ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI THỊ DUYÊN
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI
PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG 2017
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI THỊ DUYÊN
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI
PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG 2017
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Văn Dũng
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Mai Thị Duyên
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN LOẠI
TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN (THƯƠNG MẠI) PHẠM TỘI. ...... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các tiêu chí phân loại tội phạm đối với pháp
nhân (thương mại) phạm tội. ......................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp nhân
(thương mại) phạm tội. ................................................................................. 10
1.1.2. Các tiêu chí phân loai tội phạm đối với pháp nhân thương mại.. 14
1.2. Sự cần thiết của việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân phạm
tội...................................................................................................................22
1.3. Phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong
pháp luật hình sự một số nước. .................................................................... 24
1.3.1.Phân loại tội phạm đối với pháp nhân trong bộ luật hình sự Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. ................................................................................... 24
1.3.2. Phân loại tội phạm đối với pháp nhân trong bộ luật hình sự Cộng
hòa Pháp ......................................................................................................... 28
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP
NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN. ...................................................... 39
2.1. Quy định về phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại của
bộ luật hình sự năm 2015. ............................................................................ 39
2.2. Nhận xét, đánh giá quy định về phân loại tội phạm phạm đối với
pháp nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự 2015 ................... 41
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự 2015. .................. 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện và phải chịu
hình phạt. Tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau, nên cần có
sự phân biệt để có chính sách xử lý phù hợp. Nói cách khác, hành vi phạm tội
có mức độ nguy hiểm đến đâu thì mức độ nghiêm khắc của các biện pháp xử
phạt tương ứng đến đó. Chính vì vậy, trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự (phần chung)” sách chuyên khảo sau đại học của nhà xuất
bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội GS.TSKH Lê Văn Cảm đã viết: “Phân loại tội
phạm trong luật hình sự là chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm thành từng loại (nhóm) nhất định theo những tiêu chí này hoặc
những tiêu chí khác để làm tiền đề cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và
hình phạt hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt”.
Phân loại tội phạm có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, là tiền đề cơ bản cho việc
áp dụng chính xác các biện pháp trong hoạt động tư pháp hình sự như: truy cứu
trách nhiệm hình sự, khởi tố bị can, xác định thẩm quyền điều tra, thẩm quyền
truy tố và thẩm quyền xét xử, cá thể hóa hình phạt; lựa chọn loại trại cải tạo đối
với người bị kết án… Thứ hai, phân loại tội phạm đúng còn tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xây dựng một cách chính xác và khoa học các chế tài pháp lý hình
sự trong phần riêng của nó. Thứ ba, ở một chừng mực nhất định việc nhà làm
luật ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định quốc gia một chế định phân loại
tội phạm có nhiều ưu điểm với các quy phạm khả thi sẽ là điều kiện quan trọng
cho việc thực hiện một số nguyên tắc tiến bộ của luật hình sự trong nhà nước
pháp quyền và bằng cách đó, góp phần bảo vệ vững chắc các quyền và tự do
của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. [2, Tr.316]
1
Trong lịch sử lập pháp hình sự từ trách nhiệm hình sự năm 1985 đến nay,
việc phân loại tội phạm đã có sự phát triển có tính chất kế thừa. Cụ thể, khoản
2 điều 8 bộ luật hình sự năm 1985 chia tội phạm thành 02 loại tội là tội phạm
ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Đến bộ luật hình sự năm 1999, trước
yêu cầu "hạn chế sự lạm quyền" của các cơ quan tiến hành tố tụng và để thuận
tiện cho việc áp dụng, điều 8 bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định tội phạm
thành 04 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Kế thừa những quy định này
của bộ luật hình sự năm 1999, bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (sau
đây gọi là bộ luật hình sự 2015, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của
tội phạm đã quy định tội phạm được phân loại thành 04 loại tội phạm: tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm,
mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm và chế tài do luật quy định đối
với việc thực hiện loại tội phạm tương ứng. Việc bộ luật hình sự 2015 bổ sung
chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại, với những căn cứ truy cứu trách
nhiệm hình sự đặc thù, dẫn đến việc nhà làm luật phải quy định phân loại tội
phạm đối với chủ thể này. Trong quá trình xây dựng và chỉnh lý dự án bộ luật
hình sự (sửa đổi) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật hình sự số
100/QH13/2015, vấn đề phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại tiếp
tục nhận được nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia, các nhà khoa học
Luật hình sự hàng đầu. Việc phân tích và lựa chọn giải pháp như quy định tại
Khoản 2 Điều 9 bộ luật hình sự 2015, theo chúng tôi chỉ là giải pháp mang tính
tạm thời. Do đó, việc lựa chọn đề tài phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại phạm tội là việc làm hết sức cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
2.1 .Mục tiêu tổng quát:
2
Làm rõ bản chất của việc phân loại tội phạm nói chung như: căn cứ, nội
dung, ý nghĩa của việc phân loại tội phạm; chỉ ra bản chất của việc phân loại
tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo quy định của bộ luật hình sự 2015,
phân tích một số bất cập của việc quy định này trong bộ luật hình sự 2015 để
từ đó đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự năm 2015
2.2 . Mục tiêu cụ thể:
Làm rõ khái niệm, đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương -
mại
Làm rõ sự cần thiết việc quy định rõ về phân loại tội phạm đối với pháp -
nhân thương mại phạm tội. Phân tích quy định phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại phạm tội;
Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước có quy định -
trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại;
Chỉ ra những bất cập trong cách phân loại tội phạm đối với pháp nhân -
thương mại trong bộ luật hình sự năm 2015;
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định phân loại tội phạm đối với pháp -
nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự năm 2015.
3. Tính mới và những đóng góp cụ thể.
Phân loại tội phạm là hoạt động chia các tội phạm thành những nhóm khác
nhau dựa trên những tiêu chí nhất định. Có nhiều cách phân loại tội phạm khác
nhau. Mỗi cách phân loại dựa trên tiêu chí nhất định và nhằm những mục đích
khác nhau. Phân loại tội phạm là tiền đề cơ bản cho việc áp dụng chính xác các
biện pháp trong hoạt động tư pháp hình sự như: Truy cứu trách nhiệm hình sự,
khởi tố bị can, xác định thẩm quyền điều tra, thẩm quyền truy tố và thẩm quyền
xét xử, cá thể hóa hình phạt; lựa chọn loại trại cải tạo đối với người bị kết án…
Thứ hai phân loại tội phạm đúng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng
3
một cách chính xác và khoa học các chế tài pháp lý hình sự trong phần riêng
của nó. Thứ ba, ở một chừng mực nhất đinh việc nhà làm luật ghi nhận trong
pháp luật hình sự thực định quốc gia một chế định phân loại tội phạm có nhiều
ưu điểm với các quy phạm khả thi sẽ là điều kiện quan trọng cho việc thực hiện
một số nguyên tắc tiến bộ của luật hình sự trong nhà nước pháp quyền và bằng
cách đó, góp phần bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân trong
lĩnh vực tư pháp hình sự.
Như vậy, phân loại tội phạm không chỉ có ý nghĩa trong khoa học luật
hình sự, mà nó còn có ý nghĩa trong cả tố tụng hình sự, đòi hỏi việc quy định
chế định phân loại tội phạm phải chính xác, phù hợp với tình hình, điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước.
Điểm mới của bộ luật hình sự 2015 quy định chủ thể của tội phạm không
chỉ là thể nhân mà còn quy định thêm pháp nhân thương mại cũng là chủ thể
của tội phạm. Đến nay, trên thực tế chưa có một pháp nhân thương mại nào bị
đưa ra xét xử đồng thời có nhiều ý kiến trái chiều về quy định phân loại tội
phạm đối với pháp nhân thương mại.
Về mặt kỹ thuật lập pháp của nước ta hiện nay còn nhiều thiếu sót nhất là
quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại chưa thực sự rõ ràng
do đó cần phải sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại tội phạm tại điều 9 của
bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, nghiên cứu đề tài “Phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại phạm tội” không chỉ đề cập tính mới của bộ luật hình sự
2015, mà nó còn mang tính cấp thiết, đóng góp vào thực tiễn áp dụng cũng như
việc sửa đổi, bổ sung cho lần pháp điểm hóa tiếp theo của bộ luật hình sự.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
- Quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về phân loại tội phạm đối với pháp
4
nhân thương mại.
- Quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại của một số quốc
gia trên thế giới.
- Một số quy định liên quan đến pháp nhân thương mại trong bộ luật hình sự
2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Những vấn đề trong bài luận văn này chỉ giới hạn trong việc phân tích
khoa học quy phạm phân loại tội phạm trong phần chung luật hình sự Việt Nam
và các quy phạm ở phần riêng có liên quan đến việc phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại.
5. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Pháp nhân thương mại phạm tội là vấn đề mới được quy định trong bộ luật
hình sự 2015 và từ thời điểm có hiệu lực đến nay cũng chưa có một vụ án nào
được xét xử trên thực tế. Hiện tại, một số tư liệu của một số nhà khoa học có
đề cấp đến tính mới của chủ thể này ví dụ như:
- Trong cuốn “Nhận thức khoa học về phần chung pháp luật hình sự việt
nam sau pháp điển hóa lần thứ ba của GS.TSKH Lê Văn Cảm. Nxb Đại Học
Quốc Gia Hà Nội.” có đề cập đến điểm mới của bộ luật hình sự 2015, tuy nhiên
cũng không có phần phân loại tội phạm đối với chủ thể này.
- Trong Bài viết bàn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân, của tác giả
Nguyễn Văn Lâm, Tạp chí dân chủ và pháp luật online ngày 19/02/2019, tác
giả cũng đề cập đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân và một số vấn đề vướng
mắc trong việc xử lý.
- Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định của bộ
luật hình sự 2015 của tác giả Võ Văn Trung tạp chí Dân chủ và pháp luật online
(ngày 20/06/2016) đề cập đến trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương
mại.
5
- Hoàn thiện quy định về Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
phạm tội trong bộ luật hình sự năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa
tạp chí luật học số đặc biệt về bộ luật hình sự năm 2015 ngày 27 tháng 11 năm
2016 đề cập những vấn đề còn vướng mắc quy định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân thương mại và một số ý kiến để hoàn thiện.
- Khái niệm tội phạm và việc quy định Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại trong bộ luật hình sự năm 2015 của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, tạp
chí luật học số 2/2016 viết về điểm mới khái niệm tội phạm và trách nhiệm hình
sự của pháp nhân thương mại.
- Tính thống nhất giữa các quy định về Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại trong bộ luật hình sự năm 2015 của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, tạp
chí luật học số 3/2017, tác giả đề cập đến mối liên hệ giữa các quy định liên
quan trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.
- Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo bộ luật hình sự năm
2015 của tác giả Nguyễn Văn Hương tạp chí luật học số 4/2016, tác giả phân
tích trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) (phần
chung) của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa; tác giả bình luận các chế định phần
chung của bộ luật hình sự 2015.
- Trong bài viết “Bất cập trong quy định về phân loại pháp nhân thương
mại phạm tội” của tác giả Nguyễn Thị Hằng, tác giả đề cập những bất cập trong
quy định phân loại tội phạm.
- Trong bài viết “Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương
mại phạm tội” được đăng tải trên tạp chí tòa an nhân dân ngày 27 tháng 05 năm
2019, tác giả ThS.NCS.Bạch Ngọc Du phân tích những vấn đề liên quan đến
vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
- Trong bài viết “Vướng mắc trong xử lý trách nhiệm hình sự của pháp
6
nhân thương mại phạm tội” của tác giả Quan Tuấn Nghĩa được đăng tải ngày
24 tháng 10 năm 2019 tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, tác giả kiến nghị hoàn
thiện một số điều luật liên quan đến pháp nhân thương mại.
Hoặc có một số vụ án lớn có đề cập đến phần trách nhiệm của một số pháp
nhân, ví dụ điển hình vụ án xét xử đường dây đánh bạc nghìn tỷ có đề cập đến
trách nhiệm của ngân hàng, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một vụ án nào cụ
thể liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.
Mặc dù việc quy định trách nhiệm của pháp nhân thương mại đã được
nhiều học giả nghiên cứu, bình luận khoa học ở góc độ chuyển sâu, hay góc độ
tạp chí khoa học, tuy nhiên chưa có những công trình nghiên cứu hay tư liệu đề
cập đến phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, cho dù việc phân
loại tội phạm cũng là một vấn đề quan trọng trong việc điều tra, truy tố xét xử,
đảm bảo công bằng đối với các pháp nhân. Một phần lý do chính là do pháp
nhân thương mại là vấn đề mới, chưa có pháp nhân thương mại nào bị xử lý
trên thực tế do vậy quy định này chưa được kiểm nghiệm, do đó nghiên cứu về
vấn đề này chưa được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lê Nin trong việc phân tích, nghiên cứu, đánh giá đối với đối tượng nghiên
cứu. Thực chất của phương pháp này là việc vận dụng quan điểm biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong việc đánh giá sự vật, hiện tượng.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết, thu thập
các quan điểm liên quan đến pháp nhân thương mại trên thế giới. Liên hệ vào
với quy định tại Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá quy định về phân loại tội phạm có thực sự hợp lý thông
qua mối liên hệ giữa việc phân loại tội phạm với các vấn đề liên quan như quyết
định hình phạt, xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, xóa án tích đối
7
với pháp nhân thương mại.
7. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phân loại tội phạm đối với pháp
nhân (thương mại) phạm tội.
Chương 2: Quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại trong
bộ luật hình sự năm 2015 và một số kiến nghị hoàn thiện.
8
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN (THƯƠNG MẠI) PHẠM TỘI.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các tiêu chí phân loại tội phạm đối với pháp
nhân (thương mại) phạm tội.
Mặc dù trên thế giới, vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại không phải là vấn đề mới, tuy nhiên ở Việt Nam việc quy
định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là một bước
ngoặt mới trong lịch sử lập pháp của nước ta. Trước đây, do còn nhiều tranh
luận về yếu tố lỗi - một trong các dấu hiệu của tội phạm, các nhà khoa học cho
rằng pháp nhân thương mại không phải là một thể nhân, nó không thể có bộ
não, các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người điều hành nó gây ra. Tuy nhiên,
hiện nay với chính sách mở của, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đặt ra đỏi hỏi, pháp luật Việt Nam cần phải có sự tiến bộ, học
hỏi và rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới, phù hợp với các công
ước và luật quốc tế, do vậy mà trong lần pháp điển hóa lần thứ ba này, nhà làm
luật đã thừa nhận pháp nhân thương mại cũng là một chủ thể của tội phạm.
