ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

TRỊNH THỊ HÒA

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

TRỊNH THỊ HÒA

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới

Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn “ Một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền

Lê và ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam” là công trình nghiên cứu

của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới, Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tài liệu sử

dụng tham khảo, trích dẫn trong Luận văn đều đảm bảo có nguồn gốc rõ ràng,

trung thực. Các kết quả nghiên cứu được công bố trong Luận văn là hoàn toàn

chính xác, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố trong và

ngoài nước.

Tôi xin cam đoan điều này là đúng sự thật. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu

trách nhiệm trước pháp luật.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015

Tác giả

TRỊNH THỊ HÒA

Trước hết tôi xin bày tỏ tình cảm biết ơn chân thành tới tất cả các thầy cô

trong Khoa sau đại học - Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội –

Đại học Quốc Gia Hà Nội với những chỉ dẫn và giúp đỡ trong quá trình học tập

cũng như khi tiến hành làm luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới, người trực

tiếp hướng dẫn khoa học, các thầy giáo trong khoa Triết học - Trường Đại học

Khoa học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội – Đại học Quốc Gia Hà Nội đã có những ý

kiến đóng góp quý báu cho nội dung của luận văn.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình và các bạn đồng nghiệp đã động

viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Vì thời gian thực hiện luận văn có hạn nên không thể tránh khỏi những hạn

chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô, bạn bè và

đồng nghiệp.

LỜI CẢM ƠN

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015

Tác giả

TRỊNH THỊ HÒA

MỤC LỤC

A MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu. ............................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. ..................................... 7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................................... 7

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu. .............................................. 8

6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 8

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. ................................................ 8

8. Kết cấu của luận văn . ................................................................................. 9

NỘI DUNG ..................................................................................................... 10

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT

GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ DIỆN MẠO CỦA NÓ. ....... 10

1.1 Bối cảnh cho sự phát triển Phật giáo thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê. . 10

1.1.1 Điều kiện chính trị - kinh tế xã hội ......................................................... 10

1.1.2 Điều kiện văn hoá – tư tưởng ................................................................. 22

1.2 Diện mạo của Phật giáo trƣớc và trong thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. .. 27

1.2.1 Diện mạo Phật giáo trước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. ......................... 27

1.2.2 Diện mạo Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. .................................. 34

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH –

TIỀN LÊ NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT

NAM ............................................................................................................... 39

2.1 Đặc điểm nhập thế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê ............ 39

2.1.1 Đặc điểm Phật giáo nhập thế trong đời sống chính trị - xã hội. .......... 39

2.1.2 Đặc điểm Phật giáo nhập thế biểu hiện qua vai trò của các thiền sư. .. 43

2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê ........ 58

2.2.1 Đặc điểm dung thông của Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng bản địa. ..... 59

2.2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo trong Tam giáo. ........................... 67

2.2.3 Đặc điểm dung thông giữa các tông phái khác nhau trong Phật giáo ......... 72

2.3 Ý nghĩa của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đối với lịch sử Việt

Nam thời kỳ này. ........................................................................................... 77

2.3.1 Một số giá trị nổi bật của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đối với

lịch sử Việt Nam thời kỳ này. .......................................................................... 77

2.3.2 Một số hạn chế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. .................... 84

KẾT LUẬN .................................................................................................... 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 89

A MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN ở Ấn Độ và nhanh

chóng trở thành một tôn giáo lớn thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Sở dĩ

Phật giáo có sự lôi cuốn mạnh mẽ như thế không chỉ vì Phật giáo có giáo lý

cao siêu mà quan trọng hơn đem lại quan niệm sự công bằng, bình đẳng giữa

con người với con người, ngợi ca tình thương lòng từ bi bác ái. Phật giáo sau

khi ra đời ở Ấn Độ đã nhanh chóng lan tỏa đi ra các nước trong khu vực. Với

sự mềm mỏng, khoan dung, uyển chuyển trong giáo lý, giáo lễ, giáo luật dựa

trên tinh thần “khế lý khế cơ” đi đến đâu Phật giáo cũng nhanh chóng hòa

hợp, ăn sâu bám rễ vào nền văn hóa nơi mà nó truyền bá tới. Mà ở Việt Nam

cũng không phải là một ngoại lệ.

Phật giáo truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu công nguyên khi nước

ta đang chìm đắm trong vòng nô lệ của phong kiến phương Bắc. Đứng trước

nỗi bất hạnh của một dân tộc bị mất độc lập chủ quyền, có nguy cơ bị đồng

hóa về mặt văn hóa. Phật giáo đã không đứng ngoài cuộc mà chia sẻ đứng về

phía người dân Việt Nam bị đọa đầy đau khổ, động viên, ủng hộ họ trong các

cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Và trong suốt hai ngàn năm lịch sử

du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cũng dân tộc,

đứng về phía dân tộc để chống lại các thế lực ngoại bang.

Với sự hội nhập của Phật giáo với văn hóa dân tộc, nên những tư tưởng

cao siêu thấm đẫm tinh thần triết học Phật giáo tự khi nào đã thấm vào trong

quần chúng nhân dân lao động trở thành giá trị định hướng cho suy nghĩ và

hành động của người Việt. Phật giáo đã kết hợp với văn hóa tín ngưỡng bản

địa tạo nên một lâu đài tráng lệ về văn hóa mà vẫn đậm bản sắc dân tộc. Với

những kết quả to lớn của Phật giáo hòa nhập với văn hóa Việt Nam thì việc

đúc rút nghiên cứu về những đặc điểm, đặc trưng của Phật giáo trong các triều

1

đại trong lịch sử sẽ luôn là một vấn đề bức thiết đặt ra đối với những người

muốn tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam.

Việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam bởi thế đã có nhiều công

trình nghiên cứu, tuy nhiên không phải giai đoạn lịch sử Phật giáo nào cũng

được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích một cách đẩy đủ, hệ thống

rạch ròi mà tiêu biểu là thời đại Ngô – Đinh – Tiền Lê. Do đây là một giai

đoạn lịch sử bản lề từ thời kỳ mất chủ quyền bước vào kỷ nguyên độc lập tự

chủ, tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đầy ắp những sự kiện lịch sử cần phân

tích, làm rõ. Phân tích sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn này là hết

sức quan trọng, nhất là những đặc điểm của nó. Chỉ có giải quyết được vấn đề

những điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của Phật giáo này thì

chúng ta mới lý giải rõ ràng được tại sao Phật giáo thời kỳ này lại có những

đặc điểm như vậy. Và giai đoạn đã kế thừa những gì của Phật giáo giai đoạn

trước đó. Đồng thời làm rõ được giai đoạn này góp phần đi tới luận giải được

những lý do, đặc điểm nào đã đưa Phật giáo thời đại Lý – Trần phát triển lên

đến đỉnh cao vàng son.

Hiện nay đất nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ trong

việc xây dựng và hoạch định phát triển kinh tế xã hội văn hóa với những khó

khăn và thách thức rất lớn. Vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước và đặc biệt là

các nhà khoa học cần có những nghiên cứu từ trong truyền thống các kinh

nghiệm lịch sử đưa ra kiến giải hợp lý để làm bài học đưa đất nước, kinh tế,

khoa học và cả văn hóa không ngừng đi lên. Tuy nhiên để có thể đưa ra

những kiến giải khoa học một mặt chúng ta cần phải dựa trên những lý luận

của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng mặt khác cần phải

đào sâu tìm hiểu lại lịch sử văn hóa của dân tộc để đúc rút, học hỏi những bài

học kinh nghiệm của ông cha ta đã để lại. Và tôi thiết nghĩ tìm hiểu sâu hơn

về cách ứng xử với Phật giáo của thời Ngô – Đinh - Tiền Lê từ việc tìm hiểu

2

bối cảnh những vấn đề chính trị - xã hội và đặc điểm của Phật giáo thời kỳ

này sẽ cung cấp cho hậu thế những kiến thức và gợi ý bổ ích.

Vì vậy nghiên cứu một số đặc điểm của Phật giáo trong các triều đại

mở đầu kỷ nguyên tự chủ trên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan

trọng. Điều đó không những góp phần giúp chúng ta tìm hiểu tinh hoa tư

tưởng và văn hóa dân tộc trong quá khứ mà còn giúp ta có một cái nhìn khách

quan về vị trí của Phật giáo trong các triều đại Ngô- Đinh –Tiền Lê đã đóng

góp cho dân tộc Việt Nam.

Chính vì những lý do nêu trên mà tôi lựa chọn vấn đề tìm hiểu: “Một

số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê và ý nghĩa của nó

đối với lịch sử Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.

Lịch sử Phật giáo truyền vào nước ta từ những thế kỷ đầu công

nguyên, đến nay đã ngót 2000 năm. Qua thời gian dài Phật giáo đã để lại cho

dân tộc ta nhiều dấu ấn, có thế thấy từ tín ngưỡng đến văn hóa, phong tục tập

quán, từ tư tưởng chính trị, luật pháp đến tình cảm. Với ảnh hưởng lâu dài,

sâu rộng của Phật giáo ở nước ta, cho đến ngày nay có rất nhiều công trình

nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam nói chung, đóng góp của Phật giáo cho tư

tưởng Việt Nam, văn hóa Việt Nam, mà điển hình là các công trình sau:

Tác phẩm được cho là công trình nghiên cứu sớm nhất về tinh hoa Phật

giáo Việt Nam lưu truyền cho đến ngày nay là tác phẩm “Thiền uyển tập

anh”. Đây là công trình tập trung nghiên cứu truyền thừa hai dòng thiền Tỳ

Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông với những đại diện là những thiền sư cụ

thể. Tuy nhiên tác phẩm này lại chưa đi sâu tìm hiểu và đánh giá về các mặt

đầy đủ, cụ thể của Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê.

Đến thế kỷ cận hiện đại ở nước ta có hai công trình nghiên cứu về Phật

giáo là “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII” của Trần Văn

Giáp, “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Thích Mật Thể. Hai cuốn sách này

3

đã mang những giá trị nhất định đều đáp ứng phần nào đó yêu cầu hiểu biết về

lịch sử Phật giáo tại Việt Nam của người đương thời, đều để lại những kiến

thức và kinh nghiệm cho những người nghiên cứu Phật giáo về sau. Tuy

nhiên hai công trình này với số lượng trang có hạn nên khi trình bày về lịch sử

Phật giáo Việt Nam còn hết sức đại cương nhất là thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền

Lê thì lại bàn rất ít.

Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Nguyễn Lang đã cho xuất bản

cuốn sách “Việt Nam Phật giáo sử luận” gồm 3 tập với dung lượng gần 1200

trang viết về sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên

đến giữa thế kỷ XX. Cuốn sách đã viết rất chi tiết và cụ thể về từng giai đoạn

nhất là trong giai đoạn bước đầu du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt

Nam, đặc biệt là hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Tác giả

đã phân tích chỉ rõ vị trí và vai trò của từng nhà sư đối với sự phát triển của

Phật giáo nói riêng và đất nước nói chung. Tuy nhiên công trình này lại ít đề

cập cụ thể đến diện mạo giai đoạn Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê mà lại

trực tiếp đi tìm hiểu Phật giáo thời Lý. Hoặc có trình bày thì chỉ dừng lại ở

các thiền sư cụ thể mà chưa tập trung chỉ rõ được những đặc điểm chung của

Phật giáo thời kỳ này.

Năm 1991, nhà xuất bản bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho xuất bản

cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên với dung

lượng hơn 500 trang trong đó đã giành hơn 30 trang để phân tích về Phật giáo

thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, qua đó đưa ra những kiến giải tổng quan nhất về

vai trò Phật giáo thời Đinh – Lê, đã bắt đầu chuẩn bị cho sự phát triển đến cực

thịnh của Phật giáo thời Lý – Trần. Tuy nhiên để đi sâu một cách có hệ và làm

rõ từng đặc điểm Phật giáo của thời Ngô – Đinh – Tiền Lê thì lại còn một số

những khoảng trống cần được tiếp tục bổ sung trong công trình.

Năm 1993, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho ra mắt

quyển sách “ Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 1” do Nguyễn Tài Thư chủ biên,

4

với dung lượng gần 500 trang đã giành những trang viết về quá trình du nhập

và phát triển của Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy phát triển của lịch sử tư

tưởng dân tộc trong đó có thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. Trong giai đoạn này

sách đã chỉ ra được một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Ngô – Đinh –

Tiền Lê nhưng với dung lượng trang có hạn nên những đặc điểm này chỉ được

phân tích sơ lược.

Năm 1999, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho xuất bản

cuốn sách “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh với dung

lượng dạy dặn hơn 800 trang. Đây là một cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về

tư tưởng của Phật giáo Việt Nam. Tác giả đã đi từ trong phân tích nội dung

kinh kệ được du nhập qua các thời đại khác nhau để chỉ ra sự vận động, phát

triển của tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên tác giả lại không đi nghiên

cứu một cách cụ thể về đặc điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê

Năm 2006, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho in

lại có bổ sung công trình nghiên cứu “Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, II, III”

của Lê Mạnh Thát. Trong Tập II của công trình này đã đề cập cụ thể đến Phật

giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê với đại diện là những Thiền sư Khuông Việt,

Pháp Thuân, Vạn Hạnh… Trong đó nghiên cứu về những thiền sư cụ thể, tác

giả đã đưa ra những phân tích nhận xét, sắc sảo, kỹ càng về đóng góp của họ.

Tuy nhiên tác giả lại chưa xâu chuỗi lại các sự kiện để chỉ ra hệ thống những

đặc điểm chung cơ bản nhất của Phật giáo giai đoạn này thể hiện xu hướng

vận động của Phật giáo.

Gần đây, nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho phát hành cuốn sách:

“Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam”( 2002) của Nguyễn Hùng Hậu,

trong cuốn sách này thì tác giả đã giành nhiều trang nói về nội dung thế giới

quan và nhân sinh quan của Phật giáo Việt Nam, nhưng phần khảo về đặc

điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê còn chưa được lưu ý, hệ thống hóa.

5

Trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là tạp chí Triết học cũng

có một số bài đề cập về vai trò, đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng

Việt Nam “Thử bàn về một vài tư tưởng Phật giáo” của tác giả Nguyễn Hùng

Hậu đăng trên tạp chí triết học 1/3 – 1989 cũng có nhắc sơ qua về giai đoạn

buổi đầu Phật giáo đóng góp cho tư tưởng Việt Nam.

Năm 2010, Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội kết hợp với Đại học

Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – ĐHQG Hà Nội đã tổ chức: Hội nghị khoa

học về nhân vật Phật giáo có nhiều đóng góp cho dân tộc trong buổi đầu khôi

phục và xây dựng quốc gia là Đại sư Khuông Việt – Ngô Chân Lưu.

Năm 2013, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, đã cho xuất bản

cuốn sách “Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam” do Doãn Chính chủ biên, với

dung lượng hơn 1000 trang. Với một dung lượng khá dày dặn nhưng tác giả

đã không trình bày đặc điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê mà chỉ

trình bày một cách gián tiếp thông qua các thiền sư khi trình bày về hai thiền

phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông nhưng cũng dung lượng rất ít.

Đặc biệt chú ý là vào năm 2010, Viện nghiên cứu tôn giáo kết hợp với

Ban trị sự Phật giáo tỉnh Ninh Bình hướng đến để kỷ niệm 1000 năm Thăng

Long Hà Nội đã tổ chức Hội Thảo chuyên đề về Phật giáo thời Đinh – Tiền

Lê, nhằm khẳng định lại vai trò của Phật giáo hai triều đại Đinh - Tiền Lê đối

với công cuộc dựng nước và giữ nước và sau đó đã xuất bản kỷ yếu: “ Phật

giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước”sách do

PGS.TS Nguyễn Hồng Dương – Thượng tọa Thích Thọ Lạc đồng chủ biên.

Trong kỷ yếu Hội thảo có các ý kiến của các tác giả là nhà nghiên cứu, có tác

giả là nhà tu hành, nhà báo… Do vậy có rất nhiều ý kiến phong phú, thậm trí

đối lập nhau. Điều này cho thấy việc đánh giá khách quan, toàn diện về vai trò

diện mạo của Phật giáo thời Đinh – Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam là khó

khăn và phức tạp.

6

Điểm qua tình hình nghiên cứu, ta có thể nhận thấy về vấn đề một số

đặc điểm của Phật giáo Việt Nam nói chung đã có nhiều công trình nghiên

cứu đề cập tới và có những nhận định sâu sắc. Nhưng đặc biệt đến nay chưa

có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về đặc điểm Phật

giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê chỉ ra đóng góp và hạn chế mà mới chỉ dừng

lại ở những lát cắt riêng về nhân vật lịch sử, các phương diện cụ thể, cần được

tiếp tục nghiên cứu hệ thống hơn, sâu thêm nữa. Nhằm có được cơ sở nhìn

nhận về tiến trình Phật giáo trong dòng chảy của văn hóa dân tộc và có sự

nhìn nhận về vai trò, vị trí của Phật giáo một cách đầy đủ khách quan hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.

Mục đích của luận văn là khái quát tiến trình Phật giáo và từ đó đi sâu

nghiên cứu một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh và Tiền Lê và từ

đó chỉ ra ý nghĩa đối với lịch sử thời kỳ này.

Để đạt được mục đích nêu trên thì luận văn cần phải thực hiện được

các nhiệm vụ sau:

- Trình bày khái quát điều kiện cho sự phát triển của Phật giáo đến thời

Ngô – Đinh – Tiền Lê và diện mạo của nó trong lịch sử Việt Nam.

- Phân tích một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Ngô – Đinh –

Tiền Lê và chỉ ra ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam thời kỳ này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Từ góc độ chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử, để nghiên cứu về đối tượng là Phật giáo trong thời Ngô

– Đinh – Tiền Lê và những nội dung đặc điểm Phật giáo thời kỳ này có ảnh

hưởng của nó đến lịch sử Việt Nam thời kỳ này.

Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô

– Đinh – Tiền Lê qua một số tài liệu lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử Phật

giáo, Lịch sử tư tưởng Phật giáo trong thời kỳ Ngô – Đinh –Tiền Lê.

7

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.

Cơ sở lý luận: luận văn có sơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của

Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.

Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng kết hợp hệ phương pháp

nghiên cứu triết học, tôn giáo học. Một số phương pháp cụ thể được áp dụng

như: lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so

sánh… Đặc biệt có vận dụng phương pháp liên ngành: triết học tôn giáo học

,triết học văn hóa học.

6. Những đóng góp của luận văn

Kế thừa thành quả của người đi trước, luận văn cố gắng đưa ra những

nhân thức mới về diện mạo của Phật giáo thế kỷ X. Khái quát nội dung trong

các công trình nghiên cứu trước để hoàn thiện xây dựng chúng theo một hệ

thống quan niệm mang tính thống nhất logic và lịch sử về tiến trình của Phật

giáo trong sự đồng hành với dân tộc.

Luận văn đã trình bày được khái quát các điều kiện, cơ sở tiền đề cho

quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam trong lịch sử

từ đầu công nguyên đến thời Ngô – Đinh – Tiền Lê và từ đó tập trung phân

tích một số đặc điểm của Phật giáo biểu hiện cụ thể trong một số lĩnh vực:

chính trị, văn hóa, giáo dục.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.

Việc tìm hiểu về các điều kiện, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển để từ

đó chỉ ra giá trị, vai trò, đặc điểm của Phật giáo trong các triều đại Ngô –

Đinh – Tiền Lê có ý nghĩa học thuật hết sức quan trọng, nó bổ sung làm đầy

đủ hơn trong việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo thế kỷ X là thế kỷ bản lề cho

giai đoạn độc lập tự chủ cũng như góp phần cung cấp những bài học kinh

nghiệm từ giai đoạn này gợi ý cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đất

nước hiện nay.

8

Thông qua kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm phong phú thêm

nguồn tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử

tư tưởng Việt Nam nói chung, lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam giai đoạn

Ngô – Đinh – Tiền Lê nói riêng, là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên

các ngành lịch sử, triết học, tôn giáo….

8. Kết cấu của luận văn .

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,thì luận

văn gồm hai chương, năm tiết.

Chương 1:Những điều kiện cho sự phát triển Phật giáo thời Ngô –

Đinh –Tiền Lê và diện mạo của nó.

Chương 2: Đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê nội dung

và ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam thời kỳ này.

9

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT

GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ DIỆN MẠO CỦA NÓ

1.1 Bối cảnh cho sự phát triển Phật giáo thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê

1.1.1 Điều kiện chính trị - kinh tế xã hội

Điều kiện chính trị:

Với chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng dưới sự lãnh đạo của Ngô

Quyền, đã kết thúc gần 1000 năm Bắc thuộc. Đã đánh dấu một bước phát

triển mới về chất của lịch sử dân tộc. Nó chấm dứt giai đoạn đen tối khi mà

chính quyền phong kiến phương Bắc dùng mọi thủ đoạn thâm độc để biến

nước ta trở thành một quận, một huyện của chúng.

Ngay sau khi giành chiến thắng, Ngô Quyền đã biết kế thừa kinh

nghiệm từ các thời kỳ Phục Hưng, Khúc Hạo tiếp tục tiến hành công cuộc

dựng nước và giữ nước mà ông cha ta đã gây dựng. Ngô Quyền đã thiết lập

lên nhà nước tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Đồng thời quyết

định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng Vương (năm

939), tự đặt các chức quan văn, võ, quy định các chế độ lễ nghi trong triều

đình… xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, một vương quốc độc

lập. Tuy nhiên, quyền lực của nhà Ngô lúc đó chỉ tập trung ở khu vực đồng

bằng châu thổ sông Hồng, trung du Bắc Bộ và khu vực đồng bằng và trung du

Thanh Nghệ, tức là chủ yếu vẫn trên địa bàn hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân

trước đây.

Khi Ngô Quyền cho đóng đô ở Cổ Loa, ông muốn dựa vào vị trí định

đô cũ vốn có thành cao, hào sâu ở vị trí đầu mối của các luồng giao thông

thủy bộ giữa trung tâm miền châu thổ để triều đình trung ương có thể nắm

chắc toàn bộ miền châu thổ mà vương ra quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

Thành Cổ Loa được nhân dân Âu Lạc xây dựng không chỉ là kinh đô ở trung

tâm đất nước mà còn là căn cứ phòng ngự liên hoàn của cả bộ binh và thủy

10

quân với hàng trăm thuyền chiến cơ động hoạt động thông qua hệ thống song

Hoàng Giang, sông Cầu, sông Đuống…. Tòa thành Cổ Loa được mệnh danh

là tòa thành hùng vĩ, kiên cố, dinh lũy của chính quyền đô hộ. Chính bởi lẽ đó

mà khi vương triều Ngô thành lập, Ngô Quyền đã thừa hưởng một tòa thành

như vậy do ông cha đã xây dựng nên không cần tốn quá nhiều công sức xây

dựng mới.

Hơn nữa, Ngô Quyền đã rút được bài học từ đường lối cai trị “Khoan,

giải, an, lạc” của Khúc Hạo và Khúc Thừa Dụ, ông đặc biệt quan tâm, khen

thưởng người có công nâng đỡ người dân trong vùng, miễn mọi thứ binh

lương, thuế khóa cho dân các làng Gia Viễn, Quang Đàm cùng nhiều làng xã

khác. Nhiều vị tướng sau chiến thắng cũng không ngần ngại đem cả gia đình

và dòng họ về vùng đất Hải Phòng - vùng quan ải hiểm yếu nhất của đất nước

lúc bấy giờ để xây dựng lập quê hương mới. Đó là dòng họ Phạm xã Đằng

Giang huyện An Hải - theo truyền thuyết ông tổ dòng họ vốn là người nơi

khác theo Ngô Quyền đến đánh trận Bạch Đằng và sau này chiến thắng ông

đã mang cả vợ con và tộc thuộc đến đây khai cơ lập nghiệp. Tuy không có gia

phả dòng họ nào ghi chép cụ thể thế thứ ngược lên đến giữa thế kỷ X, nhưng

cũng có thể tin truyền thuyết dân gian rằng nhiều dòng họ ở khu vực An

Dương, An Hải, Thủy Nguyên vốn có nguồn gốc từ chiến tướng, chiến binh

của Ngô Quyền sau khi thắng giặc tự nguyện hoặc được giao trọng trách ở lại

vùng đất cửa sông này để giữ gìn bờ cõi.

Ngô Quyền trị vì đất nước chưa đầy sáu năm, mà đã để lại ấn tượng rõ

rệt về công cuộc dựng nước của ông, đúng như nhà sử học Lê Văn Hưu (1230-

1322) nhận xét: “Chính thống của nước Việt ta, Ngô hầu đã nối lại được”[ 16,

tr205]. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Tiền Ngô [ Vương ] nổi lên không

chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm

phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương” [16, tr205].

11

Sau khi Ngô Quyền mất, các con cháu của ông không đủ uy tín và tài

năng để duy trì chính quyền quân chủ tập trung đang còn trong thời kỳ trứng

nước thì em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng là Bình Vương. Sách

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có

di chúc giao cho Tam Kha giúp cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp

ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách

Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Côn ở Trà Hương. Tam Kha lấy con thứ hai

của Ngô Vương là Xương Văn làm con mình. Các con thứ của Ngô Vương là

Nam Hưng, Càn Hưng còn bé đều theo Dương quốc mẫu. Được ít lâu, Tam

Kha sai chỉ huy sứ là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem quân đến nhà Phạm

Lệnh Côn đòi bắt Xương Ngập, tất cả ba lần đều không thực hiện được mệnh

lệnh. Lệnh Côn sợ bèn giấu Xương Ngập trong động núi. Tam Kha biết, lại

đòi bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được”. [ 16, tr205].

Năm 950 người em là Ngô Xương Văn được sự ủng hộ của các chỉ huy

sứ Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi đã nhận việc đi cầm quân đàn áp cuộc

nổi dậy ở các thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình ( Hà Tây), quay về kinh đô

bắt Dương Tam Kha, và đã giành được chính quyền. Xương Văn tự xưng là

Nam Tấn vương, và đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng coi việc nước.

Xương Ngập về, tự xưng là Thiên sách vương nắm hết quyền hành. Do vậy

mà mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ngô lại diễn ra càng tạo điều kiện cho các thổ

hào, thứ sử địa phương cát cứ nổi dậy làm loạn, chiêu mộ quân, làm chủ vùng

mình trấn trị, tách khỏi quyền lực chính quyền trung ương.

