ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------- MAI DIỆU THÚY
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội – Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- MAI DIỆU THÚY
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS MAI THỊ THANH XUÂN
Hà Nội – Năm 2014
2
MỤC LỤC Trang Danh mục các từ viết tắt .............................................................................................i
Danh mục các bảng ....................................................................................................ii
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI.................................................................................................................7
1.1. Mô hình nông thôn mới ...................................................................................7
1.1.1. Khái niệm và bản chất của mô hình nông thôn mới.........................................7
1.1.2. Các tiêu chí chủ yếu của mô hình nông thôn mới............................................9
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới.....................................................12
1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong mô hình nông
thôn mới....................................................................................................................15
1.2.1. Khái niệm và các bộ phận hợp thành của hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội ở nông thôn........................................................................................15
1.2.2. Yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông
thôn trong mô hình nông thôn mới..........................................................................29
1.2.3. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đối với phát
triển nông thôn..........................................................................................................33
1.3. Kinh nghiệm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn
của một số địa phương..............................................................................................36
1.3.1. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Ân Thi,
tỉnh Hưng Yên…………..........................................................................................36
1.3.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh.......................................................................................................37
1.3.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Hải Hà,
tỉnh Quảng Ninh.......................................................................................................39
1.3.4. Một số bài học rút ra cho huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang......................41
3
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG
KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN CỦA HUYỆN LẠNG GIANG,
TỈNH BẮC GIANG TRƢỚC YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI…43
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội nông thôn huyện Lạng Giang ....................................................................43
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.......................................................43
2.1.2. Chính sách của huyện Lạng Giang đối với việc xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới....47
2.2. Thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện Lạng Giang từ
năm 2006 đến nay......................................................................………………..…49
2.2.1. Hệ thống giao thông nông thôn.....................................................................50
2.2.2. Hệ thống các công trình thủy lợi, thủy nông.................................................52
2.2.3. Hệ thống các công trình cung cấp điện.........................................................54
2.2.4. Hệ thống trường học.....................................................................................56
2.2.5. Y tế................................................................................................................57
2.2.6. Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao, thông tin liên lạc….…59
2.2.7. Hệ thống cung cấp nước sạch.......................................................................62
2.2.8. Hệ thống chợ nông thôn................................................................................63
2.3. Đánh giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện đáp
ứng yêu cầu phát triển nông thôn mới.........................…………………….…..…65
2.3.1. Những thành tựu cơ bản................................................................................65
2.3.2. Những hạn chế của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo yêu cầu
mô hình nông thôn mới...........................................................................................66
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................................68
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾT
CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
GIAI ĐOẠN 2010 – 2020………………………………………………………..71
3.1. Quan điểm về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu
4
cầu xây dựng nông thôn mới của huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang........……….71
3.1.1. Hệ thống kết cấu hạ tầng tầng kinh tế xã hội có tầm quan trọng đặc
biệt trong quá trình xây dựng nông thôn mới.......................……….………………71
3.1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn là nhân
tố thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế......................………………………....72
3.1.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là nhiệm vụ của
cả Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.....................................................73
3.2. Định hướng phát triển hệ thống hạ tầng knh tế xã hội nông thôn mới
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đến năm 2020..................................................75
3.3. Giải pháp phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng
nông thôn mới............................................................................................................76
3.3.1. Tập trung đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển hạ
tầng kinh tế xã hội nông thôn....................................................................................77
3.3.2. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về tầm
quan trọng của mô hình nông thôn mới và xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội trong nông thôn mới...........................................................................83
3.3.3. Đa dạng hóa nguồn vốn huy động và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn...................................................................................................................86
3.3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội nông thôn.......................................................................................................89
3.3.5. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ trong phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn...................................95
KẾT LUẬN .............................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................98
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1
2 CSHT Cơ sở hạ tầng
3 HĐND Hội đồng nhân dân
4 KCHT Kết cấu hạ tầng
5 KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
Kinh tế xã hội 6 KT-XH
7 NTM Nông thôn mới
8 SX Sản xuất
9 THCS Trung học cơ sở
10 THPT Trung học phổ thông
11 UBND Ủy ban nhân dân
6
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Bảng Nội dung Trang
1 2.1 Kết quả phát triển hạ tầng giao thông nông thôn 50
2 2.2 Kết quả phát triển các công trình thủy lợi, thủy nông 53
3 2.3 Kết quả xây dựng các công trình cung cấp điện 55
4 2.4 Kết quả xây dựng hệ thống trường học 56
5 2.5 Kết quả xây dựng và phát triển các công trình y tế 57
Kết quả xây dựng các công trình văn hóa, thể dục 6 2.6 60 thể thao
7 2.7 Kết quả xây dựng mạng lưới bưu chính viễn thông 61
8 2.8 Kết quả phát triển hạ tầng mạng lưới chợ nông thôn 63
Định hướng phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội 9 3.1 75-76 nông thôn mới đến 2015
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 15 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH) nông nghiệp nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận
dân cư nông thôn được nâng cao, bộ mặt nông thôn đã từng bước thay đổi,
khang trang và sạch đẹp. Đó là nhờ trong những năm qua, Đảng và nhà nước
đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn,
trong đó điển hình là một số chương trình, dự án như: Chương trình Mục tiêu
quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm; Chương trình 135, Chương
trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án
5 triệu ha rừng… và một số chương trình, dự án lớn khác như: Phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; Thực hiện quy chế dân chủ và
cải cách hành chính ở cơ sở; Phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn…
nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân mà
trọng tâm là nhằm xây dựng nông thôn mới (NTM) có kinh tế phát triển, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, ngang tầm với các
nước phát triển trong khu vực.
Huyện Lạng Giang là một huyện thuộc vùng trung du miền núi của tỉnh
Bắc Giang. Căn cứ thông báo kết luận số 238-TB/TW, ngày 07/4/2009 của
Ban Bí Thư Trung ương và Đề án “Chương trình xây dựng thí điểm mô hình
nông thôn mới” được Ban Bí thư thông qua. Đề án sẽ được triển khai trên 11
xã đại diện cho các vùng kinh tế - văn hoá. Trong đó, xã Tân Thịnh, huyện
Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là một trong 11 xã đại diện cho vùng trung du,
đáp ứng được các yêu cầu: Xã có điều kiện kinh tế xã hội ở mức trung bình
khá của tỉnh, thành phố và của vùng; Đại diện cho các vùng kinh tế - văn hoá
để thuận lợi cho việc tổ chức nhân rộng mô hình về sau; Nhân dân nhất trí
8
cao, đồng thuận, hăng hái và tự nguyện xin tham gia chương trình thí điểm
xây dựng mô hình nông thôn mới; Có đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình,
am hiểu về xây dựng nông thôn mới để chỉ đạo, tổ chức người dân và cộng
đồng thực hiện. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động tích cực, sâu sát với
đời sống của người dân.
Do điều kiện địa lý, tự nhiên khó khăn nên sự phát triển KT-XH của
huyện nói chung và phát triển hệ thống KCHT nói riêng còn ở trình độ rất
thấp. Để phát huy những kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo ở Tân Thịnh để
triển khai nhân rộng, huyện đã chú trọng tới công tác xây dựng NTM ở các xã
khác trong toàn huyện và nhận thức được tầm quan trọng của hạ tầng KT-XH,
huyện đã nỗ lực phát triển mạng lưới giao thông, thủy lợi, trạm y tế, đường
điện, các cơ sở giáo dục…, coi đây là tiền đề để xây dựng NTM. Dù vậy, trên
thực tế việc phát triển hạ tầng KT-XH tại huyện vẫn còn nhiều hạn chế bất
cập so với yêu cầu của mô hình NTM. Vấn đề này đang đặt ra nhiệm vụ hết
sức nặng nề cho cán bộ và nhân dân huyện Lạng Giang trên con đường rút
ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển so với các huyện trong
tỉnh cũng như trên phạm vi cả nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới tại
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
kinh tế chính trị.
Thực hiện đề tài này, luận văn nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu sau:
+ Tại sao phải xây dựng mô hình nông thôn mới và hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH trong mô hình nông thôn mới phải như thế nào?
+ Huyện Lạng Giang cần phải làm gì để sớm xây dựng được hệ thống
kết cấu hạ tầng KT-XH đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới?
9
2. Tình hình nghiên cứu
Xây dựng NTM là một đề án quan trọng nhằm thay đổi tích cực và toàn
diện bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được
công bố gần đây về vấn đề này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các
công trình tiêu biểu sau:
Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam của Đỗ Hoài Nam và Lê Cao Đoàn, Nxb Khoa học
xã hội, năm 2001. Công trình đã đề cập đến tầm quan trọng của phát triển hạ
tầng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn và những bất cập trong việc
phát triển hạ tầng ở nông thôn trong tiến trình kinh tế xã hội hiện nay. Đồng
thời đưa ra bài học kinh nghiệm về phát triển hạ tầng ở Thái Bình và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hạ tầng trong điều kiện mới.
Vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn
mới tại một số điểm vùng đồng bằng sông Hồng, Khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Tuấn Nghĩa, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2011. Khóa luận đã đánh giá thực trạng vai trò của người dân trong xây
dựng nông thôn mới, xác định các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất một số giải
pháp chủ yêu để nâng cao vai trò người dân trong việc tham gia xây dựng mô
hình phát triển nông thôn mới.
Công trình: “Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa thế kỷ
cuối XX và một số định hướng đến năm 2010” của tác giả Trần Ngọc Bút
(2002), đã đi sâu nghiên cứu những chính sách, cơ chế, giải pháp cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn… trong đó có đề cập đến một số chính sách phát
triển hạ tầng nông thôn.
Công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới”, của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê năm 2003. Đây là công
10
trình nghiên cứu dài hơi rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có
tính thuyết phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm,
công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn
nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã
luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn
nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở
về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta
như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng
cạnh tranh, xuất khẩu nông sản... đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có
tính thuyết phục.
Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung nghiên cứu tới sự phát
triển của nền nông thôn Việt Nam từ sau đổi mới, nhưng kể từ khi Việt Nam
thực hiện Đề án nông thôn mới thì chưa có một công trình cụ thể nào, đi sâu
phân tích về cơ sở hạ tầng của nông thôn trong giai đoạn mới, nhất là trong
những huyện nghèo như Lạng Giang, Bắc Giang. Đây là khoảng trống mà đề
tài: “Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây
dựng nông thôn mới tại huyện Lạng Giang, Bắc Giang” sẽ cố gắng giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu
NTM của KCHT KT-XH, tìm ra nguyên nhân của những thành công và hạn
chế trong việc thực hiện quá trình này, từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy
quá trình xây dựng hệ thống KCHT đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM tại
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
11
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về KCHT KT-XH nông
thôn trong điều kiện xây dựng mô hình NTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống KCHT KT-XH theo yêu cầu
xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang từ năm 2006 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống KCHT
KT-XH đáp ứng yêu cầu NTM đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình NTM và hệ thống KCHT
KT-XH nông thôn, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật và hệ
thống kết cấu hạ tầng văn hóa xã hội, trong đó tập trung vào nội dung phát
triển hệ thống KCHT theo yêu cầu xây dựng NTM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Nghiên cứu một số yếu tố cơ bản của hệ thống kết
cấu hạ tầng KT-XH nông thôn trong điều kiện xây dựng NTM.
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu hệ thống KCHT KT-XH nông thôn
tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến nay và những năm tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ
12
trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng mô hình NTM
và hệ thống KCHT KT-XH trong mô hình NTM.
- Phương pháp cụ thể:
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh… để đánh
giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn. Ngoài ra,
luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học
giả trong nước về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Về lý luận: Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nông
thôn, cơ sở hạ tầng nông thôn trong mô hình nông thôn mới.
Về thực tiễn: Chỉ ra những bất cập của hệ thống KCHT KT-XH nông
thôn huyện Lạng Giang so với yêu cầu của xây dựng NTM và đề xuất giải
pháp khắc phục.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm về phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới.
Chương 2. Thực trạng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
nông thôn của huyện Lạng Giang theo yêu cầu xây dựng mô hình nông thôn
mới.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạng Giang,
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2020.
13
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Mô hình nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm và bản chất của mô hình nông thôn mới
1.1.1.1. Khái niệm nông thôn
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Nông thôn là vùng lãnh thổ của
một nước hay một số đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi
trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành
thị và dân chủ yếu làm nông nghiệp” [23, tr.578]. Khái niệm nông thôn được
xây dựng dựa trên cơ sở khái niệm thành thị. Nếu thành thị là một khu vực có
mật độ gia tăng các công trình kiến trúc do con người xây dựng so với các
khu vực quanh nó. Các đô thị có thể là thành phố, thị xã, trung tâm dân cư
đông đúc…, hoặc thành thị là từ chỉ chung các điểm dân cư kiểu thành phố
như các thị xã, thị trấn, thị tứ, khu dân cư công nghiệp thì nông thôn là khu
vực có những yếu tố như lãnh thổ, môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế…
khác với thành thị.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì nông thôn là khu vực có dân cư
chủ yếu làm nông nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, một số vùng nông thôn
nước ta hiện nay người dân không sống chủ yếu bằng nghề nông. Ví dụ như
làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) có tới 85% số hộ làm nón, 25% số hộ còn
lại làm nông nghiệp và các nghề phi nông nghiệp khác. Như vậy, dân cư ở
làng Chuông chủ yếu làm nghề làm nón – một nghề phi nông nghiệp nhưng
làng Chuông vẫn được coi là vùng nông thôn chứ không phải thành thị. Như
14
vậy, yếu tố “dân cư chủ yếu làm nông nghiệp” trong định nghĩa không tuyệt
đối đúng.
Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Nông thôn là phần lãnh thổ không
thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [2, tr.1]. Theo Thông tư này, khái
niệm nông thôn cũng được dựa trên khái niệm thành thị. Tuy nhiên trong khái
niệm này thì yếu tố dân cư lại không được đưa ra. Từ những khái niệm về
nông thôn trên, có thể định nghĩa: Nông thôn là vùng lãnh thổ không thuộc
nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, có tập hợp dân cư sinh sống. Tập hợp
dân cư này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
1.1.1.2. Bản chất của mô hình nông thôn mới
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Trung ương, nông thôn mới
là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị
theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, nông thôn mới được thể hiện:
Thứ nhất là nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại.
Hai là sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa.
Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được
nâng cao.
Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển.
15
Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình
thực hiện cần phải giải quyết đồng bộ và toàn diện nhằm khơi dậy và phát huy
tốt vai trò người nông dân trong công cuộc xây dựng nông thôn mới ở nước ta
ngày càng văn minh, hiện đại .
1.1.2. Các tiêu chí chủ yếu của mô hình nông thôn mới
Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-
TTg ban hành “Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới” bao gồm 19 tiêu chí,
được chia thành 5 nhóm. Dưới đây xin đề cập một số tiêu chí cơ bản nhất:
1.1.2.1. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển
Quy hoạch là bố trí, sắp xếp địa điểm, diện tích sử dụng các khu chức
năng trên địa bàn xã: khu phát triển dân cư; hạ tầng KT-XH, các khu sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… theo chuẩn NTM theo Thông tư
hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM.
Để có mô hình nông thôn mới mang tính kế thừa và bổ sung, phát triển
mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề quy hoạch được đặt lên
hàng đầu, trở thành tiêu chí đầu tiên. Nếu quy hoạch không đi trước một bước
và không có chất lượng thì xây dựng nông thôn mới sẽ gặp khó khăn và
không đi đến đích, từ đó vấn đề quy hoạch nông thôn mới là khâu quan trọng,
có ý nghĩa quyết định trong vấn đề xây dựng nông thôn mới.
Tiêu chí quy hoạch thể hiện tính hợp lý trong sắp xếp, bố trí các khu
vực nông thôn, đảm bảo KCHT nông thôn được bền vững. Tiêu chí này gồm
ba nội dung:
- Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ: xác định
nhu cầu sử dụng đất cho bố trí vùng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật thiết yếu
16
phục vụ sản xuất hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ…
- Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường theo chuẩn
mới: có khu thể thao xã, nhà văn hóa và khu thể thao thôn, bãi xử lý rác, hệ
thống cấp nước sạch, hệ thống thoát nước thải, công viên cây xanh, hồ nước
sinh thái…
- Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân
cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2.2. Phát triển hạ tầng KT-XH
Hạ tầng KT-XH là các công trình được xây dựng để phục vụ cộng đồng
có ý nghĩa kinh tế và xã hội nhằm nâng cao đời sống cộng đồng nơi đó. Phát
triển hạ tầng KT-XH nông thôn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,
văn hóa – xã hội ở nông thôn. Bởi khi một khu vực nông thôn có phát triển về
hạ tầng kinh tế như có nhiều khu sản xuất tập trung, đường giao thông thuận
tiện cho thông thương… thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Hay tại vùng đó có các cơ sở hạ tầng văn hóa như y tế, văn hóa, giáo dục…
thì sẽ góp phần nâng cao đời sống của người dân.
Các chỉ tiêu chính về cơ sở hạ tầng KT-XH của NTM là:
- 100% đường trục xã đến ngõ được bê tông hóa hoặc cứng hóa
- 85% chiều dài kênh mương được kiên cố hóa
- 99% số hộ được sử dụng điện thường xuyên, an toàn.
- 100% số trường học các cấp (từ Mầm non đến THCS) có cơ sở vật
chất đạt chuẩn quốc gia.
- 100% số thôn có nhà văn hóa và khu thể thao.
17
- 90% số hộ có nhà ở kiên cố.
- Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông và có mạng Internet.
1.1.2.3. Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất
Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất là mục tiêu cơ bản của đề án
NTM. Phát triển kinh tế nhằm giúp người nông dân có đời sống ấm no, sung
túc hơn.
Các chỉ tiêu chính về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất của NTM là:
- Thu nhập bình quân đầu người/năm cao hơn 1,4 lần so với mức bình
quân chung của tỉnh.
- Tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%.
- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp nhỏ hơn 30%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn 35%.
- Có tổ hợp tác xã hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
1.1.2.4. Phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường
- Đạt phổ cập giáo dục trung học
- 85% học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ
thông, bổ túc, học nghề)
- 30% số người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế
- Y tế xã đạt chuẩn quốc gia
- Trên 70% số thôn, bản đạt tiêu chuẩn làng văn hóa
- 85% số hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia
- Các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường
18
1.1.2.5. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh
- Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” và
các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
- An ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, xây dựng nông thôn mới để phát triển nông nghiệp nông thôn
theo hướng hiện đại
Nông nghiệp nước ta hiện nay còn chưa phát triển theo chiều sâu mà
chủ yếu phát triển theo bề rộng dựa trên những ưu đãi có sẵn của tự nhiên.
Những người làm nông nghiệp chủ yếu là người dân có trình độ thấp, quanh
năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, mức đầu tư vào công nghệ thấp,
hàm lượng kỹ thuật chế biến trong sản phẩm còn thấp trong đó chi phí sản
xuất cao, do đó giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hàng nông sản
luôn gặp khó khăn khi vượt qua các rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe của các
nước công nghiệp. Hơn nữa, khi gia nhập WTO, theo các hiệp định song
phương, đa phương chúng ta sẽ được hưởng các ưu ái thuế quan nhưng chúng
ta lại gặp các hàng rào phi thuế quan hết sức chặt chẽ. Các nước nhập khẩu
hàng nông sản của chúng ta đặt ra các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm,
các tiêu chuẩn về môi trường, sức khỏe cộng đồng… khắt khe khiến hàng hóa
của chúng ta nhiều khi đã vượt qua các rào cản thuế quan vẫn bị trả lại. Mặt
khác, hàng hóa xuất khẩu phải có chứng chỉ an toàn để chứng minh mặt hàng
nông sản luôn đảm bảo an toàn vệ sinh, chẳng hạn như chứng chỉ xác định
nguồn gốc, chứng chỉ báo cáo chất lượng… Đây thực sự là một trở ngại cho
nông nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng NTM để có quy hoạch phân bổ và sử dụng nguồn tài
nguyên (đất đai, nguồn nước…) hợp lý và hiệu quả.
19
Các quy hoạch về đất, mặt nước cho sản xuất lúa gạo, cây công nghiệp
ngắn ngày, cây dài ngày, chăn nuôi và thủy sản… chưa rõ ràng, chưa đủ cụ
thể để quản lý chặt chẽ theo yêu cầu của sản xuất từng loại cây trồng, vật
nuôi. Tình trạng quy hoạch sản xuất nông, lâm, thủy sản liên tục bị phá vỡ tạo
ra sự hỗn loạn trong sản xuất, hao phí vốn đầu tư của người nông dân, gây
khó khăn cho đời sống của họ.
Quy hoạch đất để sản xuất nông, lâm, thủy sản lâu dài, đất chuyển sang
làm kết cấu hạ tầng nông thôn và tạo mặt bằng để phát triển các hoạt động
công nghiệp, dịch vụ, thương mại nông thôn vẫn chưa được xác định.
Thứ ba, xây dựng NTM để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người nông dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị.
Theo báo cáo về tình hình nông dân và hoạt động của Hội Nông dân
Việt Nam, nông dân hiện nay vẫn đa số là những hộ sản xuất quy mô nhỏ, có
tới 36% số hộ có dưới 0,2 ha đất canh tác. Thu nhập bình quân cư dân nông
thôn chỉ bằng 76,6% bình quân chung cả nước. 85% hộ nghèo của cả nước
sống ở nông thôn. Khoảng cách thu nhập của cư dân thành thị và nông thôn
quá xa và càng ngày càng rộng ra. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt
Nam, nếu như khoảng cách thu nhập trung bình giữa người giàu và người
nghèo ở Việt Nam là 8,9 lần trong năm 2008 thì đến năm 2011 mức này là 9,2
lần. Hơn nữa, các vấn đề xã hội ngày càng nhiều do trình độ nhận thức thấp
của người dân. Tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng gia
tăng. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và
không khí, làm cạn kiệt tài nguyên môi trường do khai thác tự phát.
Thứ tư, xây dựng NTM để thay đổi diện mạo nông thôn, thay thế nông
thôn truyền thống bằng nông thôn hiện đại.
20
Hệ thống KCHT KT-XH là điều kiện vật chất quan trọng, có tính
quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, sau
gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn
chưa đạt được nhiều thành tựu tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Bởi
lẽ:
Hệ thống hạ tầng KT-XH nông thôn trong thời gian qua đã có những
bước tiến đáng kể về lượng và về chất, song sự tiến triển đó vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH nông thôn. Về căn bản hệ thống hạ
tầng KT-XH nông thôn ở nước ta chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế, còn mang
đậm sắc thái hạ tầng KT-XH của những nước nền kinh tế chậm phát triển.
Hầu hết các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn đều đã được xây
dựng từ lâu, tập trung chủ yếu ở thời kỳ đổi mới. Các công trình hạ tầng KT-
XH nông thôn đó chưa làm thay đổi căn bản tình trạng lạc hậu, kém phát triển
của hệ thống hạ tầng KT-XH, mới chỉ là một bước cải thiện hệ thống hạ tầng
KT-XH cũ và đến nay đã xuống cấp.
Do đặc tính phục vụ cộng đồng, vì vậy việc duy trì bảo dưỡng các công
trình hạ tầng KT-XH nông thôn là một yêu cầu bức thiết đối với nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH. Nhu cầu phát triển hạ tầng
KT-XH nông thôn đòi hỏi vốn lớn, vì vậy trên thực tế là thiếu nguồn vốn để
đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn.
Phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn là do nỗ lực của từng vùng, từng
làng xã, do có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội…
vì vậy cũng có sự khác biệt về quy mô và trình độ phát triển hạ tầng KT-XH
của từng vùng, từng khu vực.
Trong những năm qua, phát triển hạ tầng nông thôn đều mang tính địa
phương, đậm tính tự phát, tuỳ tiện, thiếu một quy hoạch tổng thể. Vì vậy trên
21
thực tế đã biểu hiện: Không kết hợp được các loại hạ tầng trong một khối
thống nhất và đồng bộ; mang tính ngắn hạn không phù hợp với tiến trình
CNH, HĐH và đô thị hoá; khai thác nguồn vốn đầu tư bằng quan hệ xin, cho;
tuỳ tiện huy động đóng góp của dân; sử dụng tuỳ tiện đất công… Vì vậy, cần
xây dựng một nông thôn mới, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trên.
