ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THỊ HIẾU

NỒNG ĐỘ hs - CRP HUYẾT TƯƠNG VÀ

HÌNH THÁI, TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH

CẢNH ĐOẠN NGOÀI SỌ Ở BỆNH NHÂN

ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN - NĂM 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THỊ HIẾU

NỒNG ĐỘ hs - CRP HUYẾT TƯƠNG VÀ HÌNH THÁI,

TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH CẢNH ĐOẠN NGOÀI SỌ

Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2

Chuyên ngành: NỘI KHOA

Mã số: 60.72.01.40

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS Bùi Thị Thu Hương

2. PGS.TS Trịnh Xuân Tráng

THÁI NGUYÊN - NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa

được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu

trách nhiệm.

Tác giả

Nguyễn Thị Hiếu

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Bộ môn Nội,

các thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên;

Ban Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo điều

kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.

Với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS

Trịnh Xuân Tráng, TS Bùi Thị Thu Hương, các thầy, cô giáo đã trực tiếp

hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn

thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng Kế hoạch Tổng hợp,

Khoa Khám bệnh, Khoa Sinh hóa, Khoa Thăm dò chức năng Bệnh viện Đa

khoa Trung ương Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên

cứu.

Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp cùng toàn thể anh chị em

lớp Cao học Nội K18 đã giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và

nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Thái nguyên, tháng 11 năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Hiếu

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ADA American Diabetes Association (Hiệp hội Đái tháo đường

Hoa Kỳ)

Chỉ số khối cơ thể BMI

Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Disease Control) CDC

Cholesterol CT

Protein phản ứng C (C- Reactive Protein) CRP

Động mạch ĐM

ĐMC Động mạch cảnh

ĐTĐ Đái tháo đường

HbA1c Hemoglobin gắn đường (Glycosylated Hemoglobin)

HDL-C Lipoprotein tỷ trọng cao (High Density Lipoprotein-

Cholesterol)

Hs-CRP Protein phản ứng C độ nhạy cao (High Sensitivity C- Reactive

Protein)

IMT Bề dày lớp áo trong - áo giữa (Intima media thickness)

MXV Mảng xơ vữa

TG Triglycerid

SA Siêu âm

XVĐM Xơ vữa động mạch

WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

Bảng 3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 35

Bảng 3.2 Kết quả chỉ số lipid máu của các đối tượng nghiên cứu 36

Bảng 3.3 Kết quả kiểm soát glucose máu và HbA1C của các đối tượng 37

nghiên cứu

Bảng 3.4 Kết quả hs-CRP của các đối tượng nghiên cứu 37

Bảng 3.5 Kết quả phân độ hs-CRP ở đối tượng nghiên cứu 38

Bảng 3.6 Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo nhóm tuổi 38

Bảng 3.7 Kết quả nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo giới 39

Bảng 3.8 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI 39

Bảng 3.9 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo thời gian phát 40

hiện bệnh

Bảng 3.10 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại 40

glucose huyết

Bảng 3.11 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại 42

HbA1C

Bảng 3.12 Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu 42

Bảng 3.13 Đặc điểm hình thái động mạch cảnh 43

Bảng 3.14 Đặc điểm IMT động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu 44

Bảng 3.15 Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo nhóm tuổi 44

Bảng 3.16 Đặc điểmhình thái động mạch cảnh theo giới 45

Bảng 3.17 Đặc điểmhình thái động mạch cảnh theo BMI 46

Bảng 3.18 Đặc điểm hình thái IMT ĐMC theo thời gian phát hiện bệnh 47

Bảng 3.19 Tỷ lệ MXV động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu 48

Bảng 3.20 Số lượng MXV ĐMC theo vị trí của đối tượng nghiên cứu 48

Bảng 3.21 Số lượng MXV động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu 49

Bảng 3.22 So sánh đặc điểm hình thái động mạch cảnh giữa nhóm có tăng 49

hs-CRP và không tăng hs-CRP

Bảng 3.23 Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với tình trạng vữa 50

xơ động mạch cảnh

Bảng 3.24 Liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp IMT 50

Bảng 3.25 Liên quan giữa nhóm có tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP 52

với số lượng mảng xơ vữa

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ

……………………………………………………………Error!

Bookmark not defined.

Chương 1

…………………………………………………………………..Error!

Bookmark not defined.

TỔNG QUAN ………………………………………………………………..

Error! Bookmark not defined.

1.1. Đái tháo đường ..................................... Error! Bookmark not defined.

1.2. Protein phản ứng-C (C reactive protein-CRP)Error! Bookmark not

defined.

1.3. Vữa xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo đườngError! Bookmark not

defined.

Chương 2

………………………………………………...……………….Error!

Bookmark not defined.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU…..…..…………….…Error! Bookmark not defined.

2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................... Error! Bookmark not defined.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........ Error! Bookmark not defined.

2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................... Error! Bookmark not defined.

2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu ........................ Error! Bookmark not defined.

2.5. Tiêu chuẩn đánh giá và các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu ... Error!

Bookmark not defined.

2.6. Phương pháp xử lý số liê ̣u .................... Error! Bookmark not defined.

2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ........ Error! Bookmark not defined.

Chương 3…………………………….……….…………………………

Error! Bookmark not defined.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU……….……….…………………… …

Error! Bookmark not defined.

3.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứuError! Bookmark

not defined.

3.2. Kết quả hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động mạch cảnh

đoạn ngoài sọ ............................................... Error! Bookmark not defined.

3.3. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn

thương ĐMC đoạn ngoài sọ ........................ Error! Bookmark not defined.

Chương 4……………………….……….…………………………

……Error! Bookmark not defined.

BÀN LUẬNError! Bookmark not defined.

4.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứuError! Bookmark

not defined.

4.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái tổn thương động mạch cảnh

đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện

Trung ương Thái Nguyên .............................. Error! Bookmark not defined.

4.3. Mối liên quan giữa nồng hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn thương

động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở đối tượng nghiên cứuError! Bookmark

not defined.

KẾT LUẬN

………………….……….……………………………………..Error!

Bookmark not defined.

KHUYẾN NGHỊ………………….……….………………………….

……Error! Bookmark not defined.

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………….……….………………………

Error! Bookmark not defined.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh phổ biến nhất thế giới

hiện nay, là mối quan tâm của các chuyên gia y tế và sự chú ý của các nhà

quản lý xã hội. ĐTĐ týp 2 phát triển luôn gắn với sự tăng tỷ lệ các biến chứng

mạn tính như các biến chứng về mắt, tim, thận, thần kinh; một trong những

biến chứng nặng nề của bệnh ĐTĐ là biến chứng mạch máu. Trong đó, biến

chứng mạch máu lớn là nguyên nhân bệnh tật và tử vong hàng đầu ở bệnh

nhân ĐTĐ [22]. Theo ước tính của Liên đoàn đái tháo đường thế giới, năm

2012 trên toàn thế giới có 371 triệu người bệnh đái tháo đường và ước tính

đến năm 2030 sẽ có 552 triệu người mắc bệnh đái tháo đường. ĐTĐ được xếp

vào nhóm 10 bệnh mạn tính không lây nhiễm đứng hàng đầu thế kỷ 21 [44].

Y học ngày nay đề cập nhiều đến vai trò quan trọng của hiện tượng viêm

trường diễn thành mạch trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh xơ vữa động

mạch (XVĐM). Trên cơ sở viêm trường diễn này sẽ lắng đọng các loại lipid,

dần dần gây XVĐM, yếu tố viêm giữ vai trò chính trong tất cả các giai đoạn của

mảng xơ vữa, từ giai đoạn sớm hình thành đến giai đoạn mảng xơ vữa phát triển

và ngay cả lúc mảng xơ vữa bị vỡ, gây tắc nghẽn dòng chảy trong động mạch

làm xuất hiện các biến chứng. Phản ứng viêm tại lớp nội mạc mạch máu không

những tham gia vào cơ chế bệnh sinh của bệnh, mà còn là yếu tố làm duy trì,

phát triển quá trình biến chứng và tăng tỷ lệ tử vong [60].

Quá trình viêm này có thể phát hiện được bằng xét nghiệm CRP (protein

phản ứng C, C- Reactive protein) - một yếu tố chỉ điểm nhạy nhất của viêm

và nhiễm trùng. Khi có phản ứng viêm thì nồng độ CRP tăng; tuy nhiên, trong

viêm do XVĐM là hiện tượng viêm mạn ở mức độ thấp nên không gây tăng

CRP thông thường. Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, những năm gần đây đã có thể

phát hiện CRP ở mức rất thấp, từ 0,1-0,2 mg/l, đó là xét nghiệm định lượng

CRP độ nhạy cao (High Sensitivity C-Reactive protein - hs-CRP) và hs-CRP đã

được dùng phổ biến trong các bệnh tim mạch, bệnh chuyển hoá, ĐTĐ. Xét

nghiệm hs-CRP phát hiện những thay đổi rất nhỏ của CRP trong quá trình

viêm thành mạch; mặc dù nồng độ CRP trong máu vẫn trong giới hạn bình

thường (≤10 mg/l), những thay đổi đó của hs-CRP cộng với các chỉ số về

lipid máu giúp tiên lượng và dự báo các biến cố như: đột quỵ, hội chứng mạch

vành cấp… trong tương lai. Siêu âm động mạch cảnh là một xét nghiệm không

xâm nhập, an toàn, dễ thực hiện, giúp phát hiện và chẩn đoán sớm tổn thương

xơ vữa động mạch. Vì vậy, việc định lượng hs-CRP kết hợp với siêu âm động

mạch cảnh sẽ góp phần rất lớn cho điều trị và dự phòng biến chứng của bệnh.

Nhiều nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng như trên thế giới khi tiến

hành nghiên cứu nồng độ hs-CRP ở bệnh nhân đái tháo đường đều ghi nhận sự

gia tăng nồng độ hs-CRP có liên quan đến sự xuất hiện, tiến triển cũng như biến

chứng của đái tháo đường [12].

Tuy nhiên, tại Thái Nguyên chúng tôi thấy ít có đề tài nghiên cứu về

nồng độ hs-CRP trên bệnh nhân đái tháo đường; đặc biệt xác định mối liên

quan giữa nồng độ hs-CRP với tổn thương động mạch cảnh ở bệnh nhân đái

tháo đường týp 2. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Nồng độ hs-CRP huyết

tương và hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh

nhân đái tháo đường týp 2 ” với hai mục tiêu sau:

1. Xác định nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động

mạch cảnh đoạn ngoài sọ trên siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

2. Phân tích mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với hình

thái tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường

týp 2.

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Đái tháo đường

1.1.1. Định nghĩa

Tháng 1 năm 2003 các chuyên gia thuộc Ủ y ban chẩn đoán và phân loại

bệnh đái tháo đường Hoa Kỳ đã đưa ra định nghĩa: “Đái tháo đường là một

nhóm các bệnh chuyển hóa có đặc điểm là glucose huyết tăng do hậu quả của

sự thiếu hụt bài tiết insulin, khiếm khuyết trong các hoạt động của insulin

hoặc cả hai”.

1.1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đái tháo đường

Trong những năm gần đây, tỷ lệ đái tháo đường gia tăng mạnh mẽ trên

toàn cầu, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã lên tiếng báo động vấn đề nghiêm

trọng này trên toàn thế giới. Theo một thông báo của Hiệp hội Đái tháo

đường Quốc tế (IDF), năm 2012 cả thế giới có 371triệu người mắc bệnh

ĐTĐ, khu vực Đông nam Á có 70 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, chiếm 1/5

số người mắc bệnh trên toàn cầu. Theo ước tính của WHO, đến năm

2030 sẽ có khoảng 552 triệu người bị ĐTĐ [44].

Tỷ lệ bệnh đái tháo đường thay đổi theo từng nước có nền công nghiệp

phát triển hay đang phát triển và thay đổi theo từng vùng địa lý khác nhau.

Trong đó, nơi có tỷ lệ đái tháo đường cao nhất là khu vực Bắc Mỹ (7,8%),

khu vực Địa Trung Hải và khu vực Trung Đông (7,7%), châu Âu (4,9%) và

châu Phi (1,2%) [1].

Tại Việt Nam, theo công bố của WHO năm 2012 có 3,16 triệu người

mắc bệnh ĐTĐ; năm 2013, trong kết quả công bố của “Dự án phòng chống

đái tháo đường Quốc gia” do Bệnh viện Nội tiết Trung ương thực hiện năm

2012 trên 11.000 người tuổi 30-69 tại 6 vùng gồm: miền Núi phía Bắc, Đồng

bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây

Nam Bộ đã cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 5,7% (tỷ lệ mắc cao nhất ở Tây

Nam Bộ là 7,2%, thấp nhất là Tây Nguyên 3,8%). Tỷ lệ rối loạn dung nạp

glucose cũng gia tăng mạnh mẽ từ 7,7% năm 2002 lên gần 12,8% năm 2012.

Như vậy, tỷ lệ mắc ĐTĐ ở Việt Nam 10 năm qua đã tăng gấp đôi. Đây là con

số đáng báo động vì trên thế giới, phải trải qua 15 năm tỷ lệ mắc ĐTĐ mới

tăng gấp đôi.

1.1.3. Chẩn đoán đái tháo đường

Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ĐTĐ, theo tiêu chuẩn chẩn đoán

của ADA 2011 [43]:

- Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).

- Glucose huyết tương bất kì ≥ 11,1 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).

- Glucose huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 11,1 mmol/l.

- HbA1c ≥ 6,5%.

1.1.4. Phân loại bệnh đái tháo đường

- ĐTĐ týp 1: do bệnh tự miễn dịch, các tế bào  tuyến tuỵ bị phá

huỷ bởi chất trung gian miễn dịch, sự phá huỷ này có thể nhanh hoặc

chậm. Tiến triển nhanh gặp ở người trẻ <30 tuổi, triệu chứng lâm sàng

rầm rộ khát nhiều, uống nhiều, sút cân, mệt mỏi. Xuất hiện các tự

kháng thể kháng đảo tuỵ (ICA: islet cell autoantibodies), tự kháng thể

kháng insulin và tự kháng thể kháng GAD (autoantibodies to glutamic

acid decarboxylase) trong 85 - 90% trường hợp. Biến chứng cấp tính

hay gặp là hôn mê nhiễm toan ceton. Điều trị bắt buộc phải điều trị

bằng insulin. Tỷ lệ gặp <10%. Thể tiến triển chậm hay gặp ở người lớn,

gọi là ĐTĐ tự miễn dịch tiềm tàng ở người lớn (LADA: latent

autoimmune diabetes in adults).

- ĐTĐ týp 2: ĐTĐ týp 2 trước đây được gọi là ĐTĐ không phụ

thuộc insulin, ĐTĐ ở người lớn, bệnh có tính gia đình đặc trưng của

ĐTĐ týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt insulin tương đối. Tuổi

>30 tuổi, triệu chứng lâm sàng âm thầm từ từ, thường phát hiện muộn.

Biến chứng cấp tính hay gặp là hôn mê áp lực thẩm thấu. Có thể điều trị

bằng chế độ ăn, thuốc uống hoặc insulin, tỷ lệ gặp 90-95%.

- ĐTĐ thai kỳ: ĐTĐ thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glocose

xảy ra trong thời kỳ mang thai.

- Các tình trạng tăng glucose huyết đặc biệt khác: Giảm chức năng

tế bào beta do khiếm khuyết gen: MODY 1, MODY 2, MODY 3, ĐTĐ

ty lạp thể, giảm hoạt tính insulin do khiếm khuyết gen. Bệnh lý tuyến

tụy: viêm tụy, xơ sỏi tụy, ung thư tụy… Một số bệnh nội tiết: to đầu

chi, hội chứng Cushing… do thuốc, hóa chất, do nhiễm khuẩn.

1.1.5. Viêm và cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường týp 2

Nhiều tác giả cho rằng phản ứng viêm được xem như yếu tố then chốt

tham gia vào cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ; tuy nhiên, nguyên nhân vì sao có

phản ứng viêm ở bệnh nhân ĐTĐ thì còn chưa thật sáng tỏ [37]. Một số tác

giả cho rằng viêm ở bệnh nhân ĐTĐ có liên quan tới tình trạng kháng insulin

trong đó vai trò của béo phì và tổ chức mỡ được nhiều tác giả đề cập tới [37],

[50]; Ahmed Al-Shukaili, Saif AL-Ghafri [37] cho rằng tổ chức mỡ thừa ở

người béo phì và người ĐTĐ týp 2 phát triển làm sản sinh ra TNF-α (tumor

necrosis factor-α), interleukin-6 (IL-6) và các trung gian hóa học khác tham

gia vào pha cấp của quá trình viêm.

Rất nhiều các tiền chất viêm và các cytokin tham gia và cơ chế bệnh sinh

của ĐTĐ, các chất như: C-reactive protein plasminogen activator inhibitor-1

(PAI-1); amyloid-A; α-1-acid glyco protein; haptoglobin… tham gia làm tăng

tình trạng kháng insulin, chúng tăng ở pha sớm của ĐTĐ týp 2 và tăng dần

cùng với thời gian tiến triển của ĐTĐ [37].

Tác giả Caparevic Z cho rằng sự tích tụ, tăng bám dính và thay đổi tính

oxy hóa của LDL-cholesterol là nguyên nhân khởi phát quá trình viêm.

Rất nhiều quan điểm hiện nay cho rằng trong cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ

týp 2 có hiện diện của phản ứng viêm ở mức độ thấp (low-grade

inflammation); nhiều nghiên cứu chỉ rõ có sự tăng bất thường các marker

viêm ở bệnh nhân mới phát hiện ĐTĐ như: hs-CRP, IL6.

Nhóm tác giả Andreas Festa, MD (2005) [62] cho rằng viêm là một phần

của hiện tượng kháng insulin; sự tăng CRP ở bệnh nhân ĐTĐ có liên quan tới

hiện tượng kháng insulin, sau đó là do biến chứng xơ vữa mạch máu của đái

tháo đường.

1.1.6. Viêm và biến chứng mạn tính của đái tháo đường

Các tác giả Juan F. Navarrol và Carmen Mora (2001) [73], qua việc tổng

kết nhiều nghiên cứu về viêm và biến chứng của ĐTĐ cho thấy các biến

chứng mạch máu nhỏ do ĐTĐ nguyên nhân chính là do tăng đường máu kéo

dài, làm rối loạn chuyển hóa tại chỗ gây biến đổi một số enzym, làm rối loạn

cơ chế điều hòa các cytokin. Tác giả này phân tích cơ chế của viêm trong biến

chứng thần kinh ngoại biên và biến chứng động mạch võng mạc và đưa ra kết

luận rằng viêm có liên quan đến sinh bệnh học của biến chứng thần kinh

ngoại biên và biến chứng động mạch võng mạc do ĐTĐ.

