ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ TÀI NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung

Thái Nguyên - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận

văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tài

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm

ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học

Khoa học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng

dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên

hướng dẫn: PGS.TS Trần Thị Việt Trung đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo

trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tài

iii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 3

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 7

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 8

5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 9

6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................ 10

7. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 10

CHƯƠNG I. VĂN XUÔI THÁI NGUYÊN VÀ NHÀ VĂN HỒ THỦY

GIANG ..................................................................................................................... 11

1.1. Khái quát về văn xuôi Thái Nguyên thời kỳ hiện đại ........................................ 11

1.2. Vài nét về nhà văn Hồ Thủy Giang .................................................................... 15

1.3. Quan niệm về việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn

chương của nhà văn Hồ Thủy Giang ................................................................ 20

Tiểu kết ...................................................................................................................... 30

CHƯƠNG II. NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI HỒ THỦY GIANG -

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG ................................................................. 31

2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn .................................................................................. 31

2.1.1. Khái niệm “Nhân vật” trong sáng tác văn học ............................................... 31

2.1.2. Vài nét khái quát về nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ

hiện đại ............................................................................................................. 32

2.2. Một số đặc điểm về nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang ..................... 36

2.2.1. Những người phụ nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và mạnh mẽ................... 37

2.2.2. Những người phụ nữ có số phận bất hạnh – nỗi ám ảnh trong văn xuôi Hồ

Thủy Giang ....................................................................................................... 47

Tiểu kết ...................................................................................................................... 59

iv

CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG ..................... 61

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................ 61

3.1.1. Những người phụ nữ lao động nghèo vùng trung du và miền núi .................. 61

3.1.2. Những người phụ nữ trí thức thời hiện đại ..................................................... 66

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................................... 71

3.2.1. Độc thoại nội tâm ............................................................................................ 71

3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật .................................................................... 75

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .......................................................................................... 78

3.3.1. Ngôn ngữ mang tính bình dân thể hiện rõ tính cách và phẩm chất của

nhân vật ............................................................................................................ 80

3.3.2. Ngôn ngữ mang màu sắc địa phương, đậm tính vùng miền ........................... 83

3.3.3. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ ......... 85

Tiểu kết ...................................................................................................................... 87

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 92

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Hồ Thủy Giang là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của đời sống văn

học Thái Nguyên. Ông là người mà cả cuộc đời gắn bó tha thiết với con

người, mảnh đất Thái Nguyên. Ông là một nhà văn đạt được khá nhiều thành

tựu trên con đường văn chương với nhiều tác phẩm đã đạt giải cao trong các

cuộc thi về văn xuôi của Trung ương cũng như địa phương. Ông đã xuất bản

30 tác phẩm (gồm truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch bản phim truyền

hình, thơ, phê bình thơ), trong đó có đến 20 tác phẩm đạt Giải thưởng (của

Báo Văn Nghệ, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Báo Tuổi Trẻ, Hội nhà văn

thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Toàn

quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam..).Tác phẩm của ông đã

được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình chú ý, và được tuyển chọn vào

sách Giáo khoa Tiểu học, sách Giáo khoa Văn học địa phương tỉnh Thái

Nguyên. Do vậy, khi nghiên cứu về Hồ Thủy Giang cũng có nghĩa đã nghiên

cứu về trường hợp cây bút văn xuôi tiêu biểu, nhiều thành tựu vào bậc nhất

của tỉnh Thái Nguyên. Qua đó, chúng ta có thể hình dung ra được tính chất,

đặc điểm và thành tựu văn chương của một tỉnh vùng trung du và miền núi

trong quá trình vận động và phát triển ở thời kì hiện đại.

1.2. Cũng chính vì Hồ Thủy Giang là một nhà văn tiêu biểu của văn

xuôi Thái Nguyên nên đã có một số luận văn Cao học và Đề tài Khóa luận

của sinh viên, lựa chọn làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả luận văn

chỉ mới đi vào nghiên cứu một số thể loại trong sáng tác của ông như: Nghiên

cứu về Đặc điểm truyện ngắn của Hồ Thủy Giang (Luận văn Thạc sĩ của

Nguyễn Thị Tuyết Mai); Đặc điểm tiểu thuyết của Hồ Thủy Giang (Luận văn

Thạc sĩ của Thân Thị Mai Linh Lan)...Ngoài ra, khi nghiên cứu Văn chương

Thái Nguyên cũng có một số người đã nhắc đến ông như là một cây bút văn

2

xuôi tiêu biểu qua một số bài báo, bài nghiên cứu, phê bình đã khẳng định

những đóng góp của ông trong lĩnh vực sáng tác văn xuôi của tỉnh và của khu

vực. Với một nhà văn như Hồ Thủy Giang thì việc nghiên cứu về những tác

phẩm của ông như thế vẫn là chưa đủ, còn rất nhiều đóng góp, nhiều nét đặc

trưng và nhiều thành tựu vẫn chưa được phát hiện và khẳng định. Để góp

phần phác họa bức chân dung nhà văn Hồ Thủy Giang một cách đầy đủ và

trọn vẹn hơn, chúng tôi muốn được đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “Nhân vật

nữ trong các tác phẩm văn xuôi” của ông. Vì đây cũng là một đặc điểm nổi

bật trong văn xuôi của ông, một thành tựu trong quá trình sáng tác hơn 30

năm qua của tác giả này.

1.3. Hơn nữa, trong các sáng tác của mình, ngòi bút của Hồ Thủy

Giang luôn hướng tới việc phản ánh những hoàn cảnh, những số phận của

người phụ nữ trung du và miền núi với nhiều thành phần xã hội, nhiều

thân phận khác nhau. Qua đó, nhà văn đã thể hiện được tư tưởng nhân văn

cùng những quan điểm (vừa truyền thống, vừa hiện đại) của ông đối với

vai trò, vị trí của người phụ nữ; với những nỗi buồn, vui, đau khổ, thậm

chí là bất hạnh của họ trong xã hội thời kỳ hiện đại. Vì thế, nghiên cứu hệ

thống các nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm của ông cũng có nghĩa là đã

đi vào nghiên cứu phần đặc sắc, phần đóng góp nổi bật trong quá trình

sáng tác, sáng tạo của nhà văn.

1.4. Mặt khác, Hồ Thủy Giang là một trong những nhà văn hiện đại có

tác phẩm giảng dạy văn học địa phương. Do đó khi nghiên cứu về nội dung

này chúng tôi rất mong muốn được đóng góp một tiếng nói của mình vào việc

tìm hiểu, xây dựng tốt hơn các bài giảng về những tác phẩm của ông. Đồng

thời góp phần phác họa rõ nét hơn bức chân dung nhà văn Hồ Thủy Giang,

với tư cách là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên nói riêng,

của khu vực trung du và miền núi nói chung. Chính vì vậy, chúng tôi xin

3

được chọn đề tài “Nhân vật nữ trong văn xuôi của Hồ Thủy Giang” làm đề

tài luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Hồ Thủy Giang là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của tỉnh

Thái Nguyên và khu vực miền núi phía Bắc nên đã có khá nhiều bạn đọc và

người nghiên cứu, phê bình, quan tâm và viết về ông. Sau đây, chúng tôi tổng

hợp một số nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình, các nhà văn về văn xuôi

Hồ Thủy Giang nói chung, về hình tượng nhân vật phụ nữ nói riêng trong

sáng tác của ông.

Nhà nghiên cứu, phê bình Lâm Tiến trong cuốn “Tiếp cận văn học dân

tộc thiểu số (2011)” nhận xét: “Truyện Điện hoa của Hồ Thủy Giang. Truyện

với một giọng kể nhẹ nhàng, duyên dáng, với kết cấu hợp lý, tác giả đã dẫn dắt

nhân vật trải qua các tình huống khác nhau với những diễn biến tâm lý sâu sắc,

tế nhị để nhân vật nhận ra con đường thực của mình với cuộc sống muôn màu,

muôn vẻ của nó”. Nội dung của truyện xoay quanh việc phản ánh những thân

phận, những cảnh ngộ, những vấn đề nhức nhối đang đặt ra trong cuộc sống hôm

nay và nhân vật nữ “Phương Lan trong truyện Điện hoa của Hồ Thủy Giang

vẫn không thoát khỏi vòng tình ái thường tình của con người”.

Tác giả Trần Văn Tác trong cuốn Văn hóa - Văn học và ngôn ngữ địa

phương tỉnh Thái Nguyên (2010), đã nhận xét:“Hồ Thủy Giang là cây bút

văn xuôi xuất sắc của Thái Nguyên. Anh có nhiều đóng góp không chỉ truyện

ngắn, tiểu thuyết, thơ, tiểu luận phê bình văn học mà gần đây thành công ở cả

kịch bản phim”.Và ông cũng đã nhấn mạnh đến các nội dung tiểu thuyết của

Hồ Thủy Giang: “Các nhân vật có đời tư, có số phận riêng khó đoán trước

được và ngôn ngữ trần thuật của Hồ Thủy Giang không gò ép mà luôn mềm

dẻo biến hóa, khi ngậm ngùi, xót xa trước bi kịch của nhân vật, khi thủ thỉ vỗ

về, chia sẻ cùng nhân vật”.

4

Trên báo Văn nghệ (của Hội nhà văn Việt Nam, số 38/2013), nhà văn

Vũ Nho trong bài “Hồ Thủy Giang – Cây truyện ngắn” đã nhấn mạnh: Với

tập truyện mới Không phải là ảo ảnh: “Hồ Thủy Giang chứng tỏ một sức hút

mạnh mẽ, một tình yêu mãnh liệt, bền bỉ với thể loại mà anh thành danh đầu

tiên”. Ông cũng rất thích đọc truyện ngắn của Hồ Thủy Giang. "Thú thật, tôi

là người đọc Hồ Thủy Giang rất sớm vì cùng trang lứa, cùng được

giải truyện ngắn của Tạp chí Văn Nghệ Việt Bắc. Vẫn nhớ mãi những truyện

được giải của anh như “Cô bánh xích”, “Những trang bản thảo”, “Bông

hoa cô đơn”. Có thể thấy rất rõ một điều: “Trước đây Hồ Thủy Giang say sưa

với những nét đẹp của cuộc sống mới, nhiều điều lãng mạn, nhiều điều tốt đẹp

dù hiện thực đời sống không thiếu những khó khăn, gian khổ. Giờ đây, anh

điềm tĩnh hơn khi tiếp cận với hiện thực nhiều điều buồn, nhiều chuyện đau

lòng, nhiều thứ trớ trêu…Cái giọng kể vui tươi, hóm hỉnh, tràn đầy niềm yêu

đời, lạc quan giờ được thay bằng giọng điềm đạm, kìm nén, ẩn chứa nhiều

băn khoăn, day dứt”.

Trong bài viết Văn chương Thái Nguyên (Tháng 12 năm 2008),

nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh viết: “Trong văn chương ông là người sớm

nổi danh đặc biệt với truyện ngắn. Nhắc đến tên Hồ Thuỷ Giang bạn

đọc nhớ đến các tác phẩm: "Hoa phượng"; "Những trang bản thảo";

"Cô bánh xích"...Ông là người có nhiều Giải thưởng văn học nhất trong

giới văn chương tỉnh Thái Nguyên, đã hai lần đoạt Giải truyện ngắn của

Tạp chí Văn nghệ quân đội và là tác giả của 17 tập sách gồm tiểu thuyết,

truyện ngắn, phê bình tiểu luận...”.

Phạm Văn Vũ trong bài “Kiến giải lịch sử trong tiểu thuyết Tể

tướng Lưu Nhân Chú của Hồ Thủy Giang”, (Báo Văn nghệ Thái

Nguyên, tháng 5 năm 2016), đã nhận xét: “Hồ Thủy Giang đã rất khéo léo

đem vào câu chuyện của mình những yếu tố lãng mạn, những chi tiết đời

5

thực, để câu chuyện lịch sử kia không trở thành một “mẫu vật” trong bảo

tàng mà thực sự là con người, là đời sống với không khí của thời đại và

hoàn cảnh của nó”. Tác giả còn nhấn mạnh đến hình ảnh những người

phụ nữ trong cuộc đời của Tể tướng Lưu Nhân Chú thật đẹp – một vẻ đẹp

về cả hình thức lẫn phẩm chất tâm hồn, đó là nàng “Ngọc Tiêm - một

người vợ tuyệt vời, tuyệt đối yêu chồng và tuyệt đối đáng được chồng

yêu…; Slao, người giấu lòng yêu thầm nhớ trộm và cuối cùng đã lấy thân

mình chắn mũi tên giặc để chết thay Lưu Nhân Chú”.

Vi Phương, trong bài viết “Truyện ngắn trên báo văn nghệ Thái

Nguyên – 10 năm nhìn lại”, (Báo văn nghệ Thái Nguyên, tháng 11 năm

2015) đã luận về cái Đẹp hiện hữu trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang:

“Cái đẹp vĩnh cửu qua sương gió khác với cái đẹp hữu hạn của xác thịt con

người”; Cái đẹp thường biến mất trước suy nghĩ của những kẻ nông cạn

trong “Thần sắc đẹp” truyện ngắn của Hồ Thủy Giang”.

Tác giả Minh Hằng có bài viết Vài điều đáng nói xung quanh cuốn

tiểu thuyết lịch sử đầu tiên về danh nhân đất Thái đăng trên báo Thái

Nguyên ngày 31-5-2016 như sau:“Tể tướng Lưu Nhân Chú là “đứa con

tinh thần” thứ 29 của Nhà văn Hồ Thủy Giang, nhưng lại là cuốn tiểu thuyết

lịch sử đầu tiên ông viết về danh nhân Thái Nguyên. Sự ra đời tiểu thuyết lịch

sử Tể tướng Lưu Nhân Chú cũng lắm đặc biệt. Thông thường, người ta

chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim, nay nhà văn Hồ Thủy Giang làm ngược

lại: chuyển thể từ phim thành tiểu thuyết. Với “quy trình ngược” này, tác

phẩm là sản phẩm “nhuyễn” của kịch bản, phim và tiểu thuyết. Cũng vì thế,

hình ảnh vị Anh hùng dân tộc đất Thái được khắc sâu hơn bao giờ hết”.

Người anh hùng Lưu Nhân Chú được mãi lưu danh muôn đời: “Người Thái

Nguyên, đặc biệt người Đại Từ rất tự hào về Tể tướng Lưu Nhân Chú. Đã có

một trường cấp 3 mang tên ông; lễ hội Núi Văn, Núi Võ tại đền thờ Tướng

6

quân Lưu Nhân Chú tổ chức ngày mùng 4 Tết Âm lịch hằng năm; quần thể di

tích về Lưu Nhân Chú là di tích lịch sử cấp Quốc gia”.

Phương Dung - Lệ Hằng trong “Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy

Giang” (Đề tài Nghiên cứu khoa học) cũng đã viết: “Truyện ngắn của Hồ

Thủy Giang mang nỗi cô đơn, bất an của tâm hồn con người, những rung

động sâu xa, chân thành trước tình yêu thương, lòng nhân hậu của con

người. Điều này khiến chúng ta luôn phải ngạc nhiên ngỡ ngàng khi tự

khám phá ra phần sâu kín trong tâm hồn mỗi con người qua từng trang

văn”. Còn về giọng điệu trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang khi

thì:“Kín đáo, mỉa mai, lúc công khai thẳng thừng châm biếm, đả kích, lúc

lại lạnh lùng dồn nén, khi lại ngậm ngùi, xót xa”. Ngôn ngữ trong

truyện:“Giản dị, dễ hiểu, đời thường, đậm tính khẩu ngữ”. Về nội dung

hiện thực thì: “Hồ Thủy Giang xông xáo, cập nhật vào tất cả những vấn

đề bức xúc của đời sống.Trong truyện tác giả còn đưa ra những chiêm

nghiệm, những triết lý nhân sinh mang tầm tư tưởng sâu sắc vào những

vấn đề có thể nói là nhỏ nhặt và bình thường của cuộc sống”.

Nguyễn Thị Tuyết Mai trong “Đặc điểm truyện ngắn của Hồ Thủy

Giang”, (Luận văn Thạc sĩ năm 2011) đã đưa ra nhận xét : “Với hơn 200

truyện ngắn Hồ Thủy Giang hướng ngòi bút vào mọi vấn đề của đời sống,

những câu chuyện về tình yêu lứa đôi, hạnh phúc gia đình, những mối quan

hệ giữa cha con, mẹ con, bạn bè, đồng nghiệp, thầy trò...Truyện ngắn của Hồ

Thủy Giang là những lời thầm thì nhỏ nhẹ và ngậm ngùi về những cảnh đời,

những số phận của con người bình thường trong cuộc sống. Đọc truyện ngắn

Hồ Thủy Giang ta bắt gặp chính số phận và tâm trạng của mình và biết bao

con người bình dị ở quanh ta trong những phạm vi bình dị, đời thường nhất”.

Hồ Thủy Giang còn chú trọng tới việc miêu tả ngoại hình của nhân vật:“Hầu

hết các nhân vật nữ được Hồ Thủy Giang miêu tả rất rõ nét, từ đó để bộc lộ

7

một phần tâm trạng, đời sống, tính cách của nhân vật”.Truyện ngắn của Hồ

Thủy Giang thường có giọng điệu: “Xót xa ngậm ngùi, điều này nó thể hiện

trước tiên ở sự cảm thông với những con người cô đơn, có số phận bất hạnh

hoặc không may mắn của người phụ nữ”.

Như vậy, có thể thấy rằng trong các bài viết của một số nhà phê bình,

trong các luận văn và đề tài nghiên cứu khoa học của học viên và sinh viên

đều có một điểm chung khi nhìn nhận, đánh giá về những thành tựu văn xuôi

của Hồ Thủy Giang nói chung và về nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật

(trong đó có nhân vật nữ) với các tác phẩm của ông nói riêng. Tuy nhiên cho

đến nay, chúng tôi nhận thấy vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên

biệt nào về hình tượng người phụ nữ trong sáng tác Hồ Thủy Giang. Những ý

kiến trên đó mới chỉ là những nhận xét nhỏ lẻ, những gợi ý về vấn đề này.

Tiếp thu ý kiến và gợi ý của những người đi trước, chúng tôi đi sâu vào tìm

hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc trong các “Nhân vật nữ trong văn

xuôi của Hồ Thủy Giang”,với mong muốn: Phác họa một cách hệ thống và

toàn diện hơn về nhân vật nữ trong thế giới nghệ thuật của ông, để chỉ ra và

phân tích sâu một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, cũng như

khẳng định những đóng góp của ông trong nghệ thuật xây dựng thế giới nhân

vật nữ với cái nhìn đa chiều nhưng đầy tính nhân văn, nhân bản. Trên cơ sở

đó, khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn cũng như những đóng góp của

ông đối với sự vận động, phát triển văn xuôi của khu vực miền núi phía Bắc

nói chung và văn xuôi tỉnh Thái Nguyên nói riêng.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nhân vật nữ trong toàn bộ sáng

tác văn xuôi của Hồ Thủy Giang (chủ yếu qua truyện ngắn và tiểu thuyết) ở

cả hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật.

8

- Tuy nhiên, để làm rõ hơn những nét đặc trưng, những sáng tạo riêng

của cây bút văn xuôi Hồ Thủy Giang trong việc xây dựng hình tượng nhân vật

nữ, chúng tôi có đọc và khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của tác giả Thái

Nguyên và tác giả của một số tỉnh khác (ví dụ: Tác giả Vi Hồng, Ma Trường

Nguyên, Phạm Đức, Nguyễn Trường Thanh,…).

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Chỉ ra và làm rõ những đặc điểm cơ bản về các nhân vật nữ trong sáng tác

văn xuôi của Hồ Thủy Giang (ở cả hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật).

- Qua việc nghiên cứu về đặc điểm nhân vật nữ trong tác phẩm văn

xuôi của Hồ Thủy Giang, khẳng định những sáng tạo, những đóng góp của tác

giả đối với sự vận động và phát triển ở thể loại văn xuôi của đời sống văn

chương Thái Nguyên thời kì hiện đại.

- Đề tài được hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng

dạy phần văn học địa phương các trường Phổ thông trên địa bàn tỉnh cũng

như những người quan tâm đến nền văn học địa phương tỉnh Thái Nguyên.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận văn cần phải đi

vào giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau:

+ Chỉ ra đặc điểm khái quát về văn xuôi Thái Nguyên (cơ sở thực tiễn

dẫn tới sự xuất hiện cây bút Hồ Thủy Giang).

+ Nghiên cứu một cách hệ thống về các nhân vật nữ trong sáng tác của

Hồ Thủy Giang - để chỉ ra và làm rõ những đặc điểm nổi bật về nội dung và

nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật nữ (vùng trung du và miền núi) trong

toàn bộ sáng tác văn xuôi của nhà văn Hồ Thủy Giang.

9

+ Khẳng định những mặt sáng tạo, những đóng góp riêng của nhà văn

Hồ Thủy Giang trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ đối với văn xuôi Thái

Nguyên nói riêng, văn xuôi khu vực trung du và miền núi phía Bắc nói chung.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được luận văn của đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số

phương pháp cơ bản sau:

- Phương pháp nghiên cứu phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại

- Phương pháp khái quát - tổng hợp

- Phương pháp khảo sát, thống kê

- Phương pháp so sánh - đối chiếu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: (Văn học với Văn hóa học; Văn

học với Lịch sử...)

5. Phạm vi nghiên cứu

- Khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi của Hồ Thủy Giang, đặc biệt đi

sâu vào nghiên cứu và phân tích một số đặc điểm nhân vật nữ trong tác

phẩm (truyện ngắn và tiểu thuyết) của ông. Tuy nhiên, những sáng tác văn

xuôi của Hồ Thủy Giang rất phong phú và đa dạng, do đó chúng tôi xin

được giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể là: Các tác phẩm truyện ngắn

và tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn Hồ Thủy Giang, bao gồm 6 tập truyện

ngắn và 4 tập tiểu thuyết.

1. Truyện ngắn chọn lọc - Nxb Văn học. 2002

2. Cuồng phong - Nxb Thanh niên Hà Nội. 2002

3. Mùa gió heo may - Nxb Lao động. 2005

4. Nhà có 5 người - Nxb Văn hóa dân tộc. 2008

5. Người đẹp thường nhiều bí ẩn - Nxb Văn học. 2010

6. Không phải là ảo ảnh - Nxb Văn học. 2011

7. Mắt rừng (tiểu thuyết) - Nxb Công an nhân dân. 2015

10

8. Tể tướng Lưu Nhân Chú (tiểu thuyết) - Nxb Đại học Thái Nguyên . 2016

9. Những người mở đường (tiểu thuyết) - Nxb Văn học. 2016

10. Con đường cát bụi (tiểu thuyết) - Nxb Công an Nhân dân. 2016

- Khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của các nhà văn ở Thái Nguyên và ở

một số tỉnh lân cận khác (để so sánh, đối chiếu với nhà văn Hồ Thủy Giang).

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Văn xuôi Thái Nguyên và nhà văn Hồ Thủy Giang

Chương 2: Nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang - một số đặc

điểm về nội dung

Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong

văn xuôi của Hồ Thủy Giang

7. Đóng góp của luận văn

- Tìm hiểu, phân tích những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật

trong việc xây dựng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi của nhà văn Hồ Thủy

Giang, từ đó có một cái nhìn tổng thể nhưng cũng rất cụ thể những sáng tạo,

những đóng góp đáng trân trọng của ông với đời sống văn chương Thái

Nguyên (ở thể loại văn xuôi) và trong việc góp phần hoàn thiện bức chân

dung người phụ nữ Việt Nam trong thời kì hiện đại và hội nhập.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn mang ý nghĩa thực tiễn, đó là: Thiết

thực giúp ích trong việc cung cấp tư liệu cho việc dạy văn trong nhà trường

Phổ thông ở tỉnh Thái Nguyên (phần giảng dạy về tác phẩm, tác giả Hồ Thủy

Giang), cũng như giúp ích cho việc tìm hiểu về văn học địa phương Thái

Nguyên đối với những người quan tâm đến vấn đề này.

11

CHƯƠNG I

VĂN XUÔI THÁI NGUYÊN VÀ NHÀ VĂN HỒ THỦY GIANG

1.1. Khái quát về văn xuôi Thái Nguyên thời kỳ hiện đại

Thái Nguyên là tỉnh miền núi thuộc vùng Trung du – Miền núi Bắc bộ,

phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội; phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía Đông

giáp các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Tây giáp các tỉnh Tuyên Quang,

Phú Thọ. Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa, giáo dục của Việt Nam nói chung, của vùng miền Đông Bắc nói riêng.

Đây là một trong những vùng chè nổi tiếng của cả nước, một trung tâm

công nghiệp gang thép phía Bắc của Tổ quốc, cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã

hội giữa vùng trung du và miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Thái Nguyên là

một tỉnh có bề dày lịch sử, một vùng đất giàu truyền thống cách mạng.

Thái Nguyên là một ngôi nhà chung của các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng,

Dao, Hoa, Sán chay, Cao Lan, H’ mông…cùng nhau chung sống và xây

dựng cuộc sống mới. Trong suốt quá trình phát triển lịch sử, Thái Nguyên

là nơi gặp gỡ, hội tụ của nhiều tộc người với những phong tục, tập quán

phong phú, đặc sắc và cũng đã tạo nên những hiện tượng “giao thoa” văn

hóa đầy thú vị. Có thể nói, Thái Nguyên là mảnh đất tụ hội nhiều nét văn

hóa đặc sắc của vùng trung du và miền núi, là trung tâm đào tạo nguồn

nhân lực có trình độ cao (gồm nhiều Trường Cao đẳng, Đại học cùng đội

ngũ các nhà giáo, nhà khoa học), là trung tâm kinh tế - văn hóa xã hội,

khoa học công nghệ của cả vùng Đông Bắc Việt Nam.

Thái Nguyên cũng là mảnh đất đầy tiềm năng cho văn học nghệ thuật

phát triển, cùng với một đội ngũ khá đông đảo các nhà văn, nhà thơ các thế hệ

nối tiếp nhau. Trong hơn nửa thế kỉ vận động và phát triển (chỉ tính từ những

năm 60 thế kỉ trước) đến nay, văn học Thái Nguyên đã tạo nên một diện mạo

riêng với những đặc điểm riêng của đời sống văn học của vùng trung du và

12

miền núi. Có thể phác họa một cách khái quát về quá trình vận động và phát

triển của văn học Thái Nguyên cụ thể như sau:

- Giai đoạn trước Đổi Mới 1986: Ở giai đoạn từ những năm đầu thập

kỉ 60 đến trước 1986 là giai đoạn toàn Đảng, toàn dân tập trung vào hai

nhiệm vụ chính là: chống Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc. Cùng với những năm tháng đầy gay go và quyết liệt ấy, đội ngũ

sáng tác ở Thái Nguyên đã xuất hiện và phát triển cả về số lượng lẫn chất

lượng. Một số cây bút văn xuôi tiêu biểu của thời kì này là: Lê Minh, Xuân

Cang, Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Nông Minh Châu, Hồ Thủy

Giang…Những tác phẩm của các nhà văn trong giai đoạn này luôn mang

hơi thở nóng hổi của thời đại và phản ánh đời sống con người vùng trung

du và miền núi trên đà xây dựng chủ nghĩa xã hội - với một số tác phẩm

tiêu biểu như: Suối gang, Lên cao, Những vẻ đẹp khác nhau (Xuân

Cang); Người chia ánh sáng, Con nước Eng Nhàn, Đất Bằng, Thung

Lũng đá rơi (Vi Hồng), Trận địa giữa ruộng bậc thang (Nông Minh

Châu), Bạn cùng lớp, Cô bánh xích (Hồ Thủy Giang)... Qua một số tác

giả, tác phẩm tiêu biểu trên chúng ta thấy được những đóng góp quan trọng

của thế hệ các nhà văn đầy tiềm năng của Thái Nguyên. Họ cũng đã đạt

được nhiều Giải thưởng văn học của Trung ương và địa phương ví dụ như:

Nhà văn Xuân Cang với “Những vẻ đẹp khác nhau”, (Giải thưởng Hội

Nhà văn – 1968); Vi Hồng với truyện ngắn “Con nước eng nhàn”, (Giải

thưởng Báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn năm 1971); nhà văn Hồ Thủy Giang

với truyện ngắn: “Cô Bánh Xích”, (Giải thưởng Báo Văn nghệ - Hội Nhà

văn – 1971)...Tiếp đó là sự xuất hiện khá rầm rộ của những tên tuổi như:

Hoàng Minh Tường, Trịnh Thanh Sơn, Chu Hồng Hải, Nguyễn Đức Thiện,

Ba Luận,..những cây bút này đã góp phần tích cực vào việc làm nên diện

mạo văn học Thái Nguyên trên văn đàn cả nước.

