).

- Đào tạo NNL ngành Thuỷ sản cũng đang đứng trước yêu cầu chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH,HĐH ,nhưng hiện nay

cơ cấu lao động theo ngành và cơ cấu lao động được đào tạo còn bất hợp lý .Quá

trình chuyển dịch diễn ra chậm chạp ,tỷ lệ lao động giữa các ngành nông nghiệp

85

– công nghiệp – dịch vụ là 48,9%-24,1%-16,8%.Ngành thuỷ sản mới có hơn

20% trong tổng số lao động được đào tạo nhưng chủ yếu mới đào tạo được lao

động ở trình độ bán lành nghề chứ chưa phải đào tạo lao động dài hạn trình độ

cao để phục vụ cho công nghệ cao .Ta biết rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,cơ

cấu lao động là nội dung cơ bản của CNH,HĐH ,chỉ khi nào phá vỡ được cấu

trúc cũ xây dựng cấu trúc mới một cách toàn diện cả về cơ cấu lao động được

đào tạo mới được xem là hoàn thành nhiệm vụ của CNH,HĐH .Vì vậy để khắc

phục tình trạng bất hợp lý về cơ cấu lao động đáp ứng được yêu cầu của chuyển

dịch cơ cấu lao động ,Thuỷ sản cần phải thực hiện một cuộc cách mạng trong

đào tạo và dụng NNL .

2.3.2.2.Tiềm năng nhân lực còn bị lãng phí ,phân bổ sử dụng chưa hợp lý và

hiệu quả sử dụng chưa cao trong khi yêu cầu khai thác sử dụng rất lớn .

- Quá trình đổi mới ở ngành Thuỷ sản trong thời gian qua nhìn chung đã

có những cố gắng trong việc khai thác sử dụng ,phát huy tiềm năng nhân lực

ngày một đầy đủ và có hiệu quả hơn vào các mục tiêu KT-XH của ngành .Nhưng

xem xét một cách cụ thể và toàn diện trong thực tế việc sử dụng NNL ở ngành

vẫn còn hạn chế .Ngành vẫn chưa sử dụng hết tiềm năng nhân lực của mình (

điều này đã nêu trong thực trạng ).

- Đối với lao động được đào tạo ,ngành Thuỷ sản cũng chưa khai thác sử

dụng được hiệu quả của nó ,điều này được thể hiện ở chỗ sử dụng nhân lực có

trình độ chuyên môn không đúng với ngành nghề được đào tạo hoặc dưới khả

năng được đào tạo .

- Các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

đã sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học vào làm những công việc của công nhân

86

,cách sử dụng này vừa không đạt hiệu quả cao lại gây lãng phí trong đào tạo

NNL

Như vậy vấn đề đặt ra ở Ngành Thuỷ sản làm thế nào để thu hút được

nhiều lao động và sử dụng lao động có hiệu quả cao ,nhất là lao động qua đào tạo

trong thời gian tới.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THÚC ĐẨY VIỆC

ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ

TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ ,HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI GIAN TỚI Ở

NGÀNH THUỶ SẢN

3.1.Phƣơng hƣớng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Lý luận và thực tiễn đều khẳng định không thể xác định phương hướng đào

tạo và sử dụng NNL ,nếu phương hướng đó không lấy phương hướng chung của

CNH,HĐH làm căn cứ xuất phát .

3.1.1.Phương hướng chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2010

3.1.1.1.Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá ,hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế .

87

Trên cơ sở nhận định tình hình chung và đánh giá sự phát triển NNL ,ngành

Thuỷ sản đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH thời kì 2000-2010

,trong đó chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CNH,HĐH (nhất là CNH,HĐH ngành

nuôi trồng Thuỷ sản, ngành khai thác, ngành chế biến thuỷ sản ),tiếp tục chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH,HĐH .Cụ thể :

+ Mục tiêu dài hạn:

- Phát huy mọi lợi thế tài nguyên, các điều kiện tự nhiêu và tiềm lực, xây

dựng ngành thuỷ sản thành một ngành kinh tế mạnh, công nghiệp hoá hiện đại

hoá, có giá trị xuất khẩu lớn, mức tích luỹ cao và mang lại sự giàu có cho nhân

dân, Đưa ngành thuỷ sản đến năm 2020 về cơ bản trở thành một ngành công

nghiệp hiện đại.

- Bảo tồn được tính đa dạng sinh học và các môi trường sống của các giống

loài thuỷ sản của nước ta, đồng thời không ngừng chọn lọc, cải tạo và du nhập

các giống loài thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao mới bổ sung và làm

phong phú thêm các nguồn lợi thuỷ sản của Việt nam làm cho ngành kinh tế thuỷ

sản luôn luôn mới mẻ và có sức cạnh tranh cao.

- Đến năm 2010 tạo lập được một cơ sở hạ tầng và màng lưới dịch vụ tương

đối đồng bộ,hoàn chỉnh cho nghề cá, làm nền cho việc phát triển một nghề cá

hiện đại ở thập kỷ sau.

- Xây dựng một đội ngũ đông đảo cán bộ có trình độ quản lý giỏi và khoa

học kỹ thuật cao, lực lượng lao động thuỷ sản năng động, có tri thức, giỏi về

chuyên môn, thành thạo tay nghề làm nền tảng cho sự phát triển và quản lý

ngành thuỷ sản hiệu quả bền vững.

88

- Đối với nuôi trồng thuỷ sản: Phát triển theo hướng xây dựng nền sản xuất

hàng hoá qui mô lớn ,hiệu quả và bền vững có năng suất chất lượng và sức cạnh

tranh cao trên cơ sở sử dụng các tiển bộ khoa học công nghệ tiên tiến để đáp

ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu .Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nuôi trồng

thuỷ sản theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế

,khai thác có hiệu quả tiềm năng của các tiểu vùng kinh tế trong các tỉnh,gắn

phát triển nuôi trồng thuỷ sản với công nghiệp chế biến .

- Đối với công nghiệp và khai thác thuỷ sản: Phát triển công nghiệp chế

biến thuỷ sản, công nghiệp khai thác thuỷ sản nhất là chế biến thuỷ sản xuất

khẩu trên cơ sở phát huy thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản .Tập trung vào công

nghiệp phục vụ sản xuát nuôi trồng thuỷ sản và đáp ứng một phần nhu cầu tiêu

dùng trong nước.Phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao

như chế biến thuỷ sản .Ưu tiên các ngành sản xuất :cơ khí đóng tàu,điện máy,

xuất khẩu .Phát huy các làng nghề truyền thống đánh bắt thuỷ sản.Phát triển

công nghiệp gắn với quy hoạch đô thị ,giữ gìn bảo tồn các di sản thiên nhiên ,các

công trình văn hoá ,di tích lịch sử và bảo vệ môi trường sinh thái .Chuyển mạnh

nền công nghiệp từ chủ yếu là gia công hiện nay sang hiện đại để đạt giá trị xuất

khẩu cao .Tuy nhiên ,căn cứ vào tiềm năng nguyên liệu và nguồn lực lao động,

ngành cần ưu tiên đầu tư phát triển các nhóm ngành như:

+ Nuôi trồng thuỷ sản

+ Công nghiệp chế biến thuỷ sản – thực phẩm và đồ uống .

+ Công nghiệp khai thác hải sản .

+ Công nghiệp cơ khí (chế tạo và sửa chữa ).

89

+Tạo điều kiện phát triển các làng nghề khai thác thuỷ sản kết hợp thủ công

gắn với công nghệ mới .

- Đối với dịch vụ và thương mại: Tập trung qui hoạch xây dựng mạng lưới

kinh doanh bán buôn ,bán lẻ trên địa bàn gắn với thị trường Hà Nội , thành phố

Hồ Chi Minh ,các thành phố lớn, các tỉnh và nước ngoài .Xuất khẩu với đầu tư

phải gắn với vùng nguyên liệu thuỷ sản ,công nghiệp chế biến tập trung của

ngành nhất là các mặt hàng chủ lực như tôm sú, cá tra ,cá ba sa.