Từ những năm 60 của thế kỷ X đất nước càng rối loạn, Xương Văn

nhiều lần mang quân đi đàn áp các cuộc nổi loạn nhưng không có kết quả. Đất

nước có nguy cơ bị phân cắt.

Sau khi Xương Ngập mất năm 954 và Xương Văn mất năm 965 triều

Ngô thực sự không còn tồn tại, đất nước rơi vào thế hỗn loạn, các tướng lĩnh

12

chiếm giữ các vùng địa phương đánh giết lẫn nhau. Và sử gọi là “loạn mười

hai sứ quân”.

Lãnh thổ Việt Nam từ thế kỷ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung

Bộ trên địa bàn tồn tại 12 sứ quân:

1. Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế chiếm giữ Phong Châu

(Phú Thọ).

2. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm giữ Tam Đái

(Phú Thọ) và Yên Lạc ( Vĩnh Phúc).

3. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lam Công chiếm giữ Đường Lâm

(Hà Tây).

4. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng Bảo Đà (Thanh Oai – Hà Tây).

5. Ngô Xương Xí con Ngô Xương Ngập chiếm giữ Bình Kiều ( Thanh

Hóa).

6. Lý Khuê tự xưng là Lý Lăng Công giữ đất Siêu Loại ( Bắc Ninh).

7. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công chiếm giữ Tiên Du

(Bắc Ninh).

8. Lữ Đường tự xưng Lữ Tá Công chiếm giữ Tế Giang (Văn Giang –

Hưng Yên).

9. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công chiếm giữ Tây Phù Liệt

(Thanh Trì – Hà Nội).

10. Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công chiếm giữ vùng Cẩm Khuê

(Hà Tây).

11. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át chiếm giữ Đằng Châu

(Hưng Yên).

12. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công chiếm giữ Bố Hải Khẩu

(Thái Bình).

13

Cũng trong thời gian này ở Trung Quốc nhà Tống vừa mới thành lập

đang bắt đầu mở rộng thế lực xuống phía Nam, đất nước ta đứng trước nguy

cơ bị xâm lược.

Cũng trong thời gian này ở Ninh Bình nổi lên nhân vật Đinh Bộ Lĩnh

sinh năm 924 tại động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, nay thuộc xã Gia Phương,

huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cha Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Công Trứ từng

làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, làm Thứ sử châu Hoan, sau tham gia

cùng Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng và được Ngô Quyền tin tưởng tiếp tục

giao cho chức vụ cũ.

Đinh Bộ Lĩnh từ nhỏ không sống cùng cha mà chỉ sống với mẹ ở quê

hương. Và đến khi trưởng thành thì cha sớm lại qua đời. Ông hầu như không

gắn bó với triều đình nhà Ngô. Khi Dương Tam Kha cướp ngô Đinh Bộ Lĩnh

đã tự xây dựng cho mình một lực lượng riêng, không phục tùng triều đình Cổ

Loa và dần dần độc lập với triều đình.

Sau khi Trầm Lãm chết thì lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tập hợp được

coi là lực lượng mạnh mẽ nhất, đã lần lượt dẹp yên các thế lực các cứ, từ đó

giang sơn thu về một mối.

Sau khi đã dẹp loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, lấy

hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư, Ninh

Bình làm đất đóng đô. Kinh đô Hoa Lư chủ yếu nằm ở địa phận xã Trường

Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình được bao bọc bởi hệ thống núi đá vôi khá

hiểm trở. Nơi đây từ sớm đã là một tụ điểm cư dân đông đúc ở vào vị trí yết

hầu trên trục đường Nam – Bắc, rất gần sông và ở thế kỷ X vẫn còn chưa xa

biển. Mạch máu giao thông quan trọng nhất nối thông Hoa Lư với châu thổ

sông Hồng và mọi miền đất nước là con đường thủy sông Hoàng Long nối

thông với sông Đáy.

14

Kinh thành Hoa Lư bao gồm hai toàn thành riêng biệt, được chia ra

thành các khu triều đình, quan lại, quân sĩ và được nối lại với nhau bằng con

đường kín đáo là Quèn Vông nơi tiếp giáp giữa núi Hang Sung và Quèn Dót.

Ngay từ buổi đầu xây dựng xây dựng triều đình, cùng với việc bổ

nhiệm các quan văn, võ như: Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm

Đô hộ phủ Sỹ Tư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân… Đinh Tiên Hoàng

cũng rất chú ý việc xây dựng nền tảng tinh thần cho quốc gia, đến vai trò các

tăng đạo. Triều đình phong Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống và ban hiệu là

Khuông Việt Đại sư, Trương Ma Ni làm chức Tăng Lục, đạo sĩ Đặng Huyền

Quang được trao chức Sùng chân uy nghi. Đây là thời kỳ đánh dấu cho một

nhà nước riêng có hoàng đế đứng đầu và có quốc hiệu riêng sau gần 1000

năm Bắc Thuộc.

Về mặt ngoại giao, trong thời gian này đất nước vẫn đang trong giai

đoạn khẳng định vị thế với các nước lân bang, đặc biệt là nhà Tống ở phương

Bắc. Đinh Tiên Hoàng thừa hiểu Phương Bắc chưa bao giờ từ bỏ âm mưu

xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì thế Đinh Tiên Hoàng đã có những chính sách

mềm dẻo với nhà Tống để bảo toàn một nhà nước non trẻ là một đối sách đúng.

Năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ là Hạng Lang làm thái tử,

phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương. Đinh Liễn là con trai đầu đã từng có

nhiều công lao trong sự nghiệp dẹp loạn mười hai sứ quân dựng lên triều đại

nhà Đinh nhưng chỉ được phong Nam Việt Vương. Không chấp nhận điều đó

thì Đinh Liễn đã âm mưu giết chết em trai mình là Hạng Lang.

Đầu mùa đông năm 979, Đỗ Thích là cháu nội của sứ quân Đỗ Cảnh

Thạc đang làm chức lại (chuyên trông coi về giấy tờ) ở Đồng Quan trong kinh

thành Hoa Lư, nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích

bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Liễn.

Triều thần trong triều đã đưa Đinh Toàn lúc đó mới 6 tuổi lên ngôi vua,

thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm phụ chính.

15

Khi ấy quân Tống đã hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc,

nội bộ bắt đầu ổn định, tình hình miền nam cũng trở lại yên tĩnh. Tống Thái

Tông đẩy mạnh mưu đồ bành trướng và xâm lược các nước phương Nam.

Trước tình thế cấp bách của dân tộc thì mẹ của Đinh Toàn đã cử thập đạo

tướng quân Lê Hoàn làm tổng chỉ huy quân đội để chuẩn bị cho cuộc kháng

chiến. Trong buổi hội triều bàn kế hoạch chống giặc, dựa vào đề nghị của các

tướng lĩnh, bà thái hậu họ Dương đã khoác áo long cổn lên mình Lê Hoàn và

mời ông lên ngôi vua lập ra nhà Tiền Lê.

Được sự phò tá của Phạm Cự Lạng và vai trò cố vấn của các nhà sư

Pháp Thuận , Ngô Chân Lưu… Lê Hoàn đã giành thắng lợi trước quân Tống.

Lê Hoàn sinh năm 941, tại Ái Châu, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc

thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, trong một

gia đình nghèo khó, cha mẹ mất sớm. Lớn lên Lê Hoàn biết đến cha con Đinh

Bộ Lĩnh nổi lên ở Hoa Lư nên đã theo giúp và tỏ ra là người phóng khoáng có

chí lớn. Lê Hoàn là một trong những người có công trong sự nghiệp dẹp loạn

mười hai sứ quân, thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh nên đã được tin cậy

phong là Thập đạo tướng quân.

Nhà Lê tồn tại từ năm 980 – 1009, mô hình triều đình thời Lê Đại Hành

(Lê Hoàn) về cơ bản là sự tiếp nối triều đình của nhà Đinh, cả chức năng,

nhiệm vụ và bộ máy trung ương cho xuống tận các địa phương, đã được thử

thách dày dạn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống và giờ đây

tiếp tục củng cố theo hướng trung ương tập quyền. Lê Hoàn đổi niên hiệu là

Thiên Phúc và lấy năm 980 là năm Thiên Phúc nguyên niên, giáng phong

Đinh Toàn làm Vệ Vương.

Sau khi Lê Hoàn mất con là Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Nhưng Long

Đĩnh được sử ghi là người tàn ác, trụy lạc, mắc bệnh nặng trong triều đình

không đủ uy tín và năng lực để trị vì đất nước. Sau khi Long Đĩnh mất, với sự

cố vấn của thiền sư Vạn Hạnh, triều thần do Đào Cam Mộc khởi xướng đã

16

suy tôn điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, và lập ra nhà Lý vào

năm 1009. Năm 1010, Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long.

Như vậy thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê tồn tại khoảng 71 năm trong

lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ này thì các triều đại đã xây dựng một triều đình

trung ương do vua là người đứng đầu, nắm mọi quyền hành về dân sự cũng

như quân sự. Nhà nước thời kỳ này là nhà nước võ trị bởi vì các vua Ngô

Quyền, Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đều xuất thân là những tướng lĩnh,

là tổng chỉ huy tối cao của quân đội, nắm giữ trong tay mọi quyền hành. Hệ

thống quan lại chủ yếu xuất thân là các quan võ có sự tham chính của các

thiền sư. Chẳng hạn như trong thời Lê Hoàn có chức Đại tổng quản, Thái úy,

Điện tiền chỉ huy sứ…. Các sư được phong là Tăng Thống, Quốc sư.

Quân đội thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là một quân đội đông và mạnh,

theo sử ghi quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, một quân có

10 lữ, một lữ có 10 tốt, một tốt có 10 ngũ, một ngũ có 10 người. Như vậy tổng

số theo lý thuyết là một triệu người. Tuy nhiên con số này theo nhiều nhà

nghiên cứu là không có thực, chữ “Thập” theo Lê Văn Siêu chỉ mang tính

chất khái quát toàn thể về cách tổ chức theo kiểu “ngụ binh ư nông” như nhà

Lý sau này, thời bình làm ruộng tập trung thành đội ngũ có chỉ huy khi cần.

Còn Trần Trọng Kim cho rằng :ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có

đến 10 vạn người. Các quân sĩ đều được trang bị quần áo mũ da bốn bề khâu

giáp nhau lại, trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng và có vũ khí đầy đủ: cung, nỏ,

giáo mác, lao, gậy, mộc bài. Thủy quân gồm nhiều chiến thuyền, trang bị đầy

đủ với những tướng lĩnh có nhiều kinh nghiệm. Nhìn chung quân đội thời kỳ

Ngô – Đinh – Tiền Lê đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh đất nước

và chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

Do ảnh hưởng của nhiều năm từ thời loạn lạc có nhiều người quen thói

lúc loạn không chịu tuân theo luật pháp. Do đó thời Ngô – Đinh – Tiền Lê rất

coi trọng luật pháp nhất là Hình Pháp hà khắc như trong quân đội.

17

Hình pháp dưới thời Đinh, sách Đại việt sử ký toàn thư có chép: “vua

Đinh Tiên Hoàng muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều,

nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng : “kẻ nào trái phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho

hổ ăn thịt”. Mọi người đều sợ phục không ai dám phạm”.[16, tr154]

Hay Trần Trọng Kim có viết rằng: hình uy nghiêm như thế, thì cũng

quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần

được yên.

Hình pháp dưới thời Tiền Lê nhà vua thường trực tiếp phán xét. Theo

sứ nhà Tống là Tống Cảo ghi nhân, bấy giờ “tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi

hoặc đánh từ 100 đến 200 roi, bọn giúp việc ai hỏi có điều gì sai trái ý cũng

đánh 30 hay 50 roi, truất làm tên gác cổng, khi hết giận lại gọi về làm chức

cũ”. Năm 1002, vua Lê Định luật lệnh, tiếc rằng sách xưa không còn, nên ko

có thông tin cụ thể. Về bước tiến bộ này, theo nhà sử học Phan Huy Chú:

“thời cổ làm việc chỉ có quy chế, không dùng hình luật vì đơn thuần, phép

giảm, có thể châm chước tùy nghi được” [10, tr94]. Đến thời Ngô – Đinh –

Tiền Lê đã có bước tiến sử dụng hình luật.

Nhìn chung những hành động chống lại quyền lực của vua, triều đình

nhà nước trung ương, phá hoại trật tự an ninh xã hội đều bị trừng phạt rất

nặng nề.

Về việc tuyển chọn quan lại đương thời cũng tùy tiện chưa có chế độ cụ

thể. Những người nắm quyền chủ yếu là võ tướng, đã từng tham gia vào các

cuộc kháng chiến, dẹp loạn. Về sau thì một số văn hầu cũng được cân nhắc

lên những vị trí thân cận với vua. Đặc biệt vua dựa vào vai trò cố vấn của các

thiền sư.

18

Về mặt xã hội:

Phù hợp với cơ sở hạ tầng là quan hệ kinh tế nông nghiệp tiểu nông lúa

nước cũng như chính trị phong kiến tản quyền thì thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

cũng có một kết cấu giai tầng tương ứng:

Thứ nhất, giai cấp phong kiến thống trị trước hết là tầng lớp quý tộc,

quan liêu mà đại biểu là nhà vua, quan nắm giữ mọi quyền hành ở triều đình

và trong xã hội.

Thứ hai, giai cấp địa chủ, lúc đầu số lượng còn ít nhưng về sau lại tăng dần.

Thứ ba, tăng lữ là một tầng lớp xã hội đáng kể và có một lực lượng

đông đảo từ cuối thời Bắc Thuộc sang đến đầu thời Lý. Nhưng chỉ có những

quý tộc đi tu và chức sắc tầng lớp trên trong nhà chùa mới thực sự gia nhập

vào hàng ngũ tăng quan trực tiếp phục vụ cho giai cấp phong kiến. Nhà nước

đã sử dụng tầng lớp này để nhằm duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền

lực của triều đình. Sĩ Nhiếp là nhà là nhà lãnh đạo thành công nhất ở nước ta

trong thời Bắc Thuộc. Thậm chí có học giả đã gọi Sĩ Nhiếp : một nhà lãnh

đạo Phật giáo”. Ông là người tiên phong cho mô hình quân vương. Và bài

học đó sau này đã được Lê Hoàn kế thừa, phát triển, ông là người đã đưa

những giá trị tư tưởng của Phật giáo vào áp dụng triệt để những giá trị đó vào

trong việc trị quốc của mình. Trong thời gian làm Thập đạo tướng quân, Lê

Hoàn cũng đã hấp thụ niềm tin Phật giáo từ Đinh Tiên Hoàng. Do vậy sau khi

lên ngôi ông đã nhờ cậy rất nhiều đến học vấn của những bậc cao tăng, trí

thức trong giới Phật giáo để phục vụ công cuộc trị quốc an dân. Đặc biệt coi

trọng và sử dụng vai trò của các thiền sư Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Ngô

Chân Lưu…

Thứ tư, quần chúng nhân dân bị trị gồm có người nông dân ở làng xã

lĩnh canh công điền công thổ hoặc ruộng tư của địa chủ là lực lượng chủ yếu

ở làng xã.

19

Bên cạnh đó là tầng lớp đông đảo nông nô và nô tỳ trong các điền trang

và các gia đình quý tộc sẽ còn bảo lưu chế độ nộ lệ kéo dài đến các giai đoạn

sau. Ngoài ra cũng phải kể đến tầng lớp thợ thủ công và lái buôn để phục vụ

cho công cuộc kiến thiết nhất là xây dựng kinh đô Hoa Lư và các trung tâm

chính trị, kinh tế.

Như vậy, thông qua việc khảo cứu lại tình hình chính trị – xã hội của

các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê cho ta thấy rằng thời kỳ này đã khẳng định

được nền độc lập tự chủ cho dân tộc, đã xây dựng nên được bộ máy nhà nước

tự chủ nhưng nó mới chỉ ở mức rất đơn giản, bộ máy nhà nước chưa chặt chẽ

còn lỏng lẻo, các chính sách, các văn bản ban hành về luật pháp chưa có hệ

thống và còn dựa theo ý muốn chủ quan của các nhà vua. Vai trò của các

thiền sư được triều đình đề cao trọng dụng, Phật giáo tiếp tục gia tăng để đáp

ứng nhu cầu đông đảo nhiều người.

Về mặt kinh tế:

Trong thế kỷ X bản lề của đất nước từ phụ thuộc trở thành tự chủ thì

các ông vua sau khi lên ngôi vua đều cố gắng thực thi đường lối phát triển sức

dân, thực thi chính sách khuyến nông, trị thủy… Về đại thể dưới triều đại Ngô

– Đinh – Tiền Lê, công xã nông thôn còn tồn tại một cách phổ biến và giữ vai

trò cơ sở hạ tầng bền vững của xã hội, với quyền sở hữu ruộng đất trên thực tế

đại bộ phận ruộng đất và quyền tự trị khá lớn. Nhà nước trung ương tập quyền

với tư cách là người chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, bóc lột bằng tô thuế và

lao dịch đối với làng xã. Lúc này chế độ tư hữu ruộng đất mới phôi thai và

chiếm một tỷ lệ rất nhỏ bé.

Đến thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, các ông vua khi lên ngôi hoàng đế đều

cố gắng thực thi khuyến nông và nắm quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, vừa

để nhằm khẳng định quyền lực vừa để nắm lấy thần dân, thu tô thuế, bắt lính.

Thời Tiền Lê Nhà nước đã có những khu đất tịch điền ở Đọi Sơn (Hà Nam)

và Bàn Hải do triều đình trực tiếp quản lý để phục vụ tế lễ. Hàng năm cứ vào

20

mùa xuân thì nhà vua đích thân làm lễ tịch điền, đi vài đường cầy để nêu

gương. Các vua Đinh – Tiền Lê cũng phong cấp đất đai cho các hoàng tử, quý

tộc và quan lại. Dưới thời Đinh Tiên Hoàng ông đã phong cho Trần Lãm thực

ấp ở Sơn Nam ( Nam Định), sau lại cấp trang Lạc Đạo ( Ninh Bình), phong

đất cho hào trưởng Lê Lương làm thái ấp thuộc các huyện Đông Sơn, Thiệu

Hóa, Quảng Xương ( Thanh Hóa). Dưới thời Lê Hoàn đã cử các hoàng tử đi

trấn tri các địa phương, phong đất cho họ để được hưởng quyền thu thuế. Lê

Long Đĩnh đã phong cho điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn thực ấp ở Đằng

Châu ( Hưng Yên). Nhà nước đã bắt đầu chú ý thực hiện chính sách trọng

nông, khuyến khích sản xuất như: Đào vét các con sông, kênh ở vùng Ninh

Bình – Thanh – Nghệ An. Năm 1003, Lê Hoàn sai quân nạo vét kênh Đại Cái

(Nghệ An), năm 1009, Lê Long Đĩnh cho phép quân dân Ái Châu ( Thanh

Hóa) đắp đường, đào kênh ở vùng mình…..

Như vậy, với các chính sách khuyến khích đầu tư cho nông nghiệp và

cùng với sự nỗ lực của nhân dân đã làm nông nghiệp ngày càng phát triển và

làm cho đời sống của nhân dân ngày càng ổn định. Điển hình là các vụ lúa các

năm 978, 989 đều được sử ghi nhận được mùa.

Triều đình cũng rất chú trọng phát triển thủ công nghiệp để phát triển

phục vụ cho nhu cầu của vua quan và quân đội nhất là ở kinh đô Hoa Lư. Các

vua Đinh – Tiền Lê khi lên ngôi, đều cho thợ đúc tiền đồng như Thái bình

thông bảo (Đinh) và Thiên phúc thông bảo (Tiền Lê). Nhiều thợ thủ công đã

được tập trung ở Hoa Lư như thợ nề, thợ đá, mộc, ngọc, chạm khắc, dát vàng

bạc để xây dựng kinh đô trong đó có nhiều cung điện lớn lợp ngói bạc, các cột

dát vàng bạc ,các đình, chùa khang trang. Sử cũ đã ghi về kinh đô Hoa Lư: có

điện Bách bảo thiên tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng bạc làm nơi coi

chầu; phía Đông là điện Phong Lưu, phía Tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện

Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc.

21

Trong nhân dân các nghề thủ công nghiệp cổ truyền như kéo tơ, dệt lụa,

làm đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, làm giấy đều phát triển. Nhà nước Đại Cồ Việt

đã sử dụng những sản phẩm này để làm cống phẩm. Ngoài ra nghề đóng

thuyền, làm đồ đạc dân dụng xuất hiện ở nhiều nơi, trình độ kỹ thuật ngày

càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng tiền tệ vào việc trao đổi buôn bán

hàng hóa ở các chợ làng quê và một số trị sở Hoa Lư, Tống Bình, Long Biên.

Việc trao đổi buôn bán vật phẩm cũng được thực hiện với Trung Quốc và các

thuyền buôn nước ngoài.

Dưới thời Tiền Lê, hệ thống giao thông thủy giữ vai trò đặc biệt quan

trọng và được Nhà nước, nhân dân quan tâm đào vét, mở mang. Bên cạnh đó

hệ thống giao thông đường bộ cũng được tu sửa, nâng cấp, đặc biệt là tuyến

giao thông khu vực phía Nam và phía Đông Bắc.

Năm 984, nhà Tiền Lê đã cho đúc tiền Thiên Phúc từ đó tạo điều kiện

cho sự lưu thông buôn bán hàng hóa trong nước. Nhiều chợ làng quê đã xuất

hiện khắp nơi, buôn bán trao đổi các loại nông sản, thủ công nghiệp, các lâm,

thổ, hải sản giữa các địa phương và các vùng trong nước trở nên thường

xuyên hơn.

Như vậy, tình hình kinh tế từ nông nghiệp đến công thương nghiệp đều

có sự phát triển hơn trước so với thời kỳ Bắc Thuộc. Sự phát triển của kinh tế

sau thời kỳ loạn lạc đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân và tạo hậu

phương vững chắc cho công cuộc dựng nước và giữ nước thời Ngô - Đinh –

Tiền Lê, và tạo ra cơ sở nền tảng cho đời sống tâm linh nảy nở, là cơ sở để tạo

dựng quy mô các cơ sở kiến trúc Phật giáo mật độ dày ở Kinh đô Hoa Lư và

các địa phương.

1.1.2 Điều kiện văn hóa - tư tưởng.

Trong thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê đất nước được độc lập tự chủ nên

nền văn hóa dân tộc được phục hưng và bước vào thời kỳ phát triển mới, thời

kỳ mở đầu cho những thành tựu văn hóa trên các lĩnh vực, đặt nền móng xây

22

dựng văn hóa Việt Nam trong nhiều thế kỷ sau đó. Các loại hình văn hóa dân

gian đã và đang phát triển trong thời Ngô – Đinh – Tiền Lê chẳng hạn như: ca

múa nhạc thông qua truyền thuyết về bà Phạm Thị Vân dạy quân sĩ đánh

trống, tạp kỹ đi trên dây, đánh đu, trồng cây chuối qua truyền thuyết về Văn

Du Tường dùng mưu diệt quỷ Xương Cuồng ở Bạch Hạc…..Các trò vui được

phục hồi, bảo tồn qua các lễ hội dân gian đến đời sau.

Trong thời kỳ gần 1000 năm Bắc thuộc, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo

đã du nhập vào nước ta. Đến thời Ngô – Đinh – Tiền Lê các đạo tiếp tục tạo

điều kiện phát triển nhất là đạo Phật. Nhưng sự phát triển của mỗi đạo trên là hoàn

toàn khác nhau cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nho giáo: Nho giáo do Khổng Tử( 551- 479 TCN) sáng lập.

Sau Khổng Tử là Mạnh Tử ( khoảng năm 372 – 238 TCN) đã phát triển về

phía duy tâm và Tuân Tử ( 325- 238 TCN) phát triển về phía duy vật. Tư

tưởng Nho giáo từ Khổng Tử đến Tuân Tử được coi là Nho tiên Tần hay Nho

Nguyên thủy. Đặc điểm của nó là chưa phát triển theo hướng thần bí và khắc

nghiệt nhiều. Nhưng bước sang thời Hán với vai trò của Đổng Trọng Thư thì

sự phát triển Nho giáo của Khổng – Mạnh theo hướng duy tâm thần bí và gia

tăng tính đẳng cấp nghiệt ngã làm nên giai đoạn Nho giáo đảm nhận cả chức

năng là tôn giáo quan phương gọi là Hán Nho. Đến thời Tống Chu Đôn Di,

Trình Hy, Trình Hạo thì kết hợp Hán Nho với tư tưởng của Đạo giáo, Phật

giáo thành “Tống Nho”. Với lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo

như trên đều có ảnh hưởng đến Việt Nam mặc dù khi du nhập vào nước ta từ

thời Bắc Thuộc, sang đến thời Ngô – Đinh – Tiền Lê nhưng sức ảnh hưởng

còn rất hạn chế. Tại sao lại như vậy ? Phải chăng học thuyết của Nho giáo

chưa đủ lớn, chưa có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong nhân dân hay

là do đây là học thuyết chính trị - xã hội quá lớn nên nó không phù hợp với

một đất nước vừa mới thoát thai từ thời Văn Lang – Âu Lạc với chế độ công

xã nông thôn kéo dài với vai trò của thủ lĩnh địa phương? Theo các tư liệu

23

chúng ta nhận thấy một số nguyên nhân sau làm cho Nho giáo không ăn sâu

bám rễ và phát triển nhanh được trong thời Ngô – Đinh – Tiền Lê:

Một là, Nho giáo truyền sang Việt Nam từ đời Hán . Đây là một học

thuyết chính trị – đạo đức đề cao sự phân biệt đẳng cấp trật tự để tổ chức

Nhà nước quân chủ tập quyền – một học thuyết với chủ chương dùng “ nhân

trị - đức trị” để quản lý xã hội. Nho giáo chủ chương xây dựng một xã hội bất

bình đẳng theo phạm vi, nhất là coi phương Bắc là nước lớn, phương Nam là

nước nhỏ có tôn ti trật tự trên dưới: “vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, cha ra cha,

con ra con”(Luận Ngữ - Thiên Nhan Uyên). Điều này có nghĩa là bề dưới

phải tuyệt đối phục tùng bề trên không được trái lại Nho giáo còn đề cao

“đức” được thể hiện thông qua các phạm trù khái niệm quy phạm nghiêm

ngặt: tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tiết nghĩa, chuẩn mực hóa bằng Lễ.

Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê tình hình nước ta sau thời kỳ dài loạn lạc, buổi

đầu dựng nước phải áp dụng Hình pháp để ổn định xã hội.

Hai là, mục đích của phong kiến phương Bắc khi du nhập Nho giáo qua

con đường học chữ Hán vào nước ta muốn thực hiện chính sách Hán hóa,

đồng hóa người dân Việt nên lúc đầu gặp phải sự phản ứng. Mặt khác, trong

thời kỳ Bắc Thuộc chúng truyền bá Nho giáo còn nhằm mục đích đào tạo ra

một bộ phận quan lại làm việc cho chính quyền Hán để từ đó phục vụ cho

mục đích của chúng là đồng hóa toàn diện người dân Việt Nam từ đời sống

kinh tế đến tư tưởng nên thái độ nhân dân không được đồng thuận tiếp nhận.

Ngược lại với triết lý về bình đẳng, về từ bi – hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, giải

thoát khỏi nỗi khổ đau trần thế Phật giáo đi sâu vào văn hóa Việt Nam, tích

cực hội nhập với văn hóa bản địa lại đồng thuận với nguyện vọng được bình

đẳng, tự chủ, tự tại của dân Việt nên mau chóng ăn sâu bám rễ trong cộng

đồng làng xã.

Ba là, thời Ngô – Đinh – Tiền Lê khi đất nước ta vừa mới giành được

độc lập và thành lập nước Đại Cồ Việt thì mục đích và nhiệm vụ chính yếu có

24

tính sống còn đặt lên vai nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê là phải khẳng định được

bản sắc văn hóa, độc lập chủ quyền của một quốc gia, một dân tộc độc lập, đề

cao tinh thần tự chủ, tự cường lên trên hết. Do vậy mà phải xây dựng bản sắc

văn hóa Đại Cồ Việt khác biệt với phương Bắc ngay từ những cơ sở gốc rễ.

Khi đó nhà Tống – Trung Hoa đã lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính trị của

mình thì Đại Cồ Việt không thể khuôn mẫu lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chủ

đạo để định hướng phát triển được.

Như vậy, với những nguyên nhân nêu trên mà Nho giáo khi đó dù đã có

thời gian dài du nhập vào nước ta, Nhưng không được tiếp nhận nồng nhiệt ở

cơ sở làng xã như với tôn giáo Phật giáo. Nhất là, cũng trong khoảng gần

nghìn năm, Phật giáo có sự hòa nhập, hỗn dung với văn hóa, tín ngưỡng bản

địa của người dân Việt. Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận có sức ảnh

hưởng nhất định của Nho giáo đến văn hóa nhất là văn hóa tư duy chính trị

của người Việt. Và đúng như trong sách Lịch sử tử tưởng Việt Nam tập 1, của

Nguyễn Tài Thư đã nhận xét: “ Người Giao Châu dần dần làm quen với Nho

giáo, rồi từ đó có sự thay đổi trong nhận thức, trong thái độ đối với Nho: từ

phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi, từ công cụ của kẻ bên ngoài trở

thành công cụ của bản thân mình” [44, tr81].

Thứ hai, Đạo giáo là tôn giáo dựa trên cơ sở tư tưởng của Lão Tử và

Trang Tử là người phát triển. Đạo giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc

Thuộc. Tuy nhiên, do tư tưởng xuất thế trong đời sống chính trị thì sức ảnh

hưởng còn hạn chế. Đạo giáo chủ yếu lưu hành trong số người Hán, những

người thất thế trên con đường chính trị và bị ngược đãi. Từ khi vào nước ta

Đạo giáo có hai loại : Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy nhưng chỉ có

Đạo giáo phù thủy là có ảnh hưởng nhiều. Đến thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê

ở nước ta Đạo giáo tiếp tục được du nhập càng phát triển hơn và có sức ảnh

hưởng trong nhân dân. Bởi vì: Các tầng lớp nhân dân chịu ảnh hưởng của Đạo

giáo phù thủy nên phù hợp với tín ngưỡng dân gian, góp phần bổ sung những

25

tín điều cần thiết mà tín ngưỡng dân gian không có. Song cũng phải thừa

nhận, trong giới trí thức cũng có nhiều người tin theo Đạo giáo thần tiên bởi

vì người Việt trước những khó khăn vốn có tinh thần lạc quan, lãng mạn,

muốn có một cuộc sống tốt đẹp và dài lâu.

Thứ ba, vào đầu công nguyên và suốt thời kỳ Bắc Thuộc Phật giáo đã

du nhập vào nước ta. Phật giáo là tôn giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ và người

sáng lập là Tất Đạt Đa. Khác so với tình hình Nho giáo khi du nhập vào Việt

Nam thì Phật giáo ngay từ đầu có sự hội nhập với văn hóa bản địa tự nhiên và

lâu dài suốt thời kỳ Bắc Thuộc đã chuyển biến, kết hợp với tín ngưỡng bản

địa trở nên có đặc điểm thành Phật giáo dân gian rõ nét nhất trong sử liệu đều

ghi nhận trung tâm thờ Phật Tứ Pháp như là biểu tượng Phật giáo dân gian ở

Luy Lâu. Tuy vẫn có các thiền phái Tì – Ni – Đa – Lưu – Chi, Vô Ngôn

Thông ra đời và truyền bá rộng rãi trong các tầng lớp xã hội đã có ảnh hưởng

lớn trong đời sống người Việt. Điều căn bản, ngay từ lúc đầu Phật giáo khi

vào Việt Nam đã gặp môi trường thuận lợi. Các nhà truyền giáo đã khôn khéo

kết hợp lợi dụng những yếu tố tín ngưỡng cổ truyền của mảnh đất này để

truyền bá Phật giáo, tạo ra một sự giao lưu văn hóa ngoại sinh với văn hóa

dân gian, mà hầu như không có một sự chống đối nào. Do vậy đến thời Ngô –

Đinh – Tiền Lê, cở sở Phật giáo đã rất phát triển ở các làng xã tại châu thổ

sông Hồng, ở kinh đô thế kỷ X Hoa Lư đã xây dựng rất nhiều chùa chiền (

chùa bà Ngô, chùa Tháp, chùa Nhất Trụ…) với các cột khắc kinh Phật rất nổi

tiếng. Xuất hiện vai trò quan trọng các nhà sư thời kỳ này như Đỗ Pháp

Thuận, Sùng Phạm, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh… là các trí thức lớn, uyên bác

Nho – Phật – Đạo, được sử dụng như những cố vấn cung đình và là những

nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua. Thời kỳ này với sự chủ động của triều

đình thì Phật giáo được chú trọng đề cao để làm lực lượng xây dựng hệ tư

tưởng tự chủ của dân tộc thường kết hợp với Nho sĩ và Đạo giáo như trường

hợp Trương Ma Ni được phong chức Tăng lục đạo sĩ được trọng dụng.

26

Tóm lại cơ sở văn hóa dân tộc được phục hồi có sự kết hợp ba đạo Nho

– Phật – Đạo tuy đều là ba tôn giáo ngoại nhập nhưng khi vào Việt Nam thời

Ngô – Đinh – Tiền Lê lại có vai trò khác nhau trong đời sống xã hội. Sở dĩ

như vậy là vì xuất phát từ sự tương tác hai phía giữa nền văn hóa Việt Nam và ba

Đạo này để có thể làm nên nét độc đáo của nền văn hóa Đại Cồ Việt tự chủ.

1.2 Diện mạo của Phật giáo trƣớc và trong thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

1.2.1 Diện mạo Phật giáo trước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Về thời gian Phật giáo du nhập chính thức vào nước ta thì còn có nhiều

ý kiến khác nhau qua các nguồn sử liệu. Nhưng phần đông các học giả cho

rằng Phật giáo vào nước ta vào khoảng những thế kỷ đầu công nguyên theo

hai con đường: đường thủy và đường bộ.

Là tôn giáo ngoại nhập trong thời gian đầu du nhập Phật giáo cũng gặp

không ít những khó khăn trắc trở. Các nhà sư nước ngoài với sự khác nhau về

hình dáng, ngôn ngữ, phong tục đã không thể thuyết phục được những người

bản địa theo giáo lý cao siêu của triết học Phật giáo. Nhưng rồi theo thời gian

các nhà truyền đạo với sự kiên trì cùng với tấm lòng bồ tác đã ra sức giúp đỡ

những hoàn cảnh éo le, bất hạnh của người dân bản địa. Chính bằng phương

cách hành động này mà các nhà sư đã tạo dựng được lòng tin, sự yêu mến

trong lòng người dân bản địa và có cơ hội chứng đạo với đời. Để thế kỷ II đã

hình thành những trung tâm Phật giáo tại phía Bắc sông Hồng.

Sau buổi đầu gặp gỡ khó khăn, Phật giáo với sức mạnh nội tại của

mình. Đó là tôn giáo yêu hòa bình, đề cao luân lý, tự do, bình đẳng và đặc biệt

là sự nhẫn nại mềm mỏng, uyển chuyển trong giáo lý qua tinh thần “khế lý

khế cơ” đã nhanh chóng gặp gỡ và bén duyên với nền văn hóa bản địa Việt

Nam vốn đã hài hòa, cởi mở, sẵn sàng tiếp thu có chọn lọc những sản phẩm

của văn hóa nước ngoài phù hợp với nhu cầu cuộc sống của họ. Kết quả của

cuộc hôn nhân này được thể hiện trọn vẹn qua câu truyện Man Nương và

Khâu Đà La với sự ra đời của Tứ Pháp.

27

Như vậy, Phật giáo với phương thức lan tỏa khi du nhập vào nước ta

như nước thấm vào đất. Phật giáo đã dung hòa được nền văn hóa bản địa hóa

để trở thành Phật giáo dân gian, đi vào lòng quần chúng.

Phật giáo du nhập vào nước ta đầu tiên là ở Luy Lâu – trung tâm kinh

tế – chính trị – xã hội. Nơi đây là một trung tâm thương mại, một nội địa giàu

sản vật quý, thu hút nhiều thương nhân ngoại quốc, đặc biệt là Ấn Độ. Nơi

đây không chỉ thu hút các thương nhân Ấn Độ mà các thương nhân Trung

Hoa cũng sang đây và trở nên phát đạt, làm giàu tại Giao Châu. Về sau là

vùng đất đặt cơ sở chính trị của phong kiến phương Bắc.

Luy Lâu nằm ở vùng châu thổ phì nhiêu, mật độ dân cư đông đúc,

nhiều điểm nút giao thông quan trọng. Giao Châu trở thành trung tâm kinh tế,

chính trị thì thường sẽ đi đôi với giao lưu văn hóa, tôn giáo. Do vậy, Luy Lâu

cũng rất phát triển về văn hóa và tôn giáo. Với sự nhẫn nại của các nhà truyền

giáo biến nơi đây trở thành một trung tâm Phật giáo với những hoạt động tăng

đoàn, học thuật hết sức sôi động. Từ đây Phật giáo đã lan tỏa ra khắp Đồng

Bằng Sông Hồng và nhiều nơi khác. Thậm chí còn theo các con đường giao

lưu lan tỏa sang Nam Trung Quốc.

Đặc biệt có sử liệu văn hóa Phật giáo ở Luy Lâu còn phát triển hơn cả

trung tâm Bành Thành và trung tâm Lạc Dương ở Trung Hoa.

Trong khoảng hai thế kỷ đầu du nhập vào nước ta nhiều tác phẩm giải

thích kinh sách Phật giáo đã được ra đời trong đó tiêu biểu là tác phẩm “Lý

hoặc Luận” của Mâu Tử (tác phẩm làm rõ những điều còn nghi hoặc về Phật

giáo) được sáng tác vào cuối thế kỷ thứ hai . Trước hết phải hiểu về mục tiêu

của tác giả về tác phẩm “Lý hoặc Luận” của Mâu Tử có nghĩa là những lý

luận để làm tiêu tan mối nghi hoặc về Phật giáo. Tác phẩm này còn giữ được

lại trong bộ Hoằng Minh Tập do Tăn Hựu sưu tập, các lần xuất bản về sau

đều có nói đến sách này của Mâu Tử.

28

Mâu Tử là người đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền bá

đạo Phật ở Giao Châu khi buổi đầu đạo Phật mới du nhập vào. Ông không

thuộc lớp người truyền đạo đầu tiên vào nước ta mà ông là nhà kết hợp tổng

hợp tri thức thời đó nghiên cứu thực tế để nhằm củng cố niềm tin chân chính

vào đạo Phật.

Thông qua tác phẩm này cho biết, Mâu Tử là một người gốc Hán

nhưng tư tưởng cởi mở đã thay mặt cho tiếng nói người Việt đứng lên phá tan

mặc cảm tự tôn về phương Bắc, cho rằng nước Tàu là trung tâm của trời đất,

xung quanh chỉ là biên địa, mọi rợ di dịch. Ông đã kiên quyết chống lại dùng

chính sách “đức giáo” để xóa bỏ bản sắc văn hóa Việt nhằm thực hiện ách nô

dịch của người Hán để đồng hóa dân tộc Việt Nam, bằng cách thẳng thừng

vạch ra những thiếu sót trong “Ngũ kinh”. Từ đó ông cho rằng phải kể khuyết

điểm của chúng bằng Phật giáo. Đây là một cuộc chống đối quyết liệt trực

diện vào chính sách “dĩ nho biến di” của người Hán trong thời Bắc Thuộc tại

Việt Nam.

Qua tác phẩm “Lý hoặc Luận” chúng ta nhận thấy rằng Mâu Tử là

người trí thức rộng tinh thông Hán học, lại có kiến thức Phật giáo uyên thâm.

Ông đã vượt khỏi giới hạn chủng tộc đại diện cho nhân dân Việt Nam gương

cao ngọn cờ chống đồng hóa từ phía nhà cầm quyền phong kiến phương Bắc.

Ngọn cờ trong tay Mâu Tử đã được gương cao và tiếp tục trao truyền qua các

nhà sư, nhà tri thức Phật giáo – những con người một lòng hướng Phật nhưng

cũng nặng lòng với đất nước mà nó đến, yêu thương những người bị đè nén,

đau khổ.

Khương Tăng Hội là người khởi đầu thiền học Việt Nam vào đầu thế

kỷ III, người sáng tổ của thiền học Việt Nam. Một phương diện khác ông còn

được xem là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở Trung Hoa.

Chúng ta biết rằng Khương Tăng Hội là người gốc Khương Cư, nhưng

từ nhỏ đã sinh sống và học phật tại Giao Châu. Do vậy, có thể nói rằng

29

Khương Tăng Hội đã thừa hưởng một nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo

Việt Nam khá trọn vẹn, vững vàng. Thông qua các sử liệu về nhân vật

Khương Tăng Hội chúng ta thấy rằng, lịch sử giáo dục Việt Nam gắn với giáo

dục Phật giáo Việt Nam thật đáng tự hào với hoa trái ngọt đầu tiên của mình.

Nó đã tự xác định cho mình một sứ mệnh thiêng liêng cao quý là gắn bó

xương thịt với vận mệnh dân tộc để phục vụ dân tộc và không bao giờ đi

ngược lại với sứ mệnh đó.

Trong sách về lịch sử Phật giáo do Nguyễn Lang viết cũng như nhiều

quyển khác cho thấy: Bước sang thế kỷ V không khí Phật giáo ở nước ta ngày

càng sôi nổi. Phật giáo với các tông phái và sở học rộng rãi ngày càng tự tin

và trưởng thành hơn về mặt học thuật, tư tưởng và văn hóa. Điều này được

thể hiện rất rõ qua cuộc đấu tranh tư tưởng và văn hóa được ghi lại trong Sáu

lá thư trao đổi giữa Lý Miễu và hai cao tăng: Đạo Cao và Pháp Minh.

Qua sáu bức thư cho thấy Phật giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ VI đã rất

phát triển. Đồng thời cũng cho thấy học thức của các nhà sư Giao Châu rất

uyên bác. Họ nắm vững tinh thần giáo lý làm cho tiếng tăm Phật giáo vang

xa. Sứ thần thiên triều cũng coi trọng phải tìm đến vấn an và học hỏi.

Trong thế kỷ VI, nhận thức về quyền tự chủ lịch sử dân tộc có một sự

kiện đặc biệt đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đã giành thắng lợi vào năm 544.

Sau khi Lý Bí giành lại độc lập cho dân tộc ông đã xưng đế, thành lập nhà

nước Vạn Xuân, cho xây dựng chùa Khai Quốc, tự nhận mình là Lý Phật Tử.

Với sự kiện Lý Bí lập quốc xưng đế đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc

về tinh thần độc lập tự chủ, khẳng định dân tộc Việt Nam cũng có quyền được

hưởng cuộc sống tự do, có quyền bình đẳng như phương Bắc. Qua sự kiện Lý

Bôn cho xây chùa Khai Quốc và nhận mình là Phật tử thì chúng ta thấy rằng,

Phật giáo ở nước ta lúc này đã rất lớn mạnh, đã trở thành chỗ dựa vững chắc

cho nhà cầm quyền.

30

Trong thế kỷ VI, các phật tử Việt Nam đã tham gia trực tiếp vào đấu

tranh, xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Chính trong quá trình

đấu tranh thực tiễn đã giúp cho các phật tử được tôi luyện và trưởng thành

trong suy nghĩ và hành động của mình. Đây chính là chất xúc tác, là cơn gió

mạnh để đẩy con thuyền Phật giáo Việt Nam băng băng tiến lên phía trước,

để rồi kết quả của quá trình phát sinh phát triển ấy là sự ra đời của hai dòng

thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông.

Thứ nhất là dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi ra đời năm 580, truyền thừa

qua 19 đời. Tư tưởng của dòng thiền này bắt nguồn từ Kinh Bát Nhã, Tam

Luận và Hoa Nghiêm có khuynh hướng thiên về Mật giáo, theo tinh thần bất

lập Văn tự, chú trọng đến truyền thụ tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế giúp

dân và biết sử dụng thuật phong thủy sấm vĩ. Thiền phái này chịu ảnh hưởng

của Phật giáo Ấn Độ mà ít chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Đây là một thiền

phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam bởi lẽ vừa biểu lộ sinh hoạt tâm linh

siêu việt của Phật giáo, vừa bộc lộ được đời sống đơn giản và thực tế của

quần chúng nghèo khổ. Trong dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi các nhà sư có vai

trò quan trọng trong cuộc vận động giành độc lập dân tộc, trong đó tiêu biểu

như nhà sư Định Không và La Qúy An.

Nhà sư Định Không đã không tách rời chủ trương tu hành gắn với cứu

người, gắn Phật giáo khỏi đời sống và chỉ để phục vụ đời sống.

Ông đã kết hợp khéo léo chủ trương vừa nêu bằng việc kết hợp yêu cầu

tự giải thoát với yêu cầu giải phóng đất nước cấp bách của thời đại mình. Đó

là đấu tranh đế xây dựng cho được một lý luận để xây dựng nhà nước Việt

Nam độc lập, thực hiện sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia và điều kiện làm

thịnh vượng Phật giáo. Có thể nói đây là lần đầu tiên đã nêu lên khẩu hiệu đạo

pháp với dân tộc, biến nó thành một thể thống nhất không thể phân ly. Với

bước phát triển mới về nhận thức sẽ đi đến hành động tự giải phóng, người ta

đã công khai đặt sự tồn tại của Phật giáo về mặt chính trị trong lòng sự tồn tại

31

của một đất nước Việt Nam có chủ quyền. Nó thể hiện là bước phát triển mới

của hệ tư tưởng dòng thiền còn ý nghĩa cho đến hiện nay. Bước phát triển này

rồi sẽ bị chi phối toàn bộ tinh lực của những người kế thừa dòng thiền ấy. Hai

thế kỷ tiếp theo trong sự nghiệp kiên trì thực hiện cho kỳ được mục tiêu mà

họ đã đề ra gắn đạo pháp với dân tộc.

La Qúy An (852 – 936) khi nhắc đến nhà sư này là chúng ta nhớ đến

công cuộc phá chấn yển của Cao Biền. Sự đấu tranh tài trí giữa La Qúy An

với Cao Biền chính là cuộc đấu tranh giữa dân tộc Việt Nam ngày càng lớn

mạnh, ngày càng kiên quyết đấu tranh giành độc lập tự chủ với một bên là thế

lực bọn xâm lược phương Bắc dùng đủ trăm phương nghìn kế thâm độc để

bảo vệ địa vị cai trị của mình.

Trong những sử liệu phong phú ghi lại những hành động mang màu sắc

huyền bí của La Qúy An chúng ta đặc biệt chú ý đến nội dung bài kệ mà ông

đọc khi trồng cây gạo:

Định thành thập bát tử

Cây gạo hiện long hình

Thỏ gà trong thánh chuột

Nhất định thấy trời lên

Có thế nói rằng bài kệ trồng cây gạo của ông như một tuyên bố về tiến

trình vận động độc lập của dân tộc ta vào cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X, thể

hiện trọn vẹn, công khai lòng mong mỏi thiết tha của người dân đất Việt thời

đó. Đồng thời là một kế thừa trung thành tư tưởng địa linh do Định Không

vạch ra cách đây 200 năm trước, thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo, Đạo giáo

và tín ngưỡng bản địa.

Thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông :

Trước khi dòng thiền Vô Ngôn Thông ( 820) ra đời đất nước ta đã liên

tiếp xuất hiện những anh hùng cứu nước. Phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc diễn ra rất sôi nổi. Những vị anh hùng cứu nước cứu dân như Mai Hắc Đế,

32

Phùng Hưng, Đỗ Anh Hàn… đã nhận thấy đất nước mình đang có một tương

lại tốt đẹp hơn ở phía trước, trong đó có cả những con người Phật giáo với

dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã không ngừng phát triển. Tuy nhiên thực tiễn

lịch sử đất nước còn nhiều khúc quanh co thăng trầm đòi hỏi ở Phật giáo

nhiều hơn thế và chính trong nội tại Phật giáo lúc đó đã hội tụ những yếu tố

mới cũng cần có một luồng gió mới, một sinh khí mới để giải đáp những vấn

đề mới mà thực tiễn Phật giáo nói riêng và thực tiễn đất nước nói chung đặt

ra. Xuất phát từ chính yêu cầu này, phái Thiền Vô Ngôn Thông đã ra đời như

một tất yếu của lịch sử. Một nét mới trong tư tưởng Phật giáo của dòng thiền

Vô Ngôn Thông đó là: người ta không còn đi tìm một đức phật bên ngoài con

người như thời kỳ trước phản ánh trong tư liệu khác nhau để thống nhất ở

nhận định đó là thời kỳ Phật giáo quyền năng. Đức phật bây giờ nằm ngay

trong “tâm” tất cả mỗi người và nguồn gốc bản thể “không” của “ Phật” nằm

ở đó. Về tư tưởng thiền phái này cũng đưa ra kiến giải mới về “thiền”. Đó là

“thiền” có bản thể bắt buộc từ chính bản nhiên tĩnh lặng, thanh tịnh của con

người. Ở đâu bản tâm thanh tịnh con người ở đó có gốc của Thiền.

Chính sự tự tin trong việc lý giải những tư tưởng Phật giáo mang tính

bản thể siêu việt của thiền phái Vô Ngôn Thông đã đem lại chỗ dựa, sự tin

tưởng cho những Phật tử về quyền “bình đẳng” tự tin về Phật tính. Quan niệm

đó đã lan tỏa trong những người dân Việt Nam theo Phật giáo, cổ vũ động

viên phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi quyền bình đẳng của cộng

đồng người Việt trước người phương Bắc.

Như vậy, với hàng ngàn năm gắn bó với dân tộc Việt Nam. Phật giáo

đã đồng cam cộng khổ, suy nghĩ trăn trở cùng với người dân Việt khẳng định

bản sắc. Cùng với sự trưởng thành về văn hóa , tư tưởng về mọi mặt của dân

tộc Việt Nam, Phật giáo cũng có những bước phát triển tương xứng, từ chỗ

chỉ là những nhà sư Ấn độ đến truyền giáo đơn lẻ rồi phát triển lên thành

những dòng thiền vững mạnh có ảnh hưởng rộng rãi nhờ hỗn dung với văn

33

hóa Việt Nam. Trong quá trình hòa nhập chung sống với cộng đồng dân tộc

Việt Nam, Phật giáo tự bao giờ đã khắc tạc, thấm đẫm truyền thống yêu nước

vào trong mình, mang lấy tư tình của dân tộc. Phật giáo khởi đầu mới du nhập

vào nước ta là tôn giáo xuất thế nhưng khi sau quá trình tiếp biến với văn hóa

Việt Nam, đã hình thành đặc điểm mới là “tích cực nhập thế”, để “chứng đạo

với đời”, để rồi trở thành lực lượng xung kích đi đầu gương cao ngọn cờ đấu

tranh giải phóng dân tộc. Sự phát triển của Phật giáo cũng chính là sự phát triển

của dân tộc Việt Nam và điều này đã được cụ thể hóa sau chiến thắng lịch sử

của Ngô Quyền năm 938 mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.

1.2.2 Diện mạo Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Thời đại Ngô – Đinh –Tiền Lê là một giai đoạn lịch sử đã có sự chuyển

biến về chất, đất nước ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.

Sự thay đổi thân phận lớn lao đã tạo ra thời cơ và vận hội mới cho Phật giáo

nói riêng và cả lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.

Về mặt chính trị có những thuận lợi mới cho bước phát triển của Phật

giáo. Chúng ta đã giành được độc lập, bắt tay vào xây dựng chính quyền

phong kiến tập quyền. Trước yêu cầu lịch sử đòi hỏi Phật giáo phải tham gia

tích cực hơn nữa vào đời sống chính trị của đất nước. Vì bấy giờ đội ngũ tri

thức đại diện cho tiếng nói đông đảo nhân dân là những thiền sư.

Về mặt xã hội: khi đất nước được độc lập, vấn đề xây dựng tổ chức và

quản lý xã hội cũng rất quan trọng, nó quyết định sự hưng vong của đất nước.

Trong tình hình này Phật giáo với những giáo lý khuyến thiện, trừ ác triết lý

nghiệp báo, luân hồi, từ bi hỷ xả, thấm đấm chất nhân văn sẽ có vai trò to lớn

đã bước đầu định hướng đời sống tinh thần nhằm xây dựng một xã hội mới tự

chủ, bình đẳng và giàu giá trị nhân bản. Trong thế kỷ X, khi đất nước được

độc lập, việc giáo dục con người cũng là một nhiệm vụ hết sức bức thiết.