13

- Giai đoạn Đổi Mới sau1986: Đội ngũ sáng tác văn học Thái Nguyên vẫn

tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới. Nhiều nhà văn đã hướng

ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực mới của xã hội cùng những hình tượng

con người với thân phận cá nhân vào trong tác phẩm của mình. Năm 1987,

Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên được thành lập, đánh dấu bước

ngoặt lớn đối với Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên. Một số tác giả văn xuôi

được đánh giá cao và khẳng định mình qua các tập sách riêng, gây được sự

chú ý của độc giả như: Vi Hồng, Hà Đức Toàn, Ma Trường Nguyên, Hồ Thủy

Giang, Hoàng Luận, Phạm Đức, Bùi Thị Như Lan…Nhắc đến nhà văn Vi

Hồng là nhắc đến người có công lao rất lớn trong việc “mở đường” cho văn

học Thái Nguyên phát triển. Ông là cây bút tiểu thuyết hàng đầu Thái Nguyên

nói riêng, của khu vực miền núi nói chung. Nhiều tác phẩm của ông được

đánh giá cao trong tiểu thuyết dân tộc thiểu số nói chung và tiểu thuyết Thái

nguyên nói riêng. Trong giai đoạn này, với niềm say mê văn chương và miệt

mài sáng tác, ông đã xuất bản thêm nhiều tiểu thuyết mới: Người trong ống

(1990); Người làm mồi bẫy hổ (1990); Gã ngược đời (1990); Tháng năm

biết nói (1993); Chồng thật vợ giả (1994); Phụ tình (1994); Đi tìm giàu sang

(1995);… Những cuốn tiểu thuyết của ông đều thể hiện tư tưởng nghệ thuật

của tác giả - như một nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Các trang viết của ông

như những lời tâm tình cùng các dân tộc miền núi, trước hết với người Tày

rằng: hãy yêu thương và biết yêu thương những cái đẹp, cao cả đồng thời

đem hết sức mình ra trừ diệt cái ác, kẻ ác.” [42,69]. Nhà văn Hà Đức Toàn

cũng là nhà văn hiếm hoi viết thuần về Thái Nguyên với tình yêu nồng thắm,

diết da. Ông lặn lội ngang dọc trên mảnh đất này và điều đó cùng đồng nghĩa:

Ông đã lặn lội dọc ngang trong suy nghĩ của con người Thái Nguyên. Lịch sử

đất và người Thái Nguyên là nguồn cảm hứng chính cho mọi sáng tác của

ông. Ông đã cho ra đời khá nhiều tác phẩm đậm màu xứ Thái như: Đêm trăng

14

nhà sàn (1988); Đôi Ba ông đầu rau (1999); Lũng mây (2000); Tuyển tập

Hà Đức Toàn (2007)…Nhà văn Ma Trường Nguyên là nhà văn dân tộc Tày

có nhiều đóng góp cho đời sống văn học Thái Nguyên, miệt mài “trên cánh

đồng chữ nghĩa”, ông cho ra đời những tác phẩm văn chương mang đậm hơi

thở cuộc sống và con người miền núi với những yếu tố nghệ thuật mang đậm

bản sắc Tày như: Mũi tên ám khói (1991); Gió hoang (1992); Tình xứ mây

(1993); Trăng yêu (1993); Bến đời (1995); Rễ người dài (1996); Cơn dông

thời niên thiếu (1997); Mùa hoa hải đường (1998); Dòng suối tuổi thơ tôi

(2004)…Có thể nhận thấy trong lĩnh vực tiểu thuyết, Ma Trường Nguyên đã

gặt hái khá nhiều thành công. Ông được nhận Giải thưởng của Ủy ban toàn

quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam với tiểu thuyết Rễ người dài;

Giải B - Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 5 năm (1992- 1997) của tỉnh Thái

Nguyên cho tiểu thuyết Mùa hoa hải đường… Những thành tựu đó góp phần

nào cho thấy chiều sâu và bề dày trong sáng tạo của nhà văn ở lĩnh vực tiểu

thuyết. Càng về sau, các nhà văn Thái Nguyên càng có ý thức đưa các loại đề

tài về công nghiệp, về nông thôn miền núi, về việc khai thác khoáng sản, về

rừng, về lịch sử từ thời phong kiến đến thời chống Mỹ, chống Tàu…vào trong

tác phẩm của mình. Ví dụ như trường hợp các nhà văn: Hoàng Luận, Phạm

Đức, Phan Thái, Hồ Thủy Giang…cụ thể là: Hoàng Luận với một số tác phẩm

như: Làng một người, Cây không lá, Nắng tím, Đất ống; Phan Thái có

những tác phẩm: Cơm áo chợ đời, Sóng bên ngày nắng, Đèn giời ; và Phạm

Đức có tác phẩm: Bão rừng, Giông gió làng chè; và Hồ Thủy Giang với các

tiểu thuyết: Tiếng súng bên sông Cầu, Những người mở đường, Tể tướng

Lưu Nhân Chú, Con đường cát bụi…Khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới

và Hội nhập thì ngoài các đề tài viết về miền núi, về nông thôn, về công

nghiệp hóa, về vùng cao biên giới,…nhiều nhà văn Thái Nguyên còn đi sâu

vào khai thác những khía cạnh về con người cá nhân với những mảnh đời,

15

những thân phận, những tình cảnh éo le…đặc biệt là thân phận người phụ nữ

trung du và miền núi trong cuộc sống đầy phúc tạp thời kỳ hiện đại. Tiêu biểu

có các nhà văn với các truyện ngắn như: Phan Thái với: Nước mắt nắng,

Người đàn bà đi trong sương; Trinh Nguyên với Giấc mơ, Mặt hồ phẳng

lặng; Bùi Thị Như Lan với Tiếng chim kỷ giàng, Mùa mắc mật, Hoa

mía…Hồ Thủy Giang với Thiên truyện cổ, Bốn người đàn bà, Điện hoa,

Bông hoa cô đơn, Phiên tòa, Nỗi ám ảnh của một tỷ phú, Nỗi buồn hãy tan

đi, Lúc ấy biển hoàng hôn, Cô gái ngồi bên cửa sổ…các tác phẩm đều

hướng về thân phận những con người không may mắn trong cuộc đời, những

con người bé nhỏ, lầm lũi, bất hạnh, nhưng trong tận thẳm sâu tâm hồn họ lại

vẫn lấp lánh những vẻ đẹp của lòng nhân hậu, vị tha, sự cố gắng hết mình để

vượt lên số phận, để có thể đón nhận một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhà văn Hồ

Thủy Giang là một trong những người có sự đồng cảm sâu sắc đối với thân

phận của người phụ nữ.Trong nhiều tác phẩm của ông dù nói trực tiếp hay

gián tiếp, luôn hiện lên những thân phận, những cảnh ngộ của bao người phụ

nữ nhỏ bé, thầm lặng, cam chịu, hi sinh, không kêu ca, đòi hỏi cho riêng cá

nhân mình.

Có thể thấy, lực lượng sáng tác văn xuôi của Thái Nguyên thời kỳ hiện

đại khá hùng hậu, trong đó có nhiều cây bút rất “cứng cáp”, có nhiều tác

phẩm được bạn đọc và dư luận ghi nhận, được đánh giá cao. Đó là những cây

bút không phải chỉ nổi tiếng ở Thái Nguyên mà còn có sức lan tỏa ra cả khu

vực trung du và miền núi phía Bắc. Tác giả văn xuôi Hồ Thủy Giang là một

trong số ít nhà văn như thế.

1.2. Vài nét về nhà văn Hồ Thủy Giang

Hồ Thủy Giang tên thật là Đào Việt Hải, sinh ngày 20/06/1947 tại quận

Kiến An, thành phố Hải Phòng. Hồ Thủy Giang là hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, Hội

16

viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên... Năm 1960 Hồ Thủy Giang

theo gia đình từ Hải Phòng lên Thái Nguyên sinh sống và bắt đầu sự nghiệp

sáng tác văn chương. Thành công đầu tiên của ông là: Truyện ngắn đầu tay

“Ngàn làm máy” in trên báo tạp chí Văn nghệ Việt Bắc, với truyện ngắn này,

ông là người đầu tiên đưa hình ảnh phụ nữ của nền công nghiệp hiện đại vào

văn học. Sau đó ông lại được nhận được giải thưởng của Báo Văn nghệ - Hội

nhà văn Việt Nam năm 1971 với tác phẩm “Cô bánh xích”. Với lòng say mê

và yêu văn chương, ông vừa dạy học vừa viết truyện, làm thơ và không ngừng

học hỏi, tìm tòi qua sách vở và kinh nghiệm của những người đi trước. Năm

1980, Hồ Thủy Giang chuyển về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái

Nguyên. Từ đó ông thực sự đã dành nhiều thời gian, tâm huyết vào sáng tác

văn chương, thực sự có ý thức và có điều kiện đi theo con đường sáng tác mà

mình đam mê. Năm 1983, Hồ Thủy Giang được bổ nhiệm làm Phó Phòng

Xuất bản-Sở Văn hóa Bắc Thái. Năm 1987 Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc

Thái được thành lập, ông chuyển sang làm công tác Hội và là Ủy viên

Thường vụ Thường trực Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Thái. Từ năm 1992 đến

nay, Hồ Thủy Giang đã từng giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội

đồng Nghệ thuật- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên…

Hồ Thủy Giang là người có niềm say mê mãnh liệt với văn chương và

yêu văn chương tới độ đam mê. Hơn bốn mươi năm cầm bút, với hơn 30 tác

phẩm gồm nhiều thể loại (nhưng nổi bật nhất là thể loại truyện ngắn), Hồ

Thủy Giang được nhận hơn 20 Giải thưởng về văn học của Trung ương và địa

phương. Ví dụ như: Giải thưởng của các Báo: Báo văn nghệ (Hội nhà văn

Việt Nam năm1971); Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc (1994); Báo Giáo viên Nhân

dân năm (1976); Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm (1981,1990)…và Giải

thưởng cuả Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (các năm

2002, 2004, 2008, 2009, 2015); Cùng với Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 5

17

năm tỉnh Thái Nguyên (1992, 2002, 2007, 2011); Các giải thưởng do các Bộ

ngành phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức thi như: Tiểu thuyết (2013-2015) do

Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Công an đồng tổ chức; Tiểu thuyết (2013-2015)

do Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông đồng tổ chức; Kịch bản phim

truyện điện ảnh chất lượng cao về đề tài cách mạng và kháng chiến giai đoạn

1930 - 1975 của Hội Điện ảnh Việt Nam (2015)…

Trong suốt hơn 40 năm cầm bút, nhà văn Hồ Thủy Giang đã cho ra đời

một số tác phẩm khá đồ sộ, liên tục qua các năm, bao gồm: 13 tập truyện

ngắn, 5 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện thiếu nhi, 3 cuốn tiểu luận phê bình, 2

tập thơ, 6 kịch bản phim truyện. Cụ thể như sau:

+ Thể loại truyện ngắn:

1. Cô bánh xích (1985)

2. Có một cô gái trong đời (1987)

3. Con tàu đến muộn (1989)

4. Bông hoa cô đơn (1990)

5. Ảo ảnh (1997)

6. Lúc ấy biển hoàng hôn (2000)

7. Cuồng phong (2002)

8. Truyện ngắn chọn lọc (2002)

9. Tuần hoàn của đất (2003)

10. Mùa gió heo may (2005)

11. Nhà có năm người (2008)

12. Người đẹp thường nhiều bí ẩn (2011)

13. Không phải là ảo ảnh (2013)

+ Thể loại tiểu thuyết:

1. Tiếng súng bên sông cầu (2009)

2. Mắt rừng (2015)

18

3. Những người mở đường (2016)

4. Tể tướng Lưu Nhân Chú (2016)

5. Con đường cát bụi (2016)

+ Thể loại phê bình, tiểu luận:

1. Văn học Thái Nguyên – tác giả, tác phẩm (2004)

2. Thái Nguyên – một dòng chảy văn chương (2010)

3. Thơ chọn và lời bình (2012)

+ Thể loại thơ:

1. Tìm đâu nàng áo xanh ơi (2001)

2. Bạn với cỏ cây (2009)

+ Văn học thiếu nhi:

1. Bạn cùng lớp (1981)

2. Văn miêu tả lớp 4 và 5 (1993)

3. Chuyện cái chỏm đầu (2001)

4. Ếch ngồi đáy giếng (2003)

5. Cây đỗ dại khờ (2006)

+ Thể loại kịch bản và phim truyện:

1. Tình xứ mây (2007)

2. Người hay châm chọc (2009

3. Dưới cờ phục quốc (2010)

4. Phiên tòa trong mơ (2011)

5. Những người ở lại (2015)

6. Tể tướng Lưu Nhân Chú (2016)…

Qua số lượng tác phẩm và số lượng Giải thưởng văn chương mà nhà

văn Hồ Thủy Giang đã đạt được, có thể khẳng định: Ông là một nhà văn

tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên nói riêng, của khu vực trung du và miền núi

nói chung. Ông là một trong số ít nhà văn chuyên nghiệp, tâm huyết, tận

19

tụy và có sức làm việc, sáng tạo đáng nể trọng. Nội dung chủ yếu trong các

sáng tác của Hồ Thủy Giang là: viết về con người, cuộc sống, thiên nhiên

vùng trung du và miền núi nói chung, của mảnh đất Thái Nguyên nói riêng

trong quá trình vận động và phát triển suốt từ những năm đầu thế kỷ XX

cho đến nay. Nhà văn còn say sưa, tự hào viết về đề tài lịch sử với những

sự kiện, những nhân vật lịch sử của Thái Nguyên từ thời phong kiến đến

thời hiện đại. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Hồ Thủy Giang rất

phong phú, đa dạng và có những đặc điểm riêng. Đó là thế giới nhân vật

bao gồm những con người với các thành phần xã hội khác nhau, các lứa

tuổi, các nghề nghiệp khác nhau (từ chuyện thiếu nhi đến chuyện người

lớn, từ người nông dân miền núi đến người công nhân trong nhà máy, đến

các cán bộ lãnh đạo, quản lý, đến các trí thức, học sinh, sinh viên trong các

trường Đại học, Cao đẳng; Từ người lính cho đến người công an nhân

dân…). Trong thế giới nhân vật của ông nổi bật là nhân vật người phụ nữ

vùng trung du và miền núi với những vẻ đẹp khác nhau, tính cách khác

nhau và với những thân phận khác nhau. Thông qua việc xây dựng hình

tượng nhân vật người phụ nữ này, Hồ Thủy Giang đã thể hiện rõ hơn về

những quan điểm, những cái nhìn rất nhân văn, tràn đầy sự yêu thương, sự

cảm thông và sự trân trọng của mình đối với những người phụ nữ. Và trên

phương diện nghệ thuật, tác giả cũng có những đóng góp đáng khẳng định

trong nghệ thuật xây dựng nhân vật với góc nhìn đa chiều, đa diện về con

người; với cách phản ánh khách quan và toàn diện hơn về tính cách và bản

chất của các nhân vật trong tác phẩm. Chính vì thế mà Hồ Thủy Giang luôn

được đánh giá như một nhà văn chuyên nghiệp có nhiều đóng góp cho văn

chương Thái Nguyên nói chung, cho văn xuôi Thái Nguyên nói riêng trong

suốt mấy chục năm qua.

20

1.3. Quan niệm về việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn

chương của nhà văn Hồ Thủy Giang

Với lòng say mê và sự tâm huyết của mình đối với văn chương nên ngay

từ nhỏ Hồ Thủy Giang đã có ý thức và nuôi dưỡng ước mơ sẽ trở thành

một nhà văn. Và hiện tại Hồ Thủy Giang đã thực sự trở thành một nhà văn

tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên và khu vực trung du – miền núi phía Bắc,

được nhận nhiều giải thưởng so với các nhà văn trong khu vực. Ông viết

nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình văn học và kịch bản

phim…, nhưng thể loại mà ông dành nhiều tâm huyết nhất và đạt được

nhiều thành công nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhà văn Hồ Thủy

Giang rất thích viết truyện ngắn, bởi lẽ theo ông: “Truyện ngắn là thể loại

có kết cấu ngắn gọn để đưa ra một triết lý, một quan niệm mang hơi thở

của cuộc sống” [32,10]. Đọc những truyện ngắn của ông, mỗi người sẽ tìm

thấy một phần cuộc đời và hình ảnh mình trong đó. Ngoài ra, ông rất thành

công trong việc sáng tác tiểu thuyết. Với ông, thực sự là ông đã sống một

nửa ngoài đời và một nửa là sống trong những tác phẩm văn học của chính

mình. Chính vì vậy, Hồ Thủy Giang đã có những quan niệm riêng của

mình về văn chương, về cuộc sống, về con người và việc phản ánh hiện

thực vào trong tác phẩm. Ông đã trực tiếp phát biểu về quan niệm nghệ

thuật, về văn chương của mình cụ thể như: “Văn chương không hề đơn

giản chỉ phản ánh đời sống đang tồn tại mà nó còn phản ánh những “ẩn

số” của cuộc sống. Từ đó, văn chương phải có nhiệm vụ thúc đẩy cuộc

sống của con người, giúp nhân loại thoát khỏi những bất an, phải đem lại

sự an ủi cho con người. Văn chương không chỉ là “tấm gương” phản chiếu

cuộc sống, mà luôn song hành cùng cuộc sống.Văn chương và thực tại là

hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau, nhưng văn chương lại

vừa phản ánh hiện thực trong cái ảo ảnh để làm xoa dịu đi nỗi đau của

21

thực tại đời sống”[32,13]. Quan điểm về nghệ thuật trong sáng tác văn

chương của ông thật chân thành, sâu sắc và có tính hiện đại. Trong mỗi

truyện ngắn hay tiểu thuyết của mình, nhà văn đều thể hiện những quan

điểm (dù trực tiếp hoặc gián tiếp) như là những thông điệp mang đầy ý

nghĩa triết lý nhân sinh, và cũng là những điều tâm huyết mà nhà văn muốn

gửi đến độc giả. Theo ông, đã viết văn thì: “Tác phẩm đó phải nhằm phục

vụ cho cuộc đời và con người, an ủi họ thoát khỏi sự bất an luôn tiềm ẩn

trong cuộc sống hiện tại”[32,14]. Và những quan niệm ấy đã được thể hiện

rất rõ trong các sáng tác cụ thể của ông.

Viết về cuộc sống, con người thời kỳ hiện đại, Hồ Thủy Giang hay đi vào

những loại đề tài “nhạy cảm”, với sự trải nghiệm và sự quan sát tinh tế cuộc

sống xã hội của mình (Nhà hàng cà phê trái hình, Tướng cướp, Bưởng

vàng, Nguyên Mẫu, Đối thủ, Thông reo, Món nợ, Những hàng ghế trống,

Chú bé đi giày một chân, Ngõ nhỏ…). Những truyện của ông đã giúp chúng

ta hiểu hơn những góc khuất của đời sống thời “mở cửa”. Tác giả ít khi xây

dựng nhân vật “đơn tính cách”, mà những nhân vật của ông thường là loại

nhân vật “đa tính cách”, có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp, có lối

sống, cách sống riêng mang màu sắc cá nhân rõ rệt.Truyện của ông luôn làm

cho độc giả phải suy ngẫm về những vấn đề nhức nhối đang hiện hữu trong

cuộc sống đương thời: Những cán bộ hư hỏng chưa bị vạch mặt (Tướng

cướp); những nhà hàng cà phê trá hình, thực chất là những nơi chứa chấp bao

tệ nạn xã hội: Chứa chấp gái điếm (nhiều cô gái trẻ đẹp vào làm cho nhà

hàng, ngoài việc làm phục vụ cà phê thì các cô còn “phục vụ” khách theo nhu

cầu, sẵn sàng trở thành món hàng trao đổi cho bà chủ và khách làng chơi

khác,…); những chốn ăn chơi của con nhà giàu; nơi buôn bán hàng lậu, hàng

cấm...(Nhà hàng cà phê trái hình). Trong truyện ngắn Chú bé đi giày một

chân, tác giả miêu tả “một góc công viên thành phố. Hầu như chiều nào cũng

22

thấy chú lặng lẽ ngồi trên chiếc ghế đá sứt, cặp mắt nhiu nhíu dõi cái nhìn mờ

mịt ra phía bờ sông”[12,17]. Góc công viên này chính là nơi ngủ nghỉ của

chú bé làm nghề bới rác đã gần mười năm. Tại đây chú thường băn khoăn

không biết mình có nên trở thành người lớn hay không vì “Người lớn mà cho

nhau, giúp nhau một tí là phải tính toán, cân nhắc thiệt hơn”[12,18]. Ý nghĩ

đó của cậu bé tưởng đơn giản nhưng lại hàm chứa những điều rất sâu sa. Như

vậy không gian thành thị này, đã hé lộ một phần số phận của những cậu bé mà

mọi người gọi là “dân bụi” ở chốn thị thành…Phố chỉ vẻn vẹn dăm bảy nóc

nhà thế nhưng lại hội tụ đủ mọi tầng lớp, thành phần trong xã hội. Tác giả đã

hướng điểm nhìn của mình đến từng nhà, từng số phận ở nơi đây, nhà văn

phát hiện ra, ở cái ngõ này “nỗi khổ bao giờ cũng nhiều hơn niềm vui, nỗi bất

hạnh nhiều hơn hạnh phúc”. Người đầu tiên tác giả miêu tả là bà Bảy, làm

công việc dọn thùng vệ sinh. Nỗi khổ vì nghề nghiệp của bà luôn hiện lên đầy

đủ hình thù và đường nét của nó. “Những người lịch sự nhất khi có việc phải

tiếp xúc với và cũng né xa xa. Người ta luôn tưởng tượng ra những phân tử uế

tạp li ti như còn thấm trên quần áo, thậm chí trên da thịt bà. Còn ở nhà ... con

cái bà luôn giành lấy việc nấu nướng chứ bà mà động vào là đến bữa ăn thế

nào chúng cũng khủng khỉnh”[ 9,125]. Thật bất hạnh cho bà Bảy thế mà trên

báo, đài lúc nào cũng luôn nói rằng nghề nghiệp nào cũng vinh quang. Người

khổ thứ hai là anh Hoạch làm nghề ăn trộm. Có lẽ trong cái ngõ này anh là

người khổ nhất vừa về thể xác vừa về tinh thần:“Hình như sống trong cộng

đồng nhân loại đấy anh luôn thấy mình không phải là người nữa rồi. Anh

không dám nhìn thẳng vào ai bao giờ. Mắt anh cứ đáo điêng, nửa như gian

hoạt, nửa như lẩn tránh... Vợ anh nhìn anh vừa cảm thông, vừa đắng cay,

khinh miệt. Con anh nhìn anh, thoắt cười khúc kha khúc khích rồi lại thoắt rơi

nước mắt ngay được. Con cái chúng nó có thể tự hào vì bố chúng là ông giám

đốc, ông giáo sư chứ chẳng có đứa nào tự hào vì bố là ông ăn trộm. Sống

23

trong gia đình, anh Hoạch trở nên ít nói, ít cười”[9,126]. Người khổ thứ ba là

một cán bộ văn phòng, với nghề tay trái là viết văn. Tuy nhiên, việc viết văn

khiến anh gặp phải ít nhiều phiền toái, anh bị kiện, thậm chí nhà anh còn bị

cắt nước - khi anh dám xây dựng nhân vật ông Giám đốc Nhà máy Nước

trong truyện ngắn của mình. Có lẽ trong ngõ nhỏ này, người được xem không

có điều bất hạnh gì là ông Cảnh – Thủ trưởng một cơ quan cấp cao ở Trung

ương:“Cứ chiều thứ bảy là chiếc xe con bóng nhãy lại đưa ông về nhà để

nghỉ ngơi sau một tuần làm việc. Thứ hai, xe lại toe toe đón đi. Trông ông lúc

nào cũng bệ vệ... Ông đi đến đâu là người thưa gửi râm ran. Nhà cửa ông

đàng hoàng. Con cái ông ăn học nên người”[9,128]. Thế nhưng, ông Cảnh

cũng không tránh được nỗi buồn: Vợ mất đã lâu muốn xây dựng lại lần nữa

để có người cùng bầu bạn lúc tuổi già nhưng khi muốn tìm hiểu ai thì họ lại

coi ông là “một ông thủ trưởng chứ không phải là một người đàn ông, nhất là

một người đàn ông đang cần lấy vợ”. Đã thế, sự kính trọng với ông nhiều khi

cũng kèm theo là điều mất tự do. Ở đâu ông cũng được hưởng sự kính trọng

từ cơ quan đến hội nghị, đường phố, gia đình, quê hương thậm chí ở cả nơi

chôn rau cắt rốn. Nhưng, ông sợ nhất là sự kính trọng của những người bạn

cũ. Ngoài ra, ông còn phải chịu những sự kính trọng thái quá, có khi còn giả

tạo của những kẻ cơ hội. Qua lời tâm sự “cuộc sống của những người bình

thường thật muôn vàn màu sắc, mùi vị. Nhưng tôi chỉ có quyền thèm thuồng

chứ đâu được hưởng... Chú bảo, thế thì sung sướng cái nỗi gì?”[9, 131] ta

thấy thật ngậm ngùi cho ông (Ngõ nhỏ). Chỉ với dăm bảy nóc nhà trong

không gian thành thị, Hồ Thủy Giang giúp người đọc thấy được những cảnh

đời, cuộc sống, công việc của con người thành phố nhiều khi chúng ta ngỡ

tưởng, người thành phố họ đâu biết đến nỗi buồn mà chỉ có niềm vui. Những

kẻ tham nhũng chưa bị pháp luật trừng trị thì trời đất cũng sẽ không tha

(Nguyên Mẫu, Đối thủ); Nhà từ thiện rộng rãi, hào phóng nhưng lại quên hay

24

cố lờ đi món nợ ân tình với người bạn cũ: liệu anh ta có cớ thật từ tâm hay

đây chỉ là một thủ đoạn mua danh? (Món nợ). Một người bạn đã lừa dối bạn

mình thời phổ thông, ba chục năm sau gặp lại, vẫn tiếp tục thói lừa chỉ vì thấy

bạn giỏi hơn mình về thi ca, mặc dù mình đã có mọi thứ (Những hàng ghế

trống). Thông reo là truyện về một Trạm trưởng Kiểm lâm đứng đắn, tận tụy

vì công việc, dám “chơi” cả phó Chủ tịch huyện - là thượng cấp, là người có

trách nhiệm xã hội to hơn anh Trạm trưởng quèn. Lý sự của Trạm trưởng thật

giản đơn: “Không ai có thể lớn hơn luật pháp” [12,148]. Vấn đề là ở chỗ anh

dám thể hiện cái chân lý hiển nhiên ấy bằng hành động cụ thể, kiên quyết

ngăn lại việc làm của phó Chủ tịch tỉnh, mặc dù đó cũng là việc công chứ

không có gì khuất tất…Phải chăng đây chỉ là những mặt tích cực hay có cả

những mặt tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường?.

Các nhân vật trong truyện của Hồ Thủy Giang thường có đời tư, có số

phận riêng, vận động phát triển theo quy luật riêng và khó đoán trước được.

Ví dụ: Truyện về hai vợ chồng quét rác nghèo khó phải bỏ nhau (vì đông con,

ông chồng nghiện rượu, con cái phải sống bươn trải bán hàng lặt vặt kiếm

sống…) tuy nhiên, cuối cùng với sự cố gắng, nỗ lực rồi họ cũng tìm được

hạnh phúc lại cho mình. Hay truyện viết về những nhân vật phụ nữ sống trong

sự đầy đủ vật chất, đài các như cô Mai - nhưng lại có cuộc sống tinh thần bất

hạnh, cô đơn, trống rỗng về tư tưởng, thiếu vắng tình yêu, thiếu vắng hơi ấm

gia đình; hay truyện về người nghệ sĩ (Vũ Hải Lăng) quá nghèo khó về vật

chất, nên cứ luôn trăn trở, suy nghĩ và tìm cách định nghĩa: “Hạnh phúc là gì”

và hành trình đi tìm hạnh phúc của họ thật khó khăn, đầy trắc trở. Ví dụ như:

Trong truyện ngắn Những phương trời lá rụng, đặc biệt là cuộc đời của

nhân vật Hãnh Xỉa - một tướng cướp tàn bạo, y có thể làm bất cứ việc gì mà y

thích, y muốn (tiền tài, vật chất, “nhà đẹp”, “vợ đẹp”, “chơi đẹp” với thiên

hạ…) nhưng y lại có nỗi đau đớn, bất hạnh vì không thể có con cái. Đây là

25

nỗi khổ, một bi kịch không thể giải quyết. Bế tắc, y tìm đến con đường sang

“thế giới bên kia” như một sự trốn chạy bi kịch cuộc đời. Hay Nguyệt, từ cô

sinh viên đanh đá, xinh đẹp, có bản lĩnh thể hiện cá tính mạnh mẽ nhưng trở

thành món hàng đáng thương. Cô đã từng mặc cảm với lũ con nhà giàu khi bị

chúng coi khinh con nhà nghèo như cô; rồi cô bị trả giá với tội danh ăn trộm

cái bánh mì và yêu đương lăng nhăng; cuộc đời làm vợ của bưởng vàng

Huỳnh xấu xí “nửa người nửa vật” kia có đem lại hạnh phúc hay chỉ là chuỗi

ngày bất hạnh.

