ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ TÀI NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung
Thái Nguyên - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Tài
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học
Khoa học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn: PGS.TS Trần Thị Việt Trung đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Tài
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 3
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 9
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................ 10
7. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 10
CHƯƠNG I. VĂN XUÔI THÁI NGUYÊN VÀ NHÀ VĂN HỒ THỦY
GIANG ..................................................................................................................... 11
1.1. Khái quát về văn xuôi Thái Nguyên thời kỳ hiện đại ........................................ 11
1.2. Vài nét về nhà văn Hồ Thủy Giang .................................................................... 15
1.3. Quan niệm về việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn
chương của nhà văn Hồ Thủy Giang ................................................................ 20
Tiểu kết ...................................................................................................................... 30
CHƯƠNG II. NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI HỒ THỦY GIANG -
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG ................................................................. 31
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn .................................................................................. 31
2.1.1. Khái niệm “Nhân vật” trong sáng tác văn học ............................................... 31
2.1.2. Vài nét khái quát về nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ
hiện đại ............................................................................................................. 32
2.2. Một số đặc điểm về nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang ..................... 36
2.2.1. Những người phụ nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và mạnh mẽ................... 37
2.2.2. Những người phụ nữ có số phận bất hạnh – nỗi ám ảnh trong văn xuôi Hồ
Thủy Giang ....................................................................................................... 47
Tiểu kết ...................................................................................................................... 59
iv
CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG ..................... 61
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................ 61
3.1.1. Những người phụ nữ lao động nghèo vùng trung du và miền núi .................. 61
3.1.2. Những người phụ nữ trí thức thời hiện đại ..................................................... 66
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................................... 71
3.2.1. Độc thoại nội tâm ............................................................................................ 71
3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật .................................................................... 75
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .......................................................................................... 78
3.3.1. Ngôn ngữ mang tính bình dân thể hiện rõ tính cách và phẩm chất của
nhân vật ............................................................................................................ 80
3.3.2. Ngôn ngữ mang màu sắc địa phương, đậm tính vùng miền ........................... 83
3.3.3. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ ......... 85
Tiểu kết ...................................................................................................................... 87
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 92
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hồ Thủy Giang là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của đời sống văn
học Thái Nguyên. Ông là người mà cả cuộc đời gắn bó tha thiết với con
người, mảnh đất Thái Nguyên. Ông là một nhà văn đạt được khá nhiều thành
tựu trên con đường văn chương với nhiều tác phẩm đã đạt giải cao trong các
cuộc thi về văn xuôi của Trung ương cũng như địa phương. Ông đã xuất bản
30 tác phẩm (gồm truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch bản phim truyền
hình, thơ, phê bình thơ), trong đó có đến 20 tác phẩm đạt Giải thưởng (của
Báo Văn Nghệ, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Báo Tuổi Trẻ, Hội nhà văn
thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Toàn
quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam..).Tác phẩm của ông đã
được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình chú ý, và được tuyển chọn vào
sách Giáo khoa Tiểu học, sách Giáo khoa Văn học địa phương tỉnh Thái
Nguyên. Do vậy, khi nghiên cứu về Hồ Thủy Giang cũng có nghĩa đã nghiên
cứu về trường hợp cây bút văn xuôi tiêu biểu, nhiều thành tựu vào bậc nhất
của tỉnh Thái Nguyên. Qua đó, chúng ta có thể hình dung ra được tính chất,
đặc điểm và thành tựu văn chương của một tỉnh vùng trung du và miền núi
trong quá trình vận động và phát triển ở thời kì hiện đại.
1.2. Cũng chính vì Hồ Thủy Giang là một nhà văn tiêu biểu của văn
xuôi Thái Nguyên nên đã có một số luận văn Cao học và Đề tài Khóa luận
của sinh viên, lựa chọn làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả luận văn
chỉ mới đi vào nghiên cứu một số thể loại trong sáng tác của ông như: Nghiên
cứu về Đặc điểm truyện ngắn của Hồ Thủy Giang (Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Tuyết Mai); Đặc điểm tiểu thuyết của Hồ Thủy Giang (Luận văn
Thạc sĩ của Thân Thị Mai Linh Lan)...Ngoài ra, khi nghiên cứu Văn chương
Thái Nguyên cũng có một số người đã nhắc đến ông như là một cây bút văn
2
xuôi tiêu biểu qua một số bài báo, bài nghiên cứu, phê bình đã khẳng định
những đóng góp của ông trong lĩnh vực sáng tác văn xuôi của tỉnh và của khu
vực. Với một nhà văn như Hồ Thủy Giang thì việc nghiên cứu về những tác
phẩm của ông như thế vẫn là chưa đủ, còn rất nhiều đóng góp, nhiều nét đặc
trưng và nhiều thành tựu vẫn chưa được phát hiện và khẳng định. Để góp
phần phác họa bức chân dung nhà văn Hồ Thủy Giang một cách đầy đủ và
trọn vẹn hơn, chúng tôi muốn được đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “Nhân vật
nữ trong các tác phẩm văn xuôi” của ông. Vì đây cũng là một đặc điểm nổi
bật trong văn xuôi của ông, một thành tựu trong quá trình sáng tác hơn 30
năm qua của tác giả này.
1.3. Hơn nữa, trong các sáng tác của mình, ngòi bút của Hồ Thủy
Giang luôn hướng tới việc phản ánh những hoàn cảnh, những số phận của
người phụ nữ trung du và miền núi với nhiều thành phần xã hội, nhiều
thân phận khác nhau. Qua đó, nhà văn đã thể hiện được tư tưởng nhân văn
cùng những quan điểm (vừa truyền thống, vừa hiện đại) của ông đối với
vai trò, vị trí của người phụ nữ; với những nỗi buồn, vui, đau khổ, thậm
chí là bất hạnh của họ trong xã hội thời kỳ hiện đại. Vì thế, nghiên cứu hệ
thống các nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm của ông cũng có nghĩa là đã
đi vào nghiên cứu phần đặc sắc, phần đóng góp nổi bật trong quá trình
sáng tác, sáng tạo của nhà văn.
1.4. Mặt khác, Hồ Thủy Giang là một trong những nhà văn hiện đại có
tác phẩm giảng dạy văn học địa phương. Do đó khi nghiên cứu về nội dung
này chúng tôi rất mong muốn được đóng góp một tiếng nói của mình vào việc
tìm hiểu, xây dựng tốt hơn các bài giảng về những tác phẩm của ông. Đồng
thời góp phần phác họa rõ nét hơn bức chân dung nhà văn Hồ Thủy Giang,
với tư cách là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên nói riêng,
của khu vực trung du và miền núi nói chung. Chính vì vậy, chúng tôi xin
3
được chọn đề tài “Nhân vật nữ trong văn xuôi của Hồ Thủy Giang” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Thủy Giang là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của tỉnh
Thái Nguyên và khu vực miền núi phía Bắc nên đã có khá nhiều bạn đọc và
người nghiên cứu, phê bình, quan tâm và viết về ông. Sau đây, chúng tôi tổng
hợp một số nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình, các nhà văn về văn xuôi
Hồ Thủy Giang nói chung, về hình tượng nhân vật phụ nữ nói riêng trong
sáng tác của ông.
Nhà nghiên cứu, phê bình Lâm Tiến trong cuốn “Tiếp cận văn học dân
tộc thiểu số (2011)” nhận xét: “Truyện Điện hoa của Hồ Thủy Giang. Truyện
với một giọng kể nhẹ nhàng, duyên dáng, với kết cấu hợp lý, tác giả đã dẫn dắt
nhân vật trải qua các tình huống khác nhau với những diễn biến tâm lý sâu sắc,
tế nhị để nhân vật nhận ra con đường thực của mình với cuộc sống muôn màu,
muôn vẻ của nó”. Nội dung của truyện xoay quanh việc phản ánh những thân
phận, những cảnh ngộ, những vấn đề nhức nhối đang đặt ra trong cuộc sống hôm
nay và nhân vật nữ “Phương Lan trong truyện Điện hoa của Hồ Thủy Giang
vẫn không thoát khỏi vòng tình ái thường tình của con người”.
Tác giả Trần Văn Tác trong cuốn Văn hóa - Văn học và ngôn ngữ địa
phương tỉnh Thái Nguyên (2010), đã nhận xét:“Hồ Thủy Giang là cây bút
văn xuôi xuất sắc của Thái Nguyên. Anh có nhiều đóng góp không chỉ truyện
ngắn, tiểu thuyết, thơ, tiểu luận phê bình văn học mà gần đây thành công ở cả
kịch bản phim”.Và ông cũng đã nhấn mạnh đến các nội dung tiểu thuyết của
Hồ Thủy Giang: “Các nhân vật có đời tư, có số phận riêng khó đoán trước
được và ngôn ngữ trần thuật của Hồ Thủy Giang không gò ép mà luôn mềm
dẻo biến hóa, khi ngậm ngùi, xót xa trước bi kịch của nhân vật, khi thủ thỉ vỗ
về, chia sẻ cùng nhân vật”.
4
Trên báo Văn nghệ (của Hội nhà văn Việt Nam, số 38/2013), nhà văn
Vũ Nho trong bài “Hồ Thủy Giang – Cây truyện ngắn” đã nhấn mạnh: Với
tập truyện mới Không phải là ảo ảnh: “Hồ Thủy Giang chứng tỏ một sức hút
mạnh mẽ, một tình yêu mãnh liệt, bền bỉ với thể loại mà anh thành danh đầu
tiên”. Ông cũng rất thích đọc truyện ngắn của Hồ Thủy Giang. "Thú thật, tôi
là người đọc Hồ Thủy Giang rất sớm vì cùng trang lứa, cùng được
giải truyện ngắn của Tạp chí Văn Nghệ Việt Bắc. Vẫn nhớ mãi những truyện
được giải của anh như “Cô bánh xích”, “Những trang bản thảo”, “Bông
hoa cô đơn”. Có thể thấy rất rõ một điều: “Trước đây Hồ Thủy Giang say sưa
với những nét đẹp của cuộc sống mới, nhiều điều lãng mạn, nhiều điều tốt đẹp
dù hiện thực đời sống không thiếu những khó khăn, gian khổ. Giờ đây, anh
điềm tĩnh hơn khi tiếp cận với hiện thực nhiều điều buồn, nhiều chuyện đau
lòng, nhiều thứ trớ trêu…Cái giọng kể vui tươi, hóm hỉnh, tràn đầy niềm yêu
đời, lạc quan giờ được thay bằng giọng điềm đạm, kìm nén, ẩn chứa nhiều
băn khoăn, day dứt”.
Trong bài viết Văn chương Thái Nguyên (Tháng 12 năm 2008),
nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh viết: “Trong văn chương ông là người sớm
nổi danh đặc biệt với truyện ngắn. Nhắc đến tên Hồ Thuỷ Giang bạn
đọc nhớ đến các tác phẩm: "Hoa phượng"; "Những trang bản thảo";
"Cô bánh xích"...Ông là người có nhiều Giải thưởng văn học nhất trong
giới văn chương tỉnh Thái Nguyên, đã hai lần đoạt Giải truyện ngắn của
Tạp chí Văn nghệ quân đội và là tác giả của 17 tập sách gồm tiểu thuyết,
truyện ngắn, phê bình tiểu luận...”.
Phạm Văn Vũ trong bài “Kiến giải lịch sử trong tiểu thuyết Tể
tướng Lưu Nhân Chú của Hồ Thủy Giang”, (Báo Văn nghệ Thái
Nguyên, tháng 5 năm 2016), đã nhận xét: “Hồ Thủy Giang đã rất khéo léo
đem vào câu chuyện của mình những yếu tố lãng mạn, những chi tiết đời
5
thực, để câu chuyện lịch sử kia không trở thành một “mẫu vật” trong bảo
tàng mà thực sự là con người, là đời sống với không khí của thời đại và
hoàn cảnh của nó”. Tác giả còn nhấn mạnh đến hình ảnh những người
phụ nữ trong cuộc đời của Tể tướng Lưu Nhân Chú thật đẹp – một vẻ đẹp
về cả hình thức lẫn phẩm chất tâm hồn, đó là nàng “Ngọc Tiêm - một
người vợ tuyệt vời, tuyệt đối yêu chồng và tuyệt đối đáng được chồng
yêu…; Slao, người giấu lòng yêu thầm nhớ trộm và cuối cùng đã lấy thân
mình chắn mũi tên giặc để chết thay Lưu Nhân Chú”.
Vi Phương, trong bài viết “Truyện ngắn trên báo văn nghệ Thái
Nguyên – 10 năm nhìn lại”, (Báo văn nghệ Thái Nguyên, tháng 11 năm
2015) đã luận về cái Đẹp hiện hữu trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang:
“Cái đẹp vĩnh cửu qua sương gió khác với cái đẹp hữu hạn của xác thịt con
người”; Cái đẹp thường biến mất trước suy nghĩ của những kẻ nông cạn
trong “Thần sắc đẹp” truyện ngắn của Hồ Thủy Giang”.
Tác giả Minh Hằng có bài viết Vài điều đáng nói xung quanh cuốn
tiểu thuyết lịch sử đầu tiên về danh nhân đất Thái đăng trên báo Thái
Nguyên ngày 31-5-2016 như sau:“Tể tướng Lưu Nhân Chú là “đứa con
tinh thần” thứ 29 của Nhà văn Hồ Thủy Giang, nhưng lại là cuốn tiểu thuyết
lịch sử đầu tiên ông viết về danh nhân Thái Nguyên. Sự ra đời tiểu thuyết lịch
sử Tể tướng Lưu Nhân Chú cũng lắm đặc biệt. Thông thường, người ta
chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim, nay nhà văn Hồ Thủy Giang làm ngược
lại: chuyển thể từ phim thành tiểu thuyết. Với “quy trình ngược” này, tác
phẩm là sản phẩm “nhuyễn” của kịch bản, phim và tiểu thuyết. Cũng vì thế,
hình ảnh vị Anh hùng dân tộc đất Thái được khắc sâu hơn bao giờ hết”.
Người anh hùng Lưu Nhân Chú được mãi lưu danh muôn đời: “Người Thái
Nguyên, đặc biệt người Đại Từ rất tự hào về Tể tướng Lưu Nhân Chú. Đã có
một trường cấp 3 mang tên ông; lễ hội Núi Văn, Núi Võ tại đền thờ Tướng
6
quân Lưu Nhân Chú tổ chức ngày mùng 4 Tết Âm lịch hằng năm; quần thể di
tích về Lưu Nhân Chú là di tích lịch sử cấp Quốc gia”.
Phương Dung - Lệ Hằng trong “Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy
Giang” (Đề tài Nghiên cứu khoa học) cũng đã viết: “Truyện ngắn của Hồ
Thủy Giang mang nỗi cô đơn, bất an của tâm hồn con người, những rung
động sâu xa, chân thành trước tình yêu thương, lòng nhân hậu của con
người. Điều này khiến chúng ta luôn phải ngạc nhiên ngỡ ngàng khi tự
khám phá ra phần sâu kín trong tâm hồn mỗi con người qua từng trang
văn”. Còn về giọng điệu trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang khi
thì:“Kín đáo, mỉa mai, lúc công khai thẳng thừng châm biếm, đả kích, lúc
lại lạnh lùng dồn nén, khi lại ngậm ngùi, xót xa”. Ngôn ngữ trong
truyện:“Giản dị, dễ hiểu, đời thường, đậm tính khẩu ngữ”. Về nội dung
hiện thực thì: “Hồ Thủy Giang xông xáo, cập nhật vào tất cả những vấn
đề bức xúc của đời sống.Trong truyện tác giả còn đưa ra những chiêm
nghiệm, những triết lý nhân sinh mang tầm tư tưởng sâu sắc vào những
vấn đề có thể nói là nhỏ nhặt và bình thường của cuộc sống”.
Nguyễn Thị Tuyết Mai trong “Đặc điểm truyện ngắn của Hồ Thủy
Giang”, (Luận văn Thạc sĩ năm 2011) đã đưa ra nhận xét : “Với hơn 200
truyện ngắn Hồ Thủy Giang hướng ngòi bút vào mọi vấn đề của đời sống,
những câu chuyện về tình yêu lứa đôi, hạnh phúc gia đình, những mối quan
hệ giữa cha con, mẹ con, bạn bè, đồng nghiệp, thầy trò...Truyện ngắn của Hồ
Thủy Giang là những lời thầm thì nhỏ nhẹ và ngậm ngùi về những cảnh đời,
những số phận của con người bình thường trong cuộc sống. Đọc truyện ngắn
Hồ Thủy Giang ta bắt gặp chính số phận và tâm trạng của mình và biết bao
con người bình dị ở quanh ta trong những phạm vi bình dị, đời thường nhất”.
Hồ Thủy Giang còn chú trọng tới việc miêu tả ngoại hình của nhân vật:“Hầu
hết các nhân vật nữ được Hồ Thủy Giang miêu tả rất rõ nét, từ đó để bộc lộ
7
một phần tâm trạng, đời sống, tính cách của nhân vật”.Truyện ngắn của Hồ
Thủy Giang thường có giọng điệu: “Xót xa ngậm ngùi, điều này nó thể hiện
trước tiên ở sự cảm thông với những con người cô đơn, có số phận bất hạnh
hoặc không may mắn của người phụ nữ”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong các bài viết của một số nhà phê bình,
trong các luận văn và đề tài nghiên cứu khoa học của học viên và sinh viên
đều có một điểm chung khi nhìn nhận, đánh giá về những thành tựu văn xuôi
của Hồ Thủy Giang nói chung và về nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật
(trong đó có nhân vật nữ) với các tác phẩm của ông nói riêng. Tuy nhiên cho
đến nay, chúng tôi nhận thấy vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
biệt nào về hình tượng người phụ nữ trong sáng tác Hồ Thủy Giang. Những ý
kiến trên đó mới chỉ là những nhận xét nhỏ lẻ, những gợi ý về vấn đề này.
Tiếp thu ý kiến và gợi ý của những người đi trước, chúng tôi đi sâu vào tìm
hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc trong các “Nhân vật nữ trong văn
xuôi của Hồ Thủy Giang”,với mong muốn: Phác họa một cách hệ thống và
toàn diện hơn về nhân vật nữ trong thế giới nghệ thuật của ông, để chỉ ra và
phân tích sâu một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, cũng như
khẳng định những đóng góp của ông trong nghệ thuật xây dựng thế giới nhân
vật nữ với cái nhìn đa chiều nhưng đầy tính nhân văn, nhân bản. Trên cơ sở
đó, khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn cũng như những đóng góp của
ông đối với sự vận động, phát triển văn xuôi của khu vực miền núi phía Bắc
nói chung và văn xuôi tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nhân vật nữ trong toàn bộ sáng
tác văn xuôi của Hồ Thủy Giang (chủ yếu qua truyện ngắn và tiểu thuyết) ở
cả hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật.
8
- Tuy nhiên, để làm rõ hơn những nét đặc trưng, những sáng tạo riêng
của cây bút văn xuôi Hồ Thủy Giang trong việc xây dựng hình tượng nhân vật
nữ, chúng tôi có đọc và khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của tác giả Thái
Nguyên và tác giả của một số tỉnh khác (ví dụ: Tác giả Vi Hồng, Ma Trường
Nguyên, Phạm Đức, Nguyễn Trường Thanh,…).
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Chỉ ra và làm rõ những đặc điểm cơ bản về các nhân vật nữ trong sáng tác
văn xuôi của Hồ Thủy Giang (ở cả hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật).
- Qua việc nghiên cứu về đặc điểm nhân vật nữ trong tác phẩm văn
xuôi của Hồ Thủy Giang, khẳng định những sáng tạo, những đóng góp của tác
giả đối với sự vận động và phát triển ở thể loại văn xuôi của đời sống văn
chương Thái Nguyên thời kì hiện đại.
- Đề tài được hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng
dạy phần văn học địa phương các trường Phổ thông trên địa bàn tỉnh cũng
như những người quan tâm đến nền văn học địa phương tỉnh Thái Nguyên.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận văn cần phải đi
vào giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Chỉ ra đặc điểm khái quát về văn xuôi Thái Nguyên (cơ sở thực tiễn
dẫn tới sự xuất hiện cây bút Hồ Thủy Giang).
+ Nghiên cứu một cách hệ thống về các nhân vật nữ trong sáng tác của
Hồ Thủy Giang - để chỉ ra và làm rõ những đặc điểm nổi bật về nội dung và
nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật nữ (vùng trung du và miền núi) trong
toàn bộ sáng tác văn xuôi của nhà văn Hồ Thủy Giang.
9
+ Khẳng định những mặt sáng tạo, những đóng góp riêng của nhà văn
Hồ Thủy Giang trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ đối với văn xuôi Thái
Nguyên nói riêng, văn xuôi khu vực trung du và miền núi phía Bắc nói chung.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được luận văn của đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số
phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
- Phương pháp khái quát - tổng hợp
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: (Văn học với Văn hóa học; Văn
học với Lịch sử...)
5. Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi của Hồ Thủy Giang, đặc biệt đi
sâu vào nghiên cứu và phân tích một số đặc điểm nhân vật nữ trong tác
phẩm (truyện ngắn và tiểu thuyết) của ông. Tuy nhiên, những sáng tác văn
xuôi của Hồ Thủy Giang rất phong phú và đa dạng, do đó chúng tôi xin
được giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể là: Các tác phẩm truyện ngắn
và tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn Hồ Thủy Giang, bao gồm 6 tập truyện
ngắn và 4 tập tiểu thuyết.
1. Truyện ngắn chọn lọc - Nxb Văn học. 2002
2. Cuồng phong - Nxb Thanh niên Hà Nội. 2002
3. Mùa gió heo may - Nxb Lao động. 2005
4. Nhà có 5 người - Nxb Văn hóa dân tộc. 2008
5. Người đẹp thường nhiều bí ẩn - Nxb Văn học. 2010
6. Không phải là ảo ảnh - Nxb Văn học. 2011
7. Mắt rừng (tiểu thuyết) - Nxb Công an nhân dân. 2015
10
8. Tể tướng Lưu Nhân Chú (tiểu thuyết) - Nxb Đại học Thái Nguyên . 2016
9. Những người mở đường (tiểu thuyết) - Nxb Văn học. 2016
10. Con đường cát bụi (tiểu thuyết) - Nxb Công an Nhân dân. 2016
- Khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của các nhà văn ở Thái Nguyên và ở
một số tỉnh lân cận khác (để so sánh, đối chiếu với nhà văn Hồ Thủy Giang).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Văn xuôi Thái Nguyên và nhà văn Hồ Thủy Giang
Chương 2: Nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang - một số đặc
điểm về nội dung
Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong
văn xuôi của Hồ Thủy Giang
7. Đóng góp của luận văn
- Tìm hiểu, phân tích những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật
trong việc xây dựng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi của nhà văn Hồ Thủy
Giang, từ đó có một cái nhìn tổng thể nhưng cũng rất cụ thể những sáng tạo,
những đóng góp đáng trân trọng của ông với đời sống văn chương Thái
Nguyên (ở thể loại văn xuôi) và trong việc góp phần hoàn thiện bức chân
dung người phụ nữ Việt Nam trong thời kì hiện đại và hội nhập.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn mang ý nghĩa thực tiễn, đó là: Thiết
thực giúp ích trong việc cung cấp tư liệu cho việc dạy văn trong nhà trường
Phổ thông ở tỉnh Thái Nguyên (phần giảng dạy về tác phẩm, tác giả Hồ Thủy
Giang), cũng như giúp ích cho việc tìm hiểu về văn học địa phương Thái
Nguyên đối với những người quan tâm đến vấn đề này.
11
CHƯƠNG I
VĂN XUÔI THÁI NGUYÊN VÀ NHÀ VĂN HỒ THỦY GIANG
1.1. Khái quát về văn xuôi Thái Nguyên thời kỳ hiện đại
Thái Nguyên là tỉnh miền núi thuộc vùng Trung du – Miền núi Bắc bộ,
phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội; phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía Đông
giáp các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Tây giáp các tỉnh Tuyên Quang,
Phú Thọ. Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục của Việt Nam nói chung, của vùng miền Đông Bắc nói riêng.
Đây là một trong những vùng chè nổi tiếng của cả nước, một trung tâm
công nghiệp gang thép phía Bắc của Tổ quốc, cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã
hội giữa vùng trung du và miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Thái Nguyên là
một tỉnh có bề dày lịch sử, một vùng đất giàu truyền thống cách mạng.
Thái Nguyên là một ngôi nhà chung của các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng,
Dao, Hoa, Sán chay, Cao Lan, H’ mông…cùng nhau chung sống và xây
dựng cuộc sống mới. Trong suốt quá trình phát triển lịch sử, Thái Nguyên
là nơi gặp gỡ, hội tụ của nhiều tộc người với những phong tục, tập quán
phong phú, đặc sắc và cũng đã tạo nên những hiện tượng “giao thoa” văn
hóa đầy thú vị. Có thể nói, Thái Nguyên là mảnh đất tụ hội nhiều nét văn
hóa đặc sắc của vùng trung du và miền núi, là trung tâm đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao (gồm nhiều Trường Cao đẳng, Đại học cùng đội
ngũ các nhà giáo, nhà khoa học), là trung tâm kinh tế - văn hóa xã hội,
khoa học công nghệ của cả vùng Đông Bắc Việt Nam.
Thái Nguyên cũng là mảnh đất đầy tiềm năng cho văn học nghệ thuật
phát triển, cùng với một đội ngũ khá đông đảo các nhà văn, nhà thơ các thế hệ
nối tiếp nhau. Trong hơn nửa thế kỉ vận động và phát triển (chỉ tính từ những
năm 60 thế kỉ trước) đến nay, văn học Thái Nguyên đã tạo nên một diện mạo
riêng với những đặc điểm riêng của đời sống văn học của vùng trung du và
12
miền núi. Có thể phác họa một cách khái quát về quá trình vận động và phát
triển của văn học Thái Nguyên cụ thể như sau:
- Giai đoạn trước Đổi Mới 1986: Ở giai đoạn từ những năm đầu thập
kỉ 60 đến trước 1986 là giai đoạn toàn Đảng, toàn dân tập trung vào hai
nhiệm vụ chính là: chống Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Cùng với những năm tháng đầy gay go và quyết liệt ấy, đội ngũ
sáng tác ở Thái Nguyên đã xuất hiện và phát triển cả về số lượng lẫn chất
lượng. Một số cây bút văn xuôi tiêu biểu của thời kì này là: Lê Minh, Xuân
Cang, Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Nông Minh Châu, Hồ Thủy
Giang…Những tác phẩm của các nhà văn trong giai đoạn này luôn mang
hơi thở nóng hổi của thời đại và phản ánh đời sống con người vùng trung
du và miền núi trên đà xây dựng chủ nghĩa xã hội - với một số tác phẩm
tiêu biểu như: Suối gang, Lên cao, Những vẻ đẹp khác nhau (Xuân
Cang); Người chia ánh sáng, Con nước Eng Nhàn, Đất Bằng, Thung
Lũng đá rơi (Vi Hồng), Trận địa giữa ruộng bậc thang (Nông Minh
Châu), Bạn cùng lớp, Cô bánh xích (Hồ Thủy Giang)... Qua một số tác
giả, tác phẩm tiêu biểu trên chúng ta thấy được những đóng góp quan trọng
của thế hệ các nhà văn đầy tiềm năng của Thái Nguyên. Họ cũng đã đạt
được nhiều Giải thưởng văn học của Trung ương và địa phương ví dụ như:
Nhà văn Xuân Cang với “Những vẻ đẹp khác nhau”, (Giải thưởng Hội
Nhà văn – 1968); Vi Hồng với truyện ngắn “Con nước eng nhàn”, (Giải
thưởng Báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn năm 1971); nhà văn Hồ Thủy Giang
với truyện ngắn: “Cô Bánh Xích”, (Giải thưởng Báo Văn nghệ - Hội Nhà
văn – 1971)...Tiếp đó là sự xuất hiện khá rầm rộ của những tên tuổi như:
Hoàng Minh Tường, Trịnh Thanh Sơn, Chu Hồng Hải, Nguyễn Đức Thiện,
Ba Luận,..những cây bút này đã góp phần tích cực vào việc làm nên diện
mạo văn học Thái Nguyên trên văn đàn cả nước.
