TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐÀO THU HIỀN
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT
1
Hà Nội - 2008
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐÀO THU HIỀN
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
HÀ NỘI - 2008
2
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 1 2 tháng 4 năm 2008.
Tác giả luận văn
3
Đào Thu Hiền
Mở đầu ........................................................................................................... 3
Chương 1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và vai trò của nó trong việc
xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ....... 8
1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay ................................................................................... 8
1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay ................................................................................................... 8
1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện
nay ......................................................................................................... 22
1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay............................ . 24
1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo đức truyền
thống của thanh niên sinh viên Việt Nam ......................................................... 24
1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ............................ 38
Chương 2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân (qua một số trường đại học ở Hà Nội) .......................... 42
2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà Nội hiện nay ... 42
2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo đức truyền
thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay ................... 42
2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua các phong
trào chính trị - xã hội - thực tiễn ............................................................. 51
2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên .............................................................. 55
2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được...................................... 55
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 57
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .............................................................. 62
3.1. Phương hướng .......................................................................................... 62
4
MỤC LỤC
3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .......................................................................................... 62
3.1.2. Bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay .................... 67
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 74
3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã
hội .......................................................................................................... 74
3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên
sinh viên Việt Nam hiện nay .................................................................. 79
3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy các giá
trị đạo dức truyền thống dân tộc ............................................................. 81
3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay .......... 86
Kết luận ........................................................................................................... 89
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 91
Phụ lục ............................................................................................................ 96
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu,
“ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế
tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng,
gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển” [13, tr.73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện
kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị
động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp
xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân
tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Mỗi nước,
mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những thế mạnh của
mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát triển bền vững đất
nước.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng
nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí
lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thanh niên sinh viên là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối
với thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là lớp
người năng động, dễ tiếp thu cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu
ảnh hưởng lớn những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường,
của việc mở rộng giao lưu quốc tế. Song thực tế hiện nay, giới trẻ ít quan
tâm đến truyền thống dân tộc mà có xu hướng thích chạy theo lối sống hiện
6
đại kiểu phương Tây. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng những
biểu hiện đạo đức của lớp trẻ đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cần
phải giải quyết.
Vì thế, vấn đề đạo đức, lối sống của thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay không chỉ riêng với ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành đều
hết sức quan tâm. Đại hội X của Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy
và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học
sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức
và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [13, tr.106]. Ở đây, những giá trị
truyền thống, đặc biệt là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc sẽ là nền
tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt
Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Phát huy giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Mảng đề tài về vấn đề đạo đức truyền thống đã thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học. Một số công trình tiêu biểu của một số tác giả
như: Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến
đổi của giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí
Triết học, số 1. Nguyễn Thế Kiệt (1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí
Triết học số 6. Nguyễn Văn Phúc (1998), “Về một số giải pháp xây dựng
nhân cách đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4. Huỳnh Thái Vinh
(1998), “Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí
Thông tin những vấn đề lý luận, số 16. Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ
7
Phán (1999) “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ của
Bạch Quốc Trám (1999), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt
Nam trong sinh viên thời kinh tế thị trường”. Luận án tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Văn Lý (2000), “Kế thừa và đổi mới các giá trị truyền thống trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”. Huỳnh
Thái Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luận án tiến sĩ triết học của Trần
Minh Đoàn (2002), “Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Lê
Thị Hoài Thanh (2003), “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”. Nguyễn Thế
Kiệt (2006) “ Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền thống đến Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
Như vậy, vấn đề về đạo đức truyền thống đã được nhiều người, nhất
là các nhà khoa học quan tâm . Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, các giá trị đạo
đức truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường đang biến đổi, diễn biến
phức tạp, sự tác động của nó đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thanh
niên sinh viên là vấn đề mới mẻ, cần phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nghiên
cứu sâu sắc hơn. Đề tài “ Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay” sẽ
góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích:
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số
trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
8
trong việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh
niên sinh viên hiện nay.
- Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số
trường đại học ở Hà Nội hiện nay
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay đang học tại một số trường cao đẳng và đại học ở Hà
Nội, tính trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo
đức, phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức
mới cho thanh niên sinh viên.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp để thực hiện luận văn là tổng hợp các nguyên tắc
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng
hợp,...Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
9
- Góp phần luận chứng về mặt lý luận vấn đề phát huy giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt
Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức học ở các trường cao
đẳng và đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
10
luận văn có 3 chương với 6 tiết.
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh
niên sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh
viên Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội,
điều chỉnh hành vi của con người, là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch
sử của xã hội và góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Ph.
Ăngghen cho rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”
[38, tr.137]. Cùng với pháp luật, tôn giáo, phong tục, tập quán,... đạo đức là
một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Sự đánh giá hành vi của
con người theo khuôn phép, chuẩn mực và qui tắc đạo đức, biểu hiện thành
các khái niệm về: thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, vinh và nhục, hạnh
phúc và đau khổ,...Tuy nhiên, các khái niệm cùng các khuôn phép, chuẩn
mực hành vi của con người thường thay đổi theo từng thời đại, với từng giai
cấp, từng dân tộc.
Ngày nay, đạo đức có thể được xem xét từ nhiều phương diện khác
nhau. Có ba phương diện cần chú ý:
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là toàn bộ
những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm
11
đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng.
Xét về mặt nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Chế độ kinh tế -
xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm
này thay đổi theo cơ sở đã sinh ra nó. Những thời đại khác nhau, những cộng
đồng khác nhau có những hệ thống đạo đức khác nhau, chúng phản ánh
những tồn tại xã hội khác nhau. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong kiến, dựa
trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức
xã hội nông nô; thích ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người
công nhân làm thuê là đạo đức tư sản; Chế độ XHCN tạo ra nền đạo đức
biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn
nhau của người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột.
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo
đức,... Những chuẩn mực (khuôn phép) và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả
xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của
mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với Tổ
quốc, Nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch...) và đối với người khác.
Những chuẩn mực và quy tắc nhất định được công luận của xã hội, hay của
một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Công luận xã hội hướng dẫn các cá nhân
hoạt động trong khuôn khổ được phép và tránh những hành vi không được
phép. Sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo
đức là sự tự do lựa chọn của con người.
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.
Giá trị là đối tượng của giá trị học. Giá trị học phân loại các hiện
tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên một cách truyền thống
về các lĩnh vực của đời sống xã hội; các giá trị vật chất và tinh thần; các giá
12
trị sản xuất và tiêu dùng (các giá trị xã hội); các giá trị xã hội - chính trị,
nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo. Đạo đức là một hiện tượng xã hội
mang tính chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá rõ rệt.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , đạo đức được định nghĩa
như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới:
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức
cộng sản. Xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch sử
- tự nhiên, từ thấp đến cao. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên
cơ sở của cái tất yếu kinh tế. Phản ánh cái lôgic kinh tế - xã hội đó, đạo đức
cũng có lôgic tương ứng, đạo đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao
là đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Đấu tranh xoá bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, thủ tiêu
hoàn toàn sự áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- đó là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp này trong cách mạng vô sản, nó
cũng là thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp công nhân sử dụng để xoá
bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu tiên và là lần cuối cùng
đạo đức của một giai cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm
địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó thực hiện bước phủ
định của phủ định, hình thành một vòng khâu phát triển làm nên bước tiến
bộ toàn diện của đạo đức. Lênin cho rằng: “Đạo đức, đó là những gì góp
phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
13
những người cộng sản” [33]
So với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là một bước phát triển
về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các
nền đạo đức trong các thời đại trước. Vì thế, đạo đức mới bao hàm rất nhiều
yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại, là nền đạo đức sẽ được xây dựng lên
trong tương lai trên toàn thế giới cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản.
Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử
xã hội. Nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột
khác. Nó cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ, xét về bản
chất. Sự khác biệt của đạo đức mới so với các kiểu đạo đức trước đây, trước
hết thể hiện ở tính cách mạng và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa
học ấy không chỉ biểu hiện ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà còn biểu hiện ở sự kế thừa có
phê phán và chọn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và
những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hơn nữa, sự khác biệt ấy còn được
biểu hiện ở những nguyên tắc đạo đức mới:
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.
Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu
cầu lao động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Xét cho cùng,
mọi giá trị vật chất tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ hoạt động lao động
của con người. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt
động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt động độc
lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một
giá trị cao đẹp, được coi như một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát
triển thành chủ nghĩa tập thể.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những
14
lý tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh
thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho
các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của
đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà
còn vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc
lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để
cho các cá nhân phát triển.
Dưới CNXH, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ phổ biến, thể hiện
trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống xã hội. Con
người không chỉ nghĩ vì mình mà còn vì người khác với một tinh thần trách
nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ
xã hội, vì thế nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất. Điều này được
thể hiện ở những tình cảm đạo đức thông thường trong quan hệ người với
người được nâng lên thành những tình cảm thiêng liêng, cao quí: đó là tình
bạn, tình đồng chí, đồng đội, tình hữu ái giai cấp, mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người...
Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không thủ tiêu
lợi ích cá nhân. Chúng ta phải tạo ra được một môi trường mà như Mác nói:
Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng
con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó thoả
mãn bằng chế độ XHCN” [42, tr.291]. Người nói: “Đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là “giầy xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều
có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia
đình mình”. [42]. Chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài,
phức tạp, phải hết sức kiên quyết, thực hiện điều này không đơn giản chút
nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người dễ sa vào chủ
15
nghĩa cá nhân, ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ xâm
hại lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng này đều dẫn tới
kết quả là cản trở mục tiêu giải phóng con người thực sự.
Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới.
Lao động là hoạt động đặc trưng cơ bản đầu tiên của con người, để cải
biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con
người, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Trong cuộc sống, con người có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của
mình. Tuy nhiên, thái độ đối với lao động được coi là một trong những chuẩn
mực quan trọng nhất. Người có thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, chăm chỉ
cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, chăm lo thực hành
tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, yêu lao động của mình, biết coi trọng cả lao
động trí óc và lao động chân tay,...sẽ là người được xã hội kính trọng và tôn
vinh.
Theo Lênin, CNXH bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình
thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến
việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề căn bản nhất cho thắng lợi
của chế độ mới. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức,
vô trách nhiệm, kém hiệu quả và vụ lợi. Thái độ lao động tự giác, có kỷ luật,
sáng tạo thể hiện bản chất con người, lao động cho mình, cho xã hội mà mình
làm chủ.
Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.
Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước
mình. Lòng yêu nước không phải là đặc trưng riêng của một dân tộc nào.
Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước. Mọi người
đều yêu quê hương, đất nước mình. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý
nghĩa phổ biến.
Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý
16
xã hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối
một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ
nghĩa yêu nước. Nó bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu nước, nó vừa là
nguyên tắc đạo đức, vừa là nguyên tắc chính trị.
Theo Lênin, chủ nghĩa yêu nước “là một trong những tình cảm sâu sắc
nhất, đã được củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”
[32, tr.226]. Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành và khát
vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân khác hẳn về chất với
quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội dung của nó thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
- Yêu nước là yêu CNXH, yêu nhân dân lao động. Quan niệm yêu
nước của đạo đức mới là lòng tự hào dân tộc, tự hào về những gương anh
hùng bất khuất trong chiến đấu và trong lao động sản xuất,...Chủ nghĩa yêu
nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động,
gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,
phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, làm cho người lao động làm chủ đất
nước thực sự.
- Yêu nước trên lập trường quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai cấp công
nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới
khỏi mọi áp bức bóc lột. Thực tế, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc
tế quan hệ biện chứng với nhau. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới.
Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những
quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện,
17
bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản khác xa về chất so với chủ nghĩa nhân
đạo tư sản, tư tưởng nhân đạo Kitô giáo, Phật giáo. Chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản là sự kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng những tính
hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc
lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, thực hiện đầy đủ quyền làm
người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là
chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị nhất trong lịch sử. Trên nghĩa đó, chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo
1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên
đức, của luân lý là lòng nhân ái”.
s Sinh viên và đặc điểm của thanh niên sinh viên:
“Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các
trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên
được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở Pháp, thuật ngữ “sinh viên” không chỉ dùng
để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà còn
dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và trường dạy
nghề.
Nói đến thanh niên sinh viên là nói đến đội ngũ trí thức trong tương
lai, là lực lượng trẻ, có sức khoẻ dồi dào, có trình độ văn hoá, nhạy cảm với
cái mới, năng động, sáng tạo, ham học hỏi, ưa tìm tòi, khám phá, giàu ước
mơ, thích giao tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội,...Với những đặc
điểm tâm sinh lý ấy, thanh niên sinh viên trở thành nhóm xã hội hết sức đặc
biệt. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước, là tầng lớp xã hội được
gia đình, nhà trường, xã hội hết sức quan tâm. Trong cuộc sống xã hội, sinh
viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người con, là người anh, người chị,
người em, người bạn,...Tuy vậy, về vị trí thực trong xã hội chưa được xác
18
định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định. Hoạt động chính của họ là học
tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, tham gia vào các hoạt
động xã hội.
Thanh niên sinh viên là tầng lớp trẻ tuổi. Phần lớn thanh niên sinh
viên chưa được rèn luyện trong sản xuất và chiến đấu. Những hiểu biết của
họ về quốc gia, dân tộc, về giai cấp, về truyền thống,....chỉ qua sách vở nên
rất hạn chế, thậm chí rất ít biết. Khi tập trung về trường đại học ở các thành
phố - nơi có đủ mọi tầng lớp xã hội, mọi kiểu quan hệ xã hội, diễn ra mọi
hiện tượng sinh hoạt vật chất và tinh thần,...thanh niên sinh viên, đặc biệt là
thanh niên sinh viên xuất phát từ nông thôn có sự xáo trộn, thay đổi lớn. Họ
phải tự làm chủ bản thân để hoà nhập vào môi trường mới, làm chủ nguồn
kinh tế thường là eo hẹp của mình để đảm bảo cuộc sống, làm chủ các mối
quan hệ giao tiếp, làm chủ về sinh hoạt hàng ngày. Bấy nhiêu đặc điểm và
nhân tố làm cho nhân cách, lối sống thanh niên sinh viên chưa ổn định, có
nhiều dao động.
Sinh viên Việt Nam trong những năm gần đây không ngừng tăng lên
cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội. Nếu như
năm 1997-1998 cả nước có 126 trường cao đẳng và đại học (không kể các
trường thuộc khối an ninh, quốc phòng) thì đến năm học 2002-2003 số
lượng các trường đại học đã lên tới 202 trường. Năm học 1997-1998, cả
nước có 671.120 sinh viên, đến năm học 2002-2003 đã lên tới 1.020.667
sinh viên. Sinh viên nước ta hiện nay chiếm 0,96% dân số và chiếm 4% lực
lượng thanh niên, đạt 188 sinh viên trên một vạn dân. Số sinh viên trong các
trường ngoài công lập ngày càng tăng (chiếm 11%) [57, tr.10].
Trong sự phát triển đất nước, sinh viên giữ một vị trí quan trọng. Sau
khi rời ghế nhà trường, họ có thể giữ những vai trò, những trọng trách ở
nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Họ có thể sẽ là những nhà chính trị,
19
nhà ngoại giao, nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, nghệ sỹ, hay nhà doanh
nghiệp,... Lúc đó, họ có một vị trí đích thực và đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển xã hội.
Thật vậy, sinh viên là nguồn dự trữ, là tài sản quý báu của quốc gia.
Ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, đội ngũ sinh viên đã từng gắn bó và
có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ sinh
viên Việt Nam càng nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trước nhân dân,
trước dân tộc.
Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng bí thư Đỗ
Mười đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có
thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay
quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng”.
Theo các kết quả điều tra xã hội học gần đây của Viện Nghiên cứu
Thanh niên, Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội – Ban Tư tưởng Văn hoá
Trung ương cho thấy, nhận thức về các vấn đề xã hội của thanh niên, sinh
viên hiện nay ngày càng được mở rộng, phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn
[57, tr.23-24]. Họ không chỉ chú ý đến việc nâng cao trình độ khoa học –
công nghệ mà còn có ý thức nâng cao sự hiểu biết của mình về lịch sử,
truyền thống văn hoá dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và kiến thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm, đội ngũ sinh viên cũng có những hạn chế như: tính bồng bột, dễ phiêu
lưu, liều lĩnh, dễ vô kỷ luật, vô chính phủ, thích cái lạ nhưng lại thiếu kinh
nghiệm, khi gặp thất bại lại dễ hoang mang, nản chí và trượt dài. Do vậy, để
hiểu rõ đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi sinh viên là một vấn đề hết sức quan
trọng, để có phương pháp giáo dục, vận động sinh viên một cách khoa học,
20
thiết thực, phù hợp.
Chỉ có trên cơ sở hiểu và đánh giá đúng những đặc điểm của thanh
niên sinh viên với những biểu hiện hết sức phức tạp dưới tác động của kinh
tế thị trường đến đặc điểm của họ, chúng ta mới có những quan điểm phù
hợp trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên, từ đó góp
phần làm cho sự nghiệp “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” của
Đảng thành công tốt đẹp.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thấy rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí và tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ
trong sự nghiệp phát triển của cách mạng, của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên, bởi vì
tương lai, tiền đồ của dân tộc, sự thắng lợi của cách mạng hoàn toàn tuỳ
thuộc vào việc hiểu thanh niên, tin thanh niên, chăm lo giáo dục, dìu dắt và
dám trao cho họ những trách nhiệm xứng đáng. “Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh,
một phần lớn là do các thanh niên” [41, tr.134]. Người luôn đánh giá cao vai
trò quan trọng, tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ. Người khẳng định thế hệ trẻ
là “bộ phận quan trọng”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất” và “hy vọng nhất” của
dân tộc. Đồng thời, Người thường theo dõi nhắc nhở thế hệ trẻ đấu tranh
khắc phục những nhược điểm của họ như: thiêú thực tế, chủ quan, chuộng
hình thức,...
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã đặt thế hệ trẻ vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này
đã được Đảng ta nhấn mạnh: “Thanh niên phải là lực lượng xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng
đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
21
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề
sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng. Vì vậy, vấn đề thanh niên và công tác thanh niên phải đặt ở
vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố con người” [6, tr.2].
Thực tế của công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải có những chủ
trương, biện pháp tốt để phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên sinh viên,
đồng thời hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng đạo đức
của họ. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta.
Tầm quan trọng của đạo đức mới ở thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay:
Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã được đặt
ra từ lâu, tuy nhiên, hiện nay nó mang tính thời sự cấp bách hơn cả. Trong
công cuộc đổi mới đất nước, đạo đức mới có tầm quan trọng đặc biệt, thể
hiện là:
- Đạo đức mới góp phần định hướng vững chắc mục tiêu CNXH. Mục
tiêu định hướng XHCN của cách mạng nước ta đồng nhất với mục tiêu của
chủ nghĩa nhân đạo là làm cho mọi người đều có “cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”, xã hội công bằng, văn minh như Bác Hồ đã dạy.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngay từ trong bản chất
của nó đã chứa đựng yếu tố luân lý, đạo đức.
- Các tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm giá trị biểu hiện hình thái ý
thức cấu thành tiền đề nhân văn trong hoạt động của chủ thể kinh tế.
