ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGUYỄN THỊ HIẾU
NỒNG ĐỘ hs - CRP HUYẾT TƯƠNG VÀ
HÌNH THÁI, TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH
CẢNH ĐOẠN NGOÀI SỌ Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGUYỄN THỊ HIẾU
NỒNG ĐỘ hs - CRP HUYẾT TƯƠNG VÀ HÌNH THÁI,
TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH CẢNH ĐOẠN NGOÀI SỌ
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
Chuyên ngành: NỘI KHOA
Mã số: 60.72.01.40
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS Bùi Thị Thu Hương
2. PGS.TS Trịnh Xuân Tráng
THÁI NGUYÊN - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa
được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả
Nguyễn Thị Hiếu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Bộ môn Nội,
các thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên;
Ban Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS
Trịnh Xuân Tráng, TS Bùi Thị Thu Hương, các thầy, cô giáo đã trực tiếp
hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng Kế hoạch Tổng hợp,
Khoa Khám bệnh, Khoa Sinh hóa, Khoa Thăm dò chức năng Bệnh viện Đa
khoa Trung ương Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên
cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp cùng toàn thể anh chị em
lớp Cao học Nội K18 đã giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và
nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái nguyên, tháng 11 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Hiếu
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADA American Diabetes Association (Hiệp hội Đái tháo đường
Hoa Kỳ)
Chỉ số khối cơ thể BMI
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Disease Control) CDC
Cholesterol CT
Protein phản ứng C (C- Reactive Protein) CRP
Động mạch ĐM
ĐMC Động mạch cảnh
ĐTĐ Đái tháo đường
HbA1c Hemoglobin gắn đường (Glycosylated Hemoglobin)
HDL-C Lipoprotein tỷ trọng cao (High Density Lipoprotein-
Cholesterol)
Hs-CRP Protein phản ứng C độ nhạy cao (High Sensitivity C- Reactive
Protein)
IMT Bề dày lớp áo trong - áo giữa (Intima media thickness)
MXV Mảng xơ vữa
TG Triglycerid
SA Siêu âm
XVĐM Xơ vữa động mạch
WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 35
Bảng 3.2 Kết quả chỉ số lipid máu của các đối tượng nghiên cứu 36
Bảng 3.3 Kết quả kiểm soát glucose máu và HbA1C của các đối tượng 37
nghiên cứu
Bảng 3.4 Kết quả hs-CRP của các đối tượng nghiên cứu 37
Bảng 3.5 Kết quả phân độ hs-CRP ở đối tượng nghiên cứu 38
Bảng 3.6 Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo nhóm tuổi 38
Bảng 3.7 Kết quả nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo giới 39
Bảng 3.8 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI 39
Bảng 3.9 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo thời gian phát 40
hiện bệnh
Bảng 3.10 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại 40
glucose huyết
Bảng 3.11 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại 42
HbA1C
Bảng 3.12 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu 42
Bảng 3.13 Đặc điểm hình thái động mạch cảnh 43
Bảng 3.14 Đặc điểm IMT động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu 44
Bảng 3.15 Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo nhóm tuổi 44
Bảng 3.16 Đặc điểmhình thái động mạch cảnh theo giới 45
Bảng 3.17 Đặc điểmhình thái động mạch cảnh theo BMI 46
Bảng 3.18 Đặc điểm hình thái IMT ĐMC theo thời gian phát hiện bệnh 47
Bảng 3.19 Tỷ lệ MXV động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu 48
Bảng 3.20 Số lượng MXV ĐMC theo vị trí của đối tượng nghiên cứu 48
Bảng 3.21 Số lượng MXV động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu 49
Bảng 3.22 So sánh đặc điểm hình thái động mạch cảnh giữa nhóm có tăng 49
hs-CRP và không tăng hs-CRP
Bảng 3.23 Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với tình trạng vữa 50
xơ động mạch cảnh
Bảng 3.24 Liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp IMT 50
Bảng 3.25 Liên quan giữa nhóm có tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP 52
với số lượng mảng xơ vữa
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
……………………………………………………………Error!
Bookmark not defined.
Chương 1
…………………………………………………………………..Error!
Bookmark not defined.
TỔNG QUAN ………………………………………………………………..
Error! Bookmark not defined.
1.1. Đái tháo đường ..................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Protein phản ứng-C (C reactive protein-CRP)Error! Bookmark not
defined.
1.3. Vữa xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo đườngError! Bookmark not
defined.
Chương 2
………………………………………………...……………….Error!
Bookmark not defined.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU…..…..…………….…Error! Bookmark not defined.
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........ Error! Bookmark not defined.
2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................... Error! Bookmark not defined.
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu ........................ Error! Bookmark not defined.
2.5. Tiêu chuẩn đánh giá và các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu ... Error!
Bookmark not defined.
2.6. Phương pháp xử lý số liê ̣u .................... Error! Bookmark not defined.
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ........ Error! Bookmark not defined.
Chương 3…………………………….……….…………………………
Error! Bookmark not defined.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU……….……….…………………… …
Error! Bookmark not defined.
3.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứuError! Bookmark
not defined.
3.2. Kết quả hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động mạch cảnh
đoạn ngoài sọ ............................................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn
thương ĐMC đoạn ngoài sọ ........................ Error! Bookmark not defined.
Chương 4……………………….……….…………………………
……Error! Bookmark not defined.
BÀN LUẬNError! Bookmark not defined.
4.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứuError! Bookmark
not defined.
4.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái tổn thương động mạch cảnh
đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên .............................. Error! Bookmark not defined.
4.3. Mối liên quan giữa nồng hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn thương
động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở đối tượng nghiên cứuError! Bookmark
not defined.
KẾT LUẬN
………………….……….……………………………………..Error!
Bookmark not defined.
KHUYẾN NGHỊ………………….……….………………………….
……Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………….……….………………………
Error! Bookmark not defined.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh phổ biến nhất thế giới
hiện nay, là mối quan tâm của các chuyên gia y tế và sự chú ý của các nhà
quản lý xã hội. ĐTĐ týp 2 phát triển luôn gắn với sự tăng tỷ lệ các biến chứng
mạn tính như các biến chứng về mắt, tim, thận, thần kinh; một trong những
biến chứng nặng nề của bệnh ĐTĐ là biến chứng mạch máu. Trong đó, biến
chứng mạch máu lớn là nguyên nhân bệnh tật và tử vong hàng đầu ở bệnh
nhân ĐTĐ [22]. Theo ước tính của Liên đoàn đái tháo đường thế giới, năm
2012 trên toàn thế giới có 371 triệu người bệnh đái tháo đường và ước tính
đến năm 2030 sẽ có 552 triệu người mắc bệnh đái tháo đường. ĐTĐ được xếp
vào nhóm 10 bệnh mạn tính không lây nhiễm đứng hàng đầu thế kỷ 21 [44].
Y học ngày nay đề cập nhiều đến vai trò quan trọng của hiện tượng viêm
trường diễn thành mạch trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh xơ vữa động
mạch (XVĐM). Trên cơ sở viêm trường diễn này sẽ lắng đọng các loại lipid,
dần dần gây XVĐM, yếu tố viêm giữ vai trò chính trong tất cả các giai đoạn của
mảng xơ vữa, từ giai đoạn sớm hình thành đến giai đoạn mảng xơ vữa phát triển
và ngay cả lúc mảng xơ vữa bị vỡ, gây tắc nghẽn dòng chảy trong động mạch
làm xuất hiện các biến chứng. Phản ứng viêm tại lớp nội mạc mạch máu không
những tham gia vào cơ chế bệnh sinh của bệnh, mà còn là yếu tố làm duy trì,
phát triển quá trình biến chứng và tăng tỷ lệ tử vong [60].
Quá trình viêm này có thể phát hiện được bằng xét nghiệm CRP (protein
phản ứng C, C- Reactive protein) - một yếu tố chỉ điểm nhạy nhất của viêm
và nhiễm trùng. Khi có phản ứng viêm thì nồng độ CRP tăng; tuy nhiên, trong
viêm do XVĐM là hiện tượng viêm mạn ở mức độ thấp nên không gây tăng
CRP thông thường. Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, những năm gần đây đã có thể
phát hiện CRP ở mức rất thấp, từ 0,1-0,2 mg/l, đó là xét nghiệm định lượng
CRP độ nhạy cao (High Sensitivity C-Reactive protein - hs-CRP) và hs-CRP đã
được dùng phổ biến trong các bệnh tim mạch, bệnh chuyển hoá, ĐTĐ. Xét
nghiệm hs-CRP phát hiện những thay đổi rất nhỏ của CRP trong quá trình
viêm thành mạch; mặc dù nồng độ CRP trong máu vẫn trong giới hạn bình
thường (≤10 mg/l), những thay đổi đó của hs-CRP cộng với các chỉ số về
lipid máu giúp tiên lượng và dự báo các biến cố như: đột quỵ, hội chứng mạch
vành cấp… trong tương lai. Siêu âm động mạch cảnh là một xét nghiệm không
xâm nhập, an toàn, dễ thực hiện, giúp phát hiện và chẩn đoán sớm tổn thương
xơ vữa động mạch. Vì vậy, việc định lượng hs-CRP kết hợp với siêu âm động
mạch cảnh sẽ góp phần rất lớn cho điều trị và dự phòng biến chứng của bệnh.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng như trên thế giới khi tiến
hành nghiên cứu nồng độ hs-CRP ở bệnh nhân đái tháo đường đều ghi nhận sự
gia tăng nồng độ hs-CRP có liên quan đến sự xuất hiện, tiến triển cũng như biến
chứng của đái tháo đường [12].
Tuy nhiên, tại Thái Nguyên chúng tôi thấy ít có đề tài nghiên cứu về
nồng độ hs-CRP trên bệnh nhân đái tháo đường; đặc biệt xác định mối liên
quan giữa nồng độ hs-CRP với tổn thương động mạch cảnh ở bệnh nhân đái
tháo đường týp 2. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Nồng độ hs-CRP huyết
tương và hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh
nhân đái tháo đường týp 2 ” với hai mục tiêu sau:
1. Xác định nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động
mạch cảnh đoạn ngoài sọ trên siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2. Phân tích mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với hình
thái tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường
týp 2.
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đái tháo đường
1.1.1. Định nghĩa
Tháng 1 năm 2003 các chuyên gia thuộc Ủ y ban chẩn đoán và phân loại
bệnh đái tháo đường Hoa Kỳ đã đưa ra định nghĩa: “Đái tháo đường là một
nhóm các bệnh chuyển hóa có đặc điểm là glucose huyết tăng do hậu quả của
sự thiếu hụt bài tiết insulin, khiếm khuyết trong các hoạt động của insulin
hoặc cả hai”.
1.1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đái tháo đường
Trong những năm gần đây, tỷ lệ đái tháo đường gia tăng mạnh mẽ trên
toàn cầu, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã lên tiếng báo động vấn đề nghiêm
trọng này trên toàn thế giới. Theo một thông báo của Hiệp hội Đái tháo
đường Quốc tế (IDF), năm 2012 cả thế giới có 371triệu người mắc bệnh
ĐTĐ, khu vực Đông nam Á có 70 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, chiếm 1/5
số người mắc bệnh trên toàn cầu. Theo ước tính của WHO, đến năm
2030 sẽ có khoảng 552 triệu người bị ĐTĐ [44].
Tỷ lệ bệnh đái tháo đường thay đổi theo từng nước có nền công nghiệp
phát triển hay đang phát triển và thay đổi theo từng vùng địa lý khác nhau.
Trong đó, nơi có tỷ lệ đái tháo đường cao nhất là khu vực Bắc Mỹ (7,8%),
khu vực Địa Trung Hải và khu vực Trung Đông (7,7%), châu Âu (4,9%) và
châu Phi (1,2%) [1].
Tại Việt Nam, theo công bố của WHO năm 2012 có 3,16 triệu người
mắc bệnh ĐTĐ; năm 2013, trong kết quả công bố của “Dự án phòng chống
đái tháo đường Quốc gia” do Bệnh viện Nội tiết Trung ương thực hiện năm
2012 trên 11.000 người tuổi 30-69 tại 6 vùng gồm: miền Núi phía Bắc, Đồng
bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ đã cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 5,7% (tỷ lệ mắc cao nhất ở Tây
Nam Bộ là 7,2%, thấp nhất là Tây Nguyên 3,8%). Tỷ lệ rối loạn dung nạp
glucose cũng gia tăng mạnh mẽ từ 7,7% năm 2002 lên gần 12,8% năm 2012.
Như vậy, tỷ lệ mắc ĐTĐ ở Việt Nam 10 năm qua đã tăng gấp đôi. Đây là con
số đáng báo động vì trên thế giới, phải trải qua 15 năm tỷ lệ mắc ĐTĐ mới
tăng gấp đôi.
1.1.3. Chẩn đoán đái tháo đường
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ĐTĐ, theo tiêu chuẩn chẩn đoán
của ADA 2011 [43]:
- Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
- Glucose huyết tương bất kì ≥ 11,1 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
- Glucose huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 11,1 mmol/l.
- HbA1c ≥ 6,5%.
1.1.4. Phân loại bệnh đái tháo đường
- ĐTĐ týp 1: do bệnh tự miễn dịch, các tế bào tuyến tuỵ bị phá
huỷ bởi chất trung gian miễn dịch, sự phá huỷ này có thể nhanh hoặc
chậm. Tiến triển nhanh gặp ở người trẻ <30 tuổi, triệu chứng lâm sàng
rầm rộ khát nhiều, uống nhiều, sút cân, mệt mỏi. Xuất hiện các tự
kháng thể kháng đảo tuỵ (ICA: islet cell autoantibodies), tự kháng thể
kháng insulin và tự kháng thể kháng GAD (autoantibodies to glutamic
acid decarboxylase) trong 85 - 90% trường hợp. Biến chứng cấp tính
hay gặp là hôn mê nhiễm toan ceton. Điều trị bắt buộc phải điều trị
bằng insulin. Tỷ lệ gặp <10%. Thể tiến triển chậm hay gặp ở người lớn,
gọi là ĐTĐ tự miễn dịch tiềm tàng ở người lớn (LADA: latent
autoimmune diabetes in adults).
- ĐTĐ týp 2: ĐTĐ týp 2 trước đây được gọi là ĐTĐ không phụ
thuộc insulin, ĐTĐ ở người lớn, bệnh có tính gia đình đặc trưng của
ĐTĐ týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt insulin tương đối. Tuổi
>30 tuổi, triệu chứng lâm sàng âm thầm từ từ, thường phát hiện muộn.
Biến chứng cấp tính hay gặp là hôn mê áp lực thẩm thấu. Có thể điều trị
bằng chế độ ăn, thuốc uống hoặc insulin, tỷ lệ gặp 90-95%.
- ĐTĐ thai kỳ: ĐTĐ thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glocose
xảy ra trong thời kỳ mang thai.
- Các tình trạng tăng glucose huyết đặc biệt khác: Giảm chức năng
tế bào beta do khiếm khuyết gen: MODY 1, MODY 2, MODY 3, ĐTĐ
ty lạp thể, giảm hoạt tính insulin do khiếm khuyết gen. Bệnh lý tuyến
tụy: viêm tụy, xơ sỏi tụy, ung thư tụy… Một số bệnh nội tiết: to đầu
chi, hội chứng Cushing… do thuốc, hóa chất, do nhiễm khuẩn.
1.1.5. Viêm và cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường týp 2
Nhiều tác giả cho rằng phản ứng viêm được xem như yếu tố then chốt
tham gia vào cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ; tuy nhiên, nguyên nhân vì sao có
phản ứng viêm ở bệnh nhân ĐTĐ thì còn chưa thật sáng tỏ [37]. Một số tác
giả cho rằng viêm ở bệnh nhân ĐTĐ có liên quan tới tình trạng kháng insulin
trong đó vai trò của béo phì và tổ chức mỡ được nhiều tác giả đề cập tới [37],
[50]; Ahmed Al-Shukaili, Saif AL-Ghafri [37] cho rằng tổ chức mỡ thừa ở
người béo phì và người ĐTĐ týp 2 phát triển làm sản sinh ra TNF-α (tumor
necrosis factor-α), interleukin-6 (IL-6) và các trung gian hóa học khác tham
gia vào pha cấp của quá trình viêm.
Rất nhiều các tiền chất viêm và các cytokin tham gia và cơ chế bệnh sinh
của ĐTĐ, các chất như: C-reactive protein plasminogen activator inhibitor-1
(PAI-1); amyloid-A; α-1-acid glyco protein; haptoglobin… tham gia làm tăng
tình trạng kháng insulin, chúng tăng ở pha sớm của ĐTĐ týp 2 và tăng dần
cùng với thời gian tiến triển của ĐTĐ [37].
Tác giả Caparevic Z cho rằng sự tích tụ, tăng bám dính và thay đổi tính
oxy hóa của LDL-cholesterol là nguyên nhân khởi phát quá trình viêm.
Rất nhiều quan điểm hiện nay cho rằng trong cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ
týp 2 có hiện diện của phản ứng viêm ở mức độ thấp (low-grade
inflammation); nhiều nghiên cứu chỉ rõ có sự tăng bất thường các marker
viêm ở bệnh nhân mới phát hiện ĐTĐ như: hs-CRP, IL6.
Nhóm tác giả Andreas Festa, MD (2005) [62] cho rằng viêm là một phần
của hiện tượng kháng insulin; sự tăng CRP ở bệnh nhân ĐTĐ có liên quan tới
hiện tượng kháng insulin, sau đó là do biến chứng xơ vữa mạch máu của đái
tháo đường.
1.1.6. Viêm và biến chứng mạn tính của đái tháo đường
Các tác giả Juan F. Navarrol và Carmen Mora (2001) [73], qua việc tổng
kết nhiều nghiên cứu về viêm và biến chứng của ĐTĐ cho thấy các biến
chứng mạch máu nhỏ do ĐTĐ nguyên nhân chính là do tăng đường máu kéo
dài, làm rối loạn chuyển hóa tại chỗ gây biến đổi một số enzym, làm rối loạn
cơ chế điều hòa các cytokin. Tác giả này phân tích cơ chế của viêm trong biến
chứng thần kinh ngoại biên và biến chứng động mạch võng mạc và đưa ra kết
luận rằng viêm có liên quan đến sinh bệnh học của biến chứng thần kinh
ngoại biên và biến chứng động mạch võng mạc do ĐTĐ.