Trong khi đội ngũ trí thức dân tộc có trình độ Nho giáo chưa phát triển, chưa

đảm nhận được vai trò chính trách nhiệm giáo dục của mình, thì những ngôi

34

chùa làng đã trở thành cơ sở trường học, những nhà sư đã trở thành thầy giáo

mặc nhiên đảm nhận sứ mạng giáo dục các thành viên làng xã. Chính trong

môi trường giáo dục Phật giáo đã đào tạo ra những nhân tài cho đất nước, tạo

ra những vị vua sáng – mở đầu cho một triều đại mới.

Khi đất nước được độc lập vị thế của dân tộc phải được khẳng định,

trọng trách này không ai khác chính là những nhà thiền sư, họ phải tìm tòi và

suy nghĩ để xây dựng cho được một nền văn hoá Việt Nam độc lập tự chủ,

thoát khỏi ảnh hưởng của văn hoá nô dịch phương Bắc. Các thiền sư đã trở

thành những nhà kiến trúc sư đầu tiên xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Họ vừa

là nhà sư, nhưng cũng vừa nhà nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị, nhà cải cách.

Với sự quyết đoán của các vị vua kiêm là những nhà quân sự tài ba

cùng với sự ổn định về tình hình chính trị – xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi

cho Phật giáo thời kỳ này ngày truyền bá và được mở rộng địa bàn phát triển.

Từ đó hình thành lên một trung tâm Phật giáo Hoa Lư.

Hoa Lư là một vùng núi sông trùng trùng điệp điệp, thành trì hiểm yếu,

trên bộ có núi rừng, đường thủy có sông dài vươn ra biển lớn, trước mặt có

đồng bằng thuận tiện vào Nam ra Bắc. Và điều đặc biệt nơi đây là “kinh đô

độc lập đầu tiên của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam.

Sách Đại Nam nhất thống Chí đã viết: “Hoa Lư là kinh đô của nhà

Đinh, nhà Tiền Lê ở xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, ở phía tây

bắc huyện Gia Viễn, có nội thành và ngoại thành, có cửa xây bằng đá, lại có

các địa danh: Cầu Đông, Cầu Dền, Cầu Muống, Tràng Tiền, Chùa Tháp, chùa

Nhất Trụ….mà đến nay nền cũ vẫn còn, khi Lý Thái Tổ dời đô đến Thăng

Long đều dùng theo các địa danh ấy. Rõ ràng trong thời Ngô – Đinh – Tiền

Lê đã mở rộng “miền” đất ảnh hưởng Phật giáo.

Vào thời kỳ đầu của thời đại Ngô – Đinh – Tiền Lê, Phật giáo là tôn

giáo được coi trọng. Các thiền sư lúc đó là tầng lớp trí thức trong xã hội, nhà

35

chùa trở thành trung tâm phổ biến sự hiểu biết về nhân sinh quan và thế giới

quan, đạo đức, lối sống.

Như ở trên đã phân tích các dòng thiền thời kỳ này: Tỳ Ni Đa Lưu Chi,

Vô Ngôn Thông đã hòa quyện với tín ngưỡng văn hóa bản địa để tạo nên một

nét văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Chiều ngược lại Chủ nghĩa

yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc luôn là tư tưởng xuyên suốt trong thời kỳ

dựng nước và giữ nước đã ngấm vào Phật giáo để ngày càng thể hiện rõ đặc

điểm nhập thế tích cực đậm hơn.

Cụ thể hơn, ở Kinh đô Hoa Lư lúc này, dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng

thì các thiền sư rất được coi trọng: Thiền sư Ngô Chân Lưu được phong làm

Tăng Thống – một chức quan đứng đầu các tăng đạo và được mang hiệu là

Khuông Việt đại sư, Pháp Thuận được gọi là Đỗ Pháp sư thường xuyên được

vua Lê Đại Hành tham vấn việc nước... Cùng với đó thì nhiều chùa tháp cũng

được xây dựng tại kinh đô Hoa Lư. Ngày nay còn dấu tích với 100 cột kinh

khắc bài chú Đà La Ni do Đinh Liễn đã xây dựng: Chùa Nhất Trụ nằm trên

thông Yên Thành, xã Trường Yên, Hoa Lư được xây dựng từ thời Tiền Lê,

nay còn lưu giữ cột kinh đá do vua Lê Đại Hành (980-1005) cho làm vào niên

hiệu Ứng Thiên thứ 2 ( 995). Ngoài ngôi chùa Nhất Trụ ra thì ngày nay ở cố

đô Hoa Lư chúng ta còn tìm thấy nhiều dấu tích của các ngôi chùa cổ được

xây dựng từ thời Ngô – Đinh – Tiền Lê: Chùa Am tại thôn Yên Trung, xã

Trường Yên, Hoa Lư, Chùa Ngần tại xứ Ngần thôn Chi Phong, xã Trường

Yên, Hoa Lư, Chùa Hoa Sơn tai thôn Áng Ngữ, xã Ninh Hòa, Hoa Lư….nhìn

chung đều có chung phong cách.

Tóm lại, vào thế kỷ X thời kỳ đầu của sự nghiệp dựng nước, giữ nước

của dân tộc ta đã sử dụng Phật giáo, coi nó là tôn giáo chính của dân tộc, tư

tưởng Phật giáo về thế giới quan và nhân sinh quan đã chi phối tích cực đối

với đời sống xã hội. Vai trò của các thiền sư đã trở thành những bậc trí thức

36

có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc phát triển các triều đại Ngô – Đinh

– Tiền Lê.

Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đã đóng góp rất nhiều công sức

trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, phát triển Phật giáo vươn

đến tầm cao mới của thời đại và dường như Phật giáo trở thành “Quốc Đạo”

vào thể kỷ X, tạo tiền đề những thế kỷ sau đó tiếp tục phát triển nhất là thời

Lý – Trần. Các thiền sư của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi: Vạn Hạnh, Huệ

Sinh, Chơn Không, Sùng Phạm, Viên Thông… các thiền sư dòng thiền Vô

Ngôn Thông: Đa Bảo, Không Không, Viên Chiếu, Mãn Giác… đều góp công

rất lớn qua ba lần kháng chiến chống quân Tống và quân Nguyên Mông trở

thành hiện thực cho tinh thần kết hợp Đạo với Đời, Đời với Đạo, đoàn kết,

hòa hợp với tăng chúng có kế thừa và vận dụng qua mỗi thời đại tiếp nối của

Phật giáo Việt Nam trong quá trình phát triển chung với đất nước và dân tộc

Việt Nam.

Như vậy diện mạo chung Phật giáo trong thời kỳ này mở rộng được coi

là điểm son, nền tảng cho sự thống nhất Phật giáo, ý thức cao độ của tinh thần

đoàn kết hòa hợp, củng cố hòa bình, xây dựng đất nước phồn vinh, văn minh

tiến bộ trong thời kỳ tự chủ, thống nhất đất nước từ thế kỷ X đến nay. Qua đó,

Phật giáo cũng tự khẳng định vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc ngoài

phát huy Đạo pháp, cũng hết mình trong việc hộ quốc an dân, làm tốt đời đẹp

đạo, ủng hộ hết mình cho các triều đại hợp lòng dân giữ vững độc lập, tự chủ

cho đất nước.

Với tinh thần đoàn kết, hòa hợp, là sực mạnh tổng hợp của dân tộc,

Phật giáo Việt Nam khi đó là chất keo sơn để gắn kết các thành phần khác

nhau, các tôn giáo khác nhau trong xã hôi, tạo thành một xã hội đa tôn giáo

nhưng đoàn kết vững mạnh vì một mục tiêu chung là độc lập cho dân tộc, an

lạc cho nhân dân.

37

Kết luận chƣơng 1: Với chiến thắng vào năm 938 của Ngô Quyền đã

chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc bước vào kỷ nguyên tự chủ độc lập qua các

triều đại đầu tiên là Ngô – Đinh – Tiền Lê với những thành tựu mới về chất

trong các lĩnh vực chính trị – kinh tế – văn hóa – giáo dục – tư tưởng. Đó

cũng đã tạo ra những điều kiện, cơ sở để cho Phật giáo có một bước nhảy mới

về chất trong tiến trình gắn bó đồng hành cùng dân tộc. Những vị vua sáng

lập các triều đại đã được sự hợp sức của toàn dân tộc, trong đó có sự đồng

thuận của đông đảo lực lượng các Phật tử, sau khi lên ngôi đã có sự chú trọng

sử dụng vai trò của các tri thức Phật giáo. Đây là tiền đề trực tiếp làm thay đổi

diện mạo của Phật giáo. Từ chỗ là tôn giáo của bình dân sống gần gũi nhân

dân lao động từ đây Phật giáo đã góp phần tham gia hội nhập vào đời sống

triều chính để hộ quốc an dân tỏa sáng trong đời sống xã hội. Các phương

diện khác của đời sống tôn giáo sẽ nhờ vậy đi vào nhân dân, ảnh hưởng sâu

rộng đến đời sống tinh thần của toàn dân tộc. Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, nền

độc lập đã tạo cơ sở để diện mạo và thực chất vai trò của Phật giáo thăng tiến

hiện diện trong đời sống dân tộc. Nó có một vai trò, vị thế phát triển mới về

lượng và về chất là điều chắc chắn mà chúng ta có thể chắc chắn khẳng định.

38

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN

LÊ NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM

2.1 Đặc điểm nhập thế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

Như ở chương một đã phân tích, chúng ta thấy rõ rằng trong 1000 năm

về trước khi Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam với bản tính “nhu hòa uyển

chuyển” trong giáo lý, với tinh thần “khế lý khế cơ” chấp nhận hội nhập với

tín ngưỡng bản địa nên nó đã hòa nhập với nền văn hóa Việt một cách tự

nhiên. Chính tinh thần nêu trên đã khiến cho Phật giáo nhập vào trong đời

sống xã hội Việt Nam từ cấp cơ sở làng xã và làm cho Phật giáo có ảnh hưởng

sâu sắc trong dân gian. Qua một thời kỳ dài lâu đã dần xuất hiện và ngày một

rõ nét xu thế nhập thế của Phật giáo.

Trước tiên, ta làm rõ nội hàm khái niệm nhập thế là gì? Nhập thế có thể

hiểu một cách ngắn gọn là đem đạo vào đời, chứng đạo với đời. Phật giáo

Việt Nam trong tiến trình trước thế kỷ X đã tự tô đậm xu thế nhập thế từ lâu.

Nguyên nhân Phật giáo nhập thế là:

Một là, kế tiếp truyền thống Phật giáo nhập thế đã có từ trước đó trong

quá trình tìm đường tồn tại và phát triển.

Hai là, Phật giáo với tư cách là một tiểu kiến trúc thượng tầng, một

hình thái ý thức xã hội chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng của xã hội Việt

Nam. Cho nên trước những thách thức của đời sống, vấn đề mới của tồn tại xã

hội đã đòi hỏi Phật giáo phải nhập thế để phải đưa ra những kiến giải mới của

mình, phải dấn thân vào sự vận động của dân tộc.

2.1.1 Đặc điểm Phật giáo nhập thế trong đời sống chính trị - xã hội.

Xét dưới góc độ tôn giáo học, Phật giáo là một tôn giáo, không những

vậy còn là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Tự thân các tôn giáo lớn

nói chung và Phật giáo nói riêng ngay từ đầu ra đời đã có xu hướng thoát tục,

xuất thế, lánh đời mang tính chất “phi chính trị”. Tuy nhiên trong quá trình du

39

nhập và phát triển của Phật giáo vào một nền văn hóa Việt Nam, tôn giáo này

đã được hội nhập vào yêu cầu thực tiễn gay gắt là khôi phục lại quyền tự chủ

bởi vậy nó bị chính trị hóa. Do vậy mà nó xảy ra hai khuynh hướng:

Một là trở thành một lực lượng đối lập, mâu thuẫn với quyền lực chính trị.

Hai là nó ủng hộ, bảo vệ quyền lực chính trị đương thời.

Như phần trên đã phân tích toàn bộ điều kiện, cơ sở tại Việt Nam trong

trường hợp đối với Phật giáo, ở Việt Nam ngay từ đầu khi mới du nhập vào

nền văn hóa của nước ta, với bản tính “nhu hòa và uyển chuyển” trong giáo lý

, với tinh thần “khế lý khế cơ” nên nó đã hòa nhập vào nền văn hóa Việt một

cách tự nhiên. Đối với yêu cầu chính trị của dân tộc là giành lại quyền tự chủ

trong hoàn cảnh đất nước đang bị phong kiến phương Bắc đô hộ Phật giáo

cũng phải chịu thân phận của tôn giáo không chính thống, bị coi nhẹ và phải

chịu sự “lấn áp” của Nho giáo.

Trong thế kỷ X bối cảnh chung của đất nước như vậy, Phật giáo không

thể đứng ngoài cuộc mà đã tích cực, chủ động, hội nhập tham gia vào cuộc

đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Các trí thức Phật giáo với tư cách là tầng

lớp trí thức trong xã hội đã ra sức tham mưu, phò giúp những vị thủ lĩnh của

các cuộc khởi nghĩa, đưa vị thủ lĩnh tài ba và xứng đáng nhất lên ngôi vua,

khôi phục lại nền độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để Phật giáo có được

vai trò, vị thế xứng đáng trong đời sống tinh thần của dân tộc.

Bởi vậy thế kỷ X, khi đất nước đã thoát khỏi ách đô hộ của thực dân

phương Bắc được sự đề cao, sử dụng của các vua thì các thiền sư lại giúp các

vị vua đưa ra những đường lối chính sách về chính trị thân dân giúp nước.

Đặc biệt là đóng góp trong việc định hướng xây dựng mô hình nhà nước quân

chủ tản quyền ảnh hưởng của cả Nho giáo và Phật giáo, sẽ được kế thừa về

sau. Ở đây có hiện tượng tác động biện chứng qua lại giữa Phật giáo với văn

hóa bản địa và Nho, Đạo, văn hóa dân tộc đã đem đến cho Phật giáo những

đặc điểm khác lạ nổi trội nhất là đặc điểm nhập thế, vị đời. Phật giáo tham dự,

40

hội nhập cũng đem lại các giá trị mới mẻ phong phú hơn cho văn hóa dân tộc.

Phật giáo trong thời kỳ này còn có một sức lan tỏa hấp dẫn còn là cơ sở cho

sự khoan dung đã thẩm thấu vào các học thuyết khác phát huy giá trị đó.

Phật giáo với vai trò to lớn trong xã hội như vậy nhưng Phật giáo trong

giai đoạn này không vì uy tín và sự kính trọng của nhà vua và dân chúng để

phát triển thế lực của mình vươn lên thống trị chính trị - xã hội, trở thành lực

lượng đối trọng đối lập với quyền lực chính trị và đây là đặc điểm khoan dung

nhập thế mà không để bị hòa tan vào thế tục, không bị mất đi bản tính Phật

giáo vô ngã, vị tha siêu việt của nó.

Trong lúc Phật giáo tỏa rộng và thấm dần vào đời sống nhân dân thì

giữa triều đình Phật giáo được công nhận là một tôn giáo chính thức. Đinh

Tiên Hoàng ngay sau khi lên ngôi năm 971 đã quy định các cấp bậc tăng đạo,

đồng thời với các cấp bậc quan văn võ. Nhà sư Ngô Chân Lưu được cử làm

tăng thống tức chức quan đứng đầu Phật giáo, được ban hiệu là Khuông Việt

Đại Sư .Trương Ma Ni được cử làm Tăng Lục tức chức quan dưới chức Tăng

Thống. Tăng Thống và Tăng Lục và các chức tăng quan sau này các triều đại

vẫn dùng. Việc quy định các chức quan tăng đạo đồng thời với việc xây dựng

bộ máy nhà nước, chứng tỏ vua Đinh rất chú trọng đến vị trí của tôn giáo,

nhất là Phật giáo. Nhà Lê cũng tiếp nối theo con đường của nhà Đinh.

Nhiều nhà sư đã trở thành những cố vấn cho các ông vua về đường lối

đối nội, đối ngoại. Tên Khuông Việt mà Đinh Tiên Hoàng ban cho Ngô Chân

Lưu là có ý nghĩa giúp việc nước. Theo Thiền Uyển Tập Anh, Đinh Tiên

Hoàng thường mời Khuông Việt để hỏi chuyện và rất mến nhà sư. Những

việc quân quốc đại sự đều mời Khuông Việt tham gia. Đỗ Pháp Thuận thuộc

dòng Tì Ni Đa Lưu Chi cũng là một cố vấn của vua Lê Đại Hành. Theo Thiền

uyển tập anh: khi vua Đinh Tiên Hoàng mới sáng nghiệp, sư vận trù kế hoạch

rất đắc lực. Đến khi trong nước thái bình, sư không nhận phong thưởng của

nhà vua, nên vua Đại Hành lại càng kính trọng, thường chỉ gọi là Đỗ Pháp sư

41

chứ không dám gọi tên và giao cho những việc văn hàn. Các nhà sư Ma Ha,

Sùng Phạm, Vạn Hạnh cũng thường được vua Lê Đại Hành mời vào cung để hỏi

ý kiến về việc đạo cũng như việc đời. Chẳng hạn Vạn Hạnh được hỏi về kết quả

của cuộc kháng chiến chống Tống năm 980. Vạn Hạnh là nhà sư đã hoạt động tích

cực để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Các nhà sư trong giai đoạn này cũng

thường được giao công việc ngoại giao đón tiếp xứ thần Trung Quốc.

Ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội cũng tăng lên ở vùng đồng bằng

phía Nam lưu vực sông Hồng với trung tâm Phật giáo vùng Sơn Nam Hạ Hoa

Lư, nơi có dân cư tập trung đông, chùa chiền đã mọc lên nhiều. Như chúng ta

đã biết sự phát triển, hình thành các trung tâm Phật giáo mới đã nói lên phạm

vi phát triển và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội. Từ buổi đầu du nhập

tại trung tâm Luy Lâu Phật giáo đã kết hợp chặt chẽ với tín ngưỡng văn hóa

dân gian cổ truyền. Giờ đây khi mở rộng ra các vùng xa trung tâm nó vẫn giữ

phương thức đó - tức là cố gắng hòa hợp hay thay thế vai trò của các thiên

thần cũ ở nơi đến.

Cảnh loạn lạc do chiến tranh có lẽ cũng thúc đẩy và góp phần đưa

người dân đến với tinh thần hòa giải, hòa bình Phật giáo. Còn tầng lớp thống

trị những người gây ra chiến tranh loạn lạc cũng cầu nguyện Phật hy vọng rũ

sạch được tội lỗi của mình. Chẳng hạn, Nam Việt Vương Đinh Liễn con trai

của Vua Đinh Tiên Hoàng sau khi giết em mình đã cho dựng ở Hoa Lư một

100 cột kinh bằng đá, để sám hối, tội lỗi, cầu vong hồn em được giải thoát và

cũng cầu cho mình giữ được chức tước bổng lộc bền vững.

Phật giáo với sự tỏa rộng hơn về mặt không gian, cũng như thấm sâu

trong đời sống tinh thần đã bước đầu chiếm được một vị trí vững chắc trong

xã hội. Tất nhiên đây là thế kỷ bản lề chuẩn bị cho sự cực thịnh của nó chỉ có

được trong hai triều đại Lý – Trần tiếp theo. Nhưng giờ đây phải dựa vào

những nguồn tư liệu hiện tại và kết hợp với nguồn khảo cổ học mới tìm được

42

ở Hoa Lư chúng ta đã có thể nhận ra dấu tích, căn cứ rõ ràng cho sự phát triển

mạnh mẽ của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Như vậy, Phật giáo trong quá trình trước đó có một tiến trình đã được

định hướng từ thời Bắc Thuộc mà khi được tự chủ thế kỷ X Phật giáo hội

nhập với văn hóa Việt Nam, do các yêu cầu thực tiễn và các cơ sở điều kiện

tồn tại xã hội quy định mà Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh đất nước đã xác

lập tư thế đồng hành cùng với dân tộc. Nhưng khi đất nước được độc lập tự

chủ Phật giáo có điều kiện thuận lợi góp phần bảo vệ phát triển thái bình,

vương triều được vững chắc nhưng Phật giáo không ỉ vào thành tích của mình

đã làm được để được kể công đòi hưởng đặc quyền, đặc lợi mà chủ động lui

về chuyên tâm tu hành Phật pháp hộ quốc an dân. Đây chính là cơ sở nền tảng

để Phật giáo luôn luôn hòa hợp với chính trị, đồng thời luôn ủng hộ những vị

vua sáng tôi hiền và chiếm được uy tín trong đời sống tinh thần dân tộc, phù

hợp với ý nguyện dân chúng.

2.1.2 Đặc điểm Phật giáo nhập thế biểu hiện qua vai trò của các

thiền sư.

Trong giai đoạn này, đồng hành cùng dân tộc, nhận thức được yêu cầu

của thực tiễn Việt Nam các thiền sư đã tham gia tích cực vào đời sống chính

trị – xã hội. Nổi bật hơn cả là các thiền sư thời kỳ như: Pháp Thuận, Khuông

Việt , Vạn Hạnh… họ không chỉ là những người có kiến thức uyên thâm về

Phật học mà còn có tấm lòng vì dân vì nước am hiểu Nho giáo, Đạo giáo.

Chính vì vậy khi đất nước gặp lâm nguy họ sẵn sàng tham gia vào chính trị,

họ tham gia với tư cách là những nhà cố vấn, những nhà ngoại giao giúp đỡ

cho nhà vua và cụ thể là:

Thiền Sƣ Pháp Thuận sinh năm 914 mất năm 990, thọ 76 tuổi, tên

thật là Đỗ Pháp Thuận, là thiền sư đời thứ 10 dòng thiền Tỳ – Ni – Đa – Lưu

– Chi. Sách Thiền uyển tập anh cho biết: “Thiền sư Đỗ Pháp Thuận Chùa Cổ

Sơn, làng Thừ Hương, quận Ải. Không biết tiểu sử là người ở đâu. Sư họ Ðỗ,

43

học rộng, thơ hay, có tài giúp vua hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ

Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời

nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Ðang vào lúc nhà Tiền Lê dựng nghiệp, trù kế

hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư

không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường

không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó

cho Sư” [50, tr49].

Ông sống và giúp đỡ ở cả ba triều đại đầu tiên của thời kỳ tự chủ là nhà

Ngô ( 939 – 967), nhà Đinh (968 – 980), nhà Tiền Lê ( 980 -1009). Nhưng

đóng góp quan trọng chủ yếu của ông là dưới thời nhà Tiền Lê. Ông không

chỉ là thiền sư có nhiều công trạng với lịch sử dân tộc thế kỷ X, mà còn là một

trong những tác gia mở đường cho nền văn học tự chủ của nước Việt, một

trong những tấm gương tiêu biểu nhất trên hành trình dấn thân cùng dân tộc

của phật tử Việt Nam trong lịch sử cũng như ngày nay. Văn thơ của ông chứa

đựng tư tưởng yêu nước sâu sắc và tinh thần nhân văn cao cả, còn là sự đút

rút bài học xây dựng quốc gia vững mạnh, trường tồn.

Về cuộc đời và con người của ông được ghi chép lại rất ít ỏi, chủ yếu

tập trung ở Thiền uyển tập anh ngữ lục và có được bổ sung trong sách Đại

Việt Sử ký toàn thư. Trong hai quyển sách này có những nội dung thống nhất

mà đáng lưu ý là các tác giả tập trung ghi chép lại sơ lược tiểu sử, công đức

và hành trang của những vị cao tăng. Trong cuốn sách Thiền uyển tập anh

ngữ lục Pháp Thuận được tán dương chủ yếu trên hai phương diện: đạo cao

đức trọng, có uy tín lớn trong vườn Thiền và tư tưởng uyên bác, tài năng vượt

trội về học vấn cũng như thơ ca, chính trị, ngoại giao…. Thiền uyển tập anh

có viết về tài năng của ông như sau: “sư học rộng thơ hay, có tài vương tá, am

hiểu việc đời….. nhưng khi nói, sư đều đọc thành những câu sấm.Khi nhà

Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư vận trù kế hoạch rất là đắc lực. Đến khi đất nước

44

thái bình,sư không chịu phong thưởng của vua, nên Đại Hành lại càng kính

trọng, thường gọi là Đỗ Pháp sư, chứ không gọi chính tên.”[50,tr49].

Như vậy thông qua những tài liệu ít ỏi ghi chép về ông, ta có thể nhận

thấy ông là một trong những thiền sư có công lao với cả ba triều đại, có tài

năng lỗi lạc đức cao học rộng hiểu biết nhiều. Ông đã có vai trò to lớn với

những đóng góp đáng kể vào lịch sử tư tưởng dân tộc. Trong đó đặc biệt nhất

là đóng góp của ông vào lĩnh vực chính trị. Ông trở thành trợ thủ đắc lực giúp

các nhà vua thời kỳ đó để giữ vững vương trị và bảo vệ nền độc lập tự chủ.

Được thể hiện cụ thể như sau:

Qua các nguồn sử liệu, điều đầu tiên mà ta phải khẳng định với nhau

rằng: ông là một nhà thiền sư có tài năng ngoại giao tài giỏi, thông minh,

khôn khéo và đầy chất thơ. Theo hai tài liệu sớm nhất đó là Thiền uyển tập

anh và Đại Việt sử ký toàn thư thì hai tài liệu này đều khá thống nhất nhau về

sự kiện ông đóng vai trò ngọai giao nhà Tiền Lê đón tiếp sứ giả nhà Tống là

Lý Gíac , năm 987.

Đại Việt sử ký toàn thư viết: “nhà Tống sai Lý Giác sang. Đến chùa

Sách, vua sai pháp sư tên Thuận giả làm giang lệnh ra đón tiếp. Giác tính

thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng nổi lên trên mặt

nước. Giác ngâm đùa rằng: Nga nga lưỡng nga nga.

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng.

Chân trời nghển cổ trông).

Pháp Thuận đang cầm chèo liền nối vần ngay:

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.

(Nước xanh phô lông trắng,

Sóng biếc quậy chèo hồng.)

Giác thấy làm lạ. Khi về đến sứ quán, gửi thơ cho Thuận trong đó có câu:

45

Hạnh ngộ minh thời tán thịnh du

Nhất nhân nhị độ sứ Giao Châu

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.

Mã đạp yên vân xuyên mã thạch,

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu;

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu”.

