VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN DŨNG
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TỘI PHẠM HỌC
VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN DŨNG
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận văn này là
những kiến thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo,
nghiên cứu tài liệu và trong thực tiễn hoạt động công tác dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Thanh Dương. Những nội dung nêu trong luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Lê Văn Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI XPSH TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA……………........7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu.......................................................................................................7
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu .............11
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu ......................................................................................22
Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY...........30
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm sở hữu xảy ra trong quân đội ở nước ta
hiện nay ...........................................................................................................30
2.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
trong quân đội ở nước ta hiện nay...................................................................36
2.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu trong quân đội ở nước ta hiện nay….........................................43
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA TỪ KHÍA CẠNH
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI………………………………………...60
3.1. Dự báo tình hình tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta....................................60
3.2. Các giải pháp phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta
từ khía cạnh nhân thân người phạm tội...........................................................63
KẾT LUẬN ...................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
CQTP : Cơ quan tư pháp
CQĐTHS : Cơ quan điều tra hình sự
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
ANCT : An ninh chính trị
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
XPSH : Xâm phạm sở hữu
KTQP : Kinh tế quốc phòng
KTTT : Kinh tế thị trường
PHỤ LỤC
Bảng số 2.1. Tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPSH trong Quân đội giai đoạn
2015 - 2019
Bảng số 2.3. Tình hình tội phạm chung và tình hình tội XPSH trong Quân đội giai
đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.4. Cơ cấu của từng loại tội XPSH trong mối quan hệ với các tội
XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.5. Cơ cấu bị cáo của từng loại tội XPSH trong mối quan hệ với các
tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.6. Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015
- 2019 xét theo đơn vị hành chính quản lý của quân đội trên cơ sở cơ số tội phạm
và mật độ tội phạm
Bảng số 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 -
2019 xét theo đơn vị hành chính do Quân đội quản lý trên cấp độ nguy hiểm
Bảng số 2.8. Cơ cấu giới tính của nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân
đội giai đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.9. Cơ cấu độ tuổi của nhân thân người phạm tội XPSH trong quân
đội giai đoạn 2015 - 2019.
Bảng số 2.10. Cơ cấu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội XPSH
trong Quân đội giai đoạn 2015-2019.
Bảng số 2.11. Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH trong
Quân đội giai đoạn 2015 - 2019.
Bảng số 2.12. Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH do
Quân đội quản lý trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019.
Bảng số 2.13. Cơ cấu nơi cư trú, hộ khẩu thường trú của nhân thân người
phạm tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Bảng số 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (100 phiếu điều tra)
PHỤ LỤC
Bảng số 2.1. Tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Tình hình tội xâm phạm sở hữu
Số vụ án
Số bị cáo
Năm
Tội XPSH
Tội phạm chung
Tội XPSH
Tội phạm chung
2015
115
38
214
45
2016
138
40
280
60
2017
194
72
418
127
2018
225
85
517
206
2019
253
87
879
300
Tổng
925
322
2318
738
Trung bình
185
64,4
463,6
147,6
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPSH trong Quân đội giai đoạn
2015 - 2019
Năm
Dân số
Tổng số bị cáo đã xét xử
Cơ số tội XPSH
Tổng số bị cáo phạm tội XPSH
Cơ số tội phạm chung
2015
214
92.680.000
23,09
4,85
45
2016
280
93.421.835
29,97
6,42
60
2017
418
94.970.597
44,01
13,37
127
2018
517
95.562.435
55,15
21,56
206
2019
879
96.208.984
91,36
31,18
300
738
Tổng
2318
472.843.851
243,58
77,38
Trung bình
463,6
147,6
94.568.770
48,72
15,48
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng
Bảng số 2.3. Tình hình tội phạm chung và tình hình tội XPSH trong Quân đội
giai đoạn 2015 - 2019
Tình hình tội phạm XPSH
Tỷ lệ (%) giữa tội XPSH/tội phạm chung
Năm
Số vụ án
Số vụ án
Số vụ án
Tình hình tội phạm nói chung Số bị cáo Tổng Người do Quân đội quản lý
Số bị cáo Tổng Người do Quân đội quản lý
Số bị cáo Tổng Người do Quân đội quản lý
2015
115
214
38
45
33,04 21,03
2,34
37
5
2016
138
280
40
60
28,98 21,43
3,93
25
11
2017
194
418
72
127
37,11 30,38
3,35
40
14
2018
225
517
85
206
37,18 39,09
5,69
70
30
2019
253
879
87
300
34,39 34,13
4,78
83
42
Tổng
925
2318
255
322
738
102
34,81 34,84
4,4
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.4. Cơ cấu của từng loại tội XPSH trong mối quan hệ với các tội
XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Số vụ án
Tỷ lệ
Tội danh
%
Tổng
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
0,31
1
0
0
Điều 168
1
0
0
0
0
0
0
Điều 169
0
0
0
0,62
2
0
0
Điều 170
0
0
2
0
0
0
0
Điều 171
0
0
0
0
0
0
0
Điều 172
0
0
0
Điều 173
25
31
53
73
71
253
78,57
6,52
21
5
4
Điều 174
2
4
6
10,25
33
6
9
Điều 175
7
3
8
0,93
3
1
0
Điều 176
0
1
1
0,31
1
0
0
Điều 177
1
0
0
1,87
6
0
3
Điều 178
2
1
0
0,62
2
0
0
Điều 179
0
0
2
0
0
0
0
Điều 180
0
0
0
Tổng
38
40
72
85
87
322
100
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.5. Cơ cấu bị cáo của từng loại tội XPSH trong mối quan hệ với các
tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015-2019
Tỷ lệ % Tổng Người
Năm 2015
Năm 2016
Số bị cáo Năm 2018
Năm 2017
Năm 2019
Tội danh
Tổng
Người do Quân đội quản lý
do Quân đội quản lý
1
1
0,14
0,98
0
Điều 168
1
0
0
0
0
0
0
0
0
Điều 169
0
0
0
0
5
2
0,70
1,96
0
Điều 170
0
0
5
0
0
0
0
0
0
Điều 171
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Điều 172
0
0
0
0
Điều 173
32
46
92
161
249
580
71
78,49
69,62
1
8,26
0,98
9
25
18
61
Điều 174
2
7
10
9,89
9,8
16
18
29
73
Điều 175
7
3
7
10
0,98
9,8
0
Điều 176
0
2
3
2
1
3
0,14
2,94
0
Điều 177
1
0
0
0
8
2
1,12
1,96
4
Điều 178
2
2
0
0
2
2
0,28
1,96
0
Điều 179
0
0
2
0
0
0
0
0
0
Điều 180
0
0
0
0
Tổng
45
60
127
206
300
738
102
100
100
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.6. Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015
- 2019 xét theo đơn vị hành chính quản lý của Quân đội trên cơ sở cơ số tội
phạm và mật độ tội phạm
STT
Số dân
Đơn vị hành chính
Diện tích (km2)
Số bị cáo
Số dân/1 bị cáo
01 Bộ tư lệnh Thủ Đô 8.053.663
3.329
10
Quân khu 1
6.085.442
28.086
14
02
Quân khu 2
8.113.287
64.628
11
03
Quân khu 3
12.824.081
20.288
16
04
Quân khu 4
10.913.210
51.461
12
05
Quân khu 5
12.589.050
81.431
26
06
Số bị cáo/1000 km2 3,0039 (1) 0,4985 (5) 0,1702 (8) 0,7886 (3) 0,2332 (7) 0,3193 (6)
805.336,3 (7) 507.120,167 (2) 737.571,545 (4) 801.505,062 (6) 909.434,167 (8) 484.194,231 (1)
Quân khu 7
22.045.168
45.676
39
07
0,8538 (2)
565.260,718 (3)
Quân khu 9
15.585.083
36.055
20
08
0,5547 (4)
779.254,15 (5)
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng
Bảng số 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 -
2019 xét theo đơn vị hành chính do Quân đội quản lý trên cấp độ nguy hiểm
Địa danh (2)
STT (1)
Thứ bậc đã xét theo diện tích và số dân (3)
Hệ số tiêu cực (4)
Cấp độ nguy hiểm (5)
01
Bộ tư lệnh Thủ Đô
1 + 7
8
3
02
Quân khu 1
5 + 2
7
2
03
Quân khu 2
8 + 4
12
5
04
Quân khu 3
3 + 6
9
4
05
Quân khu 4
7 + 8
15
6
06
Quân khu 5
6 + 1
7
2
07
Quân khu 7
2 + 3
5
1
08
Quân khu 9
4 + 5
9
4
Bảng số 2.8. Cơ cấu giới tính của nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân
đội giai đoạn 2015 - 2019
Giới tính
Tỉ lệ %
Người do Quân
Dân sự
Người do Quân
Dân sự
Năm
Số bị cáo
đội quản lý
đội quản lý
Nam
Nữ Nam Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
2015
45
5
0
37
3
11,11
0
82,22
6,67
2016
60
10
1
44
5
16,67
1,67
73,55
8,33
2017
127
14
0
101
12
11,02
0
79,53
9,45
2018
206
28
2
166
10
13,59
0,97
80,58
4,86
2019
300
38
4
241
17
12,67
1,33
80,33
5,67
Tổng
738
95
7
589
47
12,87
0,95
79,81
6,37
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.9. Cơ cấu độ tuổi của nhân thân người phạm tội XPSH trong quân
đội giai đoạn 2015 - 2019
Độ tuổi
Người do Quân đội quản lý
Dân sự
Năm
Số bị cáo
Dưới 18
Từ 18 đến 30
Từ 31 đến 45
Trên 45
Dưới 18
Từ 18 đến 30
Từ 31 đến 45
Trên 45
45
2015
0
4
1
0
3
34
2
1
60
2016
0
8
2
1
4
40
3
2
2017
127
0
8
5
1
7
89
10
7
2018
206
0
15
11
4
6
127
32
11
2019
300
0
23
14
5
15
159
70
14
Tổng
738
0
58
33
35
11
449
117
35
0
Tỉ lệ %
100
7,86
4,47
1,49
4,74
60,84
15,85
4,75
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.10. Cơ cấu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội XPSH
trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Trình độ học vấn
Người do Quân đội quản lý
Dân sự
Không
Trung
Trung
Trung
Đại
Không
Trung
Trung
Trung
Đại
biết
học
học
cấp,
biết
học
học
cấp,
học,
học,
Năm
Số bị cáo
chữ,
cơ sở
phổ
cao
chữ,
cơ sở
phổ
cao
trên
trên
thông
đảng
thông
đảng
đại
đại
Tiểu
Tiểu
học
học
học
học
1
4
17
16
1
2
0
3
1
2015
45
0
4
7
20
17
4
1
0
7
0
2016
60
0
3
8
51
47
5
2
1
2
8
2017
127
0
12
12
78
74
8
4
3
5
10
2018
206
0
9
14
95
112
27
10
5
8
20
2019
300
0
29
45
261
266
45
19
9
25
39
Tổng
738
0
0
Tỉ lệ %
100
1,22
3,39
5,28
3,93
6,10
35,37 36,04
6,10
2,57
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.11. Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH trong
Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Nghề nghiệp
Năm
Số bị can
Người do Quân đội quản lý
Không nghề nghiệp
Dân sự Nghề nghiệp không ổn định
Nghề nghiệp ổn định
45
4
30
6
5
2015
60
10
37
2
11
2016
127
15
93
5
14
2017
206
30
132
14
30
2018
300
57
90
11
42
2019
738
116
482
38
102
Tổng
100
15,72
13,82
Tỷ lệ %
65,32
5,15
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.12. Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH do
Quân đội quản lý trong Quân đội giai đoạn 2015 – 2019
Người do Quân đội quản lý
Năm
Sỹ quan
Số bị can
CNVQP
LĐHĐ
QNCN
Sơ cấp
Hạ sỹ quan Chiến sỹ
Cao cấp
Trung cấp
2015
5
0
0
0
1
3
0
1
2016
11
0
0
0
0
5
2
4
2017
14
0
0
0
2
1
4
7
2018
30
0
1
1
2
3
4
19
2019
42
3
0
1
2
5
10
21
Tổng
102
3
1
2
7
17
20
52
Tỷ lệ %
100
2,94
0,98
1,96
6,86
16,67
19,61
50,98
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Bảng số 2.13. Cơ cấu nơi cư trú, hộ khẩu thường trú của nhân thân người
phạm tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
Hộ khẩu thường trú
Nơi cư trú
Năm
Số bị cáo
Ngoài nước
Ổn định
Không ổn định
Trong nước
2015
45
45
40
5
0
2016
60
60
57
3
0
2017
127
127
121
6
0
2018
206
204
197
9
2
2019
300
295
283
17
5
Tổng
738
731
698
40
7
Tỷ lệ %
100
99,05
0,95
94,58
5,42
Nguồn: Số liệu thống kê của Viện kiểm sát quân sự Trung ương
Phiếu điều tra xã hội học
PHIẾU ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH VÀ NHÀ TRƯỜNG
Để phục vụ mục đích nghiên cứu đánh giá vai trò của giáo dục trong gia
đình và nhà trường đối với người chưa thành niên, chúng tôi mong muốn
Anh/Chị cung cấp chính xác cho chúng tôi những thông tin sau đây. Xin trân
trọng cảm ơn sự hợp tác của Anh/Chị!
Họ và tên:.......................................... Tuổi:............. Giới tính:...................
Trình độ học vấn:............................... Nghề nghiệp:...................................
Nơi công tác:...............................................................................................
Xin Anh/Chị vui lòng đọc kỹ và trả lời các câu hỏi bằng cách tích vào
các ô mà Anh/ Chị cho là phù hợp:
1. Anh/Chị cảm thấy mối quan hệ của bố mẹ với con trong gia đình
thế nào?
a. Bố mẹ rất quan tâm đến con, thường xuyên dành thời gian cho con
b. Bố mẹ ít quan tâm đến con, ít có thời gian dành cho con
c. Bố mẹ phải lo làm ăn, không có thời gian quan tâm con
2. Khi con mắc lỗi, bố mẹ xử sự thế nào?
a. Thường xuyên bênh vực, bao che lỗi cho con
b. Tìm hiểu kỹ nguyên nhân con mắc lỗi rồi phân tích để con hiểu và tự
đề ra hướng khắc phục lỗi lầm
c. Bố mẹ chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi thôi
d. Bố mẹ mắng chửi thậm tệ, đánh đập, bắt nhịn ăn, nhịn uống
e. Bố mẹ ít quan tâm nên không biết con mắc lỗi
3. Bố mẹ có quan tâm đến bạn bè của con không?
a. Thường xuyên quan tâm xem con chơi với ai, thậm chí đến thăm nhà
của từng bạn của con
b. Bố mẹ chỉ quan tâm một vài bạn thân, còn những người khác không biết
c. Bố mẹ không biết các bạn của con là những ai
4. Khi thấy con chơi với bạn bè xấu bố mẹ thường đối xử với con thế nào?
a. Phân tích để con nhận ra là không nên chơi với bạn bè xấu và tạo điều
kiện để con tham gia các hoạt động vui chơi lành mạnh và quen với bạn bè tốt.
b. Chửi mắng, ngăn cản và kiểm soát thời gian của con cái
c. Đánh đập và bắt buộc con cái không được chơi với bạn bè xấu nữa
5. Anh/Chị cảm thấy đâu là bất cập, hạn chế trong gia đình ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách lệch lạc ở trẻ?
a. Gia đình quá nghiêm khắc
b. Gia đình quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái
c. Các thành viên trong gia đình xử sự thô lỗ, thường xuyên chửi, đánh nhau
d. Các thành viên trong gia đình có hành vi thiếu văn hóa, thiếu đạo đức,
vi phạm pháp luật
e. Yếu tố khác…………………………………..…………………………
6. Mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình trong việc giáo dục trẻ
thế nào?
a. Gia đình rất quan tâm đến việc phối hợp với nhà trường để giáo dục trẻ
b. Gia đình chỉ quan tâm khi nhà trường mời lên họp phụ huynh
c. Gia đình thường ỷ lại, giao phó việc quản lý, quan tâm và giáo dục trẻ
cho nhà trường
d. Gia đình không quan tâm nhà trường giáo dục trẻ thế nào.
7. Anh/Chị cảm thấy đâu là bất cập, hạn chế trong nhà trường ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách lệch lạc ở trẻ?
a. Tình trạng bạo lực học đường
b. Sự quản lý lỏng lẻo, nội dung học tập nặng nề, phương pháp không
phù hợp
c. Sự phân biệt đối xử của thầy cô, việc giáo dục chạy theo thành tích mà
không quan tâm đến chất lượng
d. Chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống
e. Yếu tố khác……………………………….……………………………
8. Anh/Chị có hài lòng với phương pháp giáo dục của bố mẹ không?
a. Rất hài lòng
b. Chưa hài lòng lắm
c. Không hài lòng, tại sao ...........................................................................
9. Anh/Chị có hài lòng với phương pháp giáo dục của nhà trường không?
a. Rất hài lòng
b. Chưa hài lòng lắm
c. Không hài lòng. Tại sao ..........................................................................
10. Những đề xuất của Anh/Chị đối với cách thức giáo dục của gia
đình.....................................................................................................................
.............................................................................................................................
11. Những đề xuất của Anh/Chị đối với cách thức giáo dục của nhà
trường.................................................................................................................
.............................................................................................................................
Bảng số 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (100 phiếu điều tra)
Câu trả lời a Câu trả lời b Câu trả lời c Câu trả lời d Câu trả lời e
Câu hỏi
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Số người
Số người
Số người
Số người
Số người
%
%
%
%
%
6%
6
23
23%
71%
71
1
45
45%
10
10%
22%
18
18%
5
5%
22
2
5
20
20%
5%
75%
75
3
8
77
77%
8%
15%
15
4
2
62
62%
2%
15%
15
10
10%
11
11%
5
7
7%
58
58%
3
3%
32
32%
6
20
20%
6
6%
15%
15
59
59%
7
2
82
82%
2%
16%
16
8
5
70
70%
5%
25%
25
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới;
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
3. Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Giáo dục Đào tạo -
Bộ Lao động Thương binh Xã hội - Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
(2006), Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT/BTP-BCA-BQP-BGDĐT-
BLĐTBXH-TLĐLĐVN ngày 07/6/2006 hướng dẫn việc xây dựng, quản lý và
khai thác tủ sách pháp luật ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học;
4. Bộ Công An - Bộ Quốc phòng - Bộ Y tế (2015), Thông tư liên tịch số
07/2015/TTLT-BCA-BQP-BYT ngày 19/10/2015 hướng dẫn việc khám bệnh,
chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân, trại viên cơ sở giáo
dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng do Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
quản lý tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước;
5. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn - Viện kiểm sát Nhân dân tối cao (2017), Thông tư liên
tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện
một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
6. Ban chấp hành Trung ương (2017), Quy định số 102-QĐ/TW ngày
15/11/2017 về xử lý kỷ luật Đảng viên vi phạm;
7. Bộ Quốc phòng (2020), Thông tư số 16/2020/TT-BQP ngày
21/02/2020 quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục, thời
hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng;
8. Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb
Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội;
9. Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP Quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;
10. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng
cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
11. Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng (2015 - 2019), Báo cáo tổng
kết công tác năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
12. Nguyễn Quang Hạnh (2013), Một số vấn đề nhân thân người phạm
tội, Tạp chí Nghề luật, (số 1);
13. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các
tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh;
14. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
15. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015 sửa đổi bổ sung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
16. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
17. Tổng cục Thống kê (2015 - 2019), Niêm giám thống kê năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019;
18. Tòa án Quân sự Trung ương (2015 - 2019), Bản án của các vụ án
xâm phạm sở hữu trong Quân đội năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
19. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày
31/7/1998 về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm;
20. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996), Nhân thân người phạm tội trong tội
phạm học, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
21. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong
luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, …;
22. Phạm Văn Tỉnh (2000), Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội
phạm, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;
23. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội
phạm ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội;
24. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm
ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
25. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình
tội phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học, (số 1);
26. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm, Tạp chí Luật học,
(số 4);
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Tội phạm học, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội;
30. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội
phạm học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;
31. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật
Tố tụng Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Viện kiểm sát Quân sự Trung ương (2015 - 2019), Thống kê tội
phạm hình sự năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
33. Viện kiểm sát Quân sự Trung ương (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết
công tác năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
34. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội;
35. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
36. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý
luận - thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;
37. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế;
38. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tình hình tội phạm trong Quân đội đang có nhiều diễn biến
phức tạp, đặc biệt là các tội phạm XPSH. Tính từ năm 2015 đến năm 2019,
số vụ án do Quân đội tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tổng cộng là 925 vụ,
trong đó có đến 322 vụ án thuộc nhóm tội XPSH, chiếm tỉ lệ rất cao là
34,81%. Không những vậy, tình hình tội phạm XPSH đang có xu hướng gia
tăng qua các năm cả về số vụ và người phạm tội. Các đối tượng không còn
thực hiện hành vi phạm tội đơn lẻ, mà đã có sự cấu kết với nhau để cùng
thực hiện tội phạm, trong các vụ án này thường sẽ có đối tượng đã có tiền
án, tiền sự về tội phạm XPSH cùng thực hiện. Chính vì vậy, phương thức,
thủ đoạn thực hiện tội phạm rất tinh vi, phức tạp, khó bị phát hiện; tính chất,
mức độ thì ngày càng nghiêm trọng; việc đấu tranh, phòng ngừa đang gặp
nhiều khó khăn. Vì thế, đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và
TTATXH, gây ảnh hưởng tới uy tín và thiệt hại không hề nhỏ cho Quân đội.
Thực tế cho thấy rằng, nhân thân người phạm tội có vị trí nhất định và
đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Nghiên cứu làm rõ đặc
điểm nhân thân người phạm tội XPSH là cơ sở xác định nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm XPSH, từ đó đưa ra các giải pháp phòng ngừa
hiệu quả với tình hình tội phạm XPSH; giúp cho việc định tội, định khung,
quyết định hình phạt một cách chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo
hiệu quả đối với người phạm tội.
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống
có hiệu quả với tình hình tội phạm XPSH, các CQTHTT trong Quân đội đã
dần thay đổi và có nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc của việc nghiên cứu
các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH. Với mục đích hoàn thiện lý
luận về nhân thân người phạm tội XPSH nói chung và nhân thân người phạm
1
tội XPSH trong Quân đội nói riêng và phục vụ cho thực tiễn hoạt động công
tác, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu trong Quân đội ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay có một số đề tài, luận văn, tài liệu có liên quan đến nhân thân
người phạm tội, góp phần hoàn thiện lý luận về nhân thân người phạm tội,
đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong việc phòng, chống tội phạm hiện nay.
- Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình tội phạm học, Đại học Huế - Trung
tâm đào tạo từ xa, Hà Nội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
từ thực tiễn quận Bình Tân, Lê Thành Công ,2016, Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, Lê Minh Duy, 2020, Học viện khoa học xã hội;
Về mặt lý luận và thực tiễn các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ
được một số vấn đề, cụ thể như sau:
Về mặt lý luận các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu làm rõ những
vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tộiXPSH, như là: Khái niệm
nhân thân người phạm tội XPSH; các đặc điểm của nhân thân người phạm tội
XPSH; vai trò của nhân thân người phạm tội XPSH trong cơ chế hành vi
phạm tội.
