ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

--------------------- MAI DIỆU THÚY

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ

XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TẠI HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – Năm 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- MAI DIỆU THÚY

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ

XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TẠI HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS MAI THỊ THANH XUÂN

Hà Nội – Năm 2014

2

MỤC LỤC Trang Danh mục các từ viết tắt .............................................................................................i

Danh mục các bảng ....................................................................................................ii

MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN

HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG

THÔN MỚI.................................................................................................................7

1.1. Mô hình nông thôn mới ...................................................................................7

1.1.1. Khái niệm và bản chất của mô hình nông thôn mới.........................................7

1.1.2. Các tiêu chí chủ yếu của mô hình nông thôn mới............................................9

1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới.....................................................12

1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong mô hình nông

thôn mới....................................................................................................................15

1.2.1. Khái niệm và các bộ phận hợp thành của hệ thống kết cấu hạ tầng

kinh tế xã hội ở nông thôn........................................................................................15

1.2.2. Yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông

thôn trong mô hình nông thôn mới..........................................................................29

1.2.3. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đối với phát

triển nông thôn..........................................................................................................33

1.3. Kinh nghiệm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn

của một số địa phương..............................................................................................36

1.3.1. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Ân Thi,

tỉnh Hưng Yên…………..........................................................................................36

1.3.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh.......................................................................................................37

1.3.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở huyện Hải Hà,

tỉnh Quảng Ninh.......................................................................................................39

1.3.4. Một số bài học rút ra cho huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang......................41

3

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG

KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN CỦA HUYỆN LẠNG GIANG,

TỈNH BẮC GIANG TRƢỚC YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI…43

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh

tế xã hội nông thôn huyện Lạng Giang ....................................................................43

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.......................................................43

2.1.2. Chính sách của huyện Lạng Giang đối với việc xây dựng hệ thống

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới....47

2.2. Thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện Lạng Giang từ

năm 2006 đến nay......................................................................………………..…49

2.2.1. Hệ thống giao thông nông thôn.....................................................................50

2.2.2. Hệ thống các công trình thủy lợi, thủy nông.................................................52

2.2.3. Hệ thống các công trình cung cấp điện.........................................................54

2.2.4. Hệ thống trường học.....................................................................................56

2.2.5. Y tế................................................................................................................57

2.2.6. Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao, thông tin liên lạc….…59

2.2.7. Hệ thống cung cấp nước sạch.......................................................................62

2.2.8. Hệ thống chợ nông thôn................................................................................63

2.3. Đánh giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện đáp

ứng yêu cầu phát triển nông thôn mới.........................…………………….…..…65

2.3.1. Những thành tựu cơ bản................................................................................65

2.3.2. Những hạn chế của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo yêu cầu

mô hình nông thôn mới...........................................................................................66

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................................68

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾT

CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

GIAI ĐOẠN 2010 – 2020………………………………………………………..71

3.1. Quan điểm về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu

4

cầu xây dựng nông thôn mới của huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang........……….71

3.1.1. Hệ thống kết cấu hạ tầng tầng kinh tế xã hội có tầm quan trọng đặc

biệt trong quá trình xây dựng nông thôn mới.......................……….………………71

3.1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn là nhân

tố thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế......................………………………....72

3.1.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là nhiệm vụ của

cả Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.....................................................73

3.2. Định hướng phát triển hệ thống hạ tầng knh tế xã hội nông thôn mới

huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đến năm 2020..................................................75

3.3. Giải pháp phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng

nông thôn mới............................................................................................................76

3.3.1. Tập trung đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển hạ

tầng kinh tế xã hội nông thôn....................................................................................77

3.3.2. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về tầm

quan trọng của mô hình nông thôn mới và xây dựng kết cấu hạ tầng

kinh tế xã hội trong nông thôn mới...........................................................................83

3.3.3. Đa dạng hóa nguồn vốn huy động và nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn...................................................................................................................86

3.3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế

xã hội nông thôn.......................................................................................................89

3.3.5. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và

công nghệ trong phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn...................................95

KẾT LUẬN .............................................................................................................96

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................98

5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1

2 CSHT Cơ sở hạ tầng

3 HĐND Hội đồng nhân dân

4 KCHT Kết cấu hạ tầng

5 KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình

Kinh tế xã hội 6 KT-XH

7 NTM Nông thôn mới

8 SX Sản xuất

9 THCS Trung học cơ sở

10 THPT Trung học phổ thông

11 UBND Ủy ban nhân dân

6

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Bảng Nội dung Trang

1 2.1 Kết quả phát triển hạ tầng giao thông nông thôn 50

2 2.2 Kết quả phát triển các công trình thủy lợi, thủy nông 53

3 2.3 Kết quả xây dựng các công trình cung cấp điện 55

4 2.4 Kết quả xây dựng hệ thống trường học 56

5 2.5 Kết quả xây dựng và phát triển các công trình y tế 57

Kết quả xây dựng các công trình văn hóa, thể dục 6 2.6 60 thể thao

7 2.7 Kết quả xây dựng mạng lưới bưu chính viễn thông 61

8 2.8 Kết quả phát triển hạ tầng mạng lưới chợ nông thôn 63

Định hướng phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội 9 3.1 75-76 nông thôn mới đến 2015

7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau gần 15 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa

(HĐH) nông nghiệp nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận

dân cư nông thôn được nâng cao, bộ mặt nông thôn đã từng bước thay đổi,

khang trang và sạch đẹp. Đó là nhờ trong những năm qua, Đảng và nhà nước

đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn,

trong đó điển hình là một số chương trình, dự án như: Chương trình Mục tiêu

quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm; Chương trình 135, Chương

trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án

5 triệu ha rừng… và một số chương trình, dự án lớn khác như: Phong trào

Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; Thực hiện quy chế dân chủ và

cải cách hành chính ở cơ sở; Phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn…

nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân mà

trọng tâm là nhằm xây dựng nông thôn mới (NTM) có kinh tế phát triển, đời

sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, ngang tầm với các

nước phát triển trong khu vực.

Huyện Lạng Giang là một huyện thuộc vùng trung du miền núi của tỉnh

Bắc Giang. Căn cứ thông báo kết luận số 238-TB/TW, ngày 07/4/2009 của

Ban Bí Thư Trung ương và Đề án “Chương trình xây dựng thí điểm mô hình

nông thôn mới” được Ban Bí thư thông qua. Đề án sẽ được triển khai trên 11

xã đại diện cho các vùng kinh tế - văn hoá. Trong đó, xã Tân Thịnh, huyện

Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là một trong 11 xã đại diện cho vùng trung du,

đáp ứng được các yêu cầu: Xã có điều kiện kinh tế xã hội ở mức trung bình

khá của tỉnh, thành phố và của vùng; Đại diện cho các vùng kinh tế - văn hoá

để thuận lợi cho việc tổ chức nhân rộng mô hình về sau; Nhân dân nhất trí

8

cao, đồng thuận, hăng hái và tự nguyện xin tham gia chương trình thí điểm

xây dựng mô hình nông thôn mới; Có đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình,

am hiểu về xây dựng nông thôn mới để chỉ đạo, tổ chức người dân và cộng

đồng thực hiện. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động tích cực, sâu sát với

đời sống của người dân.

Do điều kiện địa lý, tự nhiên khó khăn nên sự phát triển KT-XH của

huyện nói chung và phát triển hệ thống KCHT nói riêng còn ở trình độ rất

thấp. Để phát huy những kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo ở Tân Thịnh để

triển khai nhân rộng, huyện đã chú trọng tới công tác xây dựng NTM ở các xã

khác trong toàn huyện và nhận thức được tầm quan trọng của hạ tầng KT-XH,

huyện đã nỗ lực phát triển mạng lưới giao thông, thủy lợi, trạm y tế, đường

điện, các cơ sở giáo dục…, coi đây là tiền đề để xây dựng NTM. Dù vậy, trên

thực tế việc phát triển hạ tầng KT-XH tại huyện vẫn còn nhiều hạn chế bất

cập so với yêu cầu của mô hình NTM. Vấn đề này đang đặt ra nhiệm vụ hết

sức nặng nề cho cán bộ và nhân dân huyện Lạng Giang trên con đường rút

ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển so với các huyện trong

tỉnh cũng như trên phạm vi cả nước.

Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển hệ thống kết

cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới tại

huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ

kinh tế chính trị.

Thực hiện đề tài này, luận văn nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu sau:

+ Tại sao phải xây dựng mô hình nông thôn mới và hệ thống kết cấu hạ

tầng KT-XH trong mô hình nông thôn mới phải như thế nào?

+ Huyện Lạng Giang cần phải làm gì để sớm xây dựng được hệ thống

kết cấu hạ tầng KT-XH đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới?

9

2. Tình hình nghiên cứu

Xây dựng NTM là một đề án quan trọng nhằm thay đổi tích cực và toàn

diện bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được

công bố gần đây về vấn đề này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các

công trình tiêu biểu sau:

Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam của Đỗ Hoài Nam và Lê Cao Đoàn, Nxb Khoa học

xã hội, năm 2001. Công trình đã đề cập đến tầm quan trọng của phát triển hạ

tầng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn và những bất cập trong việc

phát triển hạ tầng ở nông thôn trong tiến trình kinh tế xã hội hiện nay. Đồng

thời đưa ra bài học kinh nghiệm về phát triển hạ tầng ở Thái Bình và một số

giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hạ tầng trong điều kiện mới.

Vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn

mới tại một số điểm vùng đồng bằng sông Hồng, Khóa luận tốt nghiệp

của Nguyễn Tuấn Nghĩa, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

năm 2011. Khóa luận đã đánh giá thực trạng vai trò của người dân trong xây

dựng nông thôn mới, xác định các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất một số giải

pháp chủ yêu để nâng cao vai trò người dân trong việc tham gia xây dựng mô

hình phát triển nông thôn mới.

Công trình: “Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa thế kỷ

cuối XX và một số định hướng đến năm 2010” của tác giả Trần Ngọc Bút

(2002), đã đi sâu nghiên cứu những chính sách, cơ chế, giải pháp cho phát

triển nông nghiệp, nông thôn… trong đó có đề cập đến một số chính sách phát

triển hạ tầng nông thôn.

Công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi

mới”, của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê năm 2003. Đây là công

10

trình nghiên cứu dài hơi rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có

tính thuyết phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm,

công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn

nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã

luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn

nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra

trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở

về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta

như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng

cạnh tranh, xuất khẩu nông sản... đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có

tính thuyết phục.

Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung nghiên cứu tới sự phát

triển của nền nông thôn Việt Nam từ sau đổi mới, nhưng kể từ khi Việt Nam

thực hiện Đề án nông thôn mới thì chưa có một công trình cụ thể nào, đi sâu

phân tích về cơ sở hạ tầng của nông thôn trong giai đoạn mới, nhất là trong

những huyện nghèo như Lạng Giang, Bắc Giang. Đây là khoảng trống mà đề

tài: “Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu xây

dựng nông thôn mới tại huyện Lạng Giang, Bắc Giang” sẽ cố gắng giải quyết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích của luận văn là trên cơ sở đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu

NTM của KCHT KT-XH, tìm ra nguyên nhân của những thành công và hạn

chế trong việc thực hiện quá trình này, từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy

quá trình xây dựng hệ thống KCHT đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM tại

huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

11

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ chủ

yếu sau:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về KCHT KT-XH nông

thôn trong điều kiện xây dựng mô hình NTM.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống KCHT KT-XH theo yêu cầu

xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang từ năm 2006 đến nay.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống KCHT

KT-XH đáp ứng yêu cầu NTM đến năm 2020.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình NTM và hệ thống KCHT

KT-XH nông thôn, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật và hệ

thống kết cấu hạ tầng văn hóa xã hội, trong đó tập trung vào nội dung phát

triển hệ thống KCHT theo yêu cầu xây dựng NTM.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi nội dung: Nghiên cứu một số yếu tố cơ bản của hệ thống kết

cấu hạ tầng KT-XH nông thôn trong điều kiện xây dựng NTM.

+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu hệ thống KCHT KT-XH nông thôn

tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến nay và những năm tới.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp chung: Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ

nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ

12

trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng mô hình NTM

và hệ thống KCHT KT-XH trong mô hình NTM.

- Phương pháp cụ thể:

Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh… để đánh

giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn. Ngoài ra,

luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học

giả trong nước về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn.

6. Đóng góp mới của luận văn

Về lý luận: Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nông

thôn, cơ sở hạ tầng nông thôn trong mô hình nông thôn mới.

Về thực tiễn: Chỉ ra những bất cập của hệ thống KCHT KT-XH nông

thôn huyện Lạng Giang so với yêu cầu của xây dựng NTM và đề xuất giải

pháp khắc phục.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm về phát triển hệ thống

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới.

Chương 2. Thực trạng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội

nông thôn của huyện Lạng Giang theo yêu cầu xây dựng mô hình nông thôn

mới.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng

kinh tế xã hội theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạng Giang,

tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2020.

13

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.1. Mô hình nông thôn mới

1.1.1. Khái niệm và bản chất của mô hình nông thôn mới

1.1.1.1. Khái niệm nông thôn

Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Nông thôn là vùng lãnh thổ của

một nước hay một số đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi

trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành

thị và dân chủ yếu làm nông nghiệp” [23, tr.578]. Khái niệm nông thôn được

xây dựng dựa trên cơ sở khái niệm thành thị. Nếu thành thị là một khu vực có

mật độ gia tăng các công trình kiến trúc do con người xây dựng so với các

khu vực quanh nó. Các đô thị có thể là thành phố, thị xã, trung tâm dân cư

đông đúc…, hoặc thành thị là từ chỉ chung các điểm dân cư kiểu thành phố

như các thị xã, thị trấn, thị tứ, khu dân cư công nghiệp thì nông thôn là khu

vực có những yếu tố như lãnh thổ, môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế…

khác với thành thị.

Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì nông thôn là khu vực có dân cư

chủ yếu làm nông nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, một số vùng nông thôn

nước ta hiện nay người dân không sống chủ yếu bằng nghề nông. Ví dụ như

làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) có tới 85% số hộ làm nón, 25% số hộ còn

lại làm nông nghiệp và các nghề phi nông nghiệp khác. Như vậy, dân cư ở

làng Chuông chủ yếu làm nghề làm nón – một nghề phi nông nghiệp nhưng

làng Chuông vẫn được coi là vùng nông thôn chứ không phải thành thị. Như

14

vậy, yếu tố “dân cư chủ yếu làm nông nghiệp” trong định nghĩa không tuyệt

đối đúng.

Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Nông thôn là phần lãnh thổ không

thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp

hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [2, tr.1]. Theo Thông tư này, khái

niệm nông thôn cũng được dựa trên khái niệm thành thị. Tuy nhiên trong khái

niệm này thì yếu tố dân cư lại không được đưa ra. Từ những khái niệm về

nông thôn trên, có thể định nghĩa: Nông thôn là vùng lãnh thổ không thuộc

nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, có tập hợp dân cư sinh sống. Tập hợp

dân cư này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường

trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.

1.1.1.2. Bản chất của mô hình nông thôn mới

Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Trung ương, nông thôn mới

là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hiện đại; cơ

cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với

phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị

theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân

tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời

sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần đó, nông thôn mới được thể hiện:

Thứ nhất là nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại.

Hai là sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa.

Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được

nâng cao.

Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển.

15

Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.

Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình

thực hiện cần phải giải quyết đồng bộ và toàn diện nhằm khơi dậy và phát huy

tốt vai trò người nông dân trong công cuộc xây dựng nông thôn mới ở nước ta

ngày càng văn minh, hiện đại .

1.1.2. Các tiêu chí chủ yếu của mô hình nông thôn mới

Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-

TTg ban hành “Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới” bao gồm 19 tiêu chí,

được chia thành 5 nhóm. Dưới đây xin đề cập một số tiêu chí cơ bản nhất:

1.1.2.1. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển

Quy hoạch là bố trí, sắp xếp địa điểm, diện tích sử dụng các khu chức

năng trên địa bàn xã: khu phát triển dân cư; hạ tầng KT-XH, các khu sản xuất

nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… theo chuẩn NTM theo Thông tư

hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM.

Để có mô hình nông thôn mới mang tính kế thừa và bổ sung, phát triển

mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề quy hoạch được đặt lên

hàng đầu, trở thành tiêu chí đầu tiên. Nếu quy hoạch không đi trước một bước

và không có chất lượng thì xây dựng nông thôn mới sẽ gặp khó khăn và

không đi đến đích, từ đó vấn đề quy hoạch nông thôn mới là khâu quan trọng,

có ý nghĩa quyết định trong vấn đề xây dựng nông thôn mới.

Tiêu chí quy hoạch thể hiện tính hợp lý trong sắp xếp, bố trí các khu

vực nông thôn, đảm bảo KCHT nông thôn được bền vững. Tiêu chí này gồm

ba nội dung:

- Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất

nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ: xác định

nhu cầu sử dụng đất cho bố trí vùng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật thiết yếu

16

phục vụ sản xuất hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và

dịch vụ…

- Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường theo chuẩn

mới: có khu thể thao xã, nhà văn hóa và khu thể thao thôn, bãi xử lý rác, hệ

thống cấp nước sạch, hệ thống thoát nước thải, công viên cây xanh, hồ nước

sinh thái…

- Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân

cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc.

1.1.2.2. Phát triển hạ tầng KT-XH

Hạ tầng KT-XH là các công trình được xây dựng để phục vụ cộng đồng

có ý nghĩa kinh tế và xã hội nhằm nâng cao đời sống cộng đồng nơi đó. Phát

triển hạ tầng KT-XH nông thôn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,

văn hóa – xã hội ở nông thôn. Bởi khi một khu vực nông thôn có phát triển về

hạ tầng kinh tế như có nhiều khu sản xuất tập trung, đường giao thông thuận

tiện cho thông thương… thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Hay tại vùng đó có các cơ sở hạ tầng văn hóa như y tế, văn hóa, giáo dục…

thì sẽ góp phần nâng cao đời sống của người dân.

Các chỉ tiêu chính về cơ sở hạ tầng KT-XH của NTM là:

- 100% đường trục xã đến ngõ được bê tông hóa hoặc cứng hóa

- 85% chiều dài kênh mương được kiên cố hóa

- 99% số hộ được sử dụng điện thường xuyên, an toàn.

- 100% số trường học các cấp (từ Mầm non đến THCS) có cơ sở vật

chất đạt chuẩn quốc gia.

- 100% số thôn có nhà văn hóa và khu thể thao.

17

- 90% số hộ có nhà ở kiên cố.

- Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông và có mạng Internet.

1.1.2.3. Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất

Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất là mục tiêu cơ bản của đề án

NTM. Phát triển kinh tế nhằm giúp người nông dân có đời sống ấm no, sung

túc hơn.

Các chỉ tiêu chính về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất của NTM là:

- Thu nhập bình quân đầu người/năm cao hơn 1,4 lần so với mức bình

quân chung của tỉnh.

- Tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%.

- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư

nghiệp nhỏ hơn 30%.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn 35%.

- Có tổ hợp tác xã hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.

1.1.2.4. Phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường

- Đạt phổ cập giáo dục trung học

- 85% học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ

thông, bổ túc, học nghề)

- 30% số người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế

- Y tế xã đạt chuẩn quốc gia

- Trên 70% số thôn, bản đạt tiêu chuẩn làng văn hóa

- 85% số hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia

- Các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường

18

1.1.2.5. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh

- Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” và

các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.

- An ninh, trật tự xã hội được giữ vững.

1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, xây dựng nông thôn mới để phát triển nông nghiệp nông thôn

theo hướng hiện đại

Nông nghiệp nước ta hiện nay còn chưa phát triển theo chiều sâu mà

chủ yếu phát triển theo bề rộng dựa trên những ưu đãi có sẵn của tự nhiên.

Những người làm nông nghiệp chủ yếu là người dân có trình độ thấp, quanh

năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, mức đầu tư vào công nghệ thấp,

hàm lượng kỹ thuật chế biến trong sản phẩm còn thấp trong đó chi phí sản

xuất cao, do đó giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hàng nông sản

luôn gặp khó khăn khi vượt qua các rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe của các

nước công nghiệp. Hơn nữa, khi gia nhập WTO, theo các hiệp định song

phương, đa phương chúng ta sẽ được hưởng các ưu ái thuế quan nhưng chúng

ta lại gặp các hàng rào phi thuế quan hết sức chặt chẽ. Các nước nhập khẩu

hàng nông sản của chúng ta đặt ra các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm,

các tiêu chuẩn về môi trường, sức khỏe cộng đồng… khắt khe khiến hàng hóa

của chúng ta nhiều khi đã vượt qua các rào cản thuế quan vẫn bị trả lại. Mặt

khác, hàng hóa xuất khẩu phải có chứng chỉ an toàn để chứng minh mặt hàng

nông sản luôn đảm bảo an toàn vệ sinh, chẳng hạn như chứng chỉ xác định

nguồn gốc, chứng chỉ báo cáo chất lượng… Đây thực sự là một trở ngại cho

nông nghiệp Việt Nam.

Thứ hai, xây dựng NTM để có quy hoạch phân bổ và sử dụng nguồn tài

nguyên (đất đai, nguồn nước…) hợp lý và hiệu quả.

19

Các quy hoạch về đất, mặt nước cho sản xuất lúa gạo, cây công nghiệp

ngắn ngày, cây dài ngày, chăn nuôi và thủy sản… chưa rõ ràng, chưa đủ cụ

thể để quản lý chặt chẽ theo yêu cầu của sản xuất từng loại cây trồng, vật

nuôi. Tình trạng quy hoạch sản xuất nông, lâm, thủy sản liên tục bị phá vỡ tạo

ra sự hỗn loạn trong sản xuất, hao phí vốn đầu tư của người nông dân, gây

khó khăn cho đời sống của họ.

Quy hoạch đất để sản xuất nông, lâm, thủy sản lâu dài, đất chuyển sang

làm kết cấu hạ tầng nông thôn và tạo mặt bằng để phát triển các hoạt động

công nghiệp, dịch vụ, thương mại nông thôn vẫn chưa được xác định.

Thứ ba, xây dựng NTM để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của người nông dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo

giữa nông thôn và thành thị.

Theo báo cáo về tình hình nông dân và hoạt động của Hội Nông dân

Việt Nam, nông dân hiện nay vẫn đa số là những hộ sản xuất quy mô nhỏ, có

tới 36% số hộ có dưới 0,2 ha đất canh tác. Thu nhập bình quân cư dân nông

thôn chỉ bằng 76,6% bình quân chung cả nước. 85% hộ nghèo của cả nước

sống ở nông thôn. Khoảng cách thu nhập của cư dân thành thị và nông thôn

quá xa và càng ngày càng rộng ra. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt

Nam, nếu như khoảng cách thu nhập trung bình giữa người giàu và người

nghèo ở Việt Nam là 8,9 lần trong năm 2008 thì đến năm 2011 mức này là 9,2

lần. Hơn nữa, các vấn đề xã hội ngày càng nhiều do trình độ nhận thức thấp

của người dân. Tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng gia

tăng. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và

không khí, làm cạn kiệt tài nguyên môi trường do khai thác tự phát.

Thứ tư, xây dựng NTM để thay đổi diện mạo nông thôn, thay thế nông

thôn truyền thống bằng nông thôn hiện đại.

20

Hệ thống KCHT KT-XH là điều kiện vật chất quan trọng, có tính

quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, sau

gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn

chưa đạt được nhiều thành tựu tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Bởi

lẽ:

Hệ thống hạ tầng KT-XH nông thôn trong thời gian qua đã có những

bước tiến đáng kể về lượng và về chất, song sự tiến triển đó vẫn chưa đáp ứng

được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH nông thôn. Về căn bản hệ thống hạ

tầng KT-XH nông thôn ở nước ta chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế, còn mang

đậm sắc thái hạ tầng KT-XH của những nước nền kinh tế chậm phát triển.

Hầu hết các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn đều đã được xây

dựng từ lâu, tập trung chủ yếu ở thời kỳ đổi mới. Các công trình hạ tầng KT-

XH nông thôn đó chưa làm thay đổi căn bản tình trạng lạc hậu, kém phát triển

của hệ thống hạ tầng KT-XH, mới chỉ là một bước cải thiện hệ thống hạ tầng

KT-XH cũ và đến nay đã xuống cấp.

Do đặc tính phục vụ cộng đồng, vì vậy việc duy trì bảo dưỡng các công

trình hạ tầng KT-XH nông thôn là một yêu cầu bức thiết đối với nâng cao

hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH. Nhu cầu phát triển hạ tầng

KT-XH nông thôn đòi hỏi vốn lớn, vì vậy trên thực tế là thiếu nguồn vốn để

đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn.

Phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn là do nỗ lực của từng vùng, từng

làng xã, do có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội…

vì vậy cũng có sự khác biệt về quy mô và trình độ phát triển hạ tầng KT-XH

của từng vùng, từng khu vực.

Trong những năm qua, phát triển hạ tầng nông thôn đều mang tính địa

phương, đậm tính tự phát, tuỳ tiện, thiếu một quy hoạch tổng thể. Vì vậy trên

21

thực tế đã biểu hiện: Không kết hợp được các loại hạ tầng trong một khối

thống nhất và đồng bộ; mang tính ngắn hạn không phù hợp với tiến trình

CNH, HĐH và đô thị hoá; khai thác nguồn vốn đầu tư bằng quan hệ xin, cho;

tuỳ tiện huy động đóng góp của dân; sử dụng tuỳ tiện đất công… Vì vậy, cần

xây dựng một nông thôn mới, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trên.

1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong mô

hình nông thôn mới

1.2.1. Khái niệm và các bộ phận hợp thành của hệ thống kết cấu hạ

tầng KT-XH ở nông thôn

1.2.1.1. Khái niệm

Cho đến nay, quan niệm về kết cấu hạ tầng vẫn còn có nhiều ý kiến

khác nhau. Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông thì: “Cơ sở hạ tầng là tổng thể

các ngành kinh tế, các ngành công nghệ dịch vụ” [15, tr.153]. Cụ thể cơ sở hạ

tầng bao gồm: Việc xây dựng đường xá, kênh đào tưới nước, bãi cảng, cầu

cống, sân bay, kho tàng, cơ sở cung cấp năng lượng, cơ sở kinh doanh, giao

thông vận tải, bưu điện, cấp thoát nước, cơ sở giáo dục, khoa học, y tế, bảo vệ

sức khoẻ... PGS. TS Lê Du Phong cho rằng kết cấu hạ tầng là “tổng hợp các

yếu tố và điều kiện vật chất - kỹ thuật được tạo lập và tồn tại trong mỗi quốc

gia, là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động KT-XH...” [16, tr.5].

TS Mai Thanh Cúc quan niệm kết cấu hạ tầng là: “hệ thống các công

trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và

nâng cao chất lượng cuộc sống”. Cơ sở hạ tầng bao gồm cung cấp nước, tưới

tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, giao thông, thông tin liên

lạc... Còn theo PGS. TS Đỗ Hoài Nam thì cho rằng hạ tầng “là khái niệm

dùng để chỉ những phương tiện làm cơ sở nhờ đó các quá trình công nghệ,

quá trình sản xuất và các dịch vụ được thực hiện” [2, tr.14]. Có quan niệm

22

cho rằng hạ tầng KT-XH được sử dụng để chỉ: “những hạ tầng đa năng phục

vụ cho cả kinh tế và xã hội; hoặc trong trường hợp để chỉ những hạ tầng

chuyên dùng phục vụ trong hoạt động kinh tế và văn hoá, xã hội khi cùng đề

cập đến cả hai loại hạ tầng phát triển KT-XH nói chung” [6, tr.158]. Quá trình

sản xuất cần có người lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu

sản xuất có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những

cơ sở phương tiện chung nhờ đó mà quá trình công nghệ, sản xuất và dịch vụ

được thực hiện. Bộ phận này chính là cơ sở hạ tầng, kết cấu hạ tầng hay hạ

tầng. Như vậy mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, cụm từ khác nhau

nhưng các quan điểm, ý kiến này đều cho rằng: Cơ sở hạ tầng hoặc kết cấu hạ

tầng hay hạ tầng đều là những yếu tố vật chất làm nền tảng cho các quá trình

sản xuất và đời sống xã hội hình thành và phát triển.

Với quan niệm về hạ tầng như vậy, cùng với sự phát triển của cuộc

cách mạng khoa học công nghệ làm cho hạ tầng không những có vai trò quan

trọng trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong

phát triển xã hội. Tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội có một

loại hạ tầng tương ứng chuyên dùng. Hạ tầng trong kinh tế phục vụ cho hoạt

động kinh tế, hạ tầng trong quân sự phục vụ cho hoạt động quân sự, hạ tầng

trong lĩnh vực giáo dục, y tế phục vụ cho hoạt động giáo dục, y tế… Trong

thực tế cũng có những loại hạ tầng đa năng có tầm hoạt động rộng lớn, có tác

động nhiều mặt như: Hạ tầng giao thông vận tải, điện năng, thuỷ lợi… Đó là

những hệ thống hạ tầng trong khi tồn tại và vận hành không chỉ phục vụ cho

một hoạt động ví dụ như hoạt động kinh tế mà còn phục vụ cho nhiều hoạt

động khác. Do đó khái niệm hạ tầng KT-XH được sử dụng để chỉ những hạ

tầng có tính đa năng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội hoặc để

chỉ cho những hạ tầng chuyên dùng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực

xã hội khi cùng đề cập đến.

23

Trong điều kiện kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng - tài chính giữ

vai trò là nền tảng cho các hoạt động kinh tế. Nó là cơ quan vận hành và cung

ứng vốn cho nền kinh tế vận hành và phát triển. Do vậy, hoạt động của hệ

thống tài chính, ngân hàng giữ vai trò hết sức quan trọng trong vận hành của

toàn bộ nền kinh tế. Với vai trò là nền tảng, hệ thống tài chính, ngân hàng

cũng được coi là một loại hạ tầng mang tính thiết chế của nền kinh tế thị

trường hiện đại. Trong điều kiện hiện tại của sự phát triển và trong nền kinh tế

thị trường hiện đại, tôi thống nhất với PGS. TS Đỗ Hoài Nam cho rằng: “Hạ

tầng KT-XH của xã hội hiện đại là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những

phương tiện và thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho KT-XH phát triển” [2,

tr.16].

Thực tế cho thấy, hạ tầng KT-XH ngày càng đóng vị trí quan trọng

trong sự phát triển KT-XH của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hạ

tầng KT-XH là một trong những chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức độ phát triển

của một quốc gia. Bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào muốn phát triển

thì đều cần có một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và đồng bộ, điều đó

cũng có nghĩa là phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phải xem nó là nền tảng,

là điều kiện tiền đề vật chất để thúc đẩy các hoạt động KT-XH phát triển.

Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa, khái niệm thống nhất về nông thôn

nhưng về cơ bản khái niệm nông thôn thường được đặt trong mối quan hệ so

sánh với khái niệm đô thị. Căn cứ vào điều kiện thực tế và xét dưới giác độ

quản lý thì PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông cho rằng “Nông thôn là vùng khác

với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân sống và làm việc, có

mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ tầng kém phát triển, có trình độ dân trí,

trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp hơn” [5, tr.62]. Xét trên

giác độ nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất đặc thù thì PGS. TS Đỗ Hoài

Nam cho rằng “Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ những khu vực dân cư

24

sinh hoạt có hoạt động nông nghiệp, dựa trên hoạt động nông nghiệp” [2,

tr.16]. Các quan điểm này đều khẳng định rằng các cư dân sống ở nông thôn

chủ yếu là nông dân và làm nghề nông, đây là hoạt động chủ yếu của các

ngành sản xuất vật chất nông, lâm, ngư nghiệp, các ngành nghề sản xuất kinh

doanh và dịch vụ phi nông nghiệp và dân cư của xã hội nông thôn là dân cư

của xã hội chậm phát triển. Tuy nhiên khái niệm nông thôn chỉ có tính tương

đối, một vùng nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát

triển KT-XH của quốc gia cũng như từng địa phương.

Du có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở chỗ

coi hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn trước hết là gắn với sở hữu

của làng, xã. Sau nữa là gồm những phương tiện làm cơ sở cho sự phát triển

KT-XH trên địa bàn nông thôn. Chúng tôi tán thành với quan niệm của GS.TS

Đỗ Hoài Nam và PGS.TS Lê Cao Đoàn trong cuốn sách “Xây dựng hạ tầng

cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,

đó là: Hạ tầng KT-XH nông thôn là những cơ sở vật chất và thiết chế cung

cấp dịch vụ cho sinh hoạt kinh tế, xã hội, dân sinh trong cộng đồng làng xã và

do làng xã quản lý, sở hữu và sử dụng, làm nền tảng cho sự phát triển KT-XH

nông thôn. Hạ tầng KT-XH ở nông thôn bao gồm hạ tầng KT-XH cho toàn

ngành nông nghiệp và nông thôn của vùng, của làng, xã và nó được hình

thành, sử dụng vì mục đích phát triển KT-XH của làng, xã.

1.2.1.2. Các bộ phận cấu thành của hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH

nông thôn

Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH được cấu thành bởi hệ thống kết cấu

hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng văn hóa – xã hội.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật bao gồm:

- Hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn (GTNT)

25

Mạng lưới đường GTNT là hệ thống các tuyến đường nằm trên địa bàn

nông thôn phục vụ cho việc giao lưu trong địa bàn và với bên ngoài. Hệ thống

này bao gồm các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn, liên bản... Hệ

thống này được ví như hệ thống như "mạch máu" trong cơ thể con người, nó

kết nối các quốc lộ, tỉnh lộ cùng với các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên

thôn tạo ra. Hiện nay đường GTNT chiếm khoảng trên 80% tổng chiều dài

mạng lưới đường giao thông toàn quốc [4, tr.126], mặc dù đã có những cải

thiện lớn nhưng chất lượng mạng lưới đường huyện, xã ở nhiều địa phương

còn thấp, đi lại, lưu thông hàng hoá còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được

yêu cầu của CNH, HĐH nông thôn.

Phát triển giao thông là phát triển yếu tố cần thiết và đặc biệt quan

trọng trong đời sống kinh tế, xã hội nông thôn. Mạng lưới giao thông là huyết

mạch của nền kinh tế. Hệ thống GTNT phát triển sẽ gắn kết giữa các vùng

nông thôn, giữa nông thôn với thành thị. Nó tạo các mối liên kết không gian

và giao lưu giữa các luồng hàng hoá giữa thành thị và nông thôn. Khi sản xuất

hàng hoá phát triển thì giao thông vận tải có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc

tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá từ đơn vị, cơ sở cung cấp đến

nơi chế biến, đến thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đường giao thông vươn tới

đâu thì các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), cơ sở sản xuất,

trường học, bệnh viện…thị trường hàng hoá, thị trường thương mại và dịch

vụ phát triển đến đấy. Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ góp phần giảm chi phí

vận chuyển do đó giảm được chi phí sản xuất, làm cho giá cả các sản phẩm

hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng giảm đi nhiều, nâng cao tính cạnh

tranh, mở rộng thị trường. Đồng thời, nó tạo cơ hội giao lưu giữa các vùng

miền, tạo điều kiện thuận tiện cho việc đi lại của các tầng lớp dân cư có thể dễ

dàng tiếp cận với các dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế… Thực tế cho thấy, hệ

26

thống giao thông yếu kém là một khó khăn trở ngại to lớn đối với phát triển

nông thôn.

- Hệ thống hạ tầng thủy lợi, thủy nông

Hệ thống thuỷ lợi nông thôn bao gồm toàn bộ hệ thống công trình phục

vụ cho việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước (nước mặt và nước ngầm)

và cho việc hạn chế những tác hại do nước gây ra đối với sản xuất, đời sống

và môi trường sinh thái. Các công trình chủ yếu thuộc hệ thống thuỷ lợi bao

gồm: Hệ thống các hồ đập giữ nước; hệ thống các trạm bơm tưới, tiêu; hệ

thống đê sông, đê biển; hệ thống kênh mương.

Nông nghiệp là ngành sản xuất có đối tượng là các thực thể sống (cây

trồng, vật nuôi) nên nguồn nước đóng vai trò vô cùng quan trọng. Với những

nước thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là mưa bão, lụt lội,

hạn hán… thì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn luôn gắn bó mật thiết

với sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi. Việc hình thành các hệ thống thuỷ

nông nó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông

thôn. Nó đã góp phần quan trọng vào việc trong việc khắc phục tình trạng

hoang hoá, mở rộng diện tích canh tác; đảm bảo cung cấp nước tưới tạo điều

kiện cho việc thâm canh, tăng vụ và đặc biệt đã tạo sự chuyển đổi cơ cấu cây

trồng; góp phần cung cấp nguồn nước cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt

của dân cư; hạn chế và kịp thời khắc phục những hậu quả của thiên tai như

bão, lụt... Đặc biệt, sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi thường đi kèm với sự

phát triển của hệ thống giao thông. Trên mỗi tuyến đê qua các vùng nông

thôn, các cụm dân cư đã hình thành tuyến giao thông của các làng, xã (mạng

lưới GTNT). Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống thuỷ lợi còn tác động trực

tiếp đến công tác cải tạo, bảo vệ môi trường… Do vậy, việc xây dựng, phát

triển hệ thống thủy lợi nhằm đảm bảo tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông

27

nghiệp cũng như nhằm hạn chế và kịp thời khắc phục những hậu quả của

thiên tai là một yêu cầu bức thiết với các vùng nông thôn hiện nay.

- Hệ thống hạ tầng cung cấp điện nông thôn

Hệ thống điện nông thôn là toàn bộ các yếu tố cơ sở vật chất làm nền

tảng cho việc cung cấp điện sử dụng vào các hoạt động sản xuất và phục vụ

sinh hoạt nông thôn. Hệ thống này bao gồm mạng lưới đường dây tải điện từ

nguồn cung cấp, hệ thống các trạm hạ thế, mạng lưới phân phối và dẫn điện

tới các dụng cụ sử dụng điện. Ở các vùng sâu, vùng xa còn bao gồm trạm thuỷ

điện nhỏ... Nguồn năng lượng điện có vai trò rất quan trọng trong quá trình

phát triển của các vùng nông thôn. Điện là nguồn năng lượng phục vụ cho

sinh hoạt hàng ngày của các hộ gia đình, trước hết là thắp sáng cho từng gia

đình cũng như cả cộng đồng. Điện còn được dùng cho công tác thuỷ lợi, tưới

tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điện góp phần thúc đẩy các ngành sản

xuất trong nền kinh tế, đó là các ngành công nghiệp chế biến, các hoạt động

sản xuất các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, thương mại. Nói chung, có điện

sẽ giải quyết nhiều vấn đề mà quan trọng nhất là góp phần cải thiện mọi mặt

đời sống của người dân. Có điện sẽ mang lại văn minh cho khu vực nông

thôn, tạo tiền đề cho hình thành và xây dựng nếp sinh hoạt văn hoá mới cho

cư dân nông thôn, góp phần xoá bỏ sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.

Hiện nay, mạng lưới điện quốc gia đã được phủ khắp đất nước. Tuy nhiên,

nhiều vùng nông thôn vẫn chưa có điện, đặc biệt là những vùng xa xôi, khó

khăn, chất lượng nguồn điện cung cấp chưa cao, tỷ lệ tiêu hao điện ở khu vực

nông thôn còn ở mức cao, phần đóng góp của người dân vào việc xây dựng hệ

thống điện còn lớn, giá điện ở nông thôn thường cao hơn so với thành thị. Do

vậy, việc quy hoạch và phát triển đồng bộ hệ thống điện nhằm đảm bảo đủ

điện cho sản xuất và sinh hoạt, giảm mức tổn thất điện năng là yêu cầu bức

thiết với nông thôn hiện nay.

28

- Hệ thống hạ tầng mạng lưới chợ, cửa hàng, kho bãi nông thôn

Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống chợ, cửa hàng, kho bãi có vai trò

quan trọng đối với các hoạt động trao đổi, buôn bán các mặt hàng nông sản,

vật tư nông nghiệp, công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất

và đời sống sinh hoạt của cư dân. Thực tế cho thấy, những khu vực nào kinh

tế phát triển thì hệ thống chợ, cửa hàng buôn bán… cũng phát triển theo

không chỉ gia tăng về quy mô mà cả về mật độ phân bố nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho các hoạt động giao dịch mua bán.

Với đa số các vùng nông thôn, chợ đã hình thành khá sớm trong lịch

sử. Đó không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán, nhiều khi

còn là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa - xã hội khác. Chợ nông thôn ra đời

và phát triển do nhu cầu trao đổi hàng hóa. Địa điểm xây dựng chợ cũng được

lựa chọn đặt ở những nơi thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hóa và đi lại

của dân cư khi họp chợ. Nhiều chợ đã tồn tại lâu đời và đến nay vẫn được ổn

định, duy trì. Tuy nhiên, về cơ bản chợ nông thôn có quy mô nhỏ, hàng hoá

còn đơn điệu, chủ yếu là những sản vật trong vùng (nhất là nông sản) và

những vật dụng cần cho sản xuất và sinh hoạt thường ngày của người dân.

Cùng với sự phát triển KT-XH của các vùng nông thôn, mạng lưới chợ

cũng phát triển mở rộng và đa dạng về loại hình, bao gồm: Chợ bán lẻ, chợ

bán buôn, chợ đầu mối, chợ vừa bán buôn vừa bán lẻ, chợ kinh doanh tổng

hợp, chợ chuyên doanh... với sự kết hợp các quy mô và phân bố rộng khắp

các địa bàn. Nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống, nhất là với sự hình thành

các KCN, CCN, khu đô thị mới, khu dân cư mới ở khu vực nông thôn đã cho

ra đời những chợ mới để đáp ứng nhu cầu mua bán tiêu thụ hàng hóa, sản

phẩm nông sản. Ngoài chợ, còn có các loại hình cửa hàng bách hóa, siêu thị

nhỏ và đặc biệt là mạng lưới cửa hàng, điểm bán hàng thường tập trung ở các

29

cụm dân cư, ở các tuyến giao thông có lưu lượng hành khách qua lại đông

đúc. Mạng lưới này cùng với các chợ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với

việc cung ứng hàng hóa - dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Bên cạnh đó, do nhu

cầu phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, trên địa bàn nông thôn còn

có hệ thống kho bãi có chức năng lưu trữ, bảo quản nông sản, hàng hóa. Thực

tế cho thấy, xây dựng và phát triển các loại hình chợ, cửa hàng buôn bán, hệ

thống kho tàng, bến bãi ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát

triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Điều đó đòi hỏi huy động mạnh mẽ

các nguồn lực của cả nhà nước và cộng đồng cư dân nông thôn.

- Hệ thống hạ tầng thông tin - viễn thông nông thôn

Hệ thống thông tin bao gồm mạng lưới cơ sở vật chất, các phương tiện

phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trao đổi thông tin đáp ứng nhu cầu sản

xuất và đời sống ở nông thôn. Hệ thống thông tin và viễn thôn bao gồm:

Mạng lưới bưu điện; điện thoại; internet; mạng lưới truyền thanh... Hiện nay,

theo xu thế phát triển của xã hội loài người hệ thống thông tin liên lạc ngày

càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và khoa học

kỹ thuật - công nghệ. Cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc hiện đại bao gồm các

mạng viễn thông cơ bản, các tiêu chuẩn về trao đổi dữ liệu và một số phần

mềm để đảm bảo sự vận hành liên tục của toàn bộ hệ thống thông tin trong và

ngoài nước.

Đối với nông thôn, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị

trường, thông tin đóng vai trò ngày càng quan trọng, không những với phát

triển kinh tế mà cả vấn đề văn hoá, xã hội khác. Thực tế cho thấy, thông tin

ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Các hộ gia đình nông dân, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cần

biết nhiều thông tin, về thời tiết, về chủ trương, chính sách của nhà nước, về

30

tình hình biến động của thị trường, giá cả, về nhu cầu thị trường… một cách

nhanh chóng, kịp thời để ra quyết định sản xuất kinh doanh, mua hàng hoá và

tiêu thụ nông sản. Nói cách khác, thông tin đóng vai trò là một chỉ báo cho

các quyết định của các chủ thể kinh doanh. Do vậy, việc cung cấp thông tin

cho khu vực nông thôn là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt trong bối

cảnh tình hình KT-XH trong nước cũng như quốc tế đầy biến động như hiện

nay. Để thực hiện điều đó cần phải có một hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc

đầy đủ, hoàn chỉnh, hiện đại và đồng bộ.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc

biệt là lĩnh vực điện tử - tin học và viễn thông làm cho hạ tầng cơ sở thông tin

phát triển cực kỳ nhanh chóng và hiện đại, luôn luôn được đổi mới và hoàn

thiện đã mở ra khả năng vô cùng to lớn có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời, chính

xác nhu cầu thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực

nông thôn. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc đầu tư xây dựng, phát triển hệ

thống hạ tầng thông tin liên lạc đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cùng các điều

kiện vật chất cũng như nguồn lực con người. Với nông thôn, khi các nguồn

lực, nhất là nguồn vốn còn hạn chế thì để có được hệ thống hạ tầng thông tin

liên lạc đáp ứng được các yêu cầu phát triển thì nhà nước cần đóng vai trò

hàng đầu trong đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật thông tin và

phát triển mạng lưới thu thập, theo dõi, nghiên cứu và cung cấp thông tin.

Hệ thống kết cấu hạ tầng văn hóa – xã hội nông thôn bao gồm:

- Hệ thống hạ tầng giáo dục - đào tạo ở nông thôn

Ở nông thôn, cơ sở hạ tầng cho giáo dục - đào tạo bao gồm hệ thống

các trường mầm non, tiểu học, THCS, THPT, các trường dạy nghề và các cơ

sở đào tạo nghề cho người lao động.

31

Phát triển giáo dục - đào tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng

đối với sự phát triển KT-XH của một quốc gia. Kinh nghiệm nhiều nước cho

thấy, trong tiến trình CNH, HĐH trước sự phát triển nhanh chóng của khoa

học – công nghệ hiện đại, nguồn lực con người đã trở thành một trong những

nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp CNH, HĐH. Để

tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động được đào tạo,

có kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức, trách nhiệm, có khả năng tìm tòi sáng

tạo… với công việc mà đó chính là kết quả của các hoạt động phát triển hạ

tầng ngành giáo dục - đào tạo. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng đối

với các vùng nông thôn.

Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, xã hội, mạng lưới các cơ sở

giáo dục - đào tạo đã và đang được mở rộng, phát triển khắp các địa bàn, từ

thành thị đến nông thôn, đến tận những vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh. Tuy

nhiên, đối với các vùng nông thôn, sự thiếu hụt và thấp kém về cơ sở hạ tầng

giáo dục vẫn đang là một thách thức lớn với nhiều quốc gia nhằm mục tiêu

phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng.

Do vậy, phát triển hạ tầng giáo dục - đào tạo ở khu vực nông thôn là

vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay. Sự việc mở mang, phát triển về số lượng,

nâng cấp về cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục - đào tạo sẽ góp phần quan

trọng vào việc nâng cao trình độ dân trí, đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực

có trình độ văn hoá, kỹ năng nghề nghiệp phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-

XH không chỉ cho khu vực nông thôn mà còn tạo khả năng cung cấp nhân lực

cho các đô thị và cả nền kinh tế.

- Hệ thống hạ tầng y tế và chăm sóc sức khoẻ dân cư nông thôn

Hệ thống hạ tầng y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng dân cư ở nông

thôn bao gồm các loại hình bệnh viện (trung tâm huyện, liên xã), phòng khám

32

đa khoa, trung tâm y tế dự phòng, trung tâm KHHGĐ, các phòng khám

chuyên khoa, trạm y tế xã, các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền, các cơ

sở cung cấp, kinh doanh dược phẩm, thuốc chữa bệnh…

Cùng với sự phát triển KT-XH ở các vùng nông thôn, mạng lưới y tế,

chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các vùng nông thôn đã từng bước được mở

rộng, nâng cấp, góp phần thực hiện và triển khai các chương trình quốc gia, y

tế dự phòng, khám chữa bệnh ban đầu, điều trị, chăm sóc sức khoẻ cho nhân

dân và phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên, ở nhiều vùng nông thôn hiện nay,

nhất là các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hải đảo hệ thống hạ tầng y tế

còn thấp kém, hầu hết là các trạm y tế tuyến xã với cơ sở vật chất nghèo nàn,

trang thiết bị y tế thiếu thốn, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa

bệnh ban đầu và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Trong sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn, việc chăm sóc, bảo vệ sức

khoẻ cho cộng đồng cư dân ở nông thôn là yêu cầu hết sức cấp thiết, vừa là

mục tiêu, vừa là yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Do

vậy, việc xây dựng, cải tạo nâng cấp và phát triển hệ thống hạ tầng y tế sẽ

đóng vai trò là yếu tố mở đường cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe

nhân dân.