Việc quy định thêm chủ thể của tội phạm đã làm phát sinh thêm những
vấn đề liên quan đến chủ thể này, trong đó vấn đề phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại đang gây ra nhiều tranh luật trái chiều trong khoa học
luật hình sự.
Trong khi đó, phân loại tội phạm là một trong những chế định quan trọng,
nó có ý nghĩa rất lớn trong cả lĩnh vực lập pháp và tư pháp, tuy nhiên hiện nay
quy định về chế định này chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến nhiều ý kiến trái chiều
và cần phải được sửa đổi rõ ràng hơn trong lần pháp điển hóa bộ luật hình sự
lần tiếp theo.
Hiện nay, việc nghiên cứu phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại về mặt lý luận chưa thực sự chuyên sâu, mà dừng lại nghiên cứu về phân
9
loại tội phạm đối với cá nhân, do vậy cần làm rõ những vấn đề lý luận về phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp nhân (thương
mại) phạm tội.
Kể từ khi bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực đến này, có nhiều bài viết
nghiên cứu về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại,
tuy nhiên các bài nghiên cứu chỉ đề cập đến những bất cập liên quan đến các
quy định về chủ thể này, mà chưa có bài viết phân tích chuyên sâu đến khái
niệm phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, hay trong giáo trình
luật hình sự hiện nay, các nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại nghiên cứu khái niệm
thế nào là phân loại tội phạm. Lý giải về việc không có bài viết nào đề cập đến
khái niệm thế nào là phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, tác giả
cho rằng pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, do vậy từ quá trình
nghiên cứu thế nào là phân loại tội phạm, chúng ta có thể rút ra được khái niệm
phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần
chung)” GS.TSKH Lê Văn Cảm có nêu khái niệm của phân loại tội phạm trong
từng lĩnh vực khác nhau.
Thứ nhất, phân loại tội phạm trong tư pháp hình sự là sự phân loại dựa
trên những tiêu chí (căn cứ) nhất định tương ứng với các lĩnh vực hoạt động
của nó nhằm đảm bảo cho hiệu quả của công tác đấu tranh phòng và chống tội
phạm.[2, Tr.317]
Thứ hai, phân loại tội phạm trong tội phạm học là sự phân hóa dựa trên
những tiêu chí như các dấu hiệu thể hiện tính chất và xu hướng (định hướng)
trái xã hội của nhân thân người phạm tội hoặc cơ chế hay phương pháp (thủ
đoạn) xâm hại của tội phạm.[2, Tr.317-Tr.318]
Thứ ba, phân loại tội phạm trong luật tố tụng hình sự là sự phân loại dựa
10
trên những tiêu chí quy định thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng tụng.[2,Tr.318]
Thứ tư, phân loại tội phạm trong luật thi hành án hình sự là sự phân loại
dựa trên những tiêu chí phản ánh các đặc điểm của việc chấp hành hình phạt và
cải tạo nạn nhân.[3, Tr.318]
Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, phân loại tội phạm trong luật hình sự là
chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm thành từng loại
(nhóm) nhất định theo những tiêu chí này hoặc những tiêu chí khác để làm tiền
đề cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt hoặc tha miễn trách
nhiệm hình sự và hình phạt.[2, Tr.318]
Như vậy, phân loại tôi phạm dù ở góc độ khoa học nào thì đều là hoạt
động phân hóa tội phạm thành từng nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí
khác nhau nhằm mục đính nhất định ví dụ như trong tố tụng hình sự nhằm mục
đích xác định thẩm quyền điều tra truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố
tụng, hay phân loại tội phạm trong thi hành án hình sự nhằm mục đích cải tạo
phạm nhân, giúp họ mau chóng hòa nhập cộng đồng… Do vậy theo quan điểm
của tác giả thì “Phân loại tội phạm là hoạt động chia các tội phạm thành những
nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định nhằm phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hóa hình phạt”.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể kết luận phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại là hoạt động chia các tội phạm là pháp nhân thương mại thành
những nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định nhằm phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với pháp nhân thương mại đó.
Cũng từ khái niệm, phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại có
những đặc điểm sau: Đặc điểm thứ nhất, phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại là hoạt động chia tội phạm, đặc điểm thứ hai là kết quả của hoạt
động chia tội phạm đó thành những nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí
11
khác nhau, mục đích nhằm phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình
phạt đối với pháp nhân thương mại là đặc điểm cuối cùng của việc phân loại
tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là hoạt động
chia các tội phạm. Những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội là khác nhau, tội phạm bao gồm những hành vi có tính chất
đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã
hội không lớn. Mỗi loại tội phạm lại có sự khác nhau ở tính chất và mức độ
nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như
ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Do vậy đỏi hỏi phải phân loại
tội phạm từ đó phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với
pháp nhân thương mại trong những trường hợp cụ thể nhằm đảm bảo nguyên
tắc mọi pháp nhân thương mại đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại
khoản 2 điều 3 quy định trong bộ luật hình sự 2015. Mọi hành vi nguy hiểm
cho xã hội nếu như không được phân loại, mà truy cứu trách nhiệm hình sự như
nhau, áp dụng hình phạt như nhau sẽ dẫn đến không đảm bảo tính công bằng
đối với chủ thể thực hiện hành vi, bởi lẽ mỗi hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ
thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau, hậu quả của mỗi loại tội phạm
khác nhau. Đòi hỏi việc áp dụng hình phạt đối với mỗi loại tội phạm cũng khác
nhau.
Ngoài ra, trong bộ luật hình sự có một số chế định liên quan đến kết quả
của việc phân loại tội phạm, cụ thể như chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự của mỗi loại tội phạm là khác nhau, chẳng hạn 05
năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng,
15 năm với tội phạm rất nghiêm trọng và 20 năm với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Một trong những điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp
12
nhân thương mại đó là còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy khi
phát hiện hành vi phạm tội của chủ thể là pháp nhân thương mại, thì các cơ
quan tiến hành tố tụng cần xác định được hành vi đó còn thời hạn truy cứu trách
nhiệm hình sự hay không? Từ những lý do trên cần phải phân loại tội phạm để
phân hóa trách nhiệm hình sự từ đó phân hóa hình phạt phù hợp với từng loại
tội phạm.
Trong bộ luật hình sự hiện hành, quy định chia tội phạm thành bốn loại tội
đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi và khung hình phạt để phân loại tội phạm thành bốn loại tội
được nêu ở trên, mỗi loại tội phạm sẽ có căn cứ vào khung hình phạt khác nhau.
Những tội có tính chất, mức độ nguy hiểm càng lớn thì khung hình phạt tương
ứng với loại tội phạm đó càng cao. Hiện nay, việc quy đinh khung hình phạt để
phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại được áp dụng căn cứu vào
khung hình phạt của khoản 1 điều 9 là chưa thực sự hợp lý, khi khung hình phạt
chủ yếu của khoan 1 điều 9 là hình phạt tù, trong khi đó pháp nhân thương mại
có hình phạt chính là hình phạt tiền, do đó mà quy định này đang gây ra nhiều
tranh luận trái chiều giữa các nhà luật học.
Đặc điểm thứ hai, kết quả của hoạt động chia tội phạm đó thành những
nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Trong bộ luật hình sự 2015
quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là căn cứ
vào khoản 1 điều 9 và điều 76 của bộ luật hình sự 2015, cụ thể căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi để chia tội phạm thành 04 loại tội phạm
đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, khoản 1 điều 9 của bộ luật
hình sự còn căn cứ vào khung hình phạt để phân loại tội phạm, theo tác giả quy
định này chưa thực sự hợp lý bởi lẽ hình phạt được quy định tại khoản 1 bao
13
gồm hình phạt tù – hình phạt được áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng
đối với pháp nhân và điều 76 quy định mang tính chất liệt kê các loại tội phạm
mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. Cũng vì quy định
chưa thực sự hợp lý này dẫn đến hiện nay có nhiều ý kiến trái chiều trong khoa
học luật hình sự về quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Hiện nay, chưa có pháp nhân thương mại nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự
trên thực tế, nhưng rõ ràng nếu thực tế cần phải áp dụng việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại thì quy định này sẽ trở thành bất
cập trong việc áp dụng.
Đặc điểm cuối cùng của việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại là mục đích của việc phân loại tội phạm nhằm phân hóa trách nhiệm hình
sự và các thể hóa hình phạt đối với pháp nhân thương mại. Phân hóa trách
nhiệm hình sự là nội dung quy định đường lối xử lý được thể hiện trong luật để
phân biệt đối với từng loại trường hợp phạm tội nhất định[8]. Cá thể hóa hình
phạt là từ việc phân biệt từng loại trường hợp phạm tội nhất định để quyết định
áp dụng hình phạt hợp lý. Mỗi hành vi phạm tội khác nhau sẽ gây ra hậu quả
pháp lý khác nhau, do đó vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình
phạt cho mội loại tội phạm sẽ khác nhau mới đảm bảo được tính công bằng. Do
vậy đòi hỏi việc phân loại tội phạm cần phải chính xác, mới có thể phân hóa
đúng trách nhiệm hình sự cho đối tượng cụ thể và áp dụng hình phạt đúng cho
từng trường hợp cụ thể.
1.1.2. Các tiêu chí phân loai tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Căn cứ phân loại tội phạm là những căn cứ làm cơ sở để phân chia những
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm thành các loại tội nhất định.
Ở Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về dấu hiệu (căn cứ) để phân loại
tội phạm, như GS.TSKH.Lê Văn Cảm chỉ ra có sáu tiêu chí cơ bản để phân loại
tội phạm[2,Tr.319], trong khi đó giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường
14
Đại Học Luật Hà Nội lại cho rằng các loại tội phạm được phân biệt với nhau
bởi dấu hiệu về nội dung và dấu hiệu về hậu quả pháp lý (tức là có 2 tiêu
chí)[7,Tr.69] còn quy định tại điều 9 bộ luật hình sự 2015 về phân loại tội phạm
như sau:
“1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
được quy định trong bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình.
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định
tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy
định tại Điều 76 của Bộ luật này.”
Như vậy, bộ luật hình sự 2015 quy định căn cứ phân loại tội phạm bao
gồm: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, căn cứ thứ hai là dựa vào
mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng cho loại tội phạm tương ứng.
15
Căn cứ thứ nhất căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi:
Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi là dấu hiệu về nội dung của tội
phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là đặc điểm khách quan mà nhà làm luật
ghi nhận trong định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm theo bộ luật hình sự
Việt Nam. Vì bất kỳ tội phạm nào đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên tính
nguy hiểm cho xã hội phản ánh nội dung của tội phạm. Khi một hành vi nguy
hiểm cho xã hội gây nên (hoặc đe dọa gây ra thiệt hại trên thực tế) thiệt hại
đáng kể cho các lợi ích của con người, của xã hội và của Nhà nước với tính chất
là các khách thể được bảo vê bằng pháp luật hình sự, thì hành vi đó bị luật hình
sự cấm – bị nhà làm luật tội phạm hóa[2,Tr.398].
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có sự thể hiện về chất và về
lượng, mà cụ thể: tính chất nguy hiểm cho xã hội là sự thể hiện về chất và là
đại lượng để so sánh tính nguy hiểm cho xã hội của các nhóm tội phạm khác
nhau về khách thể loại, thông thường nó được xác định bằng ý nghĩa và tầm
quan trọng của các nhóm khách thể (loại) tương ứng bị tội phạm xâm hại đến
và mức độ nguy hiểm cho xã hội – sự thể hiện về lượng và là đại lượng để so
sánh tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm cụ thể cùng khách thể loại,
thông thường nó được xác định bằng thiệt hại do chính mỗi tội phạm tương ứng
được thực hiện gây nên hoặc có thể gây nên[2,Tr.298-Tr.299].
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là tiêu chí khách quan về
lượng, phản ánh thuộc tính vật chất và cơ bản nhất của hành vi phạm tội và thể
hiện trong khả năng gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại cho các
quan hệ xã hội (khách thể) - các lợi ích của con người, của xã hội và của nhà
nước, được bảo vệ bằng pháp luật hình sự vì tiêu chí này chính là dấu hiệu
khách quan khẳng định bản chất xã hội (nội dung vật chất) của tội phạm mà
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà làm luật[2,Tr.319-Tr.320].
Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là tiêu chí khách quan về số,
có tính chất bổ sung để phân biệt rõ hơn từng loại tội phạm, đồng thời là sự
16
biểu hiện cụ thể của tiêu chí thứ nhất và nó có thể cho các cơ quan thực tiễn tư
pháp hình sự thấy rằng: Hậu quả của sự gây nguy hại cho xã hội của tội phạm
đến chừng mực nào (không lớn, lớn, rất lớn hay là đặc biệt lớn) cho các khách
thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự (riêng trong các cấu thành tội phạm vật
chất, thì chính tiêu chí này xác định mức độ gây nguy hại cho xã hội của hậu
quả phạm tội xẩy ra đến đâu?)[2,Tr.320].
Như vậy, tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm là hai phạm trù khoa học có mối quan hệ biện
chứng với nhau, cụ thể là hai phạm trù này có mối quan hệ lượng chất, trong
đó tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là chất, còn mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi là lượng. Hai phạm trù này bổ sung cho nhau, mức độ
nguy hiểm bổ sung để phân biệt từng loại tội phạm, là sự biểu hiện tính chất
nguy hiểm của hành vi, ngược lại tính chất nguy hiểm của hành vi càng lớn thì
hậu quả gây ra trên thực tế hoặc đe dọa gây ra trên thực tế càng lớn, tức là mức
độ nguy hiểm của hành vi càng lớn. Hay nói cách khác tính chất nguy hiểm của
hành vị và mức độ nguy hiểm của hành vi không thể tách rời, hỗ trợ lẫn nhau
để phân loại tội phạm.
Điểm mới của bộ luật hình sự năm 2015 so với bộ luật hình sự 1999 đó là
thay vì quy định chung chung, thì bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định nhấn
mạnh vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vị, cụ thể:
Bộ luật hình sự 1999 quy định tội ít nghiêm trọng là tội phạm gây ra
nguy hại không lớn cho xã hội trong khi đó bộ luật hình sự 2015 quy định
tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội không
lớn, bộ luật hình sự 2015 khẳng định mối quan hệ giữa tính chất nguy hiểm
và mức độ nguy hiểm của hành vi, không chỉ quy định về hậu quả tác động
của hành vi như bộ luật hình sự 1999.