13
- Giai đoạn Đổi Mới sau1986: Đội ngũ sáng tác văn học Thái Nguyên vẫn
tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới. Nhiều nhà văn đã hướng
ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực mới của xã hội cùng những hình tượng
con người với thân phận cá nhân vào trong tác phẩm của mình. Năm 1987,
Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên được thành lập, đánh dấu bước
ngoặt lớn đối với Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên. Một số tác giả văn xuôi
được đánh giá cao và khẳng định mình qua các tập sách riêng, gây được sự
chú ý của độc giả như: Vi Hồng, Hà Đức Toàn, Ma Trường Nguyên, Hồ Thủy
Giang, Hoàng Luận, Phạm Đức, Bùi Thị Như Lan…Nhắc đến nhà văn Vi
Hồng là nhắc đến người có công lao rất lớn trong việc “mở đường” cho văn
học Thái Nguyên phát triển. Ông là cây bút tiểu thuyết hàng đầu Thái Nguyên
nói riêng, của khu vực miền núi nói chung. Nhiều tác phẩm của ông được
đánh giá cao trong tiểu thuyết dân tộc thiểu số nói chung và tiểu thuyết Thái
nguyên nói riêng. Trong giai đoạn này, với niềm say mê văn chương và miệt
mài sáng tác, ông đã xuất bản thêm nhiều tiểu thuyết mới: Người trong ống
(1990); Người làm mồi bẫy hổ (1990); Gã ngược đời (1990); Tháng năm
biết nói (1993); Chồng thật vợ giả (1994); Phụ tình (1994); Đi tìm giàu sang
(1995);… Những cuốn tiểu thuyết của ông đều thể hiện tư tưởng nghệ thuật
của tác giả - như một nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Các trang viết của ông
như những lời tâm tình cùng các dân tộc miền núi, trước hết với người Tày
rằng: hãy yêu thương và biết yêu thương những cái đẹp, cao cả đồng thời
đem hết sức mình ra trừ diệt cái ác, kẻ ác.” [42,69]. Nhà văn Hà Đức Toàn
cũng là nhà văn hiếm hoi viết thuần về Thái Nguyên với tình yêu nồng thắm,
diết da. Ông lặn lội ngang dọc trên mảnh đất này và điều đó cùng đồng nghĩa:
Ông đã lặn lội dọc ngang trong suy nghĩ của con người Thái Nguyên. Lịch sử
đất và người Thái Nguyên là nguồn cảm hứng chính cho mọi sáng tác của
ông. Ông đã cho ra đời khá nhiều tác phẩm đậm màu xứ Thái như: Đêm trăng
14
nhà sàn (1988); Đôi Ba ông đầu rau (1999); Lũng mây (2000); Tuyển tập
Hà Đức Toàn (2007)…Nhà văn Ma Trường Nguyên là nhà văn dân tộc Tày
có nhiều đóng góp cho đời sống văn học Thái Nguyên, miệt mài “trên cánh
đồng chữ nghĩa”, ông cho ra đời những tác phẩm văn chương mang đậm hơi
thở cuộc sống và con người miền núi với những yếu tố nghệ thuật mang đậm
bản sắc Tày như: Mũi tên ám khói (1991); Gió hoang (1992); Tình xứ mây
(1993); Trăng yêu (1993); Bến đời (1995); Rễ người dài (1996); Cơn dông
thời niên thiếu (1997); Mùa hoa hải đường (1998); Dòng suối tuổi thơ tôi
(2004)…Có thể nhận thấy trong lĩnh vực tiểu thuyết, Ma Trường Nguyên đã
gặt hái khá nhiều thành công. Ông được nhận Giải thưởng của Ủy ban toàn
quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam với tiểu thuyết Rễ người dài;
Giải B - Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 5 năm (1992- 1997) của tỉnh Thái
Nguyên cho tiểu thuyết Mùa hoa hải đường… Những thành tựu đó góp phần
nào cho thấy chiều sâu và bề dày trong sáng tạo của nhà văn ở lĩnh vực tiểu
thuyết. Càng về sau, các nhà văn Thái Nguyên càng có ý thức đưa các loại đề
tài về công nghiệp, về nông thôn miền núi, về việc khai thác khoáng sản, về
rừng, về lịch sử từ thời phong kiến đến thời chống Mỹ, chống Tàu…vào trong
tác phẩm của mình. Ví dụ như trường hợp các nhà văn: Hoàng Luận, Phạm
Đức, Phan Thái, Hồ Thủy Giang…cụ thể là: Hoàng Luận với một số tác phẩm
như: Làng một người, Cây không lá, Nắng tím, Đất ống; Phan Thái có
những tác phẩm: Cơm áo chợ đời, Sóng bên ngày nắng, Đèn giời ; và Phạm
Đức có tác phẩm: Bão rừng, Giông gió làng chè; và Hồ Thủy Giang với các
tiểu thuyết: Tiếng súng bên sông Cầu, Những người mở đường, Tể tướng
Lưu Nhân Chú, Con đường cát bụi…Khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới
và Hội nhập thì ngoài các đề tài viết về miền núi, về nông thôn, về công
nghiệp hóa, về vùng cao biên giới,…nhiều nhà văn Thái Nguyên còn đi sâu
vào khai thác những khía cạnh về con người cá nhân với những mảnh đời,
15
những thân phận, những tình cảnh éo le…đặc biệt là thân phận người phụ nữ
trung du và miền núi trong cuộc sống đầy phúc tạp thời kỳ hiện đại. Tiêu biểu
có các nhà văn với các truyện ngắn như: Phan Thái với: Nước mắt nắng,
Người đàn bà đi trong sương; Trinh Nguyên với Giấc mơ, Mặt hồ phẳng
lặng; Bùi Thị Như Lan với Tiếng chim kỷ giàng, Mùa mắc mật, Hoa
mía…Hồ Thủy Giang với Thiên truyện cổ, Bốn người đàn bà, Điện hoa,
Bông hoa cô đơn, Phiên tòa, Nỗi ám ảnh của một tỷ phú, Nỗi buồn hãy tan
đi, Lúc ấy biển hoàng hôn, Cô gái ngồi bên cửa sổ…các tác phẩm đều
hướng về thân phận những con người không may mắn trong cuộc đời, những
con người bé nhỏ, lầm lũi, bất hạnh, nhưng trong tận thẳm sâu tâm hồn họ lại
vẫn lấp lánh những vẻ đẹp của lòng nhân hậu, vị tha, sự cố gắng hết mình để
vượt lên số phận, để có thể đón nhận một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhà văn Hồ
Thủy Giang là một trong những người có sự đồng cảm sâu sắc đối với thân
phận của người phụ nữ.Trong nhiều tác phẩm của ông dù nói trực tiếp hay
gián tiếp, luôn hiện lên những thân phận, những cảnh ngộ của bao người phụ
nữ nhỏ bé, thầm lặng, cam chịu, hi sinh, không kêu ca, đòi hỏi cho riêng cá
nhân mình.
Có thể thấy, lực lượng sáng tác văn xuôi của Thái Nguyên thời kỳ hiện
đại khá hùng hậu, trong đó có nhiều cây bút rất “cứng cáp”, có nhiều tác
phẩm được bạn đọc và dư luận ghi nhận, được đánh giá cao. Đó là những cây
bút không phải chỉ nổi tiếng ở Thái Nguyên mà còn có sức lan tỏa ra cả khu
vực trung du và miền núi phía Bắc. Tác giả văn xuôi Hồ Thủy Giang là một
trong số ít nhà văn như thế.
1.2. Vài nét về nhà văn Hồ Thủy Giang
Hồ Thủy Giang tên thật là Đào Việt Hải, sinh ngày 20/06/1947 tại quận
Kiến An, thành phố Hải Phòng. Hồ Thủy Giang là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, Hội
16
viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên... Năm 1960 Hồ Thủy Giang
theo gia đình từ Hải Phòng lên Thái Nguyên sinh sống và bắt đầu sự nghiệp
sáng tác văn chương. Thành công đầu tiên của ông là: Truyện ngắn đầu tay
“Ngàn làm máy” in trên báo tạp chí Văn nghệ Việt Bắc, với truyện ngắn này,
ông là người đầu tiên đưa hình ảnh phụ nữ của nền công nghiệp hiện đại vào
văn học. Sau đó ông lại được nhận được giải thưởng của Báo Văn nghệ - Hội
nhà văn Việt Nam năm 1971 với tác phẩm “Cô bánh xích”. Với lòng say mê
và yêu văn chương, ông vừa dạy học vừa viết truyện, làm thơ và không ngừng
học hỏi, tìm tòi qua sách vở và kinh nghiệm của những người đi trước. Năm
1980, Hồ Thủy Giang chuyển về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái
Nguyên. Từ đó ông thực sự đã dành nhiều thời gian, tâm huyết vào sáng tác
văn chương, thực sự có ý thức và có điều kiện đi theo con đường sáng tác mà
mình đam mê. Năm 1983, Hồ Thủy Giang được bổ nhiệm làm Phó Phòng
Xuất bản-Sở Văn hóa Bắc Thái. Năm 1987 Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc
Thái được thành lập, ông chuyển sang làm công tác Hội và là Ủy viên
Thường vụ Thường trực Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Thái. Từ năm 1992 đến
nay, Hồ Thủy Giang đã từng giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội
đồng Nghệ thuật- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên…
Hồ Thủy Giang là người có niềm say mê mãnh liệt với văn chương và
yêu văn chương tới độ đam mê. Hơn bốn mươi năm cầm bút, với hơn 30 tác
phẩm gồm nhiều thể loại (nhưng nổi bật nhất là thể loại truyện ngắn), Hồ
Thủy Giang được nhận hơn 20 Giải thưởng về văn học của Trung ương và địa
phương. Ví dụ như: Giải thưởng của các Báo: Báo văn nghệ (Hội nhà văn
Việt Nam năm1971); Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc (1994); Báo Giáo viên Nhân
dân năm (1976); Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm (1981,1990)…và Giải
thưởng cuả Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (các năm
2002, 2004, 2008, 2009, 2015); Cùng với Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 5
17
năm tỉnh Thái Nguyên (1992, 2002, 2007, 2011); Các giải thưởng do các Bộ
ngành phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức thi như: Tiểu thuyết (2013-2015) do
Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Công an đồng tổ chức; Tiểu thuyết (2013-2015)
do Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông đồng tổ chức; Kịch bản phim
truyện điện ảnh chất lượng cao về đề tài cách mạng và kháng chiến giai đoạn
1930 - 1975 của Hội Điện ảnh Việt Nam (2015)…
Trong suốt hơn 40 năm cầm bút, nhà văn Hồ Thủy Giang đã cho ra đời
một số tác phẩm khá đồ sộ, liên tục qua các năm, bao gồm: 13 tập truyện
ngắn, 5 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện thiếu nhi, 3 cuốn tiểu luận phê bình, 2
tập thơ, 6 kịch bản phim truyện. Cụ thể như sau:
+ Thể loại truyện ngắn:
1. Cô bánh xích (1985)
2. Có một cô gái trong đời (1987)
3. Con tàu đến muộn (1989)
4. Bông hoa cô đơn (1990)
5. Ảo ảnh (1997)
6. Lúc ấy biển hoàng hôn (2000)
7. Cuồng phong (2002)
8. Truyện ngắn chọn lọc (2002)
9. Tuần hoàn của đất (2003)
10. Mùa gió heo may (2005)
11. Nhà có năm người (2008)
12. Người đẹp thường nhiều bí ẩn (2011)
13. Không phải là ảo ảnh (2013)
+ Thể loại tiểu thuyết:
1. Tiếng súng bên sông cầu (2009)
2. Mắt rừng (2015)
18
3. Những người mở đường (2016)
4. Tể tướng Lưu Nhân Chú (2016)
5. Con đường cát bụi (2016)
+ Thể loại phê bình, tiểu luận:
1. Văn học Thái Nguyên – tác giả, tác phẩm (2004)
2. Thái Nguyên – một dòng chảy văn chương (2010)
3. Thơ chọn và lời bình (2012)
+ Thể loại thơ:
1. Tìm đâu nàng áo xanh ơi (2001)
2. Bạn với cỏ cây (2009)
+ Văn học thiếu nhi:
1. Bạn cùng lớp (1981)
2. Văn miêu tả lớp 4 và 5 (1993)
3. Chuyện cái chỏm đầu (2001)
4. Ếch ngồi đáy giếng (2003)
5. Cây đỗ dại khờ (2006)
+ Thể loại kịch bản và phim truyện:
1. Tình xứ mây (2007)
2. Người hay châm chọc (2009
3. Dưới cờ phục quốc (2010)
4. Phiên tòa trong mơ (2011)
5. Những người ở lại (2015)
6. Tể tướng Lưu Nhân Chú (2016)…
Qua số lượng tác phẩm và số lượng Giải thưởng văn chương mà nhà
văn Hồ Thủy Giang đã đạt được, có thể khẳng định: Ông là một nhà văn
tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên nói riêng, của khu vực trung du và miền núi
nói chung. Ông là một trong số ít nhà văn chuyên nghiệp, tâm huyết, tận
19
tụy và có sức làm việc, sáng tạo đáng nể trọng. Nội dung chủ yếu trong các
sáng tác của Hồ Thủy Giang là: viết về con người, cuộc sống, thiên nhiên
vùng trung du và miền núi nói chung, của mảnh đất Thái Nguyên nói riêng
trong quá trình vận động và phát triển suốt từ những năm đầu thế kỷ XX
cho đến nay. Nhà văn còn say sưa, tự hào viết về đề tài lịch sử với những
sự kiện, những nhân vật lịch sử của Thái Nguyên từ thời phong kiến đến
thời hiện đại. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Hồ Thủy Giang rất
phong phú, đa dạng và có những đặc điểm riêng. Đó là thế giới nhân vật
bao gồm những con người với các thành phần xã hội khác nhau, các lứa
tuổi, các nghề nghiệp khác nhau (từ chuyện thiếu nhi đến chuyện người
lớn, từ người nông dân miền núi đến người công nhân trong nhà máy, đến
các cán bộ lãnh đạo, quản lý, đến các trí thức, học sinh, sinh viên trong các
trường Đại học, Cao đẳng; Từ người lính cho đến người công an nhân
dân…). Trong thế giới nhân vật của ông nổi bật là nhân vật người phụ nữ
vùng trung du và miền núi với những vẻ đẹp khác nhau, tính cách khác
nhau và với những thân phận khác nhau. Thông qua việc xây dựng hình
tượng nhân vật người phụ nữ này, Hồ Thủy Giang đã thể hiện rõ hơn về
những quan điểm, những cái nhìn rất nhân văn, tràn đầy sự yêu thương, sự
cảm thông và sự trân trọng của mình đối với những người phụ nữ. Và trên
phương diện nghệ thuật, tác giả cũng có những đóng góp đáng khẳng định
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật với góc nhìn đa chiều, đa diện về con
người; với cách phản ánh khách quan và toàn diện hơn về tính cách và bản
chất của các nhân vật trong tác phẩm. Chính vì thế mà Hồ Thủy Giang luôn
được đánh giá như một nhà văn chuyên nghiệp có nhiều đóng góp cho văn
chương Thái Nguyên nói chung, cho văn xuôi Thái Nguyên nói riêng trong
suốt mấy chục năm qua.
20
1.3. Quan niệm về việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn
chương của nhà văn Hồ Thủy Giang
Với lòng say mê và sự tâm huyết của mình đối với văn chương nên ngay
từ nhỏ Hồ Thủy Giang đã có ý thức và nuôi dưỡng ước mơ sẽ trở thành
một nhà văn. Và hiện tại Hồ Thủy Giang đã thực sự trở thành một nhà văn
tiêu biểu của tỉnh Thái Nguyên và khu vực trung du – miền núi phía Bắc,
được nhận nhiều giải thưởng so với các nhà văn trong khu vực. Ông viết
nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình văn học và kịch bản
phim…, nhưng thể loại mà ông dành nhiều tâm huyết nhất và đạt được
nhiều thành công nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhà văn Hồ Thủy
Giang rất thích viết truyện ngắn, bởi lẽ theo ông: “Truyện ngắn là thể loại
có kết cấu ngắn gọn để đưa ra một triết lý, một quan niệm mang hơi thở
của cuộc sống” [32,10]. Đọc những truyện ngắn của ông, mỗi người sẽ tìm
thấy một phần cuộc đời và hình ảnh mình trong đó. Ngoài ra, ông rất thành
công trong việc sáng tác tiểu thuyết. Với ông, thực sự là ông đã sống một
nửa ngoài đời và một nửa là sống trong những tác phẩm văn học của chính
mình. Chính vì vậy, Hồ Thủy Giang đã có những quan niệm riêng của
mình về văn chương, về cuộc sống, về con người và việc phản ánh hiện
thực vào trong tác phẩm. Ông đã trực tiếp phát biểu về quan niệm nghệ
thuật, về văn chương của mình cụ thể như: “Văn chương không hề đơn
giản chỉ phản ánh đời sống đang tồn tại mà nó còn phản ánh những “ẩn
số” của cuộc sống. Từ đó, văn chương phải có nhiệm vụ thúc đẩy cuộc
sống của con người, giúp nhân loại thoát khỏi những bất an, phải đem lại
sự an ủi cho con người. Văn chương không chỉ là “tấm gương” phản chiếu
cuộc sống, mà luôn song hành cùng cuộc sống.Văn chương và thực tại là
hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau, nhưng văn chương lại
vừa phản ánh hiện thực trong cái ảo ảnh để làm xoa dịu đi nỗi đau của
21
thực tại đời sống”[32,13]. Quan điểm về nghệ thuật trong sáng tác văn
chương của ông thật chân thành, sâu sắc và có tính hiện đại. Trong mỗi
truyện ngắn hay tiểu thuyết của mình, nhà văn đều thể hiện những quan
điểm (dù trực tiếp hoặc gián tiếp) như là những thông điệp mang đầy ý
nghĩa triết lý nhân sinh, và cũng là những điều tâm huyết mà nhà văn muốn
gửi đến độc giả. Theo ông, đã viết văn thì: “Tác phẩm đó phải nhằm phục
vụ cho cuộc đời và con người, an ủi họ thoát khỏi sự bất an luôn tiềm ẩn
trong cuộc sống hiện tại”[32,14]. Và những quan niệm ấy đã được thể hiện
rất rõ trong các sáng tác cụ thể của ông.
Viết về cuộc sống, con người thời kỳ hiện đại, Hồ Thủy Giang hay đi vào
những loại đề tài “nhạy cảm”, với sự trải nghiệm và sự quan sát tinh tế cuộc
sống xã hội của mình (Nhà hàng cà phê trái hình, Tướng cướp, Bưởng
vàng, Nguyên Mẫu, Đối thủ, Thông reo, Món nợ, Những hàng ghế trống,
Chú bé đi giày một chân, Ngõ nhỏ…). Những truyện của ông đã giúp chúng
ta hiểu hơn những góc khuất của đời sống thời “mở cửa”. Tác giả ít khi xây
dựng nhân vật “đơn tính cách”, mà những nhân vật của ông thường là loại
nhân vật “đa tính cách”, có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp, có lối
sống, cách sống riêng mang màu sắc cá nhân rõ rệt.Truyện của ông luôn làm
cho độc giả phải suy ngẫm về những vấn đề nhức nhối đang hiện hữu trong
cuộc sống đương thời: Những cán bộ hư hỏng chưa bị vạch mặt (Tướng
cướp); những nhà hàng cà phê trá hình, thực chất là những nơi chứa chấp bao
tệ nạn xã hội: Chứa chấp gái điếm (nhiều cô gái trẻ đẹp vào làm cho nhà
hàng, ngoài việc làm phục vụ cà phê thì các cô còn “phục vụ” khách theo nhu
cầu, sẵn sàng trở thành món hàng trao đổi cho bà chủ và khách làng chơi
khác,…); những chốn ăn chơi của con nhà giàu; nơi buôn bán hàng lậu, hàng
cấm...(Nhà hàng cà phê trái hình). Trong truyện ngắn Chú bé đi giày một
chân, tác giả miêu tả “một góc công viên thành phố. Hầu như chiều nào cũng
22
thấy chú lặng lẽ ngồi trên chiếc ghế đá sứt, cặp mắt nhiu nhíu dõi cái nhìn mờ
mịt ra phía bờ sông”[12,17]. Góc công viên này chính là nơi ngủ nghỉ của
chú bé làm nghề bới rác đã gần mười năm. Tại đây chú thường băn khoăn
không biết mình có nên trở thành người lớn hay không vì “Người lớn mà cho
nhau, giúp nhau một tí là phải tính toán, cân nhắc thiệt hơn”[12,18]. Ý nghĩ
đó của cậu bé tưởng đơn giản nhưng lại hàm chứa những điều rất sâu sa. Như
vậy không gian thành thị này, đã hé lộ một phần số phận của những cậu bé mà
mọi người gọi là “dân bụi” ở chốn thị thành…Phố chỉ vẻn vẹn dăm bảy nóc
nhà thế nhưng lại hội tụ đủ mọi tầng lớp, thành phần trong xã hội. Tác giả đã
hướng điểm nhìn của mình đến từng nhà, từng số phận ở nơi đây, nhà văn
phát hiện ra, ở cái ngõ này “nỗi khổ bao giờ cũng nhiều hơn niềm vui, nỗi bất
hạnh nhiều hơn hạnh phúc”. Người đầu tiên tác giả miêu tả là bà Bảy, làm
công việc dọn thùng vệ sinh. Nỗi khổ vì nghề nghiệp của bà luôn hiện lên đầy
đủ hình thù và đường nét của nó. “Những người lịch sự nhất khi có việc phải
tiếp xúc với và cũng né xa xa. Người ta luôn tưởng tượng ra những phân tử uế
tạp li ti như còn thấm trên quần áo, thậm chí trên da thịt bà. Còn ở nhà ... con
cái bà luôn giành lấy việc nấu nướng chứ bà mà động vào là đến bữa ăn thế
nào chúng cũng khủng khỉnh”[ 9,125]. Thật bất hạnh cho bà Bảy thế mà trên
báo, đài lúc nào cũng luôn nói rằng nghề nghiệp nào cũng vinh quang. Người
khổ thứ hai là anh Hoạch làm nghề ăn trộm. Có lẽ trong cái ngõ này anh là
người khổ nhất vừa về thể xác vừa về tinh thần:“Hình như sống trong cộng
đồng nhân loại đấy anh luôn thấy mình không phải là người nữa rồi. Anh
không dám nhìn thẳng vào ai bao giờ. Mắt anh cứ đáo điêng, nửa như gian
hoạt, nửa như lẩn tránh... Vợ anh nhìn anh vừa cảm thông, vừa đắng cay,
khinh miệt. Con anh nhìn anh, thoắt cười khúc kha khúc khích rồi lại thoắt rơi
nước mắt ngay được. Con cái chúng nó có thể tự hào vì bố chúng là ông giám
đốc, ông giáo sư chứ chẳng có đứa nào tự hào vì bố là ông ăn trộm. Sống
23
trong gia đình, anh Hoạch trở nên ít nói, ít cười”[9,126]. Người khổ thứ ba là
một cán bộ văn phòng, với nghề tay trái là viết văn. Tuy nhiên, việc viết văn
khiến anh gặp phải ít nhiều phiền toái, anh bị kiện, thậm chí nhà anh còn bị
cắt nước - khi anh dám xây dựng nhân vật ông Giám đốc Nhà máy Nước
trong truyện ngắn của mình. Có lẽ trong ngõ nhỏ này, người được xem không
có điều bất hạnh gì là ông Cảnh – Thủ trưởng một cơ quan cấp cao ở Trung
ương:“Cứ chiều thứ bảy là chiếc xe con bóng nhãy lại đưa ông về nhà để
nghỉ ngơi sau một tuần làm việc. Thứ hai, xe lại toe toe đón đi. Trông ông lúc
nào cũng bệ vệ... Ông đi đến đâu là người thưa gửi râm ran. Nhà cửa ông
đàng hoàng. Con cái ông ăn học nên người”[9,128]. Thế nhưng, ông Cảnh
cũng không tránh được nỗi buồn: Vợ mất đã lâu muốn xây dựng lại lần nữa
để có người cùng bầu bạn lúc tuổi già nhưng khi muốn tìm hiểu ai thì họ lại
coi ông là “một ông thủ trưởng chứ không phải là một người đàn ông, nhất là
một người đàn ông đang cần lấy vợ”. Đã thế, sự kính trọng với ông nhiều khi
cũng kèm theo là điều mất tự do. Ở đâu ông cũng được hưởng sự kính trọng
từ cơ quan đến hội nghị, đường phố, gia đình, quê hương thậm chí ở cả nơi
chôn rau cắt rốn. Nhưng, ông sợ nhất là sự kính trọng của những người bạn
cũ. Ngoài ra, ông còn phải chịu những sự kính trọng thái quá, có khi còn giả
tạo của những kẻ cơ hội. Qua lời tâm sự “cuộc sống của những người bình
thường thật muôn vàn màu sắc, mùi vị. Nhưng tôi chỉ có quyền thèm thuồng
chứ đâu được hưởng... Chú bảo, thế thì sung sướng cái nỗi gì?”[9, 131] ta
thấy thật ngậm ngùi cho ông (Ngõ nhỏ). Chỉ với dăm bảy nóc nhà trong
không gian thành thị, Hồ Thủy Giang giúp người đọc thấy được những cảnh
đời, cuộc sống, công việc của con người thành phố nhiều khi chúng ta ngỡ
tưởng, người thành phố họ đâu biết đến nỗi buồn mà chỉ có niềm vui. Những
kẻ tham nhũng chưa bị pháp luật trừng trị thì trời đất cũng sẽ không tha
(Nguyên Mẫu, Đối thủ); Nhà từ thiện rộng rãi, hào phóng nhưng lại quên hay
24
cố lờ đi món nợ ân tình với người bạn cũ: liệu anh ta có cớ thật từ tâm hay
đây chỉ là một thủ đoạn mua danh? (Món nợ). Một người bạn đã lừa dối bạn
mình thời phổ thông, ba chục năm sau gặp lại, vẫn tiếp tục thói lừa chỉ vì thấy
bạn giỏi hơn mình về thi ca, mặc dù mình đã có mọi thứ (Những hàng ghế
trống). Thông reo là truyện về một Trạm trưởng Kiểm lâm đứng đắn, tận tụy
vì công việc, dám “chơi” cả phó Chủ tịch huyện - là thượng cấp, là người có
trách nhiệm xã hội to hơn anh Trạm trưởng quèn. Lý sự của Trạm trưởng thật
giản đơn: “Không ai có thể lớn hơn luật pháp” [12,148]. Vấn đề là ở chỗ anh
dám thể hiện cái chân lý hiển nhiên ấy bằng hành động cụ thể, kiên quyết
ngăn lại việc làm của phó Chủ tịch tỉnh, mặc dù đó cũng là việc công chứ
không có gì khuất tất…Phải chăng đây chỉ là những mặt tích cực hay có cả
những mặt tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường?.
Các nhân vật trong truyện của Hồ Thủy Giang thường có đời tư, có số
phận riêng, vận động phát triển theo quy luật riêng và khó đoán trước được.
Ví dụ: Truyện về hai vợ chồng quét rác nghèo khó phải bỏ nhau (vì đông con,
ông chồng nghiện rượu, con cái phải sống bươn trải bán hàng lặt vặt kiếm
sống…) tuy nhiên, cuối cùng với sự cố gắng, nỗ lực rồi họ cũng tìm được
hạnh phúc lại cho mình. Hay truyện viết về những nhân vật phụ nữ sống trong
sự đầy đủ vật chất, đài các như cô Mai - nhưng lại có cuộc sống tinh thần bất
hạnh, cô đơn, trống rỗng về tư tưởng, thiếu vắng tình yêu, thiếu vắng hơi ấm
gia đình; hay truyện về người nghệ sĩ (Vũ Hải Lăng) quá nghèo khó về vật
chất, nên cứ luôn trăn trở, suy nghĩ và tìm cách định nghĩa: “Hạnh phúc là gì”
và hành trình đi tìm hạnh phúc của họ thật khó khăn, đầy trắc trở. Ví dụ như:
Trong truyện ngắn Những phương trời lá rụng, đặc biệt là cuộc đời của
nhân vật Hãnh Xỉa - một tướng cướp tàn bạo, y có thể làm bất cứ việc gì mà y
thích, y muốn (tiền tài, vật chất, “nhà đẹp”, “vợ đẹp”, “chơi đẹp” với thiên
hạ…) nhưng y lại có nỗi đau đớn, bất hạnh vì không thể có con cái. Đây là
25
nỗi khổ, một bi kịch không thể giải quyết. Bế tắc, y tìm đến con đường sang
“thế giới bên kia” như một sự trốn chạy bi kịch cuộc đời. Hay Nguyệt, từ cô
sinh viên đanh đá, xinh đẹp, có bản lĩnh thể hiện cá tính mạnh mẽ nhưng trở
thành món hàng đáng thương. Cô đã từng mặc cảm với lũ con nhà giàu khi bị
chúng coi khinh con nhà nghèo như cô; rồi cô bị trả giá với tội danh ăn trộm
cái bánh mì và yêu đương lăng nhăng; cuộc đời làm vợ của bưởng vàng
Huỳnh xấu xí “nửa người nửa vật” kia có đem lại hạnh phúc hay chỉ là chuỗi
ngày bất hạnh.
