Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THANH TÂM

NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ THẾ KỶ XVIII ĐẾN THẾ KỈ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THANH TÂM

NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ THẾ KỶ XVIII ĐẾN THẾ KỈ XIX Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn: TS. NGÔ THỊ THANH NGA THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện

truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.

Không sao chép của ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công

bố ở các công trình khác.

Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên

các tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận

văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016 Tác giả luận văn Phan Thị Thanh Tâm

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Ngô Thị Thanh Nga

- Người đã tận tình hướng dẫn giúp em trong suốt em trong suốt quá trình

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn tới Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng,

Khoa sau Đại học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng

các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực

hiện luận văn.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp, các bạn lớp Văn học Việt Nam K22 đã động viên, khích lệ giúp đỡ

trong suốt thời gian qua.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 22 tháng 6 năm 2016

Tác giả

Phan Thị Thanh Tâm

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 2

3. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 5

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5

7. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 6

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........... 7

1.1. Một số vấn đề về truyện truyền kì ................................................................ 7

1.1.1. Khái niệm................................................................................................... 7

1.1.2. Quá trình phát triển .................................................................................... 8

1.1.3. Nhân vật văn học và nhân vật truyện truyền kì ....................................... 15

1.2. Một số tác phẩm truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX ............. 23

1.2.1. Truyền kì tân phả ..................................................................................... 23

1.2.2. Tân truyền kì lục ...................................................................................... 26

1.2.3. Lan Trì kiến văn lục ................................................................................. 29

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO

TRONG TRUYỀN KÌ TÂN PHẢ; TÂN TRUYỀN KÌ LỤC;

LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC .................................................................. 34

2.1. Nhân vật người kì lạ ................................................................................... 34

2.1.1. Xuất thân .................................................................................................. 35

2.1.2. Ngoại hình .............................................................................................. 38

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.1.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................. 40

2.2. Nhân vật thần tiên ....................................................................................... 48

2.2.1. Xuất thân .................................................................................................. 49

2.2.2. Ngoại hình ............................................................................................... 52

2.2.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................... 53

2.3. Nhân vật ma quỷ ......................................................................................... 57

2.3.1. Xuất thân .................................................................................................. 59

2.3.2. Ngoại hình ............................................................................................... 62

2.3.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................... 65

2.4. Nhân vật loài vật ......................................................................................... 67

2.4.1. Xuất thân ................................................................................................. 68

2.4.2. Tính cách, phẩm chất ............................................................................. 72

Chương 3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM QUA HỆ THỐNG

NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ

TỪ THẾ KỈ XVIII ĐẾN THẾ KỈ XIX ............................................................. 78

3.1. Khát vọng của con người, đặc biệt là khát vọng tình yêu của người

phụ nữ ...................................................................................................... 78

3.2. Phản ánh hiện thực...................................................................................... 81

3.3. Thể hiện mong ước của tác giả ................................................................... 88

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học trung đại là một bộ phận quan trọng của nền văn học Việt Nam.

Đi hết chặng đường của mình,văn học trung đại đã đạt được những thành tựu

rực rỡ, để lại những dấu ấn riêng với nhiều tác giả tên tuổi cùng với những tác

phẩm nổi tiếng.

Truyền kì là một thể loại của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại.

Loại hình văn học kì ảo này đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà sáng

tác cũng như giới nghiên cứu văn học. Sự chuyển biến của một giai đoạn, thời

kì văn học, theo Bakhtin, được đặc trưng bởi sự thay đổi của đời sống thể loại.

Thế nhưng, thể loại đang sống trong hiện tại bao giờ cũng nhớ đến quá khứ của

nó bởi “đằng sau mỗi một loại văn học đều có một truyền thống lớn lao tuy ẩn

mà hiện”.

Tìm về với truyền kì, người ta nhận ra đây là một “đặc sản” của văn học

phương Đông so với văn học phương Tây. Ở phương Tây, chỉ đến cuối thế kỷ

XVIII, truyện ma và văn học kì ảo mới thực sự ra đời (dẫn theo Ngô Tự Lập).

Trong khi đó, ở phương Đông, ngay từ thế kỉ IX ở Trung Quốc, văn học kì ảo

đã phát triển mạnh mẽ và kết tinh ở thể loại truyền kì. Ở Việt Nam Truyền kì

mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục

(Phạm Qúy Thích) và Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là những tập truyện

truyền kì giữ vai trò đặc biệt trong quá trình phát triển, đồng thời cũng là kết

tinh của truyền kì Việt Nam.

Thể loại truyền kì được giảng dạy và học tập xuyên suốt các cấp học. Vì

vậy nghiên cứu truyện truyền kì là một dịp để người viết có điều kiện nghiên

cứu và hiểu sâu sắc hơn về thể loại này giúp cho công việc giảng dạy có được

hiệu quả hơn.

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chính vì những lý do trên khiến người viết quyết định chọn: “Nhân vật

mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX” làm

đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình để người đọc hiểu sâu hơn về vị trí, vai trò

của việc xây dựng nhân vật truyện truyền kì, đồng thời giúp cho người học có

thêm hiểu biết mới về kiểu nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì và

có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về thể loại trong giai đoạn này.

2. Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành khảo sát loại hình nhân vật mang yếu tố kì ảo trong

những tác phẩm từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX với: Truyền kì tân phả (Đoàn

Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Qúy Thích) và Lan Trì kiến văn lục (Vũ

Trinh) với mục đích làm rõ thêm những đặc điểm của loại nhân vật truyện

truyền kì cũng như hiểu hơn về tư tưởng của các tác giả gửi gắm qua những tác

phẩm truyền kì ưu tú này. Ngoài ra cũng chỉ rõ hơn đóng góp của từng tác

phẩm riêng lẻ nói riêng và của thể loại truyền kì nói chung cho văn xuôi trung

đại Việt Nam.

3. Lịch sử vấn đề

Căn cứ vào tình hình tư liệu hiện nay, có thể khẳng định rằng nhân vật

truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là một vấn đề chưa được các

nhà nghiên cứu quan tâm, xem xét một cách đầy đủ. Nếu có cũng chỉ là những

bài nghiên cứu về những một tác phẩm hay một vài tác phẩm riêng lẻ và

thường thiên về một loại nhân vật như: người trí thức, người phụ nữ. Cụ thể các

công trình, bài viết có liên quan đến đề tài mà tôi nghiên cứ như sau:

1. Truyền kì tân phả

Với tác phẩm này, chúng tôi chú ý đến một số bài viết và công trình sau:

Thứ nhất “Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả” của Bùi Thị Thiên

Thai, Tạp chí văn học, số 1/2011 đã đề cập đến số phận, vị trí và vai trò của

người phụ nữ trong xã hội, đồng thời khẳng định tác phẩm này được ra đời vào

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thế kỉ XVIII, bởi đây là thời kỳ trào lưu chủ nghĩa nhân đạo phát triển mạnh, đề

cao nữ quyền. Bài viết cho người đọc thấy những đóng góp của Đoàn Thị Điểm

cho dòng văn học nhân đạo chủ nghĩa.

Thứ hai là công trình của Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai

“Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội dân gian”. Qua công trình này,

các tác giả đã chỉ ra được luồng sinh khí mới mà Đoàn Thị Điểm đã tạo dựng

trong tác phẩm của mình về văn hóa dân gian như tín ngưỡng thờ mẫu, thờ tổ

tiên… tiếp thêm sức mạnh cho tác phẩm tồn tại lâu bền.

Thứ ba trong cuốn chuyên khảo Mấy vấn đề thi pháp văn học trung

đại Việt Nam, Trần Đình Sử ở mục truyện truyền kì, có giới thiệu và nhận

xét về Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm nhưng chưa bàn đến nhân vật

của tác phẩm.

2. Tân truyền kì lục

Như Lời giới thiệu của Nhà xuất bản Văn học, Phạm Quý Thích soạn

riêng tác phẩm này cho gia đình không muốn cho người ngoài biết nên sách

này ít thấy. Mặt khác số lượng truyện trong Tân truyền kì lục cũng khá khiêm

tốn (3 truyện) nên sự quan tâm của giới nghiên cứu về tác phẩm cũng không

nhiều. Tuy nhiên trong luận văn Thạc sĩ Quá trình phát triển của truyện truyền

kì qua một số tác phẩm tiêu biểu của tác giả Ngô Thị Thanh Nga cũng đã đề

cập đến tác phẩm này ở giai đoạn thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX và sơ bộ chỉ ra

điểm khác biệt về chất truyền kì (trong đó có phương diện xây dựng nhân vật).

Đây là những gợi ý bổ ích để chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. Lan Trì kiến văn lục

Nói đến thành tựu của truyện truyền kì Việt Nam, chúng ta không thể bỏ

qua Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Là tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam

trung đại, nhìn chung những nghiên cứu về tác phẩm này còn ít, ở đây chúng

tôi chỉ điểm qua một vài ý kiến liên quan đến đề tài nghiên cứu:

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong Từ điển văn học (bộ mới), tác giả Nguyễn Huệ Chi cho rằng hiện

tượng phá vỡ khuôn phép của những con người thời đại là chủ đề nổi rõ nhất

của Lan Trì kiến văn lục. Sự phá vỡ này có mặt tiêu cực và tích cực của nó.

Còn Ngô Thị Hoàng khi viết đề tựa Lan Trì kiến văn lục đã khẳng định: “…lớn

thì nhân vật quỷ thần, nhỏ thì cầm thú ngư trùng, những việc gì lạ mà mắt thấy

tai nghe đều ghi lại… có nói đến việc quái dị nhưng không thoát ly đạo thường,

có kể về diễn biến hóa nhưng không mất đi lẽ chính, đại để là ngụ ý khuyên răn

cảnh cáo sâu xa, để người xem thấy điều hay thì bắt chước, thấy điều dở thì

phòng ngừa, thực có ích cho thế gian” [59, tr.11-12].

Bên cạnh đó, trong hai bài viết: “Vũ Trinh và Lan trì kiến văn lục trong

dòng truyện truyền kì Việt Nam”, trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung

đại”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999 của Trần Thị Băng Thanh và “Vũ

Trinh và Kiến văn lục” của Nguyễn Cẩm Thúy, Tạp chí văn học, số 3/1983, hai

tác giả chủ yếu đi sâu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm chứ chưa nói

nhiều về tuyến nhân vật trong truyện.

Như vậy qua sự trình bày trên, chúng tôi nhận thấy rằng đã có khá nhiều

công trình nghiên cứu, bài viết về truyện truyền kì (bao gồm 3 tác phẩm), chủ

yếu về niên đại, tên tuổi của tác giả, xoay quanh nội dung và nghệ thuật của

truyện, đồng thời cũng có một số công trình có đề cập đến nhân vật nhưng chưa

có một công trình, bài viết nào đi chuyên sâu nghiên cứu về nhân vật của thể

loại này từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, với sự tiếp nối và vận động trong cách

xây dựng loại hình nhân vật. Do vậy trên tinh thần tiếp thu học hỏi, người viết

tiến hành nghiên cứu nhân vật của thể loại truyện truyền kì trong giai đoạn này

để thấy được các tuyến nhân vật, biểu hiện cụ thể của các tuyến nhân vật đó,

qua đó làm rõ những tiếp nối và cách tân trong cách xây dựng nhân vật của thể

loại truyền kì.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhân vật mang yếu tố kì ảo trong một số truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII

đến thế kỉ XIX.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài này, người viết xác định phạm vi nghiên cứu ở những tác phẩm

- Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (Gồm 06 truyện). - Tân truyền kì lục của Phạm Qúy Thích (Gồm 03 truyện). - Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh (Gồm 45 truyện).

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu về khái niệm, bản chất, nguồn gốc, quá trình hình thành và phát

triển của thể loại truyền kì.

Làm rõ khái niệm: nhân vật văn học và nhân vật truyền kì.

Thống kê nhân vật, phân tích đặc điểm cụ thể của loại hình vật mang yếu

tố kì ảo trong một số truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX. Qua đó

chỉ rõ tư tưởng của tác giả trong việc xây dựng loại hình nhân vật này.

6. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp lịch sử cụ thể: Luận văn tìm hiểu các nhân vật mang yếu

tố kì ảo trong, Truyền kì tân phả, tân truyền kì lục, Lan trì kiến văn lục, tức là

đề cập đến tác phẩm của từng tác giả cụ thể. Người viết vận dụng phương pháp

này để tìm hiểu sự tương tác giữa môi trường văn hóa, thời đại với tác giả để có

cái nhìn thấu đáo cặn kẽ và lý giải được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

- Phương pháp phân tích: Công trình nghiên cứu sử dụng phương pháp

này để phân tích tình hình lịch sử, các số liệu thống kê có liên quan trong đề tài,

để người đọc hiểu rõ hơn mục đích mà người nghiên cứu đưa ra.

- Phương pháp thống kê phân loại: Sử dụng để chỉ ra tần suất xuất hiện

những vấn đề khảo sát, đặc biệt là khi tìm hiểu các loại hình nhân vật mang yếu

tố kì ảo trong tác phẩm, kết quả của việc thống kê số liệu góp phần tăng thêm

tính chính xác và tính thuyết phục cho luận văn.

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp so sánh lịch đại

và đồng đại, thời gian sáng tác, lịch sử xã hội ảnh hưởng đến quá trình sáng tác

để đối chiếu so sánh ba tác phẩm với nhau, để từ đó thấy được những đóng góp

của tác phẩm và quá trình phát triển của thể loại truyền kì.

- Phương pháp tổng hợp, khái quát vấn đề

Những phương pháp trên không phải được sử dụng độc lập, mà trong quá

trình nghiên cứu và thực hiện công trình, người viết đã phối kết hợp sử dụng

các phương pháp để đạt kết quả cao nhất.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung chính

của đề tài gồm:

Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài.

Chương 2: Đặc điểm nhân vật mang yếu tố kì ảo trong Truyền kì tân

phả; Tân truyền kì lục; Lan Trì kiến văn lục.

Chương 3: Nội dung tư tưởng của tác phẩm qua hệ thống nhân vật mang

yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Một số vấn đề về truyện truyền kì

1.1.1. Khái niệm

Thể loại truyền kỳ có nhiều định nghĩa

Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

1992 thì “kỳ” có nghĩa là lạ lùng.

Theo tác giả Đoàn Lê Giang trong bài viết “Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda

Akinari và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” thì “kỳ là cái khác thường, cái

hiếm có thậm chí là không hề có trong hiện thực” [25, tr. 51].

Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc

Phi: Tiểu thuyết truyền kì còn gọi là truyện truyền kì và được xác định như sau:

“Thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời

Đường… Kì nghĩa là không có thực nhấn mạnh tính chất hư cấu. Thoạt đầu

tiểu thuyết truyền kì mô phỏng truyện chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc

lập. Có loại miêu tả cuộc đời biến ảo như mộng.. có loại ca ngợi tình yêu nam

nữ… có loại miêu tả hào sĩ hiệp khách…” [28, tr. 342].

Các tác giả Từ điển văn học (bộ mới) giới thuyết về khái niệm này đầy

đủ, chi tiết hơn: “Một hình thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ

truyện kể dân gian, sau các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử

dụng các môtip kì quái, hoang đường lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần

thế (…) Tuy nhiên trong truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và

chính nhân vật mang hình thức phi nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng

đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì

mang đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc” [29, tr. 447].

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Như vậy, định nghĩa về thể loại này khá thống nhất. Nhìn chung, các nhà

nghiên cứu đều thống nhất truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự thời trung

đại được đặc trưng bởi tính chất hư cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt truyện, nhằm

phản ánh hiện thực cuộc sống.

1.1.2. Quá trình phát triển

Truyện truyền kì hay còn gọi là tiểu thuyết truyền kì là một hình thức

văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc xuất hiện vào đời Đường. Xuất hiện trong

văn học với tư cách là một thể loại truyện văn xuôi tự sự, tiểu thuyết truyền kì

bắt đầu có từ thời Ngụy - Tấn, Nam Bắc Triều (Trung Hoa) (khoảng từ thế kỉ

thứ III đến đầu thế kỉ VI) với tên gọi đầu tiên là chí nhân, chí quái. Chúng bắt

nguồn từ những chuyện trong dân gian. Tuy khoác áo hoang đường kì ảo,

nhưng phần lớn chí nhân, chí quái thời này vẫn phản ánh được ở một mức độ

nhất định hiện thực cuộc sống đương thời. Đó là lối sống hủ bại của giai cấp

phong kiến, nỗi khổ của người dân lao động, niềm mơ ước của họ về một xã

hội công bằng tốt đẹp và tinh thần đấu tranh bất khuất của họ chống cường

quyền. Truyện truyền kì thời Đường ra đời trên cơ sở truyện chí quái thời Lục

triều (Thế kỉ III - Thế kỉ VI), tiêu biểu là các truyện: U minh lục; Bạch Vân

truyện; Du tiên quật… Truyện chí quái là một thể loại văn xuôi tự sự trong văn

học Trung Quốc, thường ghi chép lại những điều li kì, quái đản, xuất hiện dưới

thời Lục triều. Nội dung rất phức tạp, có loại ghi những câu chuyện kì lạ về địa

lý, động thực vật, có truyện mang tính chất dã sử, có chuyện kể về những

truyện thần quái… Đằng sau yếu tố hoang đường kì ảo là hiện thực mà tác giả

muốn đề cập đến, rồi chuyển sang tình yêu tài tử giai nhân, tiêu biểu là các

truyện Lý Oa truyện, Oanh Oanh truyện. Đây cũng là thời kì phát triển cao của

tiểu thuyết truyền kì với nhiều tác giả và tác phẩm nổi tiếng. Yếu tố thần kì

trong giai đoan này không phải do lực lượng siêu nhiên được nhân hóa như

truyện thần thoại hay như trong truyện cổ tích mà phần lớn ở ngay hình thức

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“phi nhân tính” của nhân vậy như hồn ma, hồ ly… tuy nhiên trong truyện bao

giờ cũng có nhân vật là người. Đến thời kì cuối, truyện truyền kì nổi bật với

truyện về hào khí hiệp khách.

Đến thời Minh - Thanh thì tên gọi truyền kì không chỉ dùng để chỉ một

thể loại tự sự mà nó còn dùng để chỉ loại văn học diễn xướng. Thời kì Minh -

Thanh cũng là một trong những giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của truyền

kì, chí dị, trong đó nổi bật hai tên tuổi lớn là Cù Hựu - tác giả Tiễn đăng tân

thoại và Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị.

Theo các nhà nghiên cứu thì hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển,

truyện truyền kì Trung Quốc đã để lại những thành tựu rực rỡ và có sức ảnh

hưởng lớn đến nền văn học của các nước đồng văn trong khu vực. Trong đó,

tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu có sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất,

thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kì ở ba nước Đông Á còn lại như Kim

Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493, Triều Tiên), Truyền kì mạn

lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỉ XVI, Việt Nam), Già tỳ tử của Asai Ryohi

(1612 - 1691, Nhật Bản). Kim Ngao tân thoại hoàn thành vào khoảng giữa thế

kỉ XV, là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của Hàn Quốc, có giá trị cao trong văn

học cổ điển nước này. Già tỳ tử cũng có một vị trí quan trọng trong văn học

Nhật Bản, dù không phải là truyện thần quái đầu tiên, nhưng là tác phẩm điển

hình theo kiểu truyện truyền kì của Nhật.

Truyện truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyện truyền kì Trung Quốc

nhưng có quá trình hình thành và phát triển gắn với nền văn hóa và văn học dân

tộc đặc biệt là với văn hóa dân gian và văn xuôi lịch sử. Cũng giống như các

thể loại Hịch, Chiếu, Cáo, thể truyện truyền kì Trung Hoa được ông cha ta tiếp

nhận trên tinh thần sáng tạo với những sắc thái tâm lý, phong tục, ngôn ngữ, địa

danh riêng biệt của Việt Nam. Truyện truyền kì Việt Nam đã lấy con người với

cuộc sống đời thường của họ làm đối tượng chủ yếu để phản ánh. Nội dung cơ 9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bản của truyền kì Việt Nam là viết về tình yêu tự do nam nữ, về kiếp sống khổ

đau của những người bất hạnh, về xã hội đầy rẫy bất công đáng lên án…

Truyện truyền kì Việt Nam ra đời ngay từ thế kỉ đầu X và chúng tồn tại

suốt thời trung đại. Số lượng tác phẩm truyền kì Việt Nam tuy không nhiều

nhưng cũng đủ để tạo nên một khuôn mặt có đường nét riêng mang bản sắc dân

tộc. Theo PGS Nguyễn Đăng Na, truyện truyền kì Việt Nam tồn tại và phát

triển từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, thể truyền kì phát triển qua 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV

Đây là giai đoạn hình thành truyền kì Việt Nam, các tác phẩm chỉ mới

chứa đựng yếu tố truyền kì. Chúng có đặc điểm là, chưa tách khỏi văn học dân

gian cũng như văn học chức năng hành chính và lễ nghi

Tác phẩm gồm hai loại chính: Một là, truyện dân gian do sưu tầm, ghi

chép, chỉnh lí; hai là, truyện lịch sử dân tộc và truyện lịch sử tôn giáo (bao gồm

cả các truyện về lễ nghi, tín ngưỡng, phong tục tập quán…). Tiêu biểu cho loại

thứ nhất có Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp. Loại thứ hai lại chia

làm hai nhóm. Nhóm một là những tác phẩm phản ánh trực tiếp lịch sử dân tộc

như Ngoại sử kí của Đỗ Thiện, phần Ngoại kỉ trong sách Đại Việt sử kí của Lê

Văn Hưu…; nhóm hai là các tác phẩm gắn với lịch sử tôn giáo (lễ nghi, tập tục,

tín ngưỡng…) gồm: Báo cực truyện (khuyết danh), Việt điện u linh tập của Lí

Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh), Tổ gia thực lục (khuyết

danh),… Nếu xếp tác phẩm mang yếu tố truyền kì ở thế kỉ X-XIV theo thời

gian, ta sẽ có: Báo cực truyện thế kỉ XI, Ngoại sử kí thế kỉ XII, Ngoại kỉ thế kỉ

XIII, Việt điện u linh tập nửa đầu thế kỉ XIV, Ngữ lục giữa thế kỉ XIV, Tổ gia

thực lục nửa sau thế kỉ XIV, Lĩnh Nam chích quái lục cuối thế kỉ XIV… Mặc

dù chưa thoát khỏi văn học dân gian và văn học chức năng, truyền kì thế kỉ X-

XIV giữ vị trí quan trọng: đặt nền móng về nội dung cũng như phương thức tư

duy nghệ thuật cho dòng truyền kì sau này.

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Do truyền thống truyện dân gian và yêu cầu của lịch sử, truyền kì thế kỉ

X-XIV chủ yếu tập trung vào việc khẳng định nước Việt là một quốc gia độc

lập, có lịch sử lâu đời từ thời các vua Hùng, An Dương Vương,…; có lãnh

thổ, có quyền và có tương lai trường tồn. Đất nước Việt đâu đâu cũng có anh

tài. Nhân kiệt, địa linh, hạo khí núi sông là những nhân tố đảm bảo cho tương

lai dân tộc, là điểm tựa tinh thần cho người Việt vượt qua những cơn hiểm

nghèo. Một đất nước như vậy sẽ không thế lực nào có thể xâm phạm được. Với

nội dung ấy, nhân vật trong truyện phần lớn là những anh hùng Việt Nam thời

xa xưa được truyền thuyết hoá, thần thánh hoá, mang tầm vóc sử thi.

Về nghệ thuật, các môtíp dân gian như, “thụ thai thần kì”: có thai do

ướm vết chân (Đổng Thiên vương), bước qua người (Man nương), mặt trời rơi

vào bụng (Huyền Quang), hoa sen mọc từ bụng (Lê Hoàn), do thần quan hệ

(Hà Ô Lôi)…; “ra đời thần kì”: đẻ ra trứng, đẻ ra bọc (họ Hồng Bàng, Hà Ô

Lôi…), lúc ra đời có ánh sáng lạ, có hương thơm ngào ngạt (các thiền sư

trong Tổ gia thực lục, Ngữ lục…); “xuống thuỷ phủ” (họ Hồng Bàng, Ngư

tinh…); “lên trời” (Đổng Thiên vương); “diệt yêu quái” (Ngư tinh, Hồ tinh,

Mộc tinh…); “người xấu có giọng hát ngọt ngào làm mê đắm các cô nàng xinh

đẹp” (Hà Ô Lôi), “duyên kì ngộ” (Đầm Nhất Dạ…); “chết kì lạ” (hoá đá, hoá

cây, thành thần, hoặc ngồi kiết già…),… là cơ sở cho sự ra đời loại hình truyền

kì đích thực ở giai đoạn tiếp theo.

- Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV kỉXVII

Đây là giai đoạn phát triển và đạt đỉnh cao của truyền kì Việt Nam. Ở

giai đoạn này, truyền kì đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và

văn học chức năng, tự sáng tạo ra loại hình truyện ngắn đích thực. Thành tựu

nổi bật là hai tác phẩm Thánh tông di thảo tương truyền của Lê Thánh Tông

(1442 - 1497) và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bằng tác phẩm của mình,

Nguyễn Dữ và Lê Thánh Tông đã phóng thành công con tàu truyền kì vào quỹ

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đạo nghệ thuật: lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh. Ngoài ra

còn có Thiên Nam vân lục liệt truyện của Nguyễn Hãng, Nam Xương tứ quái

truyện (khuyết danh), Ngọc Thanh u minh thần lục (khuyết danh), Nam Ông

mộng lục của Hồ Nguyên Trừng…

Nếu như truyền kì từ thế kỉ XIV trở về trước đều là những tác phẩm ghi

chép lại những con người và sự việc có sẵn trong đời sống hiện thực bằng cách

thần thánh hóa nhằm nêu gương tốt trong thiên hạ với số lượng không nhiều và

tình tiết khá đơn giản, thì truyện truyền kì từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII có một

bước phát triển lớn.

Tác phẩm đầu tiên Thánh Tông di thảo là một tác phẩm vừa có phóng

tác, vừa có tái tạo và hư cấu. Song được coi là cột mốc đánh dấu sự phát triển

của văn tự sự từ chỗ ghi chép đơn thuần đến tự sáng tạo ra một tác phẩm mới.

Đến Truyền kì mạn lục thì thể truyền kì mới thực sự đạt đến đỉnh cao.

Nguyễn Dữ chính là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ truyền kì đặt tên cho tác

phẩm. Nếu như ở Thánh tông di thảo, vấn đề người phụ nữ đã được đề cập đến

nhưng thường kết thúc có hậu thì đến Truyền kì mạn lục người phụ nữ mới hiện

lên với đầy đủ mọi góc cạnh đặc biệt là bi kịch của họ.

Tuy nhiên truyện truyền kì giai đoạn này không chỉ có bi thương, Lê

Thánh Tông và Nguyễn Dữ còn đưa người đọc vào thế giới diệu huyền của tình

yêu - một thứ tình cảm rất trần thế của con người với tất cả các cung bậc cảm

xúc của nó: ngọt ngào, nồng nàn, hạnh phúc, đắng cay… Có thể nói đúng như

Nguyễn Đăng Na nói “hai tác giả đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự

vào quỹ đạo nghệ thuật: Văn học lấy con người làm đối tượng và trung tâm

phản ánh” [50, tr. 47].

- Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX

Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là thế kỉ đầy bão táp và biến động. Lúc này

chế độ phong kiến đã ở vào cảnh chợ chiều nên càng bộc lộ rõ hơn bản chất 12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bảo thủ và phản động. Cùng với sự rệu rã của chính quyền phong kiến là các

cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn

do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lãnh đạo. Nghĩa quân

Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã lật

đổ chính quyền phong kiến trong nước và đuổi sạch giặc phương Bắc, tạm thời

ổn định đất nước sau bao cuộc “thay vua, đổi chúa”. Nhưng cái chết đột ngột

của nhà vua trẻ Quang Trung đã sớm kết thúc sự nghiệp của Tây Sơn và

Nguyễn Ánh lên nắm quyền lập ra triều đại nhà Nguyễn. Song những cuộc

chiến tranh tranh tàn khốc chưa lùi vào dĩ vãng bao xa thì tiếng súng thực dân

đã nổ và nước ta lại rơi vào cuộc chiến mới, có thể nói là tàn khốc nhất trong

lịch sử và nó kéo dài gần hết thế kỉ XX. Đất nước thực sự có những thay đổi

lớn lao, “những cái cũ bụi bặm của thời đại đang bị đập phá từ cơ sở hạ tầng

đến kiến trúc thượng tầng”. Văn học trung đại nói chung và truyện truyền kì

nói riêng cũng nằm trong guồng quay ấy của thời đại. Quan điểm văn chương

thay đổi thể hiện trong cách viết, cách phản ánh hiện thực: đó là viết về những

“sở văn”, “sở kiến” và phản ánh trực tiếp, tức thời những điều mắt thấy tai

nghe, những điều xảy ra quanh ta. Truyện truyền kì giai đoạn này đã có sự

chuyển mình: Các tác giả truyền kì muốn “canh tân” thể loại này để nó mang

một màu sắc mới và để báo cho người đọc biết việc làm ấy, họ đã thêm chữ

“tân” vào nhan đề của mình như Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm) hay Tân

truyền kì lục (Phạm Qúy Thích). Và sự thật các tác giả ấy đã cố gắng viết về

“người thật việc thật”, cố gắng “bám sát” các sự kiện đương thời.

Có thể nói sự “canh tân” này của tác giả truyền kì thế kỉ XVIII đến thế kì

XIX đã đưa truyền kì dần xa với đặc trưng thể loại và ở một mức độ nào đó nó

đã bước đầu kịp thời phản ánh hiện thực, một hiện thực có thể nhìn ngắm, nghe

ngóng xung quanh ta. Nói một cách khác, sự canh tân này trên quan điểm hiện

thực là một tiến bộ, nhưng dưới góc nghệ thuật truyền kì thì đó lại là một bước 13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thụt lùi. Bởi lẽ càng trung thành với nguyên mẫu ngoài đời bao nhiêu, đôi cánh

của truyền kì càng bị vặt trụi bấy nhiêu. Do đó, ở giai đoạn này thể truyền kì đã

không còn sự phát triển như trước cả về nội dung, hình thức, yếu tố kì ảo đã

không đậm nét như trước.

Cũng trên quan điểm ấy, Vũ Trinh đã tiến thêm một bước nữa. Ông

không gọi tác phẩm của mình là tục, tân (truyền kì) như các tác giả Đặng Trần

Côn, Phạm Quý Thích hay Đoàn Thị Điểm mà gọi thẳng nó là Kiến văn lục

(Lan Trì kiến văn lục): Nghĩa là truyện về những điều mắt thấy tai nghe của

Lan Trì và đồng thời Vũ Trinh cũng giảm bỏ tối đa các bài thơ, ca trong tác

phẩm của mình. Với việc làm này, tác giả Lan Trì kiến văn lục đã đưa truyện

truyền kì tiến đến gần hơn một bước tới hình thức truyện cận - hiện đại.