Về tội phạm nghiêm trọng, trong khi bộ luật hình sự 1999 quy định về
hậu quả pháp lý của hành vi gây nguy hại lớn cho xã hội, thì bộ luật hình sự
17
2015 nhấn mạnh mối quan hệ giữa tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
tác động lớn đến xã hội.
Về tội phạm rất nghiêm trọng, bộ luật hình sự 1999 quy định đó là tội
phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội. Trong khi đó, bộ luật hình sự 2015 quy
định tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội lớn.
Cuối cùng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, theo quy định của bộ luật
hình sự 2015, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn trong khi đó bộ luật hình sự 1999 lại quy định
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại đặc biệt lớn
Như vậy quy định phân loại tội phạm trong bộ luật hình sự năm 2015, nhà
làm luật đã nhấn mạnh hơn căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi để phân loại tội phạm thành bốn loại tội, sự thay đổi về mặt kỹ thuật lập
pháp, thỏa mãn tiêu chí chặt chẽ về mặt cấu trúc, nhất quán về mặt logic pháp
lý, chính xác về mặt khoa học do GS.TSKH.Lê Văn Cảm đưa ra.
Căn cứ thứ hai căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt được áp
dụng: Khung hình phạt được áp dụng là chế tài mà người thực hiện hành vi
hoặc PNTM phải chịu khi thực hiện hành vi được cho là tội phạm. Chế tài do
luật quy định đối với việc thực hiện loại tội phạm tương ứng là tiêu chí pháp lý
có tính chất bổ sung như là thước đo để các cơ quan tư pháp hình sự phân biệt
được rõ ràng nhất từng loại tội phạm, đồng thời phản ánh cụ thể nhất kỹ thuật
lập pháp, niểm tin nội tâm, trình độ khoa học, sự hiểu biết về pháp luật và thực
tiễn đời sống xã hội của nhà làm luật trong việc nhận thức ba tiêu chí trên đây
như thế nào, vì khi xây dựng các chế tài pháp lý hình sự trong các Cấu thành
tội phạm ở phần riêng pháp luật hình sự tiêu chí này hoàn toàn phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của chính nhà làm luật[2,Tr.320-Tr.321].
Tuy nhiên với pháp nhân thương mại và một cá nhân cụ thể thì chế tài cho
hai loại chủ thể này cũng khác nhau, một pháp nhân thương mại thì không thể
18
có chế tài là hình phạt tù, do vậy mà căn cứ khung hình phạt đối với pháp nhân
thương mại để phân loại tội phạm chưa thực sự hợp lý.
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định căn cứ khung hình phạt có sự thay đổi
đối với bộ luật hình sự 1999, trong khi bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định mức
hình phạt cao nhất, thì bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt tối
thiểu và cao nhất cho từng loại tội, cụ thể:
Bộ luật hình sự 1999 quy định tội phạm ít nghiêm trọng có mức cao nhất
của khung hình phạt là đến ba năm tù trong khi đó bộ luật hình sự 2015 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù đến 03 năm tù.
Đối với tội phạm nghiêm trọng, bộ luật hình sự 1999 quy định mức cao
nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù, không quy định mức tối thiểu như
vậy đôi khi với những tội phạm bị tuyên án là 2 năm tù vẫn có thể là tội phạm
nghiêm trọng. Bộ luật hình sự 2015 đã khắc phục nhược điểm này, quy định rõ
mức tối thiểu và mức cao nhất của loại tội phạm này cụ thể: Tội phạm nghiêm
trọng có mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này quy định đối với tội
phạm ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng theo quy định của bộ luật hình sự 1999 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù, bộ luật hình sự
2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
Cuối cùng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, bộ luật hình sự 2015 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này quy định đối với tội ấy
là từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình còn bộ luật hình sự
1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.
Mặc dù là bộ luật hình sự 2015 đã có sự phát triển, khắc phục những hạn
19
chế quy định của bộ luật hình sự trong việc xác định loại tội phạm căn cứ vào
khung hình phạt tù, tuy nhiên lại có nhược điểm về căn cứ phân loại tội phạm
của pháp nhân thương mại. Khi quy định tội ít nghiêm trọng, khung hình phạt
cao nhất là hình phạt tiền, Trong khi đó pháp nhân có hình phạt chủ yếu là hình
phạt tiền và không có hình phạt tù.
Mối quan hệ giữa căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và căn
cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt có mối quan hệ biện chứng với nhau,
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi càng lớn thì khung hình phạt áp
dụng cho chủ thể đó càng lớn và ngược lại.
Từ việc xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền có thể ước lượng được khung hình phạt có thể
được áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi. Ngược lại, ở phần riêng của bộ
luật hình sự, mỗi loại tội danh cụ thể nhà làm luật không nêu rõ hành vi nào là
hành vi gây thiệt hại lớn cho xã hội, hành vi nào có tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi là rất lớn mà chỉ quy định khung hình phạt cụ thể cho từng
loại tội, từ khung hình phạt mà đọc giả có thể phân loại được thế nào là tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy khung hình phạt là phạm trù hình thức còn tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi là phạm trù nội dung, khung hình phạt càng cao thể hiện
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi càng lớn.
Tiêu chí phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại quy định tại
khoản 2 điều 9 của bộ luật hình sự 2015 về mặt lý luận cũng tương tự như căn
cứ phân loại tội phạm đối với cá nhân, cụ thể:
Căn cứ thứ nhất, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
để phân loại tội phạm thành bốn loại tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
20
Căn cứ thứ hai là căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt. Theo quy
định của khoản 1 điều 9 của bộ luật hình sự, căn cứ khung hình phạt để phân
loại tội phạm chưa hợp lý, bởi khung hình phạt làm căn cứ để phân loại tội
phạm chủ yếu được áp dụng với cá nhân, còn pháp nhân thương mại thì không
có hình phạt tù. Nếu cho rằng theo quy định của khoản 1 thì pháp nhân thương
mại chỉ phạm vào loại tội phạm ít nghiêm trọng do pháp nhân thương mại chỉ
có hình phạt tiền thì không hợp lý bởi lẽ mỗi hành vi nguy hiểm khác nhau sẽ
cần phải có biện pháp xử lý khác nhau, mức độ răn đe khác nhau mới đảm bảo
giữa các pháp nhân. Mặt khác kết quả của việc phân loại tội phạm còn ảnh
hưởng trực tiếp đến xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và điều
kiện truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy không thể cho rằng mọi pháp nhân
thương mại phạm tội đều phạm vào loại tội phạm ít nghiêm trọng.
Theo quy định tại điều 83 bộ luật hình sự 2015 quy định căn cứ quyết định
hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: “Khi quyết định hình phạt,
Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân
thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng
đối với pháp nhân thương mại.” Như vây, khung hình phạt được áp dụng cho
từng loại tội phạm cụ thể, và nó cũng căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm
của hành vi để cơ quan tư pháp quyết định hình phạt cho phù hợp với hành vi.
Do vậy, căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và căn cứ vào khung
hình phạt có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi càng lớn thì khung hình phạt áp dụng cho chủ thể đó càng lớn và
ngược lại. Từ việc xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có thể ước lượng được khung hình phạt có
thể được áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi. Ngược lại, ở phần riêng
của bộ luật hình sự, mỗi loại tội danh cụ thể nhà làm luật không nêu rõ hành vi
21
nào là hành vi gây thiệt hại lớn cho xã hội, hành vi nào có tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi là rất lớn mà chỉ quy định khung hình phạt cụ thể cho
từng loại tội, từ khung hình phạt mà đọc giả có thể phân loại được thế nào là
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy khung hình phạt là phạm trù hình thức
còn tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi là phạm trù nội dung, khung
hình phạt càng cao thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi càng
lớn.
1.2. Sự cần thiết của việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân phạm tội
Việc phân loại tội phạm mang lại rất nhiều ý nghĩa cụ thể phân loại tội
phạm để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm từ đó quy định
hình phạt và áp dụng hình phạt, phân loại tội phạm để xác định thười hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng
tội phạm cụ thể; từ việc xác định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sựđối với từng trường hợp cụ thể của pháp nhân thương mại, chúng ta xác định
được hành vi trái pháp luật đó của pháp nhân thương mại có đủ điều kiện bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? phân loại tội phạm để sắp xếp, hệ
thống hóa các tội phạm trong bộ luật hình sự theo từng chương, bảo đảm tính
khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.
Thứ nhất phân loại tội phạm để xác định tội phạm theo tính chất và mức
độ nguy hiểm, từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt. Bộ luật hình sự
2015, nhà làm luật kế thừa quy định về phân loại tội phạm của bộ luật hình sự
1999 quy định tội phạm được chia thành bốn loại tội bao gồm tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân hóa thành bốn nhóm tội phạm nhằm phân hóa
trách nhiệm hình sự, là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt
cho các tội cụ thể, là căn cứ cho các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện được
22
nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi áp dụng luật hình sự.
Thứ hai, phân loại tội phạm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm cụ thể.
mỗi một loại tội phạm với chủ thể là pháp nhân thương mại cũng được nhà làm
luật quy định thời thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự khác nhau. Theo quy
định tại khoản d điều 75 bộ luật hình sự 2015 quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 của bộ luật hình sự này. chiếu đến khoản 2 và khoản 3 của bộ luật hình
sự, quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: 05 năm đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng, 15 năm với tội
phạm rất nghiêm trọng và 20 năm với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện
hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể
từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Như vậy, từ hoạt động phân loại tội
phạm thành 04 loại tội được quy định trong bộ luật hình sự, chúng ta có thể xác
định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sựđối với các hành vi trái pháp
luật của pháp nhân thương mại trong từng trường hợp cụ thể.
Ý nghĩa thứ ba xuất phát từ ý nghĩa thứ hai vừa được nêu ở trên. Từ việc
xác định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp
cụ thể của pháp nhân thương mại, chúng ta xác định được hành vi trái pháp luật
đó của pháp nhân thương mại có đủ điều kiện bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hay không? theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 75 của bộ luật hình sự 2015,
một trong những điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
đó là chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi phát hiện
hành vi trái pháp luật của pháp nhân thương mại, nếu đã đủ 03 dấu hiệu được
23
quy định tại điểm a, b, c của khoản 1 điều 75, nhưng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đã hết, thì pháp nhân thương mại đó cũng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và ngược lại, nếu còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự thì pháp nhân thương mại đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật. Như vậy việc phân loại tội phạm có ý nghĩa trong việc xác
định pháp nhân thương mại có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không.
Thứ tư, phân loại tội phạm để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong bộ
luật hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác
nghiên cứu và áp dụng. Từ quá trình phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa
trách nhiệm hình sự thành 04 loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biêt nghiêm trọng, dựa trên quá
trình áp dụng trên thực tế là cơ sở thống nhất cho nhà làm luật sắp xếp, hệ thống
hóa các tội phạm trong luật hình sự thành từng chương, đảm báo tính khoa học,
thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, học tập và áp dụng, tránh quy định trồng chéo
lên nhau, khiến bộ luật hình sự trở nên khó hiểu, khó áp dụng.
Trên thực tế có quá nhiều vấn đề liên quan đến việc phân loại tội phạm
như xác định thẩm quyền điều tra, xét xử, xác định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự…. nếu việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại
không được quy định rõ ràng sẽ khó có thể phân loại đúng tội phạm dẫn đến
việc áp dụng hình phạt không đúng người đúng tội, đồng thời không phù hợp
với nguyên tắc đảm bảo sự công bằng được quy định trong bộ luật hình sự, dẫn
đến việc không bảo vệ được quyền lợi của con người, nhiệm vụ chính của nhà
nước pháp quyền.
1.3. Phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong
pháp luật hình sự một số nước.
1.3.1. Phân loại tội phạm đối với pháp nhân trong bộ luật hình sự Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa.
24
Mặc dù bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định
rõ ràng phân loại tội phạm (cả pháp nhân và cá nhân) thành một chế định
như một số quốc gia trên thế giới, nhưng khi nghiên cứu bộ luật này, chúng
ta có thể đưa ra kết luận bộ luật hình sự cộng hòa nhân dân trung hoa quy
định việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo loại tội
phạm mà cá nhân là người có liên quan (người trực tiếp phụ trách hoặc người
chịu trách nhiệm trực tiếp khác).
Cụ thể các điều khoản quy định hình phạt đối với đơn vị có hành vi
phạm tội ở điều 152 bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định
“ Đơn vị nào phạm tội như quy định ở 2 khoản nói trên thì sẽ bị phạt tiền,
người trực tiếp phụ trách và người chịu trách nhiệm trực tiếp khác thì sẽ bị
xử phạt theo quy định tại hai khoản nói trên”[3] hoặc điều 153 quy định như
sau: “ Đơn vị nào phạm tội nói trên thì phạt tiền đơn vị đó: Người phụ trách
trực tiếp và người chịu trách nhiệm khác thì bị phạt tù đến dưới 3 năm hoặc
cải tạo lao động nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10
năm; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên.
Đối với những trưởng hợp đã buôn lậu nhiều lần những chưa bị xử lý thì căn
cứ và mức tiền trốn thuế mà xử phạt”.[3]
Nhà làm luật nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định phân loại
tội phạm đối với pháp nhân thông qua người có liên quan, bởi lẽ pháp nhân
không có bộ não như một con người, không thể tự thực hiện hành vi mà
thông qua một cá nhân để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, do vậy
nhà làm luật ngầm quy định người trực tiếp phụ trách và người chịu trách
nhiệm trực tiếp bị tuy cứu trách nhiệm hình sựở loại tội phạm nào thì pháp
nhân sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở loại tội phạm đó.
Từ việc nghiên cứu bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, theo quan điểm của tác giả nhà làm luật chia tội phạm thành bốn loại
25
tội. Cụ thể:
“Điều 87 bộ luật hình sự Công hòa Nhân dân Trung Hoa quy định như
sau:
Không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nếu đã qua
các thời hạn sau đây:
1. 5 năm tính từ ngày phạm tội mà theo quy định của pháp luật hình phạt cao
nhất đối với tội đó là dưới 05 năm.
2. 10 năm tính từ ngày phạm tội mà theo quy định của pháp luật hình phạt cao
nhất đối với tội đó là tù từ 5 năm đến dưới 10 năm.
