TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐÀO THU HIỀN

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT

1

Hà Nội - 2008

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐÀO THU HIỀN

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

HÀ NỘI - 2008

2

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt.

Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn

đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 1 2 tháng 4 năm 2008.

Tác giả luận văn

3

Đào Thu Hiền

Mở đầu ........................................................................................................... 3

Chương 1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và vai trò của nó trong việc

xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ....... 8

1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên

Việt Nam hiện nay ................................................................................... 8

1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam

hiện nay ................................................................................................... 8

1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện

nay ......................................................................................................... 22

1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo

đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay............................ . 24

1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo đức truyền

thống của thanh niên sinh viên Việt Nam ......................................................... 24

1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo

đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ............................ 38

Chương 2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân (qua một số trường đại học ở Hà Nội) .......................... 42

2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong

việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà Nội hiện nay ... 42

2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo đức truyền

thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay ................... 42

2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua các phong

trào chính trị - xã hội - thực tiễn ............................................................. 51

2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên .............................................................. 55

2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được...................................... 55

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 57

Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .............................................................. 62

3.1. Phương hướng .......................................................................................... 62

4

MỤC LỤC

3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .......................................................................................... 62

3.1.2. Bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các

giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay .................... 67

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 74

3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã

hội .......................................................................................................... 74

3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên

sinh viên Việt Nam hiện nay .................................................................. 79

3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy các giá

trị đạo dức truyền thống dân tộc ............................................................. 81

3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay .......... 86

Kết luận ........................................................................................................... 89

Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 91

Phụ lục ............................................................................................................ 96

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của

cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu,

“ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế

tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng,

gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát

triển” [13, tr.73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện

kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị

động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp

xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân

tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Mỗi nước,

mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những thế mạnh của

mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát triển bền vững đất

nước.

Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng

nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí

lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ.

Thanh niên sinh viên là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối

với thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là lớp

người năng động, dễ tiếp thu cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu

ảnh hưởng lớn những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường,

của việc mở rộng giao lưu quốc tế. Song thực tế hiện nay, giới trẻ ít quan

tâm đến truyền thống dân tộc mà có xu hướng thích chạy theo lối sống hiện

6

đại kiểu phương Tây. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng những

biểu hiện đạo đức của lớp trẻ đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cần

phải giải quyết.

Vì thế, vấn đề đạo đức, lối sống của thanh niên sinh viên Việt Nam

hiện nay không chỉ riêng với ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành đều

hết sức quan tâm. Đại hội X của Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy

và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây

dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội

nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học

sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức

và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [13, tr.106]. Ở đây, những giá trị

truyền thống, đặc biệt là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc sẽ là nền

tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt

Nam.

Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Phát huy giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên

Việt Nam hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu

Mảng đề tài về vấn đề đạo đức truyền thống đã thu hút được sự quan

tâm của nhiều nhà khoa học. Một số công trình tiêu biểu của một số tác giả

như: Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến

đổi của giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí

Triết học, số 1. Nguyễn Thế Kiệt (1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế

thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí

Triết học số 6. Nguyễn Văn Phúc (1998), “Về một số giải pháp xây dựng

nhân cách đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4. Huỳnh Thái Vinh

(1998), “Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí

Thông tin những vấn đề lý luận, số 16. Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ

7

Phán (1999) “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân

cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ của

Bạch Quốc Trám (1999), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt

Nam trong sinh viên thời kinh tế thị trường”. Luận án tiến sĩ Triết học của

Nguyễn Văn Lý (2000), “Kế thừa và đổi mới các giá trị truyền thống trong

quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”. Huỳnh

Thái Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã

hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luận án tiến sĩ triết học của Trần

Minh Đoàn (2002), “Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư

tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Lê

Thị Hoài Thanh (2003), “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại

trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”. Nguyễn Thế

Kiệt (2006) “ Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền thống đến Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.

Như vậy, vấn đề về đạo đức truyền thống đã được nhiều người, nhất

là các nhà khoa học quan tâm . Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, các giá trị đạo

đức truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường đang biến đổi, diễn biến

phức tạp, sự tác động của nó đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thanh

niên sinh viên là vấn đề mới mẻ, cần phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nghiên

cứu sâu sắc hơn. Đề tài “ Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong

việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay” sẽ

góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ này.

3. Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích:

Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống

trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số

trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và

một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc

8

trong việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay.

* Nhiệm vụ:

- Phân tích tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh

niên sinh viên hiện nay.

- Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng

đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.

- Đánh giá thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống

dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số

trường đại học ở Hà Nội hiện nay

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy

những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho

thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng, phạm vi

Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy những giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên

Việt Nam hiện nay đang học tại một số trường cao đẳng và đại học ở Hà

Nội, tính trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo

đức, phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức

mới cho thanh niên sinh viên.

* Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp để thực hiện luận văn là tổng hợp các nguyên tắc

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng

hợp,...Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

9

- Góp phần luận chứng về mặt lý luận vấn đề phát huy giá trị đạo đức

truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt

Nam hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức học ở các trường cao

đẳng và đại học.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

10

luận văn có 3 chương với 6 tiết.

Chương 1

GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC

VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI

CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh

niên sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh

viên Việt Nam hiện nay

1.1.1.1. Khái niệm đạo đức:

Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội,

điều chỉnh hành vi của con người, là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch

sử của xã hội và góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Ph.

Ăngghen cho rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ

trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”

[38, tr.137]. Cùng với pháp luật, tôn giáo, phong tục, tập quán,... đạo đức là

một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Sự đánh giá hành vi của

con người theo khuôn phép, chuẩn mực và qui tắc đạo đức, biểu hiện thành

các khái niệm về: thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, vinh và nhục, hạnh

phúc và đau khổ,...Tuy nhiên, các khái niệm cùng các khuôn phép, chuẩn

mực hành vi của con người thường thay đổi theo từng thời đại, với từng giai

cấp, từng dân tộc.

Ngày nay, đạo đức có thể được xem xét từ nhiều phương diện khác

nhau. Có ba phương diện cần chú ý:

- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là toàn bộ

những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách

ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm

11

đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng.

Xét về mặt nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Chế độ kinh tế -

xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm

này thay đổi theo cơ sở đã sinh ra nó. Những thời đại khác nhau, những cộng

đồng khác nhau có những hệ thống đạo đức khác nhau, chúng phản ánh

những tồn tại xã hội khác nhau. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong kiến, dựa

trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức

xã hội nông nô; thích ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người

công nhân làm thuê là đạo đức tư sản; Chế độ XHCN tạo ra nền đạo đức

biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn

nhau của người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột.

- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài

người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ giữa lợi ích

cá nhân và lợi ích xã hội: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo

đức,... Những chuẩn mực (khuôn phép) và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả

xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của

mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với Tổ

quốc, Nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch...) và đối với người khác.

Những chuẩn mực và quy tắc nhất định được công luận của xã hội, hay của

một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Công luận xã hội hướng dẫn các cá nhân

hoạt động trong khuôn khổ được phép và tránh những hành vi không được

phép. Sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo

đức là sự tự do lựa chọn của con người.

- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.

Giá trị là đối tượng của giá trị học. Giá trị học phân loại các hiện

tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên một cách truyền thống

về các lĩnh vực của đời sống xã hội; các giá trị vật chất và tinh thần; các giá

12

trị sản xuất và tiêu dùng (các giá trị xã hội); các giá trị xã hội - chính trị,

nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo. Đạo đức là một hiện tượng xã hội

mang tính chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá rõ rệt.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , đạo đức được định nghĩa

như sau:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,

qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của

con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực

hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.

1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới:

Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức

cộng sản. Xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch sử

- tự nhiên, từ thấp đến cao. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên

cơ sở của cái tất yếu kinh tế. Phản ánh cái lôgic kinh tế - xã hội đó, đạo đức

cũng có lôgic tương ứng, đạo đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao

là đạo đức cộng sản chủ nghĩa.

Đấu tranh xoá bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, thủ tiêu

hoàn toàn sự áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

- đó là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản

phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp này trong cách mạng vô sản, nó

cũng là thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp công nhân sử dụng để xoá

bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu tiên và là lần cuối cùng

đạo đức của một giai cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm

địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó thực hiện bước phủ

định của phủ định, hình thành một vòng khâu phát triển làm nên bước tiến

bộ toàn diện của đạo đức. Lênin cho rằng: “Đạo đức, đó là những gì góp

phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những

người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của

13

những người cộng sản” [33]

So với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là một bước phát triển

về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các

nền đạo đức trong các thời đại trước. Vì thế, đạo đức mới bao hàm rất nhiều

yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại, là nền đạo đức sẽ được xây dựng lên

trong tương lai trên toàn thế giới cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng

sản.

Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử

xã hội. Nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột

khác. Nó cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ, xét về bản

chất. Sự khác biệt của đạo đức mới so với các kiểu đạo đức trước đây, trước

hết thể hiện ở tính cách mạng và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa

học ấy không chỉ biểu hiện ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà còn biểu hiện ở sự kế thừa có

phê phán và chọn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và

những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hơn nữa, sự khác biệt ấy còn được

biểu hiện ở những nguyên tắc đạo đức mới:

Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.

Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu

cầu lao động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Xét cho cùng,

mọi giá trị vật chất tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ hoạt động lao động

của con người. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt

động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt động độc

lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một

giá trị cao đẹp, được coi như một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát

triển thành chủ nghĩa tập thể.

Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những

14

lý tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh

thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho

các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội.

Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của

đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà

còn vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc

lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để

cho các cá nhân phát triển.

Dưới CNXH, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ phổ biến, thể hiện

trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống xã hội. Con

người không chỉ nghĩ vì mình mà còn vì người khác với một tinh thần trách

nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ

xã hội, vì thế nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất. Điều này được

thể hiện ở những tình cảm đạo đức thông thường trong quan hệ người với

người được nâng lên thành những tình cảm thiêng liêng, cao quí: đó là tình

bạn, tình đồng chí, đồng đội, tình hữu ái giai cấp, mỗi người vì mọi người,

mọi người vì mỗi người...

Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không thủ tiêu

lợi ích cá nhân. Chúng ta phải tạo ra được một môi trường mà như Mác nói:

Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Chủ

tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng

con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó thoả

mãn bằng chế độ XHCN” [42, tr.291]. Người nói: “Đấu tranh chống chủ

nghĩa cá nhân không phải là “giầy xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều

có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia

đình mình”. [42]. Chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài,

phức tạp, phải hết sức kiên quyết, thực hiện điều này không đơn giản chút

nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người dễ sa vào chủ

15

nghĩa cá nhân, ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ xâm

hại lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng này đều dẫn tới

kết quả là cản trở mục tiêu giải phóng con người thực sự.

Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới.

Lao động là hoạt động đặc trưng cơ bản đầu tiên của con người, để cải

biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con

người, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Trong cuộc sống, con người có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của

mình. Tuy nhiên, thái độ đối với lao động được coi là một trong những chuẩn

mực quan trọng nhất. Người có thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, chăm chỉ

cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, chăm lo thực hành

tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, yêu lao động của mình, biết coi trọng cả lao

động trí óc và lao động chân tay,...sẽ là người được xã hội kính trọng và tôn

vinh.

Theo Lênin, CNXH bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình

thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến

việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề căn bản nhất cho thắng lợi

của chế độ mới. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức,

vô trách nhiệm, kém hiệu quả và vụ lợi. Thái độ lao động tự giác, có kỷ luật,

sáng tạo thể hiện bản chất con người, lao động cho mình, cho xã hội mà mình

làm chủ.

Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.

Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước

mình. Lòng yêu nước không phải là đặc trưng riêng của một dân tộc nào.

Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước. Mọi người

đều yêu quê hương, đất nước mình. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý

nghĩa phổ biến.

Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý

16

xã hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối

một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ

nghĩa yêu nước. Nó bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu nước, nó vừa là

nguyên tắc đạo đức, vừa là nguyên tắc chính trị.

Theo Lênin, chủ nghĩa yêu nước “là một trong những tình cảm sâu sắc

nhất, đã được củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”

[32, tr.226]. Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành và khát

vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân khác hẳn về chất với

quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội dung của nó thể hiện ở những điểm cơ

bản sau:

- Yêu nước là yêu CNXH, yêu nhân dân lao động. Quan niệm yêu

nước của đạo đức mới là lòng tự hào dân tộc, tự hào về những gương anh

hùng bất khuất trong chiến đấu và trong lao động sản xuất,...Chủ nghĩa yêu

nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động,

gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,

phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, làm cho người lao động làm chủ đất

nước thực sự.

- Yêu nước trên lập trường quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa

quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai cấp công

nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới

khỏi mọi áp bức bóc lột. Thực tế, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc

tế quan hệ biện chứng với nhau. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ

nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới.

Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.

Chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những

quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện,

17

bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.

Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản khác xa về chất so với chủ nghĩa nhân

đạo tư sản, tư tưởng nhân đạo Kitô giáo, Phật giáo. Chủ nghĩa nhân đạo

cộng sản là sự kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng những tính

hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản

có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc

lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, thực hiện đầy đủ quyền làm

người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là

chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị nhất trong lịch sử. Trên nghĩa đó, chủ nghĩa

nhân đạo cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo

1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên

đức, của luân lý là lòng nhân ái”.

s Sinh viên và đặc điểm của thanh niên sinh viên:

“Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các

trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên

được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở Pháp, thuật ngữ “sinh viên” không chỉ dùng

để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà còn

dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và trường dạy

nghề.

Nói đến thanh niên sinh viên là nói đến đội ngũ trí thức trong tương

lai, là lực lượng trẻ, có sức khoẻ dồi dào, có trình độ văn hoá, nhạy cảm với

cái mới, năng động, sáng tạo, ham học hỏi, ưa tìm tòi, khám phá, giàu ước

mơ, thích giao tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội,...Với những đặc

điểm tâm sinh lý ấy, thanh niên sinh viên trở thành nhóm xã hội hết sức đặc

biệt. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước, là tầng lớp xã hội được

gia đình, nhà trường, xã hội hết sức quan tâm. Trong cuộc sống xã hội, sinh

viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người con, là người anh, người chị,

người em, người bạn,...Tuy vậy, về vị trí thực trong xã hội chưa được xác

18

định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định. Hoạt động chính của họ là học

tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, tham gia vào các hoạt

động xã hội.

Thanh niên sinh viên là tầng lớp trẻ tuổi. Phần lớn thanh niên sinh

viên chưa được rèn luyện trong sản xuất và chiến đấu. Những hiểu biết của

họ về quốc gia, dân tộc, về giai cấp, về truyền thống,....chỉ qua sách vở nên

rất hạn chế, thậm chí rất ít biết. Khi tập trung về trường đại học ở các thành

phố - nơi có đủ mọi tầng lớp xã hội, mọi kiểu quan hệ xã hội, diễn ra mọi

hiện tượng sinh hoạt vật chất và tinh thần,...thanh niên sinh viên, đặc biệt là

thanh niên sinh viên xuất phát từ nông thôn có sự xáo trộn, thay đổi lớn. Họ

phải tự làm chủ bản thân để hoà nhập vào môi trường mới, làm chủ nguồn

kinh tế thường là eo hẹp của mình để đảm bảo cuộc sống, làm chủ các mối

quan hệ giao tiếp, làm chủ về sinh hoạt hàng ngày. Bấy nhiêu đặc điểm và

nhân tố làm cho nhân cách, lối sống thanh niên sinh viên chưa ổn định, có

nhiều dao động.

Sinh viên Việt Nam trong những năm gần đây không ngừng tăng lên

cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội. Nếu như

năm 1997-1998 cả nước có 126 trường cao đẳng và đại học (không kể các

trường thuộc khối an ninh, quốc phòng) thì đến năm học 2002-2003 số

lượng các trường đại học đã lên tới 202 trường. Năm học 1997-1998, cả

nước có 671.120 sinh viên, đến năm học 2002-2003 đã lên tới 1.020.667

sinh viên. Sinh viên nước ta hiện nay chiếm 0,96% dân số và chiếm 4% lực

lượng thanh niên, đạt 188 sinh viên trên một vạn dân. Số sinh viên trong các

trường ngoài công lập ngày càng tăng (chiếm 11%) [57, tr.10].

Trong sự phát triển đất nước, sinh viên giữ một vị trí quan trọng. Sau

khi rời ghế nhà trường, họ có thể giữ những vai trò, những trọng trách ở

nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Họ có thể sẽ là những nhà chính trị,

19

nhà ngoại giao, nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, nghệ sỹ, hay nhà doanh

nghiệp,... Lúc đó, họ có một vị trí đích thực và đóng một vai trò quan trọng

trong sự phát triển xã hội.

Thật vậy, sinh viên là nguồn dự trữ, là tài sản quý báu của quốc gia.

Ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, đội ngũ sinh viên đã từng gắn bó và

có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc.

Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ sinh

viên Việt Nam càng nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trước nhân dân,

trước dân tộc.

Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng bí thư Đỗ

Mười đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có

thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng

trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay

quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng”.

Theo các kết quả điều tra xã hội học gần đây của Viện Nghiên cứu

Thanh niên, Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội – Ban Tư tưởng Văn hoá

Trung ương cho thấy, nhận thức về các vấn đề xã hội của thanh niên, sinh

viên hiện nay ngày càng được mở rộng, phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn

[57, tr.23-24]. Họ không chỉ chú ý đến việc nâng cao trình độ khoa học –

công nghệ mà còn có ý thức nâng cao sự hiểu biết của mình về lịch sử,

truyền thống văn hoá dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và kiến thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân trong quá trình

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu

điểm, đội ngũ sinh viên cũng có những hạn chế như: tính bồng bột, dễ phiêu

lưu, liều lĩnh, dễ vô kỷ luật, vô chính phủ, thích cái lạ nhưng lại thiếu kinh

nghiệm, khi gặp thất bại lại dễ hoang mang, nản chí và trượt dài. Do vậy, để

hiểu rõ đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi sinh viên là một vấn đề hết sức quan

trọng, để có phương pháp giáo dục, vận động sinh viên một cách khoa học,

20

thiết thực, phù hợp.

Chỉ có trên cơ sở hiểu và đánh giá đúng những đặc điểm của thanh

niên sinh viên với những biểu hiện hết sức phức tạp dưới tác động của kinh

tế thị trường đến đặc điểm của họ, chúng ta mới có những quan điểm phù

hợp trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên, từ đó góp

phần làm cho sự nghiệp “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” của

Đảng thành công tốt đẹp.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh

đã thấy rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí và tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ

trong sự nghiệp phát triển của cách mạng, của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh

cho rằng: muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên, bởi vì

tương lai, tiền đồ của dân tộc, sự thắng lợi của cách mạng hoàn toàn tuỳ

thuộc vào việc hiểu thanh niên, tin thanh niên, chăm lo giáo dục, dìu dắt và

dám trao cho họ những trách nhiệm xứng đáng. “Thanh niên là người chủ

tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh,

một phần lớn là do các thanh niên” [41, tr.134]. Người luôn đánh giá cao vai

trò quan trọng, tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ. Người khẳng định thế hệ trẻ

là “bộ phận quan trọng”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất” và “hy vọng nhất” của

dân tộc. Đồng thời, Người thường theo dõi nhắc nhở thế hệ trẻ đấu tranh

khắc phục những nhược điểm của họ như: thiêú thực tế, chủ quan, chuộng

hình thức,...

Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yêu cầu của công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đã đặt thế hệ trẻ vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này

đã được Đảng ta nhấn mạnh: “Thanh niên phải là lực lượng xung kích trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công

hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng

đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con

đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào

21

việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề

sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại

của cách mạng. Vì vậy, vấn đề thanh niên và công tác thanh niên phải đặt ở

vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố con người” [6, tr.2].

Thực tế của công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải có những chủ

trương, biện pháp tốt để phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên sinh viên,

đồng thời hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng đạo đức

của họ. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta.

Tầm quan trọng của đạo đức mới ở thanh niên sinh viên Việt Nam

hiện nay:

Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã được đặt

ra từ lâu, tuy nhiên, hiện nay nó mang tính thời sự cấp bách hơn cả. Trong

công cuộc đổi mới đất nước, đạo đức mới có tầm quan trọng đặc biệt, thể

hiện là:

- Đạo đức mới góp phần định hướng vững chắc mục tiêu CNXH. Mục

tiêu định hướng XHCN của cách mạng nước ta đồng nhất với mục tiêu của

chủ nghĩa nhân đạo là làm cho mọi người đều có “cơm ăn, áo mặc, ai cũng

được học hành”, xã hội công bằng, văn minh như Bác Hồ đã dạy.

- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngay từ trong bản chất

của nó đã chứa đựng yếu tố luân lý, đạo đức.

- Các tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm giá trị biểu hiện hình thái ý

thức cấu thành tiền đề nhân văn trong hoạt động của chủ thể kinh tế.

- Đạo đức mới góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị

trường định hướng XHCN.

Như vậy, đạo đức XHCN là cơ sở để xây dựng nền văn minh vật chất

và văn minh tinh thần. Thấy rõ sức mạnh to lớn mà đạo đức mới đem lại đối

với công cuộc xây dựng CNXH và cho người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã rất coi trọng vấn đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mới, đặc biệt là

22

cho thế hệ trẻ. Tại Đại hội sinh viên lần thứ 2, Người nói: “Thanh niên phải

có “đức”, có “tài”, có “tài” mà không có “đức” ví như một anh làm kinh tế

tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt kém thì chẳng những không làm được

gì ích lợi cho xã hội mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có “đức” mà không có

“tài” ví như ông Bụt không làm hại ai nhưng cũng không lợi gì cho loài

người...” [42, tr.172]. Ngày nay, việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên

sinh viên càng trở nên quan trọng và cấp bách, bởi vì:

Thứ nhất, thời đại mới với xu thế hội nhập toàn cầu hoá đang đặt thế

hệ thanh niên sinh viên trước những thách thức mới. Trong thời đại hiện

nay, thanh niên sinh viên có nhiều điều kiện, cơ hội vô cùng quý giá để phát

triển, những điều kiện mà trước đây các thế hệ cha anh không thể có. Đó là

thành quả to lớn của cách mạng, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối

với họ, là môi trường thuận lợi cho việc tích luỹ và nâng cao trình độ tri thức

do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem lại.

Tuy nhiên, hiện nay cũng là lúc thế giới đang có nhiều biến động phức tạp

về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ,...Hàng loạt vấn đề to lớn

đặt ra trước mắt: làm thế nào để thanh niên sinh viên có thể đủ sức đáp ứng

các yêu cầu nặng nề nhưng vẻ vang mà đất nước đặt lên vai họ? Làm thế nào

để họ có thể tự định hướng đúng đắn trong nền kinh tế thị trường? Làm thế

nào để họ nhận thức rõ vai trò của mình trong việc góp phần phát triển đất

nước?...Chắc chắn, sự nghiệp giáo dục và rèn luyện thanh niên sinh viên về

các mặt: chính trị, tư tưởng, đạo đức,... là hết sức quan trọng. Vì vậy, xây

dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên là một việc vô cùng cần thiết, từ

đó giúp họ có niềm tin vào CNXH, vào lý tưởng cách mạng, vào sự định

hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đồng thời có quan điểm và hành

động đúng trong việc hiện thực hoá lý tưởng.

Thứ hai, trong tình hình thế giới hiện nay, các thế lực thù địch vẫn có

âm mưu thôn tính và phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Với chiến

23

lược “diễn biến hoà bình”, kẻ thù tấn công chúng ta chủ yếu trên các lĩnh

vực văn hoá để làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp của Đảng,

làm băng hoại đạo đức, lối sống của nhân dân. Đối tượng trực tiếp của

chúng là lớp trẻ, trong đó có thanh niên sinh viên - những chủ nhân tương lai

của đất nước. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sinh viên, lợi dụng

những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hiện đại (mạng Internet, sách báo

nhiều loại, phim ảnh, băng đĩa,...), kẻ thù dùng mọi thủ đoạn hòng lôi kéo

sinh viên xa rời cội nguồn, sống quay lưng lại với chế độ, với nhân dân, với

dân tộc, “nguội lạnh” tinh thần cách mạng. Từ đó, họ rất dễ dàng trở thành

những con người “hư vô” về truyền thống, “mất gốc”, lai căng, thực dụng,

đề cao chủ nghĩa cá nhân,...Với những thủ đoạn tinh vi, kẻ thù cho rằng có

thể thủ tiêu được chế độ XHCN của chúng ta một cách nhanh chóng mà

không cần tới súng đạn. Tình hình ấy càng cho chúng ta thâý tính cấp thiết

của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, thực tế có một bộ phận không nhỏ những thanh niên sinh viên

chưa ý thức được vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp cách mạng của toàn

Đảng, toàn dân, có thái độ trông chờ, ỷ lại, đòi hỏi sự ưu ái của người khác

và của xã hội mà không nỗ lực phấn đấu bản thân. Không ít thanh niên thờ ơ

với đời sống chính trị, ngại tham gia các hoạt động đoàn thể xã hội. Mặt

khác, những hiện tượng tiêu cực trong thanh niên cũng ngày càng có xu

hướng gia tăng một cách đáng lo ngại, thể hiện lối sống ăn chơi, đua đòi,

buông thả, chỉ thích hưởng thụ,... dẫn đến vi phạm pháp luật và các chuẩn

mực xã hội. Một số nơi đã xảy ra hiện tượng sinh viên giết người, cướp của,

tự tử, nghiện hút... Trên địa bàn Hà Nội năm 2003 có khoảng gần 1000 sinh

viên nghiện ma tuý. Con số ấy cho đến nay còn tăng thêm. Vì vậy, việc xây

dựng đạo đức mới, lối sống mới cho thanh niên sinh viên là hết sức cấp

24

bách.

1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt

Nam hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Muốn xây dựng CNXH, trước hết

phải có con người XHCN”. Ngay từ những năm 1925-1927, trong cuốn

“Đường cách mệnh”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên phẩm chất đạo đức

cách mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong phác thảo năm

điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc, ở điểm thứ hai, Người hết sức quan

tâm đến vấn đề xây dựng các quan hệ đạo đức mới khác hẳn với các quan hệ

đạo đức cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng phải “xây dựng luận lý: biết hi

sinh mình làm lợi cho quần chúng” [40, tr.431]. Trong tiến trình lãnh đạo

cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và đổi

mới toàn bộ các quan niệm đạo đức của Nho giáo về các quan hệ: giới tính,

dân tộc, thế hệ, giai cấp và xác lập lại các phạm trù: nhân, nghĩa, trí, dũng,

liêm cho phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới của nhân dân ta. Người

viết: “a) Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào.

Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng,

đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh

phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không

sợ oai quyền. b) Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy,

không có việc gì giấu Đảng...c) Trí...d) Dũng...e) Liêm... Đó là đạo đức cách

mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo

đức vĩ đại” [41, tr.479]

Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của cuộc chạy đua “ai

thắng ai” trên bình diện “chất xám”. Tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc

một phần lớn vào thế hệ trẻ, vào tầng lớp thanh niên sinh viên. Để đáp ứng

nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội

25

của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh và

hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải

tăng cường đổi mới công tác giáo dục và tạo mọi điều kiện để thanh niên

sinh viên phát huy hết tài năng sẵn có của họ. Trong đó, công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, đạo đức mới, thế giới quan mới, nhân sinh quan tích cực

cho sinh viên Việt Nam cũng đòi hỏi phải gắn liền với yêu cầu mới của thực

tiễn khách quan.

Xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

phải gắn với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, định hướng

cho họ sự lựa chọn những giá trị đúng đắn, khắc phục những nhận thức mơ

hồ, lệch lạc trong tư tưởng, đạo đức và lối sống. Trên cơ sở những nguyên

tắc chung của đạo đức mới, việc xây dựng đạo đức mới đặt ra yêu cầu về

những phẩm chất cụ thể cần có ở người sinh viên hiện nay là:

Một là: có tinh thần yêu nước sâu sắc, trung thành tận tuỵ với nhân

dân, với Đảng cộng sản Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và

CNXH, phấn đấu chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước.

Hai là: tinh thần hiếu học, thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình độ

văn hoá, chuyên môn, trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm, đường

lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Ba là: biết sống có lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn lao.

Bốn là: học tập theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

những phẩm chất quan trọng của một nhân cách cách mạng “cần, kiệm,

liêm, chính, chí công vô tư”, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng lãng

phí, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, trung thực, gắn bó mật thiết với nhân dân

và được nhân dân tín nhiệm.

Năm là: phải có lòng nhân ái, thương người, tinh thần đoàn kết tập

thể, ý thức cộng đồng dân tộc cao, lạc quan, yêu đời; biết xây dựng tình bạn,

26

tình yêu lành mạnh, chân chính.

Sáu là: đức tính chăm chỉ, cần cù, tinh thần tự lực vượt khó trước mọi

thử thách trong cuộc sống.

Bảy là: năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tinh thần sẵn sàng là

lực lượng tiên phong trong mọi lĩnh vực hoạt động, xứng đáng là cánh tay

phải đắc lực của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trên đây là những định hướng đúng đắn giúp cho thanh niên sinh viên

Việt Nam hình thành một lối sống đạo đức tích cực, đủ đức, đủ tài gánh vác

những trọng trách mà Tổ quốc giao cho trong tương lai.

1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc

xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam

1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo

đức truyền thống của thanh niên sinh viên Việt Nam

1.2.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức

Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và tự vượt lên mình

giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người, trong xã hội

xuất hiện khái niệm giá trị. Giá trị không phải là một thực thể tự thân. Nó là

kết quả của các mối quan hệ người chằng chịt, đa dạng, nhiều hướng: chủ

thể - khách thể, cá nhân - cộng đồng, bên trong - bên ngoài, đơn trị - đa trị,

hiện tại - tương lai,...

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giá trị là những thành tựu

của con người trong sự phát triển của lịch sử - xã hội, phục vụ cho lợi ích và

hạnh phúc của con người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ

thể và đối tượng nghĩa là từ thực tiễn đến chiến đấu của con người xã hội.

Giá trị vì thế được xác định bởi sự đúng đắn của con người, xuất phát từ

thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn.

Trong lịch sử nghiên cứu lý luận có rất nhiều khái niệm giá trị được

đưa ra, song trên cơ sở quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể hiểu giá

27

trị ở mấy điểm khái quát như sau:

- Giá trị là tất cả những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái đúng,

cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một

vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào

sự phát triển xã hội.

- Giá trị không phải một cái gì nhất thành bất biến. Nó cũng luôn vận

động, biến đổi theo không gian, thời gian cho phù hợp trong từng thời điểm

nhất định. Vì vậy, thực tế không phải những gì đã có giá trị trong quá khứ

đều giữ nguyên được giá trị ấy mãi mãi trong tương lai. Điều đó cho thấy,

giá trị mang tính lịch sử khách quan. Sự ra đời, tồn tại hay mất đi của một

giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người mà do

yêu cầu của từng thời đại nhất định.

- Giá trị đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá trị

giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống. Giá trị giúp

con người định hướng và xác định cho hành động của mình, là động cơ thúc

đẩy hoạt động của con người.

Thực tế có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào mỗi tiêu chí sẽ có

cách phân loại khác nhau. Cơ bản, người ta dựa vào tiêu chí mục đích phục

vụ nhu cầu của con người mà chia làm hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh

thần

Những gì đáp ứng cuộc sống sinh thể và thực tại, bảo đảm nhu cầu

vật chất cho cuộc sống, tạo nên các giá trị vật chất. Tất nhiên, trong nghĩa

rộng, giá trị vật chất trong nhiều trường hợp cũng tồn tại cả bên ngoài quan

hệ sinh tồn và thực tại của con người. Nhưng cái khác biệt ở con người so

với muôn loài là không chỉ biết sống, không chỉ sống cho hiện tại mà còn

sống đẹp, sống cho ngày mai, sống vượt lên trên nhu cầu vật chất - đó là

cuộc sống tinh thần hết sức thiêng liêng. Những gì thoả mãn cho cuộc sống

tinh thần đó, thoả mãn những mong muốn, hi vọng về tương lai,... thì hình

28

thành nên các giá trị tinh thần.

Giá trị vật chất thể hiện rõ nét nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó

trực tiếp với tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại xã hội loài người. Vì vậy,

chúng liên quan chặt chẽ với các lĩnh vực chính trị, pháp quyền, các thiết

chế xã hội,...

Giá trị tinh thần “vượt thoát” hiện thực, nhưng không phải là xa rời

hiện thực, mà là nhằm vươn tới một xã hội nhân văn, xã hội mà loài người

chân chính hằng vươn tới. Kant đã từng nói: “Không phải là một thế giới

hiện có, mà là một thế giới cần phải có, thế giới của các giá trị”.

Như vậy, từ khía cạnh nhân văn, có thể nói, giá trị tinh thần cao hơn

giá trị vật chất. Vì chúng là những biểu hiện tích cực mà con người thuộc

các thời đại luôn luôn tìm tòi, sáng tạo vì một cuộc sống mới ngày càng tốt

đẹp hơn. Giá trị tinh thần thực chất là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ (trí

thông minh, óc sáng tạo, năng lực về tư duy,...); về tình cảm (tình yêu

thương, lòng căm thù, nỗi buồn vui, năng lực cảm thụ,...); về ý chí (đức tính

cần cù, lòng can đảm, đức hi sinh, lòng quyết tâm,...); v.v. Những phẩm chất

ấy ăn sâu vào đời sống tâm linh, thể hiện thành phong tục, tập quán, lối

sống. Và khi chúng trở thành ý thức, tư tưởng và hệ tư tưởng thì sự biểu hiện

các sắc thái riêng của các giá trị càng sắc nét và đậm đà. Chúng trở thành

những chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu,

cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con

người, con người với xã hội.

Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống

xã hội và được con người lựa chọn, đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích

cực nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con

người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi

truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo

29

sự biến đổi của đời sống xã hội.

1.2.1.2. Truyền thống và giá trị đạo đức truyền thống

Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, thói quen trong

tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình

thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác. Bởi vậy, truyền thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản:

Tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Tuy nhiên, những đặc trưng

đó cũng chỉ mang tính tương đối, vì bản thân truyền thống cũng có quá trình

hình thành, phát triển và biến đổi. Việc nhận thức và đánh giá truyền thống

phải luôn luôn đứng trên quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử và biện

chứng.

Tính cộng đồng của truyền thống thể hiện ở chỗ: truyền thống bao giờ

cũng là truyền thống của một cộng đồng nhất định nào đó, chứ không là của

cá nhân riêng lẻ. Ở nước ta, tính cộng đồng biểu thị tập trung ở ba kết cấu xã

hội chủ yếu là nhà, làng, nước.

Tính ổn định tương đối của truyền thống biểu hiện ở chỗ: Khi nói đến

truyền thống là ta nói đến một cái gì đó lâu dài, ít thay đổi. Tuy nhiên, chính

bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát triển theo thời gian,

trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Khi những điều kiện đó thay

đổi thì truyền thống cũng có những mặt phải thay đổi cho phù hợp, có mặt

kế thừa, có mặt bị đào thải và có thể có truyền thống mới được hình thành.

Tính lưu truyền của truyền thống là đặc điểm nổi bật. Truyền thống

bắt nguồn từ lịch sử, nhưng không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là

truyền thống, mà chỉ những gì được sao phỏng, được lưu truyền từ đời này

qua đời khác mới được gọi là truyền thống.

Giá trị truyền thống:

Nói đến giá trị truyền thống là nói đến mặt tích cực của truyền thống,

bao gồm những yếu tố ưu việt, tiến bộ, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển

30

của xã hội, góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc. Giá trị truyền thống là sự phản

ánh điều kiện tồn tại của dân tộc trong ý thức của con người trải qua lịch sử

dựng nước và giữ nước. Nó không chỉ là kết quả của mối quan hệ giữa con

người với tự nhiên và con người với con người trong quá trình cải tạo giới tự

nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản thân mà nó còn là động lực của những quá

trình đó. Giá trị truyền thống là những gì đặc trưng cho bản sắc dân tộc mà

chúng ta cần duy trì, phát triển. “Giá trị truyền thống dân tộc được cô đúc

lên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc...Cho

nên, có thể nói, giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng

nhất cốt lõi văn hoá dân tộc” [17, tr.8].

1.2.1.3. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam

Trong hệ giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc Việt Nam, nổi bật nhất

là đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống là những quan điểm, quan

niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử, thói quen, tập quán... đạo đức

đã có từ lâu đời và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Giá trị truyền thống của dân tộc ta là do chính cộng đồng người Việt

tạo dựng nên, phát triển và bồi đắp thêm mãi cho đến ngày nay. Cho dù Phật

giáo, Nho giáo, Đạo giáo có ảnh hưởng đến đạo đức truyền thống Việt Nam

nhưng yếu tố quyết định đến nội dung và bản sắc của đạo đức truyền thống

ấy chính là cuộc đấu tranh chống thiên tai khắc nghiệt, chống kẻ thù xâm

lược, đấu tranh sinh tồn hàng ngàn năm của dân tộc ta.

Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam là nói đến

những phẩm chất tốt đẹp đã được định hình trong đời sống của con người và

xã hội Việt Nam. Việc nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc

được nhiều nhà khoa học rất quan tâm.

GS. Trần Văn Giàu cho rằng: giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc

Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,

31

thương người, vì nghĩa.

GS. Vũ Khiêu đưa ra quan điểm: truyền thống đạo đức của dân tộc ta

bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo,

tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu

nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [18,

tr.74].

Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập nhiều trong

những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số văn kiện của Đảng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII

về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc có khẳng định: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,

những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp lên qua

lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu

nước nồng nàn, ý chí tự cường của dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí cộng

đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan

dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự

tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...” [10, tr.56].

Như vậy, nghiên cứu thang giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam,

chúng ta thấy cần nhấn mạnh những giá trị cơ bản sau:

- Chủ nghĩa yêu nước là hằng số trong mỗi người dân Việt Nam. Chủ

tịch Hồ Chí Minh có nói: “ Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại

sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi

hiểm nguy, mọi khó khăn”. Chủ nghĩa yêu nước của người Việt thể hiện ở

lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường, dám hy sinh vì Tổ quốc, lòng

yêu hoà bình, yêu tự do khi bờ cõi bị xâm lăng - Đó đồng thời cũng là chủ

nghĩa anh hùng.

Trong các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản, tinh thần yêu nước nổi

bật lên như là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị”, là “động

32

lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất

trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta” [18, tr.74]. Chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam không chỉ là một giá trị mà nó còn là cội nguồn, là cơ sở của

các giá trị khác, nhất là các giá trị văn hoá.

Yêu nước là giá trị hàng đầu của con người Việt Nam. Nó là thước đo

giá trị nhân phẩm của con người, chi phối mỗi người trong suy nghĩ và hành

động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn

yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi

Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng

vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn

chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [43, tr.171]. Lịch sử Việt Nam là

lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu nước đối với nhân dân ta trước

hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá để

tạo sức mạnh bên trong đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển dân tộc. Chủ

nghĩa yêu nước trở thành đạo lý và lẽ sống của mỗi con người Việt Nam. Nó

gắn với bó chặt chẽ với lòng yêu thương và quý trọng con người, nhất là

người lao động.

- Lòng thương yêu con người là tình cảm sâu sắc “máu chảy ruột

mềm”, thương nhau giữa những người sống trong một gia đình, trong làng

xóm, trong một nước. Người Việt luôn coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa.

Tình nghĩa ở đây là thái độ thuỷ chung trong tình yêu, tình bạn. Vì vậy mà

trong lịch sử dân tộc, những tấm gương vì nghĩa luôn được ngợi ca, còn

những hiện tượng “vô nhân đạo”, “vô tình bạc nghĩa” thì bị dư luận xã hội

lên án phản đối.

Tinh thần nhân ái, nhân văn cao cả cũng là nét nổi bật trong giá trị

truyền thống người Việt. Nó khác với quan niệm “từ”, “bi” của Phật giáo Ấn

Độ hướng con người đi tu để mong giải thoát khỏi “bể khổ” nơi trần thế. Nó

cũng khác với quan niệm “nhân”, “nghĩa” trong Nho giáo Trung Quốc có sự

33

phân biệt đẳng cấp trong xã hội. Cùng với tinh thần nhân ái, dân tộc ta còn

có lòng khoan dung, cởi mở. Trong lịch sử dân tộc, lòng khoan dung được

thể hiện ngay cả đối với quân thù, khi chúng bại trận đầu hàng thì ta vẫn cấp

ngựa, cấp thuyền, cấp lương thực cho chúng rút quân về nước.