- Đạo đức mới góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Như vậy, đạo đức XHCN là cơ sở để xây dựng nền văn minh vật chất
và văn minh tinh thần. Thấy rõ sức mạnh to lớn mà đạo đức mới đem lại đối
với công cuộc xây dựng CNXH và cho người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã rất coi trọng vấn đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mới, đặc biệt là
22
cho thế hệ trẻ. Tại Đại hội sinh viên lần thứ 2, Người nói: “Thanh niên phải
có “đức”, có “tài”, có “tài” mà không có “đức” ví như một anh làm kinh tế
tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt kém thì chẳng những không làm được
gì ích lợi cho xã hội mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có “đức” mà không có
“tài” ví như ông Bụt không làm hại ai nhưng cũng không lợi gì cho loài
người...” [42, tr.172]. Ngày nay, việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên
sinh viên càng trở nên quan trọng và cấp bách, bởi vì:
Thứ nhất, thời đại mới với xu thế hội nhập toàn cầu hoá đang đặt thế
hệ thanh niên sinh viên trước những thách thức mới. Trong thời đại hiện
nay, thanh niên sinh viên có nhiều điều kiện, cơ hội vô cùng quý giá để phát
triển, những điều kiện mà trước đây các thế hệ cha anh không thể có. Đó là
thành quả to lớn của cách mạng, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với họ, là môi trường thuận lợi cho việc tích luỹ và nâng cao trình độ tri thức
do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem lại.
Tuy nhiên, hiện nay cũng là lúc thế giới đang có nhiều biến động phức tạp
về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ,...Hàng loạt vấn đề to lớn
đặt ra trước mắt: làm thế nào để thanh niên sinh viên có thể đủ sức đáp ứng
các yêu cầu nặng nề nhưng vẻ vang mà đất nước đặt lên vai họ? Làm thế nào
để họ có thể tự định hướng đúng đắn trong nền kinh tế thị trường? Làm thế
nào để họ nhận thức rõ vai trò của mình trong việc góp phần phát triển đất
nước?...Chắc chắn, sự nghiệp giáo dục và rèn luyện thanh niên sinh viên về
các mặt: chính trị, tư tưởng, đạo đức,... là hết sức quan trọng. Vì vậy, xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên là một việc vô cùng cần thiết, từ
đó giúp họ có niềm tin vào CNXH, vào lý tưởng cách mạng, vào sự định
hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đồng thời có quan điểm và hành
động đúng trong việc hiện thực hoá lý tưởng.
Thứ hai, trong tình hình thế giới hiện nay, các thế lực thù địch vẫn có
âm mưu thôn tính và phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Với chiến
23
lược “diễn biến hoà bình”, kẻ thù tấn công chúng ta chủ yếu trên các lĩnh
vực văn hoá để làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp của Đảng,
làm băng hoại đạo đức, lối sống của nhân dân. Đối tượng trực tiếp của
chúng là lớp trẻ, trong đó có thanh niên sinh viên - những chủ nhân tương lai
của đất nước. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sinh viên, lợi dụng
những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hiện đại (mạng Internet, sách báo
nhiều loại, phim ảnh, băng đĩa,...), kẻ thù dùng mọi thủ đoạn hòng lôi kéo
sinh viên xa rời cội nguồn, sống quay lưng lại với chế độ, với nhân dân, với
dân tộc, “nguội lạnh” tinh thần cách mạng. Từ đó, họ rất dễ dàng trở thành
những con người “hư vô” về truyền thống, “mất gốc”, lai căng, thực dụng,
đề cao chủ nghĩa cá nhân,...Với những thủ đoạn tinh vi, kẻ thù cho rằng có
thể thủ tiêu được chế độ XHCN của chúng ta một cách nhanh chóng mà
không cần tới súng đạn. Tình hình ấy càng cho chúng ta thâý tính cấp thiết
của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, thực tế có một bộ phận không nhỏ những thanh niên sinh viên
chưa ý thức được vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân, có thái độ trông chờ, ỷ lại, đòi hỏi sự ưu ái của người khác
và của xã hội mà không nỗ lực phấn đấu bản thân. Không ít thanh niên thờ ơ
với đời sống chính trị, ngại tham gia các hoạt động đoàn thể xã hội. Mặt
khác, những hiện tượng tiêu cực trong thanh niên cũng ngày càng có xu
hướng gia tăng một cách đáng lo ngại, thể hiện lối sống ăn chơi, đua đòi,
buông thả, chỉ thích hưởng thụ,... dẫn đến vi phạm pháp luật và các chuẩn
mực xã hội. Một số nơi đã xảy ra hiện tượng sinh viên giết người, cướp của,
tự tử, nghiện hút... Trên địa bàn Hà Nội năm 2003 có khoảng gần 1000 sinh
viên nghiện ma tuý. Con số ấy cho đến nay còn tăng thêm. Vì vậy, việc xây
dựng đạo đức mới, lối sống mới cho thanh niên sinh viên là hết sức cấp
24
bách.
1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt
Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Muốn xây dựng CNXH, trước hết
phải có con người XHCN”. Ngay từ những năm 1925-1927, trong cuốn
“Đường cách mệnh”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên phẩm chất đạo đức
cách mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong phác thảo năm
điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc, ở điểm thứ hai, Người hết sức quan
tâm đến vấn đề xây dựng các quan hệ đạo đức mới khác hẳn với các quan hệ
đạo đức cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng phải “xây dựng luận lý: biết hi
sinh mình làm lợi cho quần chúng” [40, tr.431]. Trong tiến trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và đổi
mới toàn bộ các quan niệm đạo đức của Nho giáo về các quan hệ: giới tính,
dân tộc, thế hệ, giai cấp và xác lập lại các phạm trù: nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm cho phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới của nhân dân ta. Người
viết: “a) Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào.
Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng,
đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh
phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không
sợ oai quyền. b) Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy,
không có việc gì giấu Đảng...c) Trí...d) Dũng...e) Liêm... Đó là đạo đức cách
mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại” [41, tr.479]
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của cuộc chạy đua “ai
thắng ai” trên bình diện “chất xám”. Tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc
một phần lớn vào thế hệ trẻ, vào tầng lớp thanh niên sinh viên. Để đáp ứng
nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội
25
của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh và
hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải
tăng cường đổi mới công tác giáo dục và tạo mọi điều kiện để thanh niên
sinh viên phát huy hết tài năng sẵn có của họ. Trong đó, công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức mới, thế giới quan mới, nhân sinh quan tích cực
cho sinh viên Việt Nam cũng đòi hỏi phải gắn liền với yêu cầu mới của thực
tiễn khách quan.
Xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay
phải gắn với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, định hướng
cho họ sự lựa chọn những giá trị đúng đắn, khắc phục những nhận thức mơ
hồ, lệch lạc trong tư tưởng, đạo đức và lối sống. Trên cơ sở những nguyên
tắc chung của đạo đức mới, việc xây dựng đạo đức mới đặt ra yêu cầu về
những phẩm chất cụ thể cần có ở người sinh viên hiện nay là:
Một là: có tinh thần yêu nước sâu sắc, trung thành tận tuỵ với nhân
dân, với Đảng cộng sản Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, phấn đấu chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Hai là: tinh thần hiếu học, thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình độ
văn hoá, chuyên môn, trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm, đường
lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Ba là: biết sống có lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn lao.
Bốn là: học tập theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
những phẩm chất quan trọng của một nhân cách cách mạng “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư”, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng lãng
phí, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, trung thực, gắn bó mật thiết với nhân dân
và được nhân dân tín nhiệm.
Năm là: phải có lòng nhân ái, thương người, tinh thần đoàn kết tập
thể, ý thức cộng đồng dân tộc cao, lạc quan, yêu đời; biết xây dựng tình bạn,
26
tình yêu lành mạnh, chân chính.
Sáu là: đức tính chăm chỉ, cần cù, tinh thần tự lực vượt khó trước mọi
thử thách trong cuộc sống.
Bảy là: năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tinh thần sẵn sàng là
lực lượng tiên phong trong mọi lĩnh vực hoạt động, xứng đáng là cánh tay
phải đắc lực của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên đây là những định hướng đúng đắn giúp cho thanh niên sinh viên
Việt Nam hình thành một lối sống đạo đức tích cực, đủ đức, đủ tài gánh vác
những trọng trách mà Tổ quốc giao cho trong tương lai.
1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc
xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam
1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo
đức truyền thống của thanh niên sinh viên Việt Nam
1.2.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức
Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và tự vượt lên mình
giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người, trong xã hội
xuất hiện khái niệm giá trị. Giá trị không phải là một thực thể tự thân. Nó là
kết quả của các mối quan hệ người chằng chịt, đa dạng, nhiều hướng: chủ
thể - khách thể, cá nhân - cộng đồng, bên trong - bên ngoài, đơn trị - đa trị,
hiện tại - tương lai,...
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giá trị là những thành tựu
của con người trong sự phát triển của lịch sử - xã hội, phục vụ cho lợi ích và
hạnh phúc của con người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ
thể và đối tượng nghĩa là từ thực tiễn đến chiến đấu của con người xã hội.
Giá trị vì thế được xác định bởi sự đúng đắn của con người, xuất phát từ
thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Trong lịch sử nghiên cứu lý luận có rất nhiều khái niệm giá trị được
đưa ra, song trên cơ sở quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể hiểu giá
27
trị ở mấy điểm khái quát như sau:
- Giá trị là tất cả những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái đúng,
cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một
vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào
sự phát triển xã hội.
- Giá trị không phải một cái gì nhất thành bất biến. Nó cũng luôn vận
động, biến đổi theo không gian, thời gian cho phù hợp trong từng thời điểm
nhất định. Vì vậy, thực tế không phải những gì đã có giá trị trong quá khứ
đều giữ nguyên được giá trị ấy mãi mãi trong tương lai. Điều đó cho thấy,
giá trị mang tính lịch sử khách quan. Sự ra đời, tồn tại hay mất đi của một
giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người mà do
yêu cầu của từng thời đại nhất định.
- Giá trị đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá trị
giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống. Giá trị giúp
con người định hướng và xác định cho hành động của mình, là động cơ thúc
đẩy hoạt động của con người.
Thực tế có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào mỗi tiêu chí sẽ có
cách phân loại khác nhau. Cơ bản, người ta dựa vào tiêu chí mục đích phục
vụ nhu cầu của con người mà chia làm hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh
thần
Những gì đáp ứng cuộc sống sinh thể và thực tại, bảo đảm nhu cầu
vật chất cho cuộc sống, tạo nên các giá trị vật chất. Tất nhiên, trong nghĩa
rộng, giá trị vật chất trong nhiều trường hợp cũng tồn tại cả bên ngoài quan
hệ sinh tồn và thực tại của con người. Nhưng cái khác biệt ở con người so
với muôn loài là không chỉ biết sống, không chỉ sống cho hiện tại mà còn
sống đẹp, sống cho ngày mai, sống vượt lên trên nhu cầu vật chất - đó là
cuộc sống tinh thần hết sức thiêng liêng. Những gì thoả mãn cho cuộc sống
tinh thần đó, thoả mãn những mong muốn, hi vọng về tương lai,... thì hình
28
thành nên các giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó
trực tiếp với tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại xã hội loài người. Vì vậy,
chúng liên quan chặt chẽ với các lĩnh vực chính trị, pháp quyền, các thiết
chế xã hội,...
Giá trị tinh thần “vượt thoát” hiện thực, nhưng không phải là xa rời
hiện thực, mà là nhằm vươn tới một xã hội nhân văn, xã hội mà loài người
chân chính hằng vươn tới. Kant đã từng nói: “Không phải là một thế giới
hiện có, mà là một thế giới cần phải có, thế giới của các giá trị”.
Như vậy, từ khía cạnh nhân văn, có thể nói, giá trị tinh thần cao hơn
giá trị vật chất. Vì chúng là những biểu hiện tích cực mà con người thuộc
các thời đại luôn luôn tìm tòi, sáng tạo vì một cuộc sống mới ngày càng tốt
đẹp hơn. Giá trị tinh thần thực chất là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ (trí
thông minh, óc sáng tạo, năng lực về tư duy,...); về tình cảm (tình yêu
thương, lòng căm thù, nỗi buồn vui, năng lực cảm thụ,...); về ý chí (đức tính
cần cù, lòng can đảm, đức hi sinh, lòng quyết tâm,...); v.v. Những phẩm chất
ấy ăn sâu vào đời sống tâm linh, thể hiện thành phong tục, tập quán, lối
sống. Và khi chúng trở thành ý thức, tư tưởng và hệ tư tưởng thì sự biểu hiện
các sắc thái riêng của các giá trị càng sắc nét và đậm đà. Chúng trở thành
những chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu,
cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con
người, con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống
xã hội và được con người lựa chọn, đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích
cực nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con
người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo
29
sự biến đổi của đời sống xã hội.
1.2.1.2. Truyền thống và giá trị đạo đức truyền thống
Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, thói quen trong
tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình
thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Bởi vậy, truyền thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản:
Tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Tuy nhiên, những đặc trưng
đó cũng chỉ mang tính tương đối, vì bản thân truyền thống cũng có quá trình
hình thành, phát triển và biến đổi. Việc nhận thức và đánh giá truyền thống
phải luôn luôn đứng trên quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử và biện
chứng.
Tính cộng đồng của truyền thống thể hiện ở chỗ: truyền thống bao giờ
cũng là truyền thống của một cộng đồng nhất định nào đó, chứ không là của
cá nhân riêng lẻ. Ở nước ta, tính cộng đồng biểu thị tập trung ở ba kết cấu xã
hội chủ yếu là nhà, làng, nước.
Tính ổn định tương đối của truyền thống biểu hiện ở chỗ: Khi nói đến
truyền thống là ta nói đến một cái gì đó lâu dài, ít thay đổi. Tuy nhiên, chính
bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát triển theo thời gian,
trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Khi những điều kiện đó thay
đổi thì truyền thống cũng có những mặt phải thay đổi cho phù hợp, có mặt
kế thừa, có mặt bị đào thải và có thể có truyền thống mới được hình thành.
Tính lưu truyền của truyền thống là đặc điểm nổi bật. Truyền thống
bắt nguồn từ lịch sử, nhưng không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là
truyền thống, mà chỉ những gì được sao phỏng, được lưu truyền từ đời này
qua đời khác mới được gọi là truyền thống.
Giá trị truyền thống:
Nói đến giá trị truyền thống là nói đến mặt tích cực của truyền thống,
bao gồm những yếu tố ưu việt, tiến bộ, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
30
của xã hội, góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc. Giá trị truyền thống là sự phản
ánh điều kiện tồn tại của dân tộc trong ý thức của con người trải qua lịch sử
dựng nước và giữ nước. Nó không chỉ là kết quả của mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người với con người trong quá trình cải tạo giới tự
nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản thân mà nó còn là động lực của những quá
trình đó. Giá trị truyền thống là những gì đặc trưng cho bản sắc dân tộc mà
chúng ta cần duy trì, phát triển. “Giá trị truyền thống dân tộc được cô đúc
lên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc...Cho
nên, có thể nói, giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng
nhất cốt lõi văn hoá dân tộc” [17, tr.8].
1.2.1.3. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Trong hệ giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc Việt Nam, nổi bật nhất
là đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống là những quan điểm, quan
niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử, thói quen, tập quán... đạo đức
đã có từ lâu đời và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giá trị truyền thống của dân tộc ta là do chính cộng đồng người Việt
tạo dựng nên, phát triển và bồi đắp thêm mãi cho đến ngày nay. Cho dù Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo có ảnh hưởng đến đạo đức truyền thống Việt Nam
nhưng yếu tố quyết định đến nội dung và bản sắc của đạo đức truyền thống
ấy chính là cuộc đấu tranh chống thiên tai khắc nghiệt, chống kẻ thù xâm
lược, đấu tranh sinh tồn hàng ngàn năm của dân tộc ta.
Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp đã được định hình trong đời sống của con người và
xã hội Việt Nam. Việc nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
được nhiều nhà khoa học rất quan tâm.
GS. Trần Văn Giàu cho rằng: giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
31
thương người, vì nghĩa.
GS. Vũ Khiêu đưa ra quan điểm: truyền thống đạo đức của dân tộc ta
bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo,
tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu
nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [18,
tr.74].
Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập nhiều trong
những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số văn kiện của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc có khẳng định: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp lên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường của dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan
dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...” [10, tr.56].
Như vậy, nghiên cứu thang giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam,
chúng ta thấy cần nhấn mạnh những giá trị cơ bản sau:
- Chủ nghĩa yêu nước là hằng số trong mỗi người dân Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh có nói: “ Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
hiểm nguy, mọi khó khăn”. Chủ nghĩa yêu nước của người Việt thể hiện ở
lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường, dám hy sinh vì Tổ quốc, lòng
yêu hoà bình, yêu tự do khi bờ cõi bị xâm lăng - Đó đồng thời cũng là chủ
nghĩa anh hùng.
Trong các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản, tinh thần yêu nước nổi
bật lên như là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị”, là “động
32
lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất
trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta” [18, tr.74]. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam không chỉ là một giá trị mà nó còn là cội nguồn, là cơ sở của
các giá trị khác, nhất là các giá trị văn hoá.
Yêu nước là giá trị hàng đầu của con người Việt Nam. Nó là thước đo
giá trị nhân phẩm của con người, chi phối mỗi người trong suy nghĩ và hành
động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [43, tr.171]. Lịch sử Việt Nam là
lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu nước đối với nhân dân ta trước
hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá để
tạo sức mạnh bên trong đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển dân tộc. Chủ
nghĩa yêu nước trở thành đạo lý và lẽ sống của mỗi con người Việt Nam. Nó
gắn với bó chặt chẽ với lòng yêu thương và quý trọng con người, nhất là
người lao động.
- Lòng thương yêu con người là tình cảm sâu sắc “máu chảy ruột
mềm”, thương nhau giữa những người sống trong một gia đình, trong làng
xóm, trong một nước. Người Việt luôn coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa.
Tình nghĩa ở đây là thái độ thuỷ chung trong tình yêu, tình bạn. Vì vậy mà
trong lịch sử dân tộc, những tấm gương vì nghĩa luôn được ngợi ca, còn
những hiện tượng “vô nhân đạo”, “vô tình bạc nghĩa” thì bị dư luận xã hội
lên án phản đối.
Tinh thần nhân ái, nhân văn cao cả cũng là nét nổi bật trong giá trị
truyền thống người Việt. Nó khác với quan niệm “từ”, “bi” của Phật giáo Ấn
Độ hướng con người đi tu để mong giải thoát khỏi “bể khổ” nơi trần thế. Nó
cũng khác với quan niệm “nhân”, “nghĩa” trong Nho giáo Trung Quốc có sự
33
phân biệt đẳng cấp trong xã hội. Cùng với tinh thần nhân ái, dân tộc ta còn
có lòng khoan dung, cởi mở. Trong lịch sử dân tộc, lòng khoan dung được
thể hiện ngay cả đối với quân thù, khi chúng bại trận đầu hàng thì ta vẫn cấp
ngựa, cấp thuyền, cấp lương thực cho chúng rút quân về nước.
Nói về lòng thương người trong truyền thống rất đáng tự hào, Đảng ta
đã khẳng định: “Người Việt Nam vẫn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh
thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. “Thương nước,
thương nhà, thương người, thương mình” là truyền thống đậm đà của nhân
dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà suốt quá trình 4000 năm
dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân
chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ
hơn bao giờ hết” [10, tr.94]
- Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tương trợ lẫn nhau là một giá
trị cũng đã được thể hiện trong suốt lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam. Người Việt có truyền thuyết về “cái bọc trăm trứng” của Âu Cơ
và Lạc Long Quân để nhắc nhở nhau luôn cùng nguồn cội, đều là con Lạc
cháu Hồng nên phải biết đoàn kết, giúp đỡ nhau.
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng” (ca dao)
Tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh lớn lao giúp nhân dân ta vượt
quan mọi thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu
nước, là động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Tinh thần đoàn kết cộng đồng là nét quan trọng trong ý thức, tâm hồn và là
điểm tựa của người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày, trong chiến tranh
34
và trong cả hoà bình.