3.1.1.2. Các chỉ tiêu chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Theo quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, trong thời gian tới ở ngành

Thuỷ sản cần đạt là:

Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 7,5%-8%/năm giai đoạn 2001-2005 -

và 8%-9% giai đoạn 2006-2010.

I .Tổng sản lượng (Triệu tấn) 3,5- 4 -

Trong đó : -

-Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 2 -

Sản lượng khai thấc hải sản 1,2 -

Cơ cấu ngành kinh tế: -

Năm 2005 Năm 2010

23% + Nông nghiệp 35%

40% + Công nghiệp 35%

37% + Dịch vụ 30%

90

- Kim ngạchxuất khẩu năm 2006 là 3,3tỷ USD ,năm 2010 là 4, - 4,5tỷ

USD . - Lao động nghề cá(Triệu người) 4,7

- Thu nhập bình quân đầu người đạt 14 triệu VNĐ vào năm 2010[43].

3.1.2.Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công

nghiệp hoá ,hiện đại hoá .

Để thực hiện phương hướng chung của CNH,HĐH nói trên ,hoạt động đào

tạo và sử dụng NNL trong thời gian tới cần phát triển theo định hướng sau:

3.1.2.1.Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cả về số lượng ,chất

lượng cho công nghiệp hoá ,hiện đại hoá.

Trong định hướng phát triển Giáo dục đào tạo Đảng ta đã chỉ rõ :mục tiêu

đào tạo NNL là phải đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH và phát triển KT-XH và nâng

tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% .Hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII Đảng

ta xác định: “Phát triển đào tạo đại học ,trung học chuyên nghiệp ,đẩy mạnh đào

tạo công nhân lành nghề bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước.Kế hoạch đào

tạo nghề phải theo sát chương trình KT-XH của từng vùng phục vụ cho sự

chuyển đổi cơ cấu lao động cho CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn …Đào tạo

đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp ,khu chế xuất ,có tính đến nhu

cầu xuất khẩu .Tại đại hội IX ,Đảng ta đã khẳng định : “Tiếp tục quán triệt quan

điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản ,toàn diện

trong phát triển Giáo dục đào tạo …Định hình qui mô giáo dục đào tạo ,điều

chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là cơ cấu cấp học theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu

phát triển NNL phục vụ phát triển KT-XH.Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên

cho các cấp” [17,tr.292].Do vậy ,thời gian tới cần :

91

- Đào tạo NNL phải hướng vào việc tạo ra được những con người phát

triển toàn diện ,yêu nước và có lý tưởng XHCN ,góp phần tích cực vào sự nghiệp

CNH,HĐH ,có tinh thần ham hiểu biết ,có tư duy sáng tạo ,làm chủ khoa học kỹ

thuật hiện đại ,có ý thức và năng lực hợp tác ,có tinh thần trách nhiệm với cộng

đồng xã hội ,với môi trường tự nhiên ,có nếp sống lành mạnh và sức khoẻ tốt để

học tập ,lao động suốt đời .Muốn vậy phải:

+ Mở rộng qui mô đào tạo đi đôi với coi trọng chất lượng Giáo dục đào tạo

và hiệu quả sử dụng ,đáp ứng yêu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài cho

CNH,HĐH .

+Thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo, cấp đào tạo , ngành nghề

đào và tạo trình độ đào tạo (chính qui và không chính qui) và các hình thức như

đào tạo từ xa , đào tạo theo địa chỉ rèn luyện kỹ năng ,tổ chức đào tạo và bồi

dưỡng lại cho công nhân đang làn việc theo chu kỳ 5 năm/1 lần , thực hiện liên

thông ,liên kết trong đào tạo để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

cơ cấu lao động theo hướng CNH,HĐH .

+ Cần tập trung sức nhanh chóng phát triển đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu

nhân lực cho ngành nuôi trồng thuỷ sản,khai thác và chế biến. Đẩy mạnh việc

đào tạo lại nhằm bổ túc kiến thức nâng cao năng lực mới ,kiến thức công nghệ

hiện đại và năng lực kỹ thuật cho đội ngũ lao động đang sử dụng để nâng cao

năng suất lao động .Tích cực đổi mới nội dung chương trình, nghiên cứu phát

triển các chương trình đào tạo mới nhầm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu

của người học và hội nhập kinh tế quốc tế.

-Trong quá trình đào tạo và đào tạo lại cần thực hiện đồng thời các mặt

như : Thay đổi cơ cấu lao động nâng cao chất lượng trình độ kỹ thuật công nghệ

92

và tăng cường năng lực quản lý.Trong đó đào tạo lao động kỹ thuật được nhấn

mạnh để nhanh chóng khắc phục mặt yếu kém của NNL ở ngành thuỷ sản hiện

nay .Cụ thể :

+ Đối với giáo dục phổ thông: Đến năm 2010 hoàn thành phổ cập giáo dục

trung học cơ sở ,tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ

thông từ 57% năm 2000 lên 65% vào năm 2005 và 75% vào năm 2010 [36,tr.7-

8].

+ Đối với trung học chuyên nghiệp cần mở rộng đào tạo kỹ thuật viên

,nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung học

dựa trên nền tảng học vấn trung học cơ sở .Thu hút 10% học sinh trong độ tuổi

vào các trường trung học chuyên nghiệp trong năm 2005 và 15% vào năm

2010[36,tr.9.].

+ Đối với dạy nghề: Mở rộng đào tạo công nhân ,trú trọng đào tạo đội ngũ

công nhân tay nghề cao cho một số ngành mũi nhọn và cho xuất khẩu lao động

.Phát triển nghề ngắn hạn ,đặc biệt ở nông thôn để thực hiện chuyển dịch cơ cấu

lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác .Thu hút học sinh sau trung

học cơ sở vào học các trường dạy nghề tới 2005 đạt tỷ lệ 25% trong độ tuổi và

30% năm 2010 [36,tr.9].

+ Đối với đại học và cao đẳng: Cần đáp ứng tốt yêu cầu nhân lực trình độ

cao cho CNH,HĐH và phát triển bền vững ,nâng sức cạnh tranh và đặc biệt đáp

ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,HĐH phát triển theo hướng kinh tế tri thức, phấn

đấu đến năn 2010 đạt 200 sinh viên/10.000 dân, lao động đã qua đào tạo chiếm

40% tổng lao động xã hội .Do đó , một mặt củng cố phát triển trường Cao đẳng

thuỷ sản , Cao đẳng nghề thuỷ sản và mặt khác thành lập hai trường Đại học thuỷ

93

sản ở miền Bắc và miền Nam trên cơ sở nâng cấp trường cao đẳng thuỷ sản

huặc xây dựng mới [39,tr.9].

3.1.2.2.Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu về nguồn nhân lực qua đào

tạo trong các lĩnh vực kinh tế xã hội.

- Lĩnh vực công nghiệp :

Tăng qui mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2005 có 30-35%

,năm 2010 có 60- 65% lao động trong ngành công nghiệp- xây dựng được đào

tạo ,trong đó 7,5% có trình độ Cao đẳng trở lên ,15% trung học chuyên nghiệp

;4,2% công nhân kỹ thuật .Ưu tiên đào tạo cho các ngành công nghiệp then chốt

,các khu công nghiệp tập trung ,khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động và cho

nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động ,ưu tiên các lĩnh vực chế biến nông

sản và công nghiệp vật liệu xây dựng [36,tr.10].

-Đối với nông nghiệp ,ngư nghiệp :

Phấn đấu đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 15%,trong đó

trình độ cao đẳng trở lên có 2%,trung học chuyên nghiệp là 5% ,công nhân kỹ

thuật :8%; đến 2010 đạt 20%-30%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên có 4%

,trung học chuyên nghiệp là 7% ,công nhân kỹ thuật :9-12%.Chú ý đào tạo và

bồi dưỡng nhân lực để phát triển kinh tế trang tại [36,tr.10]. Đồng thời với việc

nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào 2005 và 40% vào 2010 tiến dần

tới sự hợp lý về cơ cấu trình độ giữa cao đẳng, đại học – trung học chuyên

nghiệp – công nhân lành nghề trên thế giới là 1-4-10.

