HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Hảo
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa
được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hà
i
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc tới
PGS.TS Cao Thị Hảo, người đã hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm
và có những chỉ dẫn khoa học giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo Khoa Ngữ
văn và Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tham gia giảng
dạy, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi xin được chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
những người đã luôn ở bên động viên, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hà
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………..3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
NỘI DUNG ....................................................................................................... 11
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ......................................................... 11
1.1. Những vấn đề lí luận chung ........................................................................ 11
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học .................................................................... 11
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học .......................................... 13
1.1.3. Nhân vật trong tiểu thuyết ....................................................................... 14
1.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam hiện đại ................................... 16
1.2.1. Vấn đề nữ quyền và văn hóa xã hội thời hiện đại ................................... 16
1.2.2. Quá trình phát triển vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam đương
đại và tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ................................................................... 18
1.3. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đương đại ........................................................................................................... 20
1.3.1. Khái quát chung về tiểu thuyết Việt Nam đương đại .............................. 20
1.3.2. Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ............................................ 27
iii
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 34
Chương 2: NHÂN VẬT NỮ VỚI NHỮNG KHUÔN DIỆN ĐA DẠNG
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ ........................................... 35
2.1. Nhân vật nữ với dục vọng bá chủ thế giới ngầm ........................................ 35
2.1.1. Con đường đến với vị trí bá chủ thế giới ngầm ....................................... 35
2.1.2. Quyền năng của người phụ nữ trong thế giới ngầm ................................ 38
2.2. Người phụ nữ với khát vọng yêu và kiếm tìm hạnh phúc .......................... 42
2.3. Nhân vật nữ với hoàn cảnh sống đầy bi kịch thời hiện đại ........................ 48
2.3.1. Thiên tính nữ tiềm ẩn trong chân dung kẻ tội phạm ............................... 48
2.3.2. Quá trình đấu tranh để sinh tồn đầy bi kịch ............................................ 51
2.4. Người phụ nữ bị tha hóa bởi hoàn cảnh sống ............................................. 56
2.4.1. Những hoài nghi, vỡ mộng ...................................................................... 56
2.4.2. Lối sống buông thả, phó mặc .................................................................. 62
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ .............. 67
3.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình và nội tâm .............................. 67
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình ............................................. 67
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả nội tâm .................................................. 71
3.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ nghệ thuật ............................................. 79
3.2.1. Ngôn ngữ thông tục, đời thường............................................................. 79
3.2.2. Ngôn ngữ mang màu sắc sex ................................................................. 84
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 88
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 92
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đất nước thống nhất
bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong quỹ đạo hòa bình, mở ra cho văn
học những tiền đề mới nhưng cũng đem lại nhiều thách thức mới. Đó là thời kỳ
con người “không tìm được sự tĩnh lặng của cuộc sống và tâm hồn trong mỗi
âm thanh tích tắc của chiếc đồng hồ thời đại” [40, tr.61]. Để bắt nhịp, chuyển
tải được cái phức tạp của sự thay đổi ấy, nền văn học Việt Nam đã có những
bước chuyển mình rất mạnh mẽ được ghi nhận ở hầu hết các thể loại trong đó
có tiểu thuyết. Tiểu thuyết được định nghĩa là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả
năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian” [18,
tr.328]. Tiểu thuyết có khả năng khám phá cuộc sống ở nhiều chiều và nhiều
khía cạnh đời tư khác nhau nên nó đi vào thượng tầng kiến trúc của văn học
nghệ thuật như một xương sống vô cùng quan trọng. Tiểu thuyết chính là “hiện
thân của cái phức tạp, cái đa dạng và phong phú” [70, tr.103]. Không ít nhà
văn đặc biệt các nhà văn trẻ thế hệ 7x, 8x lựa chọn tiểu thuyết để thể nghiệm,
tìm tòi và khẳng định cá tính sáng tạo của mình. Hiện nay tiểu thuyết đang
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ: đề tài, cốt truyện, ngôn ngữ… Và xu
hướng tiếp cận từ phương diện nhân vật cũng mang lại nhiều khám phá thú vị
đối với lĩnh vực tiểu thuyết đương đại hiện nay. Bởi qua đó, bạn đọc thấy được
khuôn diện đời sống xã hội và tài năng nghệ thuật của nhà văn.
1.2. Bên cạnh thế hệ các nhà văn đã được khẳng định vai trò, vị thế vững
chắc trên văn đàn, một đội ngũ các cây bút trẻ thuộc thế hệ 7x, 8x đã chấp nhận
mạo hiểm, sẵn sàng thể nghiệm, làm mới tiểu thuyết ngay trong cuộc “trở dạ
đau đớn” để sinh thành một loạt tiểu thuyết mới với lối viết mới, tư duy mới,
cách khám phá mới. Mỗi người một vẻ, những cây bút trẻ đã tạo nên một
không gian đa chiều cho văn học thời đại mới - thời kỳ hội nhập và toàn cầu
hóa. Trong số các tác giả thế hệ 7x, 8x như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc
Thuần, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Phạm Duy Nghĩa, Phạm Thị Hoài…
Nguyễn Đình Tú nổi lên như một hiện tượng văn chương đầy triển vọng. Bốn
1
mươi mốt tuổi, Nguyễn Đình Tú đã trình làng tám tiểu thuyết. Ma Văn Kháng
không ngần ngại khi khẳng định Nguyễn Đình Tú là “nhà tiểu thuyết lực lưỡng”,
“một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hiện nay” [dẫn theo 24, tr.9].
Đời sống đương đại vốn rất phức tạp, điều cốt lõi là nhà văn nói được gì
giữa “đống hỗn độn” ấy của cuộc sống. Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết
hôm nay luôn khiến cho người ta phải suy tư, và nhiều khi nó trở thành “Người
bạn đồng hành chung thủy của con người, bảo vệ con người bằng việc thường
xuyên nhắc nhở, thức tỉnh, tôn vinh những giá trị nhân văn” [70, tr. 100]. Tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú đã “thức tỉnh, tôn vinh những giá trị nhân văn” từ việc
đi tìm và giải mã “cái tôi bí ẩn” bằng một lối viết đầy sáng tạo và mới mẻ, thể
hiện được những trải nghiệm cũng như bản lĩnh của một cây bút sớm trưởng
thành khi tuổi còn rất trẻ. Với kinh nghiệm vốn có của một người học luật, từng
làm việc trong Viện kiểm sát cộng với tài năng của bản thân, Nguyễn Đình Tú
đã khá nhạy bén khi khám phá, thể hiện những góc khuất của đời sống xã hội
và con người thời hiện đại, đề cập đến thực trạng suy thoái, băng hoại đạo đức,
nhân cách của con người, đặc biệt là ở giới trẻ bằng một hướng tiếp cận mới
mà như nhà văn Chu Lai nói “không né tránh bất cứ thứ gì mà cuộc sống khuất
lấp ngổn ngang đang phô bày”. Ngụp lặn trong đống “ngổn ngang”, “xô bồ”,
những góc khuất của đời sống xã hội thời kì hiện đại, Nguyễn Đình Tú tập
trung khai thác các hình tượng nhân vật đặc biệt là nhân vật nữ với nhiều khuôn
diện khác nhau.
1.3. Nhà văn đã thể hiện được quan niệm nghệ thuật của mình về con
người thông qua thế giới nhân vật. Đồng thời giúp người đọc nhận thấy tư
tưởng, tình cảm, khát vọng mà nhà văn muốn truyền tải qua tác tấc phẩm của
mình. Đọc các tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện (2006),
Nháp (2007), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm (2013), Xác phàm
(2014), Cô mặc sầu (2015) của Nguyễn Đình Tú, người đọc luôn bị ám ảnh bởi
một thế giới nhân vật với nhiều giai tầng cứ vẫy vùng, ngụp lặn trong cái xã hội
đầy rẫy những cám dỗ, những mảng tối - sáng tranh chấp, xô đẩy khiến họ luôn
2
bị rơi vào trạng thái mất phương hướng. Song có lẽ day dứt, ám ảnh hơn cả vẫn
là các nhân vật thuộc giới nữ. Họ cũng đang phải đối diện với biết bao thử
thách của cuộc sống, để rồi “vừa tự đập tan nát mình vỡ vụn, vừa ráng chịu
đau đớn, tự tay “khâu vá” lại những mảnh vụn nát ấy cho lành lặn?” [51]. Hầu
hết, nhân vật nữ chính hay phụ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú tuy thân
phận, vị thế, hoàn cảnh sống… khác nhau nhưng đều mang trong mình “bi kịch
cơ bản hiện nay của tầng lớp thanh niên đô thị đương đại Việt Nam”. Tiếp xúc
với các nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, người đọc như được
tiếp xúc trực tiếp với mặt trái của cuộc sống hiện thực. Và nhà văn muốn truyền
tải những vấn đề nóng hổi của thời đại, những vấn đề không thể dửng dưng,
lạnh lùng của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, đó là “bi kịch
của giới nữ” trước những mặt trái của cuộc sống với biết bao xô bồ, hỗn độn và
cạm bẫy. Nguyễn Đình Tú đã không ngần ngại bóc trần những mảng tối trong góc
khuất sâu thẳm nhất của đời sống tình cảm, tâm, sinh lí người phụ nữ để qua đó
hiểu, cảm thông, trân trọng và mong muốn mọi người trong xã hội hãy có một cái
nhìn khách quan, toàn diện về người phụ nữ Việt Nam trong thời kì mới.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Nhân vật
nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Qua đó góp phần khẳng định giá trị tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú đồng thời gióng lên hồi chuông cảnh báo về lối sống
cho thế hệ trẻ hôm nay.
2. Lịch sử vấn đề
Vốn được học ngành luật, lại là nhà văn công tác trong quân đội cùng với
sự quan sát tinh tường, phán đoán và lí giải sắc sảo, Nguyễn Đình Tú đã rèn
cho mình một bản lĩnh khi viết văn. Những tiểu thuyết đầu tiên của Nguyễn
Đình Tú đã thu hút nhiều sự quan tâm, chú ý của bạn đọc và giới phê bình ngay
khi được công bố. Bên cạnh những ý kiến khen ngợi, đánh giá cao vẫn còn một
số ý kiến chưa thực sự hài lòng với những gì mà Nguyễn Đình Tú đã mang lại
cho văn học Việt Nam thời gian qua. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc dư luận
về Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết của anh vẫn đang rất sôi nổi. Mặc dù còn
3
những ý kiến trái chiều, song những bài báo, những công trình nghiên cứu về
Nguyễn Đình Tú đã góp phần khẳng định chỗ đứng của nhà văn trẻ này trong
đời sống văn học hiện đại. Dù tiếp cận tiểu thuyết của anh dưới góc độ nào,
chúng ta cũng không thể phủ nhận ý thức tìm tòi, quá trình lao động nghệ thuật
nghiêm túc, những ý tưởng ấp ủ, trau chuốt của Nguyễn Đình Tú trong quá
trình cách tân tiểu thuyết Việt Nam.
Qua những lời giới thiệu tác phẩm, một số bài viết trên các trang tạp chí,
website văn học, giới nghiên cứu, phê bình đã tập trung quan tâm nghiên cứu
đề cập đến một số khía cạnh tiêu biểu của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú như vấn
đề thời đại mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm, điểm nhìn trần thuật.v.v. Chẳng
hạn, Trần Tố Loan trên cơ sở phân tích điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú đã kết luận: “Tiểu thuyết của anh thường sử dụng phối hợp
điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật. Sự phối hợp giữa ngôi kể thứ nhất
(xưng tôi) và thứ ba (xưng hắn, thị) khiến câu chuyện linh hoạt hơn” [38]. Nói
về tiểu thuyết Nháp, nhà văn Chu Lai cho rằng : “Đó là quả đấm của nhịp điệu
nhanh, mạnh, hiện đại, cuồng nộ, nhịp điệu của giới trẻ toàn cầu mà trong đó
ta thấy cả bóng dáng của hiphop, của blog, của thủ thuật cắt dán tinh xảo, ẩn
chìm, của nối mạng và án mạng, của các pha tình dục thẳng căng, của những
cảnh đời dưới đáy thô rám đến nhợn người, của các tính cách nổi hằn, nổi mụn
nhưng sau đó, cái kết tủa, điều lắng lại là tình yêu, tình bạn, tình đời thao thiết
nhiều khi đến yếu đuối, bịn rịn” [33, tr.10].
Một số bài nghiên cứu đã đề cập đến thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú song mới tiếp cận ở việc nhìn nhận đánh giá khái quát chung
về các nhân vật hoặc những nhận xét, đánh giá nhân vật trong một tác phẩm cụ
thể. Hầu hết, các tác giả chưa đi sâu lí giải, khám phá những điểm nổi bật về
hình ảnh người phụ nữ trong các tiểu thuyết của nhà văn này. Đoàn Minh Tâm
có một phát hiện và nhận xét rất tinh tế về tiểu thuyết Nháp: “Các nhân vật
trong Nháp chỉ có hành động và hành động. Qua hành động nhân vật tự bộc lộ
bản thân mình. Độc giả tùy vào trình độ tri thức, vốn sống, sự hiểu biết của
4
mình để cảm nhận, đánh giá về tác phẩm theo những chiều kích đa dạng mà
không phải chịu bất cứ một sự lệ thuộc nào. Đơn cử như vấn đề làm sao để
hạnh phúc, con người phải làm gì để tìm được sự thanh thản cho tâm hồn, các
nhân vật trong Nháp không tranh luận với nhau, mỗi người trong họ tự đi tìm
câu trả lời cho mình” [50].
Khi đọc Phiên bản, Ma Văn Kháng cho rằng: “Thế giới tội phạm, một lát
cắt của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường
quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản
năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội
phạm, một bước lùi của lịch sử nhân loại!” [31]. Tác giả Đoàn Ánh Dương
khẳng định: “Nguyễn Đình Tú không lập hồ sơ tội phạm bằng án tích mà chủ
yếu bằng thương tích” hoặc “Không chú ý đi sâu xây dựng những tình huống,
tình tiết giàu kịch tính, những hình ảnh li kì, gay cấn giống như tác phẩm trinh
thám hay hồ sơ tội phạm thường thấy mà cố gắng đi vào thể hiện tâm trạng
nhân vật, thái độ và cảm xúc của nhân vật trong cái nhìn hồi cố” [8]. Rõ ràng
thành công của Nguyễn Đình Tú đã được khẳng định ở phương thức xây dựng
nhân vật.
Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Kín - một dòng tiểu thuyết miên
man đã nhấn mạnh: “Cuộc sống nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú phải
chăng như đóa sen đầu mùa hạ còn phong kín nhụy hương? Hay là viết về cuốn
tiểu thuyết của Tú, phải chăng đến cuốn thứ năm, vẫn là một dòng chảy mải
miết, miên man nhằm xâm nhập, thám hiểm vào tận ngóc ngách thế giới bên
trong đầy hoang vu rợn ngợp, đầy khắc khoải, đan cài vô số chuyển động ngược
chiều: các nhân vật trẻ của Tú vừa tự đập nát mình vỡ vụn, vừa ráng chịu đau
đớn, tự tay “khâu vá” lại những mảnh giấy vụn ấy cho lành lặn?” [51]. Lê
Quốc Hiếu đưa ra đánh giá Kín trong sự so sánh với các tiểu thuyết khác: “Nếu
như ở Nháp ta thấy, có nồng nặc mùi sex, chuyện sex thì ở Phiên bản lại đề cập
chủ yếu đến vấn đề bạo lực. Còn ở Kín, cuốn tiểu thuyết được trình làng gần
đây nhất lại “dàn trải” ra nhiều vấn đề đang còn tồn tại một cách bức bối
trong giơi trẻ đương đại như: sex, quần hôn, bụi đời, lên đồng, chuyện về mẫu
5
Liễu Hạnh… Tuy nhiên, từng đấy vấn đề trong Kín, theo tôi, cũng chỉ nhằm tập
trung nổi bật lên vấn đề: thân phận lạc loài, hoang hoải đến hoài nghi vỡ mộng
của giới trẻ trong xã hội hiện đại” [22].
Trên trang Thể thao & Văn hóa, Việt Quỳnh đưa ra nhận định về nhân
vật khi đọc Hoang tâm: “Các nhân vật trong tiểu thuyết của anh có thể từ cuộc
sống bước vào, cũng có thể là do anh sáng tạo ra, nhưng tựu trung, họ luôn
mang nhiều bi kịch. Không đau đớn về thân thể cũng là tâm hồn, không thương
tích trên người thì cũng thương tích về ký ức. Điểm giống nhau nữa, các nhân
vật dù vẻ bề ngoài gai góc, thì bên trong vẫn mang cái âm tính giàu lãng mạn
chất nữ, hay chiêm nghiệm, ưa phán xét, giải thích” [47]. Tác giả đã nhấn
mạnh “cái âm tính” của nhân vật nữ nhưng chưa đi sâu phân tích kĩ vấn đề.
Bên cạnh những bài giới thiệu, bài báo kể trên còn một số bài viết như:
Nguyễn Đình Tú - nhà văn hai trong một (Bùi Việt Thắng); Không có “vùng
cấm” trong tiểu thuyết trẻ (Bùi Việt Thắng); Nháp không chỉ là một thông điệp
lạnh lùng (Võ Thị Xuân Hà); Văn chương sạch sẽ quá sẽ không còn đời sống
(Sơn Huy); Trình ba Phiên bản về một con người (Thủy Anna); Nhà văn
Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên bản: Tội ác mang gương mặt đàn bà
(Hoài Hương); Hoàng Anh với Nháp hay là một sự xới xáo đáng ghi nhận;
Lương Nguyên có Nháp với nỗi cô đơn và sex; Phạm Thùy Linh với Phiên bản
góc tiếp cận nhân văn; Nguyễn Tuấn Anh với Phiên bản những mảng tối của
cuộc đời; Nga Sơn với Phiên bản hay một cuộc vượt thoát để tìm về với bản
ngã; Phong Lan với Nguyễn Đình Tú và hé lộ Kín; Tiểu Quyên với Kín những
vòng tròn mồ côi; Dương Tử với Kín và nỗi hoang mang thời đại… Hầu hết các
bài viết trên đã đề cập một số khía cạnh liên quan đến nhân vật trong tiểu
thuyết của anh song vẫn là đánh giá, xem xét nhân vật trong một tác phẩm ở
những khía cạnh như: Bản tính con người, con người trước sự tác động của
hoàn cảnh, tính cách nhân vật, đời sống tâm lí, khát vọng tình dục, nguyên
nhân phạm tội của con người… mà chưa có bài viết nào đi sâu tìm hiểu một
cách hệ thống về nhân vật nữ trong tất cả các tiểu thuyết của nhà văn trẻ này.
6
Tuy nhiên, những bài viết trên cũng là những gợi ý đáng quý để tác giả
luận văn có thêm cơ sở đi sâu tìm hiểu thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú.
Nghiên cứu về tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú còn phải kể đến một số
luận văn thạc sĩ như: Hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú của Phạm
Anh Hào; Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú của Nguyễn Thị Bình; Tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú: sự dung hợp văn học đặc tuyển và văn học đại chúng của
Tuấn Anh; Điểm nhìn nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Đình Tú của Trần
Tố Loan; Phản biện sex trong Nháp của Lê Nhật Tăng … Và đặc biệt là một số
khóa luận đã nghiên cứu và ít nhiều đề cập đến một khía cạnh nào đó liên quan
đến thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú như: Tạ Thị Lan
Phương với đề tài: Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú; Nhóm ngành
khoa học xã hội với: Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú. Các khoá luận này đã tập trung khai thác quan niệm nghệ thuật về con
người, các loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, hoàn cảnh, số phận
mang tính chất tổng thể, khái quát về nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn
Đình Tú. Tuy nhiên, vấn đề về kiểu nhân vật nữ, hoàn cảnh số phận, đời sống
tâm, sinh lí, nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết của nhà văn
chưa được đề cập đến hoặc chưa khai thác, khám phá sâu.
Những bài viết trên, ở một mức độ nhất định đều có xu hướng tìm ra
những nét độc đáo ở các phương diện như: con người trước tác động của hoàn
cảnh xã hội, con người bản năng, ý thức nhân phẩm, vấn đề tâm linh, điểm nhìn
trần thuật, ngôn ngữ, hình tượng nhân vật… trong từng tiểu thuyết cụ thể. Đây
là nguồn tư liệu tham khảo có ý nghĩa quý giá để chúng tôi triển khai đề tài
nghiên cứu của mình.
Ngoài ra, người thực hiện luận văn còn tham khảo một số bài phỏng vấn
được đăng tải trên các trang web như: “Nháp không chỉ có sex và giết người”
(eVan.com), “Tác phẩm của tôi không chỉ có bạo lực + sex” (eVan.com),
“Bạn đọc sẽ không chết chìm trong Kín” (eVan.com), “Nguyễn Đình Tú: Văn
học lặn vào trong ồn ã” (An ninh thế giới), Nguyễn Đình Tú không tránh sắc
7
dục trong sách mới (http://giaitri)… Thông qua các bài phỏng vấn, Nguyễn
Đình Tú đã chia sẻ những vấn đề liên quan đến tác phẩm, quan niệm, tư tưởng
của mình về cuộc đời, con người và văn học có chi phối tới sáng tác của anh.
Tuy không trực tiếp bày tỏ quan niệm về việc xây dựng nhân vật nữ trong tiểu
thuyết nhưng Nguyễn Đình Tú cũng cho thấy những quan điểm riêng về việc
xây dựng nhân vật của mình. Và đây cũng là cơ sở quan trọng đối với tác giả
luận văn khi tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Qua tìm hiểu các bài, các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy
các tác giả đã chỉ ra nét độc đáo và mới mẻ trong cách viết tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú. Một số bài viết đã đưa ra những nhận xét, đánh giá tinh tế,
sâu sắc mang tính gợi mở về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú song quả thực qua khảo sát, chúng tôi chưa
thấy có công trình nghiên cứu hay bài viết nào đi sâu khám phá, tìm hiểu vấn đề
nhân vật nữ trong tiểu thuyết của nhà văn này. Vì vậy, đề tài mà chúng tôi thực
hiện không trùng lặp với những kết quả nghiên cứu trước đó. Trên cơ sở tiếp thu
những ý kiến, đánh giá của các tác giả đi trước cùng với sự tìm hiểu của bản
thân, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Nhân vật nữ trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú. Hi vọng, luận văn sẽ góp thêm một cách kiến giải về hình
tượng người phụ nữ trong xã hội hiện đại qua tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn
Đình Tú. Thông qua nghiên cứu này góp phần làm rõ hơn vai trò của Nguyễn
Đình Tú trong quá trình cách tân, hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhân vật nữ trong tám cuốn tiểu thuyết, cụ thể gồm
các tiểu thuyết sau: Hồ sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện (2006), Nháp
(2007), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoàng tâm (2013), Xác phàm (2014),
Cô mặc sầu (2015).
8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn muốn hướng tới khám phá những điểm chung, điểm riêng,
trong cách thức xây dựng nhân vật nữ ở tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nhận
diện các mô hình nhân vật nữ trong tiểu thuyết của nhà văn. Tập trung phân
tích nhân vật nữ trên các bình diện khác nhau. Đi sâu tìm hiểu các thủ pháp
nghệ thuật được sử dụng để xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn
Đình Tú.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lí luận chung về nhân vật
văn học, nhân vật trong tiểu thuyết, chỉ ra những nét nổi bật về nhân vật nữ
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại và nhân vật nữ trong tiểu thuyết của nhà
văn Nguyễn Đình Tú. Tìm hiểu những đặc điểm và các phương diện nghệ thuật
tiêu biểu trong việc xây dựng nhân vật nữ ở tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú.
Từ đó cho thấy những đóng góp tiêu biểu của Nguyễn Đình Tú cho văn học
Việt Nam đương đại
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chính sau:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây được xác định là phương pháp
chủ đạo của đề tài. Trên cơ sở phân tích tám cuốn tiểu thuyết đã được chọn làm đối
tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ tổng hợp để chỉ ra những đặc điểm nổi bật của nhân
vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: vận dụng lí thuyết thi pháp
học về nghệ thuật xây dựng nhân vật để làm nổi bật đặc điểm của hệ thống
nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
5.3. Phương pháp khảo sát - thống kê: Chúng tôi sử dụng phương pháp
khảo sát - thống kê nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Đình Tú trên nhiều
phương diện, để từ đó phân loại nhân vật, tìm hiểu thấu đáo hơn các đặc điểm
của nhân vật nữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong
tiểu thuyết của nhà văn.
9
5.4. Phương pháp hệ thống: Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh
thể tác phẩm, nhân vật nữ được xem xét trong mối tương quan với cả hệ thống
nhân vật, với cốt truyện, với giọng điệu, với hệ thống các yếu tố nghệ thuật thể
hiện ngoại hình, nội tâm… Sử dụng phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu
nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đạt đến cái nhìn sâu sắc và toàn
diện hơn.
5.5. Phương pháp loại hình: sử dụng cách phân chia theo loại hình nhân
vật để tìm ra những kiểu nhân vật nữ có đặc điểm chung trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú.
5.6. Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng để khu biệt những
đặc điểm của các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú với nhân
vật nữ của các nhà văn cùng thời.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về thế
giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú.
Qua việc nghiên cứu, luận văn đã góp một góc tiếp cận mới đối với tiểu
thuyết của Nguyễn Đình Tú thông qua thế giới nhân vật nữ. Từ đây khẳng định
những đóng góp tiêu biểu và vị trí của nhà văn trong dòng chảy văn học Việt
Nam đương đại.
Việc nghiên cứu luận văn cũng góp phần khẳng định vị trí của dòng văn
xuôi viết về vấn đề an ninh xã hội ở Việt Nam giai đoạn từ sau 1986 đến nay,
trong đó Nguyễn Đình Tú là một cây bút tiêu biểu.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung và hành trình sáng tác của
Nguyễn Đình Tú.
Chương 2: Nhân vật nữ với những khuôn diện đa dạng trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật nữ trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
10
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ
1.1. Những vấn đề lí luận chung
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Tác phẩm văn học là thành quả của lao động sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn. Một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự phức hợp của nhiều yếu tố trong
đó không thể thiếu yếu tố nhân vật: “Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì
đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình
tượng” [39, tr.277]. Thật vậy, một tác phẩm văn học có thể có nhiều hoặc ít
nhân vật nhưng không tác phẩm nào lại hoàn toàn không có nhân vật. Nhân vật
luôn là trung tâm của sáng tác văn học, là hình chiếu tư tưởng và năng lực nghệ
thuật của nhà văn, là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách
hình tượng. Chức năng của nó là khái quát những quy luật phong phú của cuộc
sống con người, từ đó bộc lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn trở, ước
mơ của người nghệ sĩ.
Nhấn mạnh đến chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học, trong
cuốn Từ điển văn học, các tác giả cho rằng nhân vật văn học có chức năng quan
trọng trong việc thể hiện nội dung và hình thức của tác phẩm văn học: “Nhân
vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư
tưởng chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức
của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư
tưởng - nghệ thuật của tác phẩm văn học” [44, tr.86 ]. Nhân vật đóng vai trò là
yếu tố hàng đầu của tác phẩm, là phương diện để nhà văn truyền tải tư tưởng,
thể hiện cá tính sáng tạo của mình, đồng thời mang quan niệm có tính nghệ
thuật của nhà văn về thời đại, đặc biệt trong các sáng tác thuộc thể loại tự sự.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân quan niệm:
“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác
của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân
11
vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người. Một trong những dấu hiệu
về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con
người, nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
đường được gán cho những đặc điểm giống con người” [2, tr.241]. Quan niệm
này đã xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính sáng tạo, phong cách
nhà văn, khuynh hướng, trường phái văn học.
Còn đây là cách nhìn nhận về nhân vật của nhà nghiên cứu Hà Minh
Đức: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó
không phải là sự sao chụp mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể
hiện con người qua những đặc điểm hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…
Và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái niệm nhân vật thường được quan
niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con
người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện
thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít
nhiều mang bóng dáng, tính cách con người… Cũng có khi đó không phải là
những con người hoặc có liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật trong
tác phẩm” [14, tr.126].
Điểm qua một vài khái niệm trên, chúng ta thấy tuy nhìn nhận nhân vật ở
nhiều khía cạnh khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu, phê bình đều thống nhất
rằng con người trong tác phẩm văn học chính là nhân vật văn học và nhân vật
ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, thể hiện quan niệm và lý tưởng thẩm mỹ
của nhà văn về cuộc đời và con người. Nhân vật là đối tượng mà văn học miêu
tả nhằm phản ánh đời sống hiện thực, là yếu tố cơ bản nhất của tác phẩm được
xây dựng bằng những phương tiện nghệ thuật mang tính ước lệ thể hiện sự sáng
tạo của nhà văn. Tuy nhân vật văn học phản ánh đời sống hiện thực nhưng
không đồng nhất những con người có thật ngoài đời. Chúng có những đặc trưng
nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học
thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn, nhưng không vì thế mà nhân vật
kém phần chân thật. Mỗi tác phẩm văn học, không thể thiếu nhân vật văn học
bởi vì nó là phương tiện quan trọng nhất của tác phẩm quyết định phần lớn tới
12
các yếu tố như: cốt truyện, chi tiết, ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu. Với vị trí
quan trọng ấy nhân vật trở thành đối tượng không thể bỏ qua khi tìm hiểu,
nghiên cứu về một nhà văn nào đó.
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Như trên đã phân tích, nhân vật không chỉ là tiêu chí đánh giá tài năng
nghệ thuật của nhà văn, trong tác phẩm nhân vật còn là phương tiện khái quát
hiện thực: “Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống
con người, thể hiện những hiểu biết, những ao ước và kì vọng về con người”
[39, tr.279]. Nói cách khác nhân vật là phương tiện nghệ thuật để qua đó nhà
văn khái quát các vấn đề đời sống và con người, là nơi để nhà văn gửi gắm
những quan niệm, những băn khoăn, trăn trở trước các vấn đề cuộc sống.
Nhân vật có vai trò quan trọng quyết định nội dung, tư tưởng của tác phẩm:
“Thứ nhất, nhân vật là phương tiện quan trọng để nhà văn khái quát
hiện thực đời sống. Hiện thực đời sống được tái hiện thông qua thế giới nghệ
thuật người nghệ sĩ miêu tả trong tác phẩm mà nhân vật lại là yếu tố không thể
thiếu trong thế giới nghệ thuật ấy.
Thứ hai, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận con
người và các quan niệm về chúng.
Thứ ba, nhân vật là người dẫn dắt ta vào một thế giới đời sống. Nói khác đi,
nó là công cụ, là chìa khóa để mở rộng các mảng đề tài mới, rộng lớn và sâu sắc.
Thứ tư, nhân vật thể hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật cũng như lý
tưởng thẩm mỹ của tác giả về cuộc đời, con người: “Nhân vật văn học được
sáng tạo ra, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc
sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là lên án đời, xót xa cho
nhân vật là xót xa cho đời. Do vậy tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về
cuộc đời của tác giả đối với con người” [46, tr.16].
Đối với hình thức tác phẩm, nói như G. N. Pospelov thì: “Nhân vật là
phương diện có tính thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết định phần lớn
vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu” [15, tr.157].
13
Có nghĩa là nhân vật đóng vai trò quyết định tạo nên mối liên kết giữa các yếu
tố thuộc hình thức.
Quả thật, trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm, người đọc thường chú ý
đến các nhân vật khi theo dõi diễn tiến của các sự kiện. Chính nhân vật là yếu
tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn của câu chuyện được kể. Nhiều khi, người
đọc chỉ mải mê theo dõi bước đi của nhân vật, sống cùng cảm xúc của nhân vật
như chính mình đang trực tiếp tham gia đời sống của nhân vật. Thực tế chứng
minh rằng, một tác phẩm văn chương được đánh giá là có giá trị, có chiều sâu,
có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực, sinh động hình
tượng các nhân vật. Đặc biệt đối với thể loại tiểu thuyết, nhân vật có vai trò hết
sức quan trọng, bởi tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện
thực ở tất cả mọi giới hạn không gian và thời gian, tái hiện bức tranh hiện thực
rộng lớn một cách bao quát, sinh động trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó. Nhân
vật trong tiểu thuyết là yếu tố đầu tiên của mọi sự sáng tạo nghệ thuật, là hạt nhân
quan trọng để nhà văn giải quyết những vấn đề của xã hội. Tìm hiểu nhân vật,
người đọc có thể thấy được thái độ, tình cảm, tư tưởng mà nhà văn gửi gắm trong
tác phẩm.