1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong mô
hình nông thôn mới
1.2.1. Khái niệm và các bộ phận hợp thành của hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH ở nông thôn
1.2.1.1. Khái niệm
Cho đến nay, quan niệm về kết cấu hạ tầng vẫn còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông thì: “Cơ sở hạ tầng là tổng thể
các ngành kinh tế, các ngành công nghệ dịch vụ” [15, tr.153]. Cụ thể cơ sở hạ
tầng bao gồm: Việc xây dựng đường xá, kênh đào tưới nước, bãi cảng, cầu
cống, sân bay, kho tàng, cơ sở cung cấp năng lượng, cơ sở kinh doanh, giao
thông vận tải, bưu điện, cấp thoát nước, cơ sở giáo dục, khoa học, y tế, bảo vệ
sức khoẻ... PGS. TS Lê Du Phong cho rằng kết cấu hạ tầng là “tổng hợp các
yếu tố và điều kiện vật chất - kỹ thuật được tạo lập và tồn tại trong mỗi quốc
gia, là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động KT-XH...” [16, tr.5].
TS Mai Thanh Cúc quan niệm kết cấu hạ tầng là: “hệ thống các công
trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và
nâng cao chất lượng cuộc sống”. Cơ sở hạ tầng bao gồm cung cấp nước, tưới
tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, giao thông, thông tin liên
lạc... Còn theo PGS. TS Đỗ Hoài Nam thì cho rằng hạ tầng “là khái niệm
dùng để chỉ những phương tiện làm cơ sở nhờ đó các quá trình công nghệ,
quá trình sản xuất và các dịch vụ được thực hiện” [2, tr.14]. Có quan niệm
22
cho rằng hạ tầng KT-XH được sử dụng để chỉ: “những hạ tầng đa năng phục
vụ cho cả kinh tế và xã hội; hoặc trong trường hợp để chỉ những hạ tầng
chuyên dùng phục vụ trong hoạt động kinh tế và văn hoá, xã hội khi cùng đề
cập đến cả hai loại hạ tầng phát triển KT-XH nói chung” [6, tr.158]. Quá trình
sản xuất cần có người lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu
sản xuất có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những
cơ sở phương tiện chung nhờ đó mà quá trình công nghệ, sản xuất và dịch vụ
được thực hiện. Bộ phận này chính là cơ sở hạ tầng, kết cấu hạ tầng hay hạ
tầng. Như vậy mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, cụm từ khác nhau
nhưng các quan điểm, ý kiến này đều cho rằng: Cơ sở hạ tầng hoặc kết cấu hạ
tầng hay hạ tầng đều là những yếu tố vật chất làm nền tảng cho các quá trình
sản xuất và đời sống xã hội hình thành và phát triển.
Với quan niệm về hạ tầng như vậy, cùng với sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ làm cho hạ tầng không những có vai trò quan
trọng trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong
phát triển xã hội. Tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội có một
loại hạ tầng tương ứng chuyên dùng. Hạ tầng trong kinh tế phục vụ cho hoạt
động kinh tế, hạ tầng trong quân sự phục vụ cho hoạt động quân sự, hạ tầng
trong lĩnh vực giáo dục, y tế phục vụ cho hoạt động giáo dục, y tế… Trong
thực tế cũng có những loại hạ tầng đa năng có tầm hoạt động rộng lớn, có tác
động nhiều mặt như: Hạ tầng giao thông vận tải, điện năng, thuỷ lợi… Đó là
những hệ thống hạ tầng trong khi tồn tại và vận hành không chỉ phục vụ cho
một hoạt động ví dụ như hoạt động kinh tế mà còn phục vụ cho nhiều hoạt
động khác. Do đó khái niệm hạ tầng KT-XH được sử dụng để chỉ những hạ
tầng có tính đa năng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội hoặc để
chỉ cho những hạ tầng chuyên dùng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
xã hội khi cùng đề cập đến.
23
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng - tài chính giữ
vai trò là nền tảng cho các hoạt động kinh tế. Nó là cơ quan vận hành và cung
ứng vốn cho nền kinh tế vận hành và phát triển. Do vậy, hoạt động của hệ
thống tài chính, ngân hàng giữ vai trò hết sức quan trọng trong vận hành của
toàn bộ nền kinh tế. Với vai trò là nền tảng, hệ thống tài chính, ngân hàng
cũng được coi là một loại hạ tầng mang tính thiết chế của nền kinh tế thị
trường hiện đại. Trong điều kiện hiện tại của sự phát triển và trong nền kinh tế
thị trường hiện đại, tôi thống nhất với PGS. TS Đỗ Hoài Nam cho rằng: “Hạ
tầng KT-XH của xã hội hiện đại là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những
phương tiện và thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho KT-XH phát triển” [2,
tr.16].
Thực tế cho thấy, hạ tầng KT-XH ngày càng đóng vị trí quan trọng
trong sự phát triển KT-XH của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hạ
tầng KT-XH là một trong những chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức độ phát triển
của một quốc gia. Bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào muốn phát triển
thì đều cần có một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và đồng bộ, điều đó
cũng có nghĩa là phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phải xem nó là nền tảng,
là điều kiện tiền đề vật chất để thúc đẩy các hoạt động KT-XH phát triển.
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa, khái niệm thống nhất về nông thôn
nhưng về cơ bản khái niệm nông thôn thường được đặt trong mối quan hệ so
sánh với khái niệm đô thị. Căn cứ vào điều kiện thực tế và xét dưới giác độ
quản lý thì PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông cho rằng “Nông thôn là vùng khác
với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân sống và làm việc, có
mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ tầng kém phát triển, có trình độ dân trí,
trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp hơn” [5, tr.62]. Xét trên
giác độ nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất đặc thù thì PGS. TS Đỗ Hoài
Nam cho rằng “Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ những khu vực dân cư
24
sinh hoạt có hoạt động nông nghiệp, dựa trên hoạt động nông nghiệp” [2,
tr.16]. Các quan điểm này đều khẳng định rằng các cư dân sống ở nông thôn
chủ yếu là nông dân và làm nghề nông, đây là hoạt động chủ yếu của các
ngành sản xuất vật chất nông, lâm, ngư nghiệp, các ngành nghề sản xuất kinh
doanh và dịch vụ phi nông nghiệp và dân cư của xã hội nông thôn là dân cư
của xã hội chậm phát triển. Tuy nhiên khái niệm nông thôn chỉ có tính tương
đối, một vùng nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát
triển KT-XH của quốc gia cũng như từng địa phương.
Du có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở chỗ
coi hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn trước hết là gắn với sở hữu
của làng, xã. Sau nữa là gồm những phương tiện làm cơ sở cho sự phát triển
KT-XH trên địa bàn nông thôn. Chúng tôi tán thành với quan niệm của GS.TS
Đỗ Hoài Nam và PGS.TS Lê Cao Đoàn trong cuốn sách “Xây dựng hạ tầng
cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,
đó là: Hạ tầng KT-XH nông thôn là những cơ sở vật chất và thiết chế cung
cấp dịch vụ cho sinh hoạt kinh tế, xã hội, dân sinh trong cộng đồng làng xã và
do làng xã quản lý, sở hữu và sử dụng, làm nền tảng cho sự phát triển KT-XH
nông thôn. Hạ tầng KT-XH ở nông thôn bao gồm hạ tầng KT-XH cho toàn
ngành nông nghiệp và nông thôn của vùng, của làng, xã và nó được hình
thành, sử dụng vì mục đích phát triển KT-XH của làng, xã.
1.2.1.2. Các bộ phận cấu thành của hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH
nông thôn
Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH được cấu thành bởi hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng văn hóa – xã hội.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật bao gồm:
- Hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn (GTNT)
25
Mạng lưới đường GTNT là hệ thống các tuyến đường nằm trên địa bàn
nông thôn phục vụ cho việc giao lưu trong địa bàn và với bên ngoài. Hệ thống
này bao gồm các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn, liên bản... Hệ
thống này được ví như hệ thống như "mạch máu" trong cơ thể con người, nó
kết nối các quốc lộ, tỉnh lộ cùng với các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên
thôn tạo ra. Hiện nay đường GTNT chiếm khoảng trên 80% tổng chiều dài
mạng lưới đường giao thông toàn quốc [4, tr.126], mặc dù đã có những cải
thiện lớn nhưng chất lượng mạng lưới đường huyện, xã ở nhiều địa phương
còn thấp, đi lại, lưu thông hàng hoá còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được
yêu cầu của CNH, HĐH nông thôn.
Phát triển giao thông là phát triển yếu tố cần thiết và đặc biệt quan
trọng trong đời sống kinh tế, xã hội nông thôn. Mạng lưới giao thông là huyết
mạch của nền kinh tế. Hệ thống GTNT phát triển sẽ gắn kết giữa các vùng
nông thôn, giữa nông thôn với thành thị. Nó tạo các mối liên kết không gian
và giao lưu giữa các luồng hàng hoá giữa thành thị và nông thôn. Khi sản xuất
hàng hoá phát triển thì giao thông vận tải có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc
tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá từ đơn vị, cơ sở cung cấp đến
nơi chế biến, đến thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đường giao thông vươn tới
đâu thì các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), cơ sở sản xuất,
trường học, bệnh viện…thị trường hàng hoá, thị trường thương mại và dịch
vụ phát triển đến đấy. Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ góp phần giảm chi phí
vận chuyển do đó giảm được chi phí sản xuất, làm cho giá cả các sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng giảm đi nhiều, nâng cao tính cạnh
tranh, mở rộng thị trường. Đồng thời, nó tạo cơ hội giao lưu giữa các vùng
miền, tạo điều kiện thuận tiện cho việc đi lại của các tầng lớp dân cư có thể dễ
dàng tiếp cận với các dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế… Thực tế cho thấy, hệ
26
thống giao thông yếu kém là một khó khăn trở ngại to lớn đối với phát triển
nông thôn.
- Hệ thống hạ tầng thủy lợi, thủy nông
Hệ thống thuỷ lợi nông thôn bao gồm toàn bộ hệ thống công trình phục
vụ cho việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước (nước mặt và nước ngầm)
và cho việc hạn chế những tác hại do nước gây ra đối với sản xuất, đời sống
và môi trường sinh thái. Các công trình chủ yếu thuộc hệ thống thuỷ lợi bao
gồm: Hệ thống các hồ đập giữ nước; hệ thống các trạm bơm tưới, tiêu; hệ
thống đê sông, đê biển; hệ thống kênh mương.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có đối tượng là các thực thể sống (cây
trồng, vật nuôi) nên nguồn nước đóng vai trò vô cùng quan trọng. Với những
nước thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là mưa bão, lụt lội,
hạn hán… thì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn luôn gắn bó mật thiết
với sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi. Việc hình thành các hệ thống thuỷ
nông nó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông
thôn. Nó đã góp phần quan trọng vào việc trong việc khắc phục tình trạng
hoang hoá, mở rộng diện tích canh tác; đảm bảo cung cấp nước tưới tạo điều
kiện cho việc thâm canh, tăng vụ và đặc biệt đã tạo sự chuyển đổi cơ cấu cây
trồng; góp phần cung cấp nguồn nước cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt
của dân cư; hạn chế và kịp thời khắc phục những hậu quả của thiên tai như
bão, lụt... Đặc biệt, sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi thường đi kèm với sự
phát triển của hệ thống giao thông. Trên mỗi tuyến đê qua các vùng nông
thôn, các cụm dân cư đã hình thành tuyến giao thông của các làng, xã (mạng
lưới GTNT). Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi còn tác động trực
tiếp đến công tác cải tạo, bảo vệ môi trường… Do vậy, việc xây dựng, phát
triển hệ thống thủy lợi nhằm đảm bảo tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông
27
nghiệp cũng như nhằm hạn chế và kịp thời khắc phục những hậu quả của
thiên tai là một yêu cầu bức thiết với các vùng nông thôn hiện nay.
- Hệ thống hạ tầng cung cấp điện nông thôn
Hệ thống điện nông thôn là toàn bộ các yếu tố cơ sở vật chất làm nền
tảng cho việc cung cấp điện sử dụng vào các hoạt động sản xuất và phục vụ
sinh hoạt nông thôn. Hệ thống này bao gồm mạng lưới đường dây tải điện từ
nguồn cung cấp, hệ thống các trạm hạ thế, mạng lưới phân phối và dẫn điện
tới các dụng cụ sử dụng điện. Ở các vùng sâu, vùng xa còn bao gồm trạm thuỷ
điện nhỏ... Nguồn năng lượng điện có vai trò rất quan trọng trong quá trình
phát triển của các vùng nông thôn. Điện là nguồn năng lượng phục vụ cho
sinh hoạt hàng ngày của các hộ gia đình, trước hết là thắp sáng cho từng gia
đình cũng như cả cộng đồng. Điện còn được dùng cho công tác thuỷ lợi, tưới
tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điện góp phần thúc đẩy các ngành sản
xuất trong nền kinh tế, đó là các ngành công nghiệp chế biến, các hoạt động
sản xuất các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, thương mại. Nói chung, có điện
sẽ giải quyết nhiều vấn đề mà quan trọng nhất là góp phần cải thiện mọi mặt
đời sống của người dân. Có điện sẽ mang lại văn minh cho khu vực nông
thôn, tạo tiền đề cho hình thành và xây dựng nếp sinh hoạt văn hoá mới cho
cư dân nông thôn, góp phần xoá bỏ sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Hiện nay, mạng lưới điện quốc gia đã được phủ khắp đất nước. Tuy nhiên,
nhiều vùng nông thôn vẫn chưa có điện, đặc biệt là những vùng xa xôi, khó
khăn, chất lượng nguồn điện cung cấp chưa cao, tỷ lệ tiêu hao điện ở khu vực
nông thôn còn ở mức cao, phần đóng góp của người dân vào việc xây dựng hệ
thống điện còn lớn, giá điện ở nông thôn thường cao hơn so với thành thị. Do
vậy, việc quy hoạch và phát triển đồng bộ hệ thống điện nhằm đảm bảo đủ
điện cho sản xuất và sinh hoạt, giảm mức tổn thất điện năng là yêu cầu bức
thiết với nông thôn hiện nay.
28
- Hệ thống hạ tầng mạng lưới chợ, cửa hàng, kho bãi nông thôn
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống chợ, cửa hàng, kho bãi có vai trò
quan trọng đối với các hoạt động trao đổi, buôn bán các mặt hàng nông sản,
vật tư nông nghiệp, công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất
và đời sống sinh hoạt của cư dân. Thực tế cho thấy, những khu vực nào kinh
tế phát triển thì hệ thống chợ, cửa hàng buôn bán… cũng phát triển theo
không chỉ gia tăng về quy mô mà cả về mật độ phân bố nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động giao dịch mua bán.
Với đa số các vùng nông thôn, chợ đã hình thành khá sớm trong lịch
sử. Đó không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán, nhiều khi
còn là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa - xã hội khác. Chợ nông thôn ra đời
và phát triển do nhu cầu trao đổi hàng hóa. Địa điểm xây dựng chợ cũng được
lựa chọn đặt ở những nơi thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hóa và đi lại
của dân cư khi họp chợ. Nhiều chợ đã tồn tại lâu đời và đến nay vẫn được ổn
định, duy trì. Tuy nhiên, về cơ bản chợ nông thôn có quy mô nhỏ, hàng hoá
còn đơn điệu, chủ yếu là những sản vật trong vùng (nhất là nông sản) và
những vật dụng cần cho sản xuất và sinh hoạt thường ngày của người dân.
Cùng với sự phát triển KT-XH của các vùng nông thôn, mạng lưới chợ
cũng phát triển mở rộng và đa dạng về loại hình, bao gồm: Chợ bán lẻ, chợ
bán buôn, chợ đầu mối, chợ vừa bán buôn vừa bán lẻ, chợ kinh doanh tổng
hợp, chợ chuyên doanh... với sự kết hợp các quy mô và phân bố rộng khắp
các địa bàn. Nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống, nhất là với sự hình thành
các KCN, CCN, khu đô thị mới, khu dân cư mới ở khu vực nông thôn đã cho
ra đời những chợ mới để đáp ứng nhu cầu mua bán tiêu thụ hàng hóa, sản
phẩm nông sản. Ngoài chợ, còn có các loại hình cửa hàng bách hóa, siêu thị
nhỏ và đặc biệt là mạng lưới cửa hàng, điểm bán hàng thường tập trung ở các
29
cụm dân cư, ở các tuyến giao thông có lưu lượng hành khách qua lại đông
đúc. Mạng lưới này cùng với các chợ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với
việc cung ứng hàng hóa - dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Bên cạnh đó, do nhu
cầu phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, trên địa bàn nông thôn còn
có hệ thống kho bãi có chức năng lưu trữ, bảo quản nông sản, hàng hóa. Thực
tế cho thấy, xây dựng và phát triển các loại hình chợ, cửa hàng buôn bán, hệ
thống kho tàng, bến bãi ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Điều đó đòi hỏi huy động mạnh mẽ
các nguồn lực của cả nhà nước và cộng đồng cư dân nông thôn.
- Hệ thống hạ tầng thông tin - viễn thông nông thôn
Hệ thống thông tin bao gồm mạng lưới cơ sở vật chất, các phương tiện
phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trao đổi thông tin đáp ứng nhu cầu sản
xuất và đời sống ở nông thôn. Hệ thống thông tin và viễn thôn bao gồm:
Mạng lưới bưu điện; điện thoại; internet; mạng lưới truyền thanh... Hiện nay,
theo xu thế phát triển của xã hội loài người hệ thống thông tin liên lạc ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và khoa học
kỹ thuật - công nghệ. Cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc hiện đại bao gồm các
mạng viễn thông cơ bản, các tiêu chuẩn về trao đổi dữ liệu và một số phần
mềm để đảm bảo sự vận hành liên tục của toàn bộ hệ thống thông tin trong và
ngoài nước.
Đối với nông thôn, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường, thông tin đóng vai trò ngày càng quan trọng, không những với phát
triển kinh tế mà cả vấn đề văn hoá, xã hội khác. Thực tế cho thấy, thông tin
ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các hộ gia đình nông dân, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cần
biết nhiều thông tin, về thời tiết, về chủ trương, chính sách của nhà nước, về
30
tình hình biến động của thị trường, giá cả, về nhu cầu thị trường… một cách
nhanh chóng, kịp thời để ra quyết định sản xuất kinh doanh, mua hàng hoá và
tiêu thụ nông sản. Nói cách khác, thông tin đóng vai trò là một chỉ báo cho
các quyết định của các chủ thể kinh doanh. Do vậy, việc cung cấp thông tin
cho khu vực nông thôn là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt trong bối
cảnh tình hình KT-XH trong nước cũng như quốc tế đầy biến động như hiện
nay. Để thực hiện điều đó cần phải có một hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc
đầy đủ, hoàn chỉnh, hiện đại và đồng bộ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc
biệt là lĩnh vực điện tử - tin học và viễn thông làm cho hạ tầng cơ sở thông tin
phát triển cực kỳ nhanh chóng và hiện đại, luôn luôn được đổi mới và hoàn
thiện đã mở ra khả năng vô cùng to lớn có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời, chính
xác nhu cầu thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực
nông thôn. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc đầu tư xây dựng, phát triển hệ
thống hạ tầng thông tin liên lạc đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cùng các điều
kiện vật chất cũng như nguồn lực con người. Với nông thôn, khi các nguồn
lực, nhất là nguồn vốn còn hạn chế thì để có được hệ thống hạ tầng thông tin
liên lạc đáp ứng được các yêu cầu phát triển thì nhà nước cần đóng vai trò
hàng đầu trong đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật thông tin và
phát triển mạng lưới thu thập, theo dõi, nghiên cứu và cung cấp thông tin.
Hệ thống kết cấu hạ tầng văn hóa – xã hội nông thôn bao gồm:
- Hệ thống hạ tầng giáo dục - đào tạo ở nông thôn
Ở nông thôn, cơ sở hạ tầng cho giáo dục - đào tạo bao gồm hệ thống
các trường mầm non, tiểu học, THCS, THPT, các trường dạy nghề và các cơ
sở đào tạo nghề cho người lao động.
31
Phát triển giáo dục - đào tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
đối với sự phát triển KT-XH của một quốc gia. Kinh nghiệm nhiều nước cho
thấy, trong tiến trình CNH, HĐH trước sự phát triển nhanh chóng của khoa
học – công nghệ hiện đại, nguồn lực con người đã trở thành một trong những
nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp CNH, HĐH. Để
tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động được đào tạo,
có kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức, trách nhiệm, có khả năng tìm tòi sáng
tạo… với công việc mà đó chính là kết quả của các hoạt động phát triển hạ
tầng ngành giáo dục - đào tạo. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng đối
với các vùng nông thôn.
Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, xã hội, mạng lưới các cơ sở
giáo dục - đào tạo đã và đang được mở rộng, phát triển khắp các địa bàn, từ
thành thị đến nông thôn, đến tận những vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh. Tuy
nhiên, đối với các vùng nông thôn, sự thiếu hụt và thấp kém về cơ sở hạ tầng
giáo dục vẫn đang là một thách thức lớn với nhiều quốc gia nhằm mục tiêu
phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng.
Do vậy, phát triển hạ tầng giáo dục - đào tạo ở khu vực nông thôn là
vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay. Sự việc mở mang, phát triển về số lượng,
nâng cấp về cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục - đào tạo sẽ góp phần quan
trọng vào việc nâng cao trình độ dân trí, đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực
có trình độ văn hoá, kỹ năng nghề nghiệp phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-
XH không chỉ cho khu vực nông thôn mà còn tạo khả năng cung cấp nhân lực
cho các đô thị và cả nền kinh tế.
- Hệ thống hạ tầng y tế và chăm sóc sức khoẻ dân cư nông thôn
Hệ thống hạ tầng y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng dân cư ở nông
thôn bao gồm các loại hình bệnh viện (trung tâm huyện, liên xã), phòng khám
32
đa khoa, trung tâm y tế dự phòng, trung tâm KHHGĐ, các phòng khám
chuyên khoa, trạm y tế xã, các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền, các cơ
sở cung cấp, kinh doanh dược phẩm, thuốc chữa bệnh…
Cùng với sự phát triển KT-XH ở các vùng nông thôn, mạng lưới y tế,
chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các vùng nông thôn đã từng bước được mở
rộng, nâng cấp, góp phần thực hiện và triển khai các chương trình quốc gia, y
tế dự phòng, khám chữa bệnh ban đầu, điều trị, chăm sóc sức khoẻ cho nhân
dân và phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên, ở nhiều vùng nông thôn hiện nay,
nhất là các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hải đảo hệ thống hạ tầng y tế
còn thấp kém, hầu hết là các trạm y tế tuyến xã với cơ sở vật chất nghèo nàn,
trang thiết bị y tế thiếu thốn, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa
bệnh ban đầu và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn, việc chăm sóc, bảo vệ sức
khoẻ cho cộng đồng cư dân ở nông thôn là yêu cầu hết sức cấp thiết, vừa là
mục tiêu, vừa là yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Do
vậy, việc xây dựng, cải tạo nâng cấp và phát triển hệ thống hạ tầng y tế sẽ
đóng vai trò là yếu tố mở đường cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân.
- Hệ thống hạ tầng văn hoá nông thôn
Các cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành văn hoá nông thôn hiện nay
bao gồm: Các trung tâm văn hoá huyện (các trung tâm này còn thực hiện chức
năng khác như rạp chiếu phim, tổ chức các hội nghị…); nhà văn hoá cấp xã,
thôn; đình và một loại hình khá phổ biến là các trạm bưu điện văn hóa xã.