- Nhân lực cho một số ngành và lĩnh vực xã hội khác :

94

+ Bảo đảm đủ đội ngũ cán bộ cho các ngành khác cả về số lượng ,chất

lượng và cơ cấu .Chú trọng đào tạo về quản lý kinh tế, kinh tế thương mại, kế

toán theo kịp trình độ khu vực .

+ Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác và cán bộ quản lý về khuyến ngư

cho các địa phương .

+ Tăng qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng thường xuyên

cho công chức nhà nước từ cấp cơ sở trở lên.

3.1.2.3.Phát huy tối đa nội lực nguồn nhân lực trong ngành ,sử dụng hợp lý ,có

hiệu quả nguồn nhân lực ,trong đó đặc biệt chú ý nguồn nhân lực qua đào tạo .

Mục tiêu KT-XH đã đưa ra trong nghị quyết Đảng bộ ngành lần thứ IX chỉ

có thể đạt được khi phát huy tối đa NNL hiện có để khai thác các lợi thế về đất

đai ,tài nguyên .Muốn vậy Ngành Thuỷ sản cần xác định được tổng cầu lao động

của toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lao động theo ngành ,theo khu vực thành thị và

nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hoá ,CNH,HĐH .Trên cơ sở đó một mặt

thực hiện điều chỉnh đào tạo NNL để đáp ứng yêu cầu ,mặt khác cần đấy nhanh

sự phân công lại lao động ,đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH ,giảm dần lao động trong nông nghiệp từ

62,8% xuống 55% năm 2005 và xuống đến 40% năm 2010.

Bảng 3.1:Dự báo cơ cấu lao động ở ngành Thuỷ sản đến năm 2010.

đơn vị tính :%

TT Ngành Năm

95

2001 2005 2010

1. Nuôi trồng thuỷ sản 60 60,5 57

2. Khai thác 27,3 27,31 28

3. Chế biến 8,6 8,61 10

Cơ khí 4 0,004 0,49 0,8

5 Các ngành khác 3,57 3,94 4,2

Nguồn :Qui hoạch tổng hợp phát triển kinh tế –xã hội ngành thuỷ sản đến

năm 2010 [43].

Đồng thời với vịec làm trên cần tích cực tạo việc làm mới và ổn định để

thu hút nhiều lao động ,giảm tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%

,tăng quĩ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 85%.

Việc sử dụng NNL qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là vấn đề quan trọng

nhất của sử dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH ,bởi đây là bộ phận quyết định

năng suất lao động chung trong toàn ngành .Ngành thuỷ sản trong thời gian tới

cần tạo điều kiện để NNL qua đào tạo có cơ hội làm việc rộng rãi ,có chính sách

thu hút ,khuyến khích lao động được đào tạo (nhất là bậc đại học cao đẳng ) về

làm việc ở nông thôn ,đặc biệt là các xã miền núi thông qua chế độ ưu đãi về thu

nhập ,điều kiện để tiếp tục học tập ,có thể dễ dàng quay trở lại công tác tại miền

xuôi và thành phố sau một số năm công tác nếu họ không muốn ở lại miền núi .

- Mở rộng qui mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo .

96

- Đa dạng hóa các loại hình và trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH .

- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng

NNL trên cơ sở phân công lại lao động xã hội ,thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu

lao động theo hướng CNH,HĐH .

3.2.Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Ngành

Thuỷ sản

3.2.1.Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo

Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục ,động viên các

tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của

nhà nước .Xã hội hoá giáo dục đào tạo là làm cho giáo dục đào tạo đáp ứng được

yêu cầu đa dạng phong phú của xã hội ,của từng ngành ,từng địa phương ,biến

nhà trường từ một thể chế nhà nước thành một thể chế xã hội nhà nước ,một hệ

thổng mở đa dạng ,mềm dẻo và gắn với tiến trình phát triển KT-XH đồng thời

thu hút được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp Giáo

dục đào tạo ,tạo nên sự gắn kết giữa cá nhân với xã hội ,giữa xã hội với ngành

giáo dục đào tạo .Muốn vậy Thuỷ sản cần :

- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng ,chính quyền ,các ban ngành

đoàn thể ở ngành cũng như ở các địa phương về tầm quan trọng của giáo dục và

đào tạo ,đặc biệt là đào tạo nghề .Quan tâm tạo điều kiện cho mọi người được

học tập và học tập suốt đời thông qua việc xây dựng các trung tâm học tập cộng

đồng tại các địa phương ,các trung tâm dạy nghề .Tôn vinh nghề dạy học và tăng

cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo .Củng cố Hội đồng Giáo dục và Hội

khuyến học các cấp .Tiếp tục đẩy mạnh việc lập và sử dụng có hiệu quả quỹ 97

khuyến học (chú ý mở rộng tăng cường đối với dạy nghề ) ,quỹ khuyến nông và

khuyến ngư .

- Huyđộng mọi nguồn lực và tăng cường trách nhiệm đối với đào tạo NNL

.Bằng cách đó giải quyết những bức xúc về NNL ,khắc phục những bất cập về

đào tạo NNL ở NgànhThuỷ sản hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu KT-XH của

ngành đề ra.Ngành cần có cơ chế nhằm khuyến khích đầu tư các cơ sở dạy nghề

trong các thành phần kinh tế .Một mặt ngành đầu tư phát triển qui mô dạy nghề

công lập ,tăng đầu tư cho các quỹ khuyến công ,khuyến ngư và mặt khác coi

trọng ,khuyến khích phát triển các cơ sở đào tạo bán công ,tư thục ,cơ sở dạy

nghề trong doanh nghiệp để tạo lập một hệ thống dạy nghề liên hoàn gắn lý

thuyết với thực hành ở cả ba cấp trình độ ;bán lành nghề – lành nghề – trình độ

cao .Việc đào tạo lao động có trình độ lành nghề và trình độ cao cần phân công

cho các trường dạy nghề ,các trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng kỹ

thuật có chức năng dạy nghề ,việc đào tạo trình độ bán lành nghề giao cho các

trung tâm dạy nghề,các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của tập thể và tư nhân trong các

làng nghề với những chương trình linh hoạt .

- Tăng cường hợp tác quốc tế khuyến khích các nguồn đầu tư từ nước

ngoài xây dựng các cơ sở đào tạo thuỷ sản, bồi dưỡng giáo viên, trao đổi phương

pháp đào tạo, xây dựng nội dung chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế,kêu gọi

bà con Việt kiều ,các nhà doanh nghiệp trẻ thành đạt trong ngành tài trợ cho các

trường và các trung tâm dạy nghề dưới các hình thức như: hỗ trợ về tài chính và

trang thiết bị dạy học ,quỹ khuyến học ,học bổng …

- Để giải quyết thoả đáng mối quan hệ cung cầu nhân lực và thực hiện các

mục tiêu về giải quyết việc làm ,gắn đào tạo với sử dụng NNL ,cần:

98

+ Có nhận thức mới:Coi Giáo dục đào tạo ,một lĩnh vực dịch vụ có thu

.Trên cơ sở thừa nhận thị trường lao động ,tất yếu phải thừa nhận sản phẩm dịch

vụ giáo dục đào tạo là hàng hoá công cộng và do đó tất yếu phải vận dụng cơ chế

thị trường và đặt nó với xu hướng toàn cầu hoá .Song cũng cần thấy rằng ,sản

phẩm giáo dục đào tạo là hàng hoá công cộng đặc biệt .Tính đặc biệt của nó là ở

chỗ gắn trực tiếp với con người ,gắn với ý thức xã hội ,do đó gắn với mục tiêu

“trồng người” như Bác Hồ đã dạy và khi vận dụng cơ chế thị trường phải chịu sự

chi phối của định hướng xã hội chủ nghĩa và tính chất của nhà nước xã hội chủ

nghĩa .Bằng cách đó thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục -đào tạo góp phần

giải quyết những bất cập trong lĩnh vực đào tạo hiện nay.