Nói về lòng thương người trong truyền thống rất đáng tự hào, Đảng ta

đã khẳng định: “Người Việt Nam vẫn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh

thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. “Thương nước,

thương nhà, thương người, thương mình” là truyền thống đậm đà của nhân

dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà suốt quá trình 4000 năm

dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng dưới

ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân

chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ

hơn bao giờ hết” [10, tr.94]

- Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tương trợ lẫn nhau là một giá

trị cũng đã được thể hiện trong suốt lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc

Việt Nam. Người Việt có truyền thuyết về “cái bọc trăm trứng” của Âu Cơ

và Lạc Long Quân để nhắc nhở nhau luôn cùng nguồn cội, đều là con Lạc

cháu Hồng nên phải biết đoàn kết, giúp đỡ nhau.

“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước thì thương nhau cùng” (ca dao)

Tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh lớn lao giúp nhân dân ta vượt

quan mọi thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù

xâm lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng

đồng bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu

nước, là động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

Tinh thần đoàn kết cộng đồng là nét quan trọng trong ý thức, tâm hồn và là

điểm tựa của người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày, trong chiến tranh

34

và trong cả hoà bình.

- Con người Việt Nam còn có đức tính chăm chỉ, cần cù, chịu thương

chịu khó và lối sống hết sức giản dị, tiết kiệm. Đặc điểm này hình thành do

điều kiện sản xuất và đấu tranh xã hội trong lịch sử dân tộc. Nếu “cần” mà

không “kiệm” thì cuộc sống trở nên bấp bênh, “ăn xổi, ở thì”. Nếu “kiệm”

mà không “cần” thì không có cái gì để “kiệm”. Do đó, chăm chỉ cần cù phải

gắn liền với tiết kiệm, phải khéo lo toan vun vén, tránh những lãng phí

không cần thiết. Với truyền thống ấy, ông cha ta đã phát huy hết sức mạnh

của mình trong những cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại và đạt được nhiều

thành quả to lớn để lại cho chúng ta ngày nay.

Ngoài những giá trị chủ yếu trên, trong hệ thống giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc còn có những đức tính phổ biến như: lòng dũng cảm, tính

khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan,....Người Việt khiêm tốn nhưng

không hạ thấp mình; giản dị nhưng không ưa cầu kỳ, phô trương thái quá;

trung thực nên ghét sự giả dối, thay lòng đổi dạ; luôn lạc quan, yêu đời, có

niềm tin trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta đã đứng vững trước mọi thử thách

để gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.

Các giá trị đạo đức truyền thống đã thấm sâu vào đời sống tinh thần,

làm nên bản sắc riêng, làm nên sức mạnh dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ của

chúng ta ngày nay là phải biết gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức mà

ông cha ta đã tạo nên trong lịch sử.

1.2.1.4. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc

ở đạo đức truyền thống của thanh niên sinh viên Việt Nam

Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính

yêu, các thế hệ thanh niên sinh viên, các tổ chức Hội sinh viên nước ta đã kế

thừa truyền thống hào hùng của dân tộc, đấu tranh vô cùng oanh liệt qua

nhiều phong trào rộng lớn vì sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến

35

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đầy gian khổ, hy sinh, thanh niên sinh

viên Việt Nam luôn hăng hái với nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào tình

nguyện được dấy lên mạnh mẽ, thể hiện được sức trẻ của dân tộc.

Qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, được sự quan tâm giáo dục,

bồi dưỡng của Đảng, của Bác Hồ, của nhà nước và xã hội, biết bao tấm

gương học tập, nghiên cứu, sáng tạo và chiến đấu, hy sinh ngời sáng vì lý

tưởng độc lập dân tộc và CNXH đã được lưu danh.

Những truyền thống đạo đức tốt đẹp của thanh niên sinh viên Việt

Nam luôn luôn được gìn giữ, phát huy qua các thời kỳ cách mạng.

Trước hết, đó là tinh thần yêu nước mãnh liệt, sâu sắc của thanh niên

sinh viên.

Dưới ách đô hộ nhiều năm của thực dân Pháp, sinh viên và giới trí

thức trẻ Việt Nam luôn khát khao độc lập, tự do cho dân tộc, căm thù bọn

thực dân đế quốc xâm lược và sôi sục một ý chí cứu nước. Trong số đó, nhà

yêu nước trẻ tuổi Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc đã có công lao vĩ

đại trong việc thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tạo nên một sự kiện

lịch sử trọng đại đối với toàn bộ quá trình phát triển cách mạng nước ta.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị điều kiện cơ bản, quyết định

cho những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt trong quá trình phát

triển của dân tộc ta. Từ những kinh nghiệm và hiểu biết ở tuổi thanh niên

của chính bản thân mình, Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt cả một thế hệ thanh

niên yêu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, mà hăng hái đi đầu là học sinh,

sinh viên đầy nhiệt huyết đến được với chân lý cách mạng của thời đại.

Các thế hệ thanh niên sinh viên về sau luôn tự hào về lớp thanh niên

yêu nước đã sớm đi theo con đường của Nguyễn Ái Quốc, trực tiếp tham gia

xây dựng Đảng, Đoàn thanh niên như: Trần Phú (Tổng Bí thư đầu tiên của

Đảng khi mới 25 tuổi), Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức cảnh, Trịnh Đình Cửu,

Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng,...Họ đã trở thành

36

những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân. Đoàn thanh

niên và Hội sinh viên đã trở thành cánh tay phải đắc lực của Đảng cộng sản

Việt Nam với những phong trào hành động, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng

cách mạng. Khẩu lệnh của thanh niên Tiền phong lúc này là: “Thanh niên:

tiến!” theo đúng tinh thần của bài hành khúc nổi tiếng “Tiếng gọi sinh viên”

của Lưu Hữu Phước:

“ Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!

Sinh viên ơi, ta nguyện đem hết lòng

Tiến lên, đồng tiến, vẻ vang đời sống!

Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!”.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-

1954), ngay từ những ngày đầu, tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên đã

tích cực tham gia vào các tổ chức chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tiến hành

cuộc chiến tranh du kích. Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng của tuổi trẻ đã

thôi thúc tinh thần giết giặc cứu nước của nhân dân cả nước như: Lê Văn

Tám (Sài Gòn). Đồng loạt các thanh niên, sinh viên xin gia nhập các đoàn

quân “Nam tiến”, đánh đuổi giặc Pháp.

Ngày 19/12/1946, đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, đội cảm tử quân Hà Nội ra đời. Tiêu biểu cho những tấm

gương chiến đấu bất khuất đó là học sinh Vũ Chí Thành đã hy sinh ngay

trong đêm đầu của cuộc kháng chiến. Ngoài ra, phong trào của thanh niên

sinh viên còn diễn ra dưới nhiều hình thức như: biểu tình, rải truyền đơn,

tuyên truyền khẩu hiệu đấu tranh, trực tiếp tham gia lao động sản xuất để chi

viện cho chiến trường,... chiến đấu với cả “giặc đói” và “giặc dốt”.

Tiếp nối truyền thống yêu nước của các thế hệ tiền bối, sinh viên Việt

Nam đã đóng góp phần lớn lao vào thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh

Điện Biên Phủ chống thực dân Pháp và sự can thiệp của đế quốc Mỹ.

Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tinh thần yêu

37

nước, nhiệt tình cách mạng của thanh niên sinh viên lại được phát huy mạnh

mẽ hơn nữa. Một phong trào hoạt động rộng lớn của tuổi trẻ miền Bắc đã lan

nhanh: “Ba sẵn sàng”. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có trên 1,5 triệu

thanh niên, học sinh, sinh viên làm đơn tình nguyện tham gia. Ba sẵn sàng

là:

1. Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các

lực lượng vũ trang nhân dân.

2. Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và

học tập trong bất kỳ tình huống nào.

3. Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.

Ngoài ra, còn có phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền

Nam, phong trào phụ nữ ba đảm đang, phụ nữ giỏi việc nước đảm việc

nhà,... đã góp phần vô cùng to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.

Một trong những ngôi sao sáng của sinh viên ta trên mặt trận chiến

đấu trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là Vũ Xuân Thiều.

Anh xung phong vào bộ đội khi vừa tròn 20 tuổi, đang làm đồ án tốt nghiệp

kỹ sư vô tuyến điện tại Đại học bách khoa Hà Nội. Anh đã trực tiếp bắn rơi

pháo đài B52 của Mỹ, hy sinh khi đã lập công vẻ vang. Anh được tuyên

dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân khi vừa tròn 27 tuổi.

Bên cạnh đó còn biết bao tấm gương sáng khác như: Bùi Ngọc Dương

(sinh viên Đại học bách khoa Hà Nội), Vương Đình Cung (sinh viên Đại học

Nông nghiệp I), Đặng Xuân Dương (sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội),...

Chúng ta không thể kể hết những tấm gương yêu nước của thanh niên

sinh viên Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến cứu nước. Nhìn chung, thanh

niên sinh viên đều có một tinh thần nhiệt tình cách mạng, sẵn sàng sả thân vì

độc lập tự do của dân tộc.

Thứ hai, thanh niên sinh viên Việt Nam có tinh thần vượt khó, chịu

đựng mọi gian khổ và tinh thần hiếu học, hăng hái rèn luyện, học tập, luôn

38

vươn tới những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật, công nghệ, văn hoá, nghệ

thuật tiên tiến, vươn lên xây dựng đất nước. Phát huy truyền thống hiếu học

của người Việt Nam, trên mặt trận văn hoá - giáo dục, sinh viên cũng là tầng

lớp hăng hái hưởng ứng những chủ trương của Chính phủ và Chủ tịch Hồ

Chí Minh: “Gây dựng đời sống mới”, “Rèn luyện thân thể để phụng sự Tổ

quốc”, “Dạy và Học”, chống “giặc dốt”,... Khẩu hiệu của thanh niên trong

cuộc kháng chiến chống Pháp là: “Học tập để phục vụ kháng chiến”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói trong lời kêu gọi chống nạn thất học:

“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Hưởng ứng lời kêu gọi ấy, hơn 2000

đoàn viên thanh niên, phần lớn là sinh viên tình nguyện làm giáo viên các

lớp bình dân học vụ.

Thanh niên Việt Nam dương cao khẩu hiệu: “Đâu Đảng cần thì thanh

niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”.

Ngày 3/3/1962, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội liên hiệp sinh viên

Việt nam lần thứ III có khẳng định: “Vì CNXH, vì thống nhất Tổ quốc, hăng

hái tiến quân vào khoa học kỹ thuật, ra sức học tập với tinh thần khẩn

trương, bền bỉ và sáng tạo, kết hợp chặt chẽ học tập với nghiên cứu khoa học

và lao động sản xuất để mau chóng nâng cao trình độ kỹ thuật và nghiệp vụ

trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong

XHCN để trở thành người trí thức mới của giai cấp công nhân, những chiến

sĩ tích cực xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất Tổ quốc” [34].

Cùng với phong trào thi đua phấn đấu trở thành “Học sinh, sinh viên

tiên tiến”, “Lớp học tiên tiến”, từ năm 1961, Trung ương Đoàn thanh niên

lao động và Trung ương Hội liên hiệp sinh viên đã phối hợp với Bộ giáo dục

phát động phong trào thi đua “Hai tốt” (dạy tốt và học tốt). Các phong trào

thi đua trong giáo viên, sinh viên được phát triển sâu rộng, làm theo lời căn

dặn của Bác trong thư gửi giáo viên, sinh viên ngày 16/10/1968: “Dù khó

39

khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt” [39].

Không những thế, sinh viên còn tham gia cuộc đấu tranh chống văn

hoá lai căng, đồi truỵ, phản động với nhiều hình thức phong phú như: Hội

thảo, toạ đàm, viết báo tường, báo liếp, hoạt động văn hoá thể dục thể thao,

tham quan, du lịch, cắm trại,... Đi đôi là việc phát triển văn hoá - văn nghệ

lành mạnh và nhiều hoạt động có tính chất nhân đạo, từ thiện. Năm 1970 -

1972, với khẩu hiệu “Hát cho đòng bào tôi nghe”, “Đồng bào ta cùng hát”,

sinh viên đã trực tiếp đưa các bài hát cách mạng tiến bộ, yêu nước đến với

quần chúng như: “Lên đàng”, “Dậy mà đi”, “Tự nguyện”, “Tiếng trống hào

hùng”,... thúc giục thanh niên đứng lên đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ Tổ

quốc. Ngoài ra còn có “Tuần lễ nữ sinh mặc áo dài Việt Nam”, những buổi

sinh hoạt truyền thống về văn hoá dân tộc: “Tuần lễ hai bà Trưng”, “Trần

Văn Ơn”,... đã tạo luồng không khí mới đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy

tinh thần yêu nước trong sinh viên.

Thứ ba, qua lịch sử phong trào thanh niên sinh viên Việt Nam, chúng

ta còn thấy một tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trong học tập,

chăm chỉ học tập, sẻ chia khó khăn với đồng bào. Sẵn sàng nhường cơm sẻ

áo với đồng bào gặp khó khăn là hoạt động hoàn toàn tự giác, tự nguyện của

sinh viên Việt Nam. Họ không đòi hỏi nhiều cho mình khi đất nước ta còn

nghèo, dân ta còn thiếu thốn. Ngược lại, sự đóng góp nhiều mặt của họ đã

làm nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc Việt Nam trong cả sự

nghiệp dựng nước và giữ nước.

Nhìn lại quá trình phát triển của phong trào sinh viên nước ta và tổ

chức Hội sinh viên Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ trước đến nay, dưới ngọn cờ

vẻ vang của Đảng và sự quan tâm của Bác Hồ kính yêu, thế hệ sinh viên

ngày nay luôn ghi tạc công ơn to lớn của Đảng, Bác và nguyện tiếp tục phát

huy những truyền thống quý báu của sinh viên Việt Nam vì sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Suốt nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, lúc thuận lợi cũng như khi gặp

40

khó khăn, Hội sinh viên Việt Nam đã luôn phát huy truyền thống là một tổ

chức chính trị - xã hội của sinh viên, vì sinh viên. Hội đã vượt qua nhiều

chặng đường đầy thử thách để thực hiện chức năng là người bạn gần gũi của

sinh viên, là chiếc cầu nối của sinh viên với Đảng và Nhà nước, là thành

1viên phối hợp chặt chẽ trong mọi công tác với Đoàn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh nhằm góp phần tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho sinh

viên trong học tập, nghiên cứu, trong các phong trào chính trị xã hội thực

tiễn và trong việc bồi dưỡng nhân cách người sinh viên mới.

1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc

xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa là một trong

những đặc trưng cơ bản, phổ biến của sự phát triển. Nó là sự biểu hiện mối

liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới, khi cái mới thay

thế cái cũ nhưng vẫn giữ lại một số yếu tố phù hợp của cái cũ - những yếu tố

này cần thiết cho sự ra đời của cái mới. Tuy nhiên, trong sự phát triển,

không chỉ diễn ra sự kế thừa mà còn luôn luôn có sự đổi mới, tái tạo. Đây là

hai mặt thống nhất biện chứng trong sự phát triển, luôn tồn tại song hành,

thâm nhập và bổ sung lẫn nhau. Hơn nữa, theo quan điểm mácxít, không

những chỉ tồn tại sự kế thừa theo thời gian (theo lịch đại) mà còn tồn tại sự

kế thừa theo không gian (kế thừa đồng đại) - điều này càng có ý nghĩa to lớn

hơn trong điều kiện mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế hiện nay.

Trong đạo đức, việc kế thừa và đổi mới có nhiều nét đặc trưng riêng.

Việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đối với

quá trình xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống giữ vị trí nền tảng, làm cơ

sở cho việc xây dựng đạo đức mới nói chung và xây dựng đạo đức mới cho

thanh niên sinh viên nói riêng. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho nền đạo

đức mới được khẳng định và phát triển vững chắc. Bởi vì, các giá trị đạo đức

41

truyền thống làm nên bản sắc Việt Nam, tâm hồn, lối sống con người Việt

Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đạo đức truyền thống là tiền đề trực tiếp

của đạo đức cách mạng (đạo đức mới). Đạo đức mới của thanh niên sinh

viên là sự tiếp nối và phát huy giá trị đạo đức tốt đẹp của thời đại trước để

lại. Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, truyền thống của thanh niên

sinh viên đã từng tạo nên ý nghĩa tích cực trong sự phát triển đạo đức của

người thanh niên sinh viên trước đây thì ngày nay những giá trị ấy vẫn

không ngừng phát huy ảnh hưởng tích cực trong quá trình xây dựng đạo đức

mới cho người thanh niên sinh viên hiện đại.

Những giá trị đạo đức truyền thống được lựa chọn về cơ bản là phù

hợp với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Có những chuẩn mực đạo đức

truyền thống đã lỗi thời bị gạt bỏ, nhưng cũng có những giá trị mới được

khẳng định và sẽ đề cao như: coi trọng giá trị cá nhân, tính năng động, dám

nghĩ, dám làm,... Khả năng thích ứng của người Việt trong điều kiện mới rất

nhanh chóng. Song không ai phủ nhận được vai trò nền tảng của các giá trị

đạo đức truyền thống trong đời sống tinh thần. Một hệ thống đạo đức xã hội

sẽ không thể phát triển nếu gạt bỏ đạo đức truyền thống và không hướng tới

mục tiêu ngày càng phát triển con người toàn diện. Mặc dù có sự tác động

mạnh mẽ của kinh tế thị trường nhưng những giá trị đạo đức truyền thống

đích thực vẫn được nhân dân ta gìn giữ, phát huy trong đời sống đạo đức của

người Việt Nam hiện nay. Xây dựng nền văn hoá mới, đạo đức mới mà lãng

quên những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sẽ tự đánh mất mình, “trở

thành bóng mờ, hoặc bản sao chép của người khác” [6, tr.6]. Chủ tịch Hồ

Chí Minh của chúng ta cũng là một mẫu mực trong việc đánh giá được tầm

quan trọng và đã kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống dân tộc. Đối

với Người, kế thừa các giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức

truyền thống nói riêng cần phải thực hiện theo phương thức:

“Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng

làm mới.

42

Cái gì cũ mà xấu thì bỏ…

Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho

hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm…

Cái gì mới mà hay thì phải làm” [41, tr.94-95].

Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nguyên tắc kế thừa được vận

dụng một cách nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo

trong sự tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống và nhân loại để xây dựng

nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản.

Thứ hai, những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là động lực và là

ngọn nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh

dân tộc, đặc biệt là kích thích thế hệ thanh niên sinh viên vươn lên tự tin

trong điều kiện mới hết sức phức tạp như hiện nay. Trong xu thế quốc tế

hoá, dù muốn hay không, các quốc gia cũng phải mở cửa hoà nhập chung

với thế giới hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm

cho các lĩnh vực của cuộc sống trở nên hết sức năng động, các điều kiện và

yêu cầu của cuộc sống luôn luôn thay đổi. Đặc biệt là những thành tựu của

cuộc cách mạng tin học làm cho các luồng tư tưởng, các sản phẩm văn hoá

được truyền bá nhanh chóng và rộng khắp. Chính những nhân tố mới của

thời đại đã tạo nên những mối quan hệ mới có ảnh hưởng sâu sắc đến các

quan hệ truyền thống và các chuẩn mực vốn tương đối ổn định. Tất cả những

yếu tố mới ấy làm thay đổi tư duy, tác phong của con người nói chung, đặc

biệt là tầng lớp thanh niên sinh viên nói riêng, làm cho họ năng động hơn,

nhạy cảm hơn, tăng khả năng nhận thức và cải tạo thế giới, thay đổi nhiều

quan niệm sống của họ. Trước nhiều tác động mạnh mẽ của thời đại, nền

kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố góp phần tích cực vào việc hình

thành phẩm chất đạo đức mới của con người Việt Nam hiện đại còn có mặt

tiêu cực tác động theo chiều hướng ngược lại. Vậy dựa vào đâu để con

người có cơ sở sàng lọc những gì phù hợp, cần thiết cho sự phát triển riêng

của Việt Nam và loại bỏ những cái không phù hợp với quá trình xây dựng

43

con người mới XHCN? Đó chính là nền tảng những giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc Việt Nam. Quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy

liên tục. Không có cái mới chân chính nào ra đời bên ngoài nền móng của

truyền thống. Giá trị đạo đức truyền thống giúp cho thế hệ trẻ luôn có lòng

tự hào về dân tộc, có niềm tin, sức mạnh vượt qua những khó khăn mới mà

thực tiễn cách mạng đặt ra. Sẽ không thể có con người Việt Nam hiện đại

phát triển toàn diện nếu như mỗi chúng ta không có hiểu biết, không thấm

nhuần lịch sử hào hùng của dân tộc ta cùng với những truyền thống đạo đức

tốt đẹp mà ông cha để lại. Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức

truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ sẽ tạo khả năng

to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người mới, từ đó sẽ nung nấu trong

lòng họ những hoài bão, khát vọng đấu tranh và xây dựng Tổ quốc ngày

44

càng giàu mạnh.