- Hệ thống hạ tầng văn hoá nông thôn

Các cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành văn hoá nông thôn hiện nay

bao gồm: Các trung tâm văn hoá huyện (các trung tâm này còn thực hiện chức

năng khác như rạp chiếu phim, tổ chức các hội nghị…); nhà văn hoá cấp xã,

thôn; đình và một loại hình khá phổ biến là các trạm bưu điện văn hóa xã.

Nông thôn là nơi bảo tồn, lưu truyền và giữ gìn bản sắc văn hoá dân

tộc. Ở nơi đó, những truyền thống, phong tục, tập quán cao đẹp của dân tộc đã

được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn

33

hoá dân tộc là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp CNH,

HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.

Thực tế, cùng với sự phát triển KT-XH, ngày càng nhiều các hoạt động

văn hóa, đặc biệt là các lễ hội truyền thống đã được khôi phục, duy trì và phát

triển góp phần đáng kể vào xây dựng nông thôn văn hóa mới, tôn trọng, gìn

giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc trong cộng đồng dân tộc. Tuy

nhiên, cũng có lúc văn hoá nông thôn trong thời gian chưa được chú ý đầu tư

phát triển tương xứng. Ở nhiều vùng nông thôn, cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ

thống thiết chế văn hoá từ cấp huyện đến xã còn thiếu thốn, số huyện, xã có

thư viện, rạp chiếu phim còn rất ít, nhà văn hoá còn thô sơ lồng ghép. Nhiều

vùng nông thôn còn tồn tại các hủ tục lạc hậu như mê tín dị đoan, tế lễ đình

đám, cưới hỏi, ma chay… không phù hợp với phong tục tập quán và truyền

thống của dân tộc, gây lãng phí lớn.

Do vậy, việc mở mang, phát triển hạ tầng văn hóa nông thôn như phát

riển các trung tâm văn hóa, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, thư viện… là hết

sức cần thiết. Một mặt, nó góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn

hóa nông thôn mới, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, mặt khác nó

còn góp phần hạn chế và tiến tới xóa bỏ các hoạt động mê tín dị đoan, các hủ

tục lạc hậu đã tồn tại lâu dài ở nông thôn.

Thực tế, hạ tầng KT-XH ở nông thôn cũng mang những tính chất, đặc

trưng của hạ tầng KT-XH nói chung và là nền tảng vật chất, cung cấp dịch vụ

cho hoạt động KT-XH của toàn ngành nông nghiệp và nông thôn, của vùng và

của làng, xã. Hiện nay, hạ tầng KT-XH ở nông thôn thường được phân chia

thành hạ tầng kinh tế - kỹ thuật như: Hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông,

hệ thống cung cấp điện, hệ thống thông tin liên lạc, cấp thoát nước… và hạ

34

tầng văn hóa - xã hội như: Các cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở y tế, các công

trình văn hoá và phúc lợi xã hội khác.

Khi xem xét về kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn cũng cần thấy rằng,

sự phát triển của mỗi làng, xã không thể chỉ xem xét trên phạm vi hẹp với

những kết cấu hạ tầng KT-XH gắn với nó, xét theo địa lý và lĩnh vực: Đường

xá giao thông, công trình thuỷ lợi, các công trình văn hoá, y tế, giáo dục…, vì

trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, sự gắn kết và ảnh hưởng lan toả

giữa các làng xã, giữa các huyện, giữa thành thị và nông thôn khá rõ nét kể cả

trong phát triển và giao lưu kinh tế. Do vậy sẽ có một số công trình trong kết

cấu hạ tầng KT-XH như các tuyến đường liên xã, liên huyện, các hệ thống

thuỷ nông, trạm bơm, trạm điện… tuy không thuộc quyền sở hữu của một

làng xã nhất định, nhưng lại phục vụ cho hoạt động KT-XH của nhiều xã hoặc

cả vùng thì những hạ tầng này cũng thuộc phạm vi của kết cấu hạ tầng KT-

XH nông thôn. Những kết cấu hạ tầng KT-XH đó thường nằm trong phạm vi

quản lý của các ban ngành thuộc bộ máy chính quyền cấp huyện hoặc ngành

dọc cấp Sở (như hệ thống thuỷ nông thuộc quyền quản lý của Sở

NN&PTNT). Thực tế, cộng đồng dân cư của các xã vừa được hưởng lợi từ

khai thác từ sử dụng, vừa có nghĩa vụ tham gia vào quản lý, bảo vệ và duy tu

bảo dưỡng các kết cấu hạ tầng này.

Nhìn chung, ở nước ta trong suốt chiều dài lịch sử phát triển ở các vùng

nông thôn đã hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng KT-XH phục vụ cho sản

xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, như: Hệ thống đường giao thông, hệ

thống thuỷ lợi, chợ... Hệ thống này phục vụ cho nhiều hoạt động kinh tế, xã

hội khác nhau. Việc thiếu những cơ sở này có thể gây ra nhiều tác động tiêu

cực đến sự phát triển KT-XH của cả vùng nông thôn. Nếu không có đường xá

thì không thể có hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách; không có chợ,

cửa hàng, kho tàng thì không thể tổ chức các hoạt động mua bán và trao đổi

35

hàng hoá… Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hệ thống hạ

tầng KT-XH nông thôn trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

hiện nay. Chính sự phát triển của hạ tầng KT-XH sẽ góp phần tạo bước phát

triển đột phá thúc đẩy KT-XH nông thôn, gắn kết kinh tế giữa các vùng, miền

và từ đó phát huy được thế mạnh kinh tế của mỗi địa phương phù hợp với quy

luật chung của kinh tế thị trường.

1.2.2. Yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội

trong mô hình nông thôn mới

Phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc

biệt đối với sự phát triển của toàn vùng nông thôn nhưng cũng bao hàm phạm

vi rộng lớn. Việc phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn chính là xây dựng,

phát triển các công trình vật chất phục vụ sản xuất và đời sống của cư dân

nông thôn. Nói cách khác, mục tiêu của phát triển hạ tầng KT-XH ở nông

thôn là để phục vụ sản xuất, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất, nâng cao đời

sống, mức sống dân cư nông thôn. Việc này liên quan đến tất cả các mặt của

đời sống cư dân ở khu vực nông thôn xuất phát từ nhu cầu đa dạng của cư dân

nông thôn. Đó là các nhu cầu đi lại, nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và sinh

hoạt, nhu cầu được dùng nước sạch, môi trường vệ sinh sạch sẽ, nhu cầu sử

dụng các dịch vụ giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng…Thực tế

cho thấy, các mặt trên chỉ có thể tách bạch một cách tương đối về mặt lý

thuyết, còn trong thực tiễn, chúng có mối liên hệ đan xen nhau. Việc tách

bạch chúng về mặt lý thuyết là cần thiết để nhận thức rõ nét từng mặt nhưng

trong thực tiễn, do chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên các hoạt động

diễn ra trên mặt này không thể không tính đến mức độ ảnh hưởng của chúng

và sự đảm bảo nội dung của các mặt khác. Do vậy, trong phát triển hạ tầng

KT-XH nông thôn đáp ứng yêu cầu NTM cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

36

Thứ nhất, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn cần phải phải đi trước

một bước, thể hiện tính tiên phong, mở đường cho sự phát triển KT-XH. Điều

này xuất phát từ yêu cầu của việc tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh có

tính cạnh tranh, từ vị trí, vai trò của hạ tầng KT-XH ở nông thôn và yêu cầu

khai thác có hiệu quả những tiềm năng của các vùng nông thôn nhằm thực

hiện các mục tiêu phát triển KT-XH trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập

kinh tế quốc tế. Với một nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp, khi nông

nghiệp nông thôn còn đóng vai trò quan trọng thì việc xây dựng một hệ thống

hạ tầng KT-XH hoàn thiện và đồng bộ ở nông thôn sẽ góp phần tạo tiền đề

đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp theo đó, sự phát triển của

khu vực nông nghiệp và nông thôn sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển

của các ngành, lĩnh vực và khu vực khác của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh

tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao mức sống của người

nông dân nói riêng và của toàn xã hội nói chung, đồng thời sẽ góp phần giảm

bớt nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, nếu hạ tầng phát triển

chậm hơn hay không đủ so với nhu cầu thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu

của sản xuất. Nhưng ngược lại, nếu hạ tầng phát triển quá nhanh so với nhu

cầu thì sẽ không phát huy được hiệu quả. Do đó, một vấn đề đặt ra là phải xây

dựng một cơ cấu hợp lý giữa đầu tư cho hạ tầng và đầu tư cho sản xuất. Kinh

nghiệm thực tiễn cho thấy, hạ tầng cần phải được phát triển nhanh hơn sản

xuất, tức là đầu tư cho hạ tầng phải tăng nhanh hơn đầu tư cho sản xuất.

Thứ hai, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo nâng cao

cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và môi trường. Đây là xu hướng khách

quan nhưng tất yếu nhằm tạo việc làm mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm

nghèo và phát triển kinh tế, đảm bảo môi trường bền vững, thực hiện công

bằng xã hội ở nông thôn và đối với nông dân. Do nguồn lực cho phát triển hạ

tầng KT-XH ở nông thôn không phải lúc nào cũng dồi dào, sẵn có mà việc

37

đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH nông thôn cũng không phải là các hoạt động

đầu tư kinh doanh đơn thuần có thể mang lại lợi nhuận cao. Lĩnh vực đầu tư

phát triển hạ tầng KT-XH không chỉ đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà nó còn là lĩnh

vực đầu tư thu hồi vốn chậm, có những lúc không thu hồi vốn (đầu tư hạ tầng

công cộng) phục vụ cho xã hội. Do vậy khi đầu tư phát triển hạ tầng phải hết

sức cân nhắc, tính toán giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội tránh tình

trạng quá tập trung, quá tính toán lợi ích kinh tế mà lãng quên đến lợi ích xã

hội mà hạ tầng mang lại. Cần thiết phải tính toán, cân nhắc để xác định chiến

lược và bước đi của phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn để vừa đảm bảo

hiệu quả về mặt kinh tế, đồng thời có thể mang lại những hiệu quả về mặt xã

hội, môi trường. Điều đó cho thấy, nhà nước cần phải có các chính sách và

giải pháp phù hợp nhằm huy động đa dạng các nguồn lực trong xã hội bên

cạnh việc gia tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng

KT-XH nông thôn. Trong những điều kiện cụ thể, nhất là xét về lâu dài, có

thể phải ưu tiên hiệu quả xã hội bên cạnh hiệu quả kinh tế. Và muốn đảm bảo

hiệu quả kinh tế, xã hội thực sự bền vững phải đảm bảo cả hiệu quả môi

trường, cải thiện môi trường sinh thái nông thôn, tôn tạo cảnh quan, giữ gìn

bản sắc dân tộc, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Thứ ba, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo duy trì sự

ổn định xã hội ở vùng nông thôn. Về cơ bản, ở các nước đang phát triển nói

chung, Việt Nam nói riêng, dân số vẫn chủ yếu sống ở khu vực nông thôn.

Phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn đem lại tác động tích cực nhiều mặt,

nhưng cũng có thể gây ra tình trạng mất ổn định về mặt xã hội. Điển hình là

việc thu hồi đất của những người nông dân để tạo mặt bằng cho xây dựng hạ

tầng KT-XH nông thôn dẫn đến tình trạng nông dân không còn đất đai (tư liệu

sản xuất cơ bản trong sản xuất nông nghiệp) để duy trì các hoạt động sản xuất,

mất đi nguồn thu nhập chính cho cuộc sống thường ngày và hệ quả là họ phải

38

tìm kiếm việc làm mới tại chỗ hay ở các khu vực khác. Việc xuất hiện tình

trạng khiếu kiện kéo dài phần lớn đều xuất phát từ những mâu thuẫn trong

công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tình trạng thiếu công khai, dân chủ,

minh bạch trong huy động và sử dụng nguồn vốn đóng góp của dân cư cho

xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn. Do vậy, việc xây dựng hạ tầng KT-

XH ở nông thôn trước hết cần gắn với việc khuyến khích phát triển các ngành

nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp nhằm tạo điều kiện về việc làm, thu

nhập cho các hộ nông dân bị thu hồi đất. Nếu việc phát triển hạ tầng KT-XH

nông thôn không có tác dụng làm giảm tình trạng thất nghiệp, điều đó sẽ dễ

gây ra sự bất ổn về chính trị - xã hội ở các vùng nông thôn và ảnh hưởng tiêu

cực đến sự phát triển kinh tế. Mặt khác, với các công trình có huy động nguồn

vốn xã hội hóa, nguồn vốn đóng góp của nhân dân cần phải đảm bảo sự công

khai, minh bạch, dân chủ. Điều đó sẽ góp phần duy trì sự ổn định về mặt xã

hội ở khu vực nông thôn.

Thứ tư, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn không chỉ nhằm mục tiêu

phát triển kinh tế, mà phải kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá,

xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Điều đó có nghĩa phát triển hạ tầng

KT-XH phải đảm bảo tính đồng bộ: Điện, đường, trường, trạm…phải bảo

đảm theo đúng lộ trình đầu tư xây dựng tránh tình trạng đầu tư chồng chéo

gây lãng phí, không hiệu quả kinh tế. Đảm bảo an ninh quốc phòng là điều

kiện hết sức cần thiết trong phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn, đảm bảo

được quốc phòng, an ninh nông thôn là đảm bảo được ổn định chính trị, là

bảo đảm được môi trường đầu tư. Thời gian qua đã có lúc, có nơi tình hình

chính trị, an ninh nông thôn chưa được bảo đảm đã làm thiệt hại, lãng phí

không nhỏ đến hiệu quả đầu tư phát triển hạ tầng KT-XH như: Tiến độ chậm;

giải ngân vốn chậm; nợ đọng vốn XDCB... Như vậy đầu tư xây dựng hạ tầng

KT-XH nông thôn vừa phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa

39

phải đảm bảo từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,

vừa phải đảm bảo về mặt an ninh, quốc phòng.

Thứ năm, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải góp phần đẩy

nhanh tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hoá nông thôn. Việc quy hoạch phát

triển các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn phải kết hợp hài hoà với quy

hoạch phát triển hạ tầng KT-XH, quy hoạch phát triển các vùng đô thị. Sự

hình thành và phát triển các khu đô thị sẽ đóng vai trò làm đầu tàu thúc đẩy

quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của cả vùng. Đồng thời, nó sẽ

mở ra khả năng cung cấp các dịch vụ đa dạng góp phần nâng cao chất lượng

đời sống cư dân nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn. Theo tiến

trình đô thị hoá, các điểm dân cư khu vực nông thôn sẽ được phát triển theo

xu thế “đô thị hoá tại chỗ”, biến đổi nông thôn thành đô thị. Tuỳ theo điều

kiện phát triển hạ tầng KT-XH cụ thể ở mỗi nơi mà mức độ đô thị hoá tại chỗ

sẽ khác nhau. Trong tiến trình đô thị hoá nông thôn phải xem xét đầy đủ đến:

Tác động của môi trường trong quy hoạch sử dụng đất; trong tổ chức không

gian đô thị; trong xây dựng hạ tầng kỹ thuật; đảm bảo sự liên thông, hoà nhập

về quy hoạch giao thông, cấp thoát nước, thông tin, dịch vụ ... giữa khu đô thị

mới và khu dân cư làng, xã cũ. Tránh tình trạng làng, xã thành phường vì mục

đích tăng dân số đô thị để đô thị được nâng cấp hay tạo các "ốc đảo" dân cư

làng, xã trong khu đô thị mới.

1.2.3. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đối với phát

triển nông thôn

Thứ nhất, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn hoàn thiện và đồng bộ sẽ

giúp giảm giá thành sản xuất, giảm chi phí vận chuyển, chi phí dịch vụ, giảm

thiểu rủi ro trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các

ngành liên quan trực tiếp tới nông nghiệp, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng

40

hoá. Trong điều kiện ngày nay với xu hướng và hội nhập, nếu thiếu hệ thống

thông tin viễn thông, hệ thống ngân hàng hay hệ thống giao thông hiện đại...

thì không thể đạt được mục tiêu phát triển như mong muốn.

Thứ hai, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn phát triển sẽ tác động đến

sự phát triển khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo môi trường cạnh

tranh lành mạnh, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư cả trong nước và nước

ngoài vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Qua đó, góp phần tạo thêm việc

làm thu hút nguồn lao động dư thừa, tăng thêm thu nhập cho cư dân ở các

vùng nông thôn, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành trong sản xuất.

Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận được với tiến bộ

khoa học - kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng cao

như tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm...

Thứ ba, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn là điều kiện quan trọng tác

động tới việc phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ. Phát triển hạ tầng KT-

XH nông thôn sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng, miền trong

cả nước, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng

xã hội. Thực hiện mục tiêu công bằng xã hội không chỉ thể hiện ở khâu phân

phối kết quả mà nó còn thể hiện ở chỗ tạo điều kiện sử dụng tốt năng lực của

mình, đó chính là cơ hội học tập, cơ hội được chăm lo sức khoẻ và đặc biệt là

cơ hội được làm việc, tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.

Thứ tư, hệ thống KCHT KT-XH nông thôn là điều kiện vật chất quan

trọng, có tính quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng

như sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Ngân hàng thế giới cho

rằng: “Những trở ngại trong giao thông vận tải thường là trở ngại chính đối

với sự phát triển khả năng chuyên môn hàng hoá sản xuất tại khu vực có tiềm

năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được sản phẩm hoặc không được

41

cung cấp lương thực một cách ổn định...” [40, tr.18]. Như vậy nếu không có

hạ tầng giao thông nói chung hay hạ tầng GTNT nói riêng thì không thể có

giao lưu hàng hóa nông sản với các hàng hoá khác, không thể tạo điều kiện

phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Thứ năm, hệ thống KCHT KT-XH phát triển sẽ tăng cường được khả

năng giao lưu hàng hoá, thị trường nông thôn được mở rộng, khơi thông sự

ngăn cách giữa thị trường nông thôn và toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó, kích

thích sự phát triển kinh tế hộ gia đình, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói

giảm nghèo, gia tăng thu nhập, nâng cao chất lượng đời sống cư dân. Điều đó

sẽ tạo ra sự thay đổi diện mạo KT-XH nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu

nghèo giữa thành thị và nông thôn, từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về không

gian giữa thành thị và nông thôn.

Thứ sáu, hệ thống KT KT-XH nông thôn sẽ tạo điều kiện tổ chức tốt

đời sống xã hội trên từng địa bàn, tạo một cuộc sống tốt hơn cho nhân dân,

nhờ đó mà giảm bớt và ngăn chặn tình trạng di cư tự do từ nông thôn ra thành

thị. Đồng thời, tạo lập sự công bằng, nâng cao mức hưởng thụ các dịch vụ

giáo dục - đào tạo, y tế và văn hoá cho dân cư vùng nông thôn, xoá đi những

chênh lệch trong phát triển KT-XH giữa các vùng trong nước.

Nói tóm lại, phát triển hạ tầng KT-XH là nhân tố đặc biệt quan trọng, là

khâu then chốt để thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH nông nghiệp,

nông thôn trong tiến trình CNH, HĐH. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa

học - công nghệ hiện đại cùng quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc

tế ngày càng sâu rộng ngày nay, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đi

trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KT-XH phát

triển.

42

1.3. Kinh nghiệm phát triển hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn của

một số địa phƣơng

1.3.1. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ở huyện Ân Thi, tỉnh

Hưng Yên

Là huyện có trên 90% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, tập quán

canh tác vẫn manh mún và theo cách truyền thống là chủ yếu, những năm

qua, cấp ủy, chính quyền các cấp huyện Ân Thi luôn chú trọng phát triển kết

cấu hạ tầng nông thôn, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất của

nhân dân trên địa bàn.

Ban chỉ đạo xây dựng NTM huyện xác định: Xây dựng và phát triển kết

cấu hạ tầng nông thôn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy nông

nghiệp phát triển; là điều kiện thiết yếu để người dân ứng dụng KHKT, sáng

tạo trong lao động sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua đó

từng bước giảm nghèo nhanh, bền vững. Đặc biệt, phát triển kết cấu hạ tầng

nông thôn là cơ sở, điều kiện để thực hiện xây dựng nông thôn mới. Trong 5

năm qua, từ các nguồn vốn: Nghị quyết 134/CP, 135/CP... huyện Ân Thi

được đầu tư 215 tỷ đồng xây dựng 53 công trình kết cấu hạ tầng nông thôn

như: đường giao thông; thủy lợi; mạng lưới điện, viễn thông, y tế, giáo dục...

Đến nay, đã có 36 công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng.

Trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển giao thông nông

thôn được xác định là trung tâm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật và điều kiện tiên

quyết để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện mục tiêu

đó, huyện Ân Thi tập trung sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước và huy

động các nguồn lực khác, đặc biệt là nguồn lực từ trong dân. Nhờ đó, mạng

lưới giao thông trên địa bàn huyện không ngừng được mở rộng, chất lượng

43

ngày một nâng cao. Tính đến năm 2013, toàn huyện đã có 16 xã, thị trấn được

phê duyệt đường nông thôn. 19 xã, thị trấn được hỗ trợ đường bê tông với

tổng chiều dài 44.614 m, khối lượng xi măng hỗ trợ đạt trên 8.298 tấn, trong

đó đường thôn là 15.301 m, đường xóm 19.313m.

Giao thông “đi trước” tạo tiền đề phát triển các công trình hạ tầng kỹ

thuật khác, trong đó công tác thủy lợi cũng được đầu tư, xây dựng cơ bản. Với

việc hỗ trợ cấp bù thủy lợi phí, hỗ trợ nạo vét đông xuân, đắp đê, sửa chữa

đầu tư nâng cấp một số trạm bơm, công trình đã giải quyết tốt công tác tưới

tiêu phục vụ sản xuất, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thời tiết và thiên tai gây

ra. Hệ thống trường học, giáo dục mầm non ở nông thôn tiếp tục được mở

rộng và phát triển; hạ tầng y tế phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh nhân dân

từng bước được cải thiện; mạng lưới thông tin liên lạc, thiết chế văn hóa được

củng cố, phát triển góp phần nâng cao đời sống tinh thần người dân.

1.3.2. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ở huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh

Trong gần 4 năm xây dựng NTM, bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chương

trình xây dựng NTM và lồng ghép các nguồn vốn khác, huyện Vân Đồn đã

tập trung phân bổ nguồn vốn cho một số hạng mục trọng tâm theo lộ trình, kế

hoạch của tỉnh và huyện đề ra nhằm đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng

khu vực nông thôn.

Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, ngân sách địa phương phải thực hiện

nhiều nhiệm vụ chi khác nhau, chính vì vậy, để nguồn vốn đầu tư phát huy

hiệu quả, trong hoạt động triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, huyện

Vân Đồn đã xác định nguồn vốn phân bổ sẽ ưu tiên cho các xã có lộ trình xây

dựng NTM về đích sớm và các tiêu chí, chỉ tiêu quan trọng như: Kiên cố hoá

44

trường mầm non đạt chuẩn; đường giao thông; nhà văn hoá; các công trình

thuỷ lợi, kênh mương; các công trình nước sạch, vệ sinh môi trường, phát

triển sản xuất...

Cụ thể, từ năm 2011 đến nay, huyện đã đầu tư trên 97,4 tỷ đồng để xây

dựng 19 công trình đường giao thông trục xã, trục thôn, liên thôn và 2 công

trình bến tàu. Về thuỷ lợi, đã đầu tư xây mới gồm 5 công trình hồ chứa nước;

nâng cấp, sửa chữa 5 hồ chứa nước; thực hiện 9 dự án kiên cố hoá kênh

mương; xây dựng, sửa chữa, nâng cấp 8 công trình đê, kè chắn sóng, bờ bao

chống lũ. Với hệ thống hồ, đập chứa nước, kênh mương nội đồng ngày một

hoàn thiện đã giúp cho tình hình sản xuất khu vực nông nghiệp, nông thôn

trên địa bàn huyện có nhiều khởi sắc; người dân yên tâm hơn để đầu tư cho

nông nghiệp.

Để cải thiện đời sống sinh hoạt cho người dân, huyện cũng đã thực hiện

5 dự án cấp nước sinh hoạt cho các xã Ngọc Vừng, Vạn Yên, Bản Sen; 2 dự

án xây bể nước sinh hoạt hộ gia đình cho xã Đài Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết,

Thắng Lợi, Bản Sen. Đồng thời thực hiện 3 dự án xử lý rác thải, nước thải tại

các xã Quan Lạn, Minh Châu và một số công trình vệ sinh môi trường khác.