Nguồn: Andreas Pfützner “Circulating Biomarkers of Typ2 Diabetes and Atherosclerosis”, Institute for Clinical Research and Development Mainz, GermanyMainz, Germany
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiện tượng viêm tham gia vào cơ chế
bệnh sinh của bệnh thận do ĐTĐ: Juan F. Navarrol và Carmen Mora [73]
tổng kết các nghiên cứu cho thấy sự gia tăng CRP, IL6 liên quan đến tổn
thương màng đáy và tổn thương cầu thận do ĐTĐ; một số tác giả còn đưa ra
gợi ý dùng các thuốc chống viêm trong điều trị và phòng bệnh thận do đái
tháo đường [73].
Oliver Schnell và cộng sự (2013) kết luận có mối tương quan giữa hs-
CRP, HbA1c và nguy cơ tim mạch trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [68] .
AGTabak và cộng sự (2010) kết luận rằng tử vong do các biến cố tim
mạch ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tăng song hành cùng nồng độ hs-CRP [36].
1.2. Protein phản ứng-C (C reactive protein-CRP)
1.2.1. Sơ lược về lịch sử và cấu trúc của protein phản ứng-C
Năm 1930, Wiliam.S. Tillette đã tìm được một loại protein có khả năng
kết tủa với C-polysacarid lấy từ phế cầu khuẩn, đặt tên là protein phản ứng-C
(C-Reactive protein: CRP). Protein này được tiêm cho thỏ và thu được một
kháng thể đặc hiệu, dùng kháng thể đó cho tiếp xúc với huyết tương người có
chứa CRP xuất hiện một kết tủa. Mức độ kết tủa này phụ thuộc vào nồng độ
CRP trong huyết tương người. Gan là nơi tổng hợp ra CRP khi cơ thể có một
kích thích như các bệnh nhiễm trùng cấp và mạn tính, nhiễm siêu vi và các
bệnh lý không nhiễm trùng như: ĐTĐ, THA, béo phì, bệnh mạch vành, bệnh
tự miễn hoặc bệnh ác tính [67].
Thuộc nhóm pentaxin, phân tử CRP có cấu trúc dạng đĩa với 5 chuỗi
peptid có hình dạng giống nhau, xếp đối xứng xung quanh một lỗ trung tâm.
Kích thước đường kính ngoài 102 A0, đường kính lỗ trung tâm 30 A0. Mỗi
chuỗi polypeptide có 206 acid amin, với trọng lượng phân tử 110,000-
140,000 Dalton [67].
Hình 1.2. Mô hình cấu tạo và hoạt động của CRP
(Nguồn: Subodh Verma et al (2004)
Trước khi bắt đầu có diễn tiến tăng CRP sau một kích thích, cần ít nhất
1.2.2. Động học của protein phản ứng-C trong quá trình viêm
vài giờ cho sự hoạt hóa neutrophil, tạo IL-6, trình diện cho quá trình sinh tổng
hợp tại gan. CRP bắt đầu được tiết ra trong vòng 4-6 giờ sau kích thích viêm
và đạt đỉnh trong khoảng 36-48 giờ. Đo hàng loạt CRP tại thời điểm 24 và 48
giờ sau khởi phát bệnh lý đã cải thiện độ nhạy cảm lên tương ứng 82% và
84%. Một điều quan trọng phải lưu ý là: CRP vẫn duy trì sự tăng trong vòng
24-48 giờ sau khởi phát nhiễm trùng; thời gian bán hủy sinh học là 19 giờ,
giảm 50% nồng độ mỗi ngày sau khi kích thích viêm cấp tính đã được giải
quyết, trở về bình thường vào ngày thứ 5-7 sau đợt viêm, bất chấp nó vẫn
đang tiếp diễn, trừ khi có một đợt viêm mới; không tăng trong các bệnh lý
mạn tính như: viêm loét đại tràng, leucemia, bệnh ký chủ chống lại mảnh
ghép, cho dù có tình trạng tổn thương mô trầm trọng [65].
1.2.3. CRP và hs- CRP
Nhìn chung xét nghiệm CRP và hs-CRP là giống nhau, đều là đo lường
một chất protein trong máu (CRP). Tuy nhiên, CRP độ nhạy cao (hs-CRP ) là
thử nghiệm đo số lượng CRP rất nhỏ trong máu và hs-CRP cũng được xem
như một chỉ điểm dự báo biến chứng mạch máu trên bệnh nhân ĐTĐ.
hs-CRP là xét nghiệm có độ nhạy cao, cao hơn xét nghiệm CRP thường
tới hàng trăm lần. Thông thường thử nghiệm hs-CRP được đo trong khoảng
0,1-10 mg/l và thường được dùng để đánh giá nguy cơ tim mạch.
Khác với thử nghiệm hs-CRP thì các thử nghiệm CRP thường xuyên
được chỉ định cho những người có nguy cơ bị nhiễm trùng hoặc các bệnh
viêm mãn tính; CRP được đo trong khoảng 10-1000 mg /l.
1.2.4. Chức năng của CRP
CRP làm giảm sự phát triển của vi khuẩn trong giai đoạn đầu của quá
trình nhiễm khuẩn, cơ chế của quá trình này là do sự thực bào qua trung gian
bổ thể, trong đó bổ thể có chức năng opsonin hoá. CRP kích thích tổng hợp
yếu tố mô bởi tế bào đơn nhân và làm tăng hoạt hoá bổ thể.
CRP giữ vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển xơ vữa
động mạch. Yếu tố viêm giữ vai trò chính trong tất cả các giai đoạn mảng xơ
vữa, ngay từ giai đoạn sớm hình thành đến giai đoạn mảng xơ vữa phát triển
và cả lúc mảng xơ vữa bị vỡ và gây tắc nghẽn dòng chảy trong. CRP gắn chọn
lọc với LDL-C, đặc biệt là chất LDL-C thừa được tìm thấy ở các mảng xơ vữa
và thường đi kèm với nó một bổ thể được hoạt hoá trong các mảng vữa như
vậy. Phức hợp gắn CRP đó hoạt hoá bổ thể, là một yếu tố tiền viêm, góp phần
vào bệnh sinh của xơ vữa động mạch.
Khi có phản ứng viêm thì nồng độ CRP tăng. Tuy nhiên, trong viêm do
xơ vữa động mạch là hiện tượng viêm mạn ở mức độ thấp nên không gây tăng
CRP thông thường.
Hiện nay, nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, bằng những phương pháp có độ
nhạy cao người ta có thể đo được nồng độ protein phản ứng C ở những mức
rất thấp (giá trị bình thường<1mg/l) tạm dịch là protein phản ứng C độ nhạy
cao (High sensitivity Reactive, hs-CRP); từ đó, xét nghiệm định lượng hs-
CRP ra đời đã được dùng phổ biến trong các bệnh tim mạch, bệnh chuyển hoá
và là ĐTĐ [57], [61], [65], [72]. Xét nghiệm hs-CRP phát hiện những thay
đổi rất nhỏ của CRP trong quá trình viêm thành mạch mặc dù nồng độ CRP
trong máu vẫn trong giới hạn bình thường (< 5mg/l). Những thay đổi đó của
CRP cùng với các chỉ số cholesterol, HDL-C, LDL-C giúp ta tiên lượng các
nguy cơ xơ vữa động mạch, nguy cơ bệnh mạch vành, thiếu máu cơ tim và
nhồi máu cơ tim ngay cả ở những người có vẻ là bình thường; đồng thời giúp
theo dõi và điều trị các bệnh nói trên và đánh giá hiệu quả điều trị [8]. Có
nhiều trường hợp bệnh tim mạch mà cholesterol vẫn bình thường; vì vậy, một
số nghiên cứu nói rằng: hs-CRP là chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc tiên
lượng, theo dõi điều trị bệnh tim mạch [64].
1.2.5. Cơ chế tổn thương mạch máu của protein phản ứng-C
CRP trực tiếp hoạt hoá nội mô mạch máu gây viêm và làm xơ vữa
mạch máu. CRP điều hoà sự sao chép của tế bào nội mạc làm rối loạn sự sao
chép thông tin của tế bào làm giảm nitric oxyde cơ bản. CRP làm tăng stress
oxy hoá và giảm độ khả dụng sinh học nitric oxyde sẽ kích thích sản xuất
những cytokine tiền viêm như interleukin (IL), TNF-α, protein hoá hướng
động tế bào đơn nhân-1 (monocyte chemoattractant protein-1, MCP-1) hoặc
interferon (IFN), làm hấp dẫn tế bào đơn nhân. Tăng CRP làm thúc đẩy rối
loạn chức năng nội mạc, giảm sản xuất và hoạt tính sinh học của nitric oxyde.
Nồng độ CRP tương quan nghịch với sự tổng hợp nitric oxyde cơ bản của nội
mạc và làm giảm tính phản ứng của nội mạc mạch máu. CRP giúp tế bào đa
nhân xâm nhập vào trong thành mạch, kích thích tế bào đa nhân phóng thích
IL, TNF-α, điều hoà những phân tử kết dính trên tế bào nội mạc mạch máu và
opsonin hoá LDL-C tạo thuận lợi cho sự thu nhận LDL-C của đại thực bào.
CRP làm cho tế bào nội mạc dễ bị huỷ hoại và chết theo chương trình bởi tế
bào lym pho T. CRP hoạt hoá hệ thống bổ thể, kết hợp với phức hợp tấn công
màng của tổn thương xơ vữa sớm làm gia tăng viêm [45].
1.2.6. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu và đá i thá o đườ ng
Nồng độ hs-CRP tăng cao trong máu là một yếu tố phá hủy thành mạch
dẫn đến phá vỡ chức năng vận mạch thông thường; thúc đẩy quá trình tạo
huyết khối dẫn đến tình trạng tổn thương hệ thống mạch máu, cả mạch máu
lớn và hệ thống vi mạch [57].
Ở bệnh nhân ĐTĐ với nguy cơ cao biến chứng thoái hóa mạch máu
(mạch máu lớn và vi mạch), cùng với các chỉ số sinh hóa khác, nồng độ hs-
CRP trong máu có thể dùng để tiên lượng các biến chứng tổn thương thành
mạch ở các cơ quan đặc biệt là tim và thận. Nhiều công trình nghiên cứu đã
chứng minh rằng ở người ĐTĐ týp 2 nguy cơ mắc các bệnh tim mạch lớn hơn
nhiều so với người không ĐTĐ.
Sandya. E.P nghiên cứu trên 60 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thời gian 2 năm.
Nghiên cứu này chứng minh cho thấy hs-CRP phản ánh tình trạng viêm trong
bệnh sinh của bệnh thận ĐTĐ týp 2. Nồng độ hs-CRP >3 mg/l cho thấy nguy
cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 gấp 4 lần và lên tăng gấp 6 lần nếu có bệnh tim mạch
kèm theo. Người ta nhận thấy nồng độ hs-CRP từ 2-3 mg/l nguy cơ tim mạch
tăng cao hơn người có nồng độ hs-CRP thấp và hs-CRP ở mức cao >3 mg/l
tăng tỷ lệ tử vong cho bệnh tim mạch gấp 8 lần, nhưng không có giá trị dự
đoán cho tử vong khác. Vì vậy, hs-CRP tăng không chỉ là yếu tố nguy cơ của
bệnh tim mạch mà còn là nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ týp 2. Tăng cao nồng
độ hs-CRP kèm theo sự gia tăng nồng độ microalbumin niệu (+) cho thấy có
sự kích hoạt các con đường viêm trong sự tiến triển của bệnh tim mạch và
bệnh thận. Do đó, nồng độ hs-CRP liên tục cao là dấu hiệu dự báo của nguy
cơ tim mạch và bệnh thận trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [58].
Tăng nồng độ hs-CRP đã được ghi nhận như yếu tố nguy cơ có tác động
gián tiếp lên nhồi máu não thông qua mối liên quan với xơ vữa động mạch cảnh
đoa ̣n ngoài sọ, và mối liên quan này là độc lập với các yếu tố nguy cơ đã biết
khác [30].
Như vậy, các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới và Việt
Nam đã chứng minh trong bệnh ĐTĐ; đặc biệt là ĐTĐ týp 2 nồng độ hs-CRP
có liê
n quan đến biến chứng bệnh mạch vành, đột quỵ… Việc tìm hiểu kỹ mối
liên quan này sẽ giúp cho việc chẩn đoán và điều trị sớm biến chứng của bệnh
ĐTĐ týp 2 nhằm ngăn chặn sự suy giảm sức khoẻ và tàn phế cho bệnh nhân.
1.2.7. Một số nghiên cứu về hs-CRP trên thế giới và Việt Nam
1.2.7.1. Trên thế giới
Safiullah.A (2010) nghiên cứu mối liên quan giữa hs-CRP với bệnh đái
tháo đường nhận thấy gia tăng nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không bị ĐTĐ (p <0,001) [41].
Các tác giả M. S. Roopakala và Mohd. Idrees Khan, Kauser Usman
(2012) tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa hs-CRP với HbA1c và
microalbumin niệu trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 kết luận rằng hs-CRP liên quan
đến cơ chế sinh bệnh học của bệnh thận do ĐTĐ và có tương quan với việc
kiểm soát đường máu [39].
Một nghiên cứu dọc đa trung tâm do nhóm tác giả Oliver Schnell, Ildiko
Amann-Zalan (2013) nghiên cứu mối tương quan giữa hs-CRP và việc kiểm
soát HbA1c cho kết luận: khi kiểm soát làm giảm HbA1c thì nồng độ hs-CRP
cũng giảm đồng nghĩa với giảm nguy cơ tim mạch [68].
Nghiên cứu “White hall study” do nhóm các tác giả châu Âu AG Tabak,
M Kivimaki, E J Brunner và cộng sự (2010) nghiên cứu theo dõi dọc 14 năm
trên 7350 người khỏe mạnh về mối tương quan giữa hs-CRP và biến cố xuất
hiện ĐTĐ và chết do bệnh lý tim mạch cho thấy: nhóm 558 người xuất hiện
đái tháo đường và 125 người tử vong do các biến cố tim mạch có nồng độ hs-
CRP cao hơn nhóm không có biến cố ĐTĐ và chết do bệnh lý tim mạch [36].
Những nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ CRP có liên quan đến tiên
lượng gần ở bệnh nhân đột quỵ. Napoli M.D và cộng sự nghiên cứu về ảnh
hưởng của CRP với tiên lượng bệnh nhân đột quỵ lần đầu trong vòng 1 năm,
cho thấy nồng độ CRP tăng cao có liên quan đến thang điểm đánh giá đột quỵ
CNSS (r = -0,35; p<0,001). Sau theo dõi một năm còn cho thấy nhóm có CRP
cao có tỷ lệ tử vong cao hơn rõ rệt (OR = 2,39; CI 95%: 1,28 - 4,49; p<0,05)
bất kể các biện pháp điều trị trong thời gian theo dõi. Một câu hỏi được đặt ra
CRP tăng là do đột quỵ của thiếu máu cục bộ hay CRP chỉ phản ánh tình
trạng viêm liên quan đến bệnh sinh của đột quỵ. Tuy nhiên có đến 25% số
bệnh nhân có mức CRP bình thường sau đột quỵ. Điều đó chứng tỏ đột quỵ tự
bản thân nó không làm tăng đáp ứng pha cấp. Liên quan giữa CRP và khả
năng hoạt hoá bổ thể của nó được xem là vai trò chính trong việc làm tăng các
biến cố tử vong ở bệnh nhân đột quỵ [56].
Cho đến nay phần lớn các tác giả trên thế giới đã nêu giá trị của xét
nghiệm hs-CRP trong máu để tiên đoán, chẩn đoán sớm và theo dõi điều trị
bệnh mạnh vành, góp phần giảm nguy cơ tử vong của đột quỵ, nhồi máu cơ
tim [38], [58].
1.2.7.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Trịnh Thị Thái Hà (2005) nghiên cứu nồng độ CRP huyết
tương trên 79 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đã ghi nhận nồng độ CRP huyết
tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm
không bị đái tháo đường [9].
Huỳnh Ngọc Tính và Trần Hữu Dàng (2005) nghiên cứu nồng độ CRP
trên 95 bệnh nhân có hội chứng chuyển hoá nhận thấy: Nồng độ CRP ở bệnh
nhân hội chứng chuyển hoá cao hơn so với bệnh nhân không có hội chứng
chuyển hoá. Trương Phi Hùng và Đặng Vạn Phước (2007) nghiên cứu biến
đổi nồng độ CRP trên 102 bệnh nhân có bệnh lý mạch vành nhận thấy: nồng
độ CRP ở bệnh nhân có bệnh lý mạch vành cao hơn so với nhóm chứng
không có bệnh lý mạch vành [14]. Một nghiên cứu khác của Trịnh Xuân
Cường (2010) trên 226 bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp: nồng độ
hs-CRP ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cao hơn so với bệnh nhân đau ngực
không ổn định [4].
Trần Thị Thu Hương và Dương Hồng Thái (2013) nghiên cứu nồng độ
hs-CRP trên 203 cán bộ diện bảo vệ sức khỏe tỉnh Thái Nguyên nhận thấy:
nồng độ hs-CRP ở có rối loạn glucose huyết cao hơn có ý nghĩa thống kê so
với người không có rối loạn glucose huyết [16].
Theo nghiên cứu của Phạm Trung Hà, Diệp Quảng Ninh (2011) ta ̣i Bệnh
viện Thống Nhất - Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trên 168 người,
trong đó 48 người bình thường, 74 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn
tính và 51 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp; kết quả cho thấy nồng độ hs-CRP
ở nhóm bệnh tim thiếu máu mạn tính cao hơn có ý nghĩa vói nhóm người bình
thường (p<0,05), nồng độ hs-CRP cao nhất ở nhóm nhồi máu cơ tim [8].