Trong giai đoạn này, chỉ có Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (gồm

bốn truyện) theo Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp tuyển dịch, là còn mang khá

đậm nét đặc trưng thể loại. Nhìn chung khuynh hướng tư tưởng của nó cũng

tương tự khuynh hướng tư tưởng của Truyền kì mạn lục. Đó là sự nhất trí trong

cách nhìn nhận và đánh giá các hiện tượng của đời sống, là thái độ nghi ngờ

các giá trị cũ và có ý hướng tới các giá trị mới. Theo GS Trần Đình Sử, Truyền

kì tân phả so với Truyền kì mạn lục thì “rườm lời hơn, thơ ca thù tạc lại quá

nhiều” [13, tr. 356], còn tác giả Phan Huy Chú thì cho rằng “văn từ đẹp đẽ

nhưng khí cách hơi yếu, không được bằng sách trước (tức Truyền kì mạn lục)

[13, tr 358]. Tuy nhiên Truyền kì tân phả đã mang dấu ấn riêng của cá nhân và

tinh thần dân tộc. Tác phẩm là tiếng nói đề cao nữ quyền và nối liền sự đứt

đoạn của văn học dân gian, tác phẩm có liên quan đến văn học và lễ hội dân

gian. Truyện Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu (Bích Câu kì ngộ) có liên quan đến

câu chuyện cổ tích về chàng Tú Uyên lấy vợ tiên tuy nhiên trong chiều sâu thì

truyện liên quan đến đạo tu tiên ở Việt Nam. Ba truyện còn lại là Truyện người

liệt nữ ở An Ấp (An Ấp liệt nữ lục), truyện nữ thần ở Vân Cát (Vân Cát thần nữ

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lục), Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) đều liên quan đến việc

thờ cúng trong dân gian. Như vậy những tác phẩm này có khả năng phản ánh

nhiều vấn đề của đời sống xã hội và có ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa dân

tộc. Ở những tác phẩm sau truyện ít có sự gia công, cốt truyện đơn giản, yếu tố

kì ảo không bằng Truyền kì mạn lục. Truyền kì tân phả là điểm sáng cuối cùng

của thể loại truyện truyền kì, đồng thời cũng là cái mốc đánh dấu sự xuống dốc

của thể loại này trước khi nó kết thúc ở cuối thế kỉ XIX.

Tóm lại, truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyền kì Trung Quốc,

được viết bằng chữ Hán. Truyện truyền kì Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn

hóa dân gian, của truyện sử… Thể loại này phát triển mạnh vào khoảng thế kỉ

XVI đến đầu thế kỉ XVIII, đến cuối thế kỉ XVIII thì suy thoái dần. Sang thế kỉ

XIX, thể truyền kì hòa vào thể loại sử với tạp ký, ngẫu lục và hình thức cũng sơ

lược hơn.

1.1.3. Nhân vật văn học và nhân vật truyện truyền kì

1.1.3.1. Nhân vật văn học

Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn

giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh

thiên nhiên, những lời bình luận... đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng

cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc

xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn

người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người

được nhà văn thể hiện.

Văn học tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, có vai trò như

những tấm gương phản chiếu cuộc đời. Văn chương phản ánh đời sống bằng

hình tượng. Chính vì lẽ đó, trong những sáng tác văn học không thể thiếu

nhân vật. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực cuộc

sống. Nhân vật là “Hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh

con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh

thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống như con người” [4, tr.

241]. “Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm, nhưng tự nó lại là

một trong các phương diện của kết cấu tác phẩm” [43, tr. 212]. Nhân vật

đứng ở vị trí trung tâm của tác phẩm văn học. Nhân vật khái quát những quy

luật của cuộc sống, là phương tiện khái quát tính cách, số phận con người và

các quan niệm về chúng. Nó còn là hình chiếu của những dồn nén tâm lý hoặc

sự phản chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc được coi như là hình chiếu

của đời sống xã hội.

Nhân vật văn học in dấu những xu hướng tiến hóa của tư duy nghệ thuật,

là nơi tập trung thể hiện ý đồ nghệ thuật, quan niệm về con người và cuộc sống

của nhà văn. Nhân vật là nơi mà nhà văn gửi gắm thông điệp của mình và cũng

là nơi tiếp nhận, giải mã hiện thực hay phi hiện thực cốt yếu được đặt ra trong

tác phẩm. Bởi thế nhân vật luôn gắn bó chặt chẽ với chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân,

một loài người, một vấn đề nào đó của hiện thực đời sống. Nhân vật như chiếc

chìa khóa mở ra thế giới riêng của đời sống con người trong một thời kì lịch sử

nhất định. Nghiên cứu nhân vật sẽ thấy được tư tưởng, tình cảm, tài năng sáng

tạo của người cầm bút.

Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ

thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn

từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng,

liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ

của nó.

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhân vật luôn gắn với cốt truyện bởi nó được miêu tả qua các biến cố,

xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Khác với hình tượng hội họa,

điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được

bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình, nhân vật

văn học vừa có đặc điểm phổ quát, vừa có đặc điểm cá biệt của thể loại.

Từ những góc độ khác nhau, nhân vật được chia thành nhiều kiểu loại

khác nhau. Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác

phẩm có nhân vật chính và nhân vật phụ. Dựa vào đặc điểm của tính cách,

việc truyền đạt lý tưởng của nhà văn, có nhân vật chính diện và phản diện.

Dựa vào cấu trúc hình tượng có nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân

vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Dựa vào thể loại văn học có nhân vật tự sự,

nhân vật trữ tình, nhân vật kịch.

Vì tính chất thể loại khác nhau nên nhân vật trong tác phẩm tự sự sẽ

khác nhân vật trong tác phẩm trữ tình và cũng không giống nhân vật kịch.

Nó mang đặc điểm riêng đặc trưng thể loại. Trong tác phẩm tự sự nhân vật

phản ánh đời sống trong tính khách quan. Thông qua những hành vi, biến cố,

sự kiện xẩy ra với các nhân vật, đời sống con người được tái hiện rõ nét với

những bản chất nhất định.

Nhân vật tự sự tái hiện toàn bộ thế giới thể hiện mọi biểu hiện bên

trong và bên ngoài của con người. Chúng được xem là những sự kiện khác

nhau về cuộc sống con người. Sự kiện đó chính là sản phẩm của mối quan

hệ của con người và hoàn cảnh, môi trường. Bởi thế tác phẩm tự sự có khả

năng phản ánh cuộc sống một cách bao quát, rộng lớn. Đó là lý do mà nhân

vật tự sự được miêu tả trong vô vàn mối quan hệ phức tạp giữa nó và môi

trường xung quanh. Trong mối quan hệ đó, nhân vật dường như hoạt động tự

do theo ý muốn của nó, nhưng thực ra mọi hoạt động của nó đều do tác động

của hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Mặt khác sự kiện là những mối

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

liên hệ của thế giới, cho thấy các phương diện khác nhau của nó. Theo mối

liên hệ của sự kiện thì nhân vật trong tác phẩm tự sự có thể dẫn dắt người

đọc theo nhiều miền khác nhau, có thể đắm mình trong hiện tại, lại có thể lùi

về với dĩ vãng xa xôi. Nhân vật trong tác phẩm tự sự khác với nhân vật trong

tác phẩm trữ tình và kịch là ở chỗ không bị không gian và thời gian hạn chế.

Do vậy nhân vật tự sự được khắc họa đầy đủ nhiều mặt nhất, hơn hẳn các

nhân vật trữ tình và kịch.

Nhân vật trong tác phẩm tự sự được miêu tả bằng các chi tiết chân

dung, ngoại hình, tâm trạng. Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn,

xung đột, sự kiện. Các mâu thuẫn xung đột luôn làm cho nhân vật bộc lộ

phẩm chất sâu kín. Song nhân vật thường bộc lộ mình nhiều nhất qua việc

làm, hành động, ý nghĩ. Nhân vật trong tác phẩm tự sự có thể được miêu tả một

cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối

với nhân vật, qua đồ vật, môi trường và nhân vật sống.

Sự thể hiện nhân vật văn học nói chung, nhân vật trong tác phẩm tự sự

nói riêng bao giờ cũng nhằm khái quát nội dung đời sống xã hội và một quan

niệm sâu sắc, cảm hứng tha thiết của tác giả đối với cuộc đời. Nhân vật là một

hình thức văn học để phản ánh hiện thực. Hình thức ấy rất đa dạng để thể hiện

được các khía cạnh vô cùng phong phú của cuộc sống.

1.1.3.2. Nhân vật truyện truyền kì và nhân vật mang yếu tố kì ảo

* Nhân vật truyện truyền kì

Trong một công trình nghiên cứu về truyện truyền kỳ Trung Quốc,

Lâm Ngữ Đường khẳng định: “Đoản thiên tiểu thuyết chỉ thực sự trở thành

một hình thức nghệ thuật kể từ đời Đường (thế kỷ VIII và thế kỷ IX). Trong

đó những đoản thiên tiểu thuyết dồi dào tính nghệ thuật nhất lại là loại

truyền kỳ. Loại truyện truyền kỳ này đều ngắn gọn, thường vào khoảng nghìn

chữ trở lại, viết theo lối văn cổ, đặc biệt sống động, lạ kỳ, vô cùng kích thích

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trí tưởng tượng” [23, tr.6]. Truyện truyền kỳ còn gọi là đoản thiên tiểu

thuyết truyền kỳ hay tiểu thuyết truyền kỳ. Nó chính là “một hình thức văn

xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được

các nhà văn nâng lên thành bác học, sử dụng những môtíp kỳ quái, hoang

đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú cho

người đọc” [29, tr.1730]. Tiểu thuyết truyền kỳ có nhiều đặc điểm nổi bật,

trong đó có những đặc điểm mà chúng ta cần lưu ý là dung lượng nhỏ, kết cấu

không phải theo truyện dài thu ngắn, phần nào đã có dáng dấp của thể loại

truyện ngắn cận hiện đại. Truyện truyền kỳ có sự tham gia của các yếu tố

thần kỳ vào câu chuyện. Song đó không phải là do những lực lượng tự nhiên

được nhân hóa như kiểu thần thoại, hoặc những nhân vật có phép lạ như thần

tiên, trời, bụt… trong truyện cổ tích thần kỳ mà phần lớn ở ngay hình thức

phi nhân tính của nhân vật (hồ ly, ma quỷ, vật hóa người). Điều dĩ nhiên là

trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật, và chính những

nhân vật mang hình thức phi nhân đó thì cũng chỉ là cách điệu, phóng đại của

tâm lý, tính cách của một loại người nào đấy. Đó là nguyên do tạo nên giá trị

nhân bản sâu sắc của truyện truyền kỳ.

Truyện truyền kỳ đời Đường kế thừa truyền thống chí quái thời Lục

triều, tuy nhiên hai loại tác phẩm này cũng có sự khác biệt. Chí quái chủ yếu

viết về thiên linh quái đản, còn nhân vật chủ yếu trong truyện truyền kỳ là

con người. Ở thời Vãn Đường tiểu thuyết truyền kỳ dưới hình thức từng

chương riêng rẽ, có giá trị kiệt xuất không còn bao nhiêu, chỉ thấy một vài

thiên lưu lại như: Vô Song truyện, Linh ứng truyện,… đều không rõ tác giả.

Tuy các tập truyện truyền kỳ xuất hiện với số lượng rất lớn như Huyền quái

lục, Tục huyền quái lục… nhưng rất ít truyện còn giữ được cảnh miêu tả sinh

động, tinh tế như trước mà đa số các truyện đều vụn vặt, cốt truyện đều đã

được giản lược.

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Truyền kỳ trải qua ba thế kỷ, chính là sự sáng tạo nghệ thuật có ý

thức. Chính bản thân thể loại đã tự vận động để đổi mới so với tiểu thuyết

chí quái. Những đổi mới về đề tài, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ cho thấy tiểu

thuyết truyền kỳ đã có bước tiến rõ rệt trong tiến trình lịch sử của mình. Về

đề tài, đây là một bước ngoặt quan trọng, phản ánh sự chuyển biến từ nội

dung ma quái sang nội dung xã hội, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội thị

dân, mặc dù cái vỏ kỳ ảo vẫn còn. Về kết cấu, tiểu thuyết truyền kỳ đã trở

thành những đoản thiên tiểu thuyết tương đối hoàn chỉnh, đa dạng, tình tiết

phong phú, hấp dẫn. Nhân vật của tiểu thuyết truyền kỳ được xây dựng với

dụng ý nghệ thuật cao, phức tạp hơn hình tượng nghệ thuật của truyện chí

quái. Ngôn ngữ của tiểu thuyết truyền kỳ đan xen tản văn và biền văn, việc

biểu hiện sắc thái tình cảm qua lời thoại của nhân vật cũng trở nên uyển

chuyển hơn. Song phải khẳng định một điều rằng bước tiến của truyện

truyền kỳ tuy vượt lên rất xa trong nghệ thuật tiểu thuyết so với chí quái

nhưng trên một tiến trình lịch sử vẫn có những bước thăng trầm nhất định.

Vào giai đoạn Vãn Đường, yếu tố thần quái lại chi phối cảm hứng nhà văn

và nhiều tập, sắc thế tục trong nội dung xã hội của thể loại bị hạ thấp, nghệ

thuật sút kém trông thấy. Nhưng xét đến cùng, nỗi khát khao tìm kiếm

những điều quái dị trong thế giới khách quan vốn là một tâm thức xã hội,

một nhu cầu không thể dập tắt của con người thời trung đại, chính nó lại đặt

ra cho truyện truyền kỳ một thử thách mới: Phải nỗ lực tìm tòi biến cải về

nghệ thuật để chuyển bằng được cái “quái” trở thành một đối tượng thẩm

mỹ cao hơn.

Với ưu thế đó truyện truyền kỳ trở thành một thể loại có tính chất

quốc tế. Nó được sử dụng phổ biến trên một không gian rộng lớn gồm Trung

Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… Trong hàng chục thế kỷ truyền kỳ

là một kiểu truyện ngắn có nguồn gốc từ Trung Quốc được đưa vào Việt 20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nam và thực sự phát triển ở thế kỷ XV với Thánh Tông di thảo (Lê Thánh

Tông), nở rộ rực rỡ ở thế kỷ XVI với Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ). Thể

loại này còn tiếp tục phát triển ở thế kỷ XVIII với Truyền kỳ tân phả (Đoàn

Thị Điểm), thế kỷ XIX với Tân truyền kỷ lục của Phạm Quý Thích, Lan Trì

kiến văn lục của Vũ Trinh.

Ở Việt Nam khái niệm “truyện truyền kỳ” được hiểu rộng hẹp khác

nhau. Một số nhà nghiên cứu xếp tất cả các tác phẩm văn xuôi có yếu tố

thần linh ma quái hoặc kỳ dị vào truyện truyền kỳ. Trong khi đó các nhà

nghiên cứu khác lại đặt tiêu chí hư cấu của nhân vật cao hơn cả và cho rằng

chỉ xếp vào truyện truyền kỳ những truyện có con người là nhân vật chính

chứ không phải thần linh ma quỷ. Song đặc điểm chung vẫn là ở tính hấp

dẫn của truyện truyền kỳ. Nó luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi chính

yếu tố hư cấu. Và lẽ tồn tại của truyện truyền kỳ là ở chỗ đưa đến một bức

tranh lạ về thế giới hiện thực và con người bằng cách nhìn khác nhau.

Trong truyện truyền kỳ, nhân vật có vị trí hết sức quan trọng. Với văn

xuôi tự sự nói chung, “sự lựa chọn nhân vật, xây dựng những mối quan hệ

giữa các nhân vật là đặc điểm hội tụ nội dung tác phẩm, là phương tiện

nghệ thuật thể hiện quan niệm về con người, về xã hội của mỗi tác giả” [37,

tr.65]. Nhân vật là phương tiện quan trọng bậc nhất thể hiện tư tưởng trong

tác phẩm tự sự nói chung, truyện truyền kỳ nói riêng, nó được coi là phương

tiện thứ nhất của tác phẩm ấy, quyết định phần lớn cốt truyện, kết cấu, việc

lựa chọn chi tiết và các phương tiện ngôn ngữ. Hệ thống nhân vật thể hiện

trình độ tư duy nghệ thuật của thời đại văn học, thể loại và tư tưởng tác giả,

nó còn góp phần khu biệt đặc trưng thể loại. Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ

mạn lục hay Lan Trì kiến văn lục đều có thành tựu ở việc khắc họa hệ thống

hình tượng nhân vật. Đặc biệt Lan Trì kiến văn lục đã xây dựng được một

tuyến nhân vật đa dạng, độc đáo và cũng khá đậm nét đặc trưng thể loại.

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Ở một trình độ cao, kì là phương thức tư duy nghệ thuật kiểu phương

Đông để tạo nên những kì văn. “Nhìn chung yếu tố kì ảo vốn được sử dụng

rộng rãi trong nhiều tác phẩm tự sự thời trung đại. Một lẽ giản dị: yếu tố kì ảo

là sản phẩm của lối tư duy trung đại, được các nhà văn mặc nhiên thừa nhận là

một phương diện nghệ thuật có tính đặc thừ. Theo quan niệm truyền thống, văn

chương muốn có sức đi xa phải được chắp đôi cánh của cái kì, cái lạ. Nghê

Trác nói: Vô truyền bất kì, vô kì bất truyền.” [9, tr.449]. “Yếu tố kì mãi mãi là”

dư ba” của văn học trung đại chất phác, thô sơ, khắc nghiệt nhưng cũng đầy

huyền thoại và nên thơ” [18, tr.20]. “Nhìn chung yếu tố kì tạo nên sức hấp dẫn,

làm bề nổi cho câu chuyện và truyền kì như khoác một cái áo sặc sỡ, bắt mắt.

Và đó là cái áo trong tay nhà ảo thuật” [72, tr49].

* Nhân vật mang yếu tố kì ảo

Trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1992 thì kì ảo là hư ảo, lạ kì, lạ lùng.

Nếu “kì” là hạt nhân, là phạm trù, là nguyên tắc thẩm mỹ độc đáo của

văn học nói chung, thì “ảo” là tính chất, là một dạng biểu hiện của cái “kì”.

Như vậy, “kì” là hạt nhân tư tưởng thẩm mĩ và “ảo” là biểu hiện, là tính chất

thể loại.

Do đó, “nhân vật mang yếu tố kì ảo” được hiểu là những nhân vật mà

người nghệ sĩ đã hư cấu, đã sáng tạo ra, là nhân vật kì lạ, vừa lạ thường vừa

không có thực theo quan điểm nhận thức duy lí, khoa học của con người theo

quy luật khách quan ngoài đời sống. Là những nhân vật - sản phẩm của trí

tưởng tượng với những quan niệm tâm linh. Nhân vật mang yếu tố kì ảo đó có

bắt nguồn từ trong tín ngưỡng dân gian, trong các hình thức tôn giáo khác nhau

của đời sống.

Hệ thống nhân vật mang yếu tố kì ảo trong văn học trung đại Việt Nam

gồm hai loại lớn: nhân vật dị thường, phi thực và nhân vật trần thực. Trong hệ

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thống nhỏ: nhân vật dị thường phi thực lại có thể phân thành nhân vật dị hình

và nhân vật biến hình. Sự phân loại trên đây chỉ mang tính chất tương đối.

Trong thực tế, có những nhân vật vừa dị hình, vừa có tính biến hình, hóa thân.

Phi thực hay trần thực, dị thường về ngoại hình, diện mạo hay ảo ảo, kì kì

trong cách ứng xử thì suy cho cùng cũng là biểu hiện khác nhau của hiện thực

mà thôi.

Những biểu hiện “kì” của nhân vật được miêu tả ở nguồn gốc ra đời, ở

hành tung, thái độ ứng xử, năng lực, hành động. Tất cả nhuốm màu kì lạ.

Những biếu hiện khác nhau ấy lại được dệt nên từ tấm khung chung: nguyên

tắc mĩ học của cái “kì” được nhuộm màu ảo diệu, phi thực của thuốc thần là

bản thân cuộc sống. Trong văn học, phương thức sáng tạo của nhân vật mang

yếu tố kì ảo chủ yếu là“vẽ rồng điểm mắt”, “vẽ mây nảy trăng”. Đây chính là

những phương thức sáng tạo quen thuộc, nó đã trở thành phương thức sáng tạo

truyền thống. Qua đó, nhà văn sáng tạo được thời gian, không gian mộng ảo

nhằm xây dựng nên những “kì nhân” (nhân vật mang yếu tố kì ảo) trong văn

học nói chung.

Để biến các sự vật phi vật thể và vật thể hữu hình, hình thành các nhân

vật trong tác phẩm của mình, tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa và thần kì

hóa. Trong truyện truyền kì, các tác giả sử dụng yếu tố kì ảo không phải chỉ với

chức năng vỏ bọc che giấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư cách một

bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Các tác giả đã phản ánh

hiện thực qua cái kì lạ, qua nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì.

1.2. Một số tác phẩm truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX

1.2.1. Truyền kì tân phả

Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát

triển mạnh của dòng văn học mang tính nhân văn sâu sắc, với các tác phẩm đề

cao vai trò của người phụ nữ, đề cao quyền sống của con người, bênh vực cho 23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hạnh phúc lứa đôi, tiêu biểu cho dòng văn học nữ lưu này chính là nữ sĩ Đoàn

Thị Điểm là tác giả của tập Truyền kì tân phả.

Đoàn Thị Điểm (1705- 1748), hiệu Hồng Hà nữ sĩ, là nữ sĩ Việt Nam

thời hậu Lê. Bà là người làng Giai Phạm (sau đổi thành Hiến Phạm), huyện

Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Theo Đoàn thị thực lục

thì bà nguyên họ Lê. Tổ phụ của bà là Lê Công Nấm, võ quan triều Lê, do có

quân công được phong tước Thiên Hòa tử. Cụ có con trai là Vị. Lê Công Vị

sinh Lê Doãn Nghi và đến đời Lê Doãn Nghi (1678- 1729) mới đổi ra họ Đoàn.

Ông Doãn Nghi nguyên trước đã có vợ và sinh một người con trai là Đoàn

Doãn Sĩ. Trong thời gian trọ học ở Thăng Long, ông quen biết người con gái họ

Vũ, một người con gái xinh đẹp, con quan võ Thái lĩnh bá. Ông quyết định từ

bỏ vợ cũ đến cầu hôn nhà họ Vũ. Hai người sinh được một trai một gái là Đoàn

Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm, sau này cả hai đều là danh sĩ.

Đoàn Thị Điểm là người bộc lộ tài năng văn thơ từ rất sớm, là một người

phụ nữ tài ba lỗi lạc do đó số lượng thơ văn bà để lại chắc chắn không nhỏ. Lúc

sinh thời, bà thường xướng họa thơ với cha và anh, đến khi về nhà chồng bà

thường họa thơ với chồng, đó là còn chưa kể những bài văn luyện thi bà đã

soạn trong thời gian dạy học nhưng phần thơ văn nói trên đã bị thất lạc. Cho

đến ngày nay phần còn lại chỉ còn có tập truyện chữ Hán Truyền kì tân phả

(khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), và một ít thơ văn gồm chữ Hán và chữ

Nôm trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây tuy nhiên

trong đó có không ít sai lẫn. Ngoài ra bà còn được xem là dịch giả bản Chinh

phụ ngâm khúc hay nhất hiện hành.

Theo một số nhà nghiên cứu, Truyền kỳ tân phả còn có tên là Tục truyền

kỳ được Đoàn Thị Điểm viết trong thời gian còn là "Hồng Hà nữ tử" và đã được

anh trai "phê bình", như vậy thời gian hoàn thành sách là khoảng trước năm

1735, khi Đoàn Doãn Luân chưa mất và Đoàn Thị Điểm chưa trở thành phu

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhân của tiến sĩ Nguyễn Kiều. Tác phẩm nối tiếp bút pháp Truyền kỳ mạn

lục của Nguyễn Dữ, được coi là thành công và tiêu biểu cho thể loại truyện

truyền kỳ ở thế kỷ XVIII.

Truyền kì tân phả được ghi chép từ sớm, có nhiều bản in và chép tay

được lưu giữ tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, về nguồn gốc tác phẩm có

nhiều ý kiến khác nhau:

Theo Phan Huy Chú thì Truyền kì tân phả do Đoàn Thị Điểm soạn gồm

có 06 truyện: Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa biển); Vân Cát thần nữ (Nữ

thần ở Vân Cát); An Ấp liệt nữ (Liệt nữ ở An Ấp); Bích Câu kì ngộ (Cuộc gặp

gỡ kì lạ ở Bích Câu); Nghĩa khuyển khuất miêu (Chó khôn chịu nhịn mèo);

Hoành sơn tiêu cục (Cuộc cờ tiên trên núi Hoành Sơn).

Cuốn Truyền kì tân phả do Lạc Thiện Đường ấn hành năm Tân Mùi

(1811) bao gồm 6 truyện là: Hải khẩu linh từ,Vân Cát thần nữ,An Ấp liệt nữ,

Bích Câu kì ngộ, Long hổ đấu kì, Tùng bách huyết thoại. Tuy nhiên có ý kiến

cho rằng Truyền kì tân phả có vài truyện do nhà xuất bản Lạc Thiện Đường

thêm vào. Có thể Đoàn Thị Điểm không phải là tác giả của hai truyện Tùng

bách thuyết thoại, Long hổ đấu kì.

Trong Nam sử tập biên (Q5,viết 1724) và Gia phả họ Đoàn thì Truyền kì

tân phả chỉ có 3 truyện: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An Ấp liệt nữ.

Truyền kì tân phả do Ngô Lập Chi, Trần Văn Giáp tuyển dịch gồm 4

truyện, do NXB Giáo dục ấn hành năm 1963:

- Hải Khẩu linh từ mục

- Vân Cát thần nữ lục

- An Ấp liệt nữ lục

- Bích Câu kì ngộ

Ở đề tài này chúng tôi nghiên cứu theo bản Truyền kì tân phả do Ngô

Lập Chi và Trần Văn Giáp tuyển dịch.

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đánh giá về giá trị của Truyền kỳ tân phả, Phan Huy Chú cho rằng: “Văn

từ đẹp đẽ nhưng khí cách hơi yếu, không được bằng sách trước [tức Truyền kỳ

mạn lục]”. Các nhà nghiên cứu hiện đại cũng thường khe khắt khi đề cập đến

những nhược điểm của Truyền kỳ tân phả như cho rằng các truyện trong tác

phẩm nhìn chung nặng nề, nhẹ về kể chuyện, nặng về phô trương kiến thức ; hay

cho rằng việc hướng vào thực tại chính là đã vặt trụi đôi cánh truyền kỳ của tác

phẩm. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc độ văn học nữ quyền hay là giá trị nhân đạo

của tác phẩm, đặc biệt là góc độ tương tác giữa văn học trung đại và văn hóa dân

gian, Truyền kỳ tân phả lại cho ta thấy những nét đẹp và giá trị riêng.

Ra đời trong môi trường văn học đặc biệt của thế kỷ XVIII - thế kỷ

vàng của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với địa vị thống trị của hình tượng nữ,

lại được viết bởi chính một tác giả nữ, Truyền kỳ tân phả do vậy đã trở thành

thứ vật dẫn biểu hiện cho việc đề cao nữ quyền. Những truyện trong Truyền kì

tân phả được xây dựng từ những nhân vật có thật trong lịch sử hoặc theo

truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề cao người phụ nữ. Xoay quanh

những câu chuyện về cuộc đời, về con người trong buổi xế chiều của xã hội

phong kiến Việt Nam được biểu hiện dưới màu sắc hoang đường, quái đản.

Đây là một hình thức nghệ thuật khá phổ biến trong văn xuôi Việt Nam kể từ

sau Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ ở thế kỉ XVI. Ra đời sau Thánh Tông

di thảo và Truyền kì mạn lục ngót hai thế kỉ, nhưng Truyền kì tân phả đã

không tiến kịp hai tác phẩm trên về nội dung và nghệ thuật. Có nhà nghiên

cứu cho rằng các truyện trong truyền kì tân phả có kết cấu lỏng lẻo, trau chuốt

nhiều đến câu chữ, lời văn hơn là diễn biến nội tại tác phẩm. Tuy nhiên đây là

một tác phẩm văn xuôi báo hiệu bước mở đầu của trào lưu “nhân đạo chủ

nghĩa” trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII.

1.2.2. Tân truyền kì lục

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Phạm Quý Thích tự là Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, còn có biệt hiệu là Thảo

Đường cư sĩ. Ông người xã Hoa Đường (Lương Đường), huyện Đường An,

phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương (nay là làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng,

huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Sau ông chuyển lên ở phường Báo Thiên

(thôn Tự Tháp), huyện Thọ Xuân, phủ Phụng Thiên (sau đổi là phủ Hoài Đức)

(nay là phường Hàng Vải, Hoàn Kiếm, Hà Nội). Cha của Phạm Quý Thích là

Phạm Huyền, đỗ Hương cống khoa Canh Ngọ (1750), làm quan đến chức

Tham nghị. Mẹ ông là bà họ Vũ. Ông sinh ngày 19 tháng 11 năm Canh Thìn

(1760) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 nhà Lê, mất ngày 29 tháng 3 năm Ất Dậu

niên hiệu Minh Mệnh thứ 6 (1825).

Lúc nhỏ, ông theo học mấy vị thầy nổi tiếng như Vũ Tông Diễm (đậu

Tiến sĩ khoa Nhâm Dần - 1772, làm quan đến Hiến sát sứ Sơn Nam) và Nguyễn

Huy Oánh (Thám hoa Đình nguyên khoa Mậu Thìn - 1748, làm đến Thượng

thư). Năm 18 tuổi, Phạm Quý Thích đi thi Hương, đỗ thứ hai (khoa Đinh Dậu

(1777). Đến năm Kỷ Hợi (1779), ông đỗ Tiến sĩ cùng với Lê Huy Trâm và

Phạm Nguyễn Du.

Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm viện Kiểm thảo kiêm Giám sát

Ngự sử đạo Kinh Bắc. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), được thăng chức Hàn

lâm viện Hiệu lý kiêm Tri công phiên. Trong vụ kiêu binh Thanh Nghệ làm

loạn, ông có công vỗ về và góp sức làm dịu tình hình. Bùi Huy Bích đề cử ông

làm Đốc đồng trấn Kinh Bắc, nhưng không được phê duyệt, được nghỉ tạm

dưỡng bệnh. Năm Bính Ngọ (1786) Tây Sơn ra Bắc, Phạm Quý Thích sau khi

phò chúa bất thành, bèn chạy về làng Cổ Linh với cha mẹ. Lê Chiêu Thống lên

ngôi vời ông ra, ông từ chối. Trịnh Bồng mời ra ở chức cũ, ông cũng làm khải

từ chối. Sau, ông có ra làm chức Đông các Hiệu thư kiêm Thiêm sự. Rồi lại

được điều lên làm Hiệp trấn Kinh Bắc, nhưng thường bỏ nhiệm sở về nơi trọ ở

Cổ Linh. Tây Sơn ra Bắc lần hai, Phạm Quý Thích không chịu kí vào hai tờ 27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

biểu “hàng phụ” và “khuyến tiến” nên bị giam lỏng. Khi Lê Chiêu Thống đưa

Tôn Sĩ Nghị sang, ông được người gác tha cho. Tây Sơn ra đánh quân Thanh,

ông không theo được vua Lê bèn trốn chạy lên tận Yên Thế, rồi cuối cùng ngụ

trong nhà họ Trần ở Yên Phong. Ở đó, ông giả làm thày dạy dỗ học trò, và có

lần mưu chống Tây Sơn nhưng việc không thành.