Đặc biệt, nhà văn Hồ Thủy Giang còn hay hướng ngòi bút đến những câu
chuyện về tình yêu và hạnh phúc gia đình. Khi khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn
Hồ Thủy Giang chúng tôi nhận thấy: chiếm hơn 50 % số tác phẩm của ông là
những truyện viết về tình yêu. Mỗi câu chuyện tình yêu (trong truyện ngắn
hay tiểu thuyết) của nhà văn đều có những thử thách và chứa đầy buồn
thương, đau đớn, đầy nước mắt, thậm chí là cả máu, cả cái chết. Trong Con
tàu đến muộn chỉ vì sự ghen tuông của người chồng, sự thiếu hiểu biết, ích kỉ
vì “tính sĩ diện của người đàn ông” mà dẫn đến bi kịch tan vỡ gia đình - khi
hai người tuy còn rất yêu nhau, nhưng phải chia tay và sống trong niềm xót
xa, ân hận cả cuộc đời. Hai nhân vật Châu và Tùng trong Sao xanh yêu nhau,
thương mến, quan tâm, chia sẻ cùng nhau nhưng chỉ vì những tính toán thiệt
hơn, không chịu hy sinh vì nhau nên cả hai đều phải chấp nhận sống trong nỗi
cô đơn đến cuối đời. Nhân vật Miên trong Lúc ấy biển hoàng hôn cũng có
một tình yêu trong sáng với Thanh, một thấy giáo nghèo nhưng vì đã lựa chọn
cho mình một nghề không mấy “sạch sẽ” là tắm thuê – để đến nỗi phải chết
trong tủi nhục vì gặp phải kẻ “bạo dâm”. Cái chết của Miên đã làm cho thầy
giáo Thanh vô cùng ân hận, đau khổ vì đã không thể đến kịp để cứu và đưa cô
thoát khỏi sự nguy hiểm trong công việc mà cô đang làm. Những câu chuyện
về tình yêu trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang thường có những bi kịch, nhiều
26
nỗi xót xa, đôi khi là sự bất công và ít khi có những câu chuyện tình kết thúc
có hậu. Chính vì thế chăng mà nhà văn đã muốn nói với mọi người rằng:
“đừng để nhìn thấy những cặp mắt tình yêu suốt đời phải khóc, thậm chí khóc
bằng máu của cả kiếp người”[9,75].
Quan niệm về tình yêu và hạnh phúc của nhà văn cũng vậy, nhà văn
luôn trăn trở một câu hỏi lớn: thế nào là hạnh phúc? và hạnh phúc đích thực
của con người là gì? Có đầy đủ tiền tài, danh vọng, quyền lực liệu đã hạnh
phúc chưa? thế nào là tình yêu? Hạnh phúc trong tình yêu là gì? Để có được
hạnh phúc trong tình yêu con người có phải trả giá không?. Trong đó, mỗi
tình yêu trong câu truyện ngắn của Hồ Thủy Giang đều thể hiện những mặt
gai góc, chan chứa những buồn thương, đau đớn đầy nước mắt, có cả máu,
thậm chí cả cái chết… Ví dụ trong một số truyện ngắn như: Bông hoa cô
đơn, Ngõ nhỏ, Con tàu đến muộn, Tro tàn, Tàu đêm, Chuyện tình ở dốc
Nguy Hiểm, Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú,...Bản chất của tình yêu phải là
sự chân thành và sự hy sinh.Thiếu đi sự chân thành, sự hy sinh thì đồng nghĩa
là không còn tình yêu. Thế mà chỉ vì sợ bị “suy giảm tư cách” mà vị phó Chủ
tịch tỉnh không dám nói ra điều sâu kín trong lòng ông: “Em là bông hoa tươi
đẹp nhất của đời anh” để rồi cả hai đều trở thành những bông hoa cô đơn
buồn tủi (Bông hoa cô đơn). Trong một chuyện khác, cũng chỉ vì một sự nghi
ngờ ghen tuông mù quáng, mất khôn của Thuận mà phải chia lìa tình vợ
chồng, biết rằng cả hai dù rất yêu nhau những vẫn phải xa nhau (Con tàu đến
muộn). Hoặc chỉ vì sự cám dỗ của đồng tiền mà cô gái đã phải bỏ người yêu
theo một Giám đốc, để cả cuộc đời cô không có được một hạnh phúc vẹn tròn
(Sân Ga). Trong truyện Tro tàn, bất ngờ lại ở chỗ người vợ tìm mọi cách để
“tiêu diệt” đối phương, tìm mọi cách để đòi lại căn nhà của vợ chồng chị,
nhưng người chồng coi như đã “chết” khi dấn thân vào những tệ nạn xã hội.
Lúc người vợ đang mừng với chiến thắng thì tình cảm vợ chồng, tình cảm gia
27
đình lại tan nát. Không chỉ trong truyện ngắn mà ngay cả tiểu thuyết Tể tướng
Lưu Nhân Chú, một tiểu thuyết lịch sử cũng thấm đẫm một tình yêu đẹp, đơn
phương nhưng cũng nhuộm màu bi kịch. Nhân vật Slao, cô gái Tày xinh đẹp
đã âm thầm khao khát có một tình yêu với vị chủ tướng tài giỏi của mình,
nhưng vị Chủ tướng ấy đã có gia đình , có một người vợ trẻ đẹp, đảm đang,
thông thạo cung kiếm. Nên suốt cuộc đời này, cô ôm mối tình đơn phương và
cuối cùng bi kịch ấy cũng đã giải thoát bằng cái chết anh dũng và tự nguyện
của nàng đối với người yêu, một vị Chủ tướng tài ba này. Phải chăng nhà văn
đã ý thức sâu sắc được rằng: Con người, tình yêu, cuộc sống, hiện thực luôn
phong phú và phức tạp, luôn có những phần khuất lấp của nó và cần phải nhìn
nhận, phản ánh nó dưới nhiều góc cạnh mới có thể phản ánh chân thực, khách
quan vào trong tác phẩm văn chương. Vì vậy, nhà văn cần phải lách sâu ngòi
bút của mình vào thế giới tâm hồn thế giới tâm hồn của con người, vào phần
khuất lấp của cuộc sống, của hiện thực thì mới có thể phản ánh đầy đủ chân
thực, khách quan, hiện thực của cuộc sống và số phận con người. Từ quan
niệm ấy, nhà văn đã thể hiện một cách cụ thể, sinh động trong cách xây dựng
nhân vật, phản ánh hiện thực trong các sáng tác của mình. Đồng thời qua đó
nhà văn đã khẳng định: Hạnh phúc đích thực không phải là do có quyền lực,
danh vọng và tiền tài. Muốn có được tình yêu, hạnh phúc thực sự, con người
phải biết yêu thương nhau, phải sống vị tha, bao dung, biết cảm thông, chia sẻ
cùng nhau, đồng cảm với nhau cả khi buồn, lúc vui, khi thành công cũng
như lúc thất bại trong cuộc sống.
Trong những truyện ngắn như: Cỏ dại, Cuồng phong, Hoa Phặc Phiền
vẫn nở, Hoa Phượng, Thiên truyện cổ, Quyển học bạ... nhà văn cho thấy
con người luôn tồn tại hai mặt: đẹp – xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, yêu –
ghét, vui – buồn, trong sáng – tối tăm, hạnh phúc – khổ đau,... Trong số hơn
ba mươi tám truyện ngắn của ông từ chuyện trẻ con (Kim) đến chuyện người
28
lớn ( Lão căn ke); từ chuyện người ăn cắp vặt đến chuyện của đại gia (Tên
trộm, Nửa giờ với một tỉ phú); từ chuyện văn sĩ (Quyền được nói to) họa sĩ
( Danh họa) sang chuyện nhà thơ, chuyện nhạc sĩ (Nhạc sĩ)…; từ chuyện góc
phố nghèo (Người kéo xe ba gác) đến chốn ăn chơi thác loạn (Sàn nhảy); từ
chuyện tòa án đến chuyện đời thường (Có một phiên tòa, Chia tài sản, Vàng,
Báu vật, Đệm điện, Chiếc nhẫn)…tất cả mọi chuyện xảy ra từ phố thị cho
đến xóm núi mờ sương của mảnh đất Thái Nguyên đều được nhà văn quan sát
và đưa vào truyện. Các câu chuyện từ chuyện to đến chuyện nhỏ,
chuyện buồn đến chuyện vui, chuyện thương tâm đến chuyện bức xúc, chuyện
ngành này, nghề nọ,... nhà văn đã quan sát và suy nghĩ viết nên thành tác
phẩm văn chương để cùng bạn đọc suy ngẫm về các thời cuộc, về con người,
về lẽ đời, về xã hội thời “mở cửa”… Chẳng hạn, câu chuyện về cái khoảng
cách hơn một mét mà một trong hai người không thể vượt để gặp
nhau? (Khoảng cách); rồi cái giá của niềm tin ở cuộc đời này là bao nhiêu?
(Giá của niềm tin); ứng xử của hai người phụ nữ sau phiên tòa là thế nào?
(Có một phiên tòa). Nhà giàu mà cũng khổ, nỗi thống khổ của tỉ phú là
gì?(Nửa giờ với một tỉ phú) và vì sao con người lại không thể làm “một
người bình thường”? (Một người không thể trở thành người bình thường);
báu vật của hai vợ chồng nhà nọ là gì? (Báu vật)…Tác giả sẽ cùng bạn đọc
giải đáp các câu hỏi và cùng chiêm nghiệm, suy nghĩ. Có thể thấy rất rõ một
điều: Trước đây nhà văn thường say sưa với những nét đẹp của cuộc sống
mới, với nhiều điều lãng mạn trong tình yêu, nhiều điều tốt đẹp mặc dù hiện
thực đời sống khi ấy đầy những khó khăn, gian khổ nhưng giờ đây, nhà văn
đã nhận ra và phản ánh vào trong tác phẩm những mảng hiện thực nhiều điều
buồn, nhiều chuyện đau lòng, nhiều cái trớ trêu… Con người sao giờ lắm kiểu
dạng, lắm mưu mô mà cũng nhiều bất hạnh đến thế?. Cái giọng kể vui tươi,
29
hóm hỉnh, tràn đầy niềm yêu đời, lạc quan giờ bổ sung thêm với một giọng
điềm đạm, kìm nén, ẩn chứa nhiều băn khoăn, day dứt.
Từ quan niệm và cách nhìn nhận về con người, như vậy Hồ Thủy Giang
hay đề cập đến sự tác động của hoàn cảnh đối với việc hình thành và thay đổi
nhân cách của con người. Đặc biệt ông rất quan tâm đến loại nhân vật là phụ
nữ. Những nhân vật nữ trong các tác phẩm của ông rất phong phú, mỗi người
một vẻ, một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau. Ví dụ như: Một người vợ
vốn nết na, chung thủy vậy mà khi bị mất nhà đã dễ dàng bán đi cả nhân
phẩm của mình (Tro tàn); cô Xuyến từ một học sinh ngoan, học giỏi vậy mà
chỉ vì những lời phê tàn nhẫn trong quyển Học Bạ mà đã bỏ học rồi trở thành
một cô gái giang hồ và sau cùng là phải nhận lấy cái chết đau đớn, nhục nhã,
khốn khổ (Quyển học bạ); cô Đào (Thiên truyện cổ) một phụ nữ không may
mắn trải qua ba đời chồng và những người chồng đó của cô đã lần lượt ra đi
với cái chết oan uổng, dân làng dị nghị và cho rằng cô “hắc tinh chồng”, “sát
chồng” và là “yêu tinh” của làng. Cô đã chạy trốn vào trong rừng sống cùng
với cỏ cây, rắn độc và đã chết đầy oan uổng, cô độc ở chốn rừng sâu…Từ
những nhân vật đó, nhà văn như muốn gửi tới thông điệp với tất cả mọi
người: Đừng để cho hoàn cảnh làm thay đổi đến nhân cách con người, đừng
để hoàn cảnh quyết định đến số phận của con người. Và mọi người đừng đổ
lỗi cho hoàn cảnh mà hãy tự nhìn nhận lại mình, dù gặp bất hạnh, trắc trở thì
con người hãy cố gắng vươn lên làm chủ và chiến thắng hoàn cảnh đó mới là
điều đáng quý trong cuộc sống hôm nay.
Bằng những tác phẩm văn chương của mình, Hồ Thủy Giang cũng như
nhiều nhà văn khác đã cố gắng góp phần vào việc thức tỉnh lương tri con
người, để giúp họ vươn lên chính mình, vượt qua hoàn cảnh để vươn tới cái
chân – thiện – mỹ trong cuộc sống. Chính vì vậy, tìm hiểu về quan niệm về
việc phản ánh cuộc sống, con người trong sáng tác văn chương của nhà văn
30
Hồ Thủy Giang sẽ giúp cho chúng ta hiểu đúng và sâu sắc hơn về những điều,
những giá trị về (nội dung và nghệ thuật) trong các sáng tác của nhà văn tiêu
biểu của tỉnh Thái Nguyên này.
Tiểu kết
Qua việc phác họa về tình hình và đặc điểm của văn xuôi Thái Nguyên
trong hơn nửa thế kỉ qua đã cho chúng ta thấy: Thái Nguyên là một tỉnh trung
du và miền núi, đã từng là thủ đô kháng chiến, là trung tâm kinh tế - văn hóa -
xã hội của cả khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là một
tỉnh có nhiều cây bút văn xuôi nổi tiếng của khu vực, có nhiều đóng góp cho
đời sống văn chương của vùng, của đất nước. Trong các cây bút văn xuôi đó
có nhà văn Hồ Thủy Giang – một nhà văn đã gắn bó cả cuộc đời với Thái
Nguyên, một nhà văn có số lượng tác phẩm vào loại nhiều nhất và đạt nhiều
giải thưởng cao.Với quan niệm đổi mới về việc phản ánh cuộc sống, con
người và hiện thực xã hội vào văn chương – tác giả Hồ Thủy Giang đã tạo
cho mình một vị trí xứng đáng trong đời sống văn chương của Thái Nguyên
cũng như khu vực miền núi trong suốt hơn 30 năm từ bắt đầu thời kì Đổi Mới
cho tới nay.
31
CHƯƠNG II. NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI
HỒ THỦY GIANG - MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1. Khái niệm “Nhân vật ” trong sáng tác văn học
Hình tượng nhân vật hay nhân vật trong một tác phẩm, đóng một vai
trò rất quan trọng, nó là cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc
(thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được
nhà văn thể hiện). Trong nghiên cứu văn học, nhân vật là: “phương tiện cơ
bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng” [6,126]. Nhân
vật “thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về
con người” [24,236]. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một
thế giới riêng của đời sống và có chức năng khái quát những tính cách, hiện
thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây
dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà
văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác
phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra
những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn
thể hiện. Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là
những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được
khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả.
Nói đến nhân vật văn học là còn nói đến việc con người được miêu tả, thể
hiện trong tác phẩm bằng ngôn ngữ. Đó có thể là những nhân vật có có tuổi
hoặc là những nhân vật không có tên tuổi rõ ràng. Nhân vật vừa là một yếu tố
phụ thuộc, nó là một loại kí hiệu đặc biệt, là thành phần của cốt truyện, thúc
đẩy cốt truyện phát triển, là chủ thể của hành động, mang ý nghĩa nhất định -
mặt khác, nhân vật là một yếu tố độc lập, không phụ thuộc cốt truyện, xuất
32
hiện như một nhân cách mang phẩm chất ổn định, vững bền. Có thể thấy,
trong tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là hình thức cơ bản
của văn học để qua đó con người và muôn loài được miêu tả một cách hình
tượng. Khác nhân vật trong hội họa, điêu khắc, nhân vật văn học thường bộc
lộ tính cách trong “hành động” và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Qua ngôn
ngữ trần thuật (kể và tả của tác giả); qua ngôn ngữ nhân vật (gồm độc thoại và
đối thoại) mà hiện thực đời sống con người, xã hội hiện lên như thật, khiến
cho người đọc có thể hình dung một cách rõ nét và cụ thể.
Tóm lại: “Nhân vật văn học chính là hình ảnh con người được thể hiện
bằng phương tiện ngôn ngữ trong tác phẩm. Và nội dung của văn học nằm
trong sự thể hiện hoạt động của nhân vật” [1,13].
2.1.2. Vài nét khái quát về nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam thời
kỳ hiện đại
Văn xuôi Việt Nam sau năm 1945 tới nay đã xuất hiện nhiều thế hệ
nhà văn viết về đề tài người phụ nữ. Nếu như trước đây, văn xuôi viết về phụ
nữ thường là theo hướng ngợi ca hay phê phán từ cái nhìn đạo đức, bởi nhà
văn đã xây dựng các nhân vật nữ để chuyển tải một quan niệm, tư tưởng nhận
định nào đó của xã hội thì trong văn xuôi thời kỳ Đổi Mới, việc xem phụ nữ
như một khách thể thẩm mỹ độc lập, như một thế giới riêng đầy bí ẩn và hấp
dẫn cần được khám phá và lý giải đã như thành một “trào lưu”. Theo PGS. TS
Trần Thị Việt Trung trong công trình “Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại”, cho rằng: Vẻ đẹp người phụ nữ là sự biểu hiện hài
hòa giữa vẻ đẹp của sự dịu dàng, duyên dáng với vẻ đẹp của trí tuệ, sức mạnh
của lòng nhân ái và đức vị tha nhưng đồng thời cũng là những nỗi buồn đau,
những bất hạnh trong cuộc đời đầy phức tạp, đầy thách thức. Những hình
tượng ấy đem lại sự thành công cho các tác giả và để lại ấn tượng cho người
đọc nên xuất hiện hàng trăm bài nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam
33
những tác phẩm mà trong đó nhân vật nữ là nhân vật trung tâm, nhân vật điển
hình. Ví dụ như trong các tác phẩm: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Sóng gầm
(Nguyên Hồng ), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Mùa lạc (Nguyễn Khải), Mẫn và
Tôi (Phan Tứ), Hòn Đất (Anh Đức), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh
Châu), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi)….Có thể nói, chưa bao giờ người
phụ nữ lại dành được sự quan tâm lớn của đông đảo người cầm bút như hôm
nay. Thậm chí, qua tên tác phẩm ta cũng phần nào thấy được thế giới phụ nữ
qua cái nhìn của các nhà văn hôm nay đa dạng và đa sự đến nhường nào:
Người đàn bà trên đảo (Hồ Anh Thái); Người đàn bà trên bãi tắm (Dương
Hướng); Những người đàn bà bên sông (Thùy Dương); Thời thiếu nữ (Cẩm
La); Mẹ già, Gái có con (Ma Văn Kháng); Hồn trinh nữ, Góa phụ đen (Võ
Thị Hảo), Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Người đàn bà và những
giấc mơ, Người đàn bà có ma lực, Người đàn bà đứng trước gương (Y
Ban); Người đàn bà tóc trắng (Nguyễn Quang Thiều); Thiếu phụ chưa
chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Tập yêu chồng (Phạm Thái Lê), Người đàn
bà tên Hạ (Thùy Dương),... Chỉ điểm qua tên một số tác giả, tác phẩm tiêu
biểu trên ta cũng có thể thấy rằng: Người phụ nữ là nhân vật nổi bật trong văn
xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại và trong thời kì Đổi Mới. Đặc biệt có nhiều
tác phẩm văn học sau Đổi Mới cũng đã lấy nguồn cảm hứng từ những người
phụ nữ với những số phận, những mảnh đời khác nhau. Qua mỗi tác phẩm,
viết về phụ nữ, rất nhiều các tác giả đều muốn gửi vào đó một triết lí nhân
sinh về người phụ nữ, là vấn đề phụ nữ. Ví dụ: Nguyễn Minh Châu là một nhà
văn rất hay lấy nguồn cảm hứng từ những người phụ nữ. Ví dụ như nhân vật:
Hạnh (Bên đường chiến tranh), nhân vật Thai, Huệ (Cỏ lau), nhân vật Quỳ
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành)…Đó là những người đàn bà có thể
cùng một lúc có nhiều mối quan hệ tình cảm khác nhau, mà quan hệ nào cũng
chân thành, cũng chính đáng cả: “Họ đem lại cho ta một xúc cảm thẩm mỹ
34
mới, xúc cảm có được khi con người tự khám phá ra chính bản thân mình,
hơn là đem lại một ý niệm đạo đức. Có thể gọi người phụ nữ theo quan niệm
của Nguyễn Minh Châu là con người đa đoan. Từ “đa đoan” không mang ý
niệm đạo đức và nó tiếp cận sâu hơn đến tâm tính của phái yếu. “Đa đoan”
chính là từ mà Nguyễn Minh Châu dùng để gọi đặc điểm của con người trong
văn học đổi mới (theo ông, cuộc đời thì “đa sự” mà con người thì “đa đoan”
[29, 38]. Dường như nhà văn đã “tiên cảm” đượ số phận những người phụ nữ
sau chiến tranh nên đã nhìn nhận và xây dựng nhân vật nữ với cái nhìn đa
diện, đa chiều hơn trong cuộc sống.
Ở nước ta, ngay trong thời kỳ hiện đại những tư tưởng “Trọng nam
khinh nữ”, một tàn dư của chế độ phong kiến vẫn tồn tại dai dẳng trong tâm
thức nhiều người. Do đó sự “lên ngôi” của người phụ nữ trong văn xuôi thời
kì hiện đại như là một kết quả hợp lý và là sự gặp gỡ, sự nỗ lực đổi mới của
nhà văn và hiện thực cuộc sống đất nước ta sau chiến tranh và nhất là khi
bước sang thời “mở cửa”. Tóm lại có thể nhận thấy: Nhân vật nữ đã thật sự
trở thành một kiểu nhân vật trung tâm của nền văn xuôi Việt Nam thời kì hiện
đại. Thông qua các nhân vật nữ với các số phận khác nhau, hoàn cảnh khác
nhau, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong các tác phẩm của các nhà
văn hiện đại, người đọc có thể hình dung ra cả một quá trình lịch sử của dân
tộc Việt Nam từ thời kì đen tối nhất dưới ách thống trị của thực dân phong
kiến đến những năm chiến tranh những năm kháng chiến gian khổ, đầy sự hy
sinh nhưng anh dũng kiên cường và giành lại độc lại độc lập cũng như nhũng
năm tháng vặn mình đầy đau đớn nhưng kiên quyết mãnh liệt theo con đường
Đổi Mới. Nên có thể khẳng định số phận của người phụ nữ gắn chặt với số
phận của dân tộc. Việc phản ánh, xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong các
tác phẩm với một thái độ trân trọng, yêu thương, ngợi ca và khẳng định các
tác giả văn xuôi Việt Nam thời kì hiện đại là một việc làm mang đầy ý nghĩa.
35
Dưới ngòi bút của họ, thế giới nhân vật nữ được thể hiện lên một cách sống
động với những nét tính cách, suy nghĩ, nỗi niềm, day dứt, giằng xé, những
mâu thuẫn đan xen, những cung bậc tỉnh cảm, những cảm giác, những cách
ứng xử, hành động…rất khác nhau. Qua các tác phẩm văn xuôi Việt Nam
hiện đại của một số nhà văn tiêu biểu, chúng ta thấy rõ hình tượng nổi bật về
nhân vật người phụ nữ Việt nam. Đó là người phụ nữ vừa có vẻ đẹp truyền
thống, vừa có vẻ đẹp hiện đại. Họ chính là những người đại diện cho vẻ đẹp
của nền văn hóa Việt Nam, cho bản lĩnh Việt Nam, cho những truyền thống
quý báu của dân tộc Việt nam nhưng đồng thời cũng đại diện cho những nỗi
niềm, cho những đớn đau…của con người cá nhân thời kỳ hiện đại và hội
nhập. Do vậy, chúng ta cần một thái độ vừa yêu thương, vừa trân trọng, vừa
phê phán, vừa ngợi ca, khẳng định – với một bút pháp nghệ thuật sinh động,
đầy sáng tạo - các nhà văn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại đã khẳng định
tài năng và phong cách nghệ thuật, đã khẳng định được giá trị hiện thực sâu
sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong các sáng tác của mình. “Họ đã có những
đóng góp đáng kể vào việc góp phần khắc họa chân dung con người Việt Nam
vào trong đời sống văn học nước nhà, góp phần tạo nên sự đa dạng, sự phong
phú của diện mạo nền Văn học Việt Nam hiện đại và góp phần thúc đẩy quá
trình văn học nước nhà phát triển theo hướng hiện đại hóa” [44,192]. Theo
dòng chảy của lich sử văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ vẫn xuyên
suốt trong các tác phẩm của các nhà văn thuộc các thế hệ nối tiếp nhau. Trong
thời chiến cũng như trong thời bình, người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở
nhiều vị trí trong cuộc đời đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong nền văn học
hiện đại, với những phẩm chất tốt đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
nam, những cung bậc cảm xúc phức tạp, những trăn trở cuộc đời, họ đã đến
và để lại trong lòng độc giả những ấn tượng thật đậm nét, khó phai mờ. Bên
cạnh đó, cuộc đời của người phụ nữ với bao sự bất công, chịu bao đắng cay,
36
tủi nhục, bao bệnh tật và bất hạnh…từ xưa tới nay, nhất là trong thời kỳ hiện
đại và Hội nhập quốc tế, với bao thuận lợi, bao thách thức, bao khó khăn,
phức tạp của cuộc sống của thời cơ chế thị trường…cũng đã được các nhà văn
đưa vào tác phẩm của mình. Trong một loạt các sáng tác của các nhà văn sau
Đổi Mới, đặc biệt là các nhà văn nữ như: Trần Thị Trường, Phạm Thị Hoài,
Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hà Thị Cẩm Anh, Võ Thị
Hảo, Đào Minh Phượng….thì hình tượng người phụ nữ với tư cách “con
người cá nhân” đã được miêu tả, khắc họa khá rõ nét và sinh động.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, với các quan niệm khác nhau của
các thế hệ nhà văn khi nhìn nhận về vai trò, vị trí của người phụ nữ nên đã có
những thủ pháp nghệ thuật khác nhau khi xây dựng nhân vật người phụ nữ
trong các tác phẩm của mình. Nhưng có thể khẳng định rằng: Nhân vật nữ
luôn là một hình tượng nghệ thuật lớn, một loại nhân vật trung tâm trong các
sáng tác của các nhà văn Việt Nam thời kỳ hiện đại.
2.2. Một số đặc điểm về nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ Thủy Giang
Khảo sát qua 6 Tập truyện ngắn của Hồ Thủy Giang với 155 truyện, và
bốn cuốn tiểu thuyết của ông, chúng tôi thấy, có hơn 80 % số truyện viết về
người phụ nữ, trong đó có hơn 50% truyện có nhân vật chính là phụ nữ. Ví dụ
như các nhân vật: Cô ngàn (Ngàn làm máy); Cô Hiền (Cô bánh xích); Nữ tỉ
phú (Nỗi ám ảnh của một nữ tỉ phú); Chị Khuất Thị Đanh, Hoài Thơm
(Phiên tòa); cô Hồng Ánh (Tấm bia mộ khắc đời); Cô thư ký (Bông hoa cô
đơn), cô Oanh (Sân ga), cô Miên (Lúc ấy biển hoàng hôn); cô Hương (Cô
bưu điện gốc trám), cô Đàn (Chuyện của thầy giáo Sơn), Chị Thúy (Nỗi
buồn hãy tan đi), cô Hương (Cô gái bên cửa sổ), cô Phương Lan (Điện
hoa), Chị Hạnh (Chị Hạnh ơi), Chị Quỳnh Mai (Bóng thời gian), cô Phương
(Những kiệt tác), cô giáo Hồng (Chuyện về hoa mộc miên) cô Đào (Thiên
truyện cổ), cô Châu (Sao xanh), cô Quyên (Người đẹp thường nhiều bí ẩn),
37
Người mẹ (Cây trứng gà bất tử), em Xuyến (Quyển học bạ), cô bé Kim
(Kim), em Dinh (Xin việc); cô Thục Linh (Cõi nhân tình), cô Sâm, Nhung
(Tàu đêm); cô Nguyệt, Mai (Những phương trời lá rụng)…Ngoài các nhân
vật chính là nữ, còn có nhiều nhân vật nữ xuất hiện với tư cách là các nhân
vật phụ, nhân vật “làm nền” cho các nhân vật chính khác, nhưng cũng được
tác giả dành nhiều cảm tình khi khắc họa hình ảnh như các nhân vật: Slao,
Ngọc Tiêm (Tể tướng Lưu Nhân Chú); Mơ, Suối, Tâm (Mắt rừng); Thắm,
Liễu, Lan, Mơ, Sâm, tuyết, bà Tâm (Con đường cát bụi); Sao, Tâm, La,
Mận, Mỵ (Những người mở đường)…Thông qua việc khảo sát trên chúng
tôi thấy, các nhân vật nữ đã trở thành hình tượng tiêu biểu trong sáng tác của
ông với đặc điểm nổi bật là: Họ là những người phụ nữ với vẻ đẹp tự tin,
mạnh mẽ, tràn đầy sức sống và nghị lực sống trong gia đình và xã hội. Cụ thể
hơn, đó là những người phụ nữ lao động vùng trung du và miền núi với vẻ
đẹp khỏe mạnh, có sức sống mãnh liệt, bản lĩnh, tự tin, dũng cảm vượt qua
mọi rào cản của gia đình và xã hội, vươn lên làm chủ cuộc đời và tương lai
của mình; đồng thời họ cũng là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, số
phận bất hạnh được hiện lên như một nỗi “ám ảnh” trong văn xuôi Hồ Thủy
Giang. Cụ thể đó là những người phụ nữ bất hạnh trong cuộc sống đầy khó
khăn, thách thức và bất trắc trong thời cơ chế thị trường; bất hạnh trong tình
yêu đôi lứa, trong gia đình, trong xã hội và trong nỗi cô đơn của chính mình.