1.1.3. Nhân vật trong tiểu thuyết
Nếu như nhân vật là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong tác phẩm
văn học thì tiểu thuyết lại càng không thể không có nhân vật bởi nhân vật trong
tiểu thuyết là linh hồn của tác phẩm. Với đặc trưng là “một thể loại lớn trong
phương thức tự sự, có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh
động, tái hiện những bức tranh về đời sống thông qua những tính cách và hoàn
cảnh điển hình rộng rãi” [4, tr.78] nên số lượng nhân vật trong tiểu thuyết
thường nhiều và được các nhà văn kì công xây dựng, trau truốt, gọt giũa, để
nhân vật trở nên hoàn thiện ở mọi phương diện từ ngoại hình, tính cách, phẩm
chất đến thế giới nội tâm... Khẳng định vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết,
nhà văn Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu
thuyết là miêu tả con người và con đường đi của họ trong xã hội. Người viết
tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề phải thông qua nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn
14
là từ sự việc. Một cuốn tiểu thuyết có đứng được hay không là ở chỗ nó tạo ra
được những nhân vật và cho bạn đọc nhớ được hay không” [55, tr.78].
Nhân vật tiểu thuyết trước hết phải là nhân vật văn học, bên cạnh những
đặc điểm chung của nhân vật văn học, nhân vật tiểu thuyết vẫn có những đặc
điểm riêng không thể trộn lẫn với các thể loại tự sự khác.
Nếu như nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật trong truyện thời kỳ
trung đại thường được khắc họa một cách đơn giản, phù hợp với quan niệm của
thời đại thì nhân vật trong tiểu thuyết luôn được khắc họa tỉ mỉ và luôn là nhân
vật sống. Nhân vật trong tiểu thuyết có hình hài, thể xác, tâm hồn… và đặc biệt
không xa lạ trong những mối quan hệ cụ thể với đời thường. Soi mình vào mỗi
nhân vật trong tiểu thuyết người đọc luôn thấy mình với những nỗi niềm, suy
tư, trăn trở rất đời thường. Nói như nhà văn Vũ Bằng: “Một nhân vật sống là
một nhân vật phản chiếu cái hình ảnh của đời, là một nhân vật như chúng ta
đây, một nhân vật rất gần, rất thân thiết chúng ta, một nhân vật mà nhìn vào đó
thấy như nhìn vào lòng ta vậy. Một nhân vật sống chứ không phải nói nhiều, hò
hét nhiều, hành động nhiều nhưng tự gây ra sự tình, biến cố, chỉ định lấy những
cảnh ngộ và cảm nghĩ rất phiền phức. Sống ở đây là sống cả vật chất lẫn tinh
thần, sống cái đời sống bên ngoài và sống cả cái đời sống bên trong nữa, mà có
khi lại sống cái đời sống bên trong nhiều hơn bên ngoài” [3, tr.73]. Chính đặc
điểm này đã làm cho nhân vật tiểu thuyết trở nên cụ thể, chân thực như những
con người thật của cuộc đời.
Vì có cuộc đời khá dài và sinh động như cuộc đời thật nên nhân vật trong
tiểu thuyết có một quá trình phát triển tính cách như con người. Tất nhiên tính
cách của nhân vật tiểu thuyết không tự nhiên sinh ra mà đều phải do nhà văn
sáng tạo, đều là hiện thân cho tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Nhưng tư tưởng
của nhân vật trong tiểu thuyết không phải lúc nào cũng đồng nhất với tư tưởng
của nhà văn mà nhiều khi nhân vật tiểu thuyết đã tự thân vận động để thay đổi
cả hình hài, tính cách và tự định liệu số phận của mình một cách phù hợp nhất.
Nhân vật tiểu thuyết không phải là những con người thụ động mà “là một nhà
15
tư tưởng” (M.Bakhtin), tự thân vận động để mang tư tưởng riêng trên nền hình
hài tư tưởng nhân vật mà nhà văn dự định xây dựng.
Trên đây chỉ là một vài đặc điểm nổi bật của nhân vật trong tiểu thuyết.
Có thể còn nhiều biểu hiện khác mà các thể loại tự sự khác cũng có tuy nhiên ở
tiểu thuyết những đặc điểm này là nổi bật, rõ nét. Đó là cơ sở để chúng tôi
nghiên cứu tìm hiểu về nhân vật trong tiểu thuyết nói chung và góp phần khảo
sát, tìm hiểu lí giải thế giới nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ trong sáng tác của
nhà văn trẻ tài năng Nguyễn Đình Tú.
1.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam hiện đại
1.2.1. Vấn đề nữ quyền và văn hóa xã hội thời hiện đại
Nữ quyền có thể hiểu là "Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ quyền nếu hiểu ở cấp độ rộng là
quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương quan với quyền lợi của nam
giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp độ hẹp thì nữ quyền có
mối liên quan với các khái niệm như giới tính, phái tính trong văn học. Nếu
giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai phái
(nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục đích của nó
hướng tới là sự bình quyền của nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng
của nữ giới” [dẫn theo 35, tr.7]. Ở phương tây thế kỉ XX, nhiều cuộc đấu tranh
cho nữ quyền đã nổ ra một cách mạnh mẽ, tiêu biểu là Đan Mạch. Họ đòi
quyền được đi bầu Hội đồng hàng tỉnh và thị xã, đòi quyền bình đẳng nam nữ
trong chính trị và việc làm. Họ lên tiếng đòi nam giới phải có trách nhiệm
chung trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái và làm mọi việc nhà. Ở Pháp là sự
đấu tranh mạnh mẽ với những hoạt động có tính chất lan tỏa rộng khắp cả nước
để nhằm khẳng định quyền của người phụ nữ như: việc sáng lập và điều khiển
tờ báo LaFonde (sự nổi loạn) của bà Marguerite Durand. Trong các bài xã
thuyết, tờ báo đòi hỏi phụ nữ phải được ghi tên vào danh sách những người
được chính phủ Pháp thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh, phải được ra tranh cử vào
Quốc hội Pháp. Bà tích cực đòi quyền được tự do hành nghề, đòi được hưởng
lương bằng với nam, quyền người vợ được giữ lương do mình làm ra. Còn ở
16
Châu Mĩ, với khẩu hiệu “đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỉ XXI là thế kỉ đàn
bà” [32] người phụ nữ đã đấu tranh đòi quyền bình đẳng với nam giới và
khẳng định vị thế của mình. Sự đấu tranh mạnh mẽ ấy là tiền đề để Phê bình nữ
quyền được hình thành và các lý thuyết về giới được quan tâm từ đấy.
Ở Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, cùng với quá
trình hội nhập vấn đề phụ nữ đã được đặc biệt quan tâm. Ngay từ những năm
đầu thế kỷ XX, trên Đăng cổ tùng báo đã có mục Nhời đàn bà như một diễn
đàn của phụ nữ và cho đến năm 1920 như nhận xét của nhà Việt Nam học
người Úc David Marr: “Phụ nữ và xã hội đã trở thành điểm tập trung chú ý mà
các vấn đề khác thường xoay quanh nó”. Điều này phản ánh vai trò quan trọng
và những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trong xã hội. Thực ra, những
yếu tố của nữ quyền đã có trong văn học truyền thống, đến văn học trung đại
trở nên cụ thể, rõ nét hơn qua những vần thơ trong bài Làm lẽ: “Chém cha cái
kiếp lấy chồng chung” (Hồ Xuân Hương), hay Truyện Kiều Nguyễn Du cũng
có những vần thơ khẳng định quyền tự do lựa chọn tình yêu cho mình của nhân
vật Thúy Kiều với hành động “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang
nhà Kim Trọng để cùng Thề nguyền. Những năm gần đây, vấn đề nữ quyền
được bùng nổ trong văn học đương đại với những cách viết đầy táo bạo. Đặc
biệt là vấn đề tình dục của nữ giới được đăng tải nhiều trên các trang báo, nhiều
diễn đàn, nhiều Blog cá nhân… và được đón nhận với một cái nhìn cởi mở hơn.
Nếu trước đây, viết về giới nữ, các nhà văn thường chỉ khuôn trong những
chuyện lặt vặt, giản dị thì nay họ bung thoát, mổ xẻ cả những vấn đề tế nhị,
nhạy cảm nhất, vấn đề tình dục và sinh lí nữ. Vấn đề nhạy cảm vốn khó nói ở
người phụ nữ nay lại được viết một cách thẳng thừng, không một chút ngại
ngần, giấu giếm, thoải mái biểu đạt bằng nhiều dạng thức khác nhau.
Như vậy, đánh giá một cách khách quan thì sự đấu tranh đòi quyền bình
đẳng của giới nữ cách này, cách khác đều đem đến cho vấn đề nữ quyền trở
thành một hiện tượng văn hóa xã hội đáng quan tâm của thời kì hiện đại. Trần
Thiện Khanh cho rằng: “Ngày nay, có thể nói, là thời đại văn học nữ (quyền)
bung ra, rộng khắp chưa từng thấy, là thời đại những tiếng nói đã mất bắt đầu
trở lại, những tiếng nói trước kia bị đặt bên lề trở nên quan trọng, những tiếng
17
nói của “kẻ Khác” vang lên giữa “thế giới của chúng ta”; thời đại phụ nữ
bước vào văn học một cách tự tin, đàng hoàng và đầy thách thức: giờ đây tiếng
nói trở thành một hành động (lựa chọn, chất vấn, phản kháng…) chứ không là
một thân phận như trước kia. Bên cạnh những tiếng nói văn học nữ trong nước
với sự tham gia của nhiều thế hệ còn có tiếng nói nhiều bè cộng hưởng của văn
học nữ hải ngoại” [dẫn theo 21]. Rõ ràng vấn đề nữ quyền đã được quan tâm
trong đời sống xã hội Việt Nam.
1.2.2. Quá trình phát triển vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam đương
đại và tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Trong bài viết Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học
Việt Nam đương đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Văn học
nữ tính chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện xã hội đạt đến một trình độ dân chủ
thực sự” [13]. Kể từ năm 1986 đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình đẳng về giới đã giúp người phụ nữ
thoát khỏi sự áp chế của nam giới. Họ có khả năng tồn tại độc lập và có khả
năng tự quyết số phận của mình. Gắn với người phụ nữ không chỉ là những
công việc nội trợ, là quanh quẩn ở góc nhà, xó bếp mà họ đã chủ động và được
tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội. Nhiều phụ nữ được cử giữ những
chức vụ cao trong hệ thống chính trị. Nhưng quan trọng hơn, một cách tự giác ý
thức về giới đã ăn sâu vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hưởng
nữ quyền trong văn học. Ở văn học dân gian, bị áp chế bởi trong tâm lí chung
phổ biến của xã hội luôn xác nhận đàn ông là kẻ mạnh, chủ động, chinh phục
trong mọi hoàn cảnh, đàn bà luôn luôn bị lệ thuộc nên âm hưởng nữ quyền bị lu
mờ. Văn học trung đại với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, hình ảnh người
phụ nữ được xuất hiện nhiều, mặc dù có bộc lộ tinh thần phản kháng, nổi loạn
nhưng chủ yếu vẫn là những tiếng than thân trách phận. Phải đến sau 1945, với
sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam vai trò của người phụ nữ mới đặc biệt được
đề cao. Trong nhiều tác phẩm người phụ nữ được hình dung như những người
anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại: Chị Sứ (Hòn đất của Anh Đức), chị
Út Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng -
18
Nguyễn Minh Châu)… Tuy nhiên do yêu cầu của phương pháp sáng tác hiện
thực xã hội chủ nghĩa, đời sống tinh thần của nữ giới mới được khai thác nhiều
ở khía cạnh xã hội mà chưa chú ý đến đặc trưng về giới. Vấn đề nữ quyền chủ
yếu nằm trong hệ tư tưởng chung của thời đại chứ chưa được nhà văn quan tâm
kiến tạo thành tư tưởng nghệ thuật riêng của mình. Từ sau 1986, Việt Nam
chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học nữ tính mang âm hưởng nữ
quyền với sự góp mặt của những cây bút thực sự tài năng: Phong Điệp, Phạm
Duy Nghĩa, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú… Trong tác phẩm
của họ, hình ảnh người phụ nữ được khai thác với nhiều góc cạnh khác nhau,
nhiều lối viết khác nhau. Ví như vấn đề dục tính ở người phụ nữ trước vốn luôn
bị né tránh thì nay họ lại viết nhiều, và viết khá nhạy bén. Có lẽ bởi “Tính dục
có vẻ là mặt trận duy nhất mà phái nam có và chịu thua phái nữ. Thành trì bảo
vệ cho phái nam còn một góc hớ hênh là tính dục. Do đó không có gì lạ khi
phái nữ cần nói lên tiếng nói phản kháng hay nữ quyền thì họ dùng ngay lợi khí
tính dục” [58, tr.9].
Trong Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư) hình ảnh người phụ nữ
được miêu tả đầy bản năng bạo liệt, trần trụi. Đặc biệt là trong tác phẩm Bóng
đè, Đỗ Hoàng Diệu đã mượn hiện tượng bóng đè để miêu tả những pha bị
cưỡng hiếp cực kì chi tiết. Qua đó, nhà văn đã khắc họa thành công hình ảnh
người phụ nữ với dục tính. Cô dùng người nữ và dục tính như một bộ mã để
gửi đi một thông điệp của mình cho cuộc sống này: Hãy yêu thương phụ nữ,
trân trọng những khát khao mang ý nghĩa bản năng, khát khao được yêu và
được quan hệ tình dục. Nếu Đỗ Hoàng Diệu mượn giấc mơ để mô tả chuyện
tình dục thì ở I am đàn bà, Y Ban phô bày bản năng dục tính của nhân vật một
cách trực diện, với những ham muốn tình dục được bộc lộ một cách tự nhiên.
Cùng với những cây bút mới nổi như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Y
Ban… các sáng tác của Phong Điệp, Phạm Duy Nghĩa, Bảo Ninh, Nguyễn
Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, ... đem đến cho văn học
19
những tác phẩm mang chiều sâu tư tưởng, phản ánh chân thực hiện thực xã hội
phức tạp, những đổi thay trong quan niệm, trong cách sống ở người phụ nữ.
Riêng với Nguyễn Đình Tú, tuy không phải tác phẩm nào anh cũng lựa
chọn đối tượng nữ làm nhân vật chính, nhưng chỉ với Diệu (Phiên bản), Quỳnh
(Kín), Son Phấn (Hoang Tâm) và những nhân vật nữ phụ trong các tiểu thuyết
khác cho thấy Nguyễn Đình Tú đã kiến tạo hình tượng nữ thành tư tưởng nghệ
thuật riêng của mình. Ý thức được trách nhiệm, sứ mệnh của người cầm bút là
phải chia sẻ niềm vui, nỗi đau và thức tỉnh lương tri, Nguyễn Đình Tú thực sự
dành cho người phụ nữ một cái nhìn đầy trân trọng, cảm thông. Sự cảm thông,
trân trọng của nhà văn dành cho nhân vật cũng thật đặc biệt. Mới đọc người ta
thấy ở đó là sự tha hóa, biến chất nhưng càng đọc lại càng thấy thấm thía một
nỗi xót xa, thương cảm cho những người phụ nữ bị xã hội đầy rẫy những cạm
bẫy, phức tạp, bị hoàn cảnh sống dồn đẩy để rồi họ bị rơi vào cuộc sống đầy bi
kịch, không lối thoát. Đặc biệt tính nữ quyền thể hiện rất rõ trong sáng tác của
Nguyễn Đình Tú đó là sự đấu tranh quyết liệt để giành giật lấy sự sinh tồn, là
chủ động khẳng định bản năng dục tính của người phụ nữ, là khát vọng giải tỏa
những ẩn ức và kiếm tìm niềm vui trong tình yêu và sex, là sự đấu tranh không
khoan nhượng để chống lại số phận an bài, là khát vọng bá chủ thế giới ngầm,
là sự đấu tranh để giữ lấy lương tri làm người… Đọc tiểu thuyết của anh người
đọc không khỏi trăn trở về vấn đề văn học nữ tính chỉ có thể xuất hiện trong
điều kiện xã hội đạt đến một trình độ dân chủ thực sự hay chính cái xã hội đạt
đến trình độ dân chủ thực sự ấy đã nhào nặn nên những người phụ nữ với nhiều
khuôn diện đa dạng, phức tạp mà ngay chính họ cũng chưa hiểu hết mình.
1.3. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
1.3.1. Khái quát chung về tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả dân tộc phấn khởi, náo nức bước
vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Song nhìn vào thực tiễn hoàn cảnh đất
20
nước sau chiến tranh, cho thấy nước ta gặp vô vàn khó khăn bởi những tổn thất
nặng nề mà chiến tranh để lại. Đó không chỉ là những tổn thất, mất mát về vật
chất, sức người, sức của mà còn hao tổn lớn về tinh thần, tâm lí và làm biến
động cả đời sống xã hội, khó có thể bù đắp trong thời gian ngắn. Sau chiến
thắng, con đường chúng ta đi không phải là con đường bằng phẳng mà phải đối
diện với vô vàn thử thách, chông gai, phải tiếp tục “vấp váp và trả giá”
(Nguyên Ngọc). Cuộc khủng hoảng kinh tế sau chiến tranh diễn ra trầm trọng
kéo theo những mâu thuẫn xã hội. Những mặt trái của xã hội không ngừng bộc
lộ, phát triển, len lỏi vào tất cả ngõ ngách của đời sống. Đời sống văn hóa, văn
nghệ chững lại, độc giả dửng dưng với người viết, nhiều nhà văn lâm vào tình
trạng bế tắc. Ý thức nghệ thuật của số đông người viết và công chúng chưa
thực sự bắt nhịp với thời đại, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn
quen thuộc trong thời kì trước tỏ ra bất cập, lỗi thời trước hiện thực mới và thị
hiếu độc giả. Đây là thời gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “khoảng chân
không trong văn học”, nhưng cũng chính trong khoảng thời gian này đã diễn ra
sự vận động có chiều sâu trong đời sống văn học. Văn học đã chuyển từ “cuộc
chiến đấu trao quyền sống cho cả một dân tộc” sang một cuộc chiến đấu mới,
dù âm thầm nhưng quyết liệt không kém. Đó là “cuộc chiến đấu cho quyền
sống của từng cá nhân. Văn học đặt trong mối quan hệ với hiện thực đời sống
thường nhật đã bộc lộ tất cả sự phức tạp, đa dạng, đa chiều vốn có của nó. Sự
thay đổi toàn diện và sâu sắc của hiện thực đất nước sau chiến tranh, đặc biệt là
sau đổi mới (1986) đã buộc người cầm bút không thể tiếp tục viết theo cách cũ,
không thể nhìn cuộc sống bằng đôi mắt cũ mà phải đặt nó trong sự biến động,
đổi thay phức tạp, phải thay đổi cách cảm, cách viết của mình để đáp ứng yêu
cầu của một giai đoạn văn học mà ở đó diễn ra nhiều cuộc đối chứng gay gắt
như Nguyễn Minh Châu nhận định: “Thời kì này diễn ra một cuộc đối chứng
giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và phi hoàn thiện, giữa
ánh sáng và khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong mỗi tâm hồn, mỗi con
người” [5, tr.49]. Nhà văn Lê Lựu luôn tự nhủ: “Tôi tự bảo không thể viết như
21
cũ được”. Đây chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển, đổi mới văn học
nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
Nói về vị trí quan trọng của thể loại tiểu thuyết trong văn học, Dương
Thu Hương trong luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có dẫn: “Nhà
văn Nguyễn Quang Thân cho rằng: Nếu cả nền văn học là một hơi thở thổi suốt
từ quá khứ đến tương lai thì tiểu thuyết là dòng cảm xúc chủ đạo mãnh liệt
nhất, liên tục nhất của hơi thở ấy” [25, tr.163]. Tiểu thuyết chính là “cỗ máy
cái” chiếm vị trí trung tâm “xương sống” của văn học, trở thành nghệ thuật
khám phá đời sống, có khả năng chứa đựng lịch sử nhiều cuộc đời. Vì thế, tiểu
thuyết không quá bỡ ngỡ trong guồng xoay với những đổi thay lớn lao của đất
nước và yêu cầu đổi mới văn học. Nó nhanh chóng tiếp cận cái mới, cải biến,
kế thừa đặc điểm tiểu thuyết của giai đoạn trước để bộc lộ hết ưu thế và nội lực
tiềm tàng, mang về một mùa gặt bội thu với nhiều phương diện cho tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
* Đối với thể loại tiểu thuyết, sự đổi mới thể hiện trước hết ở việc mở
rộng đề tài, khả năng chiếm lĩnh, khám phá và mô tả hiện thực cuộc sống và
con nguời.
Tiểu thuyết là thể loại luôn luôn thay đổi, biến hóa, “không hoàn kết” bởi nó
“tiếp xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). Theo cách
diễn đạt của M.Bakhtin, tiểu thuyết khước từ cái nhìn nguyên phiến, đơn diện,
một chiều. Ở một góc độ nào đó, tiểu thuyết là thể loại mang tính dân chủ nhất
trong các thể loại văn học. Rõ ràng sau 1986, với sự xuất hiện, tồn tại và phát
triển của nhiều thành phần kinh tế, cùng với nó là sự tồn tại và phát triển của
các lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng (văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín
ngưỡng), con người cũng thay đổi. Bên cạnh con người công dân, con người
nhập cuộc, nhiều khát vọng hoặc tham vọng; còn xuất hiện các kiểu con người
mới mẻ: con người đời tư với những âu lo, bi kịch; con người tự nhiên với
những khát vọng bản năng thầm kín; con người hoài nghi, bất an… Đây chính
là mảnh đất màu mỡ, đầy hấp dẫn của tiểu thuyết.
22
Trong giai đoạn đất nước đang đứng trước những thách thức mới, đầy khó
khăn, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội ngày càng phát triển, đạo đức con
người ngày một xuống cấp, con người sẵn sàng bất chấp cả pháp luật và những
giá trị đạo đức truyền thống mà làm việc ác. Ý thức được trách nhiệm của người
cầm bút, các nhà tiểu thuyết giai đoạn này không thể chỉ đứng một chỗ mà viết
những vấn đề quen thuộc, hay phản ánh hiện thực cuộc sống theo quan điểm
chung của xã hội. Họ phải không ngừng khám phá, phát hiện những vấn đề mới
mẻ, vấn đề “nóng” mà xã hội quan tâm. Đề tài về an ninh xã hội là một trong
những đề tài mà nhiều tiểu thuyết giai đoạn này đã dấn thân thử sức. Viết về đề tài
này đòi hỏi các nhà văn phải dũng cảm, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phải
biết chấp nhận nguy hiểm. Mảng đề tài này được khai thác ở nhiều khía cạnh khác
nhau: những tệ nạn trong xã hội, vấn đề tội phạm, mặt trái của đồng tiền, giá trị
đạo đức xuống cấp… Thế hệ các nhà văn không ngừng làm mới cho đề tài này
bằng những phát hiện, sáng tạo riêng. Trước hết phải nói đến thế hệ những người
tiền trạm cho đề tài này như nhà văn Lê Tri Kỷ, những người giữ lửa như Nguyễn
Hữu Ước và sẽ được nối tiếp bằng thế hệ những nhà văn trẻ đầy nội lực thế hệ
7X, 8X: Nguyễn Hồng Thái, Nguyễn Thị Hồng, Tống Ngọc Hân, Nguyễn Xuân
Thủy và đặc biệt là có sự đóng góp của nhà văn trẻ của quân đội Nguyễn Đình
Tú. Là những người mở đường, sáng tác của Lê Tri Kỉ ở mảng đề tài này như
Xuân Thiều nhận xét “…chúng ta không thấy những pha ly kỳ, những vụ án
phức tạp tò mò, những cuộc săn đuổi thủ phạm đầy gay cấn, mà chỉ trên nền
truyện như thế. Ông viết về tình đời tình người” [56]. Và Hữu Ước, nhà văn
thuộc lực lượng vũ trang đã tiếp lửa cho đề tài An ninh xã hội bằng việc đào
xới sâu hơn những góc tối của xã hội hiện đại và truy tìm nguyên nhân sâu xa
làm nảy sinh những mặt trái, những mặt tiêu cực trong xã hội. Còn với thế hệ
7X, 8x, trong tư cách là những nhà văn trẻ của thời đại mở cửa, vừa kế thừa
nền tảng của những nhà văn đi trước đồng thời mở rộng phạm vi khai thác vấn
đề an ninh xã hội và phản ánh một cách thẳng thắn, trực diện táo bạo hơn. Điều
này có thể chứng minh qua các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Trong tám
cuốn tiểu thuyết được hoàn thành trong hơn mười năm, từ cuốn tiểu thuyết Hồ
23
sơ một tử tù (2002) đến cuốn tiểu thuyết được xuất bản gần nhất Cô mặc sầu
(2015) trừ Bên dòng Sầu Diện viết về đề tài chiến tranh biên giời phía bắc, còn
lại bảy cuốn tiểu thuyết đều trực tiếp hoặc gián tiếp viết về vấn đề gai góc, đôi
khi gây sốc trong đời sống xã hội: trộm cướp, giang hồ, ma túy, băng hoại đạo
đức… Điều đáng ghi nhận trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú khi viết ở đề tài
này là nhà văn đã phát hiện trong thế giới tội phạm ấy có cả những nhân vật là
nữ và họ trở thành nữ chúa giang hồ. Nhà văn phanh phui, miêu tả cụ thể, chi
tiết từng biểu hiện trong cách phạm tội của nhân vật nữ. Nào là cảnh chém giết,
nào là cảnh dằn mặt, cảnh sex đồi trụy, cảnh trốn tù, cảnh ghen tuông, cảnh
chạy trốn,… Thế giới tội phạm nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú như một
bức tranh thu nhỏ của cả xã hội Việt Nam hiện đại với rất nhiều mặt tiêu cực,
với cái ác đang lấn át dần cái thiện. Song đằng sau bức tranh thu nhỏ ấy, ta lại
thấy ở nhà văn một niềm tin yêu, cảm thông đối với những nữ tội phạm. Bởi
nhà văn đã đã phát hiện ra nguyên nhân sâu xa dẫn tới chỗ con người nói
chung và những người phụ nữ nói riêng trở thành tội phạm để từ đó muốn phục
thiện con người. Qua trang viết của Nguyễn Đình Tú, người đọc luôn trăn trở:
con người phạm tội do đâu, do bản chất họ ác hay do hoàn cảnh xã hội dồn đẩy
họ đến bước đường cùng và họ có khả năng phục thiện không, họ sẽ phục thiện
bằng cách nào, ai và điều gì sẽ giúp họ phục thiện…
Bên cạnh đề tài an ninh xã hội, tình dục là vấn đề rất đỗi bình thường
của con người. Đó là một vấn đề vô cùng nhạy cảm mà trước kia văn học ít
đề cập đến thì nay trở thành vấn đề được nói đến hết sức chân thực mà ở đó
nhà văn phát hiện ra những nhu cầu rất đời thường, rất đáng trân trọng ở
con người.
Tóm lại, tiểu thuyết đúng là một mảnh đất màu mỡ để từ sau 1986 thực
sự trở thành thể loại phát triển với sự xuất hiện của nhiều vấn đề mới, cách khai
thác mới.
* Về đội ngũ tác giả tiểu thuyết thời kỳ đương đại
Bên cạnh những nhà văn đã thành danh ở giai đoạn trước như Nguyễn
Khải hay Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết giai đoạn này còn đánh dấu sự góp
24
mặt của đội ngũ đông đảo những tác giả mà tài năng chỉ thật sự nở rộ ở giai
đoạn sau 1975 như: Ma Văn Kháng, Chu Lai, Lê Lựu, Nguyễn Trọng Oánh,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Thái Bá Lợi, Nguyễn Tri Huân, Bảo Ninh, Dương Hướng,
Nguyễn Khắc Trường… với hàng loạt tác phẩm chứng tỏ được sức viết khỏe
khoắn và sự bắt nhịp kịp thời với tình hình mới của văn học.
Và sẽ là thiếu sót khi nói về các tác giả tiểu thuyết thời kỳ đương đại mà
không nhắc đến sự đóng góp của thế hệ những nhà tiểu thuyết trẻ 7X, 8X như:
Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Phạm
Duy Nghĩa, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Đình Tú ...
Nhìn chung, tiểu thuyết Việt Nam đương đại ghi nhận sự có mặt của đội
ngũ đông đảo các tác giả tiểu thuyết, bao gồm những người đã thành danh
trong giai đoạn trước, những người mà tài năng thật sự vào độ chín ở giai đoạn
sau 1975 và cả những người viết tiểu thuyết chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn
sau 1975, đặc biệt là thời kì đổi mới văn học. Chính sự góp mặt của lực lượng
tác giả đông đảo như thế đã làm cho tiểu thuyết giai đoạn này có được sự phát
triển và diện mạo mới với sự phong phú về số lượng tác phẩm, sự đa dạng về
nội dung, đề tài cũng như sự sâu sắc của những tác giả và tác phẩm tiểu thuyết
thành công.
* Xét trên bình diện ý thức và quan niệm nghệ thuật, tiểu thuyết đương
đại đặc biệt từ sau 1986 trở đi đã có nhiều biến chuyển.
Ở giai đoạn trước, do ảnh hưởng của chiến tranh nên văn học được nhìn
nhận như một vũ khí tư tưởng với nhiệm vụ chính là tuyên truyền nên thường
ca ngợi chiến thắng, ca ngợi anh hùng vĩ đại của dân tộc. Vì thế khuynh hướng
chủ yếu trong các sáng tác giai đoạn này mang khuynh hướng sử thi. Đến nay
trước sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử xã hội, yêu cầu văn học nói chung, tiểu
thuyết nói riêng phải đổi mới một cách toàn diện. Với nhiệm vụ khám phá thực
tại, coi trọng và phản ánh đúng sự thật, tiểu thuyết đương đại hướng đến tiếp
cận đời sống trên bình diện thế sự, đời tư. Vấn đề chủ yếu mà các tác giả tiểu
thuyết giai đoạn này quan tâm là vấn đề con người với những trăn trở về số
25
phận và nhân cách trước những thay đổi đang diễn ra trong cuộc sống và trong
chính tâm hồn mỗi con người. Về mô hình tính cách, bên cạnh những con
người anh hùng- con người cộng đồng đã xuất hiện con người thân phận, cá
thể, con người mang bi kịch cá nhân. Điều này được thể hiện rõ trong tiểu
thuyết của nhiều nhà văn trong đó có Nguyễn Đình Tú. Tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú bộc lộ quan niệm về con người bản năng, con người thực tại và đặc
biệt nhà văn khẳng định dù con người ở hoàn cảnh nào trong họ luôn tồn tại
mầm thiện, khát vọng hoàn lương.
* Bên cạnh những đổi mới trong ý thức và quan niệm nghệ thuật của mỗi
nhà văn, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng có những cách tân đáng kể
về mặt hình thức nghệ thuật.
Trước tiên, đó là những thay đổi trong nghệ thuật trần thuật. Nếu như ở
phương diện nội dung của tiểu thuyết sau 1975 khuynh hướng nhận thức lại nổi
trội lên như khuynh hướng chủ đạo thì ở phương diện nghệ thuật vấn đề nghệ
thuật trần thuật cũng nổi bật lên như một vấn đề trọng tâm. Trong nghệ thuật
trần thuật, các tác giả tiểu thuyết giai đoạn này đã có những thay đổi ở phương
thức trần thuật như sự dịch chuyển điểm nhìn từ nhà văn vào nhân vật, sự thay
đổi vai kể, sự xen kẽ hay đảo ngược các tình tiết hay cách đưa truyện lồng
trong truyện,… Chính những đổi mới trong nghệ thuật trần thuật này đã góp
phần thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn cũng như tạo nên sự đa dạng, lôi
cuốn trong nghệ thuật trần thuật và làm cho người đọc thích thú hơn khi tiếp
nhận tác phẩm. Ngoài ra, nghệ thuật xây dựng nhân vật hay ngôn ngữ, giọng
điệu trong tiểu thuyết giai đoạn này cũng có những điểm khác trước. Vượt ra
khỏi tính trang trọng của ngôn ngữ tiểu thuyết sử thi, ngôn ngữ tiểu thuyết
sau 1975 ngày càng linh hoạt và “đời thường” hơn. Hướng đến việc thể hiện
các vấn đề cuộc sống và con người đời thường, tiểu thuyết sau 1975 luôn tìm
cho mình ngôn ngữ thể hiện phù hợp. Ngôn ngữ đời thường mang đậm tính
khẩu ngữ, thông tục và đôi khi lại in đậm dấu ấn cá nhân là điểm dễ nhận thấy
của ngôn ngữ tiểu thuyết giai đoạn này. Giọng điệu của tiểu thuyết sau 1975
cũng là yếu tố nghệ thuật có nhiều thay đổi. Nếu như ở giai đoạn trước tiểu
26
thuyết chủ yếu chỉ mang tính một giọng, thường là ngợi ca thì ở giai đoạn sau
1975 cùng với sự đa dạng về nội dung phản ánh, tiểu thuyết đã dần thoát khỏi
tính chất đơn giọng để hướng đến tính đa giọng điệu. Ở các tác phẩm tiểu
thuyết giai đoạn này dường như không chỉ có một vấn đề được đặt ra, không
chỉ có một cách nhìn, một thái độ mà luôn có nhiều hơn một và luôn có sự đan
xen, pha trộn. Chính vì thế mà trong cùng một tác phẩm người đọc có thể nhận
thấy nhiều giọng điệu khác nhau và chính điều này cũng mở ra nhiều hướng
cho người đọc trong việc tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm.