Đầu triều Nguyễn (1802), Phạm Quý Thích được gọi ra làm Thị trung

Học sĩ. Ông thoái thác nhưng không được, cuối cùng vẫn phải làm việc, có

công đề cử nhiều kẻ sĩ triều Lê cũ.

Phạm Quý Thích là người có nhiều đóng góp to lớn về giáo dục, văn học,

những mảng này được coi là thành công lớn nhất trong cuộc đời ông, đặc biệt

là về mảng thơ chữ Hán như:

- Thảo Đường thi nguyên tập

- Lập Trai văn tập

Tân truyền kỳ lục là tập truyện đặc sắc của Phạm Quý Thích. Nằm trong

“phả hệ” truyền kỳ, tác phẩm này ra đời sau Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

đến khoảng xấp xỉ hai thế kỷ rưỡi, và trước những Tang thương ngẫu lục, Vũ

trung tùy bút, Vân nang tiểu sử... Nếu xét trong tiến trình của truyện truyền kỳ

trung đại thì Tân truyền kỳ lục nằm ở giai đoạn thứ 3 - cũng là giai đoạn khép

lại của thể loại. Điểm đặc biệt là tác phẩm của Phạm Quý Thích là một trong

không nhiều tác phẩm thuần túy là truyện, không có ký hoặc tản văn xen lẫn

vào. Chính vì có thể nằm ở giai đoạn đã chín muồi của thể loại mà các truyện

đều được viết chắc tay, chững chạc về cả nội dung và nghệ thuật.

Kết cấu các truyện đều được chia làm 3 phần. Phần đầu giới thiệu về nhân

vật, có cả niên đại, tên hiệu, quê quán, chí hướng, nghề nghiệp. Không gian hoạt

động của các nhân vật là giai đoạn cuối Lê và thời Tây Sơn. Thậm chí các truyện

ghi lại cả những sự kiện đúng với chính sử. Phần tiếp theo là phần chính của truyện,

được tính từ khi bước ngoặt truyện xảy ra. Ở Ve sầu và nhặng xanh là lúc nhân vật 28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thầy giáo “đến chơi chùa An Lạc, giữa đường gặp một người lạ đưa cho mấy viên

kim đan. Ông đem uống luôn, bất giác thấy thần thái thanh thản, phủ tạng nhẹ

nhõm, hiểu biết tiếng nói các loài vật”. Ở Con chó nhà nghèo có nghĩa là lúc con

chó Hàn Lư sủa dọa gã nhà giàu họ Trương và “nói thành tiếng người”. Nhưng điều

đáng nói là câu chuyện xảy ra dường như không dính dáng đến nhân vật làm thầy

nữa, mà biến thành các đối thoại giữa hai “nhân vật” khác hẳn, còn nhân vật làm

thầy chỉ là người chứng kiến, đưa đẩy, đôi lúc phẩm bình.

Các đối thoại giữa ve sầu và nhặng xanh (Ve sầu và nhặng xanh), giữa

chú khuyển Hàn Lư với họ Trương (Con chó nhà nghèo có nghĩa) được tác giả

nhân cách hóa như các đối thoại giữa người với người. Nói cách khác, hai cặp

đối thoại thì chỉ có một nhân vật là người thật.

Phần cuối cùng các truyện thường là một lời bình luận, đánh giá về thiện

ác, xấu tốt, trung nịnh. Phần này là lời tác giả, mang tính tư tưởng.

Nhân vật chính trong truyện của Phạm Quý Thích hầu hết là các con vật,

được khoác vẻ linh, nói được tiếng người. Đây cũng là thủ pháp quen thuộc

từng thấy trong tự sự dân gian: các con vật nói tiếng người. Nên có thể nói, cái

"kỳ" trong truyện Phạm Quý Thích là không mới. Cái tác giả đạt tới được, mà

người đọc cũng cảm nhận rõ, là tính chất ngụ ngôn sâu sắc.

Điểm nữa cũng cần chú ý là các truyện trong Tân truyền kỳ lục đều được

viết bằng biền văn, câu văn gọt rũa, đối ngẫu cân chỉnh, ý tứ sâu sắc. Ngoài

phần văn xuôi, các truyện cũng có nhiều đoạn văn vần đan xen mà hầu hết là

thơ ở các thể tứ tuyệt, bát cú, ngũ ngôn. Đấy cũng là hình thức tự sự - trữ tình

thường thấy.

1.2.3. Lan Trì kiến văn lục

Nếu như giai đoạn trước nổi bật lên cây bút tài hoa Nguyễn Dữ, thì đến giai

đoạn sau với Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng trở thành một trong những tác

giả tiêu biểu cho thể loại truyện truyền kì của văn học trung đại Việt Nam.

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vũ Trinh (1759- 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt

hiệu là Lai Sơn, Lan Trì ngư giả, đạo hiệu Hải Âu hòa thượng. Ông là người

làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Vũ Trinh xuất thân từ một gia đình có nề nếp thi thư. Ông nội Vũ Trinh

hiệu là Hy Nghi, đỗ Tiến sĩ thời Lê, làm quan đến Thượng thư bộ binh. Cha

ông tên là Triệu, cũng đỗ Hương tiến làm quan đến chức Tham Nghị. Cũng như

Nguyễn Dữ, Vũ Trinh vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, 17 tuổi đỗ Hương tiến,

được tập ấm chức tri phủ Quốc Oai, tước Lan Trì bá.

Với tài năng ấy Vũ Trinh có thể thành công trên con đường hoạn lộ, hơn

nữa ông còn có thể góp phần vào sự phát triển đi lên của đất nước. Nhưng cuộc

đời ông đã phải trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời. Năm 1976,

Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, được Lê Hiển

Tông gả công chúa Ngọc Hân cho. Năm sau, Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống

lên ngôi, Nguyễn Huệ rút quân về Nam, các thế lực quân phiệt cát cứ đánh lộn

lẫn nhau, vua Lê phải triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra đánh dẹp.

Nguyễn Hữu Chỉnh thâu tóm mọi quyền hành, lấn át vua Lê. Lê Chiêu Thống

vời Vũ Trinh vào chầu bàn mưu giết Hữu Chỉnh. Vũ Trinh can vua, vì cho rằng

bên ngoài giặc đang mạnh có ý đồ xâm lược nước ta, trong khi Hữu Chỉnh là

một bề tôi có quyền thế.

Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang

Kinh Bắc, cha con Vũ Trinh đón vua, dốc hết sản nghiệp lo vào việc quân, theo

Lê Chiêu Thống chạy trốn ở các vùng Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam…

Năm 1789, khi Tôn Sĩ Nghị đem quân sang xâm lược, các cựu thần văn

võ nhà Lê đều chạy trốn cả. Lê Chiêu Thống sai Vũ Trinh đi đón rước, đem

trâu rượu đi khao quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị hỏi Vũ Trinh về tình hình trong

nước, Trinh ứng đối giỏi, được Nghị khen là có tài hùng biện. Chiêu Thống dựa

vào quân Thanh trở về Thăng Long phong cho Vũ Trinh là Tham tri chính sự.

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mùa xuân năm ấy, khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược nhà

Thanh, Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy sang Trung Quốc. Vũ Trinh chạy

theo không kịp, lui về quê quán, không chịu ra làm quan cho Tây Sơn.

Vũ Trinh là người học vấn uyên bác, văn chương hàm súc, trau chuốt.

Trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trinh, tác phẩm giữ vị trí quan trọng nhất là

Lan Trì kiến văn lục, hay còn gọi là Kiến văn lục.

Lan Trì kiến văn lục là một tập truyện truyền kì có 45 truyện, viết bằng

văn xuôi chữ Hán. Tác phẩm viết về nhiều đề tài khác nhau: Chuyện tình yêu

lứa đôi, chuyện giáo dục thi cử, chuyện báo ứng luân hồi, chuyện kì quái khó

tin phần lớn được sáng tác trên cơ sở những truyền thuyết lưu hành trong nhân

dân mà Vũ Trinh thu thập trong những năm về vùng Hồ Sơn.

Bên cạnh một số truyện tản mạn, gặp gì ghi nấy thì tập truyện của Vũ

Trinh khá nhất quán về chủ đề tư tưởng cũng như về phong cách nghệ thuật.

Phá vỡ “khuôn phép” của những con người thời đại là chủ đề nổi bật nhất trong

tác phẩm. Sự phá vỡ đó có thể theo chiều hướng thoái hóa tiêu cực, con người

trở nên tàn bạo, mất hết nhân tính. Trên phương diện này, Vũ Trinh dùng ngòi

bút của mình đã phê phán nghiêm khắc những kẻ xấu xa như vậy. Ngược lại,

ông luôn dành tình cảm yêu thương, trân trọng những thân phận đầy bất hạnh.

Ông xót xa trước những bi kịch của con người và ngợi ca những thân phận dù

bị cuộc đời dày xéo song phẩm chất vẫn tỏa sáng. Có nhiều truyện được tác giả

đầu tư công phu, hầu hết được viết ngắn gọn, chặt chẽ, xúc tích, đầy kịch tính,

tình huống gay cấn hấp dẫn. Tư tưởng của truyện hầu như được hình thành các

sự kiện cốt truyện. Truyện của ông có sức khơi gợi lớn, luôn làm cho độc giả

phát huy trí tưởng tượng cao độ, như một bức tranh tương phản rõ rệt, đặc biệt

ông dành viết nhiều chuyện cho người phụ nữ.

Nhân vật trong tác phẩm của Vũ Trinh khá đa dạng. Có nhân vật kì lạ,

nhân vật là vật được nhân hóa, và loại nhân vật là người bình thường. Nhân vật

là phương tiện ông dùng để phản chiếu hiện thực cuộc sống. Đặc biệt một loại

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hình cũng khá phổ biến trong tất cả các sáng tác đó những nhân vật mang yếu

tố kì ảo, mặc dù đến thời kì này, yếu tố kì ảo trong truyện không còn đậm nét

như thời kì trước, nhưng cũng đã vào trang viết của ông rất tự nhiên, mang đặc

trưng của truyện truyền kì.

“Lan Trì kiến văn lục có thể nói là tác phẩm cuối cùng của thể loại

truyện truyền kì Việt Nam thời trung đại” [50. tr119] và là cống hiến đặc sắc

của Vũ Trinh cho văn học nước nhà. Tác giả đã ghi lại những điều mắt thấy tai

nghe ở khoảng trời đất vô cùng này tưởng chừng như đó chỉ là một câu chuyện

khô khan nhưng đằng sau nó lại là cả một tấm lòng bao la rộng lớn độ lượng ẩn

chứa một nhân sinh quan tiến bộ sâu sắc. Lan Trì kiến văn lục đã có những

đóng góp nhất định cho thành tựu chung của truyện truyền kì Việt Nam trên

nhiều phương diện, song đặc biệt là phương diện phản ánh cuộc sống.

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết

Trong chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn

có liên quan đến đề tài. Về mặt lý luận, chúng tôi tìm hiểu cơ bản trên hai

phương diện: thể truyền kỳ và nhân vật văn học đặc biệt là nhân vật kỳ ảo. Có

thể nói truyền kì là một trong những thể loại quan trọng của văn học trung đại

Việt Nam. Thể loại này có nguồn gốc từ Trung Quốc, tồn tại và phát triển ở

Việt Nam từ thế kỉ X kỉ XIX. Trong văn học nói chung và thể loại truyền kì nói

riêng thì nhân vật giữ vị trí quan trọng trong tác phẩm. Riêng với truyện truyền

kì, yếu tố truyền kì hay còn gọi là yếu tố kì ảo thì không thể thiếu, nó trở thành

đặc trưng của thể loại, và cách xây dựng nhân vật mang yếu tố kì ảo cũng chính

là biện pháp nghệ thuật để tác giả khẳng định vị trí, vai trò, sự hấp dẫn và thành

công cho tác phẩm thuộc thể truyền kì này. Về mặt thực tiễn chúng tôi cũng

điểm qua ba tác phẩm truyền kỳ tiêu biểu của giai đoạn văn học thế kỷ XVIII

đến thế kỉ XIX là Truyền kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn lục và Tân truyền kỳ lục

để có cái nhìn khái quát về diện mạo của thể loại truyền kỳ giai đoạn này đồng

thời có những hình dung bước đầu về hệ thống nhân vật mà các tác giả đề cập

đến trong những tác phẩm này. Đây là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tìm

hiểu cụ thể đặc điểm cũng như ý nghĩa của loại nhân vật kỳ ảo trong việc phản

ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm ở những chương sau của luận văn.

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 2 ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TRUYỀN KÌ TÂN PHẢ; TÂN TRUYỀN KÌ LỤC; LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC

Khảo sát những tác phẩm truyện truyền kì Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến

thế kỉ XIX, chúng tôi nhận thấy số lượng nhân vật trong các truyện truyền kì ở

giai đoạn này không đa dạng như những giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, tính

chất truyền kì vẫn khá rõ nét, bởi lẽ số lượng nhân vật mang yếu tố kì ảo vẫn

chiếm khá nhiều trong các tác phẩm truyện truyền kì giai đoạn này. Chúng tôi

phân tích những đặc điểm nổi bật của loại hình nhân vật này ở các nhóm sau:

2.1. Nhân vật người kì lạ

Hầu hết những tác phẩm văn xuôi nổi tiếng nhất văn học Viễn Đông

đều có những yếu tố kỳ lạ. Cái kỳ lạ phổ biến trong huyền thoại tôn giáo,

thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, trong sử ký… Đặc biệt trong truyện

truyền kỳ, việc sử dụng yếu tố kỳ đã trở thành đặc trưng của thể loại này. Nó

chính là phương tiện nghệ thuật để phản ánh hiện thực. Những tình tiết, tính

cách hay số phận nhân vật khác thường nếu được sáng tạo một cách nghệ

thuật thì càng thu hút độc giả.

Tính chất khác lạ của sự vật, hiện tượng, đặc biệt là những đặc tính kỳ

lạ của các nhân vật đã đưa người đọc đi vào thế giới huyền ảo, lạ lùng ở cả

bốn cõi không gian vừa phi nhân tính, vừa phi quán tính, vừa không định

hướng. Thời gian tuyến tính được ảo hóa, có thể có tám thập kỷ vào trong

một năm, có khi đang từ hiện tại trở về quá khứ của kiếp trước, rồi lại bước

sang tương lai của kiếp sau. Một thế giới vừa thực vừa hư, thế giới thần linh

vừa hòa hợp, vừa khác lạ với con người, tạo nên bức tranh đời sống đặc thù.

Truyền kì tân phả Lan Trì kiến văn lục Tân truyền kì lục

(2 truyện) (14 truyện) (Không truyện)

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2 nhân vật 17 nhân vật Không có

2.1.1. Xuất thân

Trong Truyền kì tân phả có thể thấy nhân vật chính trong tác phẩm đều

là nhân vật mang yếu tố kì ảo. Những nhân vật này đều được tác giả lấy từ

trong văn học và tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên trong bốn truyện thì chỉ có

Truyện nữ thần ở Vân Cát và Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu nhân vật chính là

tiên, hai truyện còn lại đều là những nguyên mẫu có thật.

Nàng Bích Châu (Truyện đền thiêng ở cửa bể) được tác giả dựa trên

nguyên mẫu có thật đó là nàng cung phi của vua Trần Duệ Tông: “Cung phi

triều nhà Trần là Nguyễn Cơ, con gái nhà quan, tiểu tự là Bích Châu, tính cách

đứng đắn, tư dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật Lê Viên theo dòng văn từ Nghệ

Phố. Vua Duệ Tông nghe tiếng cho kén vào hậu cung..” [10, tr.39]. PGS

Nguyễn Đăng Na đã đối chiếu Truyện đền thiêng ở cửa bể với Đại Việt sử kí

toàn thư và đưa ra nhận xét đó là truyện của bà “khớp” với lịch sử về ngày,

tháng, năm và không chỉ trong lịch sử có những ghi chép về nàng Bích Châu

mà trong các miếu, kèm theo đó là lễ hội dân gian đã có những truyền thuyết về

người cung phi này. Như vậy nhân vật Bích Châu gắn với lịch sử và do đó phần

nào nó mất đi tính kì ảo. Chỉ đến cuối truyện thì nhân vật Bích Châu mới trở

thành nhân vật mang yếu tố kì ảo đó là hồn ma nàng hiện về gặp vua Lê Thánh

Tông và sự xuất hiện này nhằm thực hiện giấc mơ công lý “mong được ra tay

tế độ, cứu vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt

trời” [10, tr.55]. Đây là những mong ước của nàng cung phi.

Truyện người phụ nữ ở An Ấp (An Ấp liệt nữ), nhân vật liệt nữ là

nguyên mẫu có thật về một người tiết phụ đầu thế kỉ XVIII sống gần thời với

tác giả: “Hoàng triều khoảng niên hiệu Vĩnh Thịnh, có một vị Tiến sĩ trẻ tuổi,

tên là Đinh Hoàn (…), ông lấy con gái nhà quan là họ Nguyễn làm vợ thứ. Bà

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

vợ này nghi dung thanh nhã, cử chỉ đoan trang, thêu thùa khâu vá rất khéo, lại

giỏi văn thơ…” [10, tr.64].

Như vậy, nhân vật là người mang yếu tố kì lạ trong Truyền kì tân phả

gắn liền với lịch sử và chỉ đến cuối tác phẩm, các nhân vật mới mang tính kì ảo.

Toàn bộ câu chuyện chính là hiện thực đời sống của nhân vật. Chính vì vậy,

mặc dù thuyết phục được người đọc tin đó là những câu chuyện có thực qua sự

giới thiệu rõ nguồn gốc, lai lịch nhân vật nhưng lại làm mất đi cái tính kì của

thể loại.

Nhân vật có đặc tính kỳ lạ trong Lan Trì kiến văn lục hầu hết không

có tên mà phiếm chỉ. Điều này có sự gần gũi với Thánh Tông di thảo. Tuy

Vũ Trinh không dụng công thể hiện nhân vật qua tên gọi nhưng nhân vật của

ông trong tác phẩm lại hiện ra rất rõ, rất thật, bởi nhân vật của ông gắn bó

với các sự kiện chân thực.

Ở Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, tên nhân vật cũng có ý

nghĩa biểu trưng. Ví dụ Ngọa Vân trong Truyện lạ nhà thuyền chài. Ngọa

Vân - có nghĩa là “cưỡi mây”. Kết thúc truyện, Ngọa Vân đã hóa thành

rồng, bay đi theo phương Tây Bắc. Và nhân vật Mộng Trang - gắn liền với

giấc mộng về mối tình lãng mạn ở nước Hoa của chàng Chu Sinh (Duyên lạ

nước Hoa). Những truyện còn lại, tên nhân vật đều có tính phiếm chỉ, chẳng

hạn như: Người đàn bà có tuổi, cô gái trẻ (Hai gái thần); cô gái thần (Một

đôi chữ lấy được gái thần); người đàn bà góa (Truyện người đàn bà Khất

giàu); vợ người học trò (Người trần ở thủy phủ)… Ở Lan Trì kiến văn lục

ngoài các nhân vật có tên gọi như Phạm Viên (Phạm Viên); Kính (Ma cổ

thụ); Lực Tài (Thần Chiêu Trưng), tên gọi các nhân vật khác đều mang tính

phiếm chỉ. Vũ Trinh biết cách biến các nhân vật hiện lên rất gần gũi. Mỗi

trang truyện giở ra là một mảnh đời với những số phận khác nhau, làm xúc

động bao trái tim độc giả. Có thể người đọc sẽ chẳng mấy ai tự đặt câu hỏi

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“đó là ai”, “nhân vật đó mang tên gì”, điều làm họ quan tâm hơn đó là

những xuất hiện từ cuộc sống bình thường này.

Các nhân vật kỳ lạ trong Lan Trì kiến văn lục đều có hành trạng cụ

thể. Những việc xẩy ra dường như đều là những việc có trong thực tế. Người

phụ nữ mang thai được bảy tháng, ốm chết, vì nghèo nên không có tiền

khâm liệm, chỉ được chôn cất sơ sài ngoài đồng, rồi sinh con dưới mồ (Đẻ

lạ) được Vũ Trinh giới thiệu quê quán cụ thể. Chị ta ở Châu Vạn Ninh,

Quảng Yên. Từ chỗ xác định nơi chốn, không gian, Vũ Trinh đã làm tăng

tính chân thực ở các nhân vật kỳ lạ lên rất nhiều. Cô gái trong Tháp Báo Ân,

yêu thương mãnh liệt, khát khao được sống, được yêu cháy bỏng, dù chết

trong bệnh tật, tự ti nhưng nàng vẫn hiện về làm tất cả để mang đến hạnh

phúc cho người mình yêu, đã được Vũ Trinh giới thiệu là cô con gái út họ

Nguyễn, rất sắc sảo, xinh xắn, gia đình rất giàu có, nổi tiếng ở xã Bình

Quân, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Người con gái trong truyện Gái biến

thành trai, chỉ sau một trận ốm, khi lành bệnh thì đã biến thành một người

khác giới, được giới thiệu là người con gái họ Trương ở Thanh Hóa. Người

đàn bà trong Đứa con của rắn cũng được giới thiệu cụ thể, đó là người đàn

bà họ Nguyễn ở huyện Sơn Vĩ. Đứa con trai trong Nhớ kiếp trước được Vũ

Trinh giới thiệu lai lịch rõ ràng, đứa bé vừa sinh ra đã biết nói ấy thuộc dòng

họ Trần, ở làng Đông Xuất, huyện Đông Ngàn. Cô thôn nữ trong Chuyện khỉ

bị khỉ cưỡng ép phải sinh sống cùng sinh được một chú khỉ con, ở huyện

Lục Ngạn. Cô gái trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì rất chủ động đến với

tình yêu, nhưng tình duyên không thành, nàng ôm hình bóng người yêu mà

chết rồi biến thành khối đá trong vắt được tác giả giới thiệu là con gái của

phú ông họ Trần ở Thanh Trì, đó là một cô gái xinh đẹp, luôn hướng đến

những gì tốt đẹp, luôn giữ trong lòng mối tình thủy chung trong sáng. Cái

chết không giết nổi trái tim kiếm tìm hạnh phúc của cô gái (Sống lại), được 37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vũ Trinh giới thiệu là người ở huyện Đông Sơn. Xây dựng nhân vật có xuất

xứ cụ thể đã phần nào cho ta thấy dụng ý nghệ thuật của Vũ Trinh. Không

phải ngẫu nhiên ông xây dựng các nhân vật phiếm chỉ nhưng lại có lai lịch cụ

thể rõ ràng. Các nhân vật có đặc tính kỳ lạ trong Lan Trì kiến văn lục đều được

Vũ Trinh giới thiệu rất chi tiết về hành trạng, điều đó cho thấy sự tôn trọng, đề

cao thực tế đời sống của Vũ Trinh khi cầm bút viết văn. Tác giả đã vẽ ra một

bức tranh muôn màu về xã hội đương thời khá phức tạp song để cho chúng ta

hình dung rất dễ, điều mà không phải nhà văn nào cũng làm được.

Xây dựng nhân vật với đặc điểm xuất thân rõ ràng, Vũ Trinh đã phần

nào thể hiện thái độ tôn trọng hiện thực cuộc sống, đồng thời bộc lộ tài năng

của mình khi luôn tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc về tính chân thực

của từng câu chuyện. Chuyện lạ lùng ly kỳ nhưng làm cho người đọc có cảm

giác quen thuộc như đã bắt gặp đâu đó trong cuộc sống đời thường. Hình

tượng nhân vật kỳ lạ cho ta cái nhìn sâu rộng về con người và xã hội đương

thời do mở rộng những cách nhìn nhận.

2.1.2. Ngoại hình

Sự khác biệt rõ nét của hình tượng nữ trong Truyền kỳ tân phả so

với những truyện truyền kỳ trước đó ở một mức độ nhất định cũng quy định sự

lựa chọn và vận dụng thủ pháp nghệ thuật của tác phẩm này. Thủ pháp khắc

họa hình tượng nhân vật nữ của Đoàn Thị Điểm là kết hợp giữa miêu tả dung

mạo với thể hiện tài trí, trong đó giành phần lớn bút mực cho tài trí. Tất cả

những nhân vật nữ xuất hiện trong Truyền kỳ tân phả đều xinh đẹp.

Song Truyền kỳ tân phả chỉ dành cho dung nhan của các nhân vật nữ này vài

nét phác họa. Tả Bích Châu cũng chỉ dùng mấy lời thưa thớt: “tính đứng đắn”,

“tư dung xinh đẹp”, tả liệt nữ An Ấp cũng chỉ là “dung nghi thanh nhã, cử chỉ

đoan trang”, Chỉ mà thôi, không miêu tả cụ thể gì thêm. Đối với dung mạo thì

chỉ điểm bút qua vài nét như vậy.

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vũ Trinh sống ở thế kỷ XVIII là một thế kỳ đầy biến động, phức tạp,

kinh tế, chính trị khủng hoảng, chiến tranh tàn khốc giữa các tập đoàn phong

kiến diễn ra liên miên. Xã hội nhiễu nhương, cường quyền lũng đoạn, tôn ti

trật tự xã hội bị đảo lộn. Quyền sống con người bị bóp nghẹt, nhất là những

con người thấp cổ bé họng. Thực tại xã hội đầy những biến động to lớn, đã ít

nhiều tác động đến nhà văn. Đặc biệt là những luồng gió trào lưu văn học

nhân đạo chủ nghĩa đã thổi vào cảm xúc của Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục

nhiều đề tài khác nhau như chuyện tình nam nữ, giáo dục thi cử, báo ứng

luân hồi… với nhiều dạng nhân vật khác nhau, tuy nhiên vì là “ghi chép lại

những điều mắt thấy tai nghe” cho nên Vũ Trinh ít miêu tả về ngoại hình của

nhân vật, mà chủ yếu thiên về những hành động của nhân vật, qua đó bộc lộ

lên tư tưởng của tác giả. Các nhân vật là người kì lạ chỉ được Vũ Trinh điểm

qua vài nét tiêu biểu về cuộc đời số phận mà không thấy nói đến ngoại hình

của nhân vật như: Dương Thái hậu và ba cô công chúa (Thần cửa Cờn),

“Chết lênh đênh trên biển mấy ngàn dặm, sóng dập gió vùi vậy mà thân hình

vẫn nguyên vẹn, sắc mặt như còn sống” [59, tr.96]; Người đàn bà họ Nguyễn

ở huyện Sơn Vĩ (Đứa con của Rắn) chỉ nói đến việc có thai với rắn, sinh

được đứa con trai; Người phụ nữ ở Châu Vạn Ninh - Quảng yên (Đẻ lạ) -

Sinh con dưới mồ, không có sữa nên lên trần gian mua quà bánh về cho con.

Người con gái họ Trương (Gái biến thành trai) - bỗng dưng bệnh nặng, sau một

đêm thì thành con trai; Cô con gái phú ông họ Trần (Câu chuyện tình ở Thanh

Trì) - Sau khi chết đã hóa thành khối đá trong như gương; Cô thôn nữ ở

huyện Lục Ngạn (Khỉ) - Sinh ra một chú khỉ sau hơn một năm sinh sống với

khỉ già; Ông Thượng Thư họ Đỗ (Thượng Thư họ Đỗ) - Trò chuyện với

mảnh hồn tàn; Cử nhân tên Mỗ (Nhớ được ba kiếp) - Chết xuống địa phủ sau

được lên trần gian sống cuộc sống của kiếp gà, kiếp lợn, rồi cuối cùng được

rở về làm người như hiện tại; Đứa con trai người đàn bà họ Trần (Nhớ kiếp 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trước) - Vừa lọt lòng đã biết nói, kể cho cả nhà nghe quá trình đầu thai của

mình và biết đã đầu thai ở gia đình khác, không thấy tả đến hình dáng, ngoại

hình; Phạm tiên sinh tên Kính (Ma cổ thụ) - Nói chuyện với yêu ma, phản ứng

mạnh mẽ với loại yêu quái hại người; Chỉ một vài truyện như: Cô gái ở huyện

Đông Sơn (Sống lại) “...có cô con gái tuổi xấp xỉ bằng Sinh, người trông xinh

tươi, trắng trẻo…” [59, tr.107]. Cô con gái út của gia đình họ Nguyễn (Tháp

Báo Ân) - Chết mang theo mối tình xuống mồ, mảnh hồn tàn trở về trần gian

cầu xin quan Chủ Khảo lấy đỗ bài thi của người tình “lớn lên cô gái nhan

sắc rất xinh đẹp” sau đó cô mắc bệnh phong “Bàn tay u lên, da dẻ nhăn

nheo, trở thành người tàn phế” [59, tr.165] Vũ Trinh có nói về ngoại hình

của nhân vật, tuy nhiên cũng chỉ là điểm qua chứ không miêu tả chi tiết cụ

thể như cách xây dựng nhân vật mà các nhà văn thường làm.

2.1.3. Tính cách, phẩm chất

Tính cách cụ thể hóa chủ đề, tư tưởng tác phẩm. Đồng thời tính cách

cũng là nhân tố chủ yếu để tạo nên diễn biến của các sự kiện trong quá trình

phát triển cốt truyện. Qua hệ thống tính cách, người đọc có thể đánh giá

được khả năng biểu hiện nội dung của các yếu tố hình thức như những kết

cấu, những quy luật thể loại, các biện pháp biểu hiện… Có thể nói “tính

cách là điểm trung tâm giữa nội dung và hình thức” (Hêghen), “đối với nhà

văn, toàn bộ vấn đề là tính cách” (Đôxtôiepxki). Tính cách nhân vật vừa góp

phần thể hiện giá trị của tác phẩm, vừa có khả năng thể hiện thái độ, tư

tưởng của nhà văn đối với con người và hiện thực đời sống, cho thấy tài

năng nghệ thuật của nhà văn. Và qua số phận của các nhân vật, tác giả đã

bộc lộ thái độ, quan điểm của mình về đời sống đương thời.

Đoàn Thị Điểm qua Truyền kì tân phả đã xây dựng được những nhân

vật là phụ nữ mang yếu tố kì lạ hết sức đáng trân trọng ở tình cảm chung

thủy, ở sự tài hoa và ở cá tính mạnh mẽ dám làm và vươn tới để đạt được 40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

những gì mình mong ước. Bích Châu được miêu tả là một cung nữ toàn tài:

nàng nhờ tài ứng đối mà được Trần Duệ Tông đặt cho mỹ hiệu Phù Dung, tài

văn chương hùng biện thì có “Kê minh thập sách” với một đường lối an dân trị

quốc đầy thiết thực, nàng lại còn dâng biểu để can vua không nên thân chinh đi

đánh Phù Nam, lời lẽ thông tuệ và sắc bén. Nhưng tất cả đều vô hiệu bởi Trần

Duệ Tông “ương gàn cố chấp”, khăng khăng muốn dấy binh. Rốt cuộc, nàng

không thể “dùng lời trung để giữ nền bình trị”, “lấy lẽ mềm mỏng để ngăn lòng

hiếu chiến” song lòng ưu quân ái quốc cùng chính kiến rõ ràng ở con người

này đã đủ khiến người ta khâm phục. Trên đường tiến đánh Phù Nam, Bích

Châu còn xem thiên tượng mà lo sợ tai ương sẽ giáng xuống phi tần, bói Kinh

Dịch mà biết trước hành quân đại bại. Trí tuệ quảng bác đến như Khổng Minh mà

gặp phải bậc quân vương như Trần Duệ Tông có lẽ cũng chỉ làm được đến như

Bích Châu mà thôi. Và Bích Châu sẽ còn đi đến tận cùng lòng trung quân ái quốc

bằng cách tình nguyện nhảy xuống biển, hiến thân cho Đô đốc Nam Hải. Mượn

câu thơ Đỗ Phủ vịnh Khổng Minh “Ra quân chưa thắng thân chết trước, Luống

để anh hùng nước mắt tuôn” để gửi gắm niềm di hận của mình, Bích Châu có lẽ

cũng đã ngầm nói lên cái chí muốn noi theo vị quân sư bất hủ này.