Cùng với đó, việc đầu tư nâng cấp hạ tầng ngành giáo dục cũng đã được quan

tâm triển khai, đặc biệt là ở các khu vực vùng sâu, vùng xa của huyện. Theo

lãnh đạo huyện Vân Đồn cho biết, ngoài các công trình có ý nghĩa thúc đẩy

phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, thời gian qua nguồn vốn của

chương trình xây dựng NTM đã tiếp tục quan tâm đầu tư hạ tầng các ngành y

tế, giáo dục... Theo đó, huyện đã tiến hành triển khai xây dựng hoặc nâng cấp

đồng loạt trường học ở các xã còn thiếu trường học chưa được kiên cố hoá.

Trong gần 4 năm, huyện đã xây dựng, cải tạo, nâng cấp 11 trường mầm non

của 11/11 xã trên địa bàn huyện đạt chuẩn cơ sở vật chất; cải tạo, nâng cấp 6

45

trường PTCS, 4 trường THCS và 5 trường Tiểu học. Tổng vốn đầu tư xây

dựng, nâng cấp trường học đạt chuẩn cơ sở vật chất trên 139,2 tỷ đồng. Đến

nay, trên địa bàn huyện tổng số trường học từ cấp Mầm non đến THCS được

đầu tư xây dựng mới, nâng cấp đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất là 22/27

trường (đạt 81,5%). Trong đó, số trường đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất:

Mầm non là 9/11 trường, THCS 3/4 trường, PTCS 5/7 trường. Đối với cơ sở

hạ tầng về y tế, toàn huyện có 11/11 xã có trạm y tế xã được công nhận đạt

chuẩn quốc gia, 100% trạm y tế được quan tâm đầu tư trang bị đầy đủ các

thiết bị phục vụ chăm sóc, khám, chữa bệnh ban đầu cho nhân dân địa

phương.

Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng cho người dân, các công trình

nhà văn hoá thôn, bản cũng được quan tâm đầu tư. Hiện trên địa bàn huyện có

36/72 nhà văn hoá thôn, bản đã được đầu tư vốn xây dựng mới đạt chuẩn.

Ngoài ra, bằng nguồn vật liệu hỗ trợ và nguồn kinh phí đóng góp của nhân

dân đã sửa chữa nâng cấp được 5 nhà văn hoá thôn, đáp ứng được công năng

sử dụng và nhu cầu hội họp, sinh hoạt cộng đồng của nhân dân.

1.3.3. Kinh nghiệm của huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh

Xuất phát điểm từ huyện trọng điểm nghề nông với trên 90% dân số

sinh sống ở khu vực nông thôn nên trong triển khai Chương trình mục tiêu

Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, huyện Hải Hà đã xác định rõ 2 nhiệm

vụ trọng tâm phải thực hiện đó là đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật

và phát triển sản xuất.

Kinh nghiệm của quá trình thực hiện thí điểm về công nghiệp hoá hiện

đại hoá nông nghiệp nông thôn đã cho Hải Hà thấy rõ đầu tư xây dựng hệ

thống hạ tầng kinh tế xã hội trong nông nghiệp, nông thôn là một trong những

46

nhiệm vụ quan trọng, có tác động tích cực, trực tiếp đến cộng đồng dân cư

nông thôn, là điều kiện cần thiết để thực hiện thành công quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Chính vì vậy trên cơ sở quy

hoạch huyện đã chỉ đạo các ngành chuyên môn cùng với các xã rà soát lại hệ

thống hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn như đường giao thông liên thôn, kênh

mương nội đồng từ đó tiến hành khảo sát và lập dự án trình UBND tỉnh và

các ngành chức năng bố trí vốn. Đồng thời chủ động huy động nhân dân hiến

đất để làm đường giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng.

Huyện đã phê duyệt nhiệm vụ đầu tư xây dựng 11 tuyến đường giao

thông nông thôn với tổng kinh phí trên 112 tỷ đồng, tiếp tục chỉ đạo các xã

khảo sát, lập nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư các công trình đường giao thông nông

thôn, thuỷ lợi và hỗ trợ mô hình phát triển sản xuất tập trung, xây dựng các

trường học đạt chuẩn quốc gia, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, trụ

sở Công an xã... Cùng với đó nhân dân trên toàn huyện đã tham gia đóng góp

được trên 8.709 ngày công, 70.813,5m2 đất các loại, đóng góp 374,600 triệu

đồng, để làm đường, làm trường học, xây mới và sửa chữa nâng cấp trên

33km kênh mương nội đồng, mở rộng và nâng cấp trên 33km đường nội đồng

và đường ngõ xóm. Tính chung tổng trị giá các công trình nhân dân đóng góp

được trên 7,7 tỷ đồng. Riêng đối với công tác xây dựng nhà văn hoá, tất cả

các nhà văn hoá thôn, bản trước đây đã xuống cấp, không đáp ứng yêu cầu sử

dụng, huyện đã cho rà soát và lập kế hoạch cải tạo, sửa chữa để đầu tư 74 nhà

và rà soát 106 nhà văn hoá thôn, bản để thực hiện đầu tư lắp đặt hệ thống

internet, tủ sách cho các cơ sở này.

Từ thực tiễn, Hải Hà nhận thấy những yếu kém, bất cập còn tồn tại đó

là do xuất phát điểm thấp về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, địa bàn dân cư

phân tán, các xã trên địa bàn đều là xã thuần nông, ngành nghề nông thôn kém

phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn thiếu. Các xã chưa chủ động khi

47

được phân khai vốn, xác định việc hỗ trợ các mô hình phát triển sản xuất chưa

đúng theo hướng dẫn chỉ đạo, còn lúng túng trong triển khai thực hiện. Chính

vì vậy trong những giải pháp đề ra thực hiện thời gian tới huyện sẽ chú trọng

hơn trong đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là việc triển khai các dự án hỗ

trợ phát triển sản xuất, các mô hình sản xuất mới như mía, chè, các loại giống

mới, các mô hình sản xuất tập trung mang tính chất sản xuất hàng hoá. Gắn

sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, tạo đầu ra ổn định cho người dân yên tâm sản

xuất. Gắn quy hoạch với triển khai sản xuất, gắn thực hiện kế hoạch sản xuất

với đề án hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để nâng cao hiệu quả các mô hình phát

triển sản xuất cũng như hiệu quả sản xuất nông nghiệp nông thôn. Làm tốt

công tác chuẩn bị đầu tư, rà soát các danh mục chuẩn bị đầu tư, bố trí nguồn

vốn thực hiện, lồng ghép các chương trình, nguồn vốn trong đó chú trọng

nguồn vốn huy động từ nhân dân, các doanh nghiệp.

1.3.4. Một số bài học rút ra cho huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

Nghiên cứu sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn tại

các địa phương trên, có thể rút ra một số bài học để huyện Lạng Giang tham

khảo như sau:

Một là, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn là một

trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của quá trình xây dựng

NTM và là nền tảng cho sự phát triển KT-XH một cách bền vững. Do vậy,

việc mở mang, phát triển hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, mạng lưới

cung cấp điện, mạng lưới chợ, hạ tầng thông tin - viễn thông, hệ thống cung

cấp nước sạch, hệ thống hạ tầng y tế, giáo dục… ở khu vực nông thôn sẽ góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn

nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều đó cho thấy, cần phải xác

định rõ và khách quan vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hệ thống kết cấu hạ

48

tầng KT-XH ở nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn nói riêng.

Hai nhà, nâng cao vai trò Nhà nước trong việc cung cấp nguồn ngân

sách hỗ trợ các địa phương trong xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ

tầng KT-XH ở nông thôn. Như đã biết, việc xây dựng các công trình hạ tầng

KT-XH ở nông thôn thường đòi hỏi chi phí lớn và ít có sức hấp dẫn đối với

các nhà đầu tư tư nhân, nhất là đối với những lĩnh vực ít có khả năng mang lại

lợi nhuận. Do vậy, nhà nước cần bố trí vốn ngân sách dành cho xây dựng hệ

thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn. Đồng thời, để tăng cường tính hấp

dẫn của hoạt động đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn, cơ

quan nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cũng cần tạo môi trường

đầu tư thông thoáng, thuận lợi nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài

nước.

Ba là, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần bảo

đảm tính đồng bộ bởi lẽ nếu thiếu một hay yếu kém ở một bộ phận nào đó sẽ

làm ảnh hưởng tới nhiều yếu tố khác, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng của cả

hệ thống.

49

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG

KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN CỦA HUYỆN LẠNG GIANG

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình xây dựng hệ thống kết cấu

hạ tầng KT-XH nông thôn huyện Lạng Giang

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Huyện Lạng Giang là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang

, gồm 21 xã và 02 thị trấn, là cửa ngõ nối liền

với diện tích tự nhiên là 240 km2

các tỉnh phía Đông Bắc với thành phố Bắc Giang, phía Bắc giáp huyện Hữu

Lũng (tỉnh Lạng Sơn) và huyện Yên Thế, phía Nam giáp thành phố Bắc

Giang và huyện Yên Dũng, phía Đông giáp huyện Lục Nam và phía Tây giáp

huyện Tân Yên. Lạng Giang là một trong bốn huyện được xác định là vùng

trọng điểm phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nên huyện sẽ có nhiều điều kiện

thuận lợi hơn để phát triển hệ thống KCHT KT-XH.

So với các huyện, thành phố trong tỉnh, huyện Lạng Giang có vị trí địa

lý tương đối thuận lợi, có một số trục đường giao thông quan trọng của Quốc

gia chạy qua (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ). Thị trấn Vôi, thị trấn Kép

cách thành phố Bắc Giang 20km và cách thủ đô Hà Nội 70km tính theo

đường ô tô, nằm trên Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn lên cửa

khẩu Quốc tế Đồng Đăng, nơi giao lưu buôn bán sầm uất hiện nay, là vị trí

thuận lợi khi thực hiện chiến lược 2 hành lang, 1 vành đai kinh tế của Chính

phủ trong việc hợp tác kinh tế với Trung Quốc đặc biệt hành lang kinh tế Nam

Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng đi vào hoạt động để

phát triển sản xuất hàng hoá và giao lưu kinh tế trong tỉnh, trong nước và

50

quốc tế. Thị trấn Kép là nơi thuận lợi xây dựng cảng cạn cho các tỉnh Đông

bắc bộ. Quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang đi qua các xã Thái Đào, Đại Lâm

của Lạng Giang sang các huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Đình Lập

(Lạng Sơn) gặp Quốc lộ 4A đi cảng Mũi Chùa, Tiên Yên và nối với cửa khẩu

Móng Cái (Quảng Ninh). Quốc lộ 37 từ thị trấn Kép, qua xã Hương Sơn đến

huyện Lục Nam đi Hòn Suy sang thị xã Chí Linh (Hải Dương) gặp Quốc lộ

18 có thể về cảng Hải Phòng hay ra cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh).

Tuyến đường sắt Lưu Xá - Kép - Hạ Long nối Thái Nguyên với Quảng Ninh,

đi qua các xã Nghĩa Hoà, Quang Thịnh, Hương Sơn và thị trấn Kép. Là huyện

miền núi nhưng huyện Lạng Giang lại nằm trên các trục giao thông quan

trọng của Quốc gia: Quốc lộ 1A, Quốc lộ 31, Quốc lộ 37 nên huyện được

hưởng nhiều thuận lợi trong mở mang, phát triển hệ thống giao thông từ

nguồn ngân sách trung ương. Như vậy, việc kết nối các vùng của huyện vào

mạng lưới giao thông chung là thuận lợi và giảm được chi phí xây dựng.

Đường sông có sông Thương chảy qua tàu thuyền vừa và nhỏ đi lại dễ

dàng, đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của huyện.

Tuy nhiên, địa hình huyện Lạng Giang có nhiều đồi núi, mức độ chênh lệch

địa hình lớn, ít sông ngòi nên khó có điều kiện để phát triển hệ thống trạm

bơm, kênh mương đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu cho người dân.

Lạng Giang nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có các loại

vật liệu xây dựng như đất sét làm gạch, ngói, đất sét làm gạch chịu lửa…Lạng

Giang nghèo về tài nguyên khoáng sản, ít làng nghề truyền thống nên không

thu hút được các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh doanh du lịch, dịch

vụ, đầu tư cải tạo, nâng cấp những hạ tầng liên quan đến các hoạt động du

lịch.

51

Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện (tính đến 01/01/2011) là

24.125,15 ha, trong đó đất nông nghiệp là 15.907,57 ha (chiếm 65,94%), đất

phi nông nghiệp là 8.014,56 ha (chiếm 33,22%), đất chưa sử dụng là 203,02

ha (chiếm 0,8%), đất đô thị là 406,77 ha (chiếm 16,8%). Diện tích tự nhiên

rộng là điều kiện cơ bản để có thể dành một phần đáng kể cho xây dựng hệ

thống giao thông, trường học, bệnh viện, chợ nông thôn…

Nhìn chung, điều kiện tự nhiên huyện Lạng Giang tương đối thuận lợi

cho việc mở mang phát triển hạ tầng KT-XH, trong đó có hạ tầng KT-XH ở

nông thôn.

2.1.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội

Lạng Giang là một trong 04 huyện, thành phố của tỉnh Bắc Giang được

xác định là vùng trọng điểm phát triển kinh tế xã hội (Việt Yên, Yên Dũng,

Lạng Giang và thành phố Bắc Giang). Thời gian qua, huyện đã cụ thể hóa

chương trình phát triển KT-XH và bước đầu đã đạt được những kết quả quan

trọng. Tốc độ phát triển các ngành kinh tế chủ yếu năm 2013 ước đạt 14,2%,

cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm nghiệp,

thủy sản giảm từ 50,4% năm 2005 xuống còn 37,5%, công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp và xây dựng tăng từ 25,6% lên 31,5%, thương mại, dịch vụ tăng

từ 24% lên 31%, thu nhập bình quân đầu người đạt 16,5 triệu đồng/năm. Năm

2013, thu hút đầu tư trên địa bàn tăng cao so với năm 2012. Các cấp, các

ngành từ huyện đến cơ sở đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và hộ gia

đình khảo sát, triển khai các dự án đầu tư vào địa bàn và đã thu hút được 35

dự án. Đáng chú ý, một số dự án trọng tâm đã triển khai và đưa vào sản xuất

như: Xí nghiệp may Lạng Giang của Công ty Cổ phần May Bắc Giang, quy

mô 7 ha ở xã Nghĩa Hòa, Xí nghiệp may của Công ty Cổ phần TM DV&ĐT

Trường Thành, quy mô 2 ha ở xã Phi Mô, Nhà máy gạch cotto của Công ty

52

Cổ phần Ngôi sao Bắc Giang, quy mô 8 h ở xã Tân Dĩnh; Xưởng sản xuất

bánh kẹo của Công ty TNHH Gia Thái ở thị trấn Vôi, Xưởng sản xuất, gia

công cơ khí của Công ty Cổ phần DVTM Thống nhất ở thị trấn Vôi với tổng

số vốn đầu tư khoảng trên 300 tỷ đồng… Triển khai dự án đầu tư Trung tâm

thương mại huyện do tập đoàn HDB làm chủ đầu tư với số vốn đăng ký 165

tỷ đồng. Toàn huyện đã có thêm 25 doanh nghiệp mới được thành lập đưa

tổng số doanh nghiệp trên địa bàn lên 208 doanh nghiệp. Tốc độ phát triển

kinh tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thu hút được nhiều đầu tư vào

địa bàn nên đã làm gia tăng nguồn lực đầu tư phát triển triển hệ thống KCHT

KT-XH nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm nền kinh tế chủ yếu làm nông

nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp ít, phần lớn là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực chế biến, đời sống nhân

dân còn khó khăn nên khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển hệ thống

KCHT KT-XH còn rất khó khăn. Nguồn thu chưa đủ chi, nguồn vốn tích lũy

cho đầu tư phát triển còn hạn chế và thiếu thốn. Điều đó gây ảnh hưởng đến

nguồn vốn có khả năng huy động cho phát triển hệ thống KCHT KT-XH nông

thôn.

Về dân số và nguồn lực: tính đến thời điểm dân số Lạng Giang có

,. Nguồn nhân lực

197.176 người. Mật độ dân số trung bình là 821 người/km2

của huyện chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và nguồn nhân lực trẻ

chiếm tỷ trọng cao. Đó là một lợi thế cho sự phát triển KT-XH của huyện

nhưng cũng tạo sức ép đối với hệ thống giáo dục - đào tạo, y tế và nhất là vấn

đề giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn.

Về lực lượng lao động: Tổng số lao động trong độ tuổi hiện nay là

128.000 người. Lao động được phân bổ trong các ngành kinh tế quốc dân:

Nông, lâm, ngư nghiệp 78.080 người, chiếm 61%; công nghiệp xây dựng

26.240%, chiếm 20,5%; thương mại dịch vụ 23.680, chiếm 18,5%. Nguồn

53

nhân lực trẻ chiếm tỷ trọng cao. Đây là một lợi thế cho sự phát triển hệ thống

KCHT KT-XH nông thôn khi mà nguồn nhân lực có trình độ nắm bắt được

khoa học công nghệ, ứng dụng vào trong xây dựng và sản xuất, rút ngắn được

quá trình xây dựng hạ tầng KT-XH.

Tuy nhiên, phần lớn lao động trong các ngành kinh tế của huyện mới

chỉ là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, tỷ lệ công nhân lành nghề và cán

bộ kỹ thuật còn ít. Đó lại là một hạn chế lớn của huyện trong phát triển KT-

XH.

2.1.2. Chính sách của huyện Lạng Giang đối với việc xây dựng hệ

thống KCHT KT-XH đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM.

Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của sự phát triển hệ thống

KCHT KT-XH nông thôn, trong định hướng chiến lược phát triển đến năm

2020, huyện Lạng Giang xác định: “Phát huy nội lực và bằng mọi giải pháp

thu hút mạnh mẽ ngoại lực, nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh

của huyện về vị trí địa lý, tài nguyên và nguồn nhân lực, để đạt tốc độ tăng

trưởng giá trị sản xuất cao và bền vững, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu tới năm 2020 trở thành

huyện có cơ cấu kinh tế chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ”.

Trong nhiều năm qua, chính quyền huyện Lạng Giang đã thực hiện và

đề ra nhiều chính sách về việc xây dựng hệ thống KCHT KTXH đáp ứng yêu

cầu xây dựng NTM, cụ thể:

2.1.2.1. Chính sách quy hoạch và sử dụng đất đai

Thời gian qua, huyện Lạng Giang đã chú trọng đến công tác quy hoạch

phát triển KT-XH trên địa bàn toàn huyện, trong đó có nội dung quy hoạch

phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn. Để đáp ứng nhu cầu xây dựng mới, mở

rộng và phát triển các công trình kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, huyện

Lạng Giang đã tiến hành quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất cho từng loại

54

hình hạ tầng KT - XH ở từng xã. Ngày 24 tháng 4 năm 2013, Ủy ban nhân

dân tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định số 132/QĐ-UBND xét duyệt quy hoạch

sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015)

của huyện Lạng Giang, trong đó quy hoạch đến năm 2020 diện tích đất để

phát triển hạ tầng là 2.771,47 ha, chiếm 30,23% diện tích đất phi nông nghiệp.

Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, các cơ quan hữu

quan đã tổ chức triển khai lập hồ sơ đất đai cho phát triển hạ tầng KT-XH

nông thôn trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt để giao đất, cho thuê đối với

các tổ chức thực hiện. Từ năm 2010 đến nay, UBND huyện đã hướng dẫn,

kiểm tra và trình UBND tỉnh phê duyệt 31 dự án giao đất xây dựng các công

trình công cộng, 24 dự án xin thuê đất sản xuất kinh doanh với tổng diện tích

là 84,28ha; phê duyệt 109 dự án giao đất làm nhà ở, 8 dự án thuê đất sản xuất,

kinh doanh của hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích 41,14ha.

Nhìn chung, việc giao đất, cho thuê đất đã cơ bản đáp ứng được việc

xây dựng các công trình hạ tầng KT - XH nông thôn.

2.1.2.2. Chính sách tạo vốn phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn

Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng

KT-XH ở từng vùng nông thôn, huyện tiến hành lập dự án đầu tư, xây dựng

kế hoạch phân bổ ngân sách cho từng dự án, công trình để tổng hợp và trình

HĐND, UBND tỉnh phê duyệt. Dự toán phân bổ ngân sách được phê duyệt và

ghi vào kế hoạch chi ngân sách hàng năm chính là cơ sở để thực hiện các dự

án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH ở nông thôn.

Ngoài ra để tập trung vốn cho ngân sách để đầu tư vào các công trình

hạ tầng KT-XH nói chung và cho các công trình hạ tầng nông thôn nói riêng

có tính trọng điểm, có tính cấp bách, khắc phục tình trạng dàn trải. Tỉnh Bắc

Giang đã sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính theo luật ngân sách huy

động vốn đầu tư từ các kênh: Vay Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư cho các

55

công trình cứng hóa kênh mương; từ nguồn trái phiếu chính phủ để đầu tư cho

cơ sở hạ tầng ngành y tế, giáo dục…Từ đó, tỉnh sẽ căn cứ trên số lượng vốn

đã huy động được để phân bổ tới từng huyện.

2.1.2.3. Chính sách huy động vốn phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn

Nhằm thu hút vốn đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH ở

nông thôn, huyện Lạng Giang đã có các chính sách ưu đãi đầu tư cho các đối

tượng đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn, nhất là đối với các doanh

nghiệp đầu tư và phát triển hạ tầng KCN, CCN. Ngoài ra, huyện đã thực hiện

chính sách huy động vốn của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế.

2.2. Thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của huyện

Lạng Giang từ năm 2006 đến nay

Thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng

Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông

thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 221/QĐ-UBND ngày

09/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 - 2020. Để

thực hiện đề án xây dựng NTM huyện Lạng Giang đã có Quyết định số

328/QĐ-UBND về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện Lạng

Giang về Quyết định số 2335/QĐ-BCĐ về việc thành lập tổ giúp việc cho

Ban Chỉ đạo xây dựng NTM. Để có cơ sở đưa các xã vào danh sách xã xây

dựng NTM giai đoạn 2010 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020 thì việc đánh giá

đúng thực trạng các tiêu chí xây dựng NTM ở các xã là nội dung hết sức quan

trọng. UBND huyện đã yêu cầu tất cả các xã (trừ xã Tân Thịnh) tiến hành tổ

chức, rà soát, đánh giá chính xác đúng thực trạng các tiêu chí xây dựng NTM

của địa phương mình theo bộ tiêu chí quốc gia về NTM xã định cụ thể những

tiêu chí nào đã đạt, tiêu chí nào chưa đạt. Trên cơ sở tổng hợp của cơ quan

thường trực Ban chỉ đạo, UBND huyện đã có báo cáo kết quả rà soát, thẩm

56

định, đánh giá thực trạng các tiêu chí nông thôn mới ở 20 xã trên địa bàn

huyện, kết quả được thể hiện như sau:

2.2.1. Hệ thống giao thông nông thôn

Trong 8 năm từ 2006 đến 2013, toàn huyện đã đầu tư xây dựng, cải tạo,

cứng hóa 70 km đường huyện, bê tông hóa đường trục xã, liên xã với tổng

chiều dài 335 km, 504 km đường trục thôn xóm, đem lại cho huyện những

con đường khang trang, sạch sẽ.

Bảng 2.1: Kết quả phát triển hạ tầng giao thông nông thôn

Đơn vị: Km

Chiều dài đã cứng hóa TT Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1 Đường huyện 7 8 12 9 10 11 5 8

2 Đường trục xã, 34 45 33 48 30 45 46 54

trục

liên xã 3 Đường

55 37 42 68 66 82 94 103

thôn, xóm

ngõ,

4 Đường 47 45 47 73 75 74 68 75

xóm sạch

5 Đường 10 6 2 1,2 3,7 4 3,3 4,8

trục chính nội đồng

Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2014

Để xây dựng và phát triển giao thông nông thôn, Lạng Giang đã bắt đầu

bê tông hóa đường trục xã, liên xã với tổng chiều dài 335 km. Tính đến

03/2014, trục đường này đã được nhựa hóa và bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp

kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải là 148 km, đạt 44,2%. Trong đó tiêu biểu

có hai xã Xương Lâm và Mỹ Hà đã đạt tiêu chí cứng hóa 100% chiều dài

đường và nhiều xã khác đạt được kết quả khá cao: Nghĩa Hưng, Tân Hưng,

Đào Mỹ, Yên Mỹ.