Nguyễn Văn Mùi (2014), nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết tương và một
số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2, cho thấy nồng độ hs-CRP
trung bình ở bệnh đái tháo đường týp 2 cao hơn so với người không bị đái
tháo đường [24].
1.3. Vữa xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường
1.3.1. Giải phẫu động mạch cảnh vùng ngoài sọ
Mỗi bên cổ có một động mạch cảnh (ĐMC) chung, chia đôi thành ĐMC
ngoài và ĐMC trong. ĐMC trong cung cấp máu cho hầu hết các thành phần
đựng trong hộp sọ và ổ mắt. ĐMC ngoài cung cấp máu cho các phần còn lại của
đầu và cổ.
Hình 1.3. Ma ̣ch máu vù ng cổ trướ c 1. Động mạch cả nh chung trá i 2. Động mạch dướ i đò n trá i 3. Tĩnh mạch tay đầu trá i 4. Cung động mạch chủ 5. Động mạch cả nh chung phải 6. Thân tay đầu
* Động mạch cảnh chung
ĐMC chung trái xuất phát từ cung động mạch (ĐM) chủ, ĐMC chung
phải từ ĐM thân cánh tay đầu ở phía sau khớp ức đòn. Do đó ĐM bên trái có
thêm một đoạn ở ngực. Khi vào trong cổ, đường đi của hai ĐM giống nhau.
Ở người Việt Nam, ĐMC chung phân đôi ở ngang bờ trên sụn giáp
(90,1%) tương đương đốt sống cổ C4 thành ĐMC trong và ĐMC ngoài. Chiều
dài của ĐMC chung phải là 93 mm và đường kính là 6,44 mm, chiều dài của
ĐMC chung trái là 12,5 mm và đường kính là 6,92 mm. ĐMC chung chỉ chia
nhánh bên cùng là ĐMC trong và ngoài.
* Động mạch cảnh trong
ĐMC trong bắt đầu từ bờ trên sụn giáp đi phía trên vùng cổ chui qua lỗ
ĐMC ở phía dưới xương đá rồi vào ống ĐMC ở trong xương đá và cuối cùng
chui ra khỏi xương đá ở đỉnh xương để vào trong hộp sọ đi trong xoang tĩnh
mạch hang và tận hết ở mỏm yên trước bằng cách chia thành 4 ngành cùng để
cấp máu cho não đó là: ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM thông sau và ĐM
mạch mạc trước, để tham gia vào việc tạo nên vòng động mạch não.
* Động mạch cảnh ngoài
ĐMC ngoài bắt đầu từ bờ trên sụn giáp đến sau cổ hàm và tận hết ở đó
rồi chia thành 2 nhánh cùng là: ĐM hàm và ĐM thái dương nông. ĐMC
ngoài cho sáu nhánh bên: ĐM giáp trên, ĐM lưỡi, ĐM mặt, ĐM hầu lên,
ĐM chẩm và ĐM tai sau.
Hệ thống ĐMC nằm nông vì thế có thể quan sát dễ dàng qua siêu âm với
đầu dò có tần số cao trong đánh giá XVĐM [28]
1.3.2. Sơ lược cấu tạo của động mạch
Động mạch gồm có 3 lớp đồng tâm, theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm:
lớp áo ngoài, lớp áo giữa và lớp áo trong.
* Lớp áo ngoài
Đây là lớp ngoài cùng nhất của động mạch, về phía lòng ống tiếp xúc với lá
đàn hồi ngoài. Vỏ này là mô liên kết bao gồm hỗn hợp chất lỏng lẻo đan xen với
nhiều sợi keo, sợi chun, các tế bào cơ trơn và các nguyên bào sợi chạy dọc theo
ống mạch. Lớp này cũng chứa cả mạch nuôi mạch và các sợi thần kinh. Bao bọc
ba tầng áo trên của động mạch là mô liên kết có chứa mạch và thần kinh.
* Lớp áo giữa
Là thành phần dày nhất của thành động mạch, áo giữa được cấu tạo bởi
những lớp tế bào cơ trơn xếp theo lớp đơn độc hoặc thành nhiều lá, xen kẽ là
những lá chun, những sợi tạo keo. Các tế bào này được áp sát vào nhau và có
thể được gắn kết bằng các phức hợp chất gắn. Các tế bào cơ trơn là tế bào
chính tạo ra mô liên kết của thành động mạch. Lớp áo giữa được giới hạn về
phía lòng ống động mạch bằng một lá mô đàn hồi kém liên tục hơn là lá đàn
hồi ngoài.
* Lớp áo trong
Đó là một lớp tế bào nội mô đơn độc, liên tục, bao phủ tất cả lòng các
động mạch. Nội mạc mạch được một ống mô đàn hồi có lỗ thủng bao bọc ở
phía ngoài, đó là lá đàn hồi bên trong. Các tế bào nội mô được gắn với nhau
bằng một loạt các phức hợp chất gắn và cũng được gắn tinh vi với màng lưới
tổ chức liên kết lỏng lẻo nằm dưới, đó là lớp đáy. Các tế bào nội mô đó lót
phủ bình thường tạo thành một hàng rào để kiểm soát các chất từ máu vào
thành động mạch, tiết ra một số chất tác động lên sự đông máu, sự co và giãn
cơ trơn mạch phía dưới.
1.3.3. Đại cương về xơ vữa động mạch
* Quá trình hình thành XVĐM: Đầu tiên là những tổn thương của lớp tế
bào nội mạc. Những tế bào nội mạc tổn thương giảm khả năng sản xuất nitric
oxide (NO). NO được coi là chất chống XVĐM nội sinh quan trọng nhất [62].
Sau khi tế bào nội mô bị tổn thương là sự bám dính của các tiểu cầu, tế
bào đơn nhân và đại thực bào có thụ thể cho LDL-Cholesterol (LDL-C) bị
oxy hoá. Vì thế, chúng sẽ bắt giữ các phân tử này rồi biến đổi thành các tế bào
bọt, các tế bào sau này sẽ thâm nhiễm vào thành mạch. Các tế bào cơ trơn sẽ
di chuyển từ lớp áo giữa ra lớp nội mạc và tạo nên mảng xơ vữa.
Như vậy, tổn thương của tế bào nội mạc là điều kiện tiên quyết khởi
động cho quá trình hình thành và phát triển của XVĐM.
* Cơ chế bệnh sinh vữa xơ động mạch
Có nhiều giả thuyết về xơ vữa đô ̣ng ma ̣ch, trong đó đáng chú ý là các giả
thuyết: mỡ sinh, đơn dòng, đáp ứng tổn thương của Ross, tế bào và giả thuyết
ty lạp thể.
- Giả thuyết mỡ sinh: dựa vào sự gia tăng LDL-C huyết tương ở những
người có thương tổn XVĐM. Có sự lắng đọng lipid ở tế bào cơ trơn tăng sinh,
ở đại thực bào và ở tổ chức liên kết trong các thương tổn XVĐM. Bình
thường lớp nội mạc mang điện tích âm nên các thành phần hữu hình của máu
bị đẩy xa không bị ngưng kết, lắng đọng. Khi bị XVĐM sẽ làm gia tăng tính
thấm của tế bào nội mạc đối với VLDL-C và LDL-C, rối loạn hoạt tính của
những tế bào cơ trơn trong thành động mạch và men lipo protein lipase dẫn
đến hậu quả rối loạn cân bằng dòng lipo protein, dòng vào tế bào cao hơn
dòng ra khỏi tế bào gây ứ trệ và tích lũy mỡ ở thành động mạch. Đây là giả
thuyết được nhiều người công nhận nhất vì:
Thành phần cấu trúc của mảng XVĐM chủ yếu là lipid.
Những người có nồng độ lipid máu cao hay bị XVĐM hơn những người
có nồng độ lipid máu bình thường.
Có thể gây XVĐM trên thực nghiệm động mạch với chế độ ăn nhiều mỡ
và cholesterol.
- Giả thuyết đơn dòng: mỗi thương tổn của XVĐM bắt nguồn từ tế bào
cơ trơn, tế bào này là cội nguồn của tất cả các tế bào tăng sinh nằm trong
thương tổn.
- Giả thuyết tế bào: sự xâm nhập vào thành động mạch của bạch cầu đơn
nhân mất khả năng thực bào làm tổn thương hoặc kích thích phát triển các tế
bào cơ trơn, đại thực bào, tổ chức liên kết, lipid, phát triển những vùng tổn
thương từ đó gây XVĐM.
- Giả thuyết về ty lạp thể: các men ty lạp thể tế bào ở thành mạch có thể
gây thoái hóa và tích tụ mỡ ở tế bào cơ trơn, nhất là men cholesterol ester
hydrolase.
- Giả thuyết đáp ứng tổn thương của Ross: lớp nội mạc chịu nhiều
nguyên nhân khác nhau như sự tăng cholesterol mạn tính hay do chấn thương,
thuốc, vi khuẩn, miễn dịch, tự miễn. Tuy nhiên, tổn thương nội mạc mạch
máu có thể chỉ là những rối loạn chức năng không nhất thiết phải bong lớp nội
mạc như thay đổi tính thấm, thay đổi tính chất chống đông nội mạc, gia tăng
bài tiết những chất gây co mạch. Nội mạc khi bị tổn thương sẽ làm cho đơn
bào gắn vào nội mạc, di chuyển xuyên qua nội mạc và chuyển thành đại thực
bào. Đại thực bào có khả năng bắt giữ các hạt lipid, nhất là LDL-C đã thoái
biến. Sự hiện diện của đại thực bào làm gia tăng tổn thương lớp nội mạc.
1.3.4. Một số phương pháp đánh giá xơ vữa động mạch cảnh
* Chụp cắt lớp vi tính
Thường không dùng để chẩn đoán XVĐM mà để thấy rõ hậu quả trên
não do biến chứng của nó như nhồi máu não hay xuất huyết não.
* Chụp cộng hưởng từ
Hình ảnh cộng hưởng từ giống như chụp mạch mà không cần bơm thuốc
cản quang và không xâm nhập. Có thể nhìn toàn bộ hệ thống ĐMC trên không
gian 3 chiều và mối liên hệ của nó với ĐM cột sống, kiểm soát sự tưới máu
lên não và tai biến do sự xơ vữa gây nên. Tuy nhiên, giá thành của cộng
hưởng từ rất cao không thể áp dụng cho đa số người bệnh.
* Siêu âm mạch máu
- Nguyên lý siêu âm
Siêu âm (SA) là một dạng năng lượng với những sóng âm tần số cao hơn
20.000 Hertz và tai ta không nghe được. Trong chẩn đoán, dùng đầu dò bằng
chất áp điện nằm trong một điện trường xoay chiều, tinh thể áp điện này ép
vào và giãn ra dưới ảnh hưởng của điện trường xoay chiều và tạo năng lượng
âm học có tần số cao của sóng siêu âm và phát ra đều đặn 1000 xung/giây đi
vào trong các tổ chức của cơ thể.
Các sóng âm phát ra từ đầu dò, sẽ xuyên qua các cấu trúc của cơ thể đi
thẳng theo hướng ban đầu nếu qua một cấu trúc đồng trở kháng, nhưng sẽ dội
lại một phần năng lượng nếu gặp một cấu trúc khác trở kháng. Các sóng siêu
âm dội lại sẽ trở về đầu dò phát sóng và được đưa về bộ phận tiếp nhận rồi bộ
khuếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hình hiện sóng.
Các tín hiệu ghi trên màn hình là phản ánh của các cấu trúc sóng SA dội
trở về qua đầu dò. Kích thước, độ dài, biên độ di động, khoảng cách giữa các
cấu trúc đó có tỷ lệ chính xác so với thực tế [28].
- Siêu âm kiểu 2D
Giúp đánh giá cấu trúc thành mạch máu, đặc biệt là thành ĐM. Ba lớp
cấu trúc của thành ĐM bình thường: lớp nội mạc và lớp ngoài tạo ra 2 đường
bắt echo song song và chen giữa là lớp giữa không bắt echo.
Trên SA 2D có thể thấy đường trong cùng tương đối rõ là lớp nội mạc,
đường đen kế tiếp là lớp giữa và đường trắng ngoài cùng là lớp ngoài của
ĐM. Bề dày lớp nội trung mạc của ĐM trên SA được tính từ bắt đầu của lớp
nội mạc ở phía trong lòng mạch, đó là lớp echo đầu tiên, ngang qua vùng
giảm âm đến bắt đầu của lớp áo ngoài (ranh giới của lớp ngoại - trung mạc),
đó là lớp echo thứ hai.
Ngoài ra siêu âm 2D giúp xác định mảng xơ vữa ở thành ĐM. Tổn
thương xơ vữa ở thành ĐMC:
+ Mảng vữa sợi mỡ bắt echo thấp hơn echo cơ ức đòn chũm.
+ Mảng vữa sợi bắt echo trung bình, cao hơn echo cơ ức đòn chũm.
+ Mảng vữa bị calci hóa sau khi xuất huyết hoại tử có độ echo sáng hơn
cấu trúc xung quanh và có bóng lưng.
Siêu âm kiểu 2D còn giúp phát hiện phình ĐM, bóc tách ĐM [28].
1.3.5. Một số nghiên cứu liên quan
1.3.5.1. Nghiên cứu ngoài nước
Yoshimitsu Yamasaki và cộng sự (1994) khi khảo sát siêu âm bệnh nhân
ĐTĐ không phụ thuộc insulin cho thấy nam giới có nguy cơ xơ vữa nhiều
hơn nữ giới [70], nghiên cứu của Arturo Pujia và cộng sự cũng cho kết quả
tương tự [71].
Stevent M. Haffner và cộng sự (2000) khi nghiên cứu 43 bệnh nhân
ĐTĐ có bệnh mạch vành, 446 bệnh nhân ĐTĐ không có bệnh mạch vành, 47
bệnh nhân không ĐTĐ có bệnh mạch vành và 975 bệnh nhân không ĐTĐ
không có bệnh mạch vành ghi nhận: ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ có bệnh mạch
vành làm tăng xơ vữa ĐMC chung và ĐMC trong [52].
Nghiên cứu của G. Geroulakos và cộng sự (1994) khảo sát 97 bệnh nhân
đái tháo đường týp 2, Arturo Pujia (1994) khảo sát động mạch cảnh của 54
bệnh nhân ĐTĐ qua siêu âm cũng cho thấy không có sự liên hệ giữa
cholesterol toàn phần và bề dày xơ vữa ĐMC [71].
Geroulakos và cộng sự (1994), khi nghiên cứu trên 97 bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 và một nhóm chứng có số lượng tương đương, cùng tuổi, giới. Tác giả
nhận thấy bề dày nội trung mạc ĐMC ở nhóm ĐTĐ cao hơn nhóm chứng một
cách có ý nghĩa (0,82 ± 0,22 mm so với 0,66 ± 0,13 mm với p<0,001), Dirk
Sander và cộng sự (2006) phân tích dữ liệu của nghiên cứu INVADE trên
3534 đối tượng ghi nhận sự kết hợp ảnh hưởng có ý nghĩa giữa HbA1c và hs-
CRP lên sự tiến triển dày IMT ở bệnh nhân ĐTĐ cũng như không ĐTĐ [48].
1.3.5.2. Nghiên cứu trong nước
Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011) khi khảo sát 102 bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 và 64 bệnh nhân không ĐTĐ ghi nhận có tỷ lệ mảng xơ vữa ĐMC
là 61,8% so với nhóm chứng là 38,2%; bề dày IMT trung bình ở nhóm ĐTĐ
týp 2 là 1,35 ± 0,04 mm [20].
Châu Mỹ Chi (2016), nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo cho thấy bề
dày IMT là 1,20 ± 0,35 [2].
Nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013), trên 38 bệnh nhân tiền ĐTD
và 32 bênh nhân không có ĐTĐ, khi có tăng hs-CRP ≥ 3 mg/l bề dày IMT
giữa đối tượng tiền ĐTĐ cao hơn so với nhóm chứng (p<0,01); đồng thời có
sự tăng đáng kể bề dày IMT khi tăng có nồng độ hs-CRP ≥ 3 mg/l (1,05 ±
0,20 mm)so với mức hs-CRP<3 mg/l (0,86 ± 0,20 mm), (p<0,01). Nghiên
cứu này ghi nhận tương quan giữa hs-CRP và IMT với r = 0,334 (p<0,05),
trong khi không có sự tương quan cũng như sự khác biệt giữa bề dày mảng
XVĐM, chỉ số RI với hs-CRP trên dưới mức nguy cơ [32].
Trầm Lợi Trần Tiên (2012), nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường
bị nhồi máu não và nhóm chứng không ĐTĐ bị nhồi máu não ghi nhận ở
nhóm bệnh tỷ lệ bị xơ vữa chiếm 80% cao hơn so với nhóm chứng chiếm
66%; bề dày mảng xơ vữa trung bình ở nhóm bệnh bên phải là 2,62 ± 0,21
mm và bên trái là 2,7 ± 0,13 mm khác biệt với nhóm chứng [35].
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 110 bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ týp 2 khám và điều trị ngoại trú
tại bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của ADA 2011 [43]. Bệnh nhân thỏa
mãn mô ̣t trong các tiêu chuẩn sau:
- Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
- Glucose huyết tương bất kì ≥ 11,1 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
- Glucose huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 11,1 mmol/l.
- HbA1c ≥ 6,5% (phương pháp sắc ký).