Còn Đinh phu nhân (An Ấp liệt nữ) cũng tài năng không kém Bích Châu

và tình yêu của nàng với chồng (Đinh Hoàn) cũng mãnh liệt say đắm như thế,

một tình yêu không cầu danh lợi phú quý mà chỉ ước mong được sống bên

nhau chung hưởng ái ân. Lúc gần chồng nàng lo lắng, săn sóc cho chồng cả

trong giấc ngủ: “Ấy ai rỏ thêm giọt nước vào đồng hồ cho đêm thêm dài, để

cho thiếp khỏi băn khoăn về lang quân mỗi khi gặp buổi sáng sớm” [10, tr.65].

Đinh phu nhân có tài làm thơ, thường xướng họa với chồng mỗi khi chồng

rảnh việc triều đình và bà cũng từng làm thơ khuyên chồng khi thấy ông lơ là

việc nước. Bài thơ trữ tình nhưng cũng đầy ý nghĩa ấy đã làm ông phải thốt

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lên: “Lời thơ tao nhã, ngụ ý sâu xa, đời xưa khen Khương Hậu và Từ phi cũng

chưa là tột bực vậy”. Bài thơ có đoạn như sau:

“… Chu công vị ngộ quan tâm thiết,

Tương thủy hà phương khứ lộ trường

Yến dật thảng vong kim chức nghiệp

Kê minh nhẫn thính cổ thi chương…”

(Chồng đã không như Chu Công ngồi đợi sáng để lo toan việc nước.

Thiếp đành theo gót Tương - Phi không quản đường cùng trẫm mình

dưới sông tự vẫn.

Chàng nếu mải yên vui, nhãng quên chức phận hiện tại.

Thiếp còn lòng nào nghe đọc thơ “kê minh” của người vợ hiền đời cổ…)

[10, tr.65]

Đây quả là những lời thơ trang nhã đúng mực mà vẫn hết sức sâu sắc

khiến người đọc không thể không rung động. Sau khi chồng đi xa, nàng cũng

đã sáng tác rất nhiều bài thơ, từ để gửi gắm niềm tâm sự, nỗi nhớ nhung của

mình đối với chồng.

Lúc xa chồng nàng nhớ thương sầu muộn. Càng trông cảnh, nàng càng

nhớ người: “Mỗi khi gặp cảnh xuân quang, tiết trời thay đổi, mưa trôi hoa

lạnh, khói ngậm quất hồng, đó là những lúc phu nhân đau từng khúc ruột vậy.

Có khi nghe tiếng ve kêu buổi tối, chim hót buổi sáng đó là những lúc phu

nhân buồn não ruột vậy. Mưa Sở mây Tần, cảnh từng ngao ngán, trông mặt

trăng thêm than thở, hứng gió mát luống ngại ngùng” [10, tr.70]. Cõi lòng

nàng lúc này tràn ngập nhớ nhung, sầu khổ và lan tỏa ra cả đất trời. Ngày qua

tháng lại, nàng cô đơn lẻ bóng, hạnh phúc lứa đôi đối với nàng lúc này sao mà

một xa vời . Nàng giở lại những kỉ vật ngày xưa để mong đem lại chút ấm áp

cho cõi lòng trống vắng lạnh lẽo của mình, nhưng ngay cả chiếc áo la y Đinh

Hoàn tặng nàng trước lúc ra đi cũng chẳng sưởi ấm được nàng. Ái ân nồng

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thắm ngày nào cũng không thể về trong giấc mộng. Buồn thay thời gian chờ

đợi đằng đẵng nhưng càng trông càng vắng. Không biết giờ này chàng đã đi

đến đâu. Nàng lo cho chồng: “Tiếng xe lăn lộc cộc nơi chân trời xanh biếc đầy

những cát lầm”. Trời rét, nàng “lại nghĩ đến cái lạnh U Châu tháng năm vẫn

còn rét. Tháng năm rét như cắt. Ba đông tuyết đầy đường”… “Khách đi đường

rất gian nan” và nàng lo cho cả mình, cho hạnh phúc tuổi trẻ sẽ sớm qua đi

“Tuổi thanh xuân chạy qua nhanh như bóng mặt trời nhấp nhoáng”. Biết bao

lo nghĩ, biết bao nỗi niềm chất chứa thành nỗi sầu đằng đẵng, đúng là nỗi sầu

“càng đong càng lắc càng đầy” và chẳng thể nào nguôi ngoai nếu như phu

quân của nàng không trở về. Phải chăng Đinh phu nhân là tiền thân của nàng

Chinh phụ sau này trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Ban đầu

vẫn giữ được bình tĩnh, chờ chồng, mong mỏi ngày đêm. Nhưng thời gian càng

khiến người vợ thấy cô đơn, cô quạnh. Suy nghĩ mong chồng rạng rỡ công

danh không còn là niềm mong ước nữa. Điều duy nhất trong tâm trí những

người chinh phụ lúc này là mong chồng trở về, có được cuộc sống yên vui bên

chồng. Họ tìm đến cái chết là để thỏa lòng nhớ thương mong mỏi, mong tìm

được chồng ở một thế giới khác.

Còn tính cách và số phận của loại hình nhân vật là người kì lạ trong

Lan Trì kiến văn lục chủ yếu thể hiện qua lời kể vắn tắt của tác giả và hành

động được miêu tả ngắn gọn.

Con người có số phận, tính cách, hoàn cảnh riêng. Cuộc sống có biết

bao nhân tố tác động đến con người. Người phải chịu áp lực hai mặt của

cuộc đời. Thế giới con người muôn hình vạn trạng được phản ánh rất sinh

động trong những tác phẩm văn học nghệ thuật xuất sắc.

Văn học như ống kính vạn năng, phản chiếu đời sống con người trên

nhiều phương diện. Trong đó số phận và tính cách là hai phương diện được

tập trung khắc họa rõ nét nhất. Nhà văn xây dựng nhân vật nhằm khái quát

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tính cách, số phận con người trong hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Bởi

thế, tính cách và số phận nhân vật cũng là một hiện tượng xã hội lịch sử.

Thế giới nhân vật trong Lan Trì kiến văn lục đa dạng phong phú. Tuy

không mấy công phu khi xây dựng nhân vật song chỉ qua lời kể vắn tắt ngắn

gọn của tác giả, tính cách, số phận của các nhân vật được bộc lộ rất rõ. Hành

động nhân vật không mấy phức tạp, chỉ là những hành động ít ỏi được tác giả

miêu tả ngắn gọn. Xây dựng thành công ba loại nhân vật trong cùng một tác

phẩm không phải là điều dễ dàng. Vũ Trinh đã khẳng định được tài năng của

mình khi đi vào xây dựng ba loại nhân vật này với tính cách, số phận được thể

hiện qua hành độn. Mỗi loại nhân vật đều có những đặc điểm riêng biệt.

Với loại nhân vật là người kỳ lạ, Vũ Trinh đã viết về người phụ nữ

nhiều hơn, số lượng nhân vật nữ cũng lớn hơn.

Tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử nhất định, nên tính cách

luôn gắn với hoàn cảnh. Tính cách không thể phát triển, tự thân thoát ly khỏi

hoàn cảnh xã hội. Cũng như trong Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục

nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục đều xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội

phong kiến. Chế độ phong kiến với những luật lệ hà khắc, tàn ác, ở mối

quan hệ nào phụ nữ cũng bị khinh rẻ, phải chịu nhiều khổ đau, nhiều bất

công phi lý. Chính trong hoàn cảnh ấy, tính cách, phẩm chất cao đẹp cả

người phụ nữ được bộc lộ, được khẳng định mạnh mẽ.

Nếu như nàng Ngọa Vân trong Truyện lạ nhà thuyền chài được Lê

Thánh Tông xây dựng là một cô gái giàu đức hy sinh thì người phụ nữ trong

Đẻ lạ được Vũ Trinh xây dựng cũng giàu đức hy sinh, giàu tình yêu thương

không kém. Họ đều là những người luôn đem lại những gì tốt đẹp, hạnh

phúc nhất cho người thân yêu, dù phải trải qua thử thách đến đâu, dù phải

trả giá bằng cả tính mạng. Nàng Ngọa Vân đã quên mình để cứu gia đình

chồng thoát khỏi cơn nguy biến. Nàng đã biến thành con cá lớn che chắn

ngọn nước lớn tràn vào, vì thế vợ chồng ông chài và Thúc Ngư mới được 44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bình yên vô sự. Việc nàng biến thành con cá để che chắn là một sự hy sinh

lớn bởi khi tiết lộ thiên cơ thì nàng khó mà được đoàn tụ gia đình. Nàng đã

hy sinh điều đó để đổi lấy bình yên, hạnh phúc cho người thân. Người phụ

nữ trong Đẻ lạ dù chết oan nghiệt vẫn thương con. Mẹ thương con từ khi

thai nghén trong lòng, nhưng khi đứa bé chưa kịp chào đời thì người mẹ đã

phải ra đi ở một thế giới khác. Không cam chịu định mệnh nghiệt ngã đó,

người mẹ phải sinh con, phải chăm con cho đến khi chồng đào mồ lên đưa

con về chăm sóc nuôi nấng thì lúc đó người mẹ mới đành nhắm mắt xuôi

tay. Tình mẫu tử có sức mạnh vô tận, nó là nguồn năng lượng sống bất tận

không gì có thể hủy hoại được. Tình yêu thương của người phụ nữ dành cho

con thật lớn lao khiến bao người phải cảm động. Người phụ nữ trong Đẻ lạ

tiêu biểu cho tính cách kiên cường, biết chịu đựng, giàu đức hy sinh, giàu

tình thương yêu.

Bên cạnh Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ thì Vũ Trinh cũng đã miêu tả

nhân vật nữ trong tác phẩm của mình với tính cách đẹp đẽ. Họ hiện lên trong

tác phẩm không chỉ là những người phụ nữ tài sắc, mà dưới ngòi bút tài hoa

của tác giả, họ còn là những người phụ nữ rất đỗi thủy chung, tiết hạnh, nhân

hậu, giàu lòng vị tha. Cả ba tác giả đều đặt nhân vật của mình vào những hoàn

cảnh khó khăn, khắc nghiệt, để nhân vật tự bộc lộ những nét tính cách cao quý.

Bằng yếu tố kỳ ảo các tác giả đã xóa tan ranh giới giữa hư và thực bởi thể nhân

vật hiện lên đầy sống động, có sức lôi cuốn lạ thường.

Nhiều nhân vật kỳ lạ trong Lan Trì kiến văn lục là những phụ nữ xinh

đẹp song đều gặp những khó khăn bất hạnh trên đường đời, nhất là trong

tình yêu, tình nghĩa vợ chồng. Và càng bất hạnh khổ đau thì sức sống trong

tâm hồn những người phụ nữ ấy càng mãnh liệt. Những tính cách đẹp, phẩm

chất đẹp của họ càng được bộc lộ.

Cô gái trong truyện Sống lại tuổi độ trăng tròn, xinh tươi trắng trẻo.

Nét xuân xanh của cô lôi cuốn biết bao chàng trai. Nàng đã lọt vào mắt 45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chàng học trò nghèo tên Sinh. Sinh yêu nàng say đắm, đã nhiều lần thổ lộ

yêu thương. Cô gái cũng mong gặp được người tài ba như Sinh để hầu hạ.

Song tình yêu chân thành trong sáng đầy mãnh liệt đó không thành. Cô gái

bị bố mẹ ép gả cho người khác. Còn Sinh ôm nỗi buồn tủi trong lòng bỏ nhà

lên kinh thành du học. Cô gái rất đau buồn vì không nên vợ nên chồng với

người mình yêu nhưng trong lòng vẫn luôn chắt chiu yêu thương, khát khao

hạnh phúc. Khi người chồng biết chuyện giữa cô và Sinh, máu ghen nổi lên

đã vô tình giết chết cô. Dù xuống dưới mồ nhưng cô gái vẫn mang theo mối

tình chung thủy với người trong mộng. Cô đã tái sinh trở về trần gian sau

mấy ngày bị chôn vùi dưới mồ. Nỗi mong mỏi cuộc sống tốt đẹp của cô đã

được đền đáp. Cô được trở về sống chung với Sinh trong cùng một mái nhà.

Hiền hậu, thủy chung là nét tính cách được tôn tạo trong tâm hồn cô gái.

Một tâm hồn đẹp thì cát bụi thời gian cũng không thể lấp vùi.

Cô gái trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì cũng thủy chung, hiền hậu,

rất mạnh bạo chủ động trong tình yêu. Cô sống với trái tim khát khao yêu và

được yêu, luôn trân trọng nâng niu những xúc cảm trong sáng chân thực từ

đáy lòng. Là một cô gái xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng nàng không

màng đến tiền bạc, danh vọng. Nàng chỉ dành trọn tình yêu cho chàng lái đò

nghèo. Vượt qua ranh giới đầy cách biệt giữa cái giàu cái nghèo, nàng đã

tìm đến được bến bờ đích thực của cuộc sống. Đó là dám sống hết mình cho

tình yêu. Hạnh phúc với cô là khi trao gửi được yêu thương tới người mình

yêu, được nhìn ngắm khuôn mặt, được nghe giọng hát ngọt ngào của người

yêu mỗi ngày. Cô là con gái yêu kiều của phú ông, hẳn không ít kẻ giàu

sang dòm ngó, song chỉ chung tình với chàng lái đò nghèo. Mỗi khi tựa cửa

liếc nhìn Sinh bên bờ sông thì cô không sao quên được khuôn mặt ấy. Tình

yêu thương cả cô dành cho Sinh chân thành thắm thiết nhưng bị cha nàng

cấm tuyệt. Nàng vô cùng đau buồn, ngày càng héo mòn gầy yếu. Cho đến một

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ngày nàng không còn đủ sức để tồn tại. Nàng chết và hóa thành một khối đá

trong vắt, nơi đó có hình bóng con đò và người mình yêu. Một chuyện tình bi

ai đầy xúc động, một tình yêu chung thủy trọn vẹn đầy cảm kích. Khối đá là

minh chứng cho một chuyện tình đầy trắc trở, oan trái, hình ảnh chàng trai và

con đò lồng trong khối đá là minh chứng cho tình yêu bất tử. Dưới ngòi bút

phóng khoảng của tác giả, nhân vật nữ trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì

hiện lên với những tính cách thật đẹp, đáng trân trọng.

Các nhân vật nữ kỳ lạ trong Lan Trì kiến văn lục hiện lên thật đẹp với

tính cách và phẩm chất cao quý. Họ là những người phụ nữ hiền hậu, giàu

đức hy sinh, thủy chung son sắt, sống trọn tình trọn nghĩa. Dù cuộc sống có

khắc nghiệt đến đâu thì họ vẫn vươn lên, vượt qua thử thách, vượt lên chính

mình. Họ sống với cả con tim đầy nhiệt huyết, biết vươn đến những điều tốt

đẹp. Những gì chưa thể thực hiện được trên trần gian, họ lại tiếp tục hoàn

thành nó ở thế giới khác. Họ rắn rỏi, kiên cường, họ bất chấp mọi thử thách

để mang đến hạnh phúc cho người mình yêu thương.

Cũng giống như những nhân vật nữ trong Thánh Tông di thảo hay

Truyền kỳ mạn lục, nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục đều là những cô

gái xinh đẹp, nết na, song cuộc đời lại gặp toàn sóng gió. Mỗi lần bị bão đời

xô ngã là mỗi lần họ biết vươn lên, sống mạnh mẽ hơn, khát khao sống

mãnh liệt hơn. Đó là những cô gái chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ trong tình

yêu đôi lứa, trong tình nghĩa vợ chồng. Dù phải chịu những bi kịch xót xa

nhưng họ vẫn luôn sống trọn tình.

Như cô gái trong Truyện chồng dê hiếu thuận với cha mẹ chung tình

với người yêu, vì tình yêu nàng sẵn sàng hiến dâng tất cả mà không cần một

tờ hôn thú, vì tình nghĩa thủy chung mà nàng đã dám từ bỏ thế giới trần gian

để được sum họp với chồng nơi thiên giới, cô gái trong Tháo Báo Ân cũng

được Vũ Trinh xây dựng với những tính cách tốt đẹp như thế. Nàng là cô gái

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

rất đỗi xinh đẹp, luôn sống hết mình cho tình yêu, sống hết mình vì người

yêu. Nàng cũng sẵn sàng hiến dâng tất cả cho mối duyên đầu mà không cần

một tờ hôn thú. Vì nặng tình yêu thương mà nàng không thể để Sinh một

mình đương đầu với những thử thách ở thế gian. Mảnh hồn tàn đã trở về trần

gian cầu vinh cho người yêu. Hy sinh tất cả cho người mình yêu, chung tình

hết đỗi, khát khao hạnh phúc, là tính cách nổi bật của nhân vật này.

Với khuynh hướng sáng tác nhân văn chủ nghĩa thì văn học Việt Nam

đã lấy người phụ nữ làm đối tượng phản ánh. Người phụ nữ được quan tâm

và được xem như là một nhân vật trung tâm của tác phẩm văn học. Trước

Lan Trì kiến văn lục đã có rất nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề số phận của

người phụ nữ. Vũ Trinh đã xây dựng những nhân vật nữ có số phận cụ thể

sinh động, qua từng số phận ấy, tác giả đã bộc lộ thái độ, quan điểm của

mình về đời sống đương thời.

Trong tác phẩm này, nhân vật nữ thường gặp những điều ngang trái,

trắc trở, trải qua nhiều nỗi đau xót xa. Cuộc sống của họ thường không có

lối thoát, kết cục là những cái chết đau đớn, bi thảm. Số phận người phụ nữ

bất hạnh là sự tố cáo mạnh mẽ xã hội đương thời - ở đó người phụ nữ luôn

bị trói buộc vào những cương thường khắt khe. Vũ Trinh sử dụng yếu tố kỳ

ảo để phản ánh sâu sắc số phận người phụ nữ. Đặc điểm đó cũng đã được Lê

Thánh Tông và Nguyễn Dữ sử dụng trong sáng tạo trước đó, vì đây là thuộc

tính của truyện truyền kỳ.

2.2. Nhân vật thần tiên

Người xưa quan niệm: Thiên nhân tương cảm, ngụ ý con người và vũ trụ

có mối tương quan với nhau. Chính vì vậy văn chương thời trung đại thường

mượn những hình ảnh siêu nhiên để thể hiện cách cảm nhận của con người về

thế giới. Nếu như nghệ thuật nhân hóa là một phương thức được sử dụng để

nhà văn khoác cho nhân vật vật thể và phi vật thể một tính cách, một cuộc sống 48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

như con người, thì có thể thấy phương thức thần kì hóa lại như là một cứu cánh

cho nhân vật truyền kì có một sức mạnh, một khả năng siêu nhiên. Và điều này

có thể thấy rõ nhất qua hệ thống nhân vật thần tiên.

Truyền kì tân phả Lan Trì kiến văn lục Tân truyền kì lục

(4 truyện) (Không có) (2 truyện)

8 nhân vật Không có 2 nhân vật chính và

nhiều nhân vật phụ

2.2.1. Xuất thân

Thần tiên là một trong những hình tượng mang dấu ấn của truyện cổ tích

khá rõ nét. Theo dân gian, nhắc đến loại hình nhân vật này, người đọc hình

dung những ông bụt, cô tiên hiền lành, phúc hậu, đem lại niềm vui, hạnh phúc

cho con người bất hạnh. Vì vậy nhân vật thần tiên luôn nhận được sự ưu ái của

mọi người viết và của nhân dân. Trong tác phẩm Truyền kì tân phả,không xuất

hiện những nhân vật như: tinh cây cỏ, hồ ly tinh, Diêm Vương, quỷ Dạ Xoa mà

nhân vật mang yếu tố kì ảo xuất hiện chủ yếu là tiên và các loại thủy thần.

Vân Cát thần nữ (truyện nữ thần ở Vân Cát) trong Truyền kì tân phả, là

câu chuyện về bà chúa Liễu Hạnh. Bà là Tiên nữ vì đánh vỡ chén ngọc nên bị

Ngọc Hoàng đày xuống trần gian làm con Thái Công ở Vân Cát (Nam Định).

Lớn lên đẹp người, tốt nết kết duyên với Đào Sinh (cũng người nhà trời). Sinh

được một người con trai thì nàng phải về trời. Nhưng vì “tơ tình còn nặng”, nên

nàng lại xuống trần lần thứ hai. Khi thì hóa thành cô gái mỹ miều, có khi lại

hóa thành bà già. Và nàng hóa thân ở rất nhiều địa điểm khác nhau. Rồi Liễu

Hạnh gặp một chàng thư sinh ở vườn đào, nảy sinh tình yêu và kết lứa. Nhưng

hết hạn nàng lại phải về trời… Nếu như ở thế kì XIV, Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ các nhân vật có sự biến ảo là cáo, hồn cây hóa người, người thành

ma rồi trở lại làm người thì trong Truyền kì tân phả chỉ có nhân vật tiên chúa là

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

có sự thiên biến vạn hóa: Khi thì thành cô gái đẹp thổi ống tiêu dưới trăng, khi

thì hóa làm cụ bà, lúc thì đến Lạng Sơn, khi thì lại về Tây Hồ,…

Bích Câu kì ngộ (Cuộc gặp gỡ kì lạ ở phường Bích Câu),tiên nữ Giáng

Kiều còn nhiều duyên nợ với trần gian nên xuống trần để trả cái nợ chưa hết.

Nàng đã gặp chàng Trần Tú Uyên - một nho sĩ học giỏi thơ văn nổi tiếng đang

dùi mài kinh sử để chờ dịp chiếm bảng vàng. Nhân một hôm đi dự hội chùa, họ

đã vô tình gặp nhau, đem lòng nhớ thương nhau bởi duyên trời đã định sẵn.

Tiên nữ đã hóa thành bức tranh, khi được Tú Uyên mua về treo trong nhà thì

hàng ngày đợi chàng đi vắng, nàng bước ra cơm nước dọn dẹp chu đáo, như

một người vợ trong gia đình. Ít lâu sau tiên nữ từ trong tranh hiện ra kết duyên

cùng chàng. Sống trong hạnh phúc ái ân chàng sao nhãng đèn sách và ham mê

rượu chè. Lúc say nàng khuyên bảo, chàng giận giữ đuổi đi. Tỉnh dậy thì hối lại

không kịp. Chàng hết sức buồn rầu, chán nản ai khuyên giải cũng không nguôi.

Một hôm chàng sắp thắt cổ tự tử thì Giáng Kiều hiện về đỡ lấy chàng. Từ đó vợ

chồng sum họp, ân ái mặn nồng, hạnh phúc toàn vẹn và Giáng Kiều lại sinh con

trai. Một hôm vợ chồng bàn bạc, thấy rằng cuộc sống cõi trần gian ngắn ngủi,

phải lên cảnh tiên để kéo dài hạnh phúc lứa đôi. Tú Uyên bằng lòng, ra công

học phép tu tiên. Ít lâu sau một con hạc vàng đậu xuống giữa sân, cả vợ chồng

con cái cưỡi hạc bay lên tiên.

Như vậy, qua hai truyện trong Truyền kì tân phả, chúng ta có thể dễ dàng

nhận ra xuất thân của loại hình nhân vật thần tiên này có khởi nguồn từ tiên.

Duy nhất có Tú Uyên là người phàm trần sau này mới thành tiên bởi chàng ra

công học phép tu tiên và có sự hỗ trợ của vợ tiên. Bởi lẽ tác giả xây dựng nhân

vật có xuất thân như vậy để nâng tầm giá trị cho nhân vật đồng thời muốn nói

đến việc xuất thân dù là tiên hay là người thì cũng không tránh được tiếng sét ái

tình, luôn khát khao và hướng tới hạnh phúc lứa đôi.

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Khác với Đoàn Thị Điểm, Vũ Trinh xây dựng loại hình nhân vật thần

tiên không còn độc đáo, thần kì như trước. Thần tiên trong Lan Trì Kiến văn

lục mờ ảo hơn nhiều so với những truyện cùng thể loại. Việc xuất thân của các

thần tiên vẫn giữ được nét huyền bí, kì lạ nhưng không chi tiết và cụ thể như

các truyện Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục hay Truyền kì tân phả. Bốn

vị Thánh nương (thần cửa Cờn) được lập đền thờ ở Nghệ An, theo tương

truyền chính là Dương Thái hậu (thái hậu Đế Nhuế - vua Tống) và ba công

chúa, trong trận Nhai Sơn vào năm Tường Hưng, khi quân Tống thua to, liền

nhảy xuống biển tự tử, gió đưa dạt vào Cửa Cờn, dù lênh đênh trên biển nhưng

sắc mặt vẫn như còn sống, thân hình nguyên vẹn. Như vậy, về xuất thân của

thần đã rất chi tiết, rõ ràng như vậy. Sang truyện Tiên trên đảo, câu chuyện hầu

như không giới thiệu rõ hai cụ già trong truyện là hai vị tiên, chỉ có tên truyện

là đề cập đến chữ “tiên”. Tuy nhiên người đọc vẫn có thể hiểu được thông qua

sự xuất hiện thần kì và hành động của hai vị. Hai cụ già (tiên) sống “trên đảo

giữa biển, núi non cây cỏ xanh tươi, chân núi đất bằng vài chục mẫu, cỏ non

xanh rờn như trải thảm” [59, tr.100], ở đó có rất nhiều muông thú, lành dữ đủ

cả. Bối cảnh để xuất hiện hai vị tiên này là do Nguyễn Lộc người huyện Thanh

Trì đi biển bị bão đánh giạt vào hòn đảo này. Có con Hươu dẫn lối Lộc vào

rừng sâu quên cả lối ra, và tại đây Lộc đã gặp được hai cụ già và được chỉ rõ

đường ra phía thuyền một cách đơn giản nhanh chóng. Hay là ông già vốn là

tiên trong truyện “Tiên ăn mày”, thì không hề nói đến ông đến từ đâu, từ cõi

nào. Ông xuất hiện rồi biến mất như trong truyện cổ tích, với bộ dạng nghèo

khổ để thử lòng của con người. Motip tiên cứu giúp người nghèo khổ trong

truyện dân gian dường như đã được áp dụng triệt để trong tác phẩm này. Như

vậy Tiên trong những truyện của Vũ Trinh mặc dù không được giới thiệu là

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tiên phật một cách cụ thể từ cõi nào, cũng không đi sâu miêu tả chi tiết, nhưng

yếu tố “kì” đã giúp tác phẩm giữ được bản chất của thể loại.

2.2.2. Ngoại hình

Theo quan niệm văn hóa Phương Đông, con người lý tưởng xét về nguồn

gốc là những con người được vũ trụ, trời đất sinh ra trong đó thần tiên là những

con người được kết tinh từ những gì tinh túy nhất của vũ trụ. Chính vì vậy, ngòi

bút của nhà văn khi miêu tả về ngoại hình của kiểu nhân vật này khá đặc sắc

giúp người đọc có thể hình dung ra được ngoại hình rất đẹp đẽ, sang trọng của

các tiên nữ. Đó là ngoại hình của nàng Giáng Tiên trong Truyện Vân Cát thần

nữ: “Đến khi lớn, da trắng như sáp đọng, tóc sáng như gương soi, lông mày

cong như mặt trăng mới mọc, mắt long lanh như sóng mùa thu…” [10, tr.97].

Tương tự là hình ảnh của Giáng Kiều trong Bích Câu kỳ ngộ. Nàng được giới

thiệu là:“một người trạc độ mười bẩy mười tám tuổi, mày lá liễu, má hoa đào,

ăn mặc gọn gàng […], da dẻ trắng ngần, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành

[10, tr.143]. Trong Truyền kì tân phả, nữ sĩ họ Đoàn còn bị ảnh hưởng của văn

học dân gia, chính vì vậy nữ sĩ đã xây dựng nhân vật thần tiên khá cụ thể với

những đặc điểm đặc trưng, đặc biệt là việc xây dựng ngoại hình nhân vật.

Cách xây dựng kiểu nhân vật thần tiên của Vũ Trinh lại có nét độc đáo

khác Đoàn Thị Điểm. Thần tiên trong Lan Trì kiến văn lục không có bóng dáng

của tiên nữ, mà chủ yếu là các tiên ông - tượng trưng cho sức mạnh, thái độ làm

việc dứt khoát và mang đến sự công bằng, giúp đỡ những con người có số phận

nghèo khó. Ở đây không có nói đến ái tình giữa con người và tiên, chỉ đề cập

đến những mấu chốt cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ có sự thần kì của thần

tiên. Qua khảo sát những truyện có kiểu nhân vật thần tiên trong Lan trì kiến

văn lục, chúng tôi nhận thấy việc miêu tả ngoại hình bằng các chi tiết cụ thể đã

vắng bóng. Nếu như Lê Thánh Tông miêu tả người thần thổi địch (Gặp tiên ở

hồ Lãng Bạc) với dáng vẻ tuấn tú, thoát tục tiêu biểu cho cốt cách tiên gia “Ta

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thấy người đó trạc hai mươi tuổi, tóc xõa chấm vai, môi son mắt phượng,

thoang thoảng có mùi hương chỉ lan. Người đó đầu đội khăn vuông, mặc áo

xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo một ống địch bằng trúc” [58, tr.36], thì

với Vũ Trinh lại không đi sâu miêu tả chi tiết hình dáng nhân vật và hầu như

không nhắc đến. Duy chỉ có ông lão (thực chất là tiên) trong Tiên ăn mày có

điểm qua về hình dáng đau khổ của một kẻ nghèo khó, lâm bước đường cùng:

“Già nua gầy còm, mặt đầy rỉ mắt, rỉ mũi, tanh tưởi hôi hám, nhớt dãi nhổ đầy

đang còng queo trước mắt” [79]. Từ một ông lão trông đáng sợ như vậy nhưng

bên trong lại chứa đựng sự kì vĩ, ông đã giúp người cưu mang, đối đãi tử tế với

ông một ít vàng từ chính trong cơ thể ông. Điều này cho thấy tầm vóc vũ trụ

của loại hình nhân vật này.

2.2.3. Tính cách, phẩm chất

Để thấy được sự siêu nhiên, khác người thường của thần tiên, nhà văn chủ

yếu đi sâu miêu tả nhân vật qua những hành động, tính cách và trang phục phi

thường để làm nổi bật lên tính cách, phẩm chất của loại hình nhân vật này.

Chúng tôi xin đưa ra một vài dẫn chứng tiêu biểu trong Truyền kì tân phả và Lan

Trì kiến văn lục, riêng Tân truyền kì lục thì không có loại hình nhân vật này.