- Con người Việt Nam còn có đức tính chăm chỉ, cần cù, chịu thương
chịu khó và lối sống hết sức giản dị, tiết kiệm. Đặc điểm này hình thành do
điều kiện sản xuất và đấu tranh xã hội trong lịch sử dân tộc. Nếu “cần” mà
không “kiệm” thì cuộc sống trở nên bấp bênh, “ăn xổi, ở thì”. Nếu “kiệm”
mà không “cần” thì không có cái gì để “kiệm”. Do đó, chăm chỉ cần cù phải
gắn liền với tiết kiệm, phải khéo lo toan vun vén, tránh những lãng phí
không cần thiết. Với truyền thống ấy, ông cha ta đã phát huy hết sức mạnh
của mình trong những cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại và đạt được nhiều
thành quả to lớn để lại cho chúng ta ngày nay.
Ngoài những giá trị chủ yếu trên, trong hệ thống giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc còn có những đức tính phổ biến như: lòng dũng cảm, tính
khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan,....Người Việt khiêm tốn nhưng
không hạ thấp mình; giản dị nhưng không ưa cầu kỳ, phô trương thái quá;
trung thực nên ghét sự giả dối, thay lòng đổi dạ; luôn lạc quan, yêu đời, có
niềm tin trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta đã đứng vững trước mọi thử thách
để gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Các giá trị đạo đức truyền thống đã thấm sâu vào đời sống tinh thần,
làm nên bản sắc riêng, làm nên sức mạnh dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ của
chúng ta ngày nay là phải biết gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức mà
ông cha ta đã tạo nên trong lịch sử.
1.2.1.4. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
ở đạo đức truyền thống của thanh niên sinh viên Việt Nam
Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính
yêu, các thế hệ thanh niên sinh viên, các tổ chức Hội sinh viên nước ta đã kế
thừa truyền thống hào hùng của dân tộc, đấu tranh vô cùng oanh liệt qua
nhiều phong trào rộng lớn vì sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến
35
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đầy gian khổ, hy sinh, thanh niên sinh
viên Việt Nam luôn hăng hái với nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào tình
nguyện được dấy lên mạnh mẽ, thể hiện được sức trẻ của dân tộc.
Qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, được sự quan tâm giáo dục,
bồi dưỡng của Đảng, của Bác Hồ, của nhà nước và xã hội, biết bao tấm
gương học tập, nghiên cứu, sáng tạo và chiến đấu, hy sinh ngời sáng vì lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH đã được lưu danh.
Những truyền thống đạo đức tốt đẹp của thanh niên sinh viên Việt
Nam luôn luôn được gìn giữ, phát huy qua các thời kỳ cách mạng.
Trước hết, đó là tinh thần yêu nước mãnh liệt, sâu sắc của thanh niên
sinh viên.
Dưới ách đô hộ nhiều năm của thực dân Pháp, sinh viên và giới trí
thức trẻ Việt Nam luôn khát khao độc lập, tự do cho dân tộc, căm thù bọn
thực dân đế quốc xâm lược và sôi sục một ý chí cứu nước. Trong số đó, nhà
yêu nước trẻ tuổi Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc đã có công lao vĩ
đại trong việc thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tạo nên một sự kiện
lịch sử trọng đại đối với toàn bộ quá trình phát triển cách mạng nước ta.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị điều kiện cơ bản, quyết định
cho những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt trong quá trình phát
triển của dân tộc ta. Từ những kinh nghiệm và hiểu biết ở tuổi thanh niên
của chính bản thân mình, Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt cả một thế hệ thanh
niên yêu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, mà hăng hái đi đầu là học sinh,
sinh viên đầy nhiệt huyết đến được với chân lý cách mạng của thời đại.
Các thế hệ thanh niên sinh viên về sau luôn tự hào về lớp thanh niên
yêu nước đã sớm đi theo con đường của Nguyễn Ái Quốc, trực tiếp tham gia
xây dựng Đảng, Đoàn thanh niên như: Trần Phú (Tổng Bí thư đầu tiên của
Đảng khi mới 25 tuổi), Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức cảnh, Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng,...Họ đã trở thành
36
những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân. Đoàn thanh
niên và Hội sinh viên đã trở thành cánh tay phải đắc lực của Đảng cộng sản
Việt Nam với những phong trào hành động, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng
cách mạng. Khẩu lệnh của thanh niên Tiền phong lúc này là: “Thanh niên:
tiến!” theo đúng tinh thần của bài hành khúc nổi tiếng “Tiếng gọi sinh viên”
của Lưu Hữu Phước:
“ Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi, ta nguyện đem hết lòng
Tiến lên, đồng tiến, vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-
1954), ngay từ những ngày đầu, tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên đã
tích cực tham gia vào các tổ chức chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tiến hành
cuộc chiến tranh du kích. Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng của tuổi trẻ đã
thôi thúc tinh thần giết giặc cứu nước của nhân dân cả nước như: Lê Văn
Tám (Sài Gòn). Đồng loạt các thanh niên, sinh viên xin gia nhập các đoàn
quân “Nam tiến”, đánh đuổi giặc Pháp.
Ngày 19/12/1946, đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đội cảm tử quân Hà Nội ra đời. Tiêu biểu cho những tấm
gương chiến đấu bất khuất đó là học sinh Vũ Chí Thành đã hy sinh ngay
trong đêm đầu của cuộc kháng chiến. Ngoài ra, phong trào của thanh niên
sinh viên còn diễn ra dưới nhiều hình thức như: biểu tình, rải truyền đơn,
tuyên truyền khẩu hiệu đấu tranh, trực tiếp tham gia lao động sản xuất để chi
viện cho chiến trường,... chiến đấu với cả “giặc đói” và “giặc dốt”.
Tiếp nối truyền thống yêu nước của các thế hệ tiền bối, sinh viên Việt
Nam đã đóng góp phần lớn lao vào thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh
Điện Biên Phủ chống thực dân Pháp và sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tinh thần yêu
37
nước, nhiệt tình cách mạng của thanh niên sinh viên lại được phát huy mạnh
mẽ hơn nữa. Một phong trào hoạt động rộng lớn của tuổi trẻ miền Bắc đã lan
nhanh: “Ba sẵn sàng”. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có trên 1,5 triệu
thanh niên, học sinh, sinh viên làm đơn tình nguyện tham gia. Ba sẵn sàng
là:
1. Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các
lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và
học tập trong bất kỳ tình huống nào.
3. Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
Ngoài ra, còn có phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền
Nam, phong trào phụ nữ ba đảm đang, phụ nữ giỏi việc nước đảm việc
nhà,... đã góp phần vô cùng to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
Một trong những ngôi sao sáng của sinh viên ta trên mặt trận chiến
đấu trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là Vũ Xuân Thiều.
Anh xung phong vào bộ đội khi vừa tròn 20 tuổi, đang làm đồ án tốt nghiệp
kỹ sư vô tuyến điện tại Đại học bách khoa Hà Nội. Anh đã trực tiếp bắn rơi
pháo đài B52 của Mỹ, hy sinh khi đã lập công vẻ vang. Anh được tuyên
dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân khi vừa tròn 27 tuổi.
Bên cạnh đó còn biết bao tấm gương sáng khác như: Bùi Ngọc Dương
(sinh viên Đại học bách khoa Hà Nội), Vương Đình Cung (sinh viên Đại học
Nông nghiệp I), Đặng Xuân Dương (sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội),...
Chúng ta không thể kể hết những tấm gương yêu nước của thanh niên
sinh viên Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến cứu nước. Nhìn chung, thanh
niên sinh viên đều có một tinh thần nhiệt tình cách mạng, sẵn sàng sả thân vì
độc lập tự do của dân tộc.
Thứ hai, thanh niên sinh viên Việt Nam có tinh thần vượt khó, chịu
đựng mọi gian khổ và tinh thần hiếu học, hăng hái rèn luyện, học tập, luôn
38
vươn tới những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật, công nghệ, văn hoá, nghệ
thuật tiên tiến, vươn lên xây dựng đất nước. Phát huy truyền thống hiếu học
của người Việt Nam, trên mặt trận văn hoá - giáo dục, sinh viên cũng là tầng
lớp hăng hái hưởng ứng những chủ trương của Chính phủ và Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Gây dựng đời sống mới”, “Rèn luyện thân thể để phụng sự Tổ
quốc”, “Dạy và Học”, chống “giặc dốt”,... Khẩu hiệu của thanh niên trong
cuộc kháng chiến chống Pháp là: “Học tập để phục vụ kháng chiến”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói trong lời kêu gọi chống nạn thất học:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Hưởng ứng lời kêu gọi ấy, hơn 2000
đoàn viên thanh niên, phần lớn là sinh viên tình nguyện làm giáo viên các
lớp bình dân học vụ.
Thanh niên Việt Nam dương cao khẩu hiệu: “Đâu Đảng cần thì thanh
niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”.
Ngày 3/3/1962, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội liên hiệp sinh viên
Việt nam lần thứ III có khẳng định: “Vì CNXH, vì thống nhất Tổ quốc, hăng
hái tiến quân vào khoa học kỹ thuật, ra sức học tập với tinh thần khẩn
trương, bền bỉ và sáng tạo, kết hợp chặt chẽ học tập với nghiên cứu khoa học
và lao động sản xuất để mau chóng nâng cao trình độ kỹ thuật và nghiệp vụ
trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong
XHCN để trở thành người trí thức mới của giai cấp công nhân, những chiến
sĩ tích cực xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất Tổ quốc” [34].
Cùng với phong trào thi đua phấn đấu trở thành “Học sinh, sinh viên
tiên tiến”, “Lớp học tiên tiến”, từ năm 1961, Trung ương Đoàn thanh niên
lao động và Trung ương Hội liên hiệp sinh viên đã phối hợp với Bộ giáo dục
phát động phong trào thi đua “Hai tốt” (dạy tốt và học tốt). Các phong trào
thi đua trong giáo viên, sinh viên được phát triển sâu rộng, làm theo lời căn
dặn của Bác trong thư gửi giáo viên, sinh viên ngày 16/10/1968: “Dù khó
39
khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt” [39].
Không những thế, sinh viên còn tham gia cuộc đấu tranh chống văn
hoá lai căng, đồi truỵ, phản động với nhiều hình thức phong phú như: Hội
thảo, toạ đàm, viết báo tường, báo liếp, hoạt động văn hoá thể dục thể thao,
tham quan, du lịch, cắm trại,... Đi đôi là việc phát triển văn hoá - văn nghệ
lành mạnh và nhiều hoạt động có tính chất nhân đạo, từ thiện. Năm 1970 -
1972, với khẩu hiệu “Hát cho đòng bào tôi nghe”, “Đồng bào ta cùng hát”,
sinh viên đã trực tiếp đưa các bài hát cách mạng tiến bộ, yêu nước đến với
quần chúng như: “Lên đàng”, “Dậy mà đi”, “Tự nguyện”, “Tiếng trống hào
hùng”,... thúc giục thanh niên đứng lên đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ Tổ
quốc. Ngoài ra còn có “Tuần lễ nữ sinh mặc áo dài Việt Nam”, những buổi
sinh hoạt truyền thống về văn hoá dân tộc: “Tuần lễ hai bà Trưng”, “Trần
Văn Ơn”,... đã tạo luồng không khí mới đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy
tinh thần yêu nước trong sinh viên.
Thứ ba, qua lịch sử phong trào thanh niên sinh viên Việt Nam, chúng
ta còn thấy một tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trong học tập,
chăm chỉ học tập, sẻ chia khó khăn với đồng bào. Sẵn sàng nhường cơm sẻ
áo với đồng bào gặp khó khăn là hoạt động hoàn toàn tự giác, tự nguyện của
sinh viên Việt Nam. Họ không đòi hỏi nhiều cho mình khi đất nước ta còn
nghèo, dân ta còn thiếu thốn. Ngược lại, sự đóng góp nhiều mặt của họ đã
làm nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc Việt Nam trong cả sự
nghiệp dựng nước và giữ nước.
Nhìn lại quá trình phát triển của phong trào sinh viên nước ta và tổ
chức Hội sinh viên Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ trước đến nay, dưới ngọn cờ
vẻ vang của Đảng và sự quan tâm của Bác Hồ kính yêu, thế hệ sinh viên
ngày nay luôn ghi tạc công ơn to lớn của Đảng, Bác và nguyện tiếp tục phát
huy những truyền thống quý báu của sinh viên Việt Nam vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Suốt nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, lúc thuận lợi cũng như khi gặp
40
khó khăn, Hội sinh viên Việt Nam đã luôn phát huy truyền thống là một tổ
chức chính trị - xã hội của sinh viên, vì sinh viên. Hội đã vượt qua nhiều
chặng đường đầy thử thách để thực hiện chức năng là người bạn gần gũi của
sinh viên, là chiếc cầu nối của sinh viên với Đảng và Nhà nước, là thành
1viên phối hợp chặt chẽ trong mọi công tác với Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh nhằm góp phần tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho sinh
viên trong học tập, nghiên cứu, trong các phong trào chính trị xã hội thực
tiễn và trong việc bồi dưỡng nhân cách người sinh viên mới.
1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc
xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa là một trong
những đặc trưng cơ bản, phổ biến của sự phát triển. Nó là sự biểu hiện mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới, khi cái mới thay
thế cái cũ nhưng vẫn giữ lại một số yếu tố phù hợp của cái cũ - những yếu tố
này cần thiết cho sự ra đời của cái mới. Tuy nhiên, trong sự phát triển,
không chỉ diễn ra sự kế thừa mà còn luôn luôn có sự đổi mới, tái tạo. Đây là
hai mặt thống nhất biện chứng trong sự phát triển, luôn tồn tại song hành,
thâm nhập và bổ sung lẫn nhau. Hơn nữa, theo quan điểm mácxít, không
những chỉ tồn tại sự kế thừa theo thời gian (theo lịch đại) mà còn tồn tại sự
kế thừa theo không gian (kế thừa đồng đại) - điều này càng có ý nghĩa to lớn
hơn trong điều kiện mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế hiện nay.
Trong đạo đức, việc kế thừa và đổi mới có nhiều nét đặc trưng riêng.
Việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đối với
quá trình xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay
có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống giữ vị trí nền tảng, làm cơ
sở cho việc xây dựng đạo đức mới nói chung và xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên nói riêng. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho nền đạo
đức mới được khẳng định và phát triển vững chắc. Bởi vì, các giá trị đạo đức
41
truyền thống làm nên bản sắc Việt Nam, tâm hồn, lối sống con người Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đạo đức truyền thống là tiền đề trực tiếp
của đạo đức cách mạng (đạo đức mới). Đạo đức mới của thanh niên sinh
viên là sự tiếp nối và phát huy giá trị đạo đức tốt đẹp của thời đại trước để
lại. Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, truyền thống của thanh niên
sinh viên đã từng tạo nên ý nghĩa tích cực trong sự phát triển đạo đức của
người thanh niên sinh viên trước đây thì ngày nay những giá trị ấy vẫn
không ngừng phát huy ảnh hưởng tích cực trong quá trình xây dựng đạo đức
mới cho người thanh niên sinh viên hiện đại.
Những giá trị đạo đức truyền thống được lựa chọn về cơ bản là phù
hợp với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Có những chuẩn mực đạo đức
truyền thống đã lỗi thời bị gạt bỏ, nhưng cũng có những giá trị mới được
khẳng định và sẽ đề cao như: coi trọng giá trị cá nhân, tính năng động, dám
nghĩ, dám làm,... Khả năng thích ứng của người Việt trong điều kiện mới rất
nhanh chóng. Song không ai phủ nhận được vai trò nền tảng của các giá trị
đạo đức truyền thống trong đời sống tinh thần. Một hệ thống đạo đức xã hội
sẽ không thể phát triển nếu gạt bỏ đạo đức truyền thống và không hướng tới
mục tiêu ngày càng phát triển con người toàn diện. Mặc dù có sự tác động
mạnh mẽ của kinh tế thị trường nhưng những giá trị đạo đức truyền thống
đích thực vẫn được nhân dân ta gìn giữ, phát huy trong đời sống đạo đức của
người Việt Nam hiện nay. Xây dựng nền văn hoá mới, đạo đức mới mà lãng
quên những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sẽ tự đánh mất mình, “trở
thành bóng mờ, hoặc bản sao chép của người khác” [6, tr.6]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh của chúng ta cũng là một mẫu mực trong việc đánh giá được tầm
quan trọng và đã kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống dân tộc. Đối
với Người, kế thừa các giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức
truyền thống nói riêng cần phải thực hiện theo phương thức:
“Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng
làm mới.
42
Cái gì cũ mà xấu thì bỏ…
Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho
hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm…
Cái gì mới mà hay thì phải làm” [41, tr.94-95].
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nguyên tắc kế thừa được vận
dụng một cách nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo
trong sự tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống và nhân loại để xây dựng
nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản.
Thứ hai, những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là động lực và là
ngọn nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh
dân tộc, đặc biệt là kích thích thế hệ thanh niên sinh viên vươn lên tự tin
trong điều kiện mới hết sức phức tạp như hiện nay. Trong xu thế quốc tế
hoá, dù muốn hay không, các quốc gia cũng phải mở cửa hoà nhập chung
với thế giới hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm
cho các lĩnh vực của cuộc sống trở nên hết sức năng động, các điều kiện và
yêu cầu của cuộc sống luôn luôn thay đổi. Đặc biệt là những thành tựu của
cuộc cách mạng tin học làm cho các luồng tư tưởng, các sản phẩm văn hoá
được truyền bá nhanh chóng và rộng khắp. Chính những nhân tố mới của
thời đại đã tạo nên những mối quan hệ mới có ảnh hưởng sâu sắc đến các
quan hệ truyền thống và các chuẩn mực vốn tương đối ổn định. Tất cả những
yếu tố mới ấy làm thay đổi tư duy, tác phong của con người nói chung, đặc
biệt là tầng lớp thanh niên sinh viên nói riêng, làm cho họ năng động hơn,
nhạy cảm hơn, tăng khả năng nhận thức và cải tạo thế giới, thay đổi nhiều
quan niệm sống của họ. Trước nhiều tác động mạnh mẽ của thời đại, nền
kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố góp phần tích cực vào việc hình
thành phẩm chất đạo đức mới của con người Việt Nam hiện đại còn có mặt
tiêu cực tác động theo chiều hướng ngược lại. Vậy dựa vào đâu để con
người có cơ sở sàng lọc những gì phù hợp, cần thiết cho sự phát triển riêng
của Việt Nam và loại bỏ những cái không phù hợp với quá trình xây dựng
43
con người mới XHCN? Đó chính là nền tảng những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam. Quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy
liên tục. Không có cái mới chân chính nào ra đời bên ngoài nền móng của
truyền thống. Giá trị đạo đức truyền thống giúp cho thế hệ trẻ luôn có lòng
tự hào về dân tộc, có niềm tin, sức mạnh vượt qua những khó khăn mới mà
thực tiễn cách mạng đặt ra. Sẽ không thể có con người Việt Nam hiện đại
phát triển toàn diện nếu như mỗi chúng ta không có hiểu biết, không thấm
nhuần lịch sử hào hùng của dân tộc ta cùng với những truyền thống đạo đức
tốt đẹp mà ông cha để lại. Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ sẽ tạo khả năng
to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người mới, từ đó sẽ nung nấu trong
lòng họ những hoài bão, khát vọng đấu tranh và xây dựng Tổ quốc ngày
44
càng giàu mạnh.