Nhà sư Pháp Thuận đã đem thơ dâng lên nhà vua. Vua cho gọi nhà sư

Khuông Việt cho xem. Khuông Việt nói: “thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không

khác gì vua nhà Tống. Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu.”[18, tr143].

Điều chúng ta suy nghĩ ở đây là vì sao Lý Giác lại viết bài thơ đó. Sau

ngôn từ phải chăng có ngụ ý gì chăng. Có lẽ Lý Giác thấy làm lạ vì trước việc

một người chèo thuyền trên sông bình thường của nước Việt cũng thông tỏ

kinh sách Trung Quốc và giỏi đối đáp thơ văn như vậy. Ở đây ta nhận thấy

rằng hai cuốn sách ghi lại sự kiện này có ý muốn nhấn mạnh và tán dương sự

thành công của nhà sư khi đóng vai trò là một người chèo thuyền để hoàn

thành được nhiệm vụ ngoại giao được giao và sau là vận dụng được chính thơ

văn Trung Quốc để đối đáp lại với người Trung Quốc, từ đó làm cho sứ giả

bỏ thói kiêu ngạo, coi thường nước Việt từ bỏ sự tự tôn cho rằng mình là nhất

và cảm phục tài năng của những người Việt bình thường nhất.

Tài ứng xử ngoại giao của Pháp Thuận đã khiến cho Lý Giác thay đổi

thái độ đi từ chỗ trịnh thượng đến chỗ thán phục thần dân Đại Cồ Việt đến sự

ngưỡng mộ cho là vua Lê Đại Hành không khác gì hoàng đế triều Tống.

Tuy nhiên về phương diện tư tưởng chúng ta cần phân tích sâu hơn

thông qua sự nối vần tinh tế và sắc sảo này thì ngụ ý ẩn dấu đằng sau nó là gì?

Nó không đơn thuần là sự ngưỡng mộ của Lý Giác đối với thần dân Việt và

bậc nhân chủ của Đại Cồ Việt như đã đề cập ở trên, mà chắc chắn thông qua

cách ứng xử ngoại giao giữa Pháp Thuận và Lý Giác còn ẩn chứa một tầng

46

lớp ý nghĩa sâu sắc quan trọng hơn mà chính những người uyên thâm Phật,

thâm Nho hiểu Nho như Pháp Thuận mới có thể ứng đối chỉ qua hai câu thơ

vế đầu:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng

Chân trời nghển cổ trông

Hai câu thơ đầu cho thấy thực ra đây là một lối chơi chữ mang tính tự

mãn kiêu ngạo, không chỉ biểu hiện của riêng Lý Giác mà còn là thái độ phổ

biến của sứ thần phương Bắc. Ngụ ý ẩn đằng sau hai câu thơ này là Lý Giác

xem thần dân và vua nước Việt chỉ là một bầy ngỗng đang ngẩng mặt hướng

về thiên triều thần phục. Ngôn ngữ ngoại giao mà ông ta sử dụng thoạt nhìn

có vẻ nhẹ nhàng, bay bổng. Song phân tích kỹ quả thực là một sự nhục mạ,

một thách thức lớn lao đặt ra đối với Pháp Thuận.

Thiền sư Pháp Thuận với sự nhạy bén chính trị – văn hóa lĩnh nhận

trọng trách mang trên mình đã không phụ lòng của vua và thần dân đất Việt.

Ông đã hiểu được ý nghĩa thâm sâu trong hai câu thơ của Lý Giác, ông đã ung

dung tự tại nối vần một cách hết sức tự nhiên nhưng rất sắc sảo, để từ hai câu

thơ của Lý Giác trở thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nhưng sự nối vần của Pháp

Thuận cũng có cả một ngụ ý về thái độ, tư thế của mình trong hai câu thơ đó.

Lông trắng phơi dòng biếc

Sóng xanh chân trời hồng.

Hình tượng lông trắng ở đây ngụ ý được hiểu là sự công khai. Một sự

mạnh dạn công khai phô bày sự tồn tại nơi công cộng (lục thủy). Ông muốn

cho sứ thần phương Bắc hiểu rằng nước Đại Cồ Việt đã giành được độc lập và

công khai sự độc lập tự chủ này sánh với thiên triều phương Bắc qua Lý giác.

Và cũng thiền sư khẳng định một điều nếu có một lực lượng nào ngạo ngược

muốn đứng lên trên sự thật đó chống lại, hay xâm chiếm nền độc lập tự chủ

đó, kể cả thiên triều thì những tất thảy công dân của nước Việt sẵn sàng đứng

lên bảo vệ bằng chính sức mạnh của mình. Hồng trạo ở đây được hiểu là mái

47

chèo màu hồng là hình tượng đẹp, thuyền lướt được là mái chèo, cũng có

nghĩa là Đại Cồ Việt sẽ vững bước vượt qua mọi phong ba bão táp mà tiến lên

bằng sức mạnh của chính mình.

Rõ ràng qua một ứng xử văn hóa tài tình ta nhận thấy vai trò quan trọng

của tầng lớp thiền sư thông qua tài ngoại giao mà thiền sư Đỗ Pháp Thuận đã

góp sức mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước,nâng nước Đại Cồ Việt

lên một tầng cao mới tự tin sánh nền tự chủ, ngang tầm với thiên triều nhà

Tống ở Trung Quốc. Đồng thời thông qua đó ta cũng nhận thấy rằng tài trí

của thiền sư đã đưa cuộc đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta trong buổi đầu

lập quốc vừa thể hiện được sự khôn khéo, bản lĩnh và trí tuệ mà lại vừa thể

hiện được chiều sâu văn hóa và nhân văn sâu sắc. Nó góp phần mở ra một

truyền thống ngoại giao mềm dẻo mà bản lĩnh của dân tộc ta trên một nghìn

năm qua.

Ngoài hai câu thơ nối vần đối đáp với Lý Giác thì với bài thơ trả lời

vua Lê Đại Hành thiền sư Đỗ Pháp Thuận còn được mệnh danh là một trong

những tác giả đầu tiên của nền văn học thời tự chủ. Và thông qua bài thơ

“Quốc tộ” thì nó càng thể hiện được tầm tư duy sâu rộng của một thiền sư

nắm bắt trước được vận mệnh của đất nước. Tuy nhiên trong phần này tác giả

chưa đi sâu phân tích bài thơ, mà nó sẽ được phân tích rõ ràng và cụ thể trong

mục đặc điểm “Dung thông Nho – Phật – Đạo” của Phật giáo giai đoạn này.

Thiền sƣ Khuông Việt: sinh năm 930 mất năm 1011, thế danh là Ngô

Chân Lưu, người hương Cát Lợi, huyện Trường Lạc ( nay thuộc huyện Sóc

Sơn, Hà Nội), là hậu duệ vua Ngô Thuận Đế, tức dòng dõi vua Ngô Quyền.

Theo Thiền uyển tập anh ông là người có “dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tính

tình phóng khoáng, có chí khí cao xa. Thủa nhỏ, ông theo học Nho giáo, lớn

lên theo đạo Phật, cùng bạn đồng học Trụ Trì đến chùa Khai Quốc thụ giới cụ

túc với thiền sư Vân Phong.”[ 51, tr39].

48

Ông thuộc hệ thứ tư của thiền phái Vô Ngôn Thông, hay còn gọi là

dòng thiền Quan Bích, tức là dòng thiền có cách tu chỉ tuân theo tôn chỉ tọa

thiền quay mặt vào vách đá của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Đây là dòng thiền nổi

tiếng do Thiền sư Vô Ngôn Thông ( Trung Quốc) truyền sang Việt Nam năm

820. Ngô Chân Lưu là học trò của thiền sư Vân Phong, trụ trì chùa Khai

Quốc, thành Đại La ( nay là chùa Trấn Quốc – Hà Nội). Ông là người văn võ

song toàn, là bậc “long tượng” trong thiền phái Vô Ngôn Thông. Ông là

người có khí chất thông minh, tài năng xuất chúng, năm 40 tuổi danh tiếng

của ông vang khắp triều đình.

Với tài năng như vậy ông đã có rất nhiều công lao vào công cuộc dựng

nước và giữ nước của hai triều đại Đinh và Tiền Lê.

Hiện nay chưa có một nguồn sử liệu nào nói rõ chi tiết cụ thể về những

đóng góp của Đại sư về chính trị đối với triều đại nhà Đinh. Song theo Đại

Việt sử ký toàn thư có viết: “năm Tân Mùi, Thái Bình thứ hai (971), Tăng

thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư”[17, tr212].

Còn theo Thiền uyển tập anh có ghi: “năm 40 tuổi danh tiếng vang dội

đến triều đình, vua Đinh Tiên Hoàng với về kinh đô (Hoa Lư) hỏi chuyện. Sự

đối đáp hợp lý được vua phong chức Tăng Thống rồi năm sau ban hiệu

Khuông Việt đại sư” [ 50, tr42-43].

Như vậy là thông qua hai nguồn tài liệu nêu trên ta cũng phần nào hiểu

được vai trò của Đại sư Khuông Việt đã đóng góp vào chính trị. Sở dĩ như

vậy là bởi vì lúc đó tình hình đất nước vừa mới giành được độc lập và bắt tay

vào công cuộc xây dựng nền độc lập cho dân tộc. Đất nước còn biết bao nỗi lo

toan: kẻ thù bên trong chưa hoàn toàn bị tiêu diệt và quy phục triều đình, giặc

phương Bắc thì vẫn lăn le đợi thời cơ để tiến vào xâm lược. Trong hoàn cảnh

như vậy chắc chắn rằng nhà vua Đinh Tiên Hoàng không phải gọi Đại sư vào

để bàn chuyện về lý sắc không của đạo Thiền. Mà điều nhà vua đang quan

tâm làm sao cho đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn này, đời sống nhân dân

49

được ấm no, hạnh phúc. Đại sư đã giúp cho nhà vua có một định hướng để

đưa đất nước vượt qua khúc quanh lịch sử đầy can go. Chính vì vậy, vua ban

cho danh hiệu “Khuông Việt” có nghĩa là “giúp đỡ dân Việt”, nghĩa là xây

dựng nền tảng, nền móng cho người Việt. Kiến thức đạo và đời của đại sư quả

là nhuần nhị uyên bác không chỉ thuần túy biết chấp kinh.

Thông qua đó ta cũng nhận thấy rằng dưới thời Đinh Tiên Hoàng ông

là người có tầm nhìn tài cầm quân lại mưu lược biết phát hiện và sử dụng

nhân tài. Do vậy khi nghe danh tiếng của Đại sư ông đã biết nắm bắt ngay và

trọng dụng bậc tài chí hơn người này để giúp đỡ mình trong các lĩnh vực khác

nhau, đặc biệt hơn là lĩnh vực chính trị.

Điều chú ý là các vị vua thời này đều xuất thân từ võ tướng nên để xây

dựng triều đại, họ rất cần người có trí thức. Mà lúc này những thiền sư thời kỳ

này đều là những tri thức có ý thức về quốc gia dân tộc ,sống gần gũi với

nhân dân lao động, bị chính quyền đô hộ hà khắc áp bức nên họ đã hướng về

dân tộc. Mặt khác họ không bị “chấp” bởi tư tưởng trung quân như các nhà

Nho nên họ có thể phò tá bất kỳ một vị vua nào có thể đem lại yên ổn hạnh

phúc, ấm no cho nhân dân. Các nhà sư không phải là không hiểu về phẩm

chất “trung quân” việc trung thành với một vị vua như Nho giáo quan niệm

nhưng Trung với vua nào ổn định được xã hội mà họ đặt lợi ích của đất nước,

nhân dân lên hàng đầu. Họ không hề vướng bận một chút lợi ích cá nhân nào

luôn nghĩ cho nhân dân, cho đất nước sẵn sang giúp đỡ các vua.

Điều này lý giải vì sao khi nhà Đinh sụp đổ thì họ (Pháp Thuận và

Khuông Việt) sẵn sàng phò tá và đưa Lê Đại Hành lên ngôi hoàng đế. Đến

thời Tiền Lê thì vai trò của thiền sư Ngô Chân Lưu đóng góp vào lĩnh vực

chính trị đã được thể hiện rất rõ:

Về mặt quân sự: ông được xem như là vị thủ lĩnh tinh thần đã đưa ra

chiến lược chống giặc. Ông đã đưa ra một biện pháp để nhằm trấn tĩnh tinh

thần và nâng cao ý chí chiến đấu của quan quân Đại Cồ Việt và đập tan được

50

cuộc chiến tranh xâm lược của quân Tống vào năm 981 do Hầu Nhân Bảo cầm

đầu. Vậy đó là biện pháp gì? Biện pháp mà ông sử dụng đó là biện pháp động

viên quân dân đồng tâm hiệp lực và thêm vào đó là biện pháp “tâm linh”.

Nhưng tại sao lại gọi liệu pháp tâm linh mà không phải là đưa ra một kế sách

quân sự rõ ràng cho nhà vua ? Điều này theo Thiền uyển tập anh viết: “Năm

Thiên Phúc thứ nhất (981) quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đó vua

biết chuyện này, bèn sai sư đến đền để cầu đảo xin thần linh phù hộ. Quân giặc

kinh sợ lui về giữ sông Hữu Ninh. Đến đây bọn chúng lại thấy gió nổi lên ùn

ùn, gia long nhảy trên mặt nước, quân giặc sợ hãi tan chạy”[50, tr43].

Giải pháp “tâm linh” mà Khuông Việt sử dụng lúc dó là lập đàn để lập

đảo xin thần linh bản địa phù hộ và có phần linh ứng hay không chúng ta

không thể dùng ngôn ngữ đời thường để lạm bàn được. Sự cảm ứng đó nó đã

vượt ra ngoài thế giới tư biện của ngôn ngữ. Nhưng chắc rằng việc cầu đảo

của đại sư đã làm cho quân dân ta, vốn là quân dân của một nước nhỏ bé đang

phải chiến đấu với một quân đội lớn được tiếp thêm một ý chí lạc quan và tin

tưởng, chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Điều này đã thấy tài trí thông minh của

đại sư khi ông đã tạo ra được một sợi dây gắn kết hướng đến niềm tin tất

thắng cho quân sĩ, tạo cho quân giặc một sự sợ hãi, áp lực tinh thần về sự phi

nghĩa của chiến tranh xâm lược.

Như vậy vua Lê - người là vị vua sáng giá khéo sử dụng cố vấn của

Khuông Việt nên đã làm tốt công tác “tư tưởng” tinh thần động viên mọi tiềm

lực quốc gia, trong đó huy động được cả lực lượng thần linh trong cuộc chiến

tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đây được coi là biện pháp tổng hợp để giữ nước

quan trọng mà các triều đại phong kiến Ngô – Đinh – Tiền Lê và sẽ được sau

này nhà Lý sử dụng trong công cuộc vận động chính trị nhất là khi đất nước,

dân tộc lâm nguy, đứng trước nạn ngoại xâm. Sau này Lý Thường Kiệt cũng

đã sử dụng biện pháp đó và được thể hiện trong bài thơ thần Nam Quốc Sơn

51

Hà để huy động sức mạnh dân tộc, động viên tinh thần chiến đấu của quân sĩ

đập tan cuộc xâm lược của quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt.

Đóng góp về mặt ngoại giao: Nếu như trên mặt trận quân sự ông được

coi là thủ lĩnh tinh thần thì trên mặt trận ngoại giao ông được coi là người đặt

nền móng cho một nền ngoại giao mềm dẻo, hữu hảo nhưng vẫn khẳng định

được vị thế của một quốc gia độc lập tự chủ, tự cường.

Dưới thời Tiền Lê quốc gia Đại Cồ Việt vừa mới xây dựng lại vị nhà

Tống uy hiếp, đứng trước hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Ở trong nước Đỗ

Thích giết hại hai cha con nhà họ Đinh, các cuộc truy sát Nguyễn Bặc, Đinh

Biền, Phạm Hạp với thảm cảnh “ganh đua bao kẻ chết, đường đi người vắng

tanh”. Rồi quân Chiêm Thành đang nuôi hy vọng đánh chiếm lại Kinh đô Đại

Cồ Việt. Ngoài biên giới quân Tống đang lăm le xâm phạm với nguyên cớ là

trừng phạt loạn đảng. Tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc này không

cân sức, do vậy cần phải có thời gian để tăng cường lực lượng

Bởi vậy vua Lê Đại Hành khéo léo mở mặt trận ngoại giao được coi là

nhiệm vụ hàng đầu. Do vậy dưới triều Lê để thiết lập một nền ngoại giao

mềm dẻo, linh hoạt là cần thiết và cần phải được tiến hành ngay. Lê Đại Hành

nhận thấy vai trò quan trọng của ngoại giao đã giao trọng trách quan trọng ấy

cho các thiền sư: Khuông Việt và Pháp Thuận.

Trong công cuộc thiết lập một nền ngoại giao vừa mềm dẻo, hữu hảo

vừa khẳng định được một nền độc lập tự chủ cho nước Đại Cồ Việt vẫn còn

non trẻ này thì hai ông đã hoàn thành xuất sắc. Điều này được thể hiện hai

lần như sau:

Thứ nhất, năm 985, khi Lý Nhược Thuyết và Lý Giác sang nước ta để

phong vương cho Lê Hoàn và ban cờ, gươm, giáo. Lê Hoàn đã thiết đãi hai sứ

giả nhà Tống rất hậu hĩnh để nhằm “khoe” là nước Việt giàu mạnh ,lại vừa

muốn khuyên sứ giả nhà Tống đừng sang nữa vì nước tôi là nước bé lại

đường xá xa xôi, hiểm trở, đi lại khó khăn. Song Lý Giác đáp lại với lời lẽ

52

dường như có ý đe dọa rằng : “một phương trời ấy lấy gì làm xa” nhằm hàm ý

rằng đối với thiên triều nhà Tống dù có xa xôi đến mấy thì Thiên tử vẫn soi

rọi đến được. Nhưng thiền sư Đỗ Pháp Thuận đã khéo léo bày tỏ tinh thần tự

tôn, tự hào về nền độc lập tự chủ của Đại Việt khiến Lý Giác phải thay đổi

thái độ.

Thứ hai, khi Lý Giác sang nước ta lần hai. Lần này Lý Giác mới thực sự

thán phục và kính nể Lê Hoàn. Khi khi Lý Giác sang ông vẫn mang trong mình

tư tưởng khinh thường một nước nhỏ bé như nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn đã cử

hai nhà sư là Khuông Việt và Pháp Thuận để đón tiếp sứ thần. Thiền sư Pháp

Thuận đóng giả làm “giang lệnh” (người cai quản bến đò) để xem xét động thái

của Lý Giác. Với tài năng của mình Pháp Thuận đã ứng khẩu thành thơ và đã

tạo cho Lý Giác hết sức ngạc nhiên và thay đổi cái nhìn về nước Việt. Sứ thần

đã tặng thiền sư một bài thơ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Thuận

đem thư này dâng vua, vua cho gọi Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói:

thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống”. [18, tr222].

Sách Thiền uyển tập anh nói rõ hơn: “Giác thấy giang lệnh có tài nói

chuyện bèn làm thơ tặng, trong đó có câu: “thiên ngoại hữu thiên ưng viễn

chiếu”. Vua bảo Đỗ Pháp sư đưa cho Khuông Việt xem, Khuông Việt xem

xong nói: “sứ Bắc tôn kính bệ hạ không kém gì vua Tống.” Điều này không

những giải tỏa được nỗi băn khoăn của Lê Hoàn mà còn khẳng định được vị

thế của quốc gia Đại Cồ Việt đối với nước Tống.Chính sự ứng đáp của

Khuông Việt đã thay vua làm công việc khó khăn đó.

Khi Lý Giác về nước, Khuông Việt lại làm bài từ “Ngọc lang quy” tiễn

đưa. Đại Việt sử ký toàn thư và thiền uyển tập anh đều ghi lại bài thơ như sau:

Trời đẹp, gió lành, cánh buồm giương.

Xá ngóng thần tiên, lại đế hương.

Vượt song xanh, muôn trùng non nước.

Về phương trời đường trường,

53

Tình thắm thiết,

Chén li biệt.

Vin xe sứ vấn vương

Xin đem thần ý vì biên cương

Tâu vua thật tỏ tường.

Đây là bài thơ ngoại giao của Ngô Chân Lưu có lời đẹp và biểu hiện rõ

ràng ý thức độc lập tự chủ. Đây là tác phẩm sớm nhất của văn học Việt Nam,

bài từ Vương lang quy cũng là tác phẩm mở đầu cho thơ văn ngoại giao Việt

Nam, được người đời sau đánh giá cao. Phan Huy Chú cho rằng : Vương lang

quy là một khúc hát hay, đủ phô nước ta có một người tài, làm cho quốc thể

được tôn trọng, người phương Bắc phải kính nể. Lê Quý Đôn nhận xét : Văn

từ của Chân Lưu vang tiếng một thời là một văn bản sớm nhất đã ghi lại dữ

liệu nói về ngoại giao việc biên giới Việt – Trung.

Người đời trước và đời nay đọc Vương lang quy của Ngô Chân Lưu

đều phải ngạc nhiên, thán phục trước nghệ thuật viết từ hết sức điêu luyện

nhuần nhuyễn của ông. Ngoài lời điệu tao nhã, sang trọng, ý tứ hàm xúc, từ

điệu của Ngô Chân Lưu còn biểu hiện một sức diễn tả tình cảm trữ tình, dồi

dào không thua kém gì từ phong Đường, Tống của Trung Quốc.

Điều đáng chú ý là về cuối triều Lê, Ngô Chân Lưu già yếu xin từ quan

về núi Du Hý, lập chùa trụ trì, người học tìm tới đông đảo. Ngày 15 tháng 2

năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) tức ngày 22 – 3 – 1011 Tây lịch, ông viên tịch,

thọ 82 tuổi. Khi sắp cáo tịch, Thiền sư Ngô Chân Lưu, Khuông Việt Quốc sư

có dạy sư Đa Bảo Kệ rằng:

Trong cây vốn có lửa

Có lửa, lửa mới bừng,

Nếu bảo cây không lửa,

Cọ xát do đâu bùng?

54

Qua bài kệ này cho thấy: Bài kệ mang một tinh thần triết học sâu sắc,

một triết lý về sự chuyển hóa không ngừng để lại chân lý cho muôn đời người

Việt. Hình như cây và lửa là rất xúc tích, lửa vốn có sẵn trong cây nhưng vấn

đề dùi, cọ sát cây thế nào để lửa bật ra. Trong mỗi người đều có Phật tính,

mình tu thế nào để mình tâm kiến tính thì thành Phật, thành Phật ngay tại thế

gian này. Đó là triết lý thiền nhưng mang đậm tính nhập thế hành động mà

ông đã học được từ thầy mình và ứng dụng nhuần nhuyễn trong sự nghiệp cứu

dân, giúp nước với đạo pháp và dân tộc và ông đã đúc rút để lại cho đời sau.

Tóm lại: Với những đóng góp đa dạng đặc biệt trong lĩnh vực chính trị

nêu trên của thiền sư Ngô Chân Lưu cho chính trị nước nhà trong buổi đầu

thời kỳ độc lập – tự chủ, thiền sư xứng đáng được gọi là vị cao tăng chân tu

có công phò tá nước Việt với danh hiệu “ Khuông Việt” mà vua Đinh Tiên

Hoàng đã ban tặng.

Thiền sƣ Vạn Hạnh:

Thiền sư họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp (nay thuộc thị xã Từ Sơn,

tỉnh Bắc Ninh), từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và

nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với

bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục

Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma

Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm rất được

tin theo.

Ông là người thông hiểu Tam giáo (Nho – Phật – Đạo). Tài năng của

ông đã được vua Lê Ðại Hành biết đến và cho mời vào triều tham gia triều

chính với tư cách là một cố vấn. Ông đã góp nhiều ý kiến giúp vua Lê Hoàn

chống giặc ngoại xâm và dựng nước, do vậy ông rất được tôn kính.

Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi

Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi

nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút

55

lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi vua Lê Ðại Hành muốn can thiệp

vào Chiêm Thành để cứu sứ giả bị Chiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì

Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và trận ấy

quân Lê thành công.

Sau này khi Lê Hoàn mất, ông phò tá vua Lê Long Đĩnh. Nhưng đây là

ông vua hoang dâm, tàn bạo, nên khi vị vua này mất (1009) ông đã cùng với

Đa Bảo phò tá đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế và lập ra vương triều nhà

Lý. Trong cuộc vạn động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi , Vạn Hạnh đã khéo léo

vận động dư luận quần chúng không chỉ bằng sấm truyền và tiên tri mà Vạn Hạnh

dùng nhiều thứ nữa. Xin kể ra một số phương sách đã dùng của Vạn Hạnh.

1. Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược bị thiên hạ

ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp có một con chó lông trắng xuất hiện, trên lưng có hai

chữ “ thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn đoán rằng chó tượng

trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện

cũng vào năm Tuất.

2. Sét đánh cây gạo do thiền sư La Qúy An trồng ngày xưa, in thành chữ:

“Gốc cây thăm thẳm.

Ngọn cây xanh xanh

Cây hào đao rụng

Mười tám hạt thành.

Cành đông xuống đất.

Cây khác lại sinh.

Đông mặt trời mọc.

Tây sao ẩn hình.

Sáu bảy năm nữa.

Thiên hạ thái bình.”

Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi tiếp: “nhà sư Vạn Hạnh tự đoán riêng

rằng trong câu: thụ căn diểu diểu: chữ căn là gốc, gốc tức là vua, đồng âm với

56

chữ yểu; thế là vua chết yểu. Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ biểu là

ngọn, ngọn là bề tôi, chữ thanh là xanh đồng âm với chữ thanh là chữ thịnh,

thế là người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền; ba chữ hòa, đao, mộc

góp lại thành chữ lý, thập bát tử thành tức là nhà Lý lên; trong câu “ đông a

nhập địa” chữ đông và chữ a hợp lại với nhau là chữ Trần, nhập địa là phương

Bắc vào cướp: câu dị mộc tái sinh tức là họ Lê khác lại nổi lên; trong câu

“trấn cung kiến nhật” trấn là phương Đông, kiến là mọc ra, nhật là thiên tử,

thiên tử xuất hiện từ phương Đông; trong câu “đoài cung ẩn tinh” chữ đoài là

phương Tây, ẩn là lặn, tinh là người tầm thường, người tầm thường mai một ở

phương Tây. Mấy câu này ý nói vua thì non yếu, bầy tôi thì cường thịnh , họ

Lê mất họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra, thứ nhân ở phương

Tây lặn mất. Trong vòng bẩy tám năm nữa thiên hạ sẽ thái bình.