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Chúng tôi loại khỏi nghiên cứu nếu bệnh nhân có một trong yếu tố sau:
- ĐTĐ khác có nguyên nhân
- Đang có biến chứng cấp tính
- Các tình trạng bệnh ảnh hưởng đến tăng hs-CRP: Nhiễm trùng, viêm
gan, bệnh tự miễn, suy thận… ; hoă ̣c đang dùng mô ̣t số thuố c:corticoid, no
steroid…
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, khoa Sinh hóa, khoa Thăm dò
chức năng, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Cỡ mẫu
Tính theo công thức sau:
1-α
2 + 1
n = Z2
Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu
Z1-α/2 : Giá trị điểm Z tại mức ý nghĩa α với α = 0,05, Z1-α/2 = 1,96
S: Độ lệch chuẩn
: Giá trị trung bình của 1 nghiên cứu trước
: Mức sai lệch tương đối giữa các tham số mẫu và tham số quần thể
Nồng độ hs-CRP được công bố ở nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hải
Thủy, Đại học Y Dược Huế năm 2011 là 3,6 ± 4,68, giá trị lấy bằng 0,2 tính
được cỡ mẫu là 104 và nghiên cứu của chúng tôi là 110 bệnh nhân [6].
2.3.3. Quy trình chọn đối tượng và thu thập số liệu
Tất cả đối tượng nghiên cứu được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm
cần thiết và được phỏng vấn khai thác kỹ các yếu tố liên quan đến bệnh theo
mẫu bệnh án đã được chuẩn bị trước. Các kết quả được ghi vào mẫu bệnh án
nghiên cứu thống nhất:
- Khám toàn thân (tỷ mỷ và làm bệnh án).
+ Hỏi tiền sử bản thân.
+ Hỏi tiền sử gia đình: bố, mẹ, anh, chị, em ruột có ai bị ĐTĐ, bị bệnh về di
truyền…
- Làm các xét nghiệm thường quy và các xét nghiệm phục vụ nghiên cứu
tại Khoa Sinh hoá, siêu âm động mạch cảnh tại Khoa Thăm dò chức năng
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
+ Định lượng glucose huyết
+ Xét nghiệm lipid máu: CT,TG, HDL, LDL.
+ Xét nghiệm HbA1c
+ Xét nghiệm hs-CRP máu
+ Siêu âm động mạch cảnh.
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu
- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, BMI, số năm
mắc bệnh.
- Kết quả nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp
2 tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
+ Nồng độ hs-CRP và phân loại mức độ hs-CRP
+ Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo một số đặc điểm lâm sàng: độ tuổi,
giới tính, chỉ số BMI, thời gian phát hiện bệnh.
+ Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo một số đặc điểm cận lâm sàng: chỉ
số glucose huyết , chỉ số HbA1c, xét nghiệm lipid máu.
- Chỉ tiêu về đặc điểm hình thái mạch cảnh đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở
bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
+ Đặc điểm đường kính tâm thu, đường kính tâm trương, độ dày lớp nội
trung mạc, số lượng MXV của động mạch cảnh chung, động mạch cảnh
ngoài, động mạch cảnh trong.
+ Sự thay đổi đường kính tâm thu, đường kính tâm trương, độ dày lớp
nội trung mạc của động mạch cảnh chung, động mạch cảnh ngoài, động mạch
cảnh trong theo một số đặc điểm lâm sàng như độ tuổi, giới tính, chỉ số BMI,
số năm phát hiện bệnh.
+ Tỷ lệ MXV, tình trạng MXV trên đối tượng nghiên cứu.
+ Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp nội trung mạc, tình
trạng, vị trí, số lượng xơ vữa động mạch cảnh.
2.5. Tiêu chuẩn đánh giá và các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
2.5.1. Đặc điểm chung
* Tuổi: Phương pháp tính tuổi bằng: Năm điều tra - năm sinh, chia thành
các nhóm tuổi sau: ≤ 60, 61 - 70, >70.
* Giới: Giới được chia thành hai nhóm là giới nam và giới nữ.
* Chiều cao (m)
Được đo bằng thước chuẩn, đo khi đối tượng đứng thẳng, hai bàn chân
chạm đất, hai tay buông thõng theo thân mình, mắt nhìn về phía trước và
không mang giày dép, kết quả được lấy từ đường thẳng vuông góc với thước
đo, đi qua đỉnh đầu bệnh nhân.
* Cân nặng (kg)
Được đo bằng cân bàn hiệu SMIC do Trung Quốc sản xuất với độ chính
xác 0,1kg. Cân được đặt ở vị trí bằng phẳng, chỉnh về mức 0, thực hiện đo
vào buổi sáng khi đối tượng đang đói, chỉ mặc một bộ quần áo mỏng, chân
trần, không đội mũ và không mang kèm các vật dụng khác.
* BMI (chỉ số khối cơ thể) (kg/m2) tính bằng công thức
Cân nặng (kg)
BMI = Chiều cao (m) 2
Bảng 2.1. Đánh giá chỉ số BMI theo khuyến cáo của Tổ chức Y Tế thế
giới (WHO) đề nghi cho khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tháng 2/2000
Xếp loại BMI
Gầy < 18,5
Bình thường 18,5 – 22,9
Thừa cân 23 – 24,9
Béo phì độ 1 25 – 29,9
Béo phì độ 2 > 30
2.5.2. Phương pháp định lượng hs-CRP
- Bệnh nhân được lấy 2-2,5ml máu vào buổi sáng khi đói (sau ăn ít nhất
8 giờ), mẫu máu được cho vào ống chống đông heparin, quay ly tâm tách
huyết tương và bảo quản ở nhiệt độ 0-4oC cho đến khi được phân tích.
- Lưu ý bệnh nhân không dùng các thuốc có ảnh hưởng đến kết quả xét
nghiệm: corticoid, thuốc ức chế miễn dịch… theo đúng quy trình vô trùng kỹ
thuật.
- Kỹ thuật được thực hiện tại Khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên, trên máy xét nghiệm tự động AU5800 của hãng Olympus - Nhật
Bản, hoá chất của hãng Backman Coulter cung cấp, dựa trên nguyên lý miễn
dịch đo độ đục.
- Nguyên tắc: CRP trong huyết tương sẽ kết hợp với kháng CRP có sẵn
trong dung dịch của thuốc thử. Phức hợp kháng nguyên-kháng thể CRP làm
dung dịch thử trở nên đục. Độ đục này thay đổi tuỳ theo nồng độ hs-CRP có
trong mẫu huyết tương .
- Giới hạn phát hiện thấp nhất của xét nghiệm này là 0,1mg/l.
Để đánh giá nguy cơ Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (American Heart
Association - AHA) và CDC thống nhất chia hs-CRP thành 3 mức độ:
Bảng phân loại nguy cơ và nồng độ hs-CRP trung bình
(AHA/CDC-2003)
Nguy cơ Nồng độ hs- CRP
Thấp < 1mg/l
Trung bình 1-3mg/l
Cao >3mg/l
2.5.3. Sinh hóa máu
Sử dụng chung mẫu huyết tương dùng cho phản ứng định lượng hs-CRP
và đều được thực hiện trên máy xét nghiệm sinh hóa tự động AU5800.
* Glucose huyết
- Phương pháp: định lượng bằng phương pháp hexokinase trên máy sinh
hóa AU5800 - Hãng Olympus của Nhật Bản. Đơn vị tính là mmol/l.
- Đánh giá glucose huyết: dựa vào tiêu chuẩn của ADA 2011[43].
* HbA1c
Định lượng theo phương pháp sắc ký trao đổi ion bằng máy AU640 –
Hãng Olympus của Nhật Bản tại khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên. Đơn vị tính là %. Đánh giá HbA1c: dựa vào tiêu chuẩn của ADA
2011 [43].
Bình thường HbA1c chiếm 4-6% trong toàn bộ hemoglobin. Khi HbA1c
tăng trên bình thường 1% tương ứng với giá trị glucose huyết tăng lên
30mg/dl hay 1,7 mmol/l.
Bảng 2.2. Mục tiêu điều trị đái tháo đường týp 2 theo Hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị bệnh nội tiết - chuyển hóa của Bộ Y tế năm 2015 [31]
Chỉ số Đơn vị Tốt Chấp nhận Kém
Glucose huyết mmol/l
- Lúc đói 4,4 – 6,1 ≤ 6,5 >7,0
- Sau ăn 4,4 – 7,8 7,7 ≤ 9,0 >9,0
HbA1c % ≤ 7,0 > 7,0 đến ≤ 7,5 > 7,5
CT toàn phần mmol/l < 4,5 4,5 đến ≤5,2 ≥ 5,3
TG mmol/l 1,5 ≤ 2,3 > 2,3
HDL-C mmol/l > 1,1 ≥ 0,9 < 0,9
* Định lượng các thành phần lipid máu [31]:
LDL-C mmol/l < 1,7 ≤ 2,0 ≥ 3,4
- Cholesterol toàn phần (CT): định luợng bằng phương pháp dùng enzym
so màu, đơn vị tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường CT<5,2 mmol/l. Nếu
CT ≥ 5,2 mmol/l: tăng
- Triglycerid (TG): định lượng bằng phương pháp enzym so màu, đơn vị
tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường TG<1,7 mmol/l. Nếu ≥ 1,7 mmol/l:
tăng.
- Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C): định lượng bằng phương pháp miễn
dịch đo độ đục, đơn vị tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường HDL-C >1,0
mmol/l. Nếu HDL-C ≤1,0 mmol/l: giảm.
- Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C): định lượng bằng phương pháp
miễn dịch đo độ đục, đơn vị tính là mmol/l hoặc mg/l. Đánh giá: bình thường
LDL-C<2,6 mmol/l. Nếu LDL-C ≥ 2,6 mmol/l: tăng.
Bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa lipid khi có bất thường một hoặc
nhiều trong các chỉ số trên.
2.5.4. Siêu âm động mạch cảnh
* Phương tiện khảo sát và chuẩn bị bệnh nhân
- Dụng cụ: máy siêu Doppler màu Philip HD. Đầu dò tần số 7,5 MHz tại
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
- Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa ở tư thế dễ chịu nhất, đặt gối dày khoảng
10cm dưới bả vai, đầu ngửa ra sau và thở đều, bộc lộ rộng rãi vùng khảo sát
để tiến hành siêu âm được thuận lợi.Trong quá trình khám nghiệm, đầu có thể
xoay sang phải hay trái để có được vị trí thăm dò thuận lợi nhất.
- Tư thế người khám: ngồi bên phải bệnh nhân vừa quan sát được vị trí
ĐM khảo sát, vừa thấy được màn hình siêu âm để điều chỉnh cho hình ảnh tối
ưu nhất [28].
* Vị trí khảo sát và kỹ thuật khảo sát
- Cách tiến hành siêu âm: bôi gel tiếp xúc rồi bắt đầu từ máng cảnh đặt
đầu dò ở vùng máng cổ và tiến hành bằng cắt mặt ngang xuyên trục ĐMC, sau
đó xoay tròn 90o quanh trục và đi dọc theo hướng trục đi của ĐMC để khảo sát sự
hiện diện mảng xơ ở ĐMC chung, ĐMC trong và ngoài đo IMT của thành ĐMC
chung trước chỗ chia đôi 10 mm. Đơn vị tính bằng mm [53], [63].
- Siêu âm cho thấy ba lớp cấu trúc của thành động mạch bình thường:
lớp nội mạc và áo ngoài tạo ra 2 đường hồi âm, chen giữa là lớp trung mạc
không hồi âm. Trên siêu âm có thể thấy đường trong cùng tương đối rõ là lớp
nội mạc, đường đen kế tiếp là lớp trung mạc và đường trắng ngoài cùng là lớp
áo ngoài của động mạch [53].
- Mặt cắt chuẩn là mặt cắt thấy rõ đường tăng âm của nội mạc ở cả phía
gần lẫn phía xa. IMT động mạch cảnh chung thấy được trên siêu âm là đường
kép ở hai phía của lòng động mạch cảnh chung trên mặt cắt dọc, được tạo bởi
hai đường song song của lớp nội mạc và mặt phân cách giữa hai lớp ngoại -
trung mạc. IMT được tính từ bắt đầu của lớp nội mạc ở phía trong lòng mạch
ngang qua vùng giảm hồi âm đến ranh giới của lớp ngoại - trung mạc.
- Đo khoảng cách từ điểm trên bề mặt lớp nội mạc ở phía lòng mạch
thẳng góc tương xứng đến điểm nằm trên ranh giới lớp ngoại - trung mạc. Đo
IMT tại vị trí thấy được đường kép và không có mảng vữa, đo ít nhất 3 lần
khác nhau ở vị trí khảo sát, lấy trung bình cộng bề dày lớp IMT [28], [53].
Hình 2.4. và 2.5. Siêu âm đo bề dày lớp áo trong - áo giữa (IMT)
bình thường (trái) và dày lên (phải) [53].
- Đo bề dày mảng xơ vữa tương tự đo IMT tại nơi dày nhất của từng vị
trí: động mạch cảnh chung, chỗ chia đôi, động mạch cảnh trong.
- Kết quả: IMT động mạch cảnh chung được đo ở cả hai bên phải và trái,
từ đó tính giá trị IMT trung bình, đơn vị tính là mm.
* Đánh giá hình ảnh tổn thương động mạch cảnh
- Động mạch cảnh bình thường
Hình ảnh ĐM bình thường: dùng mặt cắt dọc và ngang
+ Mặt cắt dọc: ĐM xuất hiện như một dải vang âm trắng, tăng sáng ở
phía sau, có giới hạn hai đường viền đều đặn, đồng nhất song song.
+ Mặt cắt ngang: ĐM xuất hiện như một vòng truyền âm, tăng sáng ở
thành sau chu vi phân ranh giới bởi thành ĐM [53].
Hình 2.6. Xác định vị trí mảng xơ vữa và vị trí đo IMT
1: mảng vữa dày>1,5 mm,
2: nhô vào lòng mạch>0,5 mm,
3 và 4: dày hơn 50% IMT xung quanh [53]
- Bề dày lớp áo trong - áo giữa của động mạch cảnh
Đánh giá IMT dựa theo Hội tim mạch và huyết áp châu Âu 2007: IMT
tăng khi IMT ≥ 0,9 mm [47].
- Mảng xơ vữa: mảng xơ vữa được xác định là mảng lồi vào lòng mạch ít
nhất 0,5 mm hoặc 50% so với IMT xung quanh hay những chỗ nội mạc dày ít
nhất 1,5 mm đo từ lớp ngoại trung mạc đến lớp nội mạc [53].
- Đo đường kính tâm thu (D) và đường kính tâm trương (d) tại ĐMC
gốc, ĐMC trong, ĐMC ngoài tại vị trí cách chỗ chia đôi của ĐMC gốc 1cm.
2.6. Phương phá p xử lý số liê ̣u
Số liệu nghiên cứu được xử lý theo phương pháp thống kê y học, sử
dụng phần mềm EPI - info 6.04 và SPSS 16.0, test “t”.
- Kết quả được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ hoặc đồ thị.
- Các biến định tính được trình bày dưới dạng tỉ lệ %, biến định lượng
được trình bày dưới dạng TB ± độ lệch chuẩn ( ± SD).
- Dùng các test trong thống kê để kiểm định và so sánh, dùng hệ số
tương quan “r” để biểu thị mối tương quan về kết quả đo giữa các phương
pháp:
+ r>0 là tương quan thuận và r<0 là tương quan nghịch.
+ r 0,75: tương quan rất chặt.
+ 0,5 r 0,75: tương quan chặt.
+ 0,25 r 0,5: tương quan tương đối chặt.
+ r < 0,25: không có tương quan.
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
- Bệnh nhân tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và có quyền rút khỏi
nghiên cứu bất cứ lúc nào.
- Nghiên cứu có phản hồi kết quả
- Thông tin của người bệnh được, tôn trọng, giữ bí mật, thông cảm và
chia sẻ với bệnh nhân.
- Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bệnh
nhân và cộng đồng, không nhằm mục đích nào khác.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
67,8 ± 7,1, min=40, max=84 Tuổi trung bình (X ± SD)
≤ 60 12 10,9
Nhóm tuổi 61-70 56 50,9
> 70 42 38,2
Giới
57 51,8 Nam
53 48,2 Nữ
23,7 ± 2,7 BMI(kg/m2)
34 30,9 <23
76 69,1 ≥ 23
6,2 ± 3,1 Thời gian phát hiện bệnh (năm)
41 37,3 ≤ 5 năm
69 62,7 > 5 năm
110 100 n
Nhận xét:
- Tuổi trung bình các bệnh nhân nghiên cứu là 67,8 ± 7,1, người cao tuổi
nhất là 84 tuổi, ít tuổi nhất là 40 tuổi.
- Nhóm tuổi 61-70 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 50,9%, nhóm >70 tuổi
chiếm 38,2% còn lại là nhóm tuổi ≤ 60 tuổi chiếm tỷ lệ 10,9%.
- Giới nam và nữ chiếm tỷ lệ tương đương nhau.
- Chỉ số BMI trung bình của bệnh nhân cứu là 23,8 ± 3,0. Nhóm nghiên
cứu có chỉ số BMI ≥ 23 (69,1%) cao hơn nhóm có chỉ số BMI < 23 (30,9%).
- Số năm mắc bệnh trung bình là 6,2 ± 3,1. Đối tượng nghiên cứu có thời
gian phát hiện bệnh trên 5 năm chiếm 62,7%.
Bảng 3.2. Kết quả chỉ số lipid máu của các đối tượng nghiên cứu
Chỉ số Số lượng Tỷ lệ (%)
70 63,6 Bình thường
40 36,4 Tăng Cholesterol (mmol/l)
5,0 ± 1,2 Trung bình
62 56,4 Bình thường
48 43,6 Tăng Triglycerid (mmol/l)
3,4 ± 1,7 Trung bình
105 95,5 Bình thường
5 4,5 Giảm HDL-C (mmol/l)
1,3 ± 0,3 Trung bình
55 50,0 Bình thường
55 50,0 Tăng LDL-C (mmol/l)
3,2 ± 0,7 Trung bình
22 20,0 Bình thường Lipid chung 88 80,0 Rối loạn
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân rối loạn lipid chung là 80%. Trong đó tỷ lệ tăng
cholesterol là 63,6%, tăng triglycerid là 56,4%, giảm HDL-C là 4,5%, tăng
LDL-C là 50%.