57

Hiện nay, Lạng Giang có 504 km đường trục thôn xóm, trong đó chiều

dài đã được cứng hóa là 210, đạt 41%. Với chỉ tiêu chung của vùng trung du

miền núi phía Bắc (là đạt 50%) thì tại huyện Lạng Giang đã không đạt tiêu chí

này. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy có rất nhiều xã đã thực hiện vượt chỉ tiêu

này (11/20 xã) như: Quang Thịnh (17/19 km đạt 89%), Mỹ Hà (9/11 km đạt

81,8%),

Về tỷ lệ đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa đã có một

số thực hiện cứng hóa đạt chỉ tiêu 50% do Bộ tiêu chí nêu ra: An Hà 31/36

km (đạt 86%), Quang Thịnh 18,8/26,8 km (đạt 70,1%), Mỹ Hà 19/28 km (đạt

67,9%)…

Với chỉ tiêu đạt 50% chiều dài đã cứng hóa đường trục chính nội đồng,

xe cơ giới đi lại thuận tiện thì tất cả 10 xã trong huyện đều chưa làm được và

chỉ thực hiện được một phần nhỏ so với tổng chiều dài đường: Tiên Lục

2/16,82 km (đạt 11,9%), Mỹ Hà 1,9/12,9 km (đạt 14,7%), Nghĩa Hưng 2/20,2

km (đạt 9,9%)…

Có thể thấy, tỷ lệ đường trục xã, đường trục thôn được cứng hóa của

Lạng Giang đã đạt tỷ lệ lớn, đây là một thành công trong xây dựng hệ thống

giao thông đáp ứng mô hình nông thôn mới. Đường giao thông thuận tiện là

một điều kiện tốt để phát triển sản xuất hàng hóa cũng như vận chuyển, thông

thương hàng hóa. Tuy giao thông là một tiêu chí mà Lạng Giang chưa hoàn

thành nhưng sau gần hai năm thực hiện, Lạng Giang đã có nhiều thay đổi.

Điều đầu tiên nhận thấy chính là tuyến đường giao thông được bê tông hóa,

đường liên xã, liên thông không còn cảnh lầy lội như trước. Các xe cơ giới đi

lại thuận tiện trên các đường kè, tạo điều kiện tốt cho thu hoạch nông phẩm.

Ngoài ra, huyện Lạng Giang còn tổ chức vận động hiến đất. Do làm tốt

công tác tuyên truyền vận động đến cuối tháng 3/2014 đã có 7 xã trên địa bàn

58

triển khai, các hộ đã hiến được 62,256 m2 đất để làm đường giao thông nông

thôn, cứng hóa kênh mương và các công trình khác.

2.2.2. Hệ thống các công trình thủy lợi, thủy nông

Huyện Lạng Giang có hệ thống thủy lợi cơ bản phục vụ tốt cho sự

nghiệp phát triển nông nghiệp nói riêng và sự nghiệp phát triển KT-XH của

huyện nói chung (15/20 xã đạt tiêu chuẩn theo Bô Tiêu chí quốc gia đặt ra).

Toàn huyện có 111 trạm bơm, số trạm bơm còn sử dụng tốt là 65 trạm.

Hệ thống trạm bơm trên đã phục vụ tưới cho gần 20% diện tích canh tác cây

hàng năm. Huyện luôn chú trọng nâng cấp các trạm bơm để đảm bảo cung

cấp đủ nước cho nông dân sản xuất.

Hệ thống kênh tưới đã đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất trên

địa bàn toàn huyện. Bao gồm hệ thống kênh cấp 1: kênh giữa, kênh Tây, kênh

Yên Lại và kênh Bảo Sơn cùng với kênh cấp 2 thuộc hệ thống này đã đáp ứng

việc tưới tự chảy phục vụ đạt trên 80% diện tích trồng cây trên địa bàn. Được

sự quan tâm đầu tư của nhà nước đến năm 2010 đã cứng hóa 100% hệ thống

kênh tưới bằng vốn WB. Kênh cấp 3 và kênh nội đồng do cấp xã quản lý, với

tổng chiều dài 756,29 km, đã cứng hóa được 159,24 km đạt 21% trong đó chỉ

có 04 xã hoàn thành chỉ tiêu mà bộ tiêu chí đã đặt ra: Phi Mô 5,2/6,5 km

(80%), Đại Lâm 4,9/6,6 km (74,2%), Nghĩa Hưng 8,3/15,3 km (54,2%) và

Xương Lâm 11/21,4 km (51,4%).

Bên cạnh đó việc nâng cấp trạm bơm, kiên cố hóa kênh mương, Lạng

Giang đã tu bổ 03 tuyến đê quan trọng là: đê bối Bến Nghè và Bến Đồng –

Dương Đức, đê bối Na Chương – Nghĩa Hưng, đê bối Đồng Man xã Đại Lâm

với vốn kế hoạch là 1 tỷ đồng. Năm 2014, hỗ trợ đầu tư 1,485 tỷ đồng triển

khai tu bổ các đoạn đê, bờ vùng xung yếu tại 3 xã Dương Đức, Đại Lâm, Thái

59

Đào. Hiện nay, hệ thống đê điều và các cống dưới đê điều cơ bản đáp ứng tốt

cho công tác phòng chống lụt bão.

Do luôn chú trọng nâng cấp trạm bơm, kiên cố hóa kênh mương, cứng

hóa đường nội đồng, kênh tưới nên sản xuất nông nghiệp diễn ra thuận lợi

hơn. Người dân không phải gánh lúa từ ruộng lên các trục đường lớn như

trước đây, mà các xe cơ giới vận chuyển có thể đến từng trục đường nhỏ,

người dân thu hoạch đỡ vất vả hơn. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống thủy lợi,

thủy nông của toàn huyện chưa đạt tiêu chuẩn của tiêu chí thủy lợi trong bộ

tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

Bảng 2.2: Kết quả phát triển các công trình thủy lợi, thủy nông

Cải tạo sửa

Xây mới trạm

Kiên cố hóa

Kiên cố đê bao

chữa, nâng

bơm

kênh mƣơng

cấp trạm bơm

TT Năm

Chiều dài (Km)

Số lƣợng (cái)

Số lƣợng (cái)

Chiều dài (Km)

Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 1.725

Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 2.350

4 1

Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 825

85

Vốn đầu tƣ (Tr.đ) 2.358

1 2006 2,7

2.000 0 7 0 1.250 72 1.886 2 2007 3,2

1.750 2.135 2 1 563 87 2.400 3 2008 3,1

1.000 3.790 6 2 724 78 1.900 4 2009 1,8

2.975 1.897 5 1 700 66 1.592 5 2010 3,9

2.560 1.924 8 1 809 93 2.565 6 2011 3,4

3.250 0 16 0 1.200 67 1.600 7 2012 4,1

1.500 0 11 0 900 78 2.015 8 2013 2

59 6 Tổng số 22,4 16.760 12.096 6.071 626 16.316

60

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lạng Giang,

Bắc Giang năm 2013

2.2.3. Hệ thống các công trình cung cấp điện

Trong sự nghiệp phát triển KT-XH ở nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa và hải đảo, điện lực có vai trò quan trọng và là nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất người dân.

Lưới điện tại các xã phần lớn được xây dựng từ 20 đến 30 năm về trước và do các tổ chức quản lý điện tại các xã thành lập để quản lý kinh doanh buôn bán điện đến các hộ dân nông thôn. Do việc xây dựng tự phát, chắp vá và nguồn vốn hạn hẹp cho nên hầu hết không theo tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn. Quá trình vận hành, khai thác sử dụng lưới điện hầu như không được sửa chữa, nâng cấp, cho nên lưới điện xuống cấp, mất an toàn, chất lượng điện không bảo đảm. Có nơi điện áp cuối nguồn xuống dưới 100V, làm tổn thất điện năng của lưới điện hạ áp rất cao. Khi ngành điện tiếp nhận, rất ít xã có tỷ lệ tổn thất điện năng dưới 20%, thậm chí có nơi lên tới 40 đến 45%. Thực hiện chương trình, hầu hết các xã đã bàn giao hệ thống lưới điện cho ngành điện quản lý, bán điện trực tiếp đến hộ sử dụng và để ngành điện có điều kiện đầu tư, cải tạo nâng cấp các trạm biến áp, trục hạ thế, thay thế đồng hồ đo điện đồng nhất, đạt tiêu chuẩn. Việc thay thế các đường dây hạ thế, công tơ điện tơ điện không chỉ đảm bảo an toàn của ngành điện mà còn tránh được tình trạng công tơ chạy sai, các đường dây cung cấp điện có công suất phù hợp với sản xuất của người dân.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật điện tại 23 xã đã được ngành điện đầu tư nâng cấp, cải tạo theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm đạt yêu cầu của tiêu chí. Ngành điện đã khảo sát thay thế và cải tạo nâng cấp hệ thống cột, đường dây hạ thế. Tính đến nay, ngành điện bố trí khoảng 30 tỷ đồng đầu tư cải tạo, nâng cấp lưới điện hạ áp, thay thế hơn 27 nghìn công tơ các loại, gần 300 km đường dây và nâng công suất 22 trạm biến áp. Nhờ đẩy mạnh hoạt động đầu tư cải tạo, đến nay, tỷ lệ tổn thất điện năng trên địa bàn huyện giảm gần 11% so với trước khi tiếp nhận, chỉ còn 19,3%.

61

Đến thời điệm hiện tại, tỷ lệ hộ dùng điện thường xuyên, an toàn đạt 97,72%, trong đó có 18/20 xã đạt chỉ tiêu 95% cho khu vực trung du và miền núi phía Bắc.

Bảng 2.3: Kết quả xây dựng các công trình cung cấp điện

Tỷ lệ hộ sử dụng điện

Hệ thống điện đảm bảo yêu

thƣờng xuyên, an toàn từ

Đánh giá

cầu KT của ngành điện

(Đạt)

các nguồn điện (95%)

Yên Mỹ

Đạt

100%

Đạt

Tân Hưng

Chưa đạt

100%

Chưa đạt

Xương Lâm

Đạt

100%

Đạt

Phi Mô

Đạt

100%

Đạt

Hương Lạc

Đạt

99%

Đạt

Tân Thanh

Đạt

90%

Chưa đạt

Tân Dĩnh

Chưa đạt

91%

Chưa đạt

Thái Đào

Chưa đạt

97,8%

Chưa đạt

Đại Lâm

Đạt

98%

Đạt

Xuân Hương

Đạt

95%

Đạt

Mỹ Thái

Đạt

99%

Đạt

Dương Đức

Chưa đạt

98%

Chưa đạt

Tiên Lục

Đạt

100%

Đạt

Mỹ Hà

Đạt

100%

Đạt

Đào Mỹ

Chưa đạt

100%

Chưa đạt

Nghĩa Hưng

Đạt

96%

Đạt

Nghĩa Hòa

Đạt

97%

Đạt

An Hà

Đạt

100%

Đạt

Quang Thịnh

Đạt

97,6%

Đạt

Hương Sơn

Đạt

96%

Đạt

Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013

62

2.2.4. Hệ thống trường học

Bảng 2.4: Kết quả xây dựng hệ thống trƣờng học

TT

Chỉ tiêu

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1 Mầm non

86

92

95

109

120

137

74

78

Phòng học kiên cố

52

67

70

85

102

121

36

45

-

Phòng học chưa kiên cố

34

25

25

24

18

16

28

33

-

Tỷ lệ % đạt kiên cố

61

73

74

78

85

88

49

58

-

Tiểu học

143

158

167

189

192

234

265

278

2

Phòng học kiên cố

103

123

139

165

171

215

247

261

-

Phòng học chưa kiên cố

28

24

21

19

18

17

40

35

-

Tỷ lệ % đạt kiên cố

83

87

89

92

93

94

72

78

-

Trung học cơ sở

120

135

146

168

184

196

205

223

3

Phòng học kiên cố

107

131

151

169

185

205

79

97

-

Phòng học chưa kiên cố

39

37

33

28

20

18

41

38

-

Tỷ lệ % đạt kiên cố

73

78

82

86

90

92

66

72

-

Trung học phổ thông

71

75

78

86

89

94

62

68

4

Phòng học kiên cố

58

63

68

79

83

89

46

52

-

Phòng học chưa kiên cố

13

12

10

7

6

5

16

16

-

Tỷ lệ % đạt kiên cố

81

84

87

92

93

95

73

76

-

Nguồn: Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013

Để hệ thống trường học có cơ sở hạ tầng khang trang, phục vụ cho phát

triển giáo dục, huyện đã có chủ trương tới tất cả các xã tiến hành kiên cố hóa

và xây mới hệ thống trường học. UBND huyện đã chỉ đạo nhiều giải pháp

sáng tạo, thiết thực nhằm giúp cho các xã, thị trấn tháo gỡ khó khăn trong quá

trình thực hiện, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch; đã có 100% số phòng

học xây mới để xóa phòng học tạm các loại, chất lượng các công trình đảm

63

bảo. Đã huy động 53.766 triệu đồng để đầu tư xây dựng các công trình, trong

đó vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách tỉnh hỗ trợ là 23.823 triệu đồng;

ngân sách huyện là 16.701 triệu đồng; ngân sách cấp xã là 8.954 triệu đồng và

huy động từ các nguồn khác là 3.788 triệu đồng.

Đến nay đã có 102 công trình với 392 phòng được khởi công xây dựng,

số phòng xây mới các loại là 248 phòng. Có 96 công trình với 362 phòng đã

cơ bản hoàn thành, 06 công trình với 30 phòng đang xây dựng. Kết quả trên

đã góp phần nâng tỷ lệ phòng học kiên cố trong toàn huyện đạt 85,2%. Nhờ

thực hiện tốt công tác kiên cố hóa trường lớp học, xóa phòng học tạm, học

nhờ, tính đến hiện nay toàn huyện đã có 58 trường học đạt chuẩn quốc gia

(đạt 77,3% tổng số trường học trên địa bàn), trong đó có 14 trường Mầm non,

27 trường tiểu học, 14 trường THCS, 3 trường PTTH.

2.2.5. Y tế

Trong 19 tiêu chí xây dựng NTM thì tiêu chí 15 (tiêu chí về y tế) giữ vai

trò hết sức quan trọng, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống

người dân mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Xác định đây là một

trong những tiêu chí cơ bản, góp phần chăm sóc tốt hơn sức khỏe ban đầu cho

nhân dân, Lạng Giang đã dành nhiều ưu tiên cho phát triển y tế nông thôn.

Bảng 2.5: Kết quả xây dựng và phát triển các công trình y tế

TT

Chỉ tiêu

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1

Tỷ lệ người dân tham

18

21

24

25

27

31

33

34

gia các hình

thức

BHYT (%)

Tỷ lệ y tế xã đạt

95

97

100

100

100

100

100

100

2

chuẩn quốc gia (%)

Nguồn: Phòng Y tế huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013

64

Để khuyến khích xây dựng mô hình chuẩn Quốc gia về y tế, huyện hỗ

trợ mỗi xã, thị trấn 30 triệu đồng. Riêng xã Xuân Hương do điều kiện kinh tế

khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất huyện nên được hỗ trợ 60 triệu đồng; Thị

trấn Kép được hỗ trợ 230 triệu đồng xây dựng Trạm y tế. Cùng với vốn đầu tư

của huyện và ngân sách xã, công tác tuyên truyền, vận động tham gia đóng

góp của các tổ chức xã hội và nhân dân địa phương được chú trọng, nâng tổng

kinh phí thực hiện chương trình trong 3 năm qua lên 6,516 tỷ đồng. Với

nguồn vốn này, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị các Trạm y tế được tăng cường

đầu tư. Ngành Y tế đã đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung giường Inox, tủ thuốc,

máy khí dung, nồi hấp tiệt khuẩn, bộ dụng cụ thực hiện công tác Dân số

KKHGĐ. Đặc biệt, các trạm y tế Tân Hưng, Dĩnh Trì, Phi Mô, Tiên Lục được

trang bị máy xét nghiệm... Hiện các trạm y tế đã có đủ phòng chức năng và

các công trình phụ trợ phục vụ công tác khám chữa bệnh. Chất lượng cán bộ y

tế cũng được chú trọng nâng lên. Đến nay, tất cả cán bộ y tế xã, thôn, bản

được tập huấn, đào tạo và đào tạo lại, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ được

nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc. Cùng với sự phát triển của các

cơ sở y tế hiện đại, phương pháp khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng

được chú trọng, các xã đã mời những lương y có kinh nghiệm ở địa phương

tham gia khám chữa bệnh tại các trạm y tế, mở rộng vườn thuốc nam với

nhiều cây thuốc dân gian quý.

Do có sự tích cực chỉ đạo của các cấp chính quyền và đầu tư đúng mức,

công tác xây dựng Chuẩn Quốc gia về y tế của Lạng Giang đã thu được

những kết quả đáng khích lệ. Sau 3 năm triển khai thực hiện, tới năm 2008 tất

cả xã, thị trấn của huyện đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Qua

đó, các địa phương thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hoá lĩnh vực y tế,

huy động được cộng đồng và các tổ chức xã hội tham gia tích cực vào lĩnh

vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân; Hoàn thành các chương trình mục tiêu y tế

65

Quốc gia, đặc biệt chương trình tiêm chủng mở rộng. Các chỉ tiêu tiêm chủng

cho trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ trẻ uống Vitamin A ở trẻ dưới 2 tuổi tăng lên, do đó,

tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ giảm đáng kể, đặc biệt trong những năm gần đây không

có trẻ mắc bệnh uốn ván sơ sinh. Tỷ lệ bệnh nhân được chẩn đoán, điều trị tại

các trạm y tế đạt trên 80%. Trước khi triển khai Đề án xây dựng xã, thị trấn

đạt chuẩn Quốc gia về y tế, huyện có 14 Trạm y tế có bác sỹ, 16 trạm có cán

bộ y học cổ truyền, 2 trạm có dược tá. Đến nay, toàn huyện đã có 27 bác sỹ

công tác tại các Trạm Y tế, 10 cán bộ đang theo học chuyên tu Đại học, 24/24

Trạm y tế có cán bộ y học cổ truyền. Bên cạnh đó, huyện đã tổ chức tập huấn

cho các Trạm trưởng y tế kiến thức quản lý tài chính, xây dựng kế hoạch công

tác tháng, quý, năm. Vì vậy, các Trạm y tế cơ bản bảo đảm kinh phí chi hoạt

động thường xuyên từ 8-10 triệu đồng/năm; Nhất là bảo đảm người có BHYT

được khám bệnh, cấp thuốc.

2.2.6. Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao, thông tin liên

lạc

* Xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao

Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao tiếp tục được quan tâm đầu tư

nâng cấp, cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao, nâng cao đời

sống tinh thần của nhân dân. Cụ thể:

Huyện đã đầu tư trên 12 tỷ đồng, huy động vốn được hơn 8 tỷ đồng để

xây dựng thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở, những đơn vị làm tốt công tác

huy động vốn và xây dựng văn hóa là: Tân Dĩnh, Quang Thịnh... Đến nay

100% các xã, thị trấn và các thôn, khu phố trên địa bàn đều có nhà văn hóa.

Ngoài ra, Ban quản lý dự án các huyện cũng rất chú trọng đến việc những nhà

văn hóa ở các xã, thị trấn và các thôn, khu phố thực sự phát huy hiệu quả,

mang lại giá trị văn hóa cho nhân dân... Nên ngay sau khi xây dựng, cải tạo,

66

huyện đã chỉ đạo việc sinh hoạt dân cư thường xuyên. Đây cũng là một địa

điểm thích hợp để tổ chức các lớp học về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi... cho

các hộ dân trong huyện. Tuy qua khảo sát mới có 6/20 xã đạt tiêu chuẩn nhà

văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch

nhưng với sự chỉ đạo, nỗ lực của từng xã đã góp phần nâng cao đời sống cho

các hộ dân cư ở khu vực trung du miền núi này.

Bảng 2.6: Kết quả xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao

TT

Chỉ tiêu

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1 Nhà văn hóa và khu thể

thao đạt chuẩn của Bộ

VH-TT-DL (%)

Tỷ lệ xã có nhà văn hóa

95

100

97

100

100

100

100

100

-

Kiên cố

80

88

92

100

85

100

100

100

-

Chưa kiên cố

20

12

8

0

15

0

0

0

-

Tỷ lệ thôn có nhà văn

54

62

66

67

71

72

77

56

-

hóa, sinh hoạt thôn (%)

40

47

50

54

60

65

70

45

- Kiên cố

60

Chưa kiên cố

53

50

46

40

35

30

55

-

Tỷ lệ xã có đài truyền

94

100

96

100

100

100

100

100

-

thanh (%)

Tỷ lệ xã được phủ sóng

100

100

100

100

100

100

100

100

-

truyền hình (%)

Tỷ lệ hộ gia đình có ti vi (%)

95

95

95

96

97

97

98

98

-

Nguồn: Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013

Bên cạnh đó, hệ thống đài truyền thanh được quan tâm đầu tư, nâng

cấp. Công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều tiến bộ. UBND huyện đã đầu

tư trên 750 triệu đồng đầu tư mua sắm trang thiết bị kỹ thuật và nâng cấp hệ

67

thống đường dây truyền thanh các xã, thị trấn; 100% các thôn, khu phố đến

nay đều có tăng âm, loa đài để tuyên truyền... qua đó góp phần từng bước đáp

ứng nhu cầu thông tin tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.

Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đạt được nhiều kết quả,

nhiều di tích đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp như: cụm di tích

Đình – Chùa xã Tiên Lục, Đình Phù Lão xã Đào Mỹ, Đình – Đền – Chùa Chu

Nguyên thị trấn Vôi, Chùa Quang Minh xã Nghĩa Hòa... góp phần khơi dậy

niềm tự hào và ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân.

* Hiện đại hóa mạng lưới bưu chính viễn thông

Bảng 2.7: Kết quả xây dựng mạng lƣới bƣu chính viễn thông

TT

Chỉ tiêu

2009

2010

2011

2012

2013

1 Điểm bưu điện, văn hóa xã

22

22

23

23

23

2 Điểm phục vụ bưu chính viễn thông 22 22 23 23 23

Có Internet đến thôn

3

chưa

chưa

chưa chưa chưa

Nguồn: Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lạng Giang, Bắc Giang năm 2013

Hiện nay huyện có 2 đài viễn thông tại thị trấn Vôi, Kép, các xã đều có

điểm văn hóa xã. Để điểm bưu điện văn hóa xã đi vào hoạt động hiệu quả,

ngoài việc xây dựng nhà và các công trình phụ trợ, tỉnh đã trang bị cho mỗi

điểm những thiết bị cần thiết như: Bàn quây giao dịch, cabin đàm thoại, tủ

đựng sách báo, bàn ghế và các đầu sách, báo, nhiều điểm đến nay đã được

trang bị internet để phục vụ nhân dân sử dụng các dịch vụ bưu điện và tìm

hiểu kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp, pháp luật miễn phí để đáp ứng

tốt hơn nhu cầu của nhân dân về các dịch vụ bưu chính viễn thông, cung cấp

thông tin về pháp luật, kinh tế, văn hóa... góp phần tuyên truyền đường lối của

68

Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu của

ngành bưu điện còn có sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ của lãnh đạo tỉnh

ủy, HĐND, UBND tỉnh, các Ban, Ngành, Chính quyền các cấp ở địa phương

như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp và Tỉnh đoàn TNCS Hồ Chí Minh

đã xây dựng Chương trình liên ngành về việc phối hợp triển khai phong trào

quyên góp, luân chuyển sách từ tủ sách pháp luật của xã và các loại sách báo

thiếu nhi đến điểm bưu điện văn hóa xã để giúp nhân dân và thiếu nhi nông

thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn có sách đọc miễn phí, góp phần nâng

cao dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho thiếu nhi, đồng thời giáo dục

thanh thiếu niên và nhi đồng tinh thần tiết kiệm, tương thân tương ái với các

bạn vùng sâu, vùng xa, các bạn có hoàn cảnh khó khăn.

Có thể khẳng định hiệu quả từ các hoạt động của mô hình điểm bưu

điện văn hóa không những là nơi cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông

và thực hiện một số hoạt động văn hoá nhằm phục vụ nhân dân mà từ mô hình

này đã góp phần tham gia tích cực trong phong trào "Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hoá" theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đồng thời

đóng góp tích trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở mỗi địa phương.

Như vậy, về yêu cầu có điểm phục vụ bưu chính viễn thông thì cơ bản tất cả

các xã đều đạt so với bộ tiêu chí nông thôn mới đặt ra.

2.2.7. Hệ thống cung cấp nước sạch

Trong tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nội dung nước sạch quy định:

Tỷ lệ hộ sử dụng nước vệ sinh đạt từ 85% trở lên, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng

nước sạch theo quy chuẩn quốc gia đạt từ 50% trở lên. Nước hợp vệ sinh là

nước sử dụng trực tiếp hoặc sau khi lọc đạt các yêu cầu chất lượng như:

không màu, không mùi, không vị lạ, không chứa thành phần có thể gây ảnh

hưởng đến sức khỏe con người, có thể dùng để ăn uống sau khi đun sôi. Nước

69

sạch theo quy chuẩn quốc gia là nước đáp ứng các chỉ tiêu theo quy định của

quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt QCVN

02:2009/BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 17/6/2009.