Nông thôn là nơi bảo tồn, lưu truyền và giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc. Ở nơi đó, những truyền thống, phong tục, tập quán cao đẹp của dân tộc đã
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn
33
hoá dân tộc là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp CNH,
HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
Thực tế, cùng với sự phát triển KT-XH, ngày càng nhiều các hoạt động
văn hóa, đặc biệt là các lễ hội truyền thống đã được khôi phục, duy trì và phát
triển góp phần đáng kể vào xây dựng nông thôn văn hóa mới, tôn trọng, gìn
giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc trong cộng đồng dân tộc. Tuy
nhiên, cũng có lúc văn hoá nông thôn trong thời gian chưa được chú ý đầu tư
phát triển tương xứng. Ở nhiều vùng nông thôn, cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ
thống thiết chế văn hoá từ cấp huyện đến xã còn thiếu thốn, số huyện, xã có
thư viện, rạp chiếu phim còn rất ít, nhà văn hoá còn thô sơ lồng ghép. Nhiều
vùng nông thôn còn tồn tại các hủ tục lạc hậu như mê tín dị đoan, tế lễ đình
đám, cưới hỏi, ma chay… không phù hợp với phong tục tập quán và truyền
thống của dân tộc, gây lãng phí lớn.
Do vậy, việc mở mang, phát triển hạ tầng văn hóa nông thôn như phát
riển các trung tâm văn hóa, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, thư viện… là hết
sức cần thiết. Một mặt, nó góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn
hóa nông thôn mới, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, mặt khác nó
còn góp phần hạn chế và tiến tới xóa bỏ các hoạt động mê tín dị đoan, các hủ
tục lạc hậu đã tồn tại lâu dài ở nông thôn.
Thực tế, hạ tầng KT-XH ở nông thôn cũng mang những tính chất, đặc
trưng của hạ tầng KT-XH nói chung và là nền tảng vật chất, cung cấp dịch vụ
cho hoạt động KT-XH của toàn ngành nông nghiệp và nông thôn, của vùng và
của làng, xã. Hiện nay, hạ tầng KT-XH ở nông thôn thường được phân chia
thành hạ tầng kinh tế - kỹ thuật như: Hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông,
hệ thống cung cấp điện, hệ thống thông tin liên lạc, cấp thoát nước… và hạ
34
tầng văn hóa - xã hội như: Các cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở y tế, các công
trình văn hoá và phúc lợi xã hội khác.
Khi xem xét về kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn cũng cần thấy rằng,
sự phát triển của mỗi làng, xã không thể chỉ xem xét trên phạm vi hẹp với
những kết cấu hạ tầng KT-XH gắn với nó, xét theo địa lý và lĩnh vực: Đường
xá giao thông, công trình thuỷ lợi, các công trình văn hoá, y tế, giáo dục…, vì
trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, sự gắn kết và ảnh hưởng lan toả
giữa các làng xã, giữa các huyện, giữa thành thị và nông thôn khá rõ nét kể cả
trong phát triển và giao lưu kinh tế. Do vậy sẽ có một số công trình trong kết
cấu hạ tầng KT-XH như các tuyến đường liên xã, liên huyện, các hệ thống
thuỷ nông, trạm bơm, trạm điện… tuy không thuộc quyền sở hữu của một
làng xã nhất định, nhưng lại phục vụ cho hoạt động KT-XH của nhiều xã hoặc
cả vùng thì những hạ tầng này cũng thuộc phạm vi của kết cấu hạ tầng KT-
XH nông thôn. Những kết cấu hạ tầng KT-XH đó thường nằm trong phạm vi
quản lý của các ban ngành thuộc bộ máy chính quyền cấp huyện hoặc ngành
dọc cấp Sở (như hệ thống thuỷ nông thuộc quyền quản lý của Sở
NN&PTNT). Thực tế, cộng đồng dân cư của các xã vừa được hưởng lợi từ
khai thác từ sử dụng, vừa có nghĩa vụ tham gia vào quản lý, bảo vệ và duy tu
bảo dưỡng các kết cấu hạ tầng này.
Nhìn chung, ở nước ta trong suốt chiều dài lịch sử phát triển ở các vùng
nông thôn đã hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng KT-XH phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, như: Hệ thống đường giao thông, hệ
thống thuỷ lợi, chợ... Hệ thống này phục vụ cho nhiều hoạt động kinh tế, xã
hội khác nhau. Việc thiếu những cơ sở này có thể gây ra nhiều tác động tiêu
cực đến sự phát triển KT-XH của cả vùng nông thôn. Nếu không có đường xá
thì không thể có hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách; không có chợ,
cửa hàng, kho tàng thì không thể tổ chức các hoạt động mua bán và trao đổi
35
hàng hoá… Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hệ thống hạ
tầng KT-XH nông thôn trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
hiện nay. Chính sự phát triển của hạ tầng KT-XH sẽ góp phần tạo bước phát
triển đột phá thúc đẩy KT-XH nông thôn, gắn kết kinh tế giữa các vùng, miền
và từ đó phát huy được thế mạnh kinh tế của mỗi địa phương phù hợp với quy
luật chung của kinh tế thị trường.
1.2.2. Yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
trong mô hình nông thôn mới
Phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc
biệt đối với sự phát triển của toàn vùng nông thôn nhưng cũng bao hàm phạm
vi rộng lớn. Việc phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn chính là xây dựng,
phát triển các công trình vật chất phục vụ sản xuất và đời sống của cư dân
nông thôn. Nói cách khác, mục tiêu của phát triển hạ tầng KT-XH ở nông
thôn là để phục vụ sản xuất, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất, nâng cao đời
sống, mức sống dân cư nông thôn. Việc này liên quan đến tất cả các mặt của
đời sống cư dân ở khu vực nông thôn xuất phát từ nhu cầu đa dạng của cư dân
nông thôn. Đó là các nhu cầu đi lại, nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và sinh
hoạt, nhu cầu được dùng nước sạch, môi trường vệ sinh sạch sẽ, nhu cầu sử
dụng các dịch vụ giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng…Thực tế
cho thấy, các mặt trên chỉ có thể tách bạch một cách tương đối về mặt lý
thuyết, còn trong thực tiễn, chúng có mối liên hệ đan xen nhau. Việc tách
bạch chúng về mặt lý thuyết là cần thiết để nhận thức rõ nét từng mặt nhưng
trong thực tiễn, do chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên các hoạt động
diễn ra trên mặt này không thể không tính đến mức độ ảnh hưởng của chúng
và sự đảm bảo nội dung của các mặt khác. Do vậy, trong phát triển hạ tầng
KT-XH nông thôn đáp ứng yêu cầu NTM cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
36
Thứ nhất, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn cần phải phải đi trước
một bước, thể hiện tính tiên phong, mở đường cho sự phát triển KT-XH. Điều
này xuất phát từ yêu cầu của việc tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh có
tính cạnh tranh, từ vị trí, vai trò của hạ tầng KT-XH ở nông thôn và yêu cầu
khai thác có hiệu quả những tiềm năng của các vùng nông thôn nhằm thực
hiện các mục tiêu phát triển KT-XH trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế. Với một nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp, khi nông
nghiệp nông thôn còn đóng vai trò quan trọng thì việc xây dựng một hệ thống
hạ tầng KT-XH hoàn thiện và đồng bộ ở nông thôn sẽ góp phần tạo tiền đề
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp theo đó, sự phát triển của
khu vực nông nghiệp và nông thôn sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển
của các ngành, lĩnh vực và khu vực khác của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao mức sống của người
nông dân nói riêng và của toàn xã hội nói chung, đồng thời sẽ góp phần giảm
bớt nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, nếu hạ tầng phát triển
chậm hơn hay không đủ so với nhu cầu thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu
của sản xuất. Nhưng ngược lại, nếu hạ tầng phát triển quá nhanh so với nhu
cầu thì sẽ không phát huy được hiệu quả. Do đó, một vấn đề đặt ra là phải xây
dựng một cơ cấu hợp lý giữa đầu tư cho hạ tầng và đầu tư cho sản xuất. Kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy, hạ tầng cần phải được phát triển nhanh hơn sản
xuất, tức là đầu tư cho hạ tầng phải tăng nhanh hơn đầu tư cho sản xuất.
Thứ hai, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo nâng cao
cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và môi trường. Đây là xu hướng khách
quan nhưng tất yếu nhằm tạo việc làm mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm
nghèo và phát triển kinh tế, đảm bảo môi trường bền vững, thực hiện công
bằng xã hội ở nông thôn và đối với nông dân. Do nguồn lực cho phát triển hạ
tầng KT-XH ở nông thôn không phải lúc nào cũng dồi dào, sẵn có mà việc
37
đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH nông thôn cũng không phải là các hoạt động
đầu tư kinh doanh đơn thuần có thể mang lại lợi nhuận cao. Lĩnh vực đầu tư
phát triển hạ tầng KT-XH không chỉ đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà nó còn là lĩnh
vực đầu tư thu hồi vốn chậm, có những lúc không thu hồi vốn (đầu tư hạ tầng
công cộng) phục vụ cho xã hội. Do vậy khi đầu tư phát triển hạ tầng phải hết
sức cân nhắc, tính toán giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội tránh tình
trạng quá tập trung, quá tính toán lợi ích kinh tế mà lãng quên đến lợi ích xã
hội mà hạ tầng mang lại. Cần thiết phải tính toán, cân nhắc để xác định chiến
lược và bước đi của phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn để vừa đảm bảo
hiệu quả về mặt kinh tế, đồng thời có thể mang lại những hiệu quả về mặt xã
hội, môi trường. Điều đó cho thấy, nhà nước cần phải có các chính sách và
giải pháp phù hợp nhằm huy động đa dạng các nguồn lực trong xã hội bên
cạnh việc gia tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng
KT-XH nông thôn. Trong những điều kiện cụ thể, nhất là xét về lâu dài, có
thể phải ưu tiên hiệu quả xã hội bên cạnh hiệu quả kinh tế. Và muốn đảm bảo
hiệu quả kinh tế, xã hội thực sự bền vững phải đảm bảo cả hiệu quả môi
trường, cải thiện môi trường sinh thái nông thôn, tôn tạo cảnh quan, giữ gìn
bản sắc dân tộc, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Thứ ba, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo duy trì sự
ổn định xã hội ở vùng nông thôn. Về cơ bản, ở các nước đang phát triển nói
chung, Việt Nam nói riêng, dân số vẫn chủ yếu sống ở khu vực nông thôn.
Phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn đem lại tác động tích cực nhiều mặt,
nhưng cũng có thể gây ra tình trạng mất ổn định về mặt xã hội. Điển hình là
việc thu hồi đất của những người nông dân để tạo mặt bằng cho xây dựng hạ
tầng KT-XH nông thôn dẫn đến tình trạng nông dân không còn đất đai (tư liệu
sản xuất cơ bản trong sản xuất nông nghiệp) để duy trì các hoạt động sản xuất,
mất đi nguồn thu nhập chính cho cuộc sống thường ngày và hệ quả là họ phải
38
tìm kiếm việc làm mới tại chỗ hay ở các khu vực khác. Việc xuất hiện tình
trạng khiếu kiện kéo dài phần lớn đều xuất phát từ những mâu thuẫn trong
công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tình trạng thiếu công khai, dân chủ,
minh bạch trong huy động và sử dụng nguồn vốn đóng góp của dân cư cho
xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn. Do vậy, việc xây dựng hạ tầng KT-
XH ở nông thôn trước hết cần gắn với việc khuyến khích phát triển các ngành
nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp nhằm tạo điều kiện về việc làm, thu
nhập cho các hộ nông dân bị thu hồi đất. Nếu việc phát triển hạ tầng KT-XH
nông thôn không có tác dụng làm giảm tình trạng thất nghiệp, điều đó sẽ dễ
gây ra sự bất ổn về chính trị - xã hội ở các vùng nông thôn và ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển kinh tế. Mặt khác, với các công trình có huy động nguồn
vốn xã hội hóa, nguồn vốn đóng góp của nhân dân cần phải đảm bảo sự công
khai, minh bạch, dân chủ. Điều đó sẽ góp phần duy trì sự ổn định về mặt xã
hội ở khu vực nông thôn.
Thứ tư, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn không chỉ nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế, mà phải kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Điều đó có nghĩa phát triển hạ tầng
KT-XH phải đảm bảo tính đồng bộ: Điện, đường, trường, trạm…phải bảo
đảm theo đúng lộ trình đầu tư xây dựng tránh tình trạng đầu tư chồng chéo
gây lãng phí, không hiệu quả kinh tế. Đảm bảo an ninh quốc phòng là điều
kiện hết sức cần thiết trong phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn, đảm bảo
được quốc phòng, an ninh nông thôn là đảm bảo được ổn định chính trị, là
bảo đảm được môi trường đầu tư. Thời gian qua đã có lúc, có nơi tình hình
chính trị, an ninh nông thôn chưa được bảo đảm đã làm thiệt hại, lãng phí
không nhỏ đến hiệu quả đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH như: Tiến độ chậm;
giải ngân vốn chậm; nợ đọng vốn XDCB... Như vậy đầu tư xây dựng hạ tầng
KT-XH nông thôn vừa phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa
39
phải đảm bảo từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
vừa phải đảm bảo về mặt an ninh, quốc phòng.
Thứ năm, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải góp phần đẩy
nhanh tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hoá nông thôn. Việc quy hoạch phát
triển các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn phải kết hợp hài hoà với quy
hoạch phát triển hạ tầng KT-XH, quy hoạch phát triển các vùng đô thị. Sự
hình thành và phát triển các khu đô thị sẽ đóng vai trò làm đầu tàu thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của cả vùng. Đồng thời, nó sẽ
mở ra khả năng cung cấp các dịch vụ đa dạng góp phần nâng cao chất lượng
đời sống cư dân nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn. Theo tiến
trình đô thị hoá, các điểm dân cư khu vực nông thôn sẽ được phát triển theo
xu thế “đô thị hoá tại chỗ”, biến đổi nông thôn thành đô thị. Tuỳ theo điều
kiện phát triển hạ tầng KT-XH cụ thể ở mỗi nơi mà mức độ đô thị hoá tại chỗ
sẽ khác nhau. Trong tiến trình đô thị hoá nông thôn phải xem xét đầy đủ đến:
Tác động của môi trường trong quy hoạch sử dụng đất; trong tổ chức không
gian đô thị; trong xây dựng hạ tầng kỹ thuật; đảm bảo sự liên thông, hoà nhập
về quy hoạch giao thông, cấp thoát nước, thông tin, dịch vụ ... giữa khu đô thị
mới và khu dân cư làng, xã cũ. Tránh tình trạng làng, xã thành phường vì mục
đích tăng dân số đô thị để đô thị được nâng cấp hay tạo các "ốc đảo" dân cư
làng, xã trong khu đô thị mới.
1.2.3. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đối với phát
triển nông thôn
Thứ nhất, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn hoàn thiện và đồng bộ sẽ
giúp giảm giá thành sản xuất, giảm chi phí vận chuyển, chi phí dịch vụ, giảm
thiểu rủi ro trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các
ngành liên quan trực tiếp tới nông nghiệp, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng
40
hoá. Trong điều kiện ngày nay với xu hướng và hội nhập, nếu thiếu hệ thống
thông tin viễn thông, hệ thống ngân hàng hay hệ thống giao thông hiện đại...
thì không thể đạt được mục tiêu phát triển như mong muốn.
Thứ hai, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn phát triển sẽ tác động đến
sự phát triển khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư cả trong nước và nước
ngoài vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Qua đó, góp phần tạo thêm việc
làm thu hút nguồn lao động dư thừa, tăng thêm thu nhập cho cư dân ở các
vùng nông thôn, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành trong sản xuất.
Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận được với tiến bộ
khoa học - kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng cao
như tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm...
Thứ ba, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn là điều kiện quan trọng tác
động tới việc phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ. Phát triển hạ tầng KT-
XH nông thôn sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng, miền trong
cả nước, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng
xã hội. Thực hiện mục tiêu công bằng xã hội không chỉ thể hiện ở khâu phân
phối kết quả mà nó còn thể hiện ở chỗ tạo điều kiện sử dụng tốt năng lực của
mình, đó chính là cơ hội học tập, cơ hội được chăm lo sức khoẻ và đặc biệt là
cơ hội được làm việc, tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Thứ tư, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn là điều kiện vật chất quan
trọng, có tính quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng
như sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Ngân hàng thế giới cho
rằng: “Những trở ngại trong giao thông vận tải thường là trở ngại chính đối
với sự phát triển khả năng chuyên môn hàng hoá sản xuất tại khu vực có tiềm
năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được sản phẩm hoặc không được
41
cung cấp lương thực một cách ổn định...” [40, tr.18]. Như vậy nếu không có
hạ tầng giao thông nói chung hay hạ tầng GTNT nói riêng thì không thể có
giao lưu hàng hóa nông sản với các hàng hoá khác, không thể tạo điều kiện
phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Thứ năm, hệ thống KCHT KT-XH phát triển sẽ tăng cường được khả
năng giao lưu hàng hoá, thị trường nông thôn được mở rộng, khơi thông sự
ngăn cách giữa thị trường nông thôn và toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó, kích
thích sự phát triển kinh tế hộ gia đình, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo, gia tăng thu nhập, nâng cao chất lượng đời sống cư dân. Điều đó
sẽ tạo ra sự thay đổi diện mạo KT-XH nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo giữa thành thị và nông thôn, từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về không
gian giữa thành thị và nông thôn.
Thứ sáu, hệ thống KT KT-XH nông thôn sẽ tạo điều kiện tổ chức tốt
đời sống xã hội trên từng địa bàn, tạo một cuộc sống tốt hơn cho nhân dân,
nhờ đó mà giảm bớt và ngăn chặn tình trạng di cư tự do từ nông thôn ra thành
thị. Đồng thời, tạo lập sự công bằng, nâng cao mức hưởng thụ các dịch vụ
giáo dục - đào tạo, y tế và văn hoá cho dân cư vùng nông thôn, xoá đi những
chênh lệch trong phát triển KT-XH giữa các vùng trong nước.
Nói tóm lại, phát triển hạ tầng KT-XH là nhân tố đặc biệt quan trọng, là
khâu then chốt để thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH nông nghiệp,
nông thôn trong tiến trình CNH, HĐH. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại cùng quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng ngày nay, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đi
trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KT-XH phát
triển.
42
1.3. Kinh nghiệm phát triển hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn của
một số địa phƣơng
1.3.1. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ở huyện Ân Thi, tỉnh
Hưng Yên
Là huyện có trên 90% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, tập quán
canh tác vẫn manh mún và theo cách truyền thống là chủ yếu, những năm
qua, cấp ủy, chính quyền các cấp huyện Ân Thi luôn chú trọng phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất của
nhân dân trên địa bàn.
Ban chỉ đạo xây dựng NTM huyện xác định: Xây dựng và phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy nông
nghiệp phát triển; là điều kiện thiết yếu để người dân ứng dụng KHKT, sáng
tạo trong lao động sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua đó
từng bước giảm nghèo nhanh, bền vững. Đặc biệt, phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn là cơ sở, điều kiện để thực hiện xây dựng nông thôn mới. Trong 5
năm qua, từ các nguồn vốn: Nghị quyết 134/CP, 135/CP... huyện Ân Thi
được đầu tư 215 tỷ đồng xây dựng 53 công trình kết cấu hạ tầng nông thôn
như: đường giao thông; thủy lợi; mạng lưới điện, viễn thông, y tế, giáo dục...
Đến nay, đã có 36 công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển giao thông nông
thôn được xác định là trung tâm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật và điều kiện tiên
quyết để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện mục tiêu
đó, huyện Ân Thi tập trung sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước và huy
động các nguồn lực khác, đặc biệt là nguồn lực từ trong dân. Nhờ đó, mạng
lưới giao thông trên địa bàn huyện không ngừng được mở rộng, chất lượng
43
ngày một nâng cao. Tính đến năm 2013, toàn huyện đã có 16 xã, thị trấn được
phê duyệt đường nông thôn. 19 xã, thị trấn được hỗ trợ đường bê tông với
tổng chiều dài 44.614 m, khối lượng xi măng hỗ trợ đạt trên 8.298 tấn, trong
đó đường thôn là 15.301 m, đường xóm 19.313m.
Giao thông “đi trước” tạo tiền đề phát triển các công trình hạ tầng kỹ
thuật khác, trong đó công tác thủy lợi cũng được đầu tư, xây dựng cơ bản. Với
việc hỗ trợ cấp bù thủy lợi phí, hỗ trợ nạo vét đông xuân, đắp đê, sửa chữa
đầu tư nâng cấp một số trạm bơm, công trình đã giải quyết tốt công tác tưới
tiêu phục vụ sản xuất, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thời tiết và thiên tai gây
ra. Hệ thống trường học, giáo dục mầm non ở nông thôn tiếp tục được mở
rộng và phát triển; hạ tầng y tế phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh nhân dân
từng bước được cải thiện; mạng lưới thông tin liên lạc, thiết chế văn hóa được
củng cố, phát triển góp phần nâng cao đời sống tinh thần người dân.
1.3.2. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ở huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh
Trong gần 4 năm xây dựng NTM, bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chương
trình xây dựng NTM và lồng ghép các nguồn vốn khác, huyện Vân Đồn đã
tập trung phân bổ nguồn vốn cho một số hạng mục trọng tâm theo lộ trình, kế
hoạch của tỉnh và huyện đề ra nhằm đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng
khu vực nông thôn.
Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, ngân sách địa phương phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ chi khác nhau, chính vì vậy, để nguồn vốn đầu tư phát huy
hiệu quả, trong hoạt động triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, huyện
Vân Đồn đã xác định nguồn vốn phân bổ sẽ ưu tiên cho các xã có lộ trình xây
dựng NTM về đích sớm và các tiêu chí, chỉ tiêu quan trọng như: Kiên cố hoá
44
trường mầm non đạt chuẩn; đường giao thông; nhà văn hoá; các công trình
thuỷ lợi, kênh mương; các công trình nước sạch, vệ sinh môi trường, phát
triển sản xuất...
Cụ thể, từ năm 2011 đến nay, huyện đã đầu tư trên 97,4 tỷ đồng để xây
dựng 19 công trình đường giao thông trục xã, trục thôn, liên thôn và 2 công
trình bến tàu. Về thuỷ lợi, đã đầu tư xây mới gồm 5 công trình hồ chứa nước;
nâng cấp, sửa chữa 5 hồ chứa nước; thực hiện 9 dự án kiên cố hoá kênh
mương; xây dựng, sửa chữa, nâng cấp 8 công trình đê, kè chắn sóng, bờ bao
chống lũ. Với hệ thống hồ, đập chứa nước, kênh mương nội đồng ngày một
hoàn thiện đã giúp cho tình hình sản xuất khu vực nông nghiệp, nông thôn
trên địa bàn huyện có nhiều khởi sắc; người dân yên tâm hơn để đầu tư cho
nông nghiệp.
Để cải thiện đời sống sinh hoạt cho người dân, huyện cũng đã thực hiện
5 dự án cấp nước sinh hoạt cho các xã Ngọc Vừng, Vạn Yên, Bản Sen; 2 dự
án xây bể nước sinh hoạt hộ gia đình cho xã Đài Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết,
Thắng Lợi, Bản Sen. Đồng thời thực hiện 3 dự án xử lý rác thải, nước thải tại
các xã Quan Lạn, Minh Châu và một số công trình vệ sinh môi trường khác.
Cùng với đó, việc đầu tư nâng cấp hạ tầng ngành giáo dục cũng đã được quan
tâm triển khai, đặc biệt là ở các khu vực vùng sâu, vùng xa của huyện. Theo
lãnh đạo huyện Vân Đồn cho biết, ngoài các công trình có ý nghĩa thúc đẩy
phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, thời gian qua nguồn vốn của
chương trình xây dựng NTM đã tiếp tục quan tâm đầu tư hạ tầng các ngành y
tế, giáo dục... Theo đó, huyện đã tiến hành triển khai xây dựng hoặc nâng cấp
đồng loạt trường học ở các xã còn thiếu trường học chưa được kiên cố hoá.