Chương 2
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN (QUA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI)
2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà
Nội hiện nay
2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo
đức truyền thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay
Giáo dục là một trong những phương thức hết sức quan trọng trong
quá trình hình thành nhân cách. Bằng con đường này, người ta lĩnh hội được
các giá trị xã hội, trong đó có các giá trị đạo đức, do đó, nhân cách con
người mới được hình thành và phát triển.
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt
động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển
nhân cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là
vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục - đào tạo vì sự phát triển
con người và phát triển xã hội. Giáo dục đạo đức là liên tục, người có đạo
đức phải có ý thức và nhu cầu tự giáo dục suốt đời.
Thông qua giáo dục đạo đức, các khái niệm, phạm trù, các giá trị đạo
đức được nhận thức sâu sắc hơn, các hành động của con người sẽ phù hợp
hơn với các chuẩn mực xã hội, làm cho con người có khả năng tự kiểm tra,
đánh giá, thẩm định, điều chỉnh hành vi của mình. Qua đó, khơi dậy lòng
nhân ái, sự bao dung trong họ. Cách đây hàng ngàn năm, nhà triết học
Arixtốt đã từng nói: người ta dạy đức hạnh không phải để biết đức hạnh là gì
mà để trở thành con người có đức hạnh.
Nội dung của giáo dục đạo đức gồm giáo dục nhận thức để hình thành
45
ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm để hình thành và phát triển những xúc
cảm, tình cảm đạo đức trong sáng, cao quý thuộc về nhân tính; xây dựng
niềm tin đạo đức dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa nhận thức và tình cảm
đạo đức; tập luyện hành vi và trau dồi thói quen trong những ứng xử đạo đức
hàng ngày giữa người với người. Tổng hợp những cái đó trong giáo dục đạo
đức để hình thành nhu cầu đạo đức và văn hoá đạo đức ở mỗi người. Đó là
nhu cầu hàng đầu của đời sống tinh thần, thế giới tinh thần, nói lên trình độ
trưởng thành đạo đức và nhân cách của con người.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là một trong những nội
dung cơ bản của giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức ở bậc đại học
và cao đẳng nói riêng. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho toàn dân, đặc biệt là đối với
thanh niên sinh viên - một tầng lớp trí thức trẻ trong tương lai của đất nước.
Thật vậy, trong tất cả các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến việc
giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ. Đảng ta đã có Chỉ thị 34 về
việc phát triển Đảng viên trong trường học. Tại Hội nghị Trung ương 5 khoá
VIII, Đảng ta khẳng định: “Đội ngũ trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước,
đại bộ phận xuất thân từ nhân dân lao động, là tinh hoa của nền văn hoá
nước nhà được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo mọi điều kiện để
cho anh chị em phát huy trí tuệ, tài năng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
và CNXH, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hoá” [10, tr.12].
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Về giáo
dục và đào tạo: tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần
độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học,
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” [11, tr.35].
Trong Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
46
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” của Đảng ta nhấn mạnh: “Tư tưởng, đạo
đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hoá” và đặt ra cho ngành
giáo dục - đào tạo phải coi trọng giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho học
sinh, sinh viên.
Hiện nay, công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong việc
xây dựng đạo đức mới cho sinh viên có nhiều thuận lợi. Đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đang
ngày càng ổn định và phát triển mạnh mẽ. Sự thành công của Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng, củng cố
vững chắc niềm tin của các tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên sinh
viên Hà Nội, vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong sự nghiệp đổi mới
của đất nước. Sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu lớn. Hơn nữa, trong quá trình
hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, Việt Nam đã khẳng định được vị thế
của mình trong các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như: ASEAN,
AFTA, APEC,…và đặc biệt Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của
tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Chính những thay đổi lớn lao ấy đã tác
động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, mọi tầng lớp
nhân dân (trong đó có tầng lớp thanh niên sinh viên).
Trên cơ sở những thuận lợi nêu trên của tình hình mới đem lại, công
tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ở các trường đại học
và cao đẳng của Hà Nội đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Quán triệt quan
điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ,
các trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội đã triển khai công tác
này một cách tích cực. Các trường đã phối hợp với gia đình, các cơ quan, tổ
chức đoàn thể xã hội,... đưa ra những mô hình và phương pháp mới giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc mang lại hiệu quả cao. Khác so với
trước đây, trong xã hội cũ, việc giáo dục chỉ thiên về giáo dục đạo đức (có
thể hiểu là đạo đức truyền thống, bởi lẽ người ta thường lấy những giáo lý
47
thời xa xưa đem dạy lại), còn xem thường các loại hình giáo dục khác; thì
nay công tác giáo dục có sự phối kết hợp giữa các loại hình: giáo dục tri
thức, giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ. Định hướng giá trị của sinh viên
cũng có những biến đổi đáng kể: không chỉ coi trọng những giá trị tinh thần,
đạo đức, lễ nghĩa truyền thống mà còn đánh giá cao những giá trị vật chất,
nhu cầu sinh hoạt vật chất. Theo kết quả của đề tài KX - 07 - 04 thì sinh viên
chọn nghề có thu nhập cao là quan trọng hơn cả (77%), nghề có điều kiện
phát triển năng lực (62,8%), nghề được xã hội coi trọng (62,7%), nghề có
điều kiện tiếp tục học lên (56,8%) là những nghề mà sinh viên thích trong cơ
chế thị trường. Thanh niên sinh viên với những đặc điểm tốt đẹp của lớp
người có trình độ học vấn cao, nhạy cảm với cái mới, cái đẹp, đã tiếp thu rất
nhanh những kiến thức nhờ tiếp xúc với văn hoá nhân loại và phát triển nhu
cầu văn hoá đa dạng, từng bước hình thành một lối sống đạo đức mới qua
các chuẩn và thang giá trị văn hoá. Do đó, việc giáo dục các giá trị đạo đức
truyền thống đạt hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, xem xét và đánh giá một cách toàn diện về công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học, ở một góc nhìn
khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận những hạn chế và thiếu sót nhất
định:
Thứ nhất, mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có quan điểm đúng đắn về
công tác giáo dục song còn dừng lại ở mức chung chung, chưa có những
định hướng cụ thể với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Trong những
năm gần đây, yêu cầu của việc phát triển kinh tế mạnh mẽ đã khiến nhiều
người trong chúng ta xem nhẹ việc giáo dục văn hoá tinh thần. Ở một số
trường, nhất là các trường kỹ thuật, nội dung chương trình học mở rộng
thêm một số môn chuyên ngành song đồng thời lại giảm thời lượng hoặc cắt
môn Đạo đức học. Một số trường còn đang giảng dạy môn học này thì nhìn
chung chưa có sự đổi mới về nội dung và phương pháp cho phù hợp với
cuộc sống hiện tại, chưa sát thực tế, chưa phản ánh được yêu cầu cấp bách
48
của việc xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Đặc biệt, nội dung giáo dục truyền thống dân tộc, giáo dục lịch sử
văn hoá dân tộc, nêu những gương sáng của thanh niên còn bị xem nhẹ trong
chương trình đào tạo, chưa được đưa vào môn Đạo đức học. Việc giảng dạy
đạo đức hiện nay vẫn thuần tuý lý thuyết chung chung, giảng giải một chiều,
áp đặt, thiếu sự hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục, chưa coi “người học làm
trung tâm” do vậy chưa kích thích được tính tích cực, ham học hỏi ở sinh
viên.
Thứ hai, trên địa bàn Hà Nội những năm gần đây, một số trường cao
đẳng, đại học đã có những sai phạm làm ảnh hưởng xấu đến kết quả của
công tác giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Có những cán
bộ, giảng viên có biểu hiện tiêu cực trong kỳ thi tuyển sinh. Có những giảng
viên suy thoái về nhân cách trong quan hệ thày trò,... Giáo dục đạo đức có
nhiều hình thức, trong đó có việc phải nêu gương cho người học noi theo. Vì
vậy, trong thực tế, những hiện tượng tiêu cực sẽ tác động rất lớn, làm cho
sinh viên mất đi tình cảm và niềm tin đạo đức trong sáng, ảnh hưởng đến
quan hệ truyền thống đạo đức tốt đẹp giữa thày và trò. Hơn thế nữa, với một
số trường, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý chuyên trách còn thiếu về số
lượng và yếu về năng lực trình độ, chưa toàn tâm toàn ý với công việc của
mình. Thu nhập của giảng viên chưa cao, khó có thể sống bằng chính đồng
lương của mình, khiến họ phải làm thêm, nhiều khi “chân ngoài dài hơn
chân trong”. Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến công việc giảng dạy,
nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập và chuyển đổi cơ chế kinh tế, chúng
ta đã không tính hết được những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường. Công tác giáo dục đạo đức nói chung và việc giáo dục những giá trị
đạo đức truyền thống nói riêng cho thanh niên sinh viên ở các trường cao
đẳng, đại học hiện nay gặp phải không ít những khó khăn do những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường. “Về khách quan mà nói kinh tế thị trường với
49
sức mạnh tự phát ghê gớm của nó đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối
sống thực dụng, làm cho người ta chỉ chú ý tới lợi ích vật chất, mà coi nhẹ
giá trị tinh thần, chỉ chú ý lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ
chú ý lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lợi ích lâu dài, cơ bản” [7, tr.30]. Do vậy,
“những năm gần đây tình trạng suy thoái về đạo đức và lối sống có chiều
hướng tăng lên, rất đáng lo ngại...” [7, tr.27] và “một bộ phận thanh niên còn
mơ hồ về lý tưởng, chưa nhận thức được tình hình, nhiệm vụ của giai đoạn
cách mạng mới, chưa xác định được trách nhiệm của thanh niên nói chung
và của bản thân nói riêng” [54, tr.309].
Thang giá trị xã hội trong đó có giá trị đạo đức truyền thống bị thay
đổi, thậm chí “đảo lộn” nhanh chóng. Nhiều sinh viên bộc lộ rõ tính ích kỷ,
thích hưởng thụ,... Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã tính đến công
việc tương lai là: không muốn đi những vùng sâu vùng xa cống hiến, muốn
được ở lại thành phố, làm những công việc nhàn hạ mà có thu nhập cao...
[Phụ lục 2 và 3]. Điều này khiến nhiều sinh viên dễ bị những kẻ xấu, những
tổ chức phản động, hoạt động phi pháp lôi kéo, dụ dỗ. Ngoài ra, khi hàng
hoá ngoại nhập ùa vào thị trường trong nước, nhiều văn hoá phẩm độc hại
tràn vào bằng nhiều con đường bất hợp pháp làm suy thoái đạo đức, lối sống
thế hệ trẻ. Nhiều sinh viên, thậm chí còn là những sinh viên khá giỏi do chưa
vững vàng về lý tưởng sống mà đã nhanh chóng huỷ hoại cuộc đời mình:
tham gia vào đường dây “thi hộ đại học”, sinh viên “tống tiền”, cướp giật tài
sản của công dân,... Những hình ảnh này làm giảm sút niềm tin của mọi
người đối với thế hệ gánh vác tương lai của đất nước.
Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường là nó đẻ ra lối sống thực
dụng, cực đoan, tôn thờ đồng tiền, huỷ hoại đạo đức truyền thống. Một số
người vì đồng tiền mà làm mọi việc táng tận lương tâm, trà đạp lên đạo lý.
Lối sống đó tác xấu tới thanh niên sinh viên nhanh chóng. Đồng tiền lên
ngôi chi phối nhiều mối quan hệ giữa người và người, tình bạn bè, tình thày
trò có phần phai nhạt. Nạn hối lộ biểu hiện dưới nhiều hình thức. Tiêu cực
50
xâm nhập vào học đường - nơi mà xưa nay vốn lấy đạo lý, lương tâm làm
trọng - khiến cho một số giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục bị xói mòn
lương tâm nghề nghiệp. Có thày giáo, cô giáo bị đồng tiền làm méo mó nhân
cách, biến dạng cả quan hệ thày trò vốn thiêng liêng của truyền thống “tôn
sư trọng đạo”, “tiên học lễ hậu học văn”.
Trong giới sinh viên, đồng tiền cũng chi phối ghê gớm làm nảy sinh
nhiều bất công. Trong học tập, họ muốn điểm cao, không phải thi lại nhưng
không bằng quyết tâm học tập, rèn luyện và cố gắng của chính bản thân
mình mà bằng “chạy chọt” xin điểm, quay cóp, gian lận trong kiểm tra, thi
cử với nhiều thủ đoạn tinh vi. Một số sinh viên có tâm lý tự bằng lòng với
mình, thậm chí coi việc đi học như một sự miễn cưỡng vì gia đình hoặc vì sự
sĩ diện của bản thân. Cho nên, họ có những biểu hiện tiêu cực như: thường
xuyên đi học muộn, không ghi chép bài vở, không thích lên thư viện tìm đọc
sách báo, không chịu khó nghiên cứu, thiếu trung thực trong học tập, thi
cử,... Qua điều tra tình trạng sinh viên đi học muộn của một số trường đại
học ở Hà Nội, kết quả cho thấy:
Đi học muộn
Tương đối phổ biến (%) Đi muộn không đáng kể (%)
Các trường
Kinh tế quốc dân 125
Sư phạm I
125
Tổng hợp
125
Bách khoa
125
Chung
Có đi muộn nhưng chiếm tỉ lệ thấp (%) 46.4 34.4 42.4 40.8 41.0 14.4 52.2 54.4 45.6 42.4 39.2 10.4 3.2 13.6 16.6 500
Nguồn: Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu đề tài “Tình hình nếp sống sinh
viên Hà Nội - thực trạng và giải pháp”. Phạm Xuân Cảnh (chủ nhiệm đề
51
tài), năm 2000.
Bảng số liệu cho chúng ta thấy một thực trạng đáng buồn là chính
những sinh viên trường Đại học sư phạm I Hà Nội - đội ngũ giáo viên trong
tương lai - lại rất kém ý thức trong việc chấp hành nội quy học tập của nhà
trường. Tỷ lệ đi học muộn phổ biến cao hơn nhiều so với các trường khác:
52,2%, cao hơn nhiều so với mức chung các trường (42,2%).
Điều tra về thói quen lên thư viện trường tìm đọc sách, báo phục vụ
học tập, kết quả như sau:
Lên thư viện Hiếm khi (%)
Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Các trường
Kinh tế quốc dân 125 18.4 53.6 28.0
Sư phạm I
125 7.2 56.8 36
Tổng hợp
125 16 54.4 29
Bách khoa
125 20.8 59.2 20
Chung
500 15.6 56 28.4
Nguồn: Như trên (tr. 48)
Một lần nữa, chúng ta lại thấy trường Đại học sư phạm I Hà Nội có tỷ
lệ sinh viên gần như không có thói quen lên thư viện tìm đọc sách, tự học và
tự nghiên cứu là nhiều nhất so với các trường đại học khác.
Nhìn chung, tình trạng trên phần nào phản ánh được thực trạng nhiều
sinh viên chưa thực sự hứng thú, say mê, chưa biết biến “quá trình giáo dục”
thành “quá trình tự giáo dục”, chưa nhận thức rõ về việc học: học trước hết
52
là cho bản thân mình và còn học để xây dựng đất nước, xây dựng CNXH.
Hơn thế, trong giới sinh viên cũng đã xuất hiện nhiều nạn cờ bạc,
rượu chè, cướp giật trộm cắp tài sản, đua xe trái phép, ma tuý, mại dâm, bói
toán, mê tín dị đoan,...
Qua điều tra một số trường đại học ở Hà Nội, kết quả cho thấy:
Các chuẩn mực Nghiện hút (%) Trộm cắp tài
Có biểu hiện ăn chơi, cờ bạc (%) sản (%) Các trường
Kinh tế quốc dân 125 87.2 23.2 44
Sư phạm I
125 82.4 38.4 40.0
Tổng hợp
125 84.0 21.0 35.2
Bách khoa
125 77.2 11.4 27.2
Chung
500 81.4 25.0 36.6
Nguồn: Như trên (tr. 48)
Hiện nay, tình trạng ma tuý xâm nhập học đường ngày một tăng. Điều
hết sức nguy hiểm là việc dùng ma tuý không chỉ dừng ở đối tượng sinh viên
con các gia đình khá giả được chiều chuộng mà đã vươn vòi bạch tuộc lôi
kéo nhiều sinh viên khó khăn ở nông thôn về thành phố học tập. Chỉ vì đua
đòi theo bạn xấu mà ăn chơi, khi không có tiền do gia đình chu cấp thì sinh
ra ăn cắp, ăn trộm, đánh nhau, làm những việc phi pháp, trở thành kẻ đứng
ngoài cuộc của quá trình vận hành hướng tới một tương lai tốt đẹp của thế hệ
trẻ hôm nay.
Theo tác giả Lê Vũ của Báo Sức khoẻ và đời sống số 157 (ra ngày
1/1/2004): “Trong năm 2003, liên Bộ giáo dục và đào tạo và Bộ công an đã
53
phát hiện được gần 1000 học sinh, sinh viên và giáo viên nghiện ma túy;
trong đó có 503 học sinh, 177 sinh viên và 299 giáo viên. So với năm 2002,
số học sinh, sinh viên nghiện ma túy giảm đi 208 em, nhưng số học sinh,
sinh viên sử dụng ma túy kích thích như hêrôin, tân dược gây nghiện và ma
túy tổng hợp ngày càng tăng, đặc biệt là ma túy tổng hợp dễ vận chuyển, dễ
sử dụng, gây nghiện nhanh và cai nghiện rất khó. Một thực trạng đáng báo
động nữa là trong khi số học sinh, sinh viên nghiện ma túy giảm, thì số
lượng giáo viên nghiện ma túy lại tăng lên, trong tổng số 299 giáo viên
nghiện ma túy có tới 14 giáo viên phạm tội buôn bán ma túy. Cá biệt có một
số nơi vẫn còn xảy ra tình trạng bán lẻ ma túy ngay tại cổng trường”.
Bên cạnh đó, tình hình hút thuốc lá trong giới học sinh, sinh viên ở
Việt Nam cũng đến mức báo động. Theo thống kê của Bộ tài nguyên và môi
trường gần đây nhất, Việt Nam có khoảng 15 triệu người hút thuốc lá. Trong
đó, tỷ lệ sinh viên hút thuốc lá là 21%.
Nhìn chung, khi những nét đẹp truyền thống của dân tộc chưa được
đánh giá đúng mức, chưa được khơi dậy, chưa được phát huy tác dụng trong
công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên ở các trường đại học thì
chúng ta còn gặp nhiều khó khăn khi muốn xây dựng con người Việt Nam
mới phát triển toàn diện.
2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua
các phong trào chính trị - xã hội - thực tiễn
Công tác giáo dục đạo đức không những cần tác động về mặt trí tuệ
mà còn cần tác động cả về mặt tình cảm, rèn luyện nghị lực, hành vi đạo
đức. Do đó, ngoài giáo dục ý thức đạo đức trong nhà trường còn cần có sự
kết hợp đồng bộ của nhiều hoạt động khác. Như Lênin đã nói: “Cơ sở của
đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây
dựng chủ nghĩa cộng sản. Đó là lời giải đáp về vấn đề phải học tập chủ
nghĩa cộng sản như thế nào. Chúng ta không tin vào việc rèn luyện, giáo dục
và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà trường và tách rời
cuộc sống sôi nổi” [33, 358]. Điều này có nghĩa là học phải đi đôi với hành.
54
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Học phải đi đôi với
hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn. Bởi lẽ, theo Người, lý luận không có
thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng.
Vì vậy, công tác giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cũng không chỉ là
những bài học trong sách vở mà còn cần phải được kết hợp với hoạt động
thực tiễn.