2.2.1. Những người phụ nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và mạnh mẽ
Trong các sáng tác của Hồ Thủy Giang, những nhân vật phụ nữ xuất
hiện một cách khá đậm đặc. Họ trở thành nhân vật trung tâm trong nhiều tác
phẩm của nhà văn. Ở họ, nổi bật lên là hình ảnh những người phụ nữ trung du
và miền núi khỏe mạnh, duyên dáng, đôn hậu, tự tin và mạnh mẽ. Họ như
những điểm sáng trong các tác phẩm của nhà văn và sức hút đối với bạn đọc.
Họ là những cô gái trẻ trung, xinh đẹp và khỏe khoắn, luôn tự tin và chủ động
38
trong cuộc sống gia đình và trong xã hội. Ở họ luôn toát lên một vẻ đẹp
vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại. Họ rất đảm đang,
tháo vát, chịu thương, chịu khó, luôn cố gắng vượt qua mọi hoàn cảnh khó
khăn, phức tạp trong cuộc sống để làm tròn thiên chức của một người con,
người vợ, người mẹ trong gia đình, và là một người cán bộ, công chức,
công nhân trong xã hội.
Bước vào thời kì Đổi Mới, hội nhập “và mở cửa”, toàn dân tộc đều
hăng say lao động, sáng tạo, xây dựng đất nước. Những người phụ nữ mới,
với vẻ đẹp khỏe khoắn tràn đầy sức sống, họ đã tham gia nhiệt tình vào tất cả
các lĩnh vực trong cuộc sống để góp phần xây dựng cho quê hương đất nước.
Họ chính là những cô gái mới, trẻ, đẹp, luôn yêu công việc của mình, lao
động tích cực, sáng tạo, biết áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại để hoàn thành
những công việc được giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất như nhân vật
nữ: Cô Ngàn (Ngàn làm máy) và cô Hiền (Cô bánh xích). Các cô là những
người phụ nữ khỏe khoắn, chăm chỉ, biết lái máy cày trong sản xuất nông
nghiệp; là công nhân của các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ…Họ còn là những
cô gái người dân tộc thiểu số chân chất, thật thà, luôn cố gắng nỗ lực, phấn
đấu vươn lên trong công việc làm ăn, trong kinh doanh, trở thành nhà Doanh
nghiệp uy tín, giàu có - như nhân vật Eng Nhình ngày xưa mặc áo chàm, chít
khăn mỏ quạ giờ đã trở thành bà chủ: “Eng Nhình thì đã trút khỏi đầu mọi
chuyện kể từ ngày lấy được chồng giàu, trở thành bà chủ của một cửa hiệu
điện tử lớn nhất vùng” [12,13] ; hoặc trở thành “bà Hiệu trưởng”của trường
Phổ Thông rất đáng tự hào: “giờ trở thành bà Ánh Sao hiệu trưởng một
trường cấp 3 của huyện, là một vị phu nhân của phó chủ tịch tỉnh” [12,14]
(Trên trời mây trắng như bông). Họ là những cán bộ, công chức mẫn cán,
làm việc say mê, sáng tạo, đạt hiệu quả cao và luôn để lại một ấn tượng đẹp
trong con mắt của mọi người. Với một lòng thủy chung trong tình yêu, niềm
39
say mê trong công việc, cô Hương (Cô bưu điện gốc trám) sau bao thời gian
sống nới rừng núi hẻo lánh cùng với cái Chi nhánh Bưu điện nhỏ bé nhưng cô
không cảm thấy nản vì công việc, không buồn khi xa người yêu, tất cả tập
trung để hoàn thành tốt công việc thường ngày: “Ngày ngày Hương vẫn đánh
đi những bức điện báo, nhận bưu phẩm,bán tem …”[9, 95]. Họ là những cô
giáo ngày đêm tận tụy với nghề, yêu thương, chia sẻ và tôn trọng học trò, luôn
giang tay ra để nâng đỡ, cứu vớt học trò khi trò gặp khó khăn, hoạn nạn hoặc
lầm lỗi do thiếu suy nghĩ, bột phát…như nhân vật cô giáo Hà trong truyện
ngắn Hoa phượng. Nhờ vào tấm lòng nhân hậu, tin tưởng chứa đầy tình yêu
thương, cùng với biện pháp giáo dục đúng đắn của cô giáo Hà đã cảm hóa
được một con người tiêu cực như em Hiến. Bằng cử chỉ, hành động đầy yêu
thương ấy của cô khiến cho Hiến suy nghĩ, nhận ra mình sai và quyết sửa
chữa khuyết điểm, để sau này khi trưởng thành và thành đạt đã luôn biết ơn cô
giáo Hà rất nhiều. Đây là lá thư đầy tình cảm mà cô Hà gửi cho Hiến: “Hiến
thân mến! Vì mắc nhiều việc nên về nghỉ hè mà cô không đến gặp em được.
Dịp hè này, cô đã nhờ Lan giúp em học thêm về môn toán. Cô mong em học
tốt. Cô tặng em tấm bưu ảnh “Hoa phượng” này và chúc em luôn tươi vui
như phượng vĩ ngày hè” [9,218]. Qua việc làm đúng đắn, với sự yêu thương
chân thành mà cô Hà cho chúng ta biết rằng “con người ta chỉ có thể lớn lên
bằng tình yêu thương chứ không phải bằng roi vọt”. Đồng thời, họ còn là
những người mẹ đảm đang, tháo vát, nuôi dưỡng con cái nên người với các
bài học về tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng nhân hậu - như một nhân vật
người mẹ trong truyện ngắn Cây trứng gà bất tử. Nhân vật người mẹ đã rất ý
nhị dạy cho các con của mình về “phép tính chia” đầu tiên mà mình học được
từ thầy giáo. Người mẹ cho rằng: “Trong bốn phép tính...phép tính nào cũng
cần thiết cả, nhưng phép tính chia là khó nhất... Có người rất giỏi toán nhưng
lớn lên họ vẫn không làm nổi phép tính chia thông thường” và “chính phép
40
tính chia chứ không phải phép tính cộng hoặc phép tính nhân đã làm cho con
người ta trở nên vĩ đại” [11,104]. Ở đây, phép tính chia không còn có ý nghĩa
toán học nữa mà là một phép tính trong trái tim con người: Hãy biết chia khổ
đau, chia bất hạnh, chia cả niềm vui hạnh phúc, chia miếng cơm manh áo,
chia sự cảm thông đối với những người thương yêu nhất và những người xung
quanh. Qua một câu chuyện đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đó, chúng ta hãy biết
yêu thương, sẻ chia yêu thương đến mọi người thì sẽ luôn được hạnh phúc.
Người mẹ chính là hiện thân cho một vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của tình yêu
thương, của sự sẻ chia khó khăn, vất vả, của sự hy sinh vì người khác. Đây
còn lời nhắn gửi, một thông điệp đầy ý nghĩa nhân sinh mà nhà văn Hồ Thủy
Giang muốn gửi đến độc giả qua câu chuyện nhỏ này.
Họ còn là những người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, bản lĩnh, vượt lên
mọi nỗi đau, nỗi bất hạnh của mình (khi bị mắc bệnh nặng, bệnh hiểm
nghèo nhưng vẫn phấn đấu học tập, làm việc và yêu cuộc sống, có khát
vọng cống hiến cho cộng đồng, xã hội); ví dụ như nhân vật: cô Hạnh
(Hạnh ơi); cô Phương Lan (Điện hoa); cô Quyên (Người đẹp thường
nhiều bí ẩn)...Trong truyện ngắn Chị Hạnh ơi, Hạnh khi biết mình mắc
chất độc màu da cam, biết không sống bao lâu, thay vì buồn phiền, than
trách số phận, cô vẫn luôn sống vui vẻ làm việc và bầu bạn cùng với con
Vẹt. Trước khi mất, cô thả con Vẹt được tự do về rừng xanh. Phương Lan
(Điện hoa) đó là một sinh viên Ngoại ngữ tốt nghiệp Đại học loại ưu,
nhưng người phụ nữ xinh đẹp này lại mắc bệnh tim mạch nên cô quyết định
sống tự lập, không lấy chồng. Cô đã sống mà không đau khổ khi biết mình
mắc trọng bệnh. Cô đã phấn đấu học tập tốt, ra trường sống tự lập và trở
thành một giáo viên dạy Anh ngữ giỏi: “Phương Lan dạy giỏi, tính tình lại
nhã nhặn, nên càng ngày lớp học càng có tiếng tăm. Vì vậy cuộc sống của
cô không đến nỗi quá buồn”[12, 112]. Khi bị mọi người có cái nhìn soi mói
41
và lời dèm pha: “Sau lưng cô, những kẻ thiếu thiện tâm thường mang cái
tuổi ba mươi lăm mà vẫn phòng không của cô để đàm tiếu” [12, 113], cô
cũng không buồn vì:“cô đã tự chọn cho mình một con đường
riêng”[12,113 ]. Cô luôn tự tin bản thân mình thể vượt qua mọi khó khăn,
mọi thử thách, tự lựa chọn cho mình cuộc sống đúng khả năng, đúng với
hoàn cảnh của mình. Chìa khóa để cho nhân vật Lan có được sự tự tin đó,
chính là lòng tự trọng, sự hiểu biết, ý thức về bản thân, về tương lai của
chính mình.
Họ còn là những người phụ nữ luôn có ý thức về vẻ đẹp phụ nữ của
mình, đó là những người luôn biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác.
Trong truyện ngắn Người đẹp thường nhiều bí ẩn, Quyên là người phụ nữ
rất khác người vì cô luôn có ý thức giữ gìn sắc đẹp, dung dưỡng bản thân. Khi
cô mắc bệnh ung thư, chồng với gia đình khuyên cô đi chữa trị nhưng cô từ
chối, chấp nhận số phận, sống vui vẻ cùng bạn bè trong những ngày cuối đời.
Cô không đau khổ hay nuối tiếc khi mình ra đi, bỏ lại chồng và bạn bè. Đến
khi mất, mọi người đọc cuốn nhật kí cô và đã hiểu tại sao cô lại không đi chữa
bệnh. Đó là vì :“ Chắc mọi người cho mình là kẻ kì quặc lắm. Nhưng mình chỉ
nghĩ đơn giản rằng: Đã là phụ nữ cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời
vẫn phải đẹp. Điều đó còn quan trọng gấp lần nghìn việc kéo dài sự sống
thêm vài năm.Mình không thể chịu nổi những vết sẹo dài, sần sùi trên cơ thể
mịn màng của mình, càng không thể chịu nổi cái đầu trọc lóc khi nhiễm phải
cái thứ hóa chất đáng sợ ấy. Không! Mình cần phải đẹp cho đến tận lúc nhắm
mắt xuôi tay” [13,23].
Trong tình yêu đôi lứa thời hiện đại những người phụ nữ mới đã chủ
động đến với tình yêu và bảo vệ tình yêu, họ đã chủ động nắm lấy hạnh phúc
và tương lai của chính mình. Nhân vật Châu trong Sao Xanh là một cô gái có
cá tính, mạnh mẽ, đầy nghị lực. Cô rất chủ động trong học tập, trong sự
42
nghiệp và trong cả tình yêu: “Cô bảo với anh rằng, không phải bây giờ cô
mới yêu anh mà ngay từ lần đầu gặp anh, cô đã mang hình ảnh anh trong tim
rồi ” [13, 8]. Nhân vật Hồng Ánh (Tấm bia mộ khắc đời) là một cô gái
mạnh mẽ, luôn khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Chính vì thế, khi
bị tai nạn sang “thế giới bên kia”, cô vẫn cứ dũng cảm vượt qua bao nhiêu
cánh cửa địa ngục đến với người cô yêu. Trong khung cảnh nhập nhoạng, mờ
ảo ấy - cô đã có được một khoảnh khắc hạnh phúc để thỏa mãn khao khát của
mình. Nhân vật Mơ (Mắt rừng) là cô gái năng động, mãnh liệt, quyết đoán và
rất cá tính. Cô mạnh dạn trao đổi thẳng thắn suy nghĩ và khao khát có cuộc
sống gia đình với người yêu: “Chúng ta cần có một mái nhà, những đứa con
cùng với cuộc sống bình thường” [15, 35]. Hay trong một trường hợp khác, vì
tình yêu và hạnh phúc của cá nhân mình,mà hai cô gái cùng yêu say đắm một
người, dẫn đến tranh giành, trở thành đối thủ của nhau như hai cô gái trong
Phục Thù. Hai cô gái cùng xinh đẹp, cùng yêu say đắm một người, nhưng
nhan sắc một người nhỉnh hơn một chút đã trở thành người thắng cuộc.
Ngày cưới của cô này cũng là “đám tang tinh thần” của cô kia. Cô gái thua
cuộc, không dự lễ cưới mà cô khắc sâu hai chữ “ Phục thù” vào trái tim và
sự phục thù của người đàn bà thật “đáng sợ”, đó là việc cô đã quyết tâm tập
thể dục thẩm mỹ một cách tích cực, đều đặn. Đến khi tuổi thanh xuân trôi
đi, cô gái lấy được chồng kia, trên khuôn mặt xuất hiện lốm đốm tàn nhang
và chai sạn vì sương gió, còn cô gái đã từng thất bại kia thì nhan sắc trở
nên tươi đẹp, khỏe mạnh và tràn đầy năng lượng. Khi cô thăm lại người
đàn ông phụ tình để “trả thù”, thì anh ta đã choáng váng khi thấy cô: “Như
con công rực rỡ, còn vợ mình như gà mái già nua – nên đã tiếc nuối khiến
cô bật cười như muốn nói rằng: Anh đã thấy chưa? Đã thấy tôi là thế nào
chưa? Thế mà ngày ấy anh chọn nó chứ không chọn tôi. Đại ngu. Bây giờ
thì cứ việc rỏ rãi ra nhé ”[11, 68].
43
Họ còn là các nữ sinh viên vượt lên mọi gian khó vì hoàn cảnh gia đình
để phấn đấu học giỏi, được đi báo cáo điển hình vì thành tích là “tấm gương
vượt khó” vươn lên….Khác hẳn với nhân vật cô Mị (trong truyện Vợ chồng
A Phủ) phải đi “làm dâu” trong tủi nhục, đắng cay vì món nợ của bố mẹ đối
với nhà thống Lý Pá Tra – Cô Thắm trong truyện “Con đường cát bụi” cho
dù bị mồ côi mẹ từ nhỏ, bố ốm đau bệnh tật quanh năm, khi đi học Đại học
phải tự lo kiếm tiền ăn học, nhưng Thắm đã ý thức được hoàn cảnh khó khăn
của mình, nên đã cố gắng hết mình và học rất giỏi, được Trường cử đi tham
dự Đại hội Thanh niên xuất sắc của tỉnh. Điều đó khiến cho các bạn cùng lớp
phải ghen tị, trong đó có Lan - một cô gái đanh đá, luôn cậy mình là con nhà
giàu và tin mình học giỏi, không ai có thể hơn, nên khi nghe Thắm được đi
báo cáo điển hình, cô đem lòng đố kị, tức tối... Lan đã cố tình vu khống cho
Thắm tội ăn trộm tiền: “Lan quy kết Thắm, Liễu ăn trộm tiền của Lan 500
nghìn” [18, 41], bởi vì Lan lập luận là nghèo như Thắm thì chỉ có áo rách đi
học chứ đâu có tiền mà mua áo mới. Cô ta không biết rằng, cái áo mới đẹp đó
của Thắm là do chính Liễu – người học cùng quê, cùng lớp đã mua tặng
Thắm. Còn Thắm - biết hoàn cảnh của mình khó khăn, bị bạn bè xa lánh, coi
thường, nhưng cô vẫn sống tự tin, đầy bản lĩnh. Cô tự nhủ: “Đói cho sạch,
rách cho thơm” và đã cố gắng học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn đến trường
mặc áo rách vai mà không hề thấy xấu hổ. Bên cạnh sự đằm thắm, nết na thì ở
Thắm còn toát ra khí chất mạnh mẽ và bản lĩnh của một người con gái trong
sáng, trung thực, vì thế khi bị Lan gán cho tội ăn cắp tiền: “Thắm phản bác
lại : Kính thưa Thầy cùng các bạn. Nhà tôi đúng là rất nghèo. Tôi cũng không
định mua loại quần áo đắt tiền đến thế. Nhưng bạn Liễu đã động viên và cho
tôi vay tiền. Nghe bạn Lan nói như đinh đóng cột như vậy, tôi rất lấy làm
ngạc nhiên” [18,41]. Còn nhân vật Liễu - với tư cách là người bạn thân của
Thắm, đã giúp đỡ bạn và muốn bạn đẹp khi đi dự Đại hội nên cô đã làm một
44
việc rất có ý nghĩa đó là: Kiếm việc làm thêm, xin ứng tiền nhà chủ trước cho
Thắm có tiền mua quần áo mới: “Thắm là sinh viên học giỏi nhất khoa nên ít
hôm nữa đươc đi dự Đại hội thanh niên toàn tỉnh . Nhưng Thắm bạn em lại còn
nghèo hơn.Anh nhìn xem. Đến tấm áo lành bạn em cũng không có. Thắm rất
thông minh nên nhiệm vụ của nó là phải học chứ không kiếm tiền như em đâu.
Em đến là để nói khó với anh cho em ứng trước năm trăm nghìn”[18,33]. Chỉ
bằng hành động nhỏ của Liễu như vậy đã khiến cho Thắm cảm động, bởi cô
hiểu được tấm lòng và tình cảm của Liễu, hiểu được sự hy sinh của Liễu cho
mình. Thắm và Liễu là những người con gái có một vẻ đẹp đáng quý, đáng trân
trọng – vẻ đẹp của những người phụ nữ mới đầy bản lĩnh, tự tin, giàu tình cảm
và đầy nghị lực vươn lên trong cuộc sống khó khăn vất vả.
Ngay cả khi viết về hình ảnh những người phụ nữ xưa trong tiểu thuyết
lịch sử của mình, nhà văn Hồ Thủy Giang cũng rất có ý thức khắc họa vẻ đẹp
khỏe mạnh, tự nhiên, vẻ đẹp của lòng dũng cảm và tài năng của người phụ nữ
vùng trung du và miền núi. Đó là những nhân vật nữ: Slao, Ngọc Tiêm (Tể
tướng Lưu Nhân Chú); Sao, Tâm, La, Mận, Mỵ (Những người mở
đường)…Slao một cô gái tày, hiền hậu, nết na với vẻ đẹp dịu dàng, khỏe
mạnh:“Slao – cô gái có khuôn mặt tròn vành vạnh, ẩn sau chiếc khăn mỏ quạ
màu chàm” [16, 28]. Slao người con gái dân tộc thiểu số có vẻ đẹp ngây thơ,
trong sáng và khỏe mạnh. Cô đã đem lòng thầm yêu Lưu Nhân Chú, một thủ
lĩnh, một chàng trai tài giỏi, một người anh hùng - nhưng cô luôn giữ kín
trong lòng và luôn khiêm tốn trước anh. Cô thật trong sáng và đáng yêu ngay
trong cách nói truyện:“Em tên là Slao à? Slao nghĩa là người con gái đẹp.
Slao khẽ ngửa cổ, đâu lắc lắc nhẹ: Không phải mà! Slao xấu lắm nên chẳng
ai để mắt tới Slao” [16,38]. Nhưng thật “bi kịch”, bởi anh đã có vợ, nên cô
chỉ có một tình yêu đơn phương, nhưng vì một “tình yêu lớn” nên cô luôn
hướng về anh, xông pha ra mặt trận đánh giặc cùng anh: “Slao ngả rạp người
45
trên mình ngựa phi như một cơn gió”. Điều đó khiến cho Lưu Nhân Chú kinh
ngạc, thầm thốt lên: “ Chà chà ! Không hiểu điều gì đã khiến một cô gái mới
bảy, tám năm về trước còn rụt rè, run rẩy ngồi trên lưng ngựa, phía trước anh
mà nay đã hóa thành một dũng tướng như thế kia” [16, 93]. Bên cạnh sự
mạnh mẽ, giỏi như một dũng tướng nhưng ẩn phía sau lại là một người con
gái có vẻ đẹp đằm thắm, nhân hậu. Khi cô biết anh Lưu Nhân Chú lo cho gia
đình, vợ con anh nơi quê nhà, Slao đã lặng lẽ, âm thầm chia sẻ nỗi buồn, động
viên, thể hiện tình cảm như một người em gái, rất thấu hiểu anh: “Anh Chú
đừng buồn nhiều, nhất định anh Chú sẽ gặp được chị Ngọc Tiêm. Anh Chú sẽ
vui cái bụng. Slao cũng vui lắm mà” [16,159]. Để rồi vì tình yêu lớn, cô sẵn
sàng lấy cái chết của mình để bảo vệ anh: “Slao liếc nhanh thấy tên tướng
Ngô nhằm bắn Lưu Nhân Chú. Ngựa của Slao bỗng chồm lên. Slao ưỡn người
về phía mũi tên. “Phập!” mũi tên cắm vào giữa ngực. Slao gục xuống lưng
ngựa rồi ngã lăn xuống đất ” [16,166]. Sự hy sinh của Slao làm cho Lưu
Nhân Chú đớn đau, ân hận. Anh thốt lên: “Anh có lỗi với Slao!” [16,194]. Đó
là một lời xin lỗi, một tình cảm sâu sắc và biết ơn của một người anh hùng,
một dũng tướng đối với cô gái trẻ trung, dũng cảm, yêu nước, đã hy sinh vì
bảo vệ chủ tướng của mình. Bên cạnh đó, hình ảnh của nàng Ngọc Tiêm - một
người vợ tuyệt vời, một người phụ nữ đẹp, giỏi giang, đảm đang và cũng rất
giỏi cung, kiếm. Nàng luôn nhẹ nhàng, khéo léo, luôn biết chăm lo cho chồng,
thấu hiểu chồng như hiểu chính nỗi lòng của mình: “Ngọc Tiêm cứng cỏi nói:
Chàng đừng lo cho mẹ và thiếp. Để đánh đuổi bọn giặc minh thì vất vả mấy
thiếp cũng chịu được. Chàng là người mang khí phách anh hùng, khi giặc giã
phải xông phá trận mạc thì mới xứng danh chứ”[16,47]. Dù đã quen cảnh
sống trong giàu sang phú quý hơn người nhưng khi nghĩ đến đoạn đường
chông gai phía trước nàng vẫn không hề thấy e ngại. Nàng là người vợ đảm
đang, là người phụ nữ mạnh mẽ, giỏi chinh chiến và luôn sát cánh bên chồng
46
khi đánh giặc. Nàng lại rất nhân hậu, nàng đã rộng lòng lượng thứ cho bọn
cướp một con đường sống sau khi đã chinh phục được chúng. Chính hành
động của nàng làm cho bọn cướp không chỉ biết sợ mà rất tôn trọng, thán
phục, đầu hàng, nguyện làm người lương thiện và sẵn sàng gia nhập đội quân
đánh giặc của nàng: “Ngọc Tiêm vui vẻ: Được! Ta cũng mở đường hiếu sinh.
Nhưng ở đây với dân bản thì phải chịu khó làm ăn, cải tà quy chính. Khi nào
khởi binh đánh giặc Ngô, ta sẽ cần đến tái sức của các ngươi đấy” [16,78].
Qua nhân vật nữ Slao, Ngọc Tiêm cho chúng ta thấy vẻ đẹp toàn diện của
những người phụ nữ miền núi, họ rất giỏi giang, đảm đang công việc gia đình,
nhưng khi đánh giặc lại như một dũng tướng đầy gan dạ, thông minh.
Đến với tiểu thuyết Những người mở đường của Hồ Thủy Giang
chúng ta lại bắt gặp những hình ảnh những cô gái miền núi trẻ trung, hiền
lành, trong sáng nhưng rất anh dũng, dám hy sinh cả thân mình để góp phần
chuyển hàng ra chiến trường, góp phần đánh thắng giặc Mĩ xâm lược:“Một
vài khuôn mặt nữ thanh niên xung phong tròn trịa, xinh xắn nhưng bợt bạt vì
mệt. Họ bước như chạy. Những bao gạo, những bao bột mì đè lên những đôi
vai bé nhỏ. Những lưng áo đẫm mồ hội. Những bàn chân mảnh dẻ đạp lên đất
đá xào xạo”[17,25]. Hình ảnh họ thật đẹp, thật đáng kính trọng. Họ là những
người con gái của làng, bản xa xôi, yêu mến sâu sắc nên đã dũng cảm tham
gia công việc nguy hiểm nhưng vô cùng ý nghĩa trong những năm tháng đầy
vất vả, hy sinh chống Mĩ cứu nước.
Qua việc phác họa những nhân vật nữ với vẻ đẹp khỏe khoắn, tự tin và
mạnh mẽ của nhà văn Hồ Thủy Giang, chúng ta có thể nhận thấy được một số
đặc điểm nổi bật với phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ đó là: là những cô
gái mới, trẻ, đẹp, luôn yêu công việc của mình, lao động tích cực, sáng tạo,
biết áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại để hoàn thành những công việc được
giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất; Là những cô gái người dân tộc thiểu
47
số (ở đây là dân tộc Tày), luôn cố gắng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong công
việc làm ăn, kinh doanh, trở thành nhà doanh nghiệp có uy tín, giàu có; Là
những cán bộ, công chức mẫn cán, làm việc say mê, sáng tạo, đạt hiệu quả
cao và luôn để lại một ấn tượng đẹp trong con mắt của mọi người. Họ là
những người có một lòng thủy chung trong tình yêu, niềm say mê trong công
việc; những người mẹ đảm đang, tháo vát nuôi dưỡng con cái nên người với
các bài học về tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng nhân hậu. Là những người
phụ nữ luôn có ý thức về vẻ đẹp phụ nữ của mình, những người tự trọng, luôn
tôn trọng mình và tôn trọng người khác; những nữ sinh viên vượt lên mọi gian
khó để phấn đấu học giỏi, sau này trở thành những trí thức có ích cho xã hội;
là những người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, bản lĩnh, vươn lên mọi nỗi đau,
nỗi bất hạnh của mình khi họ bị mặc bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn
phấn đấu học tập, làm việc và yêu cuộc sống, có khát vọng cống hiến cho
cộng đồng, xã hội. Ngay cả khi viết về hình ảnh những người phụ nữ xưa
trong tiểu thuyết lịch sử của mình, nhà văn Hồ Thủy Giang cũng rất có ý thức
khắc họa vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, vẻ đẹp của lòng dũng cảm và tài năng
của người phụ nữ vùng trung du và miền núi. Có thể khẳng định rằng: Nhà
văn Hồ Thủy Giang đã thành công khi phác họa hình ảnh người phụ nữ trung
du và miền núi với cả vẻ đẹp đẽ, sự tự tin và bản lĩnh trước cuộc sống đầy
thuận lợi, đầy thách thức thời kì hiện đại.