Về mặt thực tiễn một số công trình nghiên cứu đã tập trung đi sâu phân
tích đặc điểm nhân thân người phạm tội trong một số loại tội phạm như: Tội
trộm cắp tài sản … Một số công trình cũng đã có những nghiên cứu về nhân
thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định, như địa bàn tỉnh Tây Ninh và
Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Tác giả sẽ vận dụng những kết quả đã nghiên cứu được của các công
trình trên làm kiến thức để đi sâu nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH
trong Quân đội ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH
trong Quân đội, nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác động đến sự hình
thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội, đề xuất các giải pháp
thiết thực để phòng ngừa tình hình tội phạm XPSH trong Quân đội ở nước ta
hiện nay từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được nội dung đã nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người
phạm tội XPSH trong Quân đội và các yếu tố tác động đến sự hình thành
các đặc điểm thân người phạm tội XPSH trong Quân đội;
Thứ hai: Nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người
phạm tội XPSH và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người
phạm tội XPSH trong Quân đội từ năm 2015 - 2019;
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả trong công tác
phòng ngừa tội phạm XPSH trong Quân đội từ khía cạnh nhân thân người
phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội ở nước
ta dựa trên các số liệu thống kê tội phạm của Viện kiểm sát Quân sự Trung
ương, Tòa án Quân sự Trung ương và Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng
giai đoạn từ 2015 đến 2019.
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu nhân thân người phạm tội
XPSH ở khía cạnh tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội
XPSH trong Quân đội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự.
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
Phạm vi về tội danh: Đề tài nghiên cứu các tội về XPSH quy định tại
chương XVI của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017, gồm: Tội cướp tài sản
(Điều 168), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài
sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản (Điều 172), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175), Tội chiếm
giữ trái phép tài sản (Điều 176), Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177), Tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), Tội thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, doanh nghiệp (Điều 179), Tội vô ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lênin, các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, khoa học luật
hình sự, khoa học điều tra hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp kế thừa thông tin, nghiên cứu tài liệu, số liệu: Tác giả đã
tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật, các công trình nghiên cứu khoa
học về nhân thân người phạm tội XPSH, các bản án và các báo cáo của các
Tòa án quân sự, Viện Kiểm sát quân sự, Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng
để phân tích làm rõ lý luận nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội.
4
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học: Thu
thập, tổng hợp, phân tích, so sánh đánh giá các số liệu về đặc điểm nhân thân
người phạm tội XPSH trong Quân đội và những yếu tố tác động đến sự hình
thành các đặc điểm nay, qua đó đề xuất các giải pháp thiết thực phục vụ công
tác phòng ngừa tội phạm XPSH trong Quân đội.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tác giả sử dụng một số vụ án điển
hình đã được Tòa án Quân đội đưa ra xét xử để phân tích, làm rõ các đặc
điểm nhân thân tiêu cực và các yếu tố tác động làm hình thành các đặc điểm
nhân thân tiêu cực ở người phạm tội XPSH trong Quân đội. Từ đó tác giả có
thể đưa ra những đánh giá sát với thực tiễn và đề xuất các giải pháp phòng
ngừa hiệu quả, phù hợp đối với tình hình tội phạm XPSH trong Quân đội.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic… được
sử dụng để nhằm đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội XPSH từ góc
độ nhân thân người phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung và làm phong phú
thêm lý luận về nhân thân người phạm tội nói chung, nhân thân người phạm
tội XPSH nói riêng, qua đó làm phong phú thêm lý luận của Tội phạm học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng vào thực tiễn công
tác phòng, chống tội phạm XPSH trong Quân đội thời gian tới.
Những điểm mới của đề tài: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 -
2019, từ đó làm sáng tỏ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH và các
yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPSH trong
Quân đội một cách toàn diện và sâu sắc, là cơ sở để đưa ra một số giải pháp
5
có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội XPSH
trong Quân đội ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm
sở hữu trong Quân đội ở nước ta.
Chương 2. Thực trạng nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trong
Quân đội ở nước ta hiện nay.
Chương 3. Dự báo và giải pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu
trong Quân đội ở nước ta từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
Để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPSH, trước tiên chúng ta
đi nghiên cứu về nhân thân con người và nhân thân người phạm tội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì con người là sản phẩm của thế giới tự
nhiên nên đầu tiên mang đặc tính sinh học. Đặc tính sinh học trong con người
quyết định sự hình thành những hiện tượng, quá trình tâm lý, sinh lý của con
người. Trong quá trình tồn tại con người phải trải qua hoạt động động lao
động, sản xuất nhằm, trong các hoạt động này, con người đã có sự gắn kết,
hợp tác với nhau nên con người mang đặc tính xã hội. Nhân thân con người là
sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và đặc tính sinh học, thể hiện bản chất
riêng của họ.
Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực
hiện hành vi được Luật Hình sự quy định là tội phạm. Như vậy, người phạm
tội nói riêng cũng là con người trong ở xã hội, ngoài việc có những đặc điểm
nhân thân của con người nói chung và thì còn có thêm những đặc điểm đặc
trưng của người phạm tội, nhân thân người phạm tội không chỉ mang dấu hiệu
chủ thể của một tội phạm mà còn chứa đựng những phẩm chất tiêu cực trong
những đặc điểm về đạo đức, tâm lý, mục đích, động cơ…
Để làm rõ hơn vấn đề này, cần nghiên cứu một số quan điểm về nhân
thân người phạm tội, như sau:
Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là người
có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy
7
định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về
mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh
hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”.
Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh, nhà xuất bản Hồng Đức năm 2013: “Nhân thân người phạm tội là
tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của người phạm tội, các
đặc điểm này kết hợp với các điều kiện hoàn cảnh khách quan bên ngoài dẫn
con người đó đến việc thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này khi
kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định sẽ dẫn đến con người đó thực
hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội có thể rút ra khái niệm
nhân thân người phạm tội XPSH như sau:
Nhân thân người phạm tội XPSH là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu
thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp
với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi
phạm tội xâm phạm sở hữu được quy định tại chương XVI của BLHS hiện
hành.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH sẽ góp
phần làm cho việc xác định tội danh, cũng như việc quyết định hình phạt một
cách chính xác.
Nhân thân người phạm tội tuy không phải là một trong những yếu tố cấu
thành tội phạm nhưng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định các vấn đề: Truy cứu trách nhiệm về hình sự,
8
quyết định hình phạt, yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt,… Do đó,
Luật tố tụng hình sự quy định, các đặc điểm nhân thân người phạm tội phải
được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ để đưa vào trong hồ sơ vụ
án hình sự và phải được thể hiện rõ trong Bản kết luận điều tra của Cơ quan
điều tra, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.
Các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có ý nghĩa quan trọng
trong việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPSH, như: Động
cơ và mục đích tư lợi là yếu tố định tội của hầu hết các tội XPSH tại Chương
XVI của Bộ luật hình sự; đặc điểm “tái phạm tội” là yếu tố định tội được quy
định tại khoản 1 của điều 172, Điều 173, Điều 174, Điều 175, Điều 177 và
Điều 178 của BLHS; đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” là yếu tố định khung
của một số tội được quy định tại điểm h khoản 2 của Điều 168, điểm i khoản
2 của Điều 169, Điều 171, điểm e khoản 2 của Điều 170, điểm c khoản 2 của
Điều 172, điểm g khoản 2 của Điều 173, điểm d khoản 2 của Điều 174, điểm
g khoản 2 của Điều 175, Điều 178, điểm đ khoản 2 của Điều 177; đặc điểm
“nghề nghiệp” là yếu tố định tội được quy định tại Điều 179;... Khi xác định
chính xác tội danh và áp dụng hình phạt một cách chính xác phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra có tác dụng rất lớn đến
công tác giáo dục và cải tạo có hiệu quả người phạm tội XPSH, ngăn ngừa
phạm tội mới. Làm tốt công tác này, không chỉ giúp giáo dục, cải tạo người
phạm tội mà còn có tác dụng với những người khác.
Thứ hai, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH, giúp xác
định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH.
Việc nhận thức, phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
XPSH không thể thiếu việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH, bản
chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó. Nhân thân người phạm tội
XPSH với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối đến hành vi phạm tội và
9
cũng chính là kết quả của sự tác động qua lại với nhau giữa người phạm tội và
môi trường xã hội của người phạm tội XPSH. Từ việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội XPSH cho thấy những yếu tố có tác động tiêu cực đến việc
hình thành nhân người phạm tội XPSH. Đó là những tác động tiêu cực từ môi
trường gia đình, bạn bè,…, thông qua những yếu tố tiêu cực này sẽ cho thấy
rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH.
Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH, giúp đề ra
các biện pháp phòng ngừa tội phạm XPSH.
Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác
giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm - sinh lý
tiêu cực bên trong cá nhân chủ thể hành vi, đã dẫn tới việc thực hiện hành
động hoặc không hành động mà pháp luật hình sự xem là tội phạm. Nghiên
cứu nhân thân người phạm tội XPSH có thể xác định được các yếu tố tiêu cực
từ phía người phạm tội và các yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội trong sự
tác động qua lại với nhau hình thành nguyên nhân của tội phạm XPSH. Từ đó,
đưa ra các giải pháp bằng cách hạn chế, loại bỏ các tác động tiêu cực từ môi
trường sống, bạn bè, kinh tế xã hội, giáo dục…., qua đó hạn chế dần các đặc
điểm nhân thân tiêu cực trong con người phạm tội XPSH.
Thứ tư, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH, giúp đề ra
các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội XPSH.
Cần phải dựa vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội XPSH để phân
loại người phạm tội, người phạm tội XPSH và người phạm từng tội phạm cụ
thể trong nhóm tội XPSH, để đưa ra các biện pháp cải tạo, giáo dục thích hợp
đối với từng nhóm người, từng con người cụ thể, dần loại trừ các đặc điểm
nhân thân tiêu cực có vai trò quyết định đối với việc phát sinh tội XPSH, từ
đó có thể giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, không tiếp tục thực hiện tội
phạm hoặc không tái phạm tội. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người
10
phạm tội XPSH cũng giúp cho cơ quan quản lý có định hướng và tư vấn cho
người chấp hành án phạt tù trong việc chọn, học nghề để chuẩn bị những điều
kiện tốt nhất cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng.
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
Nhân thân người phạm tội nói chung bao gồm nhiều đặc điểm, yếu tố,
dấu hiệu. Mỗi đặc điểm, yếu tố, dấu hiệu này lại có hình thức biểu hiện, vai
trò khác nhau nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ qua lại, gắn bó với
nhau. Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, mục đích của tội phạm
học là đi sâu tìm hiểu rõ những đặc điểm đặc trưng của người phạm tội, xác
định được các yếu tố, điều kiện, môi trường tiêu cực nào đã hình thành nên
các đặc điểm đó. Nhân thân người phạm tội nói chung phải có những đặc
điểm đặc thù riêng biệt để phân biệt với người không phạm tội. Trong khi đó,
nhân thân người phạm tội XPSH lại có những điểm đặc trưng riêng, để phân
biệt với người không phạm tội và người phạm vào nhóm tội khác trong
BLHS. Chính vì vậy, ngoài dạng đặc điểm xã hội - nhân khẩu, tâm lý - xã hội,
luận văn còn đề cập đến một dạng đặc điểm về pháp luật hình sự.
1.2.1. Các đặc điểm xã hội - nhân khẩu
Các đặc điểm nhân chủng học xã hội của người phạm tội XPSH, bao
gồm: Giới tính, độ tuổi, nơi cư trú, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia
đình, trình độ học vấn…Những đặc điểm này tồn tại trong bất kỳ con người
nào nên bản thân chúng không đặc trưng cho một con người cụ thể nào với tư
cách là người phạm tội. Tuy nhiên, các đặc điểm này cũng có sự tác động qua
lại với các đặc điểm nhân thân khác của người đó trong xã hội nên nó cung
cấp thêm thông tin để chúng ta hiểu rõ về nhân thân người phạm tội XPSH.
1.2.1.1. Đặc điểm giới tính
Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội XPSH cho chúng ta
thấy tỷ lệ giữa nam và nữ phạm tội XPSH và những ảnh hưởng của giới tính
11
trong việc thực hiện hành vi phạm tội XPSH. Thông thường tỷ lệ nam giới
phạm vào các tội XPSH sẽ cao hơn so với nữ giới. Bởi vì, nam giới sẽ dễ bị
tác động bởi những yếu tố tiêu cực của môi trường sống, xã hội, bạn bè và dễ
làm phát sinh tâm lý tiêu cực hơn nữ giới. Tuy nhiên, thời gian gần đây tỉ lệ
nữ giới phạm tội XPSH đang có xu hướng gia tăng cả về vụ án, người phạm
tội. Các loại tội XPSH do nữ giới thực hiện ngày càng đa dạng, phức tạp hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm độ tuổi
Nghiên cứu đặc điểm độ tuổi của người phạm tội XPSH cho phép xác
định tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm do người thuộc các độ tuổi khác
nhau thực hiện hành vi phạm tội và ảnh hưởng của độ tuổi đến việc thực hiện
tội phạm XPSH của người phạm tội. Mỗi độ tuổi có những đặc điểm riêng
biệt về sự phát triển thể chất, tinh thần, tâm, sinh lý, hiểu biết xã hội… Có thể
chia người phạm tội XPSH thành 04 nhóm: Dưới 18 tuổi, từ 18 đến 30 tuổi,
từ 31 đến 45 tuổi và trên 45 tuổi. Trong nhóm tội XPSH không có sự đòi hỏi
đặc biệt về độ tuổi, nhất là các Tội trộm cắp tài sản, Tội cướp giật tài sản, Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Những năm gần đây, người phạm tội nói chung
đang có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi, trong đó có nhóm người phạm tội
XPSH. Nghiên cứu đặc điểm độ tuổi của người phạm tội XPSH giúp ích cho
việc đề ra các giải pháp phòng phù hợp với từng độ tuổi sao.
1.2.1.3. Đặc điểm trình độ học vấn
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến nhận
thức, khả năng ứng xử của con người khi thực hiện giao tiếp xã hội nói chung
và thực hiện hành vi phạm tội nói riêng. Thực tế cho thấy, những người có
trình độ học vấn cao thì khả năng nhận thức, hiểu biết sẽ cao hơn, khi dẫn đến
việc lựa chọn cách thức ứng xử trước những vấn đề xã hội của cuộc sống sẽ
linh hoạt, phù hợp hơn từ đó sẽ dễ dàng kiểm soát, điều khiển được hành vi
của bản thân, tránh thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại đối với những
12
người có trình độ học vấn thấp thì khả năng hiểu biết các vấn đề xã hội, đặc
biệt là nhận thức pháp luật còn thấp, dẫn đến nguy cơ phạm tội sẽ cao hơn.
Tuy vậy, mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đối với từng loại tội, từng
nhóm tội cũng khác nhau, có những nhóm tội đòi hỏi phải có trình độ học vấn
cao mới có khả năng thực hiện tội phạm, ví dụ như nhóm tội phạm về công
nghệ cao, nhóm tội phạm về tham nhũng, chức vụ…
Đối với nhóm tội XPSH, trình độ học vấn không phải là yếu tố quyết
định, con ngươi dù ở trình độ học vấn nào cũng có thể thực hiện hành vi phạm
tội. Nhưng trong thực tế cho thấy, những người phạm tội XPSH đa phần có
trình độ học vấn ở mức trung bình, thấp trở xuống. Do không có kiến thức
chuyên môn, cũng như năng lực trình độ về một lĩnh vực nào đó, họ rất khó
lưa chọn và có nghề nghiệp với mức thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống.
Nhưng trong nhóm tội XPSH thì tương ứng với mỗi loại tội phạm XPSH khác
nhau thì người phạm tội cũng có trình độ học vấn khác nhau, tuy không phải
yếu tố quyết định nhưng với từng loại tội trong nhóm tội XPSH trình độ học
vấn cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Dựa vào đặc điểm trình độ học vấn, người phạm tội XPSH được chia thành
05 nhóm: (1) Người không biết chữ và người có trình độ tiểu học; (2) Người
có trình độ trung học cơ sở; (3) Người có trình độ trung học phổ thông; (4)
Người có trình độ trung cấp, cao đẳng; (5) Người có trình độ đại học trở lên.
1.2.1.4. Đặc điểm nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một trong những đặc điểm trong nhân thân người phạm
tội XPSH. Nghiên cứu nghề nghiệp cho chúng ta biết được nhóm người làm
việc ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại
tội phạm mà họ thực hiện. Một số nhóm tội, như nhóm tội phạm tham nhũng,
nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế... các đặc điểm nghề nghiệp có sự
ảnh hưởng khá lớn đến việc thực hiện hành vi phạm tội. Phần lớn người phạm
13
tội XPSH là người không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định
với mức thu nhập thấp. Nếu không thực hiện tốt chính sách nghề nghiệp trong
công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội thì tỉ lệ tái phạm, tái phạm nguy
hiểm thường sẽ rất cao. Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp, người phạm tội
XPSH được chia thành 03 nhóm: Không nghề nghiệp, nghề nghiệp không ổn
định, nghề nghiệp ổn định. Khi tham gia phục vụ Quân đội thì được coi là có
nghề nghiệp ổn định, nhưng đi sâu phân tích nghề nghiệp, chức vụ trong
Quân đội thì cho thấy tỉ lệ phạm tội XPSH giữa các thành phần người phục vụ
trong Quân đội một cách rõ nét. Có thể thấy người thuộc thành phần Lao
động hợp đồng phục vụ trong các doanh nghiệp Quân đội chiếm tỉ lệ phạm tội
XPSH cao so với các thành phần khác như: Sĩ quan, Quân nhân chuyên
nghiệp, Hạ sĩ quan chiến sỹ.
1.2.1.5. Đặc điểm hoàn cảnh gia đình
Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội
XPSH là nghiên cứu ở các góc độ: Quan hệ gia đình và hoàn cảnh kinh tế gia
đình với những tác động của chúng tới người phạm tội XPSH.
Quan hệ gia đình của người phạm tội XPSH là những thông tin phản ánh
về tình trạng hôn nhân và các thành viên khác trong gia đình của người phạm
tội. Những đặc điểm này là việc kết hôn, ly hôn, độc thân, ông, bà, cha, mẹ,
anh, chị em… Kết quả nghiên cứu cho thấy những người sống trong gia đình
hòa thuận, hạnh phúc thường sẽ ít phạm tội XPSH hơn những người sống
trong gia đình khiếm khuyết, hay cãi đánh chửi nhau, hoặc gia đình có người
phạm tội. Trong một môi trường gia đình tốt, con người sẽ được giáo dục về
tình yêu thương và cách xử sự đúng với chuẩn mực đạo đức xã hội, từ đó giúp
họ có cách xử sự đúng đắn khi chịu ảnh hưởng bởi sự tác động của các yếu tố
tiêu cực khác trong xã hội, hay nói cách khác là sẽ hạn chế sự tác động của
các yếu tố tiêu cực đối với họ. Chính vì vậy, có thể thấy phần lớn người phạm
14
tội XPSH thường sống trong gia đình khiếm khuyết, hay có cuộc sống không
hòa thuận, thiếu sự quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, … Dựa vào đặc
điểm quan hệ gia đình, người phạm tội XPSH được chia thành: Thành viêc
trong gia đình có quan tâm chăm sóc đến nhau không, hay thường xuyên chửi
mắng, đánh đập nhau; hoặc gia đình đầy đủ cha mẹ và gia đình thiếu cha, mẹ
hoặc thiếu cả cha và mẹ...
Hoàn cảnh kinh tế của gia đình là những thông tin về tình trạng tài chính
kinh tế gia đình, cũng như việc thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống của
người phạm tội XPSH bao gồm: Mức thu nhập, điều kiện, tiện nghi sinh hoạt,
phương tiện đi lại… Đối với nhóm tội XPSH thì động cơ, mục đích là thỏa
mãn như cầu vật chất, vụ lợi. Vì vậy, hoàn cảnh kinh tế của gia đình có ý
nghĩa rất lớn đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội XPSH.
Người sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn sẽ hạn chế khả
năng đáp ứng nhu cầu của bản thân, khi chịu sự tác động của các yếu tố tiêu
cực từ môi trường bạn bè như thói ăn chơi, đua đòi, đề cao vật chất hay tư
môi trường giáo dục như sự kỳ thị, so sánh, đề cao vật chất dễ làm con người
làm nảy sinh tâm lý tiêu cực, họ thực hiện hành vi phạm tội XPSH nhằm thỏa
mãn nhu cầu vật chất, vụ lợi của mình. Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh kinh tế
gia đình, người phạm tội XPSH được chia thành hai nhóm: Người phạm tội
sống trong gia đình có điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình ổn định, khá giả
và người phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế bất ổn, khó khăn,
không đủ đảm bảo cuộc sống.
Trong phạm vi nghiên cứu đề cấp việc xem xét nhân thân người phạm
tội XPSH trong Quân đội ơ nước ta. Nên khi nghiên cứu đặc điểm xã hội
nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPSH thì còn nghiên cứu các đặc
điểm khác như: Dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú, người Việt Nam, người nước
ngoài và người không quốc tịch, nơi cư trú ổn định, không có nơi cư trú và
15
nơi cư trú không ổn định. ..cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình
thành nhân cách, nhân thân tiêu cực trong người phạm tội XPSH. Có thể thấy,
người phạm tội chủ yếu là người có quốc tịch Việt Nam, thực hiện hành vi
phạm tội tại địa bàn nơi minh cư trú nên trong việc đấu tranh phòng ngừa tội
phạm XPSH cần chú ý tội đặc điểm nhân thân này.
1.2.2. Các đặc điểm tâm lý học - xã hội
Các đặc điểm tâm lý học - xã hội của người phạm tội xâm phạm sở hữu
trong Quân đội có thể khái quát bao gồm những đặc điểm như sau: Nhu cầu,
thói quen; động cơ, mục đích phạm tội; tín ngưỡng, quan điểm, thái độ, nhận
thức đối với các giá trị đạo đức, pháp luật.
1.2.2.1. Quan điểm, thái độ, nhận thức đối với các giá trị đạo đức xã hội,
pháp luật
Nghiên cứu quan điểm, thái độ, nhận thức đối với các giá trị đạo đức xã
hội của người phạm tội là nghiên cứu về quan điểm, nhận thức, ý thức tự giác
chấp hành, nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của người phạm tội đối với
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đối với
các chuẩn mực đạo đực xã hội và đối với những mối quan hệ khác trong cuộc
sống xã hội của người phạm tội, việc nghiên cứu này giúp chúng ta giải thích
được vì sao trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định một con người lại
thực hiện hành vi phạm tội XPSH. Nghiên cứu về người phạm tội XPSH cho
thấy đa số quan niệm của họ đã bị lệch chuẩn về chuẩn mực, đạo đức xã hội
như cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác.... Khi phạm tội, họ chỉ nghĩ tới lợi ích cá
nhân và đặt lợi ích cá nhân được đặt lên trên hết, coi thường lợi ích chung của
xã hội và của những người xung quanh khác. Vì vậy, khi gặp điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội họ sẽ lựa chọn thực hiện hành vi
phạm tội XPSH để đem lại lợi ích cho bản thân mình, nhất là các lợi ích về
mặt vật chất, không nghĩ tới hành vi phạm tội đó sẽ gây ra hậu quả nghiêm
16
trọng như thế nào, cho ai, kể cả việc xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Đặc điểm tâm lý - pháp luật của người phạm tội XPSH là khả năng hiểu
biết về pháp luật, cũng như quan điểm, thái độ người đó đối với thực hiện,
chấp hành pháp luật và đối với những người, cơ quan bảo vệ pháp luật,…
Nhìn chung, người phạm tội XPSH là người có trình độ học vấn thấp, nên
khả năng hiểu biết rất ít về pháp luật. Không những vậy, với người phạm tội
đã có tiền án, tiền sự thì thường có thái độ thờ ơ, coi thường, chống đối pháp
luật, với tâm lý hám lợi, thích hưởng thụ cùng với sự kém hiểu biết, hoặc coi
thường pháp luật khi gặp điều kiện thuận lợi họ sẽ thực hiện hành vi phạm tội
XPSH, chỉ vì tư lợi vật chất họ sẽ quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội đến
cùng để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản nhân. Đặc biệt với
những người đã có tiền án, tiền sự đã có kinh nghiệm đối phó với Cơ quan
pháp luật, hoặc một số người có trình độ học vấn cao, khi phạm tội tin tưởng
vào năng lực, trình độ, phương thức thực hiện, cũng như cách thức che dấu tội
phạm của bản thân sẽ tránh được sự trừng phạt của pháp luật hoặc họ hy vọng
rằng hành vi phạm tội XPSH của mình không thể bị cơ quan pháp luật phát
hiện, xử lý.