Quán triệt tinh thần đó, trong những năm gần đây, Đảng uỷ các trường
đại học đã có sự quan tâm, trực tiếp chỉ đạo các tổ chức Đoàn thanh niên,
Hội sinh viên phát động nhiều phong trào cho sinh viên tham gia như: “Tuổi
trẻ giữ nước”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Về nguồn”,... Nhiều phong trào
của sinh viên mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn sâu
sắc như: Giúp đỡ và chăm sóc các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình
có công với cách mạng gặp cảnh neo đơn, những người già cả ốm đau không
nơi nương tựa; nhiều phong trào đền ơn đáp nghĩa, hiến máu nhân đạo,
“Ngày thứ 7 tình nguyện”, “Ngày chủ nhật xanh”, chiến dịch “Mùa hè
xanh”, chương trình thanh niên tình nguyện “Tiếp sức mùa thi”, Ban
Thường vụ Thành đoàn Hà Nội tổ chức triển khai chương trình hành động
“Tuổi trẻ Thủ đô học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
sinh viên tình nguyện về những nơi vùng sâu vùng xa dạy học cho trẻ em
nghèo,...
Bên cạnh nhiều phong trào hành động để sinh viên thâm nhập thực tế
còn có nhiều cuộc thi được tổ chức cho thanh niên sinh viên có điều kiện tìm
hiểu sâu về truyền thống dân tộc như: “Tìm hiểu 60 năm thành lập nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Tìm hiểu văn hoá Việt - Nhật”,
cuộc thi tìm hiểu “Những mốc son Thăng Long - Hà Nội”, tìm hiểu “75 năm
lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”, tìm hiểu 55 năm Truyền
thống học sinh, sinh viên và Hội sinh viên Việt Nam, tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh “Sáng mãi tên Người”, “Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, đất
nước phồn vinh tiến vào thế kỷ 21”, “Âm vang Điện Biên”,...
Ngoài ra, nhiều trường cao đẳng và đại học ở Hà Nội cùng các trường
55
trong cả nước cũng luôn tạo điều kiện khuyến khích sinh viên phấn đấu
vươn lên trong học tập, sáng tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm phát huy
tính ham học hỏi bằng việc tổ chức các hội thảo khoa học, các kỳ thi
Ôlimpic môn học. “Nghiên cứu khoa học cần phải trở thành một hoạt động
chuyên nghiệp trong các đại học”. Hà Nội hiện có khoảng hơn 50 trường đại
học và cao đẳng. Năm học 2001-2002 có 4609 đề tài nghiên cứu khoa học
của 5489 sinh viên các trường đại học và cao đẳng được nghiệm thu đánh
giá. 5504 sinh viên tham gia 319 cuộc thi Ôlimpic các môn học. Năm học
2002 - 2003 có 3460 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên với 9271 sinh
viên tham gia, 83 đợt tổ chức thi sinh viên giỏi và Ôlympic các môn học với
3928 sinh viên tham gia. Kết quả năm học này là 1116 giải thưởng cấp
trường, 270 giải thưởng cấp bộ, 128 câu lạc bộ chuyên ngành được Đoàn
thanh niên các trường tham mưu với lãnh đạo nhà trường đầu tư về cơ sở vật
chất, nội dung và hình thức hoạt động, thu hút 16466 sinh viên tham gia.
Năm học 2004 - 2005 có hơn 2000 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên,
gần 5000 sinh viên tham gia, phối hợp gần 400 buổi toạ đàm về nâng cao
chất lượng học tập của sinh viên...
Không những thế, thanh niên sinh viên Thủ đô còn là lực lượng sôi
nổi nhất trong các phong trào phòng chống tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm;
các hoạt động tuyên truyền về dân số, sức khoẻ và môi trường... Họ vừa học
tập vừa nhiệt tình với các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao do
nhà trường tổ chức. Nhiều sinh viên xuất sắc đã được giới thiệu học các lớp
đối tượng cảm tình Đảng và được kết nạp vào Đảng [Phụ lục 4].
Trên đây là tổng quan các hoạt động, các phong trào Đoàn và công tác
Hội sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Từ
đó, ta thấy được thực trạng việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
qua các phong trào chính trị - xã hội đều có những điểm mạnh và đạt được
56
nhiều thành tựu đáng kể.
Nhìn chung, trong những năm qua, các trường cao đẳng và đại học ở
thành phố Hà Nội đã phối hợp với Trung ương Hội sinh viên nắm bắt kịp
thời các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, của Trung ương Đoàn,
Trung ương Hội sinh viên, Hội sinh viên thành phố, bám sát chương trình
năm học, sáng tạo trong việc triển khai tổ chức thực hiện. Vì vậy, ngoài việc
giáo dục kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho sinh viên, các trường đều
quan tâm đến nhiều hoạt động khác nhằm giáo dục đạo đức, lối sống lành
mạnh cho sinh viên, đặc biệt là nhằm giáo dục ý thức bảo vệ và phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thông qua nhiều
hình thức giáo dục phong phú ấy mà những truyền thống cách mạng được
nhấn mạnh như: truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hi sinh vì Tổ
quốc, truyền thống hiếu học, truyền thống thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau,...
Sinh viên Thủ đô ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò xung kích, sáng
tạo của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Song trong khi đa số các sinh viên với bản tính sôi nổi, ưa hoạt động,
nhiệt tình, thích tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,
các buổi giao lưu trong nước và quốc tế, những lễ hội truyền thống và các
hoạt động xã hội khác thì vẫn còn một số ít thanh niên sinh viên chưa ý thức
được vai trò, trách nhiệm của mình, nên họ không cố gắng vươn lên trong
các hoạt động và trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù số đông sinh viên đều thích
tham gia các hoạt động chính trị - xã hội nhưng vẫn còn không ít sinh viên
ngại sinh hoạt tập thể. Họ chưa ý thức được mặt tích cực của các hoạt động
đoàn thể nên không tự giác, không thường xuyên hưởng ứng.
Hơn nữa, một số sinh viên hiện nay sống thiếu lý tưởng, ước mơ, khát
vọng vươn lên. Thay vì lý tưởng sống cao cả, vì Tổ quốc, “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”, số ít sinh viên lại có lối sống cá nhân ích kỷ, thờ
57
ơ với đời sống chính trị, với các sinh hoạt đoàn thể. Họ thích nhập vào
những băng đảng, những nhóm thanh niên có các hoạt động đi ngược với lợi
ích số đông mọi người chỉ để thoả mãn tính tò mò hay để “giết” thời gian.
Nên chăng, chúng ta cũng cần phải xem xét lại nội dung và cách thức
tổ chức những phong trào hướng về cội nguồn cho sinh viên trong các nhà
trường để thực sự thu hút được họ nhiệt tình tham gia hơn nữa. Các phong
trào chính trị - xã hội phải ngày càng đa dạng, phong phú, có ý nghĩa thiết
thực giúp sinh viên nhận thức được những giá trị truyền thống của dân tộc.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được
Thắng lợi của hơn 20 năm đổi mới đất nước đã tạo ra những điều kiện
chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hoá cần thiết cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh”. Chúng ta đã đạt được nhiều thành công
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công tác giáo dục. Đó là kết quả của đường
lối giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, của chính sách đổi
mới trong giáo dục. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo
dục đối với sự phát triển đất nước. Nhà nước đã có những cố gắng lớn trong
việc đầu tư cho giáo dục. Tỷ trọng đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân
sách nhà nước liên tục tăng qua các năm: Năm 2000 là 15%, 2003 là 16,4%,
phấn đấu sẽ tăng lên 20% vào năm 2010 [23, tr.74].
Ở các trường đại học và cao đẳng, Đảng uỷ và ban giám hiệu nhà
trường coi công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh
viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chương trình giảng
dạy các môn lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đều
theo chương trình chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo, có kết hợp bổ sung,
liên hệ với những ngành học đặc trưng của các trường. Giáo trình sau nhiều
lần được chỉnh lý nhìn chung đều phù hợp với đối tượng, bảo đảm tính khoa
58
học cao, tạo nên sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lượng giáo trình
các môn khoa học Mác-Lênin cung cấp cho sinh viên học ở các trường nhìn
chung đều đầy đủ. Thông qua việc học tập các môn khoa học này, sinh viên
ý thức ngày càng đầy đủ hơn về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Bên cạnh việc trang bị những tri thức lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh một cách có hệ thống, các trường cao đẳng và đại học cũng
thường xuyên tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về văn hoá, kinh tế,
tình hình thời sự trong nước và quốc tế, học tập Nghị quyết của Đảng,...
Điều đó giúp cho sinh viên có thêm những hiểu biết nhất định về tình hình
chính trị, xã hội trong và ngoài nước. Từ đó, họ có ý thức quan tâm hơn đến
các vấn đề chính trị, xã hội. Một vấn đề hết sức quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng của việc giáo dục giá trị đạo đức, tư tưởng, lối sống cho sinh viên
trong thời gian qua là phải kể đến vai trò của người thầy. Có rất nhiều tấm
gương nhà giáo ưu tú, các thầy cô giáo đã có tác động không nhỏ đến quá
trình hình thành nhân cách cho sinh viên. Nhiều thầy cô giáo của các trường
cao đẳng và đại học rất tâm huyết với nghề, ngoài việc hướng dẫn sinh viên
lĩnh hội tri thức, các thầy cô cũng đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục và rèn
luyện giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên bằng nhiều hình thức phong
phú: tổ chức các hoạt động ngoại khoá, phối hợp với các tổ chức đoàn thể
tạo ra những sân chơi lành mạnh cho sinh viên.
Về phía thanh niên sinh viên, qua quá trình được giáo dục toàn diện
trong các nhà trường, hầu hết họ đều nhận thức được một cách sâu sắc rằng:
mọi sự phát triển đều phải dựa trên một nền tảng nhất định. Quá khứ, hiện
tại và tương lai nằm trong một dòng chảy liên tục. Truyền thống tốt đẹp là
nền tảng vững chắc để phát triển tương lai. Do đó, việc học tập, tìm hiểu các
giá trị đạo đức truyền thống là nghĩa vụ đạo đức đối với họ. Hầu hết sinh
viên khi đã vững vàng về tư tưởng chính trị đều có lòng tin vào sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
59
Thái độ và ý thức chính trị của sinh viên không ngừng được nâng cao. Sinh
viên ngày nay đã quan tâm hơn đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội, và
cũng đã có những suy nghĩ độc lập trước những biến động của lịch sử. Nhìn
chung, đại đa số sinh viên có lối sống lành mạnh, năng động, tích cực, vượt
khó vươn lên. Trong các trường cao đẳng, đại học, nhiều sinh viên rất nhiệt
tình, hăng hái thi đua phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng và
đạt thành tích cao trong học tập. Bên cạnh việc học tập trau dồi kiến thức
chuyên môn tốt, nhiều sinh viên vẫn tích cực hưởng ứng, tham gia vào các
phong trào, hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc với đạo lý uống nước nhớ
nguồn. Nhờ đó, họ có thêm kinh nghiệm sống, có thêm kiến thức thực tiễn,
trở nên vững vàng hơn và vẫn giữ được lối sống lành mạnh trong bối cảnh
nước ta mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới như hiện nay.
Như vậy, đúng như Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương
khoá VIII của Đảng đã nhận định: Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và
chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực
công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích.
Không khí dân chủ trong xã hội ngày một tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh
những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Trước hết, những hạn chế còn tồn tại là do tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường.
- Chủ thể của kinh tế thị trường là các con người kinh tế, khi có lợi kinh
tế là sẽ hoạt động. Sự hoạt động của nguyên tắc tối đa hoá lợi ích cá nhân
tạo xu thế vi phạm đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật trong hoạt động
kinh tế. Điều đó không chỉ cản trở sự phát triển của đạo đức cá nhân trong
lĩnh vực kinh tế mà còn tạo ra xu thế khuyến khích chủ nghĩa cá nhân trong
60
tất cả các lĩnh vực hoạt động ngoài kinh tế.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị của con người kinh tế được
đo bằng hiệu quả hoạt động kinh tế. Giá trị ấy cũng có xu hướng trở thành
thước đo phổ biến của nhân cách. Giá trị của một con người được biểu hiện
ở mức độ thành đạt, ở quy mô thu nhập, thậm chí ở cả khả năng biến người
khác thành phương tiện để thực hiện lợi ích cá nhân. Vì vậy, một số giá trị
đạo đức truyền thống đã bị xem nhẹ trong quá trình đánh giá con người.
- Hoạt động của quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Chính sự cạnh tranh khốc
liệt đã tạo ra điều kiện cho việc nảy sinh và phát triển thói quen phô trương,
hãnh tiến ở con người. Ngoài ra, nó còn dẫn đến hiện tượng phân cực giàu -
nghèo ngày càng rõ nét, từ đó xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng bất
công, bất bình đẳng trong xã hội. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng lành
mạnh, trung thực. Không hiếm trường hợp, cạnh tranh đồng nghĩa với việc
đánh mất nhân tính, chạy theo lợi nhuận cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên lợi ích
của những người khác. “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị
văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, đang gây hại
đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và
danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thày trò, đồng chí, đồng
nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn
xã họi khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và
mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, việc lễ hội” [10, tr.46-47].
Như vậy, những giá trị đạo đức truyền thống dần dần bị mờ nhạt, thay
vào đó là lối sống thực dụng, ích kỷ, quá đề cao giá trị đồng tiền,... Đó chính
là mặt trái của kinh tế thị trường, là nguyên nhân dẫn đến sự biến dạng, méo
mó những mối quan hệ xã hội vốn rất tốt đẹp giữa người với người trong xã
hội Việt Nam.
Thứ hai, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ở mọi lĩnh vực của đời
61
sống xã hội đang làm cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới có nhiều
biến đổi mạnh mẽ. Thanh niên sinh viên là lớp người rất nhạy cảm trong xu
thế hội nhập, giao lưu văn hoá với nhiều nước. Một mặt, họ dễ dàng tiếp thu
nhiều giá trị mới của nhân loại, mặt khác họ cũng dễ bị kích động bởi nhiều
yếu tố lạ, thậm chí trái ngược và có khả năng làm tổn hại tới những giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc.
Thứ ba, âm mưu “diễn biến hoà bình” của kẻ thù đang có tác động
tiêu cực đến một bộ phận nhân dân, cán bộ, Đảng viên, ngăn cản sự nghiệp
đổi mới đất nước của chúng ta. Đối với thanh niên sinh viên, mục tiêu của
chúng hòng làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời truyền thống. Chúng
lợi dụng những thanh niên sinh viên xấu để kích động, gây rối trật tự xã hội.
Lợi dụng những sơ hở trong công tác quản lý của Nhà nước, chúng tung vào
những văn hoá phẩm độc hại, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ và lối sống
theo kiểu phương Tây,... xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng, phủ
nhận những thành quả cách mạng và quá khứ hào hùng của dân tộc ta. Với
những thủ đoạn xảo quyệt, chúng hòng làm cho thế hệ trẻ Việt Nam bị lẫn
lộn, không phân biệt được phải, trái, đúng, sai, đâu là bạn, đâu là thù, tạo
nên một lớp người phi chính trị, sống mờ nhạt, không có lý tưởng, thiếu hoài
bão, ước mơ vươn lên, thích theo xu thế “Mỹ hoá”.
Thứ tư, sự thiếu gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
người lớn tuổi đã làm giảm niềm tin của thế hệ trẻ, dẫn đến tâm lý coi
thường truyền thống, coi thường quá khứ, lãng quên quá khứ hào hùng cần
được tiếp nối. “Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có
quyền. Nạn tham nhũng dùng tiền của nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi
sa đoạ. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa
vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó
gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà
62
nước” [10, tr.46-47]. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến
sự suy giảm và xói mòn niềm tin trong ý thức cá nhân và trong đời sống dư
luận về chế độ xã hội.
Thứ năm, trong khi tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh
tế, Đảng ta chưa chú ý đúng mức đến vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền
thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay. Nghị quyết
Trung ương V khoá VIII cũng nhận định rằng: “Công tác nghiên cứu lý luận
chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hoá trong quá trình đổi mới,
trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần
xây dựng, trong việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân
tộc và quốc tế...” [10, tr.52]
Mặt khác, Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách rõ ràng trong việc đầu
tư giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ cả về kinh phí lẫn con người. Thiếu
sót này dẫn đến tình trạng: những gì làm được còn quá ít so với nhu cầu mà
thế hệ trẻ đòi hỏi.
Thứ sáu, một bộ phận thanh niên sinh viên thiếu ý thức rèn luyện, tu
dưỡng phẩm chất đạo đức, xem nhẹ những giá trị đạo đức truyền thống, giá
trị nhân văn mà nhân dân ta vun đắp từ bao thế hệ trước, không biết tôn
trọng quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc. Hơn thế nữa, những sinh viên
này còn có thái độ coi thường các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đạo đức học, các môn khoa học xã hội nhân văn. Đối với những
sinh viên như thế cần phải có sự đổi mới phương pháp giáo dục để làm sao
vừa có sức thu hút, thuyết phục, vừa có những biện pháp phù hợp buộc họ
phải hoà nhập với tập thể bạn bè, nhà trường, xã hội.
Tóm lại, những nguyên nhân trên đây đều là những cản trở làm cho
các giá trị đạo đức truyền thống không được phát huy trong việc xây dựng
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay. Trong đó, nguyên
nhân cơ bản nhất là sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường tới đạo
63
đức sinh viên. Song nguyên nhân chủ yếu vẫn là việc thiếu các chính sách cụ
thể của Nhà nước đối với công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh
niên sinh viên, thiếu sự quan tâm của chính các chủ thể giáo dục và bản thân
sinh viên. Do đó, chúng ta cần khắc phục nhanh chóng những thiếu sót ấy để
giảm những hạn chế còn tồn tại trong việc phát huy giá trị đạo đức truyền
64
thống, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng
3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh tạo điều kiện phát
huy giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh
niên sinh viên hiện nay
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên,
chúng ta cần phải xây dựng một môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành
mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những chuẩn mực đạo đức
mới trong sinh viên. Bởi lẽ, môi trường sống, điều kiện kinh tế - xã hội có
ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức, lối sống, tình cảm, sự hình thành nhân cách
của con người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nền tảng là toàn
bộ đời sống kinh tế - xã hội, các quan hệ lợi ích của con người. Nền tảng
kinh tế - xã hội cho sự khẳng định một nền đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt
Nam là công cuộc đổi mới đất nước, là đảm bảo sự định hướng xã hội chủ
nghĩa trong xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, là mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ
vững nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Trên nền tảng kinh tế - xã hội được
đổi mới đó, chúng ta sẽ có cơ sở khách quan để giáo dục đạo đức cho thanh
niên sinh viên theo hướng kết hợp biện chứng các giá trị truyền thống và các
giá trị hiện đại.
Về nguyên tắc, muốn xoá bỏ những quan niệm đạo đức cũ, lỗi thời,
lạc hậu thì trước hết phải xoá bỏ cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra nó. Đồng thời,
muốn xác lập một nền đạo đức mới thì trước hết cũng phải tạo dựng được
65
những điều kiện kinh tế - xã hội mới.
Vận dụng những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [11, tr.86].
Nền kinh tế thị trường tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau và
việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở một nước có trình độ kinh tế còn
thấp kém như nước ta thì việc phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu
khách quan. Kinh tế thị trường là một phương thức phát triển sức sản xuất để
đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta phát triển
khác về chất so với nền kinh tế thị trường ở nhiều nước khác.