+Thực hiện mô hình liên kết giữaBộ nông nghiệp phát triển nông thôn, Uỷ

ban Nhân dân các tỉnh – doanh nghiệp và các cơ sở sử dụng nhân lực – người

học ,với phương châm nhà nước hỗ trợ ,nhà doanh nghiệp giúp đỡ và gia đình

người học đóng góp .

+Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn phối hợp Bộ giáo dục đào tạo cần

có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cho đào tạo nghề

dưới hình thức trường tư để giải quyết những bất cập hiện nay .

3.2.2.Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề ,các

trung tâm hướng nghiệp dạy nghề ,trung tâm kỹ thuật tổng hợp .

Việc phát triển hệ thống các trường đào tạo công nhân kỹ thuật nhằm thu

hút phần lớn số học sinh phổ thông củậ các tỉnh không đủ điều kiện vào học cao

đẳng đại học ,đào tạo họ trở thành lực lượng lao động kỹ thuật bảo đảm cung cấp

cho các ngành kinh tế theo yêu cầu CNH,HĐH và phục vụ cho mục tiêu xuất

khẩu lao động kỹ thuật là việc làm cần thiết hiện nay ở ngành thuỷ sản .Để tạo

99

điều kiện cho con em của ngành ,nhất là con em các gia đình khó khăn có cơ hội

học tập và thực hiện tốt phân luồng học sinh ,thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao

động .Ngành thuỷ sản cần :

-Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo ,coi nó là đầu tư cho phát triển

.Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới .Ngành cần tăng dần ngân sách nhà nước chi

cho giáo dục đào tạo (hơn 15%) và đặc biệt chú ý tới các trường trung học

chuyên nghiệp và dạy nghề .

- Xây dựng trường dạy nghề thứ hai và mở thêm một số trung tâm dạy

nghề tại các khu công nghệ cao và các vùng nông thôn , nuôi trồng thuỷ sản để

giảm số lao động đào tạo nghề ngắn hạn ,tăng số lao động được đào tạo dài hạn

.Phấn đấu mỗi huyện có một Trung tâm dạy nghề với cơ sở vật chất phù hợp,

đáp ứng yêu cầu cập nhật các nghề mới.

- Đối với các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và trung tâm kỹ thuật tổng

hợp ,nhất thiết phải được đầu tư thêm các trang thiết bị dạy nghề để học sinh có

điều kiện rèn luyện làm quen với các thao tác kỹ năng nghề ,khắc phục tình trạng

học lý thuyết “chay” ở một số trung tâm như hiện nay .Đồng thời phát động

phong trào thi đua tự tạo thiết bị dạy học ,khơi dậy tinh thần sáng tạo vượt khó

khăn trong giảng dạy và học tập.

3.2.3.Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý

Ngoài chất lượng nguồn đào tạo và cơ sở vật chất ,việc nâng cao chất

lượng đào tạo NNL còn phụ thuộc một phần rất lớn ở trình độ giáo viên và đội

ngũ cán bộ quản lý trong các Trường đại học ,cao đẳng ,trung học chuyên nghiệp

,Trường dạy nghề .Đội ngũ này phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề ,trong đó tỷ

lệ giáo viên có tay nghề cao có trình độ đại học và trên đại học ngày càng tăng 100

.Kinh nghiệm của các trường trong khu vực và thực tế việc tổ chức Hội chợ kỹ

thuật công nghệ ở Việt Nam và Hội chợ việc làm ở ngành Thuỷ sản trong thời

gian qua cho thấy ,trong xu thế phát triển công nghệ thay đổi từng ngày từng giờ

.Nếu cán bộ giảng dạy không thường xuyên được bồi dưỡng cập nhật phương

pháp giảng dạy ,thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại thì sẽ có nguy cơ bị tụt hậu

và sản phẩm đào tạo là những người thợ cũng không thể coi là phù hợp và đáp

ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng lao động trong nước và cạnh tranh trên

thị trường lao động nước ngoài .Trong nhiều năm qua ở Ngành Thuỷ sản việc

đào tạo NNL chưa được quan tâm đúng mức nên việc đào tạo nâng cao trình độ

giáo viên cũng chưa được coi trọng .Vì vậy ,để nâng cao trình độ của giáo viên

trong thời gian tới ngành cần coi trọng việc đào tạo bồi dưỡng chuẩn hoá giáo

viên (nhất là giáo viên các trường dạy nghề ).Thời gian qua mặc dù nhiều giáo

viên ở các cơ sở đào tạo đã tự mình tích cực theo học các lớp bồi dưỡng ,đào tạo

nâng cao trình độ sau đại học ,song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL cho

tương lai .Điều đó do nhiều nguyên nhân ,trong đó có nguyên nhân thu nhập của

giáo viên thấp và ngành chưa có cơ chế khuyến khích cho việc đi học để nâng

cao trình độ .Để nâng cao trình độ giáo viên ngành cần giành một phần ngân

sách và có cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên đi học tập nâng cao trình độ trên đại

học ,kết hợp với các doanh nghiệp đưa lao động giỏi ,lao động trẻ đi tu nghiệp ở

nước ngoài .Đồng thời với việc đầu tư bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên

ngành nên có chính sách đãi ngộ theo đúng giá trị NNL được đào tạo ,trọng dụng

người tài để vừa giữ ,vừa thu hút được giáo viên giỏi về công tác giảng dạy trong

các trường đào tạo của ngành .

Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là xây dựng và phát huy hiệu

quả các tập thể chuyên môn mạnh trong các cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất kinh

101

doanh để có thể cùng hoà nhịp trong kết hợp đào tạo lý thuyết với kỹ năng thực

hành ,nâng cao chất lượng đào tạo ,gắn giáo dục đào tạo với sử dụng và giải

quyết việc làm .Cùng với đội ngũ giáo viên ,đội ngũ cán bộ quản lý cũng có ảnh

hưởng không nhỏ tới việc đào tạo NNL,điều này được thể hiện thông qua việc

quản lý thu – chi tài chính ,bảo quản cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy ,quản lý

việc thực hiện nội dung chương trình và qui trình đào tạo .Các hoạt động trên

được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hạ thấp mức chi

phí đào tạo .Bởi vậy ngành cần thực hiện việc liên kết với các cơ sở đào tạo của

Bộ giáo dục đào tạo mở lớp hoặc gửi cán bộ quản lý theo học các lớp nghiệp vụ

để nâng cao trình độ ,ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý thuộc các cơ sở đào

tạo NNL .

3.2.4.Tạo nhiều việc làm mới để có thể toàn dụng lao động

Có thể nói ,tạo nhiều việc làm là một nhiệm vụ bức bách ở ngành Thuỷ

sản hiện nay khi số lao động chưa có việc làm và số lao động bổ sung ngày càng

gia tăng và chủ yếu lại tập trung ở nông thôn, vùng nuôi trồng Thuỷ sản .Để tạo

việc làm thu hút được nhiều lao động cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề

sau:

Một là: Chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn trên cơ sở các

lợi thế của các địa phương ,nhanh chóng hiện thực hoá các dự án đầu tư vào các

tỉnh có tiềm năng nuôi trồng và khai tác thuỷ sản ,do đó đầu tư phát triển khu

vực nông thôn ,đẩy nhanh đô thị hoá ,phát triển ngành nghề sẽ làm tăng nhu cầu

lao động tại chỗ ,tăng việc làm ,nhanh chóng giảm thiểu số lao động chưa có

việc làm và số lao động có việc làm không đầy đủ ,thời gian nông nhàn của nông

102

dân ,tăng thu nhập cho dân cư nông thôn đồng thời gắn được lao động với đất đai

tài nguyên của các tỉnh .Muốn vậy cần :

- Nhanh chóng thực hiện việc giải phóng mặt bằng ,hoàn thiện hành lang

pháp lý và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất để các dự án đầu tư của các doanh

nghiệo trong ,ngoài nước vào các tỉnh được thực thi có hiệu quả ,nhất là các dự

án về xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá .

- Cho phép các tổ chức ,cá nhân thuê đất lâu dài ,tạo môi trường đầu tư

thuận lợi để họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hình thành nên các

khu công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.

- Phát triển kinh tế hộ gia đình ,làng nghề nông thôn ,phát triển trang trại

đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thuỷ sản .

- Cho phép ngư dân, nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất (chuyển

một phần hợp lý diện tích trồng lúa sang làm vườn hoặc nuôi trồng thuỷ sản có

giá trị kinh tế cao).

Hai là: Đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công

truyền thống và tạo nghề mới ,một hướng đi hiệu quả ,vừa tận dụng được nguồn

lao động trong khu vực nông nghiệp ,nông thôn ,vừa khai thác được nguồn tài

nguyên phong phú đa dạng đối với tạo việc làm .Việc phát triển làng nghề ở các

tỉnh có tiềm năng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản không chỉ tạo việc làm cho

người lao động mà còn có thể thu hút thời gian của lao động phụ góp phần tiết

kiệm thời gian ,tăng thêm thu nhập ,giảm thiểu các tệ nạn xã hội .Muốn vậy cần

ưu tiên giải quyết về vốn đặc biệt là nguồn vốn lãi suất thấp hỗ trợ đào tạo nghề

và giải quyết mặt bằng.Tìm kiếm mở rộng thị trường ,hình thành các vùng

nguyên liệu tập trung ,thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật 103

nuôi để đảm bảo số lượng và chất lượng tốt cho phát triển công nghiệp chế biến

thuỷ sản trong các làng nghề .

Ba là: Khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qui mô

vừa và nhỏ .Bởi đây là khu vực kinh tế năng động ,hiệu quả hoạt động khá cao

góp phần đáng kể vào GDP của ngành ,tạo nhiều việc làm và thu hút NNL đáng

kể hiện nay.Năm 2004,khu vực này đã thu hút tạo thêm việc làm cho 15.500 lao

động .Năm 2005 tạo việc làm thêm cho 16.000 lao động .Năm 2006 tạo việc làm

cho 17.000 lao động .Muốn vậy ,Uỷ ban Nhân dân các tỉnh cần khuyến khích ,hỗ

trợ khu vực này về vốn thông qua hình thức bảo lãnh tín dụng và vay vốn ưu đãi

từ quỹ phát triển ,về thông tin kỹ thuật ,mặt bằng sản xuát ,bảo đảm sự bình đẳng

và tạo niềm tin cho các chủ đầu tư ,có thể giảm thuế trong thời gian đầu khi sản

xuất các mặt hàng mới có hiệu quả kinh tế cao.

Bốn là: Đẩy mạnh xuất khẩu lao động .Trong nhiều năm qua xuất khẩu

lao động được coi là một định hướng quan trọng ,mũi nhọn trong việc tạo việc

làm cho hiệu quả cao ,nhưng hiện nay xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn

trong việc thực hiện mục tiêu mà ngành đề ra năm 2006 (1.200 lao động ).Số lao

động đưa sang nước bạn làm việc còn ít ,không tương xứng với tiềm năng lao

động rất dồi dào của ngành ,trong khi đó nhu cầu lao động ở nước bạn vẫn rất

lớn (như Hàn Quốc ,Đài Loan ).Vì vậy ,cần tập trung tuyên truyền giáo dục nâng

cao trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nhận xuất

khẩu lao đọng ,nâng cao sự hiểu biết về phong tục tập quán ,khả năng giao tiếp

ngoại ngữ,nâng cao ý thức chấp hành các nguyên tắc trong hợp tác lao động cho

người lao động .Hình thành và hoàn thiện mạng lưới chuyên đào tạo NNL cho

xuất khẩu .Tập trung đào tạo ,chuẩn bị NNL có tay nghề và chất lượng cao (bởi

104

trong số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài mới chỉ có 4% lao động

chất lượng cao còn lại là lao động phổ thông ) đáp ứng yều cầu thị trường lao

động của khu vực và thế giới ,nhất là các ngành xây dựng,điện tử ,tin học .Mặt

khác cần thực hiện tốt chính sách cho vay vốn thế chấp để người lao động có cơ

hội đi xuất khẩu lao đọng với mức chi phí thấp ,duy trì giữ vững thị trường

truyền thống và xây dựng các thị trường mới .

3.2.5.Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực .

Việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực,phụ thuộc nhiều vào

nhiều yếu tố nhưng tác giả đề tài chỉ đề cập tới các vấn đề sau:

Một là : Tạo lập duy trì mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo ,đơn vị tuyển dụng

lao động và việc làm .Để phát huy hiệu quả NNL cần phải đảm bảo sự thống

nhất trên cả ba mặt : Đào tạo – sử dụng – việc làm .Việc gắn đào tạo với sử dụng

trong cơ cấu thống nhất sẽ giúp cho việc xác định đúng qui mô ,cơ cấu NNL đào

tạo phù hợp với yêu cầu sử dụng để phát triển KT-XH khắc phục tình trạng thừa

thiếu ,bất hợp lý và lãng phí trong đào tạo ,sử dụng NNL .Muốn vậy phải điều tra

xác định nhu cầu việc làm ,nhu cầu sử dụng nhân lực được đạo tạo ,phải nghiên

cứu dự báo về xu hướng biến động của thị trường lao động ,xu hướng vận động

của cơ cấu lao động trong quá trình CNH,HĐH để có cơ sở cho việc đào tạo ,bồi

dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao động cho phù hợp .Ngành Thuỷ sản có thể

thực hiện theo hướng nói trên qua các nội dung sau :

- Gắn cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp :

Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp và các cơ sở sử

dụng lao động các nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo về qui mô và cơ cấu

ngành nghề .Cách làm nay vừa khắc phục được tình trạng người học chỉ theo 105

một số ngành có lợi ích trước mắt ,vừa hướng người học tự giác lựa chọn ngành

nghề theo cơ cấu lao động và trình độ ngành có nhu cầu ,vừa đảm bảo cho người

học có việc làm sau khi tốt nghiệp ,vừa tạo điều kiện cho cơ sở sử dụng lao động

tuyển được lao động cần thiết và phù hợp đảm bảo năng suất lao động cao.Mặt

khác việc tạo mối liên thông giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp còn có thể giúp

cho các trường khắc được những khó khăn về tài chính ,về cơ sở vật chất thực

hành ,thực tập trong đào tạo ,nhờ có sự hỗ trợ của các đơn vị tuyển dụng lao

động được đào tạo .

- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ ,đào tạo tại chỗ cho các địa

phương miền núi .Việc làm này vừa góp phần quan trọng gắn đào tạo với sử

dụng ,khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực qua đào

tạo và tình trạng dư thừa giả tạo lao động qua đào tạo trong ngành ,vừa tạo điều

kiện thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi .Tuy nhiên cũng cần phải nhận thức

rằng gắn đào tạo với sử dụng và việc làm không có nghĩa là người học sau khi

tốt nghiệp ra trường là nghiễm nhiên có việc làm ngay do được phân công mà là

nhằm điều chỉnh để tránh mất sự cân đối giữa cung – cầu lao động một cách tổng

thể. Từ đó giảm thiểu lãng phí trong đào tạo NNL và giảm sức ép việc làm với

nền kinh tế của ngành. Còn người học sau khi học xong có được việc làm hay

không họ phải đối mặt với những thử thách trên thị trường lao động tuỳ thuộc

vào khả năng họ đáp ứng được yêu cầu về kiến thức ,kỹ năng nghề nghiệp do các

doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng đưa ra các kỳ dự tuyển .