Trong Truyền kì tân phả, nhân vật thần tiên có những hành động, cử chỉ

sắc thái mang nét đặc biệt, ngay từ khả năng đi lại của nhân vật. Ví dụ như để

đi vào giấc mộng của Thái Công (Truyện nữ thần ở Vân Cát), người lực sĩ cùng

thị nữ đi lại bằng “mây hồng” [10, tr.95]. Hay tiên chúa Giáng Tiên, sau khi hết

hạn chốn trần gian, vì còn nặng nghĩa tình với người cõi phàm cho nên đã

nhiều lần xuống trần. Sau khi gặp lại cha mẹ và người nhà, nàng “vụt biến

mất”, ngay cả khi gặp lại Đào sinh - người chồng yêu dấu - chưa được gang tấc,

nàng cũng biến vụt mất, “bỗng chốc thấy tiếng xe loan đã văng vẳng ở cửa

ngoài, chỉ thấy cơn gió thơm thoảng qua, đám mây lành họp lại, không biết

người tiên đã biến đi đâu mất” [10, tr.137] trước sự ngỡ ngàng, nuối tiếc, đau

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xót của người thân và gia đình. Sau này, khi trở lại trần gian, Tiên chúa “vờn

mưa cưỡi mây, chơi trăng cợt gió” [10, tr.110], chu du khắp nơi trong thiên hạ

khiến người thường không biết đâu mà lường tung tích. Giống với Giáng Tiên,

nàng Giáng Kiều (Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu), cũng lúc ẩn lúc hiện, cũng

vụt biến mất khiến chàng Tú Uyên đầy bất ngờ và hoang mang: “- Phật chăng,

quỷ chăng, hay là mộng chăng?”. Các nàng tiên trong truyện cũng cưỡi mây,

cưỡi gió đi lại: “Một lát sau thấy Tiên Dung công chúa và Ngụy Giáng Hương

từ trên mây xuống, các tiên khác tiếp tục xuống sau…” [10, tr.165], “Chợt thấy

một trận gió thoảng đưa hương đến, ngay trước của sổ thấy rơi xuống một

chuỗi hoa. Chàng vội vàng ra xem, thấy hai thị nữ dìu nàng đến…” [10, tr.189].

Ngoài mây, gió, việc thần tiên cưỡi hạc cũng không còn xa lạ trong văn học

dân gian, bởi lẽ con Hạc cũng tượng trưng cho sự thanh cao và thiêng liêng

“Một hôm mây móc bện quấn ngay giữa sân nhà, trong đám mây ấy có một con

hạc trắng ngậm thư bay xuống, chàng cùng con là Trân và Giáng Kiều đều

cưỡi hạc bay đi..” [10, tr.194] và đây là những phương tiện xuất hiện cùng với

loại hình nhân vật này đã được Đoàn Thị Điểm khai thác rất thành công và triệt

để. Điều này càng làm cho câu chuyện trở nên kì lạ, huyền ảo mang đậm chất

Kì của thể loại.

Nói đến sự phi thường, kì vĩ của loại hình nhân vật thần tiên, các tác giả

đã miêu tả khả năng biến hóa khôn lường của họ. Thoắt ẩn thoắt hiện hay thay

đổi cảnh vật bằng phép thuật là tất cả những đặc điểm thể hiện phẩm chất kì vĩ

của nhân vật. Tiên chúa Liễu Hạnh sau khi hết hạn trần gian về trời, vì vương

vấn trần tục nên tung tích như mây nổi lưng trời, lúc là người này chốn này, lúc

lại là người khác chốn khác: “Có khi giả làm gái đẹp thổi ống tiêu dưới trăng;

có khi hóa làm bà già tựa gậy trúc ở bên đường…” [59, tr.107]. Rồi nàng thích

chu du thiên hạ, tìm nơi danh thắng, đem cảnh núi non làm cảnh tiên gia. Tất cả

tiền bạc của cải mà người ta dâng, đều đem về nhà cho cha mẹ. Mặc dù là tiên

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhưng Tiên chúa được miêu tả như người trần thế, sống nội tâm, biết yêu

thương và lo toan cho gia đình và có tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên đẹp.

Tương tự là hình ảnh tiên nữ Giáng Kiều (Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu)

đầu thai xuống trần để được se duyên với người trần. Nàng cũng bộc lộ hết sự

tài hoa khéo léo, đảm đang của người phụ nữ truyền thống: “Nàng từ sau tiệc

vui hoa đuốc, phụng thờ gia tiên rất có hiếu, trông nom việc nhà rất chăm chỉ,

nâng niu khăn lược, cung phụng cấp dưỡng, không chỗ nào chàng không vừa

ý” [10, tr.178]. Mặc dù duyên phận đã định đoạt, dù là tiên nữ nhưng nàng vẫn

giữ đúng khuôn thước phong kiến, rất trang trọng và lịch thiệp. Không những

vậy, Giáng Tiên còn am hiểu việc giấy mực, thường xướng họa với chồng,

khuyên nhủ chồng khi chồng sống trong cảnh “phấn hương là lượt, khế khà

làm vui”, một mực yêu thương và hy sinh vì chồng con. Xây dựng nhân vật

mang những nét cơ bản của người trần thế, tuy nhiên để yếu tố kì ảo thực sự

được phát huy, Đoàn Thị Điểm cũng đã cho nhân vật bộc lộ những đặc điểm

như hóa thân vào bức tranh để đến được với Tú Uyên, ngày ngày bước ra từ

trong tranh để chu đáo việc cơm nước cho chàng Tú Uyên. Không những thế

tài phép còn được bộc lộ: “Nàng liền vảy cái cành hoa vẽ ở trong tranh, biến ra

thành hai thị nữ, sai sửa soạn cơm nước để cùng nhau làm lễ giao bái” [10,

tr.165]. Khi làm xong lễ tiệc mừng giao bái với các tiên thì tất cả cảnh vật đều

biến mất. Để hưởng hạnh phúc ái ân đời đời kiếp kiếp nên nàng đã trao bí quyết

và phép thuật tu tiên để giúp chồng lấy đạo cầu tiên, thành tiên. Những đặc

điểm này đã tạo nên tính cách kì lạ của thần tiên, chính điều khác thường ấy đã

mang lại cho người đọc một cảm giác bí ẩn, lạ lẫm, lôi cuốn. Qua hành động

phi thường này, có thể phần nào nhận ra đặc điểm về tư duy của con người

trung đại. Con người trung đại xem hành động kì vĩ, phi thường là một trong

những yếu tố hàng đầu tạo nên tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Ngoài ra với việc

miêu tả tư thế, công việc của nhân vật, chúng ta có thể hiểu được đời sống của

thần tiên: “Có hai cụ già đang đánh cờ trên đó. Lại có đứa hầu nhỏ pha trà, 55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trên phiến đá bày la liệt lê, táo… Hai cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ, đến

khi ván cờ gần tàn vẫn ra vẻ không hay biết có Lộc đứng đó” [59, tr.101]. Hình

ảnh này cho thấy một trạng thái ung dung, tự do, tự tại của nhân vật.

Ngợi ca những tốt đẹp của nhân vật thần tiên, các tác giả không chỉ bàn

về hành động kì vĩ, phi thường của họ mà còn ca ngợi họ ở khía cạnh nhân

phẩm. Nói đến tài năng của loại hình nhân vật này, đầu tiên phải kể đến tài

sáng tác văn chương. Theo quan niệm của Nho gia, tài năng văn chương là một

trong những dấu hiệu bộc lộ khả năng thiên phú của nhân vật. Trần Nho Thìn

đã khẳng định: “Nếu dấu hiệu của hổ báo là các vằn đốm trên bộ lông, dấu

hiệu của con phượng là sắc lông sặc sỡ thì dấu hiệu của một thiên tài chính là

văn chương [ 72, tr.152]. Trong Truyền kì tân phả, các tiên chúa không những

xinh đẹp mà còn rất tài năng trong sáng tác, đối đáp văn thơ trong mọi trường

hợp..: “Từ đó về sau Tiên chúa hành tung không định, vờn mưa cưỡi mây, chơi

trăng cợt gió. Tất cả sông lớn, chùa tháp danh thắng ở các nơi không chỗ nào

là không có bút tích lưu đề” [10, tr.110].

Bên cạnh tài năng văn chương, lòng yêu thương con người là một trong

những yếu tố cho thấy nhân cách cao quý của thần tiên. Trong truyện Tiên ăn

mày của Vũ Trinh, mượn câu chuyện từ dân gian, nhà văn đã cho thấy người

nông dân hiền lành, chất phác, yêu thương con người đã được thần tiên tặng

thưởng xứng đáng. Trong khi đó những người lừa dối, tham lam thì cuối cùng

phải nhận những hình phạt thích đáng. Không chỉ giúp đỡ người nghèo, người

nông dân, nhân vật thần tiên còn được ca ngợi ở tinh thần giữ gìn tài sản cho

dân. Tác phẩm Thần giữ của của Vũ Trinh là một trong những kiểu như vậy:

“Dưới này chôn cất nhiều vàng bạc. Ta là thần giữ của. Nếu anh không chịu đi

ngay thì tai họa không nhỏ đâu” [59, tr.139]. Hoặc giúp đỡ người bị nạn, giúp

họ tìm ra lối thoát khi gặp nguy hiểm như Tiên trên đảo: “Cụ già ra hiệu cho

chú bé hầu bẻ một cành cây đưa cho Lộc và bảo cầm cành cây này mà đi,

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thuyền ở phía trước kia kìa. Lộc từ biệt cụ già, ra khỏi rừng cây mấy bước, thì

đã thấy thuyền ở đó rồi...” [59, tr.101]. Như vậy có thể thấy phẩm chất của loại

hình nhân vật này bộc lộ chủ yếu ở khía cạnh tình cảm của họ với nhân dân.

Phải chăng điều này cũng giúp lý giải tại sao con người trung đại thường xuyên

nghĩ về một đấng tối cao nào đấy khi họ gặp thất bại hay buồn phiền. Qua

những tác phẩm này có thể phần nào hiểu được thêm về đời sống tâm linh của

con người trung đại.

Cách thức trần tục hóa thần tiên đã kéo những hình tượng tín ngưỡng tôn

giáo từ trên “bảo tọa” xuống với người đời. Các nhà văn đã khéo léo phú cho

nhân vật có những đặc điểm giống người. Người đọc bắt gặp những nét kì lạ,

phi thường cũng như những hành vi đời thường của nhân vật. Chính cách viết

từ hư đến thực, từ thần kì đến phàm tục sẽ làm cho sức truyền cảm của nhân vật

cao hơn.

2.3. Nhân vật ma quỷ

Xưa nay các thể loại văn chương đích thực đều có những đặc thù trong

quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Chính vì thế theo các nhà nghiên

cứu văn học trung đại thì trong văn xuôi Trung Quốc và Việt Nam thời trung

đại, truyện truyền kì là thể loại có nhiều khác thường nhất về các phương diện

trên, mặc dầu đại đa số tác giả của nó là nhà nho, những người mà tư duy duy lí

ngự trị. Nhân vật ma quái xuất hiện khá nhiều trong các truyện truyền kì. Có

thể nói không một tập truyền kì nào lại vắng bóng loại nhân vật này (Trừ giai

đoạn cuối cùng của thể truyền kì có Tân truyền kì lục là không có nhân vật ma

quỷ). Đi vào truyền kì ta có thể thấy cả một thế giới ma phong phú. Đây có thể

coi là một loại nhân vật chính của thể loại. Trong tác phẩm, các tác giả truyền

kì ít dùng đúng khái niệm “nhân vật ma quái”. Loại nhân vật này xuất hiện

dưới những hình thức tên gọi khác nhau như ma, hồn ma, linh hồn,… Hiện

tượng ma quỷ, nhân vật ma quỷ xuất hiện khá phổ biến trong văn học Việt 57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nam. Những câu chuyện dân gian về các linh hồn và ma quỷ nằm trong số

những thể loại dân gian ra đời sớm, có hiệu suất cao và không bị mất đi tính

thực tế. Sự tồn tại của chúng vẫn tiếp diễn ngay từ thuở ban đầu của các truyền

thống viết truyện và không bị ngắt quãng trong quá trình phát triển. Từ văn học

dân gian đến văn học thành văn với hơn một nghìn năm phát triển, nhân vật ma

quái vẫn thường xuyên góp mặt và để lại nhiều dấu ấn trong tâm thức người

đọc, người nghe. Ma quái trong truyện cổ dân gian xuất hiện chủ yếu như một

loại nhân vật chức năng, chưa phải nhân vật có hành động, cảm nghĩ thực sự.

Ma quỷ, yêu tinh đều là những nhân vật đại diện cho cái ác, có chức năng gây

khó khăn, cản trở, đe dọa cuộc sống con người, thậm chí là cướp đi mạng sống

của con người. Chỉ có hồn ma con người trong một số trường hợp (hồn ma

người mẹ, người cha, người chị, người vợ,…) là đại diện cho cái thiện, thường

hiện ra trong giấc mộng, giúp đỡ những con người có hoàn cảnh khổ đau, bất

hạnh. Điều đặc biệt ở nhóm nhân vật hồn ma con người này đa số là nữ giới.

Những nhân vật này thường xuất hiện để giúp đỡ những chàng trai, người học

trò có mơ ước thi đỗ, mong muốn thành danh trên con đường khoa cử và thỏa

mãn ước nguyện yêu đương, hạnh phúc. Đây lại là một điểm tương đồng với

nhân vật ma quái trong truyện truyền kì sau này.

Theo quan niệm của dân gian, ma quỷ luôn gắn liền với cái xấu, cái ác. Qua

loại hình nhân vật là ma trong truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỷ XIX cho

ta cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn, ma không chỉ gắn liền với cái xấu, cái ác, ngoài

vẻ đẹp ngoại hình, nhân vật ma còn mang nhiều nét đẹp nội tâm đáng quý.

Nhân vật yêu ma xuất hiện trong truyện truyền kì thời kì này không còn

đậm đặc như thời kì trước đó nữa. Trong tổng số 03 tác phẩm mà chúng tôi

khảo sát thì chỉ có 07 truyện thuộc 2 tác phẩm: Truyền kì tân phả và Lan trì

kiến văn lục xuất hiện nhân vật yêu ma. Trong những truyện này, chúng tôi

thấy những nhân vật yêu ma hiện lên rất sống động, chân thực như cuộc sống 58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của người thường. Bằng việc đan xen giữa “kì” và “thực”, người đọc sẽ bắt

gặp màn sương kì ảo của thể loại truyền kì. Ở đó, bạn đọc được tiếp cận với các

nhân vật mang yếu tố kì ảo, nhân vật yêu ma không có thực trong cuộc sống

thực như được gặp gỡ, trò chuyện với yêu quái, ma quỷ... Hay tại đó, độc giả

được chu du nơi thủy cung, chứng kiến cuộc sống ở địa ngục - nơi con người

vẫn cho là thế giới bên kia của các linh hồn (chủ yếu là người) khi chết đi. Đặc

biệt hơn, khi được tiếp cận với các truyện, người đọc sẽ được khám phá về vẻ

đẹp của nhân vật yêu ma (cả về thế xác, tâm hồn, trí tuệ) và có những cảm giác

mới lạ về không gian, thời gian siêu thực.

Truyền kì tân phả Lan Trì kiến văn lục Tân truyền kì lục

(2 truyện) (7 truyện) (Không có)

3 nhân vật chính 7 nhân vật chính và Không có

nhiều nhân vật phụ

2.3.1. Xuất thân

Con người gồm thể xác (mang tính chất vật chất) và linh hồn (mang tính

chất phi vật chất). Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác thành ma hay

quỷ. Quỷ là oan hồn (linh hồn người chết oan) vất vưởng lâu năm, chất chứa

nhiều cảm xúc tiêu cực (oán hận). Trong truyện kể dân gian các nước thường

lưu truyền những câu chuyện rất hãi hùng dễ sợ về quỷ từng giết và ăn thịt

người. Hình thái thông thường của loại nhân vật này là "trắng bạc", "cái bóng

lờ mờ", "nửa trong suốt", hay "tựa như sương mù", "đống đen thùi lùi", không

có hình dạng nhất định như cơ thể sống con người. Trong tín ngưỡng dân

gian Trung Quốc, ma không có bóng và không được phản chiếu lên gương.

Thực tế thì khi nói đến ma người ta chỉ nghĩ đến những vật thể phi hình dáng,

khó làm hại người. Một số trường hợp ma xuất hiện rõ ràng, có hình dáng cụ

thể, hành động (đi lại, nói chuyện) như người bình thường, thậm chí làm người

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sống có gặp cũng không biết đã gặp ma hoặc hù dọa (không có mắt, rụng tay

chân, chảy máu,...),và dĩ nhiên ma thường mang năng lực siêu nhiên mà con

người không thể có.

Ở Truyền kì tân phả, nhân vật ma không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm

như những trong những truyện cùng thể loại, mà cho đến khi gần hết tác phẩm,

nhân vật ma mới xuất hiện. Tất cả các nhân vật là ma trong Truyền kì tân phả

đều là người phụ nữ, từng là con người có cuộc sống trên trần gian, sau khi chết

vì còn nhiều uẩn khúc mà hiện lên báo mộng, tâm sự với con người, đây cũng

chính là yếu tố kì của loại truyện này. Hồn ma nàng Bích Châu - cung nhân đời

Trần Duệ Tông trong “Truyện đền thiêng ở cửa bể” hiện lên báo mộng cho vua

Lê Thánh Tông về nỗi khổ nàng phải chịu đựng khi bị tên Giao Long hãm hại,

chôn vùi thân xác nơi cửa bể và nhờ vua ra tay tế độ để rửa nỗi nhục thù nàng

đang phải chịu đựng. Đến khi rửa được dơ bẩn, làm thanh sạch danh dự và đòi

được công bằng thì hương hài nàng mới nổi lên, nhan sắc vẫn tươi và đẹp như

lúc còn sống vậy.

Đinh phu nhân - người phụ nữ được phong là Liệt nữ (Truyện người liệt

nữ ở An Ấp) cũng gần giống như vậy, vì quá yêu nhớ chồng khi chồng chết,

nàng đã thắt cổ tự tử vào ngày lễ tiểu đường của chồng. Truyện nếu kết thúc ở

đây thì yếu tố kì không có trong truyện nữa, tuy nhiên phần kết truyện, tác giả

đã khoác lên nhân vật đôi cánh thần kì, người chết rồi vẫn hiện lên báo mộng

để làm sạch những bụi bẩn trần gian ảnh hưởng đến thanh danh chồng nàng.

Sau khi chết, Đinh phu nhân vẫn có một cuộc sống vương giả, sang trọng, quý

phái: “Đến một nơi lầu son gác tía, cột vẽ hiên cao, Sinh sợ hãi khom lưng đi

vào, trải qua bốn lần cửa, thấy điện lưu ly, đặt giường thất bảo, trên giường có

một vị phu nhân ngồi nghiêm chỉnh, đầu đội thoa kim phụng, mình mặc áo gấm

rồng…” [10, tr.87].

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhân vật yêu ma xuất hiện trong Lan Trì kiến văn lục với số lượng

không lớn so với những truyện cùng thể loại trước đó. Trong tổng số 45 truyện

thì chỉ có 2 truyện tác giả nêu rõ có nhân vật là ma ngay từ tên truyện: Đánh

ma và Ma cổ thụ, còn một số tác phẩm khác, mặc dù cả tên truyện đến nội dung

không nhắc tới ma, nhưng người đọc cũng có thể ngầm hiểu có yếu tố kì ảo

trong cách xây dựng nhân vật, bởi vì hồn con người khi chết, hiện lên báo

mộng lại với người còn sống thì có thể coi đó là hồn ma như: Đẻ lạ, Sống lại,

Nhớ ba kiếp, Tháp báo ân, Mộng lạ. Hầu hết các nhân vật là ma quỷ trong Lan

Trì kiến văn lục được giới thiệu ngay từ đầu tác phẩm địa chỉ rõ ràng vì đều là

những người sống vì mắc bệnh chết đi, nhưng còn vướng nợ với trần thế cho

nên chưa đi hẳn. Người phụ nữ ở Châu Vạn Ninh, Quảng Yên (Đẻ lạ), đang

mang thai ốm chết, dù được khâm liệm và chôn cất nhưng hàng ngày vẫn đi

mua bánh kẹo cho đứa con khát sữa dưới mồ; Cô con gái con ông hàng xóm

của Đào Sinh ở huyện Đông Sơn (Sống lạ) bị chồng ghen đánh chết, dù đã

chôn cất nhưng vẫn có tiếng động dưới mộ, khi đào quan tài lên thì thấy xác

vẫn động đậy, sờ vào còn có hơi ấm, sau khi chữa trị cô nôn ra đấu máu rồi

sống lại như chưa từng có chuyện gì xảy ra; Ông Cử người Thanh Hóa (Nhớ ba

kiếp) nhớ việc mà ông đã làm ở ba kiếp trước. Khi ở Địa ngục ông đã gặp Diêm

Vương, gặp quỷ…cuộc sống diễn ra nơi địa ngục sống động như có trong thực

tế: “Diêm Vương tra sổ, phạt ông làm gà, tức thì sai quỷ lôi đi. Qủy lấy chăn

bọc ông lại, ném lên trời.” [59, tr.144]; Hay cô gái con ông họ Nguyễn ở xã

Bình Quân, huyện Cẩm Giàng bị bệnh nặng lại không được hợp duyên với

người thương cho nên chết. Sau khi chết đã được chôn cất trên miếng đất cô ở.

Nhưng hồn cô gái đã hàng ngày báo mộng tha thiết xin người chấm thi, mong

giúp đỡ cho Sinh - người cô đem lòng yêu mến. Và chính vì thế giúp Sinh thi

đỗ kì thi quan trọng: “Chợp mắt ngủ gật, thấy một người con gái cầm bài thi,

lạy tôi và xin rằng: Đây là bài thi của chồng thiếp, xin rộng lấy bài này. Tỉnh 61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dậy thì thấy bài ông ở ngay trước mặt (….) Khi tựa gối thiu thiu lại mơ thấy có

người như trước tha thiết nài xin. Hỏi họ tên, cô gái nói là con gái họ Nguyễn ở

xã Bình Quân… Đây đúng là ma quỷ” [59, tr.168]. Tuy nhiên, có những truyện

việc phân biệt giữa ma và người chưa thực sự rõ ràng như Đánh ma, ma được

giới thệu trong hoàn cảnh cùng với sự xuất hiện của nhân vật Hãn - một nông

dân người huyện Thanh Trì. Tình huống xuất hiện chưa có nhiều đặc biệt,

nhưng tình huống biến mất lại mang tính kì, bước ngoặt cho câu chuyện “Hãn

đánh bồi thêm liền mấy gậy, thấy hình thể nó biến đâu mất, chỉ còn một quầng

khí đen bay tản ra ruộng, mới biết nó không phải là người” [59, tr.140]. Duy

chỉ có Ma cổ thụ, giới thiệu xuất thân của nhân vật nổi bật hơn, tại phố Đình

Ngang, ma sống trong cây đa lớn, có phép biến hóa khôn lường, ai động tới liền

bị làm tội. Nếu như với loại hình nhân vật yêu ma, khi xuất hiện thường có

motip: gió lạnh thổi đến, gió cuốn bụi bay, xuất hiện bóng ma đầu tóc rũ rượi

hoặc mặc đồ trắng, miệng đỏ, cười nói khanh khách… Tuy việc khắc họa loại

hình nhân vật này trong Lan Trì kiến văn lục còn mờ ảo, chưa thực sự rõ nét và

không phải là truyện chuyên kể về ma cho nên có phần nào chưa được li kì,

rùng rợn và gây cảm giác nhiều khi đọc truyện ma so với những tác phẩm viết

về ma cùng thể loại. Xuất thân của loại hình nhân vật này cũng bắt nguồn từ

con người chứ không phải chồn, cáo, cây, hồn hoa như trong Truyền kì mạn lục

của Nguyễn Dữ. Đây cũng là sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật cũng như

trong khả năng sáng tác của các tác giả, song điều này khiến yếu tố “kì” bị

giảm đi và sức lôi cuốn không còn nhiều nữa.

2.3.2. Ngoại hình

Miêu tả ngoại hình để khắc họa nhân vật vốn là một bút pháp nghệ thuật

đã được sử dụng từ lâu trong văn học trung đại. Do tính ước lệ của phạm trù

văn học trung đại nên những vẻ đẹp của tự nhiên thường được xem là chuẩn

mực, là thước đo cho hình thức lẫn nội dung của tác phẩm cũng như việc thể 62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hiện nhân vật. Bút pháp ước lệ tượng trưng là chỉ qua những nét chấm phá vẫn

là toát lên không chỉ hình thức, vẻ bên ngoài của nhân vật mà còn thê hiện

được nội tâm của nhân vật.

Bút pháp ước lệ tượng trưng là một bút pháp quen thuộc của các văn nghệ

sĩ trung đại. Khi miêu tả phong cảnh thì những thi liệu như: mây, gió, trăng,

hoa, tuyết, núi, sông... nhất định được sử dụng. Còn khi miêu tả con người các

tác giả luôn lấy chuẩn mực thiên nhiên đế miêu tả. Nếu là người quân tử sẽ là:

“râu hùm, hàm én, mày ngài” với khí chất như cây Tùng, cây Bách còn giai

nhân: “yểu điệu như liễu”, “thắt đáy lưng ong”, “như hoa như ngọc”...

Trước đó, bậc thầy Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục đã xây dựng

được nhiều nhân vật ma nữ rất xinh đẹp, hoàn hảo. Ví dụ nàng Nhị Khanh

trong Chuyện cây gạo là người con gái chết trẻ. Hồn ma của nàng hiện diện

giữa dân gian là một người con gái đẹp, “giai nhân tuyệt sắc”. Hay nàng Đào

Hàn Than “tuổi đời trẻ trung nhan sắc lại lộng lẫy” (Chuyện nghiệp oan của

Đào thị). Hoặc cả hai nàng Đào và Liễu là những tinh hoa biến thành cũng

mang nét đẹp kiều diễm tột bậc. Nàng Liễu được khen ngợi: “Vẻ đẹp kiều diễm

của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng đáng với câu thơ cổ “Mỹ nhân nhan

sắc đẹp như hoa” (Chuyện kì ngộ ở trại Tây). Rồi Ngô Chi Lan (Cuộc nói

chuyện thơ ở Kim Hoa) mặc dù khi mất là bốn mươi tuổi nhưng trong con mắt

của người học trò Mao Tử Biên hồn ma của người phụ nữ đã “luống tuốỉ” lại

là “một vị mĩ nhân, trâm ngọc hài cườm, coi như một vị phi tần”... Ấn tượng

đầu tiên về các ma nữ chính là ở tuổi trẻ, ở dung nhan lộng lẫy. Họ có một

ngoại hình đẹp đẽ, quyến rũ vô cùng. Còn hình dáng của những con quỷ lại

được miêu tả hết sức kì dị, dữ tợn: “mắt xanh tóc đỏ hình dáng hung ác”

(Chuyện chức phán sự đền Tản Viên), “đứa cụt chân, đứa mất đầu, hình dáng

kì quái” (Người trần ở Thủy phủ). Đôi khi quỷ dữ được miêu tả dưới dạng

mình người đầu vật như lính đầu trâu (Chuyện cây gạo), lính đầu ngựa 63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

(Chuyện Lý tướng quân). Nhìn chung, nhóm nhân vật này được miêu tả giống

hình dung của dân gian và kinh Phật, không cần dụng công nhiều. Trong truyện

cổ tích ma quỷ đại diện cho cái ác nên được khắc họa bằng vẻ ngoài xấu xí,

diện mạo dữ dằn, khuôn mặt gớm ghiếc. Việc miêu tả ngoại hình như thế cốt

để gây nên sự sợ hãi, không khí rùng rợn cho câu chuyện dưới âm ti. Loại nhân

vật ma quái có hai hình dạng chính: quái dị, gớm ghiếc hoặc xinh đẹp, khôi

ngô. Đấy chính là đặc trưng và bản chất của ma quái trong Truyền kì mạn lục ở

giai đoạn trước.

Đến với Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, khi tìm hiểu nhân vật

yêu ma (đặc biệt là các yêu ma nữ) trong tác phẩm của Đoàn Thị Điểm và nhân

vật ma quái của Vũ Trinh, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm khác biệt trong

cách xây dựng loại hình nhân vật này so với những tác phẩm cùng thể loại.

Cách miêu tả ma của Đoàn Thị Điểm theo lối “trần sao âm vậy, vì thế cả hai

hồn ma trong Truyền kì tân phả ít bộc lộ về chân dung ngoại hình và không có

gì thay đổi về diện mạo. Sau khi chết, họ không biến thành quỷ dữ hay biến

thành một loài khác, mà vẫn mang dáng vẻ dịu dàng, nhẹ nhàng, trang nhã của

bậc phu nhân tài hoa đầy trí tuệ.

Tương tự như vậy, Lan Trì kiến văn lục cũng không quá hình tượng nhân

vật yêu ma. Những con người giản dị, khi chết đi họ vẫn mang sắc thái, tình

cảm của chính họ khi còn sống. Ma cũng chính là người, có diện mạo và hành

động như người. Ranh giới giữa âm và trần dường như không còn, bởi vì

không quá khó khăn người sống gặp được lại người chết. Trong các truyện: Đẻ

lạ, Sống lại, Tháp báo ân, tác giả không hề dành ngòi bút cho việc miêu tả

nhân vật, bởi lẽ tác giả chú trọng miêu tả hành động của nhân vật và giá trị tác

phẩm thông qua loại hình nhân vật hồn ma đó mà thôi, chứ không đi sâu miêu

tả về đối tượng đó như thế nào. Chỉ có ma trong Đánh ma, Ma cổ thụ là tác giả

có nói sơ qua về ngoại hình, tuy nhiên cũng rất mờ nhạt. Ma trong Đánh ma là:

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“một người vừa cao vừa đen”, chuyên đi ăn trộm cá, có vũ khí và cũng đánh trả

quyết liệt, khi trúng đòn thì biết đau, miệng kêu rống lên, về ngoại hình cũng

chả có gì khác người thường, chẳng thể biết đó là ma đàn ông hay ma phụ nữ,

là ma lành hay ma ác. Thật khó phân biệt; Ma trong Ma cổ thụ cũng chỉ giới

thiệu sơ qua nhưng mang dáng vẻ con người: “Thiếu phụ ăn mặc lộng lẫy,

nhan sắc xinh tươi”. Người kể chuyện gọi đó là ma, nhân vật được chứng kiến

thì gọi đó là “yêu quái”, nhân vật chính thì tự xưng là “thần”.

Tóm lại, qua cách xây dựng nhân vật yêu ma đặc biệt trong Truyền kì tân

phả và Lan Trì kiến văn lục, thì hầu như các tác giả đều không quá coi trọng

việc miêu tả ngoại hình, chỉ nói rất chung chung về kiểu nhân vật này, bởi lẽ

các tác giả không coi việc miêu tả về ma mà chủ ý thông qua hình tượng đó để

bày tỏ mục đích hướng người đọc đến những vấn đề còn tồn tại trên trần gian

và qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của tác giả.