Đặc biệt, nhà văn Hồ Thủy Giang còn hay hướng ngòi bút đến những câu

chuyện về tình yêu và hạnh phúc gia đình. Khi khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn

Hồ Thủy Giang chúng tôi nhận thấy: chiếm hơn 50 % số tác phẩm của ông là

những truyện viết về tình yêu. Mỗi câu chuyện tình yêu (trong truyện ngắn

hay tiểu thuyết) của nhà văn đều có những thử thách và chứa đầy buồn

thương, đau đớn, đầy nước mắt, thậm chí là cả máu, cả cái chết. Trong Con

tàu đến muộn chỉ vì sự ghen tuông của người chồng, sự thiếu hiểu biết, ích kỉ

vì “tính sĩ diện của người đàn ông” mà dẫn đến bi kịch tan vỡ gia đình - khi

hai người tuy còn rất yêu nhau, nhưng phải chia tay và sống trong niềm xót

xa, ân hận cả cuộc đời. Hai nhân vật Châu và Tùng trong Sao xanh yêu nhau,

thương mến, quan tâm, chia sẻ cùng nhau nhưng chỉ vì những tính toán thiệt

hơn, không chịu hy sinh vì nhau nên cả hai đều phải chấp nhận sống trong nỗi

cô đơn đến cuối đời. Nhân vật Miên trong Lúc ấy biển hoàng hôn cũng có

một tình yêu trong sáng với Thanh, một thấy giáo nghèo nhưng vì đã lựa chọn

cho mình một nghề không mấy “sạch sẽ” là tắm thuê – để đến nỗi phải chết

trong tủi nhục vì gặp phải kẻ “bạo dâm”. Cái chết của Miên đã làm cho thầy

giáo Thanh vô cùng ân hận, đau khổ vì đã không thể đến kịp để cứu và đưa cô

thoát khỏi sự nguy hiểm trong công việc mà cô đang làm. Những câu chuyện

về tình yêu trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang thường có những bi kịch, nhiều

26

nỗi xót xa, đôi khi là sự bất công và ít khi có những câu chuyện tình kết thúc

có hậu. Chính vì thế chăng mà nhà văn đã muốn nói với mọi người rằng:

“đừng để nhìn thấy những cặp mắt tình yêu suốt đời phải khóc, thậm chí khóc

bằng máu của cả kiếp người”[9,75].

Quan niệm về tình yêu và hạnh phúc của nhà văn cũng vậy, nhà văn

luôn trăn trở một câu hỏi lớn: thế nào là hạnh phúc? và hạnh phúc đích thực

của con người là gì? Có đầy đủ tiền tài, danh vọng, quyền lực liệu đã hạnh

phúc chưa? thế nào là tình yêu? Hạnh phúc trong tình yêu là gì? Để có được

hạnh phúc trong tình yêu con người có phải trả giá không?. Trong đó, mỗi

tình yêu trong câu truyện ngắn của Hồ Thủy Giang đều thể hiện những mặt

gai góc, chan chứa những buồn thương, đau đớn đầy nước mắt, có cả máu,

thậm chí cả cái chết… Ví dụ trong một số truyện ngắn như: Bông hoa cô

đơn, Ngõ nhỏ, Con tàu đến muộn, Tro tàn, Tàu đêm, Chuyện tình ở dốc

Nguy Hiểm, Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú,...Bản chất của tình yêu phải là

sự chân thành và sự hy sinh.Thiếu đi sự chân thành, sự hy sinh thì đồng nghĩa

là không còn tình yêu. Thế mà chỉ vì sợ bị “suy giảm tư cách” mà vị phó Chủ

tịch tỉnh không dám nói ra điều sâu kín trong lòng ông: “Em là bông hoa tươi

đẹp nhất của đời anh” để rồi cả hai đều trở thành những bông hoa cô đơn

buồn tủi (Bông hoa cô đơn). Trong một chuyện khác, cũng chỉ vì một sự nghi

ngờ ghen tuông mù quáng, mất khôn của Thuận mà phải chia lìa tình vợ

chồng, biết rằng cả hai dù rất yêu nhau những vẫn phải xa nhau (Con tàu đến

muộn). Hoặc chỉ vì sự cám dỗ của đồng tiền mà cô gái đã phải bỏ người yêu

theo một Giám đốc, để cả cuộc đời cô không có được một hạnh phúc vẹn tròn

(Sân Ga). Trong truyện Tro tàn, bất ngờ lại ở chỗ người vợ tìm mọi cách để

“tiêu diệt” đối phương, tìm mọi cách để đòi lại căn nhà của vợ chồng chị,

nhưng người chồng coi như đã “chết” khi dấn thân vào những tệ nạn xã hội.

Lúc người vợ đang mừng với chiến thắng thì tình cảm vợ chồng, tình cảm gia

27

đình lại tan nát. Không chỉ trong truyện ngắn mà ngay cả tiểu thuyết Tể tướng

Lưu Nhân Chú, một tiểu thuyết lịch sử cũng thấm đẫm một tình yêu đẹp, đơn

phương nhưng cũng nhuộm màu bi kịch. Nhân vật Slao, cô gái Tày xinh đẹp

đã âm thầm khao khát có một tình yêu với vị chủ tướng tài giỏi của mình,

nhưng vị Chủ tướng ấy đã có gia đình , có một người vợ trẻ đẹp, đảm đang,

thông thạo cung kiếm. Nên suốt cuộc đời này, cô ôm mối tình đơn phương và

cuối cùng bi kịch ấy cũng đã giải thoát bằng cái chết anh dũng và tự nguyện

của nàng đối với người yêu, một vị Chủ tướng tài ba này. Phải chăng nhà văn

đã ý thức sâu sắc được rằng: Con người, tình yêu, cuộc sống, hiện thực luôn

phong phú và phức tạp, luôn có những phần khuất lấp của nó và cần phải nhìn

nhận, phản ánh nó dưới nhiều góc cạnh mới có thể phản ánh chân thực, khách

quan vào trong tác phẩm văn chương. Vì vậy, nhà văn cần phải lách sâu ngòi

bút của mình vào thế giới tâm hồn thế giới tâm hồn của con người, vào phần

khuất lấp của cuộc sống, của hiện thực thì mới có thể phản ánh đầy đủ chân

thực, khách quan, hiện thực của cuộc sống và số phận con người. Từ quan

niệm ấy, nhà văn đã thể hiện một cách cụ thể, sinh động trong cách xây dựng

nhân vật, phản ánh hiện thực trong các sáng tác của mình. Đồng thời qua đó

nhà văn đã khẳng định: Hạnh phúc đích thực không phải là do có quyền lực,

danh vọng và tiền tài. Muốn có được tình yêu, hạnh phúc thực sự, con người

phải biết yêu thương nhau, phải sống vị tha, bao dung, biết cảm thông, chia sẻ

cùng nhau, đồng cảm với nhau cả khi buồn, lúc vui, khi thành công cũng

như lúc thất bại trong cuộc sống.

Trong những truyện ngắn như: Cỏ dại, Cuồng phong, Hoa Phặc Phiền

vẫn nở, Hoa Phượng, Thiên truyện cổ, Quyển học bạ... nhà văn cho thấy

con người luôn tồn tại hai mặt: đẹp – xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, yêu –

ghét, vui – buồn, trong sáng – tối tăm, hạnh phúc – khổ đau,... Trong số hơn

ba mươi tám truyện ngắn của ông từ chuyện trẻ con (Kim) đến chuyện người

28

lớn ( Lão căn ke); từ chuyện người ăn cắp vặt đến chuyện của đại gia (Tên

trộm, Nửa giờ với một tỉ phú); từ chuyện văn sĩ (Quyền được nói to) họa sĩ

( Danh họa) sang chuyện nhà thơ, chuyện nhạc sĩ (Nhạc sĩ)…; từ chuyện góc

phố nghèo (Người kéo xe ba gác) đến chốn ăn chơi thác loạn (Sàn nhảy); từ

chuyện tòa án đến chuyện đời thường (Có một phiên tòa, Chia tài sản, Vàng,

Báu vật, Đệm điện, Chiếc nhẫn)…tất cả mọi chuyện xảy ra từ phố thị cho

đến xóm núi mờ sương của mảnh đất Thái Nguyên đều được nhà văn quan sát

và đưa vào truyện. Các câu chuyện từ chuyện to đến chuyện nhỏ,

chuyện buồn đến chuyện vui, chuyện thương tâm đến chuyện bức xúc, chuyện

ngành này, nghề nọ,... nhà văn đã quan sát và suy nghĩ viết nên thành tác

phẩm văn chương để cùng bạn đọc suy ngẫm về các thời cuộc, về con người,

về lẽ đời, về xã hội thời “mở cửa”… Chẳng hạn, câu chuyện về cái khoảng

cách hơn một mét mà một trong hai người không thể vượt để gặp

nhau? (Khoảng cách); rồi cái giá của niềm tin ở cuộc đời này là bao nhiêu?

(Giá của niềm tin); ứng xử của hai người phụ nữ sau phiên tòa là thế nào?

(Có một phiên tòa). Nhà giàu mà cũng khổ, nỗi thống khổ của tỉ phú là

gì?(Nửa giờ với một tỉ phú) và vì sao con người lại không thể làm “một

người bình thường”? (Một người không thể trở thành người bình thường);

báu vật của hai vợ chồng nhà nọ là gì? (Báu vật)…Tác giả sẽ cùng bạn đọc

giải đáp các câu hỏi và cùng chiêm nghiệm, suy nghĩ. Có thể thấy rất rõ một

điều: Trước đây nhà văn thường say sưa với những nét đẹp của cuộc sống

mới, với nhiều điều lãng mạn trong tình yêu, nhiều điều tốt đẹp mặc dù hiện

thực đời sống khi ấy đầy những khó khăn, gian khổ nhưng giờ đây, nhà văn

đã nhận ra và phản ánh vào trong tác phẩm những mảng hiện thực nhiều điều

buồn, nhiều chuyện đau lòng, nhiều cái trớ trêu… Con người sao giờ lắm kiểu

dạng, lắm mưu mô mà cũng nhiều bất hạnh đến thế?. Cái giọng kể vui tươi,

29

hóm hỉnh, tràn đầy niềm yêu đời, lạc quan giờ bổ sung thêm với một giọng

điềm đạm, kìm nén, ẩn chứa nhiều băn khoăn, day dứt.

Từ quan niệm và cách nhìn nhận về con người, như vậy Hồ Thủy Giang

hay đề cập đến sự tác động của hoàn cảnh đối với việc hình thành và thay đổi

nhân cách của con người. Đặc biệt ông rất quan tâm đến loại nhân vật là phụ

nữ. Những nhân vật nữ trong các tác phẩm của ông rất phong phú, mỗi người

một vẻ, một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau. Ví dụ như: Một người vợ

vốn nết na, chung thủy vậy mà khi bị mất nhà đã dễ dàng bán đi cả nhân

phẩm của mình (Tro tàn); cô Xuyến từ một học sinh ngoan, học giỏi vậy mà

chỉ vì những lời phê tàn nhẫn trong quyển Học Bạ mà đã bỏ học rồi trở thành

một cô gái giang hồ và sau cùng là phải nhận lấy cái chết đau đớn, nhục nhã,

khốn khổ (Quyển học bạ); cô Đào (Thiên truyện cổ) một phụ nữ không may

mắn trải qua ba đời chồng và những người chồng đó của cô đã lần lượt ra đi

với cái chết oan uổng, dân làng dị nghị và cho rằng cô “hắc tinh chồng”, “sát

chồng” và là “yêu tinh” của làng. Cô đã chạy trốn vào trong rừng sống cùng

với cỏ cây, rắn độc và đã chết đầy oan uổng, cô độc ở chốn rừng sâu…Từ

những nhân vật đó, nhà văn như muốn gửi tới thông điệp với tất cả mọi

người: Đừng để cho hoàn cảnh làm thay đổi đến nhân cách con người, đừng

để hoàn cảnh quyết định đến số phận của con người. Và mọi người đừng đổ

lỗi cho hoàn cảnh mà hãy tự nhìn nhận lại mình, dù gặp bất hạnh, trắc trở thì

con người hãy cố gắng vươn lên làm chủ và chiến thắng hoàn cảnh đó mới là

điều đáng quý trong cuộc sống hôm nay.

Bằng những tác phẩm văn chương của mình, Hồ Thủy Giang cũng như

nhiều nhà văn khác đã cố gắng góp phần vào việc thức tỉnh lương tri con

người, để giúp họ vươn lên chính mình, vượt qua hoàn cảnh để vươn tới cái

chân – thiện – mỹ trong cuộc sống. Chính vì vậy, tìm hiểu về quan niệm về

việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn chương của nhà văn

30

Hồ Thủy Giang sẽ giúp cho chúng ta hiểu đúng và sâu sắc hơn về những điều,

những giá trị về (nội dung và nghệ thuật) trong các sáng tác của nhà văn tiêu

biểu của tỉnh Thái Nguyên này.

Tiểu kết

Qua việc phác họa về tình hình và đặc điểm của văn xuôi Thái Nguyên

trong hơn nửa thế kỉ qua đã cho chúng ta thấy: Thái Nguyên là một tỉnh trung

du và miền núi, đã từng là thủ đô kháng chiến, là trung tâm kinh tế - văn hóa -

xã hội của cả khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là một

tỉnh có nhiều cây bút văn xuôi nổi tiếng của khu vực, có nhiều đóng góp cho

đời sống văn chương của vùng, của đất nước. Trong các cây bút văn xuôi đó

có nhà văn Hồ Thủy Giang – một nhà văn đã gắn bó cả cuộc đời với Thái

Nguyên, một nhà văn có số lượng tác phẩm vào loại nhiều nhất và đạt nhiều

giải thưởng cao.Với quan niệm đổi mới về việc phản ánh cuộc sống, con

người và hiện thực xã hội vào văn chương – tác giả Hồ Thủy Giang đã tạo

cho mình một vị trí xứng đáng trong đời sống văn chương của Thái Nguyên

cũng như khu vực miền núi trong suốt hơn 30 năm từ bắt đầu thời kì Đổi Mới

cho tới nay.

31

CHƯƠNG II. NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI

HỒ THỦY GIANG - MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

2.1.1. Khái niệm “Nhân vật ” trong sáng tác văn học

Hình tượng nhân vật hay nhân vật trong một tác phẩm, đóng một vai

trò rất quan trọng, nó là cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc

(thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được

nhà văn thể hiện). Trong nghiên cứu văn học, nhân vật là: “phương tiện cơ

bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng” [6,126]. Nhân

vật “thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về

con người” [24,236]. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một

thế giới riêng của đời sống và có chức năng khái quát những tính cách, hiện

thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây

dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà

văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác

phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra

những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn

thể hiện. Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là

những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được

khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả.

Nói đến nhân vật văn học là còn nói đến việc con người được miêu tả, thể

hiện trong tác phẩm bằng ngôn ngữ. Đó có thể là những nhân vật có có tuổi

hoặc là những nhân vật không có tên tuổi rõ ràng. Nhân vật vừa là một yếu tố

phụ thuộc, nó là một loại kí hiệu đặc biệt, là thành phần của cốt truyện, thúc

đẩy cốt truyện phát triển, là chủ thể của hành động, mang ý nghĩa nhất định -

mặt khác, nhân vật là một yếu tố độc lập, không phụ thuộc cốt truyện, xuất

32

hiện như một nhân cách mang phẩm chất ổn định, vững bền. Có thể thấy,

trong tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là hình thức cơ bản

của văn học để qua đó con người và muôn loài được miêu tả một cách hình

tượng. Khác nhân vật trong hội họa, điêu khắc, nhân vật văn học thường bộc

lộ tính cách trong “hành động” và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Qua ngôn

ngữ trần thuật (kể và tả của tác giả); qua ngôn ngữ nhân vật (gồm độc thoại và

đối thoại) mà hiện thực đời sống con người, xã hội hiện lên như thật, khiến

cho người đọc có thể hình dung một cách rõ nét và cụ thể.

Tóm lại: “Nhân vật văn học chính là hình ảnh con người được thể hiện

bằng phương tiện ngôn ngữ trong tác phẩm. Và nội dung của văn học nằm

trong sự thể hiện hoạt động của nhân vật” [1,13].

2.1.2. Vài nét khái quát về nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam thời

kỳ hiện đại

Văn xuôi Việt Nam sau năm 1945 tới nay đã xuất hiện nhiều thế hệ

nhà văn viết về đề tài người phụ nữ. Nếu như trước đây, văn xuôi viết về phụ

nữ thường là theo hướng ngợi ca hay phê phán từ cái nhìn đạo đức, bởi nhà

văn đã xây dựng các nhân vật nữ để chuyển tải một quan niệm, tư tưởng nhận

định nào đó của xã hội thì trong văn xuôi thời kỳ Đổi Mới, việc xem phụ nữ

như một khách thể thẩm mỹ độc lập, như một thế giới riêng đầy bí ẩn và hấp

dẫn cần được khám phá và lý giải đã như thành một “trào lưu”. Theo PGS. TS

Trần Thị Việt Trung trong công trình “Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn

xuôi Việt Nam hiện đại”, cho rằng: Vẻ đẹp người phụ nữ là sự biểu hiện hài

hòa giữa vẻ đẹp của sự dịu dàng, duyên dáng với vẻ đẹp của trí tuệ, sức mạnh

của lòng nhân ái và đức vị tha nhưng đồng thời cũng là những nỗi buồn đau,

những bất hạnh trong cuộc đời đầy phức tạp, đầy thách thức. Những hình

tượng ấy đem lại sự thành công cho các tác giả và để lại ấn tượng cho người

đọc nên xuất hiện hàng trăm bài nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam

33

những tác phẩm mà trong đó nhân vật nữ là nhân vật trung tâm, nhân vật điển

hình. Ví dụ như trong các tác phẩm: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Sóng gầm

(Nguyên Hồng ), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Mùa lạc (Nguyễn Khải), Mẫn và

Tôi (Phan Tứ), Hòn Đất (Anh Đức), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh

Châu), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi)….Có thể nói, chưa bao giờ người

phụ nữ lại dành được sự quan tâm lớn của đông đảo người cầm bút như hôm

nay. Thậm chí, qua tên tác phẩm ta cũng phần nào thấy được thế giới phụ nữ

qua cái nhìn của các nhà văn hôm nay đa dạng và đa sự đến nhường nào:

Người đàn bà trên đảo (Hồ Anh Thái); Người đàn bà trên bãi tắm (Dương

Hướng); Những người đàn bà bên sông (Thùy Dương); Thời thiếu nữ (Cẩm

La); Mẹ già, Gái có con (Ma Văn Kháng); Hồn trinh nữ, Góa phụ đen (Võ

Thị Hảo), Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Người đàn bà và những

giấc mơ, Người đàn bà có ma lực, Người đàn bà đứng trước gương (Y

Ban); Người đàn bà tóc trắng (Nguyễn Quang Thiều); Thiếu phụ chưa

chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Tập yêu chồng (Phạm Thái Lê), Người đàn

bà tên Hạ (Thùy Dương),... Chỉ điểm qua tên một số tác giả, tác phẩm tiêu

biểu trên ta cũng có thể thấy rằng: Người phụ nữ là nhân vật nổi bật trong văn

xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại và trong thời kì Đổi Mới. Đặc biệt có nhiều

tác phẩm văn học sau Đổi Mới cũng đã lấy nguồn cảm hứng từ những người

phụ nữ với những số phận, những mảnh đời khác nhau. Qua mỗi tác phẩm,

viết về phụ nữ, rất nhiều các tác giả đều muốn gửi vào đó một triết lí nhân

sinh về người phụ nữ, là vấn đề phụ nữ. Ví dụ: Nguyễn Minh Châu là một nhà

văn rất hay lấy nguồn cảm hứng từ những người phụ nữ. Ví dụ như nhân vật:

Hạnh (Bên đường chiến tranh), nhân vật Thai, Huệ (Cỏ lau), nhân vật Quỳ

(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành)…Đó là những người đàn bà có thể

cùng một lúc có nhiều mối quan hệ tình cảm khác nhau, mà quan hệ nào cũng

chân thành, cũng chính đáng cả: “Họ đem lại cho ta một xúc cảm thẩm mỹ

34

mới, xúc cảm có được khi con người tự khám phá ra chính bản thân mình,

hơn là đem lại một ý niệm đạo đức. Có thể gọi người phụ nữ theo quan niệm

của Nguyễn Minh Châu là con người đa đoan. Từ “đa đoan” không mang ý

niệm đạo đức và nó tiếp cận sâu hơn đến tâm tính của phái yếu. “Đa đoan”

chính là từ mà Nguyễn Minh Châu dùng để gọi đặc điểm của con người trong

văn học đổi mới (theo ông, cuộc đời thì “đa sự” mà con người thì “đa đoan”

[29, 38]. Dường như nhà văn đã “tiên cảm” đượ số phận những người phụ nữ

sau chiến tranh nên đã nhìn nhận và xây dựng nhân vật nữ với cái nhìn đa

diện, đa chiều hơn trong cuộc sống.

Ở nước ta, ngay trong thời kỳ hiện đại những tư tưởng “Trọng nam

khinh nữ”, một tàn dư của chế độ phong kiến vẫn tồn tại dai dẳng trong tâm

thức nhiều người. Do đó sự “lên ngôi” của người phụ nữ trong văn xuôi thời

kì hiện đại như là một kết quả hợp lý và là sự gặp gỡ, sự nỗ lực đổi mới của

nhà văn và hiện thực cuộc sống đất nước ta sau chiến tranh và nhất là khi

bước sang thời “mở cửa”. Tóm lại có thể nhận thấy: Nhân vật nữ đã thật sự

trở thành một kiểu nhân vật trung tâm của nền văn xuôi Việt Nam thời kì hiện

đại. Thông qua các nhân vật nữ với các số phận khác nhau, hoàn cảnh khác

nhau, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong các tác phẩm của các nhà

văn hiện đại, người đọc có thể hình dung ra cả một quá trình lịch sử của dân

tộc Việt Nam từ thời kì đen tối nhất dưới ách thống trị của thực dân phong

kiến đến những năm chiến tranh những năm kháng chiến gian khổ, đầy sự hy

sinh nhưng anh dũng kiên cường và giành lại độc lại độc lập cũng như nhũng

năm tháng vặn mình đầy đau đớn nhưng kiên quyết mãnh liệt theo con đường

Đổi Mới. Nên có thể khẳng định số phận của người phụ nữ gắn chặt với số

phận của dân tộc. Việc phản ánh, xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong các

tác phẩm với một thái độ trân trọng, yêu thương, ngợi ca và khẳng định các

tác giả văn xuôi Việt Nam thời kì hiện đại là một việc làm mang đầy ý nghĩa.

35

Dưới ngòi bút của họ, thế giới nhân vật nữ được thể hiện lên một cách sống

động với những nét tính cách, suy nghĩ, nỗi niềm, day dứt, giằng xé, những

mâu thuẫn đan xen, những cung bậc tỉnh cảm, những cảm giác, những cách

ứng xử, hành động…rất khác nhau. Qua các tác phẩm văn xuôi Việt Nam

hiện đại của một số nhà văn tiêu biểu, chúng ta thấy rõ hình tượng nổi bật về

nhân vật người phụ nữ Việt nam. Đó là người phụ nữ vừa có vẻ đẹp truyền

thống, vừa có vẻ đẹp hiện đại. Họ chính là những người đại diện cho vẻ đẹp

của nền văn hóa Việt Nam, cho bản lĩnh Việt Nam, cho những truyền thống

quý báu của dân tộc Việt nam nhưng đồng thời cũng đại diện cho những nỗi

niềm, cho những đớn đau…của con người cá nhân thời kỳ hiện đại và hội

nhập. Do vậy, chúng ta cần một thái độ vừa yêu thương, vừa trân trọng, vừa

phê phán, vừa ngợi ca, khẳng định – với một bút pháp nghệ thuật sinh động,

đầy sáng tạo - các nhà văn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại đã khẳng định

tài năng và phong cách nghệ thuật, đã khẳng định được giá trị hiện thực sâu

sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong các sáng tác của mình. “Họ đã có những

đóng góp đáng kể vào việc góp phần khắc họa chân dung con người Việt Nam

vào trong đời sống văn học nước nhà, góp phần tạo nên sự đa dạng, sự phong

phú của diện mạo nền Văn học Việt Nam hiện đại và góp phần thúc đẩy quá

trình văn học nước nhà phát triển theo hướng hiện đại hóa” [44,192]. Theo

dòng chảy của lich sử văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ vẫn xuyên

suốt trong các tác phẩm của các nhà văn thuộc các thế hệ nối tiếp nhau. Trong

thời chiến cũng như trong thời bình, người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở

nhiều vị trí trong cuộc đời đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong nền văn học

hiện đại, với những phẩm chất tốt đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt

nam, những cung bậc cảm xúc phức tạp, những trăn trở cuộc đời, họ đã đến

và để lại trong lòng độc giả những ấn tượng thật đậm nét, khó phai mờ. Bên

cạnh đó, cuộc đời của người phụ nữ với bao sự bất công, chịu bao đắng cay,

36

tủi nhục, bao bệnh tật và bất hạnh…từ xưa tới nay, nhất là trong thời kỳ hiện

đại và Hội nhập quốc tế, với bao thuận lợi, bao thách thức, bao khó khăn,

phức tạp của cuộc sống của thời cơ chế thị trường…cũng đã được các nhà văn

đưa vào tác phẩm của mình. Trong một loạt các sáng tác của các nhà văn sau

Đổi Mới, đặc biệt là các nhà văn nữ như: Trần Thị Trường, Phạm Thị Hoài,

Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hà Thị Cẩm Anh, Võ Thị

Hảo, Đào Minh Phượng….thì hình tượng người phụ nữ với tư cách “con

người cá nhân” đã được miêu tả, khắc họa khá rõ nét và sinh động.

Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, với các quan niệm khác nhau của

các thế hệ nhà văn khi nhìn nhận về vai trò, vị trí của người phụ nữ nên đã có

những thủ pháp nghệ thuật khác nhau khi xây dựng nhân vật người phụ nữ

trong các tác phẩm của mình. Nhưng có thể khẳng định rằng: Nhân vật nữ

luôn là một hình tượng nghệ thuật lớn, một loại nhân vật trung tâm trong các

sáng tác của các nhà văn Việt Nam thời kỳ hiện đại.

2.2. Một số đặc điểm về nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang

Khảo sát qua 6 Tập truyện ngắn của Hồ Thủy Giang với 155 truyện, và

bốn cuốn tiểu thuyết của ông, chúng tôi thấy, có hơn 80 % số truyện viết về

người phụ nữ, trong đó có hơn 50% truyện có nhân vật chính là phụ nữ. Ví dụ

như các nhân vật: Cô ngàn (Ngàn làm máy); Cô Hiền (Cô bánh xích); Nữ tỉ

phú (Nỗi ám ảnh của một nữ tỉ phú); Chị Khuất Thị Đanh, Hoài Thơm

(Phiên tòa); cô Hồng Ánh (Tấm bia mộ khắc đời); Cô thư ký (Bông hoa cô

đơn), cô Oanh (Sân ga), cô Miên (Lúc ấy biển hoàng hôn); cô Hương (Cô

bưu điện gốc trám), cô Đàn (Chuyện của thầy giáo Sơn), Chị Thúy (Nỗi

buồn hãy tan đi), cô Hương (Cô gái bên cửa sổ), cô Phương Lan (Điện

hoa), Chị Hạnh (Chị Hạnh ơi), Chị Quỳnh Mai (Bóng thời gian), cô Phương

(Những kiệt tác), cô giáo Hồng (Chuyện về hoa mộc miên) cô Đào (Thiên

truyện cổ), cô Châu (Sao xanh), cô Quyên (Người đẹp thường nhiều bí ẩn),

37

Người mẹ (Cây trứng gà bất tử), em Xuyến (Quyển học bạ), cô bé Kim

(Kim), em Dinh (Xin việc); cô Thục Linh (Cõi nhân tình), cô Sâm, Nhung

(Tàu đêm); cô Nguyệt, Mai (Những phương trời lá rụng)…Ngoài các nhân

vật chính là nữ, còn có nhiều nhân vật nữ xuất hiện với tư cách là các nhân

vật phụ, nhân vật “làm nền” cho các nhân vật chính khác, nhưng cũng được

tác giả dành nhiều cảm tình khi khắc họa hình ảnh như các nhân vật: Slao,

Ngọc Tiêm (Tể tướng Lưu Nhân Chú); Mơ, Suối, Tâm (Mắt rừng); Thắm,

Liễu, Lan, Mơ, Sâm, tuyết, bà Tâm (Con đường cát bụi); Sao, Tâm, La,

Mận, Mỵ (Những người mở đường)…Thông qua việc khảo sát trên chúng

tôi thấy, các nhân vật nữ đã trở thành hình tượng tiêu biểu trong sáng tác của

ông với đặc điểm nổi bật là: Họ là những người phụ nữ với vẻ đẹp tự tin,

mạnh mẽ, tràn đầy sức sống và nghị lực sống trong gia đình và xã hội. Cụ thể

hơn, đó là những người phụ nữ lao động vùng trung du và miền núi với vẻ

đẹp khỏe mạnh, có sức sống mãnh liệt, bản lĩnh, tự tin, dũng cảm vượt qua

mọi rào cản của gia đình và xã hội, vươn lên làm chủ cuộc đời và tương lai

của mình; đồng thời họ cũng là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, số

phận bất hạnh được hiện lên như một nỗi “ám ảnh” trong văn xuôi Hồ Thủy

Giang. Cụ thể đó là những người phụ nữ bất hạnh trong cuộc sống đầy khó

khăn, thách thức và bất trắc trong thời cơ chế thị trường; bất hạnh trong tình

yêu đôi lứa, trong gia đình, trong xã hội và trong nỗi cô đơn của chính mình.