3. Trong chùa Song Lâm côn trùng ăn lá cây si thành chữ “quốc” là

nước.

4. Ban đêm ở mộ Hiển Thánh đại vương người ta nghe thấy tiếng thần

nhân ngâm kệ từ bốn phương vọng tới, các bài kệ đều báo trước sự lên ngôi

của Lý Công Uẩn. Ngày Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế ở trong cung thì Vạn

Hạnh đang ở chùa Lục Tổ. Ông biết trước việc này và nói cho mọi người

xung quanh nghe. Họ hoảng hốt chạy về kinh sư nghe tin thì đó quả là sự thật.

Như vậy thông qua sấm vĩ mà nhà sư Vạn Hạnh đã chuẩn bị dư luận

dọn dẹp mọi trở ngại trên con đường tiến tới ngai vàng của Lý Công Uẩn. Và

đây cũng được coi là yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải tìm ra một người

đại diện ưu tú để lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn cấp bách mà

thực tiễn đất nước đang đặt ra. Sự vận động ủng hộ của nhà sư Vạn Hạnh nói

riêng và Phật giáo nói chung với triều Lý nói riêng là sự phù hợp với lịch sử

thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, nhận biết được người tài, mở đường cho lịch

sử dân tộc bước sang một trang mới phát triển huy hoàng. Thông qua tư tưởng

hành động của thiền sư Vạn Hạnh đã thể hiện đặc điểm xu hướng tăng dần

57

tính nhập thế tích cực của Phật giáo Việt Nam. Các nhà sư Việt Nam không

phải là những người chỉ biết chuyên tâm tu tập Phật học tìm con đường giải

thoát cho mình mà họ đã hướng việc tu tập phật học vào đời sống nhân dân,

vào trong xã hội thể hiện tinh thần hòa quang đồng trần, lấy việc trung cầu an

lạc, giải thoát cho toàn xã hội làm nhiệm vụ cao cả, phục sự hộ quốc an dân.

Như vậy trong buổi đầu phục hồi chủ quyền dựng nước một vấn đề đặt

ra đối với những người đứng đầu đất nước là làm sao xây dựng được mô hình

Nhà nước phù hợp với dân tộc. Và những vị vua này đã tìm được chỗ dựa

vững chắc về mặt tư tưởng từ hệ tư tưởng Phật giáo thông qua đề cao sử dụng

vai trò to lớn của các thiền sư. Các thiền sư trong giai đoạn này với tinh thần

nhập thế vì đời, vì người “hòa quang đồng trần”, cùng với kiến thức uyên

thâm Nho – Phật – Đạo đã đưa ra đường lối trị nước và giữ nước phù hợp với

cơ sở hạ tầng của Việt Nam khi đó. Không những vậy nhờ đó tư tưởng Phật

giáo còn thấm nhuần vào đời sống tinh thần người dân Việt. Dưới triều đại

Ngô – Đinh – Tiền Lê chùa chiền được xây dựng nhiều, tạo điều kiện cho sự

phát triển của Phật giáo sau này. Những giáo lý của Phật giáo, lối sống Phật

giáo đã in sâu, khắc đậm trong người dân Việt và trở thành suy nghĩ và hành

động của họ làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.

2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

Trước khi đi tìm hiểu tinh thần dung thông trong những vấn đề cụ thể ta

cần làm rõ vậy dung thông là gì? Dung thông có thể hiểu một cách đơn giản

nhất đó chính là sự thẩm thấu, nương tựa vào nhau của các học thuyết, tôn

giáo mà ở Việt Nam là tam giáo. Nhằm bổ sung làm giàu giá trị và triệt tiêu

hết những hạn chế yếu điểm trong các học thuyết riêng lẻ cho nhau. Dung

thông tôn giáo, tín ngưỡng bản địa dựa trên nền văn hóa dân tộc và yêu cầu

phát triển dân tộc không những vậy còn để tồn tại và phát triển.Ở nước ta xu

thế đặc điểm tinh thần dung thông đã được hình thành từ rất sớm và nó được

58

tiếp tục bổ sung tô đậm tiếp tục làm rõ trong những giai đoạn sau đó, và thế

kỷ X có cơ hội mới để bộc lộ rõ.

2.2.1 Đặc điểm dung thông của Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng

bản địa.

Khái niệm “dung thông” có nguồn gốc phát sinh từ trong thực tiễn vận

động trong tiến trình lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Nó là tổ hợp gồm

hai từ dung nạp và kết nạp hài hòa với nhau trong một sự kiện văn hóa. Ở đây

là sự lan truyền của Phật giáo hội nhập vào văn hóa Việt Nam. Trong khuôn

khổ của luận văn thì khái niệm dung thông được dùng để chỉ sự dung nạp và

kết nối của giữa Phật giáo với các tín ngưỡng văn hóa bản địa Việt Nam khi

nó du nhập, tồn tại và phát triển tại nơi đây

Nhiều tác giả cho rằng, do có những tiền đề, điều kiện nó xuất phát từ

chính hai phía nền văn hóa bản địa và văn hóa Phật giáo. Về nền văn hóa bản

địa của Việt Nam, đó là nền văn hóa nông nghiệp đa thần trọng âm có tính

thích ứng, sự mềm mỏng linh hoạt. Do vậy nó sẵn sàng khoan dung tiếp thu,

dung chứa những yếu tố mới từ văn hóa ngoại lai, từ bên ngoài vào. Tuy

nhiên mục tiêu sự tiếp nhận của nền văn hóa bản địa Việt Nam không phải là

một sự tiếp nhận khô cứng mà nó luôn có sự uyển chuyển sáng tạo. Nó chỉ

tiếp thu những gì cần thiết, đồng thời với nội lực của mình nó cũng làm biến

đổi các yếu tố mời từ văn hóa ngoại lai theo chiều hướng phù hợp thích ứng

của mình.

Về phía văn hóa Phật giáo mặc dù là một nền văn hóa sâu sắc đa tôn

giáo Phật giáo đã kết tinh hình thành có một hệ thống giáo lý giáo luật đồ sộ,

chặt chẽ tuy nhiên hệ thống giáo lý của Phật giáo không quá cứng đờ như

những tôn giáo khác. Với nội dung cơ bản thừa nhận có sự vận động, biến

đổi, chuyển hóa nên có sự mềm mỏng linh hoạt điều này được thể hiện rất rõ

qua tinh thần “khế lý khế cơ”. Do vậy khi gặp gỡ nền văn hóa bản địa Việt

59

Nam nó đã nhanh chóng hòa hợp và cả hai tìm thấy sự tương hợp tương đối

thuận lợi.

Cả hai đều nhắm tới một ứng xử chung, mục tiêu dung thông nó đáp

ứng lợi ích của cả hai phía. Nếu như về phía văn hóa bản địa nó đã làm bồi

dưỡng và phong phú tâm hồn văn hóa Việt bởi các yếu tố văn hóa Phật giáo.

Đồng thời văn hóa Phật giáo cũng đã gia tăng tính nhập thế tươi mới, văn hóa

Phật giáo là yếu tố trở thành công cụ, vũ khí tư tưởng để người Việt chống lại

âm mưu “dĩ nho biến di” của người Hán nhằm đồng hóa văn hóa gốc Việt.

Còn về phía Phật giáo quá trình chấp nhận dung thông với văn hóa bản

địa, không làm mất đi bản sắc cội nguồn tư tưởng “giải thoát” của Phật giáo,

mà là có sự chú ý thực hiện trong đời sống tinh thần lục hòa Phật giáo. Đồng

thời khi hòa nhập với văn hóa bản địa sẽ giúp cho nó ăn sâu cắm rễ vào mảnh

đất mới, từng bước xác lập vị trí vai trò của mình và căn bản giữ được vai trò

qua thăng trầm.

Cần thấy rằng, sau khi đất nước có chủ quyền thì cũng là lúc để lịch sử

Phật giáo dường như là từ khi trở thành tôn giáo của người Việt, Phật giáo đã

đứng hẳn về phía dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, khảm nhập vào trong

mình chủ nghĩa yêu nước của người Việt. Trở thành ngọn cờ đầu trong phong

trào đấu tranh chống nô dịch, áp bức, đồng hóa và giành độc lập dân tộc.

Tiếng nói của các tầng lớp tăng ni Phật giáo càng về sau càng lớn mạnh, đến

thế kỷ VI – IX đã trở thành một thế lực, một chỗ dựa cho phong trào đấu

tranh giành độc lập dân tộc. Đến thế kỷ X khi quốc gia được giành độc lập thì

Phật giáo đã trở thành, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, ủng hộ triều đình đấu

tranh và bảo vệ nền độc lập non trẻ của đất nước, thể hiện qua tiếng nói của

các cao tăng ở trên đã phân tích.

Quá trình dung thông giữa Phật giáo với tín ngưỡng văn hóa bản địa

Việt Nam là một bước tiến bộ về chất có tính tổng hợp được thể hiện khá rõ

nét cụ thể như sau:

60

Một là, sự dung thông giữa Phật giáo và tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên:

Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền có từ rất sớm

qua các cứ liệu khảo cổ học thời kỳ Hùng Vương mang tính chất phổ biến của

người Việt Nam. Đã là người Việt Nam thì mọi người trong các cấu trúc gia

đình đều thờ ông bà, mọi người đều thờ cúng tổ tiên sau đó nó mở rộng ra đến

các tổ làng, tổ nghề…. Đã trở thành một tập tục truyền thống có vị trí hết sức

đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc ta.

Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn

hành năm 1988 thì sự thờ cúng tổ tiên được hiểu là : là tổng thể nói chung

những người coi là thuộc những thế hệ đầu tiên đã qua đời từ lâu, của một

dòng họ trong mối quan hệ với các thế hệ sau này. Theo phân tích trong bề

sâu đời sống tôn giáo Giáo Sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: thờ cúng tổ tiên ở

Việt Nam nằm trong hệ thống tôn giáo dân tộc là đạo thờ ông bà. Ông còn

khẳng định đó là đạo thuần Việt một tôn giáo chính thống của người Việt

Nam, tuy nó: không có tổ chức chặt chẽ nhưng dường như toàn bộ sự cố kết

cộng đồng, quan niệm đạo lý, sự thành tâm tiến hành các lễ thức thờ cúng

giống nhau và là chiều sâu tâm linh chủ yếu của cộng đồng người Việt, là lực

hút chọn lọc các yếu tố ngoại sinh hay là những yếu tố gia nhập vào các tôn

giáo khác.

Như vậy, loại hình thờ cúng tổ tiên là một khái niệm luôn vận động,

phát triển theo sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt. Theo nghĩa thông thường

(nghĩa hẹp) tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người cùng huyết thống

nhưng đã mất, những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng và có ảnh

hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của các thế hệ những người đang

sống như ông bà, cha mẹ, cụ kỵ… Trong quá trình phát triển của lịch sử dân

tộc thì khái niệm thờ cúng tổ tiên không còn bó hẹp trong phạm vi gia đình,

họ tộc mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội.

61

Lý giải về nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ra đời của tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên:

Bắt nguồn từ nền nông nghiệp lúa nước của người Việt Nam nên đó

chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về

phương diện kinh tế thì làng xã Việt Nam gần như là một đơn vị độc lập và

tương tự như thế, ở cấp cơ sở là tế bào của nó – hộ gia đình nhỏ. Đây là nhân

tố quan trọng gắn bó các thành viên trong gia đình cùng một thế hệ và giữa

các thế hệ. Mở rộng ra thì các gia đình cư trú theo họ, và nhiều họ tập hợp

thành làng. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi cho việc

củng cố tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tiếp đó phát triển ý thức dân tộc như là

tín ngưỡng thờ cùng tổ tiên ở làng xã, ở cả nước là thờ cúng vua Hùng.

Hơn nữa về sau này một nhân tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên đó sự tiến hóa lên là chế độ phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ

quyền, vai trò của người đàn ông trong gia đình trở nên rất quan trọng trong

hoạt động kinh tế và sinh hoạt, duy trì cấu trúc gia đình.

Giá trị của truyền thống thờ cúng tổ tiên là một yếu tố làm chất xúc tác

để cho tinh thần cố kết cộng đồng, tính dân tộc thêm bền chặt. Nhờ đó người

Việt Nam thêm đoàn kết, gắn bó, nhất là khi đất nước ta lâm vào tình trạng

nước mất nhà tan, họ sẵn sàng hi sinh cá nhân đoàn kết nhau lại và trở thành

một khối có sức mạnh to lớn. Do vậy trải qua rất nhiều thử thách qua cuộc

đấu tranh chống giặc ngoại xâm thì dân tộc ta với tinh thần đoàn kết đã chiến

thắng mọi kẻ thù. Đặc biệt thời gian đấu tranh là sau 1000 năm Bắc Thuộc, mục

đích của chính quyền Phương Bắc là đồng hóa dân tộc ta nhưng không thể đồng

hóa được văn hóa Việt, dân tộc đến thế kỷ X đã khôi phục lại nền tự chủ.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, đa tín ngưỡng, mà nổi bật là tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ các thần phù trợ cho cộng đồng các làng xã, thờ

các anh hùng, những người có công với cộng đồng, với đất nước. Chính vì

vậy mà khi Phật giáo du nhập vào nước ta, nó đã nhanh chóng hòa nhập và

62

thích ứng với các loại hình tín ngưỡng đó của văn hóa bản địa nơi mà nó đến.

Với tinh thần “hòa nhi bất đồng” và “tùy duyên bất biến” của mình, Phật giáo

vào nước ta không bị biến chất hay đánh mất tinh túy cơ bản để cùng tồn tại

và phát triển với dân tộc Việt Nam.

Ở Việt Nam truyền thống đạo hiếu uống nước nhớ nguồn, được mọi

người coi trọng và là một trong những nguyên tắc đạo đức hàng đầu để làm

người. Từ sớm khi Phật giáo du nhập vào nước ta cũng đề cao chữ Hiếu. Sự

kết hợp giữa Phật giáo với văn hóa bản địa đã được thể hiện rất rõ:

Phật dạy chữ hiếu làm đầu

Mà ai giữ được đạo mầu mới trao

Phật giáo luôn khuyên dạy tín đồ của mình trước tiên phải thành kính

với cha mẹ.

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.

Biểu hiện tập trung rõ nhất về sự dung thông chữ Hiếu của đạo Phật với

chữ Hiếu của văn hóa người Việt thành một phong tục lễ hội trong thời này là

lễ Vu Lan báo hiếu đã được làng xã và triều đình thực hiện. Đây chính là sự

dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và với Nho giáo. Lễ

Vu Lan báo hiếu là nghi lễ tổng hợp có nhiều yếu tố được diễn ra vào ngày 15

tháng 7 Âm lịch. Đây là nghi lễ cúng cô hồn và phổ độ chúng sinh. Người ta

dâng các vật phẩm để cúng chư tăng với mục đích cầu xin cho vong hồn

người thân, tổ tiên của mình được siêu thoát. Trong sách Việt Nam phong tục

của Phan Kế Bính: Rằm tháng bảy gọi là tết Trung nguyên, ta tin theo sách

phật, thường cho hôm ấy là ngày vong nhân xá tội, nghĩa là người âm phủ

được tha tội một ngày hôm ấy. Bởi vậy nhiều nhà mua vàng mã, các nhà có

người mới mất, cũng hay đốt mã làm chay vào ngày hôm ấy. Có thể nói ngày

rằm tháng bảy không chỉ là ngày lễ Phật giáo mà trước khi Phật giáo du nhập

thì trong tín ngưỡng của người Việt đã có lễ nghi này. Nhưng khi đạo Phật

63

truyền vào nó đã dung hợp cùng với lễ nghi truyền thống và nâng tầm tín

ngưỡng dân gian lên một tầm cao hệ thống hơn. Về ngày lễ này trong giai

đoạn thời Ngô – Đinh – Tiền Lê cũng đã được khôi phục như sau này được cả

nhà chùa và dân chúng hết sức đề cao. Phần lớn trong các gia đình người Việt

vào ngày lễ Vu Lan đã diễn ra các nghi lễ cúng bái để dâng chư phật, bồ tát

cầu nguyện giải thoát vong linh tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và những người cô

quả không có người thân và họ coi đây là ngày vong linh xá tội.

Sự dung hợp giữa Phật giáo với thờ cúng tổ tiên còn được thể hiện qua

nhiều yếu tố nghi thức, nghi lễ khác trong các dịp lễ hội Phật giáo. Các nhà sư

trong giai đoạn này bên cạnh việc chăm lo cúng Phật còn được người dân mời

đến để giúp những lễ trọng cũng như công việc lớn trong gia đình chẳng hạn

như: ma chay, cúng dâng sao giải hạn, trừ tà, chữa bệnh.

Thông qua một số phân tích nêu trên chúng ta thấy rằng đến thế kỷ X

có điều kiện thuận lợi cho sự dung thông giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên đặc điểm đó được biểu hiện cụ thể và rõ ràng trong các sử liệu.

Sự tác động của hai bên đó là sự tác động hai chiều, Phật giáo du nhập vào

làm biến đổi và nâng tầm tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, nhưng đồng thời tín

ngưỡng thờ cũng tổ tiên cũng thẩm thấu, làm phong phú thêm biểu hiện lễ

nghi, truyền tải giáo lý của nhà Phật. Chính sự hòa quyện này đã tạo ra sự gắn

bó thân thiết giữa Phật giáo nói chung cũng như là các nhà sư nói riêng đối

với văn hóa bản địa ở Việt Nam thời kỳ đó.

Hai là sự dung thông của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ Mẫu

Từ rất sớm do đặc thù là nền văn hóa tiểu nông lúa nước trọng nữ mà

tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian được tích hợp dần

dần bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ

phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu – đấng sáng tạo, bảo

trợ cho sự tồn tại, sinh thành của tự nhiên, xã hội và con người.

64

Bởi thế tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng của văn

hóa gốc bản địa về sau dung thông cùng với Phật giáo, những ảnh hưởng

ngoại lai từ Đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu làm thần tượng với các

quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho mọi người.

Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu bắt nguồn từ thờ nữ thần (thần

Lúa) và thờ mẫu thần (bà Ỷ Lan), nó mang tính bản địa, nó đã có nền móng

thời nguyên thủy.

Thời nguyên thủy con người sống dựa vào thiên nhiên, săn bắt hái

lượm. Cho đến khi biết đến nền kinh tế nông nghiệp bao gồm trồng trọt và

chăn nuôi, con người vẫn phải dựa vào thiên nhiên, đời sống chưa thể ổn định

được trước sự khắc nghiệt của tự nhiên. Sự bất thường của thiên nhiên Việt

Nam khiến cho con người gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Và dần

dần con người đã quan sát các hiện tượng tự nhiên và rút ra kinh nghiệm, hình

thành ý thức về lực lượng tự nhiên, kèm theo đó là sự tôn thờ các hiện tượng

tự nhiên (Tô tem giáo). Họ thờ thần rừng, thần sông, thần núi, thần biển, thần

Mẹ lúa… là những môi trường tự nhiên hoặc đem lại cho cuộc sống của họ

cuộc sống no đủ hoặc trừng phạt, nổi giận lấy đi tất cả những gì phục vụ cho

cuộc sống của họ. Văn hóa lúa nước là cơ sở để sau này Phật giáo du nhập

vào tạo thành các loại hình Phật Mẫu Man Nương, Phật Tứ Pháp.

Mặt khác với nền kinh tế tiểu nông cũng đưa lại cho người phụ nữ một

vị thế đáng kể trong gia đình và xã hội. Về kinh tế người phụ nữ đóng vai trò

trong sản xuất nông nghiệp, họ không chỉ chăm lo việc cấy hái mà kiêm luôn

là người tiểu thương chạy chợ, làm nghề thủ công, lo cung – tiêu cho cả đại

gia đình. Về mặt xã hội, người Việt ta có câu “lệnh ông không bằng cồng bà”

đã nói lên vai trò của người phụ nữ trong đối nội, đối ngoại.

Trước khi đạo Phật vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có hình tượng và biểu

tượng người mẹ Thần, hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Không lấy làm lạ là

trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh

65

các bà mẹ: Mẹ Âu Cơ với bọc trăm trứng – biểu tượng cho sự khai sinh là dân

tộc Việt Nam, mẹ Âu Cơ dạy dân ta trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, diệt vải. Mẹ

Thánh Gióng – biểu tượng cho người sản sinh ra vị anh hùng khổng lồ trong

công cuộc bảo vệ đất nước, Mẹ Man Nương với hòn đá phát sáng (Thạch

Quang) – đưa mẹ Man Nương thành Phật Mẫu và các con của bà thành các nữ

thần Mây – Mưa – Sấm – Chớp cùng hệ thống chùa Tứ Pháp gắn liền với đời

sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đây là biểu tượng cho sự dung thông

Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam được duy trì đến thế kỷ X.

Ở phần trên đã cho ta hiểu rằng, Phật giáo vào nước ta bằng con đường

hòa bình theo chân các thương nhân và tăng sĩ, những tư tưởng bình đẳng,

giải thoát, từ bi, hỷ xả… trong giáo lý của Phật giáo nó rất gần gũi với tinh

thần vị tha, bao dung, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Trong giáo lý đạo

đức truyền thống của người Việt. Phật giáo ngay từ đầu khi du nhập vào nó đã

nhanh chóng tự điều chỉnh và biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa bản địa,

đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu, trở thành món ăn tinh thần của người nông

dân Việt bằng con đường phong tục hóa và dân gian hóa làm nên các kết cấu

không gian thờ cúng “tiền Phật hậu Mẫu” rất phong phú.

Sự tích Man Nương được ghi trong Cổ Châu Phật bản hạnh, một tác phẩm

thơ nôm vào loại sớm nhất được tìm thấy ở đồng bằng Bắc Bộ, thể hiện rõ nhất

sự kết hợp một cách hòa bình, nhuần nhuyễn giữa Phật giáo Ấn Độ với tín

ngưỡng thờ Mẫu sơ khai như tục thờ Mẹ hay tục thờ Nữ Thần. Sự tích Man

Nương chính là kết quả của cuộc hôn nhân giữa hai nền văn hóa Việt - Ấn.

Qua đây nó cũng chứng minh nguyên lý mẹ trong nền văn hóa Việt nó

đã thấm vào trong Phật giáo. Ở Việt Nam vì vậy mà ảnh hưởng của Phật Bà

đối với quần chúng lớn hơn rất nhiều so với Phật Ông vẫn còn đó ở vùng kinh

đô Hoa Lư. Những kiến trúc của ngôi chùa đều theo mô hình “Tiền phật hậu

thánh”. Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê cũng đã xuất hiện những ngôi

chùa mang tên người phụ nữ: Chùa Bà Ngô.

66

Tóm lại: Sự dung thông giữa Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng bản địa

của người Việt thời Ngô – Đinh- Tiền Lê là sự kế thừa và phát triển của

những giai đoạn trước đó. Đây cũng là giai đoạn do điều kiện đất nước tự chủ

mà Phật giáo tích lũy năng lượng để bung nở trong giai đoạn Lý – Trần. Nhờ

sự hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng bản địa mà Phật giáo tự bao giờ đã đi

sâu vào chiều sâu tư tưởng, tình cảm, trở thành máu thịt của nền văn hóa Việt

trở thành yếu tố quan trọng của đời sống tinh thần trong thế kỷ X.

2.2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo trong Tam giáo.

Khác với ở Trung Quốc ba tôn giáo Nho – Phật – Đạo cũng có sự dung

thông nhưnglấy Nho giáo làm cơ sở còn ở Việt Nam thế kỷ X Phật giáo với

vai trò trung gian, với vai trò như là một chất “dung môi” đã gắn kết giúp cho

Nho – Đạo cùng với Phật giáo dung thông với nhau một cách nhuần nhuyễn

tự nhiên.

Để có sư phát triển mới ở thế kỷ X sự dung thông giữa Nho – Phật –

Đạo theo Nguyễn Lang đã có cơ sở ngay từ thời Mâu Tử, khi ông đã vận

dụng những kiến thức của cả Nho và Đạo để giải thích những khúc mắc,

những điều cần làm rõ khi nhận thức về Phật giáo và các chân lý. Tư tưởng

dung thông Nho – Phật – Đạo càng về sau càng thể hiện rõ ràng, đặc biệt là

khi đất nước được giành độc lập chủ quyền. Phật giáo muốn khẳng định vị trí,

vai trò với chính trị thì nó bắt buộc phải dung thông với Nho giáo để khắc

phục hạn chế của mình. Bởi vì xét đến cùng Phật giáo có nhập thế đến mấy

thì vẫn là một tôn giáo xuất thế. Trong hệ thống giáo lý của Phật giáo không

có nhiều lý luận cung cấp những bài học, những kinh nghiệm về mô hình xây

dựng quản lý nhà nước thế tục. Nếu có chăng thì Phật giáo chỉ có thể đưa ra

một số nguyên lý chung về mô hình xã hội lý tưởng là “Niết bàn” trừu tượng.

Còn về phía Nho giáo dung thông với Phật giáo để Nho giáo tránh được sự dị

ứng, đối kháng từng bước khẳng định vị thế, vai trò của mình trong đời sống

chính trị nước ta.

67

Đạo giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc Thuộc, do điều kiện

phương Nam xa xôi ngay từ khi du nhập vào Đạo giáo đã hòa quyện ngay với

tín ngưỡng và văn hóa bản địa. Những vị đạo sĩ thì được người dân mời đến

để trừ tà, bắt ma, xem đất, chữa bệnh… để gia tăng ảnh hưởng ở một chừng

mực nào đó thì Đạo giáo và Phật giáo với tư cách là những tôn giáo ngoại lai

đã có sự giao thoa kết hợp với nhau làm giàu thêm nội dung tư tưởng của

chính mình.

Có thể nhận ra một điển hình rõ nét đặc điểm Phật giáo theo xu hướng

tư tưởng “dung thông tam giáo”, được thể hiện một cách đậm nét trong bài

thơ Quốc Tộ của Pháp Thuận:

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Dịch nghĩa: “Ngôi nước như dây leo quấn quýt

Ở góc trời Nam mở ra cảnh thái bình.