Hai là: Khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của người lao động .Thực tế

hoạt động sản xuất cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc chủ yếu

vào cách thức tổ chức và phân công lao động ,mức độ lành nghề và thái độ của

106

người lao động đối với công việc họ được đảm nhiệm .Vì vậy bên cạnh việc đầu

tư đào tạo ,đào tạo lại để người lao động có trình độ chuyên môn thích ứng ,các

đơn vị sử dụng lao động cần có biện pháp kích thích đối với họ để khơi dậy và

phát huy tính tích cực của người lao động .Song kích thích người lao động bằng

cách nào ? Có nhiều hình thức tác động nhưng trong phạm vi đề tài này tác giả

đề cập tới biện pháp tác động bằng lợi ích kinh tế .Nếu xuất phát từ nhu cầu lợi

ích kinh tế thì thu nhập thấp từ công việc đang làm là nguyên nhân dẫn đến sự

lãng phí nhân lực .Tình trạng làm việc chung thì “cầm chừng” …để giữ chỗ làm

còn tâm sức trí tuệ dồn cho việc làm phục thêm bên ngoài không phải là ít ở

nhiều cơ quan xí nghiệp của ngành .Nhiều lao động do thu nhập thấp nên phải từ

bỏ công việc chuyên môn được đào tạo để làm những việc khác có thu nhập cao

hơn ,mặc dù biết là công việc đó về lâu dài không được ổn định .Vì vậy tạo điều

kiện để người lao động có việc làm ,có thu nhập cao thậm chí có thể làm giàu từ

chính nghề nghiệp của mình được coi là có ý nghĩa hơn cả và phù hợp với xu thế

hiện nay để nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động .Nhưng

trong thực tế chúng ta không thể ngay lập tức nâng cao thu nhập cho người lao

động bởi nó không thể vượt quá sự đóng góp của lao động vào hiệu quả của nền

sản xuất .Do đó việc cần làm là bên cạnh việc tạo ra việc làm thường xuyên cho

người lao động ,đồng thời làm cho người lao động nhận thức được rằng thu nhập

của họ do chính sự đóng góp của lao động của họ quyết định .Từ đó thước đo

phân phối theo kết quả sức lao động và phân phối theo giá trị sức lao động có

tính đến cung – cầu sức lao động để trả công tương xứng với sự cống hiến của

người lao động .Đồng thời sử dụng các hình thức khen thưởng bằng vật chất

như : Tiền thưởng ,phiếu du lịch ,tài trợ toàn phần cho một khoá học bồi dưỡng

nâng cao tay nghề đối với những người có ý thức trách nhiệm cao và hoàn thành

107

xuất sắc công việc được giao ,hoặc khen thưởng đối với con em người lao động

khi đạt thành tích học tập cao ,hoặc có thể tài trợ cho những sinh viên là con của

người lao động khi họ theo học các chuyên ngành phù hợp hay liên quan đến

hoạt động sản xuất của xí nghiệp để có thể thu nạp họ trong tương lai.Những

việc làm đó tác động trực tiếp đến người lao động làm cho họ có ý thức trách

nhiệm cao hơn với công việc và tạo ra được năng suất lao động cao hơn .

3.2.6.Hình thành và phát triển thị trường lao động

Thị trường lao động với nghĩa chung nhất là một hệ thống trao đổi giữa

người đã có việc làm hoặc tìm kiếm việc làm (cung lao động ) với những người

sử dụng sức lao động hoặc đang tìm kiếm lao động (cầu lao động).

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tác động đến cấu trúc việc làm và

làm cho cấu trúc việc làm luôn biến động ;thay đổi .Tức là cầu lao động biến đổi

và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng ,chất lượng cũng như cơ cấu về cung

lao động .Tính linh hoạt này đặt ra cho đào tạo một mặt phải tập trung mọi nỗ

lực trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phù hợp

với yêu cấu tuyển dụng ,mặt khác phải thường xuyên điều chỉnh chương trình

,nội dung đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ,có khả năng chuyển đổi

để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao hơn của người lao động đối

với các điều kiện làm việc khác nhau (như điều kiện áp dụng công nghệ mới

,công nghệ cao ).Như vậy ,cơ sở đào tạo phải tổ chức đào tạo nghề nghiệp cho

người lao động theo hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động mới tạo ra

được khả năng cạnh tranh cao cho sản phẩm của mình .Còn người học muốn có

cơ hội và hy vọng tìm kiếm việc làm họ phải nhận biết phân tích thông tin thị

108

trường lao động ,xác định khả năng của minh để quyết định theo học nghề gì ?

cấp trình độ nào cho phù hợp ?

Trên thị trường lao động ,người lao động tìm kiếm việc làm thông qua

quan hệ thoả thuận với người sử dụng lao động về tiền lương ,tiền công dưới

hình thức hợp đồng lao động khi anh ta đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng

về trình độ ,năng lực .Người sử dụng sẽ đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng lao

động khi anh ta đồng ý trả cho người lao động một khoản tiền và điều kiện làm

việc tương ứng .Chính điều nay làm cho người sử dụng lao động phải cân nhắc

kỹ lưỡng khi anh ta đưa ra yêu cầu tuyển dụng lao động và phải có biện pháp

quản lý ,tác động tích cực để khai thác sử dụng lao động một cách hiệu quả để

đảm bảo được lợi ích kinh tế .Khi thị trường lao động được hình thành và phát

triển ,sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trường sẽ tác động tới tất cả các

chủ thể như : nhà nước ,người sử dụng lao động ,người lao động ,người đào tạo

lao động …làm cho việc đào tạo nhân lực phải dựa trên cơ sở cầu lao động .Việc

đào tạo ai ,đào tạo nghề gì ,cấp trình độ nào ,số lượng bao nhiêu phải do cầu

quyết định .Một mặt đã làm cho đào tạo ngày càng hợp lý và hiệu quả cao hơn

,đồng thời khắc phục được lãng phí xã hội trong cả đào tạo và sử dụng nhân lực .

Rõ ràng đã đến lúc việc đào tạo và sử dụng NNL của cả nước nói chung và

ngành Thuỷ sản nói riêng phải tính đến việc vận dụng các quy luật của kinh tế thị

trường để hình thành và phát triển được thị trường lao động .Từ đó ,xác lập

khung pháp lý cho thị trường lao động ,cung cấp thông tin cho thị trường lao

động và dịch vụ việc làm sẽ làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả ; nối được

cung với cầu lao động ,tạo điều kiện để nhiều người có cơ hội tìm kiếm việc làm

phù hợp hơn .Nhờ đó giải quyết được một cách thoả đáng mối quan hệ đào tạo –

109

sử dụng NNL để phục vụ cho mục tiêu CNH,HĐH .Trước mắt ngành Thuỷ sản

cần đẩy mạnh việc tổ chức nâng cao hiệu quả của các hội chợ việc làm ,các trung

tâm dịch vụ việc làm tạo cơ sở cho sự hình thành thị trường lao động . Chính vì

vậy nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định“Phát triển thị

trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung- cầu lao

động.Phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề,tự tạo và tìm việc

làm”.17-Tr 43

3.2.7.Tăng cường vai trò của nhà nước, của ngành và chính quyền các địa

phương đối với việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực .

3.2.7.1.Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo ,tăng nhanh dạy nghề .