1.3.2. Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
1.3.2.1. Vài nét về tiểu sử, con người, sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Đình Tú người con của miền đất Kiến An, Hải Phòng, sinh ngày
7 tháng 7 năm 1974, tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội năm 1996 và tu nghiệp sĩ
quan tại trường Quân chính Quân khu 3 năm 1997. Từ năm 1997 đến năm 2001
Nguyễn Đình Tú công tác tại Viện Kiểm sát quân sự Quân khu 3. Từ năm 2001
anh về công tác tại Ban Văn- Tạp chí Văn nghệ quân đội. Hiện tác giả đang giữ
các chức vụ: Phó ban Nhà văn trẻ - Hội Nhà văn; Phó chi hội trưởng chi hội Nhà
văn Quân đội và Trưởng ban Văn xuôi - Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Cùng thời với thế hệ các nhà văn trẻ 7X, 8X như Đỗ Bích Thúy, Nguyễn
Vĩnh Tiến, Đỗ Hoàng Diệu… cách đây mười năm Nguyễn Đình Tú đã được
biết đến từ chuyên mục “Tác phẩm tuổi xanh” trên báo Tiền phong. Nguyễn
Đình Tú đến với nghề viết văn như một duyên nợ. Học ngành Luật và công tác
trong ngành luật nhiều năm nhưng cuối cùng lại chọn theo nghiệp văn chương.
Anh từng tâm sự “Không thể nói là tôi không yêu ngành luật cũng không thể
nói là ngành văn kiếm nhiều tiền hơn ngành luật. Thôi thì đổ cho số phận vậy.
Rằng kiếp này, tôi phải viết văn chứ không dừng lại ở việc “cáo trạng” hay
“luận tội” người khác. Và tôi chấp nhận sự lựa chọn của số phận, tức là chấp
nhận từ một tay “sĩ quan quân Pháp” chuyển sang làm một tay “sĩ quan nhà
văn”. [60].
Có thể nói anh là cây bút viết khá đều tay ở cả hai thể loại truyện ngắn
và tiểu thuyết. Cho đến nay, gia tài văn chương của Nguyễn Đình Tú ngoài các
27
tập truyện ngắn khá nổi tiếng đã xuất bản như: Bên bờ những dòng chảy
(2001), Không thể nào khác được (2002), Nỗi ám ảnh khôn nguôi (2003), Điệu
Mambo hư ảo (2006) là hàng loạt tiểu thuyết sáng tác trong hơn 10 năm: Hồ sơ
một tử tù (2002) - tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập
có tựa đề Lời sám hối muộn màng trong seri phim Cảnh sát hình sự phát sóng
trên VTV1 năm 2006, Bên dòng Sầu Diện (2006), Nháp (2007), Phiên bản
(2009), Kín (2010), Hoàng tâm (2013), Xác phàm (2014), Cô mặc sầu (2015).
Nguyễn Đình Tú đã gặt hái được khá nhiều thành công trong quá trình
hoạt động ở lĩnh vực văn chương. Có thể kể đến một số giải thưởng văn học
như: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 1999 - 2000 với các
phẩm Bên bờ những dòng chảy, Qua sông, Những chàng trai sống cùng hoa
săng đắng, Giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Công an nhân dân phối hợp
với Hội nhà văn năm 2002 với tác phẩm Hồ sơ một tử tù, năm 2010 với tác
phẩm Phiên bản. Giải thưởng 10 năm Bộ Công an với tiểu thuyết Hồ sơ một tử
tù. Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng với tiểu thuyết Bên dòng Sầu Diện. Gần
đây nhất tiểu thuyết Kín của Nguyễn Đình Tú cũng đã lọt vào vòng chung khảo
của hội Nhà văn Việt Nam năm 2011. Song điều đáng nói hơn cả trong thành
quả mà nhà văn trẻ nhận được sau quá trình khổ công trên mỗi trang viết đầy
tâm huyết là tình cảm yêu mến của độc giả. Những tác phẩm của anh đã vượt
lên hàng trăm tác phẩm khác để đến với người đọc và chiếm được một vị trí
nhất định trong lòng bạn đọc. Nói về quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc,
cần mẫn, chăm chỉ của Nguyễn Đình Tú, nhà báo Dương Tử dùng cách gọi với
lối ví von, so sánh độc đáo “gã trai phố vác rìu”: “Nguyễn Đình Tú là trai phố,
chẳng nên ví gã như một gã tiều phu và gã cũng chẳng thích được gọi là tiều
phu, thế nhưng nếu “lỡ” phải ví như thế thì tôi vẫn nghĩ đến hình ảnh một gã
tiều phu miệt mài vung rìu giữa khu rừng có tên gọi cuộc sống. Còn gã tiều
phu ấy có tên gọi: nhà văn!” [60]. Sự ví von ấy của Dương Tử chắc chắn nhận
được sự đồng tình của rất nhiều độc giả bởi Nguyễn Đình Tú cần mẫn, đều đặn
viết và đều đặn trình làng các tác phẩm của mình đúng với lời hẹn. Bằng sự nỗ
lực phấn đấu, miệt mài tìm tòi, sáng tạo, nên dù là người bước vào làng văn
28
“khá muộn” nhưng anh đã chứng tỏ được rằng: “cánh cổng văn chương không
khép lại với ai bao giờ chỉ có điều nhà văn có can đảm đẩy cánh cửa đó ra để
bước vào và tự tìm cho mình một lối đi riêng” [24]. Ngoài tình yêu văn
chương, Nguyễn Đình Tú còn có sự dũng cảm dấn thân của một người cầm bút
nên trải qua những thăng trầm thay đổi của thời gian, anh đã thực sự khẳng
định được vị trí của mình trong lòng người đọc
1.3.2.2. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú
Đại hội Đảng khóa VI (năm 1986) đã mở ra một cánh cửa mới cho văn
học nghệ thuật nói chung. Trước những nhu cầu đổi mới, tiểu thuyết Việt Nam
bắt đầu có những vận động nhất định cả về đề tài, chủ đề lẫn phương thức biểu
hiện. Có thể nói, dòng chảy âm thầm và quyết liệt đổi mới của tiểu thuyết Việt
Nam vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Nguyễn Đình Tú khi chọn thể loại
“công nghiệp nặng” này để sáng tác. Trong khoảng hơn 10 năm đầu thế kỷ
XXI, Nguyễn Đình Tú đã ra mắt bạn đọc một loạt tiểu thuyết với một lối viết
rất mới mẻ và táo bạo: Hồ sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện (2006),
Nháp (2007), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm (2013), Xác phàm
(2014), Cô Mặc Sầu (2015). Điều này đã khẳng định sức sáng tác mạnh mẽ,
đáng nể phục của anh.
Hồ sơ một tử tù, tiểu thuyết đầu tay được in năm 2002 ở Nhà xuất bản
Công an nhân dân của Nguyễn Đình Tú ban đầu có tên là Bên kia là cát bụi.
Tác phẩm đạt giải B trong cuộc thi sáng tác tiểu thuyết, truyện và ký Vì an ninh
Tổ quốc và bình yên cuộc sống giai đoạn 1998 - 2002 do Bộ công an và Hội
nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức. Cuốn sách viết về con đường dẫn đến
phạm tội của một sinh viên đầy triển vọng, gióng lên hồi chuông về sự tha hóa
lối sống của một bộ phận thanh niên trí thức. Cho đến nay cuốn tiểu thuyết đã
được tái bản nhiều lần và cũng được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập
với tên gọi Lời sám hối muộn màng trong seri phim Cảnh sát hình sự phát sóng
trên VTV1 năm 2006.
29
Cuốn tiểu thuyết được giải thưởng 5 năm của Bộ quốc phòng (2004 -
2009) mang tên Bên dòng Sầu Diện viết về đề tài chiến tranh đã khẳng định nội
lực sáng tác tiểu thuyết của nhà văn người lính Nguyễn Đình Tú. Đây là cuốn
tiểu thuyết viết về đề tài hoàn toàn khác với các tiểu thuyết còn lại của anh. Khi
chiến tranh kết thúc, đất nước hòa bình, lớp các nhà văn trăn trở kiếm tìm những
mảng đề tài mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Đề tài người lính với họ
“không mấy mặn mà” và ít được quan tâm, nhắc tới thì Bên dòng Sầu Diện ra đời.
Với chất giọng thương cảm, xót xa nhà văn đã phản ánh thật sống động về chiến
tranh với những vết thương lòng khó lành mà những người lính, những con người
đi ra từ cuộc chiến phải gánh chịu là một cố gắng đáng trân trọng.
Tiểu thuyết có cái tên khá độc đáo: Nháp (Nxb Thanh niên, 2008), với
câu đề từ: “Cuộc đời nháp tôi bằng những số phận” [63] nhà văn Nguyễn Đình
Tú gợi lên cho độc giả nhiều liên tưởng khi tiếp cận tác phẩm, đặc biệt là đối
với độc giả trẻ. Có thể hiểu Nháp tức là tiểu thuyết đang nói đến một “thế hệ
Nháp” lúc giao thời của một đất nước, hoặc thi pháp tiểu thuyết được triển khai
dưới dạng bản nháp, hay những nhân vật đang thử nghiệm cuộc sống bằng cách
nháp cuộc đời mình dưới nhiều dạng thức… Với một giọng dẫn chuyện rất tự
nhiên, cuốn sách đã lôi cuốn người đọc ngay từ những trang đầu tiên. Mới ngỡ
đầu như đây là cuốn sách viết về sex, bởi lẽ hơn 300 trang sách thì có đến một
phần ba là những trường đoạn nóng bỏng và phập phồng với những cảnh huống
ái ân. Nhưng thực chất, tác phẩm là sự bày tỏ thái độ của một thế hệ đang muốn
bung khởi khỏi những ẩn ức gia đình, những áp chế xã hội và áp lực của cuộc
sống đương đại qua sex. Thông qua sự biến đổi đầy phức tạp của hai nhân vật
chính Đại và Thạch, những con người tiêu biểu cho đời sống của lớp trẻ đương
đại, đang trong giai đoạn khát khao khám phá thế giới quanh mình: tình yêu,
gia đình, xã hội và khám phá chính bản thân trong mối tương tác với cái đẹp,
với văn hóa tính giao đồng chủng tộc và khác chủng tộc. Tác phẩm đã lọt vào
vòng chung kết cuộc thi viết tiểu thuyết Hội nhà văn Việt Nam 2006 - 2009.
Khi Nháp vẫn còn lan tỏa dư âm, “nội lực tiểu thuyết” của Nguyễn Đình
Tú lại tiếp tục được khẳng định bằng cuốn tiểu thuyết thứ tư mang tên Phiên
30
bản. Cuốn tiểu thuyết dày 400 trang viết về thế giới tội phạm có sức cuốn hút
người đọc không chỉ bằng cốt truyện hay, thủ pháp mới mẻ mà còn ở việc phân
tích chiều sâu tâm lý nhân vật. Để lựa chọn con đường đi tốt xấu, thiện ác, con
người nhất là thế hệ trẻ phải đối mặt với một cuộc đấu tranh vô cùng khốc liệt
giữa lí trí và tình cảm. Sự tàn bạo của xã hội giang hồ được phơi bày trần trụi
trên nhiều trang sách cùng những trăn trở, day dứt khát khao rất người được
mô tả, mổ xẻ đầy nhân bản. Những mảng sáng - tối, thực - ảo đan xen vào
nhau, tạo nên một sự mông lung mơ hồ trong cảm thức của người đọc. Chưa
có, không có một kết cục duy nhất, mà tất cả đều như đang dang dở, ngổn
ngang với những đối lập, tranh chấp, lưu chuyển như cuộc sống ồn ào mà khó
hiểu thời hiện tại. Phải chăng đó cũng là những băn khoăn, những khao khát
mà Nguyễn Đình Tú muốn gửi vào trong mỗi tác phẩm của mình: “Con người
là những phiên bản nhiệm màu của Chúa” [64, tr.5]. Suy nghĩ mang tính
chiêm nghiệm ấy cũng trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những trang viết của
anh. Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Nguyễn Đình Tú đoạt giải B
cuộc thi sáng tác tiểu thuyết, truyện và ký do Bộ Công an và Hội nhà văn Việt
Nam phối hợp tổ chức.
Năm 2010 cuốn tiểu thuyết thứ 5 mang tên Kín chính thức ra mắt bạn
đọc. Tác phẩm này một lần nữa khẳng định Nguyễn Đình Tú thực sự là một
cây bút lực có sức viết khá sung mãn. Tài năng của nhà văn đến độ “chín” cả
về lượng và chất. Anh đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu đề ra đó là ba năm với
ba cuốn tiểu thuyết. Vẫn tập trung khai thác đối tượng là thế hệ trẻ nhưng ở Kín
họ lại không có sự yên ổn về mặt tinh thần, họ tồn tại như những chiếc bóng
vật vờ trước sự thay đổi của thời gian. Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái
thở dài xót xa trước những nhân vật trong Kín khi “họ bị đẩy ra hoặc tự mình
vẫy vùng khỏi gia đình chật hẹp, hoặc mê man đi theo tiếng gọi của bạn bè hay
tình ái với những ham muốn bất chợt, bất thường” [51]. Như một sự tiếp nối
liền mạch với những tiểu thuyết trước đó của anh, Kín tập trung làm nổi bật
chân dung của bộ phận giới trẻ trong vòng xoay chóng mặt của kinh tế thị
trường và bao nhiêu va đập giữa các quan niệm sống. Có thuốc lắc, có ăn chơi
31
thác loạn, có quần hôn, lang bạt, bụi đời, có giết người lại có cả văn hóa tâm
linh đạo Mẫu. Tuy nhiên, nếu Nháp quá sex, Phiên bản quá bạo lực thì ở Kín là
một giới trẻ quá hoang hoải, lạc loài hoài nghi, vỡ mộng. Đây là cuốn tiểu
thuyết có kết cấu phức tạp, ẩn giấu nhiều thông điệp về con người trong một xã
hội không ngừng thay đổi và rạn nứt.
Hoang tâm cuốn tiểu thuyết trinh thám đầy kinh dị được viết xong vào
tháng 1 năm 2013. Không gian của Hoang tâm là không gian lịch sử xoay
quanh chiến tranh biên giới phía Tây Nam. Song Hoang tâm “không phải là
cuốn tiểu thuyết sử thi, nơi người đọc hi vọng tìm thấy ở đó những trận đánh
lớn, chiến lược thể hiện vai trò và tài năng của các tướng lĩnh, hay tinh thần
chiến đấu của binh sĩ các bên tham chiến. Nguyễn Đình Tú muốn nhấn vào
khía cạnh khác, nhỏ lẻ và phân mảnh. Cho nên nó “người” hơn” [30]. Cuốn
tiểu thuyết đầy huyền bí kể về nhân vật Anh, một chàng sinh viên tốt nghiệp
khoa Văn bị động viên vào quân đội tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây
nam và làm nghĩa vụ quốc tế trên nước bạn Campuchia. Anh trở về làm thầy
giáo nhiều năm trước khi căn bệnh mất ngủ triền miên khiến anh phải tìm về
vùng Cửa núi, huyện Yên Thủy để tìm lại giấc ngủ. Con đường tìm lại giấc ngủ
cũng là con đường của huyền mị, của mông lung, của thao thức và tỉnh thức.
Chỉ đến khi Anh tìm được lại chính mình với sức vóc đàn ông cường tráng thì
giấc ngủ cũng đến với anh, trở lại với anh trong bùi ngùi tiếc nuối. Giấc mơ
hoang tưởng mà như thực ở khu du lịch Cửa Núi cùng với người con gái điếm
với cái tên tạm gọi là Son Phấn như một hành trình đẹp khi con người tìm lại
được chính mình giữa bao nhiêu chồng lấn yêu thương và nghi kị, giữa huyền
hoặc và sôi động của cuộc đời.
Cuốn tiểu thuyết thứ bảy Xác phàm một lần nữa đưa Nguyễn Đình Tú
vào danh sách những nhà văn có nhiều độc giả nhất hiện nay. Nhà phê bình Bùi
Việt Thắng nhận định: “Một Nguyễn Đình Tú ngồn ngộn vốn sống, dày dặn trải
nghiệm và đặc biệt cực kỳ phong phú trí tưởng tượng. Văn phong vẫn cứ sắc
ngọt, hoạt. Nhưng bắt đầu chín muồi về độ triết lý” [53].
32
Xác phàm đó là một câu chuyện “ốc mượn hồn”, mượn câu chuyện
đương đại để nói về một sự kiện lịch sử, để qua đó gắn kết lịch sử với hiện tại.
Đúng như nhà văn Đào Bá Đoàn nhận xét: “Xác phàm thực ra là một dòng
sông ký ức cuộn chảy của dân tộc Việt thời đoạn một phần ba thế kỷ qua - Ấy là
cuộc chiến vệ quốc với kẻ thù truyền kiếp; sự khốc hại của chiến tranh; cái
nhân văn trong cảnh ngộ máu; những đớn đau mất mát của thân phận đàn bà;
sự “lệch chuẩn” trong hoàn thiện nhân cách trẻ em - những cơn buồn và
những vẻ đẹp hoang đường như một mê sảng của thế giới tiếp tục còn bị đẩy
sâu vào vùng tăm tối - đường còn lắm mê loạn, cái đẹp còn còn bị dìm, bị tàn
hại bởi bao tảng đá hộc; khát vọng nhân văn còn vời vợi và bản thân nó vẫn
gây khát như người bệnh trót uống cả biển mặn mà mặt trời đã đổ lửa, rang tất
cả trong một khung trời…” [dẫn theo 54].
Cũng viết về đề tài hình sự cùng với Hồ sơ một tử tù, Phiên bản là tiểu
thuyết viết về tội phạm ma túy mang tên Cô Mặc Sầu (2015). Bối cảnh chính
của tác phẩm là thung lũng Cô Mặc Sầu nhỏ bé, xinh đẹp, nổi tiếng với loài hoa
dạ thảo phong. Góc rừng núi thơ mộng ấy bỗng rung động bởi những vụ án
thảm khốc liên tiếp xảy ra mà nguyên nhân đều có liên quan đến ma túy khiến
cho mảnh đất vốn bình yên nay trở nên u ám, đáng sợ. Lần theo dấu vết những
người sử dụng, buôn bán ma túy cùng với cuộc trở về tìm lại cội nguồn của
nhân vật Việt kiều Min và câu chuyện nhuốm màu huyền bí của bà lão trăm
tuổi, các chiến sĩ an ninh không chỉ điều tra được bí ẩn quanh các vụ án mà còn
đưa vào tác phẩm góc nhìn về văn hóa, truyền thống và tình người.
Như vậy, có thể nói, tiểu thuyết mười năm đầu thế kỷ XXI trong đó có sự
góp mặt của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã xác lập được diện mạo riêng từ
những thể nghiệm của các cây bút trẻ mang dấu ấn của văn học hậu hiện đại.
Hơn 10 năm với 8 cuốn tiểu thuyết không chỉ cho thấy sức sáng tạo dồi dào,
mãnh liệt của Nguyễn Đình Tú mà còn cho thấy nỗ lực làm mới mình của nhà
văn khiến cho anh không lạc hậu, không bị bạn đọc lãng quên. Có thể độc giả
33
vẫn chưa tìm thấy những tác phẩm có “sự thống nhất giữa trò chơi và những
ẩn dụ lớn” nhưng như ngạn ngữ phương Tây từng nói: “Khi chưa tìm được cái
mình yêu hãy yêu cái mình có” [40, tr.48], sự tâm huyết khát khao thể hiện
cách tân của nhà văn rất cần được khích lệ và hi vọng đó chính là cầu nối để
chúng tôi yêu và khám phá được những cái mới trong tiểu thuyết của anh.
Tiểu kết chương 1
Dù các nhà nghiên cứu nhìn nhận nhân vật văn học ở nhiều khía cạnh
khác nhau nhưng với một tác phẩm văn học, nhân vật chính là phương tiện
quan trọng quyết định giá trị, sức sống của tác phẩm đó với thời gian. Đặc biệt
với thể loại tiểu thuyết, nhân vật quyết định mọi sự sáng tạo nghệ thuật, giúp
nhà văn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình về con người, cuộc sống và xã
hội. Trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết hướng tới khai thác
muôn mặt của đời sống trong đó có vấn đề nữ quyền. Bình đẳng giới đã giúp
các nhà tiểu thuyết phân tích, lí giải được nhiều phương diện khác nhau ở
người phụ nữ. Là nhà văn trẻ thuộc thế hệ 7X, từng học ngành Luật, công tác ở
Viện Kiểm sát và hiện đang làm việc trong quân đội, Nguyễn Đình Tú có cái
nhìn khá toàn diện về đời sống xã hội đặc biệt là phương diện tội phạm và
những mặt trái của xã hội mà người phụ nữ cũng là đối tượng góp mặt trong thế
giới phức tạp, nhiều cạm bẫy ấy. Trong hơn 10 năm sáng tác, Nguyễn Đình Tú
đã ra mắt bạn đọc nhiều truyện ngắn cùng tám cuốn tiểu thuyết và được đánh
giá là “nhà tiểu thuyết lực lưỡng”. Cùng với những cây bút có tên tuổi, nhà
văn trẻ Nguyễn Đình Tú viết về vấn đề nữ quyền theo cách riêng. Khi viết về
giới nữ, dường như anh buộc mọi người phải trăn trở với những số phận đầy bi
kịch đau đớn, khó tìm được con đường giải phóng cho chính mình. Đây cũng là
một trong những đóng góp đáng ghi nhận của nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú trong
văn học Việt Nam đương đại.
34
Chương 2
NHÂN VẬT NỮ VỚI NHỮNG KHUÔN DIỆN ĐA DẠNG
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
2.1. Nhân vật nữ với dục vọng bá chủ thế giới ngầm
2.1.1. Con đường đến với vị trí bá chủ thế giới ngầm
Thế giới ngầm trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là thế giới của giang
hồ, của xã hội đen, của những tay anh, chị có vai vế. Nơi đó tồn tại những
chém giết, tranh giành quyền lực, thâu tóm địa bàn với cảnh “cá lớn nuốt cá
bé”. Nguyễn Đình Tú tỏ rõ năng lực và thế mạnh của mình trong việc dựng lên
những chân dung tội phạm của thế giới ngầm này. Chỉ một vài nét phác họa tác
giả đã hệ thống được một thế giới giang hồ với đủ các thứ bậc khác nhau: “Thứ
nhất là loại đao búa, côn đồ gặp người là đánh, thấy của là cướp, đó là loại hạ
đẳng. Thứ hai là loại thách thức chính quyền, coi thường công an, chống người
thi hành công vụ, đó là loại tự sát. Thứ ba là loại dùng thuốc để có bản lĩnh
chém giết, đó là loại ma xui quỷ khiến (…) Có thể chia nhỏ ra thành nhiều loại.
Có loại chỉ thích kiếm tiền chứ không chém giết. Có loại thích oai chứ không
có số má gì. Có loại ngọt nhạt bám lấy chính quyền mà tồn tại. Có loại trộm
cắp vặt thích tụ tập bầy đàn, động đến là tan. Có loại bần cùng sinh đạo tặc.
Có loại phẫn chí mà đi làm cướp. Có loại bị vùi dập quá mà lấy số người làm
số mình. Có loại tâm thần, có loại trả thù đời, có loại trả thù tình, có loại bị
thuốc lú…” [64, tr.146]. Đặc biệt, thế giới ấy trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
không chỉ có siêu giang hồ là nam mà còn có cả Bụi chúa nữ, nữ chúa giang
hồ, siêu nữ giang hồ, bà hoàng đen… tinh quái, lạnh lùng, tàn bạo và cũng đầy
bí ẩn. Trong tiểu thuyết của mình, anh đã đưa người đọc đi sâu khám phá con
đường đến với danh hiệu bá chủ thế giới ngầm của những siêu giang hồ là nữ
và cả những quyền năng đặc biệt chỉ có ở siêu nữ giang hồ.
Phiên bản là cuốn nhật ký cuộc đời ghi chép đầy đủ, chi tiết quá trình
chuyển hóa của Diệu từ một thiếu nữ xinh đẹp, lương thiện, biết thương yêu và
cảm thông với những con người cùng cảnh ngộ, biết đỏ mặt xấu hổ, biết thổn
thức, rung động yêu thương với những cảm xúc trong trẻo, tinh khôi để trở
35
thành một “Hương Ga” - nữ quái giang hồ, bá chủ thế giới ngầm. Phải chăng
do Diệu xuất thân trong một gia đình có gen giang hồ (ông nội trộm cướp, cha
cờ bạc, nợ nần, anh trai ra tù vào tội) nơi mảnh đất Ngã ba sông hay những
tháng ngày bươn trải chống chọi trong cuộc sống mưu sinh đầy khó khăn, bon
chen với cạm bẫy của dòng đời? Hay nỗi ám ảnh đau đớn, kinh hoàng của
những chấn động tinh thần sau cuộc vượt biên không thành đã giết chết một
tâm hồn trong trẻo, nhen nhóm ý định trả thù đời? Hay chính những rào cản vô
hình của những định kiến xã hội đã khiến nhân vật không thể vượt qua những
mặc cảm của cuộc đời? Hay đó chính là định mệnh khi cô sinh ra ở vùng đất
dữ “Đất này dữ, trai hay gái đều thành nghịch tặc cả”? [64, tr.67].
Dường như Diệu không thể vượt qua được mặc cảm, sự tự ti về thân
phận, Diệu không dám đối diện với hoàn cảnh, với chính mình để tự đứng lên.
Diệu không thể chấp nhận sự thật và cũng khó để có thể tha thứ cho những kẻ
độc mồm, độc miệng cứ khía sâu vào nỗi đau trong tâm hồn Diệu. Diệu không
thể kìm nén được cơn nóng giận bừng bừng bốc lên đầu khi có ai đó nhắc đến
cái quá khứ đau thương, nhơ nhớp của cuộc đời mình. Diệu cũng không đủ
dũng cảm để đối diện với tình cảm thực của mình, không thể đón nhận tình
thương của những người tốt xung quanh Diệu. Và cứ thế con đường đến với
thế giới ngầm của Diệu ngày càng thu ngắn lại. Con đường ấy bắt đầu từ sự
gắn kết một cách tự nhiên, đầy bản năng với Hưng mã. Diệu bị cái lưỡi dẻo
quẹo của anh ta mê hoặc: “Hưng cứ dùng những lời lẽ kia mà khoan vào thì
đến bê tông cũng đổ chứ nói gì đến cái con người hừng hực sức yêu, sức sống
như em” để rồi Diệu cứ tự huyễn hoặc mình và luôn tin rằng “Trời sinh ra
những kiếp ngọc đời thì trời cũng sinh ra những kiếp bụi đời. Anh và em là
những hạt bụi đời trời cho gắn kết vào nhau để làm nên những hạt bụi con.
Hãy nghĩ thế và chấp nhận” [64, tr.151]. Khi chấp nhận là kiếp của kẻ bụi đời,
thêm cái hoàn cảnh tác động “trông chờ vào mấy điếu thuốc thì sống làm sao
nổi”, Diệu không ngồi yên chờ chết, không chấp nhận suốt đời sống trong đói
nghèo. Diệu nghĩ “Nhìn ra xung quanh bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp,
bằng móc túi, bằng xin đểu, bằng lừa đảo, bằng bài bạc… Chả lẽ lại chịu chết đói
36
khi em cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp 9?”
[64, 152] và thế là Diệu lựa chọn con đường trộm, cắp để sống. Ban đầu chỉ là
trộm cắp vặt rồi từng bước một Diệu đã lấn sâu vào con đường bụi đời để
nhanh chóng trở thành Hương “ga” nữ quái máu lạnh có một không hai trong
giới giang hồ thành phố Ngã ba sông với “Vũ khí mà thị thường mang theo bên
mình là con dao bầu chọc tiết lợn sáng loáng. Hình ảnh thị cùng con dao bầu
đã trở thành biểu tượng của một nữ quái máu lạnh có một không hai trong giới
giang hồ thành phố Ngã ba sông” [64, tr.31]. Cuộc gặp gỡ định mệnh với
Tùng Hê rô đã thực sự thắp lên ở thị “khí phách của một con cái ngang tàng,
một ái phi lọc lõi, một nữ giang hồ tầm cỡ, một mụ đàn bà quyền lực, một phận
gái cơ mưu và quyền biến” [64, tr.6]. Bước chân vào thế giới ngầm, tất yếu thị
sẽ có khát vọng kiếm thật nhiều tiền, khát vọng phô trương thanh thế, khát
vọng quyền lực. Đó chính là những yếu tố thúc đẩy để thị không ngừng củng
cố danh vị bá chủ thế giới ngầm bằng mọi cách, mọi toan tính, thủ đoạn, thậm
chí đánh đổi cả mạng của mình. Thị phải chứng minh cho giới giang hồ biết thị
không phải là loại giang hồ hạ đẳng, gặp người là đánh, thấy của là cướp,
thách thức chính quyền, ma quỷ xui khiến như Cộc “ba tai” hay Lân “sói”
mà là hiện thân của những siêu giang hồ. Không giết người vô lối, không lộ
liễu trong cách hành xử, biết nhìn trước tính sau, hiểu rõ luật của giới giang
hồ: “Không quen chơi hai mang. Giang hồ cứ chơi kiểu giang hồ. Thích thì
chiến. Không xì đểu” [64, tr.159].
Như vậy, có thể nói con đường đến với vị trí bá chủ thế giới ngầm của
Diệu (Hương ga) vô cùng khốc liệt. Đó là định mệnh, là số phận và cũng là sự
lựa chọn của bản thân thị. Con đường đó có nước mắt, có sợ hãi, có cướp giật,
có chém giết, có máu, có thù hận, có tù tội… con đường mà khi đã lựa chọn thì
dù có là siêu giang hồ đi chăng nữa cũng không tránh khỏi quy luật tàn sát “cá
lớn nuốt cá bé” chốn giang hồ.
Cũng sa vào tội lỗi, cũng nhuốm máu giang hồ, trong Kín Nguyễn Đình
Tú xây dựng nhân vật Quỳnh với danh hiệu “bụi chúa nhỏ”. Con đường đến
với thế giới bụi đời của Quỳnh không phải là một “định mệnh”, không có đầu
37
rơi, máu đổ và Quỳnh cũng chưa bước hẳn chân sang thế giới của giang hồ như
Diệu (Phiên bản) nhưng cũng khốc liệt, và chứa đựng những nỗi đau tinh thần
không gì bù đắp được. Sau khi lạc mẹ, những tháng ngày sống lăn lóc bên ga
Hải Thành cùng những người bạn ở toa tàu, sau những lần tính toán đi “làm
phò” để sống Quỳnh đã tìm lại được cha của mình và được cha đón về nuôi,
được cha bù đắp cho những thiệt thòi Quỳnh phải gánh chịu trong những tháng
ngày đã qua. Cô đã được cha cho đi nước ngoài học để quên đi quá khứ, được
sử dụng một chiếc thẻ ATM, muốn tiêu bao nhiêu thì rút nhưng vẫn không thể
tìm được sự bình yên trong tâm hồn, không thể quên đi cái mùi của trần thế để
hòa nhập với cuộc sống thực tại. Quỳnh luôn cảm thấy cô đơn, không tìm thấy
niềm vui và một cuộc sống ý nghĩa bên gia đình với người cha không thể hiểu
con mình. Để quên đi thực tại, thoát khỏi cảm giác cô đơn vây bủa, Quỳnh đã
lao vào những cuộc ăn chơi trác táng với rượu cồn, thuốc lắc, với những cuộc
quan hệ nam nữ không có ranh giới, vượt ra ngoài phạm trù đạo đức xã hội mà
cô không biết rằng chính những cái đó đã hủy hoại cuộc đời cô một cách thê
thảm. Quỳnh thích thú, hãnh diện với cái danh hiệu “bụi chúa nhỏ” nhưng cô
đâu biết đó là danh hiệu dành cho những ai đã và sẽ bước chân vào thế giới của
tội phạm, của bóng đêm.