2.2.2. Những người phụ nữ có số phận bất hạnh – nỗi ám ảnh trong văn
xuôi Hồ Thủy Giang
Bên cạnh hình ảnh những người phụ nữ đẹp, khỏe mạnh, bản lĩnh, tự tin
vượt mọi khó khăn thử thách, vươn lên làm chủ cuộc đời, trong văn xuôi Hồ
Thủy Giang còn có khá nhiều nhân vật phụ nữ khác có số phận bất hạnh, có
một cuộc đời đầy sóng gió, đầy thiệt thòi, không có niềm vui và hạnh phúc
trọn vẹn. Họ là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le (cha mẹ bỏ nhau,
48
sống thiếu thốn tình cảm từ khi còn nhỏ; bị người yêu (hoặc chồng) phụ bạc;
bị bệnh nan y, sống cô đơn; bị vu oan tội “cao số giết chồng” khi những người
chồng vô tình bị chết vì rắn cắn;bị xô đẩy vào con đường tội lỗi, vào tù, ra tội;
bị điên loạn hoặc bị hại chết oan uổng….). Bao cảnh đời, bao cảnh ngộ éo le,
trớ trêu do cuộc đời xô đẩy mang lại, khiến họ phải chịu cảnh lỡ làng, cô đơn,
vất vả, khổ đau và đầy bi kịch trong cuộc sống thường ngày. Hồ Thủy Giang
đã tỏ ra rất am hiểu, thương xót, cảm thương đối với họ. Ông viết về họ - như
là một sự xẻ chia, thương cảm với những số phận không may mắn đó.
Cô Đào trước đây là một người phụ nữ đẹp nhất làng, vậy mà cô lại có
một “lý lịch tình yêu” thật buồn thảm trong chuyện Thiên truyện cổ. Cô lấy
chồng ba lần thì cả ba người chồng xấu số lại chết ngay trên cái giường tre
nghèo nàn của cô. Những “giai thoại” về cô bắt đầu nảy nở. Từ đấy dân làng
sợ và xa lánh cô, họ coi cô là người đàn bà quái dị, có tướng “sát chồng” thậm
chí họ còn cho rằng cô là yêu tinh, phù thủy, đến nỗi lũ trẻ đang chơi mà nhìn
thấy cô Đào từ xa liền trốn sạch. Định kiến và những lời nói, cử chỉ tàn nhẫn
đó của dân làng đã đẩy cô Đào phải vào khu rừng Hom Giỏ rậm rịt và đầy rắn
rết để sống. Ở đó, cô Đào cô đơn, khổ ải cả về vật chất lẫn tinh thần. Thật xót
thương thay cho cuộc đời của cô Đào, từ một người phụ nữ trẻ đẹp vậy mà
nay trở thành một bà già, gầy guộc, tóc bạc phơ, lủi thủi, cô đơn sống trong
một căn lều nhỏ rách nát với những vật dụng thô sơ như thời nguyên thủy.
Suốt mấy chục năm trôi qua vậy mà sự khắc nghiệt của cuộc đời vẫn không
chịu buông tha cô. Nhìn hình ảnh tiều tụy đáng thương của cô Đào nhà văn
thốt lên xót xa: “Mấy chục năm qua, người đời nguyền rủa cô là yêu tinh, ma
quái nhưng cho đến tận bây giờ đã có kẻ nào nhìn thấy cô ăn thịt ai. Đúng
hơn, thì chính loài người đã ăn thịt cô bằng những lời nói và cử chỉ nanh noc,
phũ phàng, để đến nỗi cô vào đường cùng như thế này” [9, 79+80]. Cô sống
trong sự ghẻ lạnh mọi người, không một ai tin cô, cô nghĩ có lẽ đến chết mình
49
không nói ra được bí mật cùng ai. Nhưng cô đã quyết định: “Lúc đầu cô định
sẽ đem theo xuống mồ tất cả mọi bí mật. Nhưng rồi cô lại nghĩ lại, nếu không
kể lại chuyện kì dị, khó tin ấy thì biết đâu sẽ có người lại phải chết hoặc sống
dở, chết dở như cô” [9, 86]. Câu chuyện từ một con rắn độc nằm trong ống tre
giường ngủ, đêm đêm nó thò đầu ra cắn chết lần lượt ba người chồng của cô,
đến khi phát hiện ra thì đã quá muộn. Nhưng câu chuyện ấy ai tin lời cô nói
và chỉ đến lúc khi chết đi, cô thấy thương cho số phận mình, thương cho một
kiếp người. Bằng tấm lòng nhân hậu, cô Đào lo cho các thế hệ người phụ nữ
sau này - nếu ai vướng hoàn cảnh như cô thì mong mọi người thấu hiểu, có
thái độ yêu thương, chia sẻ, đừng nhẫn tâm, tàn độc để tránh lặp lại một cuộc
đời bất hạnh như cô.
Chị Thúy trong truyện ngắn Nỗi buồn hãy tan đi cũng rơi vào tình
cảnh bi kịch như vậy. Chị Thúy là một phụ nữ thông minh, dịu dàng nhưng chỉ
vì định tố cáo một việc làm sai trái của cơ quan chị đang làm việc mà chị bị
chúng hại phải vào tù oan. Đến khi được ra tù, thì người chồng vốn không chung
thủy bỏ vào Nam cùng đứa con trai năm tuổi. Chị như rơi vào một cái hố sâu
không đáy, buồn chán, mất mát suy sụp nên chị đã mắc bệnh tâm thần. Trong
khu tập thể giờ đây chị trở thành “một con điên” nhiều kẻ độc ác còn gọi chị là
“con Thúy rồ”. Tác phẩm kết thúc thật buồn nhưng cũng thật “bi tráng”; trong
một đám cháy, chị Thúy lao mình vào để cứu mấy đứa trẻ đang mắc kẹt trong
đó: “Nhưng trước con mắt kinh ngạc của mọi người, chị Thúy hai tay vác hai
đứa trẻ trong đám cháy chui ra. Sau đó chị lại lao vào định cứu tiếp một em bé
nữa, bất ngờ một thanh xà trên cao rơi ngay vào người chị. Khi mọi người lôi
được chị ra, chị đã gần tắc thở” [9,231]. Câu chuyện khiến chúng ta xót, xa
thương cảm cho số phận của chị Thúy và lên án sự dửng dưng, vô cảm của
những người hàng xóm. Bằng một hành động cứu người khỏi cơn hoạn nạn của
người đàn bà “điên” này – nhà văn như thức tỉnh tình yêu thương, đùm bọc của
50
con người: con người hãy yêu thương, chia sẻ với nhau hơn; con người đừng hại
nhau, giết nhau bằng sự lạnh lùng, vô cảm.
Cô học sinh tên Mơ trong truyện ngắn Học trò cũ, là một cô học sinh khá
dễ thương nhưng từ nhỏ đã gặp cảnh bất hạnh: Mẹ mất sớm, ở với mẹ kế vài
năm sau bố cũng mất. Mơ phải bỏ học để phục dịch việc chợ búa giúp mẹ
nuôi cả gia đình. Em thật đáng thương và cũng đáng phục vì phải đi lao động
kiếm sống khi còn quá nhỏ. Vậy mà ba mươi năm sau, người thầy giáo cũ gặp
lại cô trong hoàn cảnh tù tội Lời người thầy giáo (hay cũng là lời tác giả) thốt
lên thật ngậm ngùi chua xót: “Chả lẽ cuộc sống lại có những bước ngoặt
khủng khiếp đến thế hay sao? Khoảng cách từ một cô học sinh lầm lì, ít nói
đến một cô gái làm tiền hoặc một tên trộm cắp chuyên nghiệp là bao nhiêu?
Liệu có thước đo nào đo được? Và người thầy giáo phải chịu bao nhiêu phần
trăm trách nhiệm về cái khoảng cách đáng sợ ấy” [9,279]. Con nhân vật
Luyến trong Quyển học bạ, cũng bị rơi vào hoàn cảnh đáng thương tâm. Là
một học sinh ngoan, học giỏi chỉ vì mẹ mắc bệnh phải mổ gấp mà nhà đã hết
tiền, nên Luyến đã liều lấy trộm tiền của bạn để cứu mẹ. Sự việc vỡ lở Xuyến
bị nhà trường tước quyền thi tốt nghiệp, những lời phán quyết quá khắc nghiệt
của thầy Hiệu trưởng trong quyển Học bạ đã đẩy Xuyến đến hàng loạt những
bi kịch trong cuộc sống. Cô bỏ học, mất hết lòng tin, và cho rằng nghèo khổ
sẽ làm cho con người trở nên hèn hạ, nhục nhã, cho nên cô quyết định ra đi
kiếm tiền để cái nghèo không hành hạ gia đình nữa. Cô ra đi rồi trở về nhà khi
đã ba mươi tuổi với một căn bệnh thế kỷ ở giai đoạn cuối. Những lời tâm sự
của Luyến với cha trong những ngày cuối đời nghe thật xót xa, đau đớn:
“Thực lòng con cũng không muốn trở về nhà để làm khổ thầy. Nhưng con
nghĩ về đây con còn được nằm gần u, gần thầy. Chứ chết ở nơi tha phương
con sợ lắm” [13,88]. Chỉ bằng lời nhận xét thiếu cảm thông và cay nghiệt của
người thầy đã đẩy một con người - đáng lẽ ra được hưởng cuộc sống hạnh
51
phúc như mọi người khác – nay trở thành kẻ “thân tàn ma dại”, chỉ đợi ngày
xuống mộ trong nỗi đau đớn khôn nguôi.
Trong các tác phầm: Lúc ấy biển hoàng hôn, Sân ga, Cô gái ngồi bên
cửa sổ, Bông hoa cô đơn, Xao xanh, Phiên tòa,…lại xoay quanh nỗi bất
hạnh của người phụ nữ trong tình yêu, trong hạnh phúc lứa đôi. Để có được
tình yêu đích thực của đời mình, những người phụ nữ này đã phải trả giá rất
đắt. Mỗi câu chuyện tình yêu trong truyện ngắn của Hồ Thùy Giang là một
chuyện buồn đầy đau đớn, nước mắt, máu, thậm chí cả cái chết nữa….của
người phụ nữ.
Truyện Lúc ấy biển hoàng hôn, nhân vật nữ chính tên Miên. Vì em
trai bị chất độc da cam, mẹ lại ốm yếu nên cô phải làm một nghề “tắm thuê” –
cái nghề luôn chịu những định kiến xấu của mọi người. Vậy mà, cô lại được
thầy giáo Thanh đem lòng yêu thương bằng tình yêu trong sáng, cảm động.
Tình yêu của Thanh làm cho trái tim cô hạnh phúc, yêu đời hơn và hy vọng
hơn vào một tương lai tốt đẹp hơn. Nhưng rồi, số phận không mỉm cười với
cô: Cô đã bị chết trong một lần đi “tắm thuê” cho một tên dâm đãng người
nước ngoài, hắn đã dìm chết cô chỉ vì cô không “chiều” hắn khi tắm biển:”
Khốn khổ cho con bé. Hôm ấy một thằng Tây thuê nó xuống biển hứa trả năm
mươi đô la. Ai ngờ cái thằng dâm đãng ấy định hãm hại nó dưới nước. Nó
vùng quẫy kêu cứu nhưng trong cơn điên cuồng, thằng kia dìm nó xuống biển.
Nó chết vì sặc nước. Thế mà rồi chẳng hiểu sao cuối cùng lại thông báo là
một tai nạn. Thật khổ! Chỉ vì mẹ già ốm yếu, đứa em bị nhiễm chất độc da
cam mà Miên phải đi làm cái nghề khốn nạn ấy. Cứ định dứt bỏ mà không
được” [9,70]. Cuối truyện, nhân vật Thanh (hay chính tác giả) như muốn nói
với chúng ta rằng, hãy biết thương cảm, biết sẻ chia, biết trân trọng, cho bao
kiếp người không may mắn, bất hạnh như cô gái vô tội kia. Nhân vật Sâm
(Tàu đêm) cũng như hoàn cảnh của Miên, chỉ vì khước từ hành động tán tỉnh,
52
sàm sỡ của lão Xưởng Phó nên bị lão rắp tâm cài bẫy để đuổi việc. Quá oan
ức, Sâm viết đơn gửi lên Ban thanh tra tỉnh mong được bênh vực, nhưng thật
trớ trêu, người kí tờ đơn bác bỏ lại là Thịnh - người cô yêu sâu đậm mà cô đã
chờ đợi bao nhiêu năm. Cuộc ra đi của Thịnh đã làm cho Sâm đau khổ, ốm
hàng tuần nhưng khi biết Thịnh có “quyền cao chức trọng” nay đã quên Sâm,
thì cô cũng không mảy may oan trách. Nhưng với việc: “chính Thịnh là người
kí tờ thông báo bác bỏ cái việc oan ức hai năm rõ mười của Sâm”[13, 78], thì
cô cảm thấy đau đớn, xót xa, thất vọng cho số phận của mình và thất vọng,
đau khổ về “người yêu lý tưởng” năm xưa.
Truyện ngắn Bông hoa cô đơn, là câu chuyện của một cô Thư ký xinh
đẹp, có thể nói là “tuyệt vời” trong công việc. Cô góa chồng hai mươi năm và
đã mười năm phục vụ trong quân đội, nay làm Thư ký cho vị Chủ Tịch tỉnh.
Hai người tuy không ai nói ra nhưng họ đều hiểu tình cảm họ đã dành cho
nhau: “Một bông hoa lặng lẽ xuất hiện trên bàn, một lời chào duyên dáng
buổi sáng, một nụ cười dịu dàng của cô vào những lúc anh mệt nhoài vì công
việc” [9, 6]. Một thứ tình cảm lạ kì, ngọt ngào đã nảy sinh, tuy không ai nói ra
thành lời nhưng cả hai đều hiểu và cảm nhận được. Song chỉ vì giữ tròn danh
dự và chiếc “ghế” chức quyền nên vị Chủ tịch kia không bao giờ dám công
nhận và đón nhận tình yêu từ phía cô. Họ mãi chỉ là những bông hoa “cô đơn”
với nỗi đơn côi của trái tim mình.
Trong truyện ngắn Sao xanh, nỗi cô đơn cũng đã ám ảnh Châu. Xưa
kia, Châu là một cô gái trẻ đẹp, cô dám hy sinh cả mạng sống của mình để
cứu người mình yêu, thậm chí Châu còn là một người rất mạnh mẽ dám bày
tỏ tình cảm với người mà cô thầm yêu. Có lẽ, ở cái bản này chỉ mình Châu
mới làm một việc tưởng như “trái quy luật” ấy. Khi Châu đem lòng yêu Thầy
giáo, nhưng họ không đến với nhau, cô sống trong kí ức xưa ấy tại bản nhỏ
nơi cô gặp anh, nhưng khi anh trở về thì Châu lại không lấy anh vì: “Nhưng
53
điều đó là không thể, vì Châu sống quen với kí ức tươi đẹp của mối tình đầu
đã gần trọn đời, chính nhờ những ảo ảnh, những kí ức đó mà Châu sống vô
tư, tươi vui và có ích biết bao năm. Bây giờ tuy Tùng trở lại và muốn xây
dựng lại cuộc sống với cô, nhưng Châu không thể phản bội lại cái kí ức đó”
[13, 17]. Cuối cùng cô đã chọn cách sống “cô đơn” vì theo cô: “Cô đơn cũng
là một cách sống. Nước mắt cô đơn nhiều khi lại làm cho người ta vinh quang
và hạnh phúc hơn ” [13, 18]. Có lẽ cô đơn đã trở thành một hội chứng trong
cuộc sống của những người phụ nữ thời kì hiện đại chăng?.
Trong Phiên tòa, nơi đã xảy ra cuộc tranh cãi nảy lửa của hai người phụ
nữ là Đanh và Thơm. Trong lần say rượu, người chồng bị chị Đanh đuổi ra khỏi
nhà, anh ta lang thang và bị cảm trước một ngôi nhà - mà người chủ là một cô
gái lỡ thì và anh đã được chăm sóc chu đáo. Rồi cuối cùng đã diễn ra một phiên
tòa - Chị Đanh đánh ghen, tranh cãi với chị Thơm, cho rằng Thơm đã cướp
chồng của chị. Nhưng khi tòa hỏi người chồng: Nếu chọn một trong hai người
làm vợ, anh chọn ai?. Người chồng thản nhiên trả lời: “Có hai người phụ nữ, một
người vứt tôi ra ngoài cửa, còn một người nhặt tôi vào trong nhà. Vậy, người vợ
thực sự của tôi là ai, xin trông vào sự phán xét của quý tòa”[9,203]. Câu trả lời
của người chồng đã khiến cho tất cả mọi người đều phải ngạc nhiên, bất ngờ -
nhưng đó là một sự thật, một sự lựa chọn rất hợp lí, tỉnh táo của người đàn ông.
Người đàn ông sẽ lựa chọn sống với người phụ nữ yêu thương mình, chia sẻ,
cảm thông và biết chăm sóc mình khi mệt mỏi hay thất vọng trước cuộc sống.
Còn cho dù có một người phụ nữ thật giỏi giang, nhưng không biết sẻ chia,
thương cảm thì người đàn ông cũng không lựa chọn để sống cùng một mái nhà.
Đó là một sự thật mà những người phụ nữ, người vợ thời nay phải “tỉnh ngộ”
nếu muốn gìn giữ hạnh phúc gia đình mình một cách trọn vẹn.
Những truyện ngắn: Những phương trời lá rụng, Tiếng vọng, Cô gái
ngồi bên cửa sổ, Mùa gió heo may, Những kiệt tác, Chuyện về hoa mộc
54
miên, Cỏ biếc ..là những câu chuyện xoay quanh về những thân phận người
phụ nữ với bao nỗi bất hạnh không chỉ do hoàn cảnh gia đình hay sự cô đơn,
đơn phương trong tình yêu - mà nỗi bất hạnh của người phụ nữ còn ở chính
cách suy nghĩ, lối ứng xử và sự lựa chọn hạnh phúc, tình yêu của chính họ
nữa. Trong truyện Những phương trời lá rụng, vì mang ơn của một tên
cướp như Hách Xỉa mà Mai chấp nhận làm vợ hờ của ông ta.: “y cứu mẹ con
Mai ra khỏi tai nạn lũ nước. Mai trả ân nghía cứu mạng mẹ con cô bằng cách
làm vợ hờ của Hách Xỉa” [41,75]. Mai đôn hậu, xinh đẹp như con công nhưng
bị giam hãm trong lồng, không biết có ngày nào ra khỏi chiếc lồng vô hình
đó. Tuy làm vợ hờ cho y nhưng Mai là người trọng ân tình, ân nghĩa nên khi y
bị bắn - Mai đã đỡ đạn thay cho y – đó là một sự hy sinh cao cả của một
người vợ ân nghĩa. Và còn nhân vật cô Sao (Tiếng vọng ), vốn một cô gái
sống làm người nhưng hồn lại ẩn vào thân xác cây Sao. Chính chồng cô là
người đã vô tình giết chết cô – vì cô không cho chồng biết rằng mình sống
được là nhờ vào cây Sao. Khi làm nhà cần có gỗ, chồng cô đã nói muốn chặt
cây sao xẻ làm gỗ để làm nhà: “mặt cô nhợt nhạt, biến sắc. Cô như quỳ xuống
chân anh. Đừng! Em xin anh đừng làm thế”[11, 43], nhưng người chồng,
nhân lúc cô vợ đi chợ xa, đã chặt cây sao, khi cây đổ gục thì cũng là lúc vợ
anh chết. Cây sao ấy chính là hồn vía và định mệnh của cô. Cô ra đi trong sự
ân hận tiếc nuối khôn nguôi của người chồng đã từng vô tâm, vô cảm trước
nguyện vọng của vợ. Nỗi bất hạnh của cô gái trong Mùa gió heo may cũng là
một trường hợp đáng thương cảm, xót xa: Cô là người tài và đã từng được
sống trong hạnh phúc miên mãn, nhưng chỉ thoáng cái đã hai mươi mùa gió
heo may trôi qua, lúc này chồng cô lại đem lòng yêu một người con gái khác.
Anh ta quyết định li hôn với cô để đi theo một cô gái trẻ. Điều đó khiến cô bị
trầm cảm, chỉ nghĩ đến cái chết: “Cô chợt cảm thấy như cùng một lúc có cả
hai mươi mùa gió heo may thổi xối xả vào trái tim vô vọng của mình. Cô
55
thoáng nghĩ đến cái chết”[11,36]. Tuổi thanh xuân trôi qua rất nhanh, dù
người phụ nữ đẹp đến mấy thì dung nhan cũng sẽ tàn phai theo năm tháng,
những người phụ nữ đã “kém may mắn” khi có một người chồng không
chung thủy chỉ biết tôn thờ nhan sắc. Bất hạnh nảy sinh ngay trong ngôi nhà
tưởng như êm ấm và vững chãi đó – khiến cho người phụ nữ tan nát cõi lòng.
Còn cô gái với nghề biên tập viên của một tờ báo trong tác phẩm Những kiệt
tác, thì thật là bất hạnh bởi sau khi lấy chồng không lâu thì chồng cô bị tai
nạn giao thông, bị liệt phải ngồi xe lăn. Thay vì nghĩ đến nỗi vất vả, đau khổ
của mình, cô đã luôn ý thức và luôn tránh những điều có thể gây buồn lụy cho
anh. Cô không bao giờ để anh đọc những tác phẩm mang tính bi kịch và cô
hiểu rằng chẳng bao lâu nữa anh không còn có mặt trên cõi đời này nữa. Đó là
nỗi đau vô bờ bến của một thiếu phụ còn khá trẻ như cô, nhưng đồng thời cô
cũng hiểu rằng: “con người không thể chống lại được số phận” và “điều duy
nhất mà cô có thể dâng hiến cho anh trong lúc này là phải cố nén những nỗi
đau và tạo ra tiếng cười lạc quan cho anh” [11, 81]. Nhân vật Xuân trong
Chuyện về hoa mộc miên, là một cô giáo xinh đẹp, nhưng vì lỡ dở trong tình
yêu nên không lấy chồng, không có con, rồi sau đó đã bị chết vì một căn bệnh
hiểm nghèo. Trong truyện Cỏ Biếc, bà mẹ sinh ra một người con trai xấu xí
với ngoại hình: người còng, gù, chân cong, còn bản thân bà lại hay đau ốm.
Gia cảnh như vậy con bà không ai dám lấy, bà cất công tìm vợ cho con nhưng
không ai đồng ý, bà “khao khát có được một cháu nội , nhưng có một thực tế
cay nghiệt mà ai biết: “ Mặc dù đám con gái trong làng yêu quý con trai bà
nhưng không ai đủ can đảm làm vợ anh, kể cả những cô kém nhan sắc nhất”
[12, 140]. Bà suy nghĩ, bao đêm khóc ròng, bà trách trời, trách đất nặn ra đứa
con của bà một vóc hình xấu xí không đem lại niềm vui, hạnh phúc cho gia
đình. Người phụ nữ thật sự có quá nhiều nỗi khổ đau, nhiều gánh nặng, trĩu
nặng trên vai. Họ cứ oằn lưng mà gánh, mà khổ đau dai dẳng đeo bám. Họ
56
còn là những cô gái biết chấp nhận sự hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tổ quốc.
Cô Hương (Cô gái ngồi bên cửa sổ) chấp nhận hy sinh hạnh phúc gia đình,
chịu bao nhiêu nỗi đau cho riêng mình. Cô đã tiễn chồng ra chiến trận đánh
giặc, bất chấp bao khó khăn, kể cả sự hy sinh mất mát và khi ngày sinh con ra
cũng lúc chị biết tin chồng mất trong chiến trận. Nhưng chị vẫn trấn an tinh
thần bước tiếp, một mình gánh vác gia đình, nuôi con khôn lớn. Khi ai hỏi về
chồng cô, cô nói bằng một giọng đầy tự hào nhưng ẩn sau nỗi buồn sâu kín:
“Anh ấy cũng không bao giờ về nữa...Trong trận đánh vào Sài Gòn, anh ấy
…đã…hy..sinh ”[9,245].
Còn có một số kiểu nhân vật phụ nữ khác trong tác phẩm của Hồ Thủy
Giang, đó là những người tự mình lao vào vòng xoáy cuộc đời và không có
lối thoát. Xã hội thời hiện đại với cơ chế thị trường đã góp phần đưa đẩy
những người phụ nữ ấy thành những kẻ xấu xa, biến chất tha hóa. Bọn họ
tham lam, thèm khát hưởng thụ cuộc sống vật chất nên đã bán rẻ hoặc (đánh
mất) cả lương tâm, nhân phẩm của mình…Tất cả những điều đó dẫn đến họ
rơi vào bi kịch của cuộc sống trong cả phía gia đình và ngoài xã hội. Ví dụ
như các nhân vật: Nữ tỷ phú trong tác phẩm Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú;
Dì ghẻ và cô con gái (Tình phụ tử); Dinh (Xin việc); Lan (Con đường cát
bụi); Nguyệt (Những phương trời lá rụng); Quỳnh (Bóng thời gian)... Nữ
tỷ phú (Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú) là người cô đơn, bất hạnh trong tình
cảm gia đình, mà dù đã đạt được danh vọng, tiền tài, quyền lực…Những
tưởng như cô chỉ biết đến niềm vui, hạnh phúc, nhưng ngờ đâu trong tâm hồn
cô lại luôn phải đối diện với nỗi cô đơn đau khổ. Đó là nỗi cô đơn của một cô
gái khi mới mười tuổi đã “bị” mất cả bố lẫn mẹ (vì họ đã bỏ cô mà đi), nên
những kí ức về tuổi thơ, của gia đình đầy buồn đau luôn luôn ám ảnh tâm hồn
cô. Giờ đây đã mấy chục năm trôi qua, cô đã trở thành một nữ tỷ phú không
thiếu bất cứ thứ gì nhưng cô đâu có được những giây phút hạnh phúc, lúc nào
57
trong tâm hồn cô cũng hiện về những ký ức tuổi thơ đầy vất vả và đau buồn,
về “hai nấm mồ người Bắc, kẻ Nam của bố mẹ”. Đó cũng chính là hai nấm
mồ chôn sâu những nỗi đau không bao giờ mất trong cuộc đời, luôn ám ảnh
cô không dứt. Chỉ vì muốn sống sung sướng, giàu sang phú quý mà mẹ cô đã
chạy theo cám dỗ đồng tiền, bỏ chồng, bỏ con để tìm cho mình cuộc sống an
nhàn, nhưng chính sai lầm của người mẹ đã làm khổ chồng con bởi sự ám ảnh
trong người con.
Trong truyện ngắn Bóng thời gian, Quỳnh vì mải mê cuốn theo vòng
xoáy thị trường, vì địa vị, danh vọng, tiền tài, nên đã quên đi cuộc sống hạnh
phúc cá nhân của mình: “Bốn mươi tuổi. Sắp trở thành một “Bà già đau khổ”,
không chồng, không con”[11, 59]. Nhân vật Dinh ( Xin việc), vì tham vọng
có công việc tốt, nhiều tiền, muốn tìm cho mình công việc không bỏ nhiều
sức lao động… nhưng trong thời đại ngày nay, muốn tìm công việc như vậy
đòi hỏi trình độ cao phải tài giỏi. Còn nếu như cả tin, tham vọng làm giàu
nhanh thì dễ lao vào việc làm phi pháp. Vì lòng tham của Dinh quá lớn, nên
cuối cùng cô bị lừa, lận đận, khổ sở không tìm được cho mình công việc như
ý và phải quay trở về quê làm may cùng với mẹ.Tình phụ tử, Tro tàn, Sân
ga, là những câu chuyện viết về vấn đề đời sống quanh ta: Có một ông bố
thương con nhưng cố chấp, cô con gái không còn cách nào khác để làm vừa
lòng cha, đã tìm đến giải pháp “thuê” – “Thời kinh tế thị trường” cái gì cũng
có thể “thuê”, kể cả “thuê chú rể” theo hợp đồng. Vì muốn hưởng tài sản từ
bố, cô gái đã dùng mọi mưu kế để lấy lòng người cha kể cả kế lấy chồng giả.
Cái giá của sự giả dối đó là: cô đã phải sống với một ông chồng không tình
cảm, chỉ là trên danh nghĩa, vì quá tham tiền nên cô đã đánh mất quyền được
sống, hạnh phúc của mình (Tình phụ tử). Trong tro tàn, bất ngờ là ở chỗ
người vợ tìm mọi cách để “tiêu diệt” đối phương, đòi lại căn nhà của vợ
chồng chị, nhưng người chồng của chị coi như đã “chết” khi dấn thân vào cái
58
hợp đồng cho vay nặng lãi kia. Lúc người vợ hí hửng với chiến thắng thì tình
cảm vợ chồng, tình cảm gia đình chỉ còn là một nắm tro tàn. Hay chỉ vì cám
dỗ của đồng tiền mà cô gái trong truyện Sân ga đã bỏ người yêu theo một
giám đốc trẻ, để rồi nhiều đêm nằm cạnh chồng mà cô vẫn phải “ngoại tình
trong tâm tưởng” với người yêu cũ. Cô Lan (Con đường cát bụi), vì cậy
mình có tiền, có cuộc sống sung sướng nên tự cao và cho mình là tầng lớp
quý phái, coi khinh con nhà nghèo như Thắm, Liễu… Chính sự đối xử không
tốt với bạn bè nên cô đã phải nhận hậu quả là: bị các bạn ghét bỏ, cô lập,
không thèm chơi với và tệ hơn là sự đố kị, ghen ghét của cô sẽ khiến cô trở
thành kẻ ích kỉ, xấu xa trong cuộc sống tương lại của chính mình.