Dùng đường lối vô vi ở nơi cung điện

Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh”

Bài Quốc tộ được nhà sư làm vào khoảng năm 981 – 982 dưới triều vua

Lê Đại Hành. Bài thơ này lần đầu tiên được ghi lại trong “Thiền uyển tập anh

ngữ lục”, một tác phẩm được viết khoảng đầu thời Trần. Bài thơ là một thiền

ngữ được trình bày trong một cuộc vấn đáp giữa sư Pháp Thuận với vua Lê

Đại Hành về sự dài ngắn, bền vững về ngôi nước, của ngôi vua, của đế vị tức

là của vận nước. Bài thơ vốn không có tên gọi nhưng được người đời sau đặt

tên “Quốc tộ” lấy từ câu thơ đầu của bài thơ để nói về chủ đề chính của nhà

sư Pháp Thuận.

Giai thoại kể rằng, lên ngôi rồi, vua Lê Đại Hành vẫn rất tín nhiệm các

vị Thiền sư, trong đó có Pháp Thuận, thường tham vấn trong việc bàn bạc

68

quốc sách. Ở cái thời mà mọi sự đều còn rất sơ khai trong quản lý quốc gia,

những gợi ý của những trí tuệ cao siêu như các Thiền sư đã có giá trị như

những khai mở trong tình hình rối ren. Và một lần, vua Lê Đại Hành đã mời

Thiền sư Pháp Thuận vào cung để tham vấn về những việc cần làm gì để đắp

bồi vận nước cho vững bền. Và Thiền sư Pháp Thuận đã đọc bốn câu kệ ngắn gọn

cả bài thơ chỉ có 20 chữ trên. Bài thơ rất ngắn gọn và cũng vì thế mà rất súc tích,

phải ngẫm ngợi lâu mới rõ hết các ý nghĩa tư tưởng khái quát sâu sắc.

Trong cách hiểu của Thiền sư Pháp Thuận, vận nước lúc đó còn rối ren

có thể thay đổi và chắc chắn sẽ thay đổi tùy thuộc vào cách ta ứng xử với nội

lực. Nếu ta biết cách cai trị đường lối đức trị, vô vi nhi trị, lấy từ ái, tình

thương làm nền tảng huy động nội lực một cách tối đa, bằng cách “kết đoàn

lại chúng ta là sức mạnh” thì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao” và vận nước

sẽ thịnh. Nhược bằng tự chia rẽ, tự mâu thuẫn với nhau thì vận nước sẽ suy.

Vận nước sẽ dài lâu nếu nhà vua thực hành tự mình cai trị bằng đức, bằng

nhân, bằng vô vi.

Bằng nhãn quan của mình thì thiền sư đã chỉ ra cho ta thấy được hiện

trạng của đất nước và những yêu cầu đặt ra để trị nước. Đó là vận của nhà Lê

khi mới lên ngôi (980) phải lo lắng trăm bề để thống nhất quốc gia. Lại phải

ngay lập tức tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, lòng

thần dân chưa yên khi vua lập “thái hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại thắng

minh hoàng hậu” (982), lại phải chống lại sự quấy nhiễu biên giới phía Nam,

khiến cho vua phải thân chinh đi đánh giặc. Pháp Thuận đã ví “vận nước” rối

bời như dây leo quấn quýt hay như dây mây quấn quýt ( như đằng lạc). Dùng

hình ảnh để so sánh ví von của câu thơ này làm thành vế thứ nhất của bài thơ,

chỉ rõ hiện trạng khó khăn của đất nước. Đây không phải là những mỹ từ chỉ

sự tốt đẹp, sự bền chắc của ngôi vua như có người đã lý giải mà hình ảnh này

chỉ sự rối rắm, phức tạp, khó khăn trăm bề của đất nước lúc bấy giờ trước vô

69

vàn mối lo toan chồng chất: lòng dân chưa yên với vua mới, với hoàng hậu

Dương Vân Nga, nỗi lo ngoại xâm, mất mùa, đói kém…

Do đó câu hỏi đặt ra là: muốn giữ yên được ngôi vua, giữ yên vận

nước thì phải làm như thế nào? Đây là vấn đề lớn mà nhà vua muốn nhà sư

Pháp Thuận trả lời. Đứng trước tình hình đất nước như vậy, theo thiền sư là

phải xây dựng một nền hòa bình. Nhưng để xây dựng một nền hòa bình này

thì còn rất nhiều mối lo toan trăm ngả, để đạt được nền hòa bình thì cần phải

có một chìa khóa để đưa đất nước tới thái bình. Thiền sư đã chỉ rõ kẻ thù của

hòa bình là chiến tranh, loạn lạc, nạn đao binh. Do vậy, chấm dứt được chiến

tranh, loạn lạc thì mới xây dựng được đời sống thái bình thì ngôi nước mới

giữ yên được. Đó được coi là nhiệm vụ số một của bậc đế vương, phải dùng

đức cai trị theo đường lối tổng hợp tinh thần Nho – Phật – Đạo phù hợp với

dân tộc.

Ông cũng khẳng định thêm muốn chấm dứt chiến tranh, loạn lạc thì yêu

cầu đặt ra trước hết là ở chính người cầm quyền, ở bậc đế vương trong nước.

Thông qua cách lý giải súc tích này cho thấy, Thiền sư đã đứng trên lập

trường của dân tộc, muôn dân, để cao trách nhiệm của người đứng đầu đất

nước. Ông cho rằng đường lối trị nước đúng đắn của bậc đế vương sẽ quyết định

đến vận mệnh hay sự đổi thay của đất nước. Bậc đế vương sáng suốt thì đất nước

cường thịnh, phát triển, chính sách của nhà vua đúng đắn, hợp lòng dân thì mọi

người tin theo, ủng hộ.

Vậy đường lối trị nước đó đã được ông khái quát trong hai câu thơ:

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.

Pháp Thuận cho rằng nhà vua cần phải thực hành một đường lối “vô

vi” theo tinh thần Nho – Phật – Đạo cao cả trong triều đình. Trước hết vô vi là

một khái niệm trong phạm trù tư tưởng chính trị của cả Đạo giáo, Nho giáo

và Phật giáo. Nó thấm đẫm tinh thần tam giáo thời kỳ này. Theo Đạo giáo, thì

70

vô vi có nghĩa là nhà vua cần thực hành một đường lối chính trị thuận theo tự

nhiên chứ không bắt mọi người tuân phục những ý tưởng nhân vi chủ quan

của mình. Theo Nho giáo thì vô vi cũng thể hiện tư tương thiên mệnh và dĩ

nhân vi bản. Hơn thế nữa, Pháp Thuận còn là một nhà sư do vậy tư tưởng vô

vi còn là một tư tưởng kép thấm nhuần tinh thần Phật giáo, là tư tưởng vô vi

pháp, là tinh thần từ bi, hỷ xả, bác ái, vì mọi người… làm sao để chăm lo đến

nhân dân, để nhân dân được bình an, ấm no, hạnh phúc, họ sẽ không nảy sinh

ý định chống đối, mà khi nhân dân đã tin theo, thì sẽ không có binh đao, loạn

lạc và ngôi nước mới giữ được yên.

Pháp Thuận khẳng định, chỉ có dùng đường lối chính trị “vô vi” như

trên, nhà vua mới có thể dật tắt được nạn đao binh. Không thể dùng bạo lực

để đánh đổ bạo lực mà phải dùng biện pháp tổng hợp, hợp tự nhiên mềm dẻo

hợp với lòng dân, phải dùng tình yêu thương, lòng từ bi, đức hy sinh theo tinh

thần Phật giáo mới có được một kết quả đẹp, mới giữ được ngôi vua lâu dài,

giữ nước lâu dài.

Chỉ bằng một bài thơ ngắn gồm bốn câu thơ được viết theo lối kệ

Thiền, vận dụng sự dung thông nhuẫn nhị của trí thức tam giáo, thiền sư họ

Đỗ đã có thể khái quát được chính xác tình trạng đất nước lúc bấy giờ là rất

rối ren và chỉ ra được một đường lối trị nước thích hợp để giữ yên được ngôi

vua. Thông qua phân tích bài thơ ta cũng nhân thấy được vua Lê Đại Hành là

một người tài giỏi khi biết sử dụng nhân tài và tôn trọng nhân tài vào công

cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hay nói cách khác tầm tư duy của

Lê Đại Hành đã không bất cập khi nhận thức và giải quyết các vấn đề của

thực tiễn đất nước nhờ sử dụng tinh thần dung thông Nho-Phật –Đạo trên nền

tảng của truyền thống dân tộc.

Cuối thế kỷ X, khi đất nước giành được độc lập song lại cần tiếp tục

phát triển thì thiền sư Vạn Hạnh đã dùng Phật giáo kết hợp với Đạo giáo, Nho

71

giáo đã thực hiện một cuộc chính biến trong lòng dân, để đưa Lý Công Uẩn

lên ngôi một cách hòa bình.

Qua phân tích những tư tưởng và hành động của các nhà sư đã phát

huy được tác dụng khi mà đất nước vừa mới khôi phục bộn bề khó khăn trình

độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém nhận thức của người dân về một mặt

còn hạn chế. Tuy nhiên, mục tiêu mà các nhà sư định hướng nhận thức và

hành động không phải vì lợi ích của cá nhân mà vì lợi ích của quốc gia dân

tộc. Do vậy những hạn chế của tư duy và hoạt động chưa thể có điều kiện

khắc phục, vẫn chưa thoát khỏi biểu hiện mê tín dị đoan khó có thể bỏ qua.

2.2.3 Đặc điểm dung thông giữa các tông phái khác nhau trong Phật giáo

Phật giáo có nhiều tông phái khác nhau trong đó Trung Quốc có mười

tông phái cơ bản. Tuy nhiên khi truyền vào Việt Nam chủ yếu nổi trội chỉ có

ba tông phái: Thiền Tông, Mật tông và Tịnh độ tông. Tại Việt Nam cho tới

nay do sự hỗn dung, dung thông giữa chúng người ta cũng khó có thể xác

định đặc điểm riêng của từng tông phái. Tuy nhiên xét trong giai đoạn Ngô –

Đinh –Tiền Lê thì chủ yếu Thiền tông thiên vọng với Mật tông và có ít nhiều

dung hợp với Tịnh Độ tông

Thứ nhất: Thiền tông thiên vọng với Mật tông :

Phật giáo giai đoạn này chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc Tông, trong đó

Thiền tông nổi trội. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát

từ Trung Quốc. Thiền tông hình thành và lan truyền trong khoảng thế kỉ thứ

VI – VII, khi Bồ – Đề – Đạt – Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung

Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào yếu tố của đạo Lão. Nơi đây, Thiền

tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là thực hành Thiền, hành giả

trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ được chân lý như

Phật Thích ca mâu ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ đề. Tông phái này được

đưa vào Việt Nam chủ yếu có phần từ Trung Quốc, có phần nhỏ từ Nhật Bản

nhưng đều có nguồn gốc ở Thiền Ấn Độ.

72

Thiền tông khởi nguyên từ Ấn Độ, được truyền đến đời thứ 28 là Bồ -

Đề – Đạt – Ma. Ngày nay, người ta không còn tư liệu gì cụ thể về lịch sử các

vị Tổ Thiền tông Ấn Độ, và thật sự thì điều đó không quan trọng trong giới

thiền sư vì chú trọng vào thực hành Thiền.

Phật giáo với phép “thiền” truyền vào Việt Nam từ rất sớm, trước cả

Trung Quốc với trung tâm Phật giáo quan trọng tại Luy Lâu. Và theo

đó, Thiền tông Ấn Độ cũng được truyền bá vào Việt Nam trước tiên, với các

thiền sư như Mâu Tử, Khương Tăng Hội. Họ đã nổi danh tại Trung Quốc từ

trước thời Bồ – Đề – Đạt – Ma. Họ đều từng có nhiều năm tu tập tại Việt

Nam trước khi truyền đạo tại Trung Quốc, chứng minh rõ ràng cho sự phát

triển rực rỡ của Thiền tông tại Việt Nam ở thế kỷ thứ II và thứ III.

Theo Bắc Tông, dòng thiền đầu tiên của Việt Nam đó là dòng thiền Tỳ

Ni Đa Lưu Chi được truyền vào nước ta từ năm 580. Theo Thiền uyển tập anh

“Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là dòng dõi Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc,

vân du qua Trung Hoa; vào năm Nhâm Ngọ ( 562) niên hiệu Đại Kiến thứ sáu

nhà Trần thì đến Trường An. Vào năm 574 khi Phật giáo bị Võ Đế đàn áp,

ông đi về đất Nghiệp ( Hồ Nam). Hồi đó, tổ thứ ba của Thiền Tông Trung

Hoa là Tăng Xán đang bị nạn ở đây, ẩn tại núi Tư Không. Khi Tỳ Ni Đa Lư

Chi gặp tổ Tăng Xán, thấy phong độ phi phạm, liền chắp tay ba lần, tổ vẫn

ngồi yên không nói năng gì. Trong lúc đứng chờ suy tư, tâm bỗng mở ra như

có chỗ sở đắc, ông liền lạy xuống ba lạy. Tổ sư cũng chỉ gật đầu ba cái mà

thôi. Ông lùi lại ba bước, thưa rằng: đệ tử từ trước tới nay chưa có cơ hội, xin

hòa thượng từ bi cho đệ tử được theo hầu bên tả hữu, Tổ nói: ông mau mau đi

về phương Nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây. Ông liền từ

biệt tổ đi về phương Nam, ở lại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu. Đây là vào

khoảng niêm hiệu Đại Đế thứ sáu, ông dịch được một số kinh như Tượng Đầu

và Báo Nghiệp Sai Biệt. Đến tháng ba năm Canh Tý niên hiệu Đại Tường thứ

hai (580), vào đến nước ta, ở lại chùa này (Pháp Vân) lại dịch thêm kinh Tổng

73

Trì” Qua đây cho thấy ngay từ thế kỷ VI Thiền tông tại Việt Nam đã nghiêng

về kết hợp với Mật tông.

Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền thừa qua mười chín đời. Tư tưởng

của dòng thiền này bắt nguồn từ Kinh Bát Nhã, Tam Luận và Hoa Nghiêm có

khuynh hướng thiên về Mật giáo, theo tinh thần bất lập văn tự, chú trọng đến

truyền thụ tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế để giúp dân, biết kết hợp sử

dụng kiến thức phong thủy sấm vĩ. Sấm vĩ là sự suy trắc về tương lai trên cơ

sở luật hoán chuyển âm dương, ngũ hành tương khắc vận chuyển và đã kết

hợp với kinh Tổng trì.

Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi chịu ảnh hưởng của Tăng Xán khá sâu

đậm; sự ảnh hưởng này thấy rõ trong lời ông dặn lại đệ tử Pháp Hiền trước

khi viên tịch: “Tâm ấn của chư Phật không lừa dối ta đâu, tâm ấn ấy tròn đầy

như thái hư, không thiếu không dư, không đi không tới, không được không

mất, không nhất nguyên, không đa nguyên, không thường không đoạn, vốn

không sinh ra cũng không diệt mất…” [51, tr150 – 151].

Tỳ Ni Đa Lưu Chi là một trong những người dùng danh từ tâm ấn sớm

nhất trong lịch sử thiền, mà danh từ này đã phát xuất từ các kinh điển của Mật

tông. Kinh Đại Nhật, kinh căn bản của Mật Tông, nói như sau về tâm ấn:

“Đối với mọi lời giáo huấn của Phật không gì là không nắm được tinh yếu;

nếu có thể giữ gìn được tâm ấn ấy để mở rộng tất cả các pháp môn, đó gọi là

người đã thông đạt được tam thừa”. Tâm ấn ở đây là tinh yếu mật ý của kinh

Đại Nhật cơ bản của Mật tông.

Chính sự kết hợp của Mật tông, sấm vĩ, phong thủy đã là những động

cơ đẩy mạnh vai trò nhập thế xã hội của Phật giáo trong những thế kỷ đầu tiên

giành được độc lập. Điều này được thể hiện khá rõ trong sự thực hành trì chú

Mật tông trong thời Đinh – Tiền Lê. Giáo sư Hà Văn Tấn (trong tạp chí

Nghiên cứu lịch sử số 76 tháng 7 năm 1965 xuất bản tại Hà Nội) cho biết :

Vào năm 1963, tại làng Trường Yên thuộc kinh đô Hoa Lư cũ của Nhà Đinh,

74

người ta đào được một cây bia đá, trên bia khắc những câu kệ và Chú Đà La

Ni, dựng vào năm 973 thời Đinh. Bia này là một trụ đá có tám mặt, mỗi mặt

rộng sáu phân rưỡi. Trên mỗi mặt bia đều có khắc chữ Hán, bắt đầu bằng câu

“Phật Đỉnh Tối Thắng Già Cú Linh Nghiệm Đà La Ni” ghi là do Tinh Hải

Quân Tiết Chế Nam Việt Vương Đinh Liễn tạo lập.

Cũng đã phát hiện một kinh tạng dựng năm 995 thời Lê Đại Hành với

một bài kệ nhắc đến Phật đỉnh Đà La Ni:

Chư thiên thường văn Phạm ngữ thanh

Văn niệm Phật đỉnh Đà La Ni

Tắc đắc cụ túc trai giới…

Những tài liệu trên cho biết sự thực hành trì chú của Mật giáo rất được

phổ biến thông qua các triều đại Đinh và Tiền Lê sử còn cho biết.

Sách cũ cũng đã ghi lại rằng thủa đầu lập quốc, các thiền sư danh tiếng

như Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh đã mở những cuộc vận động gây ý

thức quốc gia. Họ đã sử dụng những môn thuật sấm vĩ và phong thủy trong

các cuộc vận động này, như “tuyên truyền” về nền độc lập lâu dài, về vận số

của một triều đại, về long mạch quốc gia và sự trù ếm nó của người Hán tộc

phương Bắc, nay các sử liệu đã được công khai.

Như vậy các cột kinh ở Hoa Lư có nội dung là hai trong bốn loại trì chú

của Mật Tông. Loại trì chú Đa La Ni là sự tiêu trừ nghiệp chướng bản thân,

loại trì chú thứ hai sẽ tiêu trừ nghiệm trướng oan gia và dục vọng tình ái kiếp

trước. Loại trì trú thứ ba là diệt trừ kẻ thù ngoài ta, còn trì chú thứ tư là sự ban

ân huệ cầu được ước thấy. Như đã biết thì Nam Việt Vương Đinh Liễn cho

dựng một trăm cột kinh để nhằm “cứu rỗi” linh hồn sau những biến cố quan

trọng có liên quan tới chính mình.

Điều này chỉ có thể lý giải rằng khi các nhà thiền sư trong giai đoạn

này vừa là học Thiền và vừa học trì chú kinh điển Mật tông. Sự kết hợp giữa

75

Thiền và Mật đã được giáo sư Hà Văn Tấn khẳng định khi nghiên cứu về cột

kinh Hoa Lư do Đinh Liễn cho dựng thời Đinh.

Bên cạnh sự kiện mà chúng ta có được thông qua bài báo của giáo sư

Nguyễn Tài Thư và Lê Mạnh Thát cho biết thì đã có những nhà sư trong giai

đoạn Ngô – Đinh – Tiền Lê niệm kinh Đà La Ni. Một kinh quan trọng của

Mật tông. Ví dụ như thiền sư Ma Ha, thiền sư Khuông Việt đều chú trọng

kinh Đà La Ni.

Thứ hai thiền phái Vô Ngôn Thông chịu ảnh hưởng của Mật Tông:

Ngô Chân Lưu là thiền sư truyền thừa của phái Vô Ngôn Thông. Trong

thời gian làm Tăng Thống và Khuông Việt đại sư, ngài đã ủng hộ và hướng

dẫn Đinh Bộ Lĩnh, Nam Việt Vương Đinh Liễn và cả gia đình cũng như triều

đình tu theo Phật giáo, lấy đức trị dân, hướng theo tránh pháp. Nhất là ủng hộ

Đinh Liễn khắc các tràng kinh Tổng Trì Đà La Ni và Chú Lăng Nghiêm là

minh chứng cho sự hoằng hóa Đạo Phật theo Thiền và Mật của Khuông Việt.

Và rõ nhất là ông có công trong việc xây dựng chùa chiền, khắc kinh, tạc

tượng tôn thờ, với các tràng kinh đã khắc để lại làm tài liệu nghiêm cứu, học

tập và tu dưỡng cho Tăng già thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Dưới thời vua Lê Đại Hành dưới sự ảnh hưởng của các dòng thiền tông:

Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông với các thiền sư như Pháp Thuận và

Khuông Việt thì vua Lê Đại Hành đã cho xây dựng chùa Nhất Trụ để tôn thờ

Phật tổ, trụ Kinh khắc Phật Đỉnh Tôn Thắng Đa La Ni và Tâm Chú, tại Hoa Lư

năm 995 để cầu nguyện cho đất nước thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp.

Đời Tiền Lê, đặc biệt hơn nữa là chú trọng công tác thỉnh Đại Tạng

Kinh năm 1007. Vua Lê Long Đĩnh đã sai em Lê Minh Xưỡng cùng Hoàng

Thanh Nhã sang nước Tống thỉnh Đại Tạng Kinh làm tài liệu nghiên cứu, học

tập cho giới xuất gia và Phật tử Việt Nam thời bấy giờ, góp phần vào kho tàng

văn hóa bản địa một cách thiết thực và nó còn ý nghĩa cho những giai đoạn

sau này, là cơ sở quan trọng cho Phật giáo thời Lý – Trần.

76

Tóm lại: Những phân tích ở trên cho ta thấy đặc điểm dung thông đã có

tiền đề từ trước đó và tiếp tục được làm rõ trong giai doạn Ngô – Đinh –Tiền

Lê và được nở rộ trong giai đoạn Lý – Trần. Chính tư tưởng dung thông đã

tạo cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, giàu bản sắc, đầy sức sống. Tạo ra

nội lực để dân tộc ta bước ra khỏi bóng tối, đứng lên xây dựng một thời đại

mới, một kỷ nguyên mới với vai trò Phật giáo được đề cao. Mở ra một kỷ

nguyên mới trong lịch sử dân tộc đó là kỷ nguyên mà dân tộc Việt Nam đã

hiên ngang đứng lên khẳng định độc lập chủ quyền của mình đối với các nước

trong khu vực đặc biệt là Trung Hoa.

2.3 Ý nghĩa của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đối với lịch sử

Việt Nam thời kỳ này.

2.3.1 Một số giá trị nổi bật của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

đối với lịch sử Việt Nam thời kỳ này.

Lịch sử Phật giáo gắn liền với lịch sử của dân tộc, cho nên sự tác động

qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn. Trong luận văn với dung lượng trang có

hạn nên người viết xin phép chỉ tập trung làm rõ một số giá trị nổi bật của

Phật giáo thời kỳ đó đã để lại ý nghĩa như nào đối với lịch sử Việt Nam thời

kỳ này.

Thế kỷ X chấm dứt hơn 1000 năm Bắc Thuộc mở ra một kỷ nguyên

độc lập tự chủ. Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là một giai đoạn ngắn

nhưng đặc sắc vẻ vang trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Tuy nhiên cũng đã

kịp khắc tạc, tạo dựng những dấu ấn không bao giờ phai theo năm tháng và

đến ngày hôm nay mỗi người dân Việt Nam khi nhìn lại khoảng thời gian này

không khỏi ngưỡng mộ và tự hào về Phật giáo nói riêng và tổ tiên ta nói

chung trong buổi đầu độc lập. Giai đoạn này là một giai đoạn bước ngoặt của

lịch sử đặc biệt khi đất nước ta vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ và bắt đầu

bước vào thời đại mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Làn gió độc lập tự chủ đã

tạo ra một luồng sinh khí mới cho dân tộc tạo điều kiện cho Phật giáo và

77

ngược lại Phật giáo góp phần tạo ra một bầu không khí sôi động và phấn khởi

trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử đất nước mới đặt ra

rất nhiều thách thức đòi hỏi tầng lớp trí thức tăng sĩ tinh hoa ( Phật giáo) phải

không được ngủ quên trong men say chiến thắng mà họ đã rất “thức tỉnh” dân

tộc phải nhìn vào thực tiễn đất nước để trăn trở đưa ra câu hỏi và suy nghĩ tìm

ra cách giải quyết các vấn đề lịch sử đặt ra. Như phân tích ở chương trên thì

chúng ta thấy rõ Phật giáo đã làm tròn sứ mệnh mà lịch sử dân tộc giao phó,

đồng thời Phật giáo đã để lại những giá trị đối với lịch sử dân tộc. Và dưới

đây là những giá trị tiêu biểu nhất:

Một là, Phật giáo đã đồng thuận, đồng hành tích cực góp công sức cho

sự ra đời của các vương triều tự chủ Nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê mở ra một

trang sử mới cho dân tộc thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước vừa mới giành

được độc lập.

Phật giáo Việt Nam đến thế kỷ X về cơ bản là Phật giáo Đại Thừa do

vậy mà kế thừa và phát huy tinh thần nhập thế “phá chấp” không câu lệ vào

giáo lý, giáo luật đã tạo cơ sở cho tinh thần “nhập thế”, thực hiện chủ chương

tự độ, độ tha, tự giác, giác tha cho thời kỳ về sau đó. Chính tinh thần nhập thế,

phá chấp mà Phật giáo luôn đồng hành cùng sự nghiệp khôi phục và bảo vệ

chủ quyền dân tộc. Các thiền sư không chỉ chú trọng giải thoát cho mình khỏi

bể khổ, mà vị đời, vị tha còn cứu nạn cho chúng sinh, thực hiện tư tưởng Bồ

tát của Phật tổ “ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục”, đã phạm vào sát

giới khi cởi bỏ áo cà sa để khoác lên mình tấm áo giáp ra trận giết giặc ngoại

xâm, tận trung báo quốc, gương cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước, nâng

cao nội hàm giải thoát của Phật giáo Đại Việt. Đặc điểm đó từ thời Ngô –

Đinh – Tiền Lê đã làm cho Phật giáo có tính nhập thế về sau sẽ chủ chương

hòa quang đồng trần, sẵn sàng vượt qua khuôn mẫu vi phạm giới luật cấm sát

sinh của nhà Phật để vì muôn đời người phải tạo nghiệp sát sinh giặc ngoại

xâm vì nghĩa lớn, đã tạo cơ sở nền tảng để Phật giáo thâm nhập sâu vào trong

78

đời sống chính trị của đất nước đặc biệt sẽ tỏa sáng rực rỡ trong giai đoạn Lý

– Trần sau này.