2.2.1. Những người phụ nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và mạnh mẽ

Trong các sáng tác của Hồ Thủy Giang, những nhân vật phụ nữ xuất

hiện một cách khá đậm đặc. Họ trở thành nhân vật trung tâm trong nhiều tác

phẩm của nhà văn. Ở họ, nổi bật lên là hình ảnh những người phụ nữ trung du

và miền núi khỏe mạnh, duyên dáng, đôn hậu, tự tin và mạnh mẽ. Họ như

những điểm sáng trong các tác phẩm của nhà văn và sức hút đối với bạn đọc.

Họ là những cô gái trẻ trung, xinh đẹp và khỏe khoắn, luôn tự tin và chủ động

38

trong cuộc sống gia đình và trong xã hội. Ở họ luôn toát lên một vẻ đẹp

vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại. Họ rất đảm đang,

tháo vát, chịu thương, chịu khó, luôn cố gắng vượt qua mọi hoàn cảnh khó

khăn, phức tạp trong cuộc sống để làm tròn thiên chức của một người con,

người vợ, người mẹ trong gia đình, và là một người cán bộ, công chức,

công nhân trong xã hội.

Bước vào thời kì Đổi Mới, hội nhập “và mở cửa”, toàn dân tộc đều

hăng say lao động, sáng tạo, xây dựng đất nước. Những người phụ nữ mới,

với vẻ đẹp khỏe khoắn tràn đầy sức sống, họ đã tham gia nhiệt tình vào tất cả

các lĩnh vực trong cuộc sống để góp phần xây dựng cho quê hương đất nước.

Họ chính là những cô gái mới, trẻ, đẹp, luôn yêu công việc của mình, lao

động tích cực, sáng tạo, biết áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại để hoàn thành

những công việc được giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất như nhân vật

nữ: Cô Ngàn (Ngàn làm máy) và cô Hiền (Cô bánh xích). Các cô là những

người phụ nữ khỏe khoắn, chăm chỉ, biết lái máy cày trong sản xuất nông

nghiệp; là công nhân của các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ…Họ còn là những

cô gái người dân tộc thiểu số chân chất, thật thà, luôn cố gắng nỗ lực, phấn

đấu vươn lên trong công việc làm ăn, trong kinh doanh, trở thành nhà Doanh

nghiệp uy tín, giàu có - như nhân vật Eng Nhình ngày xưa mặc áo chàm, chít

khăn mỏ quạ giờ đã trở thành bà chủ: “Eng Nhình thì đã trút khỏi đầu mọi

chuyện kể từ ngày lấy được chồng giàu, trở thành bà chủ của một cửa hiệu

điện tử lớn nhất vùng” [12,13] ; hoặc trở thành “bà Hiệu trưởng”của trường

Phổ Thông rất đáng tự hào: “giờ trở thành bà Ánh Sao hiệu trưởng một

trường cấp 3 của huyện, là một vị phu nhân của phó chủ tịch tỉnh” [12,14]

(Trên trời mây trắng như bông). Họ là những cán bộ, công chức mẫn cán,

làm việc say mê, sáng tạo, đạt hiệu quả cao và luôn để lại một ấn tượng đẹp

trong con mắt của mọi người. Với một lòng thủy chung trong tình yêu, niềm

39

say mê trong công việc, cô Hương (Cô bưu điện gốc trám) sau bao thời gian

sống nới rừng núi hẻo lánh cùng với cái Chi nhánh Bưu điện nhỏ bé nhưng cô

không cảm thấy nản vì công việc, không buồn khi xa người yêu, tất cả tập

trung để hoàn thành tốt công việc thường ngày: “Ngày ngày Hương vẫn đánh

đi những bức điện báo, nhận bưu phẩm,bán tem …”[9, 95]. Họ là những cô

giáo ngày đêm tận tụy với nghề, yêu thương, chia sẻ và tôn trọng học trò, luôn

giang tay ra để nâng đỡ, cứu vớt học trò khi trò gặp khó khăn, hoạn nạn hoặc

lầm lỗi do thiếu suy nghĩ, bột phát…như nhân vật cô giáo Hà trong truyện

ngắn Hoa phượng. Nhờ vào tấm lòng nhân hậu, tin tưởng chứa đầy tình yêu

thương, cùng với biện pháp giáo dục đúng đắn của cô giáo Hà đã cảm hóa

được một con người tiêu cực như em Hiến. Bằng cử chỉ, hành động đầy yêu

thương ấy của cô khiến cho Hiến suy nghĩ, nhận ra mình sai và quyết sửa

chữa khuyết điểm, để sau này khi trưởng thành và thành đạt đã luôn biết ơn cô

giáo Hà rất nhiều. Đây là lá thư đầy tình cảm mà cô Hà gửi cho Hiến: “Hiến

thân mến! Vì mắc nhiều việc nên về nghỉ hè mà cô không đến gặp em được.

Dịp hè này, cô đã nhờ Lan giúp em học thêm về môn toán. Cô mong em học

tốt. Cô tặng em tấm bưu ảnh “Hoa phượng” này và chúc em luôn tươi vui

như phượng vĩ ngày hè” [9,218]. Qua việc làm đúng đắn, với sự yêu thương

chân thành mà cô Hà cho chúng ta biết rằng “con người ta chỉ có thể lớn lên

bằng tình yêu thương chứ không phải bằng roi vọt”. Đồng thời, họ còn là

những người mẹ đảm đang, tháo vát, nuôi dưỡng con cái nên người với các

bài học về tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng nhân hậu - như một nhân vật

người mẹ trong truyện ngắn Cây trứng gà bất tử. Nhân vật người mẹ đã rất ý

nhị dạy cho các con của mình về “phép tính chia” đầu tiên mà mình học được

từ thầy giáo. Người mẹ cho rằng: “Trong bốn phép tính...phép tính nào cũng

cần thiết cả, nhưng phép tính chia là khó nhất... Có người rất giỏi toán nhưng

lớn lên họ vẫn không làm nổi phép tính chia thông thường” và “chính phép

40

tính chia chứ không phải phép tính cộng hoặc phép tính nhân đã làm cho con

người ta trở nên vĩ đại” [11,104]. Ở đây, phép tính chia không còn có ý nghĩa

toán học nữa mà là một phép tính trong trái tim con người: Hãy biết chia khổ

đau, chia bất hạnh, chia cả niềm vui hạnh phúc, chia miếng cơm manh áo,

chia sự cảm thông đối với những người thương yêu nhất và những người xung

quanh. Qua một câu chuyện đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đó, chúng ta hãy biết

yêu thương, sẻ chia yêu thương đến mọi người thì sẽ luôn được hạnh phúc.

Người mẹ chính là hiện thân cho một vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của tình yêu

thương, của sự sẻ chia khó khăn, vất vả, của sự hy sinh vì người khác. Đây

còn lời nhắn gửi, một thông điệp đầy ý nghĩa nhân sinh mà nhà văn Hồ Thủy

Giang muốn gửi đến độc giả qua câu chuyện nhỏ này.

Họ còn là những người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, bản lĩnh, vượt lên

mọi nỗi đau, nỗi bất hạnh của mình (khi bị mắc bệnh nặng, bệnh hiểm

nghèo nhưng vẫn phấn đấu học tập, làm việc và yêu cuộc sống, có khát

vọng cống hiến cho cộng đồng, xã hội); ví dụ như nhân vật: cô Hạnh

(Hạnh ơi); cô Phương Lan (Điện hoa); cô Quyên (Người đẹp thường

nhiều bí ẩn)...Trong truyện ngắn Chị Hạnh ơi, Hạnh khi biết mình mắc

chất độc màu da cam, biết không sống bao lâu, thay vì buồn phiền, than

trách số phận, cô vẫn luôn sống vui vẻ làm việc và bầu bạn cùng với con

Vẹt. Trước khi mất, cô thả con Vẹt được tự do về rừng xanh. Phương Lan

(Điện hoa) đó là một sinh viên Ngoại ngữ tốt nghiệp Đại học loại ưu,

nhưng người phụ nữ xinh đẹp này lại mắc bệnh tim mạch nên cô quyết định

sống tự lập, không lấy chồng. Cô đã sống mà không đau khổ khi biết mình

mắc trọng bệnh. Cô đã phấn đấu học tập tốt, ra trường sống tự lập và trở

thành một giáo viên dạy Anh ngữ giỏi: “Phương Lan dạy giỏi, tính tình lại

nhã nhặn, nên càng ngày lớp học càng có tiếng tăm. Vì vậy cuộc sống của

cô không đến nỗi quá buồn”[12, 112]. Khi bị mọi người có cái nhìn soi mói

41

và lời dèm pha: “Sau lưng cô, những kẻ thiếu thiện tâm thường mang cái

tuổi ba mươi lăm mà vẫn phòng không của cô để đàm tiếu” [12, 113], cô

cũng không buồn vì:“cô đã tự chọn cho mình một con đường

riêng”[12,113 ]. Cô luôn tự tin bản thân mình thể vượt qua mọi khó khăn,

mọi thử thách, tự lựa chọn cho mình cuộc sống đúng khả năng, đúng với

hoàn cảnh của mình. Chìa khóa để cho nhân vật Lan có được sự tự tin đó,

chính là lòng tự trọng, sự hiểu biết, ý thức về bản thân, về tương lai của

chính mình.

Họ còn là những người phụ nữ luôn có ý thức về vẻ đẹp phụ nữ của

mình, đó là những người luôn biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác.

Trong truyện ngắn Người đẹp thường nhiều bí ẩn, Quyên là người phụ nữ

rất khác người vì cô luôn có ý thức giữ gìn sắc đẹp, dung dưỡng bản thân. Khi

cô mắc bệnh ung thư, chồng với gia đình khuyên cô đi chữa trị nhưng cô từ

chối, chấp nhận số phận, sống vui vẻ cùng bạn bè trong những ngày cuối đời.

Cô không đau khổ hay nuối tiếc khi mình ra đi, bỏ lại chồng và bạn bè. Đến

khi mất, mọi người đọc cuốn nhật kí cô và đã hiểu tại sao cô lại không đi chữa

bệnh. Đó là vì :“ Chắc mọi người cho mình là kẻ kì quặc lắm. Nhưng mình chỉ

nghĩ đơn giản rằng: Đã là phụ nữ cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời

vẫn phải đẹp. Điều đó còn quan trọng gấp lần nghìn việc kéo dài sự sống

thêm vài năm.Mình không thể chịu nổi những vết sẹo dài, sần sùi trên cơ thể

mịn màng của mình, càng không thể chịu nổi cái đầu trọc lóc khi nhiễm phải

cái thứ hóa chất đáng sợ ấy. Không! Mình cần phải đẹp cho đến tận lúc nhắm

mắt xuôi tay” [13,23].

Trong tình yêu đôi lứa thời hiện đại những người phụ nữ mới đã chủ

động đến với tình yêu và bảo vệ tình yêu, họ đã chủ động nắm lấy hạnh phúc

và tương lai của chính mình. Nhân vật Châu trong Sao Xanh là một cô gái có

cá tính, mạnh mẽ, đầy nghị lực. Cô rất chủ động trong học tập, trong sự

42

nghiệp và trong cả tình yêu: “Cô bảo với anh rằng, không phải bây giờ cô

mới yêu anh mà ngay từ lần đầu gặp anh, cô đã mang hình ảnh anh trong tim

rồi ” [13, 8]. Nhân vật Hồng Ánh (Tấm bia mộ khắc đời) là một cô gái

mạnh mẽ, luôn khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Chính vì thế, khi

bị tai nạn sang “thế giới bên kia”, cô vẫn cứ dũng cảm vượt qua bao nhiêu

cánh cửa địa ngục đến với người cô yêu. Trong khung cảnh nhập nhoạng, mờ

ảo ấy - cô đã có được một khoảnh khắc hạnh phúc để thỏa mãn khao khát của

mình. Nhân vật Mơ (Mắt rừng) là cô gái năng động, mãnh liệt, quyết đoán và

rất cá tính. Cô mạnh dạn trao đổi thẳng thắn suy nghĩ và khao khát có cuộc

sống gia đình với người yêu: “Chúng ta cần có một mái nhà, những đứa con

cùng với cuộc sống bình thường” [15, 35]. Hay trong một trường hợp khác, vì

tình yêu và hạnh phúc của cá nhân mình,mà hai cô gái cùng yêu say đắm một

người, dẫn đến tranh giành, trở thành đối thủ của nhau như hai cô gái trong

Phục Thù. Hai cô gái cùng xinh đẹp, cùng yêu say đắm một người, nhưng

nhan sắc một người nhỉnh hơn một chút đã trở thành người thắng cuộc.

Ngày cưới của cô này cũng là “đám tang tinh thần” của cô kia. Cô gái thua

cuộc, không dự lễ cưới mà cô khắc sâu hai chữ “ Phục thù” vào trái tim và

sự phục thù của người đàn bà thật “đáng sợ”, đó là việc cô đã quyết tâm tập

thể dục thẩm mỹ một cách tích cực, đều đặn. Đến khi tuổi thanh xuân trôi

đi, cô gái lấy được chồng kia, trên khuôn mặt xuất hiện lốm đốm tàn nhang

và chai sạn vì sương gió, còn cô gái đã từng thất bại kia thì nhan sắc trở

nên tươi đẹp, khỏe mạnh và tràn đầy năng lượng. Khi cô thăm lại người

đàn ông phụ tình để “trả thù”, thì anh ta đã choáng váng khi thấy cô: “Như

con công rực rỡ, còn vợ mình như gà mái già nua – nên đã tiếc nuối khiến

cô bật cười như muốn nói rằng: Anh đã thấy chưa? Đã thấy tôi là thế nào

chưa? Thế mà ngày ấy anh chọn nó chứ không chọn tôi. Đại ngu. Bây giờ

thì cứ việc rỏ rãi ra nhé ”[11, 68].

43

Họ còn là các nữ sinh viên vượt lên mọi gian khó vì hoàn cảnh gia đình

để phấn đấu học giỏi, được đi báo cáo điển hình vì thành tích là “tấm gương

vượt khó” vươn lên….Khác hẳn với nhân vật cô Mị (trong truyện Vợ chồng

A Phủ) phải đi “làm dâu” trong tủi nhục, đắng cay vì món nợ của bố mẹ đối

với nhà thống Lý Pá Tra – Cô Thắm trong truyện “Con đường cát bụi” cho

dù bị mồ côi mẹ từ nhỏ, bố ốm đau bệnh tật quanh năm, khi đi học Đại học

phải tự lo kiếm tiền ăn học, nhưng Thắm đã ý thức được hoàn cảnh khó khăn

của mình, nên đã cố gắng hết mình và học rất giỏi, được Trường cử đi tham

dự Đại hội Thanh niên xuất sắc của tỉnh. Điều đó khiến cho các bạn cùng lớp

phải ghen tị, trong đó có Lan - một cô gái đanh đá, luôn cậy mình là con nhà

giàu và tin mình học giỏi, không ai có thể hơn, nên khi nghe Thắm được đi

báo cáo điển hình, cô đem lòng đố kị, tức tối... Lan đã cố tình vu khống cho

Thắm tội ăn trộm tiền: “Lan quy kết Thắm, Liễu ăn trộm tiền của Lan 500

nghìn” [18, 41], bởi vì Lan lập luận là nghèo như Thắm thì chỉ có áo rách đi

học chứ đâu có tiền mà mua áo mới. Cô ta không biết rằng, cái áo mới đẹp đó

của Thắm là do chính Liễu – người học cùng quê, cùng lớp đã mua tặng

Thắm. Còn Thắm - biết hoàn cảnh của mình khó khăn, bị bạn bè xa lánh, coi

thường, nhưng cô vẫn sống tự tin, đầy bản lĩnh. Cô tự nhủ: “Đói cho sạch,

rách cho thơm” và đã cố gắng học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn đến trường

mặc áo rách vai mà không hề thấy xấu hổ. Bên cạnh sự đằm thắm, nết na thì ở

Thắm còn toát ra khí chất mạnh mẽ và bản lĩnh của một người con gái trong

sáng, trung thực, vì thế khi bị Lan gán cho tội ăn cắp tiền: “Thắm phản bác

lại : Kính thưa Thầy cùng các bạn. Nhà tôi đúng là rất nghèo. Tôi cũng không

định mua loại quần áo đắt tiền đến thế. Nhưng bạn Liễu đã động viên và cho

tôi vay tiền. Nghe bạn Lan nói như đinh đóng cột như vậy, tôi rất lấy làm

ngạc nhiên” [18,41]. Còn nhân vật Liễu - với tư cách là người bạn thân của

Thắm, đã giúp đỡ bạn và muốn bạn đẹp khi đi dự Đại hội nên cô đã làm một

44

việc rất có ý nghĩa đó là: Kiếm việc làm thêm, xin ứng tiền nhà chủ trước cho

Thắm có tiền mua quần áo mới: “Thắm là sinh viên học giỏi nhất khoa nên ít

hôm nữa đươc đi dự Đại hội thanh niên toàn tỉnh . Nhưng Thắm bạn em lại còn

nghèo hơn.Anh nhìn xem. Đến tấm áo lành bạn em cũng không có. Thắm rất

thông minh nên nhiệm vụ của nó là phải học chứ không kiếm tiền như em đâu.

Em đến là để nói khó với anh cho em ứng trước năm trăm nghìn”[18,33]. Chỉ

bằng hành động nhỏ của Liễu như vậy đã khiến cho Thắm cảm động, bởi cô

hiểu được tấm lòng và tình cảm của Liễu, hiểu được sự hy sinh của Liễu cho

mình. Thắm và Liễu là những người con gái có một vẻ đẹp đáng quý, đáng trân

trọng – vẻ đẹp của những người phụ nữ mới đầy bản lĩnh, tự tin, giàu tình cảm

và đầy nghị lực vươn lên trong cuộc sống khó khăn vất vả.

Ngay cả khi viết về hình ảnh những người phụ nữ xưa trong tiểu thuyết

lịch sử của mình, nhà văn Hồ Thủy Giang cũng rất có ý thức khắc họa vẻ đẹp

khỏe mạnh, tự nhiên, vẻ đẹp của lòng dũng cảm và tài năng của người phụ nữ

vùng trung du và miền núi. Đó là những nhân vật nữ: Slao, Ngọc Tiêm (Tể

tướng Lưu Nhân Chú); Sao, Tâm, La, Mận, Mỵ (Những người mở

đường)…Slao một cô gái tày, hiền hậu, nết na với vẻ đẹp dịu dàng, khỏe

mạnh:“Slao – cô gái có khuôn mặt tròn vành vạnh, ẩn sau chiếc khăn mỏ quạ

màu chàm” [16, 28]. Slao người con gái dân tộc thiểu số có vẻ đẹp ngây thơ,

trong sáng và khỏe mạnh. Cô đã đem lòng thầm yêu Lưu Nhân Chú, một thủ

lĩnh, một chàng trai tài giỏi, một người anh hùng - nhưng cô luôn giữ kín

trong lòng và luôn khiêm tốn trước anh. Cô thật trong sáng và đáng yêu ngay

trong cách nói truyện:“Em tên là Slao à? Slao nghĩa là người con gái đẹp.

Slao khẽ ngửa cổ, đâu lắc lắc nhẹ: Không phải mà! Slao xấu lắm nên chẳng

ai để mắt tới Slao” [16,38]. Nhưng thật “bi kịch”, bởi anh đã có vợ, nên cô

chỉ có một tình yêu đơn phương, nhưng vì một “tình yêu lớn” nên cô luôn

hướng về anh, xông pha ra mặt trận đánh giặc cùng anh: “Slao ngả rạp người

45

trên mình ngựa phi như một cơn gió”. Điều đó khiến cho Lưu Nhân Chú kinh

ngạc, thầm thốt lên: “ Chà chà ! Không hiểu điều gì đã khiến một cô gái mới

bảy, tám năm về trước còn rụt rè, run rẩy ngồi trên lưng ngựa, phía trước anh

mà nay đã hóa thành một dũng tướng như thế kia” [16, 93]. Bên cạnh sự

mạnh mẽ, giỏi như một dũng tướng nhưng ẩn phía sau lại là một người con

gái có vẻ đẹp đằm thắm, nhân hậu. Khi cô biết anh Lưu Nhân Chú lo cho gia

đình, vợ con anh nơi quê nhà, Slao đã lặng lẽ, âm thầm chia sẻ nỗi buồn, động

viên, thể hiện tình cảm như một người em gái, rất thấu hiểu anh: “Anh Chú

đừng buồn nhiều, nhất định anh Chú sẽ gặp được chị Ngọc Tiêm. Anh Chú sẽ

vui cái bụng. Slao cũng vui lắm mà” [16,159]. Để rồi vì tình yêu lớn, cô sẵn

sàng lấy cái chết của mình để bảo vệ anh: “Slao liếc nhanh thấy tên tướng

Ngô nhằm bắn Lưu Nhân Chú. Ngựa của Slao bỗng chồm lên. Slao ưỡn người

về phía mũi tên. “Phập!” mũi tên cắm vào giữa ngực. Slao gục xuống lưng

ngựa rồi ngã lăn xuống đất ” [16,166]. Sự hy sinh của Slao làm cho Lưu

Nhân Chú đớn đau, ân hận. Anh thốt lên: “Anh có lỗi với Slao!” [16,194]. Đó

là một lời xin lỗi, một tình cảm sâu sắc và biết ơn của một người anh hùng,

một dũng tướng đối với cô gái trẻ trung, dũng cảm, yêu nước, đã hy sinh vì

bảo vệ chủ tướng của mình. Bên cạnh đó, hình ảnh của nàng Ngọc Tiêm - một

người vợ tuyệt vời, một người phụ nữ đẹp, giỏi giang, đảm đang và cũng rất

giỏi cung, kiếm. Nàng luôn nhẹ nhàng, khéo léo, luôn biết chăm lo cho chồng,

thấu hiểu chồng như hiểu chính nỗi lòng của mình: “Ngọc Tiêm cứng cỏi nói:

Chàng đừng lo cho mẹ và thiếp. Để đánh đuổi bọn giặc minh thì vất vả mấy

thiếp cũng chịu được. Chàng là người mang khí phách anh hùng, khi giặc giã

phải xông phá trận mạc thì mới xứng danh chứ”[16,47]. Dù đã quen cảnh

sống trong giàu sang phú quý hơn người nhưng khi nghĩ đến đoạn đường

chông gai phía trước nàng vẫn không hề thấy e ngại. Nàng là người vợ đảm

đang, là người phụ nữ mạnh mẽ, giỏi chinh chiến và luôn sát cánh bên chồng

46

khi đánh giặc. Nàng lại rất nhân hậu, nàng đã rộng lòng lượng thứ cho bọn

cướp một con đường sống sau khi đã chinh phục được chúng. Chính hành

động của nàng làm cho bọn cướp không chỉ biết sợ mà rất tôn trọng, thán

phục, đầu hàng, nguyện làm người lương thiện và sẵn sàng gia nhập đội quân

đánh giặc của nàng: “Ngọc Tiêm vui vẻ: Được! Ta cũng mở đường hiếu sinh.

Nhưng ở đây với dân bản thì phải chịu khó làm ăn, cải tà quy chính. Khi nào

khởi binh đánh giặc Ngô, ta sẽ cần đến tái sức của các ngươi đấy” [16,78].

Qua nhân vật nữ Slao, Ngọc Tiêm cho chúng ta thấy vẻ đẹp toàn diện của

những người phụ nữ miền núi, họ rất giỏi giang, đảm đang công việc gia đình,

nhưng khi đánh giặc lại như một dũng tướng đầy gan dạ, thông minh.

Đến với tiểu thuyết Những người mở đường của Hồ Thủy Giang

chúng ta lại bắt gặp những hình ảnh những cô gái miền núi trẻ trung, hiền

lành, trong sáng nhưng rất anh dũng, dám hy sinh cả thân mình để góp phần

chuyển hàng ra chiến trường, góp phần đánh thắng giặc Mĩ xâm lược:“Một

vài khuôn mặt nữ thanh niên xung phong tròn trịa, xinh xắn nhưng bợt bạt vì

mệt. Họ bước như chạy. Những bao gạo, những bao bột mì đè lên những đôi

vai bé nhỏ. Những lưng áo đẫm mồ hội. Những bàn chân mảnh dẻ đạp lên đất

đá xào xạo”[17,25]. Hình ảnh họ thật đẹp, thật đáng kính trọng. Họ là những

người con gái của làng, bản xa xôi, yêu mến sâu sắc nên đã dũng cảm tham

gia công việc nguy hiểm nhưng vô cùng ý nghĩa trong những năm tháng đầy

vất vả, hy sinh chống Mĩ cứu nước.

Qua việc phác họa những nhân vật nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và

mạnh mẽ của nhà văn Hồ Thủy Giang, chúng ta có thể nhận thấy được một số

đặc điểm nổi bật với phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ đó là: là những cô

gái mới, trẻ, đẹp, luôn yêu công việc của mình, lao động tích cực, sáng tạo,

biết áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại để hoàn thành những công việc được

giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất; Là những cô gái người dân tộc thiểu

47

số (ở đây là dân tộc Tày), luôn cố gắng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong công

việc làm ăn, kinh doanh, trở thành nhà doanh nghiệp có uy tín, giàu có; Là

những cán bộ, công chức mẫn cán, làm việc say mê, sáng tạo, đạt hiệu quả

cao và luôn để lại một ấn tượng đẹp trong con mắt của mọi người. Họ là

những người có một lòng thủy chung trong tình yêu, niềm say mê trong công

việc; những người mẹ đảm đang, tháo vát nuôi dưỡng con cái nên người với

các bài học về tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng nhân hậu. Là những người

phụ nữ luôn có ý thức về vẻ đẹp phụ nữ của mình, những người tự trọng, luôn

tôn trọng mình và tôn trọng người khác; những nữ sinh viên vượt lên mọi gian

khó để phấn đấu học giỏi, sau này trở thành những trí thức có ích cho xã hội;

là những người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, bản lĩnh, vươn lên mọi nỗi đau,

nỗi bất hạnh của mình khi họ bị mặc bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn

phấn đấu học tập, làm việc và yêu cuộc sống, có khát vọng cống hiến cho

cộng đồng, xã hội. Ngay cả khi viết về hình ảnh những người phụ nữ xưa

trong tiểu thuyết lịch sử của mình, nhà văn Hồ Thủy Giang cũng rất có ý thức

khắc họa vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, vẻ đẹp của lòng dũng cảm và tài năng

của người phụ nữ vùng trung du và miền núi. Có thể khẳng định rằng: Nhà

văn Hồ Thủy Giang đã thành công khi phác họa hình ảnh người phụ nữ trung

du và miền núi với cả vẻ đẹp đẽ, sự tự tin và bản lĩnh trước cuộc sống đầy

thuận lợi, đầy thách thức thời kì hiện đại.