Từ cách lựa chọn con đường đi của nhân vật Diệu trong Phiên bản, của
Quỳnh trong Kín phải chăng nhà văn muốn nhắn gửi đến mọi người đặc biệt là
thế hệ trẻ hãy cẩn trọng, tỉnh táo lựa chọn con đường đi cho tương lai. Đồng
thời tác phẩm cũng gửi gắm những trăn trở của nhà văn: xã hội phải làm gì,
con người cần sống với nhau như thế nào để thế hệ trẻ không bị cái gọi là “định
mệnh” trói buộc, phải làm gì để mở ra cho họ những con đường tốt đẹp, tạo cơ
hội để họ tránh mắc sai lầm, tránh xa cái ác và biết lựa chọn con đường đi đúng
đắn cho chính mình.
2.1.2. Quyền năng của người phụ nữ trong thế giới ngầm
Trong thế giới ngầm của bọn tội phạm, có một thứ quyền lực đặc biệt, đó
là "quyền lực cơ bắp, được thực thi chóng vánh, được củng cố bằng dao, kiếm,
súng đạn và sự liều lĩnh” [61, tr.8]. Nó có một sức hút đầy ma lực, sức hút ấy
38
là danh dự, là vai vế, là vị trí bá chủ, là quyền bính và quan trọng hơn là để tồn
tại một khi đã bước chân vào thì khó có thể bước ra. Hương ga (Phiên bản) đã
trở thành bá chủ, “siêu giang hồ”, “Tử thần hoa cải”, “nữ chúa cờ bạc”, hay “đệ
nhất giang hồ” và thâu tóm mọi quyền năng về mình trong thế giới ấy.
Quyền năng của Hương Ga không tự nhiên có mà đó là cả một quá trình
rèn luyện, ép mình. Trước hết là sự ép mình để không bị nỗi sợ hãi khuất phục:
“Nếu không bước qua sự sợ hãi thì làm sao ta có thể trở thành nữ hoàng của cái đế
chế giang hồ đầy rẫy những hận thù và chết chóc này?” [64, tr.7]. Khi đã khống
chế được nỗi sợ hãi, ép sâu nó vào bên trong và bọc kín nó trong trái tim băng
giá thì nữ hoàng đen của thế giới ngầm xuất hiện với quyền năng vô biên.
Quyền năng ấy được hiện lên qua hàng loạt những mưu mô, toan tính và những
hành động đáng sợ để bảo tồn sinh mạng và thể hiện uy lực của mình. Trước
hết là kế hoạch cướp tù được mưu tính hoàn hảo, liều lĩnh: “Trước hết thị tìm
cách gửi cho Tùng quả lựu đạn hơi cay. Việc này không khó lắm vì nhà tù là
nơi để nhốt con người, có thể một con kiến chui không lọt nhưng lại có rất
nhiều khe hở để có thể tuồn mọi thứ vào… Và vụ cướp tù mà thị ra tay lần này
cũng là một bất ngờ lớn, đủ sức gây cho thế giới trại giam phải bàng hoàng
sửng sốt” [64, tr.26].
Quyền năng của nữ hoàng đen được miêu tả đầy ấn tượng qua những
hành động dằn mặt, giết người dã man. Sau vụ sòng 21, những sòng có ý chậm
hồ “Thị trực tiếp mang dao đi dằn mặt. Vũ khí mà thị thường mang theo bên
mình là con dao bầu chọc tiết lợn sáng loáng. Hình ảnh của thị cùng con dao
bầu đã trở thành biểu tượng của một nữ quái máu lạnh có một không hai trong
giới giang hồ thành phố Ngã ba sông” [64, tr.11]. Điển hình là hành động dằn
mặt đáng sợ của thị ở sòng bài số 15, thị xử lí thằng chủ sòng bằng một hành
động hết sức rùng rợn, đủ để làm rung động cả hai chục sòng bài còn lại. “Mấy
thằng đệ tử ghì thằng chủ sòng xuống, thị cầm ngón trỏ trái của hắn đặt lên
bàn và con dao bầu của thị vung lên. Ngón tay trỏ văng ra đất trước những
khuôn mặt xám ngắt của đám bảo vệ sòng. Thị nhặt ngón tay còn đang rỉ máu
và co giật liên hồi đó lên, đặt vào trong chiếc đĩa vẫn dùng để chơi xóc đĩa”
39
[64, tr. 31]. Sau hành động dã man ấy là lời tuyên bố cũng đầy quyền uy, thứ
quyền uy được tạo ra từ sức mạnh của một tâm hồn máu lạnh: “Chậm hồ
không có lý do thực chất là chống lại tao. Tao chặt của mày một ngón tay trỏ
để mày đừng nghĩ đến chuyện phản thùng, đổi chủ” [64, tr.31]. Với vốn hiểu
biết sâu rộng về thế giới tội phạm của một nhà văn từng học ngành Luật và
hiện lại đang công tác trong quân đội, nhà văn Nguyễn Đình Tú nắm bắt một
cách toàn diện mọi biểu hiện của những tay anh chị trong giới giang hồ. Bên
cạnh những hành động dằn mặt tàn bạo đến đáng sợ nhà văn còn phơi bày
những mưu cao, kế độc của một cái đầu tỉnh táo, khôn ngoan, lọc lõi của một
người đàn bà đã phải trải qua mọi nỗi đau khổ ê chề để bây giờ trở thành kẻ
đứng đầu của bọn tội phạm. Đó là âm mưu khi thị trả Hồng “sư tử” lại cho Lân
sói vừa khiến đối phương phải dè trừng, né tránh vừa tạo được thanh thế trong
giới giang hồ của thị: “Hai ngày sau, thị cho người chở một chiếc quan tài
sang giao cho Lân “sói” với lời nhắn: “Anh cần em trả người. Từ nay chúng
không nợ nần gì nhau nữa”. Lân cùng đàn em đến mở quan tài ra: “Cả bọn
sững sờ trước một cái xác là nữ giới nhưng không thể nào nhận ra được là ai
vì mặt đã bị đổ a xít biến dạng. Trước ngực xác chết có tấm vải màu hồng
thêu dòng chữ: Hồng sư tử. Lân vội tổ chức cho chôn cất, từ ấy trong lòng
có ý ghê sợ thị, không còn ý định “đòi gái” để phá thị nữa” [64, tr.32]. Sau
hành động này, không chỉ Lân “sói” mà cả những đối thủ khác không dám coi
thường thị bởi ai dám ngờ rằng một người đàn bà lại có thể ra tay lạnh lùng, tàn
bạo đến như vây. Thị làm việc ác nhẹ nhàng, mau lẹ, dứt khoát với thái độ bình
thản đến lạnh lùng.
Cao tay hơn có lẽ là âm mưu của Hương “ga” để hạ bệ băng nhóm của
Cộc “ba tai” với sự giúp sức của quân sư được coi như Gia Cát Lượng Tân.
Tân bày cho thị cách hạ Cộc không phải bằng đao kiếm cũng không phải đổ
máu mà dựa vào chính quyền, dùng công lí để hạ Cộc. Thị nghe lời Tân, giúp
cha cậu bé bị Vĩnh “con”- đệ tử của Cộc giết, đi kêu oan khắp nơi và đúng như
dự đoán, băng nhóm của Cộc bị chính quyền triệt hạ và giang hồ trở về thế độc
40
tôn mà thị là người đứng đầu đầy quyền uy, các phe cánh trong giới giang hồ
đều quy phục.
Qua nhân vật Hương ga trong Phiên bản người đọc được biết đến một
thế giới chỉ có kẻ mạnh mới tồn tại. Để mạnh, họ phải củng cố quyền lực bằng
mọi cách. Điều đó khiến cho những ai đã bước chân vào thế giới ngầm không
thể không ác, không thể không phạm tội. Ở cái thế giới đó dường như không có
chỗ tồn tại của thiên tính nữ. Ta thấy sự gồng mình của nhân vật khi phải đối
diện với nỗi đời cơ cực. Từ khi còn là một cô bé lương thiện, cô gái ấy đã phải
gánh trên vai mình nhiều trọng trách thay cho cha mẹ mất sớm, anh trai tù tội:
“Em phải là chỗ dựa cho bà chứ? Em phải cứng rắn lên chứ. Em phải quên đi
mình là con gái chứ. Em phải hội tụ trong mình đầy đủ tính cách của bố, của
mẹ, của anh trai em để có thể lo được cho bà lúc tuổi già chứ” [64, tr.33]. Và
những phũ phàng của cái ngày vượt biên kinh hoàng ấy như một ám ảnh khôn
nguôi: “Cái đau này lần đầu tiên em nếm trải. Không phải đòn roi của cha
mẹ, không phải đòn thù của người đời, không phải đòn phản trắc của bạn
bè, không phải đòn hoạn nạn của số kiếp, không phải đòn bội tín của tình
yêu… Mà sao đau đớn lắm. Một cực hình mà số kiếp bắt em phải chịu
đựng” [64, tr.106]. Ngay cả khi đã gia nhập vào thế giới của tội phạm, Diệu
vẫn bị ám ảnh bởi căn phòng hạnh phúc của vợ chồng Diệu luôn đẫm mùi
máu sau mỗi cuộc đi đêm về của Tùng Hê rô.
Khắc họa hình ảnh người phụ nữ quyền năng trong thế giới tội phạm
Nguyễn Đình Tú không khỏi trăn trở làm thế nào để giúp họ quay trở về với
bản chất lương thiện vốn có, sẵn sàng từ bỏ sức mạnh của quyền năng. Hình
ảnh người bà khép lại tác phẩm Phiên bản như một cứu rỗi để linh hồn lầm lỗi
đang phiêu dạt có thể tìm về với miền kí ức trong trẻo đầu tiên của kiếp
người: “Tóc bà bạc phơ, răng bà rụng hết rồi, lưng bà còng gập xuống, đôi
chân bà vẫn bước trên những con đường chật hẹp,.... Lưng bà vẫn cõng
phiến đá chịu nạn vô hình nặng nề. Bà vẫn ngày ngày sống trên đất nghịch
với ánh mắt thanh thản và nụ cười an nhiên” [64, tr.69]. Chỉ khi bắt gặp
hình ảnh đó, linh hồn lạc loài mới trở về đúng bản thể của chính mình.
41
2.2. Người phụ nữ với khát vọng yêu và kiếm tìm hạnh phúc
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, vấn đề sex cũng được đề cập đến
khi miêu tả nhân vật nữ. Với anh, sex không phải để “câu khách” mà đằng sau
mỗi pha sex ấy là khát vọng được yêu, được sống với đúng bản năng con người
bình thường của người phụ nữ. Và hơn thế nữa là cả cuộc đời, số phận đầy cay
đắng của những người phụ nữ trong xã hội cạm bẫy. Vì vậy, đọc tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú, vấn đề tình dục của người phụ nữ được nói đến một cách rất
tự nhiên như là chuyện cần có, phải có vì đó là nhu cầu ham muốn không thể
thiếu của con người. Sex còn giúp cho khát vọng yêu ở người phụ nữ trở nên
mãnh liệt. Giúp cho những ẩn ức trong họ được giải tỏa, tâm hồn được thăng
hoa, tình yêu được bền vững. Và điều quan trọng họ tìm thấy ở đó ý nghĩa cuộc
sống của đời mình.
Qua khảo sát sơ bộ 8 tiểu thuyết, chúng tôi nhận thấy có tới 48 lần nhà văn
miêu tả cảnh sex trong tổng số 21 mối quan hệ. (Cụ thể: Hồ sơ một tử tù 3/2; Bên
dòng sầu diện: 4/4; Kín: 9/5; Hoang tâm 5/1; Phiên bản: 10/4 và nhiều nhất là
Nháp: 17/5). Như vậy số lượt miêu tả sex có tần suất khá lớn so với các mối tình
trong tác phẩm và được miêu tả với hai hình thức gián tiếp và trực tiếp. Nó có tác
dụng nhất định cho việc xây dựng chân dung nhân vật nữ của nhà văn. Chính vì
vậy, bạn đọc thấy được sự trau chuốt, lựa chọn cẩn thận thậm chí là yêu cầu đến
mức khắt khe trong việc dùng từ, sử dụng hình ảnh của nhà văn để sex không thô
tục, không tầm thường, để sex là sự tồn tại của cuộc sống.
Trong tác phẩm Hồ sơ một tử tù, hai người đàn bà Dịu và Nhung với tình
yêu và những cảm xúc ngọt ngào đã đem lại cho Đàn một sức mạnh tinh thần
kì diệu để Đàn đi hết hành trình số phận của mình mà vẫn giữ được lương tri
thẳm sâu trong hình hài của một tử tù.
Dịu yêu và trao tấm thân ngọc ngà, trinh trắng của mình cho Đàn khi
Đàn chưa bước chân vào thế giới của tội ác. Nên với Dịu đó là giây phút thiêng
liêng, giây phút thật đẹp, thật ý nghĩa khi cô được trao cái quý giá nhất của đời
người con gái cho người mình yêu. Với việc mượn hình ảnh “bóng trăng”,
42
những giây phút trao gửi tình yêu bằng cơ thể được ẩn mình một cách tế nhị,
kín đáo và vì thế việc quan hệ tình dục của Dịu và Đàn đẹp vẻ đẹp thuần khiết,
tinh khôi như vừa khám phá được một thế giới mới đầy hoa thơm, của lạ ở một
nửa kia của đời mình: “Bóng trăng rửa sinh khí trai tráng trong Dịu để trở
thành đàn ông từ hôm ấy. Bóng trăng yêu Dịu cuồng nhiệt, phủ lên người Dịu
những cái hôn lửa đốt, những dập dềnh sóng lũ, những lắng dịu êm ái, những
rì rầm yêu đương, cả chút bạo liệt, băm bổ. Sau những cái giây phút thẹn
thùng ban đầu, Dịu dần trở nên chủ động hòa quyện vào bóng trăng. Da thịt
Dịu mát lịm, hút chặt lấy thân nhiệt hừng hực của bóng trăng. Cơ thể bóng
trăng bỏng rẫy” [61, tr.115]. Và cảm giác dịu ngọt đầu đời ấy với Dịu không
phải là khoảnh khắc thoảng qua để rồi mau chóng chìm vào quên lãng mà nó
đã theo suốt cuộc đời Dịu, để Dịu sống trong sự khắc khoải, đợi chờ người yêu
trở về dù là trong vô vọng.
Nguyễn Đình Tú không chỉ dừng lại ở việc miêu tả sex để giải trí, mua
vui mà luôn gửi gắm sau đó là hoàn cảnh, số phận của nhân vật. Tình yêu và
xác thịt mà Nhung dành cho Đàn không nhuốm màu trăng lãng mạn, bay bổng
như Dịu. Nó đơn giản và đời thường hơn khi chỉ là những cuộc giải tỏa sinh lý
triền miên trong nỗi khốn cùng của kẻ đang phải trốn chạy. Người đàn bà ấy có
lẽ cũng yêu Đàn, cũng tôn thờ bức tượng thần Hy Lạp nằm bên mình mỗi đêm
mà không biết rằng khát vọng vợ chồng chẳng bao giờ có thể đạt được. Nhung
được giới thiệu là cô gái làng chơi có nhan sắc, vì hoàn cảnh mà dạt về bãi đào
vàng Lũng Sơn và trở thành món hàng hóa trao đổi giữa các nhóm đào vàng.
Những lời tâm sự của Nhung với Đàn đã hé lộ cuộc đời nhiều nỗi đau và nước
mắt của cô. Hình ảnh của Nhung vì thế luôn gắn liền với sự thanh khiết, thánh
thiện bên cây thánh giá và những đóa hoa mân côi chứ không phải là một gái
điếm mạt hạng, bệnh tật… ngay cả khi cô phải sex với lũ đàn ông mà cô luôn
ghê tởm hoặc coi đó là nghĩa vụ: “Nhung đã chấm hết tuổi con gái của mình ở
tuổi mười ba. Sau khi mẹ Lan chết bởi bệnh tim bẩm sinh quái ác, Nhung bị
ông bố nuôi râu xồm đánh cướp lạc thú làm người ở cái tuổi mà cơ thể chưa
43
được Chúa vẽ lên những vệt mực tàu cần thiết. Đôi mắt luôn ngước lên của
Nhung không tìm được sự lý giải nơi trần nhà lúc nào cũng vàng vọt ánh nê-
ông, đã phải khép mi lại thả trôi theo dòng nước. Nhưng dòng nước cũng chả
nỡ giết hại một đứa trẻ đẹp đẽ như Nhung nên đã trả Nhung về với vạn chài
nhỏ nép mình nơi cửa sông. Những người đàn ông ở vạn chài tìm thấy ý nghĩa
của tạo hoá ở Nhung nên họ nuôi cô để lấy thân xác cô chứ không cần đôi mắt
ngước lên thánh thiện, trước mỗi mùa giông bão” [61, tr.160].
Ở Bên dòng Sầu Diện, sex xuất hiện trong tình yêu và sự trao gửi thân xác
một cách bất ngờ, tự nhiên, đầy bản năng của Mến, người con gái đang ở tuổi
mười chín, đôi mươi. Tình cảm chợt đến trong khoảnh khắc thời gian thật ngắn
ngủi, nhưng tâm hồn cảm xúc lại rung động, trào dâng đến mãnh liệt. Mến có
cảm tình với người đàn ông chưa từng gặp mặt (Nguyên Bình) ngay từ cái nhìn
đầu tiên. Và khi con tim đã rung động, Mến cũng không cần ép cảm xúc của
mình. Cô sẵn sàng trao gửi và cũng để nhận về những cảm giác ngọt ngào của
lần đầu được yêu từ con người khác giới.
Tình yêu đi liền với tình dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được miêu
tả như một nhu cầu tự nhiên, một phần tất yếu của cuộc sống, động lực thúc
đẩy con người hướng về điều tốt đẹp, nuôi dưỡng những tình cảm trân quý về
nhau. Nhân vật Duyên trong tiểu thuyết Nháp hiện thân của con người chuẩn
mực trong suy nghĩ, dâng hiến trong tình yêu, thuỷ chung trọn nghĩa trong tình
bạn. Điều đáng trân trọng là trong khi tất cả chạy theo dục vọng, đê mê trong
cảm hứng sắc dục thì Duyên chỉ hiến dâng và chung thuỷ. Đọc Nháp, ta thấy có
những đoạn nhà văn miêu tả cảnh ái ân, hoan lạc của Duyên và Đại thật sự là
những khoảnh khắc rất “người”. Đó là cảnh Duyên trao cái quý giá nhất của
đời người con gái cho Đại trong lần đầu tiên giao hợp. Từ không gian gợi tình
đưa đẩy đến những biểu hiện khát khao dâng hiến cho tình yêu, tất cả hiện lên
thật hài hòa:“Gió mơn man da thịt. Bên thì mở lòng, bên thì tò mò, mong mỏi.
Thế là những nụ hôn trao nhau. Thế là những chiếc cúc bật tung. Đại ơi,
Duyên sợ lắm! Sợ gì? Đau! Không đau đâu. Thế là người phủ lên người, da thịt
44
phủ lên da thịt, hoàng hôn phủ lên hoàng hôn. Cả đám hoa dạ thảo ven hồ nát
bấy dưới hai thân hình căng tràn sức thanh xuân” [63, tr.114]. Từ phút thăng
hoa, khoái lạc ấy, cả Duyên và Đại đều cảm thấy hân hoan trong lòng. Cùng
với sự biến đổi về mặt tâm lý là cả một sự thay đổi lớn đang diễn ra bên trong
tâm hồn của cả hai người. Nguyễn Đình Tú thật tinh tế và tỏ ra thấu hiểu tâm
lý nhân vật khi nói lên những cảm xúc của họ: “Cả hai đều cảm thấy có một
cái gì đó đang nứt ra trong mình. Những bước chân đầu tiên thật ngượng ngạo,
khắp da thịt đâu cũng thấy tê tê giần giật, cảm xúc dâng lên trái chiều và căng
cứng, vừa thích thú vừa e ngại, vừa trống rỗng vừa bồi hồi” [63, tr.115].
Tới Phiên bản, sex thực sự đã trở thành một chất kích thích để con người
được yêu đúng với bản năng tự nhiên mang tính bản thể. Cũng chính nhờ sex
với những giây phút nồng nàn chăn gối để bản tính lương thiện, hiền hòa nhất
trong con người trở về. Bản năng tình dục ở Phiên bản “kín đáo, đớn đau, nhễ
nhại và có gì đó thẳm sâu”. Hương Ga - nữ hoàng của thế giới ngầm kia có tàn
ác và bạo ngược đến đâu thì trong chuyện tình cảm, bản năng làm đàn bà vẫn
lấn áp đi mọi thứ, ngự trị ở nơi đó không có sự tranh giành, đua chen mà chỉ
còn hai chữ tình yêu cho dù tình yêu ấy chỉ chứa đựng khát khao của nhục thể
và đôi khi muốn tìm một chỗ vịn trong cuộc đời. Hương Ga luôn hi vọng Hưng
mã sẽ là bến bờ hạnh phúc của cuộc đời cô. Vì thế cô đã yêu hết mình và tận
hưởng những giây phút thăng hoa cùng Hưng mã mà không hề suy nghĩ, đắn
đo: “Hưng dẫn em đi qua miền cực lạc của trai gái, của cuộc sống bụi đời, của
những ngày tháng đứng bãi, của những mộng mơ mê đắm đầu đường xó chợ”
[64, tr.151]. Nhà văn Nguyễn Đình Tú đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để đưa
người đọc đi đến tận cùng cảm xúc của nhân vật khi tình yêu được thăng hoa
bằng sex: “Nào là đàn sẻ ri bay qua người em. Nào là mặt trăng phủ ánh vàng
lên người em. Nào là ông mặt trời chiếu ánh nắng gắt lên làn da em. Nào là
đức Phật hiện ra đưa em về miền cực lạc. Nào là những con rết thả nọc độc vào
các mạch máu em. Bức họa bì mang lại cho em tất cả cảm giác ấy” [64, tr.156].
Với lối văn miêu tả sex gián tiếp và những hình ảnh ví von so sánh, Nguyễn
45
Đình Tú đã tạo được cảm nhận mang tính thẩm mĩ về sex và yêu trong lòng
độc giả.
Với Tùng, Hương (ga) mới thực sự tìm được sự hòa nhịp của trái tim,
của tâm hồn, của sự dâng hiến và trao nhận từ một người khác giới. Tùng hê rô
đã đem đến cho nữ chúa giang hồ một tình yêu gắn liền với những pha giao
hợp vợ chồng đầy đằm thắm, dịu dàng, nâng niu, trân trọng. Tùng đã thỏa mãn
được khát vọng một lần lên xe hoa với đúng nghĩa của một người phụ nữ. Vì
thế, đọc những đoạn văn miêu tả cuộc làm tình của Tùng hê rô và Hương ga dù
trong máu, trong những thao thức, giật mình, sợ hãi nhưng vẫn chứa đựng
những cảm xúc đặc biệt vừa có sự êm ái, dịu ngọt, vừa có sự ngưỡng mộ, tôn
thờ và quả thật nó đã sưởi ấm và vá lại những mảnh rách vụn trên thân thể và
tâm hồn của thị.
Lấy văn hóa dân gian làm cảm hứng cho những sáng tạo trong sex,
Nguyễn Đình Tú đã miêu tả hình ảnh người phụ nữ khi yêu trong quan hệ với
sex một cách khéo léo. Đó là cuộc thác loạn của Quỳnh vào đúng sinh nhật tuổi
hai mươi - một cái tuổi lẽ ra phải căng tràn hoài bão thì cô lại cùng đám bạn tổ
chức buổi lễ “linh tinh tình phộc”: “Khỉ không còn biết mình là ai và không nhớ
nổi bất cứ điều gì nữa kể từ khi tấm vải điều trên đầu rơi xuống và những mảnh
áo giấy lần lượt bị giật ra khỏi người. Chó cắn, Lợn cào, Hổ vồ, Gà mổ, Ngựa
đá, Rồng lượn, Rắn bò, Trâu húc, Chuột gặm, Mèo vờn...Cảm giác nóng bỏng,
căng cứng làm Khỉ như muốn bốc thành ngọn lửa thiêu cháy hết tất cả mọi thứ
xung quanh. Bất cứ con giáp nào đến với Khỉ cũng nhận thấy xúc cảm mạnh
mẽ đang dâng trào mãnh liệt từ phía sau tấm mặt nạ vô hồn kia. Chó - Mèo
lăn xả vào nhau cùng với thứ âm thanh nồng nàn ma quái hắt ra từ hai chiếc
loa thùng để ở góc nhà. Rồng - Rắn cũng quấn lấy nhau, rập rình theo điệu
chầu văn da diết” [65, tr.429-430]. Đọc những đoạn văn miêu tả cảnh sex đầy
máu lửa, nổi loạn mà nhân vật chính lại là một cô gái mới tròn 20 tuổi, người
đọc không khỏi giật mình sợ hãi trước sự sa đọa về giá trị đạo đức nhưng cũng
không khỏi xót thương cho số phận của một người con gái dùng sex để giải tỏa
nỗi cô đơn trong tâm hồn.
46
Sex còn được Nguyễn Đình Tú miêu tả gắn liền với quan niệm tôn giáo.
Đó là nhân vật Son Phấn - cô gái điếm người Mụ - trong tiểu thuyết Hoang tâm
với khát khao chứng minh mình còn mầm dục. Với Son Phấn, tình yêu chỉ tồn
tại khi con người cô còn mầm dục. Son Phấn đã chủ động gợi hứng dục ở
người đàn ông mà cô lựa chọn một cách kiên trì và bằng nhiều hình thức khác
nhau, có khi là dâm ngôn: “Thường thì cái này khi không cương lên được,
trông rất buồn cười, thậm chí xấu xí, nhưng của anh lại rất hấp dẫn, không
mềm nhũn, không vẹo vọ, cũng không co rụt lại như mẩu thịt thừa thảm hại”
[66, tr.101], có khi là khẩu ngôn: “Lưỡi cô mềm và ấm. Miệng cô ẩm ướt và
kích thích” [66, tr.106], có khi là sự đê mê khi hai cơ thể hòa vào nhau trong
những lần giao hợp đầy hứng khởi: “Ấm nóng tràn trề. Ôm ấp khít khao. Nhấp
nhổm tưng bừng. Vào ra đều nhịp. Pháo hoa nở trong thớ thịt. Dòng điện chạy
khắp đường gân. Anh tìm thấy mình hùng hổ trong ánh mắt tê dại của Son
Phấn. Son Phấn cũng đang trở nên nhảy múa loạn xạ trong cái nhìn đờ đẫn
của Anh” [66, tr.193]. Cách miêu tả sex của nhà văn vừa táo bạo, trần trụi
nhưng cũng đầy hình ảnh, và rất nhân văn. Ở đây, sex vừa là nhu cầu bản năng
không thể thiếu của con người, nhưng cũng là chất men để nuôi dưỡng tình yêu
và niềm tin vào cuộc sống. Quả thật, sex với Son Phấn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, cô cần nó, và nhờ nó cô mới chứng minh được sự tồn tại của mình, sex
với cô chính là tình yêu, là cuộc sống, là bản thể duy trì dòng tộc của người
Mụ mà cô có trách nhiệm phải bảo tồn và duy trì.
Có thể nói với bản lĩnh của mình, Nguyễn Đình Tú đã không ngần ngại
khi chạm ngòi bút vào vấn đề rất nhạy cảm - vấn đề sex. Điều quan trọng, nhà
văn đã khéo léo dùng sex để lí giải một cách đầy nhân văn khát vọng yêu và
kiếm tìm hạnh phúc của người phụ nữ. Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú,
người đọc không khỏi trăn trở về con đường mà nhân vật nữ lựa chọn để được
yêu và được hạnh phúc. Tại sao người ta dễ chấp nhận khi người phụ nữ cam
chịu hi sinh hạnh phúc của riêng mình vì người khác, nhưng lại rất khó chấp
nhận một người phụ nữ dám sống cho mình, dám bộc lộ khát vọng yêu với bản
năng sex? Ở đây, nhà văn đã miêu tả hình ảnh người phụ nữ dám từ bỏ những
47
mặc cảm, tự ti, những rào cản trong tâm lí chung của xã hội để được yêu và
hạnh phúc theo cách của riêng mình. Nhà văn luôn dành nhiều sự cảm thông,
xót thương, trân trọng những khát vọng sex rất tự nhiên, đầy bản năng khi yêu
của người phụ nữ và khẳng định họ có quyền được hạnh phúc, có quyền được
sống là chính mình.
2.3. Nhân vật nữ với hoàn cảnh sống đầy bi kịch thời hiện đại
Khi đánh giá về đặc điểm các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú, Việt Quỳnh cho rằng: “Các nhân vật trong tiểu thuyết của anh có thể từ
cuộc sống bước vào, cũng có thể là do anh sáng tạo ra, nhưng tựu trung, họ
luôn mang nhiều bi kịch. Không đau đớn về thân thể cũng là tâm hồn, không
thương tích trên người thì cũng thương tích về ký ức. Điểm giống nhau nữa,
các nhân vật dù vẻ bề ngoài gai góc, thì bên trong vẫn mang cái âm tính giàu
lãng mạn chất nữ, hay chiêm nghiệm, ưa phán xét, giải thích” [47]. Tìm hiểu
thế giới nhân vật, đặc biệt là các nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Đình
Tú, dù là nhân vật được hư cấu hay nhân vật lấy từ nguyên mẫu đời thật, họ
đều phải đấu tranh cho sự sinh tồn một cách đau đớn và thậm chí trong quá
trình đấu tranh đó còn bị tước đi cả tính nữ.
Bằng một trái tim nhạy cảm và một tấm lòng luôn đau đáu trước những
mảnh đời bất hạnh, Nguyễn Đình Tú đã biến những con người rất đỗi bình
thường của cuộc sống trở thành những hình mẫu trong văn học, họ đại diện cho
những người phụ nữ Việt Nam thời kì hiện đại biết ước mơ, khát vọng nhưng
lại dễ sa ngã trước cạm bẫy của cuộc đời. Hành trình những người phụ nữ đấu
tranh, không chịu chấp nhận số phận đã an bài cũng chính là hành trình tự suy
ngẫm của mỗi con người.
2.3.1. Thiên tính nữ tiềm ẩn trong chân dung kẻ tội phạm
Khi viết về người phụ nữ, ngòi bút nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú đã đi
sâu vào nội tâm nhân vật để nhìn nhận, khám phá bản chất nữ tính của họ.
Ngay cả khi nhà văn đặt nhân vật vào vị trí bá chủ thế giới ngầm, thế giới
của tội phạm, của cái ác thì bản tính nữ vẫn le lói đâu đó trong con người
48
họ. Diệu là một minh chứng điển hình. Mười sáu tuổi, Diệu đã có những
giây phút xao lòng trước những tình cảm mà Nhân dành cho cô. Đó là
những rung cảm đầu đời của một người con gái mới lớn.Và những rung
cảm đầu đời ấy là những phút giây đẹp, đầy ý nghĩa theo suốt tâm hồn cô
ngay cả khi cô đã trở thành bá chủ thế giới giang hồ. Bản tính nữ khiến
Diệu luôn bị ám ảnh bởi sự kiện kinh hoàng xảy đến trong cuộc đời cô sau
lần vượt biên không thành, cô luôn tự thấy mình không còn xứng đáng với
Nhân. Cô cũng sẵn sàng giúp đỡ một người bạn (Mỹ) khi thấy bạn gặp khó
khăn mặc dù mình cũng chẳng hơn gì. Là phụ nữ, Diệu cũng như bao cô gái
khác thích nhẹ nhàng, dịu dàng, thích được nghe những lời mật ngọt, thích
được khen, được nịnh khéo… vì thế mà cô đã từng chết mê chết mệt với
những lời lẽ có cánh của Hưng mã để rồi chính những lời lẽ có cánh kia đã
đưa cô sa vào con đường tù tội. Diệu dễ dàng tha thứ cho cái kẻ “chẳng ra
gì” sống bằng nghề trộm cắp hết lần này đến lần khác kể cả khi cô bị chính
Hưng lợi dụng đẩy vào tù và bỏ rơi suốt khoảng thời gian hai năm trong
trại. Bản chất nữ tính ở Diệu còn là yêu hết mình và khát khao có một mái
ấm gia đình, mong Hưng có người thân và được người thân chấp nhận
mình. Với Tùng hê rô, người chồng danh chính ngôn thuận, cô không chỉ
dành cho Tùng tình yêu của một người vợ mà còn có sự cảm phục, mong
ước được chia sẻ những khó khăn, nguy hiểm cùng chồng. Có những khi
Diệu cũng thật sự yếu mềm, cái yếu mềm mang bản tính nữ. Diệu đau đớn,
xót xa tưởng như không thể đứng dậy được khi chồng chết.