3. 15 năm tính từ ngày phạm tội mà theo quy định của pháp luật hình phạt cao
nhất đối với tội đó là tù từ 10 năm trở lên.
4. 20 năm tính từ ngày phạm tội mà theo quy định của pháp luật hình phạt cao
nhất đối với tội đó là tù từ chung thân hoặc tử hình. Nếu như sau 20 năm mà
thấy vẫn cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm
hình sự thì phải được viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn”[3]
Rõ ràng nhà làm luật của nước này đang ngầm quy định tội phạm được
chia thành bốn loại tội, tương ứng với từng loại tội phạm là khung hình phạt
khác nhau từ ít nghiêm khắc đến rất nghiêm khắc.
Mặt khác, nhà làm luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không
quy định rõ ràng căn cứ để phân loại các loại tội phạm thàng 04 loại tội, tuy
nhiên khi nghiên cứu điều 61 của bộ luật hình sự nước này có thể thấy được
căn cứ phân loại tội phạm là căn vào tính chất, tình tiết và mức độ gây nguy hại
cho xã hội của hành vi phạm tội. Cụ thể:
Điều 61 quy định như sau: “Khi quyết định hình phạt đối với người phạm
tội cần phải căn cứ vào thực tế, tính chất, tình tiết và mức độ nguy hại cho xã
hội của hành vi phạm tội theo những quy định có liên quan trong Bộ luật
này[3].”
26
Như vậy thực tế, tính chất, tình tiết của hành vi phạm tội càng nguy hiểm
và mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội càng lớn thì hình phạt áp
dụng cho hành vi đó càng nghiêm khắc.
Kết hợp hai quy định được trích dẫn ở trên, ta hoàn toàn có thể kết luận
được rằng nhà làm luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội và khung hình phạt
tương ứng mà hành vi phạm tội đó phải chịu để phân loại tội phạm thành bốn
loại tội phạm khác nhau.
Như vậy, theo tác giả nước ta đã có sự học hỏi từ nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa về căn cứ phân loại tội phạm, và ở một khía cạnh nhất định cho
thấy nhà làm luật nước ta cũng có sự học hỏi về mặt hình thức, mặc dù Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa không quy định rõ ràng thành một chế định phân loại
tội phạm như nước ta, tuy nhiên Việt Nam quy định phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại và cá nhân trong cùng một chế định để thấy được mối
liên hệ giữa hai chủ thể này.
Mặt khác, căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi để phân
loại tội phạm cũng là điểm tương đồng giữa hai bộ luật hình sự. Tuy bộ luật
hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không quy định rõ ràng căn cứ vào tính
chất mức độ nguy hiểm của hành vi để phân chia tội phạm thành các loại tội
phạm khác nhau như bộ luật hình sự nước ta, tuy nhiên ở một số điều luật của
bộ luật hình sự nước này, có quy định thể hiện việc căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi trên thực tế để phân chia tội phạm thành các loại tội
phạm khác nhau.
Về số lượng loại tội phạm cũng được chia thành bốn loại tội phạm, và
khung hình phạt của bốn loại tội phạm này cũng thể hiện nhà làm luật của nước
ta có sự học hỏi từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua việc quy định
mức hình phạt tối thiểu của từng loại tội phạm, sửa đổi so với bộ luật hình sự
27
trước đây chỉ quy định khung hình phạt tối đa.
1.3.2. Phân loại tội phạm đối với pháp nhân trong bộ luật hình sự Cộng
hòa Pháp
Điều 111-1 bộ luật hình sự Pháp quy định như sau: “Criminal offences are
categorised as according to their seriousness asfelonies misdemeanours or petty
offences”. Được hiểu là tội phạm hình sự được phân loại theo mức độ nghiêm
trọng của chúng, mà phân loại tội phạm là trọng tội, tội nhẹ (khinh tội) hoặc vi
phạm nhỏ.
Theo quy định của chế định phân loại tội phạm trong bộ luật hình sự cộng
hòa pháp, thì căn cứ duy nhất để phân loại tội phạm đó là mức độ nghiêm trọng
của hành vi để phân chia tội phạm thành ba loại đó là trọng tội, tội nhẹ (khinh
tội) và vi phạm nhỏ. Tuy nhiên, trong bài viết “Tìm hiểu pháp luật hình sự của
cộng hòa pháp”, tác giả Phạm Thị Thảo có viết: “trong thực tế, việc phân loại
tội phạm thành ba nhóm nói trên còn dựa vào thẩm quyền xác định các loại tội
phạm đó. Thẩm quyền quy định trọng tội và thường tội thuộc về cơ quan lập
pháp dưới hình thức ban hành các đạo luật (bộ luật hình sự hoặc các đạo luật
chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống trong đó có xác định
tội phạm và hình phạt). Thẩm quyền quy định tội vi cảnh thuộc về Hội đồng
Nhà nước dưới dạng các điều lệ”[9]. Theo quy định tại điều 111-2 bộ luật hình
sự pháp quy định:
“Statute defines felonies and misdemeanours and determines the penalties
applicable to their perpetrators.
Regulations define petty offences and determine the penalties applicable
to those who commit them, within the limits and according to the distinctions
established by law.”
Có thể hiểu là việc xác định trọng tội và tội nhẹ, xác định hình phạt cho
các loại tội mà người thực hiện hành vi phải chịu được quy định trong đạo luật.
28
Còn xác định hành vi đó có phải là vi phạm nhỏ và xác định hình phạt đối với
chủ thể hành vi đó sẽ do các quy định do các luật lệ.”
Như vậy, trọng tội, khinh tội hay vi phạm nhỏ còn được phân biệt do thẩm
quyền xác định của từng loại tội phạm. Hơn nữa khi nghiên cứu Điều 121-3 bộ
luật hình sự Cộng hòa Pháp quy định: “There is no felony or misdemeanour in
the absence of an intent to commit it.” Được hiểu là không có trọng tội hoặc tội
nhẹ (khinh tội) trong trường hợp không có ý định thực hiện nó. Hay nói cách
khác, trong trường hợp này nhà làm luật còn khẳng định có yếu tố lỗi khi thực
hiện hành vi phạm tội, một hành vi phạm tội được cho là trọng tội hoặc tội nhẹ
khi hành vi đó được thực hiện bằng lỗi cố ý.
Ngoài ra điều 131-37 bộ luật hình sự Cộng Hòa Pháp quy định:
“Penalties for felonies and misdemeanours incurred by legal persons are: 1° a
fine;
2° in the cases set out by law, the penalties enumerated under Article 131-39.”
Được hiểu là: “Hình phạt cho trọng tội và tội nhẹ do pháp nhân gây ra là: 1
phạt tiền, 2 trong trường hợp được quy định bởi pháp luật, các hình phạt được
liệt kê theo điều 131-39”
Điều 131-38: “The maximum amount of a fine applicable to legal
persons is five times that which is applicable to natural persons by the law
sanctioning the offence. Where this is an offence for which no provision is
made for a fine to be paid by natural persons, the fine incurred by legal
persons is €1,000,000.” Được hiểu là: “Số tiền phạt tối đa áp dụng đối với
pháp nhân là năm lần áp dụng đối với thể nhân theo luật xử phạt hành vi
phạm tội. Trong trường hợp đó là hành vi phạm tội mà không có điều khoản
nào được đưa ra để phạt tiền theo cá nhân, thì tiền phạt mà pháp nhân phải
chịu là 1.000.000 Euro”.
Như vậy, nhà làm luật quy định chế định phân loại tội phạm được áp
29
dụng cho cá nhân và pháp nhân, và căn cứ duy nhất để phân loại tội phạm
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để phân loại
tội phạm, tuy nhiên trong một số điều luật nhà làm luật ngầm quy đinh thẩm
quyền xác định loại tội phạm. Ngoài ra, nhà làm luật Cộng hòa Pháp có quy
định các hình phạt đối với pháp nhân được cho là có hành vi phạm tội là trọng
tội và tội nhẹ, và số tiền mà pháp nhân phải chịu bằng năm lần được áp dụng
đối với thể nhân theo luật xử phạt hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, ngoài
căn chính là căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành để phân loại
tội phạm, chúng ta có thể dựa vào thẩm quyền xác định loại tội phạm và hình
phạt để phân loại tội phạm.
Về mặt hình thức cho thấy, điểm tương đồng giữa bộ luật hình sự nước
ta và bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp có điểm tương đồng quy định phân loại
tội phạm thành một chế định riêng biệt, về mặt nội dung, trong chế định phân
loại tội phạm của nước ta có quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với cả
hai chủ thể của tội phạm là cá nhân đối với khoản 1 và pháp nhân được quy
định ở khoản 2, còn bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp lại quy định chung chung
căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi để phân loại tội phạm
thành trọng tội, khinh tội và vi phạm nhỏ. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ bộ
luật hình sự của Cộng hòa Pháp không thể phủ nhận điểm tưởng đồng giữa
bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và Việt Nam về phân loại tội phạm đối với
chủ thể là pháp nhân đó là căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành
vi để xác định loại tội phạm.
Từ nghiên cứu trên về phân loại tội phạm của Cộng hòa Pháp, không
thể phủ nhận nhà làm luật đã có sự học hỏi kinh nghiệm của các nước trên
thế giới khi quyết định quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của
tội phạm, kể cả về mặt kỹ thuật lập pháp và nội dung. Tuy nhiên, do chưa có
kinh nghiệm trên thực tế vì ở Việt Nam kể từ khi bộ luật hình sự ra đời đến
30
nay, trải qua các thời kỳ xây dựng đất nước, chưa có một pháp nhân thương
mại nào bị truy cứu trách nhiệm về mặt hình sự, do vậy không tránh khỏi việc
quy định còn nhiều thiếu sót và không hợp lý.
31
Kết luận chương 1
Sau ba lần pháp điển hóa, lần đầu tiên nhà làm luật Việt Nam quy định
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là một bước ngoặt
mới trong lịch sử lập pháp của nước ta. Trước đây, do còn nhiều tranh luận về
yếu tố lỗi - một trong các dấu hiệu của tội phạm, các nhà khoa học cho rằng
pháp nhân thương mại không phải là một thể nhân, nó không thể có bộ não, các
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người điều hành nó gây ra. Tuy nhiên, hiện
nay với chính sách mở của, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đặt ra đỏi hỏi, pháp luật Việt Nam cần phải có sự tiến bộ, học hỏi và
rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới, phù hợp với các công ước và
luật quốc tế, do vậy mà trong lần pháp điển hóa lần thứ ba này, nhà làm luật đã
thừa nhận pháp nhân thương mại cũng là một chủ thể của tội phạm.Việc quy
định thêm chủ thể của tội phạm đã làm phát sinh thêm những vấn đề liên quan
đến chủ thể này, trong đó vấn đề phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại đang gây ra nhiều tranh luật trái chiều trong khoa học luật hình sự.
Từ những phân tích trước đó, theo quan điểm của tác giả phân loại tội
phạm đối với pháp nhân thương mại là hoạt động chia các tội phạm là pháp
nhân thương mại thành những nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất
định nhằm phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với pháp
nhân thương mại đó.
Từ khái niệm vừa được rút ra thì phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại có những đặc điểm sau: đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại là hoạt động chia các tội phạm. Những hành vi phạm tội cụ
thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là khác nhau, tội phạm bao
gồm những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đến những hành
vi có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn. Mỗi loại tội phạm lại có sự khác
nhau ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra
32
hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Do
vậy đỏi hỏi phải phân loại tội phạm từ đó phân hóa trách nhiệm hình sự và
quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại trong những trường hợp cụ
thể nhằm đảm bảo nguyên tắc mọi pháp nhân thương mại đều bình đẳng trước
pháp luật được quy định tại khoản 2 điều 3 quy định trong bộ luật hình sự 2015.
Trong bộ luật hình sự hiện hành, quy định chia tội phạm thành bốn loại tội đó
là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi và khung hình phạt để phân loại tội phạm thành bốn loại tội được
nêu ở trên, mỗi loại tội phạm sẽ có căn cứ vào khung hình phạt khác nhau.
Những tội có tính chất, mức độ nguy hiểm càng lớn thì khung hình phạt tương
ứng với loại tội phạm đó càng cao.
Đặc điểm thứ hai, kết quả của hoạt động chia tội phạm đó thành những
nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Trong bộ luật hình sự 2015
quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là căn cứ
vào khoản 1 điều 9 và điều 76 của bộ luật hình sự 2015, cụ thể căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi để chia tội phạm thành 04 loại tội phạm
đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, khoản 1 điều 9 của bộ luật
hình sự còn căn cứ vào khung hình phạt để phân loại tội phạm, theo tác giả quy
định này chưa thực sự hợp lý bởi lẽ hình phạt được quy định tại khoản 1 bao
gồm hình phạt tù - hình phạt được áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng
đối với pháp nhân và điều 76 quy định mang tính chất liệt kê các loại tội phạm
mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự
Đặc điểm cuối cùng của việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại là mục đích của việc phân loại tội phạm nhằm phân hóa trách nhiệm hình
sự và các thể hóa hình phạt đối với pháp nhân thương mại. Phân hóa trách
33
nhiệm hình sự là nội dung quy định đường lối xử lý được thể hiện trong luật để
phân biệt đối với từng loại trường hợp phạm tội nhất định. Cá thể hóa hình phạt
là từ việc phân biệt từng loại trường hợp phạm tội nhất định để quyết định áp
dụng hình phạt hợp lý. Mỗi hành vi phạm tội khác nhau sẽ gây ra hậu quả pháp
lý khác nhau, do đó vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt
cho mội loại tội phạm sẽ khác nhau mới đảm bảo được tính công bằng.
Bộ luật hình sự 2015 quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại bao gồm: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, căn cứ
thứ hai là dựa vào khung hình phạt được áp dụng cho loại tội phạm tương ứng.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và căn cứ vào khung hình phạt
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi càng lớn thì khung hình phạt áp dụng cho chủ thể đó càng lớn và ngược lại.