2.2.2. Những người phụ nữ có số phận bất hạnh – nỗi ám ảnh trong văn

xuôi Hồ Thủy Giang

Bên cạnh hình ảnh những người phụ nữ đẹp, khỏe mạnh, bản lĩnh, tự tin

vượt mọi khó khăn thử thách, vươn lên làm chủ cuộc đời, trong văn xuôi Hồ

Thủy Giang còn có khá nhiều nhân vật phụ nữ khác có số phận bất hạnh, có

một cuộc đời đầy sóng gió, đầy thiệt thòi, không có niềm vui và hạnh phúc

trọn vẹn. Họ là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le (cha mẹ bỏ nhau,

48

sống thiếu thốn tình cảm từ khi còn nhỏ; bị người yêu (hoặc chồng) phụ bạc;

bị bệnh nan y, sống cô đơn; bị vu oan tội “cao số giết chồng” khi những người

chồng vô tình bị chết vì rắn cắn;bị xô đẩy vào con đường tội lỗi, vào tù, ra tội;

bị điên loạn hoặc bị hại chết oan uổng….). Bao cảnh đời, bao cảnh ngộ éo le,

trớ trêu do cuộc đời xô đẩy mang lại, khiến họ phải chịu cảnh lỡ làng, cô đơn,

vất vả, khổ đau và đầy bi kịch trong cuộc sống thường ngày. Hồ Thủy Giang

đã tỏ ra rất am hiểu, thương xót, cảm thương đối với họ. Ông viết về họ - như

là một sự xẻ chia, thương cảm với những số phận không may mắn đó.

Cô Đào trước đây là một người phụ nữ đẹp nhất làng, vậy mà cô lại có

một “lý lịch tình yêu” thật buồn thảm trong chuyện Thiên truyện cổ. Cô lấy

chồng ba lần thì cả ba người chồng xấu số lại chết ngay trên cái giường tre

nghèo nàn của cô. Những “giai thoại” về cô bắt đầu nảy nở. Từ đấy dân làng

sợ và xa lánh cô, họ coi cô là người đàn bà quái dị, có tướng “sát chồng” thậm

chí họ còn cho rằng cô là yêu tinh, phù thủy, đến nỗi lũ trẻ đang chơi mà nhìn

thấy cô Đào từ xa liền trốn sạch. Định kiến và những lời nói, cử chỉ tàn nhẫn

đó của dân làng đã đẩy cô Đào phải vào khu rừng Hom Giỏ rậm rịt và đầy rắn

rết để sống. Ở đó, cô Đào cô đơn, khổ ải cả về vật chất lẫn tinh thần. Thật xót

thương thay cho cuộc đời của cô Đào, từ một người phụ nữ trẻ đẹp vậy mà

nay trở thành một bà già, gầy guộc, tóc bạc phơ, lủi thủi, cô đơn sống trong

một căn lều nhỏ rách nát với những vật dụng thô sơ như thời nguyên thủy.

Suốt mấy chục năm trôi qua vậy mà sự khắc nghiệt của cuộc đời vẫn không

chịu buông tha cô. Nhìn hình ảnh tiều tụy đáng thương của cô Đào nhà văn

thốt lên xót xa: “Mấy chục năm qua, người đời nguyền rủa cô là yêu tinh, ma

quái nhưng cho đến tận bây giờ đã có kẻ nào nhìn thấy cô ăn thịt ai. Đúng

hơn, thì chính loài người đã ăn thịt cô bằng những lời nói và cử chỉ nanh noc,

phũ phàng, để đến nỗi cô vào đường cùng như thế này” [9, 79+80]. Cô sống

trong sự ghẻ lạnh mọi người, không một ai tin cô, cô nghĩ có lẽ đến chết mình

49

không nói ra được bí mật cùng ai. Nhưng cô đã quyết định: “Lúc đầu cô định

sẽ đem theo xuống mồ tất cả mọi bí mật. Nhưng rồi cô lại nghĩ lại, nếu không

kể lại chuyện kì dị, khó tin ấy thì biết đâu sẽ có người lại phải chết hoặc sống

dở, chết dở như cô” [9, 86]. Câu chuyện từ một con rắn độc nằm trong ống tre

giường ngủ, đêm đêm nó thò đầu ra cắn chết lần lượt ba người chồng của cô,

đến khi phát hiện ra thì đã quá muộn. Nhưng câu chuyện ấy ai tin lời cô nói

và chỉ đến lúc khi chết đi, cô thấy thương cho số phận mình, thương cho một

kiếp người. Bằng tấm lòng nhân hậu, cô Đào lo cho các thế hệ người phụ nữ

sau này - nếu ai vướng hoàn cảnh như cô thì mong mọi người thấu hiểu, có

thái độ yêu thương, chia sẻ, đừng nhẫn tâm, tàn độc để tránh lặp lại một cuộc

đời bất hạnh như cô.

Chị Thúy trong truyện ngắn Nỗi buồn hãy tan đi cũng rơi vào tình

cảnh bi kịch như vậy. Chị Thúy là một phụ nữ thông minh, dịu dàng nhưng chỉ

vì định tố cáo một việc làm sai trái của cơ quan chị đang làm việc mà chị bị

chúng hại phải vào tù oan. Đến khi được ra tù, thì người chồng vốn không chung

thủy bỏ vào Nam cùng đứa con trai năm tuổi. Chị như rơi vào một cái hố sâu

không đáy, buồn chán, mất mát suy sụp nên chị đã mắc bệnh tâm thần. Trong

khu tập thể giờ đây chị trở thành “một con điên” nhiều kẻ độc ác còn gọi chị là

“con Thúy rồ”. Tác phẩm kết thúc thật buồn nhưng cũng thật “bi tráng”; trong

một đám cháy, chị Thúy lao mình vào để cứu mấy đứa trẻ đang mắc kẹt trong

đó: “Nhưng trước con mắt kinh ngạc của mọi người, chị Thúy hai tay vác hai

đứa trẻ trong đám cháy chui ra. Sau đó chị lại lao vào định cứu tiếp một em bé

nữa, bất ngờ một thanh xà trên cao rơi ngay vào người chị. Khi mọi người lôi

được chị ra, chị đã gần tắc thở” [9,231]. Câu chuyện khiến chúng ta xót, xa

thương cảm cho số phận của chị Thúy và lên án sự dửng dưng, vô cảm của

những người hàng xóm. Bằng một hành động cứu người khỏi cơn hoạn nạn của

người đàn bà “điên” này – nhà văn như thức tỉnh tình yêu thương, đùm bọc của

50

con người: con người hãy yêu thương, chia sẻ với nhau hơn; con người đừng hại

nhau, giết nhau bằng sự lạnh lùng, vô cảm.

Cô học sinh tên Mơ trong truyện ngắn Học trò cũ, là một cô học sinh khá

dễ thương nhưng từ nhỏ đã gặp cảnh bất hạnh: Mẹ mất sớm, ở với mẹ kế vài

năm sau bố cũng mất. Mơ phải bỏ học để phục dịch việc chợ búa giúp mẹ

nuôi cả gia đình. Em thật đáng thương và cũng đáng phục vì phải đi lao động

kiếm sống khi còn quá nhỏ. Vậy mà ba mươi năm sau, người thầy giáo cũ gặp

lại cô trong hoàn cảnh tù tội Lời người thầy giáo (hay cũng là lời tác giả) thốt

lên thật ngậm ngùi chua xót: “Chả lẽ cuộc sống lại có những bước ngoặt

khủng khiếp đến thế hay sao? Khoảng cách từ một cô học sinh lầm lì, ít nói

đến một cô gái làm tiền hoặc một tên trộm cắp chuyên nghiệp là bao nhiêu?

Liệu có thước đo nào đo được? Và người thầy giáo phải chịu bao nhiêu phần

trăm trách nhiệm về cái khoảng cách đáng sợ ấy” [9,279]. Con nhân vật

Luyến trong Quyển học bạ, cũng bị rơi vào hoàn cảnh đáng thương tâm. Là

một học sinh ngoan, học giỏi chỉ vì mẹ mắc bệnh phải mổ gấp mà nhà đã hết

tiền, nên Luyến đã liều lấy trộm tiền của bạn để cứu mẹ. Sự việc vỡ lở Xuyến

bị nhà trường tước quyền thi tốt nghiệp, những lời phán quyết quá khắc nghiệt

của thầy Hiệu trưởng trong quyển Học bạ đã đẩy Xuyến đến hàng loạt những

bi kịch trong cuộc sống. Cô bỏ học, mất hết lòng tin, và cho rằng nghèo khổ

sẽ làm cho con người trở nên hèn hạ, nhục nhã, cho nên cô quyết định ra đi

kiếm tiền để cái nghèo không hành hạ gia đình nữa. Cô ra đi rồi trở về nhà khi

đã ba mươi tuổi với một căn bệnh thế kỷ ở giai đoạn cuối. Những lời tâm sự

của Luyến với cha trong những ngày cuối đời nghe thật xót xa, đau đớn:

“Thực lòng con cũng không muốn trở về nhà để làm khổ thầy. Nhưng con

nghĩ về đây con còn được nằm gần u, gần thầy. Chứ chết ở nơi tha phương

con sợ lắm” [13,88]. Chỉ bằng lời nhận xét thiếu cảm thông và cay nghiệt của

người thầy đã đẩy một con người - đáng lẽ ra được hưởng cuộc sống hạnh

51

phúc như mọi người khác – nay trở thành kẻ “thân tàn ma dại”, chỉ đợi ngày

xuống mộ trong nỗi đau đớn khôn nguôi.

Trong các tác phầm: Lúc ấy biển hoàng hôn, Sân ga, Cô gái ngồi bên

cửa sổ, Bông hoa cô đơn, Xao xanh, Phiên tòa,…lại xoay quanh nỗi bất

hạnh của người phụ nữ trong tình yêu, trong hạnh phúc lứa đôi. Để có được

tình yêu đích thực của đời mình, những người phụ nữ này đã phải trả giá rất

đắt. Mỗi câu chuyện tình yêu trong truyện ngắn của Hồ Thùy Giang là một

chuyện buồn đầy đau đớn, nước mắt, máu, thậm chí cả cái chết nữa….của

người phụ nữ.

Truyện Lúc ấy biển hoàng hôn, nhân vật nữ chính tên Miên. Vì em

trai bị chất độc da cam, mẹ lại ốm yếu nên cô phải làm một nghề “tắm thuê” –

cái nghề luôn chịu những định kiến xấu của mọi người. Vậy mà, cô lại được

thầy giáo Thanh đem lòng yêu thương bằng tình yêu trong sáng, cảm động.

Tình yêu của Thanh làm cho trái tim cô hạnh phúc, yêu đời hơn và hy vọng

hơn vào một tương lai tốt đẹp hơn. Nhưng rồi, số phận không mỉm cười với

cô: Cô đã bị chết trong một lần đi “tắm thuê” cho một tên dâm đãng người

nước ngoài, hắn đã dìm chết cô chỉ vì cô không “chiều” hắn khi tắm biển:”

Khốn khổ cho con bé. Hôm ấy một thằng Tây thuê nó xuống biển hứa trả năm

mươi đô la. Ai ngờ cái thằng dâm đãng ấy định hãm hại nó dưới nước. Nó

vùng quẫy kêu cứu nhưng trong cơn điên cuồng, thằng kia dìm nó xuống biển.

Nó chết vì sặc nước. Thế mà rồi chẳng hiểu sao cuối cùng lại thông báo là

một tai nạn. Thật khổ! Chỉ vì mẹ già ốm yếu, đứa em bị nhiễm chất độc da

cam mà Miên phải đi làm cái nghề khốn nạn ấy. Cứ định dứt bỏ mà không

được” [9,70]. Cuối truyện, nhân vật Thanh (hay chính tác giả) như muốn nói

với chúng ta rằng, hãy biết thương cảm, biết sẻ chia, biết trân trọng, cho bao

kiếp người không may mắn, bất hạnh như cô gái vô tội kia. Nhân vật Sâm

(Tàu đêm) cũng như hoàn cảnh của Miên, chỉ vì khước từ hành động tán tỉnh,

52

sàm sỡ của lão Xưởng Phó nên bị lão rắp tâm cài bẫy để đuổi việc. Quá oan

ức, Sâm viết đơn gửi lên Ban thanh tra tỉnh mong được bênh vực, nhưng thật

trớ trêu, người kí tờ đơn bác bỏ lại là Thịnh - người cô yêu sâu đậm mà cô đã

chờ đợi bao nhiêu năm. Cuộc ra đi của Thịnh đã làm cho Sâm đau khổ, ốm

hàng tuần nhưng khi biết Thịnh có “quyền cao chức trọng” nay đã quên Sâm,

thì cô cũng không mảy may oan trách. Nhưng với việc: “chính Thịnh là người

kí tờ thông báo bác bỏ cái việc oan ức hai năm rõ mười của Sâm”[13, 78], thì

cô cảm thấy đau đớn, xót xa, thất vọng cho số phận của mình và thất vọng,

đau khổ về “người yêu lý tưởng” năm xưa.

Truyện ngắn Bông hoa cô đơn, là câu chuyện của một cô Thư ký xinh

đẹp, có thể nói là “tuyệt vời” trong công việc. Cô góa chồng hai mươi năm và

đã mười năm phục vụ trong quân đội, nay làm Thư ký cho vị Chủ Tịch tỉnh.

Hai người tuy không ai nói ra nhưng họ đều hiểu tình cảm họ đã dành cho

nhau: “Một bông hoa lặng lẽ xuất hiện trên bàn, một lời chào duyên dáng

buổi sáng, một nụ cười dịu dàng của cô vào những lúc anh mệt nhoài vì công

việc” [9, 6]. Một thứ tình cảm lạ kì, ngọt ngào đã nảy sinh, tuy không ai nói ra

thành lời nhưng cả hai đều hiểu và cảm nhận được. Song chỉ vì giữ tròn danh

dự và chiếc “ghế” chức quyền nên vị Chủ tịch kia không bao giờ dám công

nhận và đón nhận tình yêu từ phía cô. Họ mãi chỉ là những bông hoa “cô đơn”

với nỗi đơn côi của trái tim mình.

Trong truyện ngắn Sao xanh, nỗi cô đơn cũng đã ám ảnh Châu. Xưa

kia, Châu là một cô gái trẻ đẹp, cô dám hy sinh cả mạng sống của mình để

cứu người mình yêu, thậm chí Châu còn là một người rất mạnh mẽ dám bày

tỏ tình cảm với người mà cô thầm yêu. Có lẽ, ở cái bản này chỉ mình Châu

mới làm một việc tưởng như “trái quy luật” ấy. Khi Châu đem lòng yêu Thầy

giáo, nhưng họ không đến với nhau, cô sống trong kí ức xưa ấy tại bản nhỏ

nơi cô gặp anh, nhưng khi anh trở về thì Châu lại không lấy anh vì: “Nhưng

53

điều đó là không thể, vì Châu sống quen với kí ức tươi đẹp của mối tình đầu

đã gần trọn đời, chính nhờ những ảo ảnh, những kí ức đó mà Châu sống vô

tư, tươi vui và có ích biết bao năm. Bây giờ tuy Tùng trở lại và muốn xây

dựng lại cuộc sống với cô, nhưng Châu không thể phản bội lại cái kí ức đó”

[13, 17]. Cuối cùng cô đã chọn cách sống “cô đơn” vì theo cô: “Cô đơn cũng

là một cách sống. Nước mắt cô đơn nhiều khi lại làm cho người ta vinh quang

và hạnh phúc hơn ” [13, 18]. Có lẽ cô đơn đã trở thành một hội chứng trong

cuộc sống của những người phụ nữ thời kì hiện đại chăng?.

Trong Phiên tòa, nơi đã xảy ra cuộc tranh cãi nảy lửa của hai người phụ

nữ là Đanh và Thơm. Trong lần say rượu, người chồng bị chị Đanh đuổi ra khỏi

nhà, anh ta lang thang và bị cảm trước một ngôi nhà - mà người chủ là một cô

gái lỡ thì và anh đã được chăm sóc chu đáo. Rồi cuối cùng đã diễn ra một phiên

tòa - Chị Đanh đánh ghen, tranh cãi với chị Thơm, cho rằng Thơm đã cướp

chồng của chị. Nhưng khi tòa hỏi người chồng: Nếu chọn một trong hai người

làm vợ, anh chọn ai?. Người chồng thản nhiên trả lời: “Có hai người phụ nữ, một

người vứt tôi ra ngoài cửa, còn một người nhặt tôi vào trong nhà. Vậy, người vợ

thực sự của tôi là ai, xin trông vào sự phán xét của quý tòa”[9,203]. Câu trả lời

của người chồng đã khiến cho tất cả mọi người đều phải ngạc nhiên, bất ngờ -

nhưng đó là một sự thật, một sự lựa chọn rất hợp lí, tỉnh táo của người đàn ông.

Người đàn ông sẽ lựa chọn sống với người phụ nữ yêu thương mình, chia sẻ,

cảm thông và biết chăm sóc mình khi mệt mỏi hay thất vọng trước cuộc sống.

Còn cho dù có một người phụ nữ thật giỏi giang, nhưng không biết sẻ chia,

thương cảm thì người đàn ông cũng không lựa chọn để sống cùng một mái nhà.

Đó là một sự thật mà những người phụ nữ, người vợ thời nay phải “tỉnh ngộ”

nếu muốn gìn giữ hạnh phúc gia đình mình một cách trọn vẹn.

Những truyện ngắn: Những phương trời lá rụng, Tiếng vọng, Cô gái

ngồi bên cửa sổ, Mùa gió heo may, Những kiệt tác, Chuyện về hoa mộc

54

miên, Cỏ biếc ..là những câu chuyện xoay quanh về những thân phận người

phụ nữ với bao nỗi bất hạnh không chỉ do hoàn cảnh gia đình hay sự cô đơn,

đơn phương trong tình yêu - mà nỗi bất hạnh của người phụ nữ còn ở chính

cách suy nghĩ, lối ứng xử và sự lựa chọn hạnh phúc, tình yêu của chính họ

nữa. Trong truyện Những phương trời lá rụng, vì mang ơn của một tên

cướp như Hách Xỉa mà Mai chấp nhận làm vợ hờ của ông ta.: “y cứu mẹ con

Mai ra khỏi tai nạn lũ nước. Mai trả ân nghía cứu mạng mẹ con cô bằng cách

làm vợ hờ của Hách Xỉa” [41,75]. Mai đôn hậu, xinh đẹp như con công nhưng

bị giam hãm trong lồng, không biết có ngày nào ra khỏi chiếc lồng vô hình

đó. Tuy làm vợ hờ cho y nhưng Mai là người trọng ân tình, ân nghĩa nên khi y

bị bắn - Mai đã đỡ đạn thay cho y – đó là một sự hy sinh cao cả của một

người vợ ân nghĩa. Và còn nhân vật cô Sao (Tiếng vọng ), vốn một cô gái

sống làm người nhưng hồn lại ẩn vào thân xác cây Sao. Chính chồng cô là

người đã vô tình giết chết cô – vì cô không cho chồng biết rằng mình sống

được là nhờ vào cây Sao. Khi làm nhà cần có gỗ, chồng cô đã nói muốn chặt

cây sao xẻ làm gỗ để làm nhà: “mặt cô nhợt nhạt, biến sắc. Cô như quỳ xuống

chân anh. Đừng! Em xin anh đừng làm thế”[11, 43], nhưng người chồng,

nhân lúc cô vợ đi chợ xa, đã chặt cây sao, khi cây đổ gục thì cũng là lúc vợ

anh chết. Cây sao ấy chính là hồn vía và định mệnh của cô. Cô ra đi trong sự

ân hận tiếc nuối khôn nguôi của người chồng đã từng vô tâm, vô cảm trước

nguyện vọng của vợ. Nỗi bất hạnh của cô gái trong Mùa gió heo may cũng là

một trường hợp đáng thương cảm, xót xa: Cô là người tài và đã từng được

sống trong hạnh phúc miên mãn, nhưng chỉ thoáng cái đã hai mươi mùa gió

heo may trôi qua, lúc này chồng cô lại đem lòng yêu một người con gái khác.

Anh ta quyết định li hôn với cô để đi theo một cô gái trẻ. Điều đó khiến cô bị

trầm cảm, chỉ nghĩ đến cái chết: “Cô chợt cảm thấy như cùng một lúc có cả

hai mươi mùa gió heo may thổi xối xả vào trái tim vô vọng của mình. Cô

55

thoáng nghĩ đến cái chết”[11,36]. Tuổi thanh xuân trôi qua rất nhanh, dù

người phụ nữ đẹp đến mấy thì dung nhan cũng sẽ tàn phai theo năm tháng,

những người phụ nữ đã “kém may mắn” khi có một người chồng không

chung thủy chỉ biết tôn thờ nhan sắc. Bất hạnh nảy sinh ngay trong ngôi nhà

tưởng như êm ấm và vững chãi đó – khiến cho người phụ nữ tan nát cõi lòng.

Còn cô gái với nghề biên tập viên của một tờ báo trong tác phẩm Những kiệt

tác, thì thật là bất hạnh bởi sau khi lấy chồng không lâu thì chồng cô bị tai

nạn giao thông, bị liệt phải ngồi xe lăn. Thay vì nghĩ đến nỗi vất vả, đau khổ

của mình, cô đã luôn ý thức và luôn tránh những điều có thể gây buồn lụy cho

anh. Cô không bao giờ để anh đọc những tác phẩm mang tính bi kịch và cô

hiểu rằng chẳng bao lâu nữa anh không còn có mặt trên cõi đời này nữa. Đó là

nỗi đau vô bờ bến của một thiếu phụ còn khá trẻ như cô, nhưng đồng thời cô

cũng hiểu rằng: “con người không thể chống lại được số phận” và “điều duy

nhất mà cô có thể dâng hiến cho anh trong lúc này là phải cố nén những nỗi

đau và tạo ra tiếng cười lạc quan cho anh” [11, 81]. Nhân vật Xuân trong

Chuyện về hoa mộc miên, là một cô giáo xinh đẹp, nhưng vì lỡ dở trong tình

yêu nên không lấy chồng, không có con, rồi sau đó đã bị chết vì một căn bệnh

hiểm nghèo. Trong truyện Cỏ Biếc, bà mẹ sinh ra một người con trai xấu xí

với ngoại hình: người còng, gù, chân cong, còn bản thân bà lại hay đau ốm.

Gia cảnh như vậy con bà không ai dám lấy, bà cất công tìm vợ cho con nhưng

không ai đồng ý, bà “khao khát có được một cháu nội , nhưng có một thực tế

cay nghiệt mà ai biết: “ Mặc dù đám con gái trong làng yêu quý con trai bà

nhưng không ai đủ can đảm làm vợ anh, kể cả những cô kém nhan sắc nhất”

[12, 140]. Bà suy nghĩ, bao đêm khóc ròng, bà trách trời, trách đất nặn ra đứa

con của bà một vóc hình xấu xí không đem lại niềm vui, hạnh phúc cho gia

đình. Người phụ nữ thật sự có quá nhiều nỗi khổ đau, nhiều gánh nặng, trĩu

nặng trên vai. Họ cứ oằn lưng mà gánh, mà khổ đau dai dẳng đeo bám. Họ

56

còn là những cô gái biết chấp nhận sự hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tổ quốc.

Cô Hương (Cô gái ngồi bên cửa sổ) chấp nhận hy sinh hạnh phúc gia đình,

chịu bao nhiêu nỗi đau cho riêng mình. Cô đã tiễn chồng ra chiến trận đánh

giặc, bất chấp bao khó khăn, kể cả sự hy sinh mất mát và khi ngày sinh con ra

cũng lúc chị biết tin chồng mất trong chiến trận. Nhưng chị vẫn trấn an tinh

thần bước tiếp, một mình gánh vác gia đình, nuôi con khôn lớn. Khi ai hỏi về

chồng cô, cô nói bằng một giọng đầy tự hào nhưng ẩn sau nỗi buồn sâu kín:

“Anh ấy cũng không bao giờ về nữa...Trong trận đánh vào Sài Gòn, anh ấy

…đã…hy..sinh ”[9,245].

Còn có một số kiểu nhân vật phụ nữ khác trong tác phẩm của Hồ Thủy

Giang, đó là những người tự mình lao vào vòng xoáy cuộc đời và không có

lối thoát. Xã hội thời hiện đại với cơ chế thị trường đã góp phần đưa đẩy

những người phụ nữ ấy thành những kẻ xấu xa, biến chất tha hóa. Bọn họ

tham lam, thèm khát hưởng thụ cuộc sống vật chất nên đã bán rẻ hoặc (đánh

mất) cả lương tâm, nhân phẩm của mình…Tất cả những điều đó dẫn đến họ

rơi vào bi kịch của cuộc sống trong cả phía gia đình và ngoài xã hội. Ví dụ

như các nhân vật: Nữ tỷ phú trong tác phẩm Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú;

Dì ghẻ và cô con gái (Tình phụ tử); Dinh (Xin việc); Lan (Con đường cát

bụi); Nguyệt (Những phương trời lá rụng); Quỳnh (Bóng thời gian)... Nữ

tỷ phú (Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú) là người cô đơn, bất hạnh trong tình

cảm gia đình, mà dù đã đạt được danh vọng, tiền tài, quyền lực…Những

tưởng như cô chỉ biết đến niềm vui, hạnh phúc, nhưng ngờ đâu trong tâm hồn

cô lại luôn phải đối diện với nỗi cô đơn đau khổ. Đó là nỗi cô đơn của một cô

gái khi mới mười tuổi đã “bị” mất cả bố lẫn mẹ (vì họ đã bỏ cô mà đi), nên

những kí ức về tuổi thơ, của gia đình đầy buồn đau luôn luôn ám ảnh tâm hồn

cô. Giờ đây đã mấy chục năm trôi qua, cô đã trở thành một nữ tỷ phú không

thiếu bất cứ thứ gì nhưng cô đâu có được những giây phút hạnh phúc, lúc nào

57

trong tâm hồn cô cũng hiện về những ký ức tuổi thơ đầy vất vả và đau buồn,

về “hai nấm mồ người Bắc, kẻ Nam của bố mẹ”. Đó cũng chính là hai nấm

mồ chôn sâu những nỗi đau không bao giờ mất trong cuộc đời, luôn ám ảnh

cô không dứt. Chỉ vì muốn sống sung sướng, giàu sang phú quý mà mẹ cô đã

chạy theo cám dỗ đồng tiền, bỏ chồng, bỏ con để tìm cho mình cuộc sống an

nhàn, nhưng chính sai lầm của người mẹ đã làm khổ chồng con bởi sự ám ảnh

trong người con.

Trong truyện ngắn Bóng thời gian, Quỳnh vì mải mê cuốn theo vòng

xoáy thị trường, vì địa vị, danh vọng, tiền tài, nên đã quên đi cuộc sống hạnh

phúc cá nhân của mình: “Bốn mươi tuổi. Sắp trở thành một “Bà già đau khổ”,

không chồng, không con”[11, 59]. Nhân vật Dinh ( Xin việc), vì tham vọng

có công việc tốt, nhiều tiền, muốn tìm cho mình công việc không bỏ nhiều

sức lao động… nhưng trong thời đại ngày nay, muốn tìm công việc như vậy

đòi hỏi trình độ cao phải tài giỏi. Còn nếu như cả tin, tham vọng làm giàu

nhanh thì dễ lao vào việc làm phi pháp. Vì lòng tham của Dinh quá lớn, nên

cuối cùng cô bị lừa, lận đận, khổ sở không tìm được cho mình công việc như

ý và phải quay trở về quê làm may cùng với mẹ.Tình phụ tử, Tro tàn, Sân

ga, là những câu chuyện viết về vấn đề đời sống quanh ta: Có một ông bố

thương con nhưng cố chấp, cô con gái không còn cách nào khác để làm vừa

lòng cha, đã tìm đến giải pháp “thuê” – “Thời kinh tế thị trường” cái gì cũng

có thể “thuê”, kể cả “thuê chú rể” theo hợp đồng. Vì muốn hưởng tài sản từ

bố, cô gái đã dùng mọi mưu kế để lấy lòng người cha kể cả kế lấy chồng giả.

Cái giá của sự giả dối đó là: cô đã phải sống với một ông chồng không tình

cảm, chỉ là trên danh nghĩa, vì quá tham tiền nên cô đã đánh mất quyền được

sống, hạnh phúc của mình (Tình phụ tử). Trong tro tàn, bất ngờ là ở chỗ

người vợ tìm mọi cách để “tiêu diệt” đối phương, đòi lại căn nhà của vợ

chồng chị, nhưng người chồng của chị coi như đã “chết” khi dấn thân vào cái

58

hợp đồng cho vay nặng lãi kia. Lúc người vợ hí hửng với chiến thắng thì tình

cảm vợ chồng, tình cảm gia đình chỉ còn là một nắm tro tàn. Hay chỉ vì cám

dỗ của đồng tiền mà cô gái trong truyện Sân ga đã bỏ người yêu theo một

giám đốc trẻ, để rồi nhiều đêm nằm cạnh chồng mà cô vẫn phải “ngoại tình

trong tâm tưởng” với người yêu cũ. Cô Lan (Con đường cát bụi), vì cậy

mình có tiền, có cuộc sống sung sướng nên tự cao và cho mình là tầng lớp

quý phái, coi khinh con nhà nghèo như Thắm, Liễu… Chính sự đối xử không

tốt với bạn bè nên cô đã phải nhận hậu quả là: bị các bạn ghét bỏ, cô lập,

không thèm chơi với và tệ hơn là sự đố kị, ghen ghét của cô sẽ khiến cô trở

thành kẻ ích kỉ, xấu xa trong cuộc sống tương lại của chính mình.