Đặc biệt khi Diệu trở thành bá chủ thế giới ngầm với cái tên Hương
Ga, một nữ hoàng đen, một siêu giang hồ, ta vẫn thấy le lói đâu đó bản chất
nữ tính trong con người chứa đầy tội ác này. Dù hành động nhanh gọn,
quyết liệt, táo bạo, mưu mô thâm độc, kế sách vẹn toàn, quyền uy, có vòng
trong, vòng ngoài bảo vệ thì thị cũng không tránh được cảm giác cô độc và
những lúc ấy thị cũng ao ước, cũng khát khao như bất kì người phụ nào là
có một đứa con để được chăm sóc, bồng bế và tâm sự buồn vui. Chia sẻ về
49
tác phẩm Phiên bản của mình, nhà văn từng nói “Cái ác không phân biệt
đàn ông hay đàn bà nhan sắc hay không nhan sắc để mà trú ẩn nương náu
tồn sinh và phát tác” [26]. Trong thời đại các giá trị thay đổi, thậm chí đã
đổ vỡ, cái ác xâm nhập vào cuộc sống và ngự trị tâm hồn con người không
kể họ là nam hay nữ. Nhưng cách mà nam hay nữ phạm tội dường như vẫn
có những khác biệt nhất là ở người phụ nữ. Phải chăng, đó là “Tội ác mang
khuôn mặt đàn bà”? Bởi đằng sau những việc ác mà họ gây ra, dù có lạnh
lùng, quyết liệt thì vẫn ẩn chứa những nỗi niềm, suy nghĩ rất nữ tính.
Chẳng hạn hành động trả Hồng sư tử cho Lân sói của Hương Ga, xét một
cách tổng quát và quan sát từ bên ngoài thì quả thực là một hành động rất
dã man, khiến bọn Lân sói và những đối thủ khác của thị cũng phải nể sợ.
Nhưng đi sâu vào bản chất, người đọc lại thấy trong cái ác đó vẫn có lương
tri của một con người vốn lương thiện, thương người, dù tay đã nhuốm
chàm nhưng trong từng hoàn cảnh Hương Ga vẫn khôn ngoan tìm cách để
đôi bàn tay ấy bạo nhưng không tàn, ác nhưng không độc. Thực ra cái xác
đó không phải là Hồng “sư tử”. Thị chưa ác đến mức đi giết người vô lối
như vậy. Thị xin Lân hai ngày là để có thời gian vào các nhà xác bệnh viện
tìm mua một xác chết vô thừa nhận. Thị vẫn tìm một chỗ cho tâm hồn mình
nương náu: “… thị thắp hương khấn vái, xin xỏ hẳn hoi. Sau đó thị còn cho
người tìm ra manh mối gia đình của người chết, trả họ một khoản tiền lớn.
Coi như thị đã sòng phẳng “mua” cái xác đó với một cái giá đủ để người
nhà của họ phần nào đỡ đần cuộc sống, còn thị khỏi mang tiếng ác và
không lấy đó làm điều phải ăn năn day dứt” [64, tr.328].
Có thể nói, bằng việc phát hiện và đưa những biểu hiện nữ tính vào
khắc họa chân dung nhân vật nữ trong thế giới tội phạm của mình, Nguyễn
Đình Tú đã thể hiện một góc nhìn riêng đậm tính nhân văn. Bạn đọc bắt
gặp ở đó sự cảm thông và thấu hiểu của một người từng trải và am hiểu tâm
lý tội phạm. Đọng lại trong tâm hồn độc giả vẫn là khát vọng muôn thuở
của con người, được trở về với chính bản thể thuần lương trong trẻo của
mình dù dòng đời có đẩy họ đến với vị trí của siêu nữ giang hồ.
50
2.3.2. Quá trình đấu tranh để sinh tồn đầy bi kịch
Các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú hầu hết là những con
người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc mồ côi, hoặc bị lạc cha mẹ từ nhỏ, hoặc phải
lang thang kiếm sống… bị đẩy xuống dưới đáy của xã hội. Để được sống họ
phải giành giật từng miếng cơm, manh áo, bằng mồ hôi, công sức, máu, nước
mắt, bằng những thủ đoạn, thậm chí là cái chết mà vẫn không thể tìm được một
nơi trú ngụ yên ổn. Hoàn cảnh cuộc sống đã biến họ trở thành những mảnh đời
tội lỗi. Và cũng chính hoàn cảnh sống ấy đã nghiệt ngã hình thành trong họ
những bản năng sinh tồn, kĩ năng tự vệ khác thường.
Trong Hồ sơ một tử tù, nhân vật Nhung một cô gái theo Đạo thiên chúa,
tâm hồn thánh thiện nhưng số phận đầy bất hạnh. Cô bị bắt cóc lên thành phố
khi mới 6 tuổi:“Tuổi thơ của Nhung chỉ có 6 năm, còn lại là cuộc đời đầy đau
khổ. Nhung bị ông bố nuôi râu xồm đánh cướp lạc thú làm người ở cái tuổi mà
cơ thể chưa được chúa vẽ lên những vệt mực tàu cần thiết” [61, tr.159]. Để
quên đi thực tại cô đã lựa chọn con đường giải thoát bằng thả trôi mình theo
dòng nước. Nhưng dòng nước đã trả cô về với làng vạn chài bởi số phận chưa
cho cô đoạn tuyệt với đời. Ở đây, những người đàn ông vạn chài nuôi cô để lấy
thân xác cô. Cô lại một lần nữa đấu tranh để được sinh tồn bằng việc tháo chạy
lên bờ và tìm về ngôi làng cô sinh ra. Nhưng đường về của cô cứ dài và xa mãi,
chỉ dằng dặc những đàn ông và cô chấp nhận sự an bài khi con đường dẫn cô
đến bãi vàng Lũng Sơn. Để sinh tồn, cô đã dùng cái thứ vũ khí duy nhất, ấy là
“bản năng giới tính” và trở thành “con bớp không có tuổi”. Ở bãi vàng Lũng
Sơn, cô bị người ta trao đi đổi lại, bán qua tay hết trại này đến trại khác, qua
biết bao tay bọn đàn ông. Cô phải trang bị cho mình kĩ năng quan trọng nhất để
tồn tại ở chốn ngổn ngang, cắn xé, chém giết, tranh giành nhau từng hạt cám
vàng ấy là “kinh nghiệm chăn gối của một gái giang hồ”. Những tưởng khi gặp
Đàn, cuộc đời của người con gái bất hạnh ấy sẽ mở ra một lối thoạt, một chút
ánh sáng, một tia hi vọng nhưng nó lại rơi vào bi kịch khi Đàn người mà cô tôn
thờ, sau này là chồng là cha đứa con chưa được sinh ra ấy lại là một tên tử tù
51
đang bị truy nã. Cuộc sống ở bãi vàng Lũng Sơn của cô lại rơi vào những tháng
ngày phấp phỏng lo âu, sợ hãi. Nhưng dù sợ hãi, cô vẫn phải sống, vẫn phải
sinh tồn, cuộc đời cô trải qua bao nhiêu nỗi đau nên cô “không phải là người dễ
khóc” và “Sự đời đã làm cho Nhung trở nên chai cứng” [61, tr.169]. Những bi
kịch đổ xuống cuộc đời Nhung là những thử thách khắc nghiệt mà số phận ban
cho cô, buộc cô phải trở nên chai lì, luôn biết và chủ động đợi “một kết cục
không hay ho gì tất yếu sẽ đến với cả hai đứa” [61, tr.169] đó là khả năng tự
bảo vệ mình duy nhất mà Nhung có được để tồn tại trong cuộc sống này.
Đề tài viết về chiến tranh trong văn học sau 1986 có phần lắng xuống
nhưng vẫn không bao giờ hết hấp dẫn. Với tư cách là nhà văn trẻ của quân đội
Nguyễn Đình Tú đã viết về đề tài này với Bên dòng Sầu Diện qua góc nhìn mới
về chiến tranh của giới trẻ. Tác phẩm tố cáo, lên án chiến tranh, kẻ thù tàn bạo
nhất trong lịch sử nhân loại đã gieo xuống mảnh đất nhỏ bé này biết bao đau
thương mất mát. Không chỉ những người trực tiếp tham gia chiến đấu phải
gánh chịu hậu quả mà nó đeo đẳng và ảnh hưởng đến biết bao thế hệ ngay cả
khi chiến tranh đã kết thúc. Thật thương tâm khi đọc những đoạn văn viết về
hậu quả của chiến tranh mà những đứa trẻ vô tội như bé Ly phải gánh chịu.
Con bé xinh xắn, thông minh nhưng lại bị chiến tranh gắn cho cái số phận bi
kịch: “Nếu bố nó là một giọt buồn rớt xuống cuộc đời này thì nó chẳng qua
cũng là một giọt buồn phiên bản mà thôi” [62, tr. 246]. Mẹ cô bé trước khi lấy
cha là một gái điếm, đã bỏ hai cha con Ly ra nước ngoài khi tìm thấy chồng cũ.
Cô bé sống trong nỗi buồn cô đơn. Nhưng đau đớn hơn, cô bé lại mắc phải căn
bệnh quái ác mà tội phạm là chiến tranh: cô bé nhiễm chất độc da cam. Hình ảnh
Ly chống chọi với số phận, giành giất lấy sự sống trong những cơn đau đớn đến
tột cùng không khỏi làm cho ta xót xa, đau đớn. Nhưng vượt lên trên hết vẫn là sự
khâm phục một tâm hồn trẻ thơ đã bằng ý chí, bằng niềm hi vọng và dùng tất cả
sức lực cuối cùng để viết lên câu chuyện về một cuộc chiến đấu trong tưởng tưởng
giữa những chú chó ở Đầm Gâu. Cuộc chiến cam go, khốc liệt nhưng cuối cùng
những chú chó ở Đầm Gâu đã chiến thắng. Cuộc chiến của những chú chó ở Đầm
52
Gâu có lẽ cũng chính là cuộc chiến mà Ly đã, đang và sẽ chống lại số phận và đến
khi cô bé trút hơi thở cuối cùng cô vẫn mang theo một niềm tin, hi vọng vào sự
chiến thắng của con người trong cuộc sống này.
Trong Nháp, tuy nhân vật chính của tiểu thuyết này không phải là nữ,
nhưng theo bước chân đi kiếm tìm hồi ức của Đại, người đọc bắt gặp bóng
dáng, số phận của những cô gái giang hồ như Thảo “một vé”. Cuộc sống mưu
sinh đưa cô vào nghề gái gọi. Để tồn tại cô phải luôn chịu sự rình rập, chèn ép
của những tay bảo kê, phải sống một cuộc sống chui lủi, không bao giờ tìm
được bến đỗ cuộc đời.
Quá trình đấu tranh để sinh tồn của con người được Nguyễn Đình Tú đặt
ra khá rõ nét ở nhân vật Diệu. Sau cái chuyến vượt biên định mệnh, Diệu trở về
mảnh đất nghèo nơi ngã ba sông để kiếm sống bằng những trò lưu manh vớ vẩn
ở bến xe, bến tàu. Ngã ba sông, nơi cái ác đang ngự trị thì để tồn tại “trai gái
đều phải thành nghịch tặc cả” [64, tr.68]. Diệu đã xác lập ra chân lí và nguyên
tắc sống: “chân lí thuộc về kẻ mạnh” hoặc mình sống hoặc là bị người khác
giết. Con người phải tìm mọi cách để tự bảo vệ, tự khẳng định thế mạnh của
mình, chỉ có thể ai đó bị chết, bị đánh đập chứ nhất định không phải là mình.
Để chứng minh cho quá trình đấu tranh tồn tại không hề vô nghĩa, Diệu phải
luôn khẳng định mình là kẻ mạnh, kẻ đứng trên vạn người vì thế theo thời gian,
Diệu lún sâu vào nhuốc nhơ, vào tội lỗi mà không thể thoát ra. Hay cũng trong
Phiên bản, Mỹ chột người bạn thuở nhỏ của Diệu cũng trải qua quá trình đấu
tranh để sinh tồn một cách khốc liệt. Thời kỳ cùng Diệu ra chợ bán hương kiếm
sống qua ngày, Mỹ chột có ngoại hình bé nhỏ, yêu đuối với dáng vẻ nép vào
sau Diệu run rẩy, sợ hãi, cúi đầu không dám phản ứng trước sự chanh chua, ác
độc của mụ béo. Rồi cũng theo thời gian, để có thể sinh tồn Mỹ đã trở thành
Mỹ chột với bản lĩnh của một giang hồ máu lạnh, cùng Hương ga (tức Diệu)
xây dựng một đế chế riêng của mình bằng máu, bằng chém giết, bằng tội ác.
Tới Kín, nhà văn muốn nói đến một sự sinh tồn không chỉ mang nghĩa
sống - tồn tại mà nó hướng tới một sự tồn tại mang ý nghĩa nhân văn, đó là sự
tồn tại có ý nghĩa cả về thể xác lẫn tâm hồn. Những đứa trẻ đã không hẹn mà
53
hội ngộ tại nhà ga Hải Thành bởi chúng đều có hoàn cảnh bất hạnh, bi thương.
Chúng đùm bọc, chở che cho nhau, cùng nhau chiến đấu trong vùng sinh kế
với nhóm các đàn anh đàn chị trong một toa tàu và hình thành nên nhóm Toa
tàu. Không chỉ chiến đấu, chúng còn phải vùng vẫy, dãy giụa trong cái vòng
tròn mang tên số phận để giành quyền sống cho chính mình. Và mỗi đứa trẻ ấy
đã lựa chọn những cách khác nhau để chống lại số phận của mình. Trong Kín,
người đọc luôn bị ám ảnh bởi những đứa trẻ phải tự mình đấu tranh để giành
lấy sự sống khi còn quá nhỏ. Để đến khi trưởng thành về thể xác thì lại bị
khiếm khuyết về tinh thần mà không gì bù đắp nổi. Đáng thương nhất là hình
ảnh của những cô bé gái bị hất văng ra khỏi mái ấm gia đình và rơi vào một thế
giới với ngồn ngộn những khó khăn, những hiểm ác, chúng vẫy vùng đấu tranh
nhưng không thoát khỏi thân phận của kiếp bụi đời.
Đó là Phương - một cô gái vốn xuất thân tiểu thư đài các, phổng phao
xinh đẹp lại dậy thì sớm hơn các bạn cùng trang lứa. Sự sinh tồn của cô là đấu
tranh để quên đi quá khứ đau buồn do lão bố dượng “dâm dê” để lại, là không
phải đối mặt với người mẹ mang trong mình sự hối lỗi. Mới 13 tuổi, cô bị trầm
cảm vì thường xuyên bị cha dượng ép phải làm việc ấy. Bị dồn nén đến phát
điên, cô đã vùng lên đấu tranh để giành lấy sự sống của mình bằng cách giết
chết lão bố dượng bỉ ổi kia rồi ra nhập nhóm Toa tàu. Ở đó, để tồn tại Phương
đã tìm cho mình cách kiếm tiền hèn hạ nhất là “làm phò”, một công việc “cũng
chẳng có gì ghê gớm. Lần đầu tiên thì hơi đau một tí nhưng rồi thì cũng như
người ta sờ nắn, xoa bóp, tẩm quất cho mình thôi, thoải mái lắm” [65, tr.187].
Chính những suy nghĩ giản đơn ấy đã đưa Phương ngày càng sa lầy vào cuộc
sống giang hồ. Nhưng lúc đó ai biết đâu rằng: “Tất cả đều đang ra sức kiếm lấy
cái ăn bỏ vào mồm. Tất cả đều vô phương hướng trong cuộc sống. Tất cả đều
không nghĩ đến ngày mai. Tất cả chỉ là một lũ thú hoang, coi thường mọi giá
trị làm người. Bởi có ai hiểu được những giá trị đó đâu” [65, tr.133]. Cuộc
sống buộc cô bé phải bản lĩnh, lì lợm, chai sạn mà đối đầu với đủ mọi loại
người, đủ mọi thủ đoạn. Kết quả của quá trình đấu tranh ấy là một tâm hồn
trống rỗng, thân thể tàn tạ, héo úa.
54
Tiêu biểu hơn cả cho quá trình đấu tranh để sinh tồn nhưng rơi vào bi
kịch là nhân vật Quỳnh (Kín). Cô bền bỉ đấu tranh nhưng quá trình đấu tranh ấy
luôn bị đứng trước bờ vực, giao tranh giữa một bên là tâm hồn, tính cách của
một người con gái với một bên là bản tính của một kẻ khác mà ngay đến bản
thân Quỳnh cũng không thể lí giải. Ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, Quỳnh
đã có những biểu hiện của sự đấu tranh để sinh tồn bằng việc quẫy đạp, vùng
vẫy thoát ra khỏi cơ thể chật hẹp của mẹ. Mười tuổi, Quỳnh bị lạc mẹ trong
một lần cháy chợ. Để tồn tại, Quỳnh ra nhập băng nhóm “Toa tàu” bằng cái tên
Lửa cháy. Mới mười ba tuổi, Quỳnh đã biết tính toán mọi đường đi nước bước
để có thể thoát khỏi thân phận cô bé bán hàng rong. Đầu tiên là quyết định đi
làm “phò”, sau đó là công cuộc “bán trinh chịu” cho Kiên mà người chủ động
đề nghị là cô. Rồi sau này, khi được cha đón về, được sống trong đủ đầy vật
chất, nhưng cô lại phải tiếp tục đấu tranh để tìm lại ý nghĩa thực sự trong cuộc
đời mình. Kết quả Quỳnh vẫn không thể vượt lên chính bản thân mình, không
thể tự yêu thương lấy thân phận nữ mỏng manh, yếu đuối và luôn cảm thấy sự
vô nghĩa của việc mình có mặt trên cõi đời này. Cô lao vào những cuộc chơi
trác táng và trở thành “Bụi chúa nhỏ”. Vào buổi lễ sinh nhật tuổi 20, sau khi
hoan lạc trong lễ hội lên đồng “linh tinh tình phộc”, Quỳnh ra khỏi “căn phòng
tận thế và quyết định đi khỏi cuộc sống hiện tại - đi khỏi ngôi nhà của mình, đi
khỏi cái nơi Hà Thành xa lạ, tạm bợ, nơi không bù đắp thêm phù sa cho tâm
hồn Quỳnh mà ngược lại, sa mạc hóa, truy nát và bức tử nó” [65, tr.10]. Cuộc
ra đi của Quỳnh chính là sự ra đi để tìm lại chính mình. Liệu Quỳnh có tìm lại
được chính mình hay không, nhà văn vẫn đang để ngỏ. Song chắc chắn rằng, cô
sẽ phải tiếp tục đấu tranh quyết liệt hơn nữa để tìm được sự tồn tại đúng nghĩa
với chính mình trong cuộc sống hiện tại này.
Những bi kịch cứ lần lượt đổ ập xuống cuộc đời của mẹ Nam (nhân vật
trong Xác Phàm) để mẹ phải gánh biết bao nỗi đau khổ, tủi nhục đắng cay. Lấy
chồng mà bên chồng vẻn vẹn có hai mươi nhăm ngày, sinh con thì buồn buồn,
tủi tủi nhận những lời chúc từ mọi người thì cũng là lúc Khợ đánh qua Pháo đài
và người chồng hi sinh tại đó. Đau khổ nhưng người mẹ ấy vẫn kiên cường để
55
sống vì đứa con. Với một người phụ nữ, thì đứa con luôn là niềm vui, hạnh
phúc, và hi vọng trong cuộc sống. Vì thế mẹ Nam phải kiên cường, phải đấu
tranh để vượt qua nỗi đau mất chồng. Nhưng khi nghe tin kết luận của bác sĩ,
con trai mẹ quyết định lên bàn mổ làm cuộc đại phẫu chuyển giới: “Mẹ thẫn
thờ trước những lời phán như kim đâm, dao cứa ấy. Trở về làng, đêm đêm mẹ
ôm chặt Nam vào lòng, nén những tiếng khóc thầm. Nước mắt mẹ nhỏ xuống
đứa con bé bỏng ngây thơ hết đêm này qua đêm khác. Mỗi khi bóng đêm chụp
xuống căn buồng của hai mẹ con là lúc mẹ lại thức dậy, một mình đối mặt với
nỗi thổn thức u buồn. Mẹ nhìn trân trân lên đỉnh màn, không biết phải làm gì
để tránh kiếp nạn khủng khiếp đang rơi vào đúng đứa con của mẹ” [67, tr.18].
Bây giờ, mẹ kiên cường đấu tranh không phải để dành sự sống cho mình mà là
sự sống cho đứa con mẹ yêu thương nhất, một cuộc đấu tranh sinh tồn nhuốm
màu bi kịch.
2.4. Người phụ nữ bị tha hóa bởi hoàn cảnh sống
2.4.1. Những hoài nghi, vỡ mộng
Hoài nghi, vỡ mộng là khi con người luôn rơi vào trạng thái nghi ngờ,
thiếu niềm tin vào mọi người, thậm chí nghi ngờ, và thiếu niềm tin vào cả chính
mình. Họ không dám ước mơ vì sợ sẽ thất bại. Điều này dễ khiến con người rơi
vào trạng thái bơ vơ, không định hướng trong cuộc sống và dẫn tới thất vọng.
Thế kỉ XIX, khi xã hội tư sản ra đời cùng với những tiến bộ to lớn của
khoa học kĩ thuật và những thành tựu văn hóa vật chất, thế giới chứng kiến một
sự thay đổi diện mạo lớn của các nước phương Tây. Nhu cầu về vật chất và tinh
thần của con người cũng thay đổi hoàn toàn. Những biến đổi ấy khiến con
người đặc biệt là giới nghệ sĩ phải nghi ngờ những giá trị mà xã hội tư sản
mang lại: “Tất cả những gì là vững chắc, là lâu bền đều tiêu tan như mây khói,
tất cả những cái gì là thiêng liêng đều bị coi thường và rốt cuộc, người ta buộc
phải nhìn những điều kiện sinh hoạt của họ và những quan hệ giữa họ bằng
con mắt tỉnh táo” [40, tr.420]. Bước vào thế kỷ XXI, khi khoa học kỹ thuật, nền
kinh tế thị trường ngày càng phát triển, ý thức cá nhân của con người ngày càng
56
được khẳng định. Họ nhìn cuộc sống dưới nhiều góc nhìn khác nhau và phát
hiện xã hội càng phát triển thì những mặt trái trong xã hội càng nảy sinh. Con
người đặc biệt là giới trẻ càng mang nhiều biểu hiện của trạng thái hoài nghi,
thất vọng. Điều này cũng dễ hiểu, bởi thế hệ trẻ mang trong mình khao khát
khám phá cuộc sống, tình yêu, cái đẹp. Với họ, ban đầu tất cả đều đẹp một cách
lý tưởng nhưng khi đi sâu khám phá và gắn vào cuộc sống thực tại thì họ nhanh
chóng rơi vào trạng thái hoài nghi và rồi thất vọng bởi thực tại chứa đựng nhiều
bất ngờ. Những gì họ cho là lý tưởng thì nay trở nên tầm thường, những điều họ
cho là tốt thì nay trở nên tồi tàn, cái đẹp đi liền với cái xấu. Tất cả những gì tốt đẹp
mà họ khát khao khám phá thì có thể đều bị phủ nhận. Nếu như họ không vững
vàng, không làm chủ mình để nhận thức rằng đó là quy luật của cuộc sống, của xã
hội để chắt lọc những điều tốt đẹp, sàng lọc và loại bỏ những điều xấu xa thì rất dễ
bị rơi vào trạng thái hoài nghi và vỡ mộng.
Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là Quỳnh, nhân vật nữ chính trong tiểu
thuyết Kín. Quỳnh sinh ra ở vùng quê Hải Thành và quãng tuổi thơ là quãng
thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Quỳnh. Được sống trong ngập tràn niềm vui,
hạnh phúc của ông nội, của mẹ của cha. Những câu chuyện kể về các đời
Thánh Mẫu của ông nội, những câu chuyện lịch sử của mẹ như thổi vào tâm
hồn ngây thơ của Quỳnh một niềm yêu đời, một khát vọng khám phá cái thế
giới đẹp như trong mơ. Nhưng cuộc sống ấy đã nhanh chóng bị phủ một lớp bụi
và nó tích tụ mãi để rồi biến thành một tảng đá lớn đeo vào trái tim của Quỳnh.
Đó là một lần cháy chợ, Quỳnh bị lạc mẹ. Rồi như một sự run rủi được báo
trước, Quỳnh đã gặp những đứa trẻ ở toa tàu. Chính những đứa trẻ có hoàn
cảnh số phận bất hạnh: đứa bỏ nhà, đứa lạc mẹ, đứa mồ côi… đã nương tựa vào
nhau bằng tình thương rất chân thật, rất trần thế. Nhờ đó Quỳnh đã được sống,
nhưng cuộc sống của Quỳnh không còn yên bình, không còn tràn ngập tiếng cười,
niềm vui khi còn ở thành phố Hải Thành xinh đẹp bên mẹ, bên ông nội nữa. Mà
đó là một cuộc sống mới với bao khó khăn, thử thách dành cho một cô bé 13 tuổi
chưa đủ hiểu để có thể dễ dàng vượt qua, sàng lọc tốt - xấu mà chọn lựa.
57
Bây giờ cô có cái tên mới: Cô bé Lửa Cháy. Cuộc sống hiện tại của Lửa
Cháy là bụi đời, là đói khổ, không chốn nương thân. Để không phải đói, phải
khổ, để kiếm miếng ăn cô bé ấy đã lao vào nghề làm phò. Đó là một cuộc sống
khốn cùng, là cái hố lầy đen tối, hoang rợn. Cũng như bao đứa trẻ bụi đời khác,
Lửa Cháy khao khát có “một đôi cánh tiên để bay lên không trung và sa xuống
một ngôi biệt thự nào đó có những bụi lam tường hóa lốt khác” [65, tr.282].
Nhưng tìm lại được gia đình, được bố đưa về Hà Nội sống trong căn nhà ba
tầng có những bụi lam tường thật yên tĩnh, mộng mơ, được hưởng cuộc sống
sung túc, trở thành một cô gái xinh đẹp, Quỳnh lại “vỡ mộng”. Bởi cuộc sống
sung túc chỉ là hình thức không vá nổi trái tim tan vỡ của Quỳnh: “Hình thức
ấy không cứu nổi một nội tâm thao thức bởi sự chết. Tim con đang vỡ và những
mạch máu đang sủi bọt trong lồng ngực. Con không có được cảm giác bình an”
[65, tr.13]. Sau những năm được bố cho ra nước ngoài học, những tưởng nền
giáo dục tiến tiến hơn trong nước có thể giúp Quỳnh trở thành một thần đồng
và bố không tiếc tiền của, hàng tháng chu cấp đầy đủ thậm chí dư thừa để
Quỳnh có cuộc sống thoải mái nhất bên nước bạn. Nhưng đâu ngờ, ở nơi xa xôi
ấy tiền chỉ đảm bảo về nhu cầu sinh hoạt chứ không thể nuôi dưỡng tinh thần.
Nền giáo dục văn minh ấy cũng không thể lấp đầy những lỗ hổng rỗng tuếch về
kiến thức và một tâm hồn không thiết tha với tương lai. Kết quả là Quỳnh bỏ
dở chuyện học hành quay về nước trong sự bế tắc, tuyệt vọng, cảm thấy mình
trở nên lạc lõng, xa lạ với cuộc sống mới, không sự sẻ chia từ đồng loại mà
thay vào đó là “không tiếc công sức để nắn, bóp, kìm, kẹp, ép, giữ, đun nóng,
bỏ lạnh, ngâm hóa chất cho ra một hình thù khác” [65, tr.11] của bố. Ngay cả
đến chỗ dựa duy nhất là một chút niềm tin vào mình Quỳnh cũng không có, cô
nghi ngờ tất cả cuộc sống thực tại này - một cuộc sống “Không học hành,
không nghề nghiệp, không bạn bè, không tình yêu, sợi dây ràng buộc duy nhất
là bố thì lạnh lùng, khoảng cách, đôi khi xa lạ” [65, tr.288]. Quỳnh không tìm
thấy ý nghĩa trong cuộc sống. Quỳnh cô đơn giữa Hà Thành vốn đã rất khó
khăn, nhọc nhằn để hội nhập. Tâm hồn Quỳnh càng ngày càng khô cạn. Quỳnh
đang từng ngày bị sa mạc hóa, bị truy sát và bức tử. Quỳnh rời xa cuộc sống
58
khó khăn, lăn lộn kiếm sống của kiếp bụi đời để được về sống trong sự đủ đầy
của vật chất, về nơi Hà Thành sầm uất, văn minh. Nhưng bi kịch khác nặng nề
hơn lại đeo bám Quỳnh, Hà Thành sầm uất, nhộn nhịp nhưng tâm hồn cô chống
chếnh, rỗng rượi, hoang hoải. Được tiếp cận với trường lớp, với kiến thức đầy
văn minh nhưng Quỳnh không thể tiếp nhận và cô giống như một đứa trẻ con bị
ép ăn những thứ nó không thích đến bội thực mà chết. Vật chất đủ đầy nhưng
lại chai lì, xơ vữa xúc cảm người. Hai mươi tuổi - tuổi của yêu đương, của khát
khao, hòa hợp và dâng hiến thì Quỳnh lại chợt nhận ra rằng: “Tại sao Quỳnh ít
nghĩ đến tình yêu trong khi tuổi của Quỳnh là tuổi của yêu đương, của khát
khao hòa hợp và dâng hiến? Quỳnh nhìn những người trai trẻ chỉ bằng thứ mùi
của thân xác. Con tim Quỳnh tổn thương đến mức không còn khả năng rung lên
những nhịp đập của ái tình nữa hay sao?” [65, tr.282]. Những tưởng gặp lại
Phong, Quỳnh sẽ tìm được niềm vui và hi vọng vào cuộc sống nhưng “Khó có
thể yêu được Phong và Phong cũng khó có thể yêu được ai vì ở anh ta, khả
năng hủy diệt mọi trạng thái tình cảm yêu đương luôn mạnh hơn việc tạo ra và
bồi đắp nó” [65, tr.284]. Phong cũng đâu khác gì Quỳnh, cũng không thể thực
hiện được hai khát vọng lớn: học vấn như bố, biết kinh doanh như mẹ. Phong
cũng đang hoài nghi và hoàn toàn vỡ mộng. Quỳnh thực thi triết lí sống mà
Phong đã đề nghị: sống cho mình và làm những điều mình thích, mình thấy
thoải mái. Nhưng khi được sống cho mình và làm những điều mình thích “lại
đưa Quỳnh đến với một ngõ tối khác, hun hút và bế tắc hơn” [65, tr.291]. Với
Quỳnh, cuộc sống càng ngày càng trở nên vô phương hướng, hoang hoải, nhọc
nhằn, không nơi bấu víu. Nó như sợi dây vô hình đang ngày đêm thít chặt đến
vỡ con tim trong lồng ngực Quỳnh: “Con đau. Tất cả đang đánh đập con, chà
sát con, giẫm đạp con. Con sợ. Con hãi. Con kinh khiếp. Con đang chết”
[65, tr.12]. Quỳnh muốn trốn chạy thực tại để tìm lại cái cảm giác bình an, tìm
lại một quãng kí ức của mình, tìm lại tất cả những gì liên quan đến Hải Thành
và “Không tìm được đồng nghĩa Quỳnh sẽ chết trong hành trình hoàn ức vô
vọng của mình” [65, tr.16]. Nhưng quá khứ, chốn xưa rồi cũng là một niềm thất
59
vọng, nhuốm đầy niềm đau, nỗi buồn. Nó không phải là phương thuốc hữu hiệu,
chữa lành được con tim đang trúng thương mỗi lúc trở nên tàn tệ trong Quỳnh.