Tính đến hết năm 2013, Lạng Giang có 66% số hộ vùng nông thôn

được sử dụng nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn 02 của Bộ Y tế về

số hộ sử dụng nước sạch thì chỉ đạt 27%. Phần lớn dân cư nông thôn hiện nay

sử dụng nước sinh hoạt từ công trình cấp nước nhỏ lẻ (giếng khoan, giếng

đào), khai thác mạch nước ngầm tầng nông, chất lượng nước không ổn định,

thường thay đổi theo mùa, thiếu nước vào mùa nắng hạn. Đặc biệt là tình

trạng ô nhiễm môi trường trong khu dân cư nông thôn do các hoạt động sản

xuất, chăn nuôi đã làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nước ngầm. Bên

cạnh đó, hiện nay phát triển nông nghiệp, nông thôn đang phát sinh nhiều vấn

đề như: sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình; phát

triển kinh tế nhưng chưa quan tâm tới nhiệm vụ bảo vệ môi trường dẫn tới suy

giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp, gây ô nhiễm môi trường đất, nước.

2.2.8. Hệ thống chợ nông thôn

Bảng 2.8: Kết quả phát triển hạ tầng mạng lƣới chợ nông thôn

TT

Chỉ tiêu

2009

2010

2011

2012

2013

Chợ được xây mới, cải tạo (số chợ)

0

0

1

1

1

1

Chợ kiên cố (%)

2 31 47 52 56 28

Chợ tạm (%)

3

69

72

53 48 44

Tỷ lệ xã đã có chợ (%)

4

52

43

57 62 65

Nguồn: Văn phòng UBND huyện Lạng Giang năm 2014

Chợ là tiêu chí số 7 trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn

mới. Chợ được công nhận là chợ nông thôn mới khi đạt tiêu chuẩn về quy

hoạch và xây dựng của Bộ xây dựng. Còn theo Thông tư 54 của Bộ Nông

70

nghiệp và Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc

gia về nông thôn mới, chợ nông thôn là công trình phục vụ nhu cầu thiết yếu

hàng này, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ ở

nông thôn. Ngày nay, bên cạnh các loại hình chợ truyền thống còn xuất hiện

nhiều loại hình chợ mới như chợ đầu mối, chợ chuyên doanh, chợ ẩm thực…

Sự phát triển đa dạng cả về quy mô và hình thức của hệ thống chợ đã góp

phần quan trọng vào việc thúc đẩy thương mại. Do đó, việc xây dựng chợ là

nhu cầu cần thiết, tạo thuận lợi trong quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp

mọi người giao thương, phát triển kinh tế, hạn chế việc họp chợ trái phép gây

mất trật tự giao thông, ô nhiễm môi trường…

Toàn huyện hiện có 13 chợ và 5.400 hộ kinh doanh thương mại. Theo

quy chuẩn xây dựng chợ nông thôn mới do Bộ Xây dựng ban hành thì chợ

quy hoạch đạt tiêu chí nông thôn mới phải đảm bảo: vị trí quy hoạch chợ

thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, đi lại của dân cư đường bộ, đường

thủy; bố trí gần khu dân cư và trung tâm xã, kết hợp hoạt động chợ với các

dịch vụ thương mại, văn hóa khác có liên quan, hỗ trợ cho nhau. Tối thiểu

mỗi xã phải có 1 chợ; diện tích đất xây dựng chợ phải từ 3.000m2 trở lên, đối

với khu vực miền núi tối thiểu phải đạt 1.500m2; diện tích xây dựng nhà chợ

chính tối đa không quá 40% diện tích chợ; diện tích mua bán ngoài trời tối

thiểu là 25%, diện tích đường giao thông nội bộ dưới 25% và diện tích sân,

cây xanh ít nhất là 10%... Việc đầu tư xây dựng công trình chợ phải phù hợp

với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, quy hoạch ngành, địa phương...

Nếu đối chiếu với quy chuẩn trên thì có thể khẳng định cơ bản các chợ

trên địa bàn huyện không đạt tiêu chuẩn chợ nông thôn mới. Bở i các chợ ở

các vùng nông thôn, miền núi hiê ̣n nay chủ yếu là chợ tự phát, chợ cóc, chợ

tạm và được xây dựng đã lâu, chất lượng đang xuống cấp nghiêm trọng.

71

Theo tổng hợp, đánh giá thực trạng nông thôn mới hiện nay toàn huyện

có 04/20 (đạt 30.76%) xã có chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng là các xã: Tân

Dĩnh, Thái Đào, Tiên Lục, An Hà. Vậy còn 16 xã phải tiếp tục xây dựng, cải

tạo hệ thống chợ mới đạt tiêu chuẩn trong bộ tiêu chí nông thôn mới. Theo

tính toán của Sở Công thương, để hoàn thiện một chợ đạt tiêu chí nông thôn

mới cần ít nhất từ 4-5 tỷ đồng. Như vậy để hoàn thành chợ sẽ cần sự chung

tay, góp sức rất lớn của người dân.

2.3. Đánh giá thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội

của huyện đáp ứng yêu cầu phát triển nông thôn mới

2.3.1. Những thành tựu cơ bản

- Hệ thống điện đến các xã được đầu tư, mở rộng và đạt được nhiều kết

quả đáng khích lệ. Đây cũng là một nội dung trong những nội dung quan

trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội

nhằm không ngừng nâng cao điều kiện sống, phát triển sản xuất và cung cấp

dịch vụ tốt hơn cho nông thôn.

- Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, hệ thống giao

thông nông thôn không ngừng được phát triển về cả số lượng và chất lượng.

Đây là tiền đề rất quan trọng để huyện thu hút các nhà đầu tư vào các khu

công nghiệp, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao

động và giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác.

- Hệ thống kênh mương được xây dựng, cứng hóa giúp người dân thuận

lợi hơn rất nhiều trong việc tưới tiêu, dân nước trong các vụ mùa. Hệ thống đê

điều cũng được đảm bảo để người dân yên tâm lao động sản xuất.

- Hệ thống trường học, giáo dục mầm non được mở rộng. Một số công

trình đã được xây dựng, cải tạo đưa vào sử dụng phục vụ cho học tập của học

72

sinh đã giúp các con em nông dân có điều kiện tiếp cận với các phương tiện,

thiết bị dạy học đầy đủ, hiện đại, tạo hứng khởi trong học tập.

- Hệ thống mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao ở các xã đã có sự

phát triển, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thẩn của người dân.

Ngoài thời gian lao động ruộng đồng vất vả, giờ đây người dân có thể tham

gia các hoạt động văn hóa xã hội trong thôn, nâng cao dân trí, giúp người dân

tiếp cận gần hơn với các thông tin trong nước và thế giới, tạo không khí vui

tươi, thoải mái, nâng cao sức khỏe cho người dân.

- Các khu chợ được xây mới, cải tạo cùng với hệ thống đường giao

thông được kiên cố hóa tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, buôn bán. Việc

quy hoạch chợ giúp giảm ùn tắc giao thông, tạo cảnh quan môi trường xanh

sạch đẹp.

2.3.2. Những hạn chế của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo

yêu cầu của mô hình nông thôn mới

Thứ nhất, hệ thống giao thông nông thôn chưa đạt yêu cầu NTM, đặc

biệt với chỉ tiêu 50% chiều dài đã cứng hóa đường trục chính nội đồng, xe cơ

giới đi lại thuận tiện thì một số xã còn chưa thực hiện được nội dung này: Yên

Mỹ, Xương Lâm, Phi Mô, Hương Lạc, Tân Dĩnh...

Thứ hai, dù đã có nhiều cố gắng để cải tạo, nâng cấp nhằm bảo đảm an

toàn vận hành hệ thống lưới điện nông thôn nhưng thực trạng lưới điện ở

nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Hệ thống điện hạ

thế là do dân góp tiền xây dựng, do kinh phí hạn hẹp, gom góp của người dân

lại nên hệ thống hạ thế được xây dựng với những trang thiết bị không đủ tiêu

chuẩn và tiến hành xây dựng cũng không đúng quy phạm. Do xây dựng không

đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, chắp vá nên hệ thống điện nông thôn gây tổn thất điện

năng lớn làm tăng giá điện.

73

Ví dụ như xã Đại Lâm (Lạng Giang), từ khi tiếp nhận (tháng 7-2009)

đến nay, ngành điện đã hai lần cải tạo tối thiểu, sửa chữa lớn, thay thế hơn

30% hệ thống dây dẫn lõi trần bằng dây bọc, hơn 1,5 nghìn công tơ các loại…

với tổng kinh phí hơn hai tỷ đồng. Thế nhưng chất lượng điện tại đây vẫn

chưa đồng đều, vào giờ cao điểm, tại khu vực cuối nguồn, tình trạng quá tải

vẫn xảy ra thường xuyên.

Thứ ba, mặc dù giáo dục đã được quan tâm đầu tư nhưng mới có 5 xã

đạt tỷ lệ trường học các cấp Mầm non, Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học cơ sở

có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia còn lại 11 xã mới đạt gần mức tiêu chí

đưa ra, đạt 66,7%: Xương Lâm, Tân Thanh, Thái Đào, Đại Lâm, Dương Đức,

Mỹ Hà, Đào Mỹ, Nghĩa Hưng, Nghĩa Hòa, An Hà, Quang Thịnh.

Thứ tư, việc triển khai các tiêu chí y tế còn gặp không ít khó khăn. Đội

ngũ cán bộ y tế tại trạm còn thiếu, nhất là bác sỹ và cán bộ y học cổ truyền,

dược tá. Năng lực chuyên môn để thực hiện các dịch vụ kỹ thuật theo phân

tuyến đối với đội ngũ này cũng còn hạn chế. Về nguồn lực đầu tư, các xã

chưa đạt chuẩn đều là những xã khó khăn, không có nguồn tài trợ nên cơ sở

hạ tầng chưa được xây dựng. Đối với các xã đã đạt chuẩn lại thiếu kinh phí

duy tu, bảo dưỡng nên một số hạng mục xuống cấp. Về trang thiết bị y tế thiết

yếu theo danh mục quy định của Bộ Y tế cũng còn thiếu, chưa có nguồn kinh

phí để mua sắm bổ sung…

Thứ năm, ở nhiều địa phương khi hoàn thành xây dựng nhà văn hóa

khang trang nhưng lại bị bỏ hoang, dân cư không ai đến gây lãng phí nguồn

lực.

Thứ sáu, về bưu chính viễn thông thực trạng gần đây cho thấy do sự

phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, mạng thông tin di động, cố định, một

số vùng khó khăn được Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ bưu chính viễn thông

74

công ích, do đó hoạt động của các đã có những thay đổi nhanh, số lượng

người đến sử dụng dịch vụ bưu chính, viễn thông và các dịch vụ văn hoá

giảm, chất lượng nhiều điểm bưu điện văn hóa xã đã xuống cấp.

Yêu cầu có Internet đến thôn còn gây nhiều tranh luận. Có ý kiến cho

rằng có internet đến thôn có nghĩa là thôn nào cũng phải có điểm truy cập

internet. Tuy nhiên thì theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT – Hướng

dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới thì: “Xã có internet về

đến thôn được hiểu là xã đã có điểm cung cấp dịch vụ truy cập Internet”. Là

một huyện miền trung du miền núi, người dân chủ yếu là nghề nông có ít nhu

cầu truy cập internet nên mặc dù được sự quan tâm của chính quyền tỉnh,

huyện nhưng chỉ có 4/20 xã (đạt 20%) có điểm cung cấp dịch vụ internet đến

thôn đó là: Xuân Hương, Nghĩa Hưng, Nghĩa Hòa, Quang Thịnh.

2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Do năng lực quản lý của cán bộ xã và nhận thức của người nông dân

hạn chế

Xây dựng NTM cũng như quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng không

có nghĩa là tập trung nguồn vốn, nguồn lực để xây dựng CSHT để thay đổi

ngay diện mạo của nông thôn. Một trong những nhân tố quan trọng để có thể

tổ chức sản xuất tốt là nhân tố con người. Nhân tố con người ở đây bao gồm

hai đối tượng chính là cán bộ quản lý và người nông dân. Đây cũng là nhân tố

có vai trò quan trọng trong xây dựng thành công NTM. Chính vì vậy, nhận

thức của người dân và năng lực của cán bộ thấp chính là nguyên nhân gây hạn

chế trong xây dựng NTM. Một số ý kiến cho rằng vấn đề khó khăn nhất khi

xây dựng NTM chính là phải nâng cao trình độ nhận thức của con người bao

gồm cả người dân và cán bộ quản lý.

75

Năng lực của cán bộ quản lý cũng như cán bộ xã, thôn là nhân tố hết

sức quan trọng. Bởi những cán bộ này là những người trực tiếp quản lý các dự

án, công trình, trực tiếp tiếp xúc với hoạt động sản xuất của nhân dân. Trước

tiên họ phải là những người hiểu biết về mô hình NTM, hình dung được NTM

là gì. Tuy Lạng Giang đã mở nhiều lớp tập huấn về nghiệp vụ xây dựng NTM

cho các xã và các cán bộ, nhân dân xây dựng NTM nhưng hiệu quả các lớp

chưa cao. Phần lớn cán bộ còn lúng túng trong việc giải thích, tuyên truyền

cho người dân về NTM. Trong khi việc xây dựng NTM cũng như việc tạo

mối liên kết chặt chẽ giữa người dân và các dự án cần đội ngũ cán bộ có năng

lực thì năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ xã lại hạn chế. Điều này gây khó

khăn trong quá trình vận động người dân tham gia vào các dự án.

Xây dựng NTM mà đặc biệt là xây dựng KCHT cần thực hiện nhiều

chương trình, dự án trong một thời gian ngắn. Để có thể đảm bảo công tác

triển khai theo đúng tiến độ thì người quản lý cần có năng lực, chuyên môn để

lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch cho tốt.

- Do khó khăn trong huy động vốn

Xây dựng NTM không chỉ dựa vào nguồn ngân sách nhà nước. Nguồn

ngân sách từ chính địa phương xây dựng NTM chiếm 60%, ngân sách nhà

nước chỉ chiếm 40%. Ngoài ngân sách huy động từ doanh nghiệp, từ ngân

hàng tín dụng, từ xã thì nguồn huy động trong nhân dân là rất quan trọng. Đối

với việc huy động vốn cho các CSHT là phục vụ chính lợi ích của người dân

từng thôn, từng xóm. Vì thế huy động nguồn vốn, nguồn lực trong nhân dân

cũng chính là khai thác nguồn lực tại chỗ xây dựng NTM. Ví dụ như xã Tân

Dĩnh – xã đi đầu trong phong trào xây dựng NTM trong 20 xã khảo sát, tổng

kinh phí cần thiết để hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

NTM khoảng 126 tỷ đồng trong đó vốn ngân sách chiếm 40%, vốn đối ứng

76

chiếm 30%, vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác

chiếm 20% và vốn huy động đóng góp của nhân dân là 10%; tỷ lệ 10% mà

dân phải góp là 12,6 tỷ đồng. Số tiền này nếu chia đều cho số lao động của xã

thì mỗi lao động phải góp gần 12 triệu đồng trong vòng 8 năm. Đây thực sự là

một số tiền không nhỏ đối với người nông dân lam lũ ở đây.

Nhiều địa phương, nhân dân góp vốn bằng cách hiến đất để làm đường,

trường, trạm. Đó cũng được công nhân là hình thức đóng góp tiền của vào xây

dựng NTM. Thế nhưng, không phải ai có tinh thần cũng đều được toại nguyện

góp theo kiểu đóng góp này. Bởi lẽ, chỉ những mảnh vườn, khoảng sân nằm

sát công trình thì mới có cơ hội hiến đất. Còn lại, dù có đất và có cả ý nguyện

hiến đất nhưng đất không nằm trong vị trí thuận lợi thì có muốn cũng không

thực hiện được.

77

CHƢƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾT CẤU

HẠ TẦNG KINH TẾ XÃ HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

GIAI ĐOẠN 2010 – 2020

3.1. Quan điểm về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã

hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới của huyện Lạng Giang,

tỉnh Bắc Giang

3.1.1. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH có tầm quan trọng đặc biệt

trong quá trình xây dựng NTM

Chúng ta biết rằng, một trong những động lực cơ bản và chủ yếu của sự

phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn chính là năng lực chuyển đổi của kinh tế

các hộ nông dân. Phát triển hạ tầng có một ý nghĩa trọng đại là tạo nền tảng,

tiền đề cho việc tăng năng lực chuyển đổi của kinh tế hộ gia đình ở nông thôn.

Tuy nhiên, nếu huy động quá mức các nguồn lực trong dân, lại làm kiệt quệ đi

nội lực của các hộ gia đình, do đó làm mất đi cái cơ sở quyết định cho sự

chuyển đổi kinh tế của các đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Khi đó, các hạ

tầng được tạo ra lại đồng thời làm mất đi cái động lực quyết định của sự

chuyển đổi. Ở đây, sự vận động của các yếu tố phát triển kinh tế rơi vào trạng

thái luẩn quẩn.

Đầu tư phát triển hạ tầng phải kết hợp được giữa mục tiêu trước mắt và

mục tiêu dài hạn. Hạ tầng ở nông thôn là những công trình xây dựng lớn, có

mức đầu tư cao, nói chung là lĩnh vực tập trung lớn của cải, mặt khác, là

những công trình có thời gian sử dụng dài và các công trình hạ tầng có mối

liên hệ chặt chẽ trong một quần thể, đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt. Để đáp

78

ứng được những nhu cầu trước mắt và tránh được trạng thái nhanh bị lạc hậu,

phá đi làm lại, gây tốn kém, kết hợp được nhiều công năng của các công trình

hạ tầng, nhờ đó tiết kiệm tối đa và đạt hiệu quả cao, cần có quy hoạch tổng

thể và xây dựng theo những quy chuẩn nhà nước. Những dự án xây dựng hạ

tầng cần được tính toán kỹ lưỡng về các mặt kinh tế, tài chính, kỹ thuật và

cảnh quan văn hóa. Với sự kết hợp các mục tiêu trên cơ sở tính toán các mặt

sẽ loại bỏ tối đa tính phiêu lưu, hình thức trong xây dựng hạ tầng ở nông thôn

vừa qua.

Là một lĩnh vực đầu tư có nội dung kinh tế, phát triển hạ tầng ở nông

thôn phải tuân theo các quy luật kinh tế và quản lý sự phát triển hạ tầng cần

được thực hiện theo nguyên tắc quản lý kinh tế.

3.1.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn là nhân

tố thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế

Phát triển hạ tầng trong nông thôn làm thay đổi điều kiện vật chất trong

sinh hoạt kinh tế, xã hội ở nông thôn có quan hệ với tiền đề chung của sự phát

triển tổng thể. Sự phát triển của nền kinh tế và xã hội Việt Nam chính là

chuyển đổi được nền nông nghiệp và xã hội nông thôn chậm phát triển. Phát

triển hạ tầng ở nông thôn, chính là góp một phần quyết định cho sự chuyển

đổi này, bởi vậy, phát triển hạ tầng nông thôn trong khi làm thay đổi điều kiện

vật chất ở nông thôn, thì đồng thời nó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung

của toàn nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Mặt khác, phát triển hạ tầng ở nông

thôn, không phải chị phục vụ trong một khuôn khổ hạn hẹp của sinh hoạt kinh

tế, xã hội ở nông thôn, mà còn là nền tảng cho sự phát triển tổng thể. Điện,

đường… xây dựng ở nông thôn, cố nhiên không chỉ dùng cho những người

nông dân, mà cho toàn xã hội. Nó tham gia hình thành một mạng lưới hạ tầng

79

KT-XH thích ứng với tiến trình kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp

hóa, và nói chung tiến trình xã hội hóa nến kinh tế xã hội.

Phát triển hạ tầng ở nông thôn chính là nhằm phân bố rộng khắp thành

tựu của sự phát triển, nhờ đó làm thay đổi chất lượng sống của 80% dân cư cả

nước đang sống ở nông thôn. Sự thay đổi này có một tầm quan trọng lớn đối

với sự thay đổi trong chất lượng người lao động của nền kinh tế. Có thể nói,

phát triển hạ tầng ở nông thôn, tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục, văn

hóa… là một đầu tư dài hạn, liên quan đến sự thay đổi trong chất lượng của

lực lượng sản xuất xã hội, chuẩn bị một tiền đề quyết định đối với quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.

Từ đó có thể đúc kết lại, phát triển hạ tầng ở nông thôn không phải là

trách nhiệm chỉ của riêng người nông dân, mà là vấn đề chung của toàn nền

kinh tế, toàn xã hội.

3.1.3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH là nhiệm vụ của cả

Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư

Phát triển hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn chính là một sự thay

đổi sâu sắc trong nông thôn mang tính kinh tế - nhân văn. Nó đụng chạm đến

lợi ích của rất nhiều bên tham dự và diễn ra trong điều kiện của nền kinh tế thị

trường. Sự phát triển này, như trên đã thấy, là mang tính toàn cục của sự phát

triển, mang tính toàn xã hội, bởi vậy, quá trình phát triển hạ tầng ở nông thôn

nay phải được đặt trong chiến lược và chính sách phát triển của nhà nước và

được nhà nước ở các cấp tham gia quản lý. Đồng thời, sự phát triển này còn

diễn ra ở từng cộng đồng thôn xóm, vì vậy, trong một chừng mực nhất định

một số hạ tầng là thuộc quyền sở hữu và sử dụng trực tiếp cho cộng đồng thôn

xóm, vì thế các cộng đồng thôn xóm mang tính tự quản sẽ là đồng chủ quản

đối với các hạ tầng ở cấp cộng đồng thôn xóm, cùng nhà nước tham gia quản

80

lý sử dụng các cơ sở hạ tầng trong phạm vi thôn xã. Vì là những công trình

mang tính chất công cộng có tính xã hội hóa cao, vì thế, sự phát triển của

chúng được đặt trong một chiến lược, chính sách phát triển hạ tầng có thể do

nhiều chủ thể thực hiện nhưng chủ thể quản lý chung phải là nhà nước. Xét

cho cùng, việc quản lý sự phát triển nói chung và đối với hạ tầng ở nông thôn

nói riêng, là một chức năng cơ bản và chủ yếu của nhà nước. Trong điều kiện

của kinh tế thị trường, thì việc đầu tư phát triển hạ tầng, là một hoạt động kinh

tế, tất yếu phải được đặt trong cơ chế thị trường, tuần thủ các nguyên tắc thị

trường. Chính trong cơ chế thị trường, KCHT KT-XH ở nông thôn được hình

thành, phát triển và được tái sản xuất mở rộng, có thể nói, hạ tầng ở nông thôn

được phát triển trong sự tác động của ba thể chế: thể chế nhà nước, thể chế thị

trường và thể chế cộng đồng, trong đó thể chế thị trường là cơ sở.

Lĩnh vực phát triển hạ tầng là lĩnh vực quan hệ mật thiết đến từng cá

nhân con người, đến cộng đồng và xã hội. Ở đây, người dân là trung tâm. Họ

là người được hưởng thụ trực tiếp kết quả của sự phát triển hạ tầng, đồng thời

họ lại là người tham gia đóng góp và sử dụng những hạ tầng, bởi vậy không ở

đâu, quan điểm dân là gốc lại hệ trọng trực tiếp như trong lĩnh vực phát triển

hạ tầng. Trong sự phát triển hạ tầng, các dự án phát triển dân phải được tham

gia bàn bạc, kiểm tra và đánh giá kết quả xây dựng. Cố nhiên trong nền kinh

tế thị trường, thì chính cơ chế thị trường là cái chi phối đến sự phát triển hạ

tầng, vì xét cho cùng thì phát triển hạ tầng là lĩnh vực đầu tư hình thành

những cơ sở vật chất chung trong quan hệ với việc cung cấp hàng hóa và dịch

vụ. Ở đây người dân với tính cách là người mua hàng hóa, sẽ là người thông

quan cơ chế thị trường quyết định đến việc phát triển hạ tầng. Đồng thời trong

điều kiện hiện nay, thực hiện quyền dân chủ, theo nguyên tắc: dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra vẫn là cần thiết.

81

Quan điểm dân là gốc, nhà nước quản lý, cộng đồng hỗ trợ và cơ chế

thị trường là cơ sở đòi hỏi mọi dự án phát triển hạ tầng ở nông thôn phải được

bốn phía tham gia quyết định. Điều này phù hợp với trạng thái phát triển hiện

nay trong việc tạo những cơ sở vững chắc cho tiến trình phát triển hạ tầng

trong nông thôn đồng thời nó là cái loại trừ chủ nghĩa hình thức, phiêu lưu và

chủ nghĩa thành tích.