2.3.3. Tính cách, phẩm chất

Truyện truyền kì nói về ma quái nhưng kì thực là nói chuyện con người

nên nhân vật ma quái trong truyện truyền kì hiện lên sinh động, cũng có tình

cảm, hành động, suy nghĩ. Điểm đặc biệt là tất cả các nhân vật ma quái bắt đầu

được khắc họa về tính cách này đều là những nhân vật nữ. Sau khi chết, dù

phải làm vợ tên Giao Long đê hèn nhưng trái tim nàng vẫn dành cho chồng

Nàng đã báo mộng cho vua Lê Thánh Tông, xin vua cứu giúp viết một lá thư

tâu lên Quảng Lợi Vương tội ác của tên Giao Đô đốc. Nàng đưa cho vua ngọc

minh châu có thể nhìn thấy cả cõi âm u. Sau khi tên Thuồng luồng bị bắt, ngọc

minh châu cũng biến mất, thi hài nàng nổi lên, nhan sắc vẫn như còn sống. Sau

đó nàng lại báo mộng đến cảm tạ ơn tế độ hồn với vua, và mong vua sửa lại hai

câu thơ có ý mỉa mai vua Duệ Tông.

Cũng tài hoa, chung thủy, tiết hạnh, Đinh phu nhân (An Ấp liệt nữ) khi

còn sống thì cùng chồng xướng họa thơ văn, vun vén hạnh phúc gia đình, khi 65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chồng chết vì nghiệp công danh thì nàng đau khổ, coi như chẳng còn ý nghĩa gì

to lớn hơn nữa và nàng tìm đến cái chết. Sau khi chết, có người họ Hà vì thói

ngông cuồng mà đề thơ mỉa mai Đinh Hoàn, phu nhân họ Nguyễn hiện về

trong giấc mơ thuyết giáo với đầy đủ “Kinh thu”, cùng với cả kho cổ điển về

“đạo quân tử”, “việc trị nước” khiến Hà sợ hãi vội “tình nguyện họa lại nguyên

vần để chuộc cái lỗi nói càn” [10, tr.91]. Hồn ma phu nhân còn khuyên chàng

cẩn thận lời nói và báo cho chàng biết sau này sẽ thành đạt.

Truyện người liệt nữ ở An Ấp hiện tượng kì ảo đã nhạt đi rất nhiều so với

Truyện đền thiêng ở cửa bể. Toàn bộ câu chuyện chính là hiện thực đời sống.

Tác giả gần như dành toàn bộ dung lương tác phẩm để kể về người liệt nữ ở An

Ấp. Tuy nhiên, sự việc sau khi chết, hai nàng hiện hồn về báo mộng cho người

trần gian biết, sự xuất hiện của hai hồn ma chỉ như là thỏa mãn ước mơ, khát

vọng của nhân vật và nó không tham gia nhiều vào cốt truyện. Tính hiện thực

nhiều hơn, giảm đi tính chất kì ảo, truyền kì.

Dưới ngòi bút của Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục, hệ thống nhân

vật là ma lại bộc lộ khác cả về tính cách lẫn hành động. Không chỉ có tình yêu

đôi lứa, hạnh phúc gia đình mà xoay quanh những vấn đề thường xuyên xảy ra

trong cuộc sống hàng ngày, gần gũi bình thường và giản dị. Người phụ nữ

trong Đẻ lạ có tình thương con vô bờ, dù đã chôn cất khi đang mang bầu, dưới

mồ chị đã sinh con, chị nuôi con bằng bánh kẹo hàng ngày chị hiện hồn lên đi

mua. Ngày được đào huyệt lên, đứa con vẫn còn nguyên cuống rốn, miệng vẫn

nhai mẩu bánh, còn xác người mẹ đã trương lên rồi. Cái kì ở đây là người chết

rồi vẫn sinh và nuôi được con. Đây chính là tình mẫu tử thiêng liêng không gì

so sánh nổi. Người đàn bà đó chết nhưng chị ta vẫn giữ mạng sống cho con,

vẫn cho con quyền được làm người. Thông qua đây tác giả cũng muốn nhắn

nhủ bài học về quyền sống và tình người cho người đọc; Hay khi đề cập tới ân

nghĩa, nhớ ơn những người đã giúp đỡ cưu mang khi mình gặp khó khăn hoạn 66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nạn, cô gái trong Tháp báo ân sau khi chết vẫn không quên được ân tình với

người đàn ông đã đến với nàng trong khi mọi người đều xa lánh vì nàng mắc

căn bệnh quái ác. Hơi ấm được nhen nhóm, nàng coi người đàn ông đó là

chồng sau đêm ân ái hưởng trọn hạnh phúc. Nàng chết, nàng vẫn theo dõi từng

bước chân chàng. Cái đặc biệt ở đây là dù đã hiện hồn cầu xin người chấm thi

cho chàng được đỗ, nhưng nàng lại không hiện hồn về nói chuyện với chàng.

Nàng tha thiết cầu xin Quan giúp nàng, đó là việc duy nhất nàng có thể để giúp

chàng, để tỏ lòng biết ơn và thể hiện tình cảm ngay cả khi nàng không còn trên

trần thế nữa.

Nhân vật là yêu ma trong Lan Trì kiến văn lục yếu thế và mờ nhạt hơn

nhiều so với truyện ma của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Đoàn Thị Điểm. Bởi

lẽ, sự xuất hiện nhân vật ma chỉ là yếu tố bàn đạp cho tác giả thổi bùng lên tư

tưởng và giá trị của tác phẩm. Không phô trương, không rùng rợn, không quá

nhiều tính cách đối với nhân vật này, nhưng đã góp phần tạo nên dư âm nhất

định của tác phẩm. Người đọc thấm nhuần đạo đức tư tưởng mà tác giả muốn

gửi gắm về cách sống, cách đối nhân xử thế, đạo làm người,…

2.4. Nhân vật loài vật

Cuộc sống vốn đa dạng phong phú, có những đổi thay bất tận. Và nó

càng sinh động hơn qua văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật chính là sự

thoát ly cái đơn điệu. Nó phản ánh cuộc sống con người một cách nghệ thuật

thông qua các hình tượng. Văn học nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo mới mẻ,

không cho phép lặp lại. Văn học phản ánh bằng hình tượng. Đối với nhà văn

thì quan sát, nghiên cứu và hiểu biết không thì chưa đủ mà cần phải biết bịa

đặt và sáng tạo nữa. Bởi thế nhà văn luôn tìm cho mình phương thức phản

ánh hiệu quả nhất. Nhiều tác giả chọn phương thức nhân hóa. Trong văn học

dân gian đã xuất hiện thủ pháp này, cho đến văn học trung đại, ngay cả nền

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

văn học hiện đại cũng không bỏ thủ pháp này. Điều đó chứng tỏ tầm quan

trọng của thủ pháp nhân hóa trong sáng tạo nghệ thuật.

Ở truyền kì tân phả loại hình con vật mờ nhạt hơn rất nhiều so với

những truyện truyền kì cùng giai đoạn. Duy chỉ có Truyện đền thiêng ở cửa

bề là xuất hiện bóng dáng con vật nhưng chủ yếu là thủy ngư đã hóa thành

thần: Kình hiệu (cá Kình); Ngạo ngự sử (Cá ngao); Côn thừa tướng (cá

Côn); Ngạc tổng binh (cá Sấu); Miết Tòng Sự (Ba ba); Lý Hàn Lâm (cá

Chép); Quy đốc bưu (rùa).

Trong 45 truyện của Lan Trì kiến văn lục có có 9 truyện viết về động

vật, chiếm 20%. Có thể nói với 9 truyện này,Vũ Trinh đã xây dựng thành

công hình tượng nhân vật được nhân hóa. Còn riêng với Tân truyền kì lục,

dù số lượng chuyện rất ít nhưng Phạm Qúy Thích đã dành trọn ngòi bút

hướng về điểm nhấn mạnh là các con vật. Có 03 truyện thì cả 03 truyện đều

nói về các loài vật, chiếm 100%. Con vật được nhân hóa trong Lan Trì kiến

văn lục và Tân Truyền kì lục đều gợi đến cuộc sống con người.

Truyền kì tân phả Lan Trì kiến văn lục Tân truyền kì lục

(1 truyện) (9 truyện) (3 truyện)

7 loài vật 8 loài vật 4 loài vật

Riêng Truyền kì tân phả với mục đích thần kì hóa nội dung câu chuyện,

không nói đến hành động tính cách của những nhân vật này, cho nên chúng tôi

không đi nghiên cứu và phân tích những con vật đã hóa thành thần này.

2.4.1. Xuất thân

Trong Lan Trì kiến văn lục loại nhân vật là con vật được nhân hóa

xuất hiện trong thời gian và không gian xác định. Quy luật “cảm thụ toàn

vẹn” luôn chi phối thời gian, không gian trong văn học trung đại. Khi kể

một sự kiện, người ta quan tâm nó từ đầu đến cuối. Khi kể một câu chuyện

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhà văn trung đại tách các sự việc trong truyện ra khỏi chuỗi thời gian vô

cùng vô tận của thế giới khách quan để tổ chức vào một thế giới riêng tương

đối độc lập. Người đọc không cần phải đoán về những gì xẩy ra ngoài giới

hạn truyện. Lan Trì kiến văn lục thì có điểm giống với Lĩnh Nam chích quái

và Việt điện u linh về cách mở đầu. Trong truyện của Vũ Trinh mở đầu

thường giới thiệu lai lịch nhân vật, kết thúc có khi bằng sự đoàn tụ, khuyến

thiện, răn đe, cũng có khi là sự chia ly.

Không giống các loại hình nhân vật mang yếu tố kì ảo khác, vì là loại

hình nhân vật là con vật cho nên nguồn gốc xuất thân không có gì đặc biệt.

Các con vật đều sống ở trên núi cao, trong rừng rậm như Hổ, Khỉ,

Rắn…hoặc ở dưới nước như con Cá. Các con vật có lai lịch gắn với nhân

vật là người trong các tác phẩm. Lan Trì kiến văn lục tức là ghi chép lại

những điều mắt thấy tai nghe, chính vì vậy, hệ thống nhân vật là con vật rất

cụ thể xuất xứ ở đâu. Ví dụ con rắn trong Đứa con của rắn: “Ở huyện Sơn

Vi có người đàn bà họ Nguyễn cùng chồng làm nhà bên sườn núi để ở…”

[59, tr.98], hay trong truyện Rắn thiêng lại cụ thể hơn:“Năm Giáp Thân

(1746), niên hiệu Cảnh Hưng, ông ngoại tôi là cụ Trần Trung Lượng làm

Tham chính ở Thanh Hóa”. [59, tr.147], rắn ngỗ ngược ngáng đường một

viên lại, bị hắn xúc phạm nên tìm cách trả thù. Đúng canh một, rắn tìm được

đến chỗ viên lại nghỉ chân, song được thần đền giảng giải đạo lý, ngộ ra nên

không trả thù nữa. Con Cá trong Cá Thần:“Có một người lái buôn ở Quảng

Nam […]. Hàng năm ông ta thuê thuyền chở hàng từ Gia Định ra Thuận

Hóa để buôn bán, mỗi năm mấy bận đi về...” [59, tr.129]. Cá ở giữa biển

nước mênh mông. Người lái buôn ở Quảng Nam giàu ưa làm việc thiện. Một

hôm ông đi thuyền trên biển, bị chủ thuyền - trước đây vốn là một tên cướp -

đẩy xuống sông trong đêm tối mịt mù. Cá đã xuất hiện cứu vớt người lương

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thiện. Con khỉ già cùng đàn khỉ trong truyện Chuyện khỉ “Có cô thôn nữ ở

huyện Lục Ngạn đi kiếm củi ở rừng, vào quá sâu quên mất lối ra..” [59,

tr.131] được Vũ Trinh kể từ khi khỉ già là thủ lĩnh của cả một bầy đàn cho

đến khi chết. Khỉ già có không gian ngự trị riêng, rất oai vệ, đúng dáng dấp

của một thủ lĩnh, một người đứng đầu có quyền lực. Đó là một hang đá lớn

ở sâu trong cánh rừng ở huyện Lục Ngạn. Hang đá là dinh thự của ông vua

khỉ. Giữa dinh thự có một phiến đá lớn để khỉ ngự. Khỉ già có hàng trăm con

khỉ dưới trướng, luôn theo sự chỉ huy của hắn. Hắn cậy quyền lực, áp bức

dân lành. Cuối cùng hắn bị dân làng hạ độc chết. Chúa sơn lâm trong truyện

Con hổ hào hiệp ngự trị chốn rừng xanh ở huyện Bảo Lộc, nơi mà nông dân

họ Hoàng đưa thả đứa con ruột của mình hòng mong chúa sơn lâm xé thịt.

Đứa bé bị cha ruột của mình đem thả vào rừng vào một buổi chiều chập

choạng. Chúa sơn lâm đã xuất hiện kịp thời để che chở bao bọc cho nó. Đến

canh hai đêm hôm đó, hổ dẫn đứa bé về nhà bà ngoại an toàn. “Huyện Bảo

Lộc có một anh nông dân họ Hoàng làm nhà trên quả đồ nhỏ...” [59,

tr.133]. Sự xuất hiện của đôi vợ chồng hổ trong truyện Con hổ có nghĩa là ở

vùng Đông Triều. Thời gian “nhân vật” xuất hiện là nửa đêm. Hổ cái đau đẻ

quằn quại. Hổ đực đã không quản ngại đường xa, đêm tối đã đi tìm bà đỡ

cho hổ cái. Và mẹ con hổ đã được mẹ tròn con vuông. Để đáp ơn bà đỡ, hổ

đực đã tặng bà hơn mười lạng bạc trắng. Còn con Hổ trong truyện Con hổ

nhân đức lại xuất hiện khá đặc biệt, bị nhốt đem đi làm đồ cống nộp“Vào

dịp tế lớn ở các phủ Chúa, các trấn đều dâng thú lạ ở trong rừng. Trấn Thái

Nguyên đưa tới một con hổ cái rất lớn..” [59, tr.162-163]. Con Gấu, con hổ

trong Gấu hổ chọi nhau: “Người dân miền núi huyện Lục Ngạn có Nguyễn

Mỗ làm nghề đốn củi..” [59, tr.152], hai con vật đấu chọi nhau cho đến khi

đứt cổ lòi ruột chết chỉ vì sự hiểu lầm lẫn nhau, mà nguyên nhân lại là chàng

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mỗ. Con Giải trong truyện cùng tên: “Bên cạnh một làng quê huyện Kim

Thành có một ngôi đền, phía bên trái đền là một dòng sông rộng. Chỗ sông

uốn khúc, nước rất sâu, trên bờ có cây đa lớn um tùm xanh tốt. Bờ đê cao

thoáng, dưới đó có một cái hang giải..” [59, tr.154], con Giải sẵn sàng nuốt

chửng những ai sơ hở đứng gần nó. Và cuối cùng, để diệt trừ hành động tàn

ác đó và đem lại cuộc sống yên bình cho người dân nơi đây, những con Giải

đã bị chồng cô ca kĩ rửa hận giết chết.

Các con vật được nhân hóa đều có không gian riêng nơi tạo nên sự

sống. Mỗi “nhân vật” đều gắn với những khoảng thời gian nhất định.

Bước sang thời đại sau, Phạm Qúy Thích, thông qua sự tranh biện của

những con vật mà ông đề cập đến hiện thực cuộc sống với những loại người

khác nhau trong xã hội trong Tân Truyền kì lục, với những con vật là con

chó, con mèo, con ve, con nhặng xanh. Số lượng truyện không nhiều nhưng

ông dành cả cho truyện diễn biến về các con vật. Giống như Lan Trì kiến văn

lục, xuất thân của những con vật này được biết đến thông qua lời giới thiệu

nơi diễn ra sự kiện có liên quan đến nhân vật ngay từ đầu tác phẩm có cả

niên đại, tên hiệu, quê quán. Thậm trí có chuyện còn ghi lại cả những sự kiện

đúng với chính sử.Ví như: “Cuối đời Chiêu Thống, thiên hạ loạn to, quân Nam

thừa thắng kéo ra, quân Ngô tan tác, vua Lê chạy về phương Bắc. Thế là chỉ

trong khoảnh khắc, binh dân mười ba đạo đã lọt vào tay tù trưởng Tây Sơn”

[59, tr.183]. Con chó trong Truyện con chó nhà nghèo có nghĩa xuất hiện vào

thời triều nhà Lê, là vật nuôi của chàng học trò họ Đào (Con chó nhà nghèo

có nghĩa). Hay mấy chuyện đều lấy năm Bính Thìn (1796) làm thời gian xảy ra

câu chuyện. Như vậy, người ta thấy mấy câu chuyện mà tác giả kể đều có vẻ

thực, hoặc giả dựa trên sự thực. Người ta cũng thấy các nhân vật làm nghề thầy

trong mấy truyện như Đào Vân Hiên (Con chó nhà nghèo có nghĩa), hay

Nguyễn Gia Hiến (Ve sầu và nhặng xanh) đều mang dáng dấp của chính tác

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

giả. Con Ve, con nhặng xanh trong Truyện con vè và con nhặng tranh hơn,

được phát hiện ra trên cây hòe già, rất tự nhiên và chân thực trong cuộc nói

chuyện tranh cãi giữa chúng.

Bằng việc sử dụng phương thức nhân hóa để xây dựng nhân vật, bằng

việc mượn yếu tố lạ để xây dựng không gian trần thế lẫn không gian siêu

thực, các tác giả trung đại đã tái hiện cuộc sống đương thời một cách sâu

sắc, mang đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mỹ phong phú, đầy bất

ngờ qua hệ thống nhân vật là con vật trong Lan Trì kiến văn lục và Tân

truyền kì lục.

2.4.2. Tính cách, phẩm chất

Hình ảnh con vật trong Lan trì kiến văn lục xuất hiện không chỉ để

miêu tả mà đó là những phương tiện nghệ thuật chuyên chở dụng ý của nhà

văn. Những bài học đạo đức - luân lý đã được các tác giả truyền kì chuyển

tải qua những câu chuyện ngụ ngôn về con vật. Dưới hình thức kín đáo này,

nhà văn đã hướng đến mục đích chính là giáo huấn, răn dạy con người thông

qua một loạt hành động của nhân vật được nhân hóa, thần kì hóa.

Khác với những truyện cùng thể loại trước đó, loại hình các nhân vật

con vật trong Lan Trì kiến văn lục lại mang những thông điệp về tình người.

Đa số những câu chuyện về loài vật của Vũ Trinh đều ca ngợi những hành

động nghĩa hiệp, trong sạch của các con vật.

Vũ Trinh là tác giả của tập truyền kỳ giai đoạn sau. Ông sống ở thế kỳ

đầy biến động. Nếu trong quan điểm chính trị, Vũ Trinh là người nặng về

bảo thủ thì trong sáng tác của ông, ông lại là cây bút khá nhạy bén với cái

mới, những yêu cầu tình cảm, tư tưởng có phần táo bạo. Bút pháp của Vũ

Trinh tinh giản. Thủ pháp nhân hóa được ông sử dụng trong Lan Trì kiến

văn lục để biến những gì vô tri vô giác mang bản chất của con người. Việc

xây dựng nhân vật là vật được nhân hóa đều nằm trong mục đích nghệ thuật

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của Vũ Trinh, nó nhằm thể hiện khát vọng, ước mơ mới mẻ, táo bạo, mang

tinh thần nhân bản nhân văn sâu sắc.

Loại nhân vật là loài vật mang yếu tố kì ảo trong Lan Trì kiến văn lục

và Tân truyền kì lục của đủ các giống nhưng mục đích cuối cùng lại nhằm

hướng tới con người.

Chuyện khỉ là câu chuyện có môtip rất phổ biến, rất quen thuộc của dân

gian. Truyện kể về cô thôn nữ ở huyện Lục Ngạn đi kiếm củi ở rừng, bắt gặp

bầy khỉ. Đàn khỉ kéo cô gái lên núi, vào một cái hang có con khỉ già. Con khỉ

trông thấy cô gái thì nhảy nhót líu ríu với bầy khỉ để trao đổi. Cô gái buộc phải

làm vợ của khỉ già. Cô thấy khỉ không ác ý nhưng không ưa sống cuộc sống

loài khỉ nên tìm cách trốn thoát nhưng bất lực. Được hơn một năm, cô sinh ra

một chú khỉ, vì quá nhớ nhà nên cô gái cầu khẩn xin về. Khỉ già đã đồng ý. Khi

biết chuyện của con gái, bố mẹ cô gái rất phẫn uất. Bố mẹ và xóm làng tìm

cách giết khỉ để cô gái được tự do. Người nhà cô gái đã đem thuốc độc trộn

vào cơm rượu mời đàn khỉ và khỉ già. Cả đàn khỉ đều say ngã lăn ra, mọi người

trói lại rồi giết đi. Ở đây loài khỉ cũng có cử chỉ, hành động, thậm chí là có

những ham muốn dục vọng của con người. Song chúng không thể có trí khôn

của loài người cho nên cuối cùng đã bị mắc mưu loài người. Thế mới biết loài

người đứng trên muôn loài, làm chủ muôn loài. Việc nhân cách hóa nhân vật

khỉ ở đây không chỉ nhằm khẳng định vai trò, vị trí trung tâm của con người

mà còn đưa ra bài học sâu sắc.

Truyện về con vật trong Lan Trì kiến văn lục, nhân vật chính thường

là vị hổ - Chúa sơn lâm. Đó là Con hổ hào hiệp, con hổ nhân đức, con hổ có

nghĩa. Trong hầu hết các truyện, chúa sơn lâm hiện lên với một tấm lòng

nhân đức. Trong Con hổ có nghĩa, có một con hổ đã mang ơn bà đỡ vì bà đỡ

đẻ cho hổ cái và trả ơn và bằng cách cho bà mười lạng bạc, nhờ vậy bà được

cứu sống vì ngay năm mất mùa đói kém. Lại có một câu chuyện về người

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nông dân cứu một con hổ bị mắc xương, hổ cũng trả ơn: “Một đêm nọ, nghe

ngoài cổng có tiếng gầm dài và sắc. Sáng hôm sau ra nhìn thấy có một con

nai chết ở đó”, rồi sau đó “Mấy năm sau bác tiều già chết. Khi chôn cất có

một con mãnh hổ đột nhiên tới trước phủ phục vật vã. Những người đưa

đám bỏ chạy cả. Từ xa họ nhìn thấy hổ dụi vào quan tài, gầm rống chạy

quanh mộ vài vòng rồi bỏ đi”. “Cứu vật vật trả ơn” là một kinh nghiệm đúc

kết từ bao đời nay thể hiện rõ trong tác phẩm.

Con hổ hào hiệp là một câu chuyện ly kỳ khi viết truyện hổ biết phân

biệt phải trái, thiện ác, biết cứu người vô tội và trừng phạt kẻ bất nhân thất

đức. Hổ đã được nhân hóa để mang những phẩm chất tích cực. Tác giả để

cho con hổ thực hiện chức năng đòi lại sự công bằng cho những người vô

tội. Tác giả đã sử dụng sự tưởng tượng nghệ thuật, dùng con vật để lồng vào

bài học giáo huấn con người. Viết về con hổ nhưng là để nói lên khát vọng

về một xã hội mà ở đó con người quan hệ với con người tốt đẹp hơn. Đó còn

là quan niệm về đạo đức, sự thống nhất giữa đạo đức với thẩm mỹ.

Trong truyện Con hổ có nghĩa, thông qua hình tượng chúa sơn lâm tác

giả khuyên con người sống có nhân đức. Câu chuyện mang đậm màu sắc

triết lý nhà Phật và luân hồi nhân quả. Tác giả nhân hóa để hổ nghe và nói

được tiếng người. Hổ biết thương cảm trước lời van xin của kẻ đáng thương

vô tội. Câu chuyện còn có sự đối sánh ngầm giữa một bên là hổ không nỡ

nhắm mắt trước tình cảnh đáng thương của con người và một bên là bọn

người vô cảm trước đồng lợi. Tác giả lấy hình tượng con hổ mà phê phán

một bộ phận người trong xã hội. Lan Trì Ngư Giả bàn rằng: “Ước gì có phép

thả hổ này ra và xin mời những ông quan ấy vào rọ”.

Cả ba câu chuyện viết về loài hổ đều có thể lấy làm bài học giáo huấn

con người. Ở truyện Rắn thần, tác giả viết về loài rắn để khuyên con người

ta nên suy nghĩ và xét căn nguyên trước mọi việc.

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Truyện Nhớ được ba kiếp nhân hóa loài gà và loài lợn là tiền kiếp

người cử nhân tên Mỗ. Có thật rằng con người ta có ba kiếp hay không?

Thuyết luân hồi của nhà Phật phảng phất trong truyện khuyên bảo con người

ta sống phải nghĩ đến kiếp sau.

Lan Trì kiến văn lục không chỉ đóng góp về lượng mà còn đóng góp

về chất cho nghệ thuật nhân hóa trong văn chương. Điều này còn có ý nghĩa

đối với sự phát triển của thể loại truyện truyền kỳ nói riêng và tư duy nghệ

thuật Việt Nam trung đại nói riêng.

Tân truyền kỳ lục là tập truyện đặc sắc của Phạm Quý Thích. Nằm trong

“phả hệ” truyền kỳ, tác phẩm này ra đời sau Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

đến khoảng xấp xỉ hai thế kỷ rưỡi và trước những Tang thương ngẫu lục, Vũ

trung tùy bút, Vân nang tiểu sử... Nếu xét trong tiến trình của truyện truyền kỳ

trung đại thì Tân truyền kỳ lục nằm ở giai đoạn thứ 3 - cũng là giai đoạn khép

lại của thể loại. Điểm đặc biệt là tác phẩm của Phạm Quý Thích là một trong

không nhiều tác phẩm thuần túy là truyện, không có ký hoặc tản văn xen lẫn

vào song khá đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

Các đối thoại giữa ve sầu và nhặng xanh (Ve sầu và nhặng xanh), giữa

chú khuyển Hàn Lư với họ Trương (Con chó nhà nghèo có nghĩa) được tác giả

nhân cách hóa như các đối thoại giữa người với người. Nói cách khác, hai cặp

đối thoại thì chỉ có một nhân vật là người thật.

Nhân vật chính trong truyện của Phạm Quý Thích hầu hết là các con vật,

được khoác vẻ linh, nói được tiếng người. Đây cũng là thủ pháp quen thuộc

từng thấy trong tự sự dân gian: các con vật nói tiếng người. Nên có thể nói, cái

"kỳ" trong truyện Phạm Quý Thích là không mới. Cái tác giả đạt tới được, mà

người đọc cũng cảm nhận rõ, là tính chất ngụ ngôn sâu sắc.

Tiểu kết

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong chương 2, chúng tôi đã thống kê các loại nhân vật và phân tích các

nhóm nhân vật kỳ ảo trong ba tác phẩm: Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn

lục và Tân truyền kì lục. Qua quá trình phân tích, chúng tôi nhận thấy rằng

nhân vật mang yếu tố kì ảo đều xuất hiện ở cả 03 tác phẩm và xuất hiện ở bốn

dạng: Thứ nhất, nhân vật là người kì lạ với xuất thân bình thường, mang dáng

vẻ và tính cách của con người bình thường, song gần cuối tác phẩm, yếu tố kì

mới được sử dụng triệt để, nhân vật được khoác lên mình đôi cánh truyền kì,

sau khi chết đi, nhân vật được biến hóa, có cuộc sống ở thế giới khác và dễ hòa

nhập với người trên trần gian. Thứ hai, nhân vật là thần tiên, tuy xuất hiện rải

rác ở các truyện, số lượng không còn đậm đặc và yếu tố kì cũng phản ánh mờ

nhạt hơn so với những tác phẩm cùng thể loại trước đó. Tác giả hầu như thiên

về miêu tả hành động của thần tiên, gắn với chính nhu cầu của nhân vật mà

chưa quan tâm đến hình thức, ngoại hình nhân vật. Do vậy, thần tiên trong

truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX cũng mang dáng dấp của những

con người bình thường đã được thần kì hóa để phục vụ mục đích sáng tác của

tác giả. Thứ ba, nhân vật là ma. Ở loại nhân vật này, chúng tôi nhận thấy cách

xây dựng tính chất truyền kỳ đã có phần nhạt nhòa. Ma quỷ không còn là yếu tố

li kì, rùng rợn và gây ấn tượng mạnh với người đọc nữa mà chỉ điểm qua vài

chi tiết và tần suất xuất hiện không còn dày đặc như một số truyện ở giai đoạn

trước đó. Thứ tư, nhân vật là con vật. Loại nhân vật này xuất hiện lác đác ở một

vài truyện trong Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục. Tuy nhiên lại đậm đặc

trong Tân truyền kì lục. Con vật được nhân hóa có suy nghĩ và tính cách giống

người. Bằng cách này, các tác giả đã bộc lộ rõ tư tưởng của mình thông qua hệ

thống nhân vật là con vật kì ảo.

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Qua khảo sát, phân loại nhân vật mang yếu tố kì trong truyện truyền kì

thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, chúng tôi nhận thấy: Loại hình nhân vật mang

yếu tố kì ảo không đa dạng như giai đoạn phát triển đỉnh cao của thể loại

truyền kì (thế kỉ XV đến thế kỉ XVI) và đã có sự biến đổi về “chất”, gắn với

cuộc sống hiện thực nhiều hơn.Tuy nhiên qua cách xây dựng hệ thống nhân

vật nói chung, và nhân vật mang yếu tố kì ảo nói riêng, nội dung tư tưởng của

tác phẩm vẫn được thể hiện một cách rõ nét. Điều này chúng tôi sẽ trình bày

cụ thể ở chương 3 của luận văn.

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM

QUA HỆ THỐNG NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ THẾ KỈ XVIII đến thế kỉ XIX

3.1. Khát vọng của con người, đặc biệt là khát vọng tình yêu của người phụ nữ

Trên cơ sở phân tích những biểu hiện của các nhân vật mang yếu tố kì ảo

trong truyện truyền kì, cụ thể là qua khảo sát 03 tác phẩm, chúng tôi thấy rằng

loại hình nhân vật mang yếu tố kì ảo có một vai trò quan trọng trong việc thể

hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm đồng thời thấy được những thành tựu mà

các tác phẩm này mang lại cho nền văn học nước nhà.

Người phụ nữ bao đời nay vẫn là đối tượng chịu nhiều hy sinh mất mát

hơn cả, nhưng lại có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Vậy

mà một thời trong quá khứ, thân phận người phụ nữ Việt Nam không hề được

xem trọng. Có lẽ vì thế mà viết về người phụ nữ là một trong những đề tài được

các tác giả trung đại quan tâm, thể hiện. Đặc biệt ở thể loại truyền kì, bàn về nữ

giới không chỉ là những người xuất thân bình thường, mà có cả tầng lớp quan

lại, vua chúa. Vai trò của người phụ nữ trong Truyền kì tân phả đã có bước tân

tiến hơn nhiều so với nhân vật người phụ nữ trong các sáng tác thời kì trước đó.