Nhân vật Thu Nguyệt (Những phương trời lá rụng), là một cô sinh
viên xinh đẹp nhưng nhà nghèo, là con người có tính trung thực thẳng thắn
nhưng luôn bị ghen ghét. Cuộc sống nghèo khó và vì một phút không làm chủ
bản thân, lại bị bạn bè đố kị nên cô đã rời bỏ ghế nhà trường, dần sa ngã. Cô
đã làm nghề “tiếp khách” tại một khách sạn lớn ở thành phố để kiếm sống.
Chỉ vì thích đua đòi, sa vào chốn ăn chơi khiến cho Nguyệt không thể quay
đầu lại thành người “tử tế”. Cô đã tự trở thành một món hàng của bà chủ và
của các khách sộp khác. Cô được mua với giá 100 cây vàng để làm “quà” cho
một kẻ “nửa người, nửa vật”: “Hách Xỉa mua cô 100 cây vàng cho đồ đệ của
mình là Huỳnh, nửa người, nửa vật”[41,76]. Cô đã rất “trơ trẽn” khi nói vè
nghề tiếp khách của mình như: “Em nghĩ, ông anh chớ nên dọa người như
thế. Đối với những người như bọn em thì sự thật thà hay giả dối đều không có
ý nghĩa gì hết. Nếu khách cần thật thà em xin chiều. Ngược lại, khách cần sự
dối trá, em cũng xin chiều. Bởi chúng em sinh ra để chiều theo ý khách mà”
[41,76]. Ai có thể ngờ rằng trước đây cô Nguyệt đã từng là cô gái xinh đẹp
quê Tuyên Quang, ước mơ trở thành bác sĩ để chữa bệnh cứu người, nhưng vì
không thể đối diện với những khó khăn trong cuộc sống, cô đã tự đánh mất
59
mình. Chính bản thân cô đã đẩy mình vào cuộc sống nhơ nhuốc xấu xa, mất
hết danh dự, nhân phẩm, trở thành “món hàng” trao đổi đáng thương. Cuộc
đời làm vợ của một tên bưởng vàng xấu xí, tàn bạo thì cô làm sao có được
hạnh phúc gia đình?.
Khi xây dựng những nhân vật phụ nữ cô đơn, bất an, chịu nhiều mất
mát, thiệt thòi và có cuộc sống bất hạnh, nhà văn Hồ Thủy Giang đi sâu
vào khai thác đời sống nội tâm của nhân vật với những dằn vặt, đau đớn,
trăn trở… của những người phụ nữ. Và tác giả đã tỏ rõ thái độ cảm thông,
chia sẻ với những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần mà họ phải gánh chịu.
Bài học được rút ra từ những con người, những cảnh đời này có lẽ là: cuộc
sống vốn có vay, có trả, hãy biết sống vì người khác, đừng sống vô trách
nhiệm với bản thân mình, đừng lạnh lùng vô cảm với người khác; đừng vì
cái lợi trước mắt, đừng vì cái bả giàu sang mà bán rẻ lương tâm, phẩm chất
của mình - nhất là đối với người phụ nữ, những người dễ bị tổn thương, bị
làm hại, bị lôi cuốn vào những tiêu cực, những thói hư tật xấu của cuộc
sống đầy phức tạp và cạm bẫy này.
Tiểu kết
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng trung du và
miền núi, nhà văn Hồ Thủy Giang đã thể hiện được tư tưởng nhân văn cùng
những quan điểm của ông đối với vai trò, vị trí của người phụ nữ trong thời
đại ngày nay. Đó là những người phụ nữ có một vẻ đẹp vừa truyền thống, vừa
hiện đại. Họ là những người khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, luôn tự tin vượt
qua mọi gian khó để làm chủ cuộc đời, làm chủ tương lai cùng hạnh phúc của
cá nhận mình. Nhưng bên cạnh những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin, giàu
nghị lực ấy còn có những số phận, nhiều mảnh đời phụ nữ vất vả, khổ đau, bất
hạnh khác…Nhà văn đã lách sâu ngòi bút của mình vào từng hoàn cảnh, từng
cuộc đời của những người phụ nữ, phát hiện ra bao nỗi đớn đau, bao sự éo le
60
ngang trái cũng như sự đáng trách, đáng thương của họ. Tác giả cũng đã thể
hiện thái độ cảm thông, chia sẻ, cũng như thái độ phê phán của mình. Nhưng
trên hết vẫn là những bài học được rút ra cho chính những người phụ nữ từ
những cuộc đời, những số phận không may mắn hoặc bất hạnh ấy của họ. Giá
trị nhân văn được toát ra từ những trang viết về người phụ nữ của Hồ Thủy
Giang có lẽ là ở đó!.
61
CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI CỦA HỒ THỦY GIANG
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật
Như đã biết, ngoại hình là yếu tố quan trọng góp phần khắc họa tính cách
nhân vật. Miêu tả ngoại hình nhân vật là một trong những thủ pháp nghệ thuật
giúp nhà văn xây dựng nên hình tượng nhân vật. Mỗi nhà văn đều có những
cách riêng trong việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình. Các nhà
văn thường coi trọng việc miêu tả ngoại hình (như gương mặt, hình dáng,
điệu bộ, trang phục…) và cũng chính việc miêu tả ngoại hình đã bộc lộ được
cá tính sáng tạo của nhà văn, nó đem đến cho người đọc sự cảm nhận vừa có
tính khái quát về bản chất con người, vừa được nhìn nhận một cách riêng biệt
như một cá nhân, một con người cụ thể. Trong các tác phẩm của mình, nhà
văn Hồ Thủy Giang cũng đã tỏ ra tinh tế trong việc lựa chọn các chi tiết cụ
thể để miêu tả ngoại hình của nhân vật một cách sống động, qua đó người đọc
hiểu được tâm trạng, đời sống, tính cách của nhân vật. Ông cũng thường đặt
nhân vật vào những tình huống cụ thể, có tính thử thách để bộc lộ tính cách,
phẩm chất của nhân vật với những vẻ đẹp trong những hoàn cảnh khác nhau.
3.1.1. Những người phụ nữ lao động nghèo vùng trung du và miền núi
Với phương pháp xây dựng nhân vật vừa mang tính truyền thống vừa có tính
hiện đại trong những sáng tác của mình, Hồ Thủy Giang đã khá chú trọng tới việc
miêu tả ngoại hình của nhân vật, từ đó bộc lộ một phần tâm trạng, tính cách của
nhân vật. Ông đã miêu tả ngoại hình những người phụ nữ phù hợp với thành phần
xuất thân, đặc điểm nghề nghiệp và tính cách nhân vật, ví dụ như: Khi miêu tả
những nhân vật phụ nữ lao động vùng trung du và miền núi, tác giả nhấn mạnh
đến vẻ đẹp khỏe khoắn, tự nhiên, mộc mạc, mang tính phồn thực…ở họ.
62
Khi nhà văn miêu tả vẻ đẹp của những cô gái miền núi trong các tác
phẩm của mình như các nhân vật: A Xao, A Sao, Eng Nhình, Slao, Ngọc Tiêm,
A Nhình; hay các cô gái Tày, Dao thì ông thường chú ý đến việc so sánh vẻ
đẹp ngoại hình của họ với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng (hoa rừng, nai rừng,
suối rừng…). Cô A Xao trong truyện ngắn Hoa phặc phiền vẫn nở, là cô gái
có cái tên rất đẹp và ý nghĩa (A Xao theo tiếng Tày có nghĩa là người con gái
đẹp), cô có một gương mặt, đôi mắt đẹp: “Một gương mặt đẹp và tươi như
một bông hoa phặc phiền”, “Đôi mắt đen lấp láy và ngơ ngác như mắt nai
rừng” và “dáng hình đẹp như tiên nữ” [13, 52- 55]. Trong truyện Trên trời
mây trắng như bông, khi viết về phiên chợ bông của người Tày, ở đó nổi bật
lên là những cô gái Tày xinh đẹp, duyên dáng: “Lấp ló sau những khối bông
bồng bềnh là một cô gái mặc áo chàm đầu chít khăn mỏ quạ, có đôi mắt trong
vắt” [10,138]; “Eng Nhình trong chiếc khăn mỏ quạ, hồn nhiên, tươi rói” và
“A Sao má đỏ hây hây, bồng bềnh trong mây trắng chợ bông” [10, 146] .
Trong Những người mở đường, những cô gái thanh niên xung phong trong
đó có nhiều cô là người Tày, người Dao rất trẻ trung, xinh xắn, đáng yêu có
thân hình nhỏ bé nhưng rất khỏe mạnh, gan dạ, dốc hết sức mình để chuyển
hàng, phục vụ cho quân đội: “Một vài khuôn mặt nữ thanh niên xung phong
tròn trịa, xinh xắn nhưng bợt bạt vì mệt. Họ bước như chạy. Những bao gạo,
những bao bột mì đè lên những đôi vai bé nhỏ. Những lưng áo đẫm mồ hôi.
Những bàn chân mảnh dẻ đạp lên đất đá xào xạo” [17,26]. Đó còn là Slao
(trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú) - một cô gái Tày đẹp, khỏe
mạnh, trong sáng, tràn đầy sức xuân:“cô gái có khuôn mặt tròn vành vạnh ẩn
sau chiếc khăn mỏ quạ màu chàm” [16, 28] và“mái tóc đen láy, mềm như tơ,
tỏa ra mùi hương sả hăng hắc mà quyến rũ” [16, 38]….
Khi miêu tả vẻ đẹp của những cô công nhân, người nông dân, những
người kĩ thuật viên,…thì tác giả luôn chú ý miêu tả vẻ đẹp vừa mang tính hiện
63
đại vừa mang tính truyền thống của các cô. Họ là những người phụ nữ lao
động khỏe mạnh, hăng say và mạnh dạn, sáng tạo trong công việc. Ví dụ như
nhân vật: Cô Ngàn (Ngàn làm máy) và cô Hiền (Cô bánh xích) - họ đều là
những cô gái có vẻ đẹp ngoại hình một cách khỏe mạnh, rất đảm đang, chịu
khó, hăng say trong công việc: “Nhìn đôi vai tròn lẳn được phủ tấm áo nâu,
má đỏ hây hây đang bước nhanh theo máy cày” và “Cô tự mình lái chiếc máy
cày chạy phăm phăm trên cánh đồng làm cho mọi người không khỏi ngạc
nhiên” [20, 23]. Hay là cô Sâm trong tác phẩm Tàu đêm, một cô công nhân
nữ Xưởng Gang với: “bộ quần áo thợ bạc phếch và khuôn mặt nhem nhuốc
nhọ than” [13,70] là một cô gái sống chân thành và chung thủy trong tình yêu
còn trong công việc, cô rất chăm chỉ: “thức trắng hai đêm” và đến khi lên tàu
về nhà thì: “đôi mắt đen thăm thẳm…đôi mắt đầy mệt mỏi nhưng vẫn ánh lên
trong vắt ” và “cô chìm sâu trong giấc ngủ, một giấc ngủ “quên mình” sau
nhiều đêm thức trắng” [13, 66]. Cô Hương (Cô bưu điện gốc trám), là một
cô gái xuất thân từ nông thôn, giản dị, xinh đẹp, nết na: “Một cô gái có khuôn
mặt trái xoan với đôi mắt đen láy cùng nụ cười ý nhị” [9,90] với “dáng vẻ
thướt tha, yêu kiều”[9,90] và hằng ngày cô thầm lặng, chịu thương, chịu khó
làm việc ở cái Chi nhánh Bưu điện miền núi heo hút: “Mỗi ngày Hương lại
ngồi xếp những chồng báo. Cô xếp cẩn thận đến nỗi không một tờ giấy nào
lệch ra ngoài” và vẫn “Ngày ngày Hương vẫn đánh đi những bức điện báo,
nhận bưu phẩm, bán tem…”[9, 88 ]…
Khi miêu tả ngoại hình của những người phụ nữ bất hạnh, chịu nhiều đau
khổ, thiệt thòi, tác giả cũng chú ý đến miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của họ - đôi
khi vẻ đẹp đó lại rất “mâu thuẫn” đối lập với số phận bất hạnh của họ. Ví dụ
như nhân vật: cô Miên trong truyện ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, là một cô
gái đẹp:“Dáng điệu tha thướt, uyển chuyển, đôi mắt long lanh của nàng chớp
chớp đầy quyến rũ” [9,57], có tiếng cười hồn nhiên: “Nàng cười vang…tiếng
64
cười của nàng long lanh vang vọng cả mười phương”; có ánh mắt đẹp và
quyến rũ: “Đôi mắt mượt như nhung của nàng nhìn tôi âu yếm” [9,59]. Vậy
mà cuộc đời của Miên đầy bất hạnh. Vì gia đình hoàn cảnh quá khó khăn mà
cô phải làm một nghề “tắm thuê” bị xã hội, mọi người khinh rẻ.Trong một lần
đi tắm thuê cho khách, cô đã bị tên “dâm đãng” dìm xuống biển đến chết vì
cô đã không “chiều” hắn. Còn trong truyện ngắn Thiên truyện cổ, nhân vật
cô Đào người đã phải sống trong nỗi khổ đau day dứt, trong sự ghẻ lạnh của
mọi người, khi họ gán cho cô tội “sát chồng”. Cô héo hon, già nua, kiệt
quệ:“một bà già gầy guộc, tóc bạc phơ, đang tách từng quả trám đen bầm”.
[12,35]. Hay nhân vật cô Phương (Con tàu đến muộn), chỉ vì có một người
chồng quá yêu vợ và ích kỷ nên đã có sự ghen tuông mù quáng (cho rằng vợ
có quan hệ bất chính với một người cùng cơ quan) nên đã hành hạ cô, đẩy vào
cuộc sống đầy khổ cực, chịu nhiều nỗi oan ức, rồi cô bị chồng “đâm đơn” li
hôn, …tất cả điều đó đã khiến cho cô hoàn toàn sụp đổ: “Chị đã ngã xuống
ghế băng trong phòng sử, mặt tái mét đi” [9,34]. Sau này, chị phải rời bỏ quê
hương để sống nơi khác, nỗi đau khổ đã tàn phá nhan sắc, niềm tin của chị
vào cuộc sống: “Cặp mắt của chị nửa đau khổ, nửa dửng dưng”[9,35]. Chị
Thúy (Nỗi buồn hãy tan đi) được miêu tả như là: “một người đàn bà điềm
đạm, tốt bụng, có đôi mắt đẹp kỳ diệu, không may mắn mắc bệnh tâm thần”
[9, 221]. Thúy mắc bệnh vì một cú “sốc”, bị đổ cho tội tham ô và vào tù oan.
Khi chị ra tù, người chồng đã mang con bỏ đi, chị uất hận và mắc bệnh, trở
thành “con điên” trong làng.Tuy bị điên dại những chị: “hiền lành ngay cả khi
lúc điên. Chị không phá phách, đánh đập ai mà chỉ thỉnh thoảng cười ré lên,
hoặc hát ầm ĩ, hoặc ôm mặt khóc nức nở” [9, 221]. Cuộc đời chị trải qua
chuỗi ngày đầy bất hạnh cho đến khi mất vẫn chất chứa nỗi oan ức bấy lâu
nay. Nỗi buồn tủi cô Hương (Cô gái ngồi bên cửa sổ), khi chồng mất, nỗi
đau ấy làm cho cô bao đêm đầm đìa nước mắt, ngày ngày cô ngồi bên cửa sổ
65
mong chờ một phép màu giúp chồng cô sống lại. Tác giả đã miêu tả đôi mắt
và dáng ngồi như chết lặng của cô bên cửa sổ khiến bao người thương cảm,
xót xa: “Cô ngồi bên cửa sổ và nhìn ra khoảng trời đêm bằng đôi mắt đen xao
xuyến rồi lặng lẽ” [9, 236]. Em Mơ (Học trò cũ), là một cô học sinh có hoàn
cảnh bất hạnh, nhà nghèo, mẹ mất sớm, sống với dì ghẻ, bị dì ghẻ bắt nghỉ
học…Từ một cô học trò ngoan ngoãn, ít nói đến lúc cô trở thành một gái “làm
tiền”, một tên trộm cắp chuyên nghiệp với những năm tháng cuộc đời sống
trong trại giam - để giờ đây, khi cô mới ba mươi tuổi mà già dặn, chai sạn:
“một người phụ nữ trạc ngoài ba mươi tuổi, nét mặt đanh đá phảng phất
buồn. Trên vừng trán sạm nắng, có một vết sẹo dài…đôi mắt to và đen đang
đi lẫn cùng với bao cô nữ phạm nhân” [9, 278]. Hay trong tác phẩm Thông
reo, hình ảnh người đàn bà lam lũ, chịu khổ ải, hằng ngày lên rừng hái măng
để đi chợ: “Nhìn đôi vai to tròn lẳn được phủ tấm áo nâu mỏng chen chúc
mấy mụn vá” [12,153] và “Người đàn bà quẩy gánh măng lên vai, chào mọi
người rồi ra khỏi cổng trạm, vừa đi vừa khóc…những bước đi xiêu vẹo”
[12,154]. Chỉ vì bà bị một nhân viên kiểm lâm của Trạm bắt vào và cho rằng
bà lấy măng là phá rừng khiến cho: “người đàn bà khóc lóc thảm thiết đến nỗi
nước mắt thấm ướt vai áo vá chằng vá đụp”[12,155]. Còn cô Châu trong
truyện Cỏ biếc, một cô gái dân tộc miền núi, nghèo, chai sạm vì sương gió:
“Một phụ nữ chừng ba mươi tuổi, nhăn nhăn vầng trán hẹp như tìm lại một kí
ức xa mờ” và “nhìn vóc dáng thì thô kệch, gầy gò, ốm yếu” [12,142].
Có thể thấy rất rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả ngoại
hình các nhân vật nữ vùng trung du và miền núi của nhà văn Hồ Thủy Giang.
Ông đã luôn chú ý khắc họa những vẻ đẹp về ngoại hình cũng như những nét
tiều tụy, héo hon, ủ rũ nhưng đôi khi họ rất khỏe mạnh, xinh tươi như hoa như
nai trên rừng. Ở đó, thiên nhiên không chỉ là chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp
con người mà vẻ đẹp con người cũng hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua vài
66
nét chấm phá về ngoại hình – nhà văn giúp cho người đọc có thể nhận biết
được đời sống nội tâm, tâm trạng, tính cách, số phận và môi trường sống khác
nhau của từng nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của ông.
3.1.2. Những người phụ nữ trí thức thời hiện đại
Bên cạnh những câu chuyện viết về người phụ nữ lao động có vẻ khỏe
mạnh mang những yếu tố truyền thống là chủ yếu thì nhà văn Hồ Thủy Giang
cũng rất chú ý đến việc viết về những người phụ nữ mới thời kì hiện đại. Họ
là những người có trí thức, có tính tự lập, tự làm chủ cuộc sống và tương lai
của mình. Điều đó đã được thể hiện ở vẻ ngoại hình và tính cách của họ. Ở
họ luôn toát lên một sự hấp dẫn, đầy tự tin với vẻ đẹp sắc sảo, thông minh, vẻ
lịch sự, trang nhã…vẻ đẹp ấy thật phù hợp với đời sống nội tâm phong phú,
phức tạp của họ trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.Ví dụ như nhân vật cô thư
ký trong truyện Bông hoa cô đơn, cô là một người phụ nữ đẹp và thông minh
trong cách giải quyết công việc: “Cô thông minh và làm việc hết mình. Dường
như cô có một năng khiếu bẩm sinh về công tác thư ký”[9,6], vẻ đẹp ngoại
hình của cô thật hấp dẫn:“Đôi mắt đen như nhung và đượm buồn”,“Mái tóc
óng ánh đen của cô nghiêng nghiêng trên trang sổ. Đôi mắt hiền dịu của cô
như tỏa sang anh một thứ ánh sáng của bình minh” [9,10]. Nhưng cuộc đời
cô đâu có được hạnh phúc tương xứng với vẻ đẹp hiền dịu kia: Chồng mất đã
lâu mà cô vẫn ở vậy, còn người yêu cô thì không dám ngỏ lời, nên cô phải xin
nghỉ hưu sớm và sống trong sự cô đơn, lặng lẽ suốt cuộc đời: “Nước mắt cô
lăn dài trên mặt bàn bóng lì, trông như một dòng sông nhỏ síu, chảy len lỏi và
nghẽn dần trong hoang mạc” [9,10]. Thắm (Con đường cát bụi), là cô gái
nhỏ biết tự vươn lên từ nghèo khó, cô có vóc người: “nhỏ nhắn, gương mặt
dịu dàng” [18,2].Trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, em đã biết tự lo cho
cuộc sống của mình: “Dì ơi, con đã nói rồi mà, chuyện tiền nong học hành
con sẽ tự lo, gia đình không phải chu cấp…Thắm cúi gằm mặt, khoác chiếc
67
tay nải bước ra khỏi nhà. Vừa đi, Thắm vừa cầm chiếc đồng hồ bố tặng ngắm
nghía, nước mắt ứa ra” [18,12] và luôn phấn đấu học hành để đạt kết quả cao
trong học tập: “Thắm là sinh viên học giỏi nhất khoa nên ít hôm nữa được đi
dự đại hội thanh niên toàn tỉnh” [18,20]. Hai cô gái trong truyện Phục thù,
một người khi bước vào tuổi già trên mặt “xuất hiện nếp nhăn, tàn nhang, mắt
tối xám và nhoèn gỉ”. Còn cô gái kia lại có vẻ đẹp khỏe mạnh, săn chắc, thu
hút ánh nhìn của mọi người: “Sao cô ta đẹp đến mê hồn. Thân thể cứ săn chắc
như thiếu nữ” [11, 67]. Nhân vật cô gái trong truyện Lãng Mạn, là một cô gái
đẹp, thanh lịch, thu hút mọi người từ ánh nhìn đầu tiên: “vóc người cao, hơi
đậm và nhất là mái tóc đen mượt xõa xuống tận kheo” [11,115], cô luôn cười
tươi, hồn nhiên và đôi chút e thẹn khi gặp người yêu: “Cặp môi cô hơi mím
lại mà vẫn sáng như một nụ cười” [11,116]. Hay là cô gái trong truyện Tiến
sĩ tin học, là một người đẹp ngồi bên cửa sổ khiến cho anh Tiến sĩ yêu cô si
mê bởi: “gương mặt trắng ngần, mái tóc mượt buông xõa ngay trước ngực,
đang ngồi mải mê với cuốn sách trước mặt” và cô “luôn nhíu mày hoặc cười
thích thú với trang sách trước mặt” [11,123]. Vẻ đẹp của cô giáo Đàn người
yêu Thầy giáo Sơn trong truyện Chuyện của Thầy giáo Sơn, là một cô giáo
hiền lành, giỏi chuyên môn, yêu nghề, tự nguyện đi lên ngôi trường vùng núi
hẻo lánh dạy học: “Một cô giáo xinh đẹp, dịu dàng…dáng người thanh tú, mái
tóc đen nhánh. Nhất là đôi mắt có một ma lực nào đó làm cho người ta say
mê”[9,172]. Cô Đàn không chỉ là một cô giáo giỏi mà còn là một người mẹ
hiền, hết mực thương con, yêu con: “Đàn vừa vuốt mái tóc lưa thưa hoe hoe
vàng của con, vừa chăm chú nghe những lời ngọng nghịu của con
nói”[9,182]. Hành động tình cảm ấy của cô đã khiến cho thầy giáo Sơn chỉ im
lặng, ngắm nhìn hình ảnh đẹp của người mẹ âu yếm ôm đứa con trong lòng.
Đối với một nhà văn thì có lẽ đây là những trang viết đẹp nhất về tình mẫu tử,
còn đối với một họa sĩ đây có lẽ cũng là bức tranh hoàn thiện về hạnh phúc
68
gia đình. Hay như cô giáo Hà (Hoa phượng), cũng là một cô giáo có lòng
nhân hậu, thương người, có cách làm việc rất khoa học, chuyên môn giỏi, rất
được lòng tin yêu của học sinh…Cô đã có những viêc làm mà nhiều thầy cô
giáo khác kính nể, trân trọng. Hoàng Hiến một cậu học trò mắc rất nhiều lỗi,
buộc cô chủ nhiệm đuổi học nhưng rất may được cô Hà giúp đỡ và xin cho
em thêm một cơ hội để tiếp tục đi học. Khi em Hiến vì cứu một em bé nên bị
chó cắn rách áo, cô đã âu yếm, ân cần ngồi cạnh và vá lại chiếc áo ấy: “Cô
nhẹ nhàng nâng tấm áo lên, vuốt thẳng nép, rồi vừa vá, vừa nói chuyện”
[9,216]. Khi nhìn thấy hành động ấy của cô, Hiến đã nghĩ cô như người mẹ
hiền, dịu dàng, đằm thắm và đặc biệt cậu cũng rất vui vì được cô tin tưởng.
Cô giáo Hằng (Học trò cũ), là một cô giáo hiền từ, nhân hậu, giàu lòng vị tha,
yêu mến học trò, giúp đỡ học trò khi gặp hoàn cảnh, cô có “vóc người đậm,
khuôn mặt tròn” và “ luôn say mê, yêu nghề” [9,272]. Khi biết hoàn cảnh em
Mơ, cô đã nhờ thầy Hiệu trưởng lưu ý, nể tình và tìm biện pháp giúp em vượt
qua những khó khăn vì hoàn cảnh gia đình. Hay cô Phương Lan (Những lẵng
hoa thành thật) là một cô gái xinh đẹp, học giỏi, yêu nghề, là một cô giáo
với ngoại hình “Nhỏ nhắn, xinh đẹp dù tuổi ngoài ba mươi” và “dạy giỏi, tính
tình lại nhã nhặn nên càng ngày lớp học càng có tiếng tăm” [13, 24].
Ngoài ra, những người phụ nữ trí thức ấy còn toát lên vẻ đẹp của sự
trang nhã, lịch sự, văn hóa. Ví dụ như: Cô Mơ (Mắt rừng) - một cô gái trẻ,
đầy hoài bão, vừa đẹp lại khéo tay: “Mơ lấy dao bổ cam.Những miếng cam
vàng ươm như được bổ rất khéo, bày trong cái đĩa to xếp theo hình một đóa
hoa hồng” [15,17]. Người ta thường nói nhìn cử chỉ có thể đoán được tâm
tính, thậm chí thân phận của một con người, điều này có vẻ rất đúng với Mơ.
Những đóa hoa cam do Mơ xếp hình kia bộc lộ một tâm hồn đầy mơ mộng và
luôn ao ước một cuộc sống yên bình, tươi đẹp.Cô Sao (Tiếng vọng) - một cô
gái với tuổi hai mươi tràn đầy sức sống với thân thể mơn mởn: “Một thân thể
69
nở nang khỏe mạnh. Gương mặt đẹp như có ánh trăng tỏa sáng” [11,38],
những “ngón tay của cô thon thả, mềm mại”, cô là một người rất đảm đang,
tháo vát: “loáng một cái, cơm canh đã xong xuôi” [11,40]. Dù chiến tranh đã
lùi xa, các cô gái thanh niên xung phong miền núi may mắn còn sống sót sau
làn bom đạn; họ luôn nhớ về quá khứ đẹp bi hùng. Hình ảnh cô Tâm trong
tiểu thuyết (Những người mở đường) nhớ về quá khứ thời chiến tranh - cô
đã tập trung tất cả tình cảm và trí tuệ của mình để viết nên cuốn tiểu thuyết
tưởng nhớ những đồng nghiệp mất trong chiến tranh. Mỗi lần xuất hiện câu
hỏi trong đầu: “Phải bắt đầu viết như thế nào đây? Tâm lại ứa nước mắt”
[17, 23] – đây quả là một vẻ đẹp của tình đồng đội, sự biết ơn của người phụ
nữ đã từng qua chiến tranh khốc liệt.