Theo quan điểm của Đảng ta trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X có khẳng định: “Đến nay, có thế sơ bộ nêu lên những nội dung cơ bản của
định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:
- Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày trong từng bước và từng
chính sách phát triển; hình thành cấu trúc kinh tế - xã hội phát triển ổn định,
bền vững; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản
lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
66
của Đảng” [13, tr.329-330]
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhân tố bảo đảm ngăn ngừa,
hạn chế và từng bước khắc phục những tác động tiêu cực về mặt đạo đức của
kinh tế thị trường và phát huy những mặt tích cực của nó; tạo môi trường
cho việc xác lập địa vị chủ thể của cá nhân thông qua việc kích thích tính
tích cực trong hoạt động của con người; là cơ sở để cá nhân thực hiện sự tự
do, bình đẳng của mình.
Trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng về nhiều mặt, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, trong đời sống văn hoá
xã hội vẫn tồn tại nhiều tàn dư tư tưởng cũ, lạc hậu mà hình thức biểu hiện
tập trung, rõ nét nhất của chúng là trong và thông qua các phong tục, tập
quán lạc hậu. Do đó, cùng với phát triển kinh tế, chúng ta đồng thời phải tiến
hành cải tạo phong tục, tập quán lạc hậu.
Tập quán là thói quen, nếp sống hay cách làm việc do nhiều lần mà có
[20, tr.723]. Phong tục là thói quen xã hội của một địa phương, một nước
[20, tr.637]. Phong tục là những khuôn phép mà những khuôn phép này có
thể do cả tập thể tự nguyện tạo ra, những cũng có khi do một số người qui
định và buộc tập thể phải tuân theo. Trải qua lâu đời, các qui định như thế
trở thành cái gọi là phong tục.
Phong tục, tập quán có thể là những giá trị tốt đẹp (thuần phong mỹ
tục), nhưng cũng có thể là những yếu tố lạc hậu, tiêu cực (hủ tục). Những
thuần phong mỹ tục chính là điểm tựa tinh thần, có tác dụng to lớn trong
giáo dục đạo đức đối với mọi đối tượng, đặc biệt là với thế hệ trẻ. Ngược lại,
các hủ tục chính là vật cản, có sức ỳ ghê gớm kìm hãm sự phát triển xã hội.
Vì vậy, việc duy trì, phát huy giá trị của các phong tục, tập quán tốt và cải
tạo các phong tục tập quan lạc hậu, xây dựng phong tục tập quán mới là vấn
đề quan trọng trong công cuộc đổi mới hiện nay, có ảnh hưởng sâu sắc trong
việc xây dựng đạo đức mới cho tầng lớp thanh niên sinh viên. Hàng năm,
chúng ta tổ chức những dịp lễ, hội truyền thống để hướng mọi người nhớ về
67
cội nguồn, nhớ về quê hương, nhớ ơn ông bà tổ tiên, những vị anh hùng có
công với dân tộc và cũng để mọi người có dịp gần gũi, giao lưu, học hỏi lẫn
nhau, nâng cao tình đoàn kết,... Song không nên thái quá, tổ chức rườm rà
tốn kém, đặc biệt phải ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan lợi dụng dịp
lễ hội để truyền bá. Để ngăn chặn và cải tạo những phong tục, tập quán đang
có tác động xấu đến đời sống xã hội nói chung và quá trình xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên nói riêng, chúng ta cần thực hiện:
- Cải tạo hủ tục mê tín, dị đoan. Đây chính là tàn dư về văn hoá của xã
hôi cũ đang hoành hành và gây tác hại không nhỉ đến đời sống vật chất cũng
như tinh thần của nhân dân, tạo nên ở không ít người những niềm tin mù
quáng, trở thành vật cản lớn cho sự phát triển xã hội.
- Cải tạo tập quán “phép vua thua lệ làng”. Lệ làng được hiểu như là
những phong tục, tập quán của một cộng đồng người trong một làng, một xã
hay một địa phương nhất định. “Phép vua thua lệ làng là biểu hiện cụ thể của
tư tưởng cục bộ địa phương, nó làm cho hệ thống pháp quyền phải đi gấp
khúc mới đến người dân, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
vô chính phủ, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật.
- Khắc phục tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, xem thường lớp trẻ. Sự
phân biệt giới theo quan niệm phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt ở
nông thôn. Quan điểm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” gắn liền với sự
lưu truyền nòi giống và thờ phụng tổ tiên vẫn ăn sâu trong tư tưởng nhiều
người. Điều đó làm hạn chế hiệu quả của công tác tuyên truyền sinh đẻ có
hoạch, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hơn nữa, tư tưởng này còn tồn
tại thì người phụ nữ sẽ không bao giờ được giải phóng thực sự, vai trò của
họ đối với xã hội cũng không được đánh giá đúng mức.
- Ngoài ra, chúng ta cũng phải loại bỏ những tư tưởng quan liêu, gia
trưởng, coi thường lớp trẻ, cản trở sự năng động, sáng tạo, sự phát triển cá
nhân của thế hệ trẻ như: “sống lâu lên lão làng”, “ngựa con háu đá”, “trứng
68
không hơn vịt”, “vắt mũi chưa sạch”,...
Cùng với việc cải tạo các phong tục, tập quán, chúng ta cần kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng cùng nhiều tệ nạn xã hội khác. Trong những
năm gần đây, tệ nạn tham nhũng được xác định không còn đơn giản là nguy
cơ mà đã trở thành “quốc nạn” đe doạ sự phát triển bền vững của đất nước.
Do đó, chúng ta cần có những điều luật rõ ràng về vấn đề này, những biện
pháp mạnh và cách thức đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng và các tệ
nạn xã hội.
Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp tăng trưởng kinh tế
với xây dựng các quan hệ đạo đức, nếp sống lành mạnh trong quá trình
chuyển sang kinh tế thị trường như là điều kiện để kế thừa và đổi mới các
giá trị đạo đức truyền thống, cần phải chú trọng các mặt sau:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường
hiệu lực quản lý của Nhà nước và thực hiện nhất quán chính sách phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo quan điểm của Đảng ta.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng đạo đức
mới, trong đó đạo đức truyền thống là một bộ phận hợp thành, được kế thừa
và đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của con người và xã hội Việt Nam
hiện nay.
- Bảo đảm thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội khả dĩ có thể
kết hợp tăng trưởng kinh tế với xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội.
Như vậy, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển của
kinh tế thị trường, gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng đời sống văn hoá
tinh thần tốt đẹp là tiền đề, điều kiện để kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc trong giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt
69
Nam hiện nay.
3.1.2. Bảo đảm thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay
Lịch sử nhân loại cho thấy, bất cứ một dân tộc nào biết kết hợp chặt
chẽ giữa các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, biết chắt lọc những
tinh hoa văn hoá nhân loại với việc sử dụng những giá trị vốn có để làm giàu
thêm giá trị của mình, làm cho nó phù hợp với thực tiễn thì dân tộc đó sẽ
đứng vững, sẽ phát triển bền vững trước mọi thử thách.
Theo quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự phát triển
được khẳng định bằng sự ra đời của cái mới, cái mới ra đời phủ định cái đã
lạc hậu song không phải là phủ định sạch trơn mà trên cơ sở có kế thừa giá
trị của cái cũ, đồng thời đổi mới nó cho phù hợp với giai đoạn mới.
Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm
lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi xem xét đạo đức truyền thống
dân tộc, chúng ta cần thấy được mặt tích cực cần gìn giữ và phát huy để xây
dựng đời sống đạo đức mới, đồng thời cũng cần sáng suốt đánh giá đúng mặt
hạn chế trong truyền thống để tìm cách loại bỏ dần chúng khỏi đời sống văn
hoá xã hội.
Dân tộc Việt Nam đã có bề dày lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ
nước. Đó là lịch sử vừa hào hùng vừa có đau thương, mất mát. Quá trình đó
đã rèn luyện, đào tạo nên những thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau với tinh
thần yêu nước quật cường, đã làm cho đất nước không ngừng phát triển bền
vững, với những giá trị dân tộc hết sức quý báu. Những truyền thống ấy
không ngừng được giữ gìn và tô thắm thêm giá trị và ý nghĩa của nó trong
tiến trình lịch sử. Thực tế, những giá trị truyền thống dân tộc nếu không
được kế thừa, phát huy và đổi mới trong những điều kiện mới, hoàn cảnh
mới thì nó sẽ bị mai một, ảnh hưởng tới sự phát triển của dân tộc, gây xung
đột giữa sức nặng uy lực của truyền thống với yêu cầu đổi mới của cuộc
70
sống hiện đại. Do đó, trong giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho
thanh niên sinh viên, việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống cần theo các hướng sau:
Thứ nhất, kế thừa, phát huy và “hiện đại hoá” các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp, tiêu biểu cho bản lĩnh và sức sống của dân tộc Việt
Nam, tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền thống dân tộc
được đúc kết và luôn luôn cần đổi mới, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử mới như: truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái khoan dung, đức tính cần cù tiết kiệm, sáng tạo trong lao
động,...
- Về truyền thống yêu nước, đó là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam, là một giá trị đạo đức tiêu biểu đã được thử thách qua lịch sử.
Cho dù, hệ giá trị có chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội như thế
nào chăng nữa nó vẫn xoay quanh cái trục tinh thần yêu nước đó. Tuy nhiên,
khi lịch sử biến đổi, với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, tinh
thần yêu nước cũng phải biến đổi theo cho phù hợp.
Lịch sử đã chứng minh, nếu không biến đổi phù hợp thì những giá trị
này lại trở thành rào cản trong quá trình phát triển. Thật vậy, vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước cũ theo sắc thái Nho giáo hay Phật
giáo mặc dù đã tạo nên những thời kỳ hưng thịnh cho nước nhà ở các thời
đại trước nhưng nay lại tỏ ra bất lực trước những nhiệm vụ chống trả sự xâm
lược của thực dân Pháp. Các phong trào Cần Vương, Đông du, Duy tân của
Tông Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã chứng tỏ tư tưởng
yêu nước truyền thống không còn phù hợp. Nguyên nhân của sự thất bại đã
nói lên sự thiếu vắng của hệ tư tưởng khoa học ngang tầm thời đại. Vì thế,
sự xuất hiện tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra bước ngoặt
mới cho cách mạng Việt Nam. Kết hợp những giá trị truyền thống dân tộc
với những giá trị của thời đại, Hồ Chí Minh đã khẳng định về sự cần thiết
phải biến đổi và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là phải gắn
71
tinh thần yêu nước dân tộc với chủ nghĩa yêu nước quốc tế.
Đặc biệt, trước xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, việc cần
thiết phải có sự kết hợp với tinh thần quốc tế là nội dung chủ yếu của chủ
nghĩa yêu nước mới. Chủ nghĩa yêu nước mới gắn liền với tinh thần yêu
chuộng hoà bình và tĩnh hữu nghị giữa các dân tộc trên toàn thế giới. Tinh
thần này được thể hiện trong mục tiêu của Đảng đề ra: “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triến” [10, tr.172]
Ngày nay, tinh thần yêu nước là gắn độc lập dân tộc với CNXH, yêu
nước phải yêu CNXH. Trước yêu cầu của thực tiễn hiện nay, phải chuyển
hoá chủ nghĩa yêu nước trước đây thành ý chí vươn lên làm giàu cho bản
thân, cho gia đình và xã hội, quyết tâm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phải chuyển từ ý chí không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ trước đây thành ý chí không chịu
nghèo đói, ngu dốt, lạc hậu, bị lệ thuộc. Nếu như trước đây, yêu nước là phải
hi sinh cứu nước, phải chiến thắng giặc ngoại xâm thì nay yêu nước là phải
kiên quyết chống các thế lực thù địch, phản động, chống tham nhũng, buôn
lậu, các tệ nạn xã hội khác - những vấn nạn đã và đang làm băng hoại các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Yêu nước là phải có lòng tự hào
dân tộc. Vì niềm tự hào về các giá trị chân chính luôn là động lực tinh thần
to lớn giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi khó khăn thử
thách. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, niềm tự hào cũng thể hiện khác nhau. Trong
thời kỳ hiện nay, ý thức tự hào về việc đánh thắng kẻ thù là một động cơ,
nhưng quan trọng hơn là ý thức về CNXH chân chính, về mục tiêu xây dựng
xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh sẽ giúp chúng ta
có định hướng đúng đắn trong hoạt động của mình. Thế hệ thanh niên sinh
viên hôm nay cần biết gắn niềm tự hào dân tộc với ý thức tự lực, tự cường, ý
thức vươn lên bằng chính sức lực của mình, không ảo tưởng, chủ quan, luôn
72
hướng tới mục tiêu xây dựng CNXH.
- Về lòng thương người, tinh thần nhân ái của dân tộc ta, trước đây
mới chỉ dừng lại ở tình cảm sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với nhau trong lúc khó
khăn hoạn nạn: “tối lửa, tắt đèn có nhau”. Đã có thời kỳ, nhiều người hiểu
sai rằng: yêu thương con người là phải làm cho mọi người phát triển giống
nhau. Điều này dẫn đến việc con người sống không còn cá tính, nhân cách
đơn điệu, nghèo nàn. Hơn nữa, chính sách phân phối bình quân, không có
đãi ngộ xứng đáng với những người có công đã gần như triệt tiêu động lực
kinh tế phát triển, sinh ra tính ỷ lại ở con người, không khuyến khích được
khả năng sáng tạo trong mỗi người.
Hiện nay, lòng nhân ái ngoài việc thể hiện ở sự sẻ chia, giúp đỡ mọi
người còn phải tạo mọi điều kiện phát huy năng lực cá nhân, con người phải
được coi là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá, lòng thương người không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một
dân tộc, mà còn được mở rộng, kết hợp với các quốc gia, dân tộc khác để
giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như: bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, chống các dịch bệnh hiểm nghèo, chống chiến tranh hạt nhân,...
đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Như vậy, ngày nay, lòng yêu thương con người phải bao gồm cả việc
giải phóng mọi tiềm năng, phát huy hết sức sáng tạo và đảm bảo điều kiện
cho sự phát triển phong phú, hài hoà ở con người.
- Về tinh thần đoàn kết dân tộc, truyền thống này cũng giúp chúng ta
vượt qua biết bao khó khăn trong quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Song trước đây, vì quá đề cao ý thức cộng đồng nên nhiều người Việt Nam
có tư tưởng bình quân, cào bằng. “Khôn độc không bằng ngốc đàn”, “Xấu
đều còn hơn tốt lỏi”. Điều này gây nên rất nhiều trở ngại đối với sự phát
triển đất nước.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi nhanh chóng,
chúng ta càng cần phải đoàn kết hơn nữa để xây dựng và bảo vệ thành công
73
CNXH. Chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế là khoảng cách giàu
nghèo ngày càng gia tăng trong điều kiện kinh tế thị trường và nhiều diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, phong trào đòi ly khai của một số dân
tộc, sự đối đầu giữa các tôn giáo, đặc biệt là âm mưu diễn biến hoà bình.
Tình hình ấy có ảnh hưởng không tốt đến việc xây dựng khối đoàn kết dân
tộc. Do đó, chúng ta càng cần phải chú ý hơn nữa trong việc phát huy tinh
thần đại đoàn kết, đoàn kết giữa các giai cấp, giữa các lực lượng trong toàn
xã hội, giữa nhân dân trong nước với kiều bào nước ngoài và bạn bè quốc tế.
Đảng ta đã nêu rõ: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai
cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người
đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở
trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc,
truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy
mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến mặc khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ định kiến mặc cảm,
phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai” [8, tr.123-124].
Như vậy, tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng của dân tộc ta cũng
cần được thực hiện trên tinh thần mới: tinh thần bình đẳng, có cạnh tranh
lành mạnh, tạo dựng cơ hội cho mọi người cùng vươn lên, tạo dựng cuộc
sống hạnh phúc, ấm no. Tinh thần đoàn kết được mở rộng: đoàn kết dân tộc,
đoàn kết các Gdân tộc, nhân loại trên thế giới, vì hạnh phúc và tương lai
phát triển của nhân loại. Giúp thanh niên sinh viên ý thức được vai trò và
trách nhiệm của mình trong việc thực hiện những vấn đề này cũng là một
yêu cầu đối với việc xây dựng đạo đức mới cho họ.
- Về tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, cha ông ta nhờ đó mà đã
vững bước đi lên bằng chính sức mình. Mặc dù, con người Việt nam truyền
74
thống có đức tính chăm chỉ, cần cù rất đáng quý nhưng nếu đề cao đức tính
này một cách thái quá, cho rằng “cần cù bù thông minh” thì nền sản xuất
khó có thể phát triển được. Nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu ở Việt Nam
chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu cho người dân chứ không
thể đảm bảo cho sự phát triển phong phú của con người. Hơn nữa, khi dân
số ngày càng tăng lên, đất đai sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp,
thiên nhiên có nhiều biến đổi bất lợi, thì lao động cần cù không thôi sẽ chưa
đủ mà cần phải có thêm những đức tính khác trong lao động: sự sáng tạo, có
kỹ thuật cao, có tính kỷ luật.
Ngày nay, chúng ta vẫn phát huy và luôn gắn cần cù tiết kiệm với
trình độ khoa học, sáng tạo không ngừng, có kỷ luật cao trong lao động. Có
thể nói, sáng tạo đã trở thành đặc trưng cho người lao động hiện đại. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng cần phải có lối sống giản dị, tiết kiệm đúng mực,
tránh xa hoa, lãng phí. Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh vai trò to lớn
của việc thực hành tiết kiệm trong quá trình phát triển: “Chúng ta nhất thiết
phải cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải khắc phục xu hướng
chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa lãng phí. Đó là một trong những
nhân tố quyết định thành công của chúng ta” [45, tr.7]. Việc thực hành tiết
kiệm phải đi đôi với công tác phòng chống tham ô, tham nhũng - một trong
bốn nguy cơ lớn mà Đảng ta đã chỉ ra trong quá trình xây dựng CNXH. Có
như vậy thì chúng ta mới thực hiện được việc “đi tắt đón đầu” trong quá
trình phát triển, nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại.
Ngoài các giá trị chủ yếu trên, các giá trị đạo đức truyền thống như:
tinh thần lạc quan, tính trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, thuỷ chung,...cũng
cần được kế thừa và đổi mới trong việc xây dựng đạo đức mới cho tầng lớp
thanh niên sinh viên hiện nay.
Tóm lại, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào và trân trọng các giá trị
75
đạo đức truyền thống của dân tộc song chúng ta không nên bằng lòng với
những gì đã có, không dừng lại ở đó. Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống, một mặt phải giữ gìn, phát huy tác dụng của nó, mặt khác phải
bổ sung thêm những giá trị thời đại phù hợp với định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, các giá trị đạo đức truyền thống cũng cần được làm giàu
thêm, bổ sung có chọn lọc những giá trị của nhân loại thông qua giao lưu,
hội nhập sao cho phù hợp với yêu cầu cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới. Giao lưu văn hoá là sự vận động thường xuyên gắn với tiến bộ xã hội,
là một trong những động lực phát triển của các nền văn hoá, trong đó có đạo
đức. Đây là quá trình tác động lẫn nhau giữa cái nội sinh và cái ngoại sinh
trong văn hoá, trong đó cái nội sinh giữ vai trò quyết định, định hướng mối
quan hệ của nó với cái ngoại sinh, là biểu hiện của sự kế thừa mang tính
“đồng đại”. Vì vậy, đây cũng là quá trình trao đổi, lựa chọn và tiếp nhận các
giá trị giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, thực hiện chính sách mở cửa của
Đảng ta, quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với một tốc độ
và một chất lượng chưa từng có ở Việt Nam. Đây là một quá trình hợp với
quy luật khách quan. Thông qua giao lưu, học hỏi và hội nhập, thanh niên
sinh viên Việt Nam nhanh chóng tiếp thu được những phẩm chất đạo đức
hiện đại như: ý chí vươn lên, khát vọng thành đạt, tư duy khoa học và năng
động, tác phong công nghiệp, nhạy bén, linh hoạt, ý thức tổ chức kỷ luật
cao, biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng dân chủ, ý thức pháp luật tốt và cả
những chuẩn mực mới như: đạo đức nghề nghiệp, đạo đức sinh thái,...