Họ đều là những người phụ nữ đẹp, tài hoa và có hành động cao cả. Nữ sĩ họ

Đoàn hết lời ca ngợi tình yêu và nhiệt tình đề cao đạo đức cũng như tài hoa của

họ. Cùng với dịch phẩm Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng, Truyền kì tân phả là

lời ca ngợi tình yêu mặn nồng và thắng lợi. Tình yêu ở đây là một thứ tình cảm

hết sức thiêng liêng, thiết tha, được xuất phát từ trái tim tự do phóng khoáng

vượt ra ngoài mọi thứ lý lẽ của lễ giáo. Tình yêu không còn là sự sắp đặt của

đấng sinh thành theo kiểu môn đăng hậu đối hay là để sinh con đẻ cái nối dõi

tông đường mà là sự đối đãi chân thành của những trái tim yêu luôn hướng về

nhau. Nàng Bích Câu (Hải cẩu linh từ), cung phi của Trần Duệ Tông đã yêu 78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhà vua bằng cả khối óc và trái tim của mình khác hẳn sự ích kỉ thường thấy ở

các cung phi khác. Nàng đẹp người lại còn giỏi thơ văn, nàng còn ngày đêm lo

lắng cho vận mệnh đất nước. Nàng được vua yêu quý và sống hạnh phúc, song

nàng dám hy sinh cả hạnh phúc và tính mạng của mình để cứu vua giúp nước.

Hình tượng người phụ nữ đã có sự thay đổi, không còn hình tượng người phụ

nữ thụ động ngồi chờ vinh hoa bổng lộc vua ban, mà thay vào đó là hình tượng

người phụ nữ dám xông pha, dám hy sinh không những vì vua mà còn cả vì vận

mệnh đất nước.

Còn Đinh phu nhận (An ấp liệt nữ) cũng tài năng không kém Bích Châu

và tình yêu của nàng với chồng (Đinh Hoàn) cũng mãnh liệt và say đắm như

thế. Một tình yêu không cầu danh lợi phú quý mà chỉ ước mong được sống bên

nhau chung hưởng ái ân. Những ngày tháng xa chồng và cái chết của chồng đã

khiến nàng đau khổ đến tột cùng. Và cái chết của Đinh phu nhân như là hệ quả

tất yếu của mối tình sắt son, đắm đuối với chồng. Hành động chết theo chồng

không phải là sự tuân thủ hay bị ám ảnh bởi công thức cứng nhắc của lễ giáo

phong kiến, mà nó thể hiện một tình cảm yêu thương sâu sắc của người phụ nữ

này với chồng.

Tình yêu huyền diệu là thế, nó không còn bị câu thúc bởi lễ giáo hẹp hòi

của chế độ phong kiến đương thời. Nó là thứ hạnh phúc ngọt ngào mà ai cũng

muốn, cũng khao khát. Nếu như ở Truyện Từ thức lấy vợ tiên (Truyền kì mạn

lục), tiên nữ Giáng Hương đã vui sướng biết bao nhiêu trong mối tình với

người trần dù thời gian diễn ra cuộc tình ấy không dài. Nàng chấp nhận đau

khổ để Từ Thức trở về cõi tục, thì nàng Liễu Hạnh (nguyên là tiên nữ Giáng

Tiên) trong truyện Vân Cát thần nữ - truyền kì tân phả đã nhiều lần sinh hóa để

đạt được thứ hạnh phúc ấy. Tình yêu với nàng là một lẽ sống cao nhất và nàng

chính là hình ảnh tượng trưng cho lòng khao khát hạnh phúc trần gian.

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tình yêu vốn có lý lẽ riêng của nó cho nên mọi quy định cấm đoán đều

không thể ngăn những người yêu nhau đến với nhau. Trân trọng người phụ nữ,

trong Lan Trì kiến văn lục Vũ Trinh trân trọng tình yêu của họ. Đó là những

mối tình đắm say, đẹp đẽ. Họ xuất thân ở những tầng lớp khác nhau nhưng đều

chỉ động tìm đến tình yêu và đều hy sinh cho người mình yêu. Nàng ca kĩ được

cả tài lẫn sắc, yêu Vũ Khâm Lân từ cái nhìn đầu tiên, nàng đã chăm sóc, lo tiền

bạc, hành trang cho người yêu yên tâm đèn sách. Nhưng khác với một số nhân

vật nữ trong Truyền kì mạn lục, nhân vật nữ của Vũ Trinh yêu nồng nàn say

đắm song không hề lả lơi, đùa cợt: Nếu thiếp là kẻ dâm đãng thì thiên hạ thiếu

gì bọn đàn ông” [59, tr.120]. Hy sinh lo toan cho người yêu như vậy nhưng

cuối cùng nàng cũng bị từ chối, bị phản bội. Dù vậy, nàng vẫn cao thượng,

không trách móc chàng trai: “tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn

hạ không xứng hầu khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp” [59, tr.122].

Người con gái phú ông trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì cũng hiện lên chủ

động và say đắm. Cô gái yêu tha thiết anh lái đò Nguyễn Sinh, có tiếng hát hay,

phong tư đẹp nhưng nghèo. Trước những lời cấm đoán của cha, cô gái liều lĩnh

ăn cắp hai trăm lạng của gia đình gửi cho người tình làm lễ hỏi. Chỉ tiếc rằng

anh lái đò đã phẫn chí ra đi với niềm mong ước kiếm thật nhiều tiền để cưới cô

gái. Ca ngợi tình yêu tự do, tác giả cũng đề cập đến tính cách mạnh mẽ của

người phụ nữ. Nội dung này thể hiện khá rõ trong Lan trì kiến văn lục. Tác

phẩm đã ca ngợi tình cảm cao đẹp mà người phụ nữ dành cho người mình yêu

và cổ xúy cho sự tự do trong hôn nhân. Điều này cho thấy tư tưởng tiến bộ của

nhà văn trong việc xác định sự bình đẳng giữa nam và nữ và bộc lộ khát khao

về một tình yêu tự do.

Tình yêu không chỉ có ở những con người trần tục. Qua hệ thống nhân

vật thần tiên trong Lan Trì kiến văn lục, ở một số tác phẩm như trước hết nhà

văn thể hiện khát vọng ngàn đời của con người về một sống bình yên, an lành ở 80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thế giới thần tiên như hai ông tiên trên đảo (Tiên trên đảo), sống giữa biển cả

mênh mông, ở đó có cây cỏ muông thú, ngồi đánh cờ có người hầu, có sẵn

trà,thức ăn hoa quả,một cuộc sống không còn tranh đua, chèn ép, bóc lột, bất

công. Ngoài ra kiểu nhân vật này với khát vọng được yêu thương đã khẳng

định một sự thật tình yêu, nghĩa vợ chồng mong muốn được lên tiên như vợ

chồng Tú Uyên (Bích Câu kì ngộ) để hưởng thụ cuộc sống vĩnh hằng, không

còn bụi bặm của trần thế,là những tình cảm đáng trân trọng nhất, đồng thời đó

cũng là ước mơ vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà văn.

3.2. Phản ánh hiện thực

Những hiện thực trong đời sống được các tác giả quan sát và phản ánh lại

trong tác phẩm.

Có thể nói chức năng “văn dĩ tải đạo” (theo những mô hình cụ thể được

quy định trong sách thánh hiền) ở những tác phẩm trung đại thế kỉ XVIII đến

thế kỉ XIX dường như đã có sự biến đổi. Bởi lẽ những tác phẩm thời kì này đã

cho người đọc nhận ra một chân lý: Văn học trung đại cũng đã có những tác

phẩm đúng với nghĩa của nó, những “đứa con tinh thần của thời đại”. Nói như

vậy nghĩa là thể loại truyện truyền kì không chỉ có chức năng “chở đạo” - vốn

là tinh thần chung của văn học trung đại, mà còn đề cập đến những vấn đề của

cuộc sống đương thời, với những kiểu xã hội gắn với từng thời đại nhất định.

Trong các tác phẩm trên, chất liệu huyền thoại, thần kì dần dần mờ nhạt

thay vào đó là cuộc sống hiện tại. Hiện thực cuộc sống với đầy đủ bản chất của

nó có lúc dường như đã trở thành chất liệu chủ đạo trong tác phẩm. Lúc này

“hạt nhân hiện thực” vốn đã từng xuất hiện ở các tác phẩm trước đây nay càng

được mở rộng hơn nữa. Tuy nhiên cái bình thường trong truyện truyền kì thời

kì này vẫn được đan xen với chất liệu thần kì - chất liệu cơ bản tạo nên hình

khối truyền kì. Xã hội phong kiến Việt Nam được thể hiện một cách sinh động,

chân thực.

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nếu như truyện truyền kì sáng tác trong giai đoạn trước chủ yếu viết về

con người và hạnh phúc lứa đôi, với những lễ giáo phong kiến cổ hủ khắt khe

thì đến giai đoạn này (thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX), truyện truyền kì không còn

gò bó trong khuôn mẫu nào nữa, tự nó chuyển mình, các tác giả đã làm đúng

vai trò của những nhà nghệ sĩ có tâm và có tài, bởi lẽ cái tâm ấy đã được gửi

gắm trong việc vẽ lại bức tranh hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam đương

thời - một xã hội đầy bất công ngang trái, bộc lộ những suy thoái của nó, vai trò

của các tầng lớp quan lại, trí thức đã mất dần, trong đó có một số tri thức đã trở

thành nô lệ cho đồng tiền. Cái tài ấy còn thể hiện ở phương diện nghệ thuật

miêu tả nhân vật, dẫn dắt cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ.

Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là thế kỉ đầy bão táp và biến động. Lúc này

chế độ phong kiến đã ở vào cảnh chợ chiều nên càng bộc lộ rõ hơn bản chất bảo

thủ và phản động của nó. Cùng với sự rệu rã của chính quyền phong kiến là các

cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tiếp nổ ra.. Đất nước thực sự có những thay

đổi lớn lao, “những cũ kĩ bụi bặm của thời đại đang bị đập phá từ cơ sở hạ tầng

đến kiến trúc thượng tầng”. Văn học trung đại nói chung và truyện truyền kì nói

riêng cũng nằm trong guồng quay ấy của thời đại. Quan điểm văn chương thay

đổi thể hiện trong cách viết, cách phản ánh hiện thực: đó là viết về những “sở

văn”, “sở kiến”, và phản án trực tiếp, tức thời những điều mắt thấy tai nghe,

những điều đang xảy ra quanh chúng ta. Và sự thật là các tác giả đã “cố gắng

viết về người thật, việc thật”, cố gắng bám sát “các sự kiện đương thời”.

Bằng những hình tượng nghệ thuật, nữ sĩ họ Đoàn qua Truyền kì tân phả

đã hết sức cổ vũ cho tình yêu. Tình yêu là cuộc đời, là lẽ sống của con người. Ở

đâu có tình yêu là ở đó có sự sống sinh sôi nảy nở, và hết tình yêu thì sự sống

kết thúc. Dường như con người ở thời đại mà Đoàn Thị Điểm sống, họ đã quan

tâm nhiều hơn đến đời sống tình cảm. Chính vì vậy trong Truyền kì tân phả đã

phản ánh được một yêu cầu lớn của thời đại: yêu cầu giải phóng cuộc sống tình 82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cảm, chống lại “khuôn vàng, thước ngọc” của đạo đức và lễ giáo phong kiến.

(Hoàng Hữu Yên).

Bằng việc ca ngợi tình yêu cùng người phụ nữ của tác giả, chúng ta thấy

lễ giáo phong kiến dường như đã bị hạ bệ và nó thật sự suy sụp qua việc tác giả

khắc họa bộ mặt tinh thần và tư tưởng của tầng lớp nho sĩ từ những sĩ tử đang

“nấu sử sôi kinh” đợi ngày ứng thi như Đào Sinh đến những hạng lương đống

của triều đình như Phùng Khắc Khoan, Ngô Sinh hay Lý Sinh. Đào Sinh (Vân

cát thần nữ) từng theo đòi cửa Khổng sân Trình và đã đậu đại khoa được sung

chức Hàn Lâm, vậy mà khi vợ chàng - Tiên nữ Giáng Tiên về trời, chàng đã

tình nguyện vứt bỏ tất cả công danh sự nghiệp để đi theo tiếng gọi tình yêu.

Lúc này, vấn đề “đấng anh hào”, theo đèn sách dùi mài kinh sử không còn quan

trọng với các đấng nam nhi quân tử nữa. Chàng nói: “Tiện sinh này có phúc

gặp được tiên, sinh con đẻ cái, gia đình sum họp, ngờ đâu giữa đường chia

phôi, phương loan gẫy canh, chăn đơn gối chiếc, tịch mịch dường nào, nay tiện

sinh xin đi theo để thỏa tấm lòng khao khát” [10, tr.106].

Nối gót Đào Sinh là Trần Tú Uyên (Bích Câu kỳ ngộ). Trần sinh là con

nhà “thi lễ”, sớm thông minh đĩnh ngộ, nổi tiếng là kỳ đồng. Lên 6 tuổi đã biết

luật thơ, lên 15 tuổi “tay không rời quyển sách, lúc nào cũng chỉ nghĩ sao nối

được chí cha”. Nhưng trong dịp trảy hội chùa Ngọc Hồ, chàng đã gặp giai nhân

“vẽ mày liễu, má hoa đào… nghiêng nước nghiêng thành”, hai bên trò chuyện

thân mật, từ đó chàng đổi thay nhanh chóng. Chàng bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ cả học

hành rồi đi nằm mộng cầu tiên, mặc dầu trước kia chàng vẫn coi chuyện thần

tiên là hoang đường. tình yêu với chàng là tất cả. Chúa Liễu Hạnh thì lưu luyến

cõi trần vì tơ duyên còn vướng víu nhưng Tú Uyên - Giáng Kiều quyết định từ

bỏ cõi trần ngắn ngủi, sắc đẹp tuổi xanh mau bị tàn phá. Họ lên tiên để được

ngày dài tháng rộng, kéo dài và tận hưởng hạnh phúc bên nhau.

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có thể thấy công danh sự nghiệp là lẽ sống cao cả của biết bao nhiêu nho

sĩ một thời, thì lúc này nó trở nên vô vị, nhạt nhẽo. Họ chẳng còn mặn mà gì

với việc học hành, thi cử, việc đại sự quốc gia mà lại còn tỏ ra chán ngán với

công danh lý tưởng:

Danh lợi bon chen một cuộc đời

Tây Hồ phóng bộ thảnh thơi chơi

“Bồng lai”, “Phương trượng” đều hư huyễn

Tiên, tục chẳng qua chỉ ở người [10, tr.80].

Tư tưởng của họ lúc này có lẽ vòng danh lợi không còn quan trọng và

thực sự nó không còn đủ sức níu giữ bước chân họ ở lại với triều đình để “trả

nợ quân thần”. Muốn rút lui về ở ẩn để vui gió trăng hoa cho tâm hồn thanh

thản là ước mong của nhiều người. Dường như họ đã thực sự chán ngán với xã

hội đương thời, bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương bắt đầu thối

rữa, không đủ sức đề gồng gánh cho xã hội, một xã hội phong kiến đang suy vi

và hầu như không còn đủ sức gây dựng lòng tin cho tầng lớp nho sĩ. Họ sẵn

sàng quên “chí nam nhi”, sống trong trời đất phải “có danh gì với núi sông” để

chạy theo tiếng gọi của ái tình. Họ sẵn sàng chết vì tình yêu chứ không sẵn

sàng chết vì lý tưởng phong kiến. Rõ ràng sự suy sụp về mặt tinh thần, tư tưởng

của tầng lớp nho sĩ đã ở hồi báo động.

Bên cạnh những hạng lương đống còn mang phẩm chất lương thiện thì

còn có một hạng quan to khác luôn tìm các đục khoét tàn hại nhân dân, gây vô

vàn khổ ải cho những người lương thiện. Bằng việc khắc họa những nhân vật

mang yếu tố kì ảo như Giao Thần ở bể Kì Hoa (Hải khẩu linh từ), tác giả gián

tiếp nói đến hạng tham quan này. Nào là “chuyên quyền, phóng túng, tham sắc

đẹp, ăn hối lộ”, hay là nhũng nhiễu làm “hại tính mệnh dân chúng”, thật là đức

xấu tung khắp dân gian và dưới âm ty. Trong bản điều trần của nàng Bích Châu

ta có thể hình dung được chế độ phong kiến đang suy vong. Bốn trong mười

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

điều đòi hỏi “trừ hà bạo”, “bỏ phiền nhiễu”, “thải bớt kẻ nhũng lạm” đã tố cáo

tình trạng thối nát của chế độ phong kiến.

Nếu đối tượng phê phán của những tác giả văn trung đại là vua chúa,

quan lại thì Vũ Trinh lại ít thấy nhắc đến đối tượng này. Phải chăng những trải

nghiệm trong chính cuộc đời mình, nhà văn đã nhận thấy một sự thật nghiệt

ngã rằng: dù có phê phán hay đả kích thì bản chất của tầng lớp thống trị ấy vẫn

không thể nào thay đổi. Một cuộc va đập mạnh của lịch sử đã làm Vũ Trinh

chán ngán trước những gì mình tôn thờ nên trong Lan Trì kiến văn lục, người

đọc khó có thể tìm thấy hình ảnh vua quan, có chăng cũng chỉ rải rác ở vài ba

truyện mà thôi. Tác phẩm đưa người đọc về với những con người thân thuộc

gần gũi: một thầy đồ dạy học bên lũy tre làng, một người đàn bà góa chồng,

một đứa trẻ bị bỏ rơi trong rừng, một chàng lái đò say đắm trong tình yêu….

Nhân vật của Vũ Trinh đa dạng hơn với đầy đủ thành phần và tồn tại nhiều vấn

đề tiêu cực. Những cái xấu xa ấy không nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân

nhưng nó lại làm hỏng thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Đó là hình ảnh

một em bé ba bốn tuổi bị bố bỏ rơi trong rừng cho hổ ăn thịt để lấy được vợ

khác trong Con hổ hào hiệp (hiệp hổ): "Bà mối liền về nói lại với Hoàng.

Hoàng thích cô ta quá, không bỏ được, nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn cách bỏ đứa

con thì mới được cô ta. Thế là hắn manh tâm làm ác. Mấy hôm sau hắn mang

đứa con vào rừng sâu, nói dối là đi kiếm trái chính để ăn, bỏ đứa con trong

rừng rồi đi đường tắt về nhà. Vùng này có nhiều hổ, Hoàng về tới nhà chắc

mẩm con mình đã vào bụng hổ" [59, tr.134]. Truyện Linh xà ở một khía cạnh

khác khuyên thần linh công minh, chính trực, đừng làm những điều trái với

mong ước chính đáng của nhân dân: “Hôm qua em đi chơi ngoài núi, bị một

đứa tiểu lại của thừa ty xúc phạm, chắc là nó chạy chưa xa, em định bắt hắn trị

tội cho hả”, nhưng vị thần đáp: “Rồng trắng đội lốt cá, còn bị đem bán, vả lại

lúc ấy hắn chỉ biết anh là rắn thôi, hắn lại đang có việc quan, việc gì anh lại

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chắn đường nó đi để chuốc oán chịu nhục, đó là lỗi tại anh, anh lại còn định

đuổi theo hại nó, sao anh nhỏ nhen thế. Anh hãy mau trở về đi, cứ làm liều thế

này phép trời đáng sợ lắm…”. [59, tr.149]. Trong khi đó chuyện Tái sinh,

Thanh Trì tình trái lại lên án tệ phân biệt đẳng cấp, điều này đã khiến bao đôi

lứa phải tan vỡ đôi và sống trong đau khổ. Hai tác phẩm chê trách nhẹ nhàng

người cha tham tiền, vì muốn môn đăng hậu đối nên “bố cô gái vốn là kẻ ô trọc

xuẩn ngốc, thấy Sinh nhà nghèo thì dứt khoát từ chối” [59, tr.103], hoặc xúc

phạm đến danh dự người khác: “Cửa nhà thế này, con gái yêu kiều như thế này,

mà lại có thằng rể lái đò à? Mụ ăn mày này thực ngu hết chỗ nói” [59, tr.126].

Trong khi đó, Liên hồ quận Quân lại chê trách người anh bạc nhược, bất tài:

“Quan quận công mất đi để lại rất nhiều của của, nhưng gặp người anh chẳng

ra gì, bị bọn xấu dụ dỗ, đi vào con đường rượu chè cờ bạc. Chưa hết tang cha

mà nhà cửa đã sạch nhẵn. Em gái đến tuổi trưởng thành nhưng vì anh du đãng

hư hỏng nên không ai dám hỏi" [59, tr.160]. Tệ hại hơn người anh còn lợi dụng

em gái: “Sau có viên quan võ dưới quyền cha, tuổi trung niên chết vợ, người

anh hám của, bắt ép em phải lấy” [59, tr.160]. Nếu người cha trong Truyện hổ

hiệp vì hạnh phúc riêng mình mà đang tâm để con cho hổ ăn thịt không hề động

lòng thì người anh trong tác phẩm này vì chơi bời lêu lổng sẵn sàng gán em cho

một người luống tuổi để lấy tiền. Hai nhân vật hai hoàn cảnh khác nhau nhưng

đều là những kẻ suy đồi đạo đức. Để thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà họ sẵn sàng

vứt bỏ người thân thuộc mà lương tâm không hề day dứt. Hay là người chồng

vũ phu, ghen tuôn mù quáng đến nỗi lấy cuốc đánh vợ đến chết trong Sống lại.

Ảnh hưởng từ văn học dân gian, loại hình các con vật bước vào trang

sách của Vũ Trinh tự nhiên và sinh động, mang đầy tính giáo dục nhân văn cho

con người. Mượn hình ảnh con hổ - con vật vốn hung dữ chốn rừng xanh, trong

Con hổ hào hiệp, con hổ có nghĩa, hay Khỉ để gửi đến người đọc thông điệp về

tình nhân ái, cái thời mà Vũ Trinh đang tồn tại có quá nhiều điều trái với luân

86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thường đạo lý. Những kẻ “gót dày đổi chỗ”, những kẻ thờ ơ trước nỗi đau của

người khác và lạnh lùng trước hành vi hiệp nghĩa của con người ngày càng xuất

hiện nhiều.

Truyện Vũ Trinh phần nhiều có ý nghĩa xã hội. Khi viết tác phẩm này,

Vũ Trinh đã ít nhiều nói lên một quan niệm: tác phẩm văn chương không chỉ để

mở rộng hiểu biết và chiêm nghiệm lẽ đời, lẽ trời, để bổ sung cho sử sách, mà

còn để giáo huấn, để bày tỏ nỗi lòng. Nếu nhân vật bị phê phán của những tác

giả văn học trung đại chủ yếu là giai cấp thống trị thì nhân vật đáng bi chê trách

cua Vũ Trinh lại là những con người bình thường trong xã hội. Họ mang trong

mình những cái xấu, chính họ chứ không ai khác đã làm đảo lộn thuần phong

mĩ tục, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao đời. Không phải Vũ

Trinh không nhìn thấy những hạn chế của giai cấp thống trị mà có lẽ rằng

những va đập cuộc đời, những sai lầm trên bước đường chính trị đã khiến nhà

văn này chới với trước những biến động của thời cuộc. Vì vậy những sáng tác

của Lan Trì ngư giả chủ yếu lấy cảm hứng từ con người trong đời thường, chỉ

ra hạn chế của họ, như với mong muốn những con người ấy sẽ đổi thay để tốt

đẹp hơn.

Phạm Qúy Thích viết Tân truyền kì lục gồm 03 truyện đều mang tính

chất ngụ ngôn mà khi chuyển sang ngụ ngôn thì tính chất truyền kì không còn

đậm nữa. Có thể thấy ở tác phẩm này những nhân vật chính mà tác giả xây

dựng nên trong các truyện thường là các con vật. Thông qua sự tranh biện giữa

chúng, ông muốn đề cập đến hai loại người trong thực tế là nghĩa khí thanh

liêm trong sạch và loại người cơ hội xấu xa, bẩn thỉu, đồng thời qua đó ông

cũng bày tỏ thái độ khen chê rất rõ ràng. Truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa

bằng việc ca ngợi tình nghĩa của con Hàn Lư với ông chủ nghèo thất thế, tác

giả đã chê bai những hạng người: “Trong lúc nước nhà yên vui thì xu nịnh để

cầu ân sủng, đến khi cảnh đời loạn lạc thì thoắt đã đổi mặt thay lòng. Bán

87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nước cầu sống thừa, theo thời để chiếm lộc, sao mà vô liêm sỉ quá thế ! Cho

nên ta nói rằng: Đời người nhiều người không bằng con Hàn Lư vậy” [59,

tr.194, 195]. Cũng với một mục đích như thế, tác giả viết Ve sầu và nhặng

xanh, ca ngợi ve sầu là “vật vô tri còn biết được thanh cao mà tự giữ lễ nghĩa,

gìn thân mình” [59, tr.199], phê phán nhặng “Tham lam vô hạn, tụ tập hàng

đàn. Ra vào ở những nơi tanh tưởi mà không thấy thối, len lỏi ở nơi bếp núc

mà chẳng biết nhơ” [59, tr.198], ăn bổng lộc là máu mủ của dân nên thân được

béo tròn “đã không biết hổ thẹn còn cho là vinh hoa” để ví với loại người xông

xênh áo mũ mà “cương thường không biết tôn trọng”. hay “xin xỏ trong bóng

tối, kiêu căng giữa ban ngày” mà không thấy mình vô sỉ. Đây quả là “những

câu chuyện có thật” trong đời thường đặc biệt là ở giai đoạn thế kỉ XVIII mà

qua nhân vật ngụ ngôn tác giả đã phản ánh được. Có thể nói Phạm Qúy Thích

dường như đã đi thẳng vào hiện thực và phơi bày hiện thực, để người đọc cảm

nhận đời sống một cách trực tiếp.

3.3. Thể hiện mong ước của tác giả

Theo chiều dài lịch sử đất nước thì thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là những

thế kỷ mà chế độ phong kiến đã ở vào cảnh chợ chiều nên càng bộc lộ rõ hơn

bản chất bảo thủ và phản động. Cùng với sự rệu rã của cơ cấu chính quyền

phong kiến là các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra. Thêm vào đó là

tiếng súng thực dân đã nổ trên đất nước ta, tàn khốc và đau thương. Văn học

trung đại nói chung và truyện truyền kì nói riêng cũng nằm trong guồng quay

ấy của thời đại. Quan điểm văn chương thay đổi thể hiện trong cách viết, cách

phản ánh hiện thực: đó là viết về những “sở văn”, “sở kiến”, và phản ánh trực

tiếp những điều mắt thấy tai nghe, những điều đang xảy ra quanh ta. Tuy nhiên

nhân vật trong thế giới truyền kì giai đoạn này không còn đa dạng phong phú

như giai đoạn XV đến thế kỉ XVII nữa. Đất nước đang khoác trên mình màu áo

tang thương, của bóng đen lịch sử, các tác giả truyện truyền kì cũng như dân

chúng đều bất bình, bất lực trước thời thế! Qua hình tượng nhân vật mà tác giả

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xây dựng trong tác phẩm của mình, một số loại nhân vật bộc lộ rõ được tâm

trạng cũng như mong ước của bản thân tác giả về một ngày mai tươi sáng hơn.

Ba tác phẩm Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Tân truyền kì lục xuất hiện

ở ba thời điểm khác nhau, của ba tác giả khác nhau, song họ đã gặp gỡ nhau ở

tình thương yêu con người, và một niềm tin đối với con người trong xã hội.

Đọc Truyền kì tân phả ai cũng dễ nhận thấy phần thành công cơ bản nhất

là sự nhất quán chủ đề tư tưởng của các truyện trong tác phẩm. Tác giả hết lời

ca ngợi tình yêu và nhiệt tình đề cao đạo đức, tài hoa của người phụ nữ. Tình

yêu ở đây là một thứ tình yêu tha thiết xuất phát từ trái tim, tự do phóng khoáng

vượt qua mọi lễ giáo phong kiến. Tình yêu đã trở thành một lẽ sống tuyệt đối.

Tình yêu là cuộc đời hầu hết các nhân vật. Đinh phu nhân trong An Ấp liệt nữ

yêu chồng say đắm mãnh liệt. Khi gần chồng thì săn sóc chồng ngay cả trong

giấc ngủ. Lúc xa chồng thì nhớ thương, sầu muộn như dâng ngập lên cả đất

trời. Chồng chết nàng đau đớn quá chừng, nàng đã thấy mình mất tất cả, nàng

đã quyên sinh vì nàng không tìm thấy hạnh phúc nào nữa. Chồng nàng là tất cả

đời nàng. Đinh phu nhân chết theo chồng không phải nàng bị ám ảnh bởi công

thức cứng nhắc “liệt nữ bất canh nhị phu” (người liệt nữ không lấy hai chồng).

Đinh phu nhân là con người tình cảm chứ không hoàn toàn chịu sự câu thúc của

lễ giáo hẹp hòi. Tình yêu không chỉ có trên trần gian, nàng Liễu Hạnh trong

Vân Cát thần nữ, tượng trưng cho lòng khao khát hạnh phúc trần gian. Tình

yêu với nàng là một lẽ sống cao nhất. Liễu Hạnh nguyên là Giáng Tiên xuống

trần gian làm người mẹ hiền, dâu thảo,vợ tốt. 21 tuổi đã phải về chầu trời, nàng

không sao chịu được, nàng lại xuống trần để tìm lại yêu thương. Liễu Hạnh

công chúa của nhà trời chắc hẳn có thân thích ruột rà với đấng Thiên tử (con

trời) đã ngụy biện với lễ giáo phong kiến, hơn nữa đã tuyên chiến với lễ giáo

phong kiến. Tình yêu xuất phát từ trái tim nồng cháy đã hạ lễ giáo xuống hàng

“lặt vặt”. Khác với Vân Cát thần nữ ca ngợi hạnh phúc trần gian, trong Bích

Câu kì ngộ, nữ sĩ lại dài lời thuyết lí về cõi đời là mây nổi, là chim bay, còn cõi

89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tiên thì thanh nhàn, lộng lẫy, nguy nga… Không có gì khác, nữ sĩ vẫn trước sau

nhiệt tình ca ngợi hạnh phúc ái ân. Dù ở trên trời hay dưới đất ở đâu có lứa đôi

là ở đấy bồng lai tiên cảnh. Tình yêu trong Truyền kì tân phả thật say đắm,

mãnh liệt và táo bạo. Tình yêu là cuộc đời, là lẽ sống. Đoàn Thị Điểm cũng như

bao người phụ nữ khác đương thời đều mong ước có một tình yêu chân chính,

hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn, không còn có một sự ngăn cản nào trong đường

tình, được sống trọn đời, thậm chí mong ước lên tiên để sống với nhau mãi mãi

(Tú Uyên - Giáng Kiều trong Bích Câu kì ngộ).

Sống trong một xã hội đầy rẫy những ngang trái, bất công, Vũ Trinh

cũng như bao tác giả trung đại đương thời đều có một khát vọng về sự công

bằng, ấm no trong dân chúng. Nhà văn đã đưa hình ảnh thần tiên đến như để an

ủi những số phận, những con người bất hạnh trong cuộc đời. Trong truyện Tiên

ăn mày, Vũ Trinh mượn câu chuyên từ dân gian, nhà văn đã cho thấy người

nông dân hiền lành chất phác, yêu thương con người đã được thần tiên tặng

thưởng xứng đáng, trong khi những con người lừa dối, tham lam thì cuối cùng

phải nhận những hình phạt thích đáng. Từ đó nhà văn gửi gắm đến người đọc

một bài học: Ở đời đừng tham lam độc ác, hãy sống thật với bản chất của mình.