Bên cạnh những phụ nữ vẻ đẹp thanh lịch, sắc sảo, trang nhã…Hồ
Thủy Giang ông cũng chú ý khắc họa khá rõ nét vẻ đẹp của những người phụ
nữ có nỗi đau bất hạnh, hoàn cảnh éo le, sống cô đơn hay là “kiểu rẻ tiền” của
một số nhân vật phụ nữ khác người vì sống đua đòi, sa ngã, biến chất…Ví dụ
như nhân vật Cô Nguyệt “Những phương trời lá rụng” – từ một cô sinh
viên, trẻ, đẹp : “một cô sinh viên với khuôn mặt tròn, ánh mắt sáng mộng mơ
và tươi đẹp” và “là con người có cá tính khá thẳng thắn” nhưng vì gặp cảnh
khó khăn, thiếu thốn nên trong một khoảnh khắc không làm chủ được mình,
cô ăn cắp đồ của bạn, rồi trượt dài vào nhiều tệ nạn xã hội, cuối cùng cô đã
làm nghề “bán trôn nuôi miệng nhục nhã”. Và tự cô đã trở thành “món hàng”
cho bà chủ và những khách làng chơi bán mua. Cô gái (Mùa gió heo may) -
theo thời gian, tuổi thanh xuân đi qua nhanh và nghiệt ngã thay, tình yêu của
chồng cô cũng không còn dành cho cô nữa. Cô rất đau khổ, buồn tủi, dù sống
trong sự đầy đủ về vật chất nhưng hạnh phúc tình yêu không còn nữa - chồng
cô đi theo người con gái khác, điều đó đã khiến cô suy sụp hoàn toàn: “Cô
ngồi lặng người sau khung cửa. Gió heo may đang về. Cô chợt cảm thấy như
70
cùng một lúc có cả hai mùa gió heo may thổi xối xả vào trái tim vô vọng của
mình. Cô thoáng nghĩ đến cái chết” [11,36]. Cô Quỳnh Mai (Bóng thời gian),
một cô gái giỏi, thành đạt nhưng bất hạnh trong cuộc sống tình cảm: “trong sự
nghiệp thì có thể coi như đã ở một tầm khá cao” nhưng nhìn lại thấy mình bất
hạnh “Bốn mươi tuổi. Sắp trở thành “bà già đau khổ”, không chồng không
con” [11,59].
Như vậy có thể thấy rằng: Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Hồ Thủy
Giang đã khắc họa khá rõ vẻ đẹp cũng như những nét đặc trưng của những
nhân vật nữ trí thức thời kỳ hiện đại, không chỉ ở hình dáng mà còn ở thần
thái và tính cách của họ. Trong khi xây dựng ngoại hình của nhân vật nữ, chi
tiết được Hồ Thủy Giang đặc biệt quan tâm là đôi mắt của những người phụ
nữ. Bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn nên qua hình ảnh đôi mắt có thể cảm
nhận được thế giới nội tâm của nhân vật. Đó là đôi mắt xanh đen như nhung
và đượm buồn của cô thư ký; Cặp mắt nửa đau khổ, nửa dửng dưng của
Phương khi bị chồng hiểu lầm; Đôi mắt lóng lánh đen đầy vẻ quyến rũ của
Miên; Đôi mắt to đen thảng thốt của Mơ; Đôi mắt đen thăm thẳm của Sâm
tuy mệt mỏi nhưng vẫn ánh lên trong vắt; Cô gái Tày trong Phiên Chợ Bông
có đôi mắt trong vắt nhưng bảng lảng một nỗi buồn xa xăm…Với bút pháp
nghệ thuật thay đổi linh hoạt, Hồ Thủy Giang khắc họa đậm nét bức chân
dung ngoại hình những người phụ nữ, để bộc lộ phần nào tâm trạng, số phận
của họ. Mặt khác, ông đã miêu tả ngoại hình nhân vật phụ nữ một cách đa
dạng, đủ các kiểu người, đủ các lứa tuổi với các thành phần xuất thân nghề
nghiệp, tính cách khác nhau…đã tạo nên một thế giới nhân vật nữ đa dạng,
phong phú với nhiều tính cách, phẩm chất khác nhau trong xã hội thời kì hiện
đại hóa hôm nay.
71
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
Trong các phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật nói chung, xây
dựng tâm lí nhân vật nói riêng, ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò hết sức quan
trọng. Tiếng nói của tác giả giúp người đọc hình dung được tính cách nhân
vật qua cách kể lại sự việc, biến cố, mô tả thế giới nội tâm qua ánh mắt, cử
chỉ, hành động - trong khi đó, tiếng nói của nhân vật, gồm ngôn ngữ thốt ra
lời – đối thoại và ngôn ngữ không thốt ra lời – độc thoại nội tâm, sẽ giúp
người đọc trực tiếp nhìn thấy tâm trạng của nhân vật, những suy nghĩ của
nhân vật và cả tính cách, phẩm chất của nhân vật.
3.2.1. Độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là những ý
nghĩ thầm kín, là lời nhủ thầm của nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm có
một sức mạnh đặc biệt. Nó không những biểu hiện chân thực nhất bộ mặt tinh
thần và tâm trạng phức tạp của nhân vật mà còn có sức lay động tình cảm sâu
sa của người đọc. Hồ Thủy Giang là nhà văn cũng hay sử dụng những đoạn
độc thoại nội tâm trong sáng tác của mình, để thấy những diễn biến tâm lý của
nhân vật. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí của các nhân vật làm đối tượng
miêu tả. Ông thường xây dựng tác phẩm trên cơ sở theo dõi các diễn biến tâm
lý của nhân vật. Mặt khác nhà văn lại chủ trương không đứng ngoài quan sát,
tường thuật cái thế giới nội tâm kia một cách gián tiếp, mà để nhân vật tự bộc
lộ. Vì vậy ông ít dùng ngôn ngữ người kể chuyện, mà sử dụng chủ yếu ngôn
ngữ đối thoại xen với độc thoại nội tâm của nhân vật. Qua đó các trạng thái
tâm lí nhân vật nổi lên rất rõ, đồng thời nhà văn cũng thể hiện rõ quan điểm
của mình trong những suy nghĩ của nhân vật.
Trong truyện Bông hoa cô đơn, những lời độc thoại nội tâm đầy ân hận
và xen lẫn sự đau khổ của cô Thư ký, bao đêm suy nghĩ, day dứt về nỗi buồn
ấy đã tự thốt lên từ đáy lòng mình, sự đau xót, đớn đau, đầy ai oán: “Thế tôi là
72
một con người hay một công cụ trong công tác của anh, hay chỉ là sỏi đá mà
lúc nào anh cũng ban cho tôi cái nhìn lạnh lùng của quyền lực thế?” [9,11].
Và sự đau đớn ấy còn được thể hiện ở những câu hỏi đầy day dứt trong đáy
lòng cô:“Nếu như điều ấy đối với chúng ta lại là một hạnh phúc thật sự thì
sao? Thế anh không nghĩ được rằng anh rất cần một người vợ như em?”
[9,8]. Hay câu chuyện từ một cô gái Tày với cái tên A Sao ngây thơ và trong
trẻo của bản Phia Khao xa xôi ngày xưa, nay đã trở thành bà Ánh Sao - Hiệu
Trưởng ở một trường Cấp Ba của huyện và là phu nhân của một vị Phó Chủ
tịch tỉnh. Cuộc đời tưởng như là miên mãn với cô nhưng thực ra cô không có
hạnh phúc thực sự, không có niềm vui, tình yêu, cô đau đớn nhận ra rằng:
“Quả là tôi đã quên rằng mình từng là cô bé A Sao trẻ trung, hoang dã, lượn
giỏi nhất vùng. Tôi buồn bã chợt nhận ra rằng, đôi khi sự thông minh, chững
chạc lại đồng nghĩa với sự đánh mất của cuộc đời” [12,14].Lời độc thoại đầy
chua chát của cô đã nói lên tâm trạng chán chường, mệt mỏi của người phụ nữ
này (Trên trời mây trắng như bông). Đôi khi tác giả mượn lời độc thoại nội
tâm của nhân vật con vẹt để nói lên những nỗi khổ đau, bất hạnh của con
người: “Thì ra, tôi là niềm vui của cả hai ông cháu chị Hạnh nữa. Tôi có cảm
giác niềm vui đối với họ hình như là một điều hệ trọng lắm. Mà phải rồi, tôi
luôn thấy đôi mắt của chị ẩn một nỗi buồn vô cớ” [11,52]. Khi biết tin chị
Hạnh bị chết vì bị di chứng chất độc da cam, lời độc thoại của chú vẹt đã làm
cho người đọc thêm đau đớn, quặn thắt: “Tôi lặng đi, không muốn tin vào lời
ông nội nói. Không! Không thể như thế được! Từ nay có lẽ nào tôi vĩnh viễn
không được nhìn thấy chị nữa”. Và “Tôi ngậm ngùi cất cánh bay đi. Tôi cố
bay vọt lên thật cao nhìn xuống để mong thấy bóng hình chị Hạnh, nhưng mặt
đất chỉ rờn rợn một màu xanh mờ ảo. Chao ôi! Tôi đâu biết được loài người
lại có những nỗi buồn tê tái đến thế”. “Chị Hạnh ơi, em thương chị lắm!
Tiếng nói của tôi sẽ vang vọng mãi không nguôi trên bầu trời rộng lớn. Mong
73
sao, giọng nói nghẹn ngào, bé nhỏ của tôi giữa mênh mông này có thể làm
vơi đi chút ít nỗi đau của những kiếp người” [11,57]. Nghe những lời xót xa
đau đớn của chú vẹt, người đọc thấy được tấm lòng nhân hậu, sự cảm thông,
tình thương người của tác giả đối với những số phận bé nhỏ, mong manh của
những người phụ nữ không may mắn trong cuộc sống (Chị Hạnh ơi!). Tình
yêu đẹp trong kỉ niệm của cô Hương (Cô bưu điện gốc trám), khiến lòng cô
đau nhói. Cô thầm lặng nghĩ mong mỏi và tự chủ với chính mình:“Em sẽ chờ
anh, chờ anh mãi mãi”[9,100] và đêm đêm cô lại nhớ đến hình ảnh người yêu
với nỗi nhớ thương thăm thẳm và những câu hỏi đầy xót xa: “Hình dáng của
anh, đôi mắt của anh, chiếc mũ sờn…” - “Mình thật vô lý. Nhưng còn anh?
Anh hiểu lòng mình không? Hay anh chỉ coi mình là cô bưu điện có lòng tốt”
[9,101]. Vì thế khi nhận bức thư của anh gửi cô đã nghẹn ngào nghĩ đến:
“Hẳn anh sẽ viết giống như em nghĩ: Tình yêu phải là một gì cao đẹp, thiêng
liêng, không hẹp hòi, ích kỉ” [9,103].Trong truyện ngắn Con tàu đến muộn,
nhà văn đặt ra vấn đề bi kịch của một gia đình. Từ cuộc chia tay của bố mẹ, từ
việc chứng kiến cảnh người mẹ thủy chung nhưng vừa qua đời vì bệnh tim và
sự hối hận nhưng đầy sĩ diện đến mức mù quáng của người bố, cô gái đã có
những suy nghĩ đau khổ, đầy tiêu cực:“Trong cuộc đời, con người ta luôn cần
có điểm tựa. Không phải là điểm tựa kinh tế... mà là điểm tựa về tình cảm...
Không có điểm tựa tình cảm thì sống sẽ mòn mỏi... nhưng đâu phải bất cứ chỗ
nào cũng có thể là điểm tựa tình cảm của chính mình được”[9,41]. Cô gái
trong truyện Kiệt tác là biên tập viên của một tờ Tuần báo địa phương. Cô
xinh đẹp, giỏi giang nhưng lại có cuộc sống gia đình bất hạnh khi người
chồng gặp tai nạn và bị bại liệt. Vì thế, cô luôn cố gắng nén nỗi đau vào trong
lòng, bởi cô biết rằng: “chẳng bao lâu nữa anh sẽ không còn có mặt trên cõi
đời này nữa. Điều duy nhất mà mình có thể dâng hiến cho anh lúc này là phải
nén nỗi đau để tạo ra những tiếng cười lạc quan cho anh” [12,164]. Còn bà
74
mẹ trong truyện Cỏ biếc cũng có hoàn cảnh trớ trêu vì sinh ra một người con
xấu xí, không ai lấy. Bà cất công đi tìm người con gái tên Châu về làm dâu và
bà nghĩ trong bụng: “Chắc nó ở xa nên không biết thằng Vênh bị tai nạn. Ở xa
mấy thì mình cũng phải tìm bằng được” [12,142].
Trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú, tác giả cũng chú ý viết về
những màn độc thoại nội tâm nhân vật Slao - khi nàng âm thầm nghĩ tới Lưu
Nhân Chú: “Giá như một ngày nào đó Slao được cùng sát cánh bên anh Nhân
Chú trong đội quân bình Ngô của đức Lê Lợi”[16, 94+95] và“lòng Slao lúc
này còn buồn hơn cả tiếng suối Nậm Cang róc rách luồn qua kẽ đá”
[16,119], khi biết được người nàng mơ tưởng đã có gia đình có một người vợ
đẹp người, đẹp nết. Rồi mỗi đêm khi ngồi một mình, mang dải lụa ra ngắm
lại. Nàng lại thốt lên những lời tâm sự buồn thương: “Chao ơi, cái phần dải
lụa ấy, anh Chú có biết rằng nó đã ngấm nhiều, rất nhiều giọt nước mắt của
Slao trong những đêm nhớ thương anh Chú không? Bây giờ anh Chú mang
theo một phần dải lụa điều ấy ra chiến trận, nghĩa là anh đã mang theo nhiều
giọt nước mắt của Slao” [16,63]. Rồi cô lại tự an ủi bản thân mình:“Slao chỉ
cần vậy thôi, chứ không dám mong anh Chú nhớ đến Slao đâu. Anh Chú đã
có chị Ngọc Tiêm để thương nhớ nhiều rồi ” [16, 63]. Hay trong tiểu thuyết
Con đường cát bụi, cô Mơ chua xót nhận ra rằng:“Hình như mình chưa biết
thế nào là tình yêu thật sự” [18,89]. Đã bao năm tháng thực hiện nghĩa vụ của
một người vợ, một người vợ chịu ơn sâu, chị tưởng rằng trái tim đàn bà của
chị đã thôi đập, bởi chị đã tự chôn vùi nó, tự hủy hoại những khát vọng của
chính mình. Chị tự ngắm mình trước gương, tự hỏi, tự chất vấn: Bản thân
mình là ai? có phải mình là mình đây không?:“Người phụ nữ trong gương có
phải là mình không?” [18,89]. Chính lời độc thoại nội tâm của Mơ đã bộc lộ
nỗi khổ của một người phụ nữ sống giàu sang nhưng không có được tình yêu
75
đích thực, chính cô thấy mình chở nên cô đơn, lạc lõng giữa cuộc sống đầy đủ
vật chất này.
Qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong văn xuôi Hồ
Thủy Giang, chúng ta thấy rõ mỗi nhân vật nữ đều toát lên vẻ đẹp rất riêng về
ngoại hình và phẩm chất, nhưng ẩn sau đó là những nỗi niềm, là những khao
khát về hạnh phúc tình yêu, tình cảm gia đình, cùng sự cô đơn của chính
người phụ nữ. Khi đi sâu vào miêu tả đời sống nội tâm các nhân vật nữ, Hồ
Thủy Giang đã lách ngòi bút của mình vào mọi ngõ ngách tâm hồn của nhân
vật để phát hiện ra những điều sâu sa ẩn giấu sau vẻ ngoài của mỗi người phụ
nữ qua các màn độc thoại nội tâm của các nhân vật ở từng hoàn cảnh trong tác
phẩm của ông.
3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật
Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, sử dụng hình thức nói giữa
người này với người khác. Như Mác đã từng nói: “Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là toàn bộ những quan hệ xã hội”. Ông nhấn mạnh vai
trò của đối thoại: Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống
con người, sống tức là tham gia đối thoại”[]. Thông thường đặc trưng của đối
thoại gồm hai yếu tố: trao lời và đáp lời, có sự tương tác qua lại với nhau.
Trong quá trình giao tiếp, sự chủ động và thụ động được chuyển đổi luân
phiên từ phía này sang phía kia. Mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát
ngôn có trước và là sự phản xạ lại phát ngôn ấy. Sức mạnh của đối thoại chính
là ở chỗ thể hiện được sinh động và sâu sắc tâm lí nhân vật trong mỗi quan hệ
phong phú của con người với đời sống.
Nhà văn Hồ Thủy Giang đã tỏ ra khá thành công trong các màn độc thoại
nội tâm của nhân vật, bên cạnh đó ông cũng thể hiện một cách hiệu quả hình
thức đối thoại của các nhân vật trong truyện. Thông qua những cuộc đối thoại
của các nhân vật nhà văn đã khắc họa được tính cách, phẩm chất và tư tưởng
76
của nhân vật đó. Ví dụ trong cuộc gặp gỡ dù muộn màng của cô Đào với
người cháu, chỉ qua vài lời nói của người cô đã có thể kể hết nỗi oan uổng của
mình cho mọi người cùng hiểu. Người cháu thân thiết nhất của cô đã thấu
hiểu nỗi đau mà cô phải gánh chịu bao nhiêu năm qua. Khi nói chuyện với
người cháu giọng cô Đào trầm buồn, còn giọng người cháu đầy thông cảm:
- “Chắc Cháu lạ gì mọi chuyện của cô. Nhưng cô chẳng dám oán trách
ai đâu.
- Dạ, thưa cô miệng lưỡi thiên hạ nhiều khi khủng khiếp và đê tiện lắm.
Cháu nghĩ rằng hình như đời cô có điều gì oan khuất.
Cô lắc đầu:
- Không. Cũng chẳng có quan ức gì. Tất cả do cô thôi. Nhưng hôm nay
cô muốn kể lại toàn bộ đâu đuôi mọi việc cho cháu nghe. Ngoài cháu ra chưa
ai biết bí mật này đâu.” [9,82]
Rồi cô Đào đã kể lại câu chuyện của cuộc đời cô, vì sao cô bị tiếng oan
“sát chồng”, vì sao cô phải vào rừng sâu để sống? Cô buồn tủi, đau đớn, đơn
độc, nhưng cô không oán trách họ, chỉ biết trách thân phận hẩm hiu của mình.
Cô lấy đến ba đời chồng, nhưng họ không ở với cô bao lâu mà đã ra đi vì bị
rắn độc cắn.
Truyện ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, qua lời đối thoại giữa Miên và
người con trai trong sáng chưa nhiễm “bụi trần” ở chốn ăn chơi, cho thấy rõ
tính cách khác nhau của hai người trẻ tuổi này:
- “Em chào anh! …
- Sao trông anh buồn thế?...
Tôi lắp ba lắp bắp:
- Trông tôi... tôi...buồn lắm hả?
Nàng xích lại gần tôi:
- Anh mới ra biển lần đầu tiên ạ?...
77
- Mới lần đầu tiên cô ạ.
- Em đoán đúng mà. Nhưng anh đừng gọi em bằng cô, nghe chẳng thân
thiện chút nào. Cứ gọi em là em hoặc là Miên, tên em mà.
Tôi lắp bắp như một cái máy
- Ừ ! Em ... Miên!
- Em chưa gặp ai lại…ngoan như anh đấy” [9,58-59].
Ở tại một phiên tòa, cuộc tranh luận, cãi vã giữa người vợ và người tình
để giành người đàn ông diễn ra rất căng thẳng. Người vợ Khuất Thị Đanh đệ
đơn tố cáo chị Hoài Thơm quan hệ bất chính với chồng mình. Quan tòa hỏi
chị Hoài Thơm, chị đã thẳng thắn nói lên sự thật, khi chồng chị Đanh say
rượu, rên rỉ ở bên ngoài, cô thương tình mở cửa, dìu anh vào nhà, đợi khi anh
tỉnh say cô đã hỏi:
-“Nhà anh ở đâu để em đưa anh về?
- Anh nói: Em cho anh được ở lại, xin em cho anh được ở lại. Anh
không thể trở về với người đàn bà tai quái ấy đâu!” [9,199] .
Điều này khiến chị Đanh gầm lên sỉ vả cô Thơm, cho cô là loại “gái đĩ già
mồm” nhưng chị Thơm vẫn nhẹ nhàng kể lại và khẳng định điều đó là sự thật:
- “Thưa chị, đúng là anh ấy có nói như vậy. Tôi không đơm đặt điều gì?
Và chị đã nói với Quý tòa:
- Tôi xin thành thực thưa quý tòa: Kể từ ngày biết đến giờ, tôi chưa hề
gặp được một người đàn ông nào đầy lòng cao thượng mà lại ngây thơ trong
sáng như anh ấy. Tôi không phủ nhận rằng không những tôi có cảm tình mà
còn vô cùng quý thương anh ấy ” [9,201].
Và chị cứng rắn trả lời người vợ “lăng loan” đó:
- “Chị đừng nhầm! Tôi đâu có cướp chồng chị. Xin hỏi có điều luật nào
ngăn cấm một người đàn bà có cảm tình và quý trọng một người đàn ông, dù
anh ta có vợ ” [9,201].
78
Người vợ bất lực, gầm lên, chua ngoa, đanh đá:
- “Con khốn nạn! Đồ gái đĩ già mồm ! Bà thì gang họng ra bây giờ!”
[9,200].
- “Con dâm tặc này đã nhận tội cướp chồng tôi” [9,201].
Cô nói với tòa lý do đuổi chồng:
- “Lão ta là một kẻ nát rượu…đêm hôm ấy tôi không cho lão vào nhà
dạy lão bài học nhưng ai cướp chồng tôi thì tôi cho vào tù” [9,199] .
Sau phiên tòa này, tất cả những người phụ nữ được chứng kiến đã
không một ai dám ném chồng ra ngoài cửa và họ học được cách biết yêu
thương, biết sẻ chia, biết quý trọng, tôn trọng người chồng của mình hơn.
Chỉ điểm qua một số cuộc đối thoại của các nhân vật người phụ nữ
trong một số tác phẩm của Hồ Thủy Giang, chúng ta thấy rằng: Mỗi cuộc đối
thoại trong lời nói của nhân vật, họ không chỉ kể chuyện, chia sẻ buồn vui,
đồng cảm, thấu hiểu…mà mỗi nhân vật còn bộc lộ những suy nghĩ, những
hành động, cử chỉ, phù hợp với từng tầng lớp, lứa tuổi trong từng hoàn cảnh,
thân phận khác nhau. Tuy có những đoạn đối thoại rất ngắn, song cũng đủ cho
chúng ta hiểu hơn phần nào về cuộc sống nội tâm, tâm hồn, tính cách, những
vấn đề lớn nhỏ trong đời sống của những nhân vật phụ nữ và làm cho câu
chuyện trở nên hấp dẫn nhưng cũng đầy kịch tính.
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà
văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong các tác phẩm
tự sự, nhà văn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân
vật. Dù tồn tại dưới dạng nào hoặc được thể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ
nhân vật bao giờ cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính
khái quát, nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm
riêng, có “lời ăn tiếng nói” riêng, mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh được
79
đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định gần gũi về nghề nghiệp,
tâm lý, giai cấp, trình độ văn hóa,…Ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những
yếu tố quan trọng thể hiện “cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà
văn”. Trong tác phẩm tự sự gồm hai thành phần cơ bản của ngôn ngữ đó là:
ngôn ngữ người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ người trần thuật
có vai trò then chốt trong tác phẩm tự sự, là yếu tố cơ bản thể hiện cái nhìn,
giọng điệu và phong cách tác giả. Ngôn ngữ người trần thuật bao gồm những
đoạn có tính chất tĩnh tại, như lời dẫn truyện, lời miêu tả bức tranh tự nhiên và
xã hội, có khi là lời trữ tình ngoại đề, lời khắc họa chân dung nhân vật, miêu
tả tâm trạng nhân vật... Ngôn ngữ người trần thuật còn mang thêm các sắc
thái, quan điểm bổ sung do lập trường, đặc điểm tâm lý, cá tính của nhân vật
– người kể chuyện mang lại. Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong
tác phẩm, là một trong các phương tiện quan trọng thể hiện cuộc sống và cá
tính nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật được cá thể hóa cao độ. Trong tác phẩm,
nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: Nhấn mạnh
cách đặt câu, ghép từ; lời phát âm đặc biệt của nhân vật... Ngôn ngữ nhân vật
có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.
Như vậy, có thể thấy ngôn ngữ nghệ thuật là hình thức vật chất duy
nhất tạo nên nội dung tác phẩm; là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm,
yếu tố mang tính nội dung sâu sắc và trực tiếp nhất: “cả hình tượng nhân vật,
bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ
thuật về thế giới và con người... chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của
ngôn từ”[21, 26]. Ngôn ngữ nghệ thuật còn là phương tiện thể hiện phong
cách tác giả và thể hiện tài năng sáng tạo của nhà văn.
80
3.3.1. Ngôn ngữ mang tính bình dân thể hiện rõ tính cách và phẩm chất
của nhân vật
Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ
lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện
sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của
nhân vật. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang hầu hết là
thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị như những lời ăn tiếng nói trong cuộc sống
hàng ngày. Hay nói một cách khác: Ngôn ngữ bình dân được nhà văn sử dụng
rộng rãi, trong cả ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Thứ ngôn
ngữ bình dân này thường kết hợp với giọng điệu chua chát, mỉa mai hoặc thô
thiển, đời thường…trong văn xuôi Hồ Thủy Giang, ví dụ như trong các truyện
ngắn: Phiên tòa, Tình phụ tử, Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú, Giá của niềm
tin hay tiểu thuyết Con đường cát bụi….
Trong truyện Phiên tòa, qua ngôn ngữ của nhân vật người vợ, chúng ta thấy
hiện lên hình ảnh một người phụ nữ ghê ghớm, đanh đá, nanh nọc và thô tục:
-“Lão ta là một kẻ nát rượu. Một ngày lão tọng vào họng hai chai sáu
nhăm vẫn còn chưa đủ....Đêm hôm ấy, tôi không mở cửa chính là để giáo dục
lão ta chừa thói rượu chè. Chồng tôi là một thằng bợm rượu, là thằng vô
tích sự, bám váy vợ thật đấy nhưng cướp chồng tôi là tôi cho vào tù...
- Con khốn nạn! Đồ gái đĩ già mồm! Bà thì bà gang họng mày ra bây
giờ” [9,200].
- “ Bà con nghe rõ chưa? Con dâm tặc này đã nhận tội cướp chồng tôi”
[9,201].
Còn đây lại là thứ ngôn ngữ của một kẻ cay nghiệt, độc ác - bà mẹ kế nói
về cô con gái của chồng:
- “Bà những tưởng cùng lắm thì cô con chồng, lúc quẫn, cũng chỉ có
thể dẫn về một thằng già tóc hoa dâm, cưới quách cho xong chuyện. Cốt để
chiếm lấy ngôi nhà. Nếu như thế thì tuy ngôi nhà tuột khỏi tay bà nhưng lòng
81
bà cũng thỏa mãn, vì đã dìm được đời nó xuống bùn đen, cho nó bớt vênh
cái mặt khỉ lên”[9,302].
Trong lời nói đậm màu mỉa mai, chì triết, coi thường của một người vợ
(mẹ của nữ tỷ phú) đối với người chồng “nghệ sĩ” nghèo kiếp xác. Trong
truyện ngắn Nỗi ám ảnh của một nữ tỉ phú:“Chấp gì cái lão cả khổ ấy!
Nhuận bút của bố mày chỉ đủ mua quạt giấy thôi. Ngu ạ!” [9,392]. Cô luôn
cần tiền, cô sợ nghèo khổ bởi nghề của chồng mình đàn hát, văn thơ.
-“Sống! sống như anh thì coi như đã chết. Suốt ngày đàn hát ca cẩm
không có một xu dính túi. Thử hỏi anh là nhạc sĩ hay nhục sĩ”[9,394].
Hay ngôn ngữ câu nói một bà lão hiền lành, phúc hậu, dễ tin người nên
đã bị người đời lừa rất nhiều lần - trong chuyện Giá của niềm tin. Bà không
còn tin tưởng vào người đời nữa, nên giọng điệu trở nên hoài nghi, bực bội,
chua chat:
- “Ối giời! Cậu nghĩ thế hả? Cậu càng thật thà càng là mồi ngon cho
chúng nó xẻo thịt , đẽo xương đấy” [14,10].
- “Khổ! Tại sao tôi lại tin ngay nó cơ chứ!” [14,10].
Nhân vật Thắm và Liễu trong tiểu thuyết Con đường cát bụi thì lại có
kiểu nói chuyện rất bỗ bã nhưng thể hiện rõ tình cảm thân thiết, gần gũi của
đôi bạn chí thân:
- “Lúc nãy nghe thấy tên mày trong danh sách sinh viên giỏi được đi dự
Đại hội thanh niên xuất sắc toàn tỉnh, tao thấy lũ bò dửng mỡ lớp mình có vẻ
he mũi” [18,10]. Còn khi thấy Thắm mặc áo vá đến trường thì các bạn nữ
cùng lớp lại tỏ vẻ khinh thường nên có giọng đùa cợt, mỉa mai: “Đúng là
chuyện lạ có thật. Miếng vá tổ bố to bằng bàn tay chúng mày ạ” [18,13].
Hoặc khi chê bai dáng vẻ thô, béo của Liễu, các bạn gái trong lớp đã nói bằng
giọng điệu bỡn cợt, bai bẻ.