Thanh niên sinh viên là những người hết sức nhạy cảm trước những
tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của các yếu tố thời đại. Trong xu thế hội
nhập, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều nguy
cơ, thách thức lớn lao: vấn đề ô nhiễm môi trường gia tăng, nhiều dịch bệnh
lan tràn, sự phân hoá giàu nghèo, những cuộc chạy đua vũ trang (vũ khí hạt
76
nhân, vũ khí sinh học giết người hàng loạt),... Tình hình ấy đặt ra cho chúng
ta yêu cầu là phải có chiến lược bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Để có được
những con người Việt Nam hiện đại cần phải xây dựng đạo đức cho thế hệ
trẻ trên cơ sở kế thừa phát huy và đổi mới những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc. Để thực hiện được yêu cầu này, chúng ta cần phải làm tốt các
nhiệm vụ sau đây:
- Nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là trình độ học vấn cho thanh
niên sinh viên, giúp họ am hiểu và nắm vững truyền thống đạo đức và văn
hoá của dân tộc, từ đó, hình thành niềm tin vững chắc và lòng tự hào lớn lao
về lịch sử hào hùng của dân tộc, tự tin bước vào hội nhập mà không bị “hoà
tan” bởi văn hoá ngoại lai.
- Khắc phục cả hai khuynh hướng cực đoan trong việc tiếp thu các giá
trị thời đại: bài ngoại hoặc sùng ngoại, tự tôn dân tộc đến mức kiêu ngạo
hoặc kỳ thị dân tộc
- Nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình” trên
mặt trận văn hoá tư tưởng của các thế lực thù địch.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên
sinh viên Việt Nam hiện nay
3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà
trường, xã hội
Môi trường giáo dục thống nhất, lành mạnh là môi trường trong đó có
sự kết hợp đồng đều cả ba chủ thể giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội. Cả
ba chủ thể này tạo nên một cơ chế giáo dục thống nhất, tác động và hỗ trợ
cho nhau. Bản chất của sự phối hợp này là đạt được sự thống nhất về các
yêu cầu giáo dục, khiến cho định hướng đạo đức của giới trẻ được xác lập
đúng đắn, đầy đủ và vững chắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: giáo dục trong
nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và của gia đình
77
để giúp việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà
trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội
thì kết quả cũng không bao giờ được như mong muốn. Trong văn kiện Hội
nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta chỉ rõ: “Gìn
giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá. Xây
dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” [10, tr.60]
Những năm gần đây, phương hướng này về cơ bản đã được thực hiện,
góp phần quan trọng trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên
sinh viên. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển xã hội, với mục tiêu xây dựng
con người mới theo tinh thần của “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là: con người có ý thức làm
chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi;
sống có văn hoá và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân
chính,...thì chúng ta còn nhiều việc phải làm. Trong văn kiện Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ hai khoá VIII có viết: “Gia đình và các tập
thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa
phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị,
đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm đồi truỵ”
[9, tr.21]. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội là
vấn đề then chốt, là một việc làm hết sức cần thiết trong việc giáo dục đạo
đức, tư tưởng, lối sống cho thanh niên sinh viên.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có êm ấm, hạnh phúc thì xã hội
mới có trật tự, phát triển. Đó là chiếc nôi nuôi dưỡng, chăm sóc tâm hồn và
cuộc đời của mỗi con người. Vai trò của người cha, người mẹ với việc giáo
dục con cái trong gia đình là hết sức quan trọng. Sự giáo dục bằng việc
khuyên răn, dạy bảo con cái những điều hay lẽ phải, sống theo cái Chân -
78
Thiện - Mỹ và bằng cả việc làm gương của chính cha mẹ.
Thực tế vẫn còn không ít gia đình mà các bậc cha mẹ chưa ý thức
được vai trò lớn lao ấy, hay quan tâm chưa đúng mức tới việc giáo dục con
cái. Dẫn đến tình trạng: nhiều thanh niên hiện nay không được giáo dục đạo
đức chu đáo từ nhỏ, hư hỏng, trở thành một bộ phận đi ngược với xu thế
chung của sự phát triển xã hội.
Đứng trước thực trạng đó, mỗi gia đình phải có sự quan tâm đúng
mực với việc giáo dục con em mình. Ngoài việc giáo dục nhận thức trí tuệ
cho con cần phải bồi dưỡng thường xuyên về mặt đạo đức, nhân cách; kết
hợp những phương pháp giáo dục truyền thống với phương pháp hiện đại
sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Mỗi gia đình cần phải là nơi lưu truyền
những giá trị văn hoá dân tộc, đồng thời cũng luôn phấn đấu xây dựng “nếp
sống văn minh”, “gia đình văn hoá”.
Gia đình rất cần phải kết hợp chặt chẽ với nhà trường, vì nhà trường là
nơi trang bị các kiến thức văn hoá cơ bản cho thanh niên sinh viên. Đa phần
thanh niên sinh viên là đối tượng đi học phải sống xa nhà, xa sự quản lý chặt
chẽ của gia đình, phải tự lập hơn. Do đó, một môi trường giáo dục hợp lý là
nhà trường sẽ phải thường xuyên thông tin, liên lạc với gia đình để gia đình
các em có thể nắm bắt chính xác tình hình học tập rèn luyện của con em
mình. Trong những trường hợp cần thiết, gia đình và nhà trường sẽ kịp thời
phối hợp để giúp đỡ sinh viên. Hơn nữa, khi ngồi trên ghế nhà trường, sinh
viên còn được học các môn đạo đức, giáo dục ý thức tư tưởng chính trị, hiểu
được những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại và thấm nhuần những giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc qua các bài học, qua nhiều phong trào của
nhà trường. Từ đó, sinh viên nâng cao ý thức đạo đức của mình.
Sinh viên khi phải sống xa gia đình là đồng thời các mối quan hệ xã
hội cũng được mở rộng hơn. Một môi trường xã hội lành mạnh cũng là điều
kiện rất cần thiết trong việc hình thành và hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối
79
sống mới của thanh niên sinh viên hiện nay. Xã hội là một môi trường rộng
lớn mà ở đó các cá nhân có mối quan hệ giao tiếp với nhau trong học tập,
sinh hoạt và thể hiện khả năng của mình. Đối với xã hội, trực tiếp là Nhà
nước, cần có những định hướng toàn diện về mặt kinh tế, tư tưởng đạo đức,
hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ đãi ngộ được thực hiện qua nhà nước,
qua mạng lưới tuyên truyền thông tin đại chúng, qua dư luận xã hội,... để
xây dựng một môi trường lành mạnh.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh
niên sinh viên, trước mắt chúng ta cần giải quyết tốt một số điểm sau đây:
Thứ nhất, trong giáo dục đạo đức cho sinh viên, giữa gia đình, nhà
trường và xã hội phải có sự thống nhất về quan điểm, nội dung, phương
pháp, tránh tình trạng phân tán, biệt lập. Gia đình phải luôn nắm được những
thông tin từ phía nhà trường, có những hiểu biết nhất định về phía nhà
trường để không cản trở con em mình tham gia các hoạt động chính trị - xã
hội do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Các bậc phụ huynh cũng
phải đổi mới nhận thức, phương pháp giáo dục sao cho phù hợp, tạo sự gần
gũi và hiểu con mình hơn, tránh tình trạng có sự xung đột giữa các thế hệ.
Thứ hai, gia đình, nhà trường và xã hội phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong việc kết hợp giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên. Đặc
biệt, vai trò của các cấp lãnh đạo của Đảng từ cơ quan Bộ đến các trường
cao đẳng và đại học phải hết sức nêu cao trách nhiệm của mình, luôn quan
tâm đến công tác giáo dục đạo đức tư tưởng, lối sống lành mạnh cho sinh
viên, quan tâm đến nguyện vọng cũng như quyền lợi của sinh viên, phối hợp
chặt chẽ với chính quyền địa phương để nâng cao hiệu quả trong công tác
này. Nhà trường là nơi đào tạo con người không chỉ về mặt tri thức mà còn
cả về mặt đạo đức. Vì thế, nhà trường cần đảm bảo giữ nề nếp kỷ cương
trong học đường, tạo môi trường trong sạch, lành mạnh giúp sinh viên nhận
80
thức được những giá trị đạo đức là cần thiết, là có ý nghĩa với bản thân và xã
hội. Sinh viên sẽ có ý thức tôn trọng những giá trị truyền thống của dân tộc.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường còn làm cho sinh viên biết yêu quý, cố
gắng lĩnh hội và thực hiện các giá trị đạo đức đích thực, không chấp nhận
những gì là phản giá trị, có tinh thần đấu tranh bảo vệ và phát triển những
giá trị đạo đức truyền thống.
Đối với những thanh niên sinh viên sống trong ký túc xá của các
trường cao đẳng và đại học, nhà trường phải luôn luôn quan tâm đến điều
kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của họ. Các bộ phận làm công tác quản
lý sinh viên của trường phải phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng,
chủ yếu là Đoàn thanh niên và Hội sinh viên để quản lý sinh hoạt ăn ở, học
tập, giải trí của sinh viên, luôn luôn cố gắng xây dựng môi trường ký túc xá
“Xanh - Sạch - Đẹp”. Nhà trường hàng năm cũng cần phải đầu tư kinh phí
để tu bổ, sửa chữa, mở rộng ký túc xá sao cho đáp ứng nhu cầu số lượng
sinh viên ngày càng tăng, làm sao cho chất lượng điều kiện sống ở ký túc xá
ngày càng cao. Sinh viên sẽ thấy thật sự thoải mái với môi trường sống và
học tập. Hơn nữa, trường cũng cần phối hợp với công an phường để quản lý
về mặt nhân khẩu và trật tự an ninh xã hội. Mặt khác, bộ phận quản lý ký túc
xá cũng cần phối hợp chặt với lực lượng bảo vệ ở nhà trường để giữ gìn trật
tự, tài sản cho sinh viên.
Đối với những sinh viên phải thuê nhà trọ ở ngoài thì càng cần được
quan tâm nhiều hơn của gia đình, các chủ hộ cho thuê nhà và chính quyền
địa phương và các tổ chức đoàn thể trong việc quản lý các em. Nếu quản lý
lỏng lẻo, nhiều sinh viên chưa ý thức hết được vai trò, trách nhiệm của mình
sẽ dễ bị mắc vào các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, sinh viên là nhóm xã hội có trình độ văn hoá cao, đồng thời
cũng có nhu cầu cao đối với việc hưởng thụ các hình thức văn hoá tinh thần.
Họ thích được tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,
81
hoạt động quần chúng. Do đó, nhà trường mà trước hết là tổ chức Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên cần thường xuyên phối hợp với chính quyền địa
phương, các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức
các hoạt động văn hoá, vui chơi giải trí, thể dục thể thao,... để sinh viên có
cơ hội vừa rèn luyện sức khoẻ vừa mở rộng giao lưu với xã hội, được thâm
nhập thực tế, nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng.
Tóm lại, việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên sinh viên nhằm xây
dựng đạo đức mới cho họ là một giải pháp căn bản, cần thiết.
3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay
Nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và đào tạo đã quan tâm đến công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng và đại học, nhiều lần
tổ chức biên soạn lại giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ môn đạo đức
học. Tuy nhiên, nội dung, chương trình và phương pháp, hình thức giáo dục
đạo đức vẫn còn nghèo nàn, nhiều khi còn nặng tính hàn lâm, xa rời thực tế,
thiếu cập nhật. Giáo viên giảng dạy môn đạo đức học ở các trường cao đẳng,
đại học phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, chủ yếu do các giảng viên
giảng dạy các môn lý luận Mác-Lênin đảm nhận, do đó chất lượng và hiệu
quả thấp. Thực tế này đã được nêu ra trong Hội nghị lần thứ hai Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
nhân văn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng
dạy các môn khoa học Mác- Lênin bị hạn chế” [9, tr.26].
Giáo dục đạo đức là một phương thức quan trọng trong quá trình xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên. Thông qua giáo dục đạo đức,
sinh viên sẽ lĩnh hội được các phạm trù, khái niệm, các giá trị đạo đức một
cách sâu sắc. Từ đó, các hoạt động của họ sẽ phù hợp hơn với yêu cầu của
xã hội mới, quan trọng hơn là làm cho họ có khả năng tự kiểm tra, đánh gía
82
và tự điều chỉnh hành vi của chính mình trong điều kiện mới. Trong giáo
dục đạo đức, việc coi trọng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là một yêu
cầu cơ bản. Giáo dục đạo đức truyền thống sẽ là cầu nối quan trọng giữa thế
hệ trẻ với quá khứ, với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy
trong họ niềm tin, niềm tự hào và ý thức bảo vệ những thành quả tinh thần
mà ông cha ta đã đạt được.
Để công tác giáo dục mang lại hiệu quả cao, cùng với việc nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên (vấn đề có ý nghĩa quyết định) cần phải tổ
chức biên soạn tài liệu, giáo trình mới phục vụ tốt hơn cho giảng dạy. Nội
dung giáo dục: kết hợp giữa việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống với việc bổ sung thêm hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức
mới như: đạo đức sinh thái, đạo đức nghề nghiệp, tự lập, tự chủ, sáng tạo,...
Hơn nữa, cần tăng cường và đa dạng hoá các hình thức hoạt động có ý nghĩa
chính trị xã hội để thu hút sinh viên tham gia, kích thích tính tích cực xã hội
ở họ, đồng thời đó cũng là giải pháp tốt nhất để thực hiện phương châm giáo
dục: lý luận kết hợp với thực tiễn, học đi đôi với hành. Như vậy, việc giáo
dục đạo đức sẽ không bị đóng khung trong nhà trường, không tách rời với
cuộc sống sôi động đang biến đổi từng ngày, từng giờ.
Cùng với nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho thanh niên sinh viên cũng phải được đổi mới sao cho phù
hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ. Thông thường, chúng ta vẫn áp dụng những
phương pháp mang tính truyền thống trong giáo dục đạo đức như: diễn
giảng, tổ chức cuộc thi tìm hiểu truyền thống, lấy gương người tốt việc tốt
để giáo dục, thiết lập các thói quen ứng xử theo chuẩn mực đạo đức,...Việc
áp dụng và phát huy những phương pháp giáo dục truyền thống này đối với
thanh niên sinh viên là rất cần thiết và quan trọng, tuy nhiên, trong điều kiện
hiện nay đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải luôn đổi mới, tìm những hình
thức giáo dục mới, cuốn hút được đông đảo thanh niên sinh viên tham gia
83
theo kiểu học mà chơi, chơi mà học. Chẳng hạn, một số nơi đã áp dụng các
hình thức sân khấu hoá hoạt động giáo dục truyền thống, tạo ra những sân
chơi lành mạnh, bổ ích cho tuổi trẻ. Ở đó, thanh niên sinh viên không còn có
cảm giác bị “giáo huấn”, học lý thuyết suông. Việc tiếp thu giá trị truyền
thống đến một cách tự nhiên, thoải mái, tự giác mà hiệu quả rất cao. Chính
trong những hoạt động như thế, sinh viên không đơn thuần chỉ là đối tượng
giáo dục, mà xét ở khía cạnh nào đó họ đã trở thành chủ thể giáo dục của
chính mình.
Ngoài ra, chúng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của
các đoàn thể, tổ chức quần chúng cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
sinh viên. Điều đó đòi hỏi các tổ chức đoàn thể phải có chương trình về công
tác giáo dục thanh niên của tổ chức mình, xây dựng quy chế hoạt động phù
hợp gắn Đoàn thanh niên với hội viên.
Trên thực tế, riêng ở Hà Nội những năm gần đây, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học đã
tổ chức được nhiều hình thức hoạt động mang tính giáo dục giá trị truyền
thống cao, thu hút đông đảo sinh viên hưởng ứng tham gia: chương trình
“Xây dựng hình ảnh người sinh viên Thủ đô ngàn năm văn hiến”, “Tuổi trẻ
học đường Thủ đô tiến bước dưới cờ Đảng thi đua học tập - rèn luyện, lập
công xuất sắc trong phong trào Thanh niên tình nguyện”, thi tìm hiểu “Đảng
cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội”,... Đây là những dịp thuận
lợi để sinh viên biến nhận thức, ý thức đạo đức thành thực tiễn đạo đức,
không ngừng nâng cao tình cảm đạo đức cách mạng cho thanh niên sinh
viên.
3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát
huy các giá trị đạo dức truyền thống dân tộc
Đạo đức và pháp luật đều là những hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có
liên quan với nhau theo nhiều khía cạnh, luôn có tác động, ảnh hưởng và bổ
84
sung cho nhau. Tuy nhiên, đạo đức và pháp luật khác nhau ở hình thức biểu
hiện và tính chất, phương thức điều chỉnh. Pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội bằng sự cưỡng chế, bắt buộc theo những
chuẩn mực pháp lý. Pháp luật xác định những giới hạn cho hành động của
họ và mức độ trừng phạt những vi phạm. Thông qua các quy phạm do nhà
nước ban hành, pháp luật điều tiết hành vi con người một cách cưỡng chế để
đảm bảo cho sự ổn định nhất định của xã hội. Còn đạo đức điều chỉnh các
quan hệ giữa cá nhân và xã hội thông qua dư luận xã hội, bằng sự cắn dứt
lương tâm của chính chủ thể hành vi, bằng sự giác ngộ đạo đức, niềm tin cá
nhân theo các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, người ta gọi pháp luật là đạo đức
tối thiểu, chuẩn mực đạo đức (điều chỉnh hành vi con người một cách tự
nguyện, tự giác) là pháp luật tối đa. Chính sự thống nhất và khác biệt đó
giữa chúng tạo nên tiền đề cho tác động qua lại, ảnh hưởng và bổ sung lẫn
nhau, cần thiết phải kết hợp hài hoà cả hai trong hoạt động giáo dục.
Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực
nào đó, biến nó thành thói quen, từ đó biến nó thành nhu cầu của con người,
thành chuẩn mực đạo đức. Banzenade có lý khi nhận xét rằng: “Xưa nay,
pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một
chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó bao
nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể
buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo
đức của xã hội” [14, tr.177].
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nếu pháp luật của nhà nước do
giai cấp tiên tiến của thời đại xây dựng thì lợi ích của xã hội về cơ bản là
thống nhất. Do đó, những chuẩn mực, những quy phạm của nó bảo vệ lợi ích
giai cấp cũng đồng thời bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá của con
người. Nói cách khác, nó tạo điều kiện và bảo vệ cho sự phát triển của
85
những giá trị đạo đức. Ngược lại, nếu pháp luật của nhà nước do giai cấp
phản tiến bộ xác lập thì lợi ích của xã hội sẽ có mâu thuẫn, không tạo điều
kiện cho sự phát triển của những giá trị đạo đức chân chính.
Với Việt Nam, ngay khi vừa giành được độc lập, thấy được tầm quan
trọng của pháp luật trong việc bảo vệ, ổn định trật tự xã hội, cũng như trong
việc gìn giữ những thuần phong mỹ tục của dân tộc, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đã cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946. Tiếp
theo đó là các bộ luật, các văn bản pháp lý,... trong đó có nhiều giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc đã được ghi nhận thành những quy phạm bắt
buộc.