Nguồn: Andreas Pfützner “Circulating Biomarkers of Typ2 Diabetes and Atherosclerosis”, Institute for Clinical Research and Development Mainz, GermanyMainz, Germany

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiện tượng viêm tham gia vào cơ chế

bệnh sinh của bệnh thận do ĐTĐ: Juan F. Navarrol và Carmen Mora [73]

tổng kết các nghiên cứu cho thấy sự gia tăng CRP, IL6 liên quan đến tổn

thương màng đáy và tổn thương cầu thận do ĐTĐ; một số tác giả còn đưa ra

gợi ý dùng các thuốc chống viêm trong điều trị và phòng bệnh thận do đái

tháo đường [73].

Oliver Schnell và cộng sự (2013) kết luận có mối tương quan giữa hs-

CRP, HbA1c và nguy cơ tim mạch trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [68] .

AGTabak và cộng sự (2010) kết luận rằng tử vong do các biến cố tim

mạch ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tăng song hành cùng nồng độ hs-CRP [36].

1.2. Protein phản ứng-C (C reactive protein-CRP)

1.2.1. Sơ lược về lịch sử và cấu trúc của protein phản ứng-C

Năm 1930, Wiliam.S. Tillette đã tìm được một loại protein có khả năng

kết tủa với C-polysacarid lấy từ phế cầu khuẩn, đặt tên là protein phản ứng-C

(C-Reactive protein: CRP). Protein này được tiêm cho thỏ và thu được một

kháng thể đặc hiệu, dùng kháng thể đó cho tiếp xúc với huyết tương người có

chứa CRP xuất hiện một kết tủa. Mức độ kết tủa này phụ thuộc vào nồng độ

CRP trong huyết tương người. Gan là nơi tổng hợp ra CRP khi cơ thể có một

kích thích như các bệnh nhiễm trùng cấp và mạn tính, nhiễm siêu vi và các

bệnh lý không nhiễm trùng như: ĐTĐ, THA, béo phì, bệnh mạch vành, bệnh

tự miễn hoặc bệnh ác tính [67].

Thuộc nhóm pentaxin, phân tử CRP có cấu trúc dạng đĩa với 5 chuỗi

peptid có hình dạng giống nhau, xếp đối xứng xung quanh một lỗ trung tâm.

Kích thước đường kính ngoài 102 A0, đường kính lỗ trung tâm 30 A0. Mỗi

chuỗi polypeptide có 206 acid amin, với trọng lượng phân tử 110,000-

140,000 Dalton [67].

Hình 1.2. Mô hình cấu tạo và hoạt động của CRP

(Nguồn: Subodh Verma et al (2004)

Trước khi bắt đầu có diễn tiến tăng CRP sau một kích thích, cần ít nhất

1.2.2. Động học của protein phản ứng-C trong quá trình viêm

vài giờ cho sự hoạt hóa neutrophil, tạo IL-6, trình diện cho quá trình sinh tổng

hợp tại gan. CRP bắt đầu được tiết ra trong vòng 4-6 giờ sau kích thích viêm

và đạt đỉnh trong khoảng 36-48 giờ. Đo hàng loạt CRP tại thời điểm 24 và 48

giờ sau khởi phát bệnh lý đã cải thiện độ nhạy cảm lên tương ứng 82% và

84%. Một điều quan trọng phải lưu ý là: CRP vẫn duy trì sự tăng trong vòng

24-48 giờ sau khởi phát nhiễm trùng; thời gian bán hủy sinh học là 19 giờ,

giảm 50% nồng độ mỗi ngày sau khi kích thích viêm cấp tính đã được giải

quyết, trở về bình thường vào ngày thứ 5-7 sau đợt viêm, bất chấp nó vẫn

đang tiếp diễn, trừ khi có một đợt viêm mới; không tăng trong các bệnh lý

mạn tính như: viêm loét đại tràng, leucemia, bệnh ký chủ chống lại mảnh

ghép, cho dù có tình trạng tổn thương mô trầm trọng [65].

1.2.3. CRP và hs- CRP

Nhìn chung xét nghiệm CRP và hs-CRP là giống nhau, đều là đo lường

một chất protein trong máu (CRP). Tuy nhiên, CRP độ nhạy cao (hs-CRP ) là

thử nghiệm đo số lượng CRP rất nhỏ trong máu và hs-CRP cũng được xem

như một chỉ điểm dự báo biến chứng mạch máu trên bệnh nhân ĐTĐ.

hs-CRP là xét nghiệm có độ nhạy cao, cao hơn xét nghiệm CRP thường

tới hàng trăm lần. Thông thường thử nghiệm hs-CRP được đo trong khoảng

0,1-10 mg/l và thường được dùng để đánh giá nguy cơ tim mạch.

Khác với thử nghiệm hs-CRP thì các thử nghiệm CRP thường xuyên

được chỉ định cho những người có nguy cơ bị nhiễm trùng hoặc các bệnh

viêm mãn tính; CRP được đo trong khoảng 10-1000 mg /l.

1.2.4. Chức năng của CRP

CRP làm giảm sự phát triển của vi khuẩn trong giai đoạn đầu của quá

trình nhiễm khuẩn, cơ chế của quá trình này là do sự thực bào qua trung gian

bổ thể, trong đó bổ thể có chức năng opsonin hoá. CRP kích thích tổng hợp

yếu tố mô bởi tế bào đơn nhân và làm tăng hoạt hoá bổ thể.

CRP giữ vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển xơ vữa

động mạch. Yếu tố viêm giữ vai trò chính trong tất cả các giai đoạn mảng xơ

vữa, ngay từ giai đoạn sớm hình thành đến giai đoạn mảng xơ vữa phát triển

và cả lúc mảng xơ vữa bị vỡ và gây tắc nghẽn dòng chảy trong. CRP gắn chọn

lọc với LDL-C, đặc biệt là chất LDL-C thừa được tìm thấy ở các mảng xơ vữa

và thường đi kèm với nó một bổ thể được hoạt hoá trong các mảng vữa như

vậy. Phức hợp gắn CRP đó hoạt hoá bổ thể, là một yếu tố tiền viêm, góp phần

vào bệnh sinh của xơ vữa động mạch.

Khi có phản ứng viêm thì nồng độ CRP tăng. Tuy nhiên, trong viêm do

xơ vữa động mạch là hiện tượng viêm mạn ở mức độ thấp nên không gây tăng

CRP thông thường.

Hiện nay, nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, bằng những phương pháp có độ

nhạy cao người ta có thể đo được nồng độ protein phản ứng C ở những mức

rất thấp (giá trị bình thường<1mg/l) tạm dịch là protein phản ứng C độ nhạy

cao (High sensitivity Reactive, hs-CRP); từ đó, xét nghiệm định lượng hs-

CRP ra đời đã được dùng phổ biến trong các bệnh tim mạch, bệnh chuyển hoá

và là ĐTĐ [57], [61], [65], [72]. Xét nghiệm hs-CRP phát hiện những thay

đổi rất nhỏ của CRP trong quá trình viêm thành mạch mặc dù nồng độ CRP

trong máu vẫn trong giới hạn bình thường (< 5mg/l). Những thay đổi đó của

CRP cùng với các chỉ số cholesterol, HDL-C, LDL-C giúp ta tiên lượng các

nguy cơ xơ vữa động mạch, nguy cơ bệnh mạch vành, thiếu máu cơ tim và

nhồi máu cơ tim ngay cả ở những người có vẻ là bình thường; đồng thời giúp

theo dõi và điều trị các bệnh nói trên và đánh giá hiệu quả điều trị [8]. Có

nhiều trường hợp bệnh tim mạch mà cholesterol vẫn bình thường; vì vậy, một

số nghiên cứu nói rằng: hs-CRP là chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc tiên

lượng, theo dõi điều trị bệnh tim mạch [64].

1.2.5. Cơ chế tổn thương mạch máu của protein phản ứng-C

CRP trực tiếp hoạt hoá nội mô mạch máu gây viêm và làm xơ vữa

mạch máu. CRP điều hoà sự sao chép của tế bào nội mạc làm rối loạn sự sao

chép thông tin của tế bào làm giảm nitric oxyde cơ bản. CRP làm tăng stress

oxy hoá và giảm độ khả dụng sinh học nitric oxyde sẽ kích thích sản xuất

những cytokine tiền viêm như interleukin (IL), TNF-α, protein hoá hướng

động tế bào đơn nhân-1 (monocyte chemoattractant protein-1, MCP-1) hoặc

interferon (IFN), làm hấp dẫn tế bào đơn nhân. Tăng CRP làm thúc đẩy rối

loạn chức năng nội mạc, giảm sản xuất và hoạt tính sinh học của nitric oxyde.

Nồng độ CRP tương quan nghịch với sự tổng hợp nitric oxyde cơ bản của nội

mạc và làm giảm tính phản ứng của nội mạc mạch máu. CRP giúp tế bào đa

nhân xâm nhập vào trong thành mạch, kích thích tế bào đa nhân phóng thích

IL, TNF-α, điều hoà những phân tử kết dính trên tế bào nội mạc mạch máu và

opsonin hoá LDL-C tạo thuận lợi cho sự thu nhận LDL-C của đại thực bào.

CRP làm cho tế bào nội mạc dễ bị huỷ hoại và chết theo chương trình bởi tế

bào lym pho T. CRP hoạt hoá hệ thống bổ thể, kết hợp với phức hợp tấn công

màng của tổn thương xơ vữa sớm làm gia tăng viêm [45].

1.2.6. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu và đá i thá o đườ ng

Nồng độ hs-CRP tăng cao trong máu là một yếu tố phá hủy thành mạch

dẫn đến phá vỡ chức năng vận mạch thông thường; thúc đẩy quá trình tạo

huyết khối dẫn đến tình trạng tổn thương hệ thống mạch máu, cả mạch máu

lớn và hệ thống vi mạch [57].

Ở bệnh nhân ĐTĐ với nguy cơ cao biến chứng thoái hóa mạch máu

(mạch máu lớn và vi mạch), cùng với các chỉ số sinh hóa khác, nồng độ hs-

CRP trong máu có thể dùng để tiên lượng các biến chứng tổn thương thành

mạch ở các cơ quan đặc biệt là tim và thận. Nhiều công trình nghiên cứu đã

chứng minh rằng ở người ĐTĐ týp 2 nguy cơ mắc các bệnh tim mạch lớn hơn

nhiều so với người không ĐTĐ.

Sandya. E.P nghiên cứu trên 60 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thời gian 2 năm.

Nghiên cứu này chứng minh cho thấy hs-CRP phản ánh tình trạng viêm trong

bệnh sinh của bệnh thận ĐTĐ týp 2. Nồng độ hs-CRP >3 mg/l cho thấy nguy

cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 gấp 4 lần và lên tăng gấp 6 lần nếu có bệnh tim mạch

kèm theo. Người ta nhận thấy nồng độ hs-CRP từ 2-3 mg/l nguy cơ tim mạch

tăng cao hơn người có nồng độ hs-CRP thấp và hs-CRP ở mức cao >3 mg/l

tăng tỷ lệ tử vong cho bệnh tim mạch gấp 8 lần, nhưng không có giá trị dự

đoán cho tử vong khác. Vì vậy, hs-CRP tăng không chỉ là yếu tố nguy cơ của

bệnh tim mạch mà còn là nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ týp 2. Tăng cao nồng

độ hs-CRP kèm theo sự gia tăng nồng độ microalbumin niệu (+) cho thấy có

sự kích hoạt các con đường viêm trong sự tiến triển của bệnh tim mạch và

bệnh thận. Do đó, nồng độ hs-CRP liên tục cao là dấu hiệu dự báo của nguy

cơ tim mạch và bệnh thận trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [58].

Tăng nồng độ hs-CRP đã được ghi nhận như yếu tố nguy cơ có tác động

gián tiếp lên nhồi máu não thông qua mối liên quan với xơ vữa động mạch cảnh

đoa ̣n ngoài sọ, và mối liên quan này là độc lập với các yếu tố nguy cơ đã biết

khác [30].

Như vậy, các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới và Việt

Nam đã chứng minh trong bệnh ĐTĐ; đặc biệt là ĐTĐ týp 2 nồng độ hs-CRP

có liê

n quan đến biến chứng bệnh mạch vành, đột quỵ… Việc tìm hiểu kỹ mối

liên quan này sẽ giúp cho việc chẩn đoán và điều trị sớm biến chứng của bệnh

ĐTĐ týp 2 nhằm ngăn chặn sự suy giảm sức khoẻ và tàn phế cho bệnh nhân.

1.2.7. Một số nghiên cứu về hs-CRP trên thế giới và Việt Nam

1.2.7.1. Trên thế giới

Safiullah.A (2010) nghiên cứu mối liên quan giữa hs-CRP với bệnh đái

tháo đường nhận thấy gia tăng nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân

ĐTĐ týp 2 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không bị ĐTĐ (p <0,001) [41].

Các tác giả M. S. Roopakala và Mohd. Idrees Khan, Kauser Usman

(2012) tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa hs-CRP với HbA1c và

microalbumin niệu trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 kết luận rằng hs-CRP liên quan

đến cơ chế sinh bệnh học của bệnh thận do ĐTĐ và có tương quan với việc

kiểm soát đường máu [39].

Một nghiên cứu dọc đa trung tâm do nhóm tác giả Oliver Schnell, Ildiko

Amann-Zalan (2013) nghiên cứu mối tương quan giữa hs-CRP và việc kiểm

soát HbA1c cho kết luận: khi kiểm soát làm giảm HbA1c thì nồng độ hs-CRP

cũng giảm đồng nghĩa với giảm nguy cơ tim mạch [68].

Nghiên cứu “White hall study” do nhóm các tác giả châu Âu AG Tabak,

M Kivimaki, E J Brunner và cộng sự (2010) nghiên cứu theo dõi dọc 14 năm

trên 7350 người khỏe mạnh về mối tương quan giữa hs-CRP và biến cố xuất

hiện ĐTĐ và chết do bệnh lý tim mạch cho thấy: nhóm 558 người xuất hiện

đái tháo đường và 125 người tử vong do các biến cố tim mạch có nồng độ hs-

CRP cao hơn nhóm không có biến cố ĐTĐ và chết do bệnh lý tim mạch [36].

Những nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ CRP có liên quan đến tiên

lượng gần ở bệnh nhân đột quỵ. Napoli M.D và cộng sự nghiên cứu về ảnh

hưởng của CRP với tiên lượng bệnh nhân đột quỵ lần đầu trong vòng 1 năm,

cho thấy nồng độ CRP tăng cao có liên quan đến thang điểm đánh giá đột quỵ

CNSS (r = -0,35; p<0,001). Sau theo dõi một năm còn cho thấy nhóm có CRP

cao có tỷ lệ tử vong cao hơn rõ rệt (OR = 2,39; CI 95%: 1,28 - 4,49; p<0,05)

bất kể các biện pháp điều trị trong thời gian theo dõi. Một câu hỏi được đặt ra

CRP tăng là do đột quỵ của thiếu máu cục bộ hay CRP chỉ phản ánh tình

trạng viêm liên quan đến bệnh sinh của đột quỵ. Tuy nhiên có đến 25% số

bệnh nhân có mức CRP bình thường sau đột quỵ. Điều đó chứng tỏ đột quỵ tự

bản thân nó không làm tăng đáp ứng pha cấp. Liên quan giữa CRP và khả

năng hoạt hoá bổ thể của nó được xem là vai trò chính trong việc làm tăng các

biến cố tử vong ở bệnh nhân đột quỵ [56].

Cho đến nay phần lớn các tác giả trên thế giới đã nêu giá trị của xét

nghiệm hs-CRP trong máu để tiên đoán, chẩn đoán sớm và theo dõi điều trị

bệnh mạnh vành, góp phần giảm nguy cơ tử vong của đột quỵ, nhồi máu cơ

tim [38], [58].

1.2.7.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, Trịnh Thị Thái Hà (2005) nghiên cứu nồng độ CRP huyết

tương trên 79 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đã ghi nhận nồng độ CRP huyết

tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm

không bị đái tháo đường [9].

Huỳnh Ngọc Tính và Trần Hữu Dàng (2005) nghiên cứu nồng độ CRP

trên 95 bệnh nhân có hội chứng chuyển hoá nhận thấy: Nồng độ CRP ở bệnh

nhân hội chứng chuyển hoá cao hơn so với bệnh nhân không có hội chứng

chuyển hoá. Trương Phi Hùng và Đặng Vạn Phước (2007) nghiên cứu biến

đổi nồng độ CRP trên 102 bệnh nhân có bệnh lý mạch vành nhận thấy: nồng

độ CRP ở bệnh nhân có bệnh lý mạch vành cao hơn so với nhóm chứng

không có bệnh lý mạch vành [14]. Một nghiên cứu khác của Trịnh Xuân

Cường (2010) trên 226 bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp: nồng độ

hs-CRP ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cao hơn so với bệnh nhân đau ngực

không ổn định [4].

Trần Thị Thu Hương và Dương Hồng Thái (2013) nghiên cứu nồng độ

hs-CRP trên 203 cán bộ diện bảo vệ sức khỏe tỉnh Thái Nguyên nhận thấy:

nồng độ hs-CRP ở có rối loạn glucose huyết cao hơn có ý nghĩa thống kê so

với người không có rối loạn glucose huyết [16].

Theo nghiên cứu của Phạm Trung Hà, Diệp Quảng Ninh (2011) ta ̣i Bệnh

viện Thống Nhất - Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trên 168 người,

trong đó 48 người bình thường, 74 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn

tính và 51 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp; kết quả cho thấy nồng độ hs-CRP

ở nhóm bệnh tim thiếu máu mạn tính cao hơn có ý nghĩa vói nhóm người bình

thường (p<0,05), nồng độ hs-CRP cao nhất ở nhóm nhồi máu cơ tim [8].

Nguyễn Văn Mùi (2014), nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết tương và một

số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2, cho thấy nồng độ hs-CRP

trung bình ở bệnh đái tháo đường týp 2 cao hơn so với người không bị đái

tháo đường [24].

1.3. Vữa xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

1.3.1. Giải phẫu động mạch cảnh vùng ngoài sọ

Mỗi bên cổ có một động mạch cảnh (ĐMC) chung, chia đôi thành ĐMC

ngoài và ĐMC trong. ĐMC trong cung cấp máu cho hầu hết các thành phần

đựng trong hộp sọ và ổ mắt. ĐMC ngoài cung cấp máu cho các phần còn lại của

đầu và cổ.