Từ việc xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền có thể ước lượng được khung hình phạt có thể được áp
dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi. Ngược lại, ở phần riêng của bộ luật
hình sự, mỗi loại tội danh cụ thể nhà làm luật không nêu rõ hành vi nào là hành
vi gây thiệt hại lớn cho xã hội, hành vi nào có tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi là rất lớn mà chỉ quy định khung hình phạt cụ thể cho từng loại tội,
từ khung hình phạt mà đọc giả có thể phân loại được thế nào là tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy khung hình phạt là phạm trù hình thức còn tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi là phạm trù nội dung, khung hình phạt
càng cao thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi càng lớn. Tuy
nhiên, với quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại hiện nay
còn nhiều tranh cãi do nhà làm luật quy định căn cứ thứ 2 - căn cứ vào khung
hình phạt, trong khi đó khung hình phạt được quy định lại không hợp lý do
khung hình phạt quy định trong luật chủ yếu được áp dụng cho cá nhân - hình
34
phạt tù, còn đối với pháp nhân thương mại hình phạt chính là hình phạt tiền,
không có hình phạt tù.
Việc phân loại tội phạm mang lại rất nhiều ý nghĩa cụ thể như sau: Thứ
nhất phân loại tội phạm để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy
hiểm, từ đó cá thể hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt phù hợp. Bộ
luật hình sự năm 2015, nhà làm luật kế thừa quy định về phân loại tội phạm của
bộ luật hình sự 1999 quy định tội phạm được chia thành bốn loại tội bao gồm
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân hóa thành bốn nhóm tội phạm nhằm
phân hóa trách nhiệm hình sự, là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung
hình phạt cho các tội cụ thể, là căn cứ cho các chủ thể áp dụng pháp luật thực
hiện được nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi áp dụng luật hình sự.
Thứ hai, phân loại tội phạm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm cụ thể.
Mỗi một loại tội phạm với chủ thể là pháp nhân thương mại cũng được nhà làm
luật quy định thời thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự khác nhau. Theo quy
định tại khoản d điều 75 bộ luật hình sự 2015 quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 của bộ luật hình sự này. Chiếu đến khoản 2 và khoản 3 của bộ luật hình
sự, quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: 05 năm đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, 10 (mười) năm đối với tội phạm nghiêm trọng, 15 năm
với tội phạm rất nghiêm trọng và 20 năm với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực
hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực
hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại
kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Như vậy, từ hoạt động phân loại tội
35
phạm thành 04 loại tội được quy định trong bộ luật hình sự, chúng ta có thể xác
định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi trái pháp
luật của pháp nhân thương mại trong từng trường hợp cụ thể.
Ý nghĩa thứ ba xuất phát từ ý nghĩa thứ hai vừa được nêu ở trên. Từ việc
xác định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp
cụ thể của pháp nhân thương mại, chúng ta xác định được hành vi trái pháp luật
đó của pháp nhân thương mại có đủ điều kiện bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hay không? Theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 75 của bộ luật hình sự 2015,
một trong những điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
đó là chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi phát hiện
hành vi trái pháp luật của pháp nhân thương mại, nếu đã đủ 03 dấu hiệu được
quy đinh tại điểm a,b,c của khoản 1 điều 75, nhưng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đã hết, thì pháp nhân thương mại đó cũng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và ngược lại, nếu còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự thì pháp nhân thương mại đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật. như vậy việc phâ loại tội phạm có ý nghĩa trong việc xác
định pháp nhân thương mại có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không.
Thứ tư, phân loại tội phạm để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong bộ
luật hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác
nghiên cứu và áp dụng. Từ quá trình phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa
trách nhiệm hình sự thành 04 loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biêt nghiêm trọng, dựa trên quá
trình áp dụng trên thực tế là cơ sở thống nhất cho nhà làm luật sắp xếp, hệ thống
hóa các tội phạm trong luật hình sự thành từng chương, đảm báo tính khoa học,
thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, học tập và áp dụng, tránh quy định trồng chéo
lên nhau, khiến bộ luật hình sự trở nên khó hiểu, khó áp dụng.
Trên thực tế có quá nhiều vấn đề liên quan đến việc phân loại tội phạm
36
như xác định thẩm quyền điều tra, xét xử, xác định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự…. nếu việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại
không được quy định rõ ràng sẽ khó có thể phân loại đúng tội phạm dẫn đến
việc áp dụng hình phạt không đúng người đúng tội, đồng thời không phù hợp
với nguyên tắc đảm bảo sự công bằng được quy định trong bộ luật hình sự, dẫn
đến việc không bảo vệ được quyền lợi của con người, nhiệm vụ chính của nhà
nước pháp quyền, do đó cần phải quy định rõ ràng phân loại tội phạm đối với
chủ thể đặc biệt này.
Theo tác giả, khi tiến hành xây dựng chế định phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại, nhà làm luật nước ta đã có sự học hỏi từ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa về căn cứ phân loại tội phạm, và ở một khía cạnh nhất
định cho thấy nhà làm luật nước ta cũng có sự học hỏi về mặt hình thức, mặc
dù Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không quy định rõ ràng thành một chế định
phân loại tội phạm như nước ta, tuy nhiên Việt Nam quy định phân loại tội
phạm đối với pháp nhân thương mại và cá nhân trong cùng một chế định để
thấy được mối liên hệ giữa hai chủ thể này. Điểm tương đồng của bộ luật hình
sự nước ta và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phân loại tội phạm thành bốn loại
tội và căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi để phân loại tội phạm.
Điểm khác biệt của hai bộ luật hình sự đó là, ở Việt Nam không quy định rõ
ràng pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự với loại tội như người có liên
quan trực tiếp, hoặc người có trách nhiệm trực tiếp như nước Cộng hoa Nhân
dân Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, một số học giả cũng cho rằng,
nhà làm luật đang ngầm quy định rằng, loại tội phạm mà pháp nhân thương mại
được xác định theo người đại diện.
Nghiên cứu bộ luật hình sự Công hòa Pháp cho thấy nhà làm luật quy
định chế định phân loại tội phạm được áp dụng cho cá nhân và pháp nhân,
và căn cứ duy nhất để phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
37
hiểm của hành vi phạm tội để phân loại tội phạm, tuy nhiên trong một số điều
luật nhà làm luật ngầm quy đinh thẩm quyền xác định loại tội phạm. Ngoài
ra, nhà làm luật Cộng hòa Pháp có quy định các hình phạt đối với pháp nhân
được cho là có hành vi phạm tội là trọng tội và tội nhẹ, và số tiền mà pháp
nhân phải chịu bằng năm lần được áp dụng đối với thể nhân theo luật xử phạt
hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, ngoài căn chính là căn cứ vào tính chất
mức độ nguy hiểm của hành để phân loại tội phạm, chúng ta có thể dựa vào
thẩm quyền xác định loại tội phạm và hình phạt để phân loại tội phạm.
Điểm tương đồng giữa bộ luật hình sự Cộng Hòa Pháp và Việt Nam về
phân loại tội phạm đối với chủ thể là pháp nhân đó là căn cứ vào tính chất
mức độ nguy hiểm của hành vi để xác định loại tội phạm.
Từ nghiên cứu về phân loại tội phạm của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, không thể phủ nhận nhà làm luật đã có sự học hỏi kinh
nghiệm của các nước trên thế giới khi quyết định quy định pháp nhân thương
mại cũng là chủ thể của tội phạm, kể cả về mặt kỹ thuật lập pháp và nội dung.
Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm trên thực tế vì ở Việt Nam kể từ khi bộ
luật hình sự ra đời đến nay, trải qua các thời kỳ xây dựng đất nước, chưa có
một pháp nhân thương mại nào bị truy cứu trách nhiệm về mặt hình sự, do
vậy không tránh khỏi việc quy định còn nhiều thiếu sót và không hợp lý dẫn
đến việc còn nhiều quan điểm trái chiều và tranh luận giữa các nhà luật học
trên thế giới. Trong tương lai, với tấc độ phát triển như hiện nay, việc một
pháp nhân được đưa ra xét xử trên thực tế sẽ không tránh khỏi, do vậy nhà
làm luật cần phải có những hướng dẫn cụ thể, có nghiên cứu học hỏi để sửa
đổi bổ sung điều luật trong tương lai.
38
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.
2.1. Quy định về phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại của bộ
luật hình sự năm 2015.
Sau ba lần pháp điển hóa, lần đầu tiên nhà làm luật quy định pháp nhân
thương mại là chủ thể của tội phạm, đánh dấu bước ngoặt lịch sử lập pháp hình
sự của Việt Nam. Việc quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm
dẫn đến nhiều quy định mới liên quan đến chủ thể này. tuy nhiên có rất nhiều
vấn đề cần làm rõ liên quan đến chủ thể này nhất là vấn đề phân loại tội phạm,
bởi phân loại tội phạm mang lại rất nhiều ý nghĩa. Hiện nay, việc quy định
không rõ ràng chế định phân loại tội phạm dẫn đến những tranh luận trái chiều
trong giới luật học.
Trong khi quy định phân loại tội phạm đối với thể nhân rõ ràng, thì đối
với pháp nhân lại không rõ ràng gây khó khăn trong quá trình áp dụng nếu thực
tế một pháp nhân thương mại bị xử lý trách nhiệm về mặt hình sự. Cụ thể, phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại được quy định tại khoản 2 điều 9
của bộ luật hình sự năm 2015 như sau:
“Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại
khoản 1 điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định
tại điều 76 của Bộ luật này.”
Như vậy theo quy định này, để phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại chúng ta căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
đồng thời căn cứ vào những quy định tại khoản 1 điều 9 và điều 76 của bộ luật
hình sự năm 2015.
Quy định của khoản 1 điều 9 bộ luật hình sự 2015 như sau:
39
“Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình.”
Theo căn cứ vào khoản 1 điều 9 của bộ luật hình sự thì pháp nhân thương
mại cũng được phân loại thành 04 loại tội phạm: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Và dựa vào khung hình phạt để phân loại tội phạm thành 04 loại vừa nêu
trên. Tuy nhiêm điểm bất hợp lý ở đây là quy định chủ yếu khung hình phạt là
hình phạt tù - hình phạt chính đối với cá nhân, trong khi đó pháp nhân thương
mại không có hình phạt tù, bởi lẽ, pháp nhân là một tổ chức do vậy mà không
thể áp dụng hình phạt tù đối với chủ thể này.
Quy định tại điều 76 của bộ luật hình sự như sau: “Phạm vi chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại: Pháp nhân thương mại phải chịu
40
trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190,
191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226,
227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ
luật này.” Quy định của điều luật này chỉ mang tính chất liệt kê các loại tội
phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự chứ không mang
ý nghĩa về căn cứ phân loại tội phạm cho pháp nhân thương mại.
Từ những dẫn chứng điều luật ở trên cho thấy, việc quy định phân loại tội
phạm đối với pháp nhân thương mại thực sự không được rõ ràng. Căn cứ để
phân loại tội phạm đối pháp nhân thương mại căn cứ vào quy định tại khoản 1
điều 9 và căn cứ vào điều 76 để phân loại tội phạm. Chiếu theo khoản 1 điều 9
bộ luật hình sự quy đinh căn cứ vào hai căn cứ đó là căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi và căn cứ thứ hai là căn cứ khung hình phạt để
phân loại tội phạm thành 04 loại tội đó là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điểm bất hợp lý ở đây nằm ở chỗ khoản 1 điều 9 bộ luật hình sự quy định khung
hình phạt chủ yếu là hình phạt tù - loại hình phạt chính được áp dụng cho cá
nhân, chứ không thể áp dụng cho pháp nhân thương mại, còn điều 76 của bộ
luật hình sự lại quy định mang tính chất các loại tội phạm mà pháp nhân thương
mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội.
2.2. Nhận xét, đánh giá quy định về phân loại tội phạm phạm đối với pháp
nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự 2015.
Lần đầu tiên, nhà làm luật của nước ta quy định truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân thương mại, là một bước tiến mới trong lịch sử lập pháp
của nước ta, tuy nhiên cho dù chưa có một chủ thể pháp nhân thương mại nào
bị xử lý hình sự trên thực tế, nhưng rõ ràng đã gây ra nhiều tranh luận trái chiều
nhất là vấn đề phân loại tội phạm đối với chủ thể này.
Thông qua việc nghiên cứu bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới
41
có quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại như
bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, cho thấy nhà làm luật nước ta cũng có sự học hỏi về mặt kỹ thuật lập pháp
cũng như nội dung về chế định phân loại tội phạm cho cả hai chủ thể được nhà
làm luật quy định là tội phạm trong chế định khái niệm về tội phạm. Tuy nhiên,
quy định về phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại chưa thực sự hợp
lý, gây ra tranh luận trong khoa học luật hình sự kể từ khi bộ luật này có hiệu
lực. Nhưng cũng không thể phủ nhận sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của
nước ta.
Về mặt hình thức theo quan điểm của tác giả cho rằng, việc quy định phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại vào chung 1 điều luật với cá nhân
như hiện nay là hợp lý.
Sau ba lần pháp điển hóa, lần đầu tiên pháp nhân thương mại được quy
định là chủ thể của tội phạm, bởi trước đây, có nhiều ý kiến trái chiều cho rằng
pháp nhân thương mại chỉ là một tổ chức, nó không có bộ não như một con
người do vậy nó không thể là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay với
tình hình phát triển của đất nước, hội nhập kinh tế, do vậy đòi hỏi Việt Nam
cần phải có những quy định xử lý hình sự đối với chủ thể đặc biệt này, phù hợp
với luật pháp quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước ta tham gia ký kết, đồng
thời rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước trên thế giới. Nghiên cứu
“Thuyết đồng hóa trách nhiệm” cho thấy việc quy định trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở. Tư tưởng của học thuyết
đồng nhất hóa trách nhiệm xuất hiện từ rất sớm. Lịch sử khoa học pháp lý ghi
nhận từ gần một thế kỷ nay các tòa án anh đã xây dựng trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trên nền tảng lý thuyết đồng nhất hóa. Học thuyết này tìm thấy nguồn
gốc của nó trong phán quyết trong vụ án điển hình (leading case) ‘lennard’s
carying company ltd.v.Asiatic petroleum company ltd” năm 1915 của Viện
42
nguyên lão Anh (house of lords). Sau phán quyết này, thì học thuyết đồng hóa
trách nhiệm được áp dụng khá phổ biến. Theo phán quyết của Viện nguyên lão
trong khi xử lý vụ án trên đã cho rằng một số người chủ yếu có quyền quyết
định trong pháp nhân được đồng nhất hóa với pháp nhân tới mức các hành vi
mà họ thực hiện vì lợi ích của pháp nhân luôn luôn được đánh giá như là các
hành vi của pháp nhân, toàn bộ yếu tố lỗi thuộc về những người này cũng được
coi là của pháp nhân.[6]
Học thuyết này xuất hiện từ rất sớm, tư tưởng chính của học thuyết này
thể hiện ở chỗ coi hành vi và lỗi của người điều hành cũng chính là lỗi của pháp
nhân, hay nói cách khác, hành vi, lỗi của pháp nhân được đánh giá thông qua
hành vi lỗi của cá nhân là người quản lý, chỉ huy, điều hành của pháp nhân.