Trong gần 4 năm, huyện đã xây dựng, cải tạo, nâng cấp 11 trường mầm non
của 11/11 xã trên địa bàn huyện đạt chuẩn cơ sở vật chất; cải tạo, nâng cấp 6
45
trường PTCS, 4 trường THCS và 5 trường Tiểu học. Tổng vốn đầu tư xây
dựng, nâng cấp trường học đạt chuẩn cơ sở vật chất trên 139,2 tỷ đồng. Đến
nay, trên địa bàn huyện tổng số trường học từ cấp Mầm non đến THCS được
đầu tư xây dựng mới, nâng cấp đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất là 22/27
trường (đạt 81,5%). Trong đó, số trường đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất:
Mầm non là 9/11 trường, THCS 3/4 trường, PTCS 5/7 trường. Đối với cơ sở
hạ tầng về y tế, toàn huyện có 11/11 xã có trạm y tế xã được công nhận đạt
chuẩn quốc gia, 100% trạm y tế được quan tâm đầu tư trang bị đầy đủ các
thiết bị phục vụ chăm sóc, khám, chữa bệnh ban đầu cho nhân dân địa
phương.
Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng cho người dân, các công trình
nhà văn hoá thôn, bản cũng được quan tâm đầu tư. Hiện trên địa bàn huyện có
36/72 nhà văn hoá thôn, bản đã được đầu tư vốn xây dựng mới đạt chuẩn.
Ngoài ra, bằng nguồn vật liệu hỗ trợ và nguồn kinh phí đóng góp của nhân
dân đã sửa chữa nâng cấp được 5 nhà văn hoá thôn, đáp ứng được công năng
sử dụng và nhu cầu hội họp, sinh hoạt cộng đồng của nhân dân.
1.3.3. Kinh nghiệm của huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh
Xuất phát điểm từ huyện trọng điểm nghề nông với trên 90% dân số
sinh sống ở khu vực nông thôn nên trong triển khai Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, huyện Hải Hà đã xác định rõ 2 nhiệm
vụ trọng tâm phải thực hiện đó là đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật
và phát triển sản xuất.
Kinh nghiệm của quá trình thực hiện thí điểm về công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn đã cho Hải Hà thấy rõ đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng kinh tế xã hội trong nông nghiệp, nông thôn là một trong những
46
nhiệm vụ quan trọng, có tác động tích cực, trực tiếp đến cộng đồng dân cư
nông thôn, là điều kiện cần thiết để thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Chính vì vậy trên cơ sở quy
hoạch huyện đã chỉ đạo các ngành chuyên môn cùng với các xã rà soát lại hệ
thống hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn như đường giao thông liên thôn, kênh
mương nội đồng từ đó tiến hành khảo sát và lập dự án trình UBND tỉnh và
các ngành chức năng bố trí vốn. Đồng thời chủ động huy động nhân dân hiến
đất để làm đường giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng.
Huyện đã phê duyệt nhiệm vụ đầu tư xây dựng 11 tuyến đường giao
thông nông thôn với tổng kinh phí trên 112 tỷ đồng, tiếp tục chỉ đạo các xã
khảo sát, lập nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư các công trình đường giao thông nông
thôn, thuỷ lợi và hỗ trợ mô hình phát triển sản xuất tập trung, xây dựng các
trường học đạt chuẩn quốc gia, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, trụ
sở Công an xã... Cùng với đó nhân dân trên toàn huyện đã tham gia đóng góp
được trên 8.709 ngày công, 70.813,5m2 đất các loại, đóng góp 374,600 triệu
đồng, để làm đường, làm trường học, xây mới và sửa chữa nâng cấp trên
33km kênh mương nội đồng, mở rộng và nâng cấp trên 33km đường nội đồng
và đường ngõ xóm. Tính chung tổng trị giá các công trình nhân dân đóng góp
được trên 7,7 tỷ đồng. Riêng đối với công tác xây dựng nhà văn hoá, tất cả
các nhà văn hoá thôn, bản trước đây đã xuống cấp, không đáp ứng yêu cầu sử
dụng, huyện đã cho rà soát và lập kế hoạch cải tạo, sửa chữa để đầu tư 74 nhà
và rà soát 106 nhà văn hoá thôn, bản để thực hiện đầu tư lắp đặt hệ thống
internet, tủ sách cho các cơ sở này.
Từ thực tiễn, Hải Hà nhận thấy những yếu kém, bất cập còn tồn tại đó
là do xuất phát điểm thấp về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, địa bàn dân cư
phân tán, các xã trên địa bàn đều là xã thuần nông, ngành nghề nông thôn kém
phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn thiếu. Các xã chưa chủ động khi
47
được phân khai vốn, xác định việc hỗ trợ các mô hình phát triển sản xuất chưa
đúng theo hướng dẫn chỉ đạo, còn lúng túng trong triển khai thực hiện. Chính
vì vậy trong những giải pháp đề ra thực hiện thời gian tới huyện sẽ chú trọng
hơn trong đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là việc triển khai các dự án hỗ
trợ phát triển sản xuất, các mô hình sản xuất mới như mía, chè, các loại giống
mới, các mô hình sản xuất tập trung mang tính chất sản xuất hàng hoá. Gắn
sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, tạo đầu ra ổn định cho người dân yên tâm sản
xuất. Gắn quy hoạch với triển khai sản xuất, gắn thực hiện kế hoạch sản xuất
với đề án hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để nâng cao hiệu quả các mô hình phát
triển sản xuất cũng như hiệu quả sản xuất nông nghiệp nông thôn. Làm tốt
công tác chuẩn bị đầu tư, rà soát các danh mục chuẩn bị đầu tư, bố trí nguồn
vốn thực hiện, lồng ghép các chương trình, nguồn vốn trong đó chú trọng
nguồn vốn huy động từ nhân dân, các doanh nghiệp.
1.3.4. Một số bài học rút ra cho huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
Nghiên cứu sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn tại
các địa phương trên, có thể rút ra một số bài học để huyện Lạng Giang tham
khảo như sau:
Một là, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn là một
trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của quá trình xây dựng
NTM và là nền tảng cho sự phát triển KT-XH một cách bền vững. Do vậy,
việc mở mang, phát triển hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, mạng lưới
cung cấp điện, mạng lưới chợ, hạ tầng thông tin - viễn thông, hệ thống cung
cấp nước sạch, hệ thống hạ tầng y tế, giáo dục… ở khu vực nông thôn sẽ góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn
nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều đó cho thấy, cần phải xác
định rõ và khách quan vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hệ thống kết cấu hạ
48
tầng KT-XH ở nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn nói riêng.
Hai nhà, nâng cao vai trò Nhà nước trong việc cung cấp nguồn ngân
sách hỗ trợ các địa phương trong xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH ở nông thôn. Như đã biết, việc xây dựng các công trình hạ tầng
KT-XH ở nông thôn thường đòi hỏi chi phí lớn và ít có sức hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư tư nhân, nhất là đối với những lĩnh vực ít có khả năng mang lại
lợi nhuận. Do vậy, nhà nước cần bố trí vốn ngân sách dành cho xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn. Đồng thời, để tăng cường tính hấp
dẫn của hoạt động đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn, cơ
quan nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cũng cần tạo môi trường
đầu tư thông thoáng, thuận lợi nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
Ba là, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần bảo
đảm tính đồng bộ bởi lẽ nếu thiếu một hay yếu kém ở một bộ phận nào đó sẽ
làm ảnh hưởng tới nhiều yếu tố khác, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng của cả
hệ thống.
49
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG
KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN CỦA HUYỆN LẠNG GIANG
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng KT-XH nông thôn huyện Lạng Giang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Huyện Lạng Giang là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang
, gồm 21 xã và 02 thị trấn, là cửa ngõ nối liền
với diện tích tự nhiên là 240 km2
các tỉnh phía Đông Bắc với thành phố Bắc Giang, phía Bắc giáp huyện Hữu
Lũng (tỉnh Lạng Sơn) và huyện Yên Thế, phía Nam giáp thành phố Bắc
Giang và huyện Yên Dũng, phía Đông giáp huyện Lục Nam và phía Tây giáp
huyện Tân Yên. Lạng Giang là một trong bốn huyện được xác định là vùng
trọng điểm phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nên huyện sẽ có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn để phát triển hệ thống KCHT KT-XH.
So với các huyện, thành phố trong tỉnh, huyện Lạng Giang có vị trí địa
lý tương đối thuận lợi, có một số trục đường giao thông quan trọng của Quốc
gia chạy qua (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ). Thị trấn Vôi, thị trấn Kép
cách thành phố Bắc Giang 20km và cách thủ đô Hà Nội 70km tính theo
đường ô tô, nằm trên Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn lên cửa
khẩu Quốc tế Đồng Đăng, nơi giao lưu buôn bán sầm uất hiện nay, là vị trí
thuận lợi khi thực hiện chiến lược 2 hành lang, 1 vành đai kinh tế của Chính
phủ trong việc hợp tác kinh tế với Trung Quốc đặc biệt hành lang kinh tế Nam
Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng đi vào hoạt động để
phát triển sản xuất hàng hoá và giao lưu kinh tế trong tỉnh, trong nước và
50
quốc tế. Thị trấn Kép là nơi thuận lợi xây dựng cảng cạn cho các tỉnh Đông
bắc bộ. Quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang đi qua các xã Thái Đào, Đại Lâm
của Lạng Giang sang các huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Đình Lập
(Lạng Sơn) gặp Quốc lộ 4A đi cảng Mũi Chùa, Tiên Yên và nối với cửa khẩu
Móng Cái (Quảng Ninh). Quốc lộ 37 từ thị trấn Kép, qua xã Hương Sơn đến
huyện Lục Nam đi Hòn Suy sang thị xã Chí Linh (Hải Dương) gặp Quốc lộ
18 có thể về cảng Hải Phòng hay ra cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh).
Tuyến đường sắt Lưu Xá - Kép - Hạ Long nối Thái Nguyên với Quảng Ninh,
đi qua các xã Nghĩa Hoà, Quang Thịnh, Hương Sơn và thị trấn Kép. Là huyện
miền núi nhưng huyện Lạng Giang lại nằm trên các trục giao thông quan
trọng của Quốc gia: Quốc lộ 1A, Quốc lộ 31, Quốc lộ 37 nên huyện được
hưởng nhiều thuận lợi trong mở mang, phát triển hệ thống giao thông từ
nguồn ngân sách trung ương. Như vậy, việc kết nối các vùng của huyện vào
mạng lưới giao thông chung là thuận lợi và giảm được chi phí xây dựng.
Đường sông có sông Thương chảy qua tàu thuyền vừa và nhỏ đi lại dễ
dàng, đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Tuy nhiên, địa hình huyện Lạng Giang có nhiều đồi núi, mức độ chênh lệch
địa hình lớn, ít sông ngòi nên khó có điều kiện để phát triển hệ thống trạm
bơm, kênh mương đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu cho người dân.
Lạng Giang nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có các loại
vật liệu xây dựng như đất sét làm gạch, ngói, đất sét làm gạch chịu lửa…Lạng
Giang nghèo về tài nguyên khoáng sản, ít làng nghề truyền thống nên không
thu hút được các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh doanh du lịch, dịch
vụ, đầu tư cải tạo, nâng cấp những hạ tầng liên quan đến các hoạt động du
lịch.
51
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện (tính đến 01/01/2011) là
24.125,15 ha, trong đó đất nông nghiệp là 15.907,57 ha (chiếm 65,94%), đất
phi nông nghiệp là 8.014,56 ha (chiếm 33,22%), đất chưa sử dụng là 203,02
ha (chiếm 0,8%), đất đô thị là 406,77 ha (chiếm 16,8%). Diện tích tự nhiên
rộng là điều kiện cơ bản để có thể dành một phần đáng kể cho xây dựng hệ
thống giao thông, trường học, bệnh viện, chợ nông thôn…
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên huyện Lạng Giang tương đối thuận lợi
cho việc mở mang phát triển hạ tầng KT-XH, trong đó có hạ tầng KT-XH ở
nông thôn.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Lạng Giang là một trong 04 huyện, thành phố của tỉnh Bắc Giang được
xác định là vùng trọng điểm phát triển kinh tế xã hội (Việt Yên, Yên Dũng,
Lạng Giang và thành phố Bắc Giang). Thời gian qua, huyện đã cụ thể hóa
chương trình phát triển KT-XH và bước đầu đã đạt được những kết quả quan
trọng. Tốc độ phát triển các ngành kinh tế chủ yếu năm 2013 ước đạt 14,2%,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm nghiệp,
thủy sản giảm từ 50,4% năm 2005 xuống còn 37,5%, công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng tăng từ 25,6% lên 31,5%, thương mại, dịch vụ tăng
từ 24% lên 31%, thu nhập bình quân đầu người đạt 16,5 triệu đồng/năm. Năm
2013, thu hút đầu tư trên địa bàn tăng cao so với năm 2012. Các cấp, các
ngành từ huyện đến cơ sở đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và hộ gia
đình khảo sát, triển khai các dự án đầu tư vào địa bàn và đã thu hút được 35
dự án. Đáng chú ý, một số dự án trọng tâm đã triển khai và đưa vào sản xuất
như: Xí nghiệp may Lạng Giang của Công ty Cổ phần May Bắc Giang, quy
mô 7 ha ở xã Nghĩa Hòa, Xí nghiệp may của Công ty Cổ phần TM DV&ĐT
Trường Thành, quy mô 2 ha ở xã Phi Mô, Nhà máy gạch cotto của Công ty
52
Cổ phần Ngôi sao Bắc Giang, quy mô 8 h ở xã Tân Dĩnh; Xưởng sản xuất
bánh kẹo của Công ty TNHH Gia Thái ở thị trấn Vôi, Xưởng sản xuất, gia
công cơ khí của Công ty Cổ phần DVTM Thống nhất ở thị trấn Vôi với tổng
số vốn đầu tư khoảng trên 300 tỷ đồng… Triển khai dự án đầu tư Trung tâm
thương mại huyện do tập đoàn HDB làm chủ đầu tư với số vốn đăng ký 165
tỷ đồng. Toàn huyện đã có thêm 25 doanh nghiệp mới được thành lập đưa
tổng số doanh nghiệp trên địa bàn lên 208 doanh nghiệp. Tốc độ phát triển
kinh tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thu hút được nhiều đầu tư vào
địa bàn nên đã làm gia tăng nguồn lực đầu tư phát triển triển hệ thống KCHT
KT-XH nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm nền kinh tế chủ yếu làm nông
nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp ít, phần lớn là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực chế biến, đời sống nhân
dân còn khó khăn nên khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển hệ thống
KCHT KT-XH còn rất khó khăn. Nguồn thu chưa đủ chi, nguồn vốn tích lũy
cho đầu tư phát triển còn hạn chế và thiếu thốn. Điều đó gây ảnh hưởng đến
nguồn vốn có khả năng huy động cho phát triển hệ thống KCHT KT-XH nông
thôn.
Về dân số và nguồn lực: tính đến thời điểm dân số Lạng Giang có
,. Nguồn nhân lực
197.176 người. Mật độ dân số trung bình là 821 người/km2
của huyện chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và nguồn nhân lực trẻ
chiếm tỷ trọng cao. Đó là một lợi thế cho sự phát triển KT-XH của huyện
nhưng cũng tạo sức ép đối với hệ thống giáo dục - đào tạo, y tế và nhất là vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn.
Về lực lượng lao động: Tổng số lao động trong độ tuổi hiện nay là
128.000 người. Lao động được phân bổ trong các ngành kinh tế quốc dân:
Nông, lâm, ngư nghiệp 78.080 người, chiếm 61%; công nghiệp xây dựng
26.240%, chiếm 20,5%; thương mại dịch vụ 23.680, chiếm 18,5%. Nguồn
53
nhân lực trẻ chiếm tỷ trọng cao. Đây là một lợi thế cho sự phát triển hệ thống
KCHT KT-XH nông thôn khi mà nguồn nhân lực có trình độ nắm bắt được
khoa học công nghệ, ứng dụng vào trong xây dựng và sản xuất, rút ngắn được
quá trình xây dựng hạ tầng KT-XH.
Tuy nhiên, phần lớn lao động trong các ngành kinh tế của huyện mới
chỉ là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, tỷ lệ công nhân lành nghề và cán
bộ kỹ thuật còn ít. Đó lại là một hạn chế lớn của huyện trong phát triển KT-
XH.
2.1.2. Chính sách của huyện Lạng Giang đối với việc xây dựng hệ
thống KCHT KT-XH đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của sự phát triển hệ thống
KCHT KT-XH nông thôn, trong định hướng chiến lược phát triển đến năm
2020, huyện Lạng Giang xác định: “Phát huy nội lực và bằng mọi giải pháp
thu hút mạnh mẽ ngoại lực, nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh
của huyện về vị trí địa lý, tài nguyên và nguồn nhân lực, để đạt tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất cao và bền vững, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu tới năm 2020 trở thành
huyện có cơ cấu kinh tế chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ”.
Trong nhiều năm qua, chính quyền huyện Lạng Giang đã thực hiện và
đề ra nhiều chính sách về việc xây dựng hệ thống KCHT KTXH đáp ứng yêu
cầu xây dựng NTM, cụ thể:
2.1.2.1. Chính sách quy hoạch và sử dụng đất đai
Thời gian qua, huyện Lạng Giang đã chú trọng đến công tác quy hoạch
phát triển KT-XH trên địa bàn toàn huyện, trong đó có nội dung quy hoạch
phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn. Để đáp ứng nhu cầu xây dựng mới, mở
rộng và phát triển các công trình kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, huyện
Lạng Giang đã tiến hành quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất cho từng loại
54
hình hạ tầng KT - XH ở từng xã. Ngày 24 tháng 4 năm 2013, Ủy ban nhân
dân tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định số 132/QĐ-UBND xét duyệt quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015)
của huyện Lạng Giang, trong đó quy hoạch đến năm 2020 diện tích đất để
phát triển hạ tầng là 2.771,47 ha, chiếm 30,23% diện tích đất phi nông nghiệp.
Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, các cơ quan hữu
quan đã tổ chức triển khai lập hồ sơ đất đai cho phát triển hạ tầng KT-XH
nông thôn trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt để giao đất, cho thuê đối với
các tổ chức thực hiện. Từ năm 2010 đến nay, UBND huyện đã hướng dẫn,
kiểm tra và trình UBND tỉnh phê duyệt 31 dự án giao đất xây dựng các công
trình công cộng, 24 dự án xin thuê đất sản xuất kinh doanh với tổng diện tích
là 84,28ha; phê duyệt 109 dự án giao đất làm nhà ở, 8 dự án thuê đất sản xuất,
kinh doanh của hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích 41,14ha.
Nhìn chung, việc giao đất, cho thuê đất đã cơ bản đáp ứng được việc
xây dựng các công trình hạ tầng KT - XH nông thôn.
2.1.2.2. Chính sách tạo vốn phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn
Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng
KT-XH ở từng vùng nông thôn, huyện tiến hành lập dự án đầu tư, xây dựng
kế hoạch phân bổ ngân sách cho từng dự án, công trình để tổng hợp và trình
HĐND, UBND tỉnh phê duyệt. Dự toán phân bổ ngân sách được phê duyệt và
ghi vào kế hoạch chi ngân sách hàng năm chính là cơ sở để thực hiện các dự
án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH ở nông thôn.
Ngoài ra để tập trung vốn cho ngân sách để đầu tư vào các công trình
hạ tầng KT-XH nói chung và cho các công trình hạ tầng nông thôn nói riêng
có tính trọng điểm, có tính cấp bách, khắc phục tình trạng dàn trải. Tỉnh Bắc
Giang đã sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính theo luật ngân sách huy
động vốn đầu tư từ các kênh: Vay Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư cho các
55
công trình cứng hóa kênh mương; từ nguồn trái phiếu chính phủ để đầu tư cho
cơ sở hạ tầng ngành y tế, giáo dục…Từ đó, tỉnh sẽ căn cứ trên số lượng vốn
đã huy động được để phân bổ tới từng huyện.
2.1.2.3. Chính sách huy động vốn phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn
Nhằm thu hút vốn đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH ở
nông thôn, huyện Lạng Giang đã có các chính sách ưu đãi đầu tư cho các đối
tượng đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn, nhất là đối với các doanh
nghiệp đầu tư và phát triển hạ tầng KCN, CCN. Ngoài ra, huyện đã thực hiện
chính sách huy động vốn của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế.
2.2. Thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện
Lạng Giang từ năm 2006 đến nay
Thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 221/QĐ-UBND ngày
09/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2020. Để
thực hiện đề án xây dựng NTM huyện Lạng Giang đã có Quyết định số
328/QĐ-UBND về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện Lạng
Giang về Quyết định số 2335/QĐ-BCĐ về việc thành lập tổ giúp việc cho
Ban Chỉ đạo xây dựng NTM. Để có cơ sở đưa các xã vào danh sách xã xây
dựng NTM giai đoạn 2010 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020 thì việc đánh giá
đúng thực trạng các tiêu chí xây dựng NTM ở các xã là nội dung hết sức quan
trọng. UBND huyện đã yêu cầu tất cả các xã (trừ xã Tân Thịnh) tiến hành tổ
chức, rà soát, đánh giá chính xác đúng thực trạng các tiêu chí xây dựng NTM
của địa phương mình theo bộ tiêu chí quốc gia về NTM xã định cụ thể những
tiêu chí nào đã đạt, tiêu chí nào chưa đạt. Trên cơ sở tổng hợp của cơ quan
thường trực Ban chỉ đạo, UBND huyện đã có báo cáo kết quả rà soát, thẩm
56
định, đánh giá thực trạng các tiêu chí nông thôn mới ở 20 xã trên địa bàn
huyện, kết quả được thể hiện như sau:
2.2.1. Hệ thống giao thông nông thôn
Trong 8 năm từ 2006 đến 2013, toàn huyện đã đầu tư xây dựng, cải tạo,
cứng hóa 70 km đường huyện, bê tông hóa đường trục xã, liên xã với tổng
chiều dài 335 km, 504 km đường trục thôn xóm, đem lại cho huyện những
con đường khang trang, sạch sẽ.
Bảng 2.1: Kết quả phát triển hạ tầng giao thông nông thôn
Đơn vị: Km
Chiều dài đã cứng hóa TT Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
1 Đường huyện 7 8 12 9 10 11 5 8
2 Đường trục xã, 34 45 33 48 30 45 46 54
trục
liên xã 3 Đường
55 37 42 68 66 82 94 103
thôn, xóm
ngõ,
4 Đường 47 45 47 73 75 74 68 75
xóm sạch
5 Đường 10 6 2 1,2 3,7 4 3,3 4,8
trục chính nội đồng
Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2014
Để xây dựng và phát triển giao thông nông thôn, Lạng Giang đã bắt đầu
bê tông hóa đường trục xã, liên xã với tổng chiều dài 335 km. Tính đến
03/2014, trục đường này đã được nhựa hóa và bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp
kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải là 148 km, đạt 44,2%. Trong đó tiêu biểu
có hai xã Xương Lâm và Mỹ Hà đã đạt tiêu chí cứng hóa 100% chiều dài
đường và nhiều xã khác đạt được kết quả khá cao: Nghĩa Hưng, Tân Hưng,
Đào Mỹ, Yên Mỹ.
57
Hiện nay, Lạng Giang có 504 km đường trục thôn xóm, trong đó chiều
dài đã được cứng hóa là 210, đạt 41%. Với chỉ tiêu chung của vùng trung du
miền núi phía Bắc (là đạt 50%) thì tại huyện Lạng Giang đã không đạt tiêu chí
này. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy có rất nhiều xã đã thực hiện vượt chỉ tiêu
này (11/20 xã) như: Quang Thịnh (17/19 km đạt 89%), Mỹ Hà (9/11 km đạt
81,8%),
Về tỷ lệ đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa đã có một
số thực hiện cứng hóa đạt chỉ tiêu 50% do Bộ tiêu chí nêu ra: An Hà 31/36
km (đạt 86%), Quang Thịnh 18,8/26,8 km (đạt 70,1%), Mỹ Hà 19/28 km (đạt
67,9%)…
Với chỉ tiêu đạt 50% chiều dài đã cứng hóa đường trục chính nội đồng,
xe cơ giới đi lại thuận tiện thì tất cả 10 xã trong huyện đều chưa làm được và
chỉ thực hiện được một phần nhỏ so với tổng chiều dài đường: Tiên Lục
2/16,82 km (đạt 11,9%), Mỹ Hà 1,9/12,9 km (đạt 14,7%), Nghĩa Hưng 2/20,2
km (đạt 9,9%)…
Có thể thấy, tỷ lệ đường trục xã, đường trục thôn được cứng hóa của
Lạng Giang đã đạt tỷ lệ lớn, đây là một thành công trong xây dựng hệ thống
giao thông đáp ứng mô hình nông thôn mới. Đường giao thông thuận tiện là
một điều kiện tốt để phát triển sản xuất hàng hóa cũng như vận chuyển, thông
thương hàng hóa. Tuy giao thông là một tiêu chí mà Lạng Giang chưa hoàn
thành nhưng sau gần hai năm thực hiện, Lạng Giang đã có nhiều thay đổi.