Khi cuộc sống bế tắc, mọi ước mơ khát vọng đều tan vỡ, trong cảm giác
cô đơn, hoang hoải, lạc loài, Quỳnh đã hai lần tìm đến cái chết. Lần thứ nhất
Quỳnh chết về thể xác bằng hai viên thuốc ngủ và dùng dao lam cắt mạch máu
cổ tay: “Quỳnh đã hưởng hết những điều cần hưởng, đã tiêu hết những thứ
cuộc đời kí gửi, nếu có kéo dài thêm sự sống chỉ nhận về mình những muộn
phiền mà thôi, không học hành, không nghề nghiệp, không bạn bè, không tình
yêu, sợi dây ràng buộc duy nhất là bố thì lạnh lùng, khoảng cách, đôi khi xa
lạ, liệu ngoài sự muộn phiền ra còn cái gì đang chờ đợi Quỳnh ở phía
trước” [65, tr.288]. Lần thứ hai Quỳnh tìm đến cái chết bằng cách hủy hoại về
tinh thần. Lễ hội linh tinh tình phộc trong lần sinh nhật thứ 20 của Quỳnh chính
là một quả bom nổ chậm đã được châm ngòi và nó nổ tung làm tan nát tâm hồn
cô. Sau lần cháy chợ, khi chui từ dưới cống lên Quỳnh không biết mình là
người hay ma, còn sau buổi thác loạn thì Quỳnh đích thị không phải là người. Khi
một người đã vượt qua cái chết thường nhận thức được giá trị của sự sống, nhưng
với Quỳnh việc thoát chết chỉ đẩy cô vào ngõ cụt. Bởi khi không thể tìm thấy ý
nghĩa cuộc sống ở phía trước thì sống chỉ thêm những muộn phiền. Vì thế, bây giờ
nếu tiếp tục sống thì cô phải tìm câu trả lời: “phải sống như thế nào?”.
Mong muốn được trả lời cho câu hỏi này, Nguyễn Đình Tú từng bày tỏ:
“Hoang hoải, lạc loài, hoài nghi và vỡ mộng chỉ là những trạng huống tinh
thần của con người chứ không phải một khúc cắt rời của hiện trạng xã hội. Ở
một phương diện nào đó, hoài nghi và vỡ mộng không phải không có ý nghĩa
tích cực trong cuộc sống đối với mỗi con người. Văn học nói về cái mất mát để
giữ gìn, nói về nước mắt để hạnh phúc, nói về khiếm khuyết để hoàn thiện. Lớp
trẻ đọc Kín sẽ không chết chìm trong sự lạc loài và vỡ mộng mà từ những
hoang hoải ấy, họ sẽ có những phút giây chiêm nghiệm về bản thân mình để tin
yêu hơn cuộc sống này”... “Đọc sách của tôi xong, người ta có thấy thương cái
cuộc đời này không, có thấy trân trọng những gì mình đang có và vượt thoát
những bi kịch hàng ngày hay không? Đó mới là điều quan trọng” [37].
60
Như vậy, qua việc khắc họa tâm thế cô độc, bơ vơ, hoài nghi, vỡ mộng
của con người trong xã hội hiện đại, tác giả muốn đi tìm lời giải cho câu hỏi
“phải sống như thế nào?”. Đây cũng là trách nhiệm của mỗi người, của mọi
người và của cả xã hội. Hi vọng, qua Quỳnh - nhân vật đại diện cho thế hệ trẻ
rơi vào trạng thái hoài nghi, vỡ mộng, người đọc sẽ có những giây phút tự vấn
bản thân để tìm được câu trả lời, ý nghĩa cuộc sống ở đâu, phải sống như thế
nào để tin tưởng rằng cuộc sống này vẫn rất đáng sống để rồi tự biết yêu mình,
yêu mọi người và yêu cuộc sống này hơn.
Đến với thung lũng Cô Mặc Sầu trong tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn
Đình Tú, bạn đọc bắt gặp một vùng đất chìm trong sương mù trước kia vốn yên
bình, với vẻ đẹp thơ mộng của loài hoa dạ thảo phong nhưng nay tất cả bị xáo
trộn bởi nghiện hút, ma túy, mại dâm… Ở nơi đó xuất hiện những người trẻ
tuổi mang trong mình những nỗi đau tâm hồn riêng, họ hoang mang, hoài nghi,
chưa tìm được điểm tựa tinh thần nào để có niềm tin, hi vọng vào cuộc sống.
Đó là Khoa, Duy, Triều… và đặc biệt là cô gái Úc gốc Việt Min Hawke. Sự
hoài nghi của cô được thể hiện rất rõ trong hành trình tìm về nguồn cội của
mình. Mặc dù sống ở Úc nhiều năm nhưng hơn ai hết cô cảm nhận được nỗi
đau, nỗi cô đơn của một kẻ vong thân. Chính nỗi cô đơn, lạc lõng khi sống
trong một đất nước tuy đã nuôi lớn cô nhưng vẫn không mang lại cho cô sự gần
gũi, thân thiết để rồi cô luôn trăn trở với câu hỏi "mình sinh ra từ đâu, tại sao lại
trở thành công dân của một đất nước xa xôi như nước Úc?" [68, tr.324]. Chính sự
hoài nghi về nguồn gốc bản thân đã thôi thúc Min không ngừng kiếm tìm, không
ngại xa xôi để tìm về nguồn cội ở nơi có thung lũng Cô Mặc Sầu heo hút. Trong
quá trình kiếm tìm nguồn gốc nơi mình đã sinh ra, cô luôn bị rơi vào trạng thái
chông chênh. Không lúc nào Min thôi băn khoăn, hoài nghi về thân phận của một
đứa trẻ bị vong thân từ năm lên bốn tuổi.
Cũng rơi vào hoàn cảnh cô đơn, mất niềm tin hi vọng vào cuộc sống
trong Cô Mặc Sầu không thể không nhắc đến mẹ của Khoa. Đáng lẽ ra bà đã có
một gia đình hạnh phúc, trọn vẹn nếu ngày trước cha của Khoa không sang Hàn
Quốc công tác và kết hôn với một người phụ nữ bản địa. Đau đớn trước thực tại
61
nhưng mẹ vẫn gắng gượng sống, vẫn chống chọi với nỗi cô đơn khi không có
chồng bên cạnh để nuôi Khoa nên người. Bà cố gắng làm tất cả để Khoa có
cuộc sống đầy đủ, sung túc, hạnh phúc nhưng trái với sự mong đợi của bà,
Khoa lại trở thành cậu con trai ham chơi bời, lêu lổng. Khi nhìn thấy Khoa tàn
phá cơ thể mình vì "những mối tình sầu không thể gọi thành tên" và phải vào
bệnh viện do uống rượu quá nhiều, bà đã phải thốt lên: "Mẹ sống là vì con. Giờ
đến bản thân con còn không thiết sống nữa, thì tốt nhất là cả hai mẹ con mình
cùng chết cho hết duyên nợ với cái cuộc đời khốn khổ này" [68, tr.83]. Tiếng
nói của mẹ Khoa là tiếng nói của một tâm hồn tổn thương, của cái tôi cô đơn
khi mất hết niềm tin, hi vọng vào cuộc đời. Mục đích sống tiếp trên đời này của
mẹ là vì con, nhưng mục đích ấy bây giờ cũng không còn. Đau đớn hơn là tiếp tục
sống mẹ lại phải chứng kiến thân xác tiều tụy vì rượu của con mình. Trong bất
lực, đau khổ bà mẹ ấy chỉ còn biết nghĩ đến cái chết, đó là cách giải thoát cho mẹ
khỏi những khổ đau của cuộc đời và không phải đau lòng chứng kiến con trai,
niềm hi vọng của mình chết dần, chết mòn trong sự hủy diệt thể xác bằng rượu.
Suy nghĩ đó là sự lựa chọn cuối cùng của một người phụ nữ khi bị đẩy vào đỉnh
điểm bi kịch hoài nghi, mất niềm tin, hi vọng vào cuộc sống.
2.4.2. Lối sống buông thả, phó mặc
Khi con người mất đi niềm tin, hi vọng không thể tìm được điểm tựa cho
mình trước những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống thì tất yếu sẽ dễ dàng
đưa đẩy người phụ nữ buông xuôi, phó mặc cho số phận, sống buông thả, hư
hỏng, mất nhân cách. Thành công của Nguyễn Đình Tú trong những trang tiểu
thuyết của anh là ở việc anh lí giải căn nguyên dẫn đến sự hư hỏng của người
phụ nữ với thái độ âu lo trước những cạm bẫy cuộc đời. Từ đó cảm thông,
xót xa và mong muốn xã hội hãy mở rộng tấm lòng để họ có cơ hội làm lại
cuộc đời. Họ trở nên buông thả, phó mặc, hư hỏng một phần do hoàn cảnh xô
đẩy và sự thờ ơ, vô cảm cùng những định kiến trong cách nhìn của mọi người
trong xã hội.
Thân phận cô gái tên Nhung trong cuốn tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù cũng
là lời cảnh báo về con người buông xuôi trước hoàn cảnh, để rồi trở nên buông
62
thả, mất nhân cách. Bị cha dượng cưỡng bức khi còn quá trẻ, sau khi trốn chạy
cô lại gặp những người đàn ông ở xóm vạn chài, họ tìm thấy ý nghĩa của tạo
hóa ở cô nên nuôi cô để lấy thân xác. Tâm hồn non nớt và bản lĩnh của cô đã
không thể vượt qua hoàn cảnh. Cô phó mặc cho số phận: “Chúa sinh ra mình
chỉ để đi trên con đường ấy và cô đành chấp nhận sự an bài” [61, tr.160]. Cô
đã trượt dài trên con đường bán thân nuôi miệng, bệnh tật khốn đốn, cuộc sống
không có tương lai ở bãi vàng Lũng Sơn.
Nhà văn Nguyễn Đình Tú có biệt tài trong việc khắc họa những biểu hiện
trong lối sống buông thả, phó mặc của người phụ nữ. Phương được xuất hiện
khá mờ nhoè trên trang viết của tiểu thuyết Kín nhưng lại tạo ấn tượng và ám
ảnh đến lạ lùng về hình ảnh của một cô gái có lối sống buông thả, phó mặc do
hoàn cảnh xô đẩy và bản lĩnh không đủ để vượt qua thử thách của cuộc sống.
Sau biến cố lớn, bị cha dượng hãm hiếp, bế tắc, cùng quẫn cô rời nhà, đi lang
thang vô định và cuộc đời đã xô dạt cô đến bến ga Hải Thành sống kiếp bụi đời
rồi trượt sâu vào con đường làm điếm. Cuộc hành trình suốt những năm
tháng của tuổi thanh xuân, dù có nhan sắc nhưng Phương không hề cảm nhận
được những rung động của tình yêu chân thành, những người đàn ông đi qua
cuộc đời cô chỉ đơn thuần vì “tình một đêm”. Sống lâu trong cái khổ, cái nhục
cô cũng quen dần. Tâm hồn cô chỉ nghĩ đến tiền, đến nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống, chỉ nghĩ làm sao kiếm được miếng ăn, son phấn, quần áo còn ngủ
với ai, làm tình với ai không còn là điều quan trọng. Cô tiểu thư hôm nào nay
trở thành tinh cáo trong cái nghề bán xác nuôi thân với một suy nghĩ về việc
làm phò rất đơn giản, lệch lạc và “coi thường giá trị làm người”: “Lần đầu thì
hơi đau một tí nhưng rồi thì cũng như người ta sờ nắn, xoa bóp, tẩm quất cho
mình thôi, thoải mái lắm” [65, tr.198]. Phương đã để mặc cho cuộc đời trôi dạt,
không tìm thấy cho mình một bến đỗ, một điểm tựa tinh thần.
Điều đáng lo lắng hơn là “căn bệnh kiếm tiền” bằng cách bán thân của
Phương trở thành căn bệnh truyền nhiễm. Sẽ còn bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu
người nhiễm căn bệnh này khi bị những suy nghĩ đơn giản, lệch lạc, thiếu giáo
dục về tình dục của Phương dẫn dắt! Người đầu tiên Phương dẫn dắt vào nghề
63
là cô bé Lửa Cháy, đứa trẻ cũng rơi vào hoàn cảnh đáng thương để cùng chung
sống với Phương và những đứa trẻ bụi đời khác ở toa tàu ga Hải Thành. Cô bé
Lửa Cháy chính thức bước theo vết chân của chị Phương. Sau khi thoát khỏi
toa tàu nơi xóm liều trở về với bố, cuộc đời Quỳnh như bước sang trang mới,
cô được sống trong giàu sang, quyền quý. Những tưởng tháng ngày làm phò
kiếm sống ở Hải Thành sẽ chấm dứt, Quỳnh sẽ làm lại cuộc đời khi cơ hội tới.
Nhưng cô tiểu thư có cái tên xinh đẹp của một loài hoa chỉ nở vào bên đêm ấy
không thể làm lại, không thể đứng vững mà biến mình trở thành một con người
khác méo mó hơn, đáng sợ, đáng kinh tởm hơn. Cuộc sống xa hoa, trác táng
với những ma lực mới đẩy Quỳnh đến chỗ học chỉ là cái cớ, tìm thú vui, cảm
giác lạ cho thân xác thoả mãn mới là chính. Lối sống buông thả đã biến cô trở
thành con “cuồng sex”, “gọi ra được cả mùi vị của sex” và bất cần đời đến đáng
sợ: “… Không yêu, không cướp thì chả lẽ …hiếp? Quỳnh khẽ nhếch mép
cười. Có dám không? Anh ta hiếp Quỳnh hay Quỳnh hiếp anh ta trước?
Quỳnh sẵn sàng cho không anh ta đấy. Anh ta bắt cóc Quỳnh đi ngay đêm
nay thì càng tốt” [65, tr.43]. Rõ ràng khi một cô gái không còn sợ bất kì
điều gì ảnh hưởng đến nhân phẩm thì họ trong trạng thái không còn gì để
mất. Đây là lời cảnh báo sâu sắc nhất của nhà văn với xã hội đương đại.
Cuộc đời của Diệu trong Phiên bản cũng là một minh chứng khác chứng minh người phụ nữ có lối sống buông thả, phó mặc mà nguyên nhân trước hết do Diệu không đủ bản lĩnh để chiến thắng hoàn cảnh. Trở về sau chuyến vượt biên không thành, bị bọn cướp biển dày vò thể xác, Diệu không còn đủ tự tin ở bản thân và hoài nghi tất cả những người xung quanh kể cả Nhân, người khiến cô có những rung động lần đầu của một cô gái bắt đầu lớn: “Lẽ nào anh có cảm tình với em? Hay là anh thương hại em?… còn em từ lâu đã tự giết chết cảm xúc của mình rồi” [64, tr.104]. Đang mất phương hướng, Diệu gặp Hưng mã, cuộc gặp gỡ định mệnh để sau này khi đã trở thành một nữ chúa giang hồ, cô vẫn còn dằn vặt, tự hỏi liệu nếu không gặp Hưng mã thì cuộc đời cô có như thế này không? Mối quan hệ ấy đã khiến Diệu gần như không thể giữ nổi giá trị nhân phẩm của một con người: “Em thuộc về Hưng từ thể xác đến tâm hồn. Hưng dẫn em đi qua
64
miền cực lạc của trai gái, của cuộc sống bụi đời, của những tháng ngày đứng bãi, của những mộng mơ mê đắm đầu đường, xó chợ. Chúng em ăn ngủ với nhau ở bất kỳ chỗ nào có thể ngả lưng xuống được” [64, tr.151]. Cô không thể kiểm soát được bản thân, chìm đắm, mê mải trong những hoan lạc ái tình, sẵn sàng chiều theo mọi suy tính của Hưng một cách vô điều kiện kể cả việc phải ngủ với Tuấn chợ để yên ổn mà làm ăn. Không chỉ buông thả, phó mặc trong đời sống tình cảm Diệu còn tiếp tục bóp méo tâm hồn và đẩy cuộc đời mình trượt dài trên con đường tha hóa khi chấp nhận tồn tại bằng mọi giá mà ban đầu là việc tiêu thụ đồ ăn cắp. Kết quả Diệu lãnh hai mươi tư tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Hai mươi tư tháng và cái nhà tù ấy vẫn không đủ sức mạnh để chế ngự bản tính “nghịch” trong Diệu, để Diệu làm lại cuộc đời. Có lẽ nhà tù mới chỉ đủ sức chế ngự được tính “nghịch” của Diệu ở trong tù, còn khi ra ngoài đời tính “nghịch” ấy được chế ngự hay không là do Diệu và hiện thực cuộc sống này. Ra tù hôm trước, hôm sau Diệu lại ra đứng chợ và bước tiếp con đường của sự tha hóa mà Diệu đã lựa chọn. Cuộc đời của Diệu bước sang một trang mới, Diệu lên xe hoa, lấy chồng giàu có, tiếng tăm nhất vùng và cũng có một quãng thời gian sống hạnh phúc bên Tùng hê rô, trùm giang hồ. Nhưng đó là sự giàu có, tiếng tăm, hạnh phúc được đánh đổi bằng máu, bằng tội lỗi. Gắn cuộc đời với Tùng, bản tính “nghịch” ở Diệu như được chắp thêm đôi cánh, được tiếp thêm sức mạnh vô hình. Diệu được trả về đúng với vị trí của mình: nữ hoàng đen. Một nữ hoàng đen buông thả mình trong những toan tính, mưu mô, tranh giành quyền lực, trong chém giết, trong tội ác và hạnh phúc với nữ hoàng ấy là bên cạnh máu và sợ hãi.
Nhìn chung, qua các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú như Nhung (Hồ sơ một tử tù), Phương, Quỳnh (Kín), Diệu (Phiên bản) đủ cho chúng ta thấy sự tha hóa và lối sống buông thả của các nhân vật nữ. Nhà văn luôn trăn trở, làm gì để những người phụ nữ tự mình biết chống chọi với hoàn cảnh, tự mình biết tìm con đường đi đúng hướng cho cuộc đời chứ không phải là buông thả, phó mặc để rồi chính họ phải chấp nhận bi kịch cay đắng hơn trong cuộc đời.
65
Tiểu kết chương 2
Qua những trang viết của mình, nhà văn Nguyễn Đình Tú đã dành không
ít tâm huyết để khắc họa thành công hình tượng nhân vật nữ với những khuôn
diện khác nhau trước sự tác động của số phận, của môi trường sống trong xã
hội thời hiện đại. Người phụ nữ trong tiểu thuyết của anh mang những biểu
hiện, trạng thái, cảm xúc rất phức tạp nhiều khi trái ngược và mâu thuẫn. Nhà
văn không chỉ nhìn và đánh giá bằng sự chủ quan mà mổ xẻ, phân tích để lí giải
những khuôn diện khác nhau khi khắc họa nhân vật nữ: Nhân vật nữ với dục
vọng bá chủ thế giới ngầm, nhân vật nữ với khát vọng yêu và kiếm tìm hạnh
phúc, nhân vật nữ với quá trình đấu tranh sinh tồn đầy bi kịch và nhân vật nữ bị
tha hóa bởi hoàn cảnh sống. Đặc biệt, nhà văn còn lí giải đến tận cùng những
căn nguyên của những bi kịch mà người phụ nữ gặp phải trong thời kỳ hiện đại.
Sự biến đổi theo chiều hướng không thuận chiều khi những người phụ nữ
không thể làm chủ mình, không đủ sức để vượt qua hoàn cảnh, vượt qua những
cám dỗ giăng đầy phía trước để rồi họ mất đi niềm tin, hi vọng vào cuộc sống và
trượt dài trên con đường tha hóa. Điều quan trọng là sau những phân tích mổ xẻ ấy
nhà văn đã thức tỉnh được chính những người trong cuộc và đồng thời đặt ra yêu
cầu về trách nhiệm của mỗi người, của mọi người và của cả xã hội trong việc bảo
vệ người phụ nữ, tạo ra một môi trường sống tốt đẹp để họ tránh xa được những bi
kịch của cuộc đời và được sống cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù nhà văn Nguyễn
Đình Tú đã thành công khi phản ánh bộ mặt xã hội với hình ảnh tội phạm là nữ
nhưng dường như mới khai thác được diện mạo chung của thế giới tội phạm trong
chém giết, tranh giành quyền lực mà chưa khai thác sâu và nhìn đa chiều tội phạm
nữ ở nhiều mặt khác nhau như tội phạm buôn người, tín dụng đen, vay nặng lãi…
Hay khi lí giải căn nguyên của những bi kịch mà người phụ nữ gặp phải đôi khi
chưa được rõ nét đặc biệt là nguyên nhân họ không đủ bản lĩnh để vượt qua hoàn
cảnh, số phận của chính mình mà phạm tội, trượt dài trên con đường tha hóa.
66
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
3.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình và nội tâm
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình
Ngoại hình chính là thứ ngôn ngữ không lời trong việc thể hiện nhân vật.
Ngoại hình của nhân vật là hình dáng bên ngoài bao gồm y phục, cử chỉ, tác
phong, diện mạo… Qua ngoại hình không chỉ cho biết nhân vật già hay trẻ, xấu
hay đẹp, có gì đặc biệt mà nó còn phản ánh được tính cách, hoàn cảnh sống của
nhân vật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại hình nhân vật chỉ hiện ra với
một vài nét phác họa chứ không được tác giả tiểu thuyết miêu tả kĩ càng, thế
nhưng đó lại chính là những nét cốt yếu giúp lột tả toàn bộ con người nhân vật.
Điều này rất đúng với nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú.
Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không được nhà văn tập
trung lựa chọn nhiều chi tiết để làm nổi bật vẻ đẹp “sắc nước hương trời”,
“chim sa cá lặn” mà thường được miêu tả với một vài nhận xét ngắn gọn nhưng
cũng đủ để người đọc bị cuốn hút và ấn tượng về họ: “chị xinh đẹp vô cùng”
hay “Năm cuối cấp Loan đẹp rực rỡ” [61]. Hoặc hình ảnh cô bé Thảo (Nháp) ở
Phố Núi xuất hiện với chiếc váy trắng và đôi mắt nâu gián tiếp cho biết thân
phận của Thảo là một tiểu thư đài các, được bố mẹ nuông chiều và chỉ cần vậy
cũng đủ để lại ấn tượng sâu sắc trong Đại, ám ảnh tâm trí Đại suốt quãng thời
gian sau này của anh. Cũng có lúc, nhà văn lựa chọn miêu tả một nhân vật nữ
với vẻ bề ngoài xấu xí, ví như nhân vật Lý (Bên dòng Sầu Diện) cũng chỉ bằng
một nhận xét ngắn gọn của bọn trẻ mới lớn ở phố Tứ Phủ “cái Lý có họ hàng
xa với Thị Nở” nhưng ngay lập tức nhà văn lại cân bằng cái xấu ấy bằng tình
cảm của Tịnh dành cho Lý. Với Tịnh, Lý lại rất đẹp “… là đứa con gái có dáng
người đẹp nhất, khuôn mặt thanh tú nhất, làn da trắng nhất, cái miệng xinh
nhất, mái tóc dài nhất, khuôn mặt thanh tú nhất, chỉ có mỗi một bên má là
không đẹp những không có gì đáng chê” [62, tr.140]. Ngay cả với chị Thái
67
trong Hồ sơ một tử tù, tuy Tâm luôn thấy chị rất đẹp “Màu sắc trên người chị
luôn phong phú, khuôn mặt chị xinh đẹp, nụ cười có duyên” [61, tr.95] nhưng
với nhiều người họ tìm ra đủ thứ không đẹp ở chị mà nói xấu. Rõ ràng, cái đẹp,
xấu ở đây không có chuẩn mực mà phụ thuộc vào cách nhìn, vào tình cảm của
mỗi người dành cho nhau.
Những nét vẽ về hình dáng bên ngoài của nhân vật nữ ở tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú từng tạo được sự tò mò ở người đọc, khơi gợi cho người đọc
mong muốn khám phá, tìm hiểu xem nhân vật ấy là ai, thân phận thế nào, tính
cách có gì đáng chú ý, hoàn cảnh sống có gì đặc biệt. Tiêu biểu là Son Phấn
(Hoang tâm), cô gái xuất hiện trước Anh một cách đường đột, bất ngờ với một
khuôn mặt bự phấn và đôi mắt có vẻ mệt mỏi khiến Anh không thể đoán được
cô ấy già hay trẻ, người xấu hay tốt, tại sao lại đi theo anh… tất cả đều bí mật,
vì thế nó sức hấp dẫn đặc biệt.
Nhân vật Nhung (Hồ sơ một tử tù) xuất hiện với một điểm nhấn: “Nhung
cười có làm khuôn mặt sáng lên nhưng không lấp hết được những oằn oải ẩn
sâu trong hố mắt” [61, tr.180]. Qua nét vẽ, tác giả đã làm toát lên một số phận
bất hạnh, một cô gái mang trong mình nỗi đau tâm hồn khó lí giải, nỗi đau
không gì khỏa lấp. Nó nhấn chìm mọi niềm hi vọng trong cuộc đời của cô.
Điều đặc biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là nhà văn miêu tả hình
dáng bên ngoài nhân vật nữ từ góc nhìn mang tính sex. Từ nét mặt, bờ môi, đôi
mắt, thân hình… đều gợi cảm, khơi dậy khát khao, ham muốn tình dục ở đối
phương. Đó là hình ảnh Loan, Diệu (Hồ sơ một tử tù), Mến (Bên dòng Sầu
Diện), Me (Nháp), Quỳnh (Kín).
Đọc Hồ sơ một tử tù, ta dễ dàng tìm thấy những chi tiết miêu tả như vậy:
“Loan cười hàm răng trắng bóng, đôi môi đỏ cong cong, đôi mắt như
dấu hỏi” (59, tr.93) khiến Tâm như bị rơi vào ảo giác. Hay “Dịu lúng liếng
nhìn hắn. Cái miệng Dịu bập bẹ theo hắn. Môi Dịu cong lên, mềm mại, khơi
gợi quá” kết quả là Dịu đã giúp Đàn trở thành bóng trăng “rửa sinh khí trai
tráng trong Dịu để trở thành đàn ông từ hôm ấy” [61, tr.115]
68
Trong Bên dòng sầu diện, cô Mến cũng đẹp hơn nhờ có sự đụng chạm khác
giới: “Má cô vẫn đỏ bừng lên. Dư âm ngọt ngào của sự đụng chạm khác giới vẫn
đang lan tỏa đâu đó khắp cơ thể cô, luồn lách tới từng tế bào” [69, tr.69].
Trong Nháp là chi tiết: “Mắt Me lúc ấy có màu xanh kỳ quái lắm. Khuôn
mặt Me ngẩng lên, bờ môi buông hờ thách thức” [63, tr.215], đó là sự thách
thức bản lĩnh đàn ông để buộc Thạch không thể không chứng minh và khẳng
định bản lĩnh đàn ông của mình trước người phụ nữ đó.
Đọc Kín, người đọc cũng bắt gặp cách miêu tả vẻ đẹp bên ngoài đầy gợi
cảm: “Rồi một thân hình vô cùng mát mẻ bước ra từ nhà tắm, Quỳnh đã khiến
anh ta không nói được câu tiếng Anh nào ra hồn nữa” [65, tr.176], và ngay sau đó
là cuộc làm tình không hẹn trước, không phải xuất phát từ tình yêu giữa Quỳnh
và thầy giáo tiếng Anh của cô.
Cách dùng hình dáng bên ngoài để khơi gợi sex cũng cho thấy với
Nguyễn Đình Tú sex là bản năng, là nhu cầu và cũng là vũ khí của giới nữ
trước nam giới.
Cùng với hình dáng bên ngoài, hành động, cử chỉ cũng phản ánh được
các mối quan hệ cũng như tính cách của họ. Thông qua hành động, cử chỉ của
nhân vật ta có thể nhận ra phẩm chất, tính cách, tư tưởng của các nhân vật mà tác
giả muốn xây dựng. Trước hết, Nguyễn Đình Tú đã xây dựng thành công hình
tượng nhân vật nữ trẻ tuổi lầm lạc, mất phương hướng, bị cuốn vào cuộc đời thác
loạn. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hành động, cử chỉ của các nhân vật.
Diệu trong Phiên bản xuất hiện với một loạt hành động được miêu tả
theo một quá trình trượt dài trên con đường tội ác, tha hóa và biến chất. Trước
hết là hành động thể hiện sự phản kháng khi bị chèn ép, bị nhục mạ, xúc phạm:
“Em nhúng cái chổi rơm vào bếp. Chổi rơm bắt lửa bùng bùng cháy. Em cầm
cái chổi lúc này đang bốc lên như một ngọn đuốc, chạy về phía trước quầy của
mình, phang thẳng vào mặt thằng thanh niên cởi trần”. Rồi trong uất hận, cơn
nóng giận đến tột cùng “Em ưỡn ngực ngang tàng ngăn mọi người lại, không
cho mang nước vào quầy hàng em cứu hỏa” [64, tr.137]. Từ đó cũng đánh dấu
69
bước ngoặt cuộc đời Diệu từ một cô bé hiền lành nay trở thành một người của
chợ búa gớm ghiếc với bao cám dỗ của tiền bạc, uy quyền và tội ác.
Khi Diệu trở thành vợ của Tùng Hê rô, nữ hoàng đen hiện lên với những
hành động lạnh lùng, đầy bản lĩnh của một kẻ bá chủ thế giới ngầm với con dao
bầu sáng loáng cùng với những hành động như dằn mặt các chủ sòng chậm hồ,
phản chủ. Điển hình là hành động dằn mặt đáng sợ của thị ở sòng bài số 15, thị
xử lí thằng chủ sòng bằng một hành động hết sức rùng rợn, đủ để làm rung
động cả hai chục sòng bài còn lại.“Mấy thằng đệ tử ghì thằng chủ sòng xuống,
thị cầm ngón trỏ trái của hắn đặt lên bàn và con dao bầu của thị vung lên.
Ngón tay trỏ văng ra đất trước những khuôn mặt xám ngắt của đám bảo vệ
sòng. Thị nhặt ngón tay còn đang rỉ máu và co giật liên hồi đó lên, đặt vào
trong chiếc đĩa vẫn dùng để chơi xóc đĩa” [64, tr.31]. Hành động tàn bạo này
đã khẳng định vị thế của thị ở thế giới giang hồ. Thế giới mà con người muốn
tồn tại phải mạnh mẽ, bản lĩnh, phải độc ác, tàn bạo. Tất cả những hành động,
cử chỉ này đều phù hợp với vị thế, hoàn cảnh thực tại của Diệu. Diệu không
còn là Diệu của ngày xưa mà đã trở thành một Hương ga, nữ hoàng đen nên
hành động, cử chỉ ngang tàng, phá phách, coi thường đời, khinh thường mọi giá
trị của cuộc sống.
Phương trong Kín cũng vậy, khi số phận đã dồn cô đến bước đường
cùng, hoàn cảnh thúc bách, từ một cô bé hiền lành, yếu đuối Phương bỗng thay
đổi với những hành động, cử chỉ khiến cho bọn trẻ xóm đường tàu phải há hốc
mồm ra: “Phương đã lao đến bên Lộc mũ bông… Phương đâm nhát chí tử xong
cũng đã lui về lấp sau lưng Hoàn” [65, tr.136].
Đúng là hoàn cảnh góp phần làm nên tính cách con người. Tính cách
được biểu hiện qua hành động. Hành động của Phương như một minh chứng
cho sự phản kháng với đời. Sự phản kháng ấy rèn luyện cho cô bản lĩnh để lựa
chọn con đường đi cho cuộc sống của mình, đó là đi làm phò để có cái ăn, có
son phấn và có quần áo đẹp.
70
Đáng chú ý là trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú người đọc luôn thấy
hiện lên hình ảnh những người phụ nữ với những hành động, cử chỉ tự tin, chủ
động trong các mối quan hệ đặc biệt là quan hệ tình dục. Đó là Cói với hành
động “Cói ôm chặt lấy đầu Minh Việt, ghì mặt anh vào bộ ngực dập dềnh, êm
ái của mình [62, tr.175]. Là Yến khi “đút cam cho tôi, người Yến cứ chà đi
quyệt lại trên cái thân trần của thằng con trai đang ở tuổi động dục khiến tôi
khó chịu, cứ phải nép mãi vào phía trong” [63, tr.76].
Có thể nói đây là cách miêu tả khá mới, độc đáo và táo bạo của Nguyễn
Đình Tú. Nếu trong văn học giai đoạn trước, người ta né tránh, ít nói đến vấn
đề tình dục hoặc có nói đến vẫn chủ yếu là cách nói gián tiếp thì văn học hiện
đại lại không ngại ngần nói đến vấn đề nhạy cảm đó một cách rõ ràng, không
cần phải che đậy. Nhất là trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, khi nhà văn cho
rằng “Cái chuyện ấy như đói phải ăn, như khát phải uống thôi” [63, tr.219] thì
chuyện quan hệ đã trở thành bản năng. Và táo bạo hơn nữa, khi nhà văn để việc
gợi hứng dục xuất phát từ chính người phụ nữ với những hành động, cử chỉ rất
tự nhiên, táo bạo.