Bảng 3.3. Kết quả kiểm soát glucose huyết và HbA1c của các đối tượng
nghiên cứu
Đặc điểm chung Tỷ lệ (% ) n
68 Kém 61,8
16 Chấp nhận được 14,6 Glucose 26 Tốt 23,6
Trung bình 7,8 ± 2,3
59 Kém 53,6
12 Chấp nhận được 10,9 HbA1c 39 Tốt 35,5
Trung bình 8,1 ± 1,8
Nhận xét: Nồng độ trung bình glucose huyết là 7,8 ± 2,3mmol/L; nồng
độ trung bình HbA1c là 8,1 ± 1,8mmol/L
Tỷ lệ bệnh nhân kiểm soát glucose huyết kém là 61,8% và tỷ lệ bệnh
nhân có kết quả điều trị kém là 53,6%.
3.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động mạch
cảnh đoạn ngoài sọ
3.2.1. Nồng độ hs-CRP huyết tương
Bảng 3.4. Nồng độ hs-CRP của các đối tượng nghiên cứu
hs-CRP (mg/l) n Tỷ lệ (% )
≥ 1 68 61,8
<1 42 38,2
Trung bình 2,8 ± 1,7
Nhận xét: Giá trị hs-CRP trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, tỷ lệ nhóm có hs-
CRP ≥ 1 mg/l là 61,8%.
Bảng 3.5. Kết quả phân độ hs-CRP ở đối tượng nghiên cứu
hs-CRP (mg/l) n Tỷ lệ %
<1 42 38,2
1-3 14 12,7
> 3 54 49,1
Tổng 110 100
Nhận xét:
Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP >3mg/l chiếm tỷ lệ cao nhất (49,1%). Tỷ
lệ có nồng độ hs-CRP <1mg/l là (38,2%). Số bệnh nhân có nồng độ hs-CRP
1-3mg/l chiếm tỷ lệ thấp nhất (12,7%).
Bảng 3.6. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo nhóm tuổi
hs-CRP (mg/l) n X ± SD
Nhóm tuổi
≤ 60 12 2,3 ± 1,6
61-70 56 2,9 ± 1,7
>70 42 2,7 ± 1,7
p >0,05
Nhận xét:
Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân ≤ 60 tuổi trung bình là 2,3 ± 1,62, ở
nhóm bệnh nhân 61-70 tuổi có nồng độ hs-CRP cao nhất là 2,9 ± 1,7, nhóm
>70 tuổi nồng độ hs-CRP trung bình là 2,7 ± 1,7. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.7. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo giới
hs-CRP (mg/l) n X ± SD
Giới
Nam 57 2,8 ± 1,7
Nữ 53 2,6 ± 1,7
p (test t) >0,05
Nhận xét:
Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân nam trung bình là 2,8 ± 1,7, nồng
độ hs-CRP ở bệnh nữ trung bình là 2,6 ± 1,7. Sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Bảng 3.8. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI
≥ 23 <23 p BMI(kg/m2)
hs-CRP (mg/l) n % n %
≥ 1 49 64,5 19 55,9
>0,05 <1 27 35,5 15 44,1
>0,05 Trung bình 2,8 ± 1,6 2,7 ± 1,8
Nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân có BMI < 23 là 2,8 ± 1,6
Nhận xét:
và ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 2,7 ± 1,8. Sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05.
Bảng 3.9. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo thời gian phát
hiện bệnh
Thời gian ≤ 5 năm > 5 năm p
hs-CRP (mg/l) n % n %
≥ 1 18 43,9 50 72,5
<0,05 <1 23 56,1 19 27,5
Trung bình 2,2 ± 1,6 3,1 ± 1,6 <0,05
Nhận xét: Ở nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm nồng
độ hs-CRP trung bình là 2,2 ± 1,6 và ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh
> 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là 3,1 ± 1,6. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).
Bảng 3.10. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo sự kiểm soát
glucose huyết
Glucose huyết Tốt p Kém Chấp nhận
hs-CRP (mg/l) n % n % n %
51 75 10 62,6 7 26,9 ≥1 <0,05 17 25 6 37,5 19 73,1 <1
Trung bình 3,1 ± 1,6 2,4 ± 1,4 1,9 ± 1,7 <0,05
Nhận xét: Nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm soát
glucose huyết kém là 3,1 ± 1,6, ở bệnh nhân kiểm soát chấp nhận được là 2,4
± 1,4 và nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt là 1,9 ±
1,7. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
25
20
y = 0.833x + 5.462 r = 0.606
15
Glu co
10
E S O C U L G
5
0
4
0
2
6
8
hs-CRP
Biểu đồ 3.1. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số glucose
Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP
16
14
y = 0.570x + 6.497 r = 0.521
12
10
8
HbA1 C
huyết tương và chỉ số glucose huyết với r = 0,606; p<0,05.
C 1 A b H
6
4
2
0
0
2
4
6
8
hs-CRP
Biểu đồ 3.2. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số HbA1c
Nhận xét :
Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và
chỉ số HbA1c theo phương trình tương quan:
y = 0,570x + 6,497; với r = 0,521; p<0,05.
Bảng 3.11. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại
HbA1c
HbA1c Kém Chấp nhận Tốt p hs-CRP (mg/l) n % n % n %
47 79,7 7 58,3 14 35,9 ≥1 <0,05 12 20,3 5 41,7 25 64,1 <1
Trung bình 3,3 ± 1,5 2,8 ± 1,8 1,8 ± 1,4 <0,05
Nhận xét:
Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân kiểm soát chỉ số HbA1c
kém, chấp nhận được, tốt lần lượt là: 3,3 ± 1,5; 2,8 ± 1,8; 1,8 ± 1,4. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.12. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu
Không rối loạn Lipid máu Có rối loạn p hs-CRP (mg/l) % % n n
≥ 1 60 68,2 8 36,4
<0,05 <1 28 31,8 14 63,6
Trung bình 3,0 ± 1,6 2,0 ± 1,6 <0,05
Nhận xét:
Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lipip máu và
nhóm không có rối loạn lipip máu trung bình là; 3,0 ± 1,6; 2,0 ± 1,6. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
3.2.2. Đặc điểm hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ
Bảng 3.13. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh
Vị trí động mạch Lớn nhất Nhỏ nhất X ± SD
IMT (mm) 0,5 1,0 ± 0,3 1,6 ĐMC gốc D (mm) 6,0 7,6 ± 0,6 9,4 (n=110) d (mm) 5,4 7,1 ± 0,6 8,8
IMT(mm) 0,5 0,9 ± 0,2 1,4 ĐMC ngoài D (mm) 3,4 5,5 ± 0,6 6,8 (n=110) d (mm) 3,0 4,9 ± 0,6 6,0
IMT (mm) 0,5 0,9 ± 0,2 1,6 ĐMC trong D (mm) 5,0 6,7 ± 0,6 7,9 (n=110) d (mm) 4,4 6,1 ± 0,6 7,2
IMT: Độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh
D: Đường kính tâm thu động mạch cảnh
d: Đường kính tâm trương động mạch cảnh
Nhận xét:
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc là 1,0 ± 0,3mm, động mạch cảnh
ngoài là 0,9 ± 0,2mm, động mạch cảnh trong là 0,9 ± 0,2 mm.
Bảng 3.14. Đặc điểm IMT động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu
n IMT (mm) Tỷ lệ %
79 ≥ 0,9 71,8
31 <0,9 28,2
0,91 ± 0,22 100 IMT ( ± SD)
Nhận xét:
Độ dày IMT ĐMC trung bình là 0,91 ± 0,22, trong đó số đối tượng có
tăng IMT chiếm tỷ lệ cao 71,8%.
Bảng 3.15. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo nhóm tuổi
≤ 60 Nhóm tuổi 61-70 >70 p Vị trí động mạch X ± SD X ± SD X ± SD
IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐMC gốc D (mm) 7,7 ± 0,5 7,7 ± 0,7 7,7 ± ,05 >0,05 (n=110) d (mm) 7,2 ± 0,5 7,1 ± 0,7 7,2 ± 0,5 >0,05
IMT (mm) 0,9 ± 0,3 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC ngoài D (mm) 5,7 ± 0,4 5,4 ± ,07 5,5 ± 0,7 >0,05 (n=110) d (mm) 5,1 ± 0,5 4,9 ± 0,7 4,9 ± 0,7 >0,05
IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,9 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐMC trong D (mm) 6,9 ± 0,5 6,6 ± 0,6 6,7+0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,4 ± 0,6 6,0 ± 0,6 6,0 ± 0,6 >0,05
Nhận xét: Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70
tuổi, >70 tuổi lần lượt là: 1,0 ± 0,3mm,1,0 ± 0,3mm, 1,0 ± 0,3mm. Sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70 tuổi,
>70 tuổi lần lượt là: 0,9 ± 0,3mm; 0,9 ± 0,2mm; 0,8 ± 0,2mm. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70 tuổi,
>70 tuổi lần lượt là: 0,9 ± 0,2mm; 0,9 ± 0,2mm; 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.16. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo giới
Giới Nam Nữ p Vị trí động mạch X ± SD X ± SD
IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐMC gốc D (mm) 7,8 ± 0,6 7,5 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 7,3 ± 0,6 7,0 ± 0,6 >0,05
IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC ngoài D (mm) 5,7 ± 0,6 5,3 ± 0,7 >0,05 (n=110) d (mm) 5,0 ± 0,6 4,7 ± 0,6 >0,05
IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC trong D (mm) 6,8 ± 0,6 6,5 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,2 ± 0,6 5,9 ± 0,6 >0,05
Nhận xét: Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân nam là 1,0
± 0,3mm, ở bệnh nhân nữ là 1,0 ± 0,3mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân nam là 0,9 ± 0,2mm, ở
bệnh nhân nữ là 0,8 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân nam là 0,9 ±
0,2mm, ở bệnh nhân nữ là 0,8 ± 0,2 mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p>0,05.
Đường kính tâm trương, đường kính tâm thu của động mạch cảnh gốc,
động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài giữa hai giới không có sự khác
biệt với p>0,05.
Bảng 3.17. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo BMI
BMI(kg/m2) < 23 ≥ 23 p
Vị trí động mạch X ± SD X ± SD
IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐM cảnh gốc 7,7 ± 0,5 7,6 ± 0,6 >0,05 D (mm) (n=110) 7,2 ± 0,6 7,1 ± 0,6 >0,05 d (mm)
IMT (mm) 0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐM cảnh ngoài 5,5 ± 0,6 5,4 ± 0,7 >0,05 D (mm) (n=110) 4,9 ± 0,6 4,8 ± 0,7 >0,05 d (mm)
IMT (mm) 0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐM cảnh trong D (mm) 6,7 ± 0,5 6,6 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,1 ± 0,6 6,0 ± 0,6 >0,05
Nhận xét:
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có BMI < 23 là 1,0 ±
0,3mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 1,0 ± 0,3mm. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có BMI < 23 là
0,8 ± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8
± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Đường kính tâm trương, đường kính tâm thu của động mạch cảnh gốc,
động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài giữa nhóm có BMI ≥ 23 và
nhóm có BMI < 23 không có sự khác biệt với p>0,05.
Bảng 3.18. Độ dầy lớp nội trung mạc động mạch cảnh theo thời gian phát
hiện bệnh
Thời gian ≤ 5 năm > 5 năm p IMT X ± SD X ± SD
0,9 ± 0,3 1,1 ± 0,3 <0,05 IMT gốc (n=110)
0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 <0,05 IMT trong (n=110)
0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 <0,05 IMT ngoài (n=110)
Nhận xét:
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có thời gian phát hiện
bệnh ≤ 5 năm là 0,9 ± 0,3mm và > 5 năm là 1,1 ± 0,3mm. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có thời gian phát
hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,8 ± 0,2mm và > 5 năm là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có thời gian phát
hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,8 ± 0,mm và > 5 năm là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.19. Tỷ lệ mảng xơ vữa động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu
Có Mảng xơ vữa Không Tổng cộng
67 N 43 110
60,9 Tỷ lệ (%) 39,1 100
Nhận xét: Số bệnh nhân có mảng xơ vữa động mạch cảnh cao chiếm tỷ
lệ (60,9%) so với số bệnh nhân không có mảng xơ vữa (39,1%).
Bảng 3.20. Số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh theo vị trí của đối
tượng nghiên cứu
Tổng MXV Phải Trái Tổng cộng Tỷ lệ (%)
ĐM cảnh gốc 50 45 95 61,3
ĐM cảnh ngoài 1 3 4 2,6
ĐM cảnh trong 28 28 56 36,1
Tổng cộng 79(51%) 76(49%) 155 100
Nhận xét:
Mảng xơ vữa ở vị trí động mạch cảnh gốc chiếm tỷ lệ cao nhất (61,3%),
ở động mạch cảnh trong chiếm tỷ lệ (36,1%).
Vị trí mảng xơ vữa ở bên động mạch cảnh phải và động mạch cảnh trái
tương đương nhau là 79% và 76%.
Bảng 3.21. Số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh của đối tượng
nghiên cứu
n Tỷ lệ (%) Mảng xơ vữa
Một 25 37,3
Số lượng Nhiều 42 62,7
Nhận xét:
Số lượng bệnh nhân có nhiều mảng xơ vữa là 42 chiếm tỷ lệ 62,7% cao
hơn số bệnh nhân có một mảng xơ vữa là 25 (37,3%).
3.3. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn
thương ĐMC đoạn ngoài sọ
Bảng 3.22. So sánh đặc điểm hình thái động mạch cảnh giữa nhóm có
tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP
≥ 1 < 1 Phân độ hs-CRP (mg/l) p Vị trí ĐMC X ± SD X ± SD
IMT (mm) 1,2 ± 0,2 0,7 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh gốc 7,7 ± 0,6 D (mm) 7,7 ± 0,6 >0,05 (n=110) 7,2 ± 0,6 d (mm) 7,2 ± 0,6 >0,05
IMT (mm) 1,0 ± 0,2 0,6 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh ngoài 5,5 ± 0,6 D (mm) 5,2 ± 0,6 >0,05 (n=110) 4,9 ± 0,6 d (mm) 4,6 ± 0,6 >0,05
IMT (mm) 1,0 ± 0,1 0,6 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh trong 6,7 ± 0,6 D (mm) 6,7 ± 0,6 >0,05 (n=110) 6,1 ± 0,6 d (mm) 6,0 ± 0,6 >0,05
Nhận xét:
Ở nhóm có tăng hs-CRP bề dày trung bình lớp IMT động mạch cảnh
gốc, trong, ngoài là 1,2 ± 0,2; 1,0 ± 0,1; 1,0 ± 0,2, lớn hơn nhóm không tăng
hs-CRP (p<0,05).
Không có sự khác biệt về đường kính tâm thu và đường kính tâm trương
của ĐMC gốc, ĐMC trong, ĐMC ngoài giữa nhóm tăng nồng độ hs-CRP và
không tăng nồng độ hs-CRP (p>0,05).
Bảng 3.23. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với mảng xơ vữa
động mạch cảnh
Mảng xơ vữa ĐM p n hs-CRP (mg/l)
67 3,4 ± 1,7 Có
<0,05 43 1,8 ± 1,0 Không
Nhận xét: Bệnh nhân có mảng xơ vữa có nồng độ hs-CRP trung bình
3,4 ± 1,7 cao hơn nồng độ hs-CRP của nhóm không có mảng xơ vữa 1,8 ±
1,0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.24. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp nội trung mạc
IMT
IMT bình thường IMT tăng (n=79) (n=31) p
hs-CRP (mg/l) n % n %
68 86,1 10 32,3 ≥ 1
<0,05 11 13,9 21 67,7 <1
79 100 31 100 Tổng
Nhận xét: Nhóm có tăng hs-CRP tỷ lệ có tăng độ dày IMT chiếm 86,1%, ở
nhóm không tăng tỷ lệ bệnh nhân dày IMT chỉ chiếm 32,3%. Sự khác biệt có
83.7%
90
80
70
52.2%
47.8%
60
Một MXN
50
Nhiều MXV
40
30
16.3%
20
10
0
ý nghĩa thống kê ới p<0,05.
hs-CRP tăng
hs-CRP bình thường
Biểu đồ 3.3. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với số lượng
mảng vữa xơ động mạch cảnh (n=67)
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân có nhiều mảng vữa xơ ở nhóm tăng nồng độ hs-CRP
huyết tương (83,7%) cao hơn ở nhóm không tăng nồng độ hs-CRP huyết
tương (16,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.25. Liên quan giữa nhóm có tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP
với số lượng mảng xơ vữa
Số lượng MVX
Không P Có MVX Tổng MVX
hs-CRP (mg/l) n % % n % n
19 27,9 49 72,1 42 100 ≥ 1
<0,05 24 57,1 18 42,9 68 100 <1
43 39,1 67 60,9 110 100 Tổng
Nhận xét: Ở nhóm hs-CRP tăng tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 72,1%. Ở
nhóm hs-CRP bình thường tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 42,9%. Sự khác
18
y = 0.646x - 0.370 r = 0.533
16
14
12
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
a ữ v ơ x
10
8
Tong MXV
6
g n ả m g n ổ T
4
2
0
0
1
2
3
4
5
6
7 hs-CRP
Biểu đồ 3.4. Tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với số lượng
mảng xơ vữa
Nhận xét: Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-
CRP huyết tương và số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh với r = 0,533.
2.00
1.80
y = 0.152x + 0.617 r = 0.753
1.60
1.40
IMT ĐMC …
1.20 P R 1.00 C - s 0.80 h
0.60
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC gốc trái
Biểu đồ 3.5. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh gốc trái
Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP
huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc trái với: r = 0,753;
1.80
1.60
y = 0.140x + 0.608 r = 0.710
1.40
IMT ĐMC …
p<0,05.
1.20 P 1.00 R C 0.80 - s h 0.60
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC gốc phải
Biểu đồ 3.6. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh gốc phải
Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP
huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc phải theo phương trình
1.60
1.40
y = 0.095x + 0.568 r = 0.726
1.20
IMT ĐMC …
tương quan: y = 0,140x + 0,608 với r = 0,710; p<0,05.
1.00 P R 0.80 C - s h 0.60
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC ngoài phải
Biểu đồ 3.7. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh ngoài phải
Nhận xét:
Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương
và độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài với r = 0,726.