Điều đầu tiên nhận thấy chính là tuyến đường giao thông được bê tông hóa,
đường liên xã, liên thông không còn cảnh lầy lội như trước. Các xe cơ giới đi
lại thuận tiện trên các đường kè, tạo điều kiện tốt cho thu hoạch nông phẩm.
Ngoài ra, huyện Lạng Giang còn tổ chức vận động hiến đất. Do làm tốt
công tác tuyên truyền vận động đến cuối tháng 3/2014 đã có 7 xã trên địa bàn
58
triển khai, các hộ đã hiến được 62,256 m2 đất để làm đường giao thông nông
thôn, cứng hóa kênh mương và các công trình khác.
2.2.2. Hệ thống các công trình thủy lợi, thủy nông
Huyện Lạng Giang có hệ thống thủy lợi cơ bản phục vụ tốt cho sự
nghiệp phát triển nông nghiệp nói riêng và sự nghiệp phát triển KT-XH của
huyện nói chung (15/20 xã đạt tiêu chuẩn theo Bô Tiêu chí quốc gia đặt ra).
Toàn huyện có 111 trạm bơm, số trạm bơm còn sử dụng tốt là 65 trạm.
Hệ thống trạm bơm trên đã phục vụ tưới cho gần 20% diện tích canh tác cây
hàng năm. Huyện luôn chú trọng nâng cấp các trạm bơm để đảm bảo cung
cấp đủ nước cho nông dân sản xuất.
Hệ thống kênh tưới đã đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất trên
địa bàn toàn huyện. Bao gồm hệ thống kênh cấp 1: kênh giữa, kênh Tây, kênh
Yên Lại và kênh Bảo Sơn cùng với kênh cấp 2 thuộc hệ thống này đã đáp ứng
việc tưới tự chảy phục vụ đạt trên 80% diện tích trồng cây trên địa bàn. Được
sự quan tâm đầu tư của nhà nước đến năm 2010 đã cứng hóa 100% hệ thống
kênh tưới bằng vốn WB. Kênh cấp 3 và kênh nội đồng do cấp xã quản lý, với
tổng chiều dài 756,29 km, đã cứng hóa được 159,24 km đạt 21% trong đó chỉ
có 04 xã hoàn thành chỉ tiêu mà bộ tiêu chí đã đặt ra: Phi Mô 5,2/6,5 km
(80%), Đại Lâm 4,9/6,6 km (74,2%), Nghĩa Hưng 8,3/15,3 km (54,2%) và
Xương Lâm 11/21,4 km (51,4%).
Bên cạnh đó việc nâng cấp trạm bơm, kiên cố hóa kênh mương, Lạng
Giang đã tu bổ 03 tuyến đê quan trọng là: đê bối Bến Nghè và Bến Đồng –
Dương Đức, đê bối Na Chương – Nghĩa Hưng, đê bối Đồng Man xã Đại Lâm
với vốn kế hoạch là 1 tỷ đồng. Năm 2014, hỗ trợ đầu tư 1,485 tỷ đồng triển
khai tu bổ các đoạn đê, bờ vùng xung yếu tại 3 xã Dương Đức, Đại Lâm, Thái
59
Đào. Hiện nay, hệ thống đê điều và các cống dưới đê điều cơ bản đáp ứng tốt
cho công tác phòng chống lụt bão.
Do luôn chú trọng nâng cấp trạm bơm, kiên cố hóa kênh mương, cứng
hóa đường nội đồng, kênh tưới nên sản xuất nông nghiệp diễn ra thuận lợi
hơn. Người dân không phải gánh lúa từ ruộng lên các trục đường lớn như
trước đây, mà các xe cơ giới vận chuyển có thể đến từng trục đường nhỏ,
người dân thu hoạch đỡ vất vả hơn. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống thủy lợi,
thủy nông của toàn huyện chưa đạt tiêu chuẩn của tiêu chí thủy lợi trong bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
Bảng 2.2: Kết quả phát triển các công trình thủy lợi, thủy nông
Cải tạo sửa
Xây mới trạm
Kiên cố hóa
Kiên cố đê bao
chữa, nâng
bơm
kênh mƣơng
cấp trạm bơm
TT Năm
Chiều dài (Km)
Số lƣợng (cái)
Số lƣợng (cái)
Chiều dài (Km)
Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 1.725
Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 2.350
4 1
Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 825
85
Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 2.358
1 2006 2,7
2.000 0 7 0 1.250 72 1.886 2 2007 3,2
1.750 2.135 2 1 563 87 2.400 3 2008 3,1
1.000 3.790 6 2 724 78 1.900 4 2009 1,8
2.975 1.897 5 1 700 66 1.592 5 2010 3,9
2.560 1.924 8 1 809 93 2.565 6 2011 3,4
3.250 0 16 0 1.200 67 1.600 7 2012 4,1
1.500 0 11 0 900 78 2.015 8 2013 2
59 6 Tổng số 22,4 16.760 12.096 6.071 626 16.316
60
Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lạng Giang,
Bắc Giang năm 2013
2.2.3. Hệ thống các công trình cung cấp điện
Trong sự nghiệp phát triển KT-XH ở nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa và hải đảo, điện lực có vai trò quan trọng và là nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất người dân.
Lưới điện tại các xã phần lớn được xây dựng từ 20 đến 30 năm về trước và do các tổ chức quản lý điện tại các xã thành lập để quản lý kinh doanh buôn bán điện đến các hộ dân nông thôn. Do việc xây dựng tự phát, chắp vá và nguồn vốn hạn hẹp cho nên hầu hết không theo tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn. Quá trình vận hành, khai thác sử dụng lưới điện hầu như không được sửa chữa, nâng cấp, cho nên lưới điện xuống cấp, mất an toàn, chất lượng điện không bảo đảm. Có nơi điện áp cuối nguồn xuống dưới 100V, làm tổn thất điện năng của lưới điện hạ áp rất cao. Khi ngành điện tiếp nhận, rất ít xã có tỷ lệ tổn thất điện năng dưới 20%, thậm chí có nơi lên tới 40 đến 45%. Thực hiện chương trình, hầu hết các xã đã bàn giao hệ thống lưới điện cho ngành điện quản lý, bán điện trực tiếp đến hộ sử dụng và để ngành điện có điều kiện đầu tư, cải tạo nâng cấp các trạm biến áp, trục hạ thế, thay thế đồng hồ đo điện đồng nhất, đạt tiêu chuẩn. Việc thay thế các đường dây hạ thế, công tơ điện tơ điện không chỉ đảm bảo an toàn của ngành điện mà còn tránh được tình trạng công tơ chạy sai, các đường dây cung cấp điện có công suất phù hợp với sản xuất của người dân.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật điện tại 23 xã đã được ngành điện đầu tư nâng cấp, cải tạo theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm đạt yêu cầu của tiêu chí. Ngành điện đã khảo sát thay thế và cải tạo nâng cấp hệ thống cột, đường dây hạ thế. Tính đến nay, ngành điện bố trí khoảng 30 tỷ đồng đầu tư cải tạo, nâng cấp lưới điện hạ áp, thay thế hơn 27 nghìn công tơ các loại, gần 300 km đường dây và nâng công suất 22 trạm biến áp. Nhờ đẩy mạnh hoạt động đầu tư cải tạo, đến nay, tỷ lệ tổn thất điện năng trên địa bàn huyện giảm gần 11% so với trước khi tiếp nhận, chỉ còn 19,3%.
61
Đến thời điệm hiện tại, tỷ lệ hộ dùng điện thường xuyên, an toàn đạt 97,72%, trong đó có 18/20 xã đạt chỉ tiêu 95% cho khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Bảng 2.3: Kết quả xây dựng các công trình cung cấp điện
Tỷ lệ hộ sử dụng điện
Hệ thống điện đảm bảo yêu
thƣờng xuyên, an toàn từ
Xã
Đánh giá
cầu KT của ngành điện
(Đạt)
các nguồn điện (95%)
Yên Mỹ
Đạt
100%
Đạt
Tân Hưng
Chưa đạt
100%
Chưa đạt
Xương Lâm
Đạt
100%
Đạt
Phi Mô
Đạt
100%
Đạt
Hương Lạc
Đạt
99%
Đạt
Tân Thanh
Đạt
90%
Chưa đạt
Tân Dĩnh
Chưa đạt
91%
Chưa đạt
Thái Đào
Chưa đạt
97,8%
Chưa đạt
Đại Lâm
Đạt
98%
Đạt
Xuân Hương
Đạt
95%
Đạt
Mỹ Thái
Đạt
99%
Đạt
Dương Đức
Chưa đạt
98%
Chưa đạt
Tiên Lục
Đạt
100%
Đạt
Mỹ Hà
Đạt
100%
Đạt
Đào Mỹ
Chưa đạt
100%
Chưa đạt
Nghĩa Hưng
Đạt
96%
Đạt
Nghĩa Hòa
Đạt
97%
Đạt
An Hà
Đạt
100%
Đạt
Quang Thịnh
Đạt
97,6%
Đạt
Hương Sơn
Đạt
96%
Đạt
Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013
62
2.2.4. Hệ thống trường học
Bảng 2.4: Kết quả xây dựng hệ thống trƣờng học
TT
Chỉ tiêu
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
1 Mầm non
86
92
95
109
120
137
74
78
Phòng học kiên cố
52
67
70
85
102
121
36
45
-
Phòng học chưa kiên cố
34
25
25
24
18
16
28
33
-
Tỷ lệ % đạt kiên cố
61
73
74
78
85
88
49
58
-
Tiểu học
143
158
167
189
192
234
265
278
2
Phòng học kiên cố
103
123
139
165
171
215
247
261
-
Phòng học chưa kiên cố
28
24
21
19
18
17
40
35
-
Tỷ lệ % đạt kiên cố
83
87
89
92
93
94
72
78
-
Trung học cơ sở
120
135
146
168
184
196
205
223
3
Phòng học kiên cố
107
131
151
169
185
205
79
97
-
Phòng học chưa kiên cố
39
37
33
28
20
18
41
38
-
Tỷ lệ % đạt kiên cố
73
78
82
86
90
92
66
72
-
Trung học phổ thông
71
75
78
86
89
94
62
68
4
Phòng học kiên cố
58
63
68
79
83
89
46
52
-
Phòng học chưa kiên cố
13
12
10
7
6
5
16
16
-
Tỷ lệ % đạt kiên cố
81
84
87
92
93
95
73
76
-
Nguồn: Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013
Để hệ thống trường học có cơ sở hạ tầng khang trang, phục vụ cho phát
triển giáo dục, huyện đã có chủ trương tới tất cả các xã tiến hành kiên cố hóa
và xây mới hệ thống trường học. UBND huyện đã chỉ đạo nhiều giải pháp
sáng tạo, thiết thực nhằm giúp cho các xã, thị trấn tháo gỡ khó khăn trong quá
trình thực hiện, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch; đã có 100% số phòng
học xây mới để xóa phòng học tạm các loại, chất lượng các công trình đảm
63
bảo. Đã huy động 53.766 triệu đồng để đầu tư xây dựng các công trình, trong
đó vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách tỉnh hỗ trợ là 23.823 triệu đồng;
ngân sách huyện là 16.701 triệu đồng; ngân sách cấp xã là 8.954 triệu đồng và
huy động từ các nguồn khác là 3.788 triệu đồng.
Đến nay đã có 102 công trình với 392 phòng được khởi công xây dựng,
số phòng xây mới các loại là 248 phòng. Có 96 công trình với 362 phòng đã
cơ bản hoàn thành, 06 công trình với 30 phòng đang xây dựng. Kết quả trên
đã góp phần nâng tỷ lệ phòng học kiên cố trong toàn huyện đạt 85,2%. Nhờ
thực hiện tốt công tác kiên cố hóa trường lớp học, xóa phòng học tạm, học
nhờ, tính đến hiện nay toàn huyện đã có 58 trường học đạt chuẩn quốc gia
(đạt 77,3% tổng số trường học trên địa bàn), trong đó có 14 trường Mầm non,
27 trường tiểu học, 14 trường THCS, 3 trường PTTH.
2.2.5. Y tế
Trong 19 tiêu chí xây dựng NTM thì tiêu chí 15 (tiêu chí về y tế) giữ vai
trò hết sức quan trọng, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống
người dân mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Xác định đây là một
trong những tiêu chí cơ bản, góp phần chăm sóc tốt hơn sức khỏe ban đầu cho
nhân dân, Lạng Giang đã dành nhiều ưu tiên cho phát triển y tế nông thôn.
Bảng 2.5: Kết quả xây dựng và phát triển các công trình y tế
TT
Chỉ tiêu
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
1
Tỷ lệ người dân tham
18
21
24
25
27
31
33
34
gia các hình
thức
BHYT (%)
Tỷ lệ y tế xã đạt
95
97
100
100
100
100
100
100
2
chuẩn quốc gia (%)
Nguồn: Phòng Y tế huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013
64
Để khuyến khích xây dựng mô hình chuẩn Quốc gia về y tế, huyện hỗ
trợ mỗi xã, thị trấn 30 triệu đồng. Riêng xã Xuân Hương do điều kiện kinh tế
khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất huyện nên được hỗ trợ 60 triệu đồng; Thị
trấn Kép được hỗ trợ 230 triệu đồng xây dựng Trạm y tế. Cùng với vốn đầu tư
của huyện và ngân sách xã, công tác tuyên truyền, vận động tham gia đóng
góp của các tổ chức xã hội và nhân dân địa phương được chú trọng, nâng tổng
kinh phí thực hiện chương trình trong 3 năm qua lên 6,516 tỷ đồng. Với
nguồn vốn này, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị các Trạm y tế được tăng cường
đầu tư. Ngành Y tế đã đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung giường Inox, tủ thuốc,
máy khí dung, nồi hấp tiệt khuẩn, bộ dụng cụ thực hiện công tác Dân số
KKHGĐ. Đặc biệt, các trạm y tế Tân Hưng, Dĩnh Trì, Phi Mô, Tiên Lục được
trang bị máy xét nghiệm... Hiện các trạm y tế đã có đủ phòng chức năng và
các công trình phụ trợ phục vụ công tác khám chữa bệnh. Chất lượng cán bộ y
tế cũng được chú trọng nâng lên. Đến nay, tất cả cán bộ y tế xã, thôn, bản
được tập huấn, đào tạo và đào tạo lại, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ được
nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc. Cùng với sự phát triển của các
cơ sở y tế hiện đại, phương pháp khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng
được chú trọng, các xã đã mời những lương y có kinh nghiệm ở địa phương
tham gia khám chữa bệnh tại các trạm y tế, mở rộng vườn thuốc nam với
nhiều cây thuốc dân gian quý.
Do có sự tích cực chỉ đạo của các cấp chính quyền và đầu tư đúng mức,
công tác xây dựng Chuẩn Quốc gia về y tế của Lạng Giang đã thu được
những kết quả đáng khích lệ. Sau 3 năm triển khai thực hiện, tới năm 2008 tất
cả xã, thị trấn của huyện đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Qua
đó, các địa phương thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hoá lĩnh vực y tế,
huy động được cộng đồng và các tổ chức xã hội tham gia tích cực vào lĩnh
vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân; Hoàn thành các chương trình mục tiêu y tế
65
Quốc gia, đặc biệt chương trình tiêm chủng mở rộng. Các chỉ tiêu tiêm chủng
cho trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ trẻ uống Vitamin A ở trẻ dưới 2 tuổi tăng lên, do đó,
tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ giảm đáng kể, đặc biệt trong những năm gần đây không
có trẻ mắc bệnh uốn ván sơ sinh. Tỷ lệ bệnh nhân được chẩn đoán, điều trị tại
các trạm y tế đạt trên 80%. Trước khi triển khai Đề án xây dựng xã, thị trấn
đạt chuẩn Quốc gia về y tế, huyện có 14 Trạm y tế có bác sỹ, 16 trạm có cán
bộ y học cổ truyền, 2 trạm có dược tá. Đến nay, toàn huyện đã có 27 bác sỹ
công tác tại các Trạm Y tế, 10 cán bộ đang theo học chuyên tu Đại học, 24/24
Trạm y tế có cán bộ y học cổ truyền. Bên cạnh đó, huyện đã tổ chức tập huấn
cho các Trạm trưởng y tế kiến thức quản lý tài chính, xây dựng kế hoạch công
tác tháng, quý, năm. Vì vậy, các Trạm y tế cơ bản bảo đảm kinh phí chi hoạt
động thường xuyên từ 8-10 triệu đồng/năm; Nhất là bảo đảm người có BHYT
được khám bệnh, cấp thuốc.
2.2.6. Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao, thông tin liên
lạc
* Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao
Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao tiếp tục được quan tâm đầu tư
nâng cấp, cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao, nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân. Cụ thể:
Huyện đã đầu tư trên 12 tỷ đồng, huy động vốn được hơn 8 tỷ đồng để
xây dựng thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở, những đơn vị làm tốt công tác
huy động vốn và xây dựng văn hóa là: Tân Dĩnh, Quang Thịnh... Đến nay
100% các xã, thị trấn và các thôn, khu phố trên địa bàn đều có nhà văn hóa.
Ngoài ra, Ban quản lý dự án các huyện cũng rất chú trọng đến việc những nhà
văn hóa ở các xã, thị trấn và các thôn, khu phố thực sự phát huy hiệu quả,
mang lại giá trị văn hóa cho nhân dân... Nên ngay sau khi xây dựng, cải tạo,
66
huyện đã chỉ đạo việc sinh hoạt dân cư thường xuyên. Đây cũng là một địa
điểm thích hợp để tổ chức các lớp học về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi... cho
các hộ dân trong huyện. Tuy qua khảo sát mới có 6/20 xã đạt tiêu chuẩn nhà
văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch
nhưng với sự chỉ đạo, nỗ lực của từng xã đã góp phần nâng cao đời sống cho
các hộ dân cư ở khu vực trung du miền núi này.
Bảng 2.6: Kết quả xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao
TT
Chỉ tiêu
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
1 Nhà văn hóa và khu thể
thao đạt chuẩn của Bộ
VH-TT-DL (%)
Tỷ lệ xã có nhà văn hóa
95
100
97
100
100
100
100
100
-
Kiên cố
80
88
92
100
85
100
100
100
-
Chưa kiên cố
20
12
8
0
15
0
0
0
-
Tỷ lệ thôn có nhà văn
54
62
66
67
71
72
77
56
-
hóa, sinh hoạt thôn (%)
40
47
50
54
60
65
70
45
- Kiên cố
60
Chưa kiên cố
53
50
46
40
35
30
55
-
Tỷ lệ xã có đài truyền
94
100
96
100
100
100
100
100
-
thanh (%)
Tỷ lệ xã được phủ sóng
100
100
100
100
100
100
100
100
-
truyền hình (%)
Tỷ lệ hộ gia đình có ti vi (%)
95
95
95
96
97
97
98
98
-
Nguồn: Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013
Bên cạnh đó, hệ thống đài truyền thanh được quan tâm đầu tư, nâng
cấp. Công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều tiến bộ. UBND huyện đã đầu
tư trên 750 triệu đồng đầu tư mua sắm trang thiết bị kỹ thuật và nâng cấp hệ
67
thống đường dây truyền thanh các xã, thị trấn; 100% các thôn, khu phố đến
nay đều có tăng âm, loa đài để tuyên truyền... qua đó góp phần từng bước đáp
ứng nhu cầu thông tin tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đạt được nhiều kết quả,
nhiều di tích đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp như: cụm di tích
Đình – Chùa xã Tiên Lục, Đình Phù Lão xã Đào Mỹ, Đình – Đền – Chùa Chu
Nguyên thị trấn Vôi, Chùa Quang Minh xã Nghĩa Hòa... góp phần khơi dậy
niềm tự hào và ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân.
* Hiện đại hóa mạng lưới bưu chính viễn thông
Bảng 2.7: Kết quả xây dựng mạng lƣới bƣu chính viễn thông
TT
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
2012
2013
1 Điểm bưu điện, văn hóa xã
22
22
23
23
23
2 Điểm phục vụ bưu chính viễn thông 22 22 23 23 23
Có Internet đến thôn
3
chưa
chưa
chưa chưa chưa
Nguồn: Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013
Hiện nay huyện có 2 đài viễn thông tại thị trấn Vôi, Kép, các xã đều có
điểm văn hóa xã. Để điểm bưu điện văn hóa xã đi vào hoạt động hiệu quả,
ngoài việc xây dựng nhà và các công trình phụ trợ, tỉnh đã trang bị cho mỗi
điểm những thiết bị cần thiết như: Bàn quây giao dịch, cabin đàm thoại, tủ
đựng sách báo, bàn ghế và các đầu sách, báo, nhiều điểm đến nay đã được
trang bị internet để phục vụ nhân dân sử dụng các dịch vụ bưu điện và tìm
hiểu kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp, pháp luật miễn phí để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của nhân dân về các dịch vụ bưu chính viễn thông, cung cấp
thông tin về pháp luật, kinh tế, văn hóa... góp phần tuyên truyền đường lối của
68
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu của
ngành bưu điện còn có sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ của lãnh đạo tỉnh
ủy, HĐND, UBND tỉnh, các Ban, Ngành, Chính quyền các cấp ở địa phương
như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp và Tỉnh đoàn TNCS Hồ Chí Minh
đã xây dựng Chương trình liên ngành về việc phối hợp triển khai phong trào
quyên góp, luân chuyển sách từ tủ sách pháp luật của xã và các loại sách báo
thiếu nhi đến điểm bưu điện văn hóa xã để giúp nhân dân và thiếu nhi nông
thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn có sách đọc miễn phí, góp phần nâng
cao dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho thiếu nhi, đồng thời giáo dục
thanh thiếu niên và nhi đồng tinh thần tiết kiệm, tương thân tương ái với các
bạn vùng sâu, vùng xa, các bạn có hoàn cảnh khó khăn.
Có thể khẳng định hiệu quả từ các hoạt động của mô hình điểm bưu
điện văn hóa không những là nơi cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông
và thực hiện một số hoạt động văn hoá nhằm phục vụ nhân dân mà từ mô hình
này đã góp phần tham gia tích cực trong phong trào "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá" theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đồng thời
đóng góp tích trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở mỗi địa phương.
Như vậy, về yêu cầu có điểm phục vụ bưu chính viễn thông thì cơ bản tất cả
các xã đều đạt so với bộ tiêu chí nông thôn mới đặt ra.
2.2.7. Hệ thống cung cấp nước sạch
Trong tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nội dung nước sạch quy định:
Tỷ lệ hộ sử dụng nước vệ sinh đạt từ 85% trở lên, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng
nước sạch theo quy chuẩn quốc gia đạt từ 50% trở lên. Nước hợp vệ sinh là
nước sử dụng trực tiếp hoặc sau khi lọc đạt các yêu cầu chất lượng như:
không màu, không mùi, không vị lạ, không chứa thành phần có thể gây ảnh
hưởng đến sức khỏe con người, có thể dùng để ăn uống sau khi đun sôi. Nước
69
sạch theo quy chuẩn quốc gia là nước đáp ứng các chỉ tiêu theo quy định của
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt QCVN
02:2009/BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 17/6/2009.