Trong buổi đầu khôi phục lại chủ quyền trong lúc tầng lớp Nho sĩ còn

xa lạ với dân tộc độc lập và số lượng thưa thớt thì các thiền sư đã tự ý thức trở

thành tầng lớp trí thức dẫn dắt đời sống tinh thần trong xã hội, giúp nhà vua

xây dựng mô hình nhà nước phong kiến quân chủ chịu ảnh hưởng màu sắc

Phật giáo từ vi thâm sâu. Đồng thời các vị sư cũng sẵn sàng trở thành những

cố vấn cho các triều đại phong kiến góp phần vào trong các lĩnh vực : chính

trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, tư tưởng. Vì là tầng lớp trí thức gần dân

trong xã hội mà lúc này họ là trù trì trong các ngôi chùa đã trở thành trung

tâm văn hóa giáo dục bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Như vậy là Phật giáo

thế kỷ X có đặc điểm nổi bật là tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo đã

đặt những bước đầu tiên có cơ sở cho tinh thần nhập thế của lịch sử Phật giáo

sau này làm giàu cho chủ nghĩa yêu nước.

Nếu như mục đích giáo dục dạy và học của Nho giáo để an bang trị

quốc, bình thiên hạ tức là học để làm quan, đem lại vinh hoa phú quý cho gia

đình và dòng họ, quê hương. Thì đối với các thiền sư Việt Nam họ cũng rất

coi trọng việc học hành, họ nghiên cứu kinh điển Phật giáo đồng thời cũng

nghiên cứu cả kinh điển Nho giáo, Đạo giáo để giúp dân giúp nước. Các thiền

sư Việt Nam lúc đó nghiên cứu Tam giáo để giải thoát đông đảo chúng sinh

khỏi bể khổ. Và khi đã đạt được mục tiêu giải thoát cho chúng sinh thì các

thiền sư lại thực hiện theo giáo lý của nhà Phật là: không màng đến danh lợi,

những chức tước do nhà vua ban cho để về chuyên tâm tu hành đạo pháp.

Chính là giá trị tinh thần siêu việt của Phật tử khi đó tham gia vào hồng trần

mà không để bị lây nhiễm bụi tham lợi của hồng trần. Từ thời kỳ đó, đã làm

cho hình ảnh của các thiền sư Việt Nam trở nên đáng quý và kính trọng trong

mắt các vị vua và nhân dân thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. Với quan niệm hòa

vào dân tộc nhập thế để tích cực tham gia vào chính trị – xã hội nhưng không

79

lợi dụng nguồn lực chính trị để mưu danh lợi và củng cố địa vị cho hệ phái,

cho riêng mình, Phật giáo thời kỳ này đặt nền tảng để mở ra mối quan hệ hài

hòa giữa Nhà nước với Phật giáo, tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau, dung dưỡng

sự kết hợp hòa hảo giữa tôn giáo và chính trị, mở đường cho mối quan hệ này

phát triển lên đỉnh cao ở giai đoạn sau. Họ đã trở thành một tấm gương cho

các nhà sư tu hành sau này noi theo và học hỏi để giúp dân, giúp nước.

Hai là, sau 1000 năm chịu sự đô hộ của chính quyền phương Bắc thì

khi giành được độc lập một yêu cầu bức thiết đặt ra là cần phải khôi phục và

phát triển mới văn hóa dân tộc, để cho phù hợp với yêu cầu điều kiện mới của

đất nước. Thời kỳ trước độc lập, nền văn hóa Hán với hệ tư tưởng chủ đạo là

Nho giáo đã theo bước chân quân xâm lược vào nước ta. Tiêu biểu và đặc

trưng của nền văn hóa Hán chính thống đó là Nho giáo chú trọng tôn trung

trật tự kỳ thị văn hóa phương Nam, mà bọn thống trị phong kiến Trung Quốc

dùng làm công cụ cai trị và đồng hóa dân tộc ta. Song bởi thế nên ảnh hưởng

văn hóa Hán trong thời Bắc Thuộc cũng chỉ đóng khung trong vùng trung tâm

Luy Lâu là trị sở của chính quyền, ở các trang trại nhỏ hẹp của quan chức

Trung Quốc, phạm vị ảnh hưởng của nó trong toàn xã hội không thể lan rộng

sâu đậm. Do vậy yêu cầu đặt ra lúc này là cần phải xây dựng và khôi phục

một nền văn hóa mới để nhằm loại bỏ những yếu tố cũ đã không còn phù hợp,

lạc hâu và tiếp thu có chọn lọc văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán để làm sao cho

phù hợp với nền văn hóa bản địa. Đứng trước nhiệm vụ của lịch sử đặt ra đó

nó đòi hỏi đội ngũ trí thức Phật giáo trong giai đoạn này ( thiền sư) phải vươn

lên đứng ra gánh vác nhiệm vụ trọng trách này. Đóng góp của họ để lại trong

nhiều lĩnh vực là rất lớn:

Về văn học: Qua di khảo để cho thấy buổi đầu tự chủ nhờ có các nhà

sư thì ngôn ngữ, văn học viết của Việt Nam đã phát triển. Dân tộc ta buổi

đầu tiên dùng chữ viết là chữ Hán để đọc theo âm Hán Việt. Trước thời Ngô

-Đinh - Tiền Lê đã có những bài văn, bài thơ viết bằng chữ Hán nhưng chưa

80

nhiều. Đến thời Ngô Quyền đã có bài “Dự đại phá Hoằng Thao chi kế ( Bày

kế hoạch đánh tan quân Hoằng Thao) nhưng đây chỉ là bài ghi lại lời nói

dưới của bài văn viết. Đến năm 979 sau khi giết em mình là Đinh Hạng

Lang, Đinh Liễn đã cho khắc dựng 100 cột kinh Phật bằng đá hình bát giác,

khắc đầy bài kinh bằng chữ Hán gồm ba phần: Lạc khoản, kệ và kinh Đà La

Ni. Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê có thơ, kệ của đại sư Ngô Chân Lưu, Đỗ

Pháp Thuận,Vạn Hạnh…

Sau đó đến thời Lê Đại Hành có bài thơ Quốc Tộ của Pháp Thuận –

đây được coi là bài thơ góp phần khai sinh ra nền văn học viết của Việt Nam

Đóng góp vào lĩnh vực kiến trúc: Trong thế kỷ X buổi đầu dựng nước

với đóng góp to lớn cho giang sơn xã tắc mà các nhà sư đã được sự ủng hộ

nhiệt tình việc xây dựng kinh đô của triều đình cũng như các công trình của

nhân dân Đại Việt trong việc xây dựng và trùng tu các công trình kiến trúc Phật

giáo, quy mô, bề thế. Và bước đầu đã tạo dựng cơ sở, đường nét cho việc xây

dựng các công trình có giá trị văn hóa của dân tộc cũng như các công trình kiến

trúc Phật giáo sau này. Những công trình kiến trúc tiêu biểu của Phật giáo trong

giai đoạn này còn lại đến này phải kể đến những công trình sau:

Chùa Bà Ngô ở Hoa Lư: tương truyền được xây dựng ở đầu thời Đinh.

Tấm bia đá thời Nguyễn ở chùa này có ghi : chùa Bà Ngô trong ấp ta là một

danh lam ở đô cũ nước Cồ Việt. Qua một nhận xét hết sức sơ lược nhưng ta

có thể thấy quy mô hoành tráng của ngôi chùa này. Đồng thời thấy được vai

trò của nó trong đời sống tâm linh của người dân.

Chùa Nhất Trụ ở Hoa Lư hiện nay tuy không còn giữ được dấu vết gì

của kiến trúc cổ, nhưng cây cột đá tám mặt cao 4,16m, các bài thần chú Kinh

Lăng Nghiêm và các bài kệ dựng năm 995 vẫn còn ở trước chùa có thể thấy

được sự tồn tại của ngôi chùa. Chùa Nhất Trụ phải chăng chính là gợi ý mô

hình của chùa Một Cột được xây dựng trong thời Lý sau này.

81

Ngoài ra ở nhiều nơi trong nước cũng có nhiều ngôi chùa được xây dựng

từ thời Ngô – Đinh – Tiền Lê như : ở Hải Dương có rất nhiều di tích kiến trúc

tôn giáo thời Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên

Hoàng, như ở huyện Bình Giang có Đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh

Tráng Trần, ở Thái Bình có miếu Bắc (Đông Sơn, Đông Hưng) thờ các tướng

lĩnh giúp vua Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân…

Cho đến ngày nay thì phần lớn những di tích lịch sử về kiến trúc Phật

giáo theo năm tháng đã bị hủy hoại hoàn toàn hoặc không còn nguyên vẹn,

nhưng vết tích vẫn đủ sức khơi dậy niềm tự hào với văn hóa truyền thống của

dân chúng. Chính vì hiện nay ở Ninh Bình đã được nhân dân Ninh Bình nói

riêng và nhân dân cả nước nói chung đã ra sức góp công, góp của để phục

dựng một lại những công trình kiến trúc của Phật giáo ngày một khang trang

đẹp đẽ hơn điển hình là công trình xây dựng Chùa Bái Đính có quy mô lớn

nhất Đông Nam Á hiện nay cùng các chùa cận kề.

Ba là, Sau mười thế kỷ chung sống cùng với dân tộc Việt Nam với

những thăng trầm giáo lý cao siêu của Phật giáo đã thẩm thấu vào nền văn

hóa Việt Nam như nước thấm vào đất nó hỗn dung thẩm thấu vào tâm trí Việt,

trở thành suy nghĩ và hành động của người Việt. Do vậy giá trị tinh thần Phật

giáo là rất lớn đã có đóng góp to lớn tác động đến lối sống đạo đức tinh thần

cuả người Việt là không thể phủ nhận được.

Phật giáo thời kỳ này trước hết ảnh hưởng đến quan niệm nhân sinh tầng

lớp vua, quan lại. Như chúng ta đã biết rằng thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là giai

đoạn xây dựng đất nước, do vậy những ông vua thời kỳ này đều xuất thân là

những võ tướng nhưng lại không được đào tạo nhiều về sự nghiệp quản lý đất

nước. Do vậy mà khi đứng vào vị trí đứng đầu đất nước sẽ không đáp ứng

được, không thể tránh khỏi những suy nghĩ và hành động bạo liệt trái với nhân

nghĩa. Như giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét: Khách quan nhìn vào các triều

Ngô – Đinh – Tiền Lê thấy các ông vua đều là võ tướng xuất thân ít học, có lẽ

82

là vô học nữa là khác. Như một số biểu hiện cách cai trị của Đinh Tiên Hoàng

thì thật là hung tợn trừng trị tội phàm bằng: Cột đồng đốt nóng, vạc dầu đun

sôi… trong khi Phật giáo bên ngoài thì giúp cho triều đình việc bang giao, còn

bên trong thì chắc chắn cũng góp phần đem lại những yếu tố tư tưởng nhân ái,

từ bi, hỷ xả, thuần hậu cần thiết cho sự trị bình [20, tr229 – 230].

Trong hoàn cảnh như vậy Phật giáo với những giáo lý từ bi hỷ xả của

mình thông qua môi giới là vai trò các thiền sư đã có sự tác động đáng kể làm

giảm bớt sự dã man, bớt đi tính bạo liệt của các vị vua trong giai đoạn này.

Một minh chứng cụ thể đó là Cột Kinh do Đinh Liễn và Vua Lê Đại Hành

dựng lên. Chúng ta không thể phủ nhận rằng cột kinh là thể hiện sự sùng đạo

nhưng trong chừng mực nào đó, qua nội dung của giáo lý Phật giáo mà cột

kinh đã thể hiện tư tưởng xám hối về những tội lỗi của mình đã gây ra và cầu

mong linh hồn người chết được siêu thoát góp phần giáo hóa tâm tính con

người Việt. Không chỉ như vậy mà những tư tưởng của Phật giáo đã đặt nền

móng cho việc xây dựng một nhà nước quân chủ phong kiến Phật giáo thân

dân, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Điều này minh chứng cho

không phải ngẫu nhiên mà đến thời đại Lý – Trần lại xuất hiện những ông vua

là đệ tử của Phật giáo lại yêu dân như con. Rõ ràng có cơ sở từ Phật giáo đặt

nền tảng từ thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Phật giáo ảnh hưởng đối với đời sống tinh thần tầng lớp nhân dân: Phật

giáo góp phần bồi đắp những tư tưởng, đạo đức truyền thống lối sống có văn

hóa cho đông đảo quần chúng của dân tộc.

Bốn là, khi đất nước giành được độc lập thì chính Phật giáo cũng xoá

bỏ được vị trí thấp, thân phận nô lệ của mình. Đồng thời đã mở ra một vận hội

mới tươi sáng để chính Phật giáo vươn mình có sức mạnh đóng góp nhiều hơn

nữa cho đất nước. Qua đây ta thấy dân tộc độc lập chính là nền tảng để Phật

giáo cũng có cơ hội phát triển truyền bá rộng rãi đạo của mình.

83

2.3.2 Một số hạn chế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê.

Rõ ràng, Phật giáo Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đã có những đóng góp

đáng kể vào trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam

nhưng cũng là sản phẩm của lịch sử, Phật giáo không tránh khỏi những vấn đề

tồn tại nhất định. Theo quan điểm của Mácxít cho rằng: Nguồn gốc của sự

vận động và phát triển trong xã hội luôn có động lực là từ sự thống nhất và

đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ta áp dụng linh hoạt quan điểm này vào Phật

giáo thế kỷ X hoàn toàn đúng. Phật giáo Việt Nam có được điều kiện thuận

lợi đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong các phương diện ở thời Ngô –

Đinh – Tiền Lê, bên cạnh những đóng góp tích cực như ở trên thì Phật giáo là

sản phẩm thời đại đó nên cũng còn tồn tại một số hạn chế nhất định sau đây:

Một là, tuy với tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam đã làm cho

các nội dung giáo lý của Phật giáo trở thành thân thiết và gần gũi với dân

chúng. Các vị thiền sư trở thành những ông Bụt, những vị Bồ Tát cứu nhân độ

thế, giúp sức cho triều đình và đất nước. Nhưng Phật giáo là một tôn giáo xuất

thế nên lại có khuynh hướng nhập thế nếu vượt quá giới hạn, cũng là con dao

hai lưỡi, khi trong quá trình nhập thế thì khó tránh khỏi một số vị thiền sư đã

không giữ vững được siêu việt, siêu thoát chân tâm để giác ngộ. Do vậy mà

đã có một số những hiện tượng nghịch đạo những nhà sư dựa vào thế lực trần

ỷ lại tinh thần nhập thế, mà sa đà vào duyên trần chuộc lợi cho bản thân, làm

lu mờ thanh danh siêu thoát, siêu việt của nhà Phật, làm uế tạp cảnh thanh

tịnh của nhà chùa. Hạn chế của tinh thần nhập thế trong thực tế thời kỳ này đã

biểu thị và sẽ được bộ lộ rõ nét trong cuối thời Lý – Trần trở thành vấn nạn.

Hai là, ngay từ thời kỳ đất nước khôi phục chủ quyền, tuy có buổi đầu

Phật giáo đã chưa thể có sự chặt chẽ thống nhất về mặt tổ chức, về giáo luật,

giáo lý. Phật tổ từng nói rằng: Chúng sinh có 84 nghìn pháp môn để mà tu

hành. Do vậy, mỗi người có thể tùy chọn một con đường khác nhau để tu

hành và được giải thoát tự tại. Chính vì vậy mà ngay khi Phật giáo ở thời kỳ

84

đó ở Việt Nam thì Phật giáo không được củng cố về tổ chức mà tự phát lan

truyền vào trong dân một cách thiếu thiết chế, không có tổ chức và hệ thống

giáo lý, giáo luật chặt chẽ mà Phật giáo truyền vào một cách tự phát, tản mạn.

Cho nên, chúng ta nhận thấy về sau Phật giáo sau thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

đã không thể hình thành được nền móng một tổ chức tôn giáo hợp nhất có

giáo lý, giáo luật hệ thống có sự nhất trí trong cả nước, có sự quy củ chặt chẽ

đảm bảo hệ thống không bị rời rạc, khó có sự thống nhất.

Ba là, chính mặt tổ chức do không hợp nhất và chặt chẽ cho nên về sau

việc thực hành những giáo lý, giáo lễ là khác nhau giữa các tông phái và các

thiền sư thời kỳ này chưa làm được điều này. Chính sự không thống nhất về

mặt giáo lý, giáo lễ mà nó là nguyên nhân, là đầu mối nảy sinh những vấn đề

tiêu cực của Phật giáo ( hiện tượng bài xích lẫn nhau, một số nhà sư lạm dụng

sự phong phú của con đường tu đạo mà làm lợi cho bản thân). Sự thiếu đi tính

hệ thống, chặt chẽ về tổ chức, giáo lý, giáo lễ, giáo luật là điểm hạn chế còn

ảnh hưởng lâu dài về sau trong tiến trình phát triển Phật giáo Việt Nam.

Bốn là, Phật giáo vốn là một tôn giáo có hệ thống triết học đồ sộ sâu

sắc, tuy nhiên khi vào Việt Nam, do yêu cầu trước mắt và đặc điểm tư duy

nặng về óc thực tiễn không ham nghiên cứu những vấn đề triết học cao siêu

của người Việt. Vì vậy tính triết học của Phật giáo đã bị giảm lược, thậm chí

đã bị loại bỏ trong một số tông phái. Do vậy tính triết học của Phật giáo Việt

Nam trước, trong và sau giai đoạn đó có tính mờ nhạt.

Tóm lại: Với những ưu và nhược điểm của mình trong thế kỷ X thì

Phật giáo phải tự trưởng thành để đảm nhận các sứ mạng mà lịch sử dân tộc

đòi hỏi nên đã có những giá trị và bước phát triển mới về chất so với giai đoạn

trước đó. Tuy nhiên, sau một nghìn năm nhìn lại chúng ta vừa nhận ra những

mặt mạnh, tích cực của mình để phát huy hơn nữa ảnh hưởng của Phật giáo

đối với đời sống tinh thần xã hội. Đồng thời, cũng phải tự nghiêm khắc nhận

thấy những hạn chế, khuyết điểm của Phật giáo giai đoạn đó để tự sửa mình.

85

Chỉ có như vậy thì Phật giáo mới luôn đồng hành cùng dân tộc, là suối nguồn

của nền văn hóa Việt, là thành tố quan trọng trong việc tạo nên sức mạnh nội

lực cho dân tộc Việt Nam vượt qua những thử thách cam go của lịch sử và

Phật giáo Việt Nam vững vàng trên con đường phát triển của lịch sử Phật giáo

thế giới.

86

KẾT LUẬN

Thế kỷ X bản lề quan trọng với sự thay thế của các triều Ngô – Đinh –

Tiền Lê có thể coi là một thời đại lịch sử quá độ từ ngoại thuộc đến độc lập tự

chủ. Những thập kỷ bản lề quan trọng đó đã bước đầu thực hiện được sự

nghiệp khôi phục độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng chính quyền quân

chủ và đặt nền móng cho nền văn hóa dân tộc có bản sắc độc đáo. Sự nghiệp

đó sẽ được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới trong những thập kỷ

tiếp sau trong đó có sự đóng góp to lớn của Phật giáo, đã có một vị trí quan

trọng trong sự nghiệp đó, đây là điều không thể phủ nhận.

Thời gian ba triều đại tuy tồn tại trong lịch sử rất ngắn, nhưng ta không

thể nào phủ định công lao to lớn mà ba triều đại này đã làm được cho dân tộc.

Đó là đặt những hòn đá tảng để xây dựng và khẳng định được nền độc lập tự

chủ cho dân tộc sau 1000 năm Bắc Thuộc, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân

tộc đó là thời kỳ độc lập – tự chủ và Phật giáo phát triển đóng vai trò là cốt lõi

trong tam giáo.

Phật giáo trong thời kỳ này cũng đã có những đóng góp vô cùng quan

trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước, khẳng định được ý chí độc lập,

tự cường, tinh thần và ý thức độc lập dân tộc. Lực lượng Phật giáo đã là bộ

phận tinh hoa đặt nền móng vững chắc cho những bước phát triển của các

triều đại Ngô – Đinh và Tiền Lê, cũng như những giai đoạn phát triển sau

này, đặc biệt là giai đoạn Lý – Trần. Cùng với đó thì Phật giáo cũng đã thực

sự xác định được chỗ đứng xứng đáng trong xã hội Việt Nam thế kỷ X, để các

thế kỷ sau Phật giáo đã trở thành một hệ tư tưởng cốt tủy cho sự phát triển về

mọi mặt của nước ta.

Qua các tư liệu của Phật giáo giai đoạn này cho thấy đặc điểm của Phật

giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là đồng hành cùng dân tộc, dung thông rộng

rãi và định hướng nhập thế dứt khoát thì tôi cũng nhận thấy Phật giáo trong

các triều đại này thực sự khẳng định được vị trí của mình trong cuộc đấu tranh

87

và bảo vệ đất nước, phát triển văn hóa dân tộc. Trong công trình của mình

bước đầu tôi mới chỉ nghiên cứu được một số đặc điểm của Phật giáo dựa trên

ba khía cạnh: tinh thần nhập thế của Phật giáo và tinh thần dung thông của

Phật giáo và một số giá trị đối với lịch sử Việt Nam. Do vậy công trình

nghiên cứu không tránh khỏi những sai sót, hạn chế nhất định. Tất cả những

vấn đề mà tôi nêu ra trên đây hy vọng sẽ được tiếp tục đi sâu tìm hiểu ở

những công trình tiếp theo. Có như vậy mới có cơ sở nhìn nhận đầy đủ hơn,

toàn diện hơn được những đóng góp, diện mạo đặc điểm lớn của Phật giáo

Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý bổ sung chỉ

giáo của các thầy cô và đồng nghiệp.

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Đào Duy Anh (1969), Đất nước Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1958), Lịch sử Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb TP. Hồ Chí

Minh.

4. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

5. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

6. Trần Lâm Biền (1989), “Bước đi của ngôi chùa Việt”, Tạp chí Kiến trúc số

2, tr29 – 35.

7. Lê Thanh Bình – Đỗ Thanh Hải (2012), Tôn giáo và quan hệ quốc tế,

Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

8. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb

Tôn giáo, Hà Nội.

9. Nguyễn Đổng Chi (1942), Việt Nam cổ văn học sử, Nxb Văn học, Hà

Nội.

10. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch tập 1,

Nxb Sử học, Hà Nội.

11. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng ( 1999), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

12. Minh Chi (2004), “Vài suy nghĩ về sự hội nhập của Phật giáo vào nền

văn hóa Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo số 4, tr25 – 36.

13. Nguyễn Trọng Chuẩn (2007), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập

1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

89

14. Nguyễn Hồng Dương – Thượng tọa Thích Thọ Lạc (2010), Phật giáo

thời Đinh – Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và

phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Đại Việt sử ký toàn thư tập 1 (1983), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Đại Việt sử ký toàn thư toàn tập (2010), Nxb Khoa học Xã hội , Hà Nội

19. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời đại, Nhà xuất bản

TP. Hồ Chí Minh.

20. Trần Văn Giàu (2008), Tổng tập, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam

từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

21. Trần Văn Giáp (2000), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ

XIII, (Tuệ Sỹ dịch), Nxb Sài Gòn, TP.Hồ Chí Minh.

22. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Hội

thảo khoa học quốc tế: Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu

kỷ nguyên độc lập.

23. Hoàng Xuân Hãn (2003), Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại giao và tông

pháp triều Lý, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

24. Trần Thị Hạnh (2012), Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo thời Lý,

giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

25. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo

và Nxb Từ điển Bách Khoa.

26. Nguyễn Duy Hinh (2004), Một số bài viết về Tôn giáo học, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

90

27. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Lý”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử

số 1.

28. Nguyễn Duy Hinh – Lê Đức Hạnh (2011), Phật giáo trong văn hóa Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa.

29. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

30. Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng ở Thăng Long

Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

31. Đỗ Quang Hưng (2011), Tham luận “Phật giáo và chính trị đầu kỷ

nguyên độc lập – tiếp cận từ luận điểm của M.Weber, Trường

ĐHKHXH&NV HN – ĐHQG Hà Nội.

32. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, NxbTổng hợp, TP.Hồ Chí

Minh.

33. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Lang (2011), Việt Nam Phật giáo sử luận tập I- II – III, Nxb

Văn học, Hà Nội.

35. Phan Huy Lê ( chủ biên) (2012), Lịch sử Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội.

36. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần. Diện mạo

và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Công Lý, (2010), Phật giáo thời Lý – Trần với bản sắc dân tộc

Đại Việt, (Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân Văn, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.

38. Thích Thanh Nghiêm (1995), Lịch sử Phật giáo Thế giới, Nxb Hà Nội.

39. Nguyễn Quang Ngọc (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

91

40. Nguyễn Danh Phiệt (2002), Lịch sử Việt Nam từ X- XV, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Gia Phú (1996), Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam,

Nxb Đại học Tổng hợp, TP.Hồ Chí Minh.

42. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012), Luận Văn Thạc sỹ, Vai trò của Phật

giáo trong đời sống chính trị Việt Nam thời Lý – Trần (1009-1400),

Khoa Triết Học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Toan (2002), “Phật giáo và chính trị”, Tạp chí nghiên cứu

Phật học.

44. Bồ Đề Tân Thanh (2012), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến năm

1981, Nxb Văn học, Hà Nội.

45. Nguyễn Tài Thư - chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Nguyễn Tài Thư (1984), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

48. Lê Mạnh Thát (2006), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Nxb Tổng

hợp TP. Hồ Chí Minh.

49. Lê Mạnh Thát (2006), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 2, Nxb Tổng

hợp TP. Hồ Chí Minh.

50. Hoàng Thị Thơ (2010), “Phật giáo với trách nhiệm dân tộc trong lịch

sử và hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Phật học số 2.

51. Đoàn Thăng (dịch), Thiền Uyển tập anh ngữ lục, Tư liệu Viện Văn học.

52. Phạm Hồng Tung (2008), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn

văn hóa chính trị, Nxb Văn học, Hà Nội.

53. Từ điển Phật Học Việt Nam, (2011), Nxb Thời đại, Hà Nội.

92

54. Từ điển Tôn giáo (2002), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

55. UBKHXH, Viện Triết học, Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng

Việt Nam, Hà Nội.

56. Viện Sử học (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

57. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần tập 1, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

58. Viện Thông tin khoa học, Bộ môn Khoa học về tín ngưỡng tôn giáo

(1997), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo ở Việt Nam, Hà

Nôi.

59. Hoàng Tân Xuyên (2012), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb chính

trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.

60. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn

giáo, Hà Nội.

61. Nguyễn Hữu Vui ( 2002 ), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị - Quốc gia,

Hà Nội.

93