1.2.2.2 Nhu cầu, sở thích, thói quen
Những đặc điểm nhu cầu, sở thích, thói quen tồn tại trong mọi con người
, bất kỳ con người nào trong xã hội cũng có các đặc điểm trên, ở người có
nhân thân tốt thì sẽ có những đặc điểm về nhu cầu, sở thích, thói quen phù
hợp, đúng chuẩn mực.Còn lại ở những người phạm tội XPSH tồn tại ở họ
những đặc điểm về nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không lành mạnh,
lệch chuẩn về các giá trị đạo đức, pháp luật. Điều quan trọng là họ sẵn sàng
thực hiện mọi biện pháp kể cả là hành vi phạm tội XPSH để thoả mãn nhu
cầu, sở thích không chính đáng đó.
17
Đặc điểm về nhu cầu, sở thích, thói quen có sự tác động rất lớn đến việc
hình thành động cơ, mục đích phạm tội. Những yếu tố tiêu cực này hình thành
trong nhân thân người phạm tội, khi gặp các điều kiện hoàn cảnh thích hợp sẽ
thúc đẩy con người đó thực hiện hành vi phạm tội, và phạm tội tới cùng. Đối
với mỗi loại tội phạm khác nhau thì người phạm tội cũng xuất phát từ nhu
cầu, sở thích, thói quen khác nhau. Người phạm tội XPSH thường có nhu cầu,
sở thích về vật chất không chính đáng, có thái độ coi trọng vật chất, lười lao
động, mong muốn có tiền để đáp ứng nhu cầu, sở thích không chính đáng của
bản thân mình, thói quen rượu chè, cờ bạc, sử dụng ma túy…
1.2.2.3. Động cơ, mục đích phạm tội
Động cơ, mục đích của người phạm tội được hiểu là động lực thúc đẩy
và cái đích hướng tới của việc thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ, mục đích
chủ yếu của nhóm tội XPSH là vụ lợi, có phần rất ít là vị thù hẳn cá nhân (đối
với tội hủy hoại tài sản). Động cơ, mục đích phạm tội XPSH còn thể hiện
trạng thái tâm lý của người phạm tội XPSH đối với hành vi phạm tội XPSH
và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra. Động cơ phạm tội XPSH được
quyết định bởi các yếu tố như nhu cầu và sở thích, các yếu tố này là yếu tố
bên trong đã thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội XPSH. Mục
đích phạm tội XPSH là mục tiêu được đặt ra, chủ yếu là vì mục đích tư lợi và
quyết định ý chí của người phạm tội, hướng ý chí đó đến việc thực hiện tội
phạm XPSH. Khi thực hiện hành vi phạm tội XPSH, nếu động cơ phạm tội
càng mãnh liệt, mục đích phạm tội rõ ràng thì tính chất, mức độ của tội phạm
càng nguy hiểm và hậu quả của tội phạm càng nghiêm trọng. Vì vậy, nghiên
cứu động cơ, mục đích phạm tội XPSH vừa góp phần làm rõ nguyên nhân
thực hiện tội phạm XPSH, đồng thời cũng giúp cho việc đánh giá chính xác
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ đó tìm ra
những biện pháp tác động tích cực nhằm hạn chế, loại trừ động cơ, mục đích
18
phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả mà người phạm tội XPSH có
thể gây ra cho xã hội. Từ thực tế cho thấy, đa phần người phạm tội XPSH
xuất phát từ động cơ vụ lợi, nhằm thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của
bản thân.
1.2.3. Các đặc điểm pháp lý hình sự
Các đặc điểm pháp lý hình sự của người phạm tội XPSH bao gồm những
đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPSH và có ý nghĩa trong việc định
tội, định khung và quyết định hình phạt. Các đặc điểm pháp lý hình sự trong
nhân thân người phạm tội XPSH bao gồm:
1.2.3.1. Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nghiên cứu nhân thân của con
người ít nhất đã một lần thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của
người lần đầu phạm tội thường sẽ mang tính chất ít nguy hiểm, nghiêm trọng
hơn người đã từng phạm tội. Đặc biệt là đối với người có nhiều tiền án, tiền
sự khi họ thực hiện hành vi phạm tội, thì tính chất, mức độ nguy hiểm gây ra
cho xã hội sẽ thường cao hơn nhiều so với người mới lần đầu phạm tội. Bởi ở
họ, đã có kinh nghiệm về phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội,
cũng như việc chuẩn bị, che dấu tội phạm, tiêu thụ tài sản phạm tội mà có.
Một yếu tố cần phải được xem xét đến là ở họ đã được củng cố tâm lý trong
việc khai báo, chối tội khi làm việc với cơ quan tố tụng hoặc có nhiều kinh
nghiệm đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cho nên khi xem xét đến
trách nhiệm hình sự mà họ phải gánh chịu thì cơ quan tố tụng đã cân nhắc,
xem xét xử lý nặng hơn người mới phạm tội lần đầu. Việc tái phạm tội là
những dấu hiệu thể hiện xu hướng, ý thức chống đối xã hội, pháp luật, bởi khi
được đã bị pháp luật xử lý với mục đích giáo dục họ nhận thức đúng về chuẩn
mực xã hội, việc tôn trọng quyền lợi ích hợp pháp của người khác, trong đó
có quyền sở hữu về tài sản nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì
19
vậy, nghiên cứu các đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm không chỉ giúp
cơ quan tiến hành tố tụng nhận thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của
người tái phạm tội mà còn giúp hiểu rõ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh
tội phạm XPSH, cũng như giúp cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở vững chắc
trong việc đề ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu để phòng ngừa tội phạm
XPSH. Chính bởi nguyên nhân đó, nên trong quá trình xây dưng, ban hành
pháp luật, trong đó đối với nhóm tội phạm XPSH, nhà làm luật đã cân nhắc
quy định đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” là yếu tố định khung một số tội
XPSH được quy định tại điểm h khoản 2 của các Điều 168, điểm i khoản 2
Điều 169, điểm e khoản 2 Điều 170, điểm i khoản 2 Điều 171, điểm c khoản 2
Điều 172, điểm g khoản 2 Điều 173, điểm d khoản 2 Điều 174, điểm g khoản
2 Điều 175, điểm đ khoản 2 Điều 177, điểm g khoản 2 Điều 178 của BLHS;
đặc điểm “tái phạm tội” là yếu tố định tội được quy định tại khoản 1 của các
Điều 172, Điều 173, Điều 174, Điều 175, Điều 178 của BLHS 2015.
1.2.3.2. Một số đặc điểm pháp lý khác
Một số đặc điểm pháp lý hình sự trong nhân thân người phạm tội XPSH
như phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, dùng thủ đoạn xảo quyệt, mục đích
che dấu tội phạm khác cũng được nhà làm luật cân nhắc quy định là yếu tố
định khung một số tội XPSH, đặc điểm phạm tội “có tính chất chuyên
nghiệp” quy định tại điểm b khoản 2 các Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều
171, Điều 173, Điều 174 và Điều 175 của BLHS 2015. Bên cạnh đó, một đặc
điểm pháp lý hình sự khác trong nhân thân người phạm tội XPSH như phạm
tội một mình hay có đồng phạm cũng được nhà làm luật chú ý, trong đó nhà
làm luật đặc biệt chú ý đến đặc điểm phạm tội có tổ chức, bởi tính chất, mức
độ nguy hiểm và hậu quả gây ra cho xã hội là rất lớn. Phạm tội có tổ chức là
hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện
tội phạm và đặc điểm phạm tội “có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 2
20
các Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều 171, Điều 173, Điều 174, Điều 175
và Điều 178 của BLHS 2015.
Các đặc điểm nêu trên đều thể hiện ý thức phạm tội của người phạm tội.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội cố ý phạm tội từ năm
lần trở lên về cùng một tội phạm (nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội đều lấy các lần phạm
tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Mục đích khi phạm tội XPSH là để che dấu tội phạm khác là trường hợp
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội XPSH nhằm mục đích che dấu
một tội phạm khác mà người phạm tội đã thực hiện trước đó nhưng chưa bị
phát hiện, xử lý. Hoặc tội phạm này đang có nguy cơ bị phát hiện và họ hy
vọng với việc thực hiện tội phạm XPSH này, thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
chỉ tập trung điều tra xử lý về hành vi phạm tội XPSH mà không nghi ngờ, xử
lý về tội phạm có trách nhiệm hình sự nặng hơn mà họ đã thực hiện trước đó.
Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm này giúp hiểu rõ được ý thức phạm tội
của người phạm tội XPSH và nguyên nhân phát sinh tội phạm XPSH, trên cơ
sở đó đề ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Tóm lại, trong quá trình nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm
tội XPSH phải nghiên cứu cả ba nhóm đặc điểm là: Các đặc điểm xã hội -
nhân khẩu; Các đặc điểm tâm lý - xã hội; Các đặc điểm pháp lý hình sự trong
mối quan hệ tác động qua lại với nhau để từ đó cho chúng ta có cái nhìn tổng
thể, hệ thống nhất về nhân thân người phạm tội XPSH, về các yếu tố tiêu cực
tác động bên ngoài, các yếu tố tiêu cực xuất phát từ bên trong người phạm tội
và cả các yếu tố quy định về nhận thức, thái độ về pháp luật và về trách nhiệm
hình sự của người phạm tội. Từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm
XPSH nói riêng có hệ thống và đạt hiệu quả cao nhất.
21
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân
người phạm tội xâm phạm sở hữu
Trong hoạt động sống của con người, bất ký một con người nào cũng
chịu sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố trong môi trường sống, các yếu tố
này có thể là tích cực sẽ giúp con người đó hình thành các đặc điểm nhân thân
tích cực và ngược lại nếu bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực sẽ dễ làm hình
thành trong nhân thân con người các yếu tố tiêu cực. Sự hình thành các đặc
điểm tiêu cực, hay tích cực trong nhân thân con người là một quá trình tương
tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc về môi trường sống với các yếu
tố chủ quan bên trong của con người trông qua hoạt động nhân thức. Đối với
người phạm tội XPSH, các đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành
thông qua sự tương tác giữa môi trường sống và yếu tố chủ quan bên trong
người phạm tội khi kết hợp với các điều kiện,tình huống, hoàn cảnh cụ thể sẽ
dễ làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH.
1.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
1.3.1.1. Môi trường gia đình
Con người từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành đều phải sống trong một
gia đình cụ thể, gia đình ở đây có thể hiểu là ngôi nhà có người sinh ra chúng
ta, hay là nơi đã nuôi dưỡng chúng ta nên người. Con người từ khi được sinh
ra, trong quá trình lớn lên đều được sự nuôi dưỡng của gia đình, đây là cái nôi
nuôi dưỡng, giáo dục, hình thành nên nhân cách của con người. Môi trường
gia đình tác động đến hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
tội XPSH bao gồm: Môi trường gia đình có người vi phạm pháp luật, gia đình
khuyết thiếu hoặc thiếu sự quan tâm chăm sóc và giáo dục, gia đình quá
nuông chiều, bao bọc, thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái hoặc môi trường gia
đình có hoàn cảnh khó khăn.
Thứ nhất, có những thành viên trong gia đình không gương mẫu, vi
22
phạm chuẩn mực đạo đức, vi phạm pháp luật. Khi sống trong môi trường gia
đình lành mạnh sẽ có lợi cho sự phát triển của con cái và hình thành ở trẻ
những nhân cách, hành vi đúng chuẩn mực. Ngược lại, nếu sống trong môi
trường gia đình có có thành viên vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, thường
xuyên bất mãn với xã hội… thì các thành viên trong gia đình, nhất là đối với
trẻ con sẽ bị ảnh hưởng, sẽ dễ hình thành nhân cách xấu, có lối sống, cách cư
xử đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức, xã hội.
Thứ hai, gia đình quá nghiêm khắc hoặc gia đình thiếu sự quan tâm
chăm sóc và giáo dục. Trong xã hội ngày nay, nhiều trường hợp cha mẹ đã
quá tập trung vào giải quyết các như cầu cá nhân, các mối quan hệ xã hội, hay
chỉ tập trung vào kiếm tiền mà không chú ý đúng mức đến việc nuôi dưỡng,
giáo dục con cái. Cũng có một số cha mẹ có chú ý đến việc giáo dục trẻ
nhưng lại thiếu kiến thức về việc nuôi dạy con cái dẫn đến chưa có phương
pháp giáo dục đúng đắn. Đặc biết, một số cha mẹ vì quá lo cho con cái mà đã
quá nghiêm khắc với trẻ trong việc thỏa mãn các nhu cầu đòi hỏi vật chất, từ
đó dần hình thành những khát khao về vật chất, như khát khao có đồ chơi
mới, có quần áo mới, có đồ ăn ngon, có đồ dùng mới, xe đạp, xe máy, điện
thoại... Việc quá nghiêm khắc này, sẽ tạo ra tâm lý ức chế cho trẻ khi việc
thỏa mãn các nhu cầu này bị gia đình ngăn cản, hoặc trẻ không dám tâm sự,
chia sẻ với cha mẹ nữa. Chính vì vậy, khi trẻ gặp những điều kiện, tình huống
thuận lợi, những khát vọng này càng mãng liệt rất dễ làm trẻ nảy sinh hành vi
phạm tội XPSH, mà chủ yếu là thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Thứ ba, gia đình quá nuông chiều, bao bọc, thỏa mãn mọi nhu cầu của
con cái. Khi con trẻ được quá quen với việc được chiều chuộng, muốn gì
được đó từ cha mẹ hay người lớn trong gia đình, thì sẽ dễ làm hình thành ở trẻ
những đặc điểm nhân thân xấu như tính dựa dẫm, ỷ lại, sống ích kỷ, không ý
thức về trách nhiệm, hẹp hòi, quen được phục vụ, hưởng thụ… Trẻ càng lớn
23
thì các đặc điểm nhân thân tiêu cực này càng hình thành sâu sắc trong trẻ và
khó thay đổi. Cha mẹ không thể sống cùng con cái và bảo bọc con cái mãi
được. Nếu khi gia đình không tiếp tục thỏa mãn các điều kiện ngày cáng lớn ở
trẻ, thì trẻ em có thể trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, không muốc
sống chung với cha mẹ vì nghĩ rằng cha mẹ không còn yêu thương mình nữa,
chúng có thể bỏ nhà đi lang thang hay tụ tập với bạn bè hư, hay với những
người xấu đang tìm cách lôi kéo trẻ vào con đường vi phạm pháp luật, thậm
chí là phạm tội, bởi mong muốn có tiền thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân
nhiều trẻ em trộm cắp tài sản của chính bố mẹ mình hoặc của người khác để
thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng như đua đòi ăn diện, đánh bạc, hút
chích hoặc phạm tội XPSH.
Thứ tư, gia đình bị khiếm khuyết (mồ côi cả cha lẫn mẹ; mồ côi cha hoặc
mẹ; hoặc cha mẹ ly thân, ly hôn…), hoặc gia đình không hạnh phúc: Do thiếu
tình cảm, sự giáo dục và chăm sóc từ cha mẹ nên những đứa trẻ sống trong
hoàn cảnh gia đình bị khiếm khuyết hoặc gia đình không hạnh phúc thì đa
phần chúng bị tổn thương về tâm lý, lúc nào chúng cũng cảm thấy mình buồn
chán, thiếu tự tin, tâm lý luôn bị áp lực tiêu cực, có tâm lý coi thường, không
tôn trọng cha mẹ và người lớn trong gia đình, có lối sống buông thả, tiêu cực,
thích hưởng thụ, không muốn lao động. Nếu trẻ không có sự dạy dỗ, giúp đỡ
từ phía gia đình thì khi gặp khó khăn trong cuộc sống chúng dễ bị mất
phương hướng, có khi còn thực hiện hành vi vi phạm luật pháp, trong đó có
cả hành vi phạm tội XPSH.
Thứ năm, gia đình có kinh tế khó khăn cũng tác động lớn đến việc hình
thành nhân cách của trẻ. Trẻ sống trong gia đình có kinh tế khó khăn, việc
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của trẻ cũng rất hạn chế. Trong cuộc sống, cũng
như trong việc học tập, quan hệ với bạn bè, hoàn cảnh khó khăn sẽ dẫn đến
việc thua thiệt với bạn bè cùng trang lứa, bị thầy cô, bạn bè coi thường, xa
24
lánh từ đó dễ làm hình thành trong trẻ những đặc điểm nhân thân tiêu cực, nếu
không được giáo dục cẩn thận sẽ dễ làm phát sinh trong trẻ tâm lý mặc cảm,
buồn chán, tự ti, thất vọng, luôn khát khao có tiền, có tiền bằng mọi giá, kể cả
vi phạm pháp luật, chủ yếu là phạm các tội phạm XPSH để có tiền tiêu xài cá
nhân, phục vụ những mong muốn, nhu cầu không chính đáng của bản thân.
1.3.1.2. Môi trường giáo dục
Sau môi trường gia đình, thì môi trường giáo dục là chiếc nôi thứ hai có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục và hình thành nhân cách của mỗi con
người. Trách nhiệm của Nhà trường không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức cho
học sinh, mà còn là nơi hình thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức, pháp luật,
kỹ năng sống và tạo tiền đề cho trẻ trở thành những con người sống có hoài
bão, có lý tưởng tốt đẹp… Nhà trường khi làm tốt nhiệm vụ đào tạo, giáo dục
của mình thì sẽ là cơ sở để hình thành những đặc điểm nhân thân tích cực
trong trẻ. Ngược lại, khi nhà trường không hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo,
giáo dục trẻ thì có thể làm hình thành ở trẻ em các đặc điểm nhân thân tiêu
cực, cũng như vô tình tạo ra các điều kiện thuận lợi cho trẻ tiếp xúc với yếu tố
tiêu cực khác ngoài xã hội, từ đó trẻ sẽ bị lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ nhất, thiếu sự nêu gương của các thầy cô giáo trong nhà trường:
Hiện nay, tại một số nhà trường, có một số ít giáo viên có phẩm chất đạo đức
không tốt, không quan tâm nhiều tới công tác đào tạo con người đúng với
lương tâm của nhà giáo, có những tư tưởng phân biệt đối xử, sử dụng bạo lực
để giáo dục học sinh. Nghiêm trọng hơn, một số giáo viên này, còn có người
vi phạm về đạo đức, có lối sống buông thả, thậm chí có giáo viên còn vi phạm
pháp luật cho nên đã làm ảnh hưởng xấu đến tâm lý học sinh, không những
vậy, còn là tấm gương xấu, là “thần tượng” cho học sinh của họ noi theo.
Thứ hai, nhà trường là môi trường rất quan trọng trong việc hình thành
nhân cách của trẻ, cùng với gia đình đây là hai môi trường có tiền đề quyết
25
định trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức cho trẻ. Khi không được giáo dục
tốt, dễ làm hình thành trong trẻ những đặc điểm nhân thân xấu như xem nhẹ
các giá trị đạo đức, thiếu ý thức trong việc tôn trọng giá trị chuẩn mực đạo
đức, pháp luật, coi trọng giá trị vật chất, muốn thỏa mãn các nhu cầu không
chính đáng của bản thân bằng mọi cách, bằng việc xâm phạm đến các quyền,
lợi ích, nhất là quyền sở hữu về tài sản của người khác, có khi thực hiện hành
vi phạm tội XPSH.
Thứ ba, sự thiếu quan tâm, quản lí sát sao của thầy cô giáo; sự phối hợp
thiếu hiệu quả giữa gia đình và nhà trường, dẫn đến trẻ bỏ học, trốn học, tụ
tập bạn bè xấu và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè tham gia vào các tệ nạn xã
hội như ma túy, cờ bạc, chơi game … và để có tiền thỏa mãn các sở thích lệch
lạc đó, họ dễ thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
1.3.1.3. Môi trường bạn bè
Cùng với gia đình, nhà trường, bạn bè cũng có ảnh hưởng vô cùng quan
trọng trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH.
Đặc biệt là bạn bè đồng trang lứa là những người gần gũi, thường xuyên tâm
sự, có những đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi giống nhau. Vì vậy, có ảnh
hưởng vô cùng lớn đến các quan điểm, quan niệm, nhận thức lối sống, thậm
chí đến thói quen, cách cư xử của trẻ. Nếu kết bạn với bạn bè tốt, trẻ sẽ dễ
hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như chăm chỉ học tập, biết quan
tâm, lo lắng, chia sẻ với người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng sống… Nhưng
khi chơi với những người bạn xấu, trẻ rất dễ nhiễm những thói hư, tật xấu của
bạn bè như lười học, uống rượu, hút thuốc lá, đua đòi, chơi bời, hưởng thụ,
chơi game... hay thậm chí là nghiện ma túy, nghiện rượu, nghiện game, cờ
bạc... và để có tiền để thỏa mãn sở thích lệch lạc đó họ sẵn sàng phạm các tội
XPSH, đặc biệt là Tội trộm cắp tài sản, Tội cướp tài sản…
1.3.1.4. Môi trường kinh tế, xã hội
26
Mặt trái của nền KTTT với những yếu tố tiêu cực đã có sự tác động
không hề nhỏ đến tâm lý, nhận thức và quan điểm sống của con người. Một số
bộ phận con người khi chịu sự tác động tiêu cực này đã dần hình thành lối
sống hưởng thụ, lười lao động, mong muốn có tiền nhanh chóng. Bên cạnh
đó, sự yếu kém trong quản lí, giám sát và bảo vệ các thành quả lao động của
Quân đội, mà chủ yếu là các doanh nghiệp Quân đội đã làm phát sinh nhiều
kẽ hở kích thích lòng tham của con người. Khi có điều kiện thuận lợi những
người này sẽ có hành vi chiếm đoạt tài sản phục vụ nhu cầu sai lệch của mình.
Hiện nay xã hội không ngừng phát triển, trong khi đó việc quản lý nhà
nước lại đang gặp nhiều khó khăn thì kéo, cho nên cũng kéo theo sự gia tăng
của các tệ nạn xã hội, như rượu chè, cờ bạc, nghiện trò chơi điện tử, mại dâm,
ma túy… Đây là những môi trường tiêu cực rất dễ sa ngã vào, mà để có tiền
thỏa mãn các nhu cầu không chính đáng này, nhiều người đã không ngần ngại
thực hiện các hành vi phạm tội XPSH.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội xâm phạm sở hữu
Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội XPSH gồm: Trí tuệ và sai
lệch về nhu cầu, sở thích, thói quen.