Nghiên cứu học thuyết này, có thể đưa ra kết luận cá nhân phải chịu trách
nhiệm hình sự do hành vi phạm tội gây ra của mình và pháp nhân cũng phải
chịu trách nhiệm hình sự do người điều hành, chỉ đạo thực hiện hành vi phạm
tội.
Học thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm đặt ra các điều kiện cần và đủ để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là: Thứ nhất - hành vi phạm tội
do người chỉ huy, quản lý, chỉ đạo, điều hành pháp nhân đó thực hiện; thứ hai
- Người chỉ huy, quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện hành vi phạm tội nhân
danh, thay mặt hoặc đại diện cho pháp nhân; Thứ ba - Hành vi phạm tội được
thực hiện vì lợi ích của pháp nhân[6]. Do vậy, thuyết đồng hóa trách nhiệm là
cơ sở quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đồng thời cũng là cơ sở về
kỹ thuật lập pháp khi quy định truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại. Coi hành vi và lỗi của người điều hành cũng chính là lỗi của pháp
nhân, hay nói cách khác, hành vi, lỗi của pháp nhân được đánh giá thông qua
hành vi lỗi của cá nhân là người quản lý, chỉ huy, điều hành của pháp nhân. Bởi
lẽ pháp nhân thương mại không có bộ não như một con người do đó không thể
43
tự mình suy nghĩ, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, con người cũng vậy
ở một số loại tội hoặc một số hoàn cảnh nhất định, với tư cách cá nhân, họ
không thể thực hiện được hành vi mà phải sử dụng tư cách pháp nhân để thực
hiện hành vi đó. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của pháp
nhân thương mại được đánh giá qua hành vi của con người và ngược lại. Thứ
hai, muốn truy cứu trách nhiệm hình sự của một pháp nhân thương mại cần
phải xem xét kỹ lưỡng vị trí, vai trò mối liên hệ giữa người điều hành, lãnh đạo
và pháp nhân thương mại đó. Khi phát hiện một hành vi phạm tội do một người
đang là lãnh đạo, điều hành một pháp nhân thương mại, cần xem xét hành vi
đó được thực hiện nhân danh cá nhân hay pháp nhân, hành vi đó được thực hiện
vì lợi ích của cá nhân người đó hay vì lơi ích của pháp nhân thương mại, và
hành vi đó có được sự chỉ đạo, chấp thuận của pháp nhân thương mại hay
không? từ đó quyết định có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại hay chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân đó mà thôi.
về vấn đề xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp
nhân là tương tự nhau.
Ngoài ra, pháp nhân thương mại không thể tự mình thực hiện hành vi
phạm tội, bởi nó không có bộ não như một con người, không thể tự mình suy
nghĩ, không thể tự thực hiện hành vi phạm tội, mà chỉ có thể thông qua người
đại diện của nó để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, do vậy để thấy được
mối quan hệ giữa cá nhân và pháp nhân thương mại chúng ta nên quy định phân
loại tội phạm của hai chủ thể này trong cùng một điều luật như hiện nay. Nếu
tách chế định phân loại tội phạm cho hai chủ thể này thành 02 điều riêng biệt,
sẽ không thấy rõ mối liên hệ giữa người đại điện của PNTN và pháp nhân
thương mại, mặt khác nhìn về khía cạnh cấu trúc, hình thức trong bộ luật hình
sự lại bất hợp lý vì có 02 điều mà có cùng nội dung.
Về mặt nội dung, quy định phân loại tội phạm đối với cá nhân hiện nay
44
rất rõ ràng thì đối với pháp nhân thương mại lại gây ra nhiều ý kiến tranh luận
trong khoa học luật hình sự hiện nay, cụ thể:
Trong bài viết hoàn thiện quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự năm 2015. Tạp chí luật học số đặc
biệt về bộ luật hình sự 2015. PGS.TS.Nguyễn Thị Phương Hoa đã nêu việc quy
định phân loại tội phạm theo khoản 2 điều 9 bộ luật hình sự dẫn đến hai cách
hiểu sau: Quan điểm thức nhất cho rằng pháp nhân thương mại chỉ thực hiện
một loại tội phạm “tội phạm ít nghiêm trọng” bởi lẽ các hình phạt chính áp
dụng đối với pháp nhân thương mại bao gồm: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có
thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Chiếu theo khoản 1 điều 9 bộ luật hình
sự năm 2015: “tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này quy định đối với tội
ấy là phạt tiền…” còn các loại tội phạm khác thì khung hình phạt là hình phạt
tù, trong khi đó pháp nhân lại không có hình phạt tù. Như vậy, pháp nhân chỉ
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
chỉ là 05 năm, điều này là không hợp lý[5, Tr.34].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách
nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” do vậy cá nhân
phạm tội nào thì pháp nhân liên quan phạm cùng loại tội ấy và ngược lại. Điều
này có nghĩa là pháp nhân cũng có thể thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng[5,Tr34].
Trong bài viết “phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại thế nào
cho hợp lý” đề cập hai quan điểm về phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại như sau:
Quan điểm thứ nhất: Đồng tình với việc phân loại tội phạm pháp nhân
thương mại căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, Ủy viên
thường trực Ủy ban Tư pháp Nguyễn Thị Thủy cho rằng nếu phân loại theo
45
cách này sẽ rất thuận tiện, chỉ cần dẫn chiếu sang các khoản cụ thể áp dụng đối
với cá nhân trong điều luật đó và quy định hình phạt[4].
Quan điểm thứ hai cho rằng việc quy định phân loại hiện nay như vậy là
chưa hợp lý do hình phạt của pháp nhân thương mại không có hình phạt tù, tuy
nhiên khoản 2 điều 9 của bộ luật hình sự quy định phân loại tội phạm chủ yếu
được phân loại dựa trên hình phạt tù. Phó Chủ tịch Liên đoàn luật sư Nguyễn
Văn Chiến, thành viên Ủy ban Tư pháp cho rằng: “việc phân loại vẫn còn những
bất cập, chưa đầy đủ và khó áp dụng trong thực tế vì hình phạt đối với pháp
nhân thương mại không có hình phạt tù.[4]
Việc quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại dẫn
đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất. Cách hiểu thứ nhất: “Do
không có một điều luật nào quy định việc phân loại tội phạm áp dụng riêng
đối với pháp nhân thương mại, do vậy điều 9 sẽ được áp dụng chung cho tất
cả các trường hợp bất kể chủ thể của tội phạm là cá nhân hay pháp nhân.
hình phạt áp dụng với pháp nhân thương mại phạm tội chủ yếu là phạt tiền,
và cũng chỉ có hình phạt tiền được quy định là một trong những căn cứ để
phân loại tội phạm đối với loại chủ thể này, cho nên tội phạm mà các pháp
nhân thương mại thực hiện sẽ luôn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm
trọng[1].
Cách hiểu thứ hai: “Dựa vào cách xây dựng trong mỗi điều luật có quy định
về trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại, có thể căn cứ
theo khung hình phạt áp dụng đối với cá nhân để phân loại tội phạm tương ứng
đối với pháp nhân, các tình tiết định khung cũng tương ứng được áp dụng chung
cho cả hai loại chủ thể. Bởi lẽ, về cơ bản các điều luật quy định về tội phạm mà
pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thiết kế
tương tự nhau, đó là sau khi nêu các khung hình phạt được áp dụng đối với cá
nhân phạm tội sẽ có một khoản nêu các mức hình phạt được áp dụng với pháp
46
nhân có hành vi phạm tội tương ứng với các khoản đã quy định trước đó về
hành vi phạm tội của cá nhân”[1]. Hai quan điểm trên được đề cập trong bài
viết nghiên cứu, trao đổi “Bàn về những vướng mắc liên quan đến việc phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo bộ luật hình sự 2015”.
Theo quan điểm của tác giả, hiện nay bộ luật hình sự năm 2015 đang đồng
tình với ý kiến việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại
trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” do vậy cá nhân phạm tội nào thì pháp
nhân liên quan phạm cùng loại tội ấy và ngược lại, có nghĩa là cá nhân liên
quan thực hiện thuộc loại tội phạm nào thì pháp nhân thương mại sẽ được phân
loại thành loại tội phạm đó. Như vậy, pháp nhân thương mại phạm tội cũng có
thể thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và cá
nhân là không giống nhau, có thể xẩy ra trường hợp, đủ điều kiện để truy cứu
trách nhiệm đối với pháp nhân thương mại nhưng không đủ điều kiện truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân có liên quan, đồng nghĩa với việc không
thể phân định được pháp nhân đó thuộc loại tội phạm nào được quy định trong
bộ luật hình sự. Mặc dù vậy, cũng không thể tách khỏi cá nhân và pháp nhân
thương mại, bởi lẽ cá nhân mới là chủ thể thực hiện được hành vi, cá nhân nhân
danh pháp nhân để thực hiện hành vi gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội,
lỗi của pháp nhân là để cho cá nhân thực hiện hành vi phạm tội do vậy nó bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy theo tác giả, nên quy định cụ thể hơn căn
cứ phân loại tội phạm, chứ không nên quy định như hiện nay là căn cứ vào
khoản 1 điều 9 như hiện nay của bộ luật hình sự mà nên quy định rõ hơn phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phụ thuộc vào loại tội phạm mà
người liên quan trực tiếp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Một số quan điểm khác như pháp nhân thương mại chỉ phạm loại tội phạm
47
ít nghiêm trọng do khoản 1 điều 9 của bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền
là hình phạt ít nghiêm trọng. Hiểu theo cách hiểu này cũng chưa thực sự đúng,
bởi lẽ nếu hiểu theo cách hiểu này, sẽ gây ra thiếu sự công bằng giữa các pháp
nhân thương mại, mặt khác nó không phù hợp với các quy định khác của bộ
luật hình sự như nguyên tắc áp dụng công bằng, hay quy định về thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự và điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu mọi
hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại được xếp vào loại tội phạm ít nghiêm
trọng, vậy các hành vi có tính chất mức độ lớn, gây hậu quả nghiêm trọng và các
hành vi có tính chất mức đỏ nhỏ, hậu quả không lớn đều áp dụng như nhau sẽ
dẫn đến thiếu công bằng và không có tính chất răn đe với các hành vi gây hậu
quả nghiêm trọng cho xã hội. Chiếu theo quy định hiện nay, một số nhà khoa
học có quan điểm này cũng không phải không có cơ sở, bởi quy định căn cứ phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại hiện nay chưa thực sự rõ ràng, cụ
thể, nếu căn cứ như khoản 1 thì rõ ràng điểm 1 khoản 1 điều 9 đang quy định tội
ít nghiêm trọng là loại tội phạm có khung hình phạt là phạt tiền. còn nếu hiểu
theo cách này, rõ ràng lại gây ra sự mất công bằng giữa các pháp nhân thương
mại, vi phạm nguyên tắc công bằng được quy định tại bộ luật hình sự.
Do vậy theo quan điểm cá nhân của tác giả, cần phải sửa đổi, bổ sung quy
định cụ thể phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, chứ không quy
định thiếu rõ ràng như hiện nay, sẽ gây ra nhiều tranh luận và khó áp dụng.
Thực tế hiện nay chưa có pháp nhân thương mại nào được đưa ra truy cứu về
mặt hình sự, do vậy chưa thể xác định được mức độ không phù hợp của điều
luật này, tuy nhiên việc quy định không rõ ràng đã dẫn đến nhiều ý kiến trái
chiều, và chắc chắn nếu có được thi hành trên thực tế cũng gây ra nhiều khó
khăn, vì phân loại tội phạm mang ý nghĩa trong quá trình lập pháp và tư pháp,
nhất là quá trình xác định điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại.
48
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự 2015.
Như đã phân tích ở trên, là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận, quy định
pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm do đó những quy định liên quan
đến pháp nhân thương mại chưa thực sự rõ ràng, còn gây ra nhiều tranh luận,
mặt khác từ khi bộ luật hình sự 2015 ra đời đến nay, chưa có một vụ án nào cụ
thể để áp dụng, do vậy chưa thể đánh giá mức độ phù hợp quy định phân loại
tội phạm đối với pháp nhân thương mại, tuy nhiên quy định phân loại đối với
pháp nhân thương mại hiện nay thực sự đang gây ra nhiều cách hiểu khác nhau,
khó áp dụng nếu như có vụ án trên thực tế. Trong tương lai, với tốc độ phát
triển như hiện nay, nhất là việc các pháp nhân thương mại của nước ngoài lựa
chọn Việt Nam để đầu tư, phát triển thì một pháp nhân thương mại nào đó có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự là điều hiển nhiên, do vậy cần phải làm rõ
và nâng cao nhận thức áp dụng quy định này ngay từ bây giờ để tránh những
khó khăn, những vướng mắc khi truy cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai.
Trong bài viết hoàn thiện quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự năm 2015. Tạp chí luật học số đặc
biệt về bộ luật hình sự 2015, PGS.TS.Nguyễn Thị Phương Hoa đã nêu việc quy
định phân loại tội phạm theo khoản 2 điều 9 bộ luật hình sự dẫn đến hai cách
hiểu sau: pháp nhân thương mại chỉ thực hiện hành tội phạm ít nghiêm trọng,
các hiểu thứ hai là cá nhân phạm tội nào thì pháp nhân cũng có thể thực hiện
tội phạm ấy. Cả hai cách hiểu này đều có những nhược điểm riêng.
Về cách hiểu thứ nhất, pháp nhân thương mại chỉ thực hiện hành vi tội
phạm ít nghiêm trọng PGS.TS Phương Hoa cho rằng các hiểu này không hợp
lý, còn cách hiểu thứ hai có những điểm hạn chế nhất định cụ thể, với nguyên
tắc tại khoản 2 điều 76 bộ luật hình sự năm 2015 việc pháp nhân thương mại
phạm tội không loại trừ trách nhiệm hình sựcủa cá nhân nhưng cá nhân chỉ phải
49
chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ cấu thành tội phạm, quy định tại
hoản 2 điều 76 không có nghĩa rằng mọi trường hợp pháp nhân phạm tội thì cá
nhân cũng phạm tội. Như vậy, nếu hành vi của cá nhân không cấu thành tội
phạm nhưng pháp nhân vẫn phạm tội thì phân loại tội phạm sẽ bị vướng mắc.