Hình 1.3. Ma ̣ch máu vù ng cổ trướ c 1. Động mạch cả nh chung trá i 2. Động mạch dướ i đò n trá i 3. Tĩnh mạch tay đầu trá i 4. Cung động mạch chủ 5. Động mạch cả nh chung phải 6. Thân tay đầu

* Động mạch cảnh chung

ĐMC chung trái xuất phát từ cung động mạch (ĐM) chủ, ĐMC chung

phải từ ĐM thân cánh tay đầu ở phía sau khớp ức đòn. Do đó ĐM bên trái có

thêm một đoạn ở ngực. Khi vào trong cổ, đường đi của hai ĐM giống nhau.

Ở người Việt Nam, ĐMC chung phân đôi ở ngang bờ trên sụn giáp

(90,1%) tương đương đốt sống cổ C4 thành ĐMC trong và ĐMC ngoài. Chiều

dài của ĐMC chung phải là 93 mm và đường kính là 6,44 mm, chiều dài của

ĐMC chung trái là 12,5 mm và đường kính là 6,92 mm. ĐMC chung chỉ chia

nhánh bên cùng là ĐMC trong và ngoài.

* Động mạch cảnh trong

ĐMC trong bắt đầu từ bờ trên sụn giáp đi phía trên vùng cổ chui qua lỗ

ĐMC ở phía dưới xương đá rồi vào ống ĐMC ở trong xương đá và cuối cùng

chui ra khỏi xương đá ở đỉnh xương để vào trong hộp sọ đi trong xoang tĩnh

mạch hang và tận hết ở mỏm yên trước bằng cách chia thành 4 ngành cùng để

cấp máu cho não đó là: ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM thông sau và ĐM

mạch mạc trước, để tham gia vào việc tạo nên vòng động mạch não.

* Động mạch cảnh ngoài

ĐMC ngoài bắt đầu từ bờ trên sụn giáp đến sau cổ hàm và tận hết ở đó

rồi chia thành 2 nhánh cùng là: ĐM hàm và ĐM thái dương nông. ĐMC

ngoài cho sáu nhánh bên: ĐM giáp trên, ĐM lưỡi, ĐM mặt, ĐM hầu lên,

ĐM chẩm và ĐM tai sau.

Hệ thống ĐMC nằm nông vì thế có thể quan sát dễ dàng qua siêu âm với

đầu dò có tần số cao trong đánh giá XVĐM [28]

1.3.2. Sơ lược cấu tạo của động mạch

Động mạch gồm có 3 lớp đồng tâm, theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm:

lớp áo ngoài, lớp áo giữa và lớp áo trong.

* Lớp áo ngoài

Đây là lớp ngoài cùng nhất của động mạch, về phía lòng ống tiếp xúc với lá

đàn hồi ngoài. Vỏ này là mô liên kết bao gồm hỗn hợp chất lỏng lẻo đan xen với

nhiều sợi keo, sợi chun, các tế bào cơ trơn và các nguyên bào sợi chạy dọc theo

ống mạch. Lớp này cũng chứa cả mạch nuôi mạch và các sợi thần kinh. Bao bọc

ba tầng áo trên của động mạch là mô liên kết có chứa mạch và thần kinh.

* Lớp áo giữa

Là thành phần dày nhất của thành động mạch, áo giữa được cấu tạo bởi

những lớp tế bào cơ trơn xếp theo lớp đơn độc hoặc thành nhiều lá, xen kẽ là

những lá chun, những sợi tạo keo. Các tế bào này được áp sát vào nhau và có

thể được gắn kết bằng các phức hợp chất gắn. Các tế bào cơ trơn là tế bào

chính tạo ra mô liên kết của thành động mạch. Lớp áo giữa được giới hạn về

phía lòng ống động mạch bằng một lá mô đàn hồi kém liên tục hơn là lá đàn

hồi ngoài.

* Lớp áo trong

Đó là một lớp tế bào nội mô đơn độc, liên tục, bao phủ tất cả lòng các

động mạch. Nội mạc mạch được một ống mô đàn hồi có lỗ thủng bao bọc ở

phía ngoài, đó là lá đàn hồi bên trong. Các tế bào nội mô được gắn với nhau

bằng một loạt các phức hợp chất gắn và cũng được gắn tinh vi với màng lưới

tổ chức liên kết lỏng lẻo nằm dưới, đó là lớp đáy. Các tế bào nội mô đó lót

phủ bình thường tạo thành một hàng rào để kiểm soát các chất từ máu vào

thành động mạch, tiết ra một số chất tác động lên sự đông máu, sự co và giãn

cơ trơn mạch phía dưới.

1.3.3. Đại cương về xơ vữa động mạch

* Quá trình hình thành XVĐM: Đầu tiên là những tổn thương của lớp tế

bào nội mạc. Những tế bào nội mạc tổn thương giảm khả năng sản xuất nitric

oxide (NO). NO được coi là chất chống XVĐM nội sinh quan trọng nhất [62].

Sau khi tế bào nội mô bị tổn thương là sự bám dính của các tiểu cầu, tế

bào đơn nhân và đại thực bào có thụ thể cho LDL-Cholesterol (LDL-C) bị

oxy hoá. Vì thế, chúng sẽ bắt giữ các phân tử này rồi biến đổi thành các tế bào

bọt, các tế bào sau này sẽ thâm nhiễm vào thành mạch. Các tế bào cơ trơn sẽ

di chuyển từ lớp áo giữa ra lớp nội mạc và tạo nên mảng xơ vữa.

Như vậy, tổn thương của tế bào nội mạc là điều kiện tiên quyết khởi

động cho quá trình hình thành và phát triển của XVĐM.

* Cơ chế bệnh sinh vữa xơ động mạch

Có nhiều giả thuyết về xơ vữa đô ̣ng ma ̣ch, trong đó đáng chú ý là các giả

thuyết: mỡ sinh, đơn dòng, đáp ứng tổn thương của Ross, tế bào và giả thuyết

ty lạp thể.

- Giả thuyết mỡ sinh: dựa vào sự gia tăng LDL-C huyết tương ở những

người có thương tổn XVĐM. Có sự lắng đọng lipid ở tế bào cơ trơn tăng sinh,

ở đại thực bào và ở tổ chức liên kết trong các thương tổn XVĐM. Bình

thường lớp nội mạc mang điện tích âm nên các thành phần hữu hình của máu

bị đẩy xa không bị ngưng kết, lắng đọng. Khi bị XVĐM sẽ làm gia tăng tính

thấm của tế bào nội mạc đối với VLDL-C và LDL-C, rối loạn hoạt tính của

những tế bào cơ trơn trong thành động mạch và men lipo protein lipase dẫn

đến hậu quả rối loạn cân bằng dòng lipo protein, dòng vào tế bào cao hơn

dòng ra khỏi tế bào gây ứ trệ và tích lũy mỡ ở thành động mạch. Đây là giả

thuyết được nhiều người công nhận nhất vì:

Thành phần cấu trúc của mảng XVĐM chủ yếu là lipid.

Những người có nồng độ lipid máu cao hay bị XVĐM hơn những người

có nồng độ lipid máu bình thường.

Có thể gây XVĐM trên thực nghiệm động mạch với chế độ ăn nhiều mỡ

và cholesterol.

- Giả thuyết đơn dòng: mỗi thương tổn của XVĐM bắt nguồn từ tế bào

cơ trơn, tế bào này là cội nguồn của tất cả các tế bào tăng sinh nằm trong

thương tổn.

- Giả thuyết tế bào: sự xâm nhập vào thành động mạch của bạch cầu đơn

nhân mất khả năng thực bào làm tổn thương hoặc kích thích phát triển các tế

bào cơ trơn, đại thực bào, tổ chức liên kết, lipid, phát triển những vùng tổn

thương từ đó gây XVĐM.

- Giả thuyết về ty lạp thể: các men ty lạp thể tế bào ở thành mạch có thể

gây thoái hóa và tích tụ mỡ ở tế bào cơ trơn, nhất là men cholesterol ester

hydrolase.

- Giả thuyết đáp ứng tổn thương của Ross: lớp nội mạc chịu nhiều

nguyên nhân khác nhau như sự tăng cholesterol mạn tính hay do chấn thương,

thuốc, vi khuẩn, miễn dịch, tự miễn. Tuy nhiên, tổn thương nội mạc mạch

máu có thể chỉ là những rối loạn chức năng không nhất thiết phải bong lớp nội

mạc như thay đổi tính thấm, thay đổi tính chất chống đông nội mạc, gia tăng

bài tiết những chất gây co mạch. Nội mạc khi bị tổn thương sẽ làm cho đơn

bào gắn vào nội mạc, di chuyển xuyên qua nội mạc và chuyển thành đại thực

bào. Đại thực bào có khả năng bắt giữ các hạt lipid, nhất là LDL-C đã thoái

biến. Sự hiện diện của đại thực bào làm gia tăng tổn thương lớp nội mạc.

1.3.4. Một số phương pháp đánh giá xơ vữa động mạch cảnh

* Chụp cắt lớp vi tính

Thường không dùng để chẩn đoán XVĐM mà để thấy rõ hậu quả trên

não do biến chứng của nó như nhồi máu não hay xuất huyết não.

* Chụp cộng hưởng từ

Hình ảnh cộng hưởng từ giống như chụp mạch mà không cần bơm thuốc

cản quang và không xâm nhập. Có thể nhìn toàn bộ hệ thống ĐMC trên không

gian 3 chiều và mối liên hệ của nó với ĐM cột sống, kiểm soát sự tưới máu

lên não và tai biến do sự xơ vữa gây nên. Tuy nhiên, giá thành của cộng

hưởng từ rất cao không thể áp dụng cho đa số người bệnh.

* Siêu âm mạch máu

- Nguyên lý siêu âm

Siêu âm (SA) là một dạng năng lượng với những sóng âm tần số cao hơn

20.000 Hertz và tai ta không nghe được. Trong chẩn đoán, dùng đầu dò bằng

chất áp điện nằm trong một điện trường xoay chiều, tinh thể áp điện này ép

vào và giãn ra dưới ảnh hưởng của điện trường xoay chiều và tạo năng lượng

âm học có tần số cao của sóng siêu âm và phát ra đều đặn 1000 xung/giây đi

vào trong các tổ chức của cơ thể.

Các sóng âm phát ra từ đầu dò, sẽ xuyên qua các cấu trúc của cơ thể đi

thẳng theo hướng ban đầu nếu qua một cấu trúc đồng trở kháng, nhưng sẽ dội

lại một phần năng lượng nếu gặp một cấu trúc khác trở kháng. Các sóng siêu

âm dội lại sẽ trở về đầu dò phát sóng và được đưa về bộ phận tiếp nhận rồi bộ

khuếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hình hiện sóng.

Các tín hiệu ghi trên màn hình là phản ánh của các cấu trúc sóng SA dội

trở về qua đầu dò. Kích thước, độ dài, biên độ di động, khoảng cách giữa các

cấu trúc đó có tỷ lệ chính xác so với thực tế [28].

- Siêu âm kiểu 2D

Giúp đánh giá cấu trúc thành mạch máu, đặc biệt là thành ĐM. Ba lớp

cấu trúc của thành ĐM bình thường: lớp nội mạc và lớp ngoài tạo ra 2 đường

bắt echo song song và chen giữa là lớp giữa không bắt echo.

Trên SA 2D có thể thấy đường trong cùng tương đối rõ là lớp nội mạc,

đường đen kế tiếp là lớp giữa và đường trắng ngoài cùng là lớp ngoài của

ĐM. Bề dày lớp nội trung mạc của ĐM trên SA được tính từ bắt đầu của lớp

nội mạc ở phía trong lòng mạch, đó là lớp echo đầu tiên, ngang qua vùng

giảm âm đến bắt đầu của lớp áo ngoài (ranh giới của lớp ngoại - trung mạc),

đó là lớp echo thứ hai.

Ngoài ra siêu âm 2D giúp xác định mảng xơ vữa ở thành ĐM. Tổn

thương xơ vữa ở thành ĐMC:

+ Mảng vữa sợi mỡ bắt echo thấp hơn echo cơ ức đòn chũm.

+ Mảng vữa sợi bắt echo trung bình, cao hơn echo cơ ức đòn chũm.

+ Mảng vữa bị calci hóa sau khi xuất huyết hoại tử có độ echo sáng hơn

cấu trúc xung quanh và có bóng lưng.

Siêu âm kiểu 2D còn giúp phát hiện phình ĐM, bóc tách ĐM [28].

1.3.5. Một số nghiên cứu liên quan

1.3.5.1. Nghiên cứu ngoài nước

Yoshimitsu Yamasaki và cộng sự (1994) khi khảo sát siêu âm bệnh nhân

ĐTĐ không phụ thuộc insulin cho thấy nam giới có nguy cơ xơ vữa nhiều

hơn nữ giới [70], nghiên cứu của Arturo Pujia và cộng sự cũng cho kết quả

tương tự [71].

Stevent M. Haffner và cộng sự (2000) khi nghiên cứu 43 bệnh nhân

ĐTĐ có bệnh mạch vành, 446 bệnh nhân ĐTĐ không có bệnh mạch vành, 47

bệnh nhân không ĐTĐ có bệnh mạch vành và 975 bệnh nhân không ĐTĐ

không có bệnh mạch vành ghi nhận: ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ có bệnh mạch

vành làm tăng xơ vữa ĐMC chung và ĐMC trong [52].

Nghiên cứu của G. Geroulakos và cộng sự (1994) khảo sát 97 bệnh nhân

đái tháo đường týp 2, Arturo Pujia (1994) khảo sát động mạch cảnh của 54

bệnh nhân ĐTĐ qua siêu âm cũng cho thấy không có sự liên hệ giữa

cholesterol toàn phần và bề dày xơ vữa ĐMC [71].

Geroulakos và cộng sự (1994), khi nghiên cứu trên 97 bệnh nhân ĐTĐ

týp 2 và một nhóm chứng có số lượng tương đương, cùng tuổi, giới. Tác giả

nhận thấy bề dày nội trung mạc ĐMC ở nhóm ĐTĐ cao hơn nhóm chứng một

cách có ý nghĩa (0,82 ± 0,22 mm so với 0,66 ± 0,13 mm với p<0,001), Dirk

Sander và cộng sự (2006) phân tích dữ liệu của nghiên cứu INVADE trên

3534 đối tượng ghi nhận sự kết hợp ảnh hưởng có ý nghĩa giữa HbA1c và hs-

CRP lên sự tiến triển dày IMT ở bệnh nhân ĐTĐ cũng như không ĐTĐ [48].

1.3.5.2. Nghiên cứu trong nước

Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011) khi khảo sát 102 bệnh nhân

ĐTĐ týp 2 và 64 bệnh nhân không ĐTĐ ghi nhận có tỷ lệ mảng xơ vữa ĐMC

là 61,8% so với nhóm chứng là 38,2%; bề dày IMT trung bình ở nhóm ĐTĐ

týp 2 là 1,35 ± 0,04 mm [20].

Châu Mỹ Chi (2016), nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo cho thấy bề

dày IMT là 1,20 ± 0,35 [2].

Nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013), trên 38 bệnh nhân tiền ĐTD

và 32 bênh nhân không có ĐTĐ, khi có tăng hs-CRP ≥ 3 mg/l bề dày IMT

giữa đối tượng tiền ĐTĐ cao hơn so với nhóm chứng (p<0,01); đồng thời có

sự tăng đáng kể bề dày IMT khi tăng có nồng độ hs-CRP ≥ 3 mg/l (1,05 ±

0,20 mm)so với mức hs-CRP<3 mg/l (0,86 ± 0,20 mm), (p<0,01). Nghiên

cứu này ghi nhận tương quan giữa hs-CRP và IMT với r = 0,334 (p<0,05),

trong khi không có sự tương quan cũng như sự khác biệt giữa bề dày mảng

XVĐM, chỉ số RI với hs-CRP trên dưới mức nguy cơ [32].

Trầm Lợi Trần Tiên (2012), nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường

bị nhồi máu não và nhóm chứng không ĐTĐ bị nhồi máu não ghi nhận ở

nhóm bệnh tỷ lệ bị xơ vữa chiếm 80% cao hơn so với nhóm chứng chiếm

66%; bề dày mảng xơ vữa trung bình ở nhóm bệnh bên phải là 2,62 ± 0,21

mm và bên trái là 2,7 ± 0,13 mm khác biệt với nhóm chứng [35].

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Gồm 110 bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ týp 2 khám và điều trị ngoại trú

tại bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

Dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của ADA 2011 [43]. Bệnh nhân thỏa

mãn mô ̣t trong các tiêu chuẩn sau:

- Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).

- Glucose huyết tương bất kì ≥ 11,1 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).

- Glucose huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 11,1 mmol/l.

- HbA1c ≥ 6,5% (phương pháp sắc ký).

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

Chúng tôi loại khỏi nghiên cứu nếu bệnh nhân có một trong yếu tố sau:

- ĐTĐ khác có nguyên nhân

- Đang có biến chứng cấp tính

- Các tình trạng bệnh ảnh hưởng đến tăng hs-CRP: Nhiễm trùng, viêm

gan, bệnh tự miễn, suy thận… ; hoă ̣c đang dùng mô ̣t số thuố c:corticoid, no

steroid…

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu

Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, khoa Sinh hóa, khoa Thăm dò

chức năng, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

2.2.2. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang

2.3.2. Cỡ mẫu

Tính theo công thức sau:

1-α

2 + 1

n = Z2

Trong đó:

n: Cỡ mẫu nghiên cứu

Z1-α/2 : Giá trị điểm Z tại mức ý nghĩa α với α = 0,05, Z1-α/2 = 1,96

S: Độ lệch chuẩn

: Giá trị trung bình của 1 nghiên cứu trước

: Mức sai lệch tương đối giữa các tham số mẫu và tham số quần thể

Nồng độ hs-CRP được công bố ở nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hải

Thủy, Đại học Y Dược Huế năm 2011 là 3,6 ± 4,68, giá trị lấy bằng 0,2 tính

được cỡ mẫu là 104 và nghiên cứu của chúng tôi là 110 bệnh nhân [6].

2.3.3. Quy trình chọn đối tượng và thu thập số liệu

Tất cả đối tượng nghiên cứu được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm

cần thiết và được phỏng vấn khai thác kỹ các yếu tố liên quan đến bệnh theo

mẫu bệnh án đã được chuẩn bị trước. Các kết quả được ghi vào mẫu bệnh án

nghiên cứu thống nhất:

- Khám toàn thân (tỷ mỷ và làm bệnh án).