Chương 2

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN (QUA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI)

2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống

dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà

Nội hiện nay

2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo

đức truyền thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay

Giáo dục là một trong những phương thức hết sức quan trọng trong

quá trình hình thành nhân cách. Bằng con đường này, người ta lĩnh hội được

các giá trị xã hội, trong đó có các giá trị đạo đức, do đó, nhân cách con

người mới được hình thành và phát triển.

Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt

động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển

nhân cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là

vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục - đào tạo vì sự phát triển

con người và phát triển xã hội. Giáo dục đạo đức là liên tục, người có đạo

đức phải có ý thức và nhu cầu tự giáo dục suốt đời.

Thông qua giáo dục đạo đức, các khái niệm, phạm trù, các giá trị đạo

đức được nhận thức sâu sắc hơn, các hành động của con người sẽ phù hợp

hơn với các chuẩn mực xã hội, làm cho con người có khả năng tự kiểm tra,

đánh giá, thẩm định, điều chỉnh hành vi của mình. Qua đó, khơi dậy lòng

nhân ái, sự bao dung trong họ. Cách đây hàng ngàn năm, nhà triết học

Arixtốt đã từng nói: người ta dạy đức hạnh không phải để biết đức hạnh là gì

mà để trở thành con người có đức hạnh.

Nội dung của giáo dục đạo đức gồm giáo dục nhận thức để hình thành

45

ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm để hình thành và phát triển những xúc

cảm, tình cảm đạo đức trong sáng, cao quý thuộc về nhân tính; xây dựng

niềm tin đạo đức dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa nhận thức và tình cảm

đạo đức; tập luyện hành vi và trau dồi thói quen trong những ứng xử đạo đức

hàng ngày giữa người với người. Tổng hợp những cái đó trong giáo dục đạo

đức để hình thành nhu cầu đạo đức và văn hoá đạo đức ở mỗi người. Đó là

nhu cầu hàng đầu của đời sống tinh thần, thế giới tinh thần, nói lên trình độ

trưởng thành đạo đức và nhân cách của con người.

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là một trong những nội

dung cơ bản của giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức ở bậc đại học

và cao đẳng nói riêng. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề giáo

dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho toàn dân, đặc biệt là đối với

thanh niên sinh viên - một tầng lớp trí thức trẻ trong tương lai của đất nước.

Thật vậy, trong tất cả các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến việc

giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ. Đảng ta đã có Chỉ thị 34 về

việc phát triển Đảng viên trong trường học. Tại Hội nghị Trung ương 5 khoá

VIII, Đảng ta khẳng định: “Đội ngũ trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước,

đại bộ phận xuất thân từ nhân dân lao động, là tinh hoa của nền văn hoá

nước nhà được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo mọi điều kiện để

cho anh chị em phát huy trí tuệ, tài năng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân

và CNXH, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát

triển văn hoá” [10, tr.12].

Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Về giáo

dục và đào tạo: tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội

dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý

giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần

độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học,

tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” [11, tr.35].

Trong Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam

46

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” của Đảng ta nhấn mạnh: “Tư tưởng, đạo

đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hoá” và đặt ra cho ngành

giáo dục - đào tạo phải coi trọng giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho học

sinh, sinh viên.

Hiện nay, công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong việc

xây dựng đạo đức mới cho sinh viên có nhiều thuận lợi. Đời sống kinh tế,

chính trị, xã hội của đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đang

ngày càng ổn định và phát triển mạnh mẽ. Sự thành công của Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ X đã tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng, củng cố

vững chắc niềm tin của các tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên sinh

viên Hà Nội, vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong sự nghiệp đổi mới

của đất nước. Sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất

nước, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu lớn. Hơn nữa, trong quá trình

hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, Việt Nam đã khẳng định được vị thế

của mình trong các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như: ASEAN,

AFTA, APEC,…và đặc biệt Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của

tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Chính những thay đổi lớn lao ấy đã tác

động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, mọi tầng lớp

nhân dân (trong đó có tầng lớp thanh niên sinh viên).

Trên cơ sở những thuận lợi nêu trên của tình hình mới đem lại, công

tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ở các trường đại học

và cao đẳng của Hà Nội đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Quán triệt quan

điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ,

các trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội đã triển khai công tác

này một cách tích cực. Các trường đã phối hợp với gia đình, các cơ quan, tổ

chức đoàn thể xã hội,... đưa ra những mô hình và phương pháp mới giáo dục

giá trị đạo đức truyền thống dân tộc mang lại hiệu quả cao. Khác so với

trước đây, trong xã hội cũ, việc giáo dục chỉ thiên về giáo dục đạo đức (có

thể hiểu là đạo đức truyền thống, bởi lẽ người ta thường lấy những giáo lý

47

thời xa xưa đem dạy lại), còn xem thường các loại hình giáo dục khác; thì

nay công tác giáo dục có sự phối kết hợp giữa các loại hình: giáo dục tri

thức, giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ. Định hướng giá trị của sinh viên

cũng có những biến đổi đáng kể: không chỉ coi trọng những giá trị tinh thần,

đạo đức, lễ nghĩa truyền thống mà còn đánh giá cao những giá trị vật chất,

nhu cầu sinh hoạt vật chất. Theo kết quả của đề tài KX - 07 - 04 thì sinh viên

chọn nghề có thu nhập cao là quan trọng hơn cả (77%), nghề có điều kiện

phát triển năng lực (62,8%), nghề được xã hội coi trọng (62,7%), nghề có

điều kiện tiếp tục học lên (56,8%) là những nghề mà sinh viên thích trong cơ

chế thị trường. Thanh niên sinh viên với những đặc điểm tốt đẹp của lớp

người có trình độ học vấn cao, nhạy cảm với cái mới, cái đẹp, đã tiếp thu rất

nhanh những kiến thức nhờ tiếp xúc với văn hoá nhân loại và phát triển nhu

cầu văn hoá đa dạng, từng bước hình thành một lối sống đạo đức mới qua

các chuẩn và thang giá trị văn hoá. Do đó, việc giáo dục các giá trị đạo đức

truyền thống đạt hiệu quả cao hơn.

Tuy nhiên, xem xét và đánh giá một cách toàn diện về công tác giáo

dục đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học, ở một góc nhìn

khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận những hạn chế và thiếu sót nhất

định:

Thứ nhất, mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có quan điểm đúng đắn về

công tác giáo dục song còn dừng lại ở mức chung chung, chưa có những

định hướng cụ thể với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Trong những

năm gần đây, yêu cầu của việc phát triển kinh tế mạnh mẽ đã khiến nhiều

người trong chúng ta xem nhẹ việc giáo dục văn hoá tinh thần. Ở một số

trường, nhất là các trường kỹ thuật, nội dung chương trình học mở rộng

thêm một số môn chuyên ngành song đồng thời lại giảm thời lượng hoặc cắt

môn Đạo đức học. Một số trường còn đang giảng dạy môn học này thì nhìn

chung chưa có sự đổi mới về nội dung và phương pháp cho phù hợp với

cuộc sống hiện tại, chưa sát thực tế, chưa phản ánh được yêu cầu cấp bách

48

của việc xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện

đại hoá. Đặc biệt, nội dung giáo dục truyền thống dân tộc, giáo dục lịch sử

văn hoá dân tộc, nêu những gương sáng của thanh niên còn bị xem nhẹ trong

chương trình đào tạo, chưa được đưa vào môn Đạo đức học. Việc giảng dạy

đạo đức hiện nay vẫn thuần tuý lý thuyết chung chung, giảng giải một chiều,

áp đặt, thiếu sự hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục, chưa coi “người học làm

trung tâm” do vậy chưa kích thích được tính tích cực, ham học hỏi ở sinh

viên.

Thứ hai, trên địa bàn Hà Nội những năm gần đây, một số trường cao

đẳng, đại học đã có những sai phạm làm ảnh hưởng xấu đến kết quả của

công tác giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Có những cán

bộ, giảng viên có biểu hiện tiêu cực trong kỳ thi tuyển sinh. Có những giảng

viên suy thoái về nhân cách trong quan hệ thày trò,... Giáo dục đạo đức có

nhiều hình thức, trong đó có việc phải nêu gương cho người học noi theo. Vì

vậy, trong thực tế, những hiện tượng tiêu cực sẽ tác động rất lớn, làm cho

sinh viên mất đi tình cảm và niềm tin đạo đức trong sáng, ảnh hưởng đến

quan hệ truyền thống đạo đức tốt đẹp giữa thày và trò. Hơn thế nữa, với một

số trường, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý chuyên trách còn thiếu về số

lượng và yếu về năng lực trình độ, chưa toàn tâm toàn ý với công việc của

mình. Thu nhập của giảng viên chưa cao, khó có thể sống bằng chính đồng

lương của mình, khiến họ phải làm thêm, nhiều khi “chân ngoài dài hơn

chân trong”. Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến công việc giảng dạy,

nghiên cứu khoa học.

Thứ ba, trong quá trình hội nhập và chuyển đổi cơ chế kinh tế, chúng

ta đã không tính hết được những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị

trường. Công tác giáo dục đạo đức nói chung và việc giáo dục những giá trị

đạo đức truyền thống nói riêng cho thanh niên sinh viên ở các trường cao

đẳng, đại học hiện nay gặp phải không ít những khó khăn do những tác động

tiêu cực của cơ chế thị trường. “Về khách quan mà nói kinh tế thị trường với

49

sức mạnh tự phát ghê gớm của nó đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối

sống thực dụng, làm cho người ta chỉ chú ý tới lợi ích vật chất, mà coi nhẹ

giá trị tinh thần, chỉ chú ý lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ

chú ý lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lợi ích lâu dài, cơ bản” [7, tr.30]. Do vậy,

“những năm gần đây tình trạng suy thoái về đạo đức và lối sống có chiều

hướng tăng lên, rất đáng lo ngại...” [7, tr.27] và “một bộ phận thanh niên còn

mơ hồ về lý tưởng, chưa nhận thức được tình hình, nhiệm vụ của giai đoạn

cách mạng mới, chưa xác định được trách nhiệm của thanh niên nói chung

và của bản thân nói riêng” [54, tr.309].

Thang giá trị xã hội trong đó có giá trị đạo đức truyền thống bị thay

đổi, thậm chí “đảo lộn” nhanh chóng. Nhiều sinh viên bộc lộ rõ tính ích kỷ,

thích hưởng thụ,... Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã tính đến công

việc tương lai là: không muốn đi những vùng sâu vùng xa cống hiến, muốn

được ở lại thành phố, làm những công việc nhàn hạ mà có thu nhập cao...

[Phụ lục 2 và 3]. Điều này khiến nhiều sinh viên dễ bị những kẻ xấu, những

tổ chức phản động, hoạt động phi pháp lôi kéo, dụ dỗ. Ngoài ra, khi hàng

hoá ngoại nhập ùa vào thị trường trong nước, nhiều văn hoá phẩm độc hại

tràn vào bằng nhiều con đường bất hợp pháp làm suy thoái đạo đức, lối sống

thế hệ trẻ. Nhiều sinh viên, thậm chí còn là những sinh viên khá giỏi do chưa

vững vàng về lý tưởng sống mà đã nhanh chóng huỷ hoại cuộc đời mình:

tham gia vào đường dây “thi hộ đại học”, sinh viên “tống tiền”, cướp giật tài

sản của công dân,... Những hình ảnh này làm giảm sút niềm tin của mọi

người đối với thế hệ gánh vác tương lai của đất nước.

Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường là nó đẻ ra lối sống thực

dụng, cực đoan, tôn thờ đồng tiền, huỷ hoại đạo đức truyền thống. Một số

người vì đồng tiền mà làm mọi việc táng tận lương tâm, trà đạp lên đạo lý.

Lối sống đó tác xấu tới thanh niên sinh viên nhanh chóng. Đồng tiền lên

ngôi chi phối nhiều mối quan hệ giữa người và người, tình bạn bè, tình thày

trò có phần phai nhạt. Nạn hối lộ biểu hiện dưới nhiều hình thức. Tiêu cực

50

xâm nhập vào học đường - nơi mà xưa nay vốn lấy đạo lý, lương tâm làm

trọng - khiến cho một số giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục bị xói mòn

lương tâm nghề nghiệp. Có thày giáo, cô giáo bị đồng tiền làm méo mó nhân

cách, biến dạng cả quan hệ thày trò vốn thiêng liêng của truyền thống “tôn

sư trọng đạo”, “tiên học lễ hậu học văn”.

Trong giới sinh viên, đồng tiền cũng chi phối ghê gớm làm nảy sinh

nhiều bất công. Trong học tập, họ muốn điểm cao, không phải thi lại nhưng

không bằng quyết tâm học tập, rèn luyện và cố gắng của chính bản thân

mình mà bằng “chạy chọt” xin điểm, quay cóp, gian lận trong kiểm tra, thi

cử với nhiều thủ đoạn tinh vi. Một số sinh viên có tâm lý tự bằng lòng với

mình, thậm chí coi việc đi học như một sự miễn cưỡng vì gia đình hoặc vì sự

sĩ diện của bản thân. Cho nên, họ có những biểu hiện tiêu cực như: thường

xuyên đi học muộn, không ghi chép bài vở, không thích lên thư viện tìm đọc

sách báo, không chịu khó nghiên cứu, thiếu trung thực trong học tập, thi

cử,... Qua điều tra tình trạng sinh viên đi học muộn của một số trường đại

học ở Hà Nội, kết quả cho thấy:

Đi học muộn

Tương đối phổ biến (%) Đi muộn không đáng kể (%)

Các trường

Kinh tế quốc dân 125

Sư phạm I

125

Tổng hợp

125

Bách khoa

125

Chung

Có đi muộn nhưng chiếm tỉ lệ thấp (%) 46.4 34.4 42.4 40.8 41.0 14.4 52.2 54.4 45.6 42.4 39.2 10.4 3.2 13.6 16.6 500

Nguồn: Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu đề tài “Tình hình nếp sống sinh

viên Hà Nội - thực trạng và giải pháp”. Phạm Xuân Cảnh (chủ nhiệm đề

51

tài), năm 2000.

Bảng số liệu cho chúng ta thấy một thực trạng đáng buồn là chính

những sinh viên trường Đại học sư phạm I Hà Nội - đội ngũ giáo viên trong

tương lai - lại rất kém ý thức trong việc chấp hành nội quy học tập của nhà

trường. Tỷ lệ đi học muộn phổ biến cao hơn nhiều so với các trường khác:

52,2%, cao hơn nhiều so với mức chung các trường (42,2%).

Điều tra về thói quen lên thư viện trường tìm đọc sách, báo phục vụ

học tập, kết quả như sau:

Lên thư viện Hiếm khi (%)

Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Các trường

Kinh tế quốc dân 125 18.4 53.6 28.0

Sư phạm I

125 7.2 56.8 36

Tổng hợp

125 16 54.4 29

Bách khoa

125 20.8 59.2 20

Chung

500 15.6 56 28.4

Nguồn: Như trên (tr. 48)

Một lần nữa, chúng ta lại thấy trường Đại học sư phạm I Hà Nội có tỷ

lệ sinh viên gần như không có thói quen lên thư viện tìm đọc sách, tự học và

tự nghiên cứu là nhiều nhất so với các trường đại học khác.

Nhìn chung, tình trạng trên phần nào phản ánh được thực trạng nhiều

sinh viên chưa thực sự hứng thú, say mê, chưa biết biến “quá trình giáo dục”

thành “quá trình tự giáo dục”, chưa nhận thức rõ về việc học: học trước hết

52

là cho bản thân mình và còn học để xây dựng đất nước, xây dựng CNXH.

Hơn thế, trong giới sinh viên cũng đã xuất hiện nhiều nạn cờ bạc,

rượu chè, cướp giật trộm cắp tài sản, đua xe trái phép, ma tuý, mại dâm, bói

toán, mê tín dị đoan,...

Qua điều tra một số trường đại học ở Hà Nội, kết quả cho thấy:

Các chuẩn mực Nghiện hút (%) Trộm cắp tài

Có biểu hiện ăn chơi, cờ bạc (%) sản (%) Các trường

Kinh tế quốc dân 125 87.2 23.2 44

Sư phạm I

125 82.4 38.4 40.0

Tổng hợp

125 84.0 21.0 35.2

Bách khoa

125 77.2 11.4 27.2

Chung

500 81.4 25.0 36.6

Nguồn: Như trên (tr. 48)

Hiện nay, tình trạng ma tuý xâm nhập học đường ngày một tăng. Điều

hết sức nguy hiểm là việc dùng ma tuý không chỉ dừng ở đối tượng sinh viên

con các gia đình khá giả được chiều chuộng mà đã vươn vòi bạch tuộc lôi

kéo nhiều sinh viên khó khăn ở nông thôn về thành phố học tập. Chỉ vì đua

đòi theo bạn xấu mà ăn chơi, khi không có tiền do gia đình chu cấp thì sinh

ra ăn cắp, ăn trộm, đánh nhau, làm những việc phi pháp, trở thành kẻ đứng

ngoài cuộc của quá trình vận hành hướng tới một tương lai tốt đẹp của thế hệ

trẻ hôm nay.

Theo tác giả Lê Vũ của Báo Sức khoẻ và đời sống số 157 (ra ngày

1/1/2004): “Trong năm 2003, liên Bộ giáo dục và đào tạo và Bộ công an đã

53

phát hiện được gần 1000 học sinh, sinh viên và giáo viên nghiện ma túy;

trong đó có 503 học sinh, 177 sinh viên và 299 giáo viên. So với năm 2002,

số học sinh, sinh viên nghiện ma túy giảm đi 208 em, nhưng số học sinh,

sinh viên sử dụng ma túy kích thích như hêrôin, tân dược gây nghiện và ma

túy tổng hợp ngày càng tăng, đặc biệt là ma túy tổng hợp dễ vận chuyển, dễ

sử dụng, gây nghiện nhanh và cai nghiện rất khó. Một thực trạng đáng báo

động nữa là trong khi số học sinh, sinh viên nghiện ma túy giảm, thì số

lượng giáo viên nghiện ma túy lại tăng lên, trong tổng số 299 giáo viên

nghiện ma túy có tới 14 giáo viên phạm tội buôn bán ma túy. Cá biệt có một

số nơi vẫn còn xảy ra tình trạng bán lẻ ma túy ngay tại cổng trường”.

Bên cạnh đó, tình hình hút thuốc lá trong giới học sinh, sinh viên ở

Việt Nam cũng đến mức báo động. Theo thống kê của Bộ tài nguyên và môi

trường gần đây nhất, Việt Nam có khoảng 15 triệu người hút thuốc lá. Trong

đó, tỷ lệ sinh viên hút thuốc lá là 21%.

Nhìn chung, khi những nét đẹp truyền thống của dân tộc chưa được

đánh giá đúng mức, chưa được khơi dậy, chưa được phát huy tác dụng trong

công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên ở các trường đại học thì

chúng ta còn gặp nhiều khó khăn khi muốn xây dựng con người Việt Nam

mới phát triển toàn diện.

2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua

các phong trào chính trị - xã hội - thực tiễn

Công tác giáo dục đạo đức không những cần tác động về mặt trí tuệ

mà còn cần tác động cả về mặt tình cảm, rèn luyện nghị lực, hành vi đạo

đức. Do đó, ngoài giáo dục ý thức đạo đức trong nhà trường còn cần có sự

kết hợp đồng bộ của nhiều hoạt động khác. Như Lênin đã nói: “Cơ sở của

đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây

dựng chủ nghĩa cộng sản. Đó là lời giải đáp về vấn đề phải học tập chủ

nghĩa cộng sản như thế nào. Chúng ta không tin vào việc rèn luyện, giáo dục

và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà trường và tách rời

cuộc sống sôi nổi” [33, 358]. Điều này có nghĩa là học phải đi đôi với hành.