3.2. Định hƣớng phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn mới huyện

Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đến 2020

Trên cơ sở thực trạng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đáp

ứng mô hình NTM trong thời gian qua, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện

Lạng Giang đã xây dựng định hướng phát triển hạ tầng KT-XH NTM như sau:

Bảng 3.1: Định hƣớng phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn

mới đến năm 2020

Chỉ tiêu Năm 2020

Giao thông 60% số xã đạt chuẩn (các trục đường xã được nhựa

hóa hoặc bê tông hóa)

Thủy lợi 65% số xã đạt chuẩn (có 50% kênh cấp 3 được

cứng hóa)

Điện 95% số xã đạt chuẩn

Trường học 95% số xã đạt chuẩn

Cơ sở vật chất văn hóa 75% số xã đạt chuẩn nhà văn hóa khu thể thao xã

Chợ nông thôn Xây dựng mới 5 chợ tại các xã Quang Thịnh,

Hương Lạc, Thái Đào, Đại Lâm, Nghĩa Hưng, cải

tạo và nhanh cấp 4 chợ: chợ Triển (Mỹ Thái), chợ

Bến Tuần (Mỹ Hà), chợ Tân Quang (Đào Mỹ), chợ

Than (Dương Đức).

82

Bưu chính viễn thông 98% số thôn trên địa bàn huyện có điểm truy cập

Internet

Y tế

Giữ vững, nâng cao chất lượng các Trạm y tế, phấn đấu nâng tỷ lệ người dân tham gia các hình thức Bảo hiểm Y tế đạt 45%

Nguồn: Ban chỉ đạo xây dựng NTM, UBND huyện Lạng Giang năm 2011

3.3. Giải pháp phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đáp ứng

yêu cầu NTM

3.3.1. Tập trung đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển hạ

tầng KT-XH nông thôn

Về mặt lý thuyết, quy hoạch là căn cứ quan trọng của các kế hoạch phát

triển KT-XH, là cơ sở thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước trên địa bàn

nhằm định hướng cho sự phát triển dài hạn KT-XH. Quy hoạch phát triển hạ

tầng KT-XH nông thôn là một nội dung của quy hoạch phát triển nông thôn.

Xét trên giác độ phân bố lực lượng sản xuất thì quy hoạch phát triển

nông thôn là sự phân bố các nguồn lực tài nguyên, đất đai, lao động, vốn, cơ

sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch

vụ trên lãnh thổ nông thôn một cách hợp lý để đạt hiệu quả cao. Do đó, quy

hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là căn cứ không thể thiếu để

thực hiện quy hoạch phát triển ngành và vùng nhằm để khai thác và sử dụng

các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội cho các mục tiêu phát triển KT-XH

nông thôn.

Thời gian qua, mặc dù công tác quy hoạch xây dựng đã được huyện

Lạng Giang chú trọng nhưng cũng như nhiều huyện khác, công tác quy hoạch

phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn Lạng Giang còn nhiều mặt hạn chế,

đặc biệt là khi quy hoạch chưa xác lập cụ thể các luận cứ khoa học và thực

83

tiễn nên các đề xuất còn thiếu căn cứ. Thực tiễn sự phát triển KT-XH không

theo như dự báo và hệ quả là các bản quy hoạch buộc phải điều chỉnh nhiều

lần trong thực tiễn. Ngay trong các bản quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH

có nhiệm vụ chính là quy hoạch phát triển các cơ sở vật chất, phân vùng sản

xuất, nhưng phần này nghiên cứu chưa sâu, chưa cụ thể, tầm nhìn còn hạn

hẹp, chỉ khoảng 5-10 năm. Đáng chú ý nhất là Lạng Giang vẫn thiếu một bản

quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH thống nhất và ổn định lâu dài.

Từ thực tiễn cho thấy, để thực hiện các mục tiêu phát triển hạ tầng KT-

XH ở nông thôn đã đề ra một cách hiệu quả cần nhanh chóng hoàn thành quy

hoạch phát triển hạ tầng KT-XH đối với từng vùng nông thôn.

Trong xây dựng quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn ở Lạng

Giang cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải gắn với chiến

lược và kế hoạch phát triển KT-XH nông thôn trong từng giai đoạn cụ thể.

Quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH nông thôn phải xác định được

những mục tiêu lâu dài cũng như các biện pháp cơ bản để đạt được các mục

tiêu dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, là

cơ sở định hướng cho sự phát triển KT-XH nông thôn. Quy hoạch phát triển

hạ tầng KT-XH nông thôn cần phải có đủ các căn cứ khoa học và vững chắc,

phải có tầm nhìn xa, phải có “ quy hoạch cứng” và “quy hoạch mềm” và giảm

thiểu những thay đổi và điều chỉnh lớn. Để thực hiện quy hoạch phát triển hạ

tầng KT-XH nông thôn, Lạng Giang cũng như từng địa phương cần đánh giá

một cách toàn diện và cụ thể hiện trạng hạ tầng KT-XH khu vực nông thôn,

phân tích, dự báo về nhu cầu phát triển KT-XH, các công trình hạ tầng KT-

XH cần xây dựng tính cho 10 - 20 năm sau; tính toán các điều kiện về nguồn

lực có thể huy động cho xây dựng các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn.

84

Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần xác định mục

tiêu, lộ trình thực hiện và phải tập trung vào các vấn đề sau:

+ Quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông và thuỷ lợi nông thôn:

Nội dung quy hoạch cần trả lời câu hỏi: Bố trí mạng lưới giao thông,

thuỷ lợi như thế nào? Quy mô của từng công trình cho phù hợp với điều kiện,

khả năng đầu tư của địa phương, với phương thức sử dụng đảm bảo tính khoa

học và hiệu quả. Hướng phát triển GTNT là phải gắn với hệ thống giao thông

đã được quy hoạch cho toàn vùng, nhanh chóng nhựa hoá đường liên xã, cấp

phối hoá đường liên thôn, bê tông hoá đường làng, ngõ xóm, đường liên xã

cần được mở rộng theo tiêu chuẩn cấp kỹ thuật của Bộ GTVT cứng hóa 100%

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đi lại và giao lưu hàng hóa. Phát

triển hệ thống thủy lợi phải đảo bảo tính đồng bộ, tính hệ thống của các công

trình thủy lợi. Đặc biệt, hệ thống kênh mương nội đồng và kênh cấp 3 cần xây

dựng theo thiết kế mẫu để giảm chi phí và đảm bảo chất lượng và mỹ quan

nông thôn mới.

+ Quy hoạch mạng lưới cung ứng điện nông thôn: Xây mới, cải tạo,

nâng cấp các trạm điện 110 KV, các đường dây 35 KV ở khu đô thị mới, các

KCN, CCN, các làng nghề để đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh và

tiêu dùng của nhân dân. Từng bước nâng cao chất lượng nguồn điện, giảm tổn

thất điện năng, đảm bảo an toàn và mỹ quan nông thôn mới, giảm giá điện

phục vụ sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân với mức giá thấp hơn

hoặc bằng mức giá Nhà nước quy định.

+ Quy hoạch hệ thống cung cấp nước sạch và bảo vệ môi trường bao

gồm các nội dung: Xác định nguồn cung cấp và hệ thống phân phối nước sạch

đến toàn vùng nông thôn; trên cơ sở đánh giá tác động của môi trường đối với

tất cả các dự án phát triển KT-XH; kiểm tra các nguồn nước và đánh giá kỹ

85

lưỡng và kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ để xây dựng chiến lược về quản lý chất

thải rắn và chất thải nguy hại; giảm nguồn phát sinh chất thải rắn ngay từ ban

đầu, cơ sở xử lý rác thải, nước thải phù hợp…và lựa chọn hình thức xây dựng

các công trình.

+ Quy hoạch mạng lưới bưu chính viễn thông: Xác định rõ được vị trí,

địa điểm xây dựng các điểm Bưu điện - Văn hoá xã trên toàn huyện và được

xây dựng theo đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bố trí số

lượng hợp lý các trạm thu phát sóng thông tin di động, vùng phủ sóng rộng

đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội nhất là những vùng ở xa trung tâm xã, những

vùng còn có nhiều khó khăn.

+ Quy hoạch mạng lưới chợ: Phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn

nông thôn cần phải kết hợp giữa hệ thống chợ hiện có với việc mở rộng và

xây dựng thêm các chợ mới, đồng thời phải kết hợp giữa hệ thống chợ nông

thôn với các loại hình thương mại tiên tiến như siêu thị, cửa hàng bách hoá.

Phát triển chợ nông thôn phải lấy chợ và các cụm kinh tế - thương mại -

dịch vụ ở thị trấn, thị tứ làm mô hình phát triển chủ yếu để phát triển hệ thống

cơ sở vật chất của ngành thương mại. Phát triển đồng bộ các loại chợ như:

Chợ bán lẻ, chợ bán buôn, chợ đầu mối, chợ kinh doanh tổng hợp, trung tâm

thương mại... kết hợp các mô hình chợ khác nhau (quy mô lớn, vừa, nhỏ) và

không phân biệt địa giới hành chính. Đẩy mạnh xây dựng chợ và các cửa

hàng tại trung tâm cụm xã, xã đảm bảo 100% các xã đều có chợ để phục vụ

sản xuất và đời sống nhân dân.

+ Quy hoạch mạng lưới giáo dục - đào tạo: Trên cơ sở yêu cầu phát

triển giáo dục đào tạo để xác định nhu cầu tăng thêm các trường, lớp; nhu cầu

thay thế các phòng học, nhà làm việc bị xuống cấp, hư hỏng; bổ sung, hoàn

chỉnh cơ sở vật chất theo yêu cầu cải cách giáo dục và xây dựng trường chuẩn

86

quốc gia. Trong đó phải chú ý đảm bảo đủ diện tích cho trường học các cấp,

địa điểm cần được bố trí ở trung tâm, thuận lợi cho đi lại, mở rộng phát triển

hệ thống các trường tư thục, dân lập, các trung tâm, cơ sở dạy nghề ở tuyến

huyện...

+ Quy hoạch mạng lưới các cơ sở y tế: Củng cố và mở rộng các trạm y

tế xã, bệnh viện huyện, xây dựng các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, các

bệnh viện tuyến huyện trở thành bệnh viện khu vực đủ về diện tích, giường

bệnh, trang thiết bị hiện đại chuyên sâu. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong

các hoạt động y tế theo đúng tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của

Thủ tướng Chính phủ. Huy động nhiều nguồn lực cho phát triển, hết sức quan

tâm và sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ cho phát triển hạ tầng ngành Y tế

khu vực nông thôn.

+ Quy hoạch mạng lưới hạ tầng văn hoá: Xây dựng các phương án bảo

tồn các di tích văn hoá, các khu lưu niệm và phát huy loại hình văn hoá tiêu

biểu, một số làng văn hoá quan họ, làng nghề thủ công truyền thống; xây

dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm văn hoá các cấp,

các nhà văn hoá xã, thôn; xây dựng môi trường và đời sống văn hoá mới.

- Công tác quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải gắn với quy

hoạch phát triển tổng thể KT-XH của từng xã. Nội dung quy hoạch phát triển

tổng thể KT-XH của từng xã sẽ là cơ sở cho việc quy hoạch phát triển hạ tầng

KT-XH nông thôn. Khi xây dựng quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông

thôn phải tính đến những cơ sở hạ tầng hiện có và sẽ có trên địa bàn nông

thôn ở từng vùng, phải xem xét đến mục tiêu phát triển KT-XH của vùng đó,

phải tính đến cả phong tục tập quán, đời sống và mức sống của dân cư trong

vùng và các vùng phụ cận. Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và thống nhất

giữa quy hoạch ngành với quy hoạch của từng xã về nội dung, phương pháp

87

và trình tự phê duyệt. Có như vậy, nội dung quy hoạch mới có thể tạo nền

tảng cho việc thực hiện các mục tiêu KT-XH của vùng và có tính khả thi.

- Nội dung quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải phù hợp với điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa bàn nông thôn. Mỗi vùng kinh tế có

những điều kiện tự nhiên và những điều kiện KT-XH khác nhau cho nên để

quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH từng vùng có tính khả thi, hệ thống hạ

tầng KT-XH được xây dựng sẽ phát huy được hiệu quả thì quy hoạch hạ tầng

KT-XH đó phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng.

Thực tế cho thấy, không thể quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở mức độ

hiện đại hoá cao ở những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn, vùng sâu,

vùng xa, không phù hợp cho việc phát triển loại hình hạ tầng đó hoặc vào

những vùng mà điều kiện KT-XH ở vùng đó không cho phép phát triển.

- Quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải đảm bảo tính

đồng bộ, hệ thống

Công tác quy hoạch hạ tầng KT-XH nông thôn phải được hoàn thiện

trong mối quan hệ đồng bộ thống nhất giữa các bộ phận, các ngành trong

cùng hệ thống và đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển vùng và toàn huyện

thì đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng mới phát huy được hiệu quả. Không thể quy

hoạch phát triển hạ tầng KT-XH từng vùng, từng ngành một cách riêng rẽ mà

không tính đến quy hoạch chung phát triển hạ tầng KT-XH của toàn huyện.

Nếu quy hoạch một cách riêng rẽ từng vùng, từng ngành rất dễ xảy ra

hiện tượng trùng lắp, không đồng bộ, bất hợp lý hay “dẫm đạp nên nhau”

trong quá trình đầu tư phát triển dẫn đến hiệu quả vốn đầu tư thấp và lãng phí.

Đảm bảo quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn đồng bộ sẽ góp

phần khắc phục tình trạng phát triển tự phát, thiếu căn cứ khoa học. Thực tế,

tình trạng này thường xảy ra đối với các công trình hạ tầng KT-XH qui mô

88

vừa và nhỏ ở nông thôn (như phát triển mạng lưới điện thôn, xã; GTNT...).

Quy hoạch đồng bộ không có nghĩa là áp đặt một mô hình cứng nhắc đơn

điệu theo kiểu nhận rộng cho toàn vùng mà cần xét đến những điều kiện thực

tế của từng vùng, từng tỉnh trong việc phát huy thế mạnh về lợi thế nguồn vốn

tiềm năng, nguồn vốn vô hình và cơ sở hạ tầng hiện có.

Về cơ bản, chính quyền cấp tỉnh, huyện cần đề ra những định hướng

lớn, những tiêu chuẩn cơ bản, những thông số về phát triển cơ sở hạ tầng ở

từng vùng phù hợp với quy hoạch của từng ngành, từng lĩnh vực để xây dựng

kế hoạch cụ thể phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn trong điều kiện cơ chế

thị trường hiện nay.

- Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn phải xác

định rõ lộ trình thực hiện và phương án huy động các nguồn lực để thực hiện.

Thực tế cho thấy, do các nguồn lực, đặc biệt là vốn cho phát triển hạ tầng KT-

XH ở nông thôn luôn trong tình trạng thiếu thốn nên cần có sự lựa chọn xây

dựng công trình nào trước, công trình nào sau, cần sắp xếp thứ tự ưu tiên

trong đầu tư xây dựng. Nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông

thôn phải được thể hiện rõ trong kế hoạch 5 năm, hàng năm của cấp tỉnh,

huyện, xã. Kiên quyết không để tình trạng quy hoạch “treo” hay phê duyệt dự

án đầu tư mà không có nguồn vốn chắc chắn đầu tư. Việc xác định quy mô,

phương thức xây dựng và công nghệ cần lựa chọn trên cơ sở đảm bảo hiệu

quả kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Công trình quan trọng, cấp bách

thì cần làm trước, phù hợp với yêu cầu và khả năng, không có vốn thì không

đầu tư. Nói cách khác, trong nội dung quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH ở

nông thôn cần xác định rõ những công trình hạ tầng trọng điểm cần được

nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới mà trước hết là ở những khâu ách tắc,

yếu kém và đang cản trở sự phát triển. Đó là những công trình đóng vai trò

cởi “nút thắt”, mở đường cho sự phát triển KT-XH ở từng vùng, từng khu

89

vực. Đồng thời, xác định những công trình cần xây dựng, mở rộng trong

tương lai gần. Điều đó sẽ gắn liền với việc xác định phương án huy động các

nguồn lực, nhất là nguồn vốn để thực hiện.

3.3.2. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về tầm

quan trọng của mô hình nông thôn mới và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh

tế xã hội trong nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới phải lấy người dân làm chủ thể là một

phương châm quan trọng trong phong trào xây dựng nông thôn mới hiện đang

triển khai trên quy mô cả nước. Qua thực tế cho thấy, việc người dân tuy đã

tham gia xây dựng nông thôn mới nhưng họ còn chưa hiểu nông thôn mới là

gì? Xây dựng nông thôn mới thì họ có lợi ích gì? Các công trình do xã xây, xã

thực hiện các kế hoạch, còn người dân tương đối thụ động. Bởi họ là chủ thể

xây dựng nông thôn mới mà họ không hiểu rõ về trách nhiệm cũng như lợi ích

của họ thì sẽ dân đến thái độ thờ ơ, thụ động. Nếu họ hiểu được lợi ích nhận

được khi xây dựng nông thôn mới trên mảnh đất của chính họ thì họ sẽ tham

gia tích cực hơn và mỗi hành động của họ đều có động lực mang lại hiệu quả

cao hơn. Như vậy, nếu người dân hiểu rõ về nông thôn mới thì mô hình nông

thôn mới sẽ nhanh chóng được thực hiện.

Vì vậy công tác tuyên truyền, tạo sự đồng lòng trong nhân dân cùng

xây dựng nông thôn mới là điều hết sức quan trọng. Tuyên truyền ở đây

không có nghĩa là những khẩu ngữ hay những buổi tiếp xúc dân mang tính

hình thức, mà phải giúp người dân có một nhận thức đúng đắn về xây dựng

nông thôn mới. Đó là phát huy quyền làm chủ chứ không phải ỷ lại sự hỗ trợ

từ các nguồn ngân sách. Muốn làm được điều này thì chính những người cán

bộ quản lý sự án phải thực sự mong muốn xây dựng được nông thôn mới. Họ

phải thực sự gương mẫu và nhiệt huyết với nhiệm vụ của mình.

90

Tuyên truyền trong nhân dân trước tiên là phải giúp người dân hiểu

được nông thôn mới là gì, xây dựng hệ thống KCHT KT-XH đáp ứng yêu cầu

nông thôn mới là thế nào? Rất nhiều người dân còn chưa nhận thức rõ về

nông thôn mới và xây dựng các tiêu chí nông thôn mới. Vậy để người dân

thực sự hiều về nông thôn mới thì việc tuyên truyền nếu chỉ thể hiện qua lời

nói hay qua các buổi gặp gỡ giữa lãnh đạo quản lý và người dân là chưa đủ và

còn mang nặng hình thức. Muốn người dân có nhận thức đúng đắn thì địa

phương cần phải tăng cường công tác tuyên truyền thông qua những hành

động cụ thể. Như khi thực hiện các dự án quy hoạch, xây dựng công trình thì

cần lấy người dân làm trung tâm cho những chương trình này. Hay các công

tác trong tổ chức xây dựng, quy hoạch phải hiệu quả để tạo niềm tin trong

nhân dân. Khi người dân thực sự được tham gia từ công tác chuẩn bị đến công

tác xây dựng nông thôn mới, khi họ nhận thấy được tính hiệu quả trong những

công trình, dự án cảu xã họ sẽ thực sự tự nâng cao được nhận thức của chính

họ. Việc nói cho người dân hiểu nông thôn mới là gì sẽ không hiệu quả bằng

việc làm thế nào để người dân tự nâng cao hiểu biết của mình về nông thôn

mới.

Tiếp theo đó là cần nâng cao nhận thức của người dân để họ nắm rõ

được tầm quan trọng, sự cần thiết và những lợi ích họ được hưởng thụ khi xây

dựng nông thôn mới. Việc giúp người dân nhận thức được lợi ích của mình

trong xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa to lớn trong việc người dân sẵn

sàng, đồng lòng xây dựng nông thôn mới. Khi người dân hiểu họ chính là chủ

thể xây dựng nông thôn mới thì họ mới hiểu rằng họ phải có trách nhiệm

trong chương trình mục tiêu quốc gia này. Những công trình, dự án của xã

xây dựng lên nhằm phục vụ đời sống cho chính họ. Họ tham gia đóng góp xây

dựng nông thôn mới về tiền của và sức lao động nên họ phải trách nhiệm bảo

vệ những thành quả đạt được khi xây dựng nông thôn mới. Khi hiểu như vậy

91

họ sẽ có ý thức cao hơn trong việc giám sát nhưng hoạt động xây dựng các

công trình trên mảnh đất quê hương mình. Tức là họ vừa nâng cao ý thức

tham gia xây dựng phát triển địa phương và vừa có ý thức bảo vệ những công

trình phục vụ lợi ích cho chính họ, cho cộng đồng. Như vậy, nếu người dân có

nhận thức được nâng cao sẽ là một điều kiện thuận lợi để xây dựng thành

công nông thôn mới, ngược lại, nếu ý thức, nhận thức của người dân kém thì

sẽ là một cản trở không nhỏ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở Lạng

Giang nói riêng và cả nước nói chung.

Chính vì vậy mà việc nâng cao nhận thức của người dân trong xây

dựng nông thôn mới là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa trong việc quyết

định thành công của mô hình. Hơn nữa, khi người dân có ý thức xây dựng

phát triển địa phương, đồng sức, đồng lòng thì việc hoàn thành các chỉ tiêu dễ

dàng được thực hiện.

Tóm lại công tác tuyên truyền, gắn kết, tạo sự tin tưởng trong nhân dân

là rất quan trọng đối với việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói

riêng và xây dựng mô hình nông thôn mới nói chung.

Cần xác định rõ vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông

thôn mới là một trong những vấn đề quan trọng trong xây dựng nông thôn

mới. Đây có thể được coi là “kim chỉ nam” trong xây dựng các hạng mục,

công trình, dự án phát triển nông thôn, bởi hơn ai hết, họ là người được hưởng

thụ thành quả.

Đối tượng hướng tới của quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện

quy hoạch xây dựng nông thôn mới, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở

nông thôn là cuộc sống của người dân. Bởi quy hoạch hay xây dựng cơ sở hạ

tầng đều nhằm mục đích phục vụ đời sống dân sinh của người dân. Các công

trình xây dựng này nếu đặt ngoài mục tiêu phục vụ cho người dân thì việc xây

92

dựng nông thôn mới chỉ là việc xây dựng hình thức bên ngoài cho nông thôn

truyền thống. Đối với việc triển khai các công trình này, mỗi địa phương cần

vận động người dân tham gia với vai trò chủ thể của quy hoạch, xây dựng. Xã

cần xác định mục tiêu của quy hoạch, xây dựng là để sản xuất của người dân

được phát triển theo hướng mở rộng kinh tế hàng hóa, mục tiêu của quy hoạch

xây dựng kết cấu hạ tầng là để phục vụ cho đời sống người dân từ giao thông,

thủy lợi đến trường học… Còn về phía người dân, người dân cần phải phát

huy vai trò chủ thể của mình qua việc tham gia thảo luận về quy hoạch, tham

gia đóng góp xây dựng các công trình. Khi quy hoạch hay xây dựng những

công trình, người dân không những có lợi ích qua việc sử dụng các công trình

này mà còn phải có quyền lợi, trách nhiệm tham gia đóng góp xây dựng, bảo

vệ. Đây chính là vai trò chủ thể của người dân.

3.3.3. Đa dạng hóa nguồn vốn huy động và nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn

Việc tiến hành xây dựng xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp

ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng,

phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để thực hiện được các tiêu chí này đòi hỏi các

địa phương phải huy động được một lượng vốn lớn.

Tại Lạng Giang, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thì huyện có

thể huy động thêm từ sự đóng góp của người dân. Hai nguồn vốn mà các xã

trong huyện có thể khai thác là: nguồn vốn từ trong dân cư và nguồn vốn từ

các doanh nghiệp.