1.3.2.1. Trí tuệ
Trí tuệ hay là sự thông minh của mỗi con người cụ thể có sự khác nhau,
nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố xã hội - nhân khẩu như giới tính, độ tuổi, trình
độ học vấn, yếu tố di truyền, môi trường sống và một số yếu tố khác. Đa số
người phạm tội XPSH có trình độ học vấn trung bình, thấp nên khả năng lựa
chọn cách cư xử sẽ hạn chế hơn, cộng thêm sự lười biếng, hám lợi, muốn có
tiền thỏa mãn các nhu cầu không chính đáng của bản thân mình mà không
phải lao động nên hình thành suy nghĩ và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác. Bên cạnh đó, một số người phạm tội XPSH có trình độ học
vấn cao thì thường sử dụng khả năng, trình độ của mình tìm ra những kẽ hở
27
trong công tác quản lý, điều hành tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Quân
đội… để thực hiện hành và che dấu hành vi phạm tội XPSH. Hậu quả do
những người này gây ra thường nghiên trọng hơn người có trình độ học vấn
thấp, có khi là rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
1.3.2.2. Sai lệch về sở thích
Sở thích là trạng thái tâm lý của một người, khi con người cảm thấy thú
vị, mong muốn thực hiện những hoạt động một cách thường xuyên, liên tục.
Khi tham gia thực hiện các hoạt động, thói quen đó sẽ đem lại cho con người
niềm vui, sự phấn khởi trong cuộc sống. Nhu cầu là nguyện vọng, những đòi
hỏi của bản thân được thực hiện hay được đáp ứng một việc nào đó. Trong
mỗi con người, để đáp ứng nhu cầu, sở thích riêng mà thực hiện một hành vi
nào đó. Nếu cá nhân có những nhu cầu, sở thích lành mạnh, chính đáng thì
hình thành ở người đó nhân cách tích cực. Ngược lại, cá nhân có nhu cầu, sở
thích tiêu cực, không chính đáng sẽ làm hình thành ở con người đó nhân cách
tiêu cực, lệch lạc, không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân. Và
để thỏa mãn nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không chính đáng đó, họ đã
thực hiện hành vi lệch chuẩn, không phù hợp với đạo đức xã hội và pháp luật,
có khi là thực hiện hành vi, trong đó phạm các tội phạm XPSH là chủ yếu.
1.3.2.3. Sai lệch về nhu cầu và cách thức để thỏa mãn nhu cầu
Nhu cầu là nguyện vọng, là mong muốn của một người về vật chất và
tinh thần để có thể tồn tại và phát triển. Mỗi con người sẽ có những nhu cầu
khác nhau như: Nhu cầu về kinh tế, tiền bạc, danh vọng, tinh thần…, kể cả về
nhu cầu sinh lý của mỗi cá nhân. Nhu cầu lành mạnh sẽ thúc đẩy con người
thực hiện hành vi của bản thân theo hướng tích cực và ngược lại nhu cầu
không chính đáng, tiêu cực sẽ tác động, chi phối con người thực hiện hành vi
theo hướng tiêu cực, dễ dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
28
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 của luận văn đã tập trung đi sâu vào làm rõ những vấn đề lý
luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu và ý nghĩa của việc
nghiên cứu về người phạm tội xâm phạm sở hữu và đã làm rõ các đặc điểm
của nhân thân người phạm tội như: Đặc điểm sinh học, đặc điểm tâm lý - xã
hội và đặc điểm về pháp luật hình sự.
Tác giả đã phân tích sâu và làm rõ các yếu tố tác động đến sự hình thành
nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu về cả hai yếu tố khách quan
thuộc môi trường sống, lẫn các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội xâm
phạm sở hữu.
Về cơ bản thì nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân
đội cũng bao gồm tất cả các yếu tố trên, vì bất kỳ con người nào, dù sống
trong môi trường xã hội hay môi trường của Quân đội cũng phải trải qua và
chịu sự tác động của những yếu tố tiêu cực đã trình bày ở trên. Những nội
dung được trình bày trong Chương 1 tác giả sẽ lấy đó để làm cơ sở tìm hiểu,
phân tích, làm rõ về các đặc điểm nhân thân và nguyên nhân hình thành các
đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội xâm phạm sở hữu trong
Quân đội được trình bày trong Chương 2 của luận văn.
29
Chương 2:
THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở
nước ta hiện nay
2.1.1. Thực trạng của tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội
Thực trạng (mức độ) của tình hình tội XPSH từ thực tiễn trong Quân đội
trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 được nhận thức thông qua các số liệu
phản ánh tổng số các tội phạm thuộc nhóm tội XPSH đã xảy ra và số lượng
người thực hiện hành vi phạm tội XPSH trong Quân đội đã được Tòa án Quân
sự các cấp tiến hành xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Để đánh giá
được chính xác mức độ của tình hình tội XPSH trong Quân đội đã xảy ra cần
phải đi sâu vào nghiên cứu số lượng các tội XPSH và người phạm tội XPSH
đã bị xét xử bằng một bản án có hiệu lực của Tòa án quân sự.
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.1, 2.3 phần phụ lục] cho thấy,
trong thời gian từ năm 2015 đến 2019, Tòa án quân sự đã tiến hành xét xử
tổng cộng 925 vụ án với 2318 bị cáo, trung bình Tòa án quân sự đã tiến hành
xét xử là 185 vụ/năm và 463,6 bị cáo/năm. Cụ thể riêng đối với tội XPSH thì
Tòa án quân sự đã tiến hành xét xử 322/925 vụ án (tỉ lệ là 34,81%) với
738/2318 bị cáo (tỉ lệ 31,84%), trong đó đối tượng do Quân đội quản lý là
102/2318 bị cáo (tỉ lệ 4,4%), trung bình Tòa án quân sự đã tiến hành xét xử là
64,4 vụ/năm và 147,6 bị cáo/năm. Nghiên cứu cụ thể theo từng năm cho thấy,
năm 2019 xảy ra nhiều nhất (87/322 vụ án chiếm tỉ lệ 27,02%, 300/738 bị cáo
chiếm tỉ lệ 40,65%, trong đó 42/102 bị cáo là đối tượng do Quân đội quản lý
chiếm tỉ lệ 41,19%), kế đến là năm 2018 (85/323 vụ án chiếm tỉ lệ 26,40%,
206/738 bị cáo chiếm tỉ lệ 27,91%, trong đó 30/102 bị cáo là đối tượng do
Quân đội quản lý chiếm tỉ lệ 29,41%), các năm còn lại gồm: Năm 2015
30
(38/322 vụ án chiếm tỉ lệ 11,80%, 45/738 bị cáo chiếm tỉ lệ 6,10%, trong đó
5/102 bị cáo là đối tượng do Quân đội quản lý chiếm tỉ lệ 4,90%), năm 2016
(40/322 vụ án chiếm tỉ lệ 12,42%, 60/738 bị cáo chiếm tỉ lệ 8,13% trong đó
11/102 bị cáo là đối tượng do Quân đội quản lý chiếm tỉ lệ 10,78%), năm
2017 (72/322 vụ án chiếm tỉ lệ 22,36%, 127/738 bị cáo chiếm tỉ lệ 17,21%
trong đó 14/102 bị cáo là đối tượng do Quân đội quản lý chiếm tỉ lệ 13,72%).
Mức độ của tình hình tội XPSH còn được thể hiện qua cơ số tội phạm:
Đó là chỉ số khái quát nhất về mức độ của tình hình tội phạm trong Quân đội
tính trên một đơn vị thời gian là một năm và được tính bằng số bị cáo (đã xét
xử) trên 10.000.000 dân, được thể hiện ở số liệu trong [Bảng số 2.2 phần phụ
lục]. Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thống kê các bị cáo đã bị Tòa án quân sự
xét xử về các tội XPSH và số liệu thống kê dân số cho thấy trong thời gian từ
năm 2015 - 2019 trung bình trên 10.000.000 dân thì có 15,48 người phạm tội
XPSH, so với số lượng người phạm các tội khác thì số lượng người phạm tội
XPSH có chỉ số là 15,48/48,72 và có thể thấy số lượng bị cáo phạm tội XPSH
diễn biến theo xu hướng tăng dần qua mỗi năm.
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.1 phần phụ lục] cho thấy, số vụ
án và số bị cáo phạm tội XPSH năm sau luôn tăng cao hơn so với năm trước.
Nếu lấy năm 2015 là năm gốc để so sánh với các năm còn lại thì số vụ án và
số bị cáo diễn biến theo xu hướng tăng, năm 2016 tăng 2 vụ (tăng 5,26%),
tăng 15 bị cáo (tăng 33,33%); năm 2017 tăng 32 (tăng 80%), tăng 67 bị cáo
(tăng 111,67%); năm 2018 tăng 13 vụ (tăng 18,06%), tăng 79 bị cáo (tăng
62,20%) và năm 2019 tăng 2 vụ (tăng 2,35%), tăng 94 bị cáo (tăng 45,63%).
Điều đó chứng tỏ tình hình tội XPSH trong Quân đội có xu hướng tăng trong
thời gian tới.
2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội
31
Là số liệu phản ánh tỉ trọng giữa số vụ án XPSH trong tổng số vụ án đã
bị xét xử về tất cả các loại tội, mối tương quan về tỷ lệ giữa từng loại tội
XPSH với nhóm tội XPSH và về mức độ của tình hình tội XPSH (được tính
toán trên cơ sở số dân và diện tích của các đơn vị hành chính do Quân đội
quản lý). Nghiên cứu cơ cấu tội XPSH giúp ta biết được cấu trúc bên trong
của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội XPSH nói riêng, qua đó góp
phần làm rõ hơn tính chất nghiêm trọng của tình hình tội phạm.
- Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong mối quan hệ với tình hình tội
phạm nói chung trong Quân đội được thể hiện qua số liệu trong [Bảng số 2.3
phần phụ lục] cho thấy: Trong 05 năm từ năm 2015 - 2019, số vụ án XPSH
chiếm tỷ lệ khá cáo so với tình hình tội phạm nói chung, trung bình chiếm tỉ
lệ 34,81 % số vụ án và 34,84% số bị cáo. Khi xem xét số bị cáo là người do
Quân đội quản lý thì tỉ lệ này rất thấp, số người do Quân đội quản lý bị đưa ra
xét xử trung bình chỉ chiếm tỉ lệ 11%, bị xét xử về tội XPSH chỉ chiếm tỉ lệ
13,82% trong tổng số bị cáo đưa ra xét xử. Tuy nhiên, đối với Quân đội đây là
con số rất đáng báo động, các loại tội XPSH xảy ra thường xuyên, phổ biến,
xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của Quân đội hoặc của người
khác, gây tâm lý hoang mang, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự quản lý
của Quân đội và chính quyền địa phương, sẽ tác động không nhỏ đến ANCT
và TTATXH. Số lượng vụ án và số người phạm tội XPSH diễn biến tỉ lệ
thuận với diễn biến của tình hình tội phạm trong Quân đội. Năm 2016 so với
năm 2015, tình hình tội phạm nói chung tăng 23 vụ (tăng 20%), tăng 66 bị cáo
(tăng 30,84%), nhưng số lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý lại giảm
12 bị cáo (giảm 32,43%) và tình hình tội XPSH tăng 2 vụ (tăng 5,26%), tăng
15 bị cáo (tăng 33,33%), số lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý tăng 6
bị cáo (tăng 120%). Năm 2017 so với năm 2016, tình hình tội phạm nói chung
tăng 56 vụ (tăng 40,58%), tăng 138 bị cáo (tăng 49,28%), số lượng bị cáo là
32
người do Quân đội quản lý tăng 15 bị cáo (tăng 60%) và tình hình tội XPSH
tăng 32 vụ (tăng 80%), tăng 67 bị cáo (tăng 111,67%), số lượng bị cáo là
người do Quân đội quản lý tăng 3 bị cáo (tăng 27,27%). Năm 2018 so với
năm 2017, tình hình tội phạm nói chung tăng 31 vụ (tăng 15,98%), tăng 99 bị
cáo (tăng 26,08%), số lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý tăng 30 bị
cáo (tăng 75%) và tình hình tội XPSH tăng 13 vụ (tăng 18,05%), tăng 79 bị
cáo (tăng 62,20%), số bị cáo số lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý
tăng 16 bị cáo (tăng 114,28%). Năm 2019 so với năm 2018, tình hình tội
phạm nói chung tăng 28 vụ (tăng 12,44%), tăng 362 bị cáo (tăng 66,79%), số
lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý tăng 13 bị cáo (tăng 18,57%) và
tình hình tội XPSH tăng 2 vụ (tăng 2,35%), tăng 94 bị cáo (tăng 45,63%), số
lượng bị cáo là người do Quân đội quản lý tăng 12 bị cáo (tăng 40%). Qua số
liệu trên cho thấy, tình hình tội phạm nói chung và các loại tội XPSH đều diễn
biến theo chiều hướng tăng, bị can là người do Quân đội quản lý cũng có
chiều hướng gia tăng cả về tội phạm nói chung và các loại tội XPSH, chỉ có
duy nhất năm 2016 thì tình hình tội phạm nói chung có giảm về số bị can là
người do Quân đội quản lý giảm 12 bị cáo (giảm 32,43%). Với các số liệu
như trên, có thể thấy tình hình tội phạm chung và tội phạm XPSH có chiều
hướng gia tăng, nhưng tỉ lệ không đồng đều, năm 2016, 2019 tỉ lệ tăng của tội
phạm chung cao hơn tội phạm XPSH, còn năm 2017, 2018 thì tỉ lệ tăng của
tội phạm chung lại thấp hơn tội phạm XPSH. Điều đó chứng tỏ, tình hình tội
XPSH trong Quân đội có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp.
- Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.4 phần phụ lục] cho thấy, cơ
cấu của từng loại tội XPSH trong mối quan hệ với các tội XPSH trong Quân
đội như sau: Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) chiếm tỉ lệ cao nhất là 78,57%;
kế đến lần lượt là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)
chiếm tỉ lệ 10,25%; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) chiếm tỉ lệ
33
6,52%; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178) chiếm tỉ lệ
1,87%; Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176) chiếm tỉ lệ 0,93%; Tội
cưỡng đoạt tài sản (Điều 170) và Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 179) cùng chiếm tỉ lệ 0,62%; Tội cướp
tài sản (Điều 168) và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) cùng chiếm tỉ lệ
0,31%; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cướp giật tài sản
(Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172) và Tội vô ý gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180) chưa xảy ra.
Như vậy, trong cơ cấu các loại tội XPSH thì Tội trộm cắp tài sản chiếm
tỉ lệ cao nhất (78,57%), kế đến lần lượt là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản (10,25%); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (6,52%). Điều này thể hiện
các loại tội XPSH trong Quân đội xảy ra khá phổ biến và nghiêm trọng, có
chiều hướng ngày càng tăng, đặc biệt là các Tội trộm cắp tài sản, Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Tội lừa đảo chiếm đọat tài sản. Vì vậy, để
đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội XPSH cần tập trung trước hết vào Tội
trộm cắp tài sản kế đến là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Cơ cấu của tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019
xét theo đơn vị hành chính do Quân đội quản lý trên cơ sở cơ số tội phạm và
mật độ tội phạm, được thể hiện trong [Bảng số 2.6 phần phụ lục]. Theo đó,
cột dọc cuối cùng bên phải là số dân trên 01 bị cáo. Con số này càng nhỏ thì
mức độ phạm tội XPSH ở các địa bàn do Quân đội quản lý đó càng cao, cụ
thể như sau: Bộ tư lệnh Thủ Đô có chỉ số là: 805.336,3; Quân khu 1 có chỉ số
là: 507.120,167; Quân khu 2 có chỉ số là: 737.571,545; Quân khu 3 có chỉ số
là: 801.505,062; Quân khu 4 có chỉ số là: 909.434,167; Quân khu 5 có chỉ số
là: 484.194,231; Quân khu 7 có chỉ số là: 565.260,718; Quân khu 9 có chỉ số
là: 779.254,15. Theo đó, trong giai đoạn 2015 đến 2019, thì tại địa bàn của
Quân khu 5 có mức độ phạm tội XPSH cao nhất, cứ 484.194,231 người dân
34
thì có một người bị xét xử về các loại tội XPSH. Quân khu 4 có mức độ phạm
tội XPSH thấp nhất, cứ 909.434,167 người dân thì mới có 01 người bị xét xử
về các loại tội XPSH. Tuy nhiên, nếu xét theo diện tích của từng đơn vị hành
chính thì các đơn vị hành chính do Quân đội quản lý có tỉ lệ càng lớn thì mức
độ phạm tội XPSH ở các địa bàn do Quân đội quản lý đó càng cao, cụ thể tỉ lệ
này như sau: Bộ tư lệnh Thủ Đô có chỉ số là: 3,0039 bị cáo/1000km2; Quân
khu 1 có chỉ số là: 0,4985 bị cáo/1000km2; Quân khu 2 có chỉ số là: 0,1702 bị
cáo/1000km2; Quân khu 3 có chỉ số là: 0,7886 bị cáo/1000km2; Quân khu 4
có chỉ số là: 0,2332 bị cáo/1000km2; Quân khu 5 có chỉ số là: 0,3193 bị
cáo/1000km2; Quân khu 7 có chỉ số là: 0,8538 bị cáo/1000km2; Quân khu 9
có chỉ số là: 0,5547 bị cáo/1000km2. Như vậy, Bộ tư lệnh Thủ đô là địa bàn
có mật độ tội phạm XPSH cao nhất là 3,0039 bị cáo/1000km2, Quân khu 2 là
địa bàn có mật độ tội phạm XPSH thấp nhất với 0,1702 bị cáo/1000km2.
- Để có cơ sở cho việc đánh giá tình hình tội XPSH ở 8 đơn vị hành
chính do Quân đội quản lý có thể xem [Bảng số 2.7 phần phụ lục]. Tại cột dọc
thứ (3) là ngôi thứ của từng đơn vị hành chính trong Quân đội tương ứng
trong [Bảng số 2.6 phần phụ lục]. Cột dọc thứ (4) là hệ số tiêu cực và được
tính bằng tổng của cột dọc thứ (3). Cột dọc thứ (5) được hình thành trên cơ sở
của hệ số tiêu cực và hệ số này càng nhỏ thì cấp độ nguy hiểm càng cao. Theo
đó, Quân khu 7 có hệ số tiêu cực là 5 nên thuộc cấp độ nguy hiểm thứ 1;
Quân khu 5, Quân khu 1 có hệ số tiêu cực là 7 nên thuộc cấp độ nguy hiểm
thứ 2; Bộ tư lệnh Thủ Đô có hệ số tiêu cực là 8 nên thuộc cấp độ nguy hiểm
thứ 3; Quân khu 9, Quân khu 3 có hệ số tiêu cực là 9 nên thuộc cấp độ nguy
hiểm thứ 4; Quân khu 2 có hệ số tiêu cực là 12 nên thuộc cấp độ nguy hiểm
thứ 5; Quân khu 4 có hệ số tiêu cực là 15 nên thuộc cấp độ nguy hiểm thứ 6.
Như vậy, Quân khu 7 có cấp độ nguy hiểm ở đây là cao nhất và cấp độ nguy
hiểm thấp nhất là Quân khu 4.
35
Từ sự phân tích trêncho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
về XPSH phải được tiến hành chủ yếu và tập trung vào những đơn vị hành
chính do Quân đội quản lý có khả năng xảy ra nhiều nhất là Quân khu 7,
Quân khu 1, Quân khu 5.
2.1.4. Tính chất của tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.6, 2.7 phần phụ lục] cho thấy, tội
phạm XPSH đã xảy ra ở hầu hết các đơn vị hành chính do Quân đội quản lý,
trong đó nhiều nhất là ở địa bàn Quân khu 7, kế tiếp là Quân khu 5, Quân khu
1, Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, rồi đến Quân khu 3, Quân khu 9, thấp nhất là ở
địa bàn Quân khu 4. Loại tội phạm này có xu hướng diễn biến phức tạp, tính
chất nguy hiểm ngày càng gia tăng.
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.1, 2.4, 2.5 phần phụ lục] thấy
rằng: Số vụ án và số bị cáo phạm tội XPSH trung bình chiếm tỷ lệ khá cao
trong tổng số tội phạm nói chung (34,81% số vụ án và 31,84% số bị cáo).
Diễn biến của tình hình tội XPSH luôn theo chiều hướng gia tăng cả về số
lượng vụ án, số người phạm tội và trong nhóm tội phạm XPSH này thì số vụ
án và số bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản luôn chiếm tỷ lệ rất cao nhất (chiếm
78,57% số vụ án và 78,49% số bị cáo).
2.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta hiện nay
2.2.1. Nhân thân người phạm tội theo nhóm xã hội - nhân khẩu
2.2.1.1. Đặc điểm giới tính
Về giới tính, theo số liệu trong [Bảng số 2.8 phần phụ lục] cho thấy,
phần lớn các đối tượng phạm tội XPSH là nam giới, chiếm 684/738 số bị cáo
(tỉ lệ 92,68%), trong đó người ngoài Quân đội chiếm 589/738 số bị cáo (tỉ lệ
79,81%) và người do Quân đội quản lý chiếm 95/738 số bị cáo (tỉ lệ 12,87%).
Tỉ lệ nữ giới phạm tội chiếm tỉ lệ thấp là 54/738 số bị cáo (tỉ lệ 7,32%), trong
36
đó người ngoài Quân đội chiếm 47/738 số bị cáo (tỉ lệ 6,37%) và người do
Quân đội quản lý chiếm 7/738 bị cáo (tỉ lệ 0,95%). Sở dĩ nam giới có tỉ lệ
phạm tội XPSH nhiều hơn nữ giới, bởi nam giới là đối tượng dễ bị tác động
bởi các yếu tố tiêu cực từ môi trường sống xã hội như: Tệ nạn xã hội, rượu
chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm…, nên dễ hình thành những đặc điểm nhân thân
tiêu cực trong nhân cách hơn so với nữ giới. Để thỏa mãn nhu cầu của bản
thân, họ sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội XPSH. Vì vậy, để hoạt động
phòng, chống tội phạm XPSH cần tập trung vào nhóm giới tính là nam giới.
2.2.1.2. Đặc điểm độ tuổi
Về độ tuổi, theo số liệu trong [Bảng số 2.9 phần phụ lục] cho thấy, phần
lớn đối tượng phạm tội XPSH đa số ở độ tuổi đã thành niên, độ tuổi từ 18 đến
30 chiếm tỷ lệ cao nhất là 507/738 số bị cáo (tỷ lệ 68,7%), trong đó người
ngoài Quân đội chiếm 449/738 số bị cáo (tỉ lệ 60,84%) và người do Quân đội
quản lý chiếm 58/738 số bị cáo (tỉ lệ 7,86%); kế đến là độ tuổi từ 31 đến 45
chiếm 150/738 số bị cáo (tỉ lệ 20,32%), trong đó người ngoài Quân đội chiếm
117/738 số bị cáo (tỉ lệ l5,85%) và người do Quân đội quản lý chiếm 33/738
số bị cáo (tỉ lệ 4,47%); thấp nhất là độ tuổi dưới 18 và do người ngoài Quân
đội thực hiện chiếm tỷ lệ là 35/738 số bị cáo (tỉ lệ 4,74%).
Với số liệu như trên, có thể thấy rằng người phạm tội XPSH chủ yếu là
nam giới và nhiều nhất là ở trong độ tuổi từ 18 đến 30, bởi vì đây là giai đoạn
chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý và nhân cách nên rất dễ bị tác động từ
môi trường sống tiêu cực. Khi họ không được gia đình, nhà trường quan tâm
quản lý, giáo dục thì sẽ rất dễ bị lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
Người trong độ tuổi 31 đến 45 là người đang bước vào quá trình xây
dựng, ổn định cuộc sống gia đình, chịu sự ảnh hưởng, chi phối rất lớn từ điều
kiện kinh tế và các mối quan hệ, cư xử trong gia đình. Chính bởi các hoàn
37
cảnh khó khăn về kinh tế, yếu tố tiêu cực trong cuộc sống gia đình đã thúc
đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội và tỉ lệ phạm tội XPSH tương đối cao.