Tính đến hết năm 2013, Lạng Giang có 66% số hộ vùng nông thôn
được sử dụng nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn 02 của Bộ Y tế về
số hộ sử dụng nước sạch thì chỉ đạt 27%. Phần lớn dân cư nông thôn hiện nay
sử dụng nước sinh hoạt từ công trình cấp nước nhỏ lẻ (giếng khoan, giếng
đào), khai thác mạch nước ngầm tầng nông, chất lượng nước không ổn định,
thường thay đổi theo mùa, thiếu nước vào mùa nắng hạn. Đặc biệt là tình
trạng ô nhiễm môi trường trong khu dân cư nông thôn do các hoạt động sản
xuất, chăn nuôi đã làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nước ngầm. Bên
cạnh đó, hiện nay phát triển nông nghiệp, nông thôn đang phát sinh nhiều vấn
đề như: sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình; phát
triển kinh tế nhưng chưa quan tâm tới nhiệm vụ bảo vệ môi trường dẫn tới suy
giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp, gây ô nhiễm môi trường đất, nước.
2.2.8. Hệ thống chợ nông thôn
Bảng 2.8: Kết quả phát triển hạ tầng mạng lƣới chợ nông thôn
TT
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
2012
2013
Chợ được xây mới, cải tạo (số chợ)
0
0
1
1
1
1
Chợ kiên cố (%)
2 31 47 52 56 28
Chợ tạm (%)
3
69
72
53 48 44
Tỷ lệ xã đã có chợ (%)
4
52
43
57 62 65
Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang năm 2014
Chợ là tiêu chí số 7 trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn
mới. Chợ được công nhận là chợ nông thôn mới khi đạt tiêu chuẩn về quy
hoạch và xây dựng của Bộ xây dựng. Còn theo Thông tư 54 của Bộ Nông
70
nghiệp và Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới, chợ nông thôn là công trình phục vụ nhu cầu thiết yếu
hàng này, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ ở
nông thôn. Ngày nay, bên cạnh các loại hình chợ truyền thống còn xuất hiện
nhiều loại hình chợ mới như chợ đầu mối, chợ chuyên doanh, chợ ẩm thực…
Sự phát triển đa dạng cả về quy mô và hình thức của hệ thống chợ đã góp
phần quan trọng vào việc thúc đẩy thương mại. Do đó, việc xây dựng chợ là
nhu cầu cần thiết, tạo thuận lợi trong quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp
mọi người giao thương, phát triển kinh tế, hạn chế việc họp chợ trái phép gây
mất trật tự giao thông, ô nhiễm môi trường…
Toàn huyện hiện có 13 chợ và 5.400 hộ kinh doanh thương mại. Theo
quy chuẩn xây dựng chợ nông thôn mới do Bộ Xây dựng ban hành thì chợ
quy hoạch đạt tiêu chí nông thôn mới phải đảm bảo: vị trí quy hoạch chợ
thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, đi lại của dân cư đường bộ, đường
thủy; bố trí gần khu dân cư và trung tâm xã, kết hợp hoạt động chợ với các
dịch vụ thương mại, văn hóa khác có liên quan, hỗ trợ cho nhau. Tối thiểu
mỗi xã phải có 1 chợ; diện tích đất xây dựng chợ phải từ 3.000m2 trở lên, đối
với khu vực miền núi tối thiểu phải đạt 1.500m2; diện tích xây dựng nhà chợ
chính tối đa không quá 40% diện tích chợ; diện tích mua bán ngoài trời tối
thiểu là 25%, diện tích đường giao thông nội bộ dưới 25% và diện tích sân,
cây xanh ít nhất là 10%... Việc đầu tư xây dựng công trình chợ phải phù hợp
với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, quy hoạch ngành, địa phương...
Nếu đối chiếu với quy chuẩn trên thì có thể khẳng định cơ bản các chợ
trên địa bàn huyện không đạt tiêu chuẩn chợ nông thôn mới. Bở i các chợ ở
các vùng nông thôn, miền núi hiê ̣n nay chủ yếu là chợ tự phát, chợ cóc, chợ
tạm và được xây dựng đã lâu, chất lượng đang xuống cấp nghiêm trọng.
71
Theo tổng hợp, đánh giá thực trạng nông thôn mới hiện nay toàn huyện
có 04/20 (đạt 30.76%) xã có chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng là các xã: Tân
Dĩnh, Thái Đào, Tiên Lục, An Hà. Vậy còn 16 xã phải tiếp tục xây dựng, cải
tạo hệ thống chợ mới đạt tiêu chuẩn trong bộ tiêu chí nông thôn mới. Theo
tính toán của Sở Công thương, để hoàn thiện một chợ đạt tiêu chí nông thôn
mới cần ít nhất từ 4-5 tỷ đồng. Như vậy để hoàn thành chợ sẽ cần sự chung
tay, góp sức rất lớn của người dân.
2.3. Đánh giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
của huyện đáp ứng yêu cầu phát triển nông thôn mới
2.3.1. Những thành tựu cơ bản
- Hệ thống điện đến các xã được đầu tư, mở rộng và đạt được nhiều kết
quả đáng khích lệ. Đây cũng là một nội dung trong những nội dung quan
trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội
nhằm không ngừng nâng cao điều kiện sống, phát triển sản xuất và cung cấp
dịch vụ tốt hơn cho nông thôn.
- Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, hệ thống giao
thông nông thôn không ngừng được phát triển về cả số lượng và chất lượng.
Đây là tiền đề rất quan trọng để huyện thu hút các nhà đầu tư vào các khu
công nghiệp, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động và giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác.
- Hệ thống kênh mương được xây dựng, cứng hóa giúp người dân thuận
lợi hơn rất nhiều trong việc tưới tiêu, dân nước trong các vụ mùa. Hệ thống đê
điều cũng được đảm bảo để người dân yên tâm lao động sản xuất.
- Hệ thống trường học, giáo dục mầm non được mở rộng. Một số công
trình đã được xây dựng, cải tạo đưa vào sử dụng phục vụ cho học tập của học
72
sinh đã giúp các con em nông dân có điều kiện tiếp cận với các phương tiện,
thiết bị dạy học đầy đủ, hiện đại, tạo hứng khởi trong học tập.
- Hệ thống mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao ở các xã đã có sự
phát triển, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thẩn của người dân.
Ngoài thời gian lao động ruộng đồng vất vả, giờ đây người dân có thể tham
gia các hoạt động văn hóa xã hội trong thôn, nâng cao dân trí, giúp người dân
tiếp cận gần hơn với các thông tin trong nước và thế giới, tạo không khí vui
tươi, thoải mái, nâng cao sức khỏe cho người dân.
- Các khu chợ được xây mới, cải tạo cùng với hệ thống đường giao
thông được kiên cố hóa tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, buôn bán. Việc
quy hoạch chợ giúp giảm ùn tắc giao thông, tạo cảnh quan môi trường xanh
sạch đẹp.
2.3.2. Những hạn chế của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo
yêu cầu của mô hình nông thôn mới
Thứ nhất, hệ thống giao thông nông thôn chưa đạt yêu cầu NTM, đặc
biệt với chỉ tiêu 50% chiều dài đã cứng hóa đường trục chính nội đồng, xe cơ
giới đi lại thuận tiện thì một số xã còn chưa thực hiện được nội dung này: Yên
Mỹ, Xương Lâm, Phi Mô, Hương Lạc, Tân Dĩnh...
Thứ hai, dù đã có nhiều cố gắng để cải tạo, nâng cấp nhằm bảo đảm an
toàn vận hành hệ thống lưới điện nông thôn nhưng thực trạng lưới điện ở
nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Hệ thống điện hạ
thế là do dân góp tiền xây dựng, do kinh phí hạn hẹp, gom góp của người dân
lại nên hệ thống hạ thế được xây dựng với những trang thiết bị không đủ tiêu
chuẩn và tiến hành xây dựng cũng không đúng quy phạm. Do xây dựng không
đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, chắp vá nên hệ thống điện nông thôn gây tổn thất điện
năng lớn làm tăng giá điện.
73
Ví dụ như xã Đại Lâm (Lạng Giang), từ khi tiếp nhận (tháng 7-2009)
đến nay, ngành điện đã hai lần cải tạo tối thiểu, sửa chữa lớn, thay thế hơn
30% hệ thống dây dẫn lõi trần bằng dây bọc, hơn 1,5 nghìn công tơ các loại…
với tổng kinh phí hơn hai tỷ đồng. Thế nhưng chất lượng điện tại đây vẫn
chưa đồng đều, vào giờ cao điểm, tại khu vực cuối nguồn, tình trạng quá tải
vẫn xảy ra thường xuyên.
Thứ ba, mặc dù giáo dục đã được quan tâm đầu tư nhưng mới có 5 xã
đạt tỷ lệ trường học các cấp Mầm non, Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học cơ sở
có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia còn lại 11 xã mới đạt gần mức tiêu chí
đưa ra, đạt 66,7%: Xương Lâm, Tân Thanh, Thái Đào, Đại Lâm, Dương Đức,
Mỹ Hà, Đào Mỹ, Nghĩa Hưng, Nghĩa Hòa, An Hà, Quang Thịnh.
Thứ tư, việc triển khai các tiêu chí y tế còn gặp không ít khó khăn. Đội
ngũ cán bộ y tế tại trạm còn thiếu, nhất là bác sỹ và cán bộ y học cổ truyền,
dược tá. Năng lực chuyên môn để thực hiện các dịch vụ kỹ thuật theo phân
tuyến đối với đội ngũ này cũng còn hạn chế. Về nguồn lực đầu tư, các xã
chưa đạt chuẩn đều là những xã khó khăn, không có nguồn tài trợ nên cơ sở
hạ tầng chưa được xây dựng. Đối với các xã đã đạt chuẩn lại thiếu kinh phí
duy tu, bảo dưỡng nên một số hạng mục xuống cấp. Về trang thiết bị y tế thiết
yếu theo danh mục quy định của Bộ Y tế cũng còn thiếu, chưa có nguồn kinh
phí để mua sắm bổ sung…
Thứ năm, ở nhiều địa phương khi hoàn thành xây dựng nhà văn hóa
khang trang nhưng lại bị bỏ hoang, dân cư không ai đến gây lãng phí nguồn
lực.
Thứ sáu, về bưu chính viễn thông thực trạng gần đây cho thấy do sự
phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, mạng thông tin di động, cố định, một
số vùng khó khăn được Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ bưu chính viễn thông
74
công ích, do đó hoạt động của các đã có những thay đổi nhanh, số lượng
người đến sử dụng dịch vụ bưu chính, viễn thông và các dịch vụ văn hoá
giảm, chất lượng nhiều điểm bưu điện văn hóa xã đã xuống cấp.
Yêu cầu có Internet đến thôn còn gây nhiều tranh luận. Có ý kiến cho
rằng có internet đến thôn có nghĩa là thôn nào cũng phải có điểm truy cập
internet. Tuy nhiên thì theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT – Hướng
dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới thì: “Xã có internet về
đến thôn được hiểu là xã đã có điểm cung cấp dịch vụ truy cập Internet”. Là
một huyện miền trung du miền núi, người dân chủ yếu là nghề nông có ít nhu
cầu truy cập internet nên mặc dù được sự quan tâm của chính quyền tỉnh,
huyện nhưng chỉ có 4/20 xã (đạt 20%) có điểm cung cấp dịch vụ internet đến
thôn đó là: Xuân Hương, Nghĩa Hưng, Nghĩa Hòa, Quang Thịnh.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Do năng lực quản lý của cán bộ xã và nhận thức của người nông dân
hạn chế
Xây dựng NTM cũng như quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng không
có nghĩa là tập trung nguồn vốn, nguồn lực để xây dựng CSHT để thay đổi
ngay diện mạo của nông thôn. Một trong những nhân tố quan trọng để có thể
tổ chức sản xuất tốt là nhân tố con người. Nhân tố con người ở đây bao gồm
hai đối tượng chính là cán bộ quản lý và người nông dân. Đây cũng là nhân tố
có vai trò quan trọng trong xây dựng thành công NTM. Chính vì vậy, nhận
thức của người dân và năng lực của cán bộ thấp chính là nguyên nhân gây hạn
chế trong xây dựng NTM. Một số ý kiến cho rằng vấn đề khó khăn nhất khi
xây dựng NTM chính là phải nâng cao trình độ nhận thức của con người bao
gồm cả người dân và cán bộ quản lý.
75
Năng lực của cán bộ quản lý cũng như cán bộ xã, thôn là nhân tố hết
sức quan trọng. Bởi những cán bộ này là những người trực tiếp quản lý các dự
án, công trình, trực tiếp tiếp xúc với hoạt động sản xuất của nhân dân. Trước
tiên họ phải là những người hiểu biết về mô hình NTM, hình dung được NTM
là gì. Tuy Lạng Giang đã mở nhiều lớp tập huấn về nghiệp vụ xây dựng NTM
cho các xã và các cán bộ, nhân dân xây dựng NTM nhưng hiệu quả các lớp
chưa cao. Phần lớn cán bộ còn lúng túng trong việc giải thích, tuyên truyền
cho người dân về NTM. Trong khi việc xây dựng NTM cũng như việc tạo
mối liên kết chặt chẽ giữa người dân và các dự án cần đội ngũ cán bộ có năng
lực thì năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ xã lại hạn chế. Điều này gây khó
khăn trong quá trình vận động người dân tham gia vào các dự án.
Xây dựng NTM mà đặc biệt là xây dựng KCHT cần thực hiện nhiều
chương trình, dự án trong một thời gian ngắn. Để có thể đảm bảo công tác
triển khai theo đúng tiến độ thì người quản lý cần có năng lực, chuyên môn để
lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch cho tốt.
- Do khó khăn trong huy động vốn
Xây dựng NTM không chỉ dựa vào nguồn ngân sách nhà nước. Nguồn
ngân sách từ chính địa phương xây dựng NTM chiếm 60%, ngân sách nhà
nước chỉ chiếm 40%. Ngoài ngân sách huy động từ doanh nghiệp, từ ngân
hàng tín dụng, từ xã thì nguồn huy động trong nhân dân là rất quan trọng. Đối
với việc huy động vốn cho các CSHT là phục vụ chính lợi ích của người dân
từng thôn, từng xóm. Vì thế huy động nguồn vốn, nguồn lực trong nhân dân
cũng chính là khai thác nguồn lực tại chỗ xây dựng NTM. Ví dụ như xã Tân
Dĩnh – xã đi đầu trong phong trào xây dựng NTM trong 20 xã khảo sát, tổng
kinh phí cần thiết để hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
NTM khoảng 126 tỷ đồng trong đó vốn ngân sách chiếm 40%, vốn đối ứng
76
chiếm 30%, vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác
chiếm 20% và vốn huy động đóng góp của nhân dân là 10%; tỷ lệ 10% mà
dân phải góp là 12,6 tỷ đồng. Số tiền này nếu chia đều cho số lao động của xã
thì mỗi lao động phải góp gần 12 triệu đồng trong vòng 8 năm. Đây thực sự là
một số tiền không nhỏ đối với người nông dân lam lũ ở đây.
Nhiều địa phương, nhân dân góp vốn bằng cách hiến đất để làm đường,
trường, trạm. Đó cũng được công nhân là hình thức đóng góp tiền của vào xây
dựng NTM. Thế nhưng, không phải ai có tinh thần cũng đều được toại nguyện
góp theo kiểu đóng góp này. Bởi lẽ, chỉ những mảnh vườn, khoảng sân nằm
sát công trình thì mới có cơ hội hiến đất. Còn lại, dù có đất và có cả ý nguyện
hiến đất nhưng đất không nằm trong vị trí thuận lợi thì có muốn cũng không
thực hiện được.
77
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾT CẤU
HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
GIAI ĐOẠN 2010 – 2020
3.1. Quan điểm về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới của huyện Lạng Giang,
tỉnh Bắc Giang
3.1.1. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH có tầm quan trọng đặc biệt
trong quá trình xây dựng NTM
Chúng ta biết rằng, một trong những động lực cơ bản và chủ yếu của sự
phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn chính là năng lực chuyển đổi của kinh tế
các hộ nông dân. Phát triển hạ tầng có một ý nghĩa trọng đại là tạo nền tảng,
tiền đề cho việc tăng năng lực chuyển đổi của kinh tế hộ gia đình ở nông thôn.
Tuy nhiên, nếu huy động quá mức các nguồn lực trong dân, lại làm kiệt quệ đi
nội lực của các hộ gia đình, do đó làm mất đi cái cơ sở quyết định cho sự
chuyển đổi kinh tế của các đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Khi đó, các hạ
tầng được tạo ra lại đồng thời làm mất đi cái động lực quyết định của sự
chuyển đổi. Ở đây, sự vận động của các yếu tố phát triển kinh tế rơi vào trạng
thái luẩn quẩn.
Đầu tư phát triển hạ tầng phải kết hợp được giữa mục tiêu trước mắt và
mục tiêu dài hạn. Hạ tầng ở nông thôn là những công trình xây dựng lớn, có
mức đầu tư cao, nói chung là lĩnh vực tập trung lớn của cải, mặt khác, là
những công trình có thời gian sử dụng dài và các công trình hạ tầng có mối
liên hệ chặt chẽ trong một quần thể, đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt. Để đáp
78
ứng được những nhu cầu trước mắt và tránh được trạng thái nhanh bị lạc hậu,
phá đi làm lại, gây tốn kém, kết hợp được nhiều công năng của các công trình
hạ tầng, nhờ đó tiết kiệm tối đa và đạt hiệu quả cao, cần có quy hoạch tổng
thể và xây dựng theo những quy chuẩn nhà nước. Những dự án xây dựng hạ
tầng cần được tính toán kỹ lưỡng về các mặt kinh tế, tài chính, kỹ thuật và
cảnh quan văn hóa. Với sự kết hợp các mục tiêu trên cơ sở tính toán các mặt
sẽ loại bỏ tối đa tính phiêu lưu, hình thức trong xây dựng hạ tầng ở nông thôn
vừa qua.
Là một lĩnh vực đầu tư có nội dung kinh tế, phát triển hạ tầng ở nông
thôn phải tuân theo các quy luật kinh tế và quản lý sự phát triển hạ tầng cần
được thực hiện theo nguyên tắc quản lý kinh tế.
3.1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn là nhân
tố thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế
Phát triển hạ tầng trong nông thôn làm thay đổi điều kiện vật chất trong
sinh hoạt kinh tế, xã hội ở nông thôn có quan hệ với tiền đề chung của sự phát
triển tổng thể. Sự phát triển của nền kinh tế và xã hội Việt Nam chính là
chuyển đổi được nền nông nghiệp và xã hội nông thôn chậm phát triển. Phát
triển hạ tầng ở nông thôn, chính là góp một phần quyết định cho sự chuyển
đổi này, bởi vậy, phát triển hạ tầng nông thôn trong khi làm thay đổi điều kiện
vật chất ở nông thôn, thì đồng thời nó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung
của toàn nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Mặt khác, phát triển hạ tầng ở nông
thôn, không phải chị phục vụ trong một khuôn khổ hạn hẹp của sinh hoạt kinh
tế, xã hội ở nông thôn, mà còn là nền tảng cho sự phát triển tổng thể. Điện,
đường… xây dựng ở nông thôn, cố nhiên không chỉ dùng cho những người
nông dân, mà cho toàn xã hội. Nó tham gia hình thành một mạng lưới hạ tầng
79
KT-XH thích ứng với tiến trình kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp
hóa, và nói chung tiến trình xã hội hóa nến kinh tế xã hội.
Phát triển hạ tầng ở nông thôn chính là nhằm phân bố rộng khắp thành
tựu của sự phát triển, nhờ đó làm thay đổi chất lượng sống của 80% dân cư cả
nước đang sống ở nông thôn. Sự thay đổi này có một tầm quan trọng lớn đối
với sự thay đổi trong chất lượng người lao động của nền kinh tế. Có thể nói,
phát triển hạ tầng ở nông thôn, tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục, văn
hóa… là một đầu tư dài hạn, liên quan đến sự thay đổi trong chất lượng của
lực lượng sản xuất xã hội, chuẩn bị một tiền đề quyết định đối với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Từ đó có thể đúc kết lại, phát triển hạ tầng ở nông thôn không phải là
trách nhiệm chỉ của riêng người nông dân, mà là vấn đề chung của toàn nền
kinh tế, toàn xã hội.
3.1.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH là nhiệm vụ của cả
Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư
Phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn chính là một sự thay
đổi sâu sắc trong nông thôn mang tính kinh tế - nhân văn. Nó đụng chạm đến
lợi ích của rất nhiều bên tham dự và diễn ra trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường. Sự phát triển này, như trên đã thấy, là mang tính toàn cục của sự phát
triển, mang tính toàn xã hội, bởi vậy, quá trình phát triển hạ tầng ở nông thôn
nay phải được đặt trong chiến lược và chính sách phát triển của nhà nước và
được nhà nước ở các cấp tham gia quản lý. Đồng thời, sự phát triển này còn
diễn ra ở từng cộng đồng thôn xóm, vì vậy, trong một chừng mực nhất định
một số hạ tầng là thuộc quyền sở hữu và sử dụng trực tiếp cho cộng đồng thôn
xóm, vì thế các cộng đồng thôn xóm mang tính tự quản sẽ là đồng chủ quản
đối với các hạ tầng ở cấp cộng đồng thôn xóm, cùng nhà nước tham gia quản
80
lý sử dụng các cơ sở hạ tầng trong phạm vi thôn xã. Vì là những công trình
mang tính chất công cộng có tính xã hội hóa cao, vì thế, sự phát triển của
chúng được đặt trong một chiến lược, chính sách phát triển hạ tầng có thể do
nhiều chủ thể thực hiện nhưng chủ thể quản lý chung phải là nhà nước. Xét
cho cùng, việc quản lý sự phát triển nói chung và đối với hạ tầng ở nông thôn
nói riêng, là một chức năng cơ bản và chủ yếu của nhà nước. Trong điều kiện
của kinh tế thị trường, thì việc đầu tư phát triển hạ tầng, là một hoạt động kinh
tế, tất yếu phải được đặt trong cơ chế thị trường, tuần thủ các nguyên tắc thị
trường. Chính trong cơ chế thị trường, KCHT KT-XH ở nông thôn được hình
thành, phát triển và được tái sản xuất mở rộng, có thể nói, hạ tầng ở nông thôn
được phát triển trong sự tác động của ba thể chế: thể chế nhà nước, thể chế thị
trường và thể chế cộng đồng, trong đó thể chế thị trường là cơ sở.
Lĩnh vực phát triển hạ tầng là lĩnh vực quan hệ mật thiết đến từng cá
nhân con người, đến cộng đồng và xã hội. Ở đây, người dân là trung tâm. Họ
là người được hưởng thụ trực tiếp kết quả của sự phát triển hạ tầng, đồng thời
họ lại là người tham gia đóng góp và sử dụng những hạ tầng, bởi vậy không ở
đâu, quan điểm dân là gốc lại hệ trọng trực tiếp như trong lĩnh vực phát triển
hạ tầng. Trong sự phát triển hạ tầng, các dự án phát triển dân phải được tham
gia bàn bạc, kiểm tra và đánh giá kết quả xây dựng. Cố nhiên trong nền kinh
tế thị trường, thì chính cơ chế thị trường là cái chi phối đến sự phát triển hạ
tầng, vì xét cho cùng thì phát triển hạ tầng là lĩnh vực đầu tư hình thành
những cơ sở vật chất chung trong quan hệ với việc cung cấp hàng hóa và dịch
vụ. Ở đây người dân với tính cách là người mua hàng hóa, sẽ là người thông
quan cơ chế thị trường quyết định đến việc phát triển hạ tầng. Đồng thời trong
điều kiện hiện nay, thực hiện quyền dân chủ, theo nguyên tắc: dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra vẫn là cần thiết.
81
Quan điểm dân là gốc, nhà nước quản lý, cộng đồng hỗ trợ và cơ chế
thị trường là cơ sở đòi hỏi mọi dự án phát triển hạ tầng ở nông thôn phải được
bốn phía tham gia quyết định. Điều này phù hợp với trạng thái phát triển hiện
nay trong việc tạo những cơ sở vững chắc cho tiến trình phát triển hạ tầng
trong nông thôn đồng thời nó là cái loại trừ chủ nghĩa hình thức, phiêu lưu và
chủ nghĩa thành tích.