* Huy động vốn từ trong dân cư

Việc huy động nguồn vốn nhân dân đóng góp là rất cần thiết trong xây

dựng nông thôn mới. Thực tế cho thấy tại Lạng Giang, người dân đóng góp

93

chưa nhiều vào xây dựng nông thôn mới. Để người dân chủ động trong việc

tham gia xây dựng nông thôn mới cũng như chủ động tham gia đóng góp vốn

để xây dựng các hạng mục, công trình thì trước tiên cần thực hiện công tác

tuyên truyền đến từng người dân. Hơn nữa, việc huy động vốn phải dựa trên

những nguyên tắc nhất định: một là, việc huy động, dù của cộng đồng thôn

xóm hay của xã, cũng đều phải trên căn bản những quy định mang tính chất

nhà nước, tức là một khuôn khổ pháp lý; hai là, việc huy động xây dựng hạ

tầng trong phạm vi xã, thôn một mặt là thuộc về xã hội, nhà nước, mặt khác là

thuộc cộng đồng làng xã, vì thế, những dự án xây dựng hạ tầng, cũng như

việc huy động nguồn lực cho xây dựng những hạ tầng đó phải được bàn bạc

dân chủ trong dân, trong các tổ chức xã hội, trong Đảng bộ và trong hội đồng

nhân dân. Đồng thời, mọi hoạt động tài chính, xây dựng phải được công khai,

minh bạch; ba là: việc xây dựng hạ tầng ở nông thôn phải tuân theo trình tự và

thủ tục xây dựng do nhà nước ban hành. Nhất thiết phải có quy hoạch, thiết

chế, luận chứng kinh tế - kỹ thuật để tránh tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá

bóng”. Trong tổ chức xây dựng, nhất thiết phải thành lập Ban quản lý dự án,

xây dựng tách khỏi UBND với tính cách là chủ đầu tư và được đặt dưới sự

kiểm tra của HĐND, UBND.

Đối với những công tình xây dựng CSHT như xây nhà văn hóa, cứng

hóa đường giao thông thì xã cần tuyên truyền giúp người dân hiểu được trách

nhiệm của mình đối với xây dựng NTM. Trong những công trình của thôn,

xóm, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần, còn kinh phí chủ yếu vẫn do

người dân đóng góp xây dựng. Tuy số vỗn của người dân đóng góp ít nhưng

theo quy luật số đông, số tiền đóng góp của người dân sẽ không nhỏ. Vì vậy,

việc tuyên truyền, vận động để người dân tham gia việc xây dựng là rất quan

trọng. Bởi mục đích của việc xây dựng này là phục vụ cho cuộc sống của

chính họ chứ không phải xây dựng nhà văn hóa, đường giao thông cho xã.

94

Nếu là tốt công tác tuyên truyền, vận động, người dân tích cực tham gia đóng

góp thì CSHT sẽ được xây dựng nhanh và khang trang hơn.

Tuy nhiên do mức sống, thu nhập của mỗi hộ dân trong xã không giống

nhau nên việc đóng góp của người dân có thể tùy thuộc vào thu nhập của họ.

Nếu hộ gia đình nào khó khăn thì có thể đóng góp bằng sức lao động. Trước

thực trạng thu nhập của người dân còn thấp, việc đóng góp xây dựng CSHT

cho xã, thôn là tương đối hiệu quả. Xã xây dựng trạm xá hay nhà văn hóa thì

việc thuê lao động xây dựng rất tốn kém. Việc người dân góp công không chỉ

đảm bảo đóng góp của người dân vào xây dựng NTM, mà còn thể hiện thái

độ, ý thức đóng góp công sức, xây dựng NTM. Đối với những hộ gia đình có

thu nhập cao, xã có thể vận động họ đóng góp phù hợp với thu nhập của gia

đình.

Bên cạnh việc huy động vốn từ những người dân trong địa phương, xã

cũng nên huy động vốn từ những người xa quê. Nhiều người xa quê hương

sống trên các vùng miền khác nhau của cả nước hoặc những người sống và

làm việc ở nước ngoài rất thành đạt. Chính quyền địa phương nên có những

chính sách để khuyến khích họ đầu tư xây dựng quê hương.

* Huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp

Đây là vấn đề khó khăn đối với huyện Lạng Giang nói riêng cũng như

nhiều vùng nông thôn khác.

Hiện nay, trên địa bàn huyện có 3 cụm công nghiệp đã hình thành từ

trước là: cụm công nghiệp Tân Dĩnh – Phi Mô diện tích 16 ha, cụm công

nghiệp Non Sáo (Tân Dĩnh) diện tích 20 ha, cụm công nghiệp Vôi – Yên Mỹ

diện tích 12 ha. Ba cụm công nghiệp này đến nay đã lấp đầy tuy nhiên hệ

thống KCHT như cấp thoát nước, giao thông, vệ sinh môi trường chưa được

đầu tư, các chủ đầu tư mới đầu tư được hệ thống điện phục vụ sản xuất.

95

Tuy nhiên, huyện cũng đã thu hút một số chương trình có vốn đầu tư

lớn, như chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh Giữa vốn đầu tư 320 tỷ

đồng, chương trình kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ cho giáo viên

98,7 tỷ đồng, công trình nâng cấp, cải tạo lưới điện hạ áp nông thôn ở 4 xã

Mỹ Hà, Hương Sơn, Yên Mỹ, Quang Thịnh 20,3 tỷ đồng. Công trình cải tạo,

nâng cấp đình Phù Lão, xã Đào Mỹ với số vốn 14 tỷ đồng, chương trình cứng

hóa kênh mương, giao thông nông thôn đã thu hút vốn vay ưu đãi và vốn do

nhân dân đóng góp trên 120 tỷ đồng.

Từ nay đến năm 2015, huyện tập trung cho việc quy hoạch chi tiết 1

cụm công nghiệp là cụm công nghiệp Núi Sẻ - Phi Mô diện tích 20 ha, cụm

công nghiệp Nghĩa Hòa diện tích 30 ha, cụm công nghiệp Tân Hưng diện tích

50 ha và một số cụm công nghiệp khác thuộc các xã phía tây của huyện để

tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp một cách đồng

bộ.

3.3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH

nông thôn

Quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH ở nông thôn là một trong những

điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn

(nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, điện…) ngoài xây dựng còn phải bảo

dưỡng, duy tu, sửa chữa, nâng cấp nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng, hiệu

suất đầu tư. Do vậy, cần tăng cường phân cấp quản lý tốt hệ thống hạ tầng

KT-XH ở nông thôn, phân bổ đúng nguồn kinh phí và từng bước theo phương

thức thị trường. Phải kết hợp xây dựng mới hệ thống hạ tầng KT-XH ở nông

thôn với việc bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời những công trình đang xuống cấp,

nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này còn eo hẹp

và nội lực của cư dân nông thôn còn hạn chế. Ngân hàng Thế giới ước tính,

96

xây dựng lại 1 km đường hư hỏng nặng tốn khoảng 7.200 USD trong khi bảo

dưỡng tốt chỉ tốn kém 400 USD mỗi năm. Theo tính toán của Bộ Tài chính và

cơ quan đường bộ Việt Nam thì thuế, lệ phí sử dụng nhiên liệu và phương tiện

đi lại hàng năm trong thời gian qua có đủ khả năng tài trợ cho tất cả các công

việc bảo dưỡng và sửa chữa hàng năm đường xá tới cấp huyện. Do đó, việc

tạo lập các quỹ tài chính và quản lý các quỹ cho việc phát triển có hiệu quả hệ

thống hạ tầng KT-XH ở nông thôn cần được Nhà nước, các cấp, ngành quan

tâm đặc biệt hơn và phải được thể chế hóa cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa là

cần nâng cao năng lực quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, nội

dung bao gồm:

* Quản lý quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH nông thôn

Đây là yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả và

đảm bảo những yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật của các công trình hạ tầng KT-

XH ở nông thôn. Quản lý quá trình đầu tư xây dựng là quản lý cả 3 giai đoạn:

Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện dự án, giai đoạn kết thúc

dự án đưa dự án vào khai thác sử dụng. Cụ thể đó là: Quản lý sự cần thiết, vị

trí, địa điểm, tổng mức đầu tư, nguồn vốn, quy mô, thời gian thi công, chủ

đầu tư... của dự án; xác định hình thức đấu chọn thầu, đơn vị tư vấn thiết kế,

đơn vị thi công, thi công, nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng… Nếu quản

lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH thì nâng cao được hiệu

quả sử dụng vốn đầu tư, chống tham ô, thất thoát, lãng phí tiêu cực trong hoạt

động đầu tư và xây dựng. Muốn làm được điều đó cần phải:

- Trước hết phải xem xét dự án phát triển hạ tầng KT-XH được triển

khai có hù hợp, nằm trong quy hoạch phát triển ngành vùng và quy hoạch đô

thị… Các dự án chuyển sang giai đoạn thực hiện dự án phải có quyết định phê

duyệt dự án, có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt.

97

- Chấp hành triệt để các nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư, xác định dự án

đó dùng loại nguồn vốn nào? huy động từ đâu? nguồn vốn nào là chủ lực? cần

bố trí vốn đầu tư cân đối hài hoà giữa các ngành kinh tế, các vùng kinh tế với

quan điểm tập trung vốn, không dàn trải, nhỏ giọt ưu tiên bố trí vốn cho các

dự án thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế (tỷ trọng cao). Kiên quyết không để xảy ra

nợ đọng xây dựng cơ bản một cách tràn lan…

- Công trình chỉ được khởi công khi đã đủ thủ tục, trình tư đầu tư

XDCB, ghi kế hoạch vốn đầu tư theo đúng trình tự, đúng thứ tự ưu tiên, phải

xem xét các công trình chuyển tiếp từ năm trước sang năm sau tiếp tục thi

công sau đó mới đến các công trình xây dựng mới, các dự án nhóm C chỉ

được bố trí xây dựng trong 2 năm.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý dự án, cụ thể:

+ Về cơ cấu tổ chức: Tách ban quản lý dự án khỏi quản lý Nhà nước trở

thành đơn vị sự nghiệp kinh tế tự cân đối thu- chi, các ban quản lý dự án thực

hiện quản lý các dự án thông qua hình thức hợp đồng với các chủ đầu tư, thực

hiện đấu thầu chi phí quản lý dự án nhằm xét, chọn các ban quản lý có đủ

năng lực thực hiện quá trình quản lý, giám sát, tổ chức thi công công trình

theo yêu cầu của chủ đầu tư.

+ Về năng lực các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án: Không giao cho

các đơn vị hành chính không có chuyên môn về quản lý đầu tư làm chủ đầu tư

quản lý các dự án xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn, các cán bộ trong ban

quản lý dự án phải trải qua kinh nghiệm thực tế tổ chức thi công và phải có

chứng chỉ giám sát thi công công trình.

Thực tế, trong quản lý đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH ở nông thôn vai

trò cấp chính quyền huyện, xã trong quản lý và thực hiện là thực sự cần thiết.

98

Đặc biệt, vai trò của chính quyền cấp xã được đề cao với nhiệm vụ nắm

chắc tiềm năng ngân sách, nguồn lực của địa phương mình, cũng như sự cần

thiết của dự án trong quá trình phát triển. Nhờ đó, cấp chính quyền xã đã phát

huy được vai trò chủ động trong sự nghiệp phát triển KT-XH của địa phương

mình, trong đó có nội dung phát triển hạ tầng KT-XH. Từ sự phát triển hạ

tầng KT-XH nông thôn ở địa phương trong thời gian qua cũng cho thấy, hầu

hết những dự án đầu tư trên địa bàn huyện, xã và sử dụng vốn ngân sách

huyện, ngân sách xã là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn. Vì vậy nên

việc tăng cường phân cấp cho chính quyền cấp huyện, xã phê duyệt dự án,

phê duyệt quyết toán… có tác động rất lớn đến giảm bớt thủ tục đầu tư XDCB

của dự án hạ tầng nông thôn, giảm bớt sự chồng chéo của nhiều cấp, giảm bớt

thời gian công tác chuẩn bị đầu tư và quan trọng hơn nữa là gắn trách nhiệm

của cấp chính quyền cơ sở với tính hiệu quả của dự án.

Tuỳ theo tổng mức đầu tư của từng dự án đầu tư phát triển hạ tầng KT-

XH mà chính sách phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng gắn với vai trò của

chính quyền cấp xã có thể tựu chung lại như sau:

+ Bố trí một lượng vốn nhất định cho các dự án thực hiện công tác

chuẩn bị đầu tư. Chính quyền xã trên cơ sở lượng vốn bố trí, quy hoạch phát

triển ngành, vùng lập dự án, khảo sát thiết kế lập báo cáo đầu tư trình các cấp

có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư đáp ứng các điều kiện ghi kế hoạch đầu

tư XDCB năm sau.

+ Sử dụng cán bộ có năng lực, có hiểu biết về quản lý vốn, quản lý xây

dựng cùng các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội tham gia ban quản lý dự án

giám sát quá trình thi công, thực hiện dự án. Phối kết hợp với phòng Giao

thông xây dựng, phòng Tài chính…hoàn thiện các thủ tục đầu tư xây dựng,

triển khai thi công xây dựng.

99

+ Phối kết hợp với các phòng, ban chức năng và là người chịu trách

nhiệm chính trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để thi công công

trình: Đo đạc diện tích, phân loại đất, tổ chức chi trả tiền đền bù.

* Quản lý quá trình khai thác, sử dụng hạ tầng KT-XH nông thôn

Để nâng cao hiệu quả quá trình phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn

không chỉ đơn thuần quản lý quá trình đầu tư xây dựng mà phải quản lý chặt

chẽ quá trình khai thác, sử dụng cơ sở hạ tầng đó. Trong cơ chế quản lý cũ

trước đây thường xảy ra tình trạng “vô chủ” trong khai thác, sử dụng hạ tầng.

Tình trạng “cha chung không ai khóc” đã làm cho cơ sở hạ tầng nhất là

ở vùng nông thôn xuống cấp nghiêm trọng không đáp ứng được yêu cầu phát

triển KT-XH trên địa bàn.

Hiện nay, trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

với mục tiêu thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đặt ra những

yêu cầu cấp bách trong quản lý sử dụng cơ sở hạ tầng hiện có. Đó là: Khai

thác cơ sở hạ tầng hiện có; phát huy tối đa công suất thiết kế; khai thác một

cách đồng bộ các cơ sở hạ tầng trong một dự án và nhiều dự án; bảo vệ cơ sở

hạ tầng hiện có; phân công, phân cấp hợp lý; cần xây dựng những nội quy cụ

thể trong công tác bảo vệ; phải tổ chức duy tu, bảo dưỡng định kỳ thường

xuyên và phát hiện sớm những hỏng hóc để sửa chữa kịp thời.

Tuy nhiên, cũng cần phải xác định nguồn vốn để thực hiện duy tu bảo

dưỡng, sửa chữa các công trình hạ tầng KT-XH ở nông thôn. Nguồn vốn này

có thể lấy từ trích khấu hao đối với các cơ sở hạ tầng được phép trích khấu

hao như: Trạm điện, đường điện, trạm bơm… từ khoản thu phí và lệ phí như:

Nước sạch, gom rác, giao thông đường làng… và có thể dùng ngân

sách cấp bù. Giải pháp khoán cho các đơn vị, cho các tổ chức đoàn thể khai

thác thu phí và lệ phí để các đơn vị này tự cân đối, xây dựng kế hoạch duy tu

100

bảo dưỡng nhằm tăng cường tính chủ động sáng tạo của các tổ chức, các đơn

vị là sự lựa chọn hợp lý. Ngân sách chỉ cấp bù khi có những kế hoạch mang

tính đại tu, nâng cấp các hạ tầng lớn, trọng điểm.

Do vậy, để tăng cường quản lý quá trình khai thác, sử dụng hạ tầng KT-

XH nông thôn, chính quyền các cấp địa phương cần chú ý:

- Tuỳ theo đặc điểm của các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn để có

sự phân cấp quản lý và phối hợp quản lý khai thác cho phù hợp. Chủ thể quản

lý sử dụng có thể do huyện, xã hay cộng đồng dân cư của xóm, thôn. Ví dụ:

Các công trình thuỷ lợi liên xã do phòng thuỷ lợi của huyện quản lý về

phương diện Nhà nước, các công ty thuỷ nông điều phối hoạt động tưới tiêu,

cư dân vùng đó được hưởng lợi. Trong khi ấy, đối với các công trình thuỷ lợi

nội đồng do các xã trực tiếp quản lý và sử dụng. Vì vậy chính quyền cấp

huyện và các Sở, Ban ngành cấp tỉnh cần xây dựng cơ chế quản lý khai thác

cho phù hợp gắn với vai trò, trách nhiệm của cộng đồng dân cư trên địa bàn

được hưởng lợi.

- Trong điều kiện Nhà nước có chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng KT-

XH nông thôn nhằm thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

nên các khoản lệ phí về thuỷ lợi đã được miễn cho nông dân. Vì vậy, hiện nay

nguồn vốn để hoạt động, duy tu và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi do các

công ty thuỷ nông quản lý được cung cấp từ ngân sách nhà nước. Nguồn ngân

sách nhà nước cũng được phân bổ một phần cho tu bổ, bảo dưỡng hệ thống

trạm bơm cục bộ do xã quản lý. Do vậy chính quyền cấp xã cần phải chủ

động bố trí, cân đối và khai thác đảm bảo đủ vốn duy tu bảo dưỡng cho công

trình để đảm bảo cho công trình hoạt động thường xuyên, đáp ứng được công

suất thiết kế.

101

- Sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn còn diễn ra ở từng cộng đồng

thôn xóm, vì vậy trong một chừng mực nhất định một số hạ tầng là thuộc

quyền sở hữu và sử dụng trực tiếp của cộng đồng thôn xóm, vì thế các cộng

đồng thôn xóm mang tính tự quản sẽ là đồng chủ quản đối với các hạ tầng ở

cấp cộng đồng thôn xóm và sẽ cùng Nhà nước tham gia quản lý sử dụng các

cơ sở hạ tầng trong phạm vi thôn xã.

3.3.5. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và

công nghệ trong phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn

Khoa học - kỹ thuật và công nghệ là động lực thúc đẩy phát triển hạ

tầng KT-XH nông thôn. Việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học,

công nghệ vào phát triển hạ tầng KT-XH không chỉ làm tăng tuổi thọ công

trình mà còn làm cho chi phí, giá thành công trình hạ tầng giảm, tăng lợi

nhuận cho các doanh nghiệp. Hơn thế nữa nó còn góp phần chủ yếu vào việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong bối cảnh huyện

Lạng Giang có trên 80% dân số còn làm nghề nông và sinh sống ở nông thôn

thì việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công

nghệ trong phát triển hạ tầng KT-XH là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết nhưng

cũng gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức

(từ tỉnh, huyện, xã); các cơ quan khoa học; các doanh nghiệp, chủ trang trại,

chủ hộ sản xuất kinh doanh, hộ gia đình cần tìm tòi, nghiên cứu, ứng dụng,

tiếp nhận công nghệ mới, tiên tiến phù hợp với nguồn lực, trình độ và điều

kiện cụ thể nhằm nâng cao mức sống cho cư dân, góp phần xây dựng và phát

triển nông thôn bền vững.

102

KẾT LUẬN

1. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH có tầm quan trọng đặc biệt không

chỉ đối với sự phát triển nông thôn, mà còn cả đối với toàn bộ nền kinh tế

quốc dân. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH tạo điều kiện phát triển đồng đều

giữa các vùng, miền trong cả nước, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng

kinh tế gắn với công bằng xã hội. Hơn nữa, phát triển hệ thống kết cấu hạ

tầng KT-XH sẽ tăng cường được khả năng giao lưu hàng hóa, nối liền thị

trường nông thôn và toàn bộ nền kinh tế, xóa đi những chênh lệch trong phát

triển KT-XH giữa các vùng trong nước.

2. Sau bốn năm thực hiện đề án xây dựng mô hình nông thôn mới, mặc

dù đến nay chưa một xã nào trong huyện hoàn thành tất cả 19 tiêu chí đã đề ra

(kể cả xã thí điểm Tân Thịnh) nhưng hạ tầng kinh tế xã hội huyện Lạng Giang

đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Những hạ tầng được xây dựng

trong nông thôn đã trở thành những lực lượng sản xuất, làm thay đổi chất

lượng trong những điều kiện vật chất trong đời sống sinh hoạt của người dân.

Có thể nói, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội là một cuộc cách mạng kinh tế -

nhân văn làm thành một nội dung trọng yếu của sự phát triển kinh tế xã hội

nông thôn.

3. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, huyện có nhiều thuận

lợi như sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương và tỉnh về vốn, hướng dẫn thực

hiện các tiêu chí... Tuy nhiên, do điều kiện địa hình là một huyện trung du

miền núi, đời sống dân cư thấp nên việc xây dựng các công trình, dự án còn

chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

4. Trong bốn năm qua, các xã trong huyện đã cố gắng hoàn thành các

tiêu chí đã đề ra. Nhiều tiêu chí đã đạt được kết quả cao, làm cho đời sống

103

người nông dân được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tiêu chí chưa

hoàn thành. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực quản lý của cán bộ xã và

nhận thức của người nông dân hạn chế, do khó khăn trong huy động vốn kết

hợp với nhiều nguyên nhân khác.

5. Để thúc đẩy sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn

đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, huyện Lạng Giang cần thực hiện

đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào các giải pháp cơ bản sau: quy

hoạch phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn thật tốt, tạo sự chuyển biến trong

nhận thức của người dân về tầm quan trọng của mô hình nông thôn mới và

xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong nông thôn mới, nâng cao năng

lực quản lý sự phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn, đẩy mạnh nghiên cứu,

ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong phát triển hạ tầng KT-

XH nông thôn.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới – UBND huyện Lạng Giang

(2011), Kế hoạch triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới trong 05 năm (giai đoạn 2011 - 2015).

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bàn về chiến lược phát triển KT –

XH của Việt Nam trong thời kỳ mới, Hà Nội.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số

54/2009/ TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí

quốc gia về nông thôn mới, Hà Nội.

4. Trần Ngọc Bút (2002), Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam

nửa cuối thế kỳ XX và một số định hướng đến năm 2010, NXB chính trị quốc

gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Chiển (2006), “Đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp và

nông thôn ở đồng bằng sông Hồng”, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội

Đông Nam Á, (Số 4/11 năm 2006), Tr 13-14.

6. Vũ Năng Dũng (2004), Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước

đi, cơ chế chính sách trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn,

NXB nông nghiệp, Hà Nội.

7. Nguyễn Trường Giang (2007), Hoàn thiện quản lý điện nông thôn tại

điện lực Hà Tĩnh, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế Quốc dân.

8. Gia Hân (2008), Phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở

Việt Nam, Báo Nông thôn ngày nay, số ra ngày 19 và 25/8/2008.

9. Hồ Xuân Hùng (2010), Những vấn đề quan tâm khi xây dựng nông

thôn mới, Bản tin ISG quý 2/2010.

105

10. Huyện ủy Lạng Giang – Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Chương trình

phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị giai đoạn 2011 – 2015.

11. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Nâng cao năng lực tổ chức thực

hiện của cán bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong

điều kiện hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Chí Mỳ - Hoàng Xuân Nghĩa (2009), Bốn hướng đột phá

chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn hiện nay,

Viện Nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội.

13. Đỗ Hoài Nam – Lê Cao Đoàn (2001), Xây dựng hạ tầng cơ sở nông

thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

14. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (2007), Chiến lược cơ sở hạ tầng

những vấn đề liên ngành, Hà Nội.

15. Nguyễn Ngọc Nông, Lương Văn Hinh, Đăng Văn Minh, Nguyễn

Thị Bích Hiệp (2003), Chiến lược quy hoạch sử dụng đất đai ổn định đến

năm 2010, NXB nông nghiệp, Hà Nội.

16. Lê Du Phong (1996), “Xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại phục vụ

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 13, Tr 4-8.

17. Bùi Ngọc Sơn, Báo cáo kiểm điểm kết quả lãnh đạo, chỉ đạo triển

khai thực hiện Chương trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung gắn

với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015.

18. Đặng Kim Sơn (2010), Thực trạng và các chính sách khuyến khích

đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, Bản tin ISG quý 2/2010.

19. Đào Thế Tuấn (2007), Về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn

ở nước ta trong thời kỳ mới, Tạp chí cộng sản (số 771).

106

20. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày

04/6/2010 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông

thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, Hà Nội

21. Nguyễn Đức Tuyên (2009), Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội ở

nông thôn tỉnh Bắc Ninh kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sỹ, Đại học

Kinh tế Quốc dân.

22. Vũ Đình Thắng, Hoàng Văn Định (2003), Giáo trình kinh tế phát

triển nông thôn, Trường đại học KTQD, NXB thống kê, Hà Nội.

23. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), NXB Từ điển Bách khoa, Hà

Nội.

24. Viện chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn, lý

luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa 2006.

Các website:

25. http://www.baocantho.com.vn

26. http://baomoi.com

27. http://www.ciem.org.vn

28. http://:ipsard.gov.vn

29. http://www.hoinongdan.org.vn

30. http://nhandan.com.vn

31. http://vietbao.vn

32. http://xaydungdang.org.vn

107