Người có độ tuổi từ 45 tuổi trở lên phạm tội XPSH tương đối ít, vì ở độ
tuổi này thì con người thường đã có nghề nghiệp với mức thu nhập ổn định. Bên
cạnh đó, họ đã đủ chín chắn, biết suy nghĩ, kiểm soát hành vi của mình, do đó
khi gặp khó khăn, họ thường có suy nghĩ tích cực và chọn cách giải quyết
phù hợp, chứ ít khi lựa chọn thực hiện tội phạm XPSH.
Người phạm tội XPSH chiếm tỷ lệ thấp nhất là độ tuổi dưới 18, điều
này phù hợp với lối sống của người Việt Nam. Trong độ tuổi này, các em
sống phụ thuộc vào gia đình và thường được gia đình chăm sóc, chu cấp nên
chưa phải tự kiếm tiền. Chỉ một số ít trường hợp, vì điều kiện hoàn cảnh gia
đình khó khăn phải tự kiếm tiền lo cho bản thân, hay do thiếu sự quan tâm,
chăm sóc, dạy dỗ của gia đình nên mới thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
Do đó, trong nghiên cứu đặc điểm nhân thân phục vụ phòng ngừa tội
phạm XPSH, cần nghiên cứu đưa ra các giải pháp phù hợp với từng nhóm
tuổi nhất định, nhất là những người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi.
2.2.1.3. Đặc điểm trình độ học vấn
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.10 phần phụ lục] cho thấy: Trong
tổng số bị cáo phạm tội XPSH thì bị cáo có trình độ đại học, trên đại học
chiếm 48/738 số bị cáo (tỉ lệ 6,5%), trong đó người ngoài Quân đội chiếm
19/738 số bị cáo (tỉ lệ 2,57%) và người do Quân đội quản lý chiếm 29/738 (tỉ
lệ 3,93%); trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm 94/738 số bị cáo (tỉ lệ 11,38%),
trong đó người ngoài Quân đội chiếm 45/738 số bị cáo (tỉ lệ 6,10%) và người
do Quân đội quản lý chiếm 39/738 số bị cáo (tỉ lệ 5,28%); trình độ trung học
phổ thông chiếm 291/738 số bị cáo (tỉ lệ 39,43%), trong đó người ngoài Quân
đội chiếm 266/738 số bị cáo (tỉ lệ 36,04%) và người do Quân đội quản lý
chiếm 25/738 số bị cáo (tỉ lệ 3,39%); trình độ trung học cơ sở chiếm 270/738
38
số bị cáo (tỉ lệ 36,59%), trong đó người ngoài Quân đội chiếm 261/738 số bị
cáo (tỉ lệ 35,37%) và người do Quân đội quản lý chiếm 9/738 số bị cáo (tỉ lệ
1,22%) và trình độ tiểu học, không biết chữ là do người ngoài Quân đội thực
hiện chiếm 45/738 (tỉ lệ 6,10%). Như vậy, có thấy rằng người phạm tội XPSH
đa phần là người có trình độ học vấn ở mức trung bình, thấp. Từ phân tích nêu
trên, để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm XPSH thì cần phải chú ý quan tâm
đến việc quản lý, giáo dục học sinh nâng cao nhận thức, hiểu được các giá trị
đạo đức xã hội, hiểu biết pháp luật, tránh tình trạng học sinh bỏ học, ăn chơi
sa đọa…, để hạn chế tối đa họ đi vào con đường phạm tội XPSH.
2.2.1.4. Đặc điểm về nơi cư trú, hộ khẩu thường trú
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.13 phần phụ lục] cho thấy, số
lượng bị cáo là người nước ngoài phạm tội chiếm tỉ lệ tương đối thấp, chiếm
7/738 số bị cáo (tỉ lệ 0,95%), còn lại chủ yếu là người Việt Nam. Về nơi cư
trú, có 40/738 số bị cáo (tỉ lệ 4,42%) có nơi cư trú không ổn định và 698/738
số bị cáo (tỉ lệ 94,58%) có nơi cư trú ổn định. Như vậy, qua phân tích trên cho
thấy số người phạm tội XPSH trong Quân đội phần lớn là người Việt Nam, có
nơi cư trú ổn định và họ thực hiện tội phạm tại địa bàn mà họ đang cư trú. Do
đó, trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm XPSH cần quan
tâm áp dụng các biện pháp nhằm ổn định, phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người dân tại địa phương. Đồng thời quản lý chặt
chẽ các đối tượng sưu tra, có biểu hiện sẽ thực hiện tội phạm XPSH tại địa
phương để có những biện pháp phòng ngừa sớm đối với họ.
2.2.1.5. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình
Khi nghiên cứu 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy về quan hệ gia đình:
- Số người phạm tội đã kết hôn là 78/152 bị cáo (tỉ lệ 51,32%), nhưng
trong đó đã có 13/152 bị cáo (tỉ lệ 8,55%) đã ly hôn hoặc sống ly thân, lý do
39
là không quan tâm, chăm sóc đến nhau, gia đình không hạnh phúc, thường
xuyên đánh, chửi nhau; số người phạm tội sinh sống trong gia đình không
hoàn thiện (cha mẹ ly hôn, cha hoặc mẹ mất hoặc cả hai mất, cha hoặc mẹ bỏ
đi, không biết cha mẹ) chiếm 31/152 bị cáo (tỉ lệ 20,40%); số người phạm tội
sống trong gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc và giáo dục là 96/152 bị cáo
(tỉ lệ 63,16%); số người phạm tội có hoàn cảnh kinh tế gia đình thuận lợi
chiếm 35/152 bị cáo (tỉ lệ 23,03%); người phạm tội có hoàn cảnh kinh tế gia
đình không thuận lợi chiếm 117/152 bị cáo (tỉ lệ 76,97%);
Kết quả nghiên cứu trên chỉ ra rằng: Những người sống trong gia đình
thiếu sự quan tâm, chăm sóc đến nhau, gia đình không hạnh phúc, thường
xuyên đánh, chửi nhau; người sinh sống trong gia đình không hoàn thiện và
có hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi sẽ dễ bị tác động bởi yếu tố tiêc cực và
dễ thực hiện hành vi phạm tội XPSH. Do đó, trong công tác phòng ngừa tình
hình tội XPSH cần quan tâm nắm đặc điểm về gia đình của người phạm tội về
cơ cấu và tình hình kinh tế để đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn.
2.2.1.6. Đặc điểm về nghề nghiệp
Theo số liệu thống kê trong [Bảng số 2.11 phần phụ lục] cho thấy, phần
lớn các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định chiếm 482/738 bị cáo (tỉ lệ
65,31%), chủ yếu là làm thuê (bảo vệ, thợ hồ, làm ruộng…) với mức thu nhập
thấp. Kế tiếp là đến số bị cáo có nghề nghiệp ổn định chiếm 140/738 bị cáo (tỉ
lệ 18,97%), trong đó người do Quân đội quản lý chiếm 102/738 bị cáo (tỉ lệ
13,82%), người ngoài Quân đội chiếm 38/738 bị cáo (tỉ lệ 5,15%) và số bị cáo
không nghề nghiệp chiếm 116/738 bị cáo (tỉ lệ 15,72%).
Đi sâu vào nghiên cứu bị cáo là người do Quân đội quản lý qua số liệu
tại [Bảng số 2.12 phần phụ lục] cho thấy, chỉ riêng thành phần lao động hợp
đồng trong doanh nghiệp Quân đội đã chiếm 52/102 bị cáo (tỉ lệ 50,98%),
phần còn lại là Công nhân viên Quốc phòng, Hạ sĩ quan chiến sỹ, QNCN và
40
Sĩ quan các cấp. Điều đó cho thấy rằng, bị cáo là người do Quân đội quản lý
chủ yếu là thành phần lao động hợp đồng.
Đặc điểm về nghề nghiệp của những người phạm tội XPSH trong Quân
đội cho thấy đa số những người phạm tội là không có nghề nghiệp hoặc nghề
nghiệp không ổn định. Xét về số người phạm tội có nghề nghiệp ổn định thì
đa phần là người do Quân đội quản lý thực hiện và chủ yếu là thành phần lao
động hợp đồng. Chính vì vậy, quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề, giải quyết
việc làm tại địa phương, cũng như tăng cường công tác quản lý, giáo dục
người do Quân đội quản lý là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm
hạn chế tình hình tội XPSH.
2.2.2. Nhân thân người phạm tội theo nhóm tâm lý - xã hội
2.2.2.1. Quan điểm, thái độ, nhận thức đối với các giá trị đạo đức xã
hội, pháp luật
Nhìn chung những người phạm tội XPSH là những người có thái độ,
quan điểm sống tiêu cực, không đúng đắn, có quan điểm, nhận thức sai lệch
về các giá trị đạo đức xã hội và pháp luật. Họ thường có tâm lý bi quan, chán
nản, xem trọng vật chất, có nhu cầu, sở thích lệch chuẩn... Khi cần tiền để
thõa mãn các nhu cầu lệch lạc của mình như ăn chơi, tiêu xài, chơi game, sử
dụng ma túy, đánh bài… họ đã thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
2.2.2.2. Đặc điểm về động cơ, mục đích phạm tội và thái độ khai báo
Khi nghiên cứu 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy chỉ có 2/152 bị cáo (chiếm 1,32%) có động
cơ, mục đích là trả thù người có mâu thuẫn với bị cáo từ trước; có 150/152 bị
cáo (chiếm 98,68%) xuất phát từ động cơ, mục đích hám lợi.
Có 148/152 bị cáo (chiếm 97,36%) có thái độ khai báo trung thực, thành
khẩn, sẵn sàng hợp tác với CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án, vì đa số
các bị cáo đều bị bắt quả tang hoặc do mức độ nguy hiểm của tội phạm không
41
cao, cùng với trình độ tư duy chưa cao nên không thể che giấu hành vi phạm
tội của mình và thành khẩn khai báo để mong nhận được sự khoan hồng của
pháp luật. Có 4/152 bị cáo (chiếm 2,64%) có thái độ rất ngoan cố, khai báo
quanh co, chối tội, có thái độ thách thức với CQTHTT, không hợp tác trong
quá trình giải quyết vụ án.
2.2.3. Đặc điểm pháp lý hình sự
2.2.3.1. Đặc điểm về tiền án, tiền sự
Khi nghiên cứu 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Người phạm tội có tiền sự chiếm 10/152 bị
cáo (tỉ lệ 6,58%); người phạm tội có tiền án chiếm 32/152 bị cáo (tỉ lệ
21,05%), trong đó đã được xóa án tích 17/32 bị cáo (tỉ lệ 53,12%), tái phạm
10/32 bị cáo (tỉ lệ 31,25%), tái phạm nguy hiểm 5/32 bị cáo (tỉ lệ 15,62%);
người phạm tội chưa có tiền án, tiền sự chiếm 110/152 bị cáo (tỉ lệ 72,37%).
Điều đáng chú ý, trong số 42 bị cáo có tiền án, tiền sự thì 35/42 bị cáo (tỉ lệ
83,33%) đã từng có tiền án về tội XPSH lại tiếp tục phạm tội và 7/42 bị cáo
(tỉ lệ 16,67%) có tiền án về các loại tội phạm khác sau đó phạm tội XPSH.
2.2.2.2. Đặc điểm về hình thức gây án
Khi nghiên cứu 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Số vụ án phạm tội đơn lẻ chiếm tỷ lệ thấp
hơn (27/100 vụ án chiếm 27%), nhưng số vụ án có đồng phạm lại chiếm tỉ lệ
rất cao 73/100 vụ (chiếm 73%). Tuy nhiên, các đối tượng pham tội trong vụ
án XPSH trong Quân đội thường không có sự câu kết giữa chặt chẽ, khi thực
hiện tội phạm không có sự phân công rõ ràng vai trò, vị trí của từng người mà
tham gia phạm tội với tư cách là người thực hành (đồng phạm đơn giản).
Như vậy, hình thức phạm tội XPSH trong Quân đội đa phần là hình thức
phạm tội có đồng phạm, với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả gây cho
xã hội cao hơn, khó điều tra khám phá hơn, vì các bị cáo có sự chuẩn bị, hỗ
42
trợ và bàn bạc với nhau từ trước về phương thức gây án, cách đối phó với
CQTHTT khi bị phát hiện, bắt giữ… Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản” do
Lưu Đức Vương cùng đồng bọn thực hiện 15 vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên
địa bàn 4 tỉnh Tây Nguyên là Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai và Lâm Đồng có
08 bị cáo. Vụ “Trộm cắp tài sản” do Nguyễn Trí Bảo cùng đồng bọn thực
hiện 11 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng
có 06 bị cáo. Vì vậy, trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm XPSH cần
quan tâm làm tốt công tác quản lý nghiệp vụ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn
các ổ nhóm phạm tội và áp dụng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Như vậy, những người có tư tưởng hám lợi, ăn bám, tham lam, lười lao
động, có nhu cầu, sở thích lệch lạc, tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội
… sẽ dễ thực hiện tội phạm về XPSH. Phần lớn những người phạm tội XPSH
sẽ có thái độ thành khẩn khai báo, có thể ban đầu cũng có thái độ quanh co,
chối tội, nhưng khi được giáo dục, cảm hóa đã nhận thức được lỗi lầm, thay
đổi thái độ khai báo; chỉ có phần rất nhỏ vẫn giữ nguyên thái độ khai báo gian
dối, thách thức với CQTHTT với hy vọng CQTHTT sẽ không thu thập được
chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của mình.
2.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta hiện nay
2.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
2.3.1.1. Môi trường gia đình
Nghiên cứu cơ cấu nhân thân người phạm tội theo đặc điểm về hoàn
cảnh gia đình khi nghiên cứu 100 bản án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong
Quân đội từ năm 2015 đến 2019, cho thấy:
- Số lượng bị cáo sống trong gia đình không có cha, không có mẹ hoặc
không có cả cha và mẹ (gia đình khuyết thiếu) là 31/152 bị cáo, chiếm tỉ lệ
khá cao là 20,40%. Như vậy có thể thấy, gia đình khuyết thiếu có tác động
43
nhất định đến nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội ở nước ta hiện
nay. Tiêu biểu như vụ án “Trộm cắp tài sản” do Thạch Duy Thái thực hiện:
Thạch Duy Thái, sinh năm 1990 mất cha, mẹ từ nhỏ, sống với bà nội. Từ nhỏ
đã bỏ học, đi làm thuê, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên khi phát hiện thấy
các Trạm phát sóng của Viettel không có người trông coi đã thực hiện 5 vụ
trộm cắp bình ác quy trên địa bàn tỉnh Cà Mau để bán lấy tiền tiêu xài cá
nhân. Sau đó, bị cáo Thạch Duy Thái bị phát hiện là người đã thực hiện hành
vi phạm tội. Qua vụ án này cho thấy, do thiếu sự dạy bảo của cha mẹ, lại sống
trong điều kiện kinh tế khó khăn đã làm nảy sinh lòng tham, khát vọng kiếm
tiền bằng mọi giá, coi thường pháp luật ở Thái. Khi có điều kiện thuận lợi sẽ
làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH.
- Hoàn cảnh kinh tế là một trong những yếu tố có tác động rất lớn đối với
việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội. Đa phần người phạm tội XPSH
đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn chiếm 117/152 bị cáo (tỉ lệ 76,97%).
Nhưng cũng có một số bị cáo phạm tội XPSH lại sống trong gia đình có kinh
tế thuận lợi, cụ thể là có 35/152 bị cáo (tỉ lệ 23,03%) là người sống trong gia
đình có kinh tế thuận lợi, nhưng do sự buông lỏng quản lý của đơn vị, hay vì
mục đích là trả thù người có mâu thuẫn với mình…mà các bị cáo này thực
hiện hành vi phạm tội. Do đó, các bị cáo thường thực hiện hành vi phạm tội
với người mình quen biết hoặc tại nơi làm việc. Điển hình như vụ “Hủy hoại
tài sản” do Dương Văn Út thực hiện: Dương Văn Út sông trong một gia đình
khá giả, nhiều anh em là cán bộ công chức tại Sóc Trăng. Ngày 07/6/2016,
Dương Văn Út điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 83S5-2859 hướng từ thành
phố Sóc Trăng về nhà tại ấp Thiệu Tánh, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh
Sóc Trăng, do bức xúc về việc chuyển công tác của mình nên nảy sinh ý định
và thực hiện hành vi cắt 5 đoạn dây cáp viễn thông của Viettel huyện Mỹ Tú
với mục đích ảnh hưởng tới kết quả hoàn thành nhiệm vụ của anh Nguyễn Hải
44
Âu (giám đốc). Có thể thấy rằng, trong vụ án trên, mặc dù không gặp khó
khăn về kinh tế, tuy nhiên do có động cơ đê hèn và thái độ coi thường pháp
luật, Dương Văn Út đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi đó đã xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của đơn vị mà mình công tác.
- Sống trong gia đình không hạnh phúc, thường xuyên mâu thuẫn, đánh
nhau, nên người phạm tội có tâm lý chán nản, kết thân với bạn bè xấu, sử
dụng chất kích thích, ăn chơi rồi phát sinh hành vi tiêu cực là 53/152 bị cáo (tỉ
lệ (34,87%). Đây là một con số không hề nhỏ, phản ánh sự tác động tiêu cực
của môi trường gia đình không hoàn hảo đối với người phạm tội. Tiêu biểu
như vụ án “Cố ý làm hư hỏng tài sản” do Lê Văn Đông thực hiện: Đông là
nhân viên hợp đồng của Viettel Đồng Nai, là người người đã có vợ và có bốn
người con. Nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, nên hai vợ chồng thường
xuyên cãi nhau và ly hôn vào đầu năm 2019. Vào ngày 17/5/2019, sau khi
uống rượu xong trên đường về nhà, Đông qua nhà vợ để thăm con thì xảy cãi
nhau với vợ là Hoàng Thị Minh Thu tại nhà ở xã An Viễn, huyện Trảng Bom,
tỉnh Đồng Nai. Thấy vậy, bố của chị Thu đã tát Đông một cái, đuổi Đông ra
khỏi nhà. Do quá tức giận, nên khi bước ra sân thấy chiếc xe mô tô của gia
đình vợ đang để đó, Đông đã nhặt lấy khúc cây đập nhiều lần vào xe mô tô
trên gây hư hỏng rồi bỏ về nhà. Sau đó, chị Thu đã làm đơn tố cáo Đông về
hành vi hủy hoại tài sản. Qua vụ án trên cho thấy, sống trong gia đình không
hạnh phúc, hoàn cảnh gia đình khó khăn, khi sử dụng rượu bia đã không kiềm
chế được bản thân mà Đông đã hủy hoại tài sản của người khác.
- Có 96/152 bị cáo chiếm tỉ lệ 63,16% là bị cáo sống trong gia đình thiếu
sự quan tâm chăm sóc và giáo dục. Bên cạnh đó, kết quả điểu tra xã hội học,
thông qua số liệu trong [Bảng số 2.14 phần phụ lục] cho thấy: Có đến 16%
người đánh giá trong các gia đình hiện nay, không hài lòng với phương pháp
giáo dục của bố mẹ, 82% chưa hài lòng lắm với phương pháp giáo dục của bố
45
mẹ, cụ thể: có đến 71% người đánh giá trong các gia đình hiện nay, bố mẹ
phải lo làm ăn, không có quan tâm con; có đến 45% người đánh giá trong các
gia đình hiện nay, bố mẹ thường xuyên bênh vực, bao che lỗi cho con và 22%
bố mẹ chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi thôi khi biết con mắc lỗi.
Sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến việc xa cách,
không gắn kết, từ việc thiếu sự quản lý của cha mẹ sẽ làm tăng thêm nguy cơ
tiếp xúc của trẻ với các hành vi lệch chuẩn mực đạo đức xã hội. Không ít trẻ
em trong các gia đình không được cha mẹ quan tâm đã bỏ học, đi lang thang
bụi đời, để cuối cùng rơi vào vòng xoáy của các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp
luật, thậm chí phạm tội XPSH.
2.3.1.2. Môi trường giáo dục
Nhà trường thường có một số hạn chế đó là sự quản lý thiếu chặt chẽ,
việc thực hiện nội quy, kỷ luật còn chưa nghiêm, chưa quan tâm đúng mức tới
giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, có một số thầy cô còn có sự phân biệt, đối xử
giữa các học sinh nhất là những học sinh chưa ngoan, cá biệt, khi học sinh có
sai phạm thường sẽ bị đuổi học hay đình chỉ học. Bên cạnh đó, sự phối hợp
giữa nhà trường với gia đình trong việc giáo dục trẻ thường không đạt hiệu
quả. Khi học sinh có những biểu hiện tiêu cực như thường xuyên trốn học,
học hành sa sút, đánh nhau, đua đòi... thì nhà trường không quan tâm theo dõi,
quản lý để kịp thời phát hiện và uốn nắn hay thông báo kịp thời cho gia đình
để cùng nhau động viên, giáo dục, uốn nắn trẻ ngay từ ban đầu khi có những
biểu hiện trên, những hành vi tiêu cực trên không được giáo dục, uốn nắn kịp
thời sẽ làm phát sinh tâm lý bất cần, chán học, bỏ học, thích tụ tập bạn bè xấu
và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu
tình hình tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019, với số liệu [Bảng
số 2.10 phần phụ lục] cho thấy: Người phạm tội có trình độ học vấn trung học
phổ thông là 291/738 bị cáo, chiếm tỉ lệ 39,43%; Người phạm tội có trình độ
46
học vấn trung học cơ sở là 270/738 bị cáo, chiếm tỉ lệ 36,59%; Người phạm
tội có trình độ học vấn không biết chữ, tiểu học là 45/738 bị cáo, chiếm tỉ lệ
6,10%. Như vậy, có thể thấy tỉ lệ người phạm tội chưa hoàn thành xong
chương trình giáo dục, hoặc trong quá trình học tập bị ảnh hưởng của những
yếu tố tiêu cực trong môi trường giáo dục có nguy cơ cao phạm tội XPSH.
Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản” do Lý Minh Thắng sinh năm 2001 thực
hiện: Thắng sinh ra trong một gia đình hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ ít quan
tâm đến việc học tập của con nên kết quả học tập không cao, thường xuyên bị
thầy cô nhắc nhở, phê bình nên có tư tưởng chán nản, bỏ học đi lang thang.
Vào khoảng 17 giờ ngày 18/06/2017, khi đang chơi game trong tiệm Internet
tại địa chỉ: Thị trấn Đức An, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, Lý Minh
Thắng phát hiện anh Hoàng Minh Đức để quên điện thoại khi ra về, vì muốn
có điện thoại để sử dụng cho bằng bạn bè nên Thắng đã thực hiện hành vi lấy
trộm chiếc điện thoại trên để sử dụng. Khi anh Đức quay lại tiệm Internet để
lấy điện thoại thì không thấy nên đã báo cho công an giải quyết. Qua vụ án
này cho thấy, kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết tình huống của học sinh còn
yếu kém, khi gặp hoàn cảnh khó khăn và thấy tài sản của người khác sơ hở,
Thắng đã lựa chọn cách thức giải quyết vấn đề một cách tiêu cực.
2.3.1.3. Môi trường bạn bè
Trong cuộc sống xã hội, con người không thể sống một mình mà cần
phải thiết lập các mối quan hệ với bạn bè và tất nhiên là phải chịu sự chi phối
của các mối quan hệ trên. Tuy nhiên, bạn bè xấu có ảnh hưởng rất lớn đến
hình thành đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội. Con người sẽ
chịu ảnh hưởng, tác động của các yếu tố tiêu cực khi tiếp xúc với bạn bè xấu,
từ đó làm hình thành những nhu cầu, sở thích lệch lạc như ăn chơi sa đọa,
lười nhát, nghiệm game online, nghiện ma túy, cờ bạc…,thậm chí lôi kéo vào
con đường phạm tội. Qua kết quả nghiên cứu 100 bản án thì có đến 73 vụ án
47
(chiếm 73%) là có đồng phạm, nhưng thuộc đồng phạm giản đơn, những
người phạm tội có mối quan hệ quen biết và rủ nhau cùng thực hiện tội phạm.