Trong điều kiện hiện nay ,lợi thế tương đối về lao động giản đơn đã mất

dần ý nghĩa, lợi thế đã thuộc về những quốc gia nào có lực lượng lao động được

đào tạo có trình độ ngang tầm với đòi hỏi của công nghệ hiện đại, vì vậy việc

đào tạo NNL ở nước ta phải gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ, phải

tạo ra được đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ hiện đại theo

hướng tiếp cận nhanh với kinh tế tri thức. Như phần thực trạng đã chỉ rõ, do cơ

cấu của NNL qua đào tạo ở nước ta nói chung và ở ngành Thuỷ sản nói riêng

đang có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học, cao đẳng- trung học

chuyên nghiệp-dạy nghề. Cho nên những năm trước mắt cần phải điều chỉnh cơ

cấu đào tạo theo hướng mở rộng quy mô dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu về số

công nhân kỹ thuật rất lớn hiện nay .Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cần có

chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và phát triển dạy nghề cụ thể là :

- Phát triển và hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề ,các trung tâm dạy

nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề cho nhân dân.Khuyến khích các doanh nghiệp

110

mở lớp ,mở trường dạy nghề và tăng cường hệ thống đào tạo kèm cặp như thợ cả

kèm cặp thợ phụ ,bồi dưỡng ngoài giờ làm việc theo chuyên ngành gắn với

những thay đổi của kỹ thuật công nghệ .

- Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách hỗ trợ cho các địa

phương điều chỉnh phân bố cơ cấu ngân sách theo hướng ưu tiên hơn cho lĩnh

vực dạy nghề bên cạnh đó cần khuyến khích huy động các nguồn đóng góp của

xã hội cho dạy nghề ,cho các quỹ khuyến công ,khuyến nông .Có chính sách

khuyến khích đội ngũ cán bộ trong các trường đại học ,cao đẳng ,các viện nghiên

cứu ,các trường dạy nghề ,mở rộng qui mô nghiên cứu khoa học ,gắn khoa học

với sản xuất ,giảng dạy với thực tiễn để nâng cao chất lượng đào tạo và thúc đẩy

KT-XH phát triển .

- NgànhThuỷ sản cần tăng cường sự quản lý nhà nước và tăng đầu tư đối

với giáo dục đào tạo ,đặc biệt là đào tạo nghề nhằm điều chỉnh những hoạt động

chệch hướng để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng đúng nhu cầu xã hội,mở

mang các mô hình giáo dục đào tạo mới .Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối

với việc đào tạo NNL cho vùng miền núi .

-Thiết lập và tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở sử dụng lao động với các

cơ sở đào tạo NNL dưới sự quản lý của các ngành các địa phương ,đồng thời có

chính sách và định mức cụ thể để các doanh nghiệp đóng góp cho việc sử dụng

lao động theo trình độ đào tạo .

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo NNL.Huy động

vốn đầu tư cho đào tạo nghề thông qua các tổ chức quốc tế UNICEF ,WB và các

tổ chức phi chính phủ .

3.2.7.2. Đổi mới cơ chế chính sách sử dụng nguồn nhân lực .

111

Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cơ

chế chính sách sử dụng NNL cũng đã có những đổi mới căn bản theo hướng gắn

với cơ chế thị trường .Cơ chế này đã bước đầu phát huy được vai trò tích cực

trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn

chế và gây lãng phí không nhỏ về NNL .Vì vậy cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế

chính sách sử dụng để phát huy được vai trò to lớn của NNL trong quá trình đẩy

mạnh CNH,HĐH theo các nội dung sau đây:

-Thực hiện nhất quán chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động theo cơ

chế thị trường .

- Có chính sách hỗ trợ cho người sử dụng nhiều lao động và có chính sách

khuyến khích cơ sở sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới để thu hút và khai

thác được NNL đã qua đào tạo khắc phục tình trạng chảy máu chất xám .

- Có chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài (những nhà khoa học ,các nhà

quản lý ,kinh doanh giỏi ,giáo viên …)về làm việc trong ngành .

Các giải pháp nêu trên đối với đào tạo và sử dụng NNLcó mối quan hệ

chặt chẽ với nhau đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ .Kết quả của

việc thực hiện thể hiện rõ việc nhận thức và giải quyết một cách linh hoạt ,đồng

bộ mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng NNL ,giữa cung và cầu NNL trong từng

điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH ở Ngành thuỷ sản .

112

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu ,luận văn đưa lại những kết quả sau:

1.Công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước là một quá trình tất yếu của việc

thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu ,sản xuất nhỏ là chủ yếu

lên một nước công nghiệp sản xuất lớn tiên tiến và xã hội chủ nghĩa .Thực chất

của sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta mà chúng ta đang tiến hành là xây dựng cơ

sở vật chất kỹ thuật cho CNXH,tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản để trở thành

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

2.Kết quả của CNH,HĐH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ,điều kiện ,trong

đó NNL là yếu tố và điều quan trọng nhất bởi xét đến cùng nó là nguồn lực của

mọi nguồn lực ,sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi

chúng ta có được những con người có trí tuệ và năng lực sáng tạo ngày càng

cao,đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày một mới trong giai đoạn đẩy mạnh công

nghiệp hoá hiện đại hoá.Song NNL có thể trở thành nguồn lực của mọi nguồn

lực hay không ,có thể phục vụ tốt cho sự nghiệp CNH,HĐH hay không điều này

phụ thuộc rất lớn vào việc xã hội đã đào tạo và sử dụng NNL đó như thế nào ?

113

Chính vì vậy đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH,HĐH có vai trò to

lớn ,đã và đang được Nhà nước ,các ngành,các địa phương và nhân dân rất quan

tâm .

3.Ngành Thuỷ sản đang trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH việc đáp

ứng nhu cầu về NNL thông qua đào tạo cho sự nghiệp CNH,HĐH là một đòi hỏi

cấp thiết hiện nay ,là “chìa khoá” của sự thành công đối với ngành Thuỷ sản trên

con đường phát triển kinh tế – xã hội .

4.Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mình ,qua khảo sát đặc điểm và

thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian qua ở ngành Thuỷ sản cho

thấy : Ngành Thuỷ sản có nhiều thuận lợi song cũng còn không ít khó khăn .Mặc

dù vậy ,Thuỷ sản đã có nhiều cố gắng trong đào tạo và sử dụng hợp lý NNL

,nhưng kết quả của nó so với yêu cầu CNH,HĐHgặp nhiều khó khăn ,việc

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra chậm so với yêu

cầu

5.Trước tình hình đó để khắc phục một cách có hiệu quả những hạn chế

,đẩy nhanh việc đào tạo và sử dụng NNL trên con đường phát triển .Ngành Thuỷ

sản cần có những phương hướng phát triển đúng đắn .Từ phương hướng chung

của CNH,HĐH luận văn đã đưa ra nhưng định hướng cụ thể của việc đào tạo và

sử dụng NNL trong thời gian tới của ngành Thuỷ sản đến 2010.

6.Dưới góc độ nghiên cứu kinh tế chính trị ,luận văn đã đề xuát một số giải

pháp để góp phần khắc phục tình trạng “Vừa thừa vừa thiếu” và bất hợp lý về qui

mô ,cơ cấu trình độ NNL ,khắc phục sự non kém về trình độ ,sự tha hoá về đạo

đức của một số cán bộ quản lý ,cán bộ khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ

NNL để đào tạo ra NNL chất lượng cao cũng như việc giải quyết mối quan hệ

114

cung cầu trong đào tạo và sử dụng NNL trên thị trường lao động đảm bảo sao

cho ngành Thuỷ sản có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động .

7.Tác giả tin tưởng rằng ,các phương hướng và giải pháp đưa ra trên cả hai

tầm vĩ mô và vi mô nếu được thực hiện một cách đồng bộ ,linh hoạt và kiên

quyết đủ sức thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL ,phát triển có hiệu quả phục

vụ tốt yêu cầu CNH,HĐH trong thời gian tới ở ngành Thuỷ sản .

8.Đào tạo và sử dụng NNL là một vấn đề có nội dung rộng lớn và liên

quan đến nhiều ngành nghề ,nhiều lĩnh vực khác nhau. Để có thể thực hiện thắng

lợi mục tiêu phát triển KT-XH từ năm 2000-2010 theo hướng CNH,HĐH ngành

Thuỷ sản cần có những nghiên cứu tiếp theo ,mà kết quả của luận văn này chỉ

mới là bước đầu .