82
-“Quả là có những điều kinh dị không sao hiểu nổi! Khiếp! Chúng mày
nhìn kìa. Cái con đi bên cạnh trông cứ như Trương Phi hiện hình”[18,3].
Để khắc họa tính cách mạnh mẽ, “chẳng phải tay vừa” của Liễu, tác giả
miêu tả ngôn ngữ, cứng cỏi và có phần hơi “anh chị” của Liễu khiến cho các
cô cậu “tiểu thư”, “ông trẻ” khiếp vía.
- “Ông ăn nói kiểu du côn hả! Muốn vớ vẩn thì phải bước qua xác con này!
- Xin lỗi! Với lại đường chật mà sao lại đứng nghênh ngang thế, định
không cho ai đi lại nữa sao?
- Này! “Đây” khuyên một cách chân tình nhé: dây vào con ấy là dây
phải hủi đấy. Cho qua đi!
- Chúng mày cần gì thì cứ ới nhá. Tao xin tiếp hết!” [18,3].
Có thể dễ nhận thấy, nhà văn đã rất sáng tạo, mạnh dạn đưa vào những trang
văn của mình thứ ngôn ngữ bình dân, phong phú, phù hợp với từng tính cách
nhân vật. Đặc biệt trong các trang văn xuôi Hồ Thủy Giang hay sử dụng những
câu thành ngữ quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày trong ngôn ngữ
của nhân vật. Ví dụ như: “Trâu buộc ghét Trâu ăn”, “Chết khổ chết sở”, “Ghét
xuống ao mà kì”, “Cá lớn nuốt cá bé”, “Thuốc đắng giã tật”, “Ngậm bồ hòn
làm ngọt”, “Để lâu cứt trâu hóa bùn”, “Nhà cửa nát như tương bần”, “Đi guốc
trong bụng”, “Tức đấm ngực mà chết”, “Bố nào con ấy”....
Với việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, suồng sã mang đậm tính bình dân, tác
giả đã đem đến cho người đọc một cảm giác gần gũi, chân thực và sinh động
về một cuộc sống đời thường với những con người bình thường đang hiện
hữu quanh ta. Mặt khác, với thứ ngôn ngữ bình dân, đời thường nhưng rất
phong phú, tác giả đã khắc họa khá cụ thể, sinh động, cá tính, phẩm chất của
từng nhân vật trong từng tác phẩm của mình.
83
3.3.2. Ngôn ngữ mang màu sắc địa phương, đậm tính vùng miền
Trong những trang văn xuôi Hồ Thủy Giang chúng ta bắt gặp một thứ
ngôn ngữ khá đặc biệt, đó là thứ ngôn ngữ mang đậm chất miền núi. Hầu hết
những cuộc đối thoại trong truyện viết về đề tài miền núi đều có sự xen lẫn
vào đó là thứ ngôn ngữ dân tộc thiểu số và cách diễn đạt theo kiểu dân tộc. Ví
dụ như: Trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân Chú. Các nhân vật nữ không
chỉ đẹp về hình thức với bộ trang phục của người Tày mà ngôn ngữ của họ
cũng thể hiện rất rõ cách nói của người dân tộc thiểu số như:
-“Chị Slao ơi, lần này chị phải cố ném trúng cho bọn con trai Thuận
Thượng biết mặt nhé.
- Nhình ạ, chị sẽ cố mà…. Ây dà! Slao ném mà không trúng thì không
đứa nào ném được đâu lố.” [16,30].
Và đặc biệt khi Slao cất tiếng hát lượn (dân ca của người Tày) thì người
đọc càng nhận ra vẻ đẹp tâm hồn và sự tài hoa, lãng mạn của cô gái đẹp
người, đẹp nết này:
“Ong bướm bay đi về đại ngàn
Biết ngày nào hoa rơi lại nở
Ong lại được vui xuân cùng bạn
Như em ước với anh cùng về” [16,31].
Nhưng khi muốn khắc họa tính cách mạnh mẽ, can trường của cô gái Tày
vừa giỏi việc nương rấy, vừa giỏi võ nghệ, lại dũng cảm, yêu nước – tác giả đã
miêu tả ngôn ngữ nhân vật rất độc đáo, ấn tượng như:
-“Năm nào hổ cũng đến rình bắt chó, bắt lợn mà. Nhưng Slao chả sợ
đâu” [16,38].
Slao ngừng hát với vẻ mặt hơi vênh tỏ vẻ thách thức. Nhình nói to, giọng
giễu cợt: Đám con trai Thuận Thượng đờ mặt nhìn Slao. Slao phấn khích,
bước ra tiếp tục hát:
84
“Thân em như đũa thiếu chiếc
Thiếu chiếc còn tìm được để bù
Thiếu bạn chẳng biết lấy ở đâu” [16,31]….
Còn đây là ngôn ngữ của cô Nhình đáo để, mạnh dạn, thẳng thắn:
-“Bớ trai làng Thuận Thượng! Các anh ngậm phải hột thị rồi hay sao
mà không ai dám cất tiếng thế?
- “Cái mày không biết gì cả. Anh Chú có vợ rồi. Chị Slao hát là có ý
đấy” [16,31].
Trong tiểu thuyết Những người mở đường, những nữ thanh niên xung
phong xinh đẹp là người dân tộc thiểu số, rất trong sáng, thật thà, nói chuyện
một cách hồn nhiên, giọng điệu và cách nói “đặc” chất dân tộc thiểu số:
-“A lúi! Thủ trưởng Cương ơi! Anh lái xe đẹp giai quá. Tý nữa thủ
trưởng Cương chuyển sang để chị em chúng em kỷ luật lố!” [17,26].
-“Đúng rồi mà! Đẹp trai quá lố! Thủ trưởng Cương tha cho anh ấy đi ”
[17,26].
- “ A lúi! Báo cáo thủ trưởng Cương, chúng em biết tội rồi lố” [17,26].
- “Xôi đỗ đen lố! Thích quá này các chị ơi!” [17, 26].
Trong truyện ngắn Trên trời mây trắng như bông, một cô gái người
Tày nói với anh họa sĩ bằng một giọng nói buồn tủi, bày tỏ nỗi đau thầm kín
trong lòng mình:
- “Rồi tới một ngày chúng em pây hết lùa theo sắp đặt của gia đình lố!”
- “Eng Nhình đâu có được theo anh lố!” [12, 6].
Thông qua lời nói của những nhân vật người phụ nữ trong một số tác phẩm,
khảo sát chúng ta thấy nhiều tác phẩm sử dụng ngôn ngữ vùng miền, là thứ ngôn
ngữ mang đậm chất dân tộc miền núi. Chất vùng miền trong các sáng tác Hồ
Thủy Giang, nó có tác dụng rõ rệt và hiệu quả trong việc khắc họa tính cách
nhân vật và thành phần xuất thân của nhân vật một cách sinh động.
85
3.3.3. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ
Trong quá trình tìm hiểu, khảo sát, thống kê cách sử dụng những từ láy,
tính từ, than từ, hô ngữ, đoạn văn biểu cảm, nhằm biểu hiện các tâm trạng của
các nhân vật nữ. Xen lẫn những cuộc đối thoại nhà văn sử dụng nhiều hình
ảnh mang tính biểu cảm và tính tạo hình. Ngoài ra, ông vận dụng linh hoạt các
biện pháp tu từ, giúp cho đối tượng thẩm mĩ được tác giả miêu tả trong tác
phẩm trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Qua đó, cho thấy rõ hơn
cá tính sáng tạo của nhà văn về phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong tác phẩm Bông hoa cô đơn, dù chỉ hơn bảy trang nhưng ta có
thể gặp rất nhiều danh từ, cụm từ kết hợp với các từ láy giàu sức biểu cảm
như: “Giọng cô rưng rưng”; “Nước mắt tuôn ra đầm đìa”; “Nghẹn ngào
khóc”; “Thiếu cô cuộc đời anh sẽ khô khan biết mấy”; “Đôi mắt biêng
biếc của cô nhìn anh đăm đắm”; “Gượng một nụ cười đau đớn”;“Cô buồn
bã nhìn những đóa hoàng lan đang ngơ ngác tỏa hương”; “Căn phòng
hôm nay sao mà nặng nề, u uất”; “Anh cảm thấy ân hận tê tái”; “Cái nhìn
lạnh lùng của anh”; “Bàn tay mảnh mai run rẩy của cô”. Những từ láy
được sử dụng với một số lượng khá cao trong ngôn ngữ của người kể
truyện đã có tác dụng nhấn mạnh đến thứ tình cảm “khó nói”, “nghẹn
ngào”, “đầy trớ trêu”, “đầy mâu thuẫn”, trong tâm hồn của cả hai nhân vật
là cô Thư ký và ông Chủ tịch. Một tâm trạng xót xa, tiếc nuối, đau đớn…
của hai người khi yêu nhau mà không dám đến với nhau. Tác giả cũng sử
dụng khá nhiều từ láy để miêu tả vẻ đẹp của nhân vật Miên, trong truyện
ngắn Lúc ấy biển hoàng hôn, ví dụ như: “Đôi mắt lóng lánh đen của nàng
chớp chớp đầy vẻ quyến rũ”; “Dáng điệu tha thướt, uyển chuyển của nàng
khi đi lại”; “Tiếng cười lóng lánh vang vọng cả mười phương sóng
biển”…Bằng việc sử dụng các từ láy đó, để miêu tả vẻ đẹp của một cô gái
vừa hồn nhiên, vừa già dặn, vừa quyến rũ nhưng cũng vừa rẻ tiền…
86
Bên cạnh việc tích cực sử dụng từ láy làm phương tiện biểu cảm, nhà
văn Hồ Thủy Giang còn hay sử dụng những câu văn giàu cảm xúc, miêu tả
tâm trạng, tâm lý phức tạp của nhân vật. Ví dụ như nói về cuộc đời: “Một
dòng sông nước mắt” của cô thư ký trong tác phẩm Bông hoa cô đơn, tác giả
viết:“Ở đó, có vị mặn chát chắt ra từ trái tim đau khổ của cô. Ở đó, có niềm
hy vọng đắng cay của cô. Thế nhưng, chỉ một vệt khăn lau đầy cẩn trọng và
vô tâm của anh là khô kiệt hết” hay “Trên đời, không yêu nhau bỏ nhau đã
đành, yêu nhau mà lại bỏ nhau mới thật là đau xót” [9,9]. Những truyện Xóm
sỏi ai quên, Thiên truyện cổ, Lúc ấy biển hoàng hôn,…xoay quanh những
nỗi đau, bất hạnh của người phụ nữ trong tình yêu, tình cảm gia đình và xã
hội. Đó là nỗi xót xa đau đáu của một người chị gái khi nghĩ về mẹ và em gái
ở quê nhà bởi sự xót xa, buồn tủi, nhớ thương:“Suốt mấy năm ròng em tôi lặn
lội cày bừa nuôi mẹ để tôi yên tâm theo học. Nghĩ lại mới thấy xót xa. Năm
nay em gái tôi cũng đã hai nhăm hai sáu sao mà vẫn chưa chịu lấy chồng. Mà
cũng tội, nhà chỉ có hai mẹ con người đi người ở sao đành... Chao ôi! Đứa
em gái lam lũ đau khổ của tôi. Ngày về, nhìn vóc dáng tiều tụy của em, tôi đã
kinh hãi. Chị có tội với em. Mọi nỗi nhọc nhằn, lo toan của gia đình, chị đã
trút lên đầu em. Mỗi nếp nhăn khô héo trên mặt em có phần tội lỗi của
chị”[9, 113-117]. Hay là những câu văn tràn đầy cảm xúc, đầy đớn đau của
tác giả khi viết về tâm trạng (tâm sự) với mình của người cháu vào thăm cô
đầy bất hạnh, tiều tụy trong vũng sâu: “Sao sự khắc nhiệt của cuộc đời vẫn
không chịu buông tha cô? Mấy chục năm nay, người đời nguyền rủa cô là yêu
tinh, ma quái nhưng cho đến tận bây giờ đã có kẻ nào nhìn thấy cô ăn thịt ai.
Đúng hơn, thì chính loài người đã ăn thịt cô bằng những lời nói và cử chỉ phũ
phàng, để đến nỗi cô phải rơi vào con đường cùng thế này. Nhìn cô Đào tiều
tụy ngồi trên sân, tôi thấy mình có lỗi vô cùng. Tôi đã viết bao nhiêu trang
sách, nói bao nhiêu lời nhân nghĩa, đạo đức, cảm thông với biết bao số phận,
87
thế mà bao năm tháng nay tâm hồn tôi đã bỏ trống một con người cần được
cứu vớt nhất” [9,80].
Qua khảo sát bước đầu, chúng ta có thể nhận ra: Hai yếu tố giọng điệu
và Ngôn ngữ nghệ thuật đã góp phần vào tạo nên sự thành công và đặc sắc
trong văn xuôi của Hồ Thủy Giang. Từ điểm nhìn đa chiều, đa góc cạnh nhà
văn đã bày tỏ thái độ, tình cảm của mình trước thực tại bằng nhiều giọng điệu
khác nhau: Đó là giọng điệu ngậm ngùi xót xa, thương cảm, giọng điệu mỉa
mai, chua chat; Giọng điệu ngợi ca và có khi giọng điệu chất chiêm nghiệm,
triết lý về số phận của những người phụ nữ. Chúng tôi nhận thấy kết hợp
nhiều giọng điệu khác nhau để tạo ra tính đa thanh trong tác phẩm. Sự linh
hoạt này cho thấy sự cách tân về giọng điệu trong văn xuôi của Hồ Thủy
Giang so với giai đoạn sáng tác trước của ông. Bởi sự linh hoạt và phong phú
của giọng điệu trần thuật, cũng chính là nhu cầu tự nhiên để người viết tự làm
mới mình. Còn về mặt ngôn ngữ nghệ thuật, nhà văn sử dụng chủ yếu là thứ
ngôn ngữ đời thường, giản dị, đôi khi có chất khẩu ngữ;bên cạnh đó việc sử
dụng một cách hợp lý các thành ngữ trong câu văn khiến cho lời văn mang
tính sâu sắc triết lý. Nhà văn Hồ Thủy Giang cũng đã vận dụng linh hoạt hiệu
quả các biện pháp tu từ với những từ láy, những điệp ngữ... giúp cho đoạn văn
thêm tính biểu cảm, nhằm khắc họa tâm trạng, tính cách phức tạp của các
nhân vật nữ. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ rõ nỗi xót thương, sự cảm thông,
sẻ chia...của mình đối với những cảnh đời éo le, những nỗi bất hạnh của
người phụ nữ trong cuộc sống thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập hôm nay.
Tiểu kết
Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong văn xuôi
của Hồ Thủy Giang - trước hết phải kể, đó là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân
vật khá tài hoa và tinh tế của nhà văn. Tác giả đã lách ngòi bút của mình vào
những ngóc ngách sâu kín nhất trong thế giới nội tâm của người phụ nữ. Dưới
88
ngòi bút của ông, thế giới nhân vật phụ nữ được hiện lên một cách sống động
với những nét tính cách, nhưng suy nghĩ, những nỗi niềm, những day dứt,
giằng xé, những mâu thuẫn đan xen, những cung bậc tình cảm, những cảm
giác, những cách ứng xử, hành động…rất khác nhau. Chính vì vậy, thế giới
nhân vật nữ vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa chân thực, vừa sinh động, và
có sức thuyết phục, sức hấp dẫn đối với người đọc nhiều thế hệ của tỉnh Thái
Nguyên nói riêng, của cả khu vực nói chung. Về ngôn ngữ nghệ thuật - Hồ
Thủy Giang thường sử dụng ngôn ngữ đời thường giản dị, mang tính khẩu
ngữ, nhờ đó tạo cho câu chuyện thêm gần gũi với cuộc sống hàng ngày và gia
tăng sự gắn bó giữa văn với đời. Nhờ việc vận dụng linh hoạt các từ láy, câu
văn biểu cảm để khắc họa rõ nét hơn thế giới nội tâm của các nhân vật nữ
được khắc họa trong câu văn, đoạn văn rõ nét hơn. Qua đó cho thấy cá tính
sáng tạo độc đáo của Hồ Thủy Giang ở phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.
Mặt khác trong văn xuôi Hồ Thủy Giang còn chứa nhiều ngôn ngữ giàu chất
tạo hình, giàu âm thanh, màu sắc miền núi, mang đậm chất dân gian, dân tộc
miền núi với những câu tục ngữ, thành ngữ, bài lượn… Chính những đặc
điểm về nghệ thuật sử ngôn ngữ miêu tả đặc sắc đó đã góp phần đem lại thành
công cho các nhà văn, cũng như đã góp phần đắc lực tạo nên phong cách nghệ
thuật trong văn xuôi Thái Nguyên thời kì hiện đại.
89
KẾT LUẬN
1, Hồ Thủy Giang là một trong số ít các nhà văn chuyên nghiệp của
tỉnh Thái Nguyên. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã cho ra mắt bạn đọc hơn 30
tác phẩm thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và phê bình văn
học, kịch bản phim, nhưng thể loại mà ông giành nhiều tâm huyết và đạt được
nhiều thành tựu nhất là Truyện ngắn và Tiểu thuyết. Trong các truyện ngắn và
tiểu thuyết của ông nổi bật là hệ thống các nhân vật phụ nữ. Đây là loại nhân
vật chiếm tỷ lệ cao so với các loại nhân vật khác (hơn 80% tác phẩm viết về
người phụ nữ, trong đó có trên 50% truyện có nhân vật chính là người phụ
nữ) và cũng là những nhân vật ông đã giành nhiều tình cảm, trí tuệ, tài năng
nghệ thuật của mình vào trong quá trình xây dựng, miêu tả và thể hiện trong
các tác phẩm.
2, Thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Hồ Thủy Giang khá phong
phú đa dạng và phức tạp. Đó là những người phụ nữ sống tại vùng trung du
và miền núi. Họ đủ các thành phần, các lứa tuổi, các nghề nghiệp khác nhau
với các tính cách, phẩm chất khác nhau. Khi miêu tả họ, tác giả đã chú ý miêu
tả vẻ đẹp ngoại hình của họ với những nét nổi bật: vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc,
rực rỡ, tươi tắn, trong trẻo…như những bông hoa rừng, những con nai rừng,
như những dòng suối mát lành….đặc biệt khi nhân vật là những người phụ nữ
dân tộc thiểu số; vẻ đẹp khỏe khoắn, chắc chắn, thậm chí là hơi thô mộc của
những người phụ nữ nông thôn miền núi, những cô công nhân, nhân viên; vẻ
đẹp thanh nhã, lịch lãm của các phụ nữ trí thức….Ở họ, luôn toát ra một vẻ
đẹp ngoại hình của những người phụ nữ Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện
đại. Tương ứng với vẻ đẹp ngoại hình là vẻ đẹp tâm hồn, tính cách và phẩm
chất của những người phụ nữ đó. Tác giả Hồ Thủy Giang đã khắc họa được
những nét tính cách, phẩm chất của những người phụ nữ vùng trung du và
miền núi ấy một cách sinh động và rõ nét. Họ là những người phụ nữ mới, tự
90
tin, mạnh mẽ, sống có trách nhiệm với gia đình, với công việc và với chình
mình. Đó chính là bức chân dung đẹp của người phụ nữ thời kỳ hiện đại hóa
và hội nhập.
Bên cạnh những nhân vật phụ nữ đẹp, tự tin đó, nhà văn Hồ Thủy
Giang đã dựng nên trong tác phẩm của mình những bức chân dung, những
mảnh đời, những số phận đầy sự thiệt thòi, không may mắn và bất hạnh của
bao người phụ nữ khác – như là một nỗi “ám ảnh” khôn nguôi trong các
trang viết của ông. Yêu thương, thông cảm, sẻ chia và đôi khi là sự phê phán
đó là thái độ của nhà văn khi viết về các nhân vật phụ nữ này. Tác giả đã đi
sâu vào từng hoàn cảnh, từng cuộc đời của những người phụ nữ thiếu may
mắn, chịu bao nỗi bất công, truân chuyên, trắc trở trong cả sự nghiệp lẫn tình
duyên và dù trải qua bao vất vả, khổ đau mà họ vẫn không có hạnh phúc đủ
đầy. Viết về họ - dưới góc nhìn đời tư, với những mặt khuất lấp, thậm chí là
cả mảng đen tối của những con người, những cuộc đời người phụ nữ sống
trong thời “cơ chế thị trường”- nhà văn Hồ Thủy Giang cho người đọc thấy rõ
sự đổi mới trong quan điểm, trong cách nhìn, cách phản ánh hiện thực và con
người vào trong tác phẩm văn chương. Đó là cách nhìn nhận, phản ánh đa
chiều, đa góc cạnh, chân thực, khách quan và sống động trong nghệ thuật xây
nhựng nhân vật và phản ánh hiện thực cuộc sống của nhà văn.
3, Bên cạnh nghệ thuật miêu tả ngoại hình, miêu tả nội tâm và tính cách
nhân vật, nhà văn Hồ Thủy Giang đã chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ nghệ
thuật (ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện), đặc biệt là ngôn ngữ
nhân vật. Đó là thứ ngôn ngữ mang đậm tính vùng miền (trung du và miền
núi); thứ ngôn ngữ “bình dân”, và thứ ngôn ngữ mang màu sắc riêng phù hợp
với thành phần xuất thân, với môi trường sống của nhân vật. Tác giả cũng rất
chú ý đến việc miêu tả giọng điệu của từng loại nhân vật, thể hiện rõ tính
cách, phẩm chất và nghề nghiệp…. của nhân vật. Với đặc điểm về ngôn ngữ,
91
về giọng điệu như trên, các nhân vật nữ của nhà văn Hồ Thủy Giang trở nên
có cá tính, có những nét đặc trưng riêng; trở nên đa dạng và sống động trong
các tác phẩm của ông.
4, Có thể còn có những hạn chế nhất định, còn có những truyện chưa
thực sự đặc sắc và hấp dẫn nhưng với sự tâm huyết, sự sáng tạo và giàu tình
yêu thương, kính trọng, cảm thông, chia sẻ …khi viết về nhân vật phụ nữ
trong tác phẩm của mình – tác giả Hồ Thủy Giang xứng đáng là một “nhà văn
của những người phụ nữ”. Ông đã góp phần hoàn thiện bức chân dung người
phụ nữ Việt Nam trong văn chương Việt Nam hiện đại. Chỉ riêng điều ấy thôi
cũng đã là một thành công đáng ghi nhận đối với cây bút văn xuôi tiêu biểu
của tỉnh Thái Nguyên này.
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Ngọc An (2010), Nghệ thuật xây dựng hình tượng người công
nhân mỏ trong tiểu thuyết Quang Ninh (từ sau 1945 đến nay), Luận văn
Thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
2. Trần Thúy An (2007), Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn một số nhà văn
nữ, Luận văn Thạc sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học số 9/1998.
4. Trương Chính, Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn, Tạp chí Văn học số 5 năm 1990.
5. Phương Dung - Lệ Hằng (2005), Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy Giang,
Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa đào tạo Giáo viên Trung học cơ sở, Đại
học Sư phạm Thái Nguyên.
6. Hà Minh Đức (2007), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
7. Hồ Thủy Giang (2010), Thái Nguyên – Một dòng chảy văn chương, Nxb
Hội nhà văn.
8. Hồ Thủy Giang (2004), Văn học Thái Nguyên tác gia và tác phẩm, Nxb
Văn hóa dân tộc Hà Nội.
9. Hồ Thủy Giang (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.
10. Hồ Thủy Giang (2002), Cuồng phong, Nxb Thanh niên Hà Nội.
11. Hồ Thủy Giang (2005), Mùa gió heo may, Nxb Lao động.
12. Hồ Thủy Giang (2008), Nhà có 5 người, Nxb Văn hóa dân tộc.
13. Hồ Thủy Giang (2010), Người đẹp thường nhiều bí ẩn, Nxb Văn học.
14. Hồ Thủy Giang (2011), Không phải là ảo ảnh, Nxb Văn học.
15. Hồ Thủy Giang (2015), Mắt rừng (tiểu thuyết), Nxb Công an nhân dân.
16. Hồ Thủy Giang (2016), Tể tướng Lưu Nhân Chú (tiểu thuyết), Nxb Đại
học Thái Nguyên.
93
17. Hồ Thủy Giang (2016), Những người mở đường (tiểu thuyết), Nxb Văn
học.
18. Hồ Thủy Giang (2016), Con đường cát bụi (tiểu thuyết), Nxb Văn học.
19. Hồ Thủy Giang, “Văn xuôi Thái Nguyên – Một năm đáng kể”. Báo văn
nghệ Thái Nguyên, ngày 09/02/2016.
20. Hồ Thủy Giang (2017) Thái Nguyên - 1917, NXb Đại học Thái Nguyên
21. Phạm Thị Thu Hà (2010), “Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự
Lực văn đoàn”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hà Nội.
22. Minh Hằng (2016), "Mắt rừng, cuộc chiến lâm tặc đầy cam go", Báo Thái
Nguyên chủ nhật, số ra ngày 12-5-2016.
23. Minh Hằng (2016), "Vài điều đáng nói xung quanh cuốn tiểu thuyết lịch
sử đầu tiên về danh nhân đất Thái", Báo Thái Nguyên chủ nhật, số ra
ngày 31-5-2016.
24. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên), (2009),
Từ điển Thuật ngữ văn học, Nxb quốc gia Hà Nội.
25. ĐặngThị Hậu (2016), Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Lê
Văn Trương, Luận văn Thạc sĩ, Đại học khoa học - Đại học Thái Nguyên.
26. Mai Hương, “Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại”,
Báo văn nghệ quân đội, ngày 29/05/2015.
27. Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên (2007), Tuyên tập Văn xuôi Thái
Nguyên (2001-2006), NXb Đại học Thái Nguyên.
28. Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên (2007), Tuyển tập Văn xuôi Thái
Nguyên (2006-2015), NXb Đại học Thái Nguyên.
29. Nguyễn Thị Thu Lan (2011), “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Luận văn Thạc sĩ, Khoa học Xã
hội và Nhân văn Đà Nẵng.
94
30. Phương Lựu (chủ biên) – Nguyễn Nghĩa Trọng, La Khắc Hòa, Lê Lựu
Oanh, “Lý luận văn học”, Nxb Đại học Sư phạm.
31. Phong Lê (1985), Trên hành trình bốn mươi năm văn xuôi: Ngôn ngữ và
giọng điệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2011), Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy Giang,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
34. Mai Thị Nhung (1999), Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Đề tài Nghiên cứu khoa học, Đại hoc
Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
35. Vũ Nho, “Hồ Thủy Giang – Cây truyện ngắn”. Báo Văn Nghệ của Hội
nhà văn Việt Nam, số 38 tháng 9/2013.
36. Vũ Nho (2015), Mắt rừng - cuộc chiến chống lâm tặc, báo Công an Nhân dân.
37. Vi Phương, “Truyện ngắn trên báo văn nghệ Thái Nguyên – 10 năm nhìn
lại”. Báo Văn nghệ Thái Nguyên, ngày 16/11/2015.
38. Trần Đình Sử (2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn
học Việt Nam thế kỷ XX, Tạp chí Văn học.
39. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học.
40. Trần Đình Sử (1978 – Chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
41. Trần Văn Tác (chủ biên) - Nguyễn Xuân Dương (2010), Văn hóa -Văn
học và ngôn ngữ địa phương tỉnh Thái Nguyên, Nxb Đại học Sư phạm.
42. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa –
Thông tin.
43. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2015), Văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam thời kì hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
95
44. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) Nguyễn Thị Hoa - Đào Thị Lý - Lê Thị
Bằng Giang (2008), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
45. Trần Thị Việt Trung, Đào Thị Lý, “Một số đặc điểm các nhân vật phụ nữ
trong sáng tác của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám năm
1945”.Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, số 4/2004.
46. Trần Thị Việt Trung, Lê Thị Bằng Giang, “Một số đặc điểm nghệ thuật
xây dựng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số trong sáng tác của Tô Hoài và
Vi Hồng”.Tạp chí khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, số
3/2006.
47. Phạm Văn Vũ, “Kiến giải lịch sử trong tiểu thuyết Tể tướng Lưu Nhân
Chú của Hồ Thủy Giang”. Báo Văn nghệ Thái Nguyên - Hội Văn học
nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, tháng 10/2016.
48. Cao Thị Hồng Vân (2012), Con người trong văn xuôi miền núi của các
tác giả trẻ đương đại (Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Phạm Duy Nghĩa),
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
49. Luận Văn.net.vn, “Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt
khách quan và chủ quan”, 29/10/2013.
50. Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi
mới: http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/phu-nu-nguon-cam-hung-sang-
tac-cua-van-xuoi-viet-nam-thoi-ky-doi-moi.