Kết quả điểu tra xã hội học, thông qua số liệu trong [Bảng số 2.14 phần
phụ lục] cho thấy, tỉ lệ cha mẹ không quan tâm và không biết cách dạy dỗ,
giáo dục, định hướng cho con cái chơi với bạn bè là rất cao, cụ thể: Có đến
75/100 (chiếm 75%) người đánh giá trong các gia đình hiện nay, bố mẹ không
biết các bạn của con là những ai; có đến 77/100 người (chiếm 77%) người
đánh giá trong các gia đình hiện nay, bố mẹ chửi mắng, ngăn cản và kiểm soát
thời gian của con cái.
Có thể thấy môi trường bạn bè có ảnh hưởng vô cùng lớn trong việc hình
thành các đặc điểm nhân thân xấu, đặc biệt là bạn bè đồng trang lứa. Kết bạn
với bạn bè xấu, trẻ rất dễ bị lây nhiễm những thói hư, tật xấu của bạn bè như
lười học, uống rượu, hút thuốc lá, đua đòi, chơi bời, thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật... hay thậm chí là nghiện ma túy, bỏ học, tụ tập thành các
băng nhóm phạm tội. Điển hình như hai vụ án đã nêu trên trong phần 2.3.1.2.
2.3.1.4. Môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô
Theo thống kê 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Số lượng bị cáo sống trong gia đình có hoàn
cảnh kinh tế không thuận lợi chiếm 117/152 bị can (tỉ lệ 76,97%) và theo số
liệu tại [Bảng số 2.11 phần phụ lục] thể hiện: Bị cáo không có nghề nghiệp
chiếm 116/738 bị cáo (tỉ lệ 15,72%) và nghề nghiệp không ổn định chiếm
482/738 bị cáo (tỉ lệ 65,32%). Chính từ nguyên nhân không có việc làm hoặc
việc làm không ổn định đã ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu nhập và đảm
bảo cho cuộc sống cho mình mà các đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội.
Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản” do Nguyễn Chí Bảo cùng đồng bọn thực
hiện, do không có công việc ổn định, thu nhập thấp không đủ chi tiêu trong
gia đình nên Nguyễn Chí Bảo đã nảy sinh ý định thực hiện hành vi trộm cắp
48
ắc quy tại các trạm thu phát sóng của Viettel trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
và tỉnh Quảng Nam. Sau khi thực hiện thành công 02 vụ trộm cắp tài sản tại
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Chí Bảo đã rủ Trần Hồng Phi,
Lê Tuấn Phúc, Võ Thế Hoàn, Bùi Chí Kiên và em trai của Bảo là Nguyễn Chí
Hiếu tiếp tục thực hiện 09 vụ trộm cắp tài sản tại các trạm thu phát sóng của
Viettel trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Lần cuối cùng
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là vào tối ngày 07/4/2019, rạng sáng ngày
08/4/2019, Nguyễn Chí Bảo cùng với Lê Tuấn Phúc, Võ Thế Hoàn điều khiển
hai xe mô tô, đi đến trạm thu phát sóng ký hiệu GOHAHOAKHUONG_DNG
của VNPT Đà Nẵng đặt tại thôn Gò Hà, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng, tại đây Bảo sử dụng kìm cắt dây điện nối giữa các bình
để tháo, lấy 03 bình ắc quy ở phía bên ngoài đem ra ngoài để lên hai xe mô tô,
sau đó điều khiển xe mô tô đi về hướng ra quốc lộ 14, khi đi đến cổng chào
UBND huyện Hòa Vang thì bị phát hiện. Để thỏa mãn nhu cầu vật chất Bảo,
Phi, Phúc, Hoàn, Kiên, Hiếu đã coi thường pháp luật, cố ý chiếm đoạt tài sản
của người khác, coi trộm cắp như là một nguồn sống của bản thân.
Nghiên cứu cơ cấu về hộ khẩu thường trú, nơi cư trú, số liệu tại [Bảng số
2.13 phần phụ lục] cho thấy: Có đến 698/738 bị cáo (tỉ lệ 94,58%) là người có
nơi cư trú ổn định và thường thực hiện hành vi phạm tội tại địa bàn nơi họ cư
trú. Do quá trình tập trung phát triển kinh tế Quốc phòng nhằm hiện đại hóa
Quân đội, các doanh nghiệp trong Quân đội đã chủ động xây dựng cơ sở vật
chất không chỉ trong khu vực quân sự mà còn xây dựng, phát triển nhiều cơ
sở vật chất bên ngoài khu vực quân sự, có những địa điểm ở các khu vực miền
núi, hoang vu, hẻo lành, ít người, trong khi đó lực lượng thực hiện nhiệm vụ
quản lý, trông coi tài sản chưa đáp ứng yêu cầu, có đơn vị còn buông lỏng đây
là nguyên nhân, điều kiện thuận lợi để tội phạm phát triển, đặc biệt là các tội
phạm thuộc nhóm tội phạm XPSH. Điển hình trong vụ án “Trộm cắp tài sản”
49
do Trần Thanh Phi, Võ Văn Đức và Lâm Tuấn Kha thực hiện: Cả ba là bạn bè
và đều có hộ khẩu thường trú ở phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang. Do không có nghề nghiệp ổn định, không có tiền tiêu xài cá nhân
nên vào khoảng 23 giờ 00 ngày 29/6/2017, Thanh Phi cùng với Võ Văn Đức
và Lâm Tuấn Kha điều khiển ba xe mô tô đến trạm thu sóng Viettel, địa chỉ:
khu phố 5, phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, khi đến
nơi Trần Thanh Phi dùng thanh sắt để nạy bung khoen ổ khóa ra, mở cửa vào
trong và dùng cờ lê 10 tháo và lấy 05 bình ắc quy mang ra ngoài cửa trạm, sau
đó để lên gác baga phía trước của 03 xe mô tô. Trên đường chở 05 bình ắc
quy trên về nhà cất thì bị phát hiện. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cùng với
các đặc điểm nhân thân xấu như lười lao động, hám lợi, muốn kiếm tiền một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc trông coi quản lý tài sản bị buông lỏng
đã thúc đẩy Phi, Đức và Kha thực hiên hành vi chiếm đoạt tài sản.
2.3.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội
2.3.2.1. Sai lệch về sở thích
Theo thống kê 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy có 130/152 bị cáo (tỉ lệ 85,53%) từ những sở
thích lệch lạc như chơi với bạn bè xấu, ăn chơi, uống rượu, nghiện ma túy,
nghiện games, cờ bạc đã dẫn đến việc các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội
XPSH. Điển hình như vụ án “Trộm cắp tài sản” do Võ Thành Trí cùng với
Trần Quốc Dân, Lê Quốc Bảo, Châu Trần Thanh Tuấn và Lê Long Kiếm thực
hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Trong vụ án trên cả 5 bị
cáo đều có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất kích thích (ma túy), đều
là đối tượng nghiện Game bắn cá (hình thức đánh bạc). Để có tiền mua ma
túy sử dụng và thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên Trí rủ Dân, Bảo, Tuấn, Kiếm
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Cụ thể: Vào khoảng 21 giờ ngày
01/10/2018, Trần Quốc Dân và Võ Thành Trí chơi Game bắn cá tại hẻm Bình
50
Hưng, phường 5, thành phố Bến Tre, do thua hết tiền nên Trí rủ Dân đi trộm
cắp tài sản. Dân đồng ý rủ thêm Bảo, Tuấn, Kiếm cùng đi. Đến khoảng hơn
01 giờ ngày 02/10/2018, Trí, Dân, Bảo, Tuấn, Kiếm đi đến trước Bưu cục
Viettel Nguyễn Đình Chiểu, địa chỉ: số 24, khu phố 2, phường 1, thành phố
Bến Tre, tỉnh Bến Tre thấy cửa khóa ngoài, biết không có người trông coi,
Dân cầm theo cây tuýp sắt cạy bung hai ổ khóa cửa bên ngoài, để đi vào bên
trong Bưu cục. Khi vào trong Bưu cục, Trí và Dân đã lấy nhiều bưu phẩm có
giá trị và một két sắt đem ra ngoài. Sau đó, Trí, Dân, Bảo, Tuấn và Kiếm cùng
nhau đem các tài sản cho lên xe mô tô tẩu thoát. Sáng hôm sau thì nhân viên
bưu cục phát hiện sự việc và báo cho công an thành phố Bến Tre giải quyết.
Qua vụ án trên cho thấy, những sở thích lệnh lạc, sai trái có thể khiến con
người có những lựa chọn cách thức xử sự không đúng đắn, thậm chí là có
hành vi vi phạm pháp luật để thỏa mãn những sở thích đó. Để có tiền mua ma
túy hoặc để thỏa mãn sở thích của mình mà các bị cáo Trí, Dân, Bảo, Tuấn,
Kiếm đã bất chấp pháp luật, liều lĩnh chiếm đoạt tài sản của người khác.
2.3.2.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu
Theo thống kê 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Có đến 150/152 bị cáo (chiếm 98,68%) thực
hiện hành vi phạm tội XPSH là để thỏa mãn nhu cầu vật chất và chỉ có 2/152
bị cáo (chiếm 1,32%) phạm tội là để trả thù. Do tác động của nền kinh tế thị
trường, một số người có tư tưởng thực dụng, coi thường giá trị văn hóa, coi
trọng vật chất, hưởng thụ, sống buông thả... Một số đối tượng đã lựa chọn
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để thỏa mãn nhu cầu vật chất lệch lạc của
bản thân. Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản” do Trần văn Hoàng thực hiện.
Trần Văn Hoàng, sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, học đến lớp 6
thì nghỉ học. Tuy điều kiện gia đình gặp nhiều khó khăn, nhưng Hoàng lại
ham chơi, lười lao động, thích đua đòi theo bạn bè để thỏa mãn nhu cầu cá
51
nhân Hoàng thường xuyên yêu cầu gia đình cung cấp tiền cho mình, khi gia
đình không đưa tiền thì Hoàng lấy trộm các đồ dùng trong nhà để bán lấy tiền
tiêu xài. Để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài ngày càng lớn của mình, Hoàng đã nảy
sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài, Hoàng đã thực hiện thành
công 05 vụ trộm cắp tài sản tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Lần
cuối cùng trước khi bị phát hiện bắt giữ là khi trộm cắp máy phát điện tại trạm
thu phát sóng VLG097 đặt tại địa chỉ 2/1, đường 8/3, khóm 4, phường 5,
thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Cụ thể như sau: Vào khoảng 02 giờ
ngày 14/9/2015, Trần Văn Hoàng rủ Trần Tấn Đức cùng nhau đi trộm cắp tài
sản. Hoàng và Đức điều khiển xe mô tô BKS 64H8-1020 đi về hướng phường
5, thành phố Vĩnh Long thì phát hiện trạm thu phát sóng VLG097 đặt tại địa
chỉ 2/1, đường 8/3, khóm 4, phường 5, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Sau đó, Đức sử dùng cây sắt để nạy bung khoen khóa cửa, vào bên trong
Hoàng, Đức cùng nhau khiêng máy phát điện ra khỏi trạm. Trên đường chở
máy phát điện đi tiêu thụ thì bị phát hiện, bắt giữ. Vụ án cho thấy, do có lối
sống thực dụng, coi trọng vật chất, Hoàng, Đức đã bất chấp tất cả, chiếm đoạt
tài sản của gia đình, người khác để phục vụ bản thân nhằm tiêu xài cá nhân.
2.3.2.3. Trí tuệ, khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi
Số liệu trong [Bảng số 2.10 phần phụ lục] nêu trên đã phản ánh một thực
trạng rằng phần lớn các đối tượng phạm tội XPSH có trình độ học vấn trung
bình, thấp trở xuống tổng cộng chiếm 606/739 bị cáo (tỉ lệ 82,12%), trong đó
bậc trung học phổ thông chiếm 291/738 bị cáo (tỉ lệ 39,43%), bậc trung học
cơ sở chiếm 270/738 bị cáo (tỉ lệ 36,59%), bậc tiểu học hoặc không biết chữ
chiếm 45/738 bị cáo (tỉ lệ 6,10%), vì ở họ khả năng nhận biết và xử lý tình
huống xảy ra rất hạn chế, cộng thêm sự lười biếng, hám lợi, lười lao động
nhưng lại muốn có tiền để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản thân
mà các đối tượng đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.
52
Điển hình như vụ án “Trộm cắp tài sản” do Trịnh văn Chung thực hiện,
Chung nghỉ học từ lớp 3 và không có nghề nghiệp ổn định. Đầu năm 2018,
thấy bạn bè có điện thoại đời mới nên Chung cũng muốn có, nhưng bản thân
lại không có tiền nên nảy sinh ý định đến cửa hàng trưng bày điện thoại để
trộm cắp. Đến ngày 13/03/2018, Chung đến Cửa hàng Viettel ở xã Đăk
Ruồng, huyện Kon Rẫy, Kon Tum lợi dụng sơ hở của nhân viên cửa hàng,
Chung đã lấy trộm chiếc điện thoại Samsung Galaxy đang để ở bàn trưng bày,
trị giá 6.530.000 đồng (sáu triệu năm trăm ba mươi ngàn đồng). Sự việc sau
đó bị phát hiện, Chung bị bắt. Qua vụ án cho thấy, do có trình độ học vấn thấp
việc xử lý tình huống còn hạn chế, khi gặp điều kiện thuận lợi Chung đã lựa
chọn cách thức đó là chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu
của mình.
Số liệu trong [Bảng số 2.10 phần phụ lục] cũng chỉ ra rằng có 132/738 bị
cáo (tỉ lệ 17,88%) có trình độ trên trung học phổ thông, trong đó có người
đang học trung cấp, cao đẳng là 84/738 bị cáo (tỉ lệ 11,38%); đại học, trên đại
học là 48/738 bị cáo (tỉ lệ 6,50%) họ là những người có khả năng hiểu biết,
phán đoán, suy nghĩ tốt hơn nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội vì họ tin
rằng hành vi phạm tội của mình không bị phát hiện, điển hình như vụ “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” do Nguyễn Anh Tú thực hiện: Nguyễn Anh Tú, sinh
ra trong gia đình khá giả, được cho ăn học đầy đủ, sau khi tốt nghiệp đại học
được tuyển dụng vào Bưu chính bưu cục Bến Nghé, Chi nhánh bưu chính
Viettel Quận 1 và được phân công nhiệm vụ giao nhận hàng hóa trên tuyến
đường Tôn Đức Thắng và Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh. Do có trình độ nhận thức nên trong quá trình côn tác, Tú
đã nắm được quy trình giao nhận và chuyển phát hàng hóa của bưu chính
Viettel, thấy có nhiều sơ hở, có thể chiếm đoạt được tài sản mà không bị phát
hiện. Vì muốn có một chiếc điện thoại Iphone X đời mới nhất để sử dụng nên
53
Nguyễn Anh Tú nảy sinh ý định tìm cửa hàng bán điện thoại Iphone X trên
mạng để đặt mua một chiếc Iphone X, yêu cầu bên bán hàng phải gởi chuyển
phát nhanh bằng hình thức COD (giao hàng thu tiền) của bưu chính Viettel
với tên khách hàng và địa chỉ giao do Tú tự nghĩ ra và nằm trên tuyến phân
công phát của Tú. Khi bill hàng được chuyển đến bưu cục Bến Nghé, Tú sẽ
được phân công phát theo tuyến, sau khi nhận được bill hàng Tú sẽ đánh tráo
chiếc điện thoại Iphone X trong đó bằng chiếc điện khác để chiếm đoạt. Với
phương thức, thủ đoạn như vậy, vào ngày 10/01/2018 Tú đã liên hệ với cửa
hàng của anh Đỗ Xuân Đạt đặt mua một chiếc điện thoại Iphone X với giá
25.200.000 đồng, thống nhất giao hàng thông qua dịch vụ chuyển phát hàng
COD của Viettel, tên khách hàng mua là Nguyễn Đại Dương, địa chỉ giao là
lầu 34, 9-11 Tôn Đức Thắng, Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Khi bill hàng được chuyển đến bưu cục Bến Nghé và được phân công phát
cho Tú, biết đây là hàng do anh Đạt gửi nên lợi dụng quá trình đem hàng đi
phát thì Tú đã dùng dao dọc giấy cắt vỏ bọc bên ngoài mở hộp ra đánh tráo
chiếc điện thoại Iphone X còn mới nguyên hộp trong đó bằng hộp và chiếc
điện Samsung Note 8 cũ, sau đó dán bọc lại bill hàng như cũ. Để che dấu
hành vi phạm tội của bản thân nên sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại
Iphone X trên, Tú đem bill hàng đã bị đánh tráo về thông báo cho bưu cục
Bến Nghé là khách hàng từ chối nhận hàng. Quá trình kiểm tra lại bill hàng
phát hiện chiếc Iphone X đã bị đánh tráo bằng chiếc điện thoại Samsung Note
8 cũ nên đã khiếu nại với Tổng công ty cổ phần bưu chính Viettel về sự việc
trên. Qua quá trình điều tra sự việc trên mới được làm rõ. Từ vụ án cho thấy,
do có trình độ học vấn cao nên trong quá trình làm việc Tú phát hiện những
sơ hở trong quá trình quản lý của Tổng công ty, đã nảy sinh lòng tham và tin
vào khả năng che dấu tội phạm nên Tú đã thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
54
Theo số liệu trong [Bảng số 2.9 phần phụ lục]: Phần lớn các đối tượng
phạm tội XPSH đa số ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, kế tiếp là người ở độ tuổi từ
31 đến 45. Người trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi những người đang dần hoàn
thiện về mặt tâm - sinh lý và bắt đầu bước vào giai đoạn định hướng nghề
nghiệp, tạo lập gia đình, cuộc sống. Do vừa bước vào cuộc sống tự lập, còn
thiếu kinh nghiệm nên rất dễ bị môi trường xã hội tác động. Người từ 30 tuổi
trở lên là những người đã có suy nghĩ chín chắn, hành động cẩn trọng, có
nghề nghiệp, điều kiện kinh tế cũng như gia đình ổn định, đã trải qua các thử
thách, có kinh nghiệm trong cuộc sống nên ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu
cực hơn so với nhóm lứa tuổi khác. Độ tuổi dưới 18 tuổi là lứa tuổi chưa phát
triển đầy đủ về mặt tâm - sinh lý, khả năng phân tích và đánh giá còn hạn chế
nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố xấu từ môi trường xã hội. Tuy
nhiên, tại [Bảng số 2.9 phần phụ lục] người phạm tội XPSH có độ tuổi dưới
18 chỉ là 35/738 bị cáo, chiếm tỷ lệ thấp nhất 4,74%, điều này cũng phù hợp
với lối sống của nước ta, con chưa thành niên hầu hết đều sống cùng cha, mẹ
và được chăm sóc, nuôi dưỡng nên không phải nghĩ tới việc phải tự kiếm tiền
nên khả năng thực hiện các tội phạm XPSH để đáp ứng nhu cầu của bản thân
sẽ thấp. Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản” xảy ra tại xã Tân Lập, Hàm
Thuận Nam, Bình Thuận, với hành vi phạm tội như sau: Vũ Văn Đồng, sinh
ngày 23/11/1999, từ nhỏ đã bỏ học ở nhà đi làm thuê phụ giúp gia đình. Khi
quen biết với Thái Bá Thành, thấy hành có nhiều tiền tiêu xài nên cũng muốn
có tiền tiêu xài, khi Thành đi trộm cắp tài sản thì Đồng đã đồng ý. Vào ngày
06/12/2016, Thành rủ Đồng đi lấy trộm máy phát điện tại trạm BTS BTN 163
thuộc xã Tân Lập, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận. Đến khoảng 01 giờ ngày
07/12/2016, Thành, Đồng điều khiển xe mô tô để đến trạm BTS BTN 163.
Khi đến nơi Thành dùng kìm cắt ổ khóa và mở cửa đi vào bên trong trạm tháo
dây điện và đẩy máy phát điện ra khỏi phòng và chở đến tiệm phế liệu của Võ
55
Ngọc Tuyến bán được 8.000.000 đồng (tám triệu đồng), thì chia nhau tiêu xài
cá nhân hết. Qua vụ án cho thấy, còn nhỏ, chưa có nhiều kiến thức, kinh
nghiệm trong cuộc sống, nhất là về mặt pháp luật nên khả năng tự bảo vệ
mình của Đồng còn nhiều hạn chế, khi thấy bạn bè có tiền tiêu xài thoải mái
nên khi được bạn bè xấu rủ rê Đồng đã thực hiện hành vi phạm tội để chiếm
đoạt tài sản của người khác.
Theo số liệu trong [Bảng số 2.8 phần phụ lục], có đến 684/738 bị cáo
(chiếm 92,68%) là nam và chỉ có 54/738 bị cáo (chiếm 7,32%) là nữ. Nam
giới có xu hướng giao tiếp xã hội nhiều hơn nữ giới, cũng là thành phần dễ bị
tác động bởi những yếu tố tiêu cực của môi trường sống, nên khả năng phạm
tội sẽ cao hơn. Ngoài ra, thể chất con người cũng đặc điểm đặc trưng của một
số tội XPSH như muốn thực hiện hành vi cưỡng đoạt, chiếm đoạt thì yếu tố
đầu tiên là phải có sức khỏe. Người có thể chất, to cao, khỏe mạnh thì sẽ dễ
thực hiện các hành vi trên, đây là nguyên nhân làm cho số lượng nam giới
phạm tội XPSH nhiều hơn nữ giới. Tuy nhiên, thời gian gần đây các loại tội
XPSH do bị cáo là nữ giới thực hiện có xu hướng gia tăng, ngày càng đa
dạng, phức tạp hơn, như sau: Năm 2015 chỉ có 3/54 bị cáo (chiếm 5,56%);
năm 2016 có 6/54 bị cáo (chiếm 11,12%); năm 2017 có 12/54 bị cáo (chiếm
22,24%); năm 2018 có 12/54 bị cáo (chiếm 22,24%); năm 2019 có 21/54 bị
cáo (chiếm 38,84%). Điển hình như vụ “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” do Nguyễn Thị Kiều Khanh thực hiện: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày
27/04/2018, Nguyễn Thị Kiều Khanh, sinh ngày 29/10/1994 là nhân viên
chăm sóc khách hàng kiêm thủ quỹ làm việc tại Bưu cục Năm Căn thuộc Tổng
công ty cổ phần Bưu chính Viettel, địa chỉ: khóm 8, thị trấn Năm Căn, huyện
Năm Căn, tỉnh Cà Mau tiến hành thu tiền do 06 (sáu) nhân viên bán hàng trong
đó có chị Nguyễn Thị Thơ nộp về trong ngày 27/04/2018 với tổng số tiền là
89.596.000 đồng (tám mươi chín triệu năm trăm chín mươi sáu ngàn đồng),
56
Khanh phân chia và để riêng số tiền của từng người nộp ra. Do muốn có tiền
tiêu xài, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền 34.950.000 đồng (ba mươi tư
triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng) mà chị Nguyễn Thị Thơ đã nộp về. Khi
hết giờ làm việc Khanh lấy số tiền 34.950.000 đồng (ba mươi tư triệu chín
trăm năm mươi ngàn đồng) cho vào túi xách cá nhân, mang về nhà cất giấu,
số tiền còn lại thu được từ các nhân viên khác thì Khanh cất vào két sắt của
Bưu cục Năm Căn. Vào sáng ngày 28/4/2018, khi Khanh đến Bưu cục Năm
Căn để làm việc thì thông báo cho Tạ Vũ Lâm trưởng Bưu cục Viettel Năm
Căn là số tiền 34.950.000 đồng (ba mươi tư triệu chín trăm năm mươi ngàn
đồng) để trong két sắt của Bưu cục đã bị trộm mất để che dấu hành vi phạm
tội của bản thân. Qua vụ án cho thấy, khác với các đối tượng là nam giới
thường sử dụng vũ lực khi thực hiện hành vi phạm tội, thì Khanh đã có hành
vi gian dối để chiếm đoạt tài sản.