Nếu như Nguyễn Đình Tú sử dụng nghệ thuật miêu tả ngoại hình để giúp
người đọc cảm nhận được nhiều phương diện khác nhau ở người phụ nữ: tâm
lí, tính cách, hoàn cảnh, số phận, mong ước, khát vọng… thì Nguyễn Ngọc Tư
hứng thú với miêu tả ngoại hình bởi nó giúp nhà văn nắm bắt và phân tích được
tính cách của nhân vật. Từ nhân vật trẻ đến nhân vật già, ai cũng là những nhân
vật bất hạnh nhưng khi phác hoạ ngoại hình của nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư
tuyệt nhiên không để đặc điểm nhân vật trùng lẫn với nhau. Nói về Diễm
Thương (Cánh đồng bất tận), Ngọc Tư miêu tả: “khuôn mặt cũng hay, không
đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó nghĩ gì”, “mái
tóc nhuộm vàng hoe chơm chớm như rễ tre”, “nụ cười héo hắt”. Hay khuôn
mặt “teo héo, sạm đen” của ông Năm Nhỏ trong truyện Cải ơi. Thấy được cả
khuôn mặt “trầm lặng mà sâu sắc” của Tứ Phương trong Nhà cổ, khuôn mặt
“nhăn nhúm, nám đen” của bà Hồng trong Cuối mùa nhan sắc, khuôn mặt
71
“đen sạm, nhăn nheo” của người đàn bà trong Dòng nhớ. Nguyễn Ngọc Tư chỉ
khái quát một cách rất chung chung nhưng người đọc đã thấy được những nét
tính cách riêng của mỗi nhân vật. Đó là tính cách lạnh lùng, bất cần đời nhưng
ẩn bên trong lại là yếu đuối, đau khổ, hay đó là sự nhẫn nhịn, chịu đựng, là tính
cách thâm trầm, sâu sắc.
Tóm lại, sự khéo léo trong nghệ thuật miêu tả nhân vật qua ngoại hình
góp phần khắc họa thành công hình tượng nhân vật nữ trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú. Qua ngoại hình, ta không chỉ nhận ra tâm trạng, bản chất,
tính cách, hoàn cảnh, số phận của họ mà hơn thế nữa còn chứa đựng cả những
suy tư, trăn trở của nhà văn về lối sống của con người thời hiện đại.
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả nội tâm
Để có thể đi sâu khám phá thế giới tâm hồn của người phụ nữ, Nguyễn
Đình Tú không chỉ dừng ở những nét miêu tả ngoại hình, chân dung bên ngoài,
mà nhà văn còn chú ý khắc họa nội tâm nhân vật. Nội tâm là những tâm trạng,
suy nghĩ, phản ứng tâm lí… của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình
huống mà họ gặp phải trong cuộc đời. L.Tolstoi nói: “Mục đích chính của nghệ
thuật… là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không
thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được” [dẫn theo 17, tr.101]. Muốn
làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt
được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất bên trong tâm hồn nhân
vật. Thế giới tâm hồn sâu thẳm của con người đặc biệt là nhân vật nữ vốn phức
tạp, chứa đầy bí ẩn nên thường được các nhà văn quan tâm khi xây dựng nhân
vật nữ trong tác phẩm của mình. Cũng là miêu tả nội tâm nhưng mỗi nhà văn
lại cần lựa chọn cách viết riêng để hoàn chỉnh chân dung nhân vật đồng thời
gửi vào đó những thông điệp riêng của mình. Với cái nhìn ưu ái và thiên vị đối
với phái nữ, Võ Thị Hảo trong các truyện ngắn Hồn trinh nữ, Người sót lại của
Rừng Cười, Biển cứu rỗi… hay tiểu thuyết Giàn thiêu đã tỏ ra là người rất tinh
tế và sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật phù hợp khi miêu tả những trạng thái,
cảm xúc, những biến chuyển tâm lý của mỗi cá nhân con người. Dù miêu tả
72
trực tiếp qua độc thoại nội tâm hay đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật nhà văn luôn
muốn bênh vực người phụ nữ và khẳng định dù họ có là một cô gái sa ngã (Vũ
điệu địa ngục), một người đàn bà nhẹ dạ (Người đàn ông duy nhất), một con
điếm hết thời (Biển cứu rỗi) hay một người tật nguyền thì họ vẫn ước mơ, cũng
biết vui, buồn, khao khát, vẫn muốn được yêu thương. Coi yếu tố tâm lý là một
đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong tác phẩm của mình, để nắm bắt được
những trạng thái tâm lí của nhân vật đặc biệt là các nhân vật nữ, nhà văn trẻ
Nguyễn Ngọc Tư đã vận dụng thường xuyên lời nửa trực tiếp. Cụ thể là trong
lời kể chuyện của mình đã bao hàm cả giọng điệu, thái độ, suy nghĩ của nhân
vật, kể lại câu chuyện bằng chính giọng điệu của nhân vật. Chẳng hạn trong
truyện Huệ lấy chồng, có nhiều đoạn văn trần thuật lại câu chuyện bằng giọng
điệu, nội tâm của nhân vật. Hình thức này khiến cho nhà văn không chỉ tái hiện
tự nhiên dòng tâm tư của nhân vật mà còn khiến tác phẩm biến hóa, nhiều
giọng điệu. Đặc biệt, Nguyễn Ngọc Tư còn là nhà văn có khả năng nhập thẳng
vào nhân vật của mình, thông qua nội tâm của anh ta mà kể lại câu chuyện cho
nên rất nhiều tác phẩm của chị lựa chọn hình thức trần thuật theo ngôi thứ nhất,
qua nhân vật xưng “tôi”. Độc giả chẳng những lĩnh hội được câu chuyện mà
còn thấu hiểu cả những trải nghiệm, suy tư, những cơn sóng tâm hồn của nhân
vật kể chuyện. Có thể xem đó là những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật.
Hình thức này cũng khiến cho dòng tâm tư nhân vật hiện lên “tươi rói” trên
trang sách. Tiêu biểu nhất cho hình thức này là truyện ngắn Cánh đồng bất tận
với những dòng tâm tư sâu thẳm của nhân vật Nương xưng “tôi”. Trong dòng
suy nghĩ triền miên thì nỗi nhớ chính là những lớp sóng tâm trạng miên man,
cồn cào và giằng xé trong tâm hồn của nhân vật “tôi”.
Tìm hiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, cũng cho thấy
mỗi nhân vật là một thế giới nội tâm với nhiều diễn biến phức tạp. Tác giả
thường chú trọng đi vào miêu tả quá trình tư duy, diễn biến tâm trạng của
những người phụ nữ trong những bước ngoặt của cuộc đời, trong những khát
khao về tình yêu và hạnh phúc, trong những suy nghĩ để thanh lọc tâm hồn
73
mình hay những suy tư, trăn trở về cuộc đời, về con đường phía trước họ cần
phải đi.
Cô Mến trong Bên dòng Sầu Diện sau lần quan hệ đầu tiên với Nguyên
Bình, cô có thai, nhìn bà Cả Ngật đau khổ, tủi nhục, còn cô thì cũng lo sợ chưa
biết cuộc sống phía trước của mình sẽ ra sao khi cái thai ngày một lớn. Trước
sự thúc bách của hoàn cảnh, cô đã suy nghĩ: “Nhưng nếu là cha Phăng thì sao
nhỉ? Có thể là bà Cả Ngật sẽ bớt đau đớn, chua xót hơn chăng? Liệu có đỡ tủi
phận muối mặt nhục nhã hơn không? Có thấy lòng mình thanh thản, vợi bớt đi
những nặng nề, u ám hơn không? Một ý nghĩa lóe lên trong đầu Mến. Nó đến
rất nhanh rồi cứ trở lại trong Mến. Và Mến quyết định nói cái điều mà cô cho
rằng làm thế bà Cả Ngật sẽ bớt tủi nhục hơn” [62, tr.76]. Và cha Phăng đã trở
thành cha của đứa bé trong bụng cô. Dù có đôi chút day dứt nhưng với Mến đó
cũng là bất đắc dĩ và cũng là con đường cuối cùng để Mến có thể có được
những tháng ngày phía trước yên bình.
Trong cuốn tiểu thuyết Phiên bản, với ngôi kể “em”, tác giả đã tạo ra
một dòng chảy nội tâm của nhân vật chính khi còn là một cô bé ngây thơ trong
trắng cho đến lúc tay đã “nhúng chàm”. Những kỉ niệm đẹp, trong sáng cùng
những cảm xúc đầu đời của một cô gái mới lớn với Nhân, một anh chàng học
trên cô một lớp là nơi bấu víu duy nhất để Diệu được sống trong cảm giác
thánh thiện và tìm được sự yên ả trong tâm hồn. Ngay cả khi cô bị đẩy vào
vòng tội lỗi và trong lúc cô đơn, bấn loạn nhất, em vẫn chỉ nghĩ đến anh. Anh
đã trở thành đối tượng để em bộc bạch thế giới cảm xúc thầm kín bên trong
tâm hồn mình. Đó là khát khao được yêu, được sống cuộc sống bình dị, lương
thiện, khát khao có anh ở bên để tâm sự, sẻ chia. Hãy lắng nghe những dòng
tâm sự thầm kín ấy của Diệu để thấy được đằng sau thế giới tội ác, bên trong
sự ngang tàng và bên cạnh Nữ hoàng đen kia vẫn là em với những thổn thức
đầy cảm xúc của một con người, em vẫn cần có anh ở bên để chở che, bao bọc:
“Anh đi hiên ngang bên em bước về phía cổng trường. Tự nhiên em thấy cái áo
sơ mi màu trứng sáo anh mặc trên người không còn lụng thụng nữa. Cái dáng
anh không giống lúc sáng chỉ như muốn biến mất khỏi mặt đất, mà vững chãi
74
một khát vọng hiện tồn bên em. Em không hiểu lúc ấy lòng em xao xuyến như
thế nào nữa. Em thấy mình hạnh phúc” [64, tr.23].
Những ngày tháng ở trong tù, những tưởng tình cảm với Nhân đi vào dĩ
vãng và sẽ không còn hiện về trong tâm trí của Diệu. Nhưng không ngờ, những
cảm xúc ấy cứ hiển hiện trong mọi góc khuất tâm hồn cô, để bất cứ ở đâu và đi
bên cạnh ai cô vẫn cứ ao ước đó là Nhân: “Lần đầu tiên em được ngồi sau xe máy
của một người con trai. Mà người ấy lại mang trên mình bộ sắc phục cảnh sát.
Em chợt nghĩ: Tại sao người đó không phải là anh nhỉ?” [64, tr.195].
Biến cố khủng khiếp xảy ra trong cuộc đời của Diệu sau chuyến vượt
biên không thành, hình ảnh những con giao long cứ hiện về ám ảnh làm Diệu
đau đớn, tâm hồn tê dại. “Em thoáng nghĩ đến cái chết. Dù em biết mình đang
ở trong cơn ác mộng. Thà không bao giờ tỉnh lại nữa, thà em chết đi, thà cái
mặt trống kia căng ra một lần rồi rách nát, tả tơi, vỡ vụn…thì còn hơn là cứ để
người ta phải đối mặt với giấc chiêm bao khủng khiếp này” [64, tr.63]. Đoạn
văn diễn tả trạng thái tâm lí bấn loạn đến cùng cực của Diệu. Diệu bị rơi vào
trạng thái vô thức, hiện thực nhưng Diệu cứ ngỡ như một giấc mơ bởi nỗi đau
quá lớn mà nhân vật phải đối diện.
Theo chân nhân vật Quỳnh (Kín) là bao nhiêu cuộc đấu tranh nội tâm,
bao nhiêu dằn vặt trăn trở, ra đi để tìm lại quá khứ hay ra đi để làm lại, ra đi để
đổi thay hay là chết chìm trong sự nhàm chán của vật chất, dư thừa những thú
vui hoan lạc của xác thịt? Trong lúc bế tắc nhất, hình bóng mẹ đã theo sát bước
chân cô. Người đọc luôn nhận thấy những bất ổn trong tâm trạng của Quỳnh:
“Mẹ theo con về Hải Thành sao? Mẹ muốn dẫn con về nơi sinh ra hay mẹ đi
theo để che chở, bảo bọc con, chuyến xe này sẽ đưa con đi đâu? Con cũng
không biết nữa mẹ ạ” [65, tr.36]. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập cho thấy sự đấu
tranh, những trăn trở, day dứt bên trong tâm hồn đang ứa máu, rồi đông cứng
lại của Quỳnh. Mới 20 tuổi, nhưng Quỳnh đã phải mang trong mình những vết
thương lòng đau đớn, không thể hàn gắn. Cô đã già dặn đi so với lớp bạn cùng
75
trang lứa vì thường phải ngụp lặn trong một thế giới nội tâm chứa đầy mâu
thuẫn, giằng xé, đớn đau.
Những đoạn văn miêu tả nội tâm nhân vật nữ của Nguyễn Đình Tú cho
thấy thế giới tâm hồn vô cùng phức tạp ở người phụ nữ. Nó bị bọc kín bởi vẻ
ngoài hiên ngang, kiêu hùng trước cuộc đời. Nhưng nhà văn đã bóc tách dần để
thế giới nội tâm ấy hiển hiện với biết bao trạng thái, cảm xúc. Mỗi trạng thái cảm
xúc lại cho thấy một tính cách, một hoàn cảnh, một số phận riêng của họ. Nhưng
tất cả dường như đều mang thiên tính nữ, yếu đuối và dễ bị tổn thương.
Đi cùng với việc miêu tả nội tâm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú thường là thủ pháp dòng ý thức, hình thức đối thoại và độc thoại nội tâm.
Với những thủ pháp này, Nguyễn Đình Tú đã để cho nhân vật trải lòng mình ra,
hòa mình vào dòng ý thức với những suy tư, trăn trở, dằn vặt miên man về những
gì đã xảy ra và đang diễn ra trong cuộc sống xung quanh mình. Nhân vật nữ của
Nguyễn Đình Tú cũng không ngừng tự đặt ra cho mình những câu hỏi tự vấn
nhằm tìm ra cho mình lời đáp trước những vấn đề phức tạp, trước những bộn bề
cuộc sống. Chính những điều này đã làm cho nhân vật nữ trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú trở nên gần gũi nhưng cũng đầy tâm trạng.
Độc thoại nội tâm cũng chiếm một số lượng khá nhiều trong chân dung
nhân vật nữ ở tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Nếu như ngôn ngữ đối thoại thường
là ngôn ngữ được dùng để hướng đến người khác, điều kiện quan trọng nhất
của đối thoại là phải có nhân vật đối thoại thì ngôn ngữ độc thoại lại không cần
hướng đến người khác, cũng không nhằm vào mục đích giao tiếp, tìm kiếm sự
thật hay chân lí. Với ngôn ngữ độc thoại nhân vật thường nói về những điều
mình đã biết hoặc tự bộc lộ thái độ, tình cảm đối với con người và sự việc xung
quanh. Trong độc thoại, Nguyễn Đình Tú đặc biệt phát huy vai trò của ngôn
ngữ độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm là “ tiếng nói bên trong tâm hồn nhân
vật, là ý nghĩ thầm kín, là lời tự nhủ thầm của nhân vật hoặc nhân vật nói to lên
với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, làm hiện rõ
con người bên trong của nói” [17, tr.125] . Như vậy, có thể hiểu độc thoại nội tâm
76
là những suy nghĩ thầm kín bên trong, là lời tự nhủ thầm của nhân vật và qua đó
bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, làm hiện rõ con người bên trong của nó.
Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú thường là
những con người có số phận kém may mắn. Đứng trước những bộn bề của cuộc
sống, trước sự thay đổi phức tạp trong xã hội thời hiện đại đầy những bất trắc,
hiểm nguy luôn tiềm ẩn trong cuộc sống, những người phụ nữ thường dễ bị
chấn thương tâm lý một cách nặng nề. Hơn nữa, theo thời gian, người ta tưởng
những vết thương lòng có thể nguôi ngoai nhưng với nhân vật nữ của Nguyễn
Đình Tú thì nó vẫn cứ âm thầm gặm nhấm để rồi có lúc nó cuộn dâng thành
những con sóng lớn làm tâm hồn con người bị chao đảo, thậm chí bị nhấn
chìm. Nhà văn đã vén bức màn cho người đọc biết “cuộc sống bên trong” của
mỗi cá nhân bằng cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được sử dụng khá
linh hoạt, sắc sảo. Đó là cách nhà văn tạo ra các cuộc chất vấn bản thân của
nhân vật và nó luôn diễn ra căng thẳng, gay gắt: “Quỳnh ngồi dậy, thay váy
rồi chợt nghĩ đến việc tại sao lại phải ngủ? Nhốt mình trong phòng là điều
ngu dốt lắm sao?” [65, tr.144]. Hoặc là: “Biết đâu Bụi đời chúa vẫn đang ở đó
thì sao? Kệ gã. Có khi gã biến đi gặp người quen rồi. Mà chắc gì đã có người
quen? Biết đâu lại đi tìm gái cũng nên. Ở gã đâu có thứ đạo đức gì đã ràng
buộc?” [65, tr.144]. Phải chăng những ngổn ngang trong lòng Quỳnh khó được
giải quyết, những câu hỏi dồn dập ẩn chứa tâm trạng phấp phỏng, lo âu, khát
khao đi tìm lại chính mình. Hay đó là những ý nghĩ chồng chéo, dằng dặc giữa
thực và ảo, giữa quá khứ và hiện tại, là sự chắp nối giữa những ám ảnh, sợ hãi
và giấc mơ… Mọi suy nghĩ, kí ức sâu kín, ẩn ức tinh thần, những nỗi khắc
khoải, cô đơn, sợ hãi diễn ra trong nội tâm của nhân vật đều được kể lại một
cách khách quan. Có thể lấy ví dụ một đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật
Quỳnh khi ở trong trạng thái sợ hãi: “Mẹ đừng làm con sợ… Con phải đi. Con
cũng chưa biết là sẽ đi đâu. Có lẽ con cứ tìm đường về Hải Thành. Ở đó chắn
chắn vẫn còn nhà ga, còn chợ Kẻ Mơ, còn quê nội với nấm mồ nhỏ bên gốc đa
giữa cánh đồng làng. Con cũng chẳng biết về đó rồi con sẽ làm những gì, sẽ
77
gặp những ai, sẽ sống ra sao, nhưng con cần phải đi khỏi Hà Thành này. Con
cần phải xa bố, xa căn biệt thự có những khóm hoa lam tường đẹp đến nao
lòng, xa tất cả những gì đang hiện hữu quanh con. Con đau. Tất cả đang đánh
đập con, chà xát con, giẫm đạp con. Con sợ. Con hãi. Con kinh khiếp. Con
đang chết. Và con thấy cái chết có màu, có mùi, có vị, có hình thù, có âm
thanh, có nhục cảm” [65, tr.12].
Qua hình thức độc thoại nội tâm, người đọc nhận thấy thế giới nội tâm
của Quỳnh được soi chiếu bởi những hình ảnh trong quá khứ và hiện tại đan cài
vào nhau. Hiện tại là nỗi đau đớn, sợ hãi. Quá khứ là những gì êm đẹp nhất với
nhà ga, chợ Kẻ Mơ, gốc đa, cánh đồng làng. Những hình ảnh ấy lần lượt hiện
lên trong tâm thức cùng với sự hoảng loạn, vô phương hướng của nhân vật.
Dường như nhà văn đang đứng ở một góc khuất nào đó bên trong nội tâm nhân
vật mà quan sát và kể lại những điều trông thấy, cảm thấy. Nhờ vậy mà người
đọc thấy được cả nỗi đau thẳm sâu của nhân vật.
Nỗi đau thường không có hình hài nhưng nó lại có khả năng xé nát tâm
hồn con người. Nó hiện hữu trong cuộc đời con người mà họ không có cách
nào trốn thoát. Bằng hình thức độc thoại nội tâm, nhà văn miêu tả nỗi đau đến
tột cùng của Hương ga trong Phiên bản khi Tùng bị xử bắn. Trong đau đớn, cô
đơn, thị tìm đến rượu để nói chuyện với chồng nhưng chính là độc thoại với
chính mình: “Nào, rượu! Chồng ơi, sao chồng không uống mà cứ nhìn vợ mãi
thế? Có biết là chồng chết thì yên cái thân chồng, còn vợ khổ thế nào không…
Nào, thế thì uống đi. Uống đi mà chia sẻ với vợ. Uống đi mà sống khôn chết
thiêng phù hộ cho vợ đứng vững giữa cuộc đời này. Nghe chưa? Nào, uống!”
[64, tr.51]. Chồng chết, Hương ga trở lên cô độc trên cõi nhân gian, không con
cái, không chỗ nương thân. Thị rơi vào bế tắc đến tột cùng. Đoạn độc thoại như
bộc lộ tất cả nỗi niềm lo lắng, sợ hãi, mất phương hướng của thị. Nỗi đau đã
khiến thị ứa ra một câu đầy phiền muộn: “bây giờ sống thế nào đây hả mày”.
Sống thế nào đây? một câu hỏi nghe có vẻ hơi thừa nhưng với nhân vật nữ
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú lại luôn phải trăn trở mà chưa tìm được câu
trả lời. Với thị, sống thế nào trong thế giới giang hồ khi từ xưa đến nay “gái
78
nhờ uy chồng, người đẹp dựa thế các đấng quân vương”. Bây giờ đấng quân
vương của thị không còn, số phận của thị sẽ ra sao? Thị sống tiếp thế nào?
Những câu hỏi đầy bi kịch như là một cách để nhắc nhở con người về con
đường họ lựa chọn để đi và sống tiếp.
3.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ nghệ thuật
Nếu nhà điêu khắc thường sử dụng các chất liệu hình khối để tạo sản
phẩm, các nhạc sĩ chọn âm thanh và họa sỹ chọn màu sắc để xây dựng tác
phẩm nghệ thuật của mình thì nhà văn sử dụng ngôn ngữ. Từ ngôn ngữ đời
sống sinh hoạt các nhà văn nhào nặn, sử dụng theo ý đồ nghệ thuật riêng để
tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật. Gorki đã viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học
là ngôn ngữ’. Ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những phương tiện quan
trọng được nhà văn sử dụng để biểu hiện cuộc sống, soi chiếu trung thực những
suy nghĩ và đời sống tinh thần của con người. Ở mỗi thời đại, ngôn ngữ “gắn
với đặc trưng tư duy hình tượng của thời ấy, là “hóa thạch” của đời sống tâm
lý, xã hội một thời, là tấm gương phản chiếu gần xa ý thức thẩm mỹ, luân lý,
chính trị thời ấy” [48, tr.152]. Trong những năm đổi mới, sự thay đổi tư duy
nghệ thuật trong văn học dẫn tới sự thay đổi trong cách sử dụng ngôn ngữ
của văn học thời kỳ này, nổi bật là ở thể loại tiểu thuyết. Với tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú, chúng ta thấy nhà văn trẻ đã sử dụng ngôn ngữ miêu tả
nhân vật sinh động và đa dạng phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, tâm sinh lí,
giới tính… Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để khắc họa
hình tượng nhân vật nữ sẽ cho thấy những đóng góp của Nguyễn Đình Tú
cho tiến trình phát triển của văn học đương đại. Trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú, ngôn ngữ nhân vật nữ mang những đặc trưng riêng và được biểu hiện
ở nhiều phương diện, trong đó nổi bật kiểu ngôn ngữ thông tục đời thường và
ngôn ngữ mang màu sắc sex.
3.2.1. Ngôn ngữ thông tục, đời thường
Ngôn ngữ thông tục là ngôn ngữ xuất hiện trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày, mang tính chất thế tục. Trong văn học trung đại, khi ngôn ngữ điển tích,
79
ước lệ lên ngôi, kiểu ngôn ngữ này ít được sử dụng. Trong văn học hiện đại,
ngôn ngữ thông tục đời thường khá phổ biến. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại có
cách sử dụng ngôn ngữ thông tục, đời thường theo phong cách riêng của mình.
Việc sử dụng ngôn ngữ thông tục làm cho nhân vật trong văn học trở nên gần
gũi, chân thực như chính con người thực. Trong tiểu thuyết của mình, nhà văn
Nguyễn Đình Tú dùng khá nhiều ngôn ngữ thông tục để miêu tả nhân vật nữ
khiến cho các nhân vật nữ của anh có một màu sắc riêng, khá đặc biệt. Và trong
từng hoàn cảnh, họ bộc lộ được những nét tính cách khác nhau, đa dạng, phức
tạp: khi thì đầy nữ tính, lúc lại mạnh mẽ, táo bạo, khi tầm thường có lúc lại cao
thượng, khi thể hiện tâm trạng lo lắng, sợ hãi, khi lại thể hiện thái độ bất cần…
Và luôn thể hiện cá tính riêng của những kẻ mang danh nữ hoàng đen.
Hình ảnh mẹ của Đàn (Hồ sơ một tử tù) hiện lên thật thà, chất phác, quen
với vất vả, nhọc nhằn qua cái nhìn cuộc sống đầy lạc quan, thanh thản, như tự
nhiên vốn có: “Thì tao đi cấy ở ngoài đồng, mày đòi chui ra, tao chạy đến gốc
bạch đàn, chẳng nhịn được nữa ngồi xuống đấy cho ra mày” [61, tr.8]. Thông
qua những từ ngữ đậm chất đời thường, việc sinh ra một con người đối với một
người bình dân hết sức đơn giản và nhẹ nhàng.
Cách nói có sử dụng ngôn ngữ đời thường của mợ Minh Việt (Bên dòng
Sầu Diện) lại làm hiện lên hình ảnh một người phụ nữ sắc sảo, biết lo toan, tính
toán, luôn thấu hiểu lẽ đời: “Cứ yên yên một tí là lại nghỉ đẻ. Nghỉ xong đi làm,
nó lại tống bố nó sang chỗ khác. Thôi bây giờ tắt vòi lại, không đẻ nữa, để ít
hôm rồi bảo bác Mộc xin sang chỗ tổ kem” [62, tr.141]. Ngôn ngữ bình dân
đến bỗ bã đó đã thể hiện một hiện thực không đơn giản về vấn đề việc làm của
những người phụ nữ sau khi sinh con.
Ở Nháp, cách nói rất đời thường nhưng đầy thách thức của Yến “Anh
hãy chứng tỏ điều gì đó hơn Jack đi” đã chạm đến lòng tự trọng của Thạch,
khiến Thạch đau khổ và bị tổn thương sâu sắc. Thạch đã thốt ra những câu chửi
đau đớn: “Gái đĩ già mồm. Không sinh lý thuần túy thì là gì? Tình yêu ư? Tình
yêu là cái thổ tả gì?” [63, tr. 93]. Ngôn ngữ thông tục trong cách nói của Yến
80
và Thạch cho thấy bi kịch sinh lý mà con người phải đối diện trong cuộc sống
thời hiện đại.
Ngôn ngữ thông tục, đời thường của cuộc sống thể hiện trong Nháp chủ
yếu được sử dụng trong đối thoại giữa các nhân vật, tuy nhiên, số lượng và tần
xuất sử dụng khá khiêm tốn so với Phiên bản và chủ yếu là gắn với nhân vật
nam. Trong Phiên bản, Nguyễn Đình Tú đã mạnh dạn để cho dòng ngôn ngữ
thế tục của đời sống chợ búa, giang hồ ùa vào những trang viết của mình. Đặc
biệt, thông qua lớp ngôn từ đó một thế giới xô bồ, hỗn độn hiện ra với những
chân dung nhân vật nữ bá chủ thế giới ngầm. Mật độ sử dụng các từ ngữ tục tĩu
trong tác phẩm khá cao và chủ yếu gắn trực tiếp với các nhân vật nữ. Mụ béo
hiện lên qua những lời chửi tục tĩu là một kẻ ngoa ngoắt, vô văn hóa, mất hết
nhân tính. Dường như với mụ, việc khơi sâu nỗi đau và xát muối vào vết
thương của người khác là niềm vui làm mụ hả lòng hả dạ. Mụ hiện lên là một
con buôn đanh đá, chua ngoa với thứ ngôn ngữ chợ búa. Mụ béo chửi Mỹ:
- “Đuổi hết mẹ cái lũ không có quầy cứ lấn chiếm lung tung đi” [64, tr.130].
- “Quá đáng hay không mặc mẹ tao (…). Đéo chết tàu, chết xe, chết
đường, chết chợ, chết sông, chết biển là được” [64, tr.130].
Mụ không dừng ở đó mà tiếp tục chửi như đang trong cơn hứng chửi đã
bị kìm nén rất lâu, nay mới được thỏa thuê tuôn ra:“Tiên sư nó chứ, may mà
mang được cái thân tan nát về, chả chó nào nó thèm ngửi, lại còn lên mặt dạy
đời. Bà thì bà cứ vả vào mồm cho ấy chứ.” [64, tr.131]. Mụ không buông tha
mà vẫn chửi Diệu khi cô đã bỏ đi. Thậm chí bà ta còn chửi thẳng, không úp
mở: “Cái đồ vượt biên, hay ho đéo gì mà còn ra vẻ thương người. Thân mình
đéo lo nổi, còn lắm chuyện” [64, tr.132]. Mụ bán hàng quá quắt đến độ: “Nào,
đ mẹ mày, có muốn bà cho biết thế nào là lễ độ không? (…) Con khốn nạn này.
Đánh chết cha nó đi” [64, tr.135]. Hàng loạt từ ngữ thô tục, đời thường được
mụ béo sử dụng để chửi rủa, đay nghiến, để nhục mạ người khác cho thấy bản
chất của những kẻ buôn bán tranh cướp nơi chợ búa thật ghê gớm. Dường như
81
chửi rủa đã trở thành một thứ vũ khí cho họ lên mặt với đời, để thị uy kẻ khác
và thậm chí còn dồn đẩy người khác đến bước đường cùng.
Và đây, chân dung nữ hảo hán của thời đại bắt đầu hiện lên qua những
nét vẽ đầu tiên bằng ngôn ngữ: “Mày hèn thế, bóp dái chết mẹ nó đi chứ để nó
đánh thế à?” [64, tr.136]. Diệu đã sử dụng ngôn ngữ thông tục, đời thường với
những lời văng tục như là một sự “tức nước vỡ bờ”. Khi không thể nhẫn nhục
hơn trước những lời chửi rủa của mụ béo và hành động bạo ngược của Tuấn
chợ đối với Mỹ thì trong Diệu đã bung ra một cuộc trỗi dậy. Cơn giận như
thiêu như đốt, làm bùng lên trong Diệu sự bất cần tất cả: “Cái đời này khốn nạn
quá thể”, “đời còn cái chó gì nữa đâu mà tiếc”, “cháy hết cả cõi nhân gian
chó má này đi”, “cháy hết đi. Từ nay dí l. vào cái chợ này. Thằng nào muốn thì
cứ đến gặp con này. Đ.mẹ nó. Chết là cùng chứ gì. Con này đéo sợ chết đâu…”
[64, tr.137]. Sự chịu đựng nhẫn nhục, đau khổ đến cùng cực, tuyệt vọng của
Diệu như vỡ òa ra qua từng câu, từng chữ. Cô trở nên liều lĩnh, và lột xác từ
một cô Diệu nhu mì cam chịu thành một Hương ga lăng loàn, chanh chua, liều
mạng và dần trượt dài trên những bước đường tội lỗi.
Hương ga đã không ngần ngại chỉ ra bản chất của vấn đề đằng sau mĩ từ
mà Hưng mã gọi là “giải quyết bằng tình cảm” với Tuấn chợ: “Làm đéo gì có
cái gọi là giải quyết tình cảm. Khốn nạn! Chỉ là làm cái chuyện mèo chuột với
nhau cho xong mẹ nó đi thôi, tình cảm, tình kiếc cái đéo gì!” [64, tr.227]. Tác
giả đã hé lộ bản chất của những kẻ xã hội đen nơi chợ búa đó: không có tình
cảm chân tình, chỉ là sự lợi dụng nhau mà thôi. Và cuộc đời dường như trớ trêu
hơn, tất cả đều khép lại với Hương ga từ sau ngày cô đi trại về: “Đ. Mẹ, từ ngày
đi trại về toàn thằng tìm tao đòi oán, giờ mới thấy có thằng trả ơn”; “không
quen biết gì thì làm đếch gì có chuyện ơn với huệ” [64, tr.234]. Những câu chửi
tuy ngoa ngoắt, thô tục nhưng ẩn chứa sự nhục nhã, đau đớn không lối thoát
cũng như sự bất lực, không tìm được chỗ dựa nương thân của một cô gái vừa ở
tù ra. Khi đã chính thức trở thành Nữ hoàng đen, bá chủ thế giới ngầm, Hương
ga dùng ngôn ngữ thông tục ấy để khẳng định “khí phách của một con cái
ngang tàng, một ái phi lọc lõi, một nữ giang hồ tầm cỡ, một mụ đàn bà quyền
82
lực, một phận gái cơ mưu và quyền biến”. Chẳng hạn, cách Hương ga đưa nhận
xét về kế hoạch cướp tù của mình: “Nhưng tù tội cũng là thứ chó chết nhất. Đó
là một khái niệm mù mờ mà hiện thực, bảng lảng mà gần gũi, khắc nghiệt mà
khốn nạn…” [64, tr.25] cho thấy khí phách và cơ mưu của thị. Khẳng định rõ
hơn vị trí tầm cỡ của một nữ giang hồ là cách thị dằn mặt bọn chủ sòng bạc có
ý định lật thị: “Tao cho mày đúng một tuần làm ma cho chồng và đám đệ tử
chó chết của mày. Rồi sang gặp tao bàn chuyện nhượng hồ. Mày còn cứng đầu
nữa thì tuần sau người nằm trong quan tài là mày” [64, tr.29]. Hay “Chậm hồ
không có lý do thực chất là chống lại tao. Tao chặt của mày một ngón tay trỏ
để mày đừng nghĩ đến chuyện đổi thùng, phản chủ” [64, tr.31]. Còn với bọn
đàn em, việc dùng ngôn ngữ thông tục để giúp Thị có uy thế, đàn em phải nể
sợ. Thị có thể nói với Mĩ chột, người thân cận với thị: “mẹ mày, cái con Mỹ
kia, mày biến mẹ mày đi (…). Mẹ mày, con chột này, mày muốn chết hả?...”