54

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Học phải đi đôi với

hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn. Bởi lẽ, theo Người, lý luận không có

thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng.

Vì vậy, công tác giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cũng không chỉ là

những bài học trong sách vở mà còn cần phải được kết hợp với hoạt động

thực tiễn.

Quán triệt tinh thần đó, trong những năm gần đây, Đảng uỷ các trường

đại học đã có sự quan tâm, trực tiếp chỉ đạo các tổ chức Đoàn thanh niên,

Hội sinh viên phát động nhiều phong trào cho sinh viên tham gia như: “Tuổi

trẻ giữ nước”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Về nguồn”,... Nhiều phong trào

của sinh viên mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn sâu

sắc như: Giúp đỡ và chăm sóc các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình

có công với cách mạng gặp cảnh neo đơn, những người già cả ốm đau không

nơi nương tựa; nhiều phong trào đền ơn đáp nghĩa, hiến máu nhân đạo,

“Ngày thứ 7 tình nguyện”, “Ngày chủ nhật xanh”, chiến dịch “Mùa hè

xanh”, chương trình thanh niên tình nguyện “Tiếp sức mùa thi”, Ban

Thường vụ Thành đoàn Hà Nội tổ chức triển khai chương trình hành động

“Tuổi trẻ Thủ đô học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,

sinh viên tình nguyện về những nơi vùng sâu vùng xa dạy học cho trẻ em

nghèo,...

Bên cạnh nhiều phong trào hành động để sinh viên thâm nhập thực tế

còn có nhiều cuộc thi được tổ chức cho thanh niên sinh viên có điều kiện tìm

hiểu sâu về truyền thống dân tộc như: “Tìm hiểu 60 năm thành lập nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Tìm hiểu văn hoá Việt - Nhật”,

cuộc thi tìm hiểu “Những mốc son Thăng Long - Hà Nội”, tìm hiểu “75 năm

lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”, tìm hiểu 55 năm Truyền

thống học sinh, sinh viên và Hội sinh viên Việt Nam, tìm hiểu tư tưởng Hồ

Chí Minh “Sáng mãi tên Người”, “Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, đất

nước phồn vinh tiến vào thế kỷ 21”, “Âm vang Điện Biên”,...

Ngoài ra, nhiều trường cao đẳng và đại học ở Hà Nội cùng các trường

55

trong cả nước cũng luôn tạo điều kiện khuyến khích sinh viên phấn đấu

vươn lên trong học tập, sáng tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm phát huy

tính ham học hỏi bằng việc tổ chức các hội thảo khoa học, các kỳ thi

Ôlimpic môn học. “Nghiên cứu khoa học cần phải trở thành một hoạt động

chuyên nghiệp trong các đại học”. Hà Nội hiện có khoảng hơn 50 trường đại

học và cao đẳng. Năm học 2001-2002 có 4609 đề tài nghiên cứu khoa học

của 5489 sinh viên các trường đại học và cao đẳng được nghiệm thu đánh

giá. 5504 sinh viên tham gia 319 cuộc thi Ôlimpic các môn học. Năm học

2002 - 2003 có 3460 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên với 9271 sinh

viên tham gia, 83 đợt tổ chức thi sinh viên giỏi và Ôlympic các môn học với

3928 sinh viên tham gia. Kết quả năm học này là 1116 giải thưởng cấp

trường, 270 giải thưởng cấp bộ, 128 câu lạc bộ chuyên ngành được Đoàn

thanh niên các trường tham mưu với lãnh đạo nhà trường đầu tư về cơ sở vật

chất, nội dung và hình thức hoạt động, thu hút 16466 sinh viên tham gia.

Năm học 2004 - 2005 có hơn 2000 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên,

gần 5000 sinh viên tham gia, phối hợp gần 400 buổi toạ đàm về nâng cao

chất lượng học tập của sinh viên...

Không những thế, thanh niên sinh viên Thủ đô còn là lực lượng sôi

nổi nhất trong các phong trào phòng chống tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm;

các hoạt động tuyên truyền về dân số, sức khoẻ và môi trường... Họ vừa học

tập vừa nhiệt tình với các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao do

nhà trường tổ chức. Nhiều sinh viên xuất sắc đã được giới thiệu học các lớp

đối tượng cảm tình Đảng và được kết nạp vào Đảng [Phụ lục 4].

Trên đây là tổng quan các hoạt động, các phong trào Đoàn và công tác

Hội sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Từ

đó, ta thấy được thực trạng việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên

qua các phong trào chính trị - xã hội đều có những điểm mạnh và đạt được

56

nhiều thành tựu đáng kể.

Nhìn chung, trong những năm qua, các trường cao đẳng và đại học ở

thành phố Hà Nội đã phối hợp với Trung ương Hội sinh viên nắm bắt kịp

thời các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, của Trung ương Đoàn,

Trung ương Hội sinh viên, Hội sinh viên thành phố, bám sát chương trình

năm học, sáng tạo trong việc triển khai tổ chức thực hiện. Vì vậy, ngoài việc

giáo dục kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho sinh viên, các trường đều

quan tâm đến nhiều hoạt động khác nhằm giáo dục đạo đức, lối sống lành

mạnh cho sinh viên, đặc biệt là nhằm giáo dục ý thức bảo vệ và phát huy

những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thông qua nhiều

hình thức giáo dục phong phú ấy mà những truyền thống cách mạng được

nhấn mạnh như: truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hi sinh vì Tổ

quốc, truyền thống hiếu học, truyền thống thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau,...

Sinh viên Thủ đô ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò xung kích, sáng

tạo của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Song trong khi đa số các sinh viên với bản tính sôi nổi, ưa hoạt động,

nhiệt tình, thích tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,

các buổi giao lưu trong nước và quốc tế, những lễ hội truyền thống và các

hoạt động xã hội khác thì vẫn còn một số ít thanh niên sinh viên chưa ý thức

được vai trò, trách nhiệm của mình, nên họ không cố gắng vươn lên trong

các hoạt động và trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù số đông sinh viên đều thích

tham gia các hoạt động chính trị - xã hội nhưng vẫn còn không ít sinh viên

ngại sinh hoạt tập thể. Họ chưa ý thức được mặt tích cực của các hoạt động

đoàn thể nên không tự giác, không thường xuyên hưởng ứng.

Hơn nữa, một số sinh viên hiện nay sống thiếu lý tưởng, ước mơ, khát

vọng vươn lên. Thay vì lý tưởng sống cao cả, vì Tổ quốc, “mình vì mọi

người, mọi người vì mình”, số ít sinh viên lại có lối sống cá nhân ích kỷ, thờ

57

ơ với đời sống chính trị, với các sinh hoạt đoàn thể. Họ thích nhập vào

những băng đảng, những nhóm thanh niên có các hoạt động đi ngược với lợi

ích số đông mọi người chỉ để thoả mãn tính tò mò hay để “giết” thời gian.

Nên chăng, chúng ta cũng cần phải xem xét lại nội dung và cách thức

tổ chức những phong trào hướng về cội nguồn cho sinh viên trong các nhà

trường để thực sự thu hút được họ nhiệt tình tham gia hơn nữa. Các phong

trào chính trị - xã hội phải ngày càng đa dạng, phong phú, có ý nghĩa thiết

thực giúp sinh viên nhận thức được những giá trị truyền thống của dân tộc.

2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên

2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được

Thắng lợi của hơn 20 năm đổi mới đất nước đã tạo ra những điều kiện

chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hoá cần thiết cho công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ và văn minh”. Chúng ta đã đạt được nhiều thành công

trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công tác giáo dục. Đó là kết quả của đường

lối giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, của chính sách đổi

mới trong giáo dục. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo

dục đối với sự phát triển đất nước. Nhà nước đã có những cố gắng lớn trong

việc đầu tư cho giáo dục. Tỷ trọng đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân

sách nhà nước liên tục tăng qua các năm: Năm 2000 là 15%, 2003 là 16,4%,

phấn đấu sẽ tăng lên 20% vào năm 2010 [23, tr.74].

Ở các trường đại học và cao đẳng, Đảng uỷ và ban giám hiệu nhà

trường coi công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh

viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chương trình giảng

dạy các môn lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đều

theo chương trình chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo, có kết hợp bổ sung,

liên hệ với những ngành học đặc trưng của các trường. Giáo trình sau nhiều

lần được chỉnh lý nhìn chung đều phù hợp với đối tượng, bảo đảm tính khoa

58

học cao, tạo nên sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lượng giáo trình

các môn khoa học Mác-Lênin cung cấp cho sinh viên học ở các trường nhìn

chung đều đầy đủ. Thông qua việc học tập các môn khoa học này, sinh viên

ý thức ngày càng đầy đủ hơn về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.

Bên cạnh việc trang bị những tri thức lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh một cách có hệ thống, các trường cao đẳng và đại học cũng

thường xuyên tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về văn hoá, kinh tế,

tình hình thời sự trong nước và quốc tế, học tập Nghị quyết của Đảng,...

Điều đó giúp cho sinh viên có thêm những hiểu biết nhất định về tình hình

chính trị, xã hội trong và ngoài nước. Từ đó, họ có ý thức quan tâm hơn đến

các vấn đề chính trị, xã hội. Một vấn đề hết sức quan trọng ảnh hưởng đến

chất lượng của việc giáo dục giá trị đạo đức, tư tưởng, lối sống cho sinh viên

trong thời gian qua là phải kể đến vai trò của người thầy. Có rất nhiều tấm

gương nhà giáo ưu tú, các thầy cô giáo đã có tác động không nhỏ đến quá

trình hình thành nhân cách cho sinh viên. Nhiều thầy cô giáo của các trường

cao đẳng và đại học rất tâm huyết với nghề, ngoài việc hướng dẫn sinh viên

lĩnh hội tri thức, các thầy cô cũng đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục và rèn

luyện giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên bằng nhiều hình thức phong

phú: tổ chức các hoạt động ngoại khoá, phối hợp với các tổ chức đoàn thể

tạo ra những sân chơi lành mạnh cho sinh viên.

Về phía thanh niên sinh viên, qua quá trình được giáo dục toàn diện

trong các nhà trường, hầu hết họ đều nhận thức được một cách sâu sắc rằng:

mọi sự phát triển đều phải dựa trên một nền tảng nhất định. Quá khứ, hiện

tại và tương lai nằm trong một dòng chảy liên tục. Truyền thống tốt đẹp là

nền tảng vững chắc để phát triển tương lai. Do đó, việc học tập, tìm hiểu các

giá trị đạo đức truyền thống là nghĩa vụ đạo đức đối với họ. Hầu hết sinh

viên khi đã vững vàng về tư tưởng chính trị đều có lòng tin vào sự lãnh đạo

đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

59

Thái độ và ý thức chính trị của sinh viên không ngừng được nâng cao. Sinh

viên ngày nay đã quan tâm hơn đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội, và

cũng đã có những suy nghĩ độc lập trước những biến động của lịch sử. Nhìn

chung, đại đa số sinh viên có lối sống lành mạnh, năng động, tích cực, vượt

khó vươn lên. Trong các trường cao đẳng, đại học, nhiều sinh viên rất nhiệt

tình, hăng hái thi đua phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng và

đạt thành tích cao trong học tập. Bên cạnh việc học tập trau dồi kiến thức

chuyên môn tốt, nhiều sinh viên vẫn tích cực hưởng ứng, tham gia vào các

phong trào, hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc với đạo lý uống nước nhớ

nguồn. Nhờ đó, họ có thêm kinh nghiệm sống, có thêm kiến thức thực tiễn,

trở nên vững vàng hơn và vẫn giữ được lối sống lành mạnh trong bối cảnh

nước ta mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới như hiện nay.

Như vậy, đúng như Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương

khoá VIII của Đảng đã nhận định: Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và

chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực

công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích.

Không khí dân chủ trong xã hội ngày một tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh

những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Trước hết, những hạn chế còn tồn tại là do tác động tiêu cực của kinh

tế thị trường.

- Chủ thể của kinh tế thị trường là các con người kinh tế, khi có lợi kinh

tế là sẽ hoạt động. Sự hoạt động của nguyên tắc tối đa hoá lợi ích cá nhân

tạo xu thế vi phạm đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật trong hoạt động

kinh tế. Điều đó không chỉ cản trở sự phát triển của đạo đức cá nhân trong

lĩnh vực kinh tế mà còn tạo ra xu thế khuyến khích chủ nghĩa cá nhân trong

60

tất cả các lĩnh vực hoạt động ngoài kinh tế.

- Trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị của con người kinh tế được

đo bằng hiệu quả hoạt động kinh tế. Giá trị ấy cũng có xu hướng trở thành

thước đo phổ biến của nhân cách. Giá trị của một con người được biểu hiện

ở mức độ thành đạt, ở quy mô thu nhập, thậm chí ở cả khả năng biến người

khác thành phương tiện để thực hiện lợi ích cá nhân. Vì vậy, một số giá trị

đạo đức truyền thống đã bị xem nhẹ trong quá trình đánh giá con người.

- Hoạt động của quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh

tranh là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Chính sự cạnh tranh khốc

liệt đã tạo ra điều kiện cho việc nảy sinh và phát triển thói quen phô trương,

hãnh tiến ở con người. Ngoài ra, nó còn dẫn đến hiện tượng phân cực giàu -

nghèo ngày càng rõ nét, từ đó xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng bất

công, bất bình đẳng trong xã hội. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng lành

mạnh, trung thực. Không hiếm trường hợp, cạnh tranh đồng nghĩa với việc

đánh mất nhân tính, chạy theo lợi nhuận cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên lợi ích

của những người khác. “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị

văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, đang gây hại

đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và

danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thày trò, đồng chí, đồng

nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn

xã họi khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và

mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, việc lễ hội” [10, tr.46-47].

Như vậy, những giá trị đạo đức truyền thống dần dần bị mờ nhạt, thay

vào đó là lối sống thực dụng, ích kỷ, quá đề cao giá trị đồng tiền,... Đó chính

là mặt trái của kinh tế thị trường, là nguyên nhân dẫn đến sự biến dạng, méo

mó những mối quan hệ xã hội vốn rất tốt đẹp giữa người với người trong xã

hội Việt Nam.

Thứ hai, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ở mọi lĩnh vực của đời

61

sống xã hội đang làm cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới có nhiều

biến đổi mạnh mẽ. Thanh niên sinh viên là lớp người rất nhạy cảm trong xu

thế hội nhập, giao lưu văn hoá với nhiều nước. Một mặt, họ dễ dàng tiếp thu

nhiều giá trị mới của nhân loại, mặt khác họ cũng dễ bị kích động bởi nhiều

yếu tố lạ, thậm chí trái ngược và có khả năng làm tổn hại tới những giá trị

đạo đức truyền thống của dân tộc.

Thứ ba, âm mưu “diễn biến hoà bình” của kẻ thù đang có tác động

tiêu cực đến một bộ phận nhân dân, cán bộ, Đảng viên, ngăn cản sự nghiệp

đổi mới đất nước của chúng ta. Đối với thanh niên sinh viên, mục tiêu của

chúng hòng làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời truyền thống. Chúng

lợi dụng những thanh niên sinh viên xấu để kích động, gây rối trật tự xã hội.

Lợi dụng những sơ hở trong công tác quản lý của Nhà nước, chúng tung vào

những văn hoá phẩm độc hại, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ và lối sống

theo kiểu phương Tây,... xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng, phủ

nhận những thành quả cách mạng và quá khứ hào hùng của dân tộc ta. Với

những thủ đoạn xảo quyệt, chúng hòng làm cho thế hệ trẻ Việt Nam bị lẫn

lộn, không phân biệt được phải, trái, đúng, sai, đâu là bạn, đâu là thù, tạo

nên một lớp người phi chính trị, sống mờ nhạt, không có lý tưởng, thiếu hoài

bão, ước mơ vươn lên, thích theo xu thế “Mỹ hoá”.

Thứ tư, sự thiếu gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên và

người lớn tuổi đã làm giảm niềm tin của thế hệ trẻ, dẫn đến tâm lý coi

thường truyền thống, coi thường quá khứ, lãng quên quá khứ hào hùng cần

được tiếp nối. “Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một

bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có

quyền. Nạn tham nhũng dùng tiền của nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi

sa đoạ. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa

vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó

gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà

62

nước” [10, tr.46-47]. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến

sự suy giảm và xói mòn niềm tin trong ý thức cá nhân và trong đời sống dư

luận về chế độ xã hội.

Thứ năm, trong khi tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh

tế, Đảng ta chưa chú ý đúng mức đến vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền

thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay. Nghị quyết

Trung ương V khoá VIII cũng nhận định rằng: “Công tác nghiên cứu lý luận

chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hoá trong quá trình đổi mới,

trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần

xây dựng, trong việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân

tộc và quốc tế...” [10, tr.52]

Mặt khác, Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách rõ ràng trong việc đầu

tư giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ cả về kinh phí lẫn con người. Thiếu

sót này dẫn đến tình trạng: những gì làm được còn quá ít so với nhu cầu mà

thế hệ trẻ đòi hỏi.

Thứ sáu, một bộ phận thanh niên sinh viên thiếu ý thức rèn luyện, tu

dưỡng phẩm chất đạo đức, xem nhẹ những giá trị đạo đức truyền thống, giá

trị nhân văn mà nhân dân ta vun đắp từ bao thế hệ trước, không biết tôn

trọng quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc. Hơn thế nữa, những sinh viên

này còn có thái độ coi thường các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, đạo đức học, các môn khoa học xã hội nhân văn. Đối với những

sinh viên như thế cần phải có sự đổi mới phương pháp giáo dục để làm sao

vừa có sức thu hút, thuyết phục, vừa có những biện pháp phù hợp buộc họ

phải hoà nhập với tập thể bạn bè, nhà trường, xã hội.

Tóm lại, những nguyên nhân trên đây đều là những cản trở làm cho

các giá trị đạo đức truyền thống không được phát huy trong việc xây dựng

đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay. Trong đó, nguyên

nhân cơ bản nhất là sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường tới đạo

63

đức sinh viên. Song nguyên nhân chủ yếu vẫn là việc thiếu các chính sách cụ

thể của Nhà nước đối với công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh

niên sinh viên, thiếu sự quan tâm của chính các chủ thể giáo dục và bản thân

sinh viên. Do đó, chúng ta cần khắc phục nhanh chóng những thiếu sót ấy để

giảm những hạn chế còn tồn tại trong việc phát huy giá trị đạo đức truyền

64

thống, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY

3.1. Phương hướng

3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh tạo điều kiện phát

huy giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh

niên sinh viên hiện nay

Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên,

chúng ta cần phải xây dựng một môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành

mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những chuẩn mực đạo đức

mới trong sinh viên. Bởi lẽ, môi trường sống, điều kiện kinh tế - xã hội có

ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức, lối sống, tình cảm, sự hình thành nhân cách

của con người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nền tảng là toàn

bộ đời sống kinh tế - xã hội, các quan hệ lợi ích của con người. Nền tảng

kinh tế - xã hội cho sự khẳng định một nền đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt

Nam là công cuộc đổi mới đất nước, là đảm bảo sự định hướng xã hội chủ

nghĩa trong xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, là mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ

vững nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Trên nền tảng kinh tế - xã hội được

đổi mới đó, chúng ta sẽ có cơ sở khách quan để giáo dục đạo đức cho thanh

niên sinh viên theo hướng kết hợp biện chứng các giá trị truyền thống và các

giá trị hiện đại.

Về nguyên tắc, muốn xoá bỏ những quan niệm đạo đức cũ, lỗi thời,

lạc hậu thì trước hết phải xoá bỏ cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra nó. Đồng thời,

muốn xác lập một nền đạo đức mới thì trước hết cũng phải tạo dựng được

65

những điều kiện kinh tế - xã hội mới.

Vận dụng những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, “Đảng và Nhà

nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [11, tr.86].

Nền kinh tế thị trường tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau và

việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở một nước có trình độ kinh tế còn

thấp kém như nước ta thì việc phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu

khách quan. Kinh tế thị trường là một phương thức phát triển sức sản xuất để

đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta phát triển

khác về chất so với nền kinh tế thị trường ở nhiều nước khác.