Do đo PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa đã đề nghị Ban soạn thảo cần bổ
sung, quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện. Nếu
vẫn giữ quan điểm như hiện nay thì ban soạn thảo cần bổ sung, làm rõ hơn căn
cứ xác định loại tội phạm mà pháp nhân thực hiện khi dựa trên tội phạm mà cá
nhân thực hiện[5].
Như vậy, PGS.TS.Nguyễn Thị Phương Hoa cho rằng ban soạn thảo cần
bổ sung quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện
hoặc làm rõ hơn căn cứ xác định loại tội phạm mà pháp nhân thực hiện khi dựa
trên tội phạm mà cá nhân thực hiện.
Còn theo quan điểm cá nhân, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi
bổ sung quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại như sau:
Về phía cơ quan lập pháp, cần phải học hỏi có trọn lọc kinh nghiệm của
các nước trên thế giới đã quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân, để sửa đổi, bổ sung quy định phân loại tội phạm sao cho phù hợp
với điều kiện, kinh tế xã hội của việt nam, khắc phục vấn đề không thống nhất
quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại bởi quy định hiện
nay chưa thực sự rõ ràng, còn gây ra nhiều quan điểm trái chiều giữa các nhà
luật học, gây khó khăn trong việc áp dụng. Thông qua quá trình nghiên cứu bộ
luật hình sự của một số quốc gia có quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân, không phủ nhận việc nhà làm luật có sự học hỏi kinh nghiệm
của các nước, tuy nhiên quy định hiện nay chưa thực sự phù hợp dẫn đến những
tranh luận giữa các nhà khoa học.
Về phía cơ quan tư pháp, cần nâng cao nhận thức, có hướng dẫn chung,
50
tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tư pháp. Đồng
thời, thông qua thực tiễn xét xử, đánh giá mức độ hiệu quả của điều luật, kiến
nghị với cơ quan lập pháp trong quá trình sửa đổi, bổ sung, góp phần hoàn
thiện, khắc phục sự không thống nhất giữa các quy định liên quan đến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
Về phía cá nhân, nhà luật học cần có những nghiên cứu khoa học chuyên
sâu hơn về vấn đề phân loại tội phạm, đưa ra những quan điểm khắc phục những
mặt hạn chế, các bài nghiên cứu là một trong những nguồn tư liệu để cơ quan
lập pháp khắc phục sự không thống nhất đang tồn tại trong bộ luật hình sự.
Ngoài ra, theo quan điểm của tác giả nhà làm luật nên sửa đổi, bổ sung
vào khoản 2 điều 9 quy định phân loại tội phạm tương tự như một số nước trên
thế giới đó là, việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại sẽ dựa
theo loại tội phạm tương ứng với người có liên quan trực tiếp hoặc người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại. Chẳng hạn, người có trách
nhiệm liên quan bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm nào, thì pháp
nhân thương mại sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm đó. Bởi lẽ
pháp nhân thương mại không thể tự mình thực hiện hành vi phạm tội, mà nó
thông qua việc chỉ đạo, điều hành của người đại diện nó, những thiệt hại do
hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại gây ra, thực chất là do người đại
diện thực hiện, thể hiện ý chí của người đại diện nó gây ra, do vậy nên quy định
phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo loại tội phạm mà người
đại diện theo pháp luật của nó bị truy cứu.Việc quy định rõ ràng chế định phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, không những giải quyết những
vấn đề tranh luận giữa các nhà luật học, còn giúp cho việc áp dụng điều luật
trong tương lai được dễ dàng hơn.
Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực lập pháp, mà chúng ta cần phải nâng cao
nhận thức áp dụng quy định này ngay từ bây giờ để tránh những khó khăn,
51
những vướng mắc khi truy cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai. Do vậy tác
giả kiến nghị:
Về phía cơ quan lập pháp, cần phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung quy
định phân loại tội phạm sao cho phù hợp với điều kiện, kinh tế xã hội của Việt
Nam, khắc phục vấn đề không thống nhất quy định phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại.
Về phía cơ quan tư pháp, cần nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ có
hướng dẫn chung, tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ
quan tư pháp. Đồng thời, thông qua thực tiễn xét xử, đánh giá mức độ hiệu quả
của điều luật, kiến nghị với cơ quan lập pháp trong quá trình sửa đổi, bổ sung,
góp phần hoàn thiện, khắc phục sự không thống nhất giữa các quy định liên
quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Qua
quá trình áp dụng điều luật vào công tác xét xử, mà cơ quan tư pháp đánh giá
được mức độ phù hợp của điều luật, một điều luật có phù hợp hay không phải
trải qua việc áp dụng mới đánh giá được mức độ phù hợp của nó, do vậy không
chỉ điều luật đang gây ra nhiều tranh luật là phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại, mà tất cả những điều luật khác được quy định trong bộ luật
hình sự đều phải trải qua quá trình xét xử thì mới đánh giá được hết mức độ
phù hợp của nó, từ đó mới có những kiến nghị phù hợp để sửa đổi bổ sung điều
luật.
52
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bộ luật hình sự 2015 ra đời, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử lập
pháp của Việt Nam, lần đầu tiên nước ta thừa nhận vấn đề truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân thương mại, cho thấy được sự cầu thị, mong muốn
rút ngắn khoảng cách giữa các nước trên thế giới của Việt Nam. Tuy nhiên,
việc quy định truy cứu trách nhiệm hình sự và các vấn đề liên quan đến pháp
nhân thương mại có nhiều hạn chế, không thống nhất dẫn đến việc có nhiều
tranh luận, nhất là quy định phân loại tội phạm đối với chủ thể này.
Nghiên cứu thuyết đồng hóa trách nhiệm cho thấy, rõ ràng việc quy định
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội là có căn
cứ, nhất là hiện nay tình trạng pháp nhân vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng
cho xã hội đang ngày càng gia tăng. Mặt khác, xử phạt hành chính đối với pháp
nhân thương mại chưa thực sự có hiệu quả, tính răn đe thấp, do đó cần phải có
chế tài xử phạt nghiêm khắc hơn để ngăn chặn tình trạng pháp nhân thương mại
thực hiện hành vi phạm tội. Để thấy được mối quan hệ giữa cá nhân và pháp
nhân thương mại, nên quy định phân loại tội phạm đối với cá nhân và pháp
nhân trong một điều luật, mặt khác về mặt hình thức cấu trúc của bộ luật hình
sự sẽ bất hợp lý nếu tách riêng chế định phân loại tội phạm của hai chủ thể này
ra thành hai điều luật riêng biệt. Do vậy, về mặt hình thức, tác giả cho rằng nên
quy định phân loại tội phạm đối với cá nhân và pháp nhân thương mại trong
cùng một chế định như hiện nay.
Việc quy định phân loại tội phạm đối pháp nhân thương mại hiện nay còn
gây ra nhiều tranh luận, có nhiều quan điểm khác nhau, cách hiểu khác nhau về
phân loại tội phạm đối với chủ thể này. Cách hiểu thứ nhất là pháp nhân thương
mại chỉ phạm tội ít nghiêm trọng, bởi lẽ theo quy định tại khoản 1 điều 9 của
bộ luật hình sự, thì tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có khung hình phạt là
hình phạt tiền, các loại tội phạm còn lại quy định hình phạt tù. Trong khi đó,
53
đối với pháp nhân thương mại hình phạt chính là hình phạt tiền và hình phạt bổ
sung liên quan đến vấn đề tài chính, tình trạng hoạt động của pháp nhân thương
mại, chứ không có hình phạt tù. Rõ ràng nếu hiểu theo cách này, thì thiếu sự
công bằng giữa các pháp nhân thương mại, mỗi hành vi sẽ có tính chất, mức độ
nguy hiểm khác nhau, gây ra những thiệt hại khác nhau, do đó không thể cho
rằng pháp nhân thương mại chỉ phạm vào loại tội ít nghiêm trọng.
Cách hiểu thứ hai cho rằng phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại theo loại tội phạm của người đã thực hiện hành vi đó, cách hiểu này cũng
không hợp lý vì trong trường hợp cá nhân thực hiện hành vi không đủ dấu hiệu
cấu thành tội phạm, không có nghĩa pháp nhân thương mại đó không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, bởi lẽ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thương mại và cá nhân không giống nhau.
Để khắc phục những hạn chế trong quy định hiện nay, tác giả kiến nghị,
nhà lập pháp cần phải có những nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung rõ ràng, cụ thể
hơn quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, không nên quy
định chung chung không rõ ràng như hiện nay.
Về phía cơ quan tư pháp, nên có văn bản hướng dẫn cụ thể để thống nhất
việc áp dụng quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại. Đồng
thời qua quá trình xét xử, đưa ra kiến nghị với cơ quan lập pháp để sửa đổi, bổ
sung sao cho phù hợp với điều kiện của nước ta.
Về phía các nhà luật học, cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về
phân loại tội phạm, từ những bài nghiên cứu, đánh giá mức độ phù hợp của
điều luật, đưa ra những kiến nghị phù hợp, góp phần hoàn thiện quy định phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Về quan điểm cá nhân của tác giả, nên có chỉnh sửa nội dung của điều 9
của bộ luật hình sự bằng cách quy định rõ ràng về căn cứ thứ hai - căn cứ vào
khung hình phạt phù hợp đối với pháp nhân thương mại, chứ không chỉ quy
54
định căn cứ vào khoản 1 điều 9 như hiện nay.
Ngoài ra, chúng ta cần phải làm rõ và nâng cao nhận thức áp dụng quy
định này ngay từ bây giờ để tránh những khó khăn, những vướng mắc khi truy
cứu trách nhiệm hình sự trong tương lai, do vậy tác giả kiến nghị:
Về phía cơ quan lập pháp, cần phải học hỏi có trọn lọc kinh nghiệm của
các nước trên thế giới, để sửa đổi, bổ sung quy định phân loại tội phạm sao cho
phù hợp với điều kiện, kinh tế xã hội của Việt Nam, khắc phục vấn đề không
thống nhất quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Về phía cơ quan tư pháp, cần nâng cao nhận thức, có hướng dẫn chung,
tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tư pháp. Đồng
thời, thông qua thực tiễn xét xử, đánh giá mức độ hiệu quả của điều luật, kiến
nghị với cơ quan lập pháp trong quá trình sửa đổi, bổ sung, góp phần hoàn
thiện, khắc phục sự không thống nhất giữa các quy định liên quan đến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trải qua ba lần pháp điển hóa, bộ luật hình sự của nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam đã có sự kế thừa và phát triển, phù hợp với tình hình phát
triển của đất nước. Thông qua, việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các quốc
gia trên thế giới, với mong muốn rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, phù
hợp với luật quốc tế và các điều ước quốc tế, lần đầu tiên bộ luật hình sự 2015
quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm. Do tình hình thực tế
của nước ta đến nay chưa có pháp nhân thương mại nào bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, và là lần đầu tiên nhà lập pháp quy định pháp nhân thương mại là chủ
thể của tội phạm, do vậy mà đã gây ra nhiều trang luận và quan điểm khác nhau
giữa các nhà luật học.
Một trong những vấn đề gây ra những tranh luận giữa các nhà luật học đó
là quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Trong
khi đó, phân loại tội phạm có rất nhiều ý nghĩa trong lĩnh vực lập pháp và tư
pháp. Do vậy, đòi hỏi phải có sự thống nhất quy định phân loại tội phạm kể cả
với cá nhân và pháp nhân thương mại. Về quy định phân loại tội phạm đối với
cá nhân đã rõ ràng và hợp lý, còn đối với pháp nhân thương mại thì chưa thực
sự rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về cách phân loại tội phạm đối
với chủ thể này.
Phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là hoạt động chia các
tội phạm là pháp nhân thương mại thành những nhóm khác nhau dựa trên những
tiêu chí nhất định nhằm phân hóa trách nhiệm hình sựvà cá thể hóa hình phạt
đối với pháp nhân thương mại đó.
Phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là hoạt động chia
các tội phạm. Những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội là khác nhau, tội phạm bao gồm những hành vi có tính chất đặc biệt
56
nguy hiểm cho xã hội, đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không
lớn. Mỗi loại tội phạm lại có sự khác nhau ở tính chất và mức độ nguy hiểm
của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều
tình tiết khách quan và chủ quan khác. Do vậy đỏi hỏi phải phân loại tội phạm
từ đó phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với pháp nhân
thương mại trong những trường hợp cụ thể nhằm đảm bảo nguyên tắc mọi pháp
nhân thương mại đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại khoản 2 điều
3 quy định trong bộ luật hình sự 2015. Trong bộ luật hình sự hiện hành, quy
định chia tội phạm thành bốn loại tội đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi và khung hình phạt để
phân loại tội phạm thành bốn loại tội được nêu ở trên, mỗi loại tội phạm sẽ có
căn cứ vào khung hình phạt khác nhau. Những tội có tính chất, mức độ nguy
hiểm càng lớn thì khung hình phạt tương ứng với loại tội phạm đó càng cao.
Đặc điểm thứ hai, kết quả của hoạt động chia tội phạm đó thành những
nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Trong bộ luật hình sự 2015
quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại là căn cứ
vào khoản 1 điều 9 và điều 76 của bộ luật hình sự 2015, cụ thể căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi để chia tội phạm thành 04 loại tội phạm
đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, khoản 1 điều 9 của bộ luật
hình sự còn căn cứ vào khung hình phạt để phân loại tội phạm, theo tác giả quy
định này chưa thực sự hợp lý bởi lẽ hình phạt được quy định tại khoản 1 bao
gồm hình phạt tù - hình phạt được áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng
đối với pháp nhân và điều 76 quy định mang tính chất liệt kê các loại tội phạm
mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đặc điểm cuối cùng của việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
57
mại là mục đích của việc phân loại tội phạm nhằm phân hóa trách nhiệm hình
sự và các thể hóa hình phạt đối với pháp nhân thương mại. phân hóa trách nhiệm
hình sự là nội dung quy định đường lối xử lý được thể hiện trong luật để phân
biệt đối với từng loại trường hợp phạm tội nhất định.