1.60
y = 0.092x + 0.627 r =0.683
1.40
1.20
1.00
0.80
P R C - s h
0.60
IMT ĐMC…
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC ngoài trái
Biểu đồ 3.8. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh ngoài trái
Nhận xét: Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-
1.60
1.40
y = 0.104x + 0.558 r =0.718
1.20
IMT …
CRP huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài trái (r =0,683).
1.00 P R 0.80 C - s h 0.60
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC trong phải
Biểu đồ 3.9. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh trong phải
Nhận xét:
Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và
độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong phải theo phương trình tương quan:
1.60
1.40
y = 0.095x + 0.568 r =0.610
1.20
1.00
0.80
với y = 0,104x + 0,558; r =0,718; p<0,05.
P R C - s h
0.60
IMT ĐMC…
0.40
0.20
-
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
IMT ĐMC trong trái
Biểu đồ 3.10. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ
dày nội trung mạc động mạch cảnh trong trái
Nhận xét:
Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-CRP huyết
tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong trái theo phương trình tương
quan: với y = 0,081x + 0,659; r =0,610; p<0,05.
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu
* Đặc điểm tuổi và giới của nhóm đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung bình của đối tượng nghiên
cứu là 67,8 ± 7,1, tuổi thấp nhất là 40 tuổi và tuổi cao nhất 84 tuổi. Bệnh hay
gặp ở độ tuổi 61-70 tuổi.
Kết quả này cũng tương tự như kết quả của Đinh Hiếu Nhân nghiên cứu
trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân là 61 ±
11,86 tuổi [27]. Nghiên cứu của Hồ Hữu Hóa trên 116 bệnh nhân ĐTĐ týp 2
thấy rằng tuổi trung bình là 60,3 ± 9,7 tuổi cao nhất là 83 tuổi và thấp nhất là
40 tuổi [12]. Võ Xuân Sang nghiên cứu trên 125 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thì
tuổi trung bình là 60,6 ± 9,9 tuổi [29]. Trần Thị Trúc Linh trên 116 bệnh nhân
đái tháo đường có tuổi trung bình 65,6 ± 9,90 [21], Nguyễn Thị Ngọc Lan,
Trương Mạnh Hà thực hiện tại bệnh viện A Thái Nguyên với tuổi trung bình
là 59,62 11,50 và 61,1 ± 10,3 [19], [10].
Nghiên cứu của Nguyễn Kim Lương và cộng sự (2009) tại bệnh viện C
Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ nữ là 52,5%, nam là 47,5% [23]. Theo nghiên cứu
của Hồ Hữu Hóa năm 2009 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
tỷ lệ nam là 53,4%, nữ giới là 46,6% [12]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc
Lan năm 2011 tại bệnh viện A Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ mắc ĐTĐ ở nam
và ở nữ là bằng nhau 50% [19]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Hải
tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2012 cho tỷ lệ nam là 49,7%, nữ
là 50,3% [11].
Đặc điểm về tuổi và giới trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
phần lớn các nghiên cứu trong nước và ngoài nước tiến hành trên nhóm đối
tượng ĐTĐ týp 2.
* Chỉ số BMI của đối tượng nghiên cứu
Chỉ số khối cơ thể trung bình của 110 bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi là 23,8 ± 3,0; số bệnh nhân nằm trong nhóm thừa cân, béo
phì (BMI>23) chiếm tỷ lệ cao chiếm 69,1%. Kết quả trong nghiên cứu
này của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trong nước tiến hành trên
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [33], [34].
Nghiên cứu của một số tác giả Châu á cũng cho kết quả tương tự như
nghiên cứu của nhóm tác giả Anubha Mahajan, Rubina Tabassum khi
nghiên cứu trên 1410 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tại Ấn Độ [59] cho kết quả
BMI trung bình của nhóm nghiên cứu là 24 ± 3,41 và >60% số đối tượng
nghiên cứu có BMI>23. Tương tự trong nghiên cứu của các tác giả Trung
Quốc khi nghiên cứu hs-CRP trên 225 người ĐTĐ týp 2 cũng cho kết quả
BMI trung bình 25,7 ± 3,4 và 65 % ĐTNC có BMI>23% [54].
* Theo thời gian phát hiện bệnh của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi số năm mắc bệnh trung bình là 5,9 ±
2,7. Thời gian phát hiện bệnh > 5 năm chiếm tỷ lệ là 62,7%. Kết quả trên cho
thấy tỷ lệ bệnh ĐTĐ týp 2 gia tăng theo thời gian phát hiện bệnh. Các tác giả
trong và ngoài nước sau có nhận xét tương tự chúng tôi.
Theo Nguyễn Thu Hương, khảo sát trên 299 bệnh nhân đái tháo đường
nhận thấy thời gian phát hiện bệnh từ 1-5 năm chiếm tỉ (34,4%), thời gian
phát hiện bệnh dưới 1 năm và 6-10 năm có tỉ lệ tương đương nhau (22,4% và
26,1%), số bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh trên 10 năm chiếm tỉ lệ thấp
nhất (17,1%). Tuổi càng cao, thời gian phát hiện bệnh càng dài thì tỉ lệ biến
chứng các cơ quan đích nói chung và biến chứng thận nói riêng càng gia tăng
[15].
Vũ Thị Thanh Huyền nghiên cứu trên 256 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thì
nhóm có thời gian phát hiện bệnh <5 năm là 26,3%, nhóm 5- 10 năm là 27%
và nhóm >10 năm là 46,7% [17].
Urooj Taheed Baluch và cộng sự nghiên cứu hs-CRP trên bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 nhận thấy nhóm có thời gian phát hiện bệnh <5 năm chiếm 24,0%,
5-10 năm chiếm 27,7% và >10 năm chiếm 42,5% [46]
Có kết quả này là do trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân là người
cao tuổi chiếm đa số, độ tuổi này ít hoạt động thể lực nên dễ bị thừa cân béo
phì và đây là yếu tố nguy cơ dẫn đến ĐTĐ týp 2. Mặc khác do tuổi thọ của
người Việt Nam ngày nay tăng cao nên thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ týp 2
càng gia tăng.
* Lipid máu của các đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân rối loạn lipid chung là 80%.
Trong đó tỷ lệ tăng cholesterol là 36,4%, tăng triglycerid là 43,6%, giảm
HDL-C là 4,5%, tăng LDL-C là 50,0%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đương của Nguyễn Hoàng Hải năm 2012 cho thấy 76,7% bệnh nhân có
rối loạn một hoặc nhiều thành phần lipid máu [11]. Trong đó, rối loạn
cholesterol máu toàn phần 49,7%, tăng triglycerid 38,4%, tăng LDL-C 37,7%
và giảm HDL-C 11,9%. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cường, Nguyễn Thị
Huyền (2014) cho kết quả tỷ lệ rối loạn lipid máu là 79,5%, trong đó tăng
cholesterol máu toàn phần chiếm 55,4%, tăng triglycerid chiếm 49,1%, tăng
LDL-C chiếm 27,7% và giảm HDL-C chiếm 30,4% [3]. Theo nghiên cứu của
Bế Thu Hà, tỷ lệ bệnh nhân tăng cholesterol chiếm 49,7%, tăng triglycerid
38,4%, tăng LDL-C chiếm 37,7% và giảm HDL-C chiếm 11,9%, tỷ lệ bệnh
nhân rối loạn một thành phần lipid máu là 76,7%, chủ yếu tăng cholesterol
[7]. Cook C B, Erdman D M. nghiên cứu đái tháo đường ở người Mỹ gốc Phi
có 58,0% người bệnh tăng LDL-C, 26% người bệnh giảm HDL-C .
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thịnh cũng cho kết quả tương đối giống của
chúng tôi, thường gặp nhất là tăng đồng thời 2 chỉ số CT và TG, tiếp đến là
cặp chỉ số tăng TG và tăng LDL-C, tăng TG và giảm HDL-C. Nghiên cứu của
Trần Vĩnh Thủy (2007) tại Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ rối loạn cholesterol
tăng 88,8% ; triglycerid tăng 79,5% ; LDL-C 55,1% ; HDL-C 37,2% [34].
Qua nghiên cứu của tác giả trên ta thấy tỷ lệ rối loạn chuyển hóa các thành
phần lipid ở bệnh nhân ĐTĐ có tỷ lệ cao. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Kim Lương và cộng sự tại Bệnh viện C-Thái Nguyên (2009) cho thấy kết quả
tương tự như các tác giả trên [23]: cholesterol ở giới hạn bệnh lý là 67,2%;
triglycerid 59,0%; HDL-C 36,9%; LDL-C 52,5%. Nghiên cứu của Nguyễn
Thị Ngọc Lan năm 2011 với tổng số 180 bệnh nhân ĐTĐ điều trị ngoại trú tại
Bệnh viện A Thái Nguyên cũng có sự rối loạn thành phần lipid máu:
Cholesterol ở giới hạn bệnh lý (> 5,2 mmol/l) là 42,22% ; triglyceride >2,3
mmol/l là 76,67%; HDL-C ≤ 0,9 mmol/l là 2,22%; LDL-C >1,2 mmol/l bằng
38,89% [19]. Nhiều tác giả đã nhận xét, rối loạn chuyển hoá lipid máu trong
bệnh đái tháo đường thường rối loạn nhiều chỉ số với nhau. Vì vậy, phải đồng
thời định lượng nhiều chỉ số và theo dõi thường xuyên hoặc định kỳ để phát
hiện sớm những rối loạn lipid máu, dự phòng tốt hơn biến chứng bệnh đái
tháo đường.
* Kiểm soát glucose huyết và HbA1c của các đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi làm xét nghiệm Glucose huyết lúc đói và kết quả cho thấy
Glucose huyết lúc đói trung bình là 7,8 ± 2,3. Tỷ lệ bệnh nhân có mức
glucose huyết tốt là 21,6%; chấp nhận được là 14,6%; kém là 61,8%. Chính vì
vậy mà tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị ở mức tốt còn thấp (21,6%).
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan tỷ lệ bệnh nhân có mức
glucose huyết tốt là 14,4%; trung bình là 17,78%; kém là 67,78% [19].
Nghiên cứu trên 159 bệnh nhân, tác giả Nguyễn Hoàng Hải cho thấy kiểm
soát glucose huyết ở mức tốt chỉ có 23,9%, mức chấp nhận 21,4% và còn
54,7% ở mức kiểm soát kém [11]. Bệnh nhân có nghề nghiệp làm ruộng có
mức kiểm soát kém và chấp nhận cao nhất, chiếm tỷ lệ 40,8% [19]. Võ Bảo
Dũng nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định cho kết quả kiểm soát
glucose huyết lúc đói đạt mức tốt 7,6%, mức chấp nhận 17,7%, mức kém
74,7% [6]. Nghiên cứu của chúng tôi và một số nghiên cứu trên đều phù hợp
với kết luận về quản lý bệnh đái tháo đường trong nghiên cứu hợp tác giữa
Bệnh viện Nội tiết, Hà Nội và Bệnh viện Quốc gia Kyoto - Nhật Bản, đó là số
người bệnh kiểm soát glucose huyết ở mức kém và chấp nhận chiếm tỷ lệ cao.
Nghiên cứu UKPDS (United Kingdom Prospective Diabetes Study) đã kết
luận, việc kiểm soát glucose huyết chặt chẽ trên bệnh nhân đái tháo đường týp
2 bằng nhiều phương pháp điều trị làm giảm tỷ lệ tử vong và mức độ tàn phế
[51]. Do vậy, kiểm soát glucose huyết chặt chẽ quan trọng là càng đưa
glucose huyết về gần với giá trị bình thường bao nhiêu thì càng kiểm soát
được các biến chứng bấy nhiêu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, qua chỉ số HbA1c cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân chưa kiểm soát được glucose huyết chiếm tỷ lệ cao nhất 53,6%, tỷ lệ
kiểm soát glucose huyết chấp nhận được là 10,9%, tỷ lệ kiểm soát glucose
huyết tốt thấp (35,5%). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011) tỷ
lệ kiểm soát glucose huyết của đối tượng nghiên cứu ở mức độ tốt 29,44%;
mức độ trung bình đạt 40,56%; mức độ kém là 30% [19].
Vũ Xuân Nghĩa, Phạm Thắng nghiên cứu trên 58 bệnh nhân ĐTĐ mới
được phát hiện có nồng độ trung bình HbA1c là 7,9 ± 1,2% [26]. Theo
Nguyễn Duy cường tiến hành nghiên cứu trên 112 bênh nhân ĐTĐ cho thấy
tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ HbA1c >7,5% chiếm 68,7% [3], Nghiên cứu của
Lương Quỳnh Hoa (2013) giá trị HbA1c trung bình của các đối tượng nghiên
cứu cao (9,84 ± 1,72%) trên ngưỡng xác định kiểm soát glucose huyết kém
(>7,5%) [13].
Kết quả của chúng tôi là 8,1 ± 1,8. Nghiên cứu của các tác giả khác đều
có kết quả tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi.
Điều này cho thấy phần lớn bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu chưa đạt
được mục tiêu kiểm soát đường huyết. Nguyên nhân kiểm soát glucose huyết
kém có thể do sự hiểu biết của bệnh nhân hạn chế và tuân thủ chế độ điều trị
kém, quản lý bệnh nhân chưa tốt và điều kiện kinh tế còn hạn chế, phát hiện
bệnh muộn và đã có nhiều biến chứng.
4.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái tổn thương động mạch cảnh
đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên
4.2.1. Nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
Nồng độ hs-CRP huyết tương trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, nhóm bệnh
nhân tăng hs-CRP chiếm tỷ lệ 61,8%, cao hơn nhóm có hs-CRP <1 mg/l
(38,2%). Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP >3 mg/l chiếm tỷ lệ cao nhất
(49,1%). Nồng độ hs-CRP huyết tương trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới [41]. Sự khác biệt
này có thể liên quan tới sự khác nhau về thời gian phát hiện bệnh, tình
trạng kiểm soát glucose huyết, HbA1c, các rối loạn mỡ máu.
* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo tuổi và giới
Khi so sánh nồng độ hs-CRP ở 3 nhóm tuổi: <60 tuổi, 61-70 tuổi và trên 70
tuổi chúng tôi thấy có sự khác biệt, ở nhóm bệnh nhân 61-70 tuổi có nồng độ hs-
CRP cao nhất là 2,9 ± 1,7 mg/l, nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi có nồng độ hs-
CRP thấp nhất là 2,3 ± 1,6 mg/l. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Nguyễn Văn Mùi nghiên cứu hs-CRP trên 89 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 kết
quả khác với nghiên cứu của chúng tôi về nồng độ hs-CRP huyết tương của
nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi là 3,29 ± 2,53 mg/l; cao hơn nồng độ hs-
CRP huyết tương của nhóm bệnh nhân 40-60 tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0.05. Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân nam trung bình là
2,8 ± 1,7 mg/l, nồng độ hs-CRP ở bệnh nữ trung bình là 2,6 ± 1,7 mg/l. Sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05 [24].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) trên 117 bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 cho thấy nối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa CRP với tuổi và
giới [25]. Kết quả phù hợp với phần lớn các nghiên cứu trước đây tiến hành
trên người ĐTĐ týp 2 và trên cả người bình thường.
Các nghiên cứu về hs-CRP trên người khỏe mạnh đều cho kết quả không
có sự khác biệt về tuổi và giới tuy nhiên với người ĐTĐ thì yếu tố tuổi cao sẽ
song hành cùng các rối loạn và biến chứng khác của ĐTĐ nên có lẽ đó là
nguyên nhân nhóm > 60 tuổi có nồng độ hs-CRP cao hơn [24].
Điều này cũng có thể được lý giải là do rối loạn chuyển hoá ở bệnh nhân
đái tháo đường týp 2 đã tác động mạnh lên sự chuyển hoá hs-CRP, do đó ảnh
hưởng của giới lên nồng độ hs-CRP đã bị giảm đi rất nhiều.
* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI
Chỉ số khối cơ thể trung bình của 110 bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi là 23,7 ± 2,7; số bệnh nhân nằm trong nhóm thừa cân, béo
phì (BMI>23) chiếm tỷ lệ cao 76/110 chiếm 63,6%. Kết quả của chúng tôi
cũng cho thấy nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân có BMI ≥ 23 là
2,8 ± 1,6 mg/l cao hơn ở bệnh nhân có BMI < 23 là 2,7 ± 1,8 mg/l, sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Võ Bảo Dũng nghiên cứu hs-CRP trên 45 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 nhận
thấy nhóm bệnh nhân có tăng BMI thì nồng độ hs-CRP cao hơn ở nhóm
không tăng BMI, và sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nghiên
cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) [25] trên 117 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 cho
thấy nối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa CRP với chỉ số BMI. Nhận
xét của tác giả tương đồng với kết quả nghiên cứu này. Kết quả trong nghiên
cứu của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trong nước tiến hành trên
bệnh nhân ĐTĐ týp 2.
* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo thời gian phát hiện bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện
bệnh ≤ 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là 2,2 ± 1,6 mg/l và nhóm bệnh
nhân có thời gian phát hiện bệnh > 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là
3,1 ± 1,6 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Văn Mùi cho thấy: nồng độ hs-CRP huyết tương có tương quan thuận
chiều với thời gian phát hiện bệnh (r = 0,41, p<0,01) [12].
* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo kiểm soát đường huyết.
Giá trị glucose huyết là một trong những yếu tố chẩn đoán và đánh giá
mức độ kiểm soát glucose huyết của bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, nồng độ
glucose huyết lại bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan như: chế độ ăn,
khả năng tiết insulin và glucagon của tuỵ, mức độ chuyển hoá của gan…do
vậy không phản ánh chính xác tình trạng kiểm soát glucose huyết. Trong
nghiên cứu của chúng tôi nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm
soát glucose huyết kém là 3,1 ± 1,6 mg/l, ở bệnh nhân kiểm soát chấp nhận
được là 2,4 ± 1,4 mg/l và nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm
soát tốt là 1,9 ± 1,7 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết quả
nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Văn Mùi [24].