Theo quan điểm của Đảng ta trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X có khẳng định: “Đến nay, có thế sơ bộ nêu lên những nội dung cơ bản của

định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:

- Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản

xuất, nâng cao đời sống nhân dân.

- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh

tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với

kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc

dân.

- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày trong từng bước và từng

chính sách phát triển; hình thành cấu trúc kinh tế - xã hội phát triển ổn định,

bền vững; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu

quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và

thông qua phúc lợi xã hội.

- Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản

lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo

66

của Đảng” [13, tr.329-330]

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhân tố bảo đảm ngăn ngừa,

hạn chế và từng bước khắc phục những tác động tiêu cực về mặt đạo đức của

kinh tế thị trường và phát huy những mặt tích cực của nó; tạo môi trường

cho việc xác lập địa vị chủ thể của cá nhân thông qua việc kích thích tính

tích cực trong hoạt động của con người; là cơ sở để cá nhân thực hiện sự tự

do, bình đẳng của mình.

Trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan

trọng về nhiều mặt, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, trong đời sống văn hoá

xã hội vẫn tồn tại nhiều tàn dư tư tưởng cũ, lạc hậu mà hình thức biểu hiện

tập trung, rõ nét nhất của chúng là trong và thông qua các phong tục, tập

quán lạc hậu. Do đó, cùng với phát triển kinh tế, chúng ta đồng thời phải tiến

hành cải tạo phong tục, tập quán lạc hậu.

Tập quán là thói quen, nếp sống hay cách làm việc do nhiều lần mà có

[20, tr.723]. Phong tục là thói quen xã hội của một địa phương, một nước

[20, tr.637]. Phong tục là những khuôn phép mà những khuôn phép này có

thể do cả tập thể tự nguyện tạo ra, những cũng có khi do một số người qui

định và buộc tập thể phải tuân theo. Trải qua lâu đời, các qui định như thế

trở thành cái gọi là phong tục.

Phong tục, tập quán có thể là những giá trị tốt đẹp (thuần phong mỹ

tục), nhưng cũng có thể là những yếu tố lạc hậu, tiêu cực (hủ tục). Những

thuần phong mỹ tục chính là điểm tựa tinh thần, có tác dụng to lớn trong

giáo dục đạo đức đối với mọi đối tượng, đặc biệt là với thế hệ trẻ. Ngược lại,

các hủ tục chính là vật cản, có sức ỳ ghê gớm kìm hãm sự phát triển xã hội.

Vì vậy, việc duy trì, phát huy giá trị của các phong tục, tập quán tốt và cải

tạo các phong tục tập quan lạc hậu, xây dựng phong tục tập quán mới là vấn

đề quan trọng trong công cuộc đổi mới hiện nay, có ảnh hưởng sâu sắc trong

việc xây dựng đạo đức mới cho tầng lớp thanh niên sinh viên. Hàng năm,

chúng ta tổ chức những dịp lễ, hội truyền thống để hướng mọi người nhớ về

67

cội nguồn, nhớ về quê hương, nhớ ơn ông bà tổ tiên, những vị anh hùng có

công với dân tộc và cũng để mọi người có dịp gần gũi, giao lưu, học hỏi lẫn

nhau, nâng cao tình đoàn kết,... Song không nên thái quá, tổ chức rườm rà

tốn kém, đặc biệt phải ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan lợi dụng dịp

lễ hội để truyền bá. Để ngăn chặn và cải tạo những phong tục, tập quán đang

có tác động xấu đến đời sống xã hội nói chung và quá trình xây dựng đạo

đức mới cho thanh niên sinh viên nói riêng, chúng ta cần thực hiện:

- Cải tạo hủ tục mê tín, dị đoan. Đây chính là tàn dư về văn hoá của xã

hôi cũ đang hoành hành và gây tác hại không nhỉ đến đời sống vật chất cũng

như tinh thần của nhân dân, tạo nên ở không ít người những niềm tin mù

quáng, trở thành vật cản lớn cho sự phát triển xã hội.

- Cải tạo tập quán “phép vua thua lệ làng”. Lệ làng được hiểu như là

những phong tục, tập quán của một cộng đồng người trong một làng, một xã

hay một địa phương nhất định. “Phép vua thua lệ làng là biểu hiện cụ thể của

tư tưởng cục bộ địa phương, nó làm cho hệ thống pháp quyền phải đi gấp

khúc mới đến người dân, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng

vô chính phủ, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật.

- Khắc phục tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, xem thường lớp trẻ. Sự

phân biệt giới theo quan niệm phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt ở

nông thôn. Quan điểm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” gắn liền với sự

lưu truyền nòi giống và thờ phụng tổ tiên vẫn ăn sâu trong tư tưởng nhiều

người. Điều đó làm hạn chế hiệu quả của công tác tuyên truyền sinh đẻ có

hoạch, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hơn nữa, tư tưởng này còn tồn

tại thì người phụ nữ sẽ không bao giờ được giải phóng thực sự, vai trò của

họ đối với xã hội cũng không được đánh giá đúng mức.

- Ngoài ra, chúng ta cũng phải loại bỏ những tư tưởng quan liêu, gia

trưởng, coi thường lớp trẻ, cản trở sự năng động, sáng tạo, sự phát triển cá

nhân của thế hệ trẻ như: “sống lâu lên lão làng”, “ngựa con háu đá”, “trứng

68

không hơn vịt”, “vắt mũi chưa sạch”,...

Cùng với việc cải tạo các phong tục, tập quán, chúng ta cần kiên quyết

đấu tranh chống tham nhũng cùng nhiều tệ nạn xã hội khác. Trong những

năm gần đây, tệ nạn tham nhũng được xác định không còn đơn giản là nguy

cơ mà đã trở thành “quốc nạn” đe doạ sự phát triển bền vững của đất nước.

Do đó, chúng ta cần có những điều luật rõ ràng về vấn đề này, những biện

pháp mạnh và cách thức đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng và các tệ

nạn xã hội.

Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp tăng trưởng kinh tế

với xây dựng các quan hệ đạo đức, nếp sống lành mạnh trong quá trình

chuyển sang kinh tế thị trường như là điều kiện để kế thừa và đổi mới các

giá trị đạo đức truyền thống, cần phải chú trọng các mặt sau:

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường

hiệu lực quản lý của Nhà nước và thực hiện nhất quán chính sách phát triển

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo quan điểm của Đảng ta.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng đạo đức

mới, trong đó đạo đức truyền thống là một bộ phận hợp thành, được kế thừa

và đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của con người và xã hội Việt Nam

hiện nay.

- Bảo đảm thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội khả dĩ có thể

kết hợp tăng trưởng kinh tế với xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tăng

trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội.

Như vậy, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển của

kinh tế thị trường, gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng đời sống văn hoá

tinh thần tốt đẹp là tiền đề, điều kiện để kế thừa và phát huy những giá trị

đạo đức truyền thống dân tộc trong giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt

69

Nam hiện nay.

3.1.2. Bảo đảm thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy

các giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay

Lịch sử nhân loại cho thấy, bất cứ một dân tộc nào biết kết hợp chặt

chẽ giữa các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, biết chắt lọc những

tinh hoa văn hoá nhân loại với việc sử dụng những giá trị vốn có để làm giàu

thêm giá trị của mình, làm cho nó phù hợp với thực tiễn thì dân tộc đó sẽ

đứng vững, sẽ phát triển bền vững trước mọi thử thách.

Theo quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự phát triển

được khẳng định bằng sự ra đời của cái mới, cái mới ra đời phủ định cái đã

lạc hậu song không phải là phủ định sạch trơn mà trên cơ sở có kế thừa giá

trị của cái cũ, đồng thời đổi mới nó cho phù hợp với giai đoạn mới.

Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm

lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi xem xét đạo đức truyền thống

dân tộc, chúng ta cần thấy được mặt tích cực cần gìn giữ và phát huy để xây

dựng đời sống đạo đức mới, đồng thời cũng cần sáng suốt đánh giá đúng mặt

hạn chế trong truyền thống để tìm cách loại bỏ dần chúng khỏi đời sống văn

hoá xã hội.

Dân tộc Việt Nam đã có bề dày lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ

nước. Đó là lịch sử vừa hào hùng vừa có đau thương, mất mát. Quá trình đó

đã rèn luyện, đào tạo nên những thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau với tinh

thần yêu nước quật cường, đã làm cho đất nước không ngừng phát triển bền

vững, với những giá trị dân tộc hết sức quý báu. Những truyền thống ấy

không ngừng được giữ gìn và tô thắm thêm giá trị và ý nghĩa của nó trong

tiến trình lịch sử. Thực tế, những giá trị truyền thống dân tộc nếu không

được kế thừa, phát huy và đổi mới trong những điều kiện mới, hoàn cảnh

mới thì nó sẽ bị mai một, ảnh hưởng tới sự phát triển của dân tộc, gây xung

đột giữa sức nặng uy lực của truyền thống với yêu cầu đổi mới của cuộc

70

sống hiện đại. Do đó, trong giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho

thanh niên sinh viên, việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền

thống cần theo các hướng sau:

Thứ nhất, kế thừa, phát huy và “hiện đại hoá” các giá trị đạo đức

truyền thống tốt đẹp, tiêu biểu cho bản lĩnh và sức sống của dân tộc Việt

Nam, tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền thống dân tộc

được đúc kết và luôn luôn cần đổi mới, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh

lịch sử mới như: truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng

đồng, lòng nhân ái khoan dung, đức tính cần cù tiết kiệm, sáng tạo trong lao

động,...

- Về truyền thống yêu nước, đó là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử

Việt Nam, là một giá trị đạo đức tiêu biểu đã được thử thách qua lịch sử.

Cho dù, hệ giá trị có chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội như thế

nào chăng nữa nó vẫn xoay quanh cái trục tinh thần yêu nước đó. Tuy nhiên,

khi lịch sử biến đổi, với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, tinh

thần yêu nước cũng phải biến đổi theo cho phù hợp.

Lịch sử đã chứng minh, nếu không biến đổi phù hợp thì những giá trị

này lại trở thành rào cản trong quá trình phát triển. Thật vậy, vào cuối thế kỷ

XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước cũ theo sắc thái Nho giáo hay Phật

giáo mặc dù đã tạo nên những thời kỳ hưng thịnh cho nước nhà ở các thời

đại trước nhưng nay lại tỏ ra bất lực trước những nhiệm vụ chống trả sự xâm

lược của thực dân Pháp. Các phong trào Cần Vương, Đông du, Duy tân của

Tông Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã chứng tỏ tư tưởng

yêu nước truyền thống không còn phù hợp. Nguyên nhân của sự thất bại đã

nói lên sự thiếu vắng của hệ tư tưởng khoa học ngang tầm thời đại. Vì thế,

sự xuất hiện tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra bước ngoặt

mới cho cách mạng Việt Nam. Kết hợp những giá trị truyền thống dân tộc

với những giá trị của thời đại, Hồ Chí Minh đã khẳng định về sự cần thiết

phải biến đổi và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là phải gắn

71

tinh thần yêu nước dân tộc với chủ nghĩa yêu nước quốc tế.

Đặc biệt, trước xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, việc cần

thiết phải có sự kết hợp với tinh thần quốc tế là nội dung chủ yếu của chủ

nghĩa yêu nước mới. Chủ nghĩa yêu nước mới gắn liền với tinh thần yêu

chuộng hoà bình và tĩnh hữu nghị giữa các dân tộc trên toàn thế giới. Tinh

thần này được thể hiện trong mục tiêu của Đảng đề ra: “Việt Nam muốn làm

bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc

lập và phát triến” [10, tr.172]

Ngày nay, tinh thần yêu nước là gắn độc lập dân tộc với CNXH, yêu

nước phải yêu CNXH. Trước yêu cầu của thực tiễn hiện nay, phải chuyển

hoá chủ nghĩa yêu nước trước đây thành ý chí vươn lên làm giàu cho bản

thân, cho gia đình và xã hội, quyết tâm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phải chuyển từ ý chí không

chịu mất nước, không chịu làm nô lệ trước đây thành ý chí không chịu

nghèo đói, ngu dốt, lạc hậu, bị lệ thuộc. Nếu như trước đây, yêu nước là phải

hi sinh cứu nước, phải chiến thắng giặc ngoại xâm thì nay yêu nước là phải

kiên quyết chống các thế lực thù địch, phản động, chống tham nhũng, buôn

lậu, các tệ nạn xã hội khác - những vấn nạn đã và đang làm băng hoại các

giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Yêu nước là phải có lòng tự hào

dân tộc. Vì niềm tự hào về các giá trị chân chính luôn là động lực tinh thần

to lớn giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi khó khăn thử

thách. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, niềm tự hào cũng thể hiện khác nhau. Trong

thời kỳ hiện nay, ý thức tự hào về việc đánh thắng kẻ thù là một động cơ,

nhưng quan trọng hơn là ý thức về CNXH chân chính, về mục tiêu xây dựng

xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh sẽ giúp chúng ta

có định hướng đúng đắn trong hoạt động của mình. Thế hệ thanh niên sinh

viên hôm nay cần biết gắn niềm tự hào dân tộc với ý thức tự lực, tự cường, ý

thức vươn lên bằng chính sức lực của mình, không ảo tưởng, chủ quan, luôn

72

hướng tới mục tiêu xây dựng CNXH.

- Về lòng thương người, tinh thần nhân ái của dân tộc ta, trước đây

mới chỉ dừng lại ở tình cảm sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với nhau trong lúc khó

khăn hoạn nạn: “tối lửa, tắt đèn có nhau”. Đã có thời kỳ, nhiều người hiểu

sai rằng: yêu thương con người là phải làm cho mọi người phát triển giống

nhau. Điều này dẫn đến việc con người sống không còn cá tính, nhân cách

đơn điệu, nghèo nàn. Hơn nữa, chính sách phân phối bình quân, không có

đãi ngộ xứng đáng với những người có công đã gần như triệt tiêu động lực

kinh tế phát triển, sinh ra tính ỷ lại ở con người, không khuyến khích được

khả năng sáng tạo trong mỗi người.

Hiện nay, lòng nhân ái ngoài việc thể hiện ở sự sẻ chia, giúp đỡ mọi

người còn phải tạo mọi điều kiện phát huy năng lực cá nhân, con người phải

được coi là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu

hoá, lòng thương người không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một

dân tộc, mà còn được mở rộng, kết hợp với các quốc gia, dân tộc khác để

giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như: bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ

môi trường, chống các dịch bệnh hiểm nghèo, chống chiến tranh hạt nhân,...

đảm bảo cho sự phát triển bền vững.

Như vậy, ngày nay, lòng yêu thương con người phải bao gồm cả việc

giải phóng mọi tiềm năng, phát huy hết sức sáng tạo và đảm bảo điều kiện

cho sự phát triển phong phú, hài hoà ở con người.

- Về tinh thần đoàn kết dân tộc, truyền thống này cũng giúp chúng ta

vượt qua biết bao khó khăn trong quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Song trước đây, vì quá đề cao ý thức cộng đồng nên nhiều người Việt Nam

có tư tưởng bình quân, cào bằng. “Khôn độc không bằng ngốc đàn”, “Xấu

đều còn hơn tốt lỏi”. Điều này gây nên rất nhiều trở ngại đối với sự phát

triển đất nước.

Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi nhanh chóng,

chúng ta càng cần phải đoàn kết hơn nữa để xây dựng và bảo vệ thành công

73

CNXH. Chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế là khoảng cách giàu

nghèo ngày càng gia tăng trong điều kiện kinh tế thị trường và nhiều diễn

biến phức tạp của tình hình thế giới, phong trào đòi ly khai của một số dân

tộc, sự đối đầu giữa các tôn giáo, đặc biệt là âm mưu diễn biến hoà bình.

Tình hình ấy có ảnh hưởng không tốt đến việc xây dựng khối đoàn kết dân

tộc. Do đó, chúng ta càng cần phải chú ý hơn nữa trong việc phát huy tinh

thần đại đoàn kết, đoàn kết giữa các giai cấp, giữa các lực lượng trong toàn

xã hội, giữa nhân dân trong nước với kiều bào nước ngoài và bạn bè quốc tế.

Đảng ta đã nêu rõ: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai

cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất

nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người

đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở

trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc,

truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy

mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng,

dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến mặc khác

nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ định kiến mặc cảm,

phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi

mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai” [8, tr.123-124].

Như vậy, tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng của dân tộc ta cũng

cần được thực hiện trên tinh thần mới: tinh thần bình đẳng, có cạnh tranh

lành mạnh, tạo dựng cơ hội cho mọi người cùng vươn lên, tạo dựng cuộc

sống hạnh phúc, ấm no. Tinh thần đoàn kết được mở rộng: đoàn kết dân tộc,

đoàn kết các Gdân tộc, nhân loại trên thế giới, vì hạnh phúc và tương lai

phát triển của nhân loại. Giúp thanh niên sinh viên ý thức được vai trò và

trách nhiệm của mình trong việc thực hiện những vấn đề này cũng là một

yêu cầu đối với việc xây dựng đạo đức mới cho họ.

- Về tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, cha ông ta nhờ đó mà đã

vững bước đi lên bằng chính sức mình. Mặc dù, con người Việt nam truyền

74

thống có đức tính chăm chỉ, cần cù rất đáng quý nhưng nếu đề cao đức tính

này một cách thái quá, cho rằng “cần cù bù thông minh” thì nền sản xuất

khó có thể phát triển được. Nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu ở Việt Nam

chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu cho người dân chứ không

thể đảm bảo cho sự phát triển phong phú của con người. Hơn nữa, khi dân

số ngày càng tăng lên, đất đai sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp,

thiên nhiên có nhiều biến đổi bất lợi, thì lao động cần cù không thôi sẽ chưa

đủ mà cần phải có thêm những đức tính khác trong lao động: sự sáng tạo, có

kỹ thuật cao, có tính kỷ luật.

Ngày nay, chúng ta vẫn phát huy và luôn gắn cần cù tiết kiệm với

trình độ khoa học, sáng tạo không ngừng, có kỷ luật cao trong lao động. Có

thể nói, sáng tạo đã trở thành đặc trưng cho người lao động hiện đại. Bên

cạnh đó, chúng ta cũng cần phải có lối sống giản dị, tiết kiệm đúng mực,

tránh xa hoa, lãng phí. Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương

Đảng khoá VIII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh vai trò to lớn

của việc thực hành tiết kiệm trong quá trình phát triển: “Chúng ta nhất thiết

phải cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải khắc phục xu hướng

chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa lãng phí. Đó là một trong những

nhân tố quyết định thành công của chúng ta” [45, tr.7]. Việc thực hành tiết

kiệm phải đi đôi với công tác phòng chống tham ô, tham nhũng - một trong

bốn nguy cơ lớn mà Đảng ta đã chỉ ra trong quá trình xây dựng CNXH. Có

như vậy thì chúng ta mới thực hiện được việc “đi tắt đón đầu” trong quá

trình phát triển, nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp

hiện đại.

Ngoài các giá trị chủ yếu trên, các giá trị đạo đức truyền thống như:

tinh thần lạc quan, tính trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, thuỷ chung,...cũng

cần được kế thừa và đổi mới trong việc xây dựng đạo đức mới cho tầng lớp

thanh niên sinh viên hiện nay.

Tóm lại, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào và trân trọng các giá trị

75

đạo đức truyền thống của dân tộc song chúng ta không nên bằng lòng với

những gì đã có, không dừng lại ở đó. Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức

truyền thống, một mặt phải giữ gìn, phát huy tác dụng của nó, mặt khác phải

bổ sung thêm những giá trị thời đại phù hợp với định hướng xã hội chủ

nghĩa.

Thứ hai, các giá trị đạo đức truyền thống cũng cần được làm giàu

thêm, bổ sung có chọn lọc những giá trị của nhân loại thông qua giao lưu,

hội nhập sao cho phù hợp với yêu cầu cách mạng Việt Nam trong giai đoạn

mới. Giao lưu văn hoá là sự vận động thường xuyên gắn với tiến bộ xã hội,

là một trong những động lực phát triển của các nền văn hoá, trong đó có đạo

đức. Đây là quá trình tác động lẫn nhau giữa cái nội sinh và cái ngoại sinh

trong văn hoá, trong đó cái nội sinh giữ vai trò quyết định, định hướng mối

quan hệ của nó với cái ngoại sinh, là biểu hiện của sự kế thừa mang tính

“đồng đại”. Vì vậy, đây cũng là quá trình trao đổi, lựa chọn và tiếp nhận các

giá trị giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, thực hiện chính sách mở cửa của

Đảng ta, quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với một tốc độ

và một chất lượng chưa từng có ở Việt Nam. Đây là một quá trình hợp với

quy luật khách quan. Thông qua giao lưu, học hỏi và hội nhập, thanh niên

sinh viên Việt Nam nhanh chóng tiếp thu được những phẩm chất đạo đức

hiện đại như: ý chí vươn lên, khát vọng thành đạt, tư duy khoa học và năng

động, tác phong công nghiệp, nhạy bén, linh hoạt, ý thức tổ chức kỷ luật

cao, biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng dân chủ, ý thức pháp luật tốt và cả

những chuẩn mực mới như: đạo đức nghề nghiệp, đạo đức sinh thái,...