Danh mục tài liệu tham khảo

1.Aivin Toffer ( năm 1992). “ Thăng trầm quyền lực” .NXB Thông tin lý luận,

Hà nội.

2.Mai quốc Chánh ( năm 1999), “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu CNH,HĐH đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.

3.Nguyễn Trọng Chuẩn (Năm 1996), “Nguồn nhân lực trong qua trình công

nghiệp hóa, hiện đại hoá”. NXB Chính trị quốc gia Hà nội .

4.Nguyễn Trọng Chuẩn (Năm 2002) , “Công nghiêp hóa hiện đại hoá Việt nam

lý luận và thực tiễn”,NXB Chinh trị quốc gia Hà nội.

5.Vũ Huy Chương (Năm 2002), “Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực tiến hành công

nghiệp hóa ,hiện đại hoá”,NXB Chính trị quốc gia,Hà nội.

115

6.Nguyễn Hữu Dũng (Năm 2002), “ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế “,Tạp chí Lý luận

chinh trị.

7.Niên gián thống kê thuỷ sản.

8. Nguyễn Hữu Dũng (Năm 2003), “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở

Việt nam”,NXB Lao động xã hội.

9.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 1986), “Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VI”,NXB Chính trị quốc gia,Hà nội.

10.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 1990) , “Văn kiện đại hội Đảng lần thứ

VII”,NXB Chính trị quốc gia,Hà nội.

11.Đảng cộng sản Việt Nam(Năm 1991), “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”,NXB sự thật Hà nội.

12.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 1996), “Văn kiện Đại hội Đảng lần

thứVIII”,NXB Chính trị quốc gia Hà nội.

13.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 1997), “Văn kiện hội nghị lần thứ II,Ban chấp

hành trung ương khoáVIII”,NXB Chính trị quốc gia Hà nội.

14.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 1998) , “Văn kiện hội nghị lần thứ 4 Ban

chấp hành trung ương khoáVIII”,NXBChính trị quốc gia,Hà nội.

15.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 2001) “Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ

IX”,NXB Chính trị quốc gia,Hà nội.

16.Đảng cộng sản Việt Nam(2002), “Nghị quyết hội nghị trung ương 6 khoá

IX”,NXBChính trị quốc gia Hà nội.

17.Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 2003), “Nghị quyết hội nghị trung ương 9

khoáI X”,NXB Chính trị quốc gia,Hà nội.

20.Đảng bộ thuỷ sản (Năm 2000),Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ IX.

116

21. Tống Văn Đường (Năm 1995), “Đổi mới cơ chế chính sách quản lý lao

động,tiền lương nền kinh tế thị trương Việt nam”,NXB Chính trị quốc gia,hà nội.

22.Nguyễn Minh Đường(Năm 1996), “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân

lực trong điều kiện mới”, Đề tài KX-07,Hà nội.

23.Phạm Minh Hạc và các tác giả (Năm 1996), “Vấn đề con người trong sự

nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá”,NXBChính trị quốc gia,Hà nội.

24.Phạm Minh Hạc(Năm 1996), “Phát triển giáo dục,phát triển con người phục

vụ phát triển kinh tế -xã hộ”.

Trần Đình Hoan-Lê Mạnh Khoa (Năm 1991) “Sử dụng nguồn nhân lực và giải

quyết việc làm ở Việt nam”,NXB sự thật Hà nội.

25.Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Năm 2002)NXB Chính trị quốc gia Hà nội.

26. Lê Ái Lâm (Năm 2003), “Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào

tạo kinh nghiệm đông nam á”,NXB khoa học xã hội,Hà nội.

27.V.I.Lênin (Năm 1997),Toàn tập,tập 38,tập41,NXB tiến bộ Mácxcva,tr364-

365.

28.Hồ Chí Minh (Năm 1995),toàn tập,tập5,NXB Chính trị quốc gia Hà nội.

29.Đỗ Mười (Năm 1996),”Phát rriển giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực sự

nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”,NXB giáo dục,Hà nội.

30.Mác-Ăngghen(Năm 1995),toàn tập,tập4,NXB Chính trị quốc gia Hà nội tr

438-474.

31.Phan Thanh Phố (Tháng1/1994) “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó

với sự phân công lao động xã hội”,tạp chí lao động xã hội,tr17-18.

32.Phan Thanh Phố ( Tháng5/2001) “Phát triển nguồn nhân lực theo hướng kinh

tế trí thức”,Tạp chí kinh tế phát triển, tr15.

117

33.Nguyễn Duy Quý (Năm 1998), “Phát triển con người,tạo nguồn nhân lực cho

công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta”,tạp chí cộng sản(19)tr 24

34.Vụ tổ chứ cán bộ đào tạo( Năm 2007) “Quy hoạch phát triển màng lưới

trương ngành thuỷ sản”.

35.Vụ kế hoạch- tài chính (Năm 2007) báo cáo thống kê.

36.lê Hữu Tăng (Năm 1997), “Về động lực phát triển kinh tế-xã hội”,NXB Khoa

học xã hội nhân văn,hà nội.

37.lê Thị Thơm (Năm 2003), “Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải pháp

nâng cao”,Tạp trí lý luận chính trị (3) trang 59-64.

38.Trần Văn Tùng và Lê Ái lâm (Năm1996), “Phát triển nguồn nhân lực kinh

nghiệm thế giới và thực tiễn Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia,Hà nội..

39.Quy hoạc tổng hợp phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản đến năm 2010 và

định hướng năm 2020.

40.Nghiêm Đình Vỳ (Năm 2002), “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân

tài”,NXB Chính trị quốc gia Hà nội.

41.Viện thông tin (Năm 1995), “Con người và nguồn nhân lực cho sự phát

triển”,NXB khoa học xã hội ,Hà nội.

42.Hồ Trọng Diện(Năm 2003), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đẩy mạnh

công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”,Tạp trí lý luận chính trị,(1) tr.49-53.

43.Hà Yên (Năm 2004), “Xuất khẩu lao động-một thách thức lớn cho khát vọng

vươn tới thị trường lao động quốc tế”.tạp trí lao động và công đoàn(305),tr25-41.

118

PHỤC LỤC

KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HÀNG NĂM CỦA NGÀNH THUỶ SẢN

NĂM Tổng sản Sảnlượng Sản Giá trị xuất Tổngsốtàu Diện tích Sốlaođộng

lượngthuỷ khai thác lượng khẩu thuyền NTTS(ha) (1000người)

sản(tấn) (tấn) NTTS (1000USD) (chiếc)

(tấn)

1990 1.019.000 709.000 310.000 205.000 72.723 491.723 1.860

1991 1.062.163 714.253 347.910 262.234 72.043 489.833 2.100

1992 1.097.830 746.570 351.260 305.630 83.972 577.538 2.350

1993 1.116.169 793.324 368.604 368.435 93.147 600.000 2.570

1994 1.121.496 878.474 333.022 458.200 93.672 576.000 2.810

119

1995 1.344.140 928.860 415.280 550.100 95.700 581.000 3.030

1996 1.373.500 962.500 411.000 670.000 97.700 585.000 3.120

1997 1.570.000 1.062.000 481.000 776.000 71.500 600.000 3.200

1998 1.668.530 1.130660 537.870 858.600 71.799 626.330 3.350

1999 1.827.310 1.212.800 614.510 971.120 73.397 630.000 3.380

2000 2.003.000 1280.590 723.110 1.478.609 78.978 652.000 3.400

2001 2.226.900 1.347.800 879.100 1.777.485 81.800 887.500 3.536

2002 2.410.900 1.434.800 976.100 2.014.000 83122 955.000 3.677

2003 2.536.361 1.426.223 1.110.138 2.199.577 85.430 902.900 3.824

2004 3.073.600 1.923.500 1.150.110 2.400.781 90.880 959.900 3.977

2005 3.432.800 1.995.400 1.437.400 2.738.726 90.895 963.000 4.136

2006 3.695.927 2.001.656 1.694.271 3.310.032 90.906 972.054 4.156

120