2.3.2.4. Những hạn chế về ý thức pháp luật
Theo thống kê 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Các bị cáo không hiểu biết hoặc hiểu biết rất
ít về pháp luật chiếm tỉ lệ thấp, cụ thể là 12/152 bị cáo (tỉ lệ 7,89%), chủ yếu
của nhóm tội phạm này là các bị cáo có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật, có
xu hướng chống đối pháp luật, một số ít người tin vào khả năng che dấu tội
phạm của bản thân.
Điều này đã được thể hiện ở số liệu của cơ cấu về tiền án, tiền sự. Số
người phạm tội XPSH có tiền án, tiền sự tương đối cao là 42/152 bị cáo
(chiếm 27,63%). Một số trường hợp bị cáo có rất nhiều tiền án về tội XPSH.
Điển hình như: Bị cáo Nguyễn Tuấn Nguyên, có 01 (một) tiền án về Tội cướp
tài sản, 03 (ba) tiền án về Tội trộm cắp tài sản và 01 (một) tiền án về Tội hủy
hoại tài sản. Tuy nhiên, sau khi ra tù về địa phương sinh sống Nguyên vẫn
không chí thú làm ăn mà lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản. Vào đêm ngày
57
04/7/2016, sau khi qua Cambuchia đánh bài bị thua hết tiền, Nguyễn Tuấn
Nguyên điều khiển xe mô tô BKS 71S8 - 2046 đi về huyện Bến Cầu, Tây
Ninh. Khi đang đi trên quốc lộ 22 ngang qua trạm thu phát sóng BTS HCM
1650 thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khi vào đến trạm Nguyễn Tuấn
Nguyên đã dùng thanh sắt dài khoảng 40 cm cạy, phá khóa cửa nhà trạm để
vào bên trong, sau đó sử dùng cờ lê 13 để tháo, lấy được 04 (bốn) bình ác quy
hiệu Shoto, 12V - 100A đem ra để phía ngoài cửa nhà trạm. Sự việc trên bị
anh Huỳnh Phong Phú phát hiện, cùng người dân truy bắt nhưng Nguyễn
Tuấn Nguyên chống trả quyết liệt, lợi dụng sơ hở của những người bắt giữ để
bỏ chạy. Quá trình làm việc với cơ quan chức năng, Nguyễn Tuấn Nguyên
không thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân. Từ vụ án trên cho thấy, tuy
đã được giáo dục nhiều lần nhưng do trong bản thân Nguyên đã hình thành ý
thức coi thường, chống đối pháp luật, nên vẫn thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản thân.
Việc giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho người đang chấp hành án tại
các Trại tạm giam Quân đội là rất quan trọng, nếu không làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục thì người này sẽ dễ tái phạm tội. Hạn chế việc tái phạm
tội này, thì phải làm tốt công tác giáo dục nân cao ý thức chấp hành pháp luật
và cũng cần tạo điều kiện cho các đối tượng đã từng phạm tội có việc làm ổn
định sau khi tái hòa nhập cộng
Tóm lại, phân tích những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân
người phạm tội XPSH trong Quân đội giai đoạn 2015 -2019 cho thấy việc hạn
chế, loại trừ các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống, yếu tố tiêu cực bên
trong người phạm tội có thể hạn chế tình hình tội phạm XPSH. Đây là cách
phòng ngừa tội XPSH đạt hiệu quả cao, từ đó góp phần làm giảm đáng kể số
lượng tội phạm xảy ra trong xã hội, đảm bảo tốt nhất ANCT và TTATXH.
58
Kết luận Chương 2
Chương 2 của luận văn đã tập trung phân tích làm rõ khái quát tình hình
tội xâm phạm sở hữu, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm
sở hữu và những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu trong Quân đội giai đoạn 2015 -2019. Đó là những yếu tố
tiêu cực thuộc về môi trường kinh tế xã hội, môi trường gia đình, nhà trường,
bạn bè và sự sai lệch về sở thích, nhu cầu …, đã tác động một cách trực tiếp
đến sự hình thành nhân cách, nhân thân người phạm tội.
Những nội dung được trình bày trong Chương 2 sẽ là cơ sở để tác giả đi
sâu vào nghiên cứu, đưa ra những dự báo và đề xuất những giải pháp phòng
ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội thiết thực từ khía cạnh
nhân thân người phạm tội trong thời gian tới.
59
Chương 3:
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRONG QUÂN ĐỘI Ở NƯỚC TA TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN
NGƯỜI PHẠM TỘI
3.1. Dự báo tình hình tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm nhân thân
người phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta
3.1.1. Cơ sở dự báo
Dự báo là những phán đoán khoa học về trạng thái của một khách thể xã
hội nào đó trong tương lai. Dự báo tình hình tội phạm XPSH là một bộ phận
của dự báo xã hội, vì tội phạm là một hiện tượng xã hội. Dự báo tình hình tội
phạm XPSH là sự phán đoán về thực trạng, diễn biến, tính chất của tình hình
tội phạm có thể xảy ra trong tương lai, về nguyên nhân và điều kiện, về các
khả năng phòng, chống nó trong từng giai đoạn nhất định và việc đánh giá về
chất và lượng của những thay đổi trong tình hình tội phạm, các nguyên nhân
và điều kiện của nó.
Những căn cứ để đưa ra các dự báo về tình hình tội XPSH trong Quân
đội ở nước ta trong thời gian tới:
Trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực vẫn còn rất nhiều biến động,
xuất hiện nhiều mâu thuẫn, tranh chấp và tiềm ẩn nguy cơ xung đột gây ảnh
hưởng trực tiếp đến nền quốc phòng an ninh, chủ quyền của nhiều quốc gia,
trong đó có nước ta, cho nên việc chú trọng xây dựng, phát triển Quân đội
chính quy hiện đại về mọi mặt vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu, trong đó lấy phát
triển KTQP làm căn bản. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu tội phạm học đã chỉ
ra rằng, cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội thì cũng làm cho
tình hình tội phạm gia tăng. Do đó, việc xây dựng, phát triển KTQP về mọi
mặt, cùng với quá trình hội nhập của nền KTTT sẽ làm phát sinh nhiều điều
60
kiện thuận lợi cho tội phạm hình thành và phát triển trong Quân đội, trong đó
có tội phạm XPSH.
Cùng với sự phát triển của KTQP là quá trình xây dựng cơ sở vật chất,
kỹ thuật. Các cơ sở vật chất này có thể được xây dựng nằm ngoài khu vực
đóng quân canh phòng nên việc thực hiện công tác bảo quản, trông coi sẽ gặp
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về ANCT và
TTATXH còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: Lực lượng chức năng
thực hiện công tác quản lý nhà nước còn mỏng; công tác quản lý, tuyên truyền
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật tại địa phương chưa được chú
trọng; việc đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác quản lý nhà nước còn
thiếu, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới... Đây cũng là
điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm.
Các chủ trương, chính sách về kinh tế và pháp luật ở nước ta còn rất
nhiều hạn chế, sơ hở mà các đối tượng dựa vào đó để thực hiện hành vi phạm
tội, đặc biệt là về các tội XPSH. Quân đội cũng không nằm ngoài thực tế đó,
bởi KTQP cũng thực hiện và chịu sự chi phối của các chủ trương, chính sách
về kinh tế và pháp luật ở nước ta, nhưng trong Quân đội khi làm kinh tế sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn khi trình độ, năng lực, điều hành, quản lý còn hạn
chế; công tác quản lý, trông coi bảo quản cơ sở vật chất mới được xây dựng sẽ
gặp nhiều rất nhiều khó khăn, nhất là đối với các cơ sở vật chất, kỹ thuật nằm
ngoài khu vực đóng quân canh phòng.
Việc giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ ngày càng được
mở rộng. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, việc giao lưu, trao đổi, tuyên truyền
văn hóa diễn ra vô cùng nhanh, có thể diễn ra ở khắp mọi nơi, trong mọi điều
kiện, hoàn cảnh…, nên rất khó kiểm soát, nhất là đối với những thông tin tiêu
cực. Bên cạnh đó, việc tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa
nước ngoài; các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện rượu, nghiện ma tuý…) đang có
61
chiều hướng gia tăng; hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức, ý thức pháp
luật, kỹ năng sống trong gia đình, nhà trường, đơn vị và xã hội chưa cao…, từ
đó hình thành những quan điểm tiêu cực, lệch lạc trong cuộc sống, dễ thúc
đẩy con người thực hiện hành vi phạm tội XPSH.
Công tác phòng ngừa nghiệp vụ, công tác điều tra khám phá các loại tội
phạm XPSH của cơ quan chức năng còn nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp
đồng bộ, hiệu quả giữa các lực lượng phòng chống tội phạm XPSH trong và
ngoài Quân đội. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân còn chưa
tích cực, nên hiệu quả của công tác phòng, chống tình hình tội XPSH trong
Quân đội còn nhiều hạn chế.
3.1.2. Nội dung dự báo
- Dự báo về diễn biến tình hình tội XPSH trong Quân đội thời gian tới:
Trong thời gian tới, tình hình tội phạm trong Quân đội đang có nhiều
diễn biến phức tạp, đặc biệt là các tội phạm XPSH. Nhóm tội phạm XPSH sẽ
vẫn có xu hướng tăng về số vụ và số người phạm tội, trong đó tội phạm trộm
cắp tài sản vẫn sẽ chiếm một tỉ lệ rất lớn; tính chất, mức độ và hậu quả do
hành vi phạm tội XPSH sẽ ngày càng nghiêm trọng. Các đối tượng không
còn thực hiện hành vi phạm tội XPSH đơn lẻ, mà sẽ có sự cấu kết, bàn bạc
thống nhất với nhau để cùng thực hiện tội phạm, trong các vụ án này thường
sẽ có đối tượng đã có tiền án, tiền sự về tội phạm XPSH cùng thực hiện với
động cơ, mục đích chủ yếu là vụ lợi. Phương thức, thủ đoạn thực hiện tội
phạm không còn đơn thuần là lợi dụng sơ hở trong khâu quản lý, trông coi
tài sản mà sẽ đa dạng, tinh vi và phức tạp hơn, nên gây ra thiệt hại không hề
nhỏ và làm ảnh hưởng lớn tới uy tín của Quân đội.
Các loại tội phạm XPSH sẽ xảy ra nhiều ở địa bàn đang tồn tại nhiều
điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh tội phạm như là địa bàn có nền kinh tế
phát triển, có nhiều điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh như Quân khu 7,
62
hoặc địa bàn vùng núi hoang vu, xa vùng dân cư sinh sống, gặp nhiều khó
khăn trong công tác quản lý, trông coi tài sản như Quân khu 5, Quân khu 1.
- Dự báo về đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội:
Trong thời gian tới, phần lớn các đối tượng phạm tội XPSH sẽ có các
đặc điểm nhân thân như sau: Phần lớn người phạm tội vẫn là người ngoài
Quân đội, nếu là người do Quân đội quản lý thì chủ yếu là thành phần lao
động hợp đồng (doanh nghiệp Quân đội); về độ tuổi thì vẫn là người có độ
tuổi đã thành niên, đặc biệt là từ 18 đến 30 tuổi; giới tính nam; có trình độ học
vấn trung bình, thấp và chủ yếu là bậc trung học; người phạm tội thường là
ngươi cư trú ổn định và thực hiện hành vi phạm tội XPSH tại nơi mình cư trú;
là người không có nghề nghiệp ổn định hoặc không có nghề nghiệp; sống
trong gia đình khuyết thiếu, thiếu sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hay có
hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi; động cơ, mục đích phạm tội là thỏa mãn
nhu cầu vật chất, ăn chơi đua đòi (đánh bạc, nghiện ma túy, nghiện game, sử
dụng chất có nồng độ cồn…), vụ lợi.
Những dự báo trên đây về xu hướng diễn biến tình hình và đặc điểm
nhân thân người phạm tội XPSH chỉ mang tính khái quát, hoạt động và diễn
biến cụ thể còn phụ thuộc vào hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm của
các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân đội và toàn thể nhân dân. Cũng như
quá trình hoàn thiện hệ thống điều hành, công tác quản lý, trông coi, bảo quản
tài sản tại doanh nghiệp Quân đội sẽ tác động trực tiếp làm tăng hoặc giảm
tình trạng tội phạm XPSH trong Quân đội.
3.2. Các giải pháp phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội
ở nước ta từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm phải được thực hiện một cách đồng
loạt, nhiều biện pháp, nhiều nguồn lực, của toàn bộ hệ thống cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và của toàn dân. Tuy nhiên mỗi một loại tội phạm đều
63
có đặc điểm, phương thức, thủ đoạn hoạt động riêng nên muốn phòng, chống
có hiệu quả với loại tội XPSH cần phải tiến hành những giải pháp cơ bản sau:
3.2.1. Tăng cường nhận thức về khía cạnh nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu phục vụ phòng ngừa tội này trong Quân đội
Từ thực tiễn hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm XPSH trong
Quân đội cho thấy, các CQTHTT trong Quân đội hiện nay đã nhận thức sâu
sắc và đánh giá đúng về tầm quan trọng của việc nghiên cứu, nắm rõ và vận
dụng những đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH. Bởi vì, việc nghiên
cứu, vận dụng những đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH không chỉ có
vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
XPSH mà còn có đóng vai trò quyết định đến việc định khung, định tội trong
hoạt động xét xử. Vì vậy, các CQTHTT trong Quân đội đã và đang tăng
cường nhận thức về khía cạnh nhân thân người phạm tội XPSH phục vụ
phòng ngừa tội này trong Quân đội. Cụ thể: Cần tăng cường nghiên cứu, nắm
rõ những đặc điểm nhân thân của người phạm tội XPSH từ đó tìm ra quy luật,
nguyên nhân từ chính con người phạm tội, các yếu tố tác động hình thành các
đặc điểm này qua đó có cái nhìn khách quan, toàn diện về người phạm tội
XPSH, tình hình tội XPSH trong Quân đội để có phương hướng giải quyết
hiệu quả. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, sự hiểu biết về nhân thân người phạm tội XPSH, cũng như ý thức trách
nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động đấu tranh,
phòng ngừa tình hình tội phạm XPSH. Từ đó, có thể vận dụng những kiến
thức đó vào thực tiễn hoạt động đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm
XPSH, cũng như làm cơ sở thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến cho các
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Quân đội và toàn thể những người đang phục
vụ trong Quân đội về các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH, qua đó
giúp các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Quân đội và toàn thể những người do
64
Quân đội quản lý nắm rõ và đề phòng loại tội phạm này.
3.2.2. Tăng cường khai thác các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu;
đạo đức, tâm lý và đặc điểm về pháp lý hình sự của nhân thân người phạm tội
phục vụ hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu
Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu; đạo đức, tâm lý và đặc điểm về
pháp lý hình sự của người phạm tội XPSH có vai trò rất lớn trong hoạt động
phòng ngừa tình hình tội này. Do đó, để phòng ngừa có hiệu quả đối với tội
XPSH, cần phải tăng cường khai thác các đặc điểm này, cụ thể như sau:
3.2.2.1. Đối với các đặc điểm xã hội - nhân khẩu:
Các chủ thể phòng ngừa tội XPSH cần nắm rõ từng đặc điểm này và
khai thác hiệu quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm này. Cụ thể:
Đối với đặc điểm về giới tính, cần quan tâm các đối tượng là nam giới (vì
nam giới là người do Quân đội quản lý và người ngoài Quân đội có tỉ lệ phạm
các tội XPSH rất cao), đồng thời cũng quan tâm các đối tượng là nữ (vì tỉ lệ
người phạm tội XPSH là nữ giới, kể cả trong, ngoài Quân đội đang có xu
hướng gia tăng). Về độ tuổi, cần chú trọng phòng ngừa người trong độ tuổi từ
18 đến 30, vì đây là độ tuổi có tỉ lệ phạm tội cao nhất, nhưng để công tác đấu
tranh, phòng ngừa đạt hiệu quả hơn cũng cần chú ý tới người trong độ tuổi
liền kề, đặc biệt là trong độ tuổi từ 31 đến 45. Về tội phạm cụ thể, trong nhóm
tội phạm XPSH thì Tội trộm cắp tài sản chiếm phần lớn, đạt tỉ lệ 78,57%, đối
tượng phạm tội thì đa phần có nơi cư trú ổn định và thực hiện tội phạm trên
địa bàn mình cư trú, vì vậy cần tập trung vào đặc điểm này khi tiến hành hoạt
động đấu tranh phòng, chống tội phạm XPSH.
Các CQTHTT, cũng như các đơn vị Quân đội không những phải thực
hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật, ý thức tự giác
chấp hành các quy định của pháp luật, nội quy của đơn vị, chuẩn mực đạo đức
xã hội cho cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị mình quản lý, mà còn phải tích cực,
65
chủ động và làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan chức năng ngoài Quân
đội trên địa bàn đóng quân để tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục kiến
thức pháp luật, tự giác chấp hành các quy định của pháp luật, nâng cao ý thức
trong bảo vệ tài sản của mình cũng như tôn trọng tài sản của người khác và
của Quân đội. Bên cạnh đó, các đơn vị Quân đội cần tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc chấp hành nội quy, quy định của đơn vị, pháp luật của
Nhà nước để kịp thời phát hiện, xử lý những trường hợp vi phạm, cũng như
cần phối hợp với các cơ quan chức năng ngoài Quân đội làm tốt công tác nắm
tình hình, quản lý đối tượng có biểu hiện nghi vấn phạm tội trộm cắp tài sản
tại địa phương, để tiến hành các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh đạt hiệu
quả. Do đối tượng phạm tội chủ yếu là nam giới, nằm trong độ tuổi từ 18 đến
30 nên quá trình giáo dục tuyên truyền, kiểm tra, giám sát cần tập trung vào
các đối tượng có đặc điểm này để đạt hiệu quả cao hơn.
3.2.2.2. Đối với các đặc điểm về đạo đức - tâm lý:
Các đơn vị Quân đội cần phối hợp với chính quyền địa phương tại nơi
đóng quân thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp luật và xây dựng các
phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục-thể thao… để tạo sân chơi lành mạnh
cho toàn bộ cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị mình, cũng như người dân trong địa
bàn quản lý tham gia, từ đó hạn chế việc tiếp xúc với các thói quen xấu có thể
ảnh hưởng đến đạo đức, tâm lý của những người này.
Bên cạnh đó, cần quan tâm giáo dục, vận động và kịp thời nhắc nhở, xử
lý những cán bộ, chiến sỹ vi phạm, để từ đó dần hình thành trong các cán bộ,
chiến sỹ lối sống trong sạch, lành mạnh và hạn chế, loại bỏ các đặc điểm tâm
lý, sở thích, thói quen, nhu cầu tiêu cực như tham lam, ích kỷ, ham muốn ăn
chơi sa đọa, nghiện cờ bạc, nghiện ma túy, game online… Ngoài ra, phải kịp
thời động viên, khen thưởng các tổ chức, cá nhân tích cực trong phát hiện,
điều tra, xử lý tình hình tội phạm XPSH.
66
3.2.2.3. Về đặc điểm về pháp lý hình sự:
CQTHTT trong Quân đội cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
pháp luật trong phòng ngừa và tấn công, trấn áp tình hình tội phạm XPSH;
giải quyết triệt để các tố giác, tin báo về tội phạm. Bên cạnh đó, thực hiện tốt
công tác phối hợp với các cơ quan tư pháp ngoài Quân đội để kịp thời trao
đổi thông tin, tài liệu liên quan đến tình hình tội phạm XPSH, đặc biệt chú ý
tới các đối tượng đã có tiền án, tiền sự và có biểu hiện móc nối hình thành
các ổ nhóm phạm tội, từ đó tạo ra một kênh trao đổi thông tin liên tục phục
vụ cho công tác theo dõi, quản lý và phòng ngừa tội phạm XPSH. Phối hợp
với các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư nơi đóng quân tổ chức tuyên
truyền, vận động người dân, phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ
ANCT và TTATXH, để người dân chủ động phát hiện tố giác tội phạm, nhất
là những đối tượng có biểu hiện tụ tập thành ổ nhóm ăn chơi, tham gia các tệ
nạn xã hội (tập trung vào các đối tượng do Quân đội quản lý sinh hoạt tại địa
phương) …, để từ đó kịp thời chủ động và phối hợp lực lượng Công an làm
tốt công tác nắm tình hình, theo dõi, quản lý và phòng ngừa họ phạm tội.
Khi nghiên cứu 100 vụ án với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội
từ năm 2015 đến 2019, cho thấy: Người phạm tội có tiền sự chiếm 10/152 bị
cáo (tỉ lệ 6,58%); người phạm tội có tiền án chiếm 32/152 bị cáo (tỉ lệ
21,05%). Điều đáng chú ý, trong số 42 bị cáo có tiền án, tiền sự thì 35/42 bị
cáo (tỉ lệ 83,33%) đã từng có tiền án về tội XPSH lại tiếp tục phạm tội XPSH
và 7/42 bị cáo (tỉ lệ 16,67%) có tiền án về các loại tội phạm khác sau đó phạm
tội XPSH. Qua đó cho thấy những người phạm tội XPSH trong Quân đội có
phần lớn là người đã có tiền án, tiền sự. Vì vậy, việc phòng ngừa tái phạm tội
là vấn đề quan trọng cần được xem xét đến. Trong đó, nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án hình sự cũng là biện pháp quan trọng nhằm giúp cho người
phạm tội hiểu, nhận thức được hành vi nguy hiểm và hậu quả nghiêm trọng
67
cho xã hội mà mình đã gây ra, biết ăn năn, hối hận về hành vi của mình và cố
gắng sửa chữa, trở thành người có ích cho gia đình, xã hội. Để công tác thi
hành án hình sự được tốt hơn trong thời gian tới Quân đội cần phải:
Thứ nhất, cần sự quan tâm hơn nữa trong việc trang bị cơ sở vật chất tại
các Trại giam, Trại tạm giam trong Quân đội phù hợp với việc phục vụ cải tạo
phạm nhân nhằm biến nhà tù thành trường học, tạo điều kiện cho họ có cơ hội
hòa nhập cộng đồng tốt hơn khi chấp hành xong hình phạt tù.
Thứ hai, các Trại giam, Trại tạm giam trong Quân đội cải tạo cần kiện
toàn đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thi hành án hình sự. Đảm bảo đủ về
số lượng, cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, chiến sỹ làm
công tác thi hành án hình sự. Tập trung làm tốt công tác quản lý, giáo dục, cải
tạo phạm nhân, xây dựng nếp sống “trật tự, kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm”; tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức lao động, hướng
nghiệp, dạy nghề đối với phạm nhân; sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí
nhằm cải thiện điều kiện giam giữ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
cán bộ, chiến sĩ và các loại đối tượng giam giữ. Tăng cường công tác phối
hợp với Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác theo dõi, quản lý người bị kết án
tù đang tại ngoại, hoãn, tạm đình chỉ thi hành án.