Thanh niên sinh viên là những người hết sức nhạy cảm trước những

tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của các yếu tố thời đại. Trong xu thế hội

nhập, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều nguy

cơ, thách thức lớn lao: vấn đề ô nhiễm môi trường gia tăng, nhiều dịch bệnh

lan tràn, sự phân hoá giàu nghèo, những cuộc chạy đua vũ trang (vũ khí hạt

76

nhân, vũ khí sinh học giết người hàng loạt),... Tình hình ấy đặt ra cho chúng

ta yêu cầu là phải có chiến lược bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Để có được

những con người Việt Nam hiện đại cần phải xây dựng đạo đức cho thế hệ

trẻ trên cơ sở kế thừa phát huy và đổi mới những giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc. Để thực hiện được yêu cầu này, chúng ta cần phải làm tốt các

nhiệm vụ sau đây:

- Nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là trình độ học vấn cho thanh

niên sinh viên, giúp họ am hiểu và nắm vững truyền thống đạo đức và văn

hoá của dân tộc, từ đó, hình thành niềm tin vững chắc và lòng tự hào lớn lao

về lịch sử hào hùng của dân tộc, tự tin bước vào hội nhập mà không bị “hoà

tan” bởi văn hoá ngoại lai.

- Khắc phục cả hai khuynh hướng cực đoan trong việc tiếp thu các giá

trị thời đại: bài ngoại hoặc sùng ngoại, tự tôn dân tộc đến mức kiêu ngạo

hoặc kỳ thị dân tộc

- Nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình” trên

mặt trận văn hoá tư tưởng của các thế lực thù địch.

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên

sinh viên Việt Nam hiện nay

3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà

trường, xã hội

Môi trường giáo dục thống nhất, lành mạnh là môi trường trong đó có

sự kết hợp đồng đều cả ba chủ thể giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội. Cả

ba chủ thể này tạo nên một cơ chế giáo dục thống nhất, tác động và hỗ trợ

cho nhau. Bản chất của sự phối hợp này là đạt được sự thống nhất về các

yêu cầu giáo dục, khiến cho định hướng đạo đức của giới trẻ được xác lập

đúng đắn, đầy đủ và vững chắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: giáo dục trong

nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và của gia đình

77

để giúp việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà

trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội

thì kết quả cũng không bao giờ được như mong muốn. Trong văn kiện Hội

nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta chỉ rõ: “Gìn

giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò

gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá. Xây

dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” [10, tr.60]

Những năm gần đây, phương hướng này về cơ bản đã được thực hiện,

góp phần quan trọng trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên

sinh viên. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển xã hội, với mục tiêu xây dựng

con người mới theo tinh thần của “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là: con người có ý thức làm

chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi;

sống có văn hoá và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân

chính,...thì chúng ta còn nhiều việc phải làm. Trong văn kiện Hội nghị Ban

chấp hành Trung ương lần thứ hai khoá VIII có viết: “Gia đình và các tập

thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa

phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị,

đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm đồi truỵ”

[9, tr.21]. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội là

vấn đề then chốt, là một việc làm hết sức cần thiết trong việc giáo dục đạo

đức, tư tưởng, lối sống cho thanh niên sinh viên.

Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có êm ấm, hạnh phúc thì xã hội

mới có trật tự, phát triển. Đó là chiếc nôi nuôi dưỡng, chăm sóc tâm hồn và

cuộc đời của mỗi con người. Vai trò của người cha, người mẹ với việc giáo

dục con cái trong gia đình là hết sức quan trọng. Sự giáo dục bằng việc

khuyên răn, dạy bảo con cái những điều hay lẽ phải, sống theo cái Chân -

78

Thiện - Mỹ và bằng cả việc làm gương của chính cha mẹ.

Thực tế vẫn còn không ít gia đình mà các bậc cha mẹ chưa ý thức

được vai trò lớn lao ấy, hay quan tâm chưa đúng mức tới việc giáo dục con

cái. Dẫn đến tình trạng: nhiều thanh niên hiện nay không được giáo dục đạo

đức chu đáo từ nhỏ, hư hỏng, trở thành một bộ phận đi ngược với xu thế

chung của sự phát triển xã hội.

Đứng trước thực trạng đó, mỗi gia đình phải có sự quan tâm đúng

mực với việc giáo dục con em mình. Ngoài việc giáo dục nhận thức trí tuệ

cho con cần phải bồi dưỡng thường xuyên về mặt đạo đức, nhân cách; kết

hợp những phương pháp giáo dục truyền thống với phương pháp hiện đại

sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Mỗi gia đình cần phải là nơi lưu truyền

những giá trị văn hoá dân tộc, đồng thời cũng luôn phấn đấu xây dựng “nếp

sống văn minh”, “gia đình văn hoá”.

Gia đình rất cần phải kết hợp chặt chẽ với nhà trường, vì nhà trường là

nơi trang bị các kiến thức văn hoá cơ bản cho thanh niên sinh viên. Đa phần

thanh niên sinh viên là đối tượng đi học phải sống xa nhà, xa sự quản lý chặt

chẽ của gia đình, phải tự lập hơn. Do đó, một môi trường giáo dục hợp lý là

nhà trường sẽ phải thường xuyên thông tin, liên lạc với gia đình để gia đình

các em có thể nắm bắt chính xác tình hình học tập rèn luyện của con em

mình. Trong những trường hợp cần thiết, gia đình và nhà trường sẽ kịp thời

phối hợp để giúp đỡ sinh viên. Hơn nữa, khi ngồi trên ghế nhà trường, sinh

viên còn được học các môn đạo đức, giáo dục ý thức tư tưởng chính trị, hiểu

được những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại và thấm nhuần những giá

trị đạo đức truyền thống dân tộc qua các bài học, qua nhiều phong trào của

nhà trường. Từ đó, sinh viên nâng cao ý thức đạo đức của mình.

Sinh viên khi phải sống xa gia đình là đồng thời các mối quan hệ xã

hội cũng được mở rộng hơn. Một môi trường xã hội lành mạnh cũng là điều

kiện rất cần thiết trong việc hình thành và hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối

79

sống mới của thanh niên sinh viên hiện nay. Xã hội là một môi trường rộng

lớn mà ở đó các cá nhân có mối quan hệ giao tiếp với nhau trong học tập,

sinh hoạt và thể hiện khả năng của mình. Đối với xã hội, trực tiếp là Nhà

nước, cần có những định hướng toàn diện về mặt kinh tế, tư tưởng đạo đức,

hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ đãi ngộ được thực hiện qua nhà nước,

qua mạng lưới tuyên truyền thông tin đại chúng, qua dư luận xã hội,... để

xây dựng một môi trường lành mạnh.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa gia đình, nhà

trường và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh

niên sinh viên, trước mắt chúng ta cần giải quyết tốt một số điểm sau đây:

Thứ nhất, trong giáo dục đạo đức cho sinh viên, giữa gia đình, nhà

trường và xã hội phải có sự thống nhất về quan điểm, nội dung, phương

pháp, tránh tình trạng phân tán, biệt lập. Gia đình phải luôn nắm được những

thông tin từ phía nhà trường, có những hiểu biết nhất định về phía nhà

trường để không cản trở con em mình tham gia các hoạt động chính trị - xã

hội do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Các bậc phụ huynh cũng

phải đổi mới nhận thức, phương pháp giáo dục sao cho phù hợp, tạo sự gần

gũi và hiểu con mình hơn, tránh tình trạng có sự xung đột giữa các thế hệ.

Thứ hai, gia đình, nhà trường và xã hội phải nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong việc kết hợp giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên. Đặc

biệt, vai trò của các cấp lãnh đạo của Đảng từ cơ quan Bộ đến các trường

cao đẳng và đại học phải hết sức nêu cao trách nhiệm của mình, luôn quan

tâm đến công tác giáo dục đạo đức tư tưởng, lối sống lành mạnh cho sinh

viên, quan tâm đến nguyện vọng cũng như quyền lợi của sinh viên, phối hợp

chặt chẽ với chính quyền địa phương để nâng cao hiệu quả trong công tác

này. Nhà trường là nơi đào tạo con người không chỉ về mặt tri thức mà còn

cả về mặt đạo đức. Vì thế, nhà trường cần đảm bảo giữ nề nếp kỷ cương

trong học đường, tạo môi trường trong sạch, lành mạnh giúp sinh viên nhận

80

thức được những giá trị đạo đức là cần thiết, là có ý nghĩa với bản thân và xã

hội. Sinh viên sẽ có ý thức tôn trọng những giá trị truyền thống của dân tộc.

Giáo dục đạo đức trong nhà trường còn làm cho sinh viên biết yêu quý, cố

gắng lĩnh hội và thực hiện các giá trị đạo đức đích thực, không chấp nhận

những gì là phản giá trị, có tinh thần đấu tranh bảo vệ và phát triển những

giá trị đạo đức truyền thống.

Đối với những thanh niên sinh viên sống trong ký túc xá của các

trường cao đẳng và đại học, nhà trường phải luôn luôn quan tâm đến điều

kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của họ. Các bộ phận làm công tác quản

lý sinh viên của trường phải phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng,

chủ yếu là Đoàn thanh niên và Hội sinh viên để quản lý sinh hoạt ăn ở, học

tập, giải trí của sinh viên, luôn luôn cố gắng xây dựng môi trường ký túc xá

“Xanh - Sạch - Đẹp”. Nhà trường hàng năm cũng cần phải đầu tư kinh phí

để tu bổ, sửa chữa, mở rộng ký túc xá sao cho đáp ứng nhu cầu số lượng

sinh viên ngày càng tăng, làm sao cho chất lượng điều kiện sống ở ký túc xá

ngày càng cao. Sinh viên sẽ thấy thật sự thoải mái với môi trường sống và

học tập. Hơn nữa, trường cũng cần phối hợp với công an phường để quản lý

về mặt nhân khẩu và trật tự an ninh xã hội. Mặt khác, bộ phận quản lý ký túc

xá cũng cần phối hợp chặt với lực lượng bảo vệ ở nhà trường để giữ gìn trật

tự, tài sản cho sinh viên.

Đối với những sinh viên phải thuê nhà trọ ở ngoài thì càng cần được

quan tâm nhiều hơn của gia đình, các chủ hộ cho thuê nhà và chính quyền

địa phương và các tổ chức đoàn thể trong việc quản lý các em. Nếu quản lý

lỏng lẻo, nhiều sinh viên chưa ý thức hết được vai trò, trách nhiệm của mình

sẽ dễ bị mắc vào các tệ nạn xã hội.

Thứ ba, sinh viên là nhóm xã hội có trình độ văn hoá cao, đồng thời

cũng có nhu cầu cao đối với việc hưởng thụ các hình thức văn hoá tinh thần.

Họ thích được tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,

81

hoạt động quần chúng. Do đó, nhà trường mà trước hết là tổ chức Đoàn

thanh niên, Hội sinh viên cần thường xuyên phối hợp với chính quyền địa

phương, các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức

các hoạt động văn hoá, vui chơi giải trí, thể dục thể thao,... để sinh viên có

cơ hội vừa rèn luyện sức khoẻ vừa mở rộng giao lưu với xã hội, được thâm

nhập thực tế, nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng.

Tóm lại, việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội

trong giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên sinh viên nhằm xây

dựng đạo đức mới cho họ là một giải pháp căn bản, cần thiết.

3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho

thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

Nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và đào tạo đã quan tâm đến công tác

giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng và đại học, nhiều lần

tổ chức biên soạn lại giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ môn đạo đức

học. Tuy nhiên, nội dung, chương trình và phương pháp, hình thức giáo dục

đạo đức vẫn còn nghèo nàn, nhiều khi còn nặng tính hàn lâm, xa rời thực tế,

thiếu cập nhật. Giáo viên giảng dạy môn đạo đức học ở các trường cao đẳng,

đại học phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, chủ yếu do các giảng viên

giảng dạy các môn lý luận Mác-Lênin đảm nhận, do đó chất lượng và hiệu

quả thấp. Thực tế này đã được nêu ra trong Hội nghị lần thứ hai Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức

nhân văn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng

dạy các môn khoa học Mác- Lênin bị hạn chế” [9, tr.26].

Giáo dục đạo đức là một phương thức quan trọng trong quá trình xây

dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên. Thông qua giáo dục đạo đức,

sinh viên sẽ lĩnh hội được các phạm trù, khái niệm, các giá trị đạo đức một

cách sâu sắc. Từ đó, các hoạt động của họ sẽ phù hợp hơn với yêu cầu của

xã hội mới, quan trọng hơn là làm cho họ có khả năng tự kiểm tra, đánh gía

82

và tự điều chỉnh hành vi của chính mình trong điều kiện mới. Trong giáo

dục đạo đức, việc coi trọng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là một yêu

cầu cơ bản. Giáo dục đạo đức truyền thống sẽ là cầu nối quan trọng giữa thế

hệ trẻ với quá khứ, với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy

trong họ niềm tin, niềm tự hào và ý thức bảo vệ những thành quả tinh thần

mà ông cha ta đã đạt được.

Để công tác giáo dục mang lại hiệu quả cao, cùng với việc nâng cao

chất lượng đội ngũ giảng viên (vấn đề có ý nghĩa quyết định) cần phải tổ

chức biên soạn tài liệu, giáo trình mới phục vụ tốt hơn cho giảng dạy. Nội

dung giáo dục: kết hợp giữa việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức

truyền thống với việc bổ sung thêm hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức

mới như: đạo đức sinh thái, đạo đức nghề nghiệp, tự lập, tự chủ, sáng tạo,...

Hơn nữa, cần tăng cường và đa dạng hoá các hình thức hoạt động có ý nghĩa

chính trị xã hội để thu hút sinh viên tham gia, kích thích tính tích cực xã hội

ở họ, đồng thời đó cũng là giải pháp tốt nhất để thực hiện phương châm giáo

dục: lý luận kết hợp với thực tiễn, học đi đôi với hành. Như vậy, việc giáo

dục đạo đức sẽ không bị đóng khung trong nhà trường, không tách rời với

cuộc sống sôi động đang biến đổi từng ngày, từng giờ.

Cùng với nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục giá trị đạo đức

truyền thống cho thanh niên sinh viên cũng phải được đổi mới sao cho phù

hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ. Thông thường, chúng ta vẫn áp dụng những

phương pháp mang tính truyền thống trong giáo dục đạo đức như: diễn

giảng, tổ chức cuộc thi tìm hiểu truyền thống, lấy gương người tốt việc tốt

để giáo dục, thiết lập các thói quen ứng xử theo chuẩn mực đạo đức,...Việc

áp dụng và phát huy những phương pháp giáo dục truyền thống này đối với

thanh niên sinh viên là rất cần thiết và quan trọng, tuy nhiên, trong điều kiện

hiện nay đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải luôn đổi mới, tìm những hình

thức giáo dục mới, cuốn hút được đông đảo thanh niên sinh viên tham gia

83

theo kiểu học mà chơi, chơi mà học. Chẳng hạn, một số nơi đã áp dụng các

hình thức sân khấu hoá hoạt động giáo dục truyền thống, tạo ra những sân

chơi lành mạnh, bổ ích cho tuổi trẻ. Ở đó, thanh niên sinh viên không còn có

cảm giác bị “giáo huấn”, học lý thuyết suông. Việc tiếp thu giá trị truyền

thống đến một cách tự nhiên, thoải mái, tự giác mà hiệu quả rất cao. Chính

trong những hoạt động như thế, sinh viên không đơn thuần chỉ là đối tượng

giáo dục, mà xét ở khía cạnh nào đó họ đã trở thành chủ thể giáo dục của

chính mình.

Ngoài ra, chúng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của

các đoàn thể, tổ chức quần chúng cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của

sinh viên. Điều đó đòi hỏi các tổ chức đoàn thể phải có chương trình về công

tác giáo dục thanh niên của tổ chức mình, xây dựng quy chế hoạt động phù

hợp gắn Đoàn thanh niên với hội viên.

Trên thực tế, riêng ở Hà Nội những năm gần đây, Đoàn thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học đã

tổ chức được nhiều hình thức hoạt động mang tính giáo dục giá trị truyền

thống cao, thu hút đông đảo sinh viên hưởng ứng tham gia: chương trình

“Xây dựng hình ảnh người sinh viên Thủ đô ngàn năm văn hiến”, “Tuổi trẻ

học đường Thủ đô tiến bước dưới cờ Đảng thi đua học tập - rèn luyện, lập

công xuất sắc trong phong trào Thanh niên tình nguyện”, thi tìm hiểu “Đảng

cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội”,... Đây là những dịp thuận

lợi để sinh viên biến nhận thức, ý thức đạo đức thành thực tiễn đạo đức,

không ngừng nâng cao tình cảm đạo đức cách mạng cho thanh niên sinh

viên.

3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát

huy các giá trị đạo dức truyền thống dân tộc

Đạo đức và pháp luật đều là những hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có

liên quan với nhau theo nhiều khía cạnh, luôn có tác động, ảnh hưởng và bổ

84

sung cho nhau. Tuy nhiên, đạo đức và pháp luật khác nhau ở hình thức biểu

hiện và tính chất, phương thức điều chỉnh. Pháp luật điều chỉnh các mối

quan hệ giữa cá nhân và xã hội bằng sự cưỡng chế, bắt buộc theo những

chuẩn mực pháp lý. Pháp luật xác định những giới hạn cho hành động của

họ và mức độ trừng phạt những vi phạm. Thông qua các quy phạm do nhà

nước ban hành, pháp luật điều tiết hành vi con người một cách cưỡng chế để

đảm bảo cho sự ổn định nhất định của xã hội. Còn đạo đức điều chỉnh các

quan hệ giữa cá nhân và xã hội thông qua dư luận xã hội, bằng sự cắn dứt

lương tâm của chính chủ thể hành vi, bằng sự giác ngộ đạo đức, niềm tin cá

nhân theo các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, người ta gọi pháp luật là đạo đức

tối thiểu, chuẩn mực đạo đức (điều chỉnh hành vi con người một cách tự

nguyện, tự giác) là pháp luật tối đa. Chính sự thống nhất và khác biệt đó

giữa chúng tạo nên tiền đề cho tác động qua lại, ảnh hưởng và bổ sung lẫn

nhau, cần thiết phải kết hợp hài hoà cả hai trong hoạt động giáo dục.

Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực

nào đó, biến nó thành thói quen, từ đó biến nó thành nhu cầu của con người,

thành chuẩn mực đạo đức. Banzenade có lý khi nhận xét rằng: “Xưa nay,

pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một

chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó bao

nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể

buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo

đức của xã hội” [14, tr.177].

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nếu pháp luật của nhà nước do

giai cấp tiên tiến của thời đại xây dựng thì lợi ích của xã hội về cơ bản là

thống nhất. Do đó, những chuẩn mực, những quy phạm của nó bảo vệ lợi ích

giai cấp cũng đồng thời bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá của con

người. Nói cách khác, nó tạo điều kiện và bảo vệ cho sự phát triển của

85

những giá trị đạo đức. Ngược lại, nếu pháp luật của nhà nước do giai cấp

phản tiến bộ xác lập thì lợi ích của xã hội sẽ có mâu thuẫn, không tạo điều

kiện cho sự phát triển của những giá trị đạo đức chân chính.

Với Việt Nam, ngay khi vừa giành được độc lập, thấy được tầm quan

trọng của pháp luật trong việc bảo vệ, ổn định trật tự xã hội, cũng như trong

việc gìn giữ những thuần phong mỹ tục của dân tộc, Nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà đã cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946. Tiếp

theo đó là các bộ luật, các văn bản pháp lý,... trong đó có nhiều giá trị đạo

đức truyền thống của dân tộc đã được ghi nhận thành những quy phạm bắt

buộc.