Không chỉ giúp đỡ người học trò, anh nông dân nhân vật thần tiên còn được

ngợi ca ở tinh thần giữ gìn tài sản cho dân. Tác phẩm Thần giữ của là một

trong những kiểu như vậy: “Dưới này chôn cất nhiều vàng bạc. Ta là thần giữ

của. Nếu anh không chịu đi ngay thì tai họa không nhỏ đâu” [59, tr.139]. Điều

này lý giải con người đương thời luôn nghĩ về một đấng tối cao nào đấy khi họ

gặp thất bại hay buồn phiền. Trong Cá thần, đến những con vật tưởng chừng

như vô tri nhưng bước vào trong truyện Vũ Trinh thành thần thánh, mục đích

cũng chỉ muốn có một phép lạ nào đó giúp đỡ người lương thiện, vạch trần tội

ác của những kẻ vô lương: “Tên chủ thuyền sau khi hại người lái buôn, chia

nhau hàng hóa của cải của ông,… Chúng neo thuyền trên bờ, thấy người lái

buôn thì giật mình kinh sợ chạy xuống thuyền, căng buồm cho thuyền chạy.

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Người lái buôn gọi quan quân đuổi theo bắt chiếc thuyền ấy lại. Khi tra khảo

tên chủ thuyền đã phải nhận tội” [59, tr.130]. Vũ Trinh xây dựng nhân vật thần

tiên cũng với ước mong có một thế lực siêu nhiên giúp đỡ con người, giúp họ

giữ mình sống trong sạch để không bị thần linh trách phạt. ước mơ về cuộc

sống, điều mà trong thực tại con người không thể đạt được mà phải tự an ủi

mình bằng cách tìm giới thần tiên.

Không chỉ có thế giới thần tiên mới có thể cứu vớt con người ra khỏi nỗi

khổ cuộc sống, qua một loạt hình tượng con người bình phàm, tác giả cũng

muốn nhắn nhủ với người đọc một niềm tin: cuộc đời mỗi con người đều gặp

những khó khăn gian khổ, chỉ cần ta đủ kiên nhẫn để chịu đựng và vượt qua nó

ta sẽ là người thành công. Con người nên giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh,

bởi lẽ nhiều khi tiền bạc không mua được tình cảm con người. Đó là sự giúp đỡ

của cô gái với nho sinh trong Tháp báo ân, không chỉ giúp ông cử kinh môn trú

ngụ qua đêm mà còn giúp đỡ chàng thi đỗ: “Đây là bài thi của chồng thiếp, xin

ông lấy bài này” [59, tr.168]. Hay Nguyễn Quỳnh gặp được chàng thư sinh kì lạ

vừa giúp đỡ chàng nhận ra việc tự phụ nổi danh, coi thường người cùng lứa, lại

vừa giúp đỡ Quỳnh thi tài vốn văn chương, giúp cả chi phí dọc đường, để

chàng nhận ra cần phải khiêm tốn và học hỏi những bậc tiền bối trong thiên hạ.

Khi thế lực đồng tiền lên cao thì giá trị đạo đức con người đi xuống.

Trong Tái sinh, người chồng vì giận giữ ghen tuông mù quáng mà giơ cuốc

phang lên đầu vợ làm vợ chết rồi nói dối là vợ bị trúng gió không cứu được rồi

tự tay khâm liệm. Nhưng với khao khát công lý, nhà văn đã cho nhân vật của

mình được sống lại, được sống với người mình yêu và vạch tội người chồng cũ

đang tâm giết vợ: “Quan bắt Sinh cùng với cô gái đến công đường, tra hỏi mới

vỡ lẽ, bèn khiển trách tên phú ông nọ và xử cho cô gái được về với Sinh” [59,

tr.110]. Hay trong truyện Thằng trộm, biệt hiệu Mèo Khóa, ăn trộm chuyên

nghiệp với rất nhiều thủ đoạn. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, tác giả

đã hướng con người tới điều lương thiện, mở con đường tươi sáng cho nhân vật

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

với hy vọng tất cả dân chúng đều được no đủ, vượt lên khó khăn và chiến thắng

bản thân mình: “Vài năm sau, có một quan quân tới nghỉ quán ông chủ trọ,

quân kị theo hầu có vài chục người. Ông chủ nhìn kĩ, thì đó là tên trộm ngày

trước. Ông chủ hỏi chuyện, tên trộm nói là đã theo phủ Đô đốc, vì có chiến

công, được bổ làm Đội trưởng. Còn người khách năm xưa nay đã làm Tham

tướng Sơn Tây” [59, tr.117].

Nếu xã hội phong kiến coi “con hát” là một trong bốn loại người đáng

khinh bỉ nhất xã hội thì Vũ Trinh lại bày tỏ lòng ưu ái đối với cô ca kĩ trong

truyện Ca kĩ họ Nguyễn. Tài năng đàn hát của nàng được miêu tả: “Có một kĩ

nữ mười bảy, mười tám tuổi,nhan sắc xinh đẹp, tài nghệ tuyệt trần, mỗi khi lên

sân khấu cất giọng ca thì người xem đều ngây ngất không sao tự kiềm chế nổi”

[59, tr.119]. Từ chỗ ca ngợi tài năng ca hát của cô ca kĩ, tác giả phát biểu: “Đó

là người đàn bà trinh tâm hào khí, khó tìm thấy trong giới quần thoa” [59,

tr.123]. Lời bàn là nơi mà nhà nho cần giữ mực thước nhất, nhưng Vũ Trinh đã

dũng cảm ca ngợi người con hát ấy. Tác giả muốn đòi lại quyền được tôn trọng

người phụ nữ, dù họ xuất thân ở tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội, nếu

như họ thực sự có tài năng và phẩm giá.

Hình ảnh con vật trong Lan Trì kiến văn lục, Tân Truyền kì lục, xuất hiện

không phải chỉ để miêu tả mà đó là những phương tiện nghệ thuật chuyên chở

dụng ý của nhà văn. Nhân hóa những con vật, những đồ vật trong văn chương

bắt nguồn từ văn chương dân gian, đặc biệt là những truyện ngụ ngôn,

truyện cổ tích thần kỳ và một số truyện cổ tích sinh hoạt. Cái độc đáo thú vị

của nó là dùng tiếng nói, hành động của loài vật để nói lên ước vọng của con

người, nhất là những bài học nhân sinh.

Không có văn học thời đại nào có thể độc lập với truyền thống. Các

nền văn học kế thừa, phát huy những giá trị tinh hoa của truyền thống. Lan

Trì kiến văn lục tất nhiên cũng không nằm ngoài quỹ đạo này.

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tác phẩm văn chương trung đại nói chung và tiểu thuyết truyền kỳ nói

riêng được hình thành dựa trên cơ sở nhất định, kế thừa những yếu tố nội

dung hoặc hình thức của văn học dân gian, đặc biệt là ở truyện cổ tích thần

kỳ. Kho tàng truyện cổ dân gian đã có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành

và phát triển của thể loại văn học tự sự Việt Nam. Có thể nói kho tàng

truyện cổ dân gian chính là một trong những nguồn suối trong mát nuôi

dưỡng cho văn học trung đại Việt Nam.

Văn học dân gian có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng nền

văn học dân tộc. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết hết sức

chặt chẽ và sâu sắc, trở thành một động lực thúc đẩy nền văn học dân tộc.

Chính bởi lẽ đó văn học trung đại cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa

dân gian, là ngọn nguồn của văn học nhân đạo. Có thể nói, văn học dân gian là

cái nôi nuôi dưỡng văn học viết. Các tác giả văn chương tài năng đều nhận

mình chịu ảnh hưởng từ văn học dân gian và Vũ Trinh cũng như các tác giả

trung đại khác, đều không đi chệch quỹ đạo đó. Các tác giả đều khai thác từ

truyền thống, đồng thời phát huy tài năng cá nhân, biến những câu chuyện cũ

thành truyện truyền kỳ đầy cảm động, lôi cuốn, hấp dẫn. Lan Trì kiến văn lục

thể hiện truyền thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc, sự mộc mạc tinh tế của văn

học dân gian Việt Nam. Lan Trì kiến văn lục ngoài việc chịu ảnh hưởng của

văn học thành văn truyền thống ra còn có thể tìm thấy nguồn gốc của những

truyền thuyết dân gian địa phương. Vũ Trinh thông qua những tình tiết siêu

phàm để phản ánh đời sống hiện thực, nói lên khát vọng, ước mơ của con

người về một xã hội công bằng.

Lan Trì kiến văn lục có những truyện có kết cấu kế thừa từ truyện cổ

tích thần kỳ ở cách sử dụng môtíp truyện, lối kết cấu theo trật tự thời gian là

chủ yếu và kết thúc truyện thường có hậu, cái ác bị trừng trị, cái thiện được

khẳng định.

93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh đã tiếp thu khá nhiều hình tượng con

vật trong truyện dân gian, đặc biệt là hình tượng con hổ. Các con vật mang

những ý nghĩa mới, thể hiện nhận thức mới mẻ của tác giả nhà Nho.

Con hổ trong truyện Con hổ hào hiệp được nhân hóa, với ngôn ngữ con

người, tư duy kiểu con người, hành động con người. Đó là hình ảnh về một xã

hội công bằng, có đạo lý. Con hổ chính là khát vọng chính đáng của con người

trước một xã hội đầy hỗn loạn bất công. Con hổ đã nhân danh lẽ phải, nhân

danh điều thiện trừng trị cái ác, đam lại sự công bằng cho xã hội, sự yên lành

cho con người. Con hổ đã xé xác Hoàng thành trăm mảnh, xé xác một kẻ bất

nhân nhẫn tâm giết con trai của mình. Với người yếu, hổ nâng niu dìu dắt, chở

che bao bọc. Hổ đã bao bọc đứa trẻ 4 tuổi trong rừng, dẫn nó về nhà để nó

được hưởng hơi ấm gia đình.

“Nhân đức thay! Nghĩa khí thay, oanh liệt thay vị chúa sơn lâm này! Đối

với đứa trẻ thì ôm ấp gần gũi trìu mến như con người. đối với bà mẹ thì làm ơn

nhiều, lấy báo ít. Đối với Hoàng thì dứt khoát như các hiệp sĩ, kiếm khách trị

tội những phường bất nghĩa. Làm sao có được vài nghìn vị chúa sơn lâm này

để vì nhân gian trừ diệt hết mọi chuyện bất bình” [59, tr.136-137].

Con hổ trong Con hổ nhân đức được Lan Trì Ngư Giả nhận định: “Hổ

là loài ác thú mà còn biết nghe tiếng van xin ai oán của con người. So với

bọn ngồi ghế cao ở chốn công đường, róc xương, hút tủy sinh dân, nghe

tiếng kêu oan thảm thiết dưới nhà thì bỏ ngoài tai, mất hết lương tâm, ắt

phải hổ thẹn với con hổ này. Ước gì có phép thả con hổ này ra và xin mời

những ông quan ấy vào rọ!” [59, tr.164]. Xã hội đương thời là xã suy đồi.

Kẻ cậy cường quyền bóc lột, chà đạp người lành. Con hổ như ông quan phụ

mẫu có tâm đức, luôn lắng nghe để cứu vớt dân lành, đem bình yên đến cho

con người. Có thể nói con hổ thể hiện khát vọng về một cuộc sống dân chủ

của tác giả.

94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Xây dựng nhân vật con hổ trong truyện Con hổ có nghĩa, Vũ Trinh

nhằm đề cao mối quan hệ giữa người với người. Con người phải thương yêu

nhau, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn hoạn nạn và đừng quên ơn

nghĩa, đừng phụ lòng người tốt. Đó là thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm

qua hình tượng con hổ.

Những yếu tố kỳ lạ là lực lượng phù trợ của những người bất hạnh, của

những người luôn khao khát hạnh phúc. Thế giới thần kỳ là thế giới của những

giấc mơ để thỏa mãn những ước vọng sâu xa của con người. Vũ Trinh đã miêu

tả một thế giới đầy bí kỳ, thế giới mà nhân vật vô tri nói tiếng nói của con

người, hành xử như con người. Ông lấy đó làm cơ sở để thể hiện khát vọng,

ước mơ hạnh phúc, lẽ sống lý tưởng của con người.

Hình tượng hươu biết chèo thuyền, cành cây biết chỉ đường, khối đá

biết khóc hay con cá biết quý và cứu người tốt, con hổ yêu thương người tốt,

diệt người ác… là sản phẩm của tư duy nghệ thuật luôn luôn hướng tới cái

đẹp, cái thiện…

Nhân vật trong truyện cổ tích chủ yếu là nhân vật chức năng, còn

nhân vật trong truyện truyền kỳ khá đa dạng về tính cách. Nhân vật trong

truyện cổ tích xoay quanh trục thiện - ác, tốt - xấu, nên nhân cách của nhân

vật bị đẩy về phía cực đoan tốt hoặc xấu, hiền lành hay độc ác, siêng năng

hay lười biếng, thật thà hay dối trá, thủy chung hay phụ bạc. Con vật trong

truyện truyền kỳ có yêu, có ghét, có tức giận, có căm thù và trả thù, ví như

nhân vật rắn trong truyện Rắn thiêng…

Có thể nói tác giả của Lan Trì kiến văn lục đã chắt lọc được những tinh

hoa của văn học dân gian cùng với bút pháp truyền kỳ để sáng tạo ra những

câu chuyện về các loài vật. Đó là một kiểu ẩn dụ về cuộc sống con người.

Khác với Lan Trì kiến văn lục, trong Tân truyền kì lục, Phạm Qúy Thích

đã đưa hình ảnh con vật rất đỗi bình thường vào trong trang viết của mình. Đơn

giản là chuyện con chó trong truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa, Chuyện con

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chó và mèo đối thoại để nói lên bài học về nhân nghĩa ở đời hay những con vật

tầm thường hơn như con ve, con nhặng trong Truyện con ve và con nhặng xanh

tranh hơn, tác giả đã nhân hóa hình tượng con vật để ngụ ý sâu xa cho con

người, vừa để bóc trần bộ mặt của hạng người hôi hám bẩn thỉu, luồn cúi nhằm

chiếm lợi về mình (nhặng xanh), vừa bộc lộ thái độ bức xúc của tác giả với chế

độ đương thời, đồng thời mong muốn nhân thế lưu truyền, làm bài học cho đời.

Nội dung tư tưởng của các truyện thường toát lên từ các lời bình cuối

mỗi truyện. Cuối truyện Ve sầu và nhặng xanh, tác giả viết: “Than ôi! Ve là vật

vô tri mà còn biết được thanh cao mà tự giữ lễ nghĩa, gìn thân mình, huống hồ

kẻ sĩ đại phu ở đời phải biết coi trọng cương thường. Cương thường không biết

tôn trọng thì dù có đội mũ mặc áo cũng chỉ là loài cầm thú, khác gì loại nhặng

xanh kia?” [59, tr.199]. Còn cuối truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa là:

“Ngẫm ra thấy lòng người sao chẳng được như xưa, thế thái nhân tình lắm nỗi;

lúc nước nhà vô sự yên vui thì xu nịnh cầu vinh, khi non sông gặp cơn tai biến

thì trở mặt đổi giọng; lại còn bán nước cầu sống, cơ hội kiếm lộc, sao mà vô sỉ

quá vậy. Vì thế tôi cho rằng: trên đời những kẻ không bằng con Hàn Lư kia là

nhiều lắm vậy” [59, tr.194-195]. Như thế, nội dung chính của Tân truyền kỳ

lục là đề cao liêm sỉ, lễ nghĩa, cương thường; đề cao tư tưởng ái quốc trung

quân, ngụ ý tâm sự hoài Lê.

Những bài học về đạo đức luân lý, những tâm trạng, những mong đã

được các tác giả truyền kì chuyển tải qua những câu chuyện ngụ ngôn về con

vật đã chạm đến lòng trắc ẩn của người đọc, tác giả bộc lộ rõ tâm trạng đau xót

trước hiện thực cuộc sống, con người đang làm những điều trái với luân thường

đạo lý, những kẻ đang thờ ơ trước nỗi đau của người khác và lạnh lùng trước

hành vi hiệp nghĩa của con người xuất hiện ngày càng nhiều. Ngoài ra, mượn

chuyện loài vật, tác giả mong muốn con người nên xem xét lại bản thân, bởi

những con vật tưởng chừng như vô tri lại có hành động cao cả, nghĩa khí hơn

96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

người, khát vọng của người cầm bút là gửi đến người đọc những tâm tư, tình

cảm của chính bản thân mình.

Tiểu kết

Trong chương 3, chúng tôi đãi trình bày những thông điệp mà các tác giả

muốn chuyển đến bạn đọc thông qua hệ thống nhân vật đặc biệt là nhân vật kỳ

ảo trong tác phẩm. Có thể nói, bằng tài năng và cá tính sáng tạo cũng như

những “thao thức, trăn trở” trước hiện thực cuộc sống, các tác giả đã thổi hồn

vào nhân vật để xây dựng khá hoàn thiện hệ thống nhân vật mang yếu tố kì ảo.

Thông qua hệ thống nhân vật này, nội dung tư tưởng của tác phẩm đã được thể

hiện khá sâu sắc. Ở đó, một thực trạng xã hội đã ở vào “cảnh chợ chiều” với

một loạt những thói hư tật xấu còn tồn tại trong bậc quan lại nói riêng và trong

đời sống nhân dân nói chung đã được phơi bày. Ở đó những khát vọng mang

tính nhân bản như khát vọng tình yêu, hạnh phúc, công lý luôn được đề cao.

Mượn lời nhân vật và đặc biệt là yếu tố kì, các tác giả mong muốn một thế lực

siêu nhiên nào đó như tiên, ma với những phép thuật biến đổi để phơi bày hiện

thực, để bộc lộ khát khao thay đổi được số phận, hoàn cảnh sống, là lực lượng

phù trợ của những người bất hạnh, của những người luôn khao khát hạnh phúc,

hoặc là được giao hòa với thiên nhiên vạn vật, để lắng nghe (nhân vật là con

vật), để hiểu và lên án thẳng thắn những con người đang sống ích kỉ, coi

thường đạo lý. Có lẽ, thế giới thần kỳ luôn là thế giới của những giấc mơ để

thỏa mãn những ước vọng sâu xa của con người mà trong thực tế họ luôn kiếm

tìm nhưng khó lòng thực hiện. Như thế, truyền kỳ giai đoạn này dù không xuất

sắc như giai đoạn trước nhưng nó vẫn làm tròn trách nhiệm của mình trước khi

thoái trào để nhường bước cho những thể loại mới phù hợp hơn với thực tiễn và

tiến trình văn học.

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

Nghiên cứu nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì từ thế kỉ

XVIII đến thế kỉ XIX qua việc triển khai các mặt của luận văn gồm 3 chương,

chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Truyện truyền kì là thể loại đặc sắc của văn học trung đại Việt Nam.

Tuy có nguồn gốc từ truyện truyền kì Trung Quốc và chịu ảnh hưởng của các

truyện truyền kì của Trung Quốc, mặc dù phải trải qua 3 giai đoạn phát triển

nhưng ở mỗi giai đoạn, truyện truyền kì đều đã đạt được những thành tựu xuất

sắc nhất định. Ở thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, đất nước có nhiều biến động, làm

quan điểm sáng tác văn chương cũng biến đổi theo. Do nhu cầu bức xúc của

thời đại nên nó đòi hỏi văn chương phản ánh trực tiếp cuộc sống hơn. Vì thế

truyền kì với đặc trưng là những yếu tố hoang đường kì ảo rơi vào bế tắc. Một

số tác giả đã cố “canh tân” thể loại này nhưng không thể đưa truyền kì lên một

bước phát triển mới được. Họ đã tìm con đường khác là viết về người thật, việc

thật và viết ngụ ngôn. Điều đó bộc lộ trực tiếp qua những truyện truyền kì ở

giai đoạn này: Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Tân truyền kì lục.

2. Đặc điểm quan trọng để tạo được ấn tượng và vị trí của tác phẩm chính

là cách xây dựng nhân vật trong mỗi truyện. Nhân vật mang yếu tố kì ảo cũng là

một đặc điểm cơ bản, khá quen thuộc trong văn học trung đại, đặc biệt là truyện

truyền kì. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nhân vật mang yếu tố kì ảo không còn

đậm đặc và đa dạng như giai đoạn trước. Tất cả đều đã có phần phai nhạt và gắn

bó hơn với cuộc sống con người thực tại. Về sự xuất thân, hành động, phẩm chất

của các nhân vật thần tiên, ma quỷ hay người kì lạ, yếu tố “kì” đã đơn giản hơn

nhiều. Đến Tân truyền kì lục, bởi lẽ gắn liền với sự cách tân như chính tên tác

phẩm mà hệ thống nhân vật không còn đa dạng, đặc sắc, thiên về ngụ ngôn nhiều

hơn, toàn bộ tác phẩm nhân vật chính không phải là thần tiên ma quỷ mà lại là

98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

con vật đã được nhân hóa, mang suy nghĩ, hành động giống con người. Có lẽ

trong cả bốn loại nhân vật kỳ ảo: người kỳ lạ, thần tiên, ma và con vật thì nhân

vật phụ nữ dù là người kỳ lạ hay thần tiên, ma quái là kiểu nhân vật được các tác

giả chú ý đặc hơn hơn với số lượng nhân vật khá lớn. Tuy nhiên những nhân vật

nữ thường gặp những điều ngang trái, trắc trở, trải qua nhiều nỗi đau xót xa.

Cuộc sống của họ thường không có lối thoát, kết cục là những cái chết đau đớn,

bi thảm. Số phận người phụ nữ bất hạnh là sự tố cáo mạnh mẽ xã hội đương thời.

Đây là nghệ thuật độc đáo của các tác giả truyện truyền kì.

Qua sự phân tích hệ thống nhân vật kỳ ảo của thể loại truyện truyền kì ở

thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, chúng ta có thể thấy được phần nào sự vận động

của thể truyền kì Việt Nam, mặc dù không xuất sắc như ở giai đoạn đỉnh cao

của nó và đã có bước thụt lùi nhưng cũng đã có những đóng góp nhất định cho

sự thành công và tồn tại của thể loại này trong nền văn học nước nhà.

3. Mục đích của các tác giả khi xây dựng nhân vật cho tác phẩm của mình

đều mong muốn thông qua đó truyền tải đến bạn đọc về hiện thực cuộc sống

cũng như những tâm tư tình cảm, ước mong, khát vọng của chính bản thân.

Trong truyện truyền kì cũng vậy, sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những

bất công, tầng lớp người dân bị chà đạp, đói khổ…, các tác giả truyện truyền kì

đã dùng ngòi bút lên án mạnh mẽ chế độ đương thời, lên tiếng bảo vệ quyền

sống con người, quyền tự do yêu đương, bình đẳng, đặc biệt là đã lên tiếng bảo

vệ người phụ nữ - những số phận luôn chịu thiệt thòi và chịu mọi áp bức bất

công mà xã hội đó mang lại. Thông qua những nhân vật mang yếu tố kì ảo, các

tác giả bộc lộ mong ước có một thế lực siêu nhiên nào đó để có thể thay đổi được

hoàn cảnh sống, thay đổi được số phận, mang khát vọng về tình yêu, hạnh phúc,

sự công bằng… Đồng thời thông qua nhân vật để làm bài học khuyên dạy con

người về cách ứng xử, cách sống và cách nghĩ cho nhiều thế hệ.

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huyền Anh (1967), Việt Nam danh nhân từ điển, Nxb Khai Trí,

Sài Gòn.

2. Arixtot (1999), Nghệ thuật thơ ca - Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Nxb

Văn học, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (biên soạn, 2005), Từ điển văn

học Việt Nam: Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, tái bản, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

5. B.L.Riptin (1994), “Mấy vấn đề nghiên cứu của những nền văn học

trung cổ phương Đông theo phương pháp loại hình”, Tạp chí Văn

học (2).

6. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: Lý luận, tác giả các tác phẩm, tập 1,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Anh Chi (2005), “Vũ Trinh và bước phát triển mới của truyện truyền kỳ

Việt Nam”, Báo Văn nghệ (32).

8. Nguyễn Đổng Chi (1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển 2 (từ

thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII), Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

9. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1999), Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà

chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

10. Ngô Lập Chi, Trần văn Giáp (2013), Truyền kì tân phả, NXB Trẻ

11. Trần Bá Chí (2006), “Về sách Thánh Tông di thảo”, Tạp chí Hán Nôm (3).

12. Nguyễn Thị Chiến (1995), Giá trị nhân văn và nghệ thuật trong hình

tượng người phụ nữ của truyện Nôm, Nxb Văn hoá Thông tin.

13. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb Sử

học, Hà Nội.

100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

14. Lý Duy Côn (chủ biên, 2004), Trung Quốc nhất tuyệt, tập 1, Nxb Văn

hoá Thông tin.

15. Nguyễn Dữ (1971), Truyền kỳ mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch,

Nxb Văn học, Hà Nội.

16. Lê Tiến Dũng (2004), “Đặc điểm nhân vật truyện cổ và việc hiện đại hoá

truyện cổ dân gian”, Nghiên cứu Văn học (3).

17. Chu Xuân Diên, Lê Chí Quế (biên soạn, 1996), Tuyển tập truyện cổ tích

người Việt (phần Truyện cổ tích người Việt), Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội.

18. Đặng Anh Đào (2006), "Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết

Việt Nam", Tạp chí văn học, số 12.

19. Trần Xuân Đề (1965), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

20. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

21. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Lâm Ngữ Đường (1999), Truyện truyền kỳ Trung Quốc, (Nguyễn Quốc

Đoan dịch), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

24. Lâm Ngữ Đường (1999), Truyện truyền kỳ Trung Quốc, (Nguyễn Quốc

Đoan dịch), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

25. Đoàn Lê Giang (2010), “Vũ nguyệt vật ngữ” của Ueda Akinari và

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ”, http://vienvanhojc.org.vn, trích dẫn

23/09/2010.

26. Trần Văn Giáp (chủ biên, 1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập

1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Thị Bích Hải (2007), “Truyền thống hiếu kỳ trong tiểu thuyết

Trung Quốc”, Tạp chí Hán Nôm (2).

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

29. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ

biên) (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.

30. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

31. http://vannghesontay.com/en/news/Nghien-cuu-trao-doi/LAN-TRI-

KIEN-VAN-LUC-CUA-VU-TRINH-1421/

32. Nguyễn Thị Huế (chủ biên, 2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt

(tập 6, Truyện cổ tích thần kỳ), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

33. Nguyễn Phạm Hùng (1987), “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”, Tạp chí Văn học (2).

34. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

35. Trần Đình Hượu (1991), “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong

văn học Việt Nam cổ cận đại”, Tạp chí Văn học (3).

36. Joan Hyae Kyeong (1994), “So sánh tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc,

Trung Quốc và Việt Nam qua ba tác phẩm Kim Ngao tân thoại, Tiễn

đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục”, Tạp chí Văn học (1).

37. Đinh Thị Khang (2007), “So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma

trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục”, Tạp chí Văn học.

38. Đinh Gia Khánh (1980), “Văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XV và Lê

Thánh Tông”, trong sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

39. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2000), Văn học Việt

Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,

Nxb Văn học, Hà Nội.

102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

41. Lê Kinh Khiên (2003), “Một số vấn đề lý thuyết về mối quan hệ văn học

dân gian - văn học viết”, Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 19,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

42. Kim Seona (1995), “Đề tài tình yêu trong Kim Ngao tân thoại của

Hàn Quốc (So sánh với Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam)”, Tạp chí

Văn học, số 10 (10).

43. Kim Seona (1995), Nhân vật phụ nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác

phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả, Luận văn thạc sĩ, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

44. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (2005), Từ điển nhân vật lịch sử

Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

46. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

47. Phương Lựu (chủ biên, 1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. M. Bakhtin (1999), Những vấn đề của thi pháp Dôxtôiepxki, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

49. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

50. Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những

vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Tăng Kim Ngân (1986), “Về công tác sưu tầm, khảo sát, giới thiệu vốn

truyện cổ dân gian Việt Nam ba mươi năm qua”, Văn hoá dân gian (3).

52. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt

truyện, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

53. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam danh mục và phân

loại”, Tạp chí Hán Nôm, (3).

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

54. Bùi Văn Nguyên (1968), “Về yếu tố văn học dân gian trong Truyền kỳ

mạn lục”, Tạp chí Văn học, (11).

55. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

56. Lã Nguyên (2006), “Văn học kỳ ảo: nhìn từ hệ hình thế giới quan”, Văn

học nước ngoài, (6).

57. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và

Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học, Hà Nội.

58. Nhiều tác giả (2007), Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

59. Nhiều tác giả (2001), Nam ông mộng lục và những truyện khác, NXB

Văn học Hà Nội.

60. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990), Lĩnh Nam chích quái lục, Nxb Văn học, Hà Nội.

61. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung

đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học (11).

62. Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch

sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

63. Bùi Duy Tân (1992), “Mối quan hệ giữa văn học Trung Quốc và văn học

Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận, cách tân và sáng tạo”, Tạp chí Văn học,

số 1, tr9-12.

64. Bùi Thị Thiên Thai (2011), “Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả”,

Nghiên cứu văn học (1).

65. Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung

Quốc (100 điều), (Mai Xuân Hải dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Trần Thị Băng Thanh (1997), “Lê Thánh Tông và các mối dị đoan”, Tạp

chí Văn học (8).

67. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong

dòng truyện truyền kỳ Việt Nam”, Tạp chí Văn học (4).

104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

68. Vũ Thanh (1994), “Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện

ngắn truyền kỳ Việt Nam”, Tạp chí Văn học (6).

69. Vũ Thị Phương Thanh (2009), Thánh Tông di thảo nhìn từ truyền thống

truyện dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kỳ, Luận văn thạc

sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.

70. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam

từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

71. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72. Trần Nho Thìn (2003), "Thử phác họa tiến trình văn học trung đại Việt

Nam", Tạp chí văn học (5).

73. Nguyễn Cẩm Thuý (1983), “Vũ Trinh và Kiến văn lục”, Tạp chí Văn học (3). 74. Đỗ Lai Thuỷ (2003), “Lê Thánh Tông nhà nho, hoàng đế, thi nhân”, Văn

hoá nghệ thuật (8).

75. Lê Thánh Tông (1963), Thánh Tông di thảo, Nguyễn Bích Ngô dịch,

Nxb Văn hoá, Hà Nội.

76. Vũ Trinh (2004), Lan Trì kiến văn lục, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb Thuận

Hoá, Huế.

77. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2007), So sánh nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ) và Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu), Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.

78. Hoàng Tiến Tựu (1997), Bình giảng truyện dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy, nghiên

cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

80. Tạ Thị Thanh Vân (2004), Tìm hiểu thêm về giá trị của Truyền kỳ mạn

lục - Nguyễn Dữ, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.

81. Đinh Cẩm Vân (2000), “Cái “kỳ” trong tiểu thuyết truyền kỳ”, Tạp chí

Văn học (10)

82. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

105

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

83. Phạm Tuấn Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

84. Trần Ngọc Vương (chủ biên, 2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX -

Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 85. Lý Tế Xuyên (1960), Việt điện u linh tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 86. Lê Thu Yến (tái bản) (2002), Văn học Việt Nam, văn học trung đại,

những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

106