+ Hỏi tiền sử bản thân.

+ Hỏi tiền sử gia đình: bố, mẹ, anh, chị, em ruột có ai bị ĐTĐ, bị bệnh về di

truyền…

- Làm các xét nghiệm thường quy và các xét nghiệm phục vụ nghiên cứu

tại Khoa Sinh hoá, siêu âm động mạch cảnh tại Khoa Thăm dò chức năng

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

+ Định lượng glucose huyết

+ Xét nghiệm lipid máu: CT,TG, HDL, LDL.

+ Xét nghiệm HbA1c

+ Xét nghiệm hs-CRP máu

+ Siêu âm động mạch cảnh.

2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu

- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, BMI, số năm

mắc bệnh.

- Kết quả nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp

2 tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

+ Nồng độ hs-CRP và phân loại mức độ hs-CRP

+ Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo một số đặc điểm lâm sàng: độ tuổi,

giới tính, chỉ số BMI, thời gian phát hiện bệnh.

+ Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo một số đặc điểm cận lâm sàng: chỉ

số glucose huyết , chỉ số HbA1c, xét nghiệm lipid máu.

- Chỉ tiêu về đặc điểm hình thái mạch cảnh đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở

bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

+ Đặc điểm đường kính tâm thu, đường kính tâm trương, độ dày lớp nội

trung mạc, số lượng MXV của động mạch cảnh chung, động mạch cảnh

ngoài, động mạch cảnh trong.

+ Sự thay đổi đường kính tâm thu, đường kính tâm trương, độ dày lớp

nội trung mạc của động mạch cảnh chung, động mạch cảnh ngoài, động mạch

cảnh trong theo một số đặc điểm lâm sàng như độ tuổi, giới tính, chỉ số BMI,

số năm phát hiện bệnh.

+ Tỷ lệ MXV, tình trạng MXV trên đối tượng nghiên cứu.

+ Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp nội trung mạc, tình

trạng, vị trí, số lượng xơ vữa động mạch cảnh.

2.5. Tiêu chuẩn đánh giá và các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu

2.5.1. Đặc điểm chung

* Tuổi: Phương pháp tính tuổi bằng: Năm điều tra - năm sinh, chia thành

các nhóm tuổi sau: ≤ 60, 61 - 70, >70.

* Giới: Giới được chia thành hai nhóm là giới nam và giới nữ.

* Chiều cao (m)

Được đo bằng thước chuẩn, đo khi đối tượng đứng thẳng, hai bàn chân

chạm đất, hai tay buông thõng theo thân mình, mắt nhìn về phía trước và

không mang giày dép, kết quả được lấy từ đường thẳng vuông góc với thước

đo, đi qua đỉnh đầu bệnh nhân.

* Cân nặng (kg)

Được đo bằng cân bàn hiệu SMIC do Trung Quốc sản xuất với độ chính

xác 0,1kg. Cân được đặt ở vị trí bằng phẳng, chỉnh về mức 0, thực hiện đo

vào buổi sáng khi đối tượng đang đói, chỉ mặc một bộ quần áo mỏng, chân

trần, không đội mũ và không mang kèm các vật dụng khác.

* BMI (chỉ số khối cơ thể) (kg/m2) tính bằng công thức

Cân nặng (kg)

BMI = Chiều cao (m) 2

Bảng 2.1. Đánh giá chỉ số BMI theo khuyến cáo của Tổ chức Y Tế thế

giới (WHO) đề nghi cho khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tháng 2/2000

Xếp loại BMI

Gầy < 18,5

Bình thường 18,5 – 22,9

Thừa cân 23 – 24,9

Béo phì độ 1 25 – 29,9

Béo phì độ 2 > 30

2.5.2. Phương pháp định lượng hs-CRP

- Bệnh nhân được lấy 2-2,5ml máu vào buổi sáng khi đói (sau ăn ít nhất

8 giờ), mẫu máu được cho vào ống chống đông heparin, quay ly tâm tách

huyết tương và bảo quản ở nhiệt độ 0-4oC cho đến khi được phân tích.

- Lưu ý bệnh nhân không dùng các thuốc có ảnh hưởng đến kết quả xét

nghiệm: corticoid, thuốc ức chế miễn dịch… theo đúng quy trình vô trùng kỹ

thuật.

- Kỹ thuật được thực hiện tại Khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung ương Thái

Nguyên, trên máy xét nghiệm tự động AU5800 của hãng Olympus - Nhật

Bản, hoá chất của hãng Backman Coulter cung cấp, dựa trên nguyên lý miễn

dịch đo độ đục.

- Nguyên tắc: CRP trong huyết tương sẽ kết hợp với kháng CRP có sẵn

trong dung dịch của thuốc thử. Phức hợp kháng nguyên-kháng thể CRP làm

dung dịch thử trở nên đục. Độ đục này thay đổi tuỳ theo nồng độ hs-CRP có

trong mẫu huyết tương .

- Giới hạn phát hiện thấp nhất của xét nghiệm này là 0,1mg/l.

Để đánh giá nguy cơ Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (American Heart

Association - AHA) và CDC thống nhất chia hs-CRP thành 3 mức độ:

Bảng phân loại nguy cơ và nồng độ hs-CRP trung bình

(AHA/CDC-2003)

Nguy cơ Nồng độ hs- CRP

Thấp < 1mg/l

Trung bình 1-3mg/l

Cao >3mg/l

2.5.3. Sinh hóa máu

Sử dụng chung mẫu huyết tương dùng cho phản ứng định lượng hs-CRP

và đều được thực hiện trên máy xét nghiệm sinh hóa tự động AU5800.

* Glucose huyết

- Phương pháp: định lượng bằng phương pháp hexokinase trên máy sinh

hóa AU5800 - Hãng Olympus của Nhật Bản. Đơn vị tính là mmol/l.

- Đánh giá glucose huyết: dựa vào tiêu chuẩn của ADA 2011[43].

* HbA1c

Định lượng theo phương pháp sắc ký trao đổi ion bằng máy AU640 –

Hãng Olympus của Nhật Bản tại khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung ương Thái

Nguyên. Đơn vị tính là %. Đánh giá HbA1c: dựa vào tiêu chuẩn của ADA

2011 [43].

Bình thường HbA1c chiếm 4-6% trong toàn bộ hemoglobin. Khi HbA1c

tăng trên bình thường 1% tương ứng với giá trị glucose huyết tăng lên

30mg/dl hay 1,7 mmol/l.

Bảng 2.2. Mục tiêu điều trị đái tháo đường týp 2 theo Hướng dẫn chẩn

đoán và điều trị bệnh nội tiết - chuyển hóa của Bộ Y tế năm 2015 [31]

Chỉ số Đơn vị Tốt Chấp nhận Kém

Glucose huyết mmol/l

- Lúc đói 4,4 – 6,1 ≤ 6,5 >7,0

- Sau ăn 4,4 – 7,8 7,7 ≤ 9,0 >9,0

HbA1c % ≤ 7,0 > 7,0 đến ≤ 7,5 > 7,5

CT toàn phần mmol/l < 4,5 4,5 đến ≤5,2 ≥ 5,3

TG mmol/l 1,5 ≤ 2,3 > 2,3

HDL-C mmol/l > 1,1 ≥ 0,9 < 0,9

* Định lượng các thành phần lipid máu [31]:

LDL-C mmol/l < 1,7 ≤ 2,0 ≥ 3,4

- Cholesterol toàn phần (CT): định luợng bằng phương pháp dùng enzym

so màu, đơn vị tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường CT<5,2 mmol/l. Nếu

CT ≥ 5,2 mmol/l: tăng

- Triglycerid (TG): định lượng bằng phương pháp enzym so màu, đơn vị

tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường TG<1,7 mmol/l. Nếu ≥ 1,7 mmol/l:

tăng.

- Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C): định lượng bằng phương pháp miễn

dịch đo độ đục, đơn vị tính là mmol/l. Đánh giá: bình thường HDL-C >1,0

mmol/l. Nếu HDL-C ≤1,0 mmol/l: giảm.

- Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C): định lượng bằng phương pháp

miễn dịch đo độ đục, đơn vị tính là mmol/l hoặc mg/l. Đánh giá: bình thường

LDL-C<2,6 mmol/l. Nếu LDL-C ≥ 2,6 mmol/l: tăng.

Bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa lipid khi có bất thường một hoặc

nhiều trong các chỉ số trên.

2.5.4. Siêu âm động mạch cảnh

* Phương tiện khảo sát và chuẩn bị bệnh nhân

- Dụng cụ: máy siêu Doppler màu Philip HD. Đầu dò tần số 7,5 MHz tại

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

- Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa ở tư thế dễ chịu nhất, đặt gối dày khoảng

10cm dưới bả vai, đầu ngửa ra sau và thở đều, bộc lộ rộng rãi vùng khảo sát

để tiến hành siêu âm được thuận lợi.Trong quá trình khám nghiệm, đầu có thể

xoay sang phải hay trái để có được vị trí thăm dò thuận lợi nhất.

- Tư thế người khám: ngồi bên phải bệnh nhân vừa quan sát được vị trí

ĐM khảo sát, vừa thấy được màn hình siêu âm để điều chỉnh cho hình ảnh tối

ưu nhất [28].

* Vị trí khảo sát và kỹ thuật khảo sát

- Cách tiến hành siêu âm: bôi gel tiếp xúc rồi bắt đầu từ máng cảnh đặt

đầu dò ở vùng máng cổ và tiến hành bằng cắt mặt ngang xuyên trục ĐMC, sau

đó xoay tròn 90o quanh trục và đi dọc theo hướng trục đi của ĐMC để khảo sát sự

hiện diện mảng xơ ở ĐMC chung, ĐMC trong và ngoài đo IMT của thành ĐMC

chung trước chỗ chia đôi 10 mm. Đơn vị tính bằng mm [53], [63].

- Siêu âm cho thấy ba lớp cấu trúc của thành động mạch bình thường:

lớp nội mạc và áo ngoài tạo ra 2 đường hồi âm, chen giữa là lớp trung mạc

không hồi âm. Trên siêu âm có thể thấy đường trong cùng tương đối rõ là lớp

nội mạc, đường đen kế tiếp là lớp trung mạc và đường trắng ngoài cùng là lớp

áo ngoài của động mạch [53].

- Mặt cắt chuẩn là mặt cắt thấy rõ đường tăng âm của nội mạc ở cả phía

gần lẫn phía xa. IMT động mạch cảnh chung thấy được trên siêu âm là đường

kép ở hai phía của lòng động mạch cảnh chung trên mặt cắt dọc, được tạo bởi

hai đường song song của lớp nội mạc và mặt phân cách giữa hai lớp ngoại -

trung mạc. IMT được tính từ bắt đầu của lớp nội mạc ở phía trong lòng mạch

ngang qua vùng giảm hồi âm đến ranh giới của lớp ngoại - trung mạc.

- Đo khoảng cách từ điểm trên bề mặt lớp nội mạc ở phía lòng mạch

thẳng góc tương xứng đến điểm nằm trên ranh giới lớp ngoại - trung mạc. Đo

IMT tại vị trí thấy được đường kép và không có mảng vữa, đo ít nhất 3 lần

khác nhau ở vị trí khảo sát, lấy trung bình cộng bề dày lớp IMT [28], [53].

Hình 2.4. và 2.5. Siêu âm đo bề dày lớp áo trong - áo giữa (IMT)

bình thường (trái) và dày lên (phải) [53].

- Đo bề dày mảng xơ vữa tương tự đo IMT tại nơi dày nhất của từng vị

trí: động mạch cảnh chung, chỗ chia đôi, động mạch cảnh trong.

- Kết quả: IMT động mạch cảnh chung được đo ở cả hai bên phải và trái,

từ đó tính giá trị IMT trung bình, đơn vị tính là mm.

* Đánh giá hình ảnh tổn thương động mạch cảnh

- Động mạch cảnh bình thường

Hình ảnh ĐM bình thường: dùng mặt cắt dọc và ngang

+ Mặt cắt dọc: ĐM xuất hiện như một dải vang âm trắng, tăng sáng ở

phía sau, có giới hạn hai đường viền đều đặn, đồng nhất song song.

+ Mặt cắt ngang: ĐM xuất hiện như một vòng truyền âm, tăng sáng ở

thành sau chu vi phân ranh giới bởi thành ĐM [53].

Hình 2.6. Xác định vị trí mảng xơ vữa và vị trí đo IMT

1: mảng vữa dày>1,5 mm,

2: nhô vào lòng mạch>0,5 mm,

3 và 4: dày hơn 50% IMT xung quanh [53]

- Bề dày lớp áo trong - áo giữa của động mạch cảnh

Đánh giá IMT dựa theo Hội tim mạch và huyết áp châu Âu 2007: IMT

tăng khi IMT ≥ 0,9 mm [47].

- Mảng xơ vữa: mảng xơ vữa được xác định là mảng lồi vào lòng mạch ít

nhất 0,5 mm hoặc 50% so với IMT xung quanh hay những chỗ nội mạc dày ít

nhất 1,5 mm đo từ lớp ngoại trung mạc đến lớp nội mạc [53].

- Đo đường kính tâm thu (D) và đường kính tâm trương (d) tại ĐMC

gốc, ĐMC trong, ĐMC ngoài tại vị trí cách chỗ chia đôi của ĐMC gốc 1cm.

2.6. Phương phá p xử lý số liê ̣u

Số liệu nghiên cứu được xử lý theo phương pháp thống kê y học, sử

dụng phần mềm EPI - info 6.04 và SPSS 16.0, test “t”.

- Kết quả được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ hoặc đồ thị.

- Các biến định tính được trình bày dưới dạng tỉ lệ %, biến định lượng

được trình bày dưới dạng TB ± độ lệch chuẩn ( ± SD).

- Dùng các test trong thống kê để kiểm định và so sánh, dùng hệ số

tương quan “r” để biểu thị mối tương quan về kết quả đo giữa các phương

pháp:

+ r>0 là tương quan thuận và r<0 là tương quan nghịch.

+ r  0,75: tương quan rất chặt.

+ 0,5  r  0,75: tương quan chặt.

+ 0,25  r  0,5: tương quan tương đối chặt.

+ r < 0,25: không có tương quan.

2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu

- Bệnh nhân tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và có quyền rút khỏi

nghiên cứu bất cứ lúc nào.

- Nghiên cứu có phản hồi kết quả

- Thông tin của người bệnh được, tôn trọng, giữ bí mật, thông cảm và

chia sẻ với bệnh nhân.

- Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bệnh

nhân và cộng đồng, không nhằm mục đích nào khác.

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)

67,8 ± 7,1, min=40, max=84 Tuổi trung bình (X ± SD)

≤ 60 12 10,9

Nhóm tuổi 61-70 56 50,9

> 70 42 38,2

Giới

57 51,8 Nam

53 48,2 Nữ

23,7 ± 2,7 BMI(kg/m2)

34 30,9 <23

76 69,1 ≥ 23

6,2 ± 3,1 Thời gian phát hiện bệnh (năm)

41 37,3 ≤ 5 năm

69 62,7 > 5 năm

110 100 n

Nhận xét:

- Tuổi trung bình các bệnh nhân nghiên cứu là 67,8 ± 7,1, người cao tuổi

nhất là 84 tuổi, ít tuổi nhất là 40 tuổi.

- Nhóm tuổi 61-70 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 50,9%, nhóm >70 tuổi

chiếm 38,2% còn lại là nhóm tuổi ≤ 60 tuổi chiếm tỷ lệ 10,9%.

- Giới nam và nữ chiếm tỷ lệ tương đương nhau.

- Chỉ số BMI trung bình của bệnh nhân cứu là 23,8 ± 3,0. Nhóm nghiên

cứu có chỉ số BMI ≥ 23 (69,1%) cao hơn nhóm có chỉ số BMI < 23 (30,9%).

- Số năm mắc bệnh trung bình là 6,2 ± 3,1. Đối tượng nghiên cứu có thời

gian phát hiện bệnh trên 5 năm chiếm 62,7%.

Bảng 3.2. Kết quả chỉ số lipid máu của các đối tượng nghiên cứu

Chỉ số Số lượng Tỷ lệ (%)

70 63,6 Bình thường

40 36,4 Tăng Cholesterol (mmol/l)

5,0 ± 1,2 Trung bình

62 56,4 Bình thường

48 43,6 Tăng Triglycerid (mmol/l)

3,4 ± 1,7 Trung bình

105 95,5 Bình thường

5 4,5 Giảm HDL-C (mmol/l)

1,3 ± 0,3 Trung bình

55 50,0 Bình thường

55 50,0 Tăng LDL-C (mmol/l)

3,2 ± 0,7 Trung bình

22 20,0 Bình thường Lipid chung 88 80,0 Rối loạn

Nhận xét:

Tỷ lệ bệnh nhân rối loạn lipid chung là 80%. Trong đó tỷ lệ tăng

cholesterol là 63,6%, tăng triglycerid là 56,4%, giảm HDL-C là 4,5%, tăng

LDL-C là 50%.

Bảng 3.3. Kết quả kiểm soát glucose huyết và HbA1c của các đối tượng

nghiên cứu

Đặc điểm chung Tỷ lệ (% ) n

68 Kém 61,8

16 Chấp nhận được 14,6 Glucose 26 Tốt 23,6

Trung bình 7,8 ± 2,3

59 Kém 53,6

12 Chấp nhận được 10,9 HbA1c 39 Tốt 35,5

Trung bình 8,1 ± 1,8

Nhận xét: Nồng độ trung bình glucose huyết là 7,8 ± 2,3mmol/L; nồng

độ trung bình HbA1c là 8,1 ± 1,8mmol/L

Tỷ lệ bệnh nhân kiểm soát glucose huyết kém là 61,8% và tỷ lệ bệnh

nhân có kết quả điều trị kém là 53,6%.

3.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương động mạch

cảnh đoạn ngoài sọ

3.2.1. Nồng độ hs-CRP huyết tương

Bảng 3.4. Nồng độ hs-CRP của các đối tượng nghiên cứu

hs-CRP (mg/l) n Tỷ lệ (% )

≥ 1 68 61,8

<1 42 38,2

Trung bình 2,8 ± 1,7

Nhận xét: Giá trị hs-CRP trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, tỷ lệ nhóm có hs-

CRP ≥ 1 mg/l là 61,8%.