Chỉ số HbA1c là một xét nghiệm có giá trị hơn do HbA1c phản ánh tình
trạng glucose huyết bệnh nhân trong vòng 3 tháng trước đó. Như vậy việc
đánh giá chỉ số hs-CRP trong mối quan hệ với HbA1c sẽ có tính khách quan
hơn so với glucose huyết. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân
kiểm soát chỉ số HbA1c kém, chấp nhận được, tốt lần lượt là: 3,3 ± 1,5 mg/l;
2,8 ± 1,8 mg/l; 1,8 ± 1,4 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Nghiên cứu Syed S. H. và cộng sự (2013) về liên quan giữa hs-CRP và
sự kiểm soát đường máu ở 103 người bị đái tháo đường týp 2 cũng cho Nồng
độ hs-CRP ở bệnh nhân kiểm soát glucose huyết kém cao hơn đáng kể so với
những người kiểm soát glucose huyết tốt [42].
* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu
Rối loạn lipid máu rất thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường. Người mắc
bệnh đái tháo đường týp 2 có tỉ lệ rối loạn chuyển hoá lipid cao gấp 2-3 lần
người không mắc ĐTĐ. Các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều
có chung một nhận xét có thể gặp 70-100% bệnh nhân ĐTĐ có bất thường một
hoặc nhiều thành phần lipid. Đặc điểm nổi bật của bất thường lipid máu bệnh
nhân ĐTĐ týp 2 là tăng cholesterol toàn phần, tăng hàm lượng triglycerid, giảm
hàm lượng HDL-C, tăng tỉ số cholesterol toàn phần trên HDL-C [12].
Nghiên cứu trên 110 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chúng tôi nhận thấy tỉ
lệ bệnh nhân có rối loạn lipid máu rất cao (80%). Khi so sánh nồng độ hs-CRP
giữa các nhóm có và không có tăng lipid máu chúng tôi nhận thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ hs-CRP huyết tương ở nhóm có rối loạn
lipid máu và nhóm bình thường.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với phần lớn nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước [24], [40].
4.2.2. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ dày lớp IMT động mạch
cảnh gốc là 1,0 ± 0,3 mm, động mạch cảnh ngoài là 0,9 ± 0,2 mm, động mạch
cảnh trong là 0,9 ± 0,52 mm.
Theo nghiên cứu của Châu Mỹ Chi (2016) trên 81 bệnh nhân ĐTĐ týp 2
cho thấy độ dày trung bình lớp IMT động mạch cảnh là 1,20 ± 0,35 mm [2].
Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011) khi khảo sát 102 bệnh nhân
đái tháo đường týp 2 có tuổi từ 40 trở lên ghi nhận IMT động mạch cảnh
chung là 1,35 ± 0,40 mm lớn hơn so với nhóm chứng (1,00 ± 0,42) có ý nghĩa
thống kê với p<0,05 [20], kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Hà (2015)
cho thấy độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc là 1,4 ± 0,6 mm, động mạch
cảnh ngoài là 0,8 ± 0,2 mm, động mạch cảnh trong là 0,8 ± 0,3 mm [10].
Trầm Thị Trúc Linh (2016) khảo sát của 116 bệnh nhân ĐTĐ có tăng
huyết áp ghi nhận IMT trung bình ĐMC bên phải 1,20 ± 0,68 mm và bên trái
dày là 1,33 ± 0,70 mm [21].
Trầm Lợi Trần Tiên (2012) khảo sát của 40 bệnh nhân ĐTĐ bị nhồi máu
não (71,57 ± 11,60 tuổi) và 50 bệnh nhân không ĐTĐ bị nhồi máu não (67,24
± 11,39 tuổi) ghi nhận IMT trung bình ĐMC bên phải và trái ở nhóm bệnh là
1,06 ± 0,28 mm và 1,03 ± 0,26 mm dày hơn nhóm chứng là 0,81 ± 0,19 mm
và 0,80 ± 0,19 mm [35].
Kết qủa nghiên cứu chúng tôi cũng tương đương với kết quả của các
nghiên cứu trên.
* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo độ tuổi và giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ dày lớp trung nội mạc động mạch
cảnh gốc, động mạch cảnh ngoài, động mạch cảnh trong của bệnh nhân tăng dần
theo nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Hà (2015) cho thấy độ dày lớp
IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi là 1,5 ± 0,7 mm, ở bệnh nhân
> 60 tuổi là 1,4 ± 0,5 mm. Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh
nhân ≤ 60 tuổi là 0,8 ± 0,2 mm, ở bệnh nhân > 60 tuổi là 0,8 ± 0,1 mm.Độ
dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi là 0,8 ± 0,3 mm, ở
bệnh nhân > 60 tuổi là 0,8 ± 0,2 mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p>0,05 [10].
Võ Bảo Dũng, Hoàng Minh Lợi (2011) cũng có ghi nhận tương tự ở đối
tượng đái tháo đường týp 2 mới phát hiện IMT trung bình là 0,79 ± 0,19 mm
lớn hơn so với nhóm chứng là 0,73 ± 0,11 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05 [5].
Rubinat E và cộng sự (2015) khi khảo sát siêu âm bệnh nhân ĐTĐ
không phụ thuộc insulin cho thấy nam giới có nguy cơ xơ vữa nhiều hơn nữ
giới [49]; nghiên cứu của Arturo Pujia và cộng sự cũng cho kết quả tương tự
[71], [55].
Nghiên cứu Phạm Như Thông (2013) ghi nhận IMT ở nam cả hai nhóm
bệnh và chứng đều cao hơn so với nữ, nhưng sự khác biệt là có ý nghĩa [32],
Trương Mạnh Hà (2015) nghiên cứu trên 115 bệnh nhân ĐTĐ cũng cho kết
quả tương tự [10].
* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo BMI
Qua nghiên cứu nhận thấy độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh
nhân có BMI < 23 là 1,0 ± 0,3mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 1,0 ± 0,3 mm.
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8
± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8
± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Nguyễn Thị Kim Thủy (2011) ghi nhận BMI ở nhóm ĐTĐ cao hơn
nhóm chứng. Tổn thương động mạch cảnh không khác biệt đáng kể qua phân
loại chỉ số BMI và không tìm thấy mối tương quan giữa BMI và bề dày tổn
thương động mạch cảnh [33].
Nghiên cứu của Zhao W (2014) khảo sát siêu âm ĐMC trên 97 bệnh
nhân ĐTĐ [69], Rubinat E (2015) khảo sát siêu âm ĐMC trên 54 bệnh nhân
ĐTĐ không thấy có liên quan giữa BMI và bề dày động mạch cảnh [49].
* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo thời gian phát hiện
bệnh.
Độ dày lớp trung nội mạc động mạch cảnh gốc, động mạch cảnh ngoài,
động mạch cảnh trong lại thay đổi theo thời gian phát hiện bệnh. Độ dày lớp
trung nội mạc động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤
5 năm là 0,9 ± 0,1 mm và > 5 năm là 1,2 ± 0,2 mm. Độ dày lớp trung nội mạc
động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,6
± 0,1 mm và > 5 năm là 1,0 ± 0,2 mm. Độ dày lớp trung nội mạc động mạch
cảnh ngoài ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,6 ± 0,1 mm
và > 5 năm là 1,0 ± 0,2 mm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Điều này cho thấy thời gian phát hiện bệnh càng dài nguy cơ biến chứng
mạch máu càng tăng và có sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ tác động đến
độ dày lớp trung nội mạc động mạch cảnh bao gồm bệnh cảnh nền tảng đái
tháo đường và tăng huyết áp, yếu tố tuổi, sự kết hợp của nhiều truyền thống và
không truyền thống cũng như các chỉ số mục tiêu kiểm soát glucose huyết,
HbA1c, kiểm soát lipid máu.
* Mảng xữa xơ động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 67 bệnh nhân có mảng xơ vữa chiếm tỷ
lệ 60,9%, trong đó bệnh nhân có 1 mảng xơ vữa là 37,3%, bệnh nhân có nhiều
mảng xơ vữa là 62,7%. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Trần Thanh Linh
(2011) cho thấy tỷ lệ mảng xơ vữa ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ chiếm 61,8%, lớn
hơn nhóm không mắc bệnh ĐTĐ (p<0,05) [20]. Kết quả này cao hơn một chút
so với kết quả nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013) tỷ lệ bệnh nhân có mảng
xơ vữa là 56,3%, có lẽ do nghiên cứu này thực hiện trên đối tượng là bệnh nhân
tiền đái tháo đường [32].
Như vậy những kết quả nghiên cứu khác nhau này có thể được lý giải là do
không thực hiện trên cùng một đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi còn cao hơn kết quả nghiên cứu của Li R và cộng sự (1994) cho thấy
bệnh nhân từ 45 - 64 tuổi có 34% có mảng vữa động mạch cảnh [66]. Nghiên
cứu này có tỷ lệ mảng vữa xơ thấp hơn có thể do độ tuổi trung bình thấp hơn độ
tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi.
Về vị trí mảng xơ vữa chúng tôi nhận thấy vị trí mảng xơ vữa hay gặp là
động mạch cảnh gốc (61,3%), sau đó đến động mạch cảnh trong (36,1%), ít
gặp ở động mạch cảnh ngoài (4%). Trong đó tổn thương xơ vữa ở động mạch
cảnh phải là 51%, động mạch cảnh trái là 49%. Kết quả nghiên cứu này cũng
phù hợp với nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước.
Trương Mạnh Hà (2015) ghi nhận trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2
tổn thương xơ vữa ở động mạch cảnh gốc là 31,9% và 49,3% ở động mạch
cảnh ngoài và động mạch cảnh trong là 18,8% [10].
Từ những kết quả này chúng tôi nhận thấy: tổn thương xơ vữa động
mạch chiếm tỷ lệ khá cao ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đặc biệt trên
những bệnh nhân có bệnh lý kèm theo (tăng huyết áp, bệnh mạch vành….), vị
trí và số lượng mảng xơ vữa không khác đáng kể giữa hai bên, hay gặp nhất là
ở động mạch cảnh gốc.
4.3. Mối liên quan giữa nồng hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn
thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở đối tượng nghiên cứu
* Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với IMT
Nội mạc động mạch từ lâu đã được xem như một cơ quan nội tiết, tham
gia vào đảm bảo chức năng huyết động của thành mạch, đồng thời có chức
năng bảo vệ thành mạch. Nội mạc là nơi tiếp xúc trực tiếp với dòng máu, vì
vậy cũng là nơi tấn công đầu tiên của xơ vữa động mạch. Ở bệnh nhân ĐTĐ,
nội mạc không những chịu tác động của các yếu tố nguy cơ xơ vữa động
mạch chung, còn có vai trò của kháng insulin vấn đề hằng định của bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 và những sản phẩm của quá trình chuyển hóa, làm tổn thương xơ
vữa động mạch sớm hơn, nặng nề hơn. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rối
loạn chức năng nội mạc là một trong những biểu hiện sớm của vữa xơ động
mạch.
Trên siêu âm đo độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh là một trong
những phương pháp thăm dò không chảy máu giúp đánh giá một cách gián
tiếp chức năng nội mạc của mạch máu. Khi tìm hiểu mối tương quan giữa giá
trị hs-CRP và chỉ số độ dày IMT động mạch cảnh, chúng tôi nhận thấy:
Có mối tương quan thuận chặt chẽ (r = 0,710) giữa nồng độ hs-CRP
huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc phải theo phương trình
tương quan: y = 3,579x-0,822 với r = 0,710; p<0,05.
Có mối tương quan thuận chặt chẽ (r = 0,753) giữa nồng độ hs-CRP
huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc trái theo phương trình
tương quan: y = 3,732x-1,114 với r = 0,753; p<0,05, nghĩa là nồng độ hs-
CRP huyết tương càng cao thì lớp nội trung mạc động mạch cảnh càng dầy và
ngược lại. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) trên 117 bệnh
nhân ĐTĐ điều trị nội trú tại bệnh viện 103 cho thấy nhóm bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 có CRP dương tính thì độ dày trung bình IMT ĐMC gốc là 1,34 ± 0,34
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm
tính là 1,19 ± 0,28 [25].
Kết quả nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013) cho thấy khi có tăng
hs-CRP ≥ 3 mg/l bề dày IMT giữa đối tượng tiền ĐTĐ cao hơn so với nhóm
chứng (p<0,01); đồng thời có sự tăng đáng kể bề dày IMT khi tăng có nồng
độ hs-CRP ≥ 3 mg/l (1,05 ± 0,20 mm) so với mức hs-CRP<3 mg/l (0,86 ±
0,20 mm), (p<0,01). Nghiên cứu này ghi nhận tương quan giữa hs-CRP và
IMT với r = 0,334 (p<0,05) [32].
Một nghiên cứu của Pujia A. và cộng sự tiến hành ở 54 bệnh nhân ĐTĐ
týp 2. Kết quả cho thấy, ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 IMT động mạch cảnh gốc
(0,798 ± 0,14 mm ở nam; 0,789 ± 0,11 ở nữ). Tỷ lệ xơ vữa ĐMC là 46% ở
bệnh nhân ĐTĐ trong khi chỉ có 18% ở nhóm chứng [71].
Dirk Sander và cộng sự (2006) phân tích dữ liệu của nghiên cứu
INVADE trên 3534 đối tượng ghi nhận sự kết hợp ảnh hưởng có ý nghĩa giữa
HbA1c và hs-CRP lên sự tiến triển dày IMT ở bệnh nhân ĐTĐ cũng như
không ĐTĐ [48].
* Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với mảng xơ vữa
Khi bàn về mảng xơ vữa, ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2, cùng với tăng độ dày
IMT là tăng tỷ lệ mảng xơ vữa. Thực chất mảng xơ vữa bắt nguồn từ sự dày
lên của IMT.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở nhóm hs-CRP tăng tỷ lệ
bệnh nhân có mảng xơ vữa là 72,1% và không có mảng xơ vữa 27,9%. Ở
nhóm hs-CRP bình thường tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 42,9% và
không có mảng xơ vữa 57,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Nhận xét này của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu, tuy nhiên ở các mức
độ khác nhau.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) cho thấy nhóm bệnh
nhân ĐTĐ týp 2 có CRP dương tính tỷ lệ bệnh nhân có MXV ĐMC gốc là
51,5%, cao hơn so với nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm tính là 38,1%.
Tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, nhưng khi so sánh giữa
nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP dương tính và TNF-α tăng với nhóm
nhân có MXV ĐMC cao hơn (gấp 4 lần) giữa hai nhóm [25].
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm tính và TNF-α không tăng thì tỷ lệ bệnh
Hoàng Khánh, Lê Thị Hoài Thu (2007), nghiên cứu trên bệnh nhân nhồi
máu não cũng ghi nhận có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ
hs-CRP với số lượng mảng xơ vữa với hệ số tương quan r = 0,669 [18]. Điều
này có ý nghĩa số lượng mảng xơ vữa càng nhiều thì nồng độ hs-CRP huyết
tương càng cao.
Trong điều kiện giới hạn của nghiên cứu này chúng tôi sử dụng ĐMC
làm siêu âm tuy có hạn chế, song bằng cùng một phương pháp, với cùng một
người đo, lại được giải thích phù hợp với bệnh sinh của ĐTĐ, nên kết quả
nghiên cứu này cũng góp phần củng cố thêm chẩn đoán tổn thương động
mạch trong ĐTĐ.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương
động mạch cảnh đoạn ngoài sọ trên 110 bệnh nhân đái tháo đường týp 2,
chúng tôi ghi nhận một số kết quả sau:
1. Nồng độ hs-CRP và hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài
sọ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
- Tỷ lệ tăng nồng độ hs-CRP huyết tương là 61,8%.
- Nồng độ hs-CRP huyết tương trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, thay đổi
theo thời gian phát hiện bệnh, kiểm soát glucose huyết và tình trạng rối loạn
lipid máu.
- Không có sự khác biệt về nồng độ hs-CRP trung bình ở bệnh nhân đái
tháo đường týp 2 giữa các nhóm tuổi, giới và chỉ số BMI (p>0,05).
- Tỷ lệ bệnh nhân có IMT≥0,9 mm là 71,8%.
- Tỷ lệ có mảng xơ vữa động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đườ ng có
tăng nồng độ hs-CRP huyết tương là 72,1%.
- Có mối tương quan thuận tương đối chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP
huyết tương với HbA1c (r = 0,521) và chỉ số glucose huyết (r = 0,606).
2. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với hình thái tổn thương
động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
- Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-CRP huyết
tương và số lượng mảng xơ vữa động mạch (r = 0,533).
- Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương
với độ dày lớp IMT ĐMC gốc phải (r = 0,710), trái (r = 0,753).
- Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương
với độ dày lớp IMT ĐMC ngoài phải, trái (r = 0,726; r = 0,683) và ĐMC
trong phải, trái (r = 0,718; r = 0,610).
KHUYẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứ u, chú ng tôi có khuyến nghi ̣ sau:
Cùng với việc kiểm soát đường huyết ở bê ̣nh nhân ĐTĐ týp 2, việc theo
dõi nồng độ hs-CRP huyết tương cũng rất cần thiết nhằm hạn chế biến chứng
xơ vữa động mạch.
Đối với bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có tăng nồng độ hs-CRP cần được chỉ định
siêu âm động mạch cảnh đoạn ngoài sọ nhằm phát hiện và chẩn đoán sớm tổn
thương xơ vữa động mạch, từ đó có chiến lược phòng ngừa các biến chứng
một cách thích hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Tạ Văn Bình (2003), "Dịch tễ học bệnh đái tháo đường, các yếu tố nguy cơ
và các vấn đề liên quan đến quản lý bệnh đái tháo đường tại khu vực
nội thành 4 thành phố lớn", Y học thực hành, số 451 2003, tr.35-39.