Hiến pháp cũng như các bộ luật của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo lợi ích của mọi
người dân. Các nguyên tắc đạo đức cơ bản của con người cũng như những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc - sự công bằng, dân chủ, nhân đạo,
tôn trọng phẩm giá con người - cũng là những định hướng cơ bản trong nội
dung của Hiến pháp và pháp luật. Điều 30, Hiến pháp năm 1992 khẳng định:
“Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện
đại, nhân văn; kế thừa và phát huy các giá trị của nền văn hiến các dân tộc
Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”.
Hiện nay, nhiều người dân đã có ý thức hơn trong việc thực hiện pháp
luật. Hiến pháp và các quy định pháp luật dần đi vào cuộc sống. Mặc dù vậy,
những hiện tượng vi phạm pháp luật vẫn diễn ra, hơn nữa còn diễn ra với
mức độ và quy mô ngày càng lớn. Có thể khẳng định rằng: các hành vi vi
phạm đạo đức có thể chưa dẫn đến vi phạm pháp luật, nhưng các hành vi vi
phạm pháp luật thì đều có nguồn gốc từ vi phạm đạo đức, trong đó có vi
phạm các giá trị đạo đức truyền thống.
Thực tế, sự thiếu ý thức pháp luật vẫn còn là một hạn chế lớn trong
86
truyền thống đạo đức của chúng ta. Do đó, việc kết hợp đồng thời giáo dục
đạo đức và giáo dục pháp luật để nhằm tạo ra một môi trường pháp lý vững
chắc cho công tác giáo dục truyền thống cho thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay là biện pháp thực sự cần thiết.
Hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta trong thời gian
qua, nhất là trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ
vai trò to lớn của pháp luật trong việc gìn giữ các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay,
hiệu lực pháp luật trong quản lý xã hội, bảo vệ và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống vẫn còn nhiều hạn chế. Nhân dân ta từ bao đời gắn bó với
nền sản xuất nhỏ và chưa trải qua nền dân chủ tư sản nên ý thức pháp luật
của đại bộ phận nhân dân còn thấp.
Để nâng cao hiệu quả pháp luật trong việc bảo vệ và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống, phải lưu ý mấy điểm sau:
- Trước hết, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ rất cần thiết.
Hệ thống pháp luật phải được xây dựng trên nguyên tắc như đồng chí Đỗ
Mười nói: “Pháp luật phải tác động tích cực đến việc bảo vệ thuần phong,
mỹ tục, xây dựng đạo đức của mọi người đối với bản thân, gia đình, tập thể
và đối với toàn xã hội, tiếp thu những tinh hoa của loài người đi đôi với việc
bảo tồn và phát huy bản sắc, truyền thống tốt đẹp và những giá trị văn hoá,
tinh thần, đạo đức của dân tộc ta” [45, tr.145].
Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, khoa học pháp lý
cần nghiên cứu cả hệ thống những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
chọn lọc các giá trị, chuẩn mực đạo đức phù hợp để từng bước luật hoá nó.
Nghĩa là phải lựa chọn và biến những “lệ hay” trở thành “luật nước”. Điều
đó sẽ cho phép các giá trị đạo đức truyền thống được bảo tồn và phát triển.
Hơn nữa, nó làm cho các bộ luật dễ đi vào ý thức mỗi người dân. Từ tình
cảm đối với các giá trị dân tộc mà giá trị pháp lý đi vào ý thức của mỗi
87
người. Từ đó, mọi người dần hình thành thói quen sống và làm việc theo
pháp luật. Khi ấy, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc tự mình sẽ có
điều kiện phát huy tác dụng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các
văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân
đều được bình đẳng trước pháp luật” [8, tr.32].
- Thứ hai, chúng ta cũng cần nâng cao ý thức thực thi pháp luật hơn
nữa. Bởi lẽ, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện đã nêu ở trên, việc thực thi
pháp luật của người Việt Nam còn rất kém. Để nâng cao việc thực thi pháp
luật, chúng ta phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện
pháp luật, tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào cuộc sống bằng nhiều biện
pháp thích hợp như: tăng cường giáo dục pháp luật trong cộng đồng để nâng
cao nhận thức pháp luật cho mọi người; kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp
luật; xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước có phẩm chất tốt, chuyên
môn cao để đảm bảo việc thi hành pháp luật đầy đủ và có hiệu quả.
Sở dĩ chúng ta cần nhấn mạnh đến công tác giáo dục pháp luật vì: đó
là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác
động lên đối tượng giáo dục, với mục đích tạo cho họ tri thức, tình cảm pháp
luật và qua đó tạo ra những hành vi phù hợp với hệ thống pháp luật hiện
hành.
Giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập trong đời sống
thực tiễn những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho
mỗi người. Mục đích cơ bản của nó là trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng
cao tri thức pháp luật, xuất phát từ những đòi hỏi của các đối tượng giáo dục
khác nhau, phù hợp với các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, hình thành lòng
tin vào pháp luật, xây dựng thói quen vững chắc xử sự theo những đòi hỏi
88
của pháp luật.
- Thứ ba, trong các trường cao đẳng, đại học, việc giáo dục đạo đức
cần thống nhất chặt chẽ với giáo dục pháp luật cho sinh viên. Giáo dục đạo
đức sẽ đem lại cho con người tình cảm, niềm tin đạo đức, giúp con người có
những hành vi hợp đạo đức. Đa số những người có hành vi hợp đạo đức thì
rất hiếm khi vi phạm pháp luật. Còn giáo dục pháp luật tạo ra cho con người
khả năng sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng những phẩm giá của con
người, tôn trọng hạnh phúc của người khác, bởi lẽ trong một số quy phạm
pháp luật có chứa các nguyên tắc đạo đức. Pháp luật và đạo đức có mối quan
hệ rất chặt chẽ. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổ hợp của cả hai dạng
giáo dục: giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật. Do đó, các nhà trường cần
phối hợp với các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội sử
dụng đồng bộ những biện pháp, hình thức của cả hai dạng giáo dục này với
mục đích nhằm hình thành hành vi hợp pháp, hợp đạo lý ở người sinh viên.
3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay
Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình
cải tạo thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giáo
dục (trong đó có mặt tự giáo dục) con người có khả năng tự biến đổi nhân
cách của mình một cách có ý thức.
Thanh niên sinh viên là những người được giáo dục bởi nhà trường,
gia đình và xã hội. Cùng với quá trình được giáo dục đó thì tự giáo dục là
một quá trình sinh viên tự hoàn thiện nhân cách của mình, sao cho phù hợp
với yêu cầu của cuộc sống. Để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng
cao của cuộc sống, của thị trường sức lao động, của xã hội hiện đại, sinh
viên phải phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, tích cực, sáng tạo
trong học tập, nghiên cứu khoa học, tự rèn luyện bản thân về mọi mặt, đồng
thời phải luôn ý thức được việc gìn giữ giá trị truyền thống. Tự học chính là
89
quá trình con người tự giác tìm hiểu, khám phá thế giới khách quan và tiếp
nhận, lĩnh hội nền văn hoá tinh thần của nhân loại thành vốn riêng của mình
nhằm mục đích gần và thiết thực để sinh sóng, còn xa và cao thượng là đê
góp phần làm cho xã hội tiến bộ.
Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với một trình
độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo dục
sẽ giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững những kiến thức cơ bản, mà còn
nắm vững những tri thức đạo đức đã được nhà trường trang bị, cùng với giao
tiếp xã hội ngày càng mở rộng. Sinh viên sẽ biết chuyển những kiến thức đó
thành niềm tin cá nhân, xây dựng thế giới quan đúng đắn, nhân sinh quan
tích cực, hình thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp và được thể hiện ngay
trong hành vi ứng xử hàng ngày của sinh viên.
Đạo đức là một nội dung cơ bản thể hiện văn hoá của con người – văn
hoá đạo đức, là mặt giá trị của con người. Nó hướng con người vươn tới
những giá trị đích thực của cuộc sống. Đạo đức ở mỗi người không phải tự
nhiên mà có. Đó là kết quả của cả quá trình phấn đấu, rèn luyện vô cùng khó
khăn, gian khổ. Người có đạo đức phải là người được giáo dục và biết tự
giáo dục tốt. Thông qua hoạt động và giao lưu, con người hiểu rõ hơn về vai
trò của lương tâm, nghĩa vụ, ý thức danh dự và phẩm chất đạo đức cần thiết
của cá nhân đối với đời sống cộng đồng.
Cùng với quá trình giáo dục là quá trình tự giáo dục. Quá trình tự giáo
dục là một quá trình “tự thân vận động”, đòi hỏi phải có một nghị lực, một ý
chí và quyết tâm cao để chiến thắng chính bản thân mình. Nếu không tự giác
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên thì rất dễ bị gục ngã trước nhiều
cám dỗ của cuộc sống.
Đạo đức không phải cái gì sẵn có. Nó được củng cố, phát triển chủ
yếu do sự đấu tranh, rèn luyện hàng ngày, giống như: “Ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Trên thực tế, có nhiều sinh viên đã nắm
90
được tri thức đạo đức song chưa thực sự thấm nhuần, chưa biết rèn luyện
mình theo những tri thức đã lĩnh hội được nên khi ra trường lại có nhiều ứng
xử, hành vi không đạo đức.
Việc phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, vai trò tự giáo dục, tự
rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên là một trong những
nội dung hiện đại hoá phương pháp giáo dục: Lấy người học làm trung tâm,
người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn và tổ chức quá trình học. Với ý
nghĩa đó, chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp cho sinh viên
có cơ hội để thể hiện mình, để tự vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.
Tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, biết tự rèn luyện các giá trị đạo
đức truyền thống của sinh viên là con đường tất yếu đối với sự phát triển,
91
hoàn thiện nhân cách của sinh viên.
KẾT LUẬN
1. Nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa, phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là tiền đề cơ bản để tạo dựng nền
đạo đức lành mạnh của xã hội, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc; phát huy mặt
tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của nền kinh tế thị trường.
2. Trong thời đại mới, để có được nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh việc
thường xuyên tạo mọi điều kiện tốt nhất để nâng cao trình độ khoa học - kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại, chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến công tác
giáo dục nói chung và công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng, lối sống lành
mạnh cho thanh niên sinh viên nói riêng. Nước Việt Nam có phát triển bền
vững được hay không là phụ thuộc rất lớn vào thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp
thanh niên sinh viên. Vì vậy, một yêu cầu cấp thiết là phải biết kế thừa, phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong việc xây dựng đạo
đức mới sinh viên hiện nay, tạo ra cho đất nước những con người vừa có
năng lực vừa có phẩm chất đạo đức tốt: yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
hăng say nhiệt tình, năng động, sáng tạo,...
3. Sinh viên cả nước nói chung và sinh viên học tại các trường cao
đẳng, đại học ở Hà Nội nói riêng vẫn có ý thức gìn giữ, phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống trên tinh thần có đổi mới, hiện đại hoá chúng trong
điều kiện mới bằng những hoạt động học tập, rèn luỵên không ngừng và
tham gia nhiều phong trào mang ý nghĩa giáo dục đạo đức truyền thống. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều khó khăn mà chúng ta gặp phải
trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Vì vậy, để có hiệu quả cao
trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay, chúng tôi một số
92
phương hướng và giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN gắn liền với việc cải tạo phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp
sống mới.
Thứ hai, bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới các giá trị
đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên.
Để phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay cần chú ý thực
hiện những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà
trường, xã hội.
Hai là, đổi mới công tác giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên.
Ba là, tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Bốn là, tăng cường tính tự giác học tập và rèn luyện nhằm nâng cao
93
trình độ hiểu biết về những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Lương Gia Ban (1999), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2 Nguyễn Trọng Chuẩn (1992), “Một số vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong con người”, Tạp chí Triết học (9).
3 Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền
thống vì mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học (2).
4 Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định và thách thức của thời đại trong bối cảnh của toàn cầu hoá. Báo cáo tại Hội thảo quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Hà Nội.
5 Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6 Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ IV, Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7 Đảng cộng sản Việt Nam (1994). Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm
kỳ khoá VII, Lưu hành nội bộ.
8 Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9 Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10 Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11 Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12 Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13 Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
94
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14 G. Banzenade (1983), Đạo đức học, tập I, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
15 Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
16 Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17 Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống – nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học (4).
18 Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
19 Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề về văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện
nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
20 Vũ Khiêu (chủ biên, 1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
21 Vũ Khiêu (chủ biên, 1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền
thống dân tộc và nhân loại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22 Khoa Luật (1996), Giáo trình “Nhà nước và pháp luật”, Trường đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
23 Khoa Sư phạm (2003), Giáo dục đại học (Tài liệu bồi dưỡng dùng cho các lớp Giáo dục đại học và nghiệp vụ sư phạm đại học), Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24 Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học (6).
25 Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26 Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
27 Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2004), Giáo trình
95
đạo đức học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
28 Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07, đề tài KX 07 - 02, Hà Nội.
29 Phan Huy Lê (1994), Các giá trị truyền thống con người Việt Nam hiện
nay, Đề tài KX - 07 - 02, Hà Nội.
30 Phan Huy Lê (1995), Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và
hiện đại hoá đất nước Việt Nam, Đề tài KX - 07 - 02, Hà Nội.
31 Phan Huy Lê (1996), “Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề
xuất”, Tạp chí cộng sản (18).
32 V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
33 V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
34 Lịch sử phong trào học sinh, sinh viên Việt nam và Hội sinh viên Việt
Nam (1925 - 2003), Nxb. Thanh niên, năm 2003.
35 Nguyễn Ngọc Long (1987), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy”, Nghiên cứu lý luận (1+2).
36 Nguyễn Ngọc Long (1990), “Tinh thần cách mạng và đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới”, Nghiên cứu lý luận (3).
37 C.Mác và Ănghen (1982), Bàn về thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội.
38 C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, NXB. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
39 Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội.
40 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44 Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng
96
đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45 Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46 Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1998), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47 Trần Sỹ Phán (1998), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48 Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb. Khoa
học, Hà Nội.
49 Lê Đức Phúc (1996), “Bàn về định hướng giá trị khi nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1)
50 Văn Quân (1995), Về các giá trị dân tộc, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
51 Hà Văn Tấn (1981), “Biện chứng của truyền thống”, Tạp chí Cộng sản,
(3).
52 Lê Thị Hoài Thanh (2002), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
53 Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
54 Hữu Thọ - Đào Duy Quát (chủ biên, 1999). Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng - văn hoá trong tình hình mới, Nxb. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Hà Nội.
55 Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá, phát triển kinh tế thị trường, Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Hà Nội.
97
56 Mạc Văn Trang (chủ biên, 1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, đề
tài nghiên cứu khoa học (mã số B94 - 38 - 32), Bộ Giáo dục và Đào tạo.
57 Trung ương hội sinh viên Việt Nam (2003), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VI (1998-2003), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
58 Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII (tháng 12/2003), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
59 Thái Duy Tuyên (1995), “Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1).
60 Nguyễn Quang Uẩn - Mạc Văn Trang (1994), Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị,Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07, đề tài KX 07 - 04, Hà Nội.
61 Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (1995), Thực trạng phạm tội của học sinh - sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường.
62 Trần Quốc Vượng (1981), “Về truyền thống dân tộc”, Tạp chí cộng
98
sản, (2).
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Kết quả điều tra sinh viên ở khu vực Hà Nội tháng 3/1993.
Mức độ ĐỘNG CƠ HỌC TẬP
Mạnh % Vừa % Yếu %
1. Học để có việc làm 62,6 23,4 29
2. Học để cha mẹ yên tâm 15,9 40,5 10
3. Học để xây dựng đất nước 10,4 26 15,9
4. Học để kiếm nhiều tiền 33,4 22,6 10,2
5. Học do bạn bè lôi kéo 4,4 11,3 22,8
6. Học vì sự nghiệp khoa học 15,7 18,1 13,8
7. Học chỉ để hiểu biết 18,7 26,6 18,8
99
Nguồn: Trịnh Trí Thức: Luận án Phó tiến sĩ triết học (Phần phụ lục)
Phụ lục 2. DỰ ĐỊNH LÀM VIỆC CỦA SINH VIÊN
SAU KHI RA TRƯỜNG
Nguyện vọng
Y
Thuỷ lợi
Giao thông
nơi làm việc
Hà
KT quốc dân
Sư phạm Hà Nội
ĐH Nông nghiệp
ĐH xây dựng
Nội
(Kết quả điều tra xã hội học của hội sinh viên Việt Nam 1996, khu vực miền Bắc, theo tỉ lệ % được hỏi là 735 sinh viên ở năm cuối, trong đó có 47 sinh viên ở Hà Nội, còn lại là các tỉnh)
Ở Hà Nội 41,8 18,9 20,2 48,8 45,5 39,5 37,3
Về các tỉnh 17,6 31,8 26 11 22,8 24,9 7,8
Về các huyện 9,9 13,5 3,1 1,2 5 0 0
Về các xã, bản 3,3 4,1 0 1,2 0 0 3,9
Làm bất cứ nơi 9,9 18,9 24 19,5 19,8 11,6 25,5
đâu
Chưa xác định 17,6 12,8 17,7 18,3 6,9 10,9 25,5
100
Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 24/1997, tr.42.
Phụ lục 3. TIÊU CHÍ LỰA CHỌN CÔNG VIỆC
KHI RA TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN
Kết quả điều tra xã hội học của Hội sinh viên Việt Nam 1996, Khu vực miền Bắc, theo tỉ lệ % được hỏi là 735 sinh viên ở năm cuối, trong đó 47 sinh viên quê ở Hà Nội, còn lại là các tỉnh.
Lựa chọn công KT Sư phạm Thuỷ Giao Y Hà ĐH ĐH
thông Nội Nông việc khi ra quốc Hà Nội lợi xây
trường nghiệp dân dựng
Có thu nhập cao 72,8 48,6 75 75,9 60,5 23 61,8
Được xã hội coi 28,3 54,1 28,1 19,3 45,3 23 23,6
trọng
Đúng chuyên 60 73,6 60,4 74,7 73,3 72 76,4
môn
Hợp sở thích 45,7 52 46,9 32,5 47,7 46 47,3
Có việc làm ổn 54,3 56,1 53,1 49,4 41,9 54 60
định
Để thăng tiến 18,5 6,8 14,6 21,7 4,7 19 14,5
101
Nguồn: Tạp chí cộng sản, số 24/1997, tr.42.
Phụ lục 4. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ SỐ SINH VIÊN ĐƯỢC
KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI TỪ 1997 ĐẾN 6/2003
Số sinh viên được kết nạp vào Đảng
TT Tên trường 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng
1 2 ĐH ngoại thương 0 4 5 2 10 3 26
2 22 ĐH kinh tế quốc dân 27 30 30 38 58 11 216
3 18 ĐH Y Hà Nội 5 25 27 27 31 10 143
4 6 ĐH sư phạm Hà Nội 7 8 19 25 29 20 114
10 5 ĐH bách khoa Hà Nội 2 18 10 16 13 5 74
6 2 ĐH thương mại 0 4 16 17 11 5 55
4 7 ĐH giao thông vận tải 0 2 6 6 12 7 47
8 9 ĐH mỏ địa chất 3 0 10 7 14 3 46
9 9 Học viện tài chính 2 3 5 10 7 9 45
3 10 ĐH khoa học tự nhiên 3 6 9 8 5 8 42
6 11 ĐH KHXH&NV 1 2 8 6 7 2 32
Nguồn: Đề tài: Giáo dục truyền thống dân tộc cho sinh viên các trường đại
học hiện nay - thực trạng và giải pháp, Báo cáo đề tài cấp Bộ, mã
số: B 2001- 36 – 28 (theo thông báo giao nhiệm vụ số 2887/KHCN
ngày 18/4/2001 của Bộ Giáo dục và đào tạo), Hà Nội, tháng
102
9/2003.