Thứ ba, các Trại giam, Trại tạm giam trong Quân đội phải nắm vững
được đặc điểm nhân thân, lý lịch của từng phạm nhân để thực hiện tốt việc
phân loại phạm nhân và áp dụng các biện pháp, tuyên truyền, quản lý, giáo
dục cho phù hợp, hiệu quả.
Thứ tư, đối với công tác giáo dục dạy nghề, giáo dục thông qua lao động.
Đây là một đòi hỏi cấp bách xuất phát từ thực tiễn, qua thống kê 100 vụ án
với 152 bị cáo phạm tội XPSH trong Quân đội từ năm 2015 đến 2019, cho
thấy đối tượng không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định chiếm
đến 81,04%, nếu sau khi chấp hành hình phạt tù xong họ vẫn không có việc
68
làm thì khả năng dẫn đến việc tái phạm tội là rất lớn. Vì vậy, cần phải chú
trọng công tác đào tạo nghề tại các Trại giam, Trại tam giam trong Quân đội.
Việc đào tạo cho phạm nhân những ngành nghề phù hợp với nhu cầu xã hội
và khả năng của người phạm tội, bảo đảm cho họ sau khi chấp hành xong
hình phạt tù có thể kiếm sống lương thiện bằng nghề đã được học. Thông qua
hoạt động giáo dục nhằm nâng cao ý thức tôn trọng sở hữu, tôn trọng giá trị
lao động, tôn trọng đạo đức, pháp luật cho người phạm tội. Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc cải tạo người phạm tội, giúp họ hiểu rõ được giá trị của
lao động, việc tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác để khi mãn hạn
tù về tái hòa nhập cộng đồng, người phạm tội có ý thức tự tạo ra của cải vật
chất phục vụ nhu cầu của bản thân để từ đó hạn chế họ tái phạm tội.
Thứ năm, tăng cường và phối hợp thực hiện công tác quản lý nghiệp vụ
đối với người chấp hành án tại các Trại giam, Trại tạm giam trong Quân đội,
cũng như những người đang được tạm hoãn chấp hành án, hoặc đang chấp
hành án nhưng cho tại ngoại về các tội phạm XPSH để bảo đảm cho an toàn
cơ sở giam giữ và kịp thời phát hiện, ngăn chặn không để họ tái phạm tội.
Bên cạnh đó, các Trại giam, Trại tạm giam trong Quân đội cần thực hiện
tốt công tác tái hòa nhập cho người chấp hành xong hình phạt tù, bằng cách
phối hợp với chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục, giúp đỡ người
chấp hành xong hình phạt trở về địa phương nhanh chóng tái hòa nhập cộng
đồng, chí thú làm ăn, không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
Tóm lại, việc làm sáng tỏ nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân
đội tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của
nhóm tội XPSH trong Quân đội, có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng
hình phạt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. Thông qua các đặc điểm
về mặt xã hội - nhân khẩu, đạo đức, tâm lý và đặc điểm về pháp lý hình sự
của nhân thân người phạm tội XPSH trong Quân đội để nắm rõ bản chất và
69
các nét đặc trưng của người phạm tội. Qua đó, vận dụng một cách triệt để
trong công tác phòng ngừa đối với tình hình tội phạm XPSH trong Quân đội.
3.2.3. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường gia đình
Gia đình là nơi nuôi dưỡng mỗi con người và là nơi xây dựng nền móng
nhân cách trong mỗi con người. Bất kể con người nào, từ khi sinh ra, lớn lên
đều trải qua sự nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình, người phục vụ trong Quân
đội cũng không ngoại lệ. Vì vậy, để phòng ngừa các tội phạm XPSH trong
Quân đội cần thực hiện các giải pháp để hạn chế và dần loại trừ các nguyên
nhân làm phát sinh các đặc điểm nhân thân tiêu cực từ phía gia đình như:
Thứ nhất, trong Quân đội phải xây dựng nếp sống kỷ luật, đoàn kết…,
phải làm cho tất cả người phục vụ trong Quân đội khi sống tại đơn vị có tinh
thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau…, coi đơn vị như gia đình của
mình. Khi về địa phương sinh sống phải chấp hành nghiêm pháp luật, luôn
nêu cao tinh thần noi gương, đi đầu trong xây dưng gia đình văn hóa, kiểu
mẫu. Thực hiện lối sống trong sạch, lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, lễ
phép, gắn bó, yêu thương, quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên
trong gia đình; xây dựng nếp sống đạo đức, văn hóa trong gia đình, không để
xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra. Trong nuôi dạy con cái phải chú ý
tập luyện cho trẻ ý thức, thói quen tự lập để cho trẻ không có ý thức ỷ lại, dựa
dẫm, biết tôn trọng công sức lao động của bản thân và người khác…; có
phương pháp giao tiếp, giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, khí chất, trí
tuệ, năng khiếu…, của mỗi đứa trẻ để chúng tự tin bộc lộ hết khả năng của
mình. Không nên quá nuông chiều hoặc quá nghiêm khắc đối với trẻ, cần có
sự động viên khích lệ, khen thưởng khi trẻ làm được việc tốt, có thành tích
cao trong học tập, ngược lại phải có biện pháp giáo dục, uốn nắn khi trẻ làm
việc gì sai trái, thành tích học tập không tốt.
70
Thứ hai, bên cạnh sự nỗ lực từ gia đình, cũng cần có sự hỗ trợ của đơn vị
Quân đội đang quản lý, cũng như xã hội, chính quyền địa phương, các ban,
ngành, đoàn thể.
Đổi mới căn bản hoạt động, công tác tuyên truyền, giáo dục để gia đình
và mỗi thành viên trong gia đình hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình:
Nội dung tuyên truyền phải đơn giản dễ hiểu, thiết thực, phù hợp với cuộc
sống, chủ yếu tuyên truyền Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới,
Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Việc tuyên truyền phải được thực hiện
phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể tại địa phương, đơn vị Quân đội
và có rút kinh nghiệm. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá và tổng kết công tác
tuyên truyền, kịp thời khen thưởng những cá nhân có thành tích tốt trong công
tác tuyên truyền và những hộ gia đình tiêu biểu, từ đó tạo động lực, khuyến
khích mọi người, mọi gia đình thực hiện tốt những nội dung đã tuyên truyền.
Gia đình có điều kiện kinh tế không thuận lợi cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc thiếu quan tâm, chăm sóc giáo dục trẻ, do đó đơn vị
Quân đội cần chủ động thực hiện và phối hợp với chính quyền địa phương tại
nơi đóng quân cần quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện để các gia đình trên địa
bàn nói chung và gia đình trong Quân đội nói riêng có điều kiện khó khăn
vươn lên phát triển kinh tế. Có cơ chế linh hoạt trong việc cho vay vốn làm ăn
nhằm xóa đói giảm nghèo, từ nguồn kinh phí phúc lợi xã hội của nhà nước,
địa phương hay của từng đơn vị Quân đội. Bên cạnh đó, cần chủ động và phối
hợp với địa phương hướng dẫn, vận động các gia đình áp dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ vào sản xuất, tăng cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng lao
động từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm cải thiện cuộc sống.
3.2.4. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục
Nhà trường được coi là chiếc nôi thứ hai trong việc giáo dục, rèn luyện
con người và có tác động rất lớn đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân
71
con người. Khi nhà trường không hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục sẽ hình
thành ở trẻ em các đặc điểm nhân thân xấu, từ đó khi gặp tình huống tiêu cực
họ dễ vi phạm pháp luật. Do đó, nhà trường cần chú trọng việc rèn luyện các
kỹ năng sống nhằm giúp học sinh có thái độ và hành vi đúng đắn, có khả năng
nhìn nhận và giải quyết các vấn đề theo chiều hướng tích cực, có lối sống lành
mạnh, có đạo đức, có văn hóa.... Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò, trách
nhiệm nêu gương của các thầy, cô giáo trong việc chăm sóc, giáo dục học
sinh, có biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp với từng học sinh. Ngoài ra, cần
phải tăng cường công tác tuyên tuyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường và
phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với gia đình trong việc
trao đổi thông tin để cùng quản lý giáo dục các em phát triển toàn diện.
Qua nghiên cứu các loại tội XPSH trong Quân đội cho thấy tuy số bị cáo
là người do Quân đội quản lý có tỉ lệ trình độ học vấn cao hơn, nhưng phần
lớn bị cáo đều có trình độ học vấn thấp (bị cáo có trình độ tiểu học, trung học
chiếm 76,02%, bị cáo không biết chữ chiếm 6,10%). Quá trình giáo dục con
người phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Lúc nhỏ thì được gia đình,
nhà trường, xã hội giáo dục, khi lớn lên tham gia vào một tổ chức, đoàn thể,
công ty, … hoặc tham gia phục vụ Quân đội thì trách nhiệm giáo dục con
người thuộc về các tổ chức, đơn vị đó. Trong Quân đội rất chú trọng công tác
giữ gìn nghiêm kỷ luật, trong đó lấy công tác giáo dục là biện pháp chủ yếu để
nâng cao ý thức chấp hành nội quy, quy định của đơn vị. Tuy nhiên, do quá
trình tham gia sản xuất kinh tế, đòi hỏi phải tuyển dụng người chưa từng trải
qua môi trường giáo dục trong Quân đội vào các đơn vị để làm kinh tế dẫn
đến việc quản lý, giáo dục gặp nhiều khó khăn, đây là nguyên nhân làm phát
sinh tình hình tội phạm XPSH trong Quân đội. Vì vậy, để hạn chế, dần loại bỏ
tội phạm XPSH trong Quân đội cần hạn chế đến mức thấp nhất các tác động
tiêu cực từ môi trường giáo dục. Để làm tốt công tác này cần phải:
72
Thứ nhất, các đơn vị trong Quân đội phải chú trọng công tác giữ gìn
nghiêm kỷ luật, trong đó lấy công tác tuyên truyền, giáo dục là biện pháp chủ
yếu để nâng cao ý thức chấp hành nội quy, quy định, điều lệnh của đơn vị.
Trước khi tuyển dụng người vào phục vụ trong Quân đội phải làm tốt khâu
xác minh lý lịch và quá trình hoạt động của người được tuyển dụng. Đảm bảo
tuyển dụng cho Quân đội người có năng lực trình độ, có ý thức chấp hành nội
quy, quy định và thực sự muốn cống hiến cho Quân đội. Khi đã tuyển dụng
vào phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, ý
thức chấp hành nội quy, quy định của đơn vị, Quân đội. Việc tuyên truyền,
giáo dục phải được tiến hành thường xuyên liên tục và phải kèm theo công tác
kiểm tra, giám sát thì mới đạt hiệu quả.
Thứ hai, các đơn vị trong Quân đội tạo mọi điều kiện để tất cả những
người đang phục vụ cho Quân đội do mình quản lý được học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật. Bên cạnh đó, cũng hỗ trợ và tạo
điều kiện để những người này thực hiện tốt công tác phối hợp với nhà trường
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Không để tình trạng, cha mẹ không
có thời gian để quan tâm đến con cái, cũng như việc học tập của con. Chỉ
thông qua giáo dục và đào tạo, phẩm chất và năng lực của mỗi thành viên
trong xã hội mới được nâng cao. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc hạn chế
những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH trong Quân đội.
3.2.5. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè
Bạn bè có sự ảnh hưởng, tác động rất lớn đến tư tưởng, cách ứng xử của
mỗi con người trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Sự ảnh hưởng, tác động
này có thể diễn ra ở mọi độ tuổi khác nhau. Trong Quân đội, nhất là những
người phục vụ trong các doanh nghiệp Quân đội, là nơi sẽ tiếp xúc và chịu
ảnh hưởng, chi phối lớn nhất bởi các yếu tố tiêu cực của mặt trái nền KTTT.
Bên cạnh đó, những người này thường xuyên có mối quan hệ thường xuyên
73
với bên ngoài môi trường Quân đội, nơi ít chịu sự quản lý, giám sát của Quân
đội. Cho nên, sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực trong xã hội, từ đó là
nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội, đặc biệt là các tội phạm XPSH. Vì vậy,
để hạn chế những yếu tố tiêu cực trên, Quân đội phải chú trọng công tác quản
lý và nắm bắt diễn biến về tâm lý, tư tưởng của người phục vụ trong Quân đội
do đơn vị quản lý, đặc biệt là các doanh nghiệp Quân đội. Quá trình quản lý
cán bộ tốt sẽ kịp thời phát hiện các mối quan hệ tiêu cực, cũng như sự thay
đổi về tâm tư, nguyện vọng của cán bộ từ đó có biện pháp giáo dục, cũng như
xử lý kịp thời, phù hợp để hạn chế, ngăn chặn tội phạm xảy ra.
Các đơn vị Quân đội cần tạo điều kiện, cũng như quán triệt, nhắc nhở tất
cả những người đang phục vụ trong Quân đội cần phối hợp với nhà trường
trong việc quản lý giao tiếp bạn bè của con cái. Qua đó, phát hiện các mối
quan hệ bạn bè tiêu cực để kịp thời uốn nắn, giải thích để trẻ hiểu được các
quy định, chuẩn mực, đạo đức của gia đình, xã hội. Bên cạnh đó, cần động
viên các em tham gia những phong trào, hoạt động chung của cộng đồng để
các em giao lưu, học hỏi, chơi với nhóm bạn bè tích cực, từ đó trẻ ý thức được
mình thuộc về cộng đồng, là người có ích cho xã hội.
3.2.6. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế
Điều kiện, hoàn cảnh kinh tế là một trong những yếu tố có ý nghĩa rất
lớn đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội và tác động trực tiếp
đến cách thức xử sự của con người, nhất là với nhóm tội phạm XPSH. Kinh tế
ổn định và phát triển là nền tảng vững chắc cho công tác phòng ngừa tội phạm
nói chung và các tội phạm XPSH ở nước ta và trong Quân đội nói riêng. Dưới
tác động của nền KTTT đã làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội,
dễ nảy sinh tham nhũng, tội phạm, kích thích lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá
nhân… Bên cạnh đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về thoái hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân,
74
chạy theo danh lợi, tiền tài. Đây là một vấn đề lớn, cho nên trong nội dung
luận văn tác giả chỉ đi sâu vào một số giải pháp để giảm bớt các tác động tiêu
cực từ môi trường kinh tế dành riêng cho Quân đội.
Riêng đối với Quân đội, môi trường kinh tế có tác động tiêu cực không
nhỏ lên tâm tư, nguyện vọng của tất cả những người đang phục vụ trong Quân
đội và quá trình điều hành, quản lý tại các doanh nghiệp Quân đội. Vì vậy, để
giảm bớt các tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế cần:
Thứ nhất, sự tác động của mặt trái nền KTTT sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên, với những biểu
hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,
chạy theo danh lợi, tiền tài, đó chính là nguồn gốc làm phát sinh tư tưởng
chiếm đoạt tài sản và là động lực thúc đẩy người phục vụ trong Quân đội thực
hiện tội phạm XPSH. Vì vậy, để hạn chế sự tác động của mặt trái nền KTTT
cần phải không ngừng giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị cách mạng,
nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật, cũng như ý thức chấp hành
nội quy, điều lệnh trong Quân đội. Việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
cách mạng, nhận thức pháp luật có thể thực hiện thông qua công tác sinh hoạt
chính trị, pháp luật tại đơn vị, địa phương thực hiện, hoặc qua công tác tuyên
truyền pháp luật do các CQTHTT trong Quân đội thực hiện. Đối với công tác
này, cần thực hiện thường xuyên, liên tục, khi thực hiện việc tuyên truyền
phải thật ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tiếp cận để người được tuyên truyền có khả
năng tiếp thu cao nhất để từ đó hiểu rõ thế nào là hành vi phạm tội, hành vi
phạm tội XPSH và trách nhiệm trước pháp luật khi thực hiện các hành vi đó.
Thứ hai, phải hoàn thiện quy trình, quy định trong công tác điều hành,
quản lý các doanh nghiệp Quân đội khi tham gia vào nền KTTT. Bởi đây là
những đơn vị trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh tế, nên sẽ chịu
tác động trực tiếp từ yếu tố tiêu cực của môi trường kinh tế. Qua số liệu tại
75
[Bảng số 2.12 phần phụ lục] cho thấy, có đến 50,98% bị cáo người phạm tội
XPSH trong Quân đội là lao động hợp đồng, thành phần này là người do các
doanh nghiệp Quân đội quản lý và thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội là lợi
dụng sơ hở trong công tác quản lý, điều hành tại các đơn vị trên. Vì vậy, việc
hoàn chỉnh các quy trình, quy định trong công tác điều hành, quản lý các
doanh nghiệp Quân đội là yếu tố quan trọng để ngăn ngừa nhóm tội phạm
XPSH. Bên cạnh đó, việc hoàn chỉnh các quy trình, quy định trong công tác
điều hành, quản lý các doanh nghiệp Quân đội vừa là động lực thúc đẩy để
đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kinh doanh, vừa là bước đi phù hợp,
vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả của
KTQP. Từ đó, vừa làm tốt công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội
phạm XPSH trong Quân đội nói riêng, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển KTQP
nhằm mục đích xây dựng, phát triển Quân đội chính quy hiện đại về mọi mặt.
Một trong những yếu tố quan trọng để ngăn ngừa, hạn chế và dần loại bỏ
tội phạm XPSH trong Quân đội là xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội
phạm. Như kết quả nghiên cứu cho thấy, việc quá sơ hở trong công tác quản
lý, trông coi tài sản trong Quân đội là nguyên nhân, điều kiện để tội phạm này
xảy ra, việc phát sinh tội phạm XPSH thường diễn ra ở các khu vực ngoài
doanh trại Quân đội. Trong quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh thì việc
phải xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị ngoài doanh trại Quân đội là điều
không thể tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra là việc quản lý, trông coi cơ sở vật
chất, trang thiết bị đó được thực hiện như thế nào. Để làm tốt vấn đề trên cần:
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra cơ sở vật chất, trang thiết bị của
Quân đội, đặc biệt là những cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật nằm ngoài doanh
trại Quân đội. Phải thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm kê tài sản hàng
tháng, quý và năm. Bên cạnh đó, phải thường xuyên tiến hành kiểm tra định
76
kỳ, đột xuất và phải cử người tiến hành quản lý, trông coi tài sản, nếu đơn vị
không có người thì có thể thuê các Công ty bảo vệ để thực hiện nhiệm vụ này.
Đối với những cơ sở vật chất ở khu vực đồi núi, hẻo lành, không có
người quản lý trông coi thì áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc quản lý, trông
coi tài sản. Như là gắn camera để theo dõi quản lý tại các vị trí để tài sản mà
có nguy cơ bị xâm hại, gắn các thiết bị báo động tự động khi tài sản bị xâm
phạm, hoặc theo dõi quản lý để biết các tài sản bị chiếm đoạt đang ở đâu để
phối hợp với cơ quan chức năng truy tìm lại tài sản.
3.2.7. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội
Để hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội cần phải:
Thứ nhất, các đơn vị trong Quân đội đảm bảo thực hiện tốt, có hiệu quả
các chính sách an sinh xã hội, nhất là các đơn vị đóng quân tại các địa bàn có
điều kiện, hoàn cảnh khó khăn. Làm tốt công tác trên giúp các cán bộ, chiến
sỹ, công nhân viên Quốc phòng,…có cuộc sống ổn định hơn, an tâm trong
công tác phục vụ Quân đội, hạn chế các tác động tiêu cực bên ngoài xã hội có
thể tác động vào họ làm nảy sinh ý định hoặc thúc đẩy họ phạm tội.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật, nội quy, quy định cho các cán bộ, chiến sỹ, công nhân
viên Quốc phòng, thành phần lao động hợp đồng, cũng như phối hợp với các
cơ quan chức năng ngoài Quân đội làm tốt công tác tuyên truyền này trong và
ngoài Quân đội. Nhưng trọng tâm là phải đảm bảo toàn bộ các cán bộ, chiến
sỹ, công nhân viên Quốc phòng, thành phần lao động hợp đồng có đủ kiến
thức, hiểu biết về pháp luật nói chung, về pháp luật hình sự và về nhóm tội
XPSH, cũng như về đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH để từ đó có
biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với nhóm tội phạm này.
77
Kết luận Chương 3
Phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu từ khía cạnh nghiên cứu đặc
điểm nhân thân và các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm tiêu
cực trong nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu đóng vai trò quan
trọng, góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
xâm phạm sở hữu trong Quân đội ở nước ta.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá khái quát tình hình
tội phạm xâm phạm sở hữu, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu và những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội giai đoạn 2015 - 2019, trong
Chương 3, tác giả đã đưa ra một số dự báo tình hình tội phạm xâm phạm sở
hữu và các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trong thời
gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác
phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu trong Quân đội từ khía cạnh nhân
thân người phạm tội xâm phạm sở hữu giai đoạn tiếp theo.
78
KẾT LUẬN
Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm sở hữu trong Quân
đội thời gian vừa qua diễn biến hết sức phức tạp, gây ảnh hưởng đến tình hình
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và làm hưởng không nhỏ đến hình ảnh,
uy tín của Quân đội. Để đảm bảo thực hiện tốt công tác đấu tranh, phòng
chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, các cơ
quan tư pháp trong Quân đội đã tham mưu cho Thủ trưởng Bộ Quốc phòng
ban hành nhiều văn bản, tổ chức thực hiện nhiều giải pháp phòng ngừa với
mục đích từng bước loại bỏ những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân của tội
xâm phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, nhưng kết quả
đạt được chưa cao. Hiện nay, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trong
Quân đội vẫn diễn ra phức tạp, với tính chất nghiêm trọng, phương thức thủ
đoạn ngày càng tinh vi hơn. Trong khi việc nghiên cứu hoạt động phòng
ngừa đối với tội phạm này để đề ra các giải pháp cụ thể phục vụ công tác
phòng ngừa tội phạm còn quá ít.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội xâm phạm sở
hữu trong Quân đội, một nội dung quan trọng là nhận thức một cách đúng
đắn, sâu sắc nhân thân người phạm tội nói chung và phạm tội xâm phạm sở
hữu nói riêng. Bởi vì, nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm,
những dấu hiệu quan trọng thể hiện rõ nhất bản chất xã hội của con người
thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nghiên
cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm thuộc yếu tố về chủ thể
người thực hiện hành vi phạm tội, làm rõ các yếu tố liên quan tới việc hình
thành và thúc đẩy các phẩm chất tiêu cực của con người, khiến họ có hành vi
đi ngược lại với các chuẩn mực, các lợi ích xã hội; giúp quá trình định tội,
định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, cũng như đề ra các biện
pháp hữu hiệu giáo dục, cải tạo người phạm tội xâm phạm sở hữu. Trong luận
79
văn, tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu như khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu, các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc
điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu. Trên cơ sở lý
luận, tác giả đã tập trung khảo sát thực tiễn, làm rõ đặc điểm nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội và các yếu tố tác động hình thành
các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trong
Quân đội từ năm 2015 đến năm 2019. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra dự báo và
các giải pháp phòng ngừa thiết thực với tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu
trong Quân đội từ khía cạnh nhân thân người phạm tội trong thời gian tới.
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu trong Quân đội trong giai đoạn 2015 - 2019, mặc
dù tác giả đã có nhiều nỗ lực, phấn đấu trong quá trình nghiên cứu thực hiện
luận văn nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Tác
giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình của quý thầy, cô
giáo, các đồng nghiệp,… để tiếp tục hoàn thiện kết quả nghiên cứu của mình.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thanh
Dương, cùng các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp Cao học luật đợt 2
năm 2018; các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ công tác trong các Cơ quan tiến
hành tố tụng Bộ Quốc phòng… đã nhiệt tình hướng dẫn, truyền đạt kinh
nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu để tác giả thực hiện
hoàn thành Luận văn này./.
80