Bảng 3.5. Kết quả phân độ hs-CRP ở đối tượng nghiên cứu

hs-CRP (mg/l) n Tỷ lệ %

<1 42 38,2

1-3 14 12,7

> 3 54 49,1

Tổng 110 100

Nhận xét:

Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP >3mg/l chiếm tỷ lệ cao nhất (49,1%). Tỷ

lệ có nồng độ hs-CRP <1mg/l là (38,2%). Số bệnh nhân có nồng độ hs-CRP

1-3mg/l chiếm tỷ lệ thấp nhất (12,7%).

Bảng 3.6. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo nhóm tuổi

hs-CRP (mg/l) n X ± SD

Nhóm tuổi

≤ 60 12 2,3 ± 1,6

61-70 56 2,9 ± 1,7

>70 42 2,7 ± 1,7

p >0,05

Nhận xét:

Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân ≤ 60 tuổi trung bình là 2,3 ± 1,62, ở

nhóm bệnh nhân 61-70 tuổi có nồng độ hs-CRP cao nhất là 2,9 ± 1,7, nhóm

>70 tuổi nồng độ hs-CRP trung bình là 2,7 ± 1,7. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p>0,05.

Bảng 3.7. Nồng độ trung bình hs-CRP huyết tương theo giới

hs-CRP (mg/l) n X ± SD

Giới

Nam 57 2,8 ± 1,7

Nữ 53 2,6 ± 1,7

p (test t) >0,05

Nhận xét:

Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân nam trung bình là 2,8 ± 1,7, nồng

độ hs-CRP ở bệnh nữ trung bình là 2,6 ± 1,7. Sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (p>0,05).

Bảng 3.8. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI

≥ 23 <23 p BMI(kg/m2)

hs-CRP (mg/l) n % n %

≥ 1 49 64,5 19 55,9

>0,05 <1 27 35,5 15 44,1

>0,05 Trung bình 2,8 ± 1,6 2,7 ± 1,8

Nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân có BMI < 23 là 2,8 ± 1,6

Nhận xét:

và ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 2,7 ± 1,8. Sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê với p>0,05.

Bảng 3.9. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo thời gian phát

hiện bệnh

Thời gian ≤ 5 năm > 5 năm p

hs-CRP (mg/l) n % n %

≥ 1 18 43,9 50 72,5

<0,05 <1 23 56,1 19 27,5

Trung bình 2,2 ± 1,6 3,1 ± 1,6 <0,05

Nhận xét: Ở nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm nồng

độ hs-CRP trung bình là 2,2 ± 1,6 và ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh

> 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là 3,1 ± 1,6. Sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê (p<0,05).

Bảng 3.10. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo sự kiểm soát

glucose huyết

Glucose huyết Tốt p Kém Chấp nhận

hs-CRP (mg/l) n % n % n %

51 75 10 62,6 7 26,9 ≥1 <0,05 17 25 6 37,5 19 73,1 <1

Trung bình 3,1 ± 1,6 2,4 ± 1,4 1,9 ± 1,7 <0,05

Nhận xét: Nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm soát

glucose huyết kém là 3,1 ± 1,6, ở bệnh nhân kiểm soát chấp nhận được là 2,4

± 1,4 và nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt là 1,9 ±

1,7. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

25

20

y = 0.833x + 5.462 r = 0.606

15

Glu co

10

E S O C U L G

5

0

4

0

2

6

8

hs-CRP

Biểu đồ 3.1. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số glucose

Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP

16

14

y = 0.570x + 6.497 r = 0.521

12

10

8

HbA1 C

huyết tương và chỉ số glucose huyết với r = 0,606; p<0,05.

C 1 A b H

6

4

2

0

0

2

4

6

8

hs-CRP

Biểu đồ 3.2. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số HbA1c

Nhận xét :

Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và

chỉ số HbA1c theo phương trình tương quan:

y = 0,570x + 6,497; với r = 0,521; p<0,05.

Bảng 3.11. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo chỉ số phân loại

HbA1c

HbA1c Kém Chấp nhận Tốt p hs-CRP (mg/l) n % n % n %

47 79,7 7 58,3 14 35,9 ≥1 <0,05 12 20,3 5 41,7 25 64,1 <1

Trung bình 3,3 ± 1,5 2,8 ± 1,8 1,8 ± 1,4 <0,05

Nhận xét:

Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân kiểm soát chỉ số HbA1c

kém, chấp nhận được, tốt lần lượt là: 3,3 ± 1,5; 2,8 ± 1,8; 1,8 ± 1,4. Sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Bảng 3.12. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu

Không rối loạn Lipid máu Có rối loạn p hs-CRP (mg/l) % % n n

≥ 1 60 68,2 8 36,4

<0,05 <1 28 31,8 14 63,6

Trung bình 3,0 ± 1,6 2,0 ± 1,6 <0,05

Nhận xét:

Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lipip máu và

nhóm không có rối loạn lipip máu trung bình là; 3,0 ± 1,6; 2,0 ± 1,6. Sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.2.2. Đặc điểm hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ

Bảng 3.13. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh

Vị trí động mạch Lớn nhất Nhỏ nhất X ± SD

IMT (mm) 0,5 1,0 ± 0,3 1,6 ĐMC gốc D (mm) 6,0 7,6 ± 0,6 9,4 (n=110) d (mm) 5,4 7,1 ± 0,6 8,8

IMT(mm) 0,5 0,9 ± 0,2 1,4 ĐMC ngoài D (mm) 3,4 5,5 ± 0,6 6,8 (n=110) d (mm) 3,0 4,9 ± 0,6 6,0

IMT (mm) 0,5 0,9 ± 0,2 1,6 ĐMC trong D (mm) 5,0 6,7 ± 0,6 7,9 (n=110) d (mm) 4,4 6,1 ± 0,6 7,2

IMT: Độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh

D: Đường kính tâm thu động mạch cảnh

d: Đường kính tâm trương động mạch cảnh

Nhận xét:

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc là 1,0 ± 0,3mm, động mạch cảnh

ngoài là 0,9 ± 0,2mm, động mạch cảnh trong là 0,9 ± 0,2 mm.

Bảng 3.14. Đặc điểm IMT động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu

n IMT (mm) Tỷ lệ %

79 ≥ 0,9 71,8

31 <0,9 28,2

0,91 ± 0,22 100 IMT ( ± SD)

Nhận xét:

Độ dày IMT ĐMC trung bình là 0,91 ± 0,22, trong đó số đối tượng có

tăng IMT chiếm tỷ lệ cao 71,8%.

Bảng 3.15. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo nhóm tuổi

≤ 60 Nhóm tuổi 61-70 >70 p Vị trí động mạch X ± SD X ± SD X ± SD

IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐMC gốc D (mm) 7,7 ± 0,5 7,7 ± 0,7 7,7 ± ,05 >0,05 (n=110) d (mm) 7,2 ± 0,5 7,1 ± 0,7 7,2 ± 0,5 >0,05

IMT (mm) 0,9 ± 0,3 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC ngoài D (mm) 5,7 ± 0,4 5,4 ± ,07 5,5 ± 0,7 >0,05 (n=110) d (mm) 5,1 ± 0,5 4,9 ± 0,7 4,9 ± 0,7 >0,05

IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,9 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐMC trong D (mm) 6,9 ± 0,5 6,6 ± 0,6 6,7+0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,4 ± 0,6 6,0 ± 0,6 6,0 ± 0,6 >0,05

Nhận xét: Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70

tuổi, >70 tuổi lần lượt là: 1,0 ± 0,3mm,1,0 ± 0,3mm, 1,0 ± 0,3mm. Sự khác

biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70 tuổi,

>70 tuổi lần lượt là: 0,9 ± 0,3mm; 0,9 ± 0,2mm; 0,8 ± 0,2mm. Sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi, 61-70 tuổi,

>70 tuổi lần lượt là: 0,9 ± 0,2mm; 0,9 ± 0,2mm; 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Bảng 3.16. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo giới

Giới Nam Nữ p Vị trí động mạch X ± SD X ± SD

IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐMC gốc D (mm) 7,8 ± 0,6 7,5 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 7,3 ± 0,6 7,0 ± 0,6 >0,05

IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC ngoài D (mm) 5,7 ± 0,6 5,3 ± 0,7 >0,05 (n=110) d (mm) 5,0 ± 0,6 4,7 ± 0,6 >0,05

IMT (mm) 0,9 ± 0,2 0,8 ± 0,2 >0,05 ĐMC trong D (mm) 6,8 ± 0,6 6,5 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,2 ± 0,6 5,9 ± 0,6 >0,05

Nhận xét: Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân nam là 1,0

± 0,3mm, ở bệnh nhân nữ là 1,0 ± 0,3mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân nam là 0,9 ± 0,2mm, ở

bệnh nhân nữ là 0,8 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với

p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân nam là 0,9 ±

0,2mm, ở bệnh nhân nữ là 0,8 ± 0,2 mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống

kê với p>0,05.

Đường kính tâm trương, đường kính tâm thu của động mạch cảnh gốc,

động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài giữa hai giới không có sự khác

biệt với p>0,05.

Bảng 3.17. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh theo BMI

BMI(kg/m2) < 23 ≥ 23 p

Vị trí động mạch X ± SD X ± SD

IMT (mm) 1,0 ± 0,3 1,0 ± 0,3 >0,05 ĐM cảnh gốc 7,7 ± 0,5 7,6 ± 0,6 >0,05 D (mm) (n=110) 7,2 ± 0,6 7,1 ± 0,6 >0,05 d (mm)

IMT (mm) 0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐM cảnh ngoài 5,5 ± 0,6 5,4 ± 0,7 >0,05 D (mm) (n=110) 4,9 ± 0,6 4,8 ± 0,7 >0,05 d (mm)

IMT (mm) 0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 >0,05 ĐM cảnh trong D (mm) 6,7 ± 0,5 6,6 ± 0,6 >0,05 (n=110) d (mm) 6,1 ± 0,6 6,0 ± 0,6 >0,05

Nhận xét:

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có BMI < 23 là 1,0 ±

0,3mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 1,0 ± 0,3mm. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có BMI < 23 là

0,8 ± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không

có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8

± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p>0,05.

Đường kính tâm trương, đường kính tâm thu của động mạch cảnh gốc,

động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài giữa nhóm có BMI ≥ 23 và

nhóm có BMI < 23 không có sự khác biệt với p>0,05.

Bảng 3.18. Độ dầy lớp nội trung mạc động mạch cảnh theo thời gian phát

hiện bệnh

Thời gian ≤ 5 năm > 5 năm p IMT X ± SD X ± SD

0,9 ± 0,3 1,1 ± 0,3 <0,05 IMT gốc (n=110)

0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 <0,05 IMT trong (n=110)

0,8 ± 0,2 0,9 ± 0,2 <0,05 IMT ngoài (n=110)

Nhận xét:

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có thời gian phát hiện

bệnh ≤ 5 năm là 0,9 ± 0,3mm và > 5 năm là 1,1 ± 0,3mm. Sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p<0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có thời gian phát

hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,8 ± 0,2mm và > 5 năm là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có thời gian phát

hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,8 ± 0,mm và > 5 năm là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Bảng 3.19. Tỷ lệ mảng xơ vữa động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu

Có Mảng xơ vữa Không Tổng cộng

67 N 43 110

60,9 Tỷ lệ (%) 39,1 100

Nhận xét: Số bệnh nhân có mảng xơ vữa động mạch cảnh cao chiếm tỷ

lệ (60,9%) so với số bệnh nhân không có mảng xơ vữa (39,1%).

Bảng 3.20. Số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh theo vị trí của đối

tượng nghiên cứu

Tổng MXV Phải Trái Tổng cộng Tỷ lệ (%)

ĐM cảnh gốc 50 45 95 61,3

ĐM cảnh ngoài 1 3 4 2,6

ĐM cảnh trong 28 28 56 36,1

Tổng cộng 79(51%) 76(49%) 155 100

Nhận xét:

Mảng xơ vữa ở vị trí động mạch cảnh gốc chiếm tỷ lệ cao nhất (61,3%),

ở động mạch cảnh trong chiếm tỷ lệ (36,1%).

Vị trí mảng xơ vữa ở bên động mạch cảnh phải và động mạch cảnh trái

tương đương nhau là 79% và 76%.

Bảng 3.21. Số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh của đối tượng

nghiên cứu

n Tỷ lệ (%) Mảng xơ vữa

Một 25 37,3

Số lượng Nhiều 42 62,7

Nhận xét:

Số lượng bệnh nhân có nhiều mảng xơ vữa là 42 chiếm tỷ lệ 62,7% cao

hơn số bệnh nhân có một mảng xơ vữa là 25 (37,3%).

3.3. Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn

thương ĐMC đoạn ngoài sọ

Bảng 3.22. So sánh đặc điểm hình thái động mạch cảnh giữa nhóm có

tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP

≥ 1 < 1 Phân độ hs-CRP (mg/l) p Vị trí ĐMC X ± SD X ± SD

IMT (mm) 1,2 ± 0,2 0,7 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh gốc 7,7 ± 0,6 D (mm) 7,7 ± 0,6 >0,05 (n=110) 7,2 ± 0,6 d (mm) 7,2 ± 0,6 >0,05

IMT (mm) 1,0 ± 0,2 0,6 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh ngoài 5,5 ± 0,6 D (mm) 5,2 ± 0,6 >0,05 (n=110) 4,9 ± 0,6 d (mm) 4,6 ± 0,6 >0,05

IMT (mm) 1,0 ± 0,1 0,6 ± 0,1 <0,05 ĐM cảnh trong 6,7 ± 0,6 D (mm) 6,7 ± 0,6 >0,05 (n=110) 6,1 ± 0,6 d (mm) 6,0 ± 0,6 >0,05

Nhận xét:

Ở nhóm có tăng hs-CRP bề dày trung bình lớp IMT động mạch cảnh

gốc, trong, ngoài là 1,2 ± 0,2; 1,0 ± 0,1; 1,0 ± 0,2, lớn hơn nhóm không tăng

hs-CRP (p<0,05).

Không có sự khác biệt về đường kính tâm thu và đường kính tâm trương

của ĐMC gốc, ĐMC trong, ĐMC ngoài giữa nhóm tăng nồng độ hs-CRP và

không tăng nồng độ hs-CRP (p>0,05).

Bảng 3.23. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với mảng xơ vữa

động mạch cảnh

Mảng xơ vữa ĐM p n hs-CRP (mg/l)

67 3,4 ± 1,7 Có

<0,05 43 1,8 ± 1,0 Không

Nhận xét: Bệnh nhân có mảng xơ vữa có nồng độ hs-CRP trung bình

3,4 ± 1,7 cao hơn nồng độ hs-CRP của nhóm không có mảng xơ vữa 1,8 ±

1,0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Bảng 3.24. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP với độ dày lớp nội trung mạc

IMT

IMT bình thường IMT tăng (n=79) (n=31) p

hs-CRP (mg/l) n % n %

68 86,1 10 32,3 ≥ 1

<0,05 11 13,9 21 67,7 <1

79 100 31 100 Tổng

Nhận xét: Nhóm có tăng hs-CRP tỷ lệ có tăng độ dày IMT chiếm 86,1%, ở

nhóm không tăng tỷ lệ bệnh nhân dày IMT chỉ chiếm 32,3%. Sự khác biệt có

83.7%

90

80

70

52.2%

47.8%

60

Một MXN

50

Nhiều MXV

40

30

16.3%

20

10

0

ý nghĩa thống kê ới p<0,05.

hs-CRP tăng

hs-CRP bình thường

Biểu đồ 3.3. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với số lượng

mảng vữa xơ động mạch cảnh (n=67)

Nhận xét:

Tỷ lệ bệnh nhân có nhiều mảng vữa xơ ở nhóm tăng nồng độ hs-CRP

huyết tương (83,7%) cao hơn ở nhóm không tăng nồng độ hs-CRP huyết

tương (16,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Bảng 3.25. Liên quan giữa nhóm có tăng hs-CRP và không tăng hs-CRP

với số lượng mảng xơ vữa

Số lượng MVX

Không P Có MVX Tổng MVX

hs-CRP (mg/l) n % % n % n

19 27,9 49 72,1 42 100 ≥ 1

<0,05 24 57,1 18 42,9 68 100 <1

43 39,1 67 60,9 110 100 Tổng

Nhận xét: Ở nhóm hs-CRP tăng tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 72,1%. Ở

nhóm hs-CRP bình thường tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 42,9%. Sự khác

18

y = 0.646x - 0.370 r = 0.533

16

14

12

biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

a ữ v ơ x

10

8

Tong MXV

6

g n ả m g n ổ T

4

2

0

0

1

2

3

4

5

6

7 hs-CRP

Biểu đồ 3.4. Tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với số lượng

mảng xơ vữa

Nhận xét: Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-

CRP huyết tương và số lượng mảng xơ vữa động mạch cảnh với r = 0,533.

2.00

1.80

y = 0.152x + 0.617 r = 0.753

1.60

1.40

IMT ĐMC …

1.20 P R 1.00 C - s 0.80 h

0.60

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC gốc trái

Biểu đồ 3.5. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh gốc trái

Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP

huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc trái với: r = 0,753;

1.80

1.60

y = 0.140x + 0.608 r = 0.710

1.40

IMT ĐMC …

p<0,05.

1.20 P 1.00 R C 0.80 - s h 0.60

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC gốc phải

Biểu đồ 3.6. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh gốc phải

Nhận xét: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP

huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc phải theo phương trình

1.60

1.40

y = 0.095x + 0.568 r = 0.726

1.20

IMT ĐMC …

tương quan: y = 0,140x + 0,608 với r = 0,710; p<0,05.

1.00 P R 0.80 C - s h 0.60

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC ngoài phải

Biểu đồ 3.7. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh ngoài phải

Nhận xét:

Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương

và độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài với r = 0,726.

1.60

y = 0.092x + 0.627 r =0.683

1.40

1.20

1.00

0.80

P R C - s h

0.60

IMT ĐMC…

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC ngoài trái

Biểu đồ 3.8. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh ngoài trái

Nhận xét: Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-

1.60

1.40

y = 0.104x + 0.558 r =0.718

1.20

IMT …

CRP huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài trái (r =0,683).

1.00 P R 0.80 C - s h 0.60

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC trong phải

Biểu đồ 3.9. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh trong phải

Nhận xét:

Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương và

độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong phải theo phương trình tương quan:

1.60

1.40

y = 0.095x + 0.568 r =0.610

1.20

1.00

0.80

với y = 0,104x + 0,558; r =0,718; p<0,05.

P R C - s h

0.60

IMT ĐMC…

0.40

0.20

-

-

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

IMT ĐMC trong trái

Biểu đồ 3.10. Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với độ

dày nội trung mạc động mạch cảnh trong trái

Nhận xét:

Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-CRP huyết

tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong trái theo phương trình tương

quan: với y = 0,081x + 0,659; r =0,610; p<0,05.