Nhân vật Thu Nguyệt (Những phương trời lá rụng), là một cô sinh

viên xinh đẹp nhưng nhà nghèo, là con người có tính trung thực thẳng thắn

nhưng luôn bị ghen ghét. Cuộc sống nghèo khó và vì một phút không làm chủ

bản thân, lại bị bạn bè đố kị nên cô đã rời bỏ ghế nhà trường, dần sa ngã. Cô

đã làm nghề “tiếp khách” tại một khách sạn lớn ở thành phố để kiếm sống.

Chỉ vì thích đua đòi, sa vào chốn ăn chơi khiến cho Nguyệt không thể quay

đầu lại thành người “tử tế”. Cô đã tự trở thành một món hàng của bà chủ và

của các khách sộp khác. Cô được mua với giá 100 cây vàng để làm “quà” cho

một kẻ “nửa người, nửa vật”: “Hách Xỉa mua cô 100 cây vàng cho đồ đệ của

mình là Huỳnh, nửa người, nửa vật”[41,76]. Cô đã rất “trơ trẽn” khi nói vè

nghề tiếp khách của mình như: “Em nghĩ, ông anh chớ nên dọa người như

thế. Đối với những người như bọn em thì sự thật thà hay giả dối đều không có

ý nghĩa gì hết. Nếu khách cần thật thà em xin chiều. Ngược lại, khách cần sự

dối trá, em cũng xin chiều. Bởi chúng em sinh ra để chiều theo ý khách mà”

[41,76]. Ai có thể ngờ rằng trước đây cô Nguyệt đã từng là cô gái xinh đẹp

quê Tuyên Quang, ước mơ trở thành bác sĩ để chữa bệnh cứu người, nhưng vì

không thể đối diện với những khó khăn trong cuộc sống, cô đã tự đánh mất

59

mình. Chính bản thân cô đã đẩy mình vào cuộc sống nhơ nhuốc xấu xa, mất

hết danh dự, nhân phẩm, trở thành “món hàng” trao đổi đáng thương. Cuộc

đời làm vợ của một tên bưởng vàng xấu xí, tàn bạo thì cô làm sao có được

hạnh phúc gia đình?.

Khi xây dựng những nhân vật phụ nữ cô đơn, bất an, chịu nhiều mất

mát, thiệt thòi và có cuộc sống bất hạnh, nhà văn Hồ Thủy Giang đi sâu

vào khai thác đời sống nội tâm của nhân vật với những dằn vặt, đau đớn,

trăn trở… của những người phụ nữ. Và tác giả đã tỏ rõ thái độ cảm thông,

chia sẻ với những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần mà họ phải gánh chịu.

Bài học được rút ra từ những con người, những cảnh đời này có lẽ là: cuộc

sống vốn có vay, có trả, hãy biết sống vì người khác, đừng sống vô trách

nhiệm với bản thân mình, đừng lạnh lùng vô cảm với người khác; đừng vì

cái lợi trước mắt, đừng vì cái bả giàu sang mà bán rẻ lương tâm, phẩm chất

của mình - nhất là đối với người phụ nữ, những người dễ bị tổn thương, bị

làm hại, bị lôi cuốn vào những tiêu cực, những thói hư tật xấu của cuộc

sống đầy phức tạp và cạm bẫy này.

Tiểu kết

Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng trung du và

miền núi, nhà văn Hồ Thủy Giang đã thể hiện được tư tưởng nhân văn cùng

những quan điểm của ông đối với vai trò, vị trí của người phụ nữ trong thời

đại ngày nay. Đó là những người phụ nữ có một vẻ đẹp vừa truyền thống, vừa

hiện đại. Họ là những người khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, luôn tự tin vượt

qua mọi gian khó để làm chủ cuộc đời, làm chủ tương lai cùng hạnh phúc của

cá nhận mình. Nhưng bên cạnh những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin, giàu

nghị lực ấy còn có những số phận, nhiều mảnh đời phụ nữ vất vả, khổ đau, bất

hạnh khác…Nhà văn đã lách sâu ngòi bút của mình vào từng hoàn cảnh, từng

cuộc đời của những người phụ nữ, phát hiện ra bao nỗi đớn đau, bao sự éo le

60

ngang trái cũng như sự đáng trách, đáng thương của họ. Tác giả cũng đã thể

hiện thái độ cảm thông, chia sẻ, cũng như thái độ phê phán của mình. Nhưng

trên hết vẫn là những bài học được rút ra cho chính những người phụ nữ từ

những cuộc đời, những số phận không may mắn hoặc bất hạnh ấy của họ. Giá

trị nhân văn được toát ra từ những trang viết về người phụ nữ của Hồ Thủy

Giang có lẽ là ở đó!.

61

CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật

Như đã biết, ngoại hình là yếu tố quan trọng góp phần khắc họa tính cách

nhân vật. Miêu tả ngoại hình nhân vật là một trong những thủ pháp nghệ thuật

giúp nhà văn xây dựng nên hình tượng nhân vật. Mỗi nhà văn đều có những

cách riêng trong việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình. Các nhà

văn thường coi trọng việc miêu tả ngoại hình (như gương mặt, hình dáng,

điệu bộ, trang phục…) và cũng chính việc miêu tả ngoại hình đã bộc lộ được

cá tính sáng tạo của nhà văn, nó đem đến cho người đọc sự cảm nhận vừa có

tính khái quát về bản chất con người, vừa được nhìn nhận một cách riêng biệt

như một cá nhân, một con người cụ thể. Trong các tác phẩm của mình, nhà

văn Hồ Thủy Giang cũng đã tỏ ra tinh tế trong việc lựa chọn các chi tiết cụ

thể để miêu tả ngoại hình của nhân vật một cách sống động, qua đó người đọc

hiểu được tâm trạng, đời sống, tính cách của nhân vật. Ông cũng thường đặt

nhân vật vào những tình huống cụ thể, có tính thử thách để bộc lộ tính cách,

phẩm chất của nhân vật với những vẻ đẹp trong những hoàn cảnh khác nhau.

3.1.1. Những người phụ nữ lao động nghèo vùng trung du và miền núi

Với phương pháp xây dựng nhân vật vừa mang tính truyền thống vừa có tính

hiện đại trong những sáng tác của mình, Hồ Thủy Giang đã khá chú trọng tới việc

miêu tả ngoại hình của nhân vật, từ đó bộc lộ một phần tâm trạng, tính cách của

nhân vật. Ông đã miêu tả ngoại hình những người phụ nữ phù hợp với thành phần

xuất thân, đặc điểm nghề nghiệp và tính cách nhân vật, ví dụ như: Khi miêu tả

những nhân vật phụ nữ lao động vùng trung du và miền núi, tác giả nhấn mạnh

đến vẻ đẹp khỏe khoắn, tự nhiên, mộc mạc, mang tính phồn thực…ở họ.

62

Khi nhà văn miêu tả vẻ đẹp của những cô gái miền núi trong các tác

phẩm của mình như các nhân vật: A Xao, A Sao, Eng Nhình, Slao, Ngọc Tiêm,

A Nhình; hay các cô gái Tày, Dao thì ông thường chú ý đến việc so sánh vẻ

đẹp ngoại hình của họ với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng (hoa rừng, nai rừng,

suối rừng…). Cô A Xao trong truyện ngắn Hoa phặc phiền vẫn nở, là cô gái

có cái tên rất đẹp và ý nghĩa (A Xao theo tiếng Tày có nghĩa là người con gái

đẹp), cô có một gương mặt, đôi mắt đẹp: “Một gương mặt đẹp và tươi như

một bông hoa phặc phiền”, “Đôi mắt đen lấp láy và ngơ ngác như mắt nai

rừng” và “dáng hình đẹp như tiên nữ” [13, 52- 55]. Trong truyện Trên trời

mây trắng như bông, khi viết về phiên chợ bông của người Tày, ở đó nổi bật

lên là những cô gái Tày xinh đẹp, duyên dáng: “Lấp ló sau những khối bông

bồng bềnh là một cô gái mặc áo chàm đầu chít khăn mỏ quạ, có đôi mắt trong

vắt” [10,138]; “Eng Nhình trong chiếc khăn mỏ quạ, hồn nhiên, tươi rói” và

“A Sao má đỏ hây hây, bồng bềnh trong mây trắng chợ bông” [10, 146] .

Trong Những người mở đường, những cô gái thanh niên xung phong trong

đó có nhiều cô là người Tày, người Dao rất trẻ trung, xinh xắn, đáng yêu có

thân hình nhỏ bé nhưng rất khỏe mạnh, gan dạ, dốc hết sức mình để chuyển

hàng, phục vụ cho quân đội: “Một vài khuôn mặt nữ thanh niên xung phong

tròn trịa, xinh xắn nhưng bợt bạt vì mệt. Họ bước như chạy. Những bao gạo,

những bao bột mì đè lên những đôi vai bé nhỏ. Những lưng áo đẫm mồ hôi.

Những bàn chân mảnh dẻ đạp lên đất đá xào xạo” [17,26]. Đó còn là Slao

(trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú) - một cô gái Tày đẹp, khỏe

mạnh, trong sáng, tràn đầy sức xuân:“cô gái có khuôn mặt tròn vành vạnh ẩn

sau chiếc khăn mỏ quạ màu chàm” [16, 28] và“mái tóc đen láy, mềm như tơ,

tỏa ra mùi hương sả hăng hắc mà quyến rũ” [16, 38]….

Khi miêu tả vẻ đẹp của những cô công nhân, người nông dân, những

người kĩ thuật viên,…thì tác giả luôn chú ý miêu tả vẻ đẹp vừa mang tính hiện

63

đại vừa mang tính truyền thống của các cô. Họ là những người phụ nữ lao

động khỏe mạnh, hăng say và mạnh dạn, sáng tạo trong công việc. Ví dụ như

nhân vật: Cô Ngàn (Ngàn làm máy) và cô Hiền (Cô bánh xích) - họ đều là

những cô gái có vẻ đẹp ngoại hình một cách khỏe mạnh, rất đảm đang, chịu

khó, hăng say trong công việc: “Nhìn đôi vai tròn lẳn được phủ tấm áo nâu,

má đỏ hây hây đang bước nhanh theo máy cày” và “Cô tự mình lái chiếc máy

cày chạy phăm phăm trên cánh đồng làm cho mọi người không khỏi ngạc

nhiên” [20, 23]. Hay là cô Sâm trong tác phẩm Tàu đêm, một cô công nhân

nữ Xưởng Gang với: “bộ quần áo thợ bạc phếch và khuôn mặt nhem nhuốc

nhọ than” [13,70] là một cô gái sống chân thành và chung thủy trong tình yêu

còn trong công việc, cô rất chăm chỉ: “thức trắng hai đêm” và đến khi lên tàu

về nhà thì: “đôi mắt đen thăm thẳm…đôi mắt đầy mệt mỏi nhưng vẫn ánh lên

trong vắt ” và “cô chìm sâu trong giấc ngủ, một giấc ngủ “quên mình” sau

nhiều đêm thức trắng” [13, 66]. Cô Hương (Cô bưu điện gốc trám), là một

cô gái xuất thân từ nông thôn, giản dị, xinh đẹp, nết na: “Một cô gái có khuôn

mặt trái xoan với đôi mắt đen láy cùng nụ cười ý nhị” [9,90] với “dáng vẻ

thướt tha, yêu kiều”[9,90] và hằng ngày cô thầm lặng, chịu thương, chịu khó

làm việc ở cái Chi nhánh Bưu điện miền núi heo hút: “Mỗi ngày Hương lại

ngồi xếp những chồng báo. Cô xếp cẩn thận đến nỗi không một tờ giấy nào

lệch ra ngoài” và vẫn “Ngày ngày Hương vẫn đánh đi những bức điện báo,

nhận bưu phẩm, bán tem…”[9, 88 ]…

Khi miêu tả ngoại hình của những người phụ nữ bất hạnh, chịu nhiều đau

khổ, thiệt thòi, tác giả cũng chú ý đến miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của họ - đôi

khi vẻ đẹp đó lại rất “mâu thuẫn” đối lập với số phận bất hạnh của họ. Ví dụ

như nhân vật: cô Miên trong truyện ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, là một cô

gái đẹp:“Dáng điệu tha thướt, uyển chuyển, đôi mắt long lanh của nàng chớp

chớp đầy quyến rũ” [9,57], có tiếng cười hồn nhiên: “Nàng cười vang…tiếng

64

cười của nàng long lanh vang vọng cả mười phương”; có ánh mắt đẹp và

quyến rũ: “Đôi mắt mượt như nhung của nàng nhìn tôi âu yếm” [9,59]. Vậy

mà cuộc đời của Miên đầy bất hạnh. Vì gia đình hoàn cảnh quá khó khăn mà

cô phải làm một nghề “tắm thuê” bị xã hội, mọi người khinh rẻ.Trong một lần

đi tắm thuê cho khách, cô đã bị tên “dâm đãng” dìm xuống biển đến chết vì

cô đã không “chiều” hắn. Còn trong truyện ngắn Thiên truyện cổ, nhân vật

cô Đào người đã phải sống trong nỗi khổ đau day dứt, trong sự ghẻ lạnh của

mọi người, khi họ gán cho cô tội “sát chồng”. Cô héo hon, già nua, kiệt

quệ:“một bà già gầy guộc, tóc bạc phơ, đang tách từng quả trám đen bầm”.

[12,35]. Hay nhân vật cô Phương (Con tàu đến muộn), chỉ vì có một người

chồng quá yêu vợ và ích kỷ nên đã có sự ghen tuông mù quáng (cho rằng vợ

có quan hệ bất chính với một người cùng cơ quan) nên đã hành hạ cô, đẩy vào

cuộc sống đầy khổ cực, chịu nhiều nỗi oan ức, rồi cô bị chồng “đâm đơn” li

hôn, …tất cả điều đó đã khiến cho cô hoàn toàn sụp đổ: “Chị đã ngã xuống

ghế băng trong phòng sử, mặt tái mét đi” [9,34]. Sau này, chị phải rời bỏ quê

hương để sống nơi khác, nỗi đau khổ đã tàn phá nhan sắc, niềm tin của chị

vào cuộc sống: “Cặp mắt của chị nửa đau khổ, nửa dửng dưng”[9,35]. Chị

Thúy (Nỗi buồn hãy tan đi) được miêu tả như là: “một người đàn bà điềm

đạm, tốt bụng, có đôi mắt đẹp kỳ diệu, không may mắn mắc bệnh tâm thần”

[9, 221]. Thúy mắc bệnh vì một cú “sốc”, bị đổ cho tội tham ô và vào tù oan.

Khi chị ra tù, người chồng đã mang con bỏ đi, chị uất hận và mắc bệnh, trở

thành “con điên” trong làng.Tuy bị điên dại những chị: “hiền lành ngay cả khi

lúc điên. Chị không phá phách, đánh đập ai mà chỉ thỉnh thoảng cười ré lên,

hoặc hát ầm ĩ, hoặc ôm mặt khóc nức nở” [9, 221]. Cuộc đời chị trải qua

chuỗi ngày đầy bất hạnh cho đến khi mất vẫn chất chứa nỗi oan ức bấy lâu

nay. Nỗi buồn tủi cô Hương (Cô gái ngồi bên cửa sổ), khi chồng mất, nỗi

đau ấy làm cho cô bao đêm đầm đìa nước mắt, ngày ngày cô ngồi bên cửa sổ

65

mong chờ một phép màu giúp chồng cô sống lại. Tác giả đã miêu tả đôi mắt

và dáng ngồi như chết lặng của cô bên cửa sổ khiến bao người thương cảm,

xót xa: “Cô ngồi bên cửa sổ và nhìn ra khoảng trời đêm bằng đôi mắt đen xao

xuyến rồi lặng lẽ” [9, 236]. Em Mơ (Học trò cũ), là một cô học sinh có hoàn

cảnh bất hạnh, nhà nghèo, mẹ mất sớm, sống với dì ghẻ, bị dì ghẻ bắt nghỉ

học…Từ một cô học trò ngoan ngoãn, ít nói đến lúc cô trở thành một gái “làm

tiền”, một tên trộm cắp chuyên nghiệp với những năm tháng cuộc đời sống

trong trại giam - để giờ đây, khi cô mới ba mươi tuổi mà già dặn, chai sạn:

“một người phụ nữ trạc ngoài ba mươi tuổi, nét mặt đanh đá phảng phất

buồn. Trên vừng trán sạm nắng, có một vết sẹo dài…đôi mắt to và đen đang

đi lẫn cùng với bao cô nữ phạm nhân” [9, 278]. Hay trong tác phẩm Thông

reo, hình ảnh người đàn bà lam lũ, chịu khổ ải, hằng ngày lên rừng hái măng

để đi chợ: “Nhìn đôi vai to tròn lẳn được phủ tấm áo nâu mỏng chen chúc

mấy mụn vá” [12,153] và “Người đàn bà quẩy gánh măng lên vai, chào mọi

người rồi ra khỏi cổng trạm, vừa đi vừa khóc…những bước đi xiêu vẹo”

[12,154]. Chỉ vì bà bị một nhân viên kiểm lâm của Trạm bắt vào và cho rằng

bà lấy măng là phá rừng khiến cho: “người đàn bà khóc lóc thảm thiết đến nỗi

nước mắt thấm ướt vai áo vá chằng vá đụp”[12,155]. Còn cô Châu trong

truyện Cỏ biếc, một cô gái dân tộc miền núi, nghèo, chai sạm vì sương gió:

“Một phụ nữ chừng ba mươi tuổi, nhăn nhăn vầng trán hẹp như tìm lại một kí

ức xa mờ” và “nhìn vóc dáng thì thô kệch, gầy gò, ốm yếu” [12,142].

Có thể thấy rất rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả ngoại

hình các nhân vật nữ vùng trung du và miền núi của nhà văn Hồ Thủy Giang.

Ông đã luôn chú ý khắc họa những vẻ đẹp về ngoại hình cũng như những nét

tiều tụy, héo hon, ủ rũ nhưng đôi khi họ rất khỏe mạnh, xinh tươi như hoa như

nai trên rừng. Ở đó, thiên nhiên không chỉ là chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp

con người mà vẻ đẹp con người cũng hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua vài

66

nét chấm phá về ngoại hình – nhà văn giúp cho người đọc có thể nhận biết

được đời sống nội tâm, tâm trạng, tính cách, số phận và môi trường sống khác

nhau của từng nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của ông.

3.1.2. Những người phụ nữ trí thức thời hiện đại

Bên cạnh những câu chuyện viết về người phụ nữ lao động có vẻ khỏe

mạnh mang những yếu tố truyền thống là chủ yếu thì nhà văn Hồ Thủy Giang

cũng rất chú ý đến việc viết về những người phụ nữ mới thời kì hiện đại. Họ

là những người có trí thức, có tính tự lập, tự làm chủ cuộc sống và tương lai

của mình. Điều đó đã được thể hiện ở vẻ ngoại hình và tính cách của họ. Ở

họ luôn toát lên một sự hấp dẫn, đầy tự tin với vẻ đẹp sắc sảo, thông minh, vẻ

lịch sự, trang nhã…vẻ đẹp ấy thật phù hợp với đời sống nội tâm phong phú,

phức tạp của họ trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.Ví dụ như nhân vật cô thư

ký trong truyện Bông hoa cô đơn, cô là một người phụ nữ đẹp và thông minh

trong cách giải quyết công việc: “Cô thông minh và làm việc hết mình. Dường

như cô có một năng khiếu bẩm sinh về công tác thư ký”[9,6], vẻ đẹp ngoại

hình của cô thật hấp dẫn:“Đôi mắt đen như nhung và đượm buồn”,“Mái tóc

óng ánh đen của cô nghiêng nghiêng trên trang sổ. Đôi mắt hiền dịu của cô

như tỏa sang anh một thứ ánh sáng của bình minh” [9,10]. Nhưng cuộc đời

cô đâu có được hạnh phúc tương xứng với vẻ đẹp hiền dịu kia: Chồng mất đã

lâu mà cô vẫn ở vậy, còn người yêu cô thì không dám ngỏ lời, nên cô phải xin

nghỉ hưu sớm và sống trong sự cô đơn, lặng lẽ suốt cuộc đời: “Nước mắt cô

lăn dài trên mặt bàn bóng lì, trông như một dòng sông nhỏ síu, chảy len lỏi và

nghẽn dần trong hoang mạc” [9,10]. Thắm (Con đường cát bụi), là cô gái

nhỏ biết tự vươn lên từ nghèo khó, cô có vóc người: “nhỏ nhắn, gương mặt

dịu dàng” [18,2].Trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, em đã biết tự lo cho

cuộc sống của mình: “Dì ơi, con đã nói rồi mà, chuyện tiền nong học hành

con sẽ tự lo, gia đình không phải chu cấp…Thắm cúi gằm mặt, khoác chiếc

67

tay nải bước ra khỏi nhà. Vừa đi, Thắm vừa cầm chiếc đồng hồ bố tặng ngắm

nghía, nước mắt ứa ra” [18,12] và luôn phấn đấu học hành để đạt kết quả cao

trong học tập: “Thắm là sinh viên học giỏi nhất khoa nên ít hôm nữa được đi

dự đại hội thanh niên toàn tỉnh” [18,20]. Hai cô gái trong truyện Phục thù,

một người khi bước vào tuổi già trên mặt “xuất hiện nếp nhăn, tàn nhang, mắt

tối xám và nhoèn gỉ”. Còn cô gái kia lại có vẻ đẹp khỏe mạnh, săn chắc, thu

hút ánh nhìn của mọi người: “Sao cô ta đẹp đến mê hồn. Thân thể cứ săn chắc

như thiếu nữ” [11, 67]. Nhân vật cô gái trong truyện Lãng Mạn, là một cô gái

đẹp, thanh lịch, thu hút mọi người từ ánh nhìn đầu tiên: “vóc người cao, hơi

đậm và nhất là mái tóc đen mượt xõa xuống tận kheo” [11,115], cô luôn cười

tươi, hồn nhiên và đôi chút e thẹn khi gặp người yêu: “Cặp môi cô hơi mím

lại mà vẫn sáng như một nụ cười” [11,116]. Hay là cô gái trong truyện Tiến

sĩ tin học, là một người đẹp ngồi bên cửa sổ khiến cho anh Tiến sĩ yêu cô si

mê bởi: “gương mặt trắng ngần, mái tóc mượt buông xõa ngay trước ngực,

đang ngồi mải mê với cuốn sách trước mặt” và cô “luôn nhíu mày hoặc cười

thích thú với trang sách trước mặt” [11,123]. Vẻ đẹp của cô giáo Đàn người

yêu Thầy giáo Sơn trong truyện Chuyện của Thầy giáo Sơn, là một cô giáo

hiền lành, giỏi chuyên môn, yêu nghề, tự nguyện đi lên ngôi trường vùng núi

hẻo lánh dạy học: “Một cô giáo xinh đẹp, dịu dàng…dáng người thanh tú, mái

tóc đen nhánh. Nhất là đôi mắt có một ma lực nào đó làm cho người ta say

mê”[9,172]. Cô Đàn không chỉ là một cô giáo giỏi mà còn là một người mẹ

hiền, hết mực thương con, yêu con: “Đàn vừa vuốt mái tóc lưa thưa hoe hoe

vàng của con, vừa chăm chú nghe những lời ngọng nghịu của con

nói”[9,182]. Hành động tình cảm ấy của cô đã khiến cho thầy giáo Sơn chỉ im

lặng, ngắm nhìn hình ảnh đẹp của người mẹ âu yếm ôm đứa con trong lòng.

Đối với một nhà văn thì có lẽ đây là những trang viết đẹp nhất về tình mẫu tử,

còn đối với một họa sĩ đây có lẽ cũng là bức tranh hoàn thiện về hạnh phúc

68

gia đình. Hay như cô giáo Hà (Hoa phượng), cũng là một cô giáo có lòng

nhân hậu, thương người, có cách làm việc rất khoa học, chuyên môn giỏi, rất

được lòng tin yêu của học sinh…Cô đã có những viêc làm mà nhiều thầy cô

giáo khác kính nể, trân trọng. Hoàng Hiến một cậu học trò mắc rất nhiều lỗi,

buộc cô chủ nhiệm đuổi học nhưng rất may được cô Hà giúp đỡ và xin cho

em thêm một cơ hội để tiếp tục đi học. Khi em Hiến vì cứu một em bé nên bị

chó cắn rách áo, cô đã âu yếm, ân cần ngồi cạnh và vá lại chiếc áo ấy: “Cô

nhẹ nhàng nâng tấm áo lên, vuốt thẳng nép, rồi vừa vá, vừa nói chuyện”

[9,216]. Khi nhìn thấy hành động ấy của cô, Hiến đã nghĩ cô như người mẹ

hiền, dịu dàng, đằm thắm và đặc biệt cậu cũng rất vui vì được cô tin tưởng.

Cô giáo Hằng (Học trò cũ), là một cô giáo hiền từ, nhân hậu, giàu lòng vị tha,

yêu mến học trò, giúp đỡ học trò khi gặp hoàn cảnh, cô có “vóc người đậm,

khuôn mặt tròn” và “ luôn say mê, yêu nghề” [9,272]. Khi biết hoàn cảnh em

Mơ, cô đã nhờ thầy Hiệu trưởng lưu ý, nể tình và tìm biện pháp giúp em vượt

qua những khó khăn vì hoàn cảnh gia đình. Hay cô Phương Lan (Những lẵng

hoa thành thật) là một cô gái xinh đẹp, học giỏi, yêu nghề, là một cô giáo

với ngoại hình “Nhỏ nhắn, xinh đẹp dù tuổi ngoài ba mươi” và “dạy giỏi, tính

tình lại nhã nhặn nên càng ngày lớp học càng có tiếng tăm” [13, 24].

Ngoài ra, những người phụ nữ trí thức ấy còn toát lên vẻ đẹp của sự

trang nhã, lịch sự, văn hóa. Ví dụ như: Cô Mơ (Mắt rừng) - một cô gái trẻ,

đầy hoài bão, vừa đẹp lại khéo tay: “Mơ lấy dao bổ cam.Những miếng cam

vàng ươm như được bổ rất khéo, bày trong cái đĩa to xếp theo hình một đóa

hoa hồng” [15,17]. Người ta thường nói nhìn cử chỉ có thể đoán được tâm

tính, thậm chí thân phận của một con người, điều này có vẻ rất đúng với Mơ.

Những đóa hoa cam do Mơ xếp hình kia bộc lộ một tâm hồn đầy mơ mộng và

luôn ao ước một cuộc sống yên bình, tươi đẹp.Cô Sao (Tiếng vọng) - một cô

gái với tuổi hai mươi tràn đầy sức sống với thân thể mơn mởn: “Một thân thể

69

nở nang khỏe mạnh. Gương mặt đẹp như có ánh trăng tỏa sáng” [11,38],

những “ngón tay của cô thon thả, mềm mại”, cô là một người rất đảm đang,

tháo vát: “loáng một cái, cơm canh đã xong xuôi” [11,40]. Dù chiến tranh đã

lùi xa, các cô gái thanh niên xung phong miền núi may mắn còn sống sót sau

làn bom đạn; họ luôn nhớ về quá khứ đẹp bi hùng. Hình ảnh cô Tâm trong

tiểu thuyết (Những người mở đường) nhớ về quá khứ thời chiến tranh - cô

đã tập trung tất cả tình cảm và trí tuệ của mình để viết nên cuốn tiểu thuyết

tưởng nhớ những đồng nghiệp mất trong chiến tranh. Mỗi lần xuất hiện câu

hỏi trong đầu: “Phải bắt đầu viết như thế nào đây? Tâm lại ứa nước mắt”

[17, 23] – đây quả là một vẻ đẹp của tình đồng đội, sự biết ơn của người phụ

nữ đã từng qua chiến tranh khốc liệt.