Bộ luật hình sự 2015 quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại bao gồm: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, căn cứ
thứ hai là dựa vào khung hình phạt được áp dụng cho loại tội phạm tương ứng.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và căn cứ vào khung hình phạt
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi càng lớn thì khung hình phạt áp dụng cho chủ thể đó càng lớn và ngược lại.
Từ việc xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền có thể ước lượng được khung hình phạt có thể được áp
dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi. Ngược lại, ở phần riêng của bộ luật
hình sự, mỗi loại tội danh cụ thể nhà làm luật không nêu rõ hành vi nào là hành
vi gây thiệt hại lớn cho xã hội, hành vi nào có tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi là rất lớn mà chỉ quy định khung hình phạt cụ thể cho từng loại tội,
từ khung hình phạt mà đọc giả có thể phân loại được thế nào là tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy khung hình phạt là phạm trù hình thức còn tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi là phạm trù nội dung, khung hình phạt
càng cao thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi càng lớn. Tuy
nhiên, với quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại hiện nay
còn nhiều tranh luận do nhà làm luật quy định căn cứ thứ 2 - căn cứ vào khung
hình phạt, trong khi đó khung hình phạt được quy định lại không hợp lý do
khung hình phạt quy định trong luật chủ yếu được áp dụng cho cá nhân - hình
phạt tù, còn đối với pháp nhân thương mại hình phạt chính là hình phạt tiền,
không có hình phạt tù.
58
Việc phân loại tội phạm mang lại rất nhiều ý nghĩa cụ thể như sau: Thứ
nhất phân loại tội phạm để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy
hiểm, từ đó cá thể hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt phù hợp.
Thứ hai, phân loại tội phạm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm cụ thể.
Mỗi một loại tội phạm với chủ thể là pháp nhân thương mại cũng được nhà làm
luật quy định thời thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự khác nhau.
Thứ ba, từ việc xác định được thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với từng trường hợp cụ thể của pháp nhân thương mại, chúng ta xác định được
hành vi trái pháp luật đó của pháp nhân thương mại có đủ điều kiện bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay không? theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 75 của
bộ luật hình sự 2015, một trong những điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại đó là chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, phân loại tội phạm để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong
bộ luật hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công
tác nghiên cứu và áp dụng. Từ quá trình phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa trách nhiệm hình sự thành 04 loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biêt nghiêm trọng,
dựa trên quá trình áp dụng trên thực tế là cơ sở thống nhất cho nhà làm luật sắp
xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong luật hình sự thành từng chương, đảm báo
tính khoa học, thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, học tập và áp dụng, tránh
quy định trồng chéo lên nhau, khiến bộ luật hình sự trở nên khó hiểu, khó áp
dụng.
Trên thực tế có quá nhiều vấn đề liên quan đến việc phân loại tội phạm
như xác định thẩm quyền điều tra, xét xử, xác định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự… nếu việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại
không được quy định rõ ràng sẽ khó có thể phân loại đúng tội phạm dẫn đến
59
việc áp dụng hình phạt không đúng người đúng tội, đồng thời không phù hợp
với nguyên tắc đảm bảo sự công bằng được quy định trong bộ luật hình sự, dẫn
đến việc không bảo vệ được quyền lợi của con người, nhiệm vụ chính của nhà
nước pháp quyền, do đó cần phải quy định rõ ràng phân loại tội phạm đối với
chủ thể đặc biệt này.
Theo tác giả nước ta đã có sự học hỏi từ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa về căn cứ phân loại tội phạm, và ở một khía cạnh nhất định cho thấy nhà
làm luật nước ta cũng có sự học hỏi về mặt hình thức, mặc dù Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa không quy định rõ ràng thành một chế định phân loại tội phạm
như nước ta, tuy nhiên Việt Nam quy định phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại và cá nhân trong cùng một chế định để thấy được mối liên hệ
giữa hai chủ thể này. Điểm tưởng đồng của bộ luật hình sự nước ta và Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa phân loại tội phạm thành bốn loại tội và căn cứ vào
tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi để phân loại tội phạm. Điểm khác biệt
của hai bộ luật hình sự đó là, ở việt nam không quy định rõ ràng pháp nhân phải
chịu trách nhiệm hình sự với loại tội như người có liên quan trực tiếp, hoặc
người có trách nhiệm trực tiếp như nước Cộng hoa Nhân dân Trung Hoa. Tuy
nhiên, ở Việt Nam hiện nay, một số học giả cũng cho rằng, nhà làm luật đang
ngầm quy định rằng, loại tội phạm mà pháp nhân thương mại được xác định
theo người đại diện. Ngoài ra, về mặt hình thức khung hình phạt được quy định
tại khoản 1 điều 9 hiện nay đã có sự thay đổi so với quy định trước đây, đó là
quy định khung hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa cho từng loại tội
phạm cụ thể. Điểm mới này đã khắc phục nhược điểm trước đây của bộ luật
hình sự giúp cho việc phân chia loại tội phạm dễ ràng hơn, mặc dù không hoàn
toàn đã khắc phục những nhược điểm của điều luật, tuy nhiên ở một góc độ
nhất định, thấy được sự học hỏi, cầu thị của nhà làm luật nước ta.
Nghiên cứu bộ luật hình sự Công hòa Pháp cho thấy nhà làm luật quy
60
định chế định phân loại tội phạm được áp dụng cho cá nhân và pháp nhân,
và căn cứ duy nhất để phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội để phân loại tội phạm, tuy nhiên trong một số điều
luật nhà làm luật ngầm quy đinh thẩm quyền xác định loại tội phạm. Ngoài
ra, nhà làm luật Cộng hòa Pháp có quy định các hình phạt đối với pháp nhân
được cho là có hành vi phạm tội là trọng tội và tội nhẹ, và số tiền mà pháp
nhân phải chịu bằng năm lần được áp dụng đối với thể nhân theo luật xử phạt
hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, ngoài căn cứ chính là căn cứ vào tính
chất mức độ nguy hiểm của hành để phân loại tội phạm, chúng ta có thể dựa
vào thẩm quyền xác định loại tội phạm và hình phạt để phân loại tội phạm.
Điểm tưởng đồng giữa bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và Việt Nam về
phân loại tội phạm đối với chủ thể là pháp nhân đó là căn cứ vào tính chất
mức độ nguy hiểm của hành vi để xác định loại tội phạm.
Từ nghiên cứu về phân loại tội phạm của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, không thể phủ nhận nhà làm luật đã có sự học hỏi kinh
nghiệm của các nước trên thế giới khi quyết định quy định pháp nhân thương
mại cũng là chủ thể của tội phạm, kể cả về mặt kỹ thuật lập pháp và nội dung.
Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm trên thực tế vì ở Việt Nam kể từ khi bộ
luật hình sự ra đời đến nay, trải qua các thời kỳ xây dựng đất nước, chưa có
một pháp nhân thương mại nào bị truy cứu trách nhiệm về mặt hình sự, do
vậy không tránh khỏi việc quy định còn nhiều thiếu sót và không hợp lý dẫn
đến việc còn nhiều quan điểm trái chiều và tranh luận giữa các nhà luật học
trên thế giới. Trong tương lai, với tốc độ phát triển như hiện nay, việc một
pháp nhân được đưa ra xét xử trên thực tế sẽ không tránh khỏi, do vậy nhà
làm luật cần phải có những hướng dẫn cụ thể, có nghiên cứu học hỏi để sửa
đổi bổ sung điều luật trong tương lai.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã có sự kế thừa và phát triển, khắc phục
61
những nhược điểm của quy định phân loại tội phạm của các bộ luật hình sự
trước đây, để phù hợp với tình hình phát triển, kinh tế xã hội của đất nước.
Về quy định phân loại tội phạm trong bộ luật hình sự 2015 có một số điểm
mới như sau: Về mặt hình thức, quy định phân loại tội phạm thành một chế
định riêng biệt tách riêng ra khỏi quy định khái niệm tội phạm của các bộ luật
hình sự trước đây - điểm mới này đã khắc phục được nhược điểm về kỹ thuật
lập pháp của nước ta, thống nhất giữa nội hàm và ngoại diên của điều luật.
Ngoài ra, nghiên cứu thuyết đồng hóa trách nhiệm, cho thấy việc quy định
phân loại tội phạm hiện nay đối với pháp nhân thương mại và phân loại tội
phạm đối với cá nhân như hiện nay là phù hợp, để thấy được mối liên hệ
giữa hai chủ thể này. Bởi lẽ, pháp nhân thương mại không có bộ não như
một cá nhân để thực hiện hành vi phạm tội, mà phải thông qua người điều
hành nó, và ngược lại, ở một số trường hợp nhất định, cá nhân không thể
nhân dân mình để thực hiện hành vi, mà phải nhân danh pháp nhân và được
sự chấp thuận, điều hành của pháp nhân thì mới có thể thực hiện được hành
vi phạm tội.
Điểm mới về mặt nội dung xuất phát từ việc quy định pháp nhân thương
mại là chủ thể của tội phạm, nhà làm luật đã quy định căn cứ phân loại tội
phạm cho pháp nhân thương mại - đảm bảo tính khoa học giữa các quy định
với nhau trong bộ luật hình sự.
Việc quy định căn cứ phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại
phạm tội tương tự như cá nhân đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong giới
luật học. Cách hiểu thứ nhất là pháp nhân thương mại chỉ phạm tội ít nghiêm
trọng, bởi lẽ theo quy định tại khoản 1 điều 9 của bộ luật hình sự, thì tội phạm
ít nghiêm trọng là tội phạm có khung hình phạt là hình phạt tiền, các loại tội
phạm còn lại quy định hình phạt tù. Trong khi đó, đối với pháp nhân thương
mại hình phạt chính là hình phạt tiền và hình phạt bổ sung liên quan đến vấn
62
đề tài chính và tình trạng hoạt động của pháp nhân thương mại, chứ không
có hình phạt tù. Rõ ràng nếu hiểu theo cách này, thì thiếu sự công bằng giữa
các pháp nhân thương mại, mỗi hành vi sẽ có tính chất, mức độ nguy hiểm
khác nhau, mức độ thiệt hại khác nhau, không thể cho rằng pháp nhân thương
mại chỉ phạm vào loại tội ít nghiêm trọng. Cách hiểu thứ hai cho rằng phân
loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo loại tội phạm của người đã
thực hiện hành vi đó, cách hiểu này cũng không hợp lý vì trong trường hợp
cá nhân thực hiện hành vi không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, không có
nghĩa pháp nhân thương mại đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi
lẽ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và cá
nhân không giống nhau.
Để khắc phục những bất cập của quy định phân loại tội phạm đối với pháp
nhân thương mại phạm tội, tác giả cho rằng cần phải có những thay đổi, bổ
sung rõ ràng hơn quy định phân loại tội phạm đối với chủ thể là pháp nhân
thương mại, ngoài ra cần nâng cao nhận thức để áp dụng thống nhất quy định
phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Về phía cơ quan lập pháp cần phải có những nhiên cứu để quy định rõ
ràng, cụ thể hơn phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại. Về phía cơ
quan tư pháp, nên có văn bản hướng dẫn cụ thể, để thống nhất việc áp dụng quy
định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại, đồng thời qua quá trình
xét xử, đánh giá mức độ phù hợp hay chưa phù hợp với cơ quan lập pháp để
sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại.
Mỗi cá nhân đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, cần có
những nghiên cứu chuyên sâu hơn về phân loại tội phạm, từ những bài nghiên
cứu, đưa ra những kiến nghị phù hợp, góp phần hoàn thiện quy định phân loại
tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
63
Theo quan điểm cá nhân của tác giả, nên sửa đổi bổ sung khoản 2 điều 9
của bộ luật hình sự năm 2015, phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương
mại rõ ràng hơn, thay vì căn cứ vào khoản 1 của điều này, nên quy định rõ ràng
khung hình phạt đối với chủ thể đặc biệt này. Cụ thể nên bổ sung vào khoản 2
điều 9 bộ luật hình sự về phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại đó
là “việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại được xác định là loại
tội phạm mà người đại diện theo pháp luật hoặc người liên quan trực tiếp bị
truy cứu trách nhiệm hình sự”
Ngoài ra cần phải làm rõ và nâng cao nhận thức áp dụng quy định này
ngay từ bây giờ để tránh những khó khăn, những vướng mắc khi truy cứu trách
nhiệm hình sự trong tương lai. Do vậy tác giả kiến nghị:
Về phía cơ quan lập pháp, cần phải học hỏi có trọn lọc kinh nghiệm của
các nước trên thế giới, để sửa đổi, bổ sung quy định phân loại tội phạm sao cho
phù hợp với điều kiện, kinh tế xã hội của Việt Nam, khắc phục vấn đề không
thống nhất quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại.
Về phía cơ quan tư pháp, cần nâng cao nhận thức, có hướng dẫn chung,
tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tư pháp, đồng
thời, thông qua thực tiễn xét xử, đánh giá mức độ hiệu quả của điều luật, kiến
nghị với cơ quan lập pháp trong quá trình sửa đổi, bổ sung, góp phần hoàn
thiện, khắc phục sự không thống nhất giữa các quy định liên quan đến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Hoàng Anh (2016), Bàn về những vướng mắc liên quan đến
việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo quy định
của bộ luật hình sự năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên
Quang, Tuyên Quang.
2. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(phần chung)”, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Đinh Bích Hà (2007), “Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
4. Thu Hằng (2016), “Phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại
như thế nào cho phù hợp?”, Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, Hà
Nội.
5. Nguyễn Thị Phương Hoa (2015), “Hoàn thiện quy định về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội trong bộ luật hình sự năm
2015”, tạp chí luật học (số đặc biệt về bộ luật hình sự 2015), tr.34.
6. Vũ Hoài Nam (2014), “Tìm hiểu học thuyết đồng hóa trách nhiệm hình
sự trong khoa học luật hình sự”, Tạp chí điện tử cảnh sát nhân dân.
7. Trường đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần chung)”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
8. PGS.TSKH. Lê Cảm - PGS.Ts Cao Thị Oanh (2006), “Phân hóa trách
nhiệm hình sự - Một số vấn đề lý luận cơ bản”, Chuyên trang luật hình
sự, tố tụng hình sự.
9. Phạm Thị Thảo (2019), “Tìm hiểu pháp luật hình sự của Cộng hòa
Pháp”, tạp chí tòa án nhân dân Hà Nội.