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu

* Đặc điểm tuổi và giới của nhóm đối tượng nghiên cứu

Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung bình của đối tượng nghiên

cứu là 67,8 ± 7,1, tuổi thấp nhất là 40 tuổi và tuổi cao nhất 84 tuổi. Bệnh hay

gặp ở độ tuổi 61-70 tuổi.

Kết quả này cũng tương tự như kết quả của Đinh Hiếu Nhân nghiên cứu

trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân là 61 ±

11,86 tuổi [27]. Nghiên cứu của Hồ Hữu Hóa trên 116 bệnh nhân ĐTĐ týp 2

thấy rằng tuổi trung bình là 60,3 ± 9,7 tuổi cao nhất là 83 tuổi và thấp nhất là

40 tuổi [12]. Võ Xuân Sang nghiên cứu trên 125 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thì

tuổi trung bình là 60,6 ± 9,9 tuổi [29]. Trần Thị Trúc Linh trên 116 bệnh nhân

đái tháo đường có tuổi trung bình 65,6 ± 9,90 [21], Nguyễn Thị Ngọc Lan,

Trương Mạnh Hà thực hiện tại bệnh viện A Thái Nguyên với tuổi trung bình

là 59,62  11,50 và 61,1 ± 10,3 [19], [10].

Nghiên cứu của Nguyễn Kim Lương và cộng sự (2009) tại bệnh viện C

Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ nữ là 52,5%, nam là 47,5% [23]. Theo nghiên cứu

của Hồ Hữu Hóa năm 2009 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

tỷ lệ nam là 53,4%, nữ giới là 46,6% [12]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc

Lan năm 2011 tại bệnh viện A Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ mắc ĐTĐ ở nam

và ở nữ là bằng nhau 50% [19]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Hải

tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2012 cho tỷ lệ nam là 49,7%, nữ

là 50,3% [11].

Đặc điểm về tuổi và giới trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với

phần lớn các nghiên cứu trong nước và ngoài nước tiến hành trên nhóm đối

tượng ĐTĐ týp 2.

* Chỉ số BMI của đối tượng nghiên cứu

Chỉ số khối cơ thể trung bình của 110 bệnh nhân trong nghiên cứu

của chúng tôi là 23,8 ± 3,0; số bệnh nhân nằm trong nhóm thừa cân, béo

phì (BMI>23) chiếm tỷ lệ cao chiếm 69,1%. Kết quả trong nghiên cứu

này của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trong nước tiến hành trên

bệnh nhân ĐTĐ týp 2 [33], [34].

Nghiên cứu của một số tác giả Châu á cũng cho kết quả tương tự như

nghiên cứu của nhóm tác giả Anubha Mahajan, Rubina Tabassum khi

nghiên cứu trên 1410 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tại Ấn Độ [59] cho kết quả

BMI trung bình của nhóm nghiên cứu là 24 ± 3,41 và >60% số đối tượng

nghiên cứu có BMI>23. Tương tự trong nghiên cứu của các tác giả Trung

Quốc khi nghiên cứu hs-CRP trên 225 người ĐTĐ týp 2 cũng cho kết quả

BMI trung bình 25,7 ± 3,4 và 65 % ĐTNC có BMI>23% [54].

* Theo thời gian phát hiện bệnh của đối tượng nghiên cứu

Trong nghiên cứu của chúng tôi số năm mắc bệnh trung bình là 5,9 ±

2,7. Thời gian phát hiện bệnh > 5 năm chiếm tỷ lệ là 62,7%. Kết quả trên cho

thấy tỷ lệ bệnh ĐTĐ týp 2 gia tăng theo thời gian phát hiện bệnh. Các tác giả

trong và ngoài nước sau có nhận xét tương tự chúng tôi.

Theo Nguyễn Thu Hương, khảo sát trên 299 bệnh nhân đái tháo đường

nhận thấy thời gian phát hiện bệnh từ 1-5 năm chiếm tỉ (34,4%), thời gian

phát hiện bệnh dưới 1 năm và 6-10 năm có tỉ lệ tương đương nhau (22,4% và

26,1%), số bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh trên 10 năm chiếm tỉ lệ thấp

nhất (17,1%). Tuổi càng cao, thời gian phát hiện bệnh càng dài thì tỉ lệ biến

chứng các cơ quan đích nói chung và biến chứng thận nói riêng càng gia tăng

[15].

Vũ Thị Thanh Huyền nghiên cứu trên 256 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thì

nhóm có thời gian phát hiện bệnh <5 năm là 26,3%, nhóm 5- 10 năm là 27%

và nhóm >10 năm là 46,7% [17].

Urooj Taheed Baluch và cộng sự nghiên cứu hs-CRP trên bệnh nhân

ĐTĐ týp 2 nhận thấy nhóm có thời gian phát hiện bệnh <5 năm chiếm 24,0%,

5-10 năm chiếm 27,7% và >10 năm chiếm 42,5% [46]

Có kết quả này là do trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân là người

cao tuổi chiếm đa số, độ tuổi này ít hoạt động thể lực nên dễ bị thừa cân béo

phì và đây là yếu tố nguy cơ dẫn đến ĐTĐ týp 2. Mặc khác do tuổi thọ của

người Việt Nam ngày nay tăng cao nên thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ týp 2

càng gia tăng.

* Lipid máu của các đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân rối loạn lipid chung là 80%.

Trong đó tỷ lệ tăng cholesterol là 36,4%, tăng triglycerid là 43,6%, giảm

HDL-C là 4,5%, tăng LDL-C là 50,0%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi

tương đương của Nguyễn Hoàng Hải năm 2012 cho thấy 76,7% bệnh nhân có

rối loạn một hoặc nhiều thành phần lipid máu [11]. Trong đó, rối loạn

cholesterol máu toàn phần 49,7%, tăng triglycerid 38,4%, tăng LDL-C 37,7%

và giảm HDL-C 11,9%. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cường, Nguyễn Thị

Huyền (2014) cho kết quả tỷ lệ rối loạn lipid máu là 79,5%, trong đó tăng

cholesterol máu toàn phần chiếm 55,4%, tăng triglycerid chiếm 49,1%, tăng

LDL-C chiếm 27,7% và giảm HDL-C chiếm 30,4% [3]. Theo nghiên cứu của

Bế Thu Hà, tỷ lệ bệnh nhân tăng cholesterol chiếm 49,7%, tăng triglycerid

38,4%, tăng LDL-C chiếm 37,7% và giảm HDL-C chiếm 11,9%, tỷ lệ bệnh

nhân rối loạn một thành phần lipid máu là 76,7%, chủ yếu tăng cholesterol

[7]. Cook C B, Erdman D M. nghiên cứu đái tháo đường ở người Mỹ gốc Phi

có 58,0% người bệnh tăng LDL-C, 26% người bệnh giảm HDL-C .

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thịnh cũng cho kết quả tương đối giống của

chúng tôi, thường gặp nhất là tăng đồng thời 2 chỉ số CT và TG, tiếp đến là

cặp chỉ số tăng TG và tăng LDL-C, tăng TG và giảm HDL-C. Nghiên cứu của

Trần Vĩnh Thủy (2007) tại Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ rối loạn cholesterol

tăng 88,8% ; triglycerid tăng 79,5% ; LDL-C 55,1% ; HDL-C 37,2% [34].

Qua nghiên cứu của tác giả trên ta thấy tỷ lệ rối loạn chuyển hóa các thành

phần lipid ở bệnh nhân ĐTĐ có tỷ lệ cao. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn

Kim Lương và cộng sự tại Bệnh viện C-Thái Nguyên (2009) cho thấy kết quả

tương tự như các tác giả trên [23]: cholesterol ở giới hạn bệnh lý là 67,2%;

triglycerid 59,0%; HDL-C 36,9%; LDL-C 52,5%. Nghiên cứu của Nguyễn

Thị Ngọc Lan năm 2011 với tổng số 180 bệnh nhân ĐTĐ điều trị ngoại trú tại

Bệnh viện A Thái Nguyên cũng có sự rối loạn thành phần lipid máu:

Cholesterol ở giới hạn bệnh lý (> 5,2 mmol/l) là 42,22% ; triglyceride >2,3

mmol/l là 76,67%; HDL-C ≤ 0,9 mmol/l là 2,22%; LDL-C >1,2 mmol/l bằng

38,89% [19]. Nhiều tác giả đã nhận xét, rối loạn chuyển hoá lipid máu trong

bệnh đái tháo đường thường rối loạn nhiều chỉ số với nhau. Vì vậy, phải đồng

thời định lượng nhiều chỉ số và theo dõi thường xuyên hoặc định kỳ để phát

hiện sớm những rối loạn lipid máu, dự phòng tốt hơn biến chứng bệnh đái

tháo đường.

* Kiểm soát glucose huyết và HbA1c của các đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi làm xét nghiệm Glucose huyết lúc đói và kết quả cho thấy

Glucose huyết lúc đói trung bình là 7,8 ± 2,3. Tỷ lệ bệnh nhân có mức

glucose huyết tốt là 21,6%; chấp nhận được là 14,6%; kém là 61,8%. Chính vì

vậy mà tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị ở mức tốt còn thấp (21,6%).

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan tỷ lệ bệnh nhân có mức

glucose huyết tốt là 14,4%; trung bình là 17,78%; kém là 67,78% [19].

Nghiên cứu trên 159 bệnh nhân, tác giả Nguyễn Hoàng Hải cho thấy kiểm

soát glucose huyết ở mức tốt chỉ có 23,9%, mức chấp nhận 21,4% và còn

54,7% ở mức kiểm soát kém [11]. Bệnh nhân có nghề nghiệp làm ruộng có

mức kiểm soát kém và chấp nhận cao nhất, chiếm tỷ lệ 40,8% [19]. Võ Bảo

Dũng nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định cho kết quả kiểm soát

glucose huyết lúc đói đạt mức tốt 7,6%, mức chấp nhận 17,7%, mức kém

74,7% [6]. Nghiên cứu của chúng tôi và một số nghiên cứu trên đều phù hợp

với kết luận về quản lý bệnh đái tháo đường trong nghiên cứu hợp tác giữa

Bệnh viện Nội tiết, Hà Nội và Bệnh viện Quốc gia Kyoto - Nhật Bản, đó là số

người bệnh kiểm soát glucose huyết ở mức kém và chấp nhận chiếm tỷ lệ cao.

Nghiên cứu UKPDS (United Kingdom Prospective Diabetes Study) đã kết

luận, việc kiểm soát glucose huyết chặt chẽ trên bệnh nhân đái tháo đường týp

2 bằng nhiều phương pháp điều trị làm giảm tỷ lệ tử vong và mức độ tàn phế

[51]. Do vậy, kiểm soát glucose huyết chặt chẽ quan trọng là càng đưa

glucose huyết về gần với giá trị bình thường bao nhiêu thì càng kiểm soát

được các biến chứng bấy nhiêu.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, qua chỉ số HbA1c cho thấy tỷ lệ bệnh

nhân chưa kiểm soát được glucose huyết chiếm tỷ lệ cao nhất 53,6%, tỷ lệ

kiểm soát glucose huyết chấp nhận được là 10,9%, tỷ lệ kiểm soát glucose

huyết tốt thấp (35,5%). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011) tỷ

lệ kiểm soát glucose huyết của đối tượng nghiên cứu ở mức độ tốt 29,44%;

mức độ trung bình đạt 40,56%; mức độ kém là 30% [19].

Vũ Xuân Nghĩa, Phạm Thắng nghiên cứu trên 58 bệnh nhân ĐTĐ mới

được phát hiện có nồng độ trung bình HbA1c là 7,9 ± 1,2% [26]. Theo

Nguyễn Duy cường tiến hành nghiên cứu trên 112 bênh nhân ĐTĐ cho thấy

tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ HbA1c >7,5% chiếm 68,7% [3], Nghiên cứu của

Lương Quỳnh Hoa (2013) giá trị HbA1c trung bình của các đối tượng nghiên

cứu cao (9,84 ± 1,72%) trên ngưỡng xác định kiểm soát glucose huyết kém

(>7,5%) [13].

Kết quả của chúng tôi là 8,1 ± 1,8. Nghiên cứu của các tác giả khác đều

có kết quả tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi.

Điều này cho thấy phần lớn bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu chưa đạt

được mục tiêu kiểm soát đường huyết. Nguyên nhân kiểm soát glucose huyết

kém có thể do sự hiểu biết của bệnh nhân hạn chế và tuân thủ chế độ điều trị

kém, quản lý bệnh nhân chưa tốt và điều kiện kinh tế còn hạn chế, phát hiện

bệnh muộn và đã có nhiều biến chứng.

4.2. Nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái tổn thương động mạch cảnh

đoạn ngoài sọ bằng siêu âm ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện

Trung ương Thái Nguyên

4.2.1. Nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Nồng độ hs-CRP huyết tương trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, nhóm bệnh

nhân tăng hs-CRP chiếm tỷ lệ 61,8%, cao hơn nhóm có hs-CRP <1 mg/l

(38,2%). Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP >3 mg/l chiếm tỷ lệ cao nhất

(49,1%). Nồng độ hs-CRP huyết tương trong nghiên cứu của chúng tôi

thấp hơn các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới [41]. Sự khác biệt

này có thể liên quan tới sự khác nhau về thời gian phát hiện bệnh, tình

trạng kiểm soát glucose huyết, HbA1c, các rối loạn mỡ máu.

* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo tuổi và giới

Khi so sánh nồng độ hs-CRP ở 3 nhóm tuổi: <60 tuổi, 61-70 tuổi và trên 70

tuổi chúng tôi thấy có sự khác biệt, ở nhóm bệnh nhân 61-70 tuổi có nồng độ hs-

CRP cao nhất là 2,9 ± 1,7 mg/l, nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi có nồng độ hs-

CRP thấp nhất là 2,3 ± 1,6 mg/l. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa

thống kê (p>0,05).

Nguyễn Văn Mùi nghiên cứu hs-CRP trên 89 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 kết

quả khác với nghiên cứu của chúng tôi về nồng độ hs-CRP huyết tương của

nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi là 3,29 ± 2,53 mg/l; cao hơn nồng độ hs-

CRP huyết tương của nhóm bệnh nhân 40-60 tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p<0.05. Nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân nam trung bình là

2,8 ± 1,7 mg/l, nồng độ hs-CRP ở bệnh nữ trung bình là 2,6 ± 1,7 mg/l. Sự

khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05 [24].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) trên 117 bệnh nhân ĐTĐ

týp 2 cho thấy nối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa CRP với tuổi và

giới [25]. Kết quả phù hợp với phần lớn các nghiên cứu trước đây tiến hành

trên người ĐTĐ týp 2 và trên cả người bình thường.

Các nghiên cứu về hs-CRP trên người khỏe mạnh đều cho kết quả không

có sự khác biệt về tuổi và giới tuy nhiên với người ĐTĐ thì yếu tố tuổi cao sẽ

song hành cùng các rối loạn và biến chứng khác của ĐTĐ nên có lẽ đó là

nguyên nhân nhóm > 60 tuổi có nồng độ hs-CRP cao hơn [24].

Điều này cũng có thể được lý giải là do rối loạn chuyển hoá ở bệnh nhân

đái tháo đường týp 2 đã tác động mạnh lên sự chuyển hoá hs-CRP, do đó ảnh

hưởng của giới lên nồng độ hs-CRP đã bị giảm đi rất nhiều.

* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo BMI

Chỉ số khối cơ thể trung bình của 110 bệnh nhân trong nghiên cứu

của chúng tôi là 23,7 ± 2,7; số bệnh nhân nằm trong nhóm thừa cân, béo

phì (BMI>23) chiếm tỷ lệ cao 76/110 chiếm 63,6%. Kết quả của chúng tôi

cũng cho thấy nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân có BMI ≥ 23 là

2,8 ± 1,6 mg/l cao hơn ở bệnh nhân có BMI < 23 là 2,7 ± 1,8 mg/l, sự khác

biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Võ Bảo Dũng nghiên cứu hs-CRP trên 45 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 nhận

thấy nhóm bệnh nhân có tăng BMI thì nồng độ hs-CRP cao hơn ở nhóm

không tăng BMI, và sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nghiên

cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) [25] trên 117 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 cho

thấy nối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa CRP với chỉ số BMI. Nhận

xét của tác giả tương đồng với kết quả nghiên cứu này. Kết quả trong nghiên

cứu của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trong nước tiến hành trên

bệnh nhân ĐTĐ týp 2.

* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo thời gian phát hiện bệnh.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện

bệnh ≤ 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là 2,2 ± 1,6 mg/l và nhóm bệnh

nhân có thời gian phát hiện bệnh > 5 năm có nồng độ hs-CRP trung bình là

3,1 ± 1,6 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của

Nguyễn Văn Mùi cho thấy: nồng độ hs-CRP huyết tương có tương quan thuận

chiều với thời gian phát hiện bệnh (r = 0,41, p<0,01) [12].

* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP theo kiểm soát đường huyết.

Giá trị glucose huyết là một trong những yếu tố chẩn đoán và đánh giá

mức độ kiểm soát glucose huyết của bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, nồng độ

glucose huyết lại bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan như: chế độ ăn,

khả năng tiết insulin và glucagon của tuỵ, mức độ chuyển hoá của gan…do

vậy không phản ánh chính xác tình trạng kiểm soát glucose huyết. Trong

nghiên cứu của chúng tôi nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm

soát glucose huyết kém là 3,1 ± 1,6 mg/l, ở bệnh nhân kiểm soát chấp nhận

được là 2,4 ± 1,4 mg/l và nồng độ hs-CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân kiểm

soát tốt là 1,9 ± 1,7 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết quả

nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Văn Mùi [24].

Chỉ số HbA1c là một xét nghiệm có giá trị hơn do HbA1c phản ánh tình

trạng glucose huyết bệnh nhân trong vòng 3 tháng trước đó. Như vậy việc

đánh giá chỉ số hs-CRP trong mối quan hệ với HbA1c sẽ có tính khách quan

hơn so với glucose huyết. Sự thay đổi nồng độ hs-CRP ở nhóm bệnh nhân

kiểm soát chỉ số HbA1c kém, chấp nhận được, tốt lần lượt là: 3,3 ± 1,5 mg/l;

2,8 ± 1,8 mg/l; 1,8 ± 1,4 mg/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Nghiên cứu Syed S. H. và cộng sự (2013) về liên quan giữa hs-CRP và

sự kiểm soát đường máu ở 103 người bị đái tháo đường týp 2 cũng cho Nồng

độ hs-CRP ở bệnh nhân kiểm soát glucose huyết kém cao hơn đáng kể so với

những người kiểm soát glucose huyết tốt [42].