Bên cạnh những phụ nữ vẻ đẹp thanh lịch, sắc sảo, trang nhã…Hồ

Thủy Giang ông cũng chú ý khắc họa khá rõ nét vẻ đẹp của những người phụ

nữ có nỗi đau bất hạnh, hoàn cảnh éo le, sống cô đơn hay là “kiểu rẻ tiền” của

một số nhân vật phụ nữ khác người vì sống đua đòi, sa ngã, biến chất…Ví dụ

như nhân vật Cô Nguyệt “Những phương trời lá rụng” – từ một cô sinh

viên, trẻ, đẹp : “một cô sinh viên với khuôn mặt tròn, ánh mắt sáng mộng mơ

và tươi đẹp” và “là con người có cá tính khá thẳng thắn” nhưng vì gặp cảnh

khó khăn, thiếu thốn nên trong một khoảnh khắc không làm chủ được mình,

cô ăn cắp đồ của bạn, rồi trượt dài vào nhiều tệ nạn xã hội, cuối cùng cô đã

làm nghề “bán trôn nuôi miệng nhục nhã”. Và tự cô đã trở thành “món hàng”

cho bà chủ và những khách làng chơi bán mua. Cô gái (Mùa gió heo may) -

theo thời gian, tuổi thanh xuân đi qua nhanh và nghiệt ngã thay, tình yêu của

chồng cô cũng không còn dành cho cô nữa. Cô rất đau khổ, buồn tủi, dù sống

trong sự đầy đủ về vật chất nhưng hạnh phúc tình yêu không còn nữa - chồng

cô đi theo người con gái khác, điều đó đã khiến cô suy sụp hoàn toàn: “Cô

ngồi lặng người sau khung cửa. Gió heo may đang về. Cô chợt cảm thấy như

70

cùng một lúc có cả hai mùa gió heo may thổi xối xả vào trái tim vô vọng của

mình. Cô thoáng nghĩ đến cái chết” [11,36]. Cô Quỳnh Mai (Bóng thời gian),

một cô gái giỏi, thành đạt nhưng bất hạnh trong cuộc sống tình cảm: “trong sự

nghiệp thì có thể coi như đã ở một tầm khá cao” nhưng nhìn lại thấy mình bất

hạnh “Bốn mươi tuổi. Sắp trở thành “bà già đau khổ”, không chồng không

con” [11,59].

Như vậy có thể thấy rằng: Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Hồ Thủy

Giang đã khắc họa khá rõ vẻ đẹp cũng như những nét đặc trưng của những

nhân vật nữ trí thức thời kỳ hiện đại, không chỉ ở hình dáng mà còn ở thần

thái và tính cách của họ. Trong khi xây dựng ngoại hình của nhân vật nữ, chi

tiết được Hồ Thủy Giang đặc biệt quan tâm là đôi mắt của những người phụ

nữ. Bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn nên qua hình ảnh đôi mắt có thể cảm

nhận được thế giới nội tâm của nhân vật. Đó là đôi mắt xanh đen như nhung

và đượm buồn của cô thư ký; Cặp mắt nửa đau khổ, nửa dửng dưng của

Phương khi bị chồng hiểu lầm; Đôi mắt lóng lánh đen đầy vẻ quyến rũ của

Miên; Đôi mắt to đen thảng thốt của Mơ; Đôi mắt đen thăm thẳm của Sâm

tuy mệt mỏi nhưng vẫn ánh lên trong vắt; Cô gái Tày trong Phiên Chợ Bông

có đôi mắt trong vắt nhưng bảng lảng một nỗi buồn xa xăm…Với bút pháp

nghệ thuật thay đổi linh hoạt, Hồ Thủy Giang khắc họa đậm nét bức chân

dung ngoại hình những người phụ nữ, để bộc lộ phần nào tâm trạng, số phận

của họ. Mặt khác, ông đã miêu tả ngoại hình nhân vật phụ nữ một cách đa

dạng, đủ các kiểu người, đủ các lứa tuổi với các thành phần xuất thân nghề

nghiệp, tính cách khác nhau…đã tạo nên một thế giới nhân vật nữ đa dạng,

phong phú với nhiều tính cách, phẩm chất khác nhau trong xã hội thời kì hiện

đại hóa hôm nay.

71

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật

Trong các phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật nói chung, xây

dựng tâm lí nhân vật nói riêng, ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò hết sức quan

trọng. Tiếng nói của tác giả giúp người đọc hình dung được tính cách nhân

vật qua cách kể lại sự việc, biến cố, mô tả thế giới nội tâm qua ánh mắt, cử

chỉ, hành động - trong khi đó, tiếng nói của nhân vật, gồm ngôn ngữ thốt ra

lời – đối thoại và ngôn ngữ không thốt ra lời – độc thoại nội tâm, sẽ giúp

người đọc trực tiếp nhìn thấy tâm trạng của nhân vật, những suy nghĩ của

nhân vật và cả tính cách, phẩm chất của nhân vật.

3.2.1. Độc thoại nội tâm

Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là những ý

nghĩ thầm kín, là lời nhủ thầm của nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm có

một sức mạnh đặc biệt. Nó không những biểu hiện chân thực nhất bộ mặt tinh

thần và tâm trạng phức tạp của nhân vật mà còn có sức lay động tình cảm sâu

sa của người đọc. Hồ Thủy Giang là nhà văn cũng hay sử dụng những đoạn

độc thoại nội tâm trong sáng tác của mình, để thấy những diễn biến tâm lý của

nhân vật. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí của các nhân vật làm đối tượng

miêu tả. Ông thường xây dựng tác phẩm trên cơ sở theo dõi các diễn biến tâm

lý của nhân vật. Mặt khác nhà văn lại chủ trương không đứng ngoài quan sát,

tường thuật cái thế giới nội tâm kia một cách gián tiếp, mà để nhân vật tự bộc

lộ. Vì vậy ông ít dùng ngôn ngữ người kể chuyện, mà sử dụng chủ yếu ngôn

ngữ đối thoại xen với độc thoại nội tâm của nhân vật. Qua đó các trạng thái

tâm lí nhân vật nổi lên rất rõ, đồng thời nhà văn cũng thể hiện rõ quan điểm

của mình trong những suy nghĩ của nhân vật.

Trong truyện Bông hoa cô đơn, những lời độc thoại nội tâm đầy ân hận

và xen lẫn sự đau khổ của cô Thư ký, bao đêm suy nghĩ, day dứt về nỗi buồn

ấy đã tự thốt lên từ đáy lòng mình, sự đau xót, đớn đau, đầy ai oán: “Thế tôi là

72

một con người hay một công cụ trong công tác của anh, hay chỉ là sỏi đá mà

lúc nào anh cũng ban cho tôi cái nhìn lạnh lùng của quyền lực thế?” [9,11].

Và sự đau đớn ấy còn được thể hiện ở những câu hỏi đầy day dứt trong đáy

lòng cô:“Nếu như điều ấy đối với chúng ta lại là một hạnh phúc thật sự thì

sao? Thế anh không nghĩ được rằng anh rất cần một người vợ như em?”

[9,8]. Hay câu chuyện từ một cô gái Tày với cái tên A Sao ngây thơ và trong

trẻo của bản Phia Khao xa xôi ngày xưa, nay đã trở thành bà Ánh Sao - Hiệu

Trưởng ở một trường Cấp Ba của huyện và là phu nhân của một vị Phó Chủ

tịch tỉnh. Cuộc đời tưởng như là miên mãn với cô nhưng thực ra cô không có

hạnh phúc thực sự, không có niềm vui, tình yêu, cô đau đớn nhận ra rằng:

“Quả là tôi đã quên rằng mình từng là cô bé A Sao trẻ trung, hoang dã, lượn

giỏi nhất vùng. Tôi buồn bã chợt nhận ra rằng, đôi khi sự thông minh, chững

chạc lại đồng nghĩa với sự đánh mất của cuộc đời” [12,14].Lời độc thoại đầy

chua chát của cô đã nói lên tâm trạng chán chường, mệt mỏi của người phụ nữ

này (Trên trời mây trắng như bông). Đôi khi tác giả mượn lời độc thoại nội

tâm của nhân vật con vẹt để nói lên những nỗi khổ đau, bất hạnh của con

người: “Thì ra, tôi là niềm vui của cả hai ông cháu chị Hạnh nữa. Tôi có cảm

giác niềm vui đối với họ hình như là một điều hệ trọng lắm. Mà phải rồi, tôi

luôn thấy đôi mắt của chị ẩn một nỗi buồn vô cớ” [11,52]. Khi biết tin chị

Hạnh bị chết vì bị di chứng chất độc da cam, lời độc thoại của chú vẹt đã làm

cho người đọc thêm đau đớn, quặn thắt: “Tôi lặng đi, không muốn tin vào lời

ông nội nói. Không! Không thể như thế được! Từ nay có lẽ nào tôi vĩnh viễn

không được nhìn thấy chị nữa”. Và “Tôi ngậm ngùi cất cánh bay đi. Tôi cố

bay vọt lên thật cao nhìn xuống để mong thấy bóng hình chị Hạnh, nhưng mặt

đất chỉ rờn rợn một màu xanh mờ ảo. Chao ôi! Tôi đâu biết được loài người

lại có những nỗi buồn tê tái đến thế”. “Chị Hạnh ơi, em thương chị lắm!

Tiếng nói của tôi sẽ vang vọng mãi không nguôi trên bầu trời rộng lớn. Mong

73

sao, giọng nói nghẹn ngào, bé nhỏ của tôi giữa mênh mông này có thể làm

vơi đi chút ít nỗi đau của những kiếp người” [11,57]. Nghe những lời xót xa

đau đớn của chú vẹt, người đọc thấy được tấm lòng nhân hậu, sự cảm thông,

tình thương người của tác giả đối với những số phận bé nhỏ, mong manh của

những người phụ nữ không may mắn trong cuộc sống (Chị Hạnh ơi!). Tình

yêu đẹp trong kỉ niệm của cô Hương (Cô bưu điện gốc trám), khiến lòng cô

đau nhói. Cô thầm lặng nghĩ mong mỏi và tự chủ với chính mình:“Em sẽ chờ

anh, chờ anh mãi mãi”[9,100] và đêm đêm cô lại nhớ đến hình ảnh người yêu

với nỗi nhớ thương thăm thẳm và những câu hỏi đầy xót xa: “Hình dáng của

anh, đôi mắt của anh, chiếc mũ sờn…” - “Mình thật vô lý. Nhưng còn anh?

Anh hiểu lòng mình không? Hay anh chỉ coi mình là cô bưu điện có lòng tốt”

[9,101]. Vì thế khi nhận bức thư của anh gửi cô đã nghẹn ngào nghĩ đến:

“Hẳn anh sẽ viết giống như em nghĩ: Tình yêu phải là một gì cao đẹp, thiêng

liêng, không hẹp hòi, ích kỉ” [9,103].Trong truyện ngắn Con tàu đến muộn,

nhà văn đặt ra vấn đề bi kịch của một gia đình. Từ cuộc chia tay của bố mẹ, từ

việc chứng kiến cảnh người mẹ thủy chung nhưng vừa qua đời vì bệnh tim và

sự hối hận nhưng đầy sĩ diện đến mức mù quáng của người bố, cô gái đã có

những suy nghĩ đau khổ, đầy tiêu cực:“Trong cuộc đời, con người ta luôn cần

có điểm tựa. Không phải là điểm tựa kinh tế... mà là điểm tựa về tình cảm...

Không có điểm tựa tình cảm thì sống sẽ mòn mỏi... nhưng đâu phải bất cứ chỗ

nào cũng có thể là điểm tựa tình cảm của chính mình được”[9,41]. Cô gái

trong truyện Kiệt tác là biên tập viên của một tờ Tuần báo địa phương. Cô

xinh đẹp, giỏi giang nhưng lại có cuộc sống gia đình bất hạnh khi người

chồng gặp tai nạn và bị bại liệt. Vì thế, cô luôn cố gắng nén nỗi đau vào trong

lòng, bởi cô biết rằng: “chẳng bao lâu nữa anh sẽ không còn có mặt trên cõi

đời này nữa. Điều duy nhất mà mình có thể dâng hiến cho anh lúc này là phải

nén nỗi đau để tạo ra những tiếng cười lạc quan cho anh” [12,164]. Còn bà

74

mẹ trong truyện Cỏ biếc cũng có hoàn cảnh trớ trêu vì sinh ra một người con

xấu xí, không ai lấy. Bà cất công đi tìm người con gái tên Châu về làm dâu và

bà nghĩ trong bụng: “Chắc nó ở xa nên không biết thằng Vênh bị tai nạn. Ở xa

mấy thì mình cũng phải tìm bằng được” [12,142].

Trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú, tác giả cũng chú ý viết về

những màn độc thoại nội tâm nhân vật Slao - khi nàng âm thầm nghĩ tới Lưu

Nhân Chú: “Giá như một ngày nào đó Slao được cùng sát cánh bên anh Nhân

Chú trong đội quân bình Ngô của đức Lê Lợi”[16, 94+95] và“lòng Slao lúc

này còn buồn hơn cả tiếng suối Nậm Cang róc rách luồn qua kẽ đá”

[16,119], khi biết được người nàng mơ tưởng đã có gia đình có một người vợ

đẹp người, đẹp nết. Rồi mỗi đêm khi ngồi một mình, mang dải lụa ra ngắm

lại. Nàng lại thốt lên những lời tâm sự buồn thương: “Chao ơi, cái phần dải

lụa ấy, anh Chú có biết rằng nó đã ngấm nhiều, rất nhiều giọt nước mắt của

Slao trong những đêm nhớ thương anh Chú không? Bây giờ anh Chú mang

theo một phần dải lụa điều ấy ra chiến trận, nghĩa là anh đã mang theo nhiều

giọt nước mắt của Slao” [16,63]. Rồi cô lại tự an ủi bản thân mình:“Slao chỉ

cần vậy thôi, chứ không dám mong anh Chú nhớ đến Slao đâu. Anh Chú đã

có chị Ngọc Tiêm để thương nhớ nhiều rồi ” [16, 63]. Hay trong tiểu thuyết

Con đường cát bụi, cô Mơ chua xót nhận ra rằng:“Hình như mình chưa biết

thế nào là tình yêu thật sự” [18,89]. Đã bao năm tháng thực hiện nghĩa vụ của

một người vợ, một người vợ chịu ơn sâu, chị tưởng rằng trái tim đàn bà của

chị đã thôi đập, bởi chị đã tự chôn vùi nó, tự hủy hoại những khát vọng của

chính mình. Chị tự ngắm mình trước gương, tự hỏi, tự chất vấn: Bản thân

mình là ai? có phải mình là mình đây không?:“Người phụ nữ trong gương có

phải là mình không?” [18,89]. Chính lời độc thoại nội tâm của Mơ đã bộc lộ

nỗi khổ của một người phụ nữ sống giàu sang nhưng không có được tình yêu

75

đích thực, chính cô thấy mình chở nên cô đơn, lạc lõng giữa cuộc sống đầy đủ

vật chất này.

Qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ

Thủy Giang, chúng ta thấy rõ mỗi nhân vật nữ đều toát lên vẻ đẹp rất riêng về

ngoại hình và phẩm chất, nhưng ẩn sau đó là những nỗi niềm, là những khao

khát về hạnh phúc tình yêu, tình cảm gia đình, cùng sự cô đơn của chính

người phụ nữ. Khi đi sâu vào miêu tả đời sống nội tâm các nhân vật nữ, Hồ

Thủy Giang đã lách ngòi bút của mình vào mọi ngõ ngách tâm hồn của nhân

vật để phát hiện ra những điều sâu sa ẩn giấu sau vẻ ngoài của mỗi người phụ

nữ qua các màn độc thoại nội tâm của các nhân vật ở từng hoàn cảnh trong tác

phẩm của ông.

3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật

Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, sử dụng hình thức nói giữa

người này với người khác. Như Mác đã từng nói: “Trong tính hiện thực của

nó, bản chất con người là toàn bộ những quan hệ xã hội”. Ông nhấn mạnh vai

trò của đối thoại: Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống

con người, sống tức là tham gia đối thoại”[]. Thông thường đặc trưng của đối

thoại gồm hai yếu tố: trao lời và đáp lời, có sự tương tác qua lại với nhau.

Trong quá trình giao tiếp, sự chủ động và thụ động được chuyển đổi luân

phiên từ phía này sang phía kia. Mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát

ngôn có trước và là sự phản xạ lại phát ngôn ấy. Sức mạnh của đối thoại chính

là ở chỗ thể hiện được sinh động và sâu sắc tâm lí nhân vật trong mỗi quan hệ

phong phú của con người với đời sống.

Nhà văn Hồ Thủy Giang đã tỏ ra khá thành công trong các màn độc thoại

nội tâm của nhân vật, bên cạnh đó ông cũng thể hiện một cách hiệu quả hình

thức đối thoại của các nhân vật trong truyện. Thông qua những cuộc đối thoại

của các nhân vật nhà văn đã khắc họa được tính cách, phẩm chất và tư tưởng

76

của nhân vật đó. Ví dụ trong cuộc gặp gỡ dù muộn màng của cô Đào với

người cháu, chỉ qua vài lời nói của người cô đã có thể kể hết nỗi oan uổng của

mình cho mọi người cùng hiểu. Người cháu thân thiết nhất của cô đã thấu

hiểu nỗi đau mà cô phải gánh chịu bao nhiêu năm qua. Khi nói chuyện với

người cháu giọng cô Đào trầm buồn, còn giọng người cháu đầy thông cảm:

- “Chắc Cháu lạ gì mọi chuyện của cô. Nhưng cô chẳng dám oán trách

ai đâu.

- Dạ, thưa cô miệng lưỡi thiên hạ nhiều khi khủng khiếp và đê tiện lắm.

Cháu nghĩ rằng hình như đời cô có điều gì oan khuất.

Cô lắc đầu:

- Không. Cũng chẳng có quan ức gì. Tất cả do cô thôi. Nhưng hôm nay

cô muốn kể lại toàn bộ đâu đuôi mọi việc cho cháu nghe. Ngoài cháu ra chưa

ai biết bí mật này đâu.” [9,82]

Rồi cô Đào đã kể lại câu chuyện của cuộc đời cô, vì sao cô bị tiếng oan

“sát chồng”, vì sao cô phải vào rừng sâu để sống? Cô buồn tủi, đau đớn, đơn

độc, nhưng cô không oán trách họ, chỉ biết trách thân phận hẩm hiu của mình.

Cô lấy đến ba đời chồng, nhưng họ không ở với cô bao lâu mà đã ra đi vì bị

rắn độc cắn.

Truyện ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, qua lời đối thoại giữa Miên và

người con trai trong sáng chưa nhiễm “bụi trần” ở chốn ăn chơi, cho thấy rõ

tính cách khác nhau của hai người trẻ tuổi này:

- “Em chào anh! …

- Sao trông anh buồn thế?...

Tôi lắp ba lắp bắp:

- Trông tôi... tôi...buồn lắm hả?

Nàng xích lại gần tôi:

- Anh mới ra biển lần đầu tiên ạ?...

77

- Mới lần đầu tiên cô ạ.

- Em đoán đúng mà. Nhưng anh đừng gọi em bằng cô, nghe chẳng thân

thiện chút nào. Cứ gọi em là em hoặc là Miên, tên em mà.

Tôi lắp bắp như một cái máy

- Ừ ! Em ... Miên!

- Em chưa gặp ai lại…ngoan như anh đấy” [9,58-59].

Ở tại một phiên tòa, cuộc tranh luận, cãi vã giữa người vợ và người tình

để giành người đàn ông diễn ra rất căng thẳng. Người vợ Khuất Thị Đanh đệ

đơn tố cáo chị Hoài Thơm quan hệ bất chính với chồng mình. Quan tòa hỏi

chị Hoài Thơm, chị đã thẳng thắn nói lên sự thật, khi chồng chị Đanh say

rượu, rên rỉ ở bên ngoài, cô thương tình mở cửa, dìu anh vào nhà, đợi khi anh

tỉnh say cô đã hỏi:

-“Nhà anh ở đâu để em đưa anh về?

- Anh nói: Em cho anh được ở lại, xin em cho anh được ở lại. Anh

không thể trở về với người đàn bà tai quái ấy đâu!” [9,199] .

Điều này khiến chị Đanh gầm lên sỉ vả cô Thơm, cho cô là loại “gái đĩ già

mồm” nhưng chị Thơm vẫn nhẹ nhàng kể lại và khẳng định điều đó là sự thật:

- “Thưa chị, đúng là anh ấy có nói như vậy. Tôi không đơm đặt điều gì?

Và chị đã nói với Quý tòa:

- Tôi xin thành thực thưa quý tòa: Kể từ ngày biết đến giờ, tôi chưa hề

gặp được một người đàn ông nào đầy lòng cao thượng mà lại ngây thơ trong

sáng như anh ấy. Tôi không phủ nhận rằng không những tôi có cảm tình mà

còn vô cùng quý thương anh ấy ” [9,201].

Và chị cứng rắn trả lời người vợ “lăng loan” đó:

- “Chị đừng nhầm! Tôi đâu có cướp chồng chị. Xin hỏi có điều luật nào

ngăn cấm một người đàn bà có cảm tình và quý trọng một người đàn ông, dù

anh ta có vợ ” [9,201].

78

Người vợ bất lực, gầm lên, chua ngoa, đanh đá:

- “Con khốn nạn! Đồ gái đĩ già mồm ! Bà thì gang họng ra bây giờ!”

[9,200].

- “Con dâm tặc này đã nhận tội cướp chồng tôi” [9,201].

Cô nói với tòa lý do đuổi chồng:

- “Lão ta là một kẻ nát rượu…đêm hôm ấy tôi không cho lão vào nhà

dạy lão bài học nhưng ai cướp chồng tôi thì tôi cho vào tù” [9,199] .

Sau phiên tòa này, tất cả những người phụ nữ được chứng kiến đã

không một ai dám ném chồng ra ngoài cửa và họ học được cách biết yêu

thương, biết sẻ chia, biết quý trọng, tôn trọng người chồng của mình hơn.

Chỉ điểm qua một số cuộc đối thoại của các nhân vật người phụ nữ

trong một số tác phẩm của Hồ Thủy Giang, chúng ta thấy rằng: Mỗi cuộc đối

thoại trong lời nói của nhân vật, họ không chỉ kể chuyện, chia sẻ buồn vui,

đồng cảm, thấu hiểu…mà mỗi nhân vật còn bộc lộ những suy nghĩ, những

hành động, cử chỉ, phù hợp với từng tầng lớp, lứa tuổi trong từng hoàn cảnh,

thân phận khác nhau. Tuy có những đoạn đối thoại rất ngắn, song cũng đủ cho

chúng ta hiểu hơn phần nào về cuộc sống nội tâm, tâm hồn, tính cách, những

vấn đề lớn nhỏ trong đời sống của những nhân vật phụ nữ và làm cho câu

chuyện trở nên hấp dẫn nhưng cũng đầy kịch tính.

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà

văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong các tác phẩm

tự sự, nhà văn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân

vật. Dù tồn tại dưới dạng nào hoặc được thể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ

nhân vật bao giờ cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính

khái quát, nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm

riêng, có “lời ăn tiếng nói” riêng, mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh được

79

đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định gần gũi về nghề nghiệp,

tâm lý, giai cấp, trình độ văn hóa,…Ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những

yếu tố quan trọng thể hiện “cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà

văn”. Trong tác phẩm tự sự gồm hai thành phần cơ bản của ngôn ngữ đó là:

ngôn ngữ người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ người trần thuật

có vai trò then chốt trong tác phẩm tự sự, là yếu tố cơ bản thể hiện cái nhìn,

giọng điệu và phong cách tác giả. Ngôn ngữ người trần thuật bao gồm những

đoạn có tính chất tĩnh tại, như lời dẫn truyện, lời miêu tả bức tranh tự nhiên và

xã hội, có khi là lời trữ tình ngoại đề, lời khắc họa chân dung nhân vật, miêu

tả tâm trạng nhân vật... Ngôn ngữ người trần thuật còn mang thêm các sắc

thái, quan điểm bổ sung do lập trường, đặc điểm tâm lý, cá tính của nhân vật

– người kể chuyện mang lại. Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong

tác phẩm, là một trong các phương tiện quan trọng thể hiện cuộc sống và cá

tính nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật được cá thể hóa cao độ. Trong tác phẩm,

nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: Nhấn mạnh

cách đặt câu, ghép từ; lời phát âm đặc biệt của nhân vật... Ngôn ngữ nhân vật

có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.

Như vậy, có thể thấy ngôn ngữ nghệ thuật là hình thức vật chất duy

nhất tạo nên nội dung tác phẩm; là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm,

yếu tố mang tính nội dung sâu sắc và trực tiếp nhất: “cả hình tượng nhân vật,

bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ

thuật về thế giới và con người... chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của

ngôn từ”[21, 26]. Ngôn ngữ nghệ thuật còn là phương tiện thể hiện phong

cách tác giả và thể hiện tài năng sáng tạo của nhà văn.

80

3.3.1. Ngôn ngữ mang tính bình dân thể hiện rõ tính cách và phẩm chất

của nhân vật

Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ

lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện

sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của

nhân vật. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang hầu hết là

thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị như những lời ăn tiếng nói trong cuộc sống

hàng ngày. Hay nói một cách khác: Ngôn ngữ bình dân được nhà văn sử dụng

rộng rãi, trong cả ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Thứ ngôn

ngữ bình dân này thường kết hợp với giọng điệu chua chát, mỉa mai hoặc thô

thiển, đời thường…trong văn xuôi Hồ Thủy Giang, ví dụ như trong các truyện

ngắn: Phiên tòa, Tình phụ tử, Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú, Giá của niềm

tin hay tiểu thuyết Con đường cát bụi….

Trong truyện Phiên tòa, qua ngôn ngữ của nhân vật người vợ, chúng ta thấy

hiện lên hình ảnh một người phụ nữ ghê ghớm, đanh đá, nanh nọc và thô tục:

-“Lão ta là một kẻ nát rượu. Một ngày lão tọng vào họng hai chai sáu

nhăm vẫn còn chưa đủ....Đêm hôm ấy, tôi không mở cửa chính là để giáo dục

lão ta chừa thói rượu chè. Chồng tôi là một thằng bợm rượu, là thằng vô

tích sự, bám váy vợ thật đấy nhưng cướp chồng tôi là tôi cho vào tù...

- Con khốn nạn! Đồ gái đĩ già mồm! Bà thì bà gang họng mày ra bây

giờ” [9,200].

- “ Bà con nghe rõ chưa? Con dâm tặc này đã nhận tội cướp chồng tôi”

[9,201].

Còn đây lại là thứ ngôn ngữ của một kẻ cay nghiệt, độc ác - bà mẹ kế nói

về cô con gái của chồng:

- “Bà những tưởng cùng lắm thì cô con chồng, lúc quẫn, cũng chỉ có

thể dẫn về một thằng già tóc hoa dâm, cưới quách cho xong chuyện. Cốt để

chiếm lấy ngôi nhà. Nếu như thế thì tuy ngôi nhà tuột khỏi tay bà nhưng lòng

81

bà cũng thỏa mãn, vì đã dìm được đời nó xuống bùn đen, cho nó bớt vênh

cái mặt khỉ lên”[9,302].

Trong lời nói đậm màu mỉa mai, chì triết, coi thường của một người vợ

(mẹ của nữ tỷ phú) đối với người chồng “nghệ sĩ” nghèo kiếp xác. Trong

truyện ngắn Nỗi ám ảnh của một nữ tỉ phú:“Chấp gì cái lão cả khổ ấy!

Nhuận bút của bố mày chỉ đủ mua quạt giấy thôi. Ngu ạ!” [9,392]. Cô luôn

cần tiền, cô sợ nghèo khổ bởi nghề của chồng mình đàn hát, văn thơ.

-“Sống! sống như anh thì coi như đã chết. Suốt ngày đàn hát ca cẩm

không có một xu dính túi. Thử hỏi anh là nhạc sĩ hay nhục sĩ”[9,394].

Hay ngôn ngữ câu nói một bà lão hiền lành, phúc hậu, dễ tin người nên

đã bị người đời lừa rất nhiều lần - trong chuyện Giá của niềm tin. Bà không

còn tin tưởng vào người đời nữa, nên giọng điệu trở nên hoài nghi, bực bội,

chua chat:

- “Ối giời! Cậu nghĩ thế hả? Cậu càng thật thà càng là mồi ngon cho

chúng nó xẻo thịt , đẽo xương đấy” [14,10].

- “Khổ! Tại sao tôi lại tin ngay nó cơ chứ!” [14,10].

Nhân vật Thắm và Liễu trong tiểu thuyết Con đường cát bụi thì lại có

kiểu nói chuyện rất bỗ bã nhưng thể hiện rõ tình cảm thân thiết, gần gũi của

đôi bạn chí thân:

- “Lúc nãy nghe thấy tên mày trong danh sách sinh viên giỏi được đi dự

Đại hội thanh niên xuất sắc toàn tỉnh, tao thấy lũ bò dửng mỡ lớp mình có vẻ

he mũi” [18,10]. Còn khi thấy Thắm mặc áo vá đến trường thì các bạn nữ

cùng lớp lại tỏ vẻ khinh thường nên có giọng đùa cợt, mỉa mai: “Đúng là

chuyện lạ có thật. Miếng vá tổ bố to bằng bàn tay chúng mày ạ” [18,13].

Hoặc khi chê bai dáng vẻ thô, béo của Liễu, các bạn gái trong lớp đã nói bằng

giọng điệu bỡn cợt, bai bẻ.