2. Châu Mĩ Chi (2016), Nghiên cứu sự liên quan giữa nồng độ Enzyme
Myelopezoxidaza huyết tương với độ dày lớp trung nội mạc động mạch
cảnh và một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường
typ2, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
3. Nguyễn Duy Cường, Phạm Thị Huyền (2014), "Tìm hiểu một số biến
chứng và yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới chẩn
đoán lần đầu", Tạp chí Y học thực hành, số 12 (914), tr. 127-130.
4. Trịnh Xuân Cường (2010), Khảo sát nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh
nhân hội chứng mạch vành cấp, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại
học Y Hà Nội.
5. Võ Bảo Dũng, Nguyễn Hải Thủy, Hoàng Minh Lợi (2011), "Liên quan
giữa đáp ứng giãn mạch qua trung gian dòng chảy và độ dày lớp trung
nội mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới phát
hiện", Tạp chí Y học thực hành, số 12 (792), tr. 119-123.
6. Võ Bảo Dũng, Nguyễn Hải Thủy, Hoàng Minh Lợi (2011), "Nghiên cứu sự
liên quan giữa hs-CRP và đề kháng insulin với đáp ứng giãn mạch qua
trung gian dòng chảy ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới phát hiện",
Tạp chí Y học thực hành, số 11 (798), tr. 10-11.
7. Bế Thu Hà (2009), Nghiên cứu bệnh đái tháo đường điều trị tại bệnh viện
đa khoa tỉnh Bắc Kạn, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y
khoa Thái Nguyên, tr 39-40.
8. Phạm Trung Hà, Diệp Quảng Ninh (2011), “ Khảo sát nồng độ hs-CRP ở
bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ”, Tạp chí Y học thành phố Hồ
Chí Minh, Tập(15), tr. 281-286.
9. Trịnh Thị Thái Hà (2005), Nghiên cứu nồng độ protein phản ứng C huyết
thanh và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân Đái tháo đường týp 2,
Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội, tr 42-43.
10. Trương Mạnh Hà (2015), Nghiên cứu nồng độ Homocysteine huyết tương
và vữa xơ động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường
týp 2, Luận án Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y - Dược
Thái Nguyên.
11. Nguyễn Hoàng Hải (2012), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
bệnh đái tháo đường tại bênh viên đa khoa Hải Dương, Trường Đại
học Y Hải Phòng, tr 37-50.
12. Hồ Hữu Hóa (2009), Chẩn đoán sớm biến chứng thận bằng xét nghiệm
Microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú
tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ Y
học, Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên.
13. Lương Quỳnh Hoa (2013) Đánh giá giá trị của fructosamine huyết thanh
trong theo dõi hiệu quả điều trị ở bệnh nhân đái tháo đường type 2,
Luận văn Thạc sĩ Y học, tr 46-47.
14. Trương Phi Hùng, Đặng Vạn Phước (2007), "Nghiên cứu nồng độ C-
reactive protein máu ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp". Tạp chí
Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập(11), tr. 80-84.
15. Nguyễn Thu Hương, Nguyễn Tiến Dũng (2013), "Khảo sát tỷ lệ và đặc
điểm biến chứng thận ử bệnh nhân đái tháo đường typ". Tạp chí Y học
thực hành, số 9 (878), tr 90-93.
16. Trần Thị Thu Hương, Dương Hồng Thái (2013), "Nghiên cứu mối liên
quan giữa nồng độ hs-CRP với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở cán
bộ diện bảo vệ sức khỏe tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học thực hành,
số 9 (879), tr 90-93.
17. Vũ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thu Hương (2014), "Đặc điểm rối loạn
Lipid ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao tuổi", Tạp chí Y học quân
sự, 5.
18. Hoàng Khánh, Lê Thị Hoài Thu (2007), "Nghiên cứu mối liên quan giữa
tổn thương động mạch cảnh ngoài sọ qua siêu âm với nồng độ protein
phản ứng C huyết thanh độ nhạy cao ở bệnh nhân nhồi máu não", Tạp
chí Y dược lâm sàng 108, Tập 2, số đặc biệt 11-2007, tr. 82-87.
19. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011), Đánh giá kết quả điều trị ngoại trú bệnh
nhân đái tháo đường tại bệnh viện A Thái Nguyên năm 2011, Luận văn
Thạc sĩ Y học, Đại học Y-Dược Thái Nguyên, tr. 20-41.
20. Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011), "Khảo sát động mạch cảnh
bằng siêu âm mạch máu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2". Tạp chí
Nghiên cứu Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 15 (Phụ bản của số 1),
182-186.
21. Trần Thị Trúc Linh (2016), Nghiên cứu mối liên quan giữa biểu hiện tim
với mục tiêu theo khuyến cáo ESC-EASD ở bệnh nhân đái tháo đường
typ 2 có tăng huyết áp, Luận án Tiến sỹ Y học, trường Đại học Y Dược
Huế, tr 64-64.
22. Nguyễn Kim Lương (2011), Bệnh đái tháo đường trong thực hành lâm
sàng. Nhà xuất bản Y học.
23. Nguyễn Kim Lương (2009), "Đánh giá kết quả điều trị Diamicron kết
hợp Metformin ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2", Tạp chí Y học thực
hành, (723), tr. 70-74.
24. Nguyễn Văn Mùi (2014), Nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết thanh và một
số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, Luận văn Thạc
sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.
25. Nguyễn Phi Nga (2009), Nghiên cứu nồng độ với TNF-a, CRP huyết
thanh và liên quan với hình thái, chức năng động mạch cảnh gốc bằng
siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2, Luận án Tiến sĩ Y
học, Học viện Quân y.
26. Vũ Xuân Nghĩa, Phạm Thắng (2014), "Nồng độ Protein phản ứng C và
Interleukin 6 ở bệnh nhân đái tháo đường mới được phát hiện", Tạp chí
Y học quân sự, số 5, tr 77-81.
27. Đinh Hiếu Nhân (2006), "Tương quan giữa tổn thương xơ vữa trên động
mạch cảnh và động mạch vành trên bệnh nhân đái tháo đường có đau
thắt ngực ", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập(10) (số 2), tr.
110-114.
28. Nguyễn Phước Bảo Quân (2012), Siêu âm Doppler động mạch cảnh. Siêu
âm Doppler mạch máu. Nhà xuất bản đại học Huế, tr. 171-241.
29. Võ Xuân Sang, Trương Quang Bình (2011), "Khảo sát Microalbumin niệu
ở bệnh nhân đái tháo đường type 2". Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh,
Tập 14, Phụ bản số 1, pp. 1 - 5.
30. Ngô Thanh Sơn (2014), "Nhận xét tình trạng xơ vữa động mạch cảnh
đoạn ngoài sọ bằng siêu ân Doppler ở bệnh nhân nhồi máu não có đái
tháo đường và không đái tháo đường". Tạp chí Y học Việt Nam, số 2-
2014, tr.56-59.
31. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết - chuyển
hóa. Nhà xuất bản Y học, tr 178.
32. Phạm Như Thông (2013), Khảo sát động mạch cảnh bằng siêu âm
doppler ở bệnh nhân tiền đái tháo đường, Luận văn Thạc sĩ của bác sĩ
nội trú, Trường Đại học Y-Dược Huế.
33. Nguyễn Thị Kim Thủy (2011), "Biến chứng mạch máu lớn ở bệnh nhân
đái tháo đường týp 2", Tạp chí Y học thực hành, số 8 (777), tr.39-42.
34. Trần Vĩnh Thuỷ (2007), Đánh giá điều trị rối loạn chuyển hoá Lipid máu
ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 bằng Mediator tại Bệnh viện Đa
khoa Trung ương Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y
khoa Thái Nguyên, tr. 41 – 42.
35. Trầm Lợi Trần Tiên, Nguyễn Hải Thủy (2012), "Liên quan giữa một số
yếu tố nguy cơ tim mạch với các thương tổn động mạch cảnh trên
những bệnh nhân đái tháo đường bị nhồi máu não giai đoạn cấp", Hội
nghị Nội tiết miền trung lần thứ VIII - Vinh Nghệ An.
Tiếng Anh:
36. AGTabak, M Kivimaki, E J Brunner, et al (2010), "Changes in C-reactive
protein levels before type 2 diabetes and cardiovascular death: the
Whitehall II study". European Journal of Endocrinology (2010) 163,
89–95.
37. Ahmed Al-Shukaili, Saif AL-Ghafri, Safia Al-Marhoobi (2013),
"Analysis of Inflammatory Mediators in Type 2 Diabetes Patients".
International Journal of Endocrinology, volume 2013 (Article ID
976810), 7 pages.
38. Libly et al (2006) "Inflammation and atherosclerosis". Circulation 105, pp
1135-1143.
39. M. S. Roopakala et al (2012) "Evaluation of High Sensitivity C-reactive
protein and Glycated Hemoglobin Levels in Diabetic Nephropathy".
Saudi J Kidney Dis Transpl 2012, 23(2), 286-289.
40. Ronald Goldenberg et al (2005), "LDL-C-C and CRP in Clinical Practice:
A 2005 Update". Endocrinology & Diabetes, clinical update, 1(2),
2005.
41. Safiullah Amanullah et al (2010), "Association of hs-CRP with Diabetic
and Non-diabetic individuals", Jordan Journal of Biological Sciences,
Volume 3, Number 1 (January 2010 ISSN: 1995-6673), Pages 7–12.
42. Syed Shahid Habib et al (2013), "Serum lipo protein(a) and high
sensitivity C reactive protein levels in Saudi patients with type 2
diabetes mellitus and their relationship with glycemic control,", Turkish
Journal of Medical Sciences, 43, 333-338.
43. American Diabetes Association(2011), "Standard of medical care in
Diabetes". Diabetes Care, 34 (1), pp. S11- S61.
44. IDF DIABETES ATLAS, 5th edition, 2012 update. (2012)
45. Mark. B, Pepys (2003), "C-reactive protein: a critical update", The
Journal of Clinical Investigation, 111, pp. 1805 – 1812.
46. UroojTaheed Baluch(2011), "C- Reactive protein As a Low Grade
Inflammatory Marker in Type 2 Diabetic Nephropathy", Ann. Pak. Inst.
Med. Sci, 7(4), pp. 217 - 221.
47. European Society of Cardiology (2007), "Summary of the 2007 European
Society of Hypertension (ESH) and European Society of Cardiology
(ESC) guidelines for the management of arterial hypertension", Vasc
Health Risk Manag, vol 3 (6), pp. 783-795.
48. Sander D, Horn C.S., Bickel H. (2006), "Combined effects of hemoglobin
A1c and C - reactive protein on the progression of subclinical carotid
atherosclerosis: The INVADE Study", Stroke, 37, pp. 351 - 357.
49. Rubinat E, Marsal J R, et al Vidal T (2015), "Subclinical Carotid
Atherosclerosis in Asymptomatic Subjects With Type 2 Diabetes
Mellitus", The Journal of Cardiovascular Nursing, pp. 1-7.
50. Jenny E, Michelle M. Averill Kanter, Renee C. LeBoeuf et al (2008),
"Diabetes-Accelerated Atherosclerosis and Inflammation".
http://circres.ahajournals.org/content/103/8/e116, 2008; 103, e116-
e117 Circ Res.
51. International Diabetes Federation Guideline Development Group (2014),
"Global guideline for type 2 diabetes". Diabetes Res Clin Pract, vol
104 (1), pp 1-52.
52. Haffner SM, Agostino RD, Saad MF (2000), "Carotid artery
artherosclerosis in type - 2 diabetic and nondiabetic subjects with and
without symptomatic coronary artery disease", Am J Cardiol, 85 (12),
pp. 1395 - 1400.
53. Touboul P J, Hennerici M G, et al Meairs S (2012), "Mannheim carotid
intima-media thickness and plaque consensus (2004-2006-2011). An
update on behalf of the advisory board of the 3rd, 4th and 5th watching
the risk symposia, at the 13th, 15th and 20th European Stroke
Conferences, Mannheim, Germany, 2004, Brussels, Belgium, 2006,
and Hamburg, Germany, 2011". Cerebrovasc Dis, vol 34 (4), pp. 290-
296.
54. T. Kurth, et al. (2006), "Healthy life style and the risk of stroke in
women". Arch Intern med, 2006, 166 (13), pp 1403-9.
55. Sheng L, Cao W, Cha B (2013), "Serum osteocalcin level and its
association with carotid atherosclerosis in patients with type 2
diabetes", Cardiovasc Diabetol, pp.1-7.
56. Napoli M, et al (2005), "Evaluation of C-reactive protein measurementfor
assessing the risk and prognosis in ischemic stroke", Stroke, Jun;36(6),
1316-29.
57. Paul. M, Ridker (2003), "C-Reactive protein: A Simple Test to Help
Predict Risk of Heart Attack and Stroke", Circulation, 14, pp. 1-5.
58. Ridker M, Paul et al (2003), "High – sensitivity C – reactive protein:
Potential adjunct for ghobal rik asses sment in the primary prevention
of cardiovascular disease", Circulation, 103, pp 1813-1818.
59. Anubha Mahajan, Rubina Tabassum et al (2009), "High-Sensitivity C-
Reactive protein Levels and Type 2 Diabetes in Urban North Indians",
J Clin Endocrinol Metab, June 2009: 94(6), 2123–2127.
60. Matthias B. Schulze et al (2004), 27:2004 (2004), "C-Reactive protein
and Incident Cardiovascular Events Among Men With Diabetes",
Diabetes Care 27:2004, 889–894.
61. Rifai N (2005), "High – sensitivity C - reactive protein: a useful marker
for cardiovascular disease risk prediction and the metabolic syndrome",
Clin. Chem, 2005, 51:3, 504-505.
62. Juan F. Navarro, Carmen Mora (2005), "Role of inflammation in diabetic
complications", Nephrol Dial Transplant (2005) 20, 2601–2604.
63. Poredos P (2004), "Intima-media thickness: indicator of cardiovascular
risk and measure of the extent of atherosclerosis", Vasc Med, vol 9 (1),
pp. 46-54.
64. Shakouri P., Nezami N., Tarzamni M.K. (2008), "The elusive link
between high sensitivity C - reactive protein and carotid subclinical
atherosclerosis in coronary artery bypass grafting candidates: A cross -
sectional study", Cardiovascular Ultrasound, 6, pp. 23 - 28.
65. Mark. B. Pepys (2003), "C-reactive protein: a critical update", The
Journal of Clinical Investigation, 111, pp. 1805 – 1812.
66. Li R., Duncan B.B., Metcalf P.A. et al (1994), "B-mode-detected carotid
artery plaque in a general population", Atherosclerosis risk in
communities (ARIC) study investigator, Stroke, 25(12), pp.2377 - 2383.
67. Wiliam. S, Tillett, Thomas Francis (1930), "Serological Reactions In
Pneumonia With a A Non-protein Somatic Fraction Of
Pneumococcus", Received for publication, 26, pp. 561 - 571.
68. Oliver Schnell, Ildiko Amann-Zalan, Zhihong Jelsovsky et al (2013),
"Changes in A1C Levels Are Significantly Associated With Changes in
Levels of the Cardiovascular Risk Biomarker hs-CRP", Diabetes care,
Volume 36 ( july 2013).
69. Zhao W, Katzmarzyk P T, Horswell R, et al (2014), "Body mass index
and the risk of all-cause mortality among patients with type 2 diabetes
mellitus", Circulation, vol 130 (24), pp 2143-2151.
70. Yamasaki Y, Kawamori R., Matsushima H (1994), "Atherosclerosis in
carotid artery of young IDDM patients monitored by ultrasound high
resolution B - mode imaging", Diabetes, 43 (5), pp. 634 - 639.
71. Pujia A, Gnasso A, Irace C (1994), "Common carotid arterial wall
thickness in NIDDM subject", Diabetes Care, 17 (11), pp. 1330 - 1336.
72. Patgiri, Pathak, Sharma (2014), "Serum hsCRP: A Novel Marker for
Prediction of Cerebrovascular Accidents (Stroke)", J Clin Diagn Res.,
2014 Dec; 8(12), CC08–CC11.
73. A. D. Pradhan, J. E. Buring N. Rifai (2001), "C-reactive protein,
interleukin 6, and risk ofdeveloping type 2 diabetesmellitus". Journal
of theAmericanMedical Association, vol.286, no.3, pp.327–334,2001.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Nguyễn Thị Hiếu, Bùi Thị Thu Hương, Trịnh Xuân Tráng, Nguyễn
Tiến Dũng (2016). Nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo
đường tysp 2 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Tạp chí
Y học Việt Nam, Tập 445, tháng 8, số Chuyên đề, 57-61.
2. Nguyễn Thị Hiếu, Bùi Thị Thu Hương (2016). Nồng độ hs-CRP huyết
tương ở bệnh nhân đái tháo đường tysp 2 tại Bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên, Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 446, tháng 9, số
Chuyên đề, 234-238.
MẪU BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
Mã BN:…………………………………………………………………….…..
Họ tên BN:……………………………………………..Tuổi…………………
Giới…………………………………………..Nam(nữ)………………………
Nghề nghiệp:………………………………………………………………….
Địa chỉ:………………………………………………………………………..
Ngày khám:……/………….../.........................................................................
Thời gian phát hiện đái tháo đường ( số năm):……………………………….
Khám:
Chiều cao:……… ……………………..…cm
Cân nặng:…………………………………….kg
BMI………………………………..………...
HA:……………………………..……….mmHg
2. Các xét nghiệm:
Sinh hóa máu:
Glucose…………………………………...…mmol/l -
- HbA1C…………………………….……..……….%
Hs-CRP:…….…………………………….……mg/l -
Cholesterol TP:……………………………....mmol/l -
Triglycerid:...………………………….……..mmol/l -
HDL-C:………………………………………mmol/l -
LDL-C:……………………………..…………mmol/l -
Siêu âm động mạch cảnh
Vị trí mảng xơ vữa Tổng ĐMC MXV ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài
ĐMC Trái
ĐMC Phải
Đường kính động mạch cảnh
ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài ĐMC
D d D d D d
ĐMC Trái
ĐMC Phải
Độ dày nội trung mạc ĐMC ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài
ĐMC Trái
ĐMC Phải
Thái Nguyên, ngày …. tháng năm 201
Người lập