* Sự thay đổi nồng độ hs-CRP huyết tương theo lipid máu

Rối loạn lipid máu rất thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường. Người mắc

bệnh đái tháo đường týp 2 có tỉ lệ rối loạn chuyển hoá lipid cao gấp 2-3 lần

người không mắc ĐTĐ. Các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều

có chung một nhận xét có thể gặp 70-100% bệnh nhân ĐTĐ có bất thường một

hoặc nhiều thành phần lipid. Đặc điểm nổi bật của bất thường lipid máu bệnh

nhân ĐTĐ týp 2 là tăng cholesterol toàn phần, tăng hàm lượng triglycerid, giảm

hàm lượng HDL-C, tăng tỉ số cholesterol toàn phần trên HDL-C [12].

Nghiên cứu trên 110 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chúng tôi nhận thấy tỉ

lệ bệnh nhân có rối loạn lipid máu rất cao (80%). Khi so sánh nồng độ hs-CRP

giữa các nhóm có và không có tăng lipid máu chúng tôi nhận thấy có sự

khác biệt có ý nghĩa về nồng độ hs-CRP huyết tương ở nhóm có rối loạn

lipid máu và nhóm bình thường.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với phần lớn nghiên cứu của

các tác giả trong và ngoài nước [24], [40].

4.2.2. Đặc điểm hình thái động mạch cảnh

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ dày lớp IMT động mạch

cảnh gốc là 1,0 ± 0,3 mm, động mạch cảnh ngoài là 0,9 ± 0,2 mm, động mạch

cảnh trong là 0,9 ± 0,52 mm.

Theo nghiên cứu của Châu Mỹ Chi (2016) trên 81 bệnh nhân ĐTĐ týp 2

cho thấy độ dày trung bình lớp IMT động mạch cảnh là 1,20 ± 0,35 mm [2].

Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011) khi khảo sát 102 bệnh nhân

đái tháo đường týp 2 có tuổi từ 40 trở lên ghi nhận IMT động mạch cảnh

chung là 1,35 ± 0,40 mm lớn hơn so với nhóm chứng (1,00 ± 0,42) có ý nghĩa

thống kê với p<0,05 [20], kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Hà (2015)

cho thấy độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc là 1,4 ± 0,6 mm, động mạch

cảnh ngoài là 0,8 ± 0,2 mm, động mạch cảnh trong là 0,8 ± 0,3 mm [10].

Trầm Thị Trúc Linh (2016) khảo sát của 116 bệnh nhân ĐTĐ có tăng

huyết áp ghi nhận IMT trung bình ĐMC bên phải 1,20 ± 0,68 mm và bên trái

dày là 1,33 ± 0,70 mm [21].

Trầm Lợi Trần Tiên (2012) khảo sát của 40 bệnh nhân ĐTĐ bị nhồi máu

não (71,57 ± 11,60 tuổi) và 50 bệnh nhân không ĐTĐ bị nhồi máu não (67,24

± 11,39 tuổi) ghi nhận IMT trung bình ĐMC bên phải và trái ở nhóm bệnh là

1,06 ± 0,28 mm và 1,03 ± 0,26 mm dày hơn nhóm chứng là 0,81 ± 0,19 mm

và 0,80 ± 0,19 mm [35].

Kết qủa nghiên cứu chúng tôi cũng tương đương với kết quả của các

nghiên cứu trên.

* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo độ tuổi và giới

Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ dày lớp trung nội mạc động mạch

cảnh gốc, động mạch cảnh ngoài, động mạch cảnh trong của bệnh nhân tăng dần

theo nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Hà (2015) cho thấy độ dày lớp

IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi là 1,5 ± 0,7 mm, ở bệnh nhân

> 60 tuổi là 1,4 ± 0,5 mm. Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh

nhân ≤ 60 tuổi là 0,8 ± 0,2 mm, ở bệnh nhân > 60 tuổi là 0,8 ± 0,1 mm.Độ

dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân ≤ 60 tuổi là 0,8 ± 0,3 mm, ở

bệnh nhân > 60 tuổi là 0,8 ± 0,2 mm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê

với p>0,05 [10].

Võ Bảo Dũng, Hoàng Minh Lợi (2011) cũng có ghi nhận tương tự ở đối

tượng đái tháo đường týp 2 mới phát hiện IMT trung bình là 0,79 ± 0,19 mm

lớn hơn so với nhóm chứng là 0,73 ± 0,11 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

với p<0,05 [5].

Rubinat E và cộng sự (2015) khi khảo sát siêu âm bệnh nhân ĐTĐ

không phụ thuộc insulin cho thấy nam giới có nguy cơ xơ vữa nhiều hơn nữ

giới [49]; nghiên cứu của Arturo Pujia và cộng sự cũng cho kết quả tương tự

[71], [55].

Nghiên cứu Phạm Như Thông (2013) ghi nhận IMT ở nam cả hai nhóm

bệnh và chứng đều cao hơn so với nữ, nhưng sự khác biệt là có ý nghĩa [32],

Trương Mạnh Hà (2015) nghiên cứu trên 115 bệnh nhân ĐTĐ cũng cho kết

quả tương tự [10].

* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo BMI

Qua nghiên cứu nhận thấy độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc ở bệnh

nhân có BMI < 23 là 1,0 ± 0,3mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 1,0 ± 0,3 mm.

Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh ngoài ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8

± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p>0,05.

Độ dày lớp IMT động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có BMI < 23 là 0,8

± 0,2mm, ở bệnh nhân có BMI ≥ 23 là 0,9 ± 0,2mm. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p>0,05.

Nguyễn Thị Kim Thủy (2011) ghi nhận BMI ở nhóm ĐTĐ cao hơn

nhóm chứng. Tổn thương động mạch cảnh không khác biệt đáng kể qua phân

loại chỉ số BMI và không tìm thấy mối tương quan giữa BMI và bề dày tổn

thương động mạch cảnh [33].

Nghiên cứu của Zhao W (2014) khảo sát siêu âm ĐMC trên 97 bệnh

nhân ĐTĐ [69], Rubinat E (2015) khảo sát siêu âm ĐMC trên 54 bệnh nhân

ĐTĐ không thấy có liên quan giữa BMI và bề dày động mạch cảnh [49].

* Sự thay đổi hình thái động mạch cảnh theo thời gian phát hiện

bệnh.

Độ dày lớp trung nội mạc động mạch cảnh gốc, động mạch cảnh ngoài,

động mạch cảnh trong lại thay đổi theo thời gian phát hiện bệnh. Độ dày lớp

trung nội mạc động mạch cảnh gốc ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤

5 năm là 0,9 ± 0,1 mm và > 5 năm là 1,2 ± 0,2 mm. Độ dày lớp trung nội mạc

động mạch cảnh trong ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,6

± 0,1 mm và > 5 năm là 1,0 ± 0,2 mm. Độ dày lớp trung nội mạc động mạch

cảnh ngoài ở bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm là 0,6 ± 0,1 mm

và > 5 năm là 1,0 ± 0,2 mm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Điều này cho thấy thời gian phát hiện bệnh càng dài nguy cơ biến chứng

mạch máu càng tăng và có sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ tác động đến

độ dày lớp trung nội mạc động mạch cảnh bao gồm bệnh cảnh nền tảng đái

tháo đường và tăng huyết áp, yếu tố tuổi, sự kết hợp của nhiều truyền thống và

không truyền thống cũng như các chỉ số mục tiêu kiểm soát glucose huyết,

HbA1c, kiểm soát lipid máu.

* Mảng xữa xơ động mạch cảnh trên đối tượng nghiên cứu.

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 67 bệnh nhân có mảng xơ vữa chiếm tỷ

lệ 60,9%, trong đó bệnh nhân có 1 mảng xơ vữa là 37,3%, bệnh nhân có nhiều

mảng xơ vữa là 62,7%. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Trần Thanh Linh

(2011) cho thấy tỷ lệ mảng xơ vữa ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ chiếm 61,8%, lớn

hơn nhóm không mắc bệnh ĐTĐ (p<0,05) [20]. Kết quả này cao hơn một chút

so với kết quả nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013) tỷ lệ bệnh nhân có mảng

xơ vữa là 56,3%, có lẽ do nghiên cứu này thực hiện trên đối tượng là bệnh nhân

tiền đái tháo đường [32].

Như vậy những kết quả nghiên cứu khác nhau này có thể được lý giải là do

không thực hiện trên cùng một đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi còn cao hơn kết quả nghiên cứu của Li R và cộng sự (1994) cho thấy

bệnh nhân từ 45 - 64 tuổi có 34% có mảng vữa động mạch cảnh [66]. Nghiên

cứu này có tỷ lệ mảng vữa xơ thấp hơn có thể do độ tuổi trung bình thấp hơn độ

tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi.

Về vị trí mảng xơ vữa chúng tôi nhận thấy vị trí mảng xơ vữa hay gặp là

động mạch cảnh gốc (61,3%), sau đó đến động mạch cảnh trong (36,1%), ít

gặp ở động mạch cảnh ngoài (4%). Trong đó tổn thương xơ vữa ở động mạch

cảnh phải là 51%, động mạch cảnh trái là 49%. Kết quả nghiên cứu này cũng

phù hợp với nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước.

Trương Mạnh Hà (2015) ghi nhận trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2

tổn thương xơ vữa ở động mạch cảnh gốc là 31,9% và 49,3% ở động mạch

cảnh ngoài và động mạch cảnh trong là 18,8% [10].

Từ những kết quả này chúng tôi nhận thấy: tổn thương xơ vữa động

mạch chiếm tỷ lệ khá cao ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đặc biệt trên

những bệnh nhân có bệnh lý kèm theo (tăng huyết áp, bệnh mạch vành….), vị

trí và số lượng mảng xơ vữa không khác đáng kể giữa hai bên, hay gặp nhất là

ở động mạch cảnh gốc.

4.3. Mối liên quan giữa nồng hs-CRP huyết tương và tình trạng tổn

thương động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở đối tượng nghiên cứu

* Mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với IMT

Nội mạc động mạch từ lâu đã được xem như một cơ quan nội tiết, tham

gia vào đảm bảo chức năng huyết động của thành mạch, đồng thời có chức

năng bảo vệ thành mạch. Nội mạc là nơi tiếp xúc trực tiếp với dòng máu, vì

vậy cũng là nơi tấn công đầu tiên của xơ vữa động mạch. Ở bệnh nhân ĐTĐ,

nội mạc không những chịu tác động của các yếu tố nguy cơ xơ vữa động

mạch chung, còn có vai trò của kháng insulin vấn đề hằng định của bệnh nhân

ĐTĐ týp 2 và những sản phẩm của quá trình chuyển hóa, làm tổn thương xơ

vữa động mạch sớm hơn, nặng nề hơn. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rối

loạn chức năng nội mạc là một trong những biểu hiện sớm của vữa xơ động

mạch.

Trên siêu âm đo độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh là một trong

những phương pháp thăm dò không chảy máu giúp đánh giá một cách gián

tiếp chức năng nội mạc của mạch máu. Khi tìm hiểu mối tương quan giữa giá

trị hs-CRP và chỉ số độ dày IMT động mạch cảnh, chúng tôi nhận thấy:

Có mối tương quan thuận chặt chẽ (r = 0,710) giữa nồng độ hs-CRP

huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc phải theo phương trình

tương quan: y = 3,579x-0,822 với r = 0,710; p<0,05.

Có mối tương quan thuận chặt chẽ (r = 0,753) giữa nồng độ hs-CRP

huyết tương và độ dày lớp IMT động mạch cảnh gốc trái theo phương trình

tương quan: y = 3,732x-1,114 với r = 0,753; p<0,05, nghĩa là nồng độ hs-

CRP huyết tương càng cao thì lớp nội trung mạc động mạch cảnh càng dầy và

ngược lại. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) trên 117 bệnh

nhân ĐTĐ điều trị nội trú tại bệnh viện 103 cho thấy nhóm bệnh nhân ĐTĐ

týp 2 có CRP dương tính thì độ dày trung bình IMT ĐMC gốc là 1,34 ± 0,34

cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm

tính là 1,19 ± 0,28 [25].

Kết quả nghiên cứu của Phạm Như Thông (2013) cho thấy khi có tăng

hs-CRP ≥ 3 mg/l bề dày IMT giữa đối tượng tiền ĐTĐ cao hơn so với nhóm

chứng (p<0,01); đồng thời có sự tăng đáng kể bề dày IMT khi tăng có nồng

độ hs-CRP ≥ 3 mg/l (1,05 ± 0,20 mm) so với mức hs-CRP<3 mg/l (0,86 ±

0,20 mm), (p<0,01). Nghiên cứu này ghi nhận tương quan giữa hs-CRP và

IMT với r = 0,334 (p<0,05) [32].

Một nghiên cứu của Pujia A. và cộng sự tiến hành ở 54 bệnh nhân ĐTĐ

týp 2. Kết quả cho thấy, ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 IMT động mạch cảnh gốc

(0,798 ± 0,14 mm ở nam; 0,789 ± 0,11 ở nữ). Tỷ lệ xơ vữa ĐMC là 46% ở

bệnh nhân ĐTĐ trong khi chỉ có 18% ở nhóm chứng [71].

Dirk Sander và cộng sự (2006) phân tích dữ liệu của nghiên cứu

INVADE trên 3534 đối tượng ghi nhận sự kết hợp ảnh hưởng có ý nghĩa giữa

HbA1c và hs-CRP lên sự tiến triển dày IMT ở bệnh nhân ĐTĐ cũng như

không ĐTĐ [48].

* Mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với mảng xơ vữa

Khi bàn về mảng xơ vữa, ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2, cùng với tăng độ dày

IMT là tăng tỷ lệ mảng xơ vữa. Thực chất mảng xơ vữa bắt nguồn từ sự dày

lên của IMT.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở nhóm hs-CRP tăng tỷ lệ

bệnh nhân có mảng xơ vữa là 72,1% và không có mảng xơ vữa 27,9%. Ở

nhóm hs-CRP bình thường tỷ lệ bệnh nhân có mảng xơ vữa là 42,9% và

không có mảng xơ vữa 57,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Nhận xét này của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu, tuy nhiên ở các mức

độ khác nhau.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phi Nga (2009) cho thấy nhóm bệnh

nhân ĐTĐ týp 2 có CRP dương tính tỷ lệ bệnh nhân có MXV ĐMC gốc là

51,5%, cao hơn so với nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm tính là 38,1%.

Tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, nhưng khi so sánh giữa

nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP dương tính và TNF-α tăng với nhóm

nhân có MXV ĐMC cao hơn (gấp 4 lần) giữa hai nhóm [25].

bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có CRP âm tính và TNF-α không tăng thì tỷ lệ bệnh

Hoàng Khánh, Lê Thị Hoài Thu (2007), nghiên cứu trên bệnh nhân nhồi

máu não cũng ghi nhận có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ

hs-CRP với số lượng mảng xơ vữa với hệ số tương quan r = 0,669 [18]. Điều

này có ý nghĩa số lượng mảng xơ vữa càng nhiều thì nồng độ hs-CRP huyết

tương càng cao.

Trong điều kiện giới hạn của nghiên cứu này chúng tôi sử dụng ĐMC

làm siêu âm tuy có hạn chế, song bằng cùng một phương pháp, với cùng một

người đo, lại được giải thích phù hợp với bệnh sinh của ĐTĐ, nên kết quả

nghiên cứu này cũng góp phần củng cố thêm chẩn đoán tổn thương động

mạch trong ĐTĐ.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết tương và hình thái, tổn thương

động mạch cảnh đoạn ngoài sọ trên 110 bệnh nhân đái tháo đường týp 2,

chúng tôi ghi nhận một số kết quả sau:

1. Nồng độ hs-CRP và hình thái, tổn thương động mạch cảnh đoạn ngoài

sọ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

- Tỷ lệ tăng nồng độ hs-CRP huyết tương là 61,8%.

- Nồng độ hs-CRP huyết tương trung bình là 2,8 ± 1,7 mg/l, thay đổi

theo thời gian phát hiện bệnh, kiểm soát glucose huyết và tình trạng rối loạn

lipid máu.

- Không có sự khác biệt về nồng độ hs-CRP trung bình ở bệnh nhân đái

tháo đường týp 2 giữa các nhóm tuổi, giới và chỉ số BMI (p>0,05).

- Tỷ lệ bệnh nhân có IMT≥0,9 mm là 71,8%.

- Tỷ lệ có mảng xơ vữa động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đườ ng có

tăng nồng độ hs-CRP huyết tương là 72,1%.

- Có mối tương quan thuận tương đối chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP

huyết tương với HbA1c (r = 0,521) và chỉ số glucose huyết (r = 0,606).

2. Liên quan giữa nồng độ hs-CRP huyết tương với hình thái tổn thương

động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

- Có mối tương quan thuận tương đối chặt giữa nồng độ hs-CRP huyết

tương và số lượng mảng xơ vữa động mạch (r = 0,533).

- Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương

với độ dày lớp IMT ĐMC gốc phải (r = 0,710), trái (r = 0,753).

- Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa nồng độ hs-CRP huyết tương

với độ dày lớp IMT ĐMC ngoài phải, trái (r = 0,726; r = 0,683) và ĐMC

trong phải, trái (r = 0,718; r = 0,610).

KHUYẾN NGHỊ

Qua kết quả nghiên cứ u, chú ng tôi có khuyến nghi ̣ sau:

Cùng với việc kiểm soát đường huyết ở bê ̣nh nhân ĐTĐ týp 2, việc theo

dõi nồng độ hs-CRP huyết tương cũng rất cần thiết nhằm hạn chế biến chứng

xơ vữa động mạch.

Đối với bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có tăng nồng độ hs-CRP cần được chỉ định

siêu âm động mạch cảnh đoạn ngoài sọ nhằm phát hiện và chẩn đoán sớm tổn

thương xơ vữa động mạch, từ đó có chiến lược phòng ngừa các biến chứng

một cách thích hợp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Tạ Văn Bình (2003), "Dịch tễ học bệnh đái tháo đường, các yếu tố nguy cơ

và các vấn đề liên quan đến quản lý bệnh đái tháo đường tại khu vực

nội thành 4 thành phố lớn", Y học thực hành, số 451 2003, tr.35-39.