3.2. Định hƣớng phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn mới huyện
Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đến 2020
Trên cơ sở thực trạng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đáp
ứng mô hình NTM trong thời gian qua, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện
Lạng Giang đã xây dựng định hướng phát triển hạ tầng KT-XH NTM như sau:
Bảng 3.1: Định hƣớng phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn
mới đến năm 2020
Chỉ tiêu Năm 2020
Giao thông 60% số xã đạt chuẩn (các trục đường xã được nhựa
hóa hoặc bê tông hóa)
Thủy lợi 65% số xã đạt chuẩn (có 50% kênh cấp 3 được
cứng hóa)
Điện 95% số xã đạt chuẩn
Trường học 95% số xã đạt chuẩn
Cơ sở vật chất văn hóa 75% số xã đạt chuẩn nhà văn hóa khu thể thao xã
Chợ nông thôn Xây dựng mới 5 chợ tại các xã Quang Thịnh,
Hương Lạc, Thái Đào, Đại Lâm, Nghĩa Hưng, cải
tạo và nhanh cấp 4 chợ: chợ Triển (Mỹ Thái), chợ
Bến Tuần (Mỹ Hà), chợ Tân Quang (Đào Mỹ), chợ
Than (Dương Đức).
82
Bưu chính viễn thông 98% số thôn trên địa bàn huyện có điểm truy cập
Internet
Y tế
Giữ vững, nâng cao chất lượng các Trạm y tế, phấn đấu nâng tỷ lệ người dân tham gia các hình thức Bảo hiểm Y tế đạt 45%
Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng NTM, UBND huyện Lạng Giang năm 2011
3.3. Giải pháp phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đáp ứng
yêu cầu NTM
3.3.1. Tập trung đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển hạ
tầng KT-XH nông thôn
Về mặt lý thuyết, quy hoạch là căn cứ quan trọng của các kế hoạch phát
triển KT-XH, là cơ sở thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước trên địa bàn
nhằm định hướng cho sự phát triển dài hạn KT-XH. Quy hoạch phát triển hạ
tầng KT-XH nông thôn là một nội dung của quy hoạch phát triển nông thôn.
Xét trên giác độ phân bố lực lượng sản xuất thì quy hoạch phát triển
nông thôn là sự phân bố các nguồn lực tài nguyên, đất đai, lao động, vốn, cơ
sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ trên lãnh thổ nông thôn một cách hợp lý để đạt hiệu quả cao. Do đó, quy
hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là căn cứ không thể thiếu để
thực hiện quy hoạch phát triển ngành và vùng nhằm để khai thác và sử dụng
các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội cho các mục tiêu phát triển KT-XH
nông thôn.
Thời gian qua, mặc dù công tác quy hoạch xây dựng đã được huyện
Lạng Giang chú trọng nhưng cũng như nhiều huyện khác, công tác quy hoạch
phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn Lạng Giang còn nhiều mặt hạn chế,
đặc biệt là khi quy hoạch chưa xác lập cụ thể các luận cứ khoa học và thực
83
tiễn nên các đề xuất còn thiếu căn cứ. Thực tiễn sự phát triển KT-XH không
theo như dự báo và hệ quả là các bản quy hoạch buộc phải điều chỉnh nhiều
lần trong thực tiễn. Ngay trong các bản quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH
có nhiệm vụ chính là quy hoạch phát triển các cơ sở vật chất, phân vùng sản
xuất, nhưng phần này nghiên cứu chưa sâu, chưa cụ thể, tầm nhìn còn hạn
hẹp, chỉ khoảng 5-10 năm. Đáng chú ý nhất là Lạng Giang vẫn thiếu một bản
quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH thống nhất và ổn định lâu dài.
Từ thực tiễn cho thấy, để thực hiện các mục tiêu phát triển hạ tầng KT-
XH ở nông thôn đã đề ra một cách hiệu quả cần nhanh chóng hoàn thành quy
hoạch phát triển hạ tầng KT-XH đối với từng vùng nông thôn.
Trong xây dựng quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn ở Lạng
Giang cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải gắn với chiến
lược và kế hoạch phát triển KT-XH nông thôn trong từng giai đoạn cụ thể.
Quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH nông thôn phải xác định được
những mục tiêu lâu dài cũng như các biện pháp cơ bản để đạt được các mục
tiêu dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, là
cơ sở định hướng cho sự phát triển KT-XH nông thôn. Quy hoạch phát triển
hạ tầng KT-XH nông thôn cần phải có đủ các căn cứ khoa học và vững chắc,
phải có tầm nhìn xa, phải có “ quy hoạch cứng” và “quy hoạch mềm” và giảm
thiểu những thay đổi và điều chỉnh lớn. Để thực hiện quy hoạch phát triển hạ
tầng KT-XH nông thôn, Lạng Giang cũng như từng địa phương cần đánh giá
một cách toàn diện và cụ thể hiện trạng hạ tầng KT-XH khu vực nông thôn,
phân tích, dự báo về nhu cầu phát triển KT-XH, các công trình hạ tầng KT-
XH cần xây dựng tính cho 10 - 20 năm sau; tính toán các điều kiện về nguồn
lực có thể huy động cho xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn.
84
Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần xác định mục
tiêu, lộ trình thực hiện và phải tập trung vào các vấn đề sau:
+ Quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông và thuỷ lợi nông thôn:
Nội dung quy hoạch cần trả lời câu hỏi: Bố trí mạng lưới giao thông,
thuỷ lợi như thế nào? Quy mô của từng công trình cho phù hợp với điều kiện,
khả năng đầu tư của địa phương, với phương thức sử dụng đảm bảo tính khoa
học và hiệu quả. Hướng phát triển GTNT là phải gắn với hệ thống giao thông
đã được quy hoạch cho toàn vùng, nhanh chóng nhựa hoá đường liên xã, cấp
phối hoá đường liên thôn, bê tông hoá đường làng, ngõ xóm, đường liên xã
cần được mở rộng theo tiêu chuẩn cấp kỹ thuật của Bộ GTVT cứng hóa 100%
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đi lại và giao lưu hàng hóa. Phát
triển hệ thống thủy lợi phải đảo bảo tính đồng bộ, tính hệ thống của các công
trình thủy lợi. Đặc biệt, hệ thống kênh mương nội đồng và kênh cấp 3 cần xây
dựng theo thiết kế mẫu để giảm chi phí và đảm bảo chất lượng và mỹ quan
nông thôn mới.
+ Quy hoạch mạng lưới cung ứng điện nông thôn: Xây mới, cải tạo,
nâng cấp các trạm điện 110 KV, các đường dây 35 KV ở khu đô thị mới, các
KCN, CCN, các làng nghề để đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh và
tiêu dùng của nhân dân. Từng bước nâng cao chất lượng nguồn điện, giảm tổn
thất điện năng, đảm bảo an toàn và mỹ quan nông thôn mới, giảm giá điện
phục vụ sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân với mức giá thấp hơn
hoặc bằng mức giá Nhà nước quy định.
+ Quy hoạch hệ thống cung cấp nước sạch và bảo vệ môi trường bao
gồm các nội dung: Xác định nguồn cung cấp và hệ thống phân phối nước sạch
đến toàn vùng nông thôn; trên cơ sở đánh giá tác động của môi trường đối với
tất cả các dự án phát triển KT-XH; kiểm tra các nguồn nước và đánh giá kỹ
85
lưỡng và kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ để xây dựng chiến lược về quản lý chất
thải rắn và chất thải nguy hại; giảm nguồn phát sinh chất thải rắn ngay từ ban
đầu, cơ sở xử lý rác thải, nước thải phù hợp…và lựa chọn hình thức xây dựng
các công trình.
+ Quy hoạch mạng lưới bưu chính viễn thông: Xác định rõ được vị trí,
địa điểm xây dựng các điểm Bưu điện - Văn hoá xã trên toàn huyện và được
xây dựng theo đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bố trí số
lượng hợp lý các trạm thu phát sóng thông tin di động, vùng phủ sóng rộng
đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội nhất là những vùng ở xa trung tâm xã, những
vùng còn có nhiều khó khăn.
+ Quy hoạch mạng lưới chợ: Phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn
nông thôn cần phải kết hợp giữa hệ thống chợ hiện có với việc mở rộng và
xây dựng thêm các chợ mới, đồng thời phải kết hợp giữa hệ thống chợ nông
thôn với các loại hình thương mại tiên tiến như siêu thị, cửa hàng bách hoá.
Phát triển chợ nông thôn phải lấy chợ và các cụm kinh tế - thương mại -
dịch vụ ở thị trấn, thị tứ làm mô hình phát triển chủ yếu để phát triển hệ thống
cơ sở vật chất của ngành thương mại. Phát triển đồng bộ các loại chợ như:
Chợ bán lẻ, chợ bán buôn, chợ đầu mối, chợ kinh doanh tổng hợp, trung tâm
thương mại... kết hợp các mô hình chợ khác nhau (quy mô lớn, vừa, nhỏ) và
không phân biệt địa giới hành chính. Đẩy mạnh xây dựng chợ và các cửa
hàng tại trung tâm cụm xã, xã đảm bảo 100% các xã đều có chợ để phục vụ
sản xuất và đời sống nhân dân.
+ Quy hoạch mạng lưới giáo dục - đào tạo: Trên cơ sở yêu cầu phát
triển giáo dục đào tạo để xác định nhu cầu tăng thêm các trường, lớp; nhu cầu
thay thế các phòng học, nhà làm việc bị xuống cấp, hư hỏng; bổ sung, hoàn
chỉnh cơ sở vật chất theo yêu cầu cải cách giáo dục và xây dựng trường chuẩn
86
quốc gia. Trong đó phải chú ý đảm bảo đủ diện tích cho trường học các cấp,
địa điểm cần được bố trí ở trung tâm, thuận lợi cho đi lại, mở rộng phát triển
hệ thống các trường tư thục, dân lập, các trung tâm, cơ sở dạy nghề ở tuyến
huyện...
+ Quy hoạch mạng lưới các cơ sở y tế: Củng cố và mở rộng các trạm y
tế xã, bệnh viện huyện, xây dựng các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, các
bệnh viện tuyến huyện trở thành bệnh viện khu vực đủ về diện tích, giường
bệnh, trang thiết bị hiện đại chuyên sâu. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong
các hoạt động y tế theo đúng tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của
Thủ tướng Chính phủ. Huy động nhiều nguồn lực cho phát triển, hết sức quan
tâm và sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ cho phát triển hạ tầng ngành Y tế
khu vực nông thôn.
+ Quy hoạch mạng lưới hạ tầng văn hoá: Xây dựng các phương án bảo
tồn các di tích văn hoá, các khu lưu niệm và phát huy loại hình văn hoá tiêu
biểu, một số làng văn hoá quan họ, làng nghề thủ công truyền thống; xây
dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm văn hoá các cấp,
các nhà văn hoá xã, thôn; xây dựng môi trường và đời sống văn hoá mới.
- Công tác quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải gắn với quy
hoạch phát triển tổng thể KT-XH của từng xã. Nội dung quy hoạch phát triển
tổng thể KT-XH của từng xã sẽ là cơ sở cho việc quy hoạch phát triển hạ tầng
KT-XH nông thôn. Khi xây dựng quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông
thôn phải tính đến những cơ sở hạ tầng hiện có và sẽ có trên địa bàn nông
thôn ở từng vùng, phải xem xét đến mục tiêu phát triển KT-XH của vùng đó,
phải tính đến cả phong tục tập quán, đời sống và mức sống của dân cư trong
vùng và các vùng phụ cận. Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và thống nhất
giữa quy hoạch ngành với quy hoạch của từng xã về nội dung, phương pháp
87
và trình tự phê duyệt. Có như vậy, nội dung quy hoạch mới có thể tạo nền
tảng cho việc thực hiện các mục tiêu KT-XH của vùng và có tính khả thi.
- Nội dung quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa bàn nông thôn. Mỗi vùng kinh tế có
những điều kiện tự nhiên và những điều kiện KT-XH khác nhau cho nên để
quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH từng vùng có tính khả thi, hệ thống hạ
tầng KT-XH được xây dựng sẽ phát huy được hiệu quả thì quy hoạch hạ tầng
KT-XH đó phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng.
Thực tế cho thấy, không thể quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở mức độ
hiện đại hoá cao ở những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, không phù hợp cho việc phát triển loại hình hạ tầng đó hoặc vào
những vùng mà điều kiện KT-XH ở vùng đó không cho phép phát triển.
- Quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo tính
đồng bộ, hệ thống
Công tác quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải được hoàn thiện
trong mối quan hệ đồng bộ thống nhất giữa các bộ phận, các ngành trong
cùng hệ thống và đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển vùng và toàn huyện
thì đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng mới phát huy được hiệu quả. Không thể quy
hoạch phát triển hạ tầng KT-XH từng vùng, từng ngành một cách riêng rẽ mà
không tính đến quy hoạch chung phát triển hạ tầng KT-XH của toàn huyện.
Nếu quy hoạch một cách riêng rẽ từng vùng, từng ngành rất dễ xảy ra
hiện tượng trùng lắp, không đồng bộ, bất hợp lý hay “dẫm đạp nên nhau”
trong quá trình đầu tư phát triển dẫn đến hiệu quả vốn đầu tư thấp và lãng phí.
Đảm bảo quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn đồng bộ sẽ góp
phần khắc phục tình trạng phát triển tự phát, thiếu căn cứ khoa học. Thực tế,
tình trạng này thường xảy ra đối với các công trình hạ tầng KT-XH qui mô
88
vừa và nhỏ ở nông thôn (như phát triển mạng lưới điện thôn, xã; GTNT...).
Quy hoạch đồng bộ không có nghĩa là áp đặt một mô hình cứng nhắc đơn
điệu theo kiểu nhận rộng cho toàn vùng mà cần xét đến những điều kiện thực
tế của từng vùng, từng tỉnh trong việc phát huy thế mạnh về lợi thế nguồn vốn
tiềm năng, nguồn vốn vô hình và cơ sở hạ tầng hiện có.
Về cơ bản, chính quyền cấp tỉnh, huyện cần đề ra những định hướng
lớn, những tiêu chuẩn cơ bản, những thông số về phát triển cơ sở hạ tầng ở
từng vùng phù hợp với quy hoạch của từng ngành, từng lĩnh vực để xây dựng
kế hoạch cụ thể phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn trong điều kiện cơ chế
thị trường hiện nay.
- Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải xác
định rõ lộ trình thực hiện và phương án huy động các nguồn lực để thực hiện.
Thực tế cho thấy, do các nguồn lực, đặc biệt là vốn cho phát triển hạ tầng KT-
XH ở nông thôn luôn trong tình trạng thiếu thốn nên cần có sự lựa chọn xây
dựng công trình nào trước, công trình nào sau, cần sắp xếp thứ tự ưu tiên
trong đầu tư xây dựng. Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông
thôn phải được thể hiện rõ trong kế hoạch 5 năm, hàng năm của cấp tỉnh,
huyện, xã. Kiên quyết không để tình trạng quy hoạch “treo” hay phê duyệt dự
án đầu tư mà không có nguồn vốn chắc chắn đầu tư. Việc xác định quy mô,
phương thức xây dựng và công nghệ cần lựa chọn trên cơ sở đảm bảo hiệu
quả kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Công trình quan trọng, cấp bách
thì cần làm trước, phù hợp với yêu cầu và khả năng, không có vốn thì không
đầu tư. Nói cách khác, trong nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở
nông thôn cần xác định rõ những công trình hạ tầng trọng điểm cần được
nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới mà trước hết là ở những khâu ách tắc,
yếu kém và đang cản trở sự phát triển. Đó là những công trình đóng vai trò
cởi “nút thắt”, mở đường cho sự phát triển KT-XH ở từng vùng, từng khu
89
vực. Đồng thời, xác định những công trình cần xây dựng, mở rộng trong
tương lai gần. Điều đó sẽ gắn liền với việc xác định phương án huy động các
nguồn lực, nhất là nguồn vốn để thực hiện.
3.3.2. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về tầm
quan trọng của mô hình nông thôn mới và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội trong nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới phải lấy người dân làm chủ thể là một
phương châm quan trọng trong phong trào xây dựng nông thôn mới hiện đang
triển khai trên quy mô cả nước. Qua thực tế cho thấy, việc người dân tuy đã
tham gia xây dựng nông thôn mới nhưng họ còn chưa hiểu nông thôn mới là
gì? Xây dựng nông thôn mới thì họ có lợi ích gì? Các công trình do xã xây, xã
thực hiện các kế hoạch, còn người dân tương đối thụ động. Bởi họ là chủ thể
xây dựng nông thôn mới mà họ không hiểu rõ về trách nhiệm cũng như lợi ích
của họ thì sẽ dân đến thái độ thờ ơ, thụ động. Nếu họ hiểu được lợi ích nhận
được khi xây dựng nông thôn mới trên mảnh đất của chính họ thì họ sẽ tham
gia tích cực hơn và mỗi hành động của họ đều có động lực mang lại hiệu quả
cao hơn. Như vậy, nếu người dân hiểu rõ về nông thôn mới thì mô hình nông
thôn mới sẽ nhanh chóng được thực hiện.
Vì vậy công tác tuyên truyền, tạo sự đồng lòng trong nhân dân cùng
xây dựng nông thôn mới là điều hết sức quan trọng. Tuyên truyền ở đây
không có nghĩa là những khẩu ngữ hay những buổi tiếp xúc dân mang tính
hình thức, mà phải giúp người dân có một nhận thức đúng đắn về xây dựng
nông thôn mới. Đó là phát huy quyền làm chủ chứ không phải ỷ lại sự hỗ trợ
từ các nguồn ngân sách. Muốn làm được điều này thì chính những người cán
bộ quản lý sự án phải thực sự mong muốn xây dựng được nông thôn mới. Họ
phải thực sự gương mẫu và nhiệt huyết với nhiệm vụ của mình.
90
Tuyên truyền trong nhân dân trước tiên là phải giúp người dân hiểu
được nông thôn mới là gì, xây dựng hệ thống KCHT KT-XH đáp ứng yêu cầu
nông thôn mới là thế nào? Rất nhiều người dân còn chưa nhận thức rõ về
nông thôn mới và xây dựng các tiêu chí nông thôn mới. Vậy để người dân
thực sự hiều về nông thôn mới thì việc tuyên truyền nếu chỉ thể hiện qua lời
nói hay qua các buổi gặp gỡ giữa lãnh đạo quản lý và người dân là chưa đủ và
còn mang nặng hình thức. Muốn người dân có nhận thức đúng đắn thì địa
phương cần phải tăng cường công tác tuyên truyền thông qua những hành
động cụ thể. Như khi thực hiện các dự án quy hoạch, xây dựng công trình thì
cần lấy người dân làm trung tâm cho những chương trình này. Hay các công
tác trong tổ chức xây dựng, quy hoạch phải hiệu quả để tạo niềm tin trong
nhân dân. Khi người dân thực sự được tham gia từ công tác chuẩn bị đến công
tác xây dựng nông thôn mới, khi họ nhận thấy được tính hiệu quả trong những
công trình, dự án cảu xã họ sẽ thực sự tự nâng cao được nhận thức của chính
họ. Việc nói cho người dân hiểu nông thôn mới là gì sẽ không hiệu quả bằng
việc làm thế nào để người dân tự nâng cao hiểu biết của mình về nông thôn
mới.
Tiếp theo đó là cần nâng cao nhận thức của người dân để họ nắm rõ
được tầm quan trọng, sự cần thiết và những lợi ích họ được hưởng thụ khi xây
dựng nông thôn mới. Việc giúp người dân nhận thức được lợi ích của mình
trong xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa to lớn trong việc người dân sẵn
sàng, đồng lòng xây dựng nông thôn mới. Khi người dân hiểu họ chính là chủ
thể xây dựng nông thôn mới thì họ mới hiểu rằng họ phải có trách nhiệm
trong chương trình mục tiêu quốc gia này. Những công trình, dự án của xã
xây dựng lên nhằm phục vụ đời sống cho chính họ. Họ tham gia đóng góp xây
dựng nông thôn mới về tiền của và sức lao động nên họ phải trách nhiệm bảo
vệ những thành quả đạt được khi xây dựng nông thôn mới. Khi hiểu như vậy
91
họ sẽ có ý thức cao hơn trong việc giám sát nhưng hoạt động xây dựng các
công trình trên mảnh đất quê hương mình. Tức là họ vừa nâng cao ý thức
tham gia xây dựng phát triển địa phương và vừa có ý thức bảo vệ những công
trình phục vụ lợi ích cho chính họ, cho cộng đồng. Như vậy, nếu người dân có
nhận thức được nâng cao sẽ là một điều kiện thuận lợi để xây dựng thành
công nông thôn mới, ngược lại, nếu ý thức, nhận thức của người dân kém thì
sẽ là một cản trở không nhỏ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở Lạng
Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Chính vì vậy mà việc nâng cao nhận thức của người dân trong xây
dựng nông thôn mới là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa trong việc quyết
định thành công của mô hình. Hơn nữa, khi người dân có ý thức xây dựng
phát triển địa phương, đồng sức, đồng lòng thì việc hoàn thành các chỉ tiêu dễ
dàng được thực hiện.
Tóm lại công tác tuyên truyền, gắn kết, tạo sự tin tưởng trong nhân dân
là rất quan trọng đối với việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói
riêng và xây dựng mô hình nông thôn mới nói chung.
Cần xác định rõ vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông
thôn mới là một trong những vấn đề quan trọng trong xây dựng nông thôn
mới. Đây có thể được coi là “kim chỉ nam” trong xây dựng các hạng mục,
công trình, dự án phát triển nông thôn, bởi hơn ai hết, họ là người được hưởng
thụ thành quả.
Đối tượng hướng tới của quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện
quy hoạch xây dựng nông thôn mới, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở
nông thôn là cuộc sống của người dân. Bởi quy hoạch hay xây dựng cơ sở hạ
tầng đều nhằm mục đích phục vụ đời sống dân sinh của người dân. Các công
trình xây dựng này nếu đặt ngoài mục tiêu phục vụ cho người dân thì việc xây
92
dựng nông thôn mới chỉ là việc xây dựng hình thức bên ngoài cho nông thôn
truyền thống. Đối với việc triển khai các công trình này, mỗi địa phương cần
vận động người dân tham gia với vai trò chủ thể của quy hoạch, xây dựng. Xã
cần xác định mục tiêu của quy hoạch, xây dựng là để sản xuất của người dân
được phát triển theo hướng mở rộng kinh tế hàng hóa, mục tiêu của quy hoạch
xây dựng kết cấu hạ tầng là để phục vụ cho đời sống người dân từ giao thông,
thủy lợi đến trường học… Còn về phía người dân, người dân cần phải phát
huy vai trò chủ thể của mình qua việc tham gia thảo luận về quy hoạch, tham
gia đóng góp xây dựng các công trình. Khi quy hoạch hay xây dựng những
công trình, người dân không những có lợi ích qua việc sử dụng các công trình
này mà còn phải có quyền lợi, trách nhiệm tham gia đóng góp xây dựng, bảo
vệ. Đây chính là vai trò chủ thể của người dân.
3.3.3. Đa dạng hóa nguồn vốn huy động và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn
Việc tiến hành xây dựng xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp
ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng,
phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để thực hiện được các tiêu chí này đòi hỏi các
địa phương phải huy động được một lượng vốn lớn.
Tại Lạng Giang, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thì huyện có
thể huy động thêm từ sự đóng góp của người dân. Hai nguồn vốn mà các xã
trong huyện có thể khai thác là: nguồn vốn từ trong dân cư và nguồn vốn từ
các doanh nghiệp.