[64, tr.52] một cách nói rất ngang tàng, nhưng cũng rất có uy.
Có thể nói, ở Phiên bản ngôn ngữ tục tĩu, chợ búa được sử dụng rất
nhiều ở các nhân vật nữ khi họ bị xô đẩy vào con đường tội phạm. Ngoài Diệu
có thể kể đến Mĩ chột, nhân vật cũng thường xuyên sử dụng ngôn ngữ tục tĩu,
đời thường như một sự đáp trả lại cuộc đời đầy cay nghiệt: “Mỹ lừ lừ nhìn thị
bằng một mắt còn lại, mày bắn đi, bắn chết mẹ tao đi, rồi mày cũng dựa cột
như ông Tùng này này. Ngu lắm. Đ.mẹ, sống mới khó chứ chết thì khó đéo gì
(…). Ba ngày không ăn gì, chỉ uống rượu thì chết cha mày à. Ngu thế. Tội đéo
gì mà phải thế. Ông Tùng đã chết rồi có sống lại được đéo đâu. Mình phải
sống chứ. Đời ra cái đéo gì đâu nhưng có thằng đéo nào không muốn sống
đâu. Mà mày đéo nghĩ đến anh em à?” [64, tr.53]. Chỉ trong một đoạn văn
ngắn xuất hiện tới sáu từ “đéo” cùng một loạt các từ chửi thề khác. Cách nói
chuyện và cách sử dụng ngôn ngữ này phản ánh rõ nét cuộc sống của giới
giang hồ. Cuộc sống đó chứa đựng đầy rẫy những cái xô bồ, xấu xa, tội ác và
cả sự đau đớn như chính ngôn ngữ họ sử dụng hàng ngày vậy.
Đưa một loạt các từ ngữ của đời thường, trong đó chiếm tỉ lệ lớn là
những từ ngữ thông tục, thậm chí thô tục của những kẻ chợ búa, xã hội đen vào
83
các tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú đã cho thấy chân dung nhân vật nữ
trong một thế giới sống động, chân thực như vốn có ngoài đời. Mặt khác lớp
ngôn từ này cho thấy sự táo bạo trong việc sử dụng vật liệu ngôn ngữ của nhà
văn trẻ này. Tiểu thuyết của anh góp phần khẳng định sự cần thiết của việc dân
chủ hóa ngôn từ đời thường và chức năng của nó trong việc xây dựng chân
dung nhân vật phản diện. Đồng thời tác giả cũng chứng minh rằng, ngôn ngữ
thông tục đời thường kia có khả năng đi vào tiểu thuyết với một giá trị thẩm mĩ
mới, góp phần làm tăng giá trị hiện thực của tiểu thuyết trên phương diện ngôn
ngữ. Và nhờ thứ ngôn ngữ đó, nhà văn đã phản ánh được đúng hiện thực xã hội
phức tạp, đặc biệt là xã hội của những tay anh chị trong giới giang hồ.
3.2.2. Ngôn ngữ mang màu sắc sex
Ngôn ngữ sex được sử dụng khá nhiều trong tiểu thuyết của Nguyễn
Đình Tú nhưng luôn có chừng mực, không quá lộ liễu mà cũng không quá dè
dặt. Nhà văn luôn chọn điểm dừng đúng lúc, đúng chỗ vừa đủ để kích thích
trí tưởng tượng và sự thăng hoa của nhân vật khi được miêu tả trong quan hệ
sex. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú đã sử dụng ngôn ngữ rất
phong phú, linh hoạt khi miêu tả các bộ phận sinh dục. Mã ngôn ngữ tác giả
sử dụng chủ yếu là những từ ngữ giàu tính hình tượng, chẳng hạn như: cái
chồi xuân, mầm chồi, khe sâu, khe nước ngọc, đôi gò bồng đảo, dòng nguyên
khí, dâm thuỷ… (Kín), mỏm đồi căng mẩy, cái hang sâu, miền hoang vu ẩm
ướt (Nháp), vùng nhạy cảm thần tiên, bộ phận trời cho (Hồ sơ một tử tù)…
Dù sử dụng ngôn ngữ nào để miêu tả sex thì tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú vẫn
hướng tới chỗ để gợi cảm xúc và ít nghiêng về tính chất dâm tục. Sex mà
không thô tục, trái lại còn khá tinh tế bởi trong mỗi lần sex ấy, nhà văn lại
muốn gửi vào đó một ý đồ nghệ thuật nhất định. Trong sex có tâm trạng, có
khát vọng, có hoàn cảnh, số phận… của mỗi người phụ nữ.
Cũng hướng tới phản ánh số phận, bênh vực, trân trọng những khát khao
dục tính, bản năng rất tự nhiên của người phụ nữ, các nhà văn nữ thế hệ 7X như
Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư… khá táo bạo, sắc sảo khi mượn sex để đấu
tranh đòi quyền tự do được yêu, được hạnh phúc, được sống đúng với cảm xúc
84
thật của mình. Song với các nhà văn nữ dám công khai viết về tính dục thì
đương nhiên họ sẽ bị sức ép từ nhiều phía nên viết về sex dù có xông xáo, bạo
liệt đến bao nhiêu đi chăng nữa họ vẫn không tránh khỏi những e dè, những
mặc cảm và đặc biệt họ vẫn giữ cách nói ý nhị của giới nữ. Chẳng hạn, trong
Cánh đồng bất tận, cảnh huống sex được miêu tả khá tỉ mỉ qua cảnh cưỡng bức
nhân vật “chị”. Mặc dù, nhà văn sử dụng nhiều ngôn ngữ sex để tái hiện cảnh
chị bị cưỡng bức với những lõa lồ, ề chề, đau đớn nhưng phần lớn vẫn chỉ là
gợi liên tưởng một cách toàn cảnh chứ không phải miêu tả trực diện, cụ thể,
giàu hình ảnh như trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Hay với Bóng đè, Đỗ
Hoàng Diệu đã thể hiện sự bứt phá, sức truyền đạt cùng phong cách của một
giọng văn nổi loạn, tràn đầy nhục cảm, một cách thể hiện mới lạ của văn
chương đương đại với sex. Đỗ Hoàng Diệu vẫn chỉ dừng lại ở việc ám chỉ,
miêu tả gián tiếp bằng việc đưa sex vào trong giấc mơ. Mượn hiện tượng bóng
đè trong giấc mơ để diễn tả những trạng thái cảm xúc rất phức tạp của nhân vật
“tôi” trong những lần cùng chồng về quê làm giỗ. Nằm trên chiếc giường tám
đời của tổ tông, hằng đêm những bóng đen của tổ tiên cứ hiện về làm tình, làm
tội cô khiến cô khi thì kinh hãi, khi thích thú, lúc lại mang cảm giác tội lỗi, khi
lại như thách thức trước cái nhìn hắt ra hằn học, cay nghiệt của người mẹ
chồng, khi thì tự xấu hổ với chính mình, lúc lại thương xót cho người chồng
không thể hiểu và cũng không thể thỏa mãn khao khát nhục cảm của vợ mình.
Mượn hiện tượng bóng đè, nhà văn muốn nói đến mặt trái của những hủ tục,
phê phán, lên án, phản kháng chống lại những hủ tục của quá khứ. Đồng thời
lên tiếng ủng hộ những điều mang tính bản năng của con người nói chung và
người phụ nữ nói riêng mà lâu nay bị che khuất hay bị cấm kị. Qua đó tác giả
muốn thể hiện khát vọng tự giải thoát mình khỏi những trói buộc vô hình của
những hủ tục trong quả khứ.
Với Nguyễn Đình Tú, khi viết về sex anh không phải ám chỉ, bóng gió,
không gián tiếp, không dừng lại miêu tả toàn cảnh mà trực tiếp dùng ngôn ngữ
sex để miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, sinh động những cảnh ái ân nam nữ mà nhiều khi
nhân vật nữ là người chủ động gợi tình, bộc lộ chân thực khát khao dục tính
85
bản năng của mình. Ví như trong Kín, ngôn ngữ sex miêu tả cuộc mua bán trinh
chịu giữa cô bé Lửa cháy và Kiên đã thể hiện những khát khao tìm hiểu bản
thân mình của những đứa trẻ mới sớm bị vứt ra ngoài rìa của cuộc sống có giáo
dục có văn hóa. Sex nhưng lại gợi ra một nỗi xót thương cho số phận của
những đứa trẻ bụi đời trong cô đơn, trong khốn cùng khi chúng tìm đến nhau
trong sự dâng hiến sẻ chia: “…Cái chồi xuân không chịu chờ đợi ý nghĩ xa vời và
viển vông ấy. Những cánh tay cứ thế ôm chặt lấy nhau. Cái chồi xuân mới nhú cứ
thế tìm đến khe nước ngọc mà thả sức vươn mình lớn bổng. Hai cơ thể mới lớn lần
mò mẫm, trưởng thành lên trong khoái cảm giao hợp diệu kì” [65, tr.202].
Để thực hiện ý đồ nghệ thuật ấy, người viết cần có vốn ngôn ngữ sex
phong phú và cách sử dụng từ điêu luyện, tài năng, khiến ngôn ngữ miêu tả sex
của Nguyễn Đình Tú chân thực mà không thô tục:
- Bọt cũng theo ngón tay luồn lách khe sâu, lượn lờ gò đồi, mải mê bờ
thửa, tí tách mầm chồi [65, tr.214].
- Hắn ôm chặt lấy người Me và đổ hết tất cả những gì còn lại trong chiếc
giỏ gần như rỗng không vào những tầng nấc sâu hoắm nơi vùng đồi căng mẩy
giữa hai đùi của Me… Mỏm đồi căng mẩy ấy không ngừng bốc lên hạ xuống
với những cú thám hiểm xuyên mọi tầng nấc [63, tr.216-127].
Cũng trong cùng một tác phẩm, cùng miêu tả sex nhưng nhà văn lại
chọn miêu tả trong những cảnh huống khác nhau, đối tượng tìm đến sex với
mục đích khác nhau nên không bao giờ có sự trùng lặp. Vì thế, sex của
Nguyễn Đình Tú không nhàm chán mà luôn mới mẻ, hấp dẫn.
Trong Nháp khi miêu tả buổi lễ Linh tinh tình phộc, một hình thức
sinh hoạt mang tính quần hôn, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ của văn
hóa dân gian nhằm hướng người đọc không phải đến với sex một cách thuần
tuý mà đau đáu một nỗi lo âu, sự trăn trở về sự xuống cấp đến tột cùng của
đạo đức con người, nhất là của thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại khi được nguỵ
trang bằng hình thức văn hoá truyền thống! Con người được gọi bằng tên
của loài vật với Khỉ, Chó, Lợn, Hổ, Gà, Rồng, Rắn, Ngựa, Trâu, Chuột, Mèo
và thực hiện những hoạt động tình dục mang tính bản năng: “Khỉ không còn
86
biết mình là ai và không nhớ nổi bất cứ điều gì nữa kể từ khi tấm vải điều trên
đầu rơi xuống và những mảnh áo giấy lần lượt bị giật ra khỏi người. Chó cắn,
Lợn cào, Hổ vồ, Gà mổ, Ngựa đá, Rồng lượn, Rắn bò, Trâu húc, Chuột gặm,
Mèo vờn...Cảm giác nóng bỏng, căng cứng làm Khỉ như muốn bốc thành ngọn
lửa thiêu cháy hết tất cả mọi thứ xung quanh. Bất cứ con giáp nào đến với Khỉ
cũng nhận thấy xúc cảm mạnh mẽ đang dâng trào mãnh liệt từ phía sau tấm
mặt nạ vô hồn kia. Chó - Mèo lăn xả vào nhau cùng với thứ âm thanh nồng nàn
ma quái hắt ra từ hai chiếc loa thùng để ở góc nhà. Rồng - Rắn cũng quấn lấy
nhau, rập rình theo điệu chầu văn da diết” [65, tr.429-430].
Ngôn ngữ sex trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú rất linh hoạt, lúc kín
đáo cầu kì nhưng cũng có lúc ngắn gọn, không cần có dấu hiệu của cảm xúc.
Ví như cuộc tình với thầy giáo gia sư tiếng Anh: “Trong lúc Quỳnh ơ hờ ngồi
ăn thanh long, bỗng anh ta tiến lại sau lưng và khẽ gắn lên một nụ hôn lên gáy
Quỳnh. Lớp váy được tốc lên ngay sau đó và chiếc áo phông của anh ta cũng
nhanh chóng bị vuột khỏi đầu” [65, tr.177]. Ngôn ngữ miêu tả ngắn gọn, trần
trụi bởi cuộc làm tình của họ chỉ là để giải quyết vấn đề sinh lí.
Ngôn ngữ miêu tả sex của Nguyễn Đình Tú còn mang ý nghĩa đầy
nhân bản. Bởi trong mỗi ngôn từ đó có cả sự cảm thông, thấu hiểu, trân
trọng nhau ngay cả khi người đó là một cô gái điếm. Nhà văn đã tinh tế dành
cho cô gái điếm sự sẻ chia rất đáng quý, để thấy rằng dù họ có đang làm
công việc nhơ nhuốc thì họ vẫn là những con người, vẫn có tình cảm, vẫn
khát khao được yêu thương. Trong Nháp, cảnh ái ân giữa cô gái điếm “Thảo
một vé” và Đại được miêu tả đầy cảm động: “Giọng Thảo rưng rưng như
sắp khóc. Thảo chỉ là một con điếm nên không đủ hứng thú với Đại. Chắc
Thảo nghĩ thế. Và cô ấy sẽ rất tủi cho thân phận mình. Đại muốn nói là
không phải thế, nhưng không phải thế thì sao lại thế? Đại bật dậy lục túi tìm
viên ngọc ước của Thảo. Chỉ vài phút sau Đại đã có thể chiều được Thảo.
Những cú thúc của Đại luôn được Thảo đón nhận bằng những tiếng rên
cộng lực. Đại đẩy liên tục, Thảo dướn mê say. Đại nằm nghiêng, Thảo ngả
theo. Đại quỳ gối, Thảo quỳ theo…” [63, tr.198].
87
Quả là, nhờ có vốn ngôn ngữ miêu tả sex đa dạng, phong phú, nhà văn
đã giúp người đọc đón nhận sex một cách cởi mở hơn. Cùng sự cởi mở với
sex là sự cởi mở của tâm hồn biết thấu cảm những nỗi lòng sâu kín ở người
phụ nữ mà nhiều khi sex là cách để họ giải tỏa những ẩn ức tình dục, những
bất hạnh về thể xác, những chấn thương tinh thần, những ám ảnh vô thức
hay những nỗi đau thân phận.
Tiểu kết chương 3
Khi xây dựng hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết, mỗi nhà văn lựa
chọn cách thức và những biện pháp nghệ thuật riêng để đạt được ý đồ nghệ
thuật của mình. Khắc họa hình tượng nhân vật nữ, nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú
đã phát huy thế mạnh trong việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật như miêu
tả ngoại hình, miêu tả nội tâm một cách phù hợp, sắc sảo. Đặc biệt, nhà văn
khéo léo, tinh tế vận dụng sáng tạo hệ thống ngôn ngữ thông tục đời thường,
ngôn ngữ mang màu sắc sex theo cách riêng, để đằng sau lớp ngôn ngữ ấy
người đọc như thấy cả hoàn cảnh, số phận, tâm hồn, tình cảm, khát vọng… của
người phụ nữ. Nhờ đó mà hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú luôn để lại những ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc. Bên cạnh
những thành công đáng ghi nhận trong nghệ thuật thể hiện nhân vật nữ, tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú vẫn còn một số hạn chế nhất định đặc biệt là việc xây
dựng nhân vật qua dòng hồi tưởng, tâm thức nhiều khi làm cho cốt truyện lỏng
lẻo, mạch truyện dàn trải, đôi khi đứt quãng khiến người đọc có cảm giác khó
tiếp nhận.
88
KẾT LUẬN
1. Trước yêu cầu đổi mới văn học nhằm đáp ứng thị hiếu của độc giả
trong thời đại mới, tiểu thuyết nhanh chóng bắt nhịp và phản ánh một cách toàn
diện cái phức tạp, đa dạng và phong phú của cuộc sống. Góp phần đưa tiểu
thuyết trở thành một trong những thể loại quan trọng của văn học thời kỳ đổi
mới phải kể đến đội ngũ những nhà văn trẻ thế hệ 7x, 8x, trong đó có nhà văn
Nguyễn Đình Tú, người được Ma Văn Kháng đánh giá là “nhà tiểu thuyết lực
lưỡng”. Hơn mười năm sáng tác, Nguyễn Đình Tú đã trình làng 8 cuốn tiểu
thuyết và một số tập truyện ngắn. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú đã cho thấy
kinh nghiệm, bản lĩnh, sự nhạy bén của một nhà văn trẻ trước cuộc sống. Là
một nhà văn quân đội, từng học ngành luật và làm ở Viện kiểm sát, tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú đã đưa người đọc đi sâu khám phá những góc khuất của đời
sống xã hội thông qua hình tượng các nhân vật.
2. Trong tiểu thuyết nhân vật luôn được coi là linh hồn của tác phẩm, là
hạt nhân của mọi sự sáng tạo nghệ thuật, và là trung tâm để nhà văn giải quyết
những vấn đề của xã hội. Được coi là một tác phẩm tự sự cỡ lớn, nên nhân vật
trong tiểu thuyết cũng được khắc họa một cách toàn diện, bao quát cả hoàn
cảnh, số phận, cuộc đời, quá trình thay đổi tính cách, tâm, sinh, lí… trong mọi
chiều hướng không gian, thời gian. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú gồm nhiều giai tầng và luôn bị đặt trong hoàn cảnh của cuộc đấu tranh
khốc liệt để chiến thắng chính mình trước những thử thách khắc nghiệt của
cuộc sống. Trong đó phải kể đến cuộc chiến của những người phụ nữ. Họ luôn
phải đấu tranh để thoát khỏi những bi kịch đau đớn mà họ gặp phải trong cuộc
đời. Điều đó đã thể hiện những nét riêng ở nhân vật nữ trong sáng tác của
Nguyễn Đình Tú.
3. Thế kỉ XX, nhân loại được chứng kiến những phong trào đấu tranh
cho nữ quyền ở nhiều nước trên thế giới, nhằm lên tiếng đòi quyền bình đẳng
cũng như đòi quyền lợi cho người phụ nữ. Ở Việt Nam cùng với quá trình giao
lưu, hội nhập vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX, quan điểm giới nhanh
chóng được du nhập và truyền bá với những luồng tư tưởng mới. Vấn đề nữ
89
quyền đã trở thành một hiện tượng văn hoá xã hội của thời đại. Và nữ quyền - ý
thức về hạnh phúc của người phụ nữ được khẳng định, ăn sâu vào tâm thức của
đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương
đại. Chưa bao giờ, âm hưởng nữ quyền lại được phản ánh, khai thác một cách
sâu sắc, phong phú ở tất cả các mặt như trong văn học Việt Nam giai đoạn này.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, âm hưởng nữ quyền khiến người đọc
không khỏi trăn trở bởi xã hội hiện đại đã nhào nặn nên những người phụ nữ
với nhiều khuôn diện đa dạng, phức tạp mà ngay chính bản thân họ cũng chưa
thể hiểu hết mình. Đó là việc họ phải đấu tranh quyết liệt để giành giật lấy sự
sinh tồn trong một xã hội đầy rẫy những cạm bẫy, phức tạp. Họ chủ động
khẳng định bản thân, khát vọng giải tỏa những ẩn ức và kiếm tìm niềm vui
trong tình yêu và sex, là sự đấu tranh không khoan nhượng để chống lại số
phận an bài, là khát vọng bá chủ thế giới ngầm, là sự mong manh đầy trắc ẩn
của thiên tính nữ ẩn chứa trong hình hài tội phạm… nhưng cuối cùng họ
thường bị rơi vào những bi kịch đau đớn hơn. Nhà văn đã đi sâu vào thế giới
nội tâm nhân vật cùng những góc khuất của cuộc sống để phát hiện ra những hệ
quả của nền kinh tế thị trường và sự xuống cấp giá trị đạo đức, những lỏng lẻo
trong mối quan hệ gia đình mà kết quả là con người, nhất là những người phụ
nữ trở nên tha hóa, biến chất từ lúc nào mà ngay bản thân họ cũng không biết.
Với cách tiếp cận khám phá và miêu tả nhân vật nữ ở nhiều góc nhìn khác nhau
đã chứng tỏ khả năng nắm bắt hiện hiện cuộc sống một cách sâu sắc, đồng thời
khẳng định thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn, say mê của một
nhà văn chân chính. Qua tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, bạn đọc trăn trở với
những suy tư về ý nghĩa của cuộc sống và những chân giá trị mà giới trẻ ngày
nay đang tìm kiếm. Nó như một lời cảnh báo về sự đô thị hoá và những khắc
nghiệt của cuộc sống hiện đại mà con người cần phải đối mặt và vượt qua.
4. Để xây dựng thành công nhân vật nữ trong sáng tác của mình, nhà văn
Nguyễn Đình Tú đã kết hợp sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó tập
trung ở nghệ thuật miêu tả ngoại hình, miêu tả ngôn ngữ, hành động, cử chỉ và
nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nhằm khắc họa rõ nét về cuộc đời, tính
90
cách và số phận đầy bi kịch của các nhân vật nữ trong xã hội hiện đại. Thành
công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ ở tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú còn
thể hiện ở việc sử dụng ngôn ngữ. Anh đã đưa vào tác phẩm lớp từ ngữ thông
dụng, gần gũi với đời sống, có khi là lớp ngôn ngữ của chợ búa để làm nổi bật
tính cách nhân vật và góp phần đưa văn học về với hiện thực vốn phức tạp, xô
bồ của cuộc sống. Đặc biệt, nhà văn luôn muốn xây dựng những hình tượng
nhân vật nữ dám sống với khát vọng, ham muốn tình dục đầy bản năng và cũng
rất đáng trân trọng của mình. Nguyễn Đình Tú đã sử dụng ngôn ngữ mang
màu sắc sex một cách sáng tạo, độc đáo, vì thế nhân vật nữ hiện lên chân
thực đến sống động. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc khắc họa tính cách nhân vật, giúp nhà văn xem xét cuộc sống,
con người ở nhiều khía cạnh không chỉ ngoại hình, tính cách mà cả thế giới nội
tâm sâu thẳm của người phụ nữ. Dường như nhà văn có cái nhìn trân trọng,
đồng cảm hơn đối với nhân vật nữ dù họ có là “nữ chúa giang hồ”, “bụi chúa
nhỏ”. Qua đây thể hiện được tài năng cũng như đóng góp của Nguyễn Đình Tú
cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại khi viết về vấn đề an ninh xã hội.
5. Có thể nói, tìm hiểu nhân vật nữ trong sáng tác của một tác giả tiểu
thuyết không phải lúc nào cũng dễ dàng đặc biệt là đối với những tác giả trẻ,
khi những đánh giá về tác phẩm của họ vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu
“Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú” là một đề tài mới mẻ, thú vị
song cũng nhiều khó khăn, thử thách. Chúng tôi không dám khẳng định có thể
trình bày được hết các vấn đề liên quan đến nhân vật nữ trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú mà chỉ hi vọng trong khả năng của mình đã phần nào khái
quát được những đặc điểm quan trọng, tiêu biểu về nhân vật nữ trong tiểu
thuyết của anh. Dù rất cố gắng nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót hay võ đoán trong cách thể hiện. Do đó, chúng tôi rất mong nhận
được những đóng góp quí báu để có thể đánh giá toàn diện và sâu sắc hơn về
nhân vật nữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, cũng như rút ra được cho mình
những kiến thức và kinh nghiệm bổ ích về đề tài và công việc nghiên cứu.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủy Anna (2010), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Kín”,
https://baomoi.com.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
3. Vũ Bằng (1996), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Trần Văn Bính, Nguyễn Xuân Nam, Hà Minh Đức (1976), Cơ sở lí luận văn
học (tập 3), NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa”, http://phebinhvanhoc.com.vn.
6. Đặng Thị Vân Chi (2012), “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”,
https://phebinhvanhoc.com.vn.
7. Nguyễn Lệ Chi (2009), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Tôi muốn xây dựng
hình ảnh nữ giang hồ thời đại mới”, http://dichgianguyenlechi.blogspot.com.
8. Đoàn Ánh Dương (2009), “Phiên bản hay hồ sơ một thanh tẩy”,
https://giaitri.vnexpress.net.
9. Đại học Sư phạm I Hà Nội, Công trình tham gia xét giải thưởng “Tài năng
khoa học trẻ Việt Nam” thuộc nhóm ngành khoa học xã hội 1: Vấn đề thân
phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
10. Đặng Anh Đào (1994), “Tính chất hiện đại của tiểu thuyết”, Tạp chí Nghiên
cứu văn học số 2.
11. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết
Việt Nam”, Tạp chí Sông Hương.
13. Nguyễn Đăng Điệp (2013), “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn học Việt Nam đương đại”, https://phebinhvanhoc.com.vn.
14. Hà Minh Đức (2007), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
15. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu
thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4.
92
17. Nguyễn Hải Hà (2006), Thi pháp tiểu thuyết L. Tonxtoi, Nxb Giáo dục.
18. Lê Bá Hán chủ biên (2000), Theo từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐH Quốc
gia Hà Nội.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1992), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
20. Võ Thị Hảo (2007), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nxb Phụ nữ.
21. Hiền Nguyễn tổng hợp (2014), “Văn học nữ quyền ở Việt Nam”,
http://vanhocquenha.vn.
22. Lê Quốc Hiếu (2011), “Từ kết cấu của một cuốn tiểu thuyết cho đến cảm
thức về thân phận lạc loài hoang hoải trong Kín của Nguyễn Đình Tú”,
http://phongdiep.net.
23. Nguyễn Chí Hoan (2009), “Nháp và những dịch chuyển tiêu cự”, Tạp chí
Văn nghệ quân đội số 702.
24. Lê Huệ (2009), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Hot nhưng phải văn học”, Báo
Thanh Niên số 124.
25. Dương Thu Hương (2013), Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, luận văn.
26. Hoài Hương (2009), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên bản:
Tội ác mang khuôn mặt đàn bà?, Bàn về văn chương”,
http://hoaikhanh.vnweblogs.com.
27. Hoài Hương (2011), Nháp hay sự yếm thế trong tâm hồn con người?, Phụ
lục Nháp, Nxb Thanh Niên.
28. Phí Thủy Hương (2010), “Kín hay cái bánh văn chương Nguyễn Đình Tú”,
Phongdiep.net.
29. Hoa Tử Huyền (2009), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên bản”
http://trannhuong.net.
30. Inrasara (2013), “Hoang tâm hay một cuộc trở về với căn tính văn hóa”,
http://tonvinhvanhoadoc.vn.
31. Ma Văn Kháng (2009), “Phiên bản tính thiện hay tính ác của con người”,
http://evan.vnexpress.net.
93
32. Nguyễn Vi Khanh (2002), “Tản mạn về dục tính và nữ quyền”,
http://vietmessenger.com.
33. Chu Lai (2008), “Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú”, Tạp chí Văn
nghệ quân đội số 534.
34. Larry McCaffery (2007), Murakami: “Nhiều người nghĩ tôi là kẻ cuồng
sex”, nguồn evan.vnexpress.
35. Dương Mai Liên (2014), Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Võ Thị Xuân Hà,
Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học
Đà Nẵng.
36. Phạm Thị Ngọc Liên (2017), “Nhục cảm trong văn chương”, www
evan.com.vn.
37. Diệu Linh (2010), “Nguyễn Đình Tú: Bạn đọc sẽ không chết chìm trong
Kín”, https://giaitri.vnexpress.net.
38. Trần Tố Loan (2010), “Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú”, https://giaitri.vnexpress.net.
39. Phương Lựu (2004), Lý luận văn học (3 tập), Nxb Giáo dục Hà Nội.
40. M.B.Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
41. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Quan niệm về tiểu thuyết trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1986 - 2000”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7.
42. Nguyễn Thị Phương Nhi (2012), Yếu tố tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú, luận văn.
43. Nguyễn Thị Phương Nhi (2013), “Giọng điệu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
nhìn từ yếu tố tính dục”, http://vannghequandoi.com.vn.
44. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Hoàng Phê (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
46. Tạ Thị Lan Phương (2015), Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú,
khóa luận tốt nghiệp, Trường ĐHSP Hà Nội.
47. Việt Quỳnh (07/4/2013), “Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Hoang tâm - Nỗi lòng
người lính chiến”, báo Thethaovanhoa.vn.
94
48. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
49. Lê Nhật Tăng (2009), “Phản biện sex trong Nháp của Nguyễn Đình Tú”,
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 189.
50. Đoàn Minh Tâm (2008), “Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp - một chặng đường
Nguyễn Đình Tú”, http://vannghedanang.org.vn.
51. Nguyễn Thị Minh Thái (2010), “Kín - một dòng tiểu thuyết miên man”,
evan.com.
52. Nguyễn Thị Minh Thái (2014), “Xác phàm của Nguyễn Đình Tú: Pha trộn
tinh tế hai màu đen trắng”, Tiền phong.vn.
53. Bùi Việt Thắng (2010), “Lối viết nước đôi hay phép lợi thế trong Phiên
bản”, Văn Nghệ Quân Đội, https://giaitri.vnexpress.net.
54. Theo Lữ Mai (Gia đình & xã hội) (2014), http://www.24h.com.vn.
55. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn
học, Hà Nội.
56. Xuân Thiều, “Lê Tri Kỷ nhà văn tiêu biểu nhất của ngành công an nhân
dân”, http://www.tapchicuaviet.com.vn.
57. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”,
Tạp chí Văn học số 11.
58. Bích Thu, “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ
thống mô típ chủ đề”, Tạp chí Văn học số 4.
59. Khuất Quang Thụy (2008), “Một khái niệm mới về tiểu thuyết Hồ sơ một tử
tù”, Tạp chí Văn nghệ quân đội số 395.
60. Dương Tử (2010), “Nguyễn Đình Tú - Gã trai phố vác rìu”, http://www.tiền
phong.vn.
61. Nguyễn Đình Tú (2002), Hồ sơ một tử tù, Nxb Văn học.
62. Nguyễn Đình Tú (2006), Bên dòng Sầu Diện, Nxb Trẻ.
63. Nguyễn Đình Tú (2007), Nháp, Nxb Trẻ.
64. Nguyễn Đình Tú (2009), Phiên bản, Nxb Trẻ.
65. Nguyễn Đình Tú (2010), Kín, Nxb Trẻ.
95
66. Nguyễn Đình Tú (2013), Hoang tâm , Nxb Trẻ.
67. Nguyễn Đình Tú (2014), Xác phàm, Nxb Trẻ.
68. Nguyễn Đình Tú (2015) Cô Mặc Sầu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
69. Nguyễn Thanh Tú (2011), “Bên dòng Sầu Diện - một cách tiếp cận chiến
tranh của người trẻ”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 386.
70. Nguyễn Văn Tùng (2005), “Milan Kundera và quan niệm về tiểu thuyết”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học.
96
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Cao Thị Hảo, Nguyễn Thị Thanh Hà (5/2018), “Nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú”, Tạp chí Nghiên cứu văn học.
97