Hiến pháp cũng như các bộ luật của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa

được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo lợi ích của mọi

người dân. Các nguyên tắc đạo đức cơ bản của con người cũng như những

giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc - sự công bằng, dân chủ, nhân đạo,

tôn trọng phẩm giá con người - cũng là những định hướng cơ bản trong nội

dung của Hiến pháp và pháp luật. Điều 30, Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện

đại, nhân văn; kế thừa và phát huy các giá trị của nền văn hiến các dân tộc

Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa

văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”.

Hiện nay, nhiều người dân đã có ý thức hơn trong việc thực hiện pháp

luật. Hiến pháp và các quy định pháp luật dần đi vào cuộc sống. Mặc dù vậy,

những hiện tượng vi phạm pháp luật vẫn diễn ra, hơn nữa còn diễn ra với

mức độ và quy mô ngày càng lớn. Có thể khẳng định rằng: các hành vi vi

phạm đạo đức có thể chưa dẫn đến vi phạm pháp luật, nhưng các hành vi vi

phạm pháp luật thì đều có nguồn gốc từ vi phạm đạo đức, trong đó có vi

phạm các giá trị đạo đức truyền thống.

Thực tế, sự thiếu ý thức pháp luật vẫn còn là một hạn chế lớn trong

86

truyền thống đạo đức của chúng ta. Do đó, việc kết hợp đồng thời giáo dục

đạo đức và giáo dục pháp luật để nhằm tạo ra một môi trường pháp lý vững

chắc cho công tác giáo dục truyền thống cho thanh niên sinh viên Việt Nam

hiện nay là biện pháp thực sự cần thiết.

Hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta trong thời gian

qua, nhất là trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ

vai trò to lớn của pháp luật trong việc gìn giữ các giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay,

hiệu lực pháp luật trong quản lý xã hội, bảo vệ và phát huy các giá trị đạo

đức truyền thống vẫn còn nhiều hạn chế. Nhân dân ta từ bao đời gắn bó với

nền sản xuất nhỏ và chưa trải qua nền dân chủ tư sản nên ý thức pháp luật

của đại bộ phận nhân dân còn thấp.

Để nâng cao hiệu quả pháp luật trong việc bảo vệ và phát huy các giá

trị đạo đức truyền thống, phải lưu ý mấy điểm sau:

- Trước hết, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ rất cần thiết.

Hệ thống pháp luật phải được xây dựng trên nguyên tắc như đồng chí Đỗ

Mười nói: “Pháp luật phải tác động tích cực đến việc bảo vệ thuần phong,

mỹ tục, xây dựng đạo đức của mọi người đối với bản thân, gia đình, tập thể

và đối với toàn xã hội, tiếp thu những tinh hoa của loài người đi đôi với việc

bảo tồn và phát huy bản sắc, truyền thống tốt đẹp và những giá trị văn hoá,

tinh thần, đạo đức của dân tộc ta” [45, tr.145].

Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, khoa học pháp lý

cần nghiên cứu cả hệ thống những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,

chọn lọc các giá trị, chuẩn mực đạo đức phù hợp để từng bước luật hoá nó.

Nghĩa là phải lựa chọn và biến những “lệ hay” trở thành “luật nước”. Điều

đó sẽ cho phép các giá trị đạo đức truyền thống được bảo tồn và phát triển.

Hơn nữa, nó làm cho các bộ luật dễ đi vào ý thức mỗi người dân. Từ tình

cảm đối với các giá trị dân tộc mà giá trị pháp lý đi vào ý thức của mỗi

87

người. Từ đó, mọi người dần hình thành thói quen sống và làm việc theo

pháp luật. Khi ấy, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc tự mình sẽ có

điều kiện phát huy tác dụng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các

văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ

quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân

đều được bình đẳng trước pháp luật” [8, tr.32].

- Thứ hai, chúng ta cũng cần nâng cao ý thức thực thi pháp luật hơn

nữa. Bởi lẽ, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện đã nêu ở trên, việc thực thi

pháp luật của người Việt Nam còn rất kém. Để nâng cao việc thực thi pháp

luật, chúng ta phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện

pháp luật, tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào cuộc sống bằng nhiều biện

pháp thích hợp như: tăng cường giáo dục pháp luật trong cộng đồng để nâng

cao nhận thức pháp luật cho mọi người; kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp

luật; xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước có phẩm chất tốt, chuyên

môn cao để đảm bảo việc thi hành pháp luật đầy đủ và có hiệu quả.

Sở dĩ chúng ta cần nhấn mạnh đến công tác giáo dục pháp luật vì: đó

là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác

động lên đối tượng giáo dục, với mục đích tạo cho họ tri thức, tình cảm pháp

luật và qua đó tạo ra những hành vi phù hợp với hệ thống pháp luật hiện

hành.

Giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập trong đời sống

thực tiễn những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho

mỗi người. Mục đích cơ bản của nó là trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng

cao tri thức pháp luật, xuất phát từ những đòi hỏi của các đối tượng giáo dục

khác nhau, phù hợp với các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, hình thành lòng

tin vào pháp luật, xây dựng thói quen vững chắc xử sự theo những đòi hỏi

88

của pháp luật.

- Thứ ba, trong các trường cao đẳng, đại học, việc giáo dục đạo đức

cần thống nhất chặt chẽ với giáo dục pháp luật cho sinh viên. Giáo dục đạo

đức sẽ đem lại cho con người tình cảm, niềm tin đạo đức, giúp con người có

những hành vi hợp đạo đức. Đa số những người có hành vi hợp đạo đức thì

rất hiếm khi vi phạm pháp luật. Còn giáo dục pháp luật tạo ra cho con người

khả năng sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng những phẩm giá của con

người, tôn trọng hạnh phúc của người khác, bởi lẽ trong một số quy phạm

pháp luật có chứa các nguyên tắc đạo đức. Pháp luật và đạo đức có mối quan

hệ rất chặt chẽ. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổ hợp của cả hai dạng

giáo dục: giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật. Do đó, các nhà trường cần

phối hợp với các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội sử

dụng đồng bộ những biện pháp, hình thức của cả hai dạng giáo dục này với

mục đích nhằm hình thành hành vi hợp pháp, hợp đạo lý ở người sinh viên.

3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị

đạo đức truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình

cải tạo thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giáo

dục (trong đó có mặt tự giáo dục) con người có khả năng tự biến đổi nhân

cách của mình một cách có ý thức.

Thanh niên sinh viên là những người được giáo dục bởi nhà trường,

gia đình và xã hội. Cùng với quá trình được giáo dục đó thì tự giáo dục là

một quá trình sinh viên tự hoàn thiện nhân cách của mình, sao cho phù hợp

với yêu cầu của cuộc sống. Để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng

cao của cuộc sống, của thị trường sức lao động, của xã hội hiện đại, sinh

viên phải phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, tích cực, sáng tạo

trong học tập, nghiên cứu khoa học, tự rèn luyện bản thân về mọi mặt, đồng

thời phải luôn ý thức được việc gìn giữ giá trị truyền thống. Tự học chính là

89

quá trình con người tự giác tìm hiểu, khám phá thế giới khách quan và tiếp

nhận, lĩnh hội nền văn hoá tinh thần của nhân loại thành vốn riêng của mình

nhằm mục đích gần và thiết thực để sinh sóng, còn xa và cao thượng là đê

góp phần làm cho xã hội tiến bộ.

Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với một trình

độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo dục

sẽ giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững những kiến thức cơ bản, mà còn

nắm vững những tri thức đạo đức đã được nhà trường trang bị, cùng với giao

tiếp xã hội ngày càng mở rộng. Sinh viên sẽ biết chuyển những kiến thức đó

thành niềm tin cá nhân, xây dựng thế giới quan đúng đắn, nhân sinh quan

tích cực, hình thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp và được thể hiện ngay

trong hành vi ứng xử hàng ngày của sinh viên.

Đạo đức là một nội dung cơ bản thể hiện văn hoá của con người – văn

hoá đạo đức, là mặt giá trị của con người. Nó hướng con người vươn tới

những giá trị đích thực của cuộc sống. Đạo đức ở mỗi người không phải tự

nhiên mà có. Đó là kết quả của cả quá trình phấn đấu, rèn luyện vô cùng khó

khăn, gian khổ. Người có đạo đức phải là người được giáo dục và biết tự

giáo dục tốt. Thông qua hoạt động và giao lưu, con người hiểu rõ hơn về vai

trò của lương tâm, nghĩa vụ, ý thức danh dự và phẩm chất đạo đức cần thiết

của cá nhân đối với đời sống cộng đồng.

Cùng với quá trình giáo dục là quá trình tự giáo dục. Quá trình tự giáo

dục là một quá trình “tự thân vận động”, đòi hỏi phải có một nghị lực, một ý

chí và quyết tâm cao để chiến thắng chính bản thân mình. Nếu không tự giác

rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên thì rất dễ bị gục ngã trước nhiều

cám dỗ của cuộc sống.

Đạo đức không phải cái gì sẵn có. Nó được củng cố, phát triển chủ

yếu do sự đấu tranh, rèn luyện hàng ngày, giống như: “Ngọc càng mài càng

sáng, vàng càng luyện càng trong”. Trên thực tế, có nhiều sinh viên đã nắm

90

được tri thức đạo đức song chưa thực sự thấm nhuần, chưa biết rèn luyện

mình theo những tri thức đã lĩnh hội được nên khi ra trường lại có nhiều ứng

xử, hành vi không đạo đức.

Việc phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, vai trò tự giáo dục, tự

rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên là một trong những

nội dung hiện đại hoá phương pháp giáo dục: Lấy người học làm trung tâm,

người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn và tổ chức quá trình học. Với ý

nghĩa đó, chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp cho sinh viên

có cơ hội để thể hiện mình, để tự vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.

Tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, biết tự rèn luyện các giá trị đạo

đức truyền thống của sinh viên là con đường tất yếu đối với sự phát triển,

91

hoàn thiện nhân cách của sinh viên.

KẾT LUẬN

1. Nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa, phát huy

những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là tiền đề cơ bản để tạo dựng nền

đạo đức lành mạnh của xã hội, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh

viên, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc; phát huy mặt

tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của nền kinh tế thị trường.

2. Trong thời đại mới, để có được nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp

ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh việc

thường xuyên tạo mọi điều kiện tốt nhất để nâng cao trình độ khoa học - kỹ

thuật tiên tiến, hiện đại, chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến công tác

giáo dục nói chung và công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng, lối sống lành

mạnh cho thanh niên sinh viên nói riêng. Nước Việt Nam có phát triển bền

vững được hay không là phụ thuộc rất lớn vào thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp

thanh niên sinh viên. Vì vậy, một yêu cầu cấp thiết là phải biết kế thừa, phát

huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong việc xây dựng đạo

đức mới sinh viên hiện nay, tạo ra cho đất nước những con người vừa có

năng lực vừa có phẩm chất đạo đức tốt: yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,

hăng say nhiệt tình, năng động, sáng tạo,...

3. Sinh viên cả nước nói chung và sinh viên học tại các trường cao

đẳng, đại học ở Hà Nội nói riêng vẫn có ý thức gìn giữ, phát huy các giá trị

đạo đức truyền thống trên tinh thần có đổi mới, hiện đại hoá chúng trong

điều kiện mới bằng những hoạt động học tập, rèn luỵên không ngừng và

tham gia nhiều phong trào mang ý nghĩa giáo dục đạo đức truyền thống. Tuy

nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều khó khăn mà chúng ta gặp phải

trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Vì vậy, để có hiệu quả cao

trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, xây

dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay, chúng tôi một số

92

phương hướng và giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng

XHCN gắn liền với việc cải tạo phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp

sống mới.

Thứ hai, bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới các giá trị

đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh

viên.

Để phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng

đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay cần chú ý thực

hiện những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà

trường, xã hội.

Hai là, đổi mới công tác giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho

sinh viên.

Ba là, tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy

các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.

Bốn là, tăng cường tính tự giác học tập và rèn luyện nhằm nâng cao

93

trình độ hiểu biết về những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

Lương Gia Ban (1999), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2 Nguyễn Trọng Chuẩn (1992), “Một số vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong con người”, Tạp chí Triết học (9).

3 Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền

thống vì mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học (2).

4 Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định và thách thức của thời đại trong bối cảnh của toàn cầu hoá. Báo cáo tại Hội thảo quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Hà Nội.

5 Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6 Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ IV, Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7 Đảng cộng sản Việt Nam (1994). Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm

kỳ khoá VII, Lưu hành nội bộ.

8 Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9 Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10 Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11 Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12 Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13 Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

94

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14 G. Banzenade (1983), Đạo đức học, tập I, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.

15 Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

16 Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17 Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống – nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học (4).

18 Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

19 Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề về văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện

nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

20 Vũ Khiêu (chủ biên, 1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

21 Vũ Khiêu (chủ biên, 1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền

thống dân tộc và nhân loại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

22 Khoa Luật (1996), Giáo trình “Nhà nước và pháp luật”, Trường đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

23 Khoa Sư phạm (2003), Giáo dục đại học (Tài liệu bồi dưỡng dùng cho các lớp Giáo dục đại học và nghiệp vụ sư phạm đại học), Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24 Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc

định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học (6).

25 Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26 Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

27 Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2004), Giáo trình

95

đạo đức học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

28 Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07, đề tài KX 07 - 02, Hà Nội.

29 Phan Huy Lê (1994), Các giá trị truyền thống con người Việt Nam hiện

nay, Đề tài KX - 07 - 02, Hà Nội.

30 Phan Huy Lê (1995), Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và

hiện đại hoá đất nước Việt Nam, Đề tài KX - 07 - 02, Hà Nội.

31 Phan Huy Lê (1996), “Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề

xuất”, Tạp chí cộng sản (18).

32 V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.

33 V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.

34 Lịch sử phong trào học sinh, sinh viên Việt nam và Hội sinh viên Việt

Nam (1925 - 2003), Nxb. Thanh niên, năm 2003.

35 Nguyễn Ngọc Long (1987), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy”, Nghiên cứu lý luận (1+2).

36 Nguyễn Ngọc Long (1990), “Tinh thần cách mạng và đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới”, Nghiên cứu lý luận (3).

37 C.Mác và Ănghen (1982), Bàn về thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà

Nội.

38 C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, NXB. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

39 Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà

Nội.

40 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44 Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng

96

đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45 Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46 Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1998), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47 Trần Sỹ Phán (1998), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48 Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb. Khoa

học, Hà Nội.

49 Lê Đức Phúc (1996), “Bàn về định hướng giá trị khi nước ta chuyển

sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1)

50 Văn Quân (1995), Về các giá trị dân tộc, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà

Nội.

51 Hà Văn Tấn (1981), “Biện chứng của truyền thống”, Tạp chí Cộng sản,

(3).

52 Lê Thị Hoài Thanh (2002), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53 Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

54 Hữu Thọ - Đào Duy Quát (chủ biên, 1999). Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng - văn hoá trong tình hình mới, Nxb. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Hà Nội.

55 Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá, phát triển kinh tế thị trường, Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Hà Nội.

97

56 Mạc Văn Trang (chủ biên, 1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, đề

tài nghiên cứu khoa học (mã số B94 - 38 - 32), Bộ Giáo dục và Đào tạo.

57 Trung ương hội sinh viên Việt Nam (2003), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VI (1998-2003), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

58 Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII (tháng 12/2003), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

59 Thái Duy Tuyên (1995), “Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1).

60 Nguyễn Quang Uẩn - Mạc Văn Trang (1994), Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị,Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07, đề tài KX 07 - 04, Hà Nội.

61 Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (1995), Thực trạng phạm tội của học sinh - sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường.

62 Trần Quốc Vượng (1981), “Về truyền thống dân tộc”, Tạp chí cộng

98

sản, (2).

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Kết quả điều tra sinh viên ở khu vực Hà Nội tháng 3/1993.

Mức độ ĐỘNG CƠ HỌC TẬP

Mạnh % Vừa % Yếu %

1. Học để có việc làm 62,6 23,4 29

2. Học để cha mẹ yên tâm 15,9 40,5 10

3. Học để xây dựng đất nước 10,4 26 15,9

4. Học để kiếm nhiều tiền 33,4 22,6 10,2

5. Học do bạn bè lôi kéo 4,4 11,3 22,8

6. Học vì sự nghiệp khoa học 15,7 18,1 13,8

7. Học chỉ để hiểu biết 18,7 26,6 18,8

99

Nguồn: Trịnh Trí Thức: Luận án Phó tiến sĩ triết học (Phần phụ lục)

Phụ lục 2. DỰ ĐỊNH LÀM VIỆC CỦA SINH VIÊN

SAU KHI RA TRƯỜNG

Nguyện vọng

Y

Thuỷ lợi

Giao thông

nơi làm việc

KT quốc dân

Sư phạm Hà Nội

ĐH Nông nghiệp

ĐH xây dựng

Nội

(Kết quả điều tra xã hội học của hội sinh viên Việt Nam 1996, khu vực miền Bắc, theo tỉ lệ % được hỏi là 735 sinh viên ở năm cuối, trong đó có 47 sinh viên ở Hà Nội, còn lại là các tỉnh)

Ở Hà Nội 41,8 18,9 20,2 48,8 45,5 39,5 37,3

Về các tỉnh 17,6 31,8 26 11 22,8 24,9 7,8

Về các huyện 9,9 13,5 3,1 1,2 5 0 0

Về các xã, bản 3,3 4,1 0 1,2 0 0 3,9

Làm bất cứ nơi 9,9 18,9 24 19,5 19,8 11,6 25,5

đâu

Chưa xác định 17,6 12,8 17,7 18,3 6,9 10,9 25,5

100

Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 24/1997, tr.42.

Phụ lục 3. TIÊU CHÍ LỰA CHỌN CÔNG VIỆC

KHI RA TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN

Kết quả điều tra xã hội học của Hội sinh viên Việt Nam 1996, Khu vực miền Bắc, theo tỉ lệ % được hỏi là 735 sinh viên ở năm cuối, trong đó 47 sinh viên quê ở Hà Nội, còn lại là các tỉnh.

Lựa chọn công KT Sư phạm Thuỷ Giao Y Hà ĐH ĐH

thông Nội Nông việc khi ra quốc Hà Nội lợi xây

trường nghiệp dân dựng

Có thu nhập cao 72,8 48,6 75 75,9 60,5 23 61,8

Được xã hội coi 28,3 54,1 28,1 19,3 45,3 23 23,6

trọng

Đúng chuyên 60 73,6 60,4 74,7 73,3 72 76,4

môn

Hợp sở thích 45,7 52 46,9 32,5 47,7 46 47,3

Có việc làm ổn 54,3 56,1 53,1 49,4 41,9 54 60

định

Để thăng tiến 18,5 6,8 14,6 21,7 4,7 19 14,5

101

Nguồn: Tạp chí cộng sản, số 24/1997, tr.42.

Phụ lục 4. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ SỐ SINH VIÊN ĐƯỢC

KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Ở HÀ NỘI TỪ 1997 ĐẾN 6/2003

Số sinh viên được kết nạp vào Đảng

TT Tên trường 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng

1 2 ĐH ngoại thương 0 4 5 2 10 3 26

2 22 ĐH kinh tế quốc dân 27 30 30 38 58 11 216

3 18 ĐH Y Hà Nội 5 25 27 27 31 10 143

4 6 ĐH sư phạm Hà Nội 7 8 19 25 29 20 114

10 5 ĐH bách khoa Hà Nội 2 18 10 16 13 5 74

6 2 ĐH thương mại 0 4 16 17 11 5 55

4 7 ĐH giao thông vận tải 0 2 6 6 12 7 47

8 9 ĐH mỏ địa chất 3 0 10 7 14 3 46

9 9 Học viện tài chính 2 3 5 10 7 9 45

3 10 ĐH khoa học tự nhiên 3 6 9 8 5 8 42

6 11 ĐH KHXH&NV 1 2 8 6 7 2 32

Nguồn: Đề tài: Giáo dục truyền thống dân tộc cho sinh viên các trường đại

học hiện nay - thực trạng và giải pháp, Báo cáo đề tài cấp Bộ, mã

số: B 2001- 36 – 28 (theo thông báo giao nhiệm vụ số 2887/KHCN

ngày 18/4/2001 của Bộ Giáo dục và đào tạo), Hà Nội, tháng

102

9/2003.