* Huy động vốn từ trong dân cư
Việc huy động nguồn vốn nhân dân đóng góp là rất cần thiết trong xây
dựng nông thôn mới. Thực tế cho thấy tại Lạng Giang, người dân đóng góp
93
chưa nhiều vào xây dựng nông thôn mới. Để người dân chủ động trong việc
tham gia xây dựng nông thôn mới cũng như chủ động tham gia đóng góp vốn
để xây dựng các hạng mục, công trình thì trước tiên cần thực hiện công tác
tuyên truyền đến từng người dân. Hơn nữa, việc huy động vốn phải dựa trên
những nguyên tắc nhất định: một là, việc huy động, dù của cộng đồng thôn
xóm hay của xã, cũng đều phải trên căn bản những quy định mang tính chất
nhà nước, tức là một khuôn khổ pháp lý; hai là, việc huy động xây dựng hạ
tầng trong phạm vi xã, thôn một mặt là thuộc về xã hội, nhà nước, mặt khác là
thuộc cộng đồng làng xã, vì thế, những dự án xây dựng hạ tầng, cũng như
việc huy động nguồn lực cho xây dựng những hạ tầng đó phải được bàn bạc
dân chủ trong dân, trong các tổ chức xã hội, trong Đảng bộ và trong hội đồng
nhân dân. Đồng thời, mọi hoạt động tài chính, xây dựng phải được công khai,
minh bạch; ba là: việc xây dựng hạ tầng ở nông thôn phải tuân theo trình tự và
thủ tục xây dựng do nhà nước ban hành. Nhất thiết phải có quy hoạch, thiết
chế, luận chứng kinh tế - kỹ thuật để tránh tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá
bóng”. Trong tổ chức xây dựng, nhất thiết phải thành lập Ban quản lý dự án,
xây dựng tách khỏi UBND với tính cách là chủ đầu tư và được đặt dưới sự
kiểm tra của HĐND, UBND.
Đối với những công tình xây dựng CSHT như xây nhà văn hóa, cứng
hóa đường giao thông thì xã cần tuyên truyền giúp người dân hiểu được trách
nhiệm của mình đối với xây dựng NTM. Trong những công trình của thôn,
xóm, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần, còn kinh phí chủ yếu vẫn do
người dân đóng góp xây dựng. Tuy số vỗn của người dân đóng góp ít nhưng
theo quy luật số đông, số tiền đóng góp của người dân sẽ không nhỏ. Vì vậy,
việc tuyên truyền, vận động để người dân tham gia việc xây dựng là rất quan
trọng. Bởi mục đích của việc xây dựng này là phục vụ cho cuộc sống của
chính họ chứ không phải xây dựng nhà văn hóa, đường giao thông cho xã.
94
Nếu là tốt công tác tuyên truyền, vận động, người dân tích cực tham gia đóng
góp thì CSHT sẽ được xây dựng nhanh và khang trang hơn.
Tuy nhiên do mức sống, thu nhập của mỗi hộ dân trong xã không giống
nhau nên việc đóng góp của người dân có thể tùy thuộc vào thu nhập của họ.
Nếu hộ gia đình nào khó khăn thì có thể đóng góp bằng sức lao động. Trước
thực trạng thu nhập của người dân còn thấp, việc đóng góp xây dựng CSHT
cho xã, thôn là tương đối hiệu quả. Xã xây dựng trạm xá hay nhà văn hóa thì
việc thuê lao động xây dựng rất tốn kém. Việc người dân góp công không chỉ
đảm bảo đóng góp của người dân vào xây dựng NTM, mà còn thể hiện thái
độ, ý thức đóng góp công sức, xây dựng NTM. Đối với những hộ gia đình có
thu nhập cao, xã có thể vận động họ đóng góp phù hợp với thu nhập của gia
đình.
Bên cạnh việc huy động vốn từ những người dân trong địa phương, xã
cũng nên huy động vốn từ những người xa quê. Nhiều người xa quê hương
sống trên các vùng miền khác nhau của cả nước hoặc những người sống và
làm việc ở nước ngoài rất thành đạt. Chính quyền địa phương nên có những
chính sách để khuyến khích họ đầu tư xây dựng quê hương.
* Huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp
Đây là vấn đề khó khăn đối với huyện Lạng Giang nói riêng cũng như
nhiều vùng nông thôn khác.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 3 cụm công nghiệp đã hình thành từ
trước là: cụm công nghiệp Tân Dĩnh – Phi Mô diện tích 16 ha, cụm công
nghiệp Non Sáo (Tân Dĩnh) diện tích 20 ha, cụm công nghiệp Vôi – Yên Mỹ
diện tích 12 ha. Ba cụm công nghiệp này đến nay đã lấp đầy tuy nhiên hệ
thống KCHT như cấp thoát nước, giao thông, vệ sinh môi trường chưa được
đầu tư, các chủ đầu tư mới đầu tư được hệ thống điện phục vụ sản xuất.
95
Tuy nhiên, huyện cũng đã thu hút một số chương trình có vốn đầu tư
lớn, như chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh Giữa vốn đầu tư 320 tỷ
đồng, chương trình kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ cho giáo viên
98,7 tỷ đồng, công trình nâng cấp, cải tạo lưới điện hạ áp nông thôn ở 4 xã
Mỹ Hà, Hương Sơn, Yên Mỹ, Quang Thịnh 20,3 tỷ đồng. Công trình cải tạo,
nâng cấp đình Phù Lão, xã Đào Mỹ với số vốn 14 tỷ đồng, chương trình cứng
hóa kênh mương, giao thông nông thôn đã thu hút vốn vay ưu đãi và vốn do
nhân dân đóng góp trên 120 tỷ đồng.
Từ nay đến năm 2015, huyện tập trung cho việc quy hoạch chi tiết 1
cụm công nghiệp là cụm công nghiệp Núi Sẻ - Phi Mô diện tích 20 ha, cụm
công nghiệp Nghĩa Hòa diện tích 30 ha, cụm công nghiệp Tân Hưng diện tích
50 ha và một số cụm công nghiệp khác thuộc các xã phía tây của huyện để
tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp một cách đồng
bộ.
3.3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH
nông thôn
Quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là một trong những
điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn
(nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, điện…) ngoài xây dựng còn phải bảo
dưỡng, duy tu, sửa chữa, nâng cấp nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng, hiệu
suất đầu tư. Do vậy, cần tăng cường phân cấp quản lý tốt hệ thống hạ tầng
KT-XH ở nông thôn, phân bổ đúng nguồn kinh phí và từng bước theo phương
thức thị trường. Phải kết hợp xây dựng mới hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông
thôn với việc bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời những công trình đang xuống cấp,
nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này còn eo hẹp
và nội lực của cư dân nông thôn còn hạn chế. Ngân hàng Thế giới ước tính,
96
xây dựng lại 1 km đường hư hỏng nặng tốn khoảng 7.200 USD trong khi bảo
dưỡng tốt chỉ tốn kém 400 USD mỗi năm. Theo tính toán của Bộ Tài chính và
cơ quan đường bộ Việt Nam thì thuế, lệ phí sử dụng nhiên liệu và phương tiện
đi lại hàng năm trong thời gian qua có đủ khả năng tài trợ cho tất cả các công
việc bảo dưỡng và sửa chữa hàng năm đường xá tới cấp huyện. Do đó, việc
tạo lập các quỹ tài chính và quản lý các quỹ cho việc phát triển có hiệu quả hệ
thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần được Nhà nước, các cấp, ngành quan
tâm đặc biệt hơn và phải được thể chế hóa cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa là
cần nâng cao năng lực quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, nội
dung bao gồm:
* Quản lý quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH nông thôn
Đây là yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả và
đảm bảo những yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật của các công trình hạ tầng KT-
XH ở nông thôn. Quản lý quá trình đầu tư xây dựng là quản lý cả 3 giai đoạn:
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện dự án, giai đoạn kết thúc
dự án đưa dự án vào khai thác sử dụng. Cụ thể đó là: Quản lý sự cần thiết, vị
trí, địa điểm, tổng mức đầu tư, nguồn vốn, quy mô, thời gian thi công, chủ
đầu tư... của dự án; xác định hình thức đấu chọn thầu, đơn vị tư vấn thiết kế,
đơn vị thi công, thi công, nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng… Nếu quản
lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH thì nâng cao được hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư, chống tham ô, thất thoát, lãng phí tiêu cực trong hoạt
động đầu tư và xây dựng. Muốn làm được điều đó cần phải:
- Trước hết phải xem xét dự án phát triển hạ tầng KT-XH được triển
khai có hù hợp, nằm trong quy hoạch phát triển ngành vùng và quy hoạch đô
thị… Các dự án chuyển sang giai đoạn thực hiện dự án phải có quyết định phê
duyệt dự án, có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt.
97
- Chấp hành triệt để các nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư, xác định dự án
đó dùng loại nguồn vốn nào? huy động từ đâu? nguồn vốn nào là chủ lực? cần
bố trí vốn đầu tư cân đối hài hoà giữa các ngành kinh tế, các vùng kinh tế với
quan điểm tập trung vốn, không dàn trải, nhỏ giọt ưu tiên bố trí vốn cho các
dự án thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế (tỷ trọng cao). Kiên quyết không để xảy ra
nợ đọng xây dựng cơ bản một cách tràn lan…
- Công trình chỉ được khởi công khi đã đủ thủ tục, trình tư đầu tư
XDCB, ghi kế hoạch vốn đầu tư theo đúng trình tự, đúng thứ tự ưu tiên, phải
xem xét các công trình chuyển tiếp từ năm trước sang năm sau tiếp tục thi
công sau đó mới đến các công trình xây dựng mới, các dự án nhóm C chỉ
được bố trí xây dựng trong 2 năm.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý dự án, cụ thể:
+ Về cơ cấu tổ chức: Tách ban quản lý dự án khỏi quản lý Nhà nước trở
thành đơn vị sự nghiệp kinh tế tự cân đối thu- chi, các ban quản lý dự án thực
hiện quản lý các dự án thông qua hình thức hợp đồng với các chủ đầu tư, thực
hiện đấu thầu chi phí quản lý dự án nhằm xét, chọn các ban quản lý có đủ
năng lực thực hiện quá trình quản lý, giám sát, tổ chức thi công công trình
theo yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Về năng lực các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án: Không giao cho
các đơn vị hành chính không có chuyên môn về quản lý đầu tư làm chủ đầu tư
quản lý các dự án xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn, các cán bộ trong ban
quản lý dự án phải trải qua kinh nghiệm thực tế tổ chức thi công và phải có
chứng chỉ giám sát thi công công trình.
Thực tế, trong quản lý đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn vai
trò cấp chính quyền huyện, xã trong quản lý và thực hiện là thực sự cần thiết.
98
Đặc biệt, vai trò của chính quyền cấp xã được đề cao với nhiệm vụ nắm
chắc tiềm năng ngân sách, nguồn lực của địa phương mình, cũng như sự cần
thiết của dự án trong quá trình phát triển. Nhờ đó, cấp chính quyền xã đã phát
huy được vai trò chủ động trong sự nghiệp phát triển KT-XH của địa phương
mình, trong đó có nội dung phát triển hạ tầng KT-XH. Từ sự phát triển hạ
tầng KT-XH nông thôn ở địa phương trong thời gian qua cũng cho thấy, hầu
hết những dự án đầu tư trên địa bàn huyện, xã và sử dụng vốn ngân sách
huyện, ngân sách xã là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn. Vì vậy nên
việc tăng cường phân cấp cho chính quyền cấp huyện, xã phê duyệt dự án,
phê duyệt quyết toán… có tác động rất lớn đến giảm bớt thủ tục đầu tư XDCB
của dự án hạ tầng nông thôn, giảm bớt sự chồng chéo của nhiều cấp, giảm bớt
thời gian công tác chuẩn bị đầu tư và quan trọng hơn nữa là gắn trách nhiệm
của cấp chính quyền cơ sở với tính hiệu quả của dự án.
Tuỳ theo tổng mức đầu tư của từng dự án đầu tư phát triển hạ tầng KT-
XH mà chính sách phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng gắn với vai trò của
chính quyền cấp xã có thể tựu chung lại như sau:
+ Bố trí một lượng vốn nhất định cho các dự án thực hiện công tác
chuẩn bị đầu tư. Chính quyền xã trên cơ sở lượng vốn bố trí, quy hoạch phát
triển ngành, vùng lập dự án, khảo sát thiết kế lập báo cáo đầu tư trình các cấp
có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư đáp ứng các điều kiện ghi kế hoạch đầu
tư XDCB năm sau.
+ Sử dụng cán bộ có năng lực, có hiểu biết về quản lý vốn, quản lý xây
dựng cùng các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội tham gia ban quản lý dự án
giám sát quá trình thi công, thực hiện dự án. Phối kết hợp với phòng Giao
thông xây dựng, phòng Tài chính…hoàn thiện các thủ tục đầu tư xây dựng,
triển khai thi công xây dựng.
99
+ Phối kết hợp với các phòng, ban chức năng và là người chịu trách
nhiệm chính trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để thi công công
trình: Đo đạc diện tích, phân loại đất, tổ chức chi trả tiền đền bù.
* Quản lý quá trình khai thác, sử dụng hạ tầng KT-XH nông thôn
Để nâng cao hiệu quả quá trình phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn
không chỉ đơn thuần quản lý quá trình đầu tư xây dựng mà phải quản lý chặt
chẽ quá trình khai thác, sử dụng cơ sở hạ tầng đó. Trong cơ chế quản lý cũ
trước đây thường xảy ra tình trạng “vô chủ” trong khai thác, sử dụng hạ tầng.
Tình trạng “cha chung không ai khóc” đã làm cho cơ sở hạ tầng nhất là
ở vùng nông thôn xuống cấp nghiêm trọng không đáp ứng được yêu cầu phát
triển KT-XH trên địa bàn.
Hiện nay, trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
với mục tiêu thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đặt ra những
yêu cầu cấp bách trong quản lý sử dụng cơ sở hạ tầng hiện có. Đó là: Khai
thác cơ sở hạ tầng hiện có; phát huy tối đa công suất thiết kế; khai thác một
cách đồng bộ các cơ sở hạ tầng trong một dự án và nhiều dự án; bảo vệ cơ sở
hạ tầng hiện có; phân công, phân cấp hợp lý; cần xây dựng những nội quy cụ
thể trong công tác bảo vệ; phải tổ chức duy tu, bảo dưỡng định kỳ thường
xuyên và phát hiện sớm những hỏng hóc để sửa chữa kịp thời.
Tuy nhiên, cũng cần phải xác định nguồn vốn để thực hiện duy tu bảo
dưỡng, sửa chữa các công trình hạ tầng KT-XH ở nông thôn. Nguồn vốn này
có thể lấy từ trích khấu hao đối với các cơ sở hạ tầng được phép trích khấu
hao như: Trạm điện, đường điện, trạm bơm… từ khoản thu phí và lệ phí như:
Nước sạch, gom rác, giao thông đường làng… và có thể dùng ngân
sách cấp bù. Giải pháp khoán cho các đơn vị, cho các tổ chức đoàn thể khai
thác thu phí và lệ phí để các đơn vị này tự cân đối, xây dựng kế hoạch duy tu
100
bảo dưỡng nhằm tăng cường tính chủ động sáng tạo của các tổ chức, các đơn
vị là sự lựa chọn hợp lý. Ngân sách chỉ cấp bù khi có những kế hoạch mang
tính đại tu, nâng cấp các hạ tầng lớn, trọng điểm.
Do vậy, để tăng cường quản lý quá trình khai thác, sử dụng hạ tầng KT-
XH nông thôn, chính quyền các cấp địa phương cần chú ý:
- Tuỳ theo đặc điểm của các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn để có
sự phân cấp quản lý và phối hợp quản lý khai thác cho phù hợp. Chủ thể quản
lý sử dụng có thể do huyện, xã hay cộng đồng dân cư của xóm, thôn. Ví dụ:
Các công trình thuỷ lợi liên xã do phòng thuỷ lợi của huyện quản lý về
phương diện Nhà nước, các công ty thuỷ nông điều phối hoạt động tưới tiêu,
cư dân vùng đó được hưởng lợi. Trong khi ấy, đối với các công trình thuỷ lợi
nội đồng do các xã trực tiếp quản lý và sử dụng. Vì vậy chính quyền cấp
huyện và các Sở, Ban ngành cấp tỉnh cần xây dựng cơ chế quản lý khai thác
cho phù hợp gắn với vai trò, trách nhiệm của cộng đồng dân cư trên địa bàn
được hưởng lợi.
- Trong điều kiện Nhà nước có chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng KT-
XH nông thôn nhằm thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
nên các khoản lệ phí về thuỷ lợi đã được miễn cho nông dân. Vì vậy, hiện nay
nguồn vốn để hoạt động, duy tu và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi do các
công ty thuỷ nông quản lý được cung cấp từ ngân sách nhà nước. Nguồn ngân
sách nhà nước cũng được phân bổ một phần cho tu bổ, bảo dưỡng hệ thống
trạm bơm cục bộ do xã quản lý. Do vậy chính quyền cấp xã cần phải chủ
động bố trí, cân đối và khai thác đảm bảo đủ vốn duy tu bảo dưỡng cho công
trình để đảm bảo cho công trình hoạt động thường xuyên, đáp ứng được công
suất thiết kế.
101
- Sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn còn diễn ra ở từng cộng đồng
thôn xóm, vì vậy trong một chừng mực nhất định một số hạ tầng là thuộc
quyền sở hữu và sử dụng trực tiếp của cộng đồng thôn xóm, vì thế các cộng
đồng thôn xóm mang tính tự quản sẽ là đồng chủ quản đối với các hạ tầng ở
cấp cộng đồng thôn xóm và sẽ cùng Nhà nước tham gia quản lý sử dụng các
cơ sở hạ tầng trong phạm vi thôn xã.
3.3.5. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ trong phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn
Khoa học - kỹ thuật và công nghệ là động lực thúc đẩy phát triển hạ
tầng KT-XH nông thôn. Việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học,
công nghệ vào phát triển hạ tầng KT-XH không chỉ làm tăng tuổi thọ công
trình mà còn làm cho chi phí, giá thành công trình hạ tầng giảm, tăng lợi
nhuận cho các doanh nghiệp. Hơn thế nữa nó còn góp phần chủ yếu vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong bối cảnh huyện
Lạng Giang có trên 80% dân số còn làm nghề nông và sinh sống ở nông thôn
thì việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ trong phát triển hạ tầng KT-XH là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết nhưng
cũng gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức
(từ tỉnh, huyện, xã); các cơ quan khoa học; các doanh nghiệp, chủ trang trại,
chủ hộ sản xuất kinh doanh, hộ gia đình cần tìm tòi, nghiên cứu, ứng dụng,
tiếp nhận công nghệ mới, tiên tiến phù hợp với nguồn lực, trình độ và điều
kiện cụ thể nhằm nâng cao mức sống cho cư dân, góp phần xây dựng và phát
triển nông thôn bền vững.
102
KẾT LUẬN
1. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH có tầm quan trọng đặc biệt không
chỉ đối với sự phát triển nông thôn, mà còn cả đối với toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH tạo điều kiện phát triển đồng đều
giữa các vùng, miền trong cả nước, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế gắn với công bằng xã hội. Hơn nữa, phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng KT-XH sẽ tăng cường được khả năng giao lưu hàng hóa, nối liền thị
trường nông thôn và toàn bộ nền kinh tế, xóa đi những chênh lệch trong phát
triển KT-XH giữa các vùng trong nước.
2. Sau bốn năm thực hiện đề án xây dựng mô hình nông thôn mới, mặc
dù đến nay chưa một xã nào trong huyện hoàn thành tất cả 19 tiêu chí đã đề ra
(kể cả xã thí điểm Tân Thịnh) nhưng hạ tầng kinh tế xã hội huyện Lạng Giang
đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Những hạ tầng được xây dựng
trong nông thôn đã trở thành những lực lượng sản xuất, làm thay đổi chất
lượng trong những điều kiện vật chất trong đời sống sinh hoạt của người dân.
Có thể nói, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội là một cuộc cách mạng kinh tế -
nhân văn làm thành một nội dung trọng yếu của sự phát triển kinh tế xã hội
nông thôn.
3. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, huyện có nhiều thuận
lợi như sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương và tỉnh về vốn, hướng dẫn thực
hiện các tiêu chí... Tuy nhiên, do điều kiện địa hình là một huyện trung du
miền núi, đời sống dân cư thấp nên việc xây dựng các công trình, dự án còn
chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
4. Trong bốn năm qua, các xã trong huyện đã cố gắng hoàn thành các
tiêu chí đã đề ra. Nhiều tiêu chí đã đạt được kết quả cao, làm cho đời sống
103
người nông dân được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tiêu chí chưa
hoàn thành. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực quản lý của cán bộ xã và
nhận thức của người nông dân hạn chế, do khó khăn trong huy động vốn kết
hợp với nhiều nguyên nhân khác.
5. Để thúc đẩy sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn
đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, huyện Lạng Giang cần thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào các giải pháp cơ bản sau: quy
hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn thật tốt, tạo sự chuyển biến trong
nhận thức của người dân về tầm quan trọng của mô hình nông thôn mới và
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong nông thôn mới, nâng cao năng
lực quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, đẩy mạnh nghiên cứu,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong phát triển hạ tầng KT-
XH nông thôn.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới – UBND huyện Lạng Giang
(2011), Kế hoạch triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới trong 05 năm (giai đoạn 2011 - 2015).
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bàn về chiến lược phát triển KT –
XH của Việt Nam trong thời kỳ mới, Hà Nội.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số
54/2009/ TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới, Hà Nội.
4. Trần Ngọc Bút (2002), Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam
nửa cuối thế kỳ XX và một số định hướng đến năm 2010, NXB chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Chiển (2006), “Đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn ở đồng bằng sông Hồng”, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Đông Nam Á, (Số 4/11 năm 2006), Tr 13-14.
6. Vũ Năng Dũng (2004), Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước
đi, cơ chế chính sách trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn,
NXB nông nghiệp, Hà Nội.
7. Nguyễn Trường Giang (2007), Hoàn thiện quản lý điện nông thôn tại
điện lực Hà Tĩnh, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế Quốc dân.
8. Gia Hân (2008), Phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở
Việt Nam, Báo Nông thôn ngày nay, số ra ngày 19 và 25/8/2008.
9. Hồ Xuân Hùng (2010), Những vấn đề quan tâm khi xây dựng nông
thôn mới, Bản tin ISG quý 2/2010.
105
10. Huyện ủy Lạng Giang – Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Chương trình
phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị giai đoạn 2011 – 2015.
11. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Nâng cao năng lực tổ chức thực
hiện của cán bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong
điều kiện hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Chí Mỳ - Hoàng Xuân Nghĩa (2009), Bốn hướng đột phá
chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn hiện nay,
Viện Nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội.
13. Đỗ Hoài Nam – Lê Cao Đoàn (2001), Xây dựng hạ tầng cơ sở nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
14. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (2007), Chiến lược cơ sở hạ tầng
những vấn đề liên ngành, Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Nông, Lương Văn Hinh, Đăng Văn Minh, Nguyễn
Thị Bích Hiệp (2003), Chiến lược quy hoạch sử dụng đất đai ổn định đến
năm 2010, NXB nông nghiệp, Hà Nội.
16. Lê Du Phong (1996), “Xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 13, Tr 4-8.
17. Bùi Ngọc Sơn, Báo cáo kiểm điểm kết quả lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện Chương trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung gắn
với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015.
18. Đặng Kim Sơn (2010), Thực trạng và các chính sách khuyến khích
đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, Bản tin ISG quý 2/2010.
19. Đào Thế Tuấn (2007), Về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn
ở nước ta trong thời kỳ mới, Tạp chí cộng sản (số 771).
106
20. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04/6/2010 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, Hà Nội
21. Nguyễn Đức Tuyên (2009), Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội ở
nông thôn tỉnh Bắc Ninh kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sỹ, Đại học
Kinh tế Quốc dân.
22. Vũ Đình Thắng, Hoàng Văn Định (2003), Giáo trình kinh tế phát
triển nông thôn, Trường đại học KTQD, NXB thống kê, Hà Nội.
23. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), NXB Từ điển Bách khoa, Hà
Nội.
24. Viện chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn, lý
luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa 2006.
Các website:
25. http://www.baocantho.com.vn
26. http://baomoi.com
27. http://www.ciem.org.vn
28. http://:ipsard.gov.vn
29. http://www.hoinongdan.org.vn
30. http://nhandan.com.vn
31. http://vietbao.vn
32. http://xaydungdang.org.vn
107