82

-“Quả là có những điều kinh dị không sao hiểu nổi! Khiếp! Chúng mày

nhìn kìa. Cái con đi bên cạnh trông cứ như Trương Phi hiện hình”[18,3].

Để khắc họa tính cách mạnh mẽ, “chẳng phải tay vừa” của Liễu, tác giả

miêu tả ngôn ngữ, cứng cỏi và có phần hơi “anh chị” của Liễu khiến cho các

cô cậu “tiểu thư”, “ông trẻ” khiếp vía.

- “Ông ăn nói kiểu du côn hả! Muốn vớ vẩn thì phải bước qua xác con này!

- Xin lỗi! Với lại đường chật mà sao lại đứng nghênh ngang thế, định

không cho ai đi lại nữa sao?

- Này! “Đây” khuyên một cách chân tình nhé: dây vào con ấy là dây

phải hủi đấy. Cho qua đi!

- Chúng mày cần gì thì cứ ới nhá. Tao xin tiếp hết!” [18,3].

Có thể dễ nhận thấy, nhà văn đã rất sáng tạo, mạnh dạn đưa vào những trang

văn của mình thứ ngôn ngữ bình dân, phong phú, phù hợp với từng tính cách

nhân vật. Đặc biệt trong các trang văn xuôi Hồ Thủy Giang hay sử dụng những

câu thành ngữ quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày trong ngôn ngữ

của nhân vật. Ví dụ như: “Trâu buộc ghét Trâu ăn”, “Chết khổ chết sở”, “Ghét

xuống ao mà kì”, “Cá lớn nuốt cá bé”, “Thuốc đắng giã tật”, “Ngậm bồ hòn

làm ngọt”, “Để lâu cứt trâu hóa bùn”, “Nhà cửa nát như tương bần”, “Đi guốc

trong bụng”, “Tức đấm ngực mà chết”, “Bố nào con ấy”....

Với việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, suồng sã mang đậm tính bình dân, tác

giả đã đem đến cho người đọc một cảm giác gần gũi, chân thực và sinh động

về một cuộc sống đời thường với những con người bình thường đang hiện

hữu quanh ta. Mặt khác, với thứ ngôn ngữ bình dân, đời thường nhưng rất

phong phú, tác giả đã khắc họa khá cụ thể, sinh động, cá tính, phẩm chất của

từng nhân vật trong từng tác phẩm của mình.

83

3.3.2. Ngôn ngữ mang màu sắc địa phương, đậm tính vùng miền

Trong những trang văn xuôi Hồ Thủy Giang chúng ta bắt gặp một thứ

ngôn ngữ khá đặc biệt, đó là thứ ngôn ngữ mang đậm chất miền núi. Hầu hết

những cuộc đối thoại trong truyện viết về đề tài miền núi đều có sự xen lẫn

vào đó là thứ ngôn ngữ dân tộc thiểu số và cách diễn đạt theo kiểu dân tộc. Ví

dụ như: Trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú. Các nhân vật nữ không

chỉ đẹp về hình thức với bộ trang phục của người Tày mà ngôn ngữ của họ

cũng thể hiện rất rõ cách nói của người dân tộc thiểu số như:

-“Chị Slao ơi, lần này chị phải cố ném trúng cho bọn con trai Thuận

Thượng biết mặt nhé.

- Nhình ạ, chị sẽ cố mà…. Ây dà! Slao ném mà không trúng thì không

đứa nào ném được đâu lố.” [16,30].

Và đặc biệt khi Slao cất tiếng hát lượn (dân ca của người Tày) thì người

đọc càng nhận ra vẻ đẹp tâm hồn và sự tài hoa, lãng mạn của cô gái đẹp

người, đẹp nết này:

“Ong bướm bay đi về đại ngàn

Biết ngày nào hoa rơi lại nở

Ong lại được vui xuân cùng bạn

Như em ước với anh cùng về” [16,31].

Nhưng khi muốn khắc họa tính cách mạnh mẽ, can trường của cô gái Tày

vừa giỏi việc nương rấy, vừa giỏi võ nghệ, lại dũng cảm, yêu nước – tác giả đã

miêu tả ngôn ngữ nhân vật rất độc đáo, ấn tượng như:

-“Năm nào hổ cũng đến rình bắt chó, bắt lợn mà. Nhưng Slao chả sợ

đâu” [16,38].

Slao ngừng hát với vẻ mặt hơi vênh tỏ vẻ thách thức. Nhình nói to, giọng

giễu cợt: Đám con trai Thuận Thượng đờ mặt nhìn Slao. Slao phấn khích,

bước ra tiếp tục hát:

84

“Thân em như đũa thiếu chiếc

Thiếu chiếc còn tìm được để bù

Thiếu bạn chẳng biết lấy ở đâu” [16,31]….

Còn đây là ngôn ngữ của cô Nhình đáo để, mạnh dạn, thẳng thắn:

-“Bớ trai làng Thuận Thượng! Các anh ngậm phải hột thị rồi hay sao

mà không ai dám cất tiếng thế?

- “Cái mày không biết gì cả. Anh Chú có vợ rồi. Chị Slao hát là có ý

đấy” [16,31].

Trong tiểu thuyết Những người mở đường, những nữ thanh niên xung

phong xinh đẹp là người dân tộc thiểu số, rất trong sáng, thật thà, nói chuyện

một cách hồn nhiên, giọng điệu và cách nói “đặc” chất dân tộc thiểu số:

-“A lúi! Thủ trưởng Cương ơi! Anh lái xe đẹp giai quá. Tý nữa thủ

trưởng Cương chuyển sang để chị em chúng em kỷ luật lố!” [17,26].

-“Đúng rồi mà! Đẹp trai quá lố! Thủ trưởng Cương tha cho anh ấy đi ”

[17,26].

- “ A lúi! Báo cáo thủ trưởng Cương, chúng em biết tội rồi lố” [17,26].

- “Xôi đỗ đen lố! Thích quá này các chị ơi!” [17, 26].

Trong truyện ngắn Trên trời mây trắng như bông, một cô gái người

Tày nói với anh họa sĩ bằng một giọng nói buồn tủi, bày tỏ nỗi đau thầm kín

trong lòng mình:

- “Rồi tới một ngày chúng em pây hết lùa theo sắp đặt của gia đình lố!”

- “Eng Nhình đâu có được theo anh lố!” [12, 6].

Thông qua lời nói của những nhân vật người phụ nữ trong một số tác phẩm,

khảo sát chúng ta thấy nhiều tác phẩm sử dụng ngôn ngữ vùng miền, là thứ ngôn

ngữ mang đậm chất dân tộc miền núi. Chất vùng miền trong các sáng tác Hồ

Thủy Giang, nó có tác dụng rõ rệt và hiệu quả trong việc khắc họa tính cách

nhân vật và thành phần xuất thân của nhân vật một cách sinh động.

85

3.3.3. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ

Trong quá trình tìm hiểu, khảo sát, thống kê cách sử dụng những từ láy,

tính từ, than từ, hô ngữ, đoạn văn biểu cảm, nhằm biểu hiện các tâm trạng của

các nhân vật nữ. Xen lẫn những cuộc đối thoại nhà văn sử dụng nhiều hình

ảnh mang tính biểu cảm và tính tạo hình. Ngoài ra, ông vận dụng linh hoạt các

biện pháp tu từ, giúp cho đối tượng thẩm mĩ được tác giả miêu tả trong tác

phẩm trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Qua đó, cho thấy rõ hơn

cá tính sáng tạo của nhà văn về phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.

Trong tác phẩm Bông hoa cô đơn, dù chỉ hơn bảy trang nhưng ta có

thể gặp rất nhiều danh từ, cụm từ kết hợp với các từ láy giàu sức biểu cảm

như: “Giọng cô rưng rưng”; “Nước mắt tuôn ra đầm đìa”; “Nghẹn ngào

khóc”; “Thiếu cô cuộc đời anh sẽ khô khan biết mấy”; “Đôi mắt biêng

biếc của cô nhìn anh đăm đắm”; “Gượng một nụ cười đau đớn”;“Cô buồn

bã nhìn những đóa hoàng lan đang ngơ ngác tỏa hương”; “Căn phòng

hôm nay sao mà nặng nề, u uất”; “Anh cảm thấy ân hận tê tái”; “Cái nhìn

lạnh lùng của anh”; “Bàn tay mảnh mai run rẩy của cô”. Những từ láy

được sử dụng với một số lượng khá cao trong ngôn ngữ của người kể

truyện đã có tác dụng nhấn mạnh đến thứ tình cảm “khó nói”, “nghẹn

ngào”, “đầy trớ trêu”, “đầy mâu thuẫn”, trong tâm hồn của cả hai nhân vật

là cô Thư ký và ông Chủ tịch. Một tâm trạng xót xa, tiếc nuối, đau đớn…

của hai người khi yêu nhau mà không dám đến với nhau. Tác giả cũng sử

dụng khá nhiều từ láy để miêu tả vẻ đẹp của nhân vật Miên, trong truyện

ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, ví dụ như: “Đôi mắt lóng lánh đen của nàng

chớp chớp đầy vẻ quyến rũ”; “Dáng điệu tha thướt, uyển chuyển của nàng

khi đi lại”; “Tiếng cười lóng lánh vang vọng cả mười phương sóng

biển”…Bằng việc sử dụng các từ láy đó, để miêu tả vẻ đẹp của một cô gái

vừa hồn nhiên, vừa già dặn, vừa quyến rũ nhưng cũng vừa rẻ tiền…

86

Bên cạnh việc tích cực sử dụng từ láy làm phương tiện biểu cảm, nhà

văn Hồ Thủy Giang còn hay sử dụng những câu văn giàu cảm xúc, miêu tả

tâm trạng, tâm lý phức tạp của nhân vật. Ví dụ như nói về cuộc đời: “Một

dòng sông nước mắt” của cô thư ký trong tác phẩm Bông hoa cô đơn, tác giả

viết:“Ở đó, có vị mặn chát chắt ra từ trái tim đau khổ của cô. Ở đó, có niềm

hy vọng đắng cay của cô. Thế nhưng, chỉ một vệt khăn lau đầy cẩn trọng và

vô tâm của anh là khô kiệt hết” hay “Trên đời, không yêu nhau bỏ nhau đã

đành, yêu nhau mà lại bỏ nhau mới thật là đau xót” [9,9]. Những truyện Xóm

sỏi ai quên, Thiên truyện cổ, Lúc ấy biển hoàng hôn,…xoay quanh những

nỗi đau, bất hạnh của người phụ nữ trong tình yêu, tình cảm gia đình và xã

hội. Đó là nỗi xót xa đau đáu của một người chị gái khi nghĩ về mẹ và em gái

ở quê nhà bởi sự xót xa, buồn tủi, nhớ thương:“Suốt mấy năm ròng em tôi lặn

lội cày bừa nuôi mẹ để tôi yên tâm theo học. Nghĩ lại mới thấy xót xa. Năm

nay em gái tôi cũng đã hai nhăm hai sáu sao mà vẫn chưa chịu lấy chồng. Mà

cũng tội, nhà chỉ có hai mẹ con người đi người ở sao đành... Chao ôi! Đứa

em gái lam lũ đau khổ của tôi. Ngày về, nhìn vóc dáng tiều tụy của em, tôi đã

kinh hãi. Chị có tội với em. Mọi nỗi nhọc nhằn, lo toan của gia đình, chị đã

trút lên đầu em. Mỗi nếp nhăn khô héo trên mặt em có phần tội lỗi của

chị”[9, 113-117]. Hay là những câu văn tràn đầy cảm xúc, đầy đớn đau của

tác giả khi viết về tâm trạng (tâm sự) với mình của người cháu vào thăm cô

đầy bất hạnh, tiều tụy trong vũng sâu: “Sao sự khắc nhiệt của cuộc đời vẫn

không chịu buông tha cô? Mấy chục năm nay, người đời nguyền rủa cô là yêu

tinh, ma quái nhưng cho đến tận bây giờ đã có kẻ nào nhìn thấy cô ăn thịt ai.

Đúng hơn, thì chính loài người đã ăn thịt cô bằng những lời nói và cử chỉ phũ

phàng, để đến nỗi cô phải rơi vào con đường cùng thế này. Nhìn cô Đào tiều

tụy ngồi trên sân, tôi thấy mình có lỗi vô cùng. Tôi đã viết bao nhiêu trang

sách, nói bao nhiêu lời nhân nghĩa, đạo đức, cảm thông với biết bao số phận,

87

thế mà bao năm tháng nay tâm hồn tôi đã bỏ trống một con người cần được

cứu vớt nhất” [9,80].

Qua khảo sát bước đầu, chúng ta có thể nhận ra: Hai yếu tố giọng điệu

và Ngôn ngữ nghệ thuật đã góp phần vào tạo nên sự thành công và đặc sắc

trong văn xuôi của Hồ Thủy Giang. Từ điểm nhìn đa chiều, đa góc cạnh nhà

văn đã bày tỏ thái độ, tình cảm của mình trước thực tại bằng nhiều giọng điệu

khác nhau: Đó là giọng điệu ngậm ngùi xót xa, thương cảm, giọng điệu mỉa

mai, chua chat; Giọng điệu ngợi ca và có khi giọng điệu chất chiêm nghiệm,

triết lý về số phận của những người phụ nữ. Chúng tôi nhận thấy kết hợp

nhiều giọng điệu khác nhau để tạo ra tính đa thanh trong tác phẩm. Sự linh

hoạt này cho thấy sự cách tân về giọng điệu trong văn xuôi của Hồ Thủy

Giang so với giai đoạn sáng tác trước của ông. Bởi sự linh hoạt và phong phú

của giọng điệu trần thuật, cũng chính là nhu cầu tự nhiên để người viết tự làm

mới mình. Còn về mặt ngôn ngữ nghệ thuật, nhà văn sử dụng chủ yếu là thứ

ngôn ngữ đời thường, giản dị, đôi khi có chất khẩu ngữ;bên cạnh đó việc sử

dụng một cách hợp lý các thành ngữ trong câu văn khiến cho lời văn mang

tính sâu sắc triết lý. Nhà văn Hồ Thủy Giang cũng đã vận dụng linh hoạt hiệu

quả các biện pháp tu từ với những từ láy, những điệp ngữ... giúp cho đoạn văn

thêm tính biểu cảm, nhằm khắc họa tâm trạng, tính cách phức tạp của các

nhân vật nữ. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ rõ nỗi xót thương, sự cảm thông,

sẻ chia...của mình đối với những cảnh đời éo le, những nỗi bất hạnh của

người phụ nữ trong cuộc sống thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập hôm nay.

Tiểu kết

Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong văn xuôi

của Hồ Thủy Giang - trước hết phải kể, đó là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân

vật khá tài hoa và tinh tế của nhà văn. Tác giả đã lách ngòi bút của mình vào

những ngóc ngách sâu kín nhất trong thế giới nội tâm của người phụ nữ. Dưới

88

ngòi bút của ông, thế giới nhân vật phụ nữ được hiện lên một cách sống động

với những nét tính cách, nhưng suy nghĩ, những nỗi niềm, những day dứt,

giằng xé, những mâu thuẫn đan xen, những cung bậc tình cảm, những cảm

giác, những cách ứng xử, hành động…rất khác nhau. Chính vì vậy, thế giới

nhân vật nữ vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa chân thực, vừa sinh động, và

có sức thuyết phục, sức hấp dẫn đối với người đọc nhiều thế hệ của tỉnh Thái

Nguyên nói riêng, của cả khu vực nói chung. Về ngôn ngữ nghệ thuật - Hồ

Thủy Giang thường sử dụng ngôn ngữ đời thường giản dị, mang tính khẩu

ngữ, nhờ đó tạo cho câu chuyện thêm gần gũi với cuộc sống hàng ngày và gia

tăng sự gắn bó giữa văn với đời. Nhờ việc vận dụng linh hoạt các từ láy, câu

văn biểu cảm để khắc họa rõ nét hơn thế giới nội tâm của các nhân vật nữ

được khắc họa trong câu văn, đoạn văn rõ nét hơn. Qua đó cho thấy cá tính

sáng tạo độc đáo của Hồ Thủy Giang ở phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.

Mặt khác trong văn xuôi Hồ Thủy Giang còn chứa nhiều ngôn ngữ giàu chất

tạo hình, giàu âm thanh, màu sắc miền núi, mang đậm chất dân gian, dân tộc

miền núi với những câu tục ngữ, thành ngữ, bài lượn… Chính những đặc

điểm về nghệ thuật sử ngôn ngữ miêu tả đặc sắc đó đã góp phần đem lại thành

công cho các nhà văn, cũng như đã góp phần đắc lực tạo nên phong cách nghệ

thuật trong văn xuôi Thái Nguyên thời kì hiện đại.

89

KẾT LUẬN

1, Hồ Thủy Giang là một trong số ít các nhà văn chuyên nghiệp của

tỉnh Thái Nguyên. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã cho ra mắt bạn đọc hơn 30

tác phẩm thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và phê bình văn

học, kịch bản phim, nhưng thể loại mà ông giành nhiều tâm huyết và đạt được

nhiều thành tựu nhất là Truyện ngắn và Tiểu thuyết. Trong các truyện ngắn và

tiểu thuyết của ông nổi bật là hệ thống các nhân vật phụ nữ. Đây là loại nhân

vật chiếm tỷ lệ cao so với các loại nhân vật khác (hơn 80% tác phẩm viết về

người phụ nữ, trong đó có trên 50% truyện có nhân vật chính là người phụ

nữ) và cũng là những nhân vật ông đã giành nhiều tình cảm, trí tuệ, tài năng

nghệ thuật của mình vào trong quá trình xây dựng, miêu tả và thể hiện trong

các tác phẩm.

2, Thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Hồ Thủy Giang khá phong

phú đa dạng và phức tạp. Đó là những người phụ nữ sống tại vùng trung du

và miền núi. Họ đủ các thành phần, các lứa tuổi, các nghề nghiệp khác nhau

với các tính cách, phẩm chất khác nhau. Khi miêu tả họ, tác giả đã chú ý miêu

tả vẻ đẹp ngoại hình của họ với những nét nổi bật: vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc,

rực rỡ, tươi tắn, trong trẻo…như những bông hoa rừng, những con nai rừng,

như những dòng suối mát lành….đặc biệt khi nhân vật là những người phụ nữ

dân tộc thiểu số; vẻ đẹp khỏe khoắn, chắc chắn, thậm chí là hơi thô mộc của

những người phụ nữ nông thôn miền núi, những cô công nhân, nhân viên; vẻ

đẹp thanh nhã, lịch lãm của các phụ nữ trí thức….Ở họ, luôn toát ra một vẻ

đẹp ngoại hình của những người phụ nữ Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện

đại. Tương ứng với vẻ đẹp ngoại hình là vẻ đẹp tâm hồn, tính cách và phẩm

chất của những người phụ nữ đó. Tác giả Hồ Thủy Giang đã khắc họa được

những nét tính cách, phẩm chất của những người phụ nữ vùng trung du và

miền núi ấy một cách sinh động và rõ nét. Họ là những người phụ nữ mới, tự

90

tin, mạnh mẽ, sống có trách nhiệm với gia đình, với công việc và với chình

mình. Đó chính là bức chân dung đẹp của người phụ nữ thời kỳ hiện đại hóa

và hội nhập.

Bên cạnh những nhân vật phụ nữ đẹp, tự tin đó, nhà văn Hồ Thủy

Giang đã dựng nên trong tác phẩm của mình những bức chân dung, những

mảnh đời, những số phận đầy sự thiệt thòi, không may mắn và bất hạnh của

bao người phụ nữ khác – như là một nỗi “ám ảnh” khôn nguôi trong các

trang viết của ông. Yêu thương, thông cảm, sẻ chia và đôi khi là sự phê phán

đó là thái độ của nhà văn khi viết về các nhân vật phụ nữ này. Tác giả đã đi

sâu vào từng hoàn cảnh, từng cuộc đời của những người phụ nữ thiếu may

mắn, chịu bao nỗi bất công, truân chuyên, trắc trở trong cả sự nghiệp lẫn tình

duyên và dù trải qua bao vất vả, khổ đau mà họ vẫn không có hạnh phúc đủ

đầy. Viết về họ - dưới góc nhìn đời tư, với những mặt khuất lấp, thậm chí là

cả mảng đen tối của những con người, những cuộc đời người phụ nữ sống

trong thời “cơ chế thị trường”- nhà văn Hồ Thủy Giang cho người đọc thấy rõ

sự đổi mới trong quan điểm, trong cách nhìn, cách phản ánh hiện thực và con

người vào trong tác phẩm văn chương. Đó là cách nhìn nhận, phản ánh đa

chiều, đa góc cạnh, chân thực, khách quan và sống động trong nghệ thuật xây

nhựng nhân vật và phản ánh hiện thực cuộc sống của nhà văn.

3, Bên cạnh nghệ thuật miêu tả ngoại hình, miêu tả nội tâm và tính cách

nhân vật, nhà văn Hồ Thủy Giang đã chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ nghệ

thuật (ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện), đặc biệt là ngôn ngữ

nhân vật. Đó là thứ ngôn ngữ mang đậm tính vùng miền (trung du và miền

núi); thứ ngôn ngữ “bình dân”, và thứ ngôn ngữ mang màu sắc riêng phù hợp

với thành phần xuất thân, với môi trường sống của nhân vật. Tác giả cũng rất

chú ý đến việc miêu tả giọng điệu của từng loại nhân vật, thể hiện rõ tính

cách, phẩm chất và nghề nghiệp…. của nhân vật. Với đặc điểm về ngôn ngữ,

91

về giọng điệu như trên, các nhân vật nữ của nhà văn Hồ Thủy Giang trở nên

có cá tính, có những nét đặc trưng riêng; trở nên đa dạng và sống động trong

các tác phẩm của ông.

4, Có thể còn có những hạn chế nhất định, còn có những truyện chưa

thực sự đặc sắc và hấp dẫn nhưng với sự tâm huyết, sự sáng tạo và giàu tình

yêu thương, kính trọng, cảm thông, chia sẻ …khi viết về nhân vật phụ nữ

trong tác phẩm của mình – tác giả Hồ Thủy Giang xứng đáng là một “nhà văn

của những người phụ nữ”. Ông đã góp phần hoàn thiện bức chân dung người

phụ nữ Việt Nam trong văn chương Việt Nam hiện đại. Chỉ riêng điều ấy thôi

cũng đã là một thành công đáng ghi nhận đối với cây bút văn xuôi tiêu biểu

của tỉnh Thái Nguyên này.

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Thị Ngọc An (2010), Nghệ thuật xây dựng hình tượng người công

nhân mỏ trong tiểu thuyết Quang Ninh (từ sau 1945 đến nay), Luận văn

Thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.

2. Trần Thúy An (2007), Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn một số nhà văn

nữ, Luận văn Thạc sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí

Văn học số 9/1998.

4. Trương Chính, Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn, Tạp chí Văn học số 5 năm 1990.

5. Phương Dung - Lệ Hằng (2005), Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy Giang,

Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa đào tạo Giáo viên Trung học cơ sở, Đại

học Sư phạm Thái Nguyên.

6. Hà Minh Đức (2007), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

7. Hồ Thủy Giang (2010), Thái Nguyên – Một dòng chảy văn chương, Nxb

Hội nhà văn.

8. Hồ Thủy Giang (2004), Văn học Thái Nguyên tác gia và tác phẩm, Nxb

Văn hóa dân tộc Hà Nội.

9. Hồ Thủy Giang (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.

10. Hồ Thủy Giang (2002), Cuồng phong, Nxb Thanh niên Hà Nội.

11. Hồ Thủy Giang (2005), Mùa gió heo may, Nxb Lao động.

12. Hồ Thủy Giang (2008), Nhà có 5 người, Nxb Văn hóa dân tộc.

13. Hồ Thủy Giang (2010), Người đẹp thường nhiều bí ẩn, Nxb Văn học.

14. Hồ Thủy Giang (2011), Không phải là ảo ảnh, Nxb Văn học.

15. Hồ Thủy Giang (2015), Mắt rừng (tiểu thuyết), Nxb Công an nhân dân.

16. Hồ Thủy Giang (2016), Tể tướng Lưu Nhân Chú (tiểu thuyết), Nxb Đại

học Thái Nguyên.

93

17. Hồ Thủy Giang (2016), Những người mở đường (tiểu thuyết), Nxb Văn

học.

18. Hồ Thủy Giang (2016), Con đường cát bụi (tiểu thuyết), Nxb Văn học.

19. Hồ Thủy Giang, “Văn xuôi Thái Nguyên – Một năm đáng kể”. Báo văn

nghệ Thái Nguyên, ngày 09/02/2016.

20. Hồ Thủy Giang (2017) Thái Nguyên - 1917, NXb Đại học Thái Nguyên

21. Phạm Thị Thu Hà (2010), “Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự

Lực văn đoàn”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Hà Nội.

22. Minh Hằng (2016), "Mắt rừng, cuộc chiến lâm tặc đầy cam go", Báo Thái

Nguyên chủ nhật, số ra ngày 12-5-2016.

23. Minh Hằng (2016), "Vài điều đáng nói xung quanh cuốn tiểu thuyết lịch

sử đầu tiên về danh nhân đất Thái", Báo Thái Nguyên chủ nhật, số ra

ngày 31-5-2016.

24. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), (2009),

Từ điển Thuật ngữ văn học, Nxb quốc gia Hà Nội.

25. ĐặngThị Hậu (2016), Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Lê

Văn Trương, Luận văn Thạc sĩ, Đại học khoa học - Đại học Thái Nguyên.

26. Mai Hương, “Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại”,

Báo văn nghệ quân đội, ngày 29/05/2015.

27. Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên (2007), Tuyên tập Văn xuôi Thái

Nguyên (2001-2006), NXb Đại học Thái Nguyên.

28. Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên (2007), Tuyển tập Văn xuôi Thái

Nguyên (2006-2015), NXb Đại học Thái Nguyên.

29. Nguyễn Thị Thu Lan (2011), “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác

của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Luận văn Thạc sĩ, Khoa học Xã

hội và Nhân văn Đà Nẵng.

94

30. Phương Lựu (chủ biên) – Nguyễn Nghĩa Trọng, La Khắc Hòa, Lê Lựu

Oanh, “Lý luận văn học”, Nxb Đại học Sư phạm.

31. Phong Lê (1985), Trên hành trình bốn mươi năm văn xuôi: Ngôn ngữ và

giọng điệu, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2011), Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy Giang,

Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.

33. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn

học, Hà Nội.

34. Mai Thị Nhung (1999), Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của

Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Đề tài Nghiên cứu khoa học, Đại hoc

Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.

35. Vũ Nho, “Hồ Thủy Giang – Cây truyện ngắn”. Báo Văn Nghệ của Hội

nhà văn Việt Nam, số 38 tháng 9/2013.

36. Vũ Nho (2015), Mắt rừng - cuộc chiến chống lâm tặc, báo Công an Nhân dân.

37. Vi Phương, “Truyện ngắn trên báo văn nghệ Thái Nguyên – 10 năm nhìn

lại”. Báo Văn nghệ Thái Nguyên, ngày 16/11/2015.

38. Trần Đình Sử (2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn

học Việt Nam thế kỷ XX, Tạp chí Văn học.

39. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học.

40. Trần Đình Sử (1978 – Chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

41. Trần Văn Tác (chủ biên) - Nguyễn Xuân Dương (2010), Văn hóa -Văn

học và ngôn ngữ địa phương tỉnh Thái Nguyên, Nxb Đại học Sư phạm.

42. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa –

Thông tin.

43. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2015), Văn học dân tộc thiểu số Việt

Nam thời kì hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

95

44. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) Nguyễn Thị Hoa - Đào Thị Lý - Lê Thị

Bằng Giang (2008), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam

hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.

45. Trần Thị Việt Trung, Đào Thị Lý, “Một số đặc điểm các nhân vật phụ nữ

trong sáng tác của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám năm

1945”.Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, số 4/2004.

46. Trần Thị Việt Trung, Lê Thị Bằng Giang, “Một số đặc điểm nghệ thuật

xây dựng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số trong sáng tác của Tô Hoài và

Vi Hồng”.Tạp chí khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, số

3/2006.

47. Phạm Văn Vũ, “Kiến giải lịch sử trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân

Chú của Hồ Thủy Giang”. Báo Văn nghệ Thái Nguyên - Hội Văn học

nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, tháng 10/2016.

48. Cao Thị Hồng Vân (2012), Con người trong văn xuôi miền núi của các

tác giả trẻ đương đại (Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Phạm Duy Nghĩa),

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.

49. Luận Văn.net.vn, “Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt

khách quan và chủ quan”, 29/10/2013.

50. Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi

mới: http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/phu-nu-nguon-cam-hung-sang-

tac-cua-van-xuoi-viet-nam-thoi-ky-doi-moi.