2. Châu Mĩ Chi (2016), Nghiên cứu sự liên quan giữa nồng độ Enzyme

Myelopezoxidaza huyết tương với độ dày lớp trung nội mạc động mạch

cảnh và một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

typ2, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.

3. Nguyễn Duy Cường, Phạm Thị Huyền (2014), "Tìm hiểu một số biến

chứng và yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới chẩn

đoán lần đầu", Tạp chí Y học thực hành, số 12 (914), tr. 127-130.

4. Trịnh Xuân Cường (2010), Khảo sát nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh

nhân hội chứng mạch vành cấp, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại

học Y Hà Nội.

5. Võ Bảo Dũng, Nguyễn Hải Thủy, Hoàng Minh Lợi (2011), "Liên quan

giữa đáp ứng giãn mạch qua trung gian dòng chảy và độ dày lớp trung

nội mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới phát

hiện", Tạp chí Y học thực hành, số 12 (792), tr. 119-123.

6. Võ Bảo Dũng, Nguyễn Hải Thủy, Hoàng Minh Lợi (2011), "Nghiên cứu sự

liên quan giữa hs-CRP và đề kháng insulin với đáp ứng giãn mạch qua

trung gian dòng chảy ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới phát hiện",

Tạp chí Y học thực hành, số 11 (798), tr. 10-11.

7. Bế Thu Hà (2009), Nghiên cứu bệnh đái tháo đường điều trị tại bệnh viện

đa khoa tỉnh Bắc Kạn, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y

khoa Thái Nguyên, tr 39-40.

8. Phạm Trung Hà, Diệp Quảng Ninh (2011), “ Khảo sát nồng độ hs-CRP ở

bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ”, Tạp chí Y học thành phố Hồ

Chí Minh, Tập(15), tr. 281-286.

9. Trịnh Thị Thái Hà (2005), Nghiên cứu nồng độ protein phản ứng C huyết

thanh và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân Đái tháo đường týp 2,

Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội, tr 42-43.

10. Trương Mạnh Hà (2015), Nghiên cứu nồng độ Homocysteine huyết tương

và vữa xơ động mạch cảnh đoạn ngoài sọ ở bệnh nhân đái tháo đường

týp 2, Luận án Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y - Dược

Thái Nguyên.

11. Nguyễn Hoàng Hải (2012), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng

bệnh đái tháo đường tại bênh viên đa khoa Hải Dương, Trường Đại

học Y Hải Phòng, tr 37-50.

12. Hồ Hữu Hóa (2009), Chẩn đoán sớm biến chứng thận bằng xét nghiệm

Microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú

tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ Y

học, Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên.

13. Lương Quỳnh Hoa (2013) Đánh giá giá trị của fructosamine huyết thanh

trong theo dõi hiệu quả điều trị ở bệnh nhân đái tháo đường type 2,

Luận văn Thạc sĩ Y học, tr 46-47.

14. Trương Phi Hùng, Đặng Vạn Phước (2007), "Nghiên cứu nồng độ C-

reactive protein máu ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp". Tạp chí

Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập(11), tr. 80-84.

15. Nguyễn Thu Hương, Nguyễn Tiến Dũng (2013), "Khảo sát tỷ lệ và đặc

điểm biến chứng thận ử bệnh nhân đái tháo đường typ". Tạp chí Y học

thực hành, số 9 (878), tr 90-93.

16. Trần Thị Thu Hương, Dương Hồng Thái (2013), "Nghiên cứu mối liên

quan giữa nồng độ hs-CRP với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở cán

bộ diện bảo vệ sức khỏe tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học thực hành,

số 9 (879), tr 90-93.

17. Vũ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thu Hương (2014), "Đặc điểm rối loạn

Lipid ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao tuổi", Tạp chí Y học quân

sự, 5.

18. Hoàng Khánh, Lê Thị Hoài Thu (2007), "Nghiên cứu mối liên quan giữa

tổn thương động mạch cảnh ngoài sọ qua siêu âm với nồng độ protein

phản ứng C huyết thanh độ nhạy cao ở bệnh nhân nhồi máu não", Tạp

chí Y dược lâm sàng 108, Tập 2, số đặc biệt 11-2007, tr. 82-87.

19. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011), Đánh giá kết quả điều trị ngoại trú bệnh

nhân đái tháo đường tại bệnh viện A Thái Nguyên năm 2011, Luận văn

Thạc sĩ Y học, Đại học Y-Dược Thái Nguyên, tr. 20-41.

20. Trần Thanh Linh, Hồ Thượng Dũng (2011), "Khảo sát động mạch cảnh

bằng siêu âm mạch máu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2". Tạp chí

Nghiên cứu Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 15 (Phụ bản của số 1),

182-186.

21. Trần Thị Trúc Linh (2016), Nghiên cứu mối liên quan giữa biểu hiện tim

với mục tiêu theo khuyến cáo ESC-EASD ở bệnh nhân đái tháo đường

typ 2 có tăng huyết áp, Luận án Tiến sỹ Y học, trường Đại học Y Dược

Huế, tr 64-64.

22. Nguyễn Kim Lương (2011), Bệnh đái tháo đường trong thực hành lâm

sàng. Nhà xuất bản Y học.

23. Nguyễn Kim Lương (2009), "Đánh giá kết quả điều trị Diamicron kết

hợp Metformin ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2", Tạp chí Y học thực

hành, (723), tr. 70-74.

24. Nguyễn Văn Mùi (2014), Nghiên cứu nồng độ hs-CRP huyết thanh và một

số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, Luận văn Thạc

sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.

25. Nguyễn Phi Nga (2009), Nghiên cứu nồng độ với TNF-a, CRP huyết

thanh và liên quan với hình thái, chức năng động mạch cảnh gốc bằng

siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2, Luận án Tiến sĩ Y

học, Học viện Quân y.

26. Vũ Xuân Nghĩa, Phạm Thắng (2014), "Nồng độ Protein phản ứng C và

Interleukin 6 ở bệnh nhân đái tháo đường mới được phát hiện", Tạp chí

Y học quân sự, số 5, tr 77-81.

27. Đinh Hiếu Nhân (2006), "Tương quan giữa tổn thương xơ vữa trên động

mạch cảnh và động mạch vành trên bệnh nhân đái tháo đường có đau

thắt ngực ", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập(10) (số 2), tr.

110-114.

28. Nguyễn Phước Bảo Quân (2012), Siêu âm Doppler động mạch cảnh. Siêu

âm Doppler mạch máu. Nhà xuất bản đại học Huế, tr. 171-241.

29. Võ Xuân Sang, Trương Quang Bình (2011), "Khảo sát Microalbumin niệu

ở bệnh nhân đái tháo đường type 2". Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh,

Tập 14, Phụ bản số 1, pp. 1 - 5.

30. Ngô Thanh Sơn (2014), "Nhận xét tình trạng xơ vữa động mạch cảnh

đoạn ngoài sọ bằng siêu ân Doppler ở bệnh nhân nhồi máu não có đái

tháo đường và không đái tháo đường". Tạp chí Y học Việt Nam, số 2-

2014, tr.56-59.

31. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết - chuyển

hóa. Nhà xuất bản Y học, tr 178.

32. Phạm Như Thông (2013), Khảo sát động mạch cảnh bằng siêu âm

doppler ở bệnh nhân tiền đái tháo đường, Luận văn Thạc sĩ của bác sĩ

nội trú, Trường Đại học Y-Dược Huế.

33. Nguyễn Thị Kim Thủy (2011), "Biến chứng mạch máu lớn ở bệnh nhân

đái tháo đường týp 2", Tạp chí Y học thực hành, số 8 (777), tr.39-42.

34. Trần Vĩnh Thuỷ (2007), Đánh giá điều trị rối loạn chuyển hoá Lipid máu

ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 bằng Mediator tại Bệnh viện Đa

khoa Trung ương Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y

khoa Thái Nguyên, tr. 41 – 42.

35. Trầm Lợi Trần Tiên, Nguyễn Hải Thủy (2012), "Liên quan giữa một số

yếu tố nguy cơ tim mạch với các thương tổn động mạch cảnh trên

những bệnh nhân đái tháo đường bị nhồi máu não giai đoạn cấp", Hội

nghị Nội tiết miền trung lần thứ VIII - Vinh Nghệ An.

Tiếng Anh:

36. AGTabak, M Kivimaki, E J Brunner, et al (2010), "Changes in C-reactive

protein levels before type 2 diabetes and cardiovascular death: the

Whitehall II study". European Journal of Endocrinology (2010) 163,

89–95.

37. Ahmed Al-Shukaili, Saif AL-Ghafri, Safia Al-Marhoobi (2013),

"Analysis of Inflammatory Mediators in Type 2 Diabetes Patients".

International Journal of Endocrinology, volume 2013 (Article ID

976810), 7 pages.

38. Libly et al (2006) "Inflammation and atherosclerosis". Circulation 105, pp

1135-1143.

39. M. S. Roopakala et al (2012) "Evaluation of High Sensitivity C-reactive

protein and Glycated Hemoglobin Levels in Diabetic Nephropathy".

Saudi J Kidney Dis Transpl 2012, 23(2), 286-289.

40. Ronald Goldenberg et al (2005), "LDL-C-C and CRP in Clinical Practice:

A 2005 Update". Endocrinology & Diabetes, clinical update, 1(2),

2005.

41. Safiullah Amanullah et al (2010), "Association of hs-CRP with Diabetic

and Non-diabetic individuals", Jordan Journal of Biological Sciences,

Volume 3, Number 1 (January 2010 ISSN: 1995-6673), Pages 7–12.

42. Syed Shahid Habib et al (2013), "Serum lipo protein(a) and high

sensitivity C reactive protein levels in Saudi patients with type 2

diabetes mellitus and their relationship with glycemic control,", Turkish

Journal of Medical Sciences, 43, 333-338.

43. American Diabetes Association(2011), "Standard of medical care in

Diabetes". Diabetes Care, 34 (1), pp. S11- S61.

44. IDF DIABETES ATLAS, 5th edition, 2012 update. (2012)

45. Mark. B, Pepys (2003), "C-reactive protein: a critical update", The

Journal of Clinical Investigation, 111, pp. 1805 – 1812.

46. UroojTaheed Baluch(2011), "C- Reactive protein As a Low Grade

Inflammatory Marker in Type 2 Diabetic Nephropathy", Ann. Pak. Inst.

Med. Sci, 7(4), pp. 217 - 221.

47. European Society of Cardiology (2007), "Summary of the 2007 European

Society of Hypertension (ESH) and European Society of Cardiology

(ESC) guidelines for the management of arterial hypertension", Vasc

Health Risk Manag, vol 3 (6), pp. 783-795.

48. Sander D, Horn C.S., Bickel H. (2006), "Combined effects of hemoglobin

A1c and C - reactive protein on the progression of subclinical carotid

atherosclerosis: The INVADE Study", Stroke, 37, pp. 351 - 357.

49. Rubinat E, Marsal J R, et al Vidal T (2015), "Subclinical Carotid

Atherosclerosis in Asymptomatic Subjects With Type 2 Diabetes

Mellitus", The Journal of Cardiovascular Nursing, pp. 1-7.

50. Jenny E, Michelle M. Averill Kanter, Renee C. LeBoeuf et al (2008),

"Diabetes-Accelerated Atherosclerosis and Inflammation".

http://circres.ahajournals.org/content/103/8/e116, 2008; 103, e116-

e117 Circ Res.

51. International Diabetes Federation Guideline Development Group (2014),

"Global guideline for type 2 diabetes". Diabetes Res Clin Pract, vol

104 (1), pp 1-52.

52. Haffner SM, Agostino RD, Saad MF (2000), "Carotid artery

artherosclerosis in type - 2 diabetic and nondiabetic subjects with and

without symptomatic coronary artery disease", Am J Cardiol, 85 (12),

pp. 1395 - 1400.

53. Touboul P J, Hennerici M G, et al Meairs S (2012), "Mannheim carotid

intima-media thickness and plaque consensus (2004-2006-2011). An

update on behalf of the advisory board of the 3rd, 4th and 5th watching

the risk symposia, at the 13th, 15th and 20th European Stroke

Conferences, Mannheim, Germany, 2004, Brussels, Belgium, 2006,

and Hamburg, Germany, 2011". Cerebrovasc Dis, vol 34 (4), pp. 290-

296.

54. T. Kurth, et al. (2006), "Healthy life style and the risk of stroke in

women". Arch Intern med, 2006, 166 (13), pp 1403-9.

55. Sheng L, Cao W, Cha B (2013), "Serum osteocalcin level and its

association with carotid atherosclerosis in patients with type 2

diabetes", Cardiovasc Diabetol, pp.1-7.

56. Napoli M, et al (2005), "Evaluation of C-reactive protein measurementfor

assessing the risk and prognosis in ischemic stroke", Stroke, Jun;36(6),

1316-29.

57. Paul. M, Ridker (2003), "C-Reactive protein: A Simple Test to Help

Predict Risk of Heart Attack and Stroke", Circulation, 14, pp. 1-5.

58. Ridker M, Paul et al (2003), "High – sensitivity C – reactive protein:

Potential adjunct for ghobal rik asses sment in the primary prevention

of cardiovascular disease", Circulation, 103, pp 1813-1818.

59. Anubha Mahajan, Rubina Tabassum et al (2009), "High-Sensitivity C-

Reactive protein Levels and Type 2 Diabetes in Urban North Indians",

J Clin Endocrinol Metab, June 2009: 94(6), 2123–2127.

60. Matthias B. Schulze et al (2004), 27:2004 (2004), "C-Reactive protein

and Incident Cardiovascular Events Among Men With Diabetes",

Diabetes Care 27:2004, 889–894.

61. Rifai N (2005), "High – sensitivity C - reactive protein: a useful marker

for cardiovascular disease risk prediction and the metabolic syndrome",

Clin. Chem, 2005, 51:3, 504-505.

62. Juan F. Navarro, Carmen Mora (2005), "Role of inflammation in diabetic

complications", Nephrol Dial Transplant (2005) 20, 2601–2604.

63. Poredos P (2004), "Intima-media thickness: indicator of cardiovascular

risk and measure of the extent of atherosclerosis", Vasc Med, vol 9 (1),

pp. 46-54.

64. Shakouri P., Nezami N., Tarzamni M.K. (2008), "The elusive link

between high sensitivity C - reactive protein and carotid subclinical

atherosclerosis in coronary artery bypass grafting candidates: A cross -

sectional study", Cardiovascular Ultrasound, 6, pp. 23 - 28.

65. Mark. B. Pepys (2003), "C-reactive protein: a critical update", The

Journal of Clinical Investigation, 111, pp. 1805 – 1812.

66. Li R., Duncan B.B., Metcalf P.A. et al (1994), "B-mode-detected carotid

artery plaque in a general population", Atherosclerosis risk in

communities (ARIC) study investigator, Stroke, 25(12), pp.2377 - 2383.

67. Wiliam. S, Tillett, Thomas Francis (1930), "Serological Reactions In

Pneumonia With a A Non-protein Somatic Fraction Of

Pneumococcus", Received for publication, 26, pp. 561 - 571.

68. Oliver Schnell, Ildiko Amann-Zalan, Zhihong Jelsovsky et al (2013),

"Changes in A1C Levels Are Significantly Associated With Changes in

Levels of the Cardiovascular Risk Biomarker hs-CRP", Diabetes care,

Volume 36 ( july 2013).

69. Zhao W, Katzmarzyk P T, Horswell R, et al (2014), "Body mass index

and the risk of all-cause mortality among patients with type 2 diabetes

mellitus", Circulation, vol 130 (24), pp 2143-2151.

70. Yamasaki Y, Kawamori R., Matsushima H (1994), "Atherosclerosis in

carotid artery of young IDDM patients monitored by ultrasound high

resolution B - mode imaging", Diabetes, 43 (5), pp. 634 - 639.

71. Pujia A, Gnasso A, Irace C (1994), "Common carotid arterial wall

thickness in NIDDM subject", Diabetes Care, 17 (11), pp. 1330 - 1336.

72. Patgiri, Pathak, Sharma (2014), "Serum hsCRP: A Novel Marker for

Prediction of Cerebrovascular Accidents (Stroke)", J Clin Diagn Res.,

2014 Dec; 8(12), CC08–CC11.

73. A. D. Pradhan, J. E. Buring N. Rifai (2001), "C-reactive protein,

interleukin 6, and risk ofdeveloping type 2 diabetesmellitus". Journal

of theAmericanMedical Association, vol.286, no.3, pp.327–334,2001.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1. Nguyễn Thị Hiếu, Bùi Thị Thu Hương, Trịnh Xuân Tráng, Nguyễn

Tiến Dũng (2016). Nồng độ hs-CRP huyết tương ở bệnh nhân đái tháo

đường tysp 2 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Tạp chí

Y học Việt Nam, Tập 445, tháng 8, số Chuyên đề, 57-61.

2. Nguyễn Thị Hiếu, Bùi Thị Thu Hương (2016). Nồng độ hs-CRP huyết

tương ở bệnh nhân đái tháo đường tysp 2 tại Bệnh viện Đa khoa Trung

ương Thái Nguyên, Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 446, tháng 9, số

Chuyên đề, 234-238.

MẪU BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU

1. Thông tin chung:

Mã BN:…………………………………………………………………….…..

Họ tên BN:……………………………………………..Tuổi…………………

Giới…………………………………………..Nam(nữ)………………………

Nghề nghiệp:………………………………………………………………….

Địa chỉ:………………………………………………………………………..

Ngày khám:……/………….../.........................................................................

Thời gian phát hiện đái tháo đường ( số năm):……………………………….

Khám:

Chiều cao:……… ……………………..…cm

Cân nặng:…………………………………….kg

BMI………………………………..………...

HA:……………………………..……….mmHg

2. Các xét nghiệm:

 Sinh hóa máu:

Glucose…………………………………...…mmol/l -

- HbA1C…………………………….……..……….%

Hs-CRP:…….…………………………….……mg/l -

Cholesterol TP:……………………………....mmol/l -

Triglycerid:...………………………….……..mmol/l -

HDL-C:………………………………………mmol/l -

LDL-C:……………………………..…………mmol/l -

 Siêu âm động mạch cảnh

Vị trí mảng xơ vữa Tổng ĐMC MXV ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài

ĐMC Trái

ĐMC Phải

Đường kính động mạch cảnh

ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài ĐMC

D d D d D d

ĐMC Trái

ĐMC Phải

Độ dày nội trung mạc ĐMC ĐMC gốc ĐMC trong ĐMC ngoài

ĐMC Trái

ĐMC Phải

Thái Nguyên, ngày …. tháng năm 201

Người lập