MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................... i

DANH MỤC BẢNG BIỂU .......................................................................... ii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 15

TRIỂN LÀNG NGHỀ ................................................................................. 15

1.1.1. Khái niệm về làng nghề và phát triển làng nghề ......................... 15

1.1.2. Vai trò của phát triển làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế

1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ ............... 23

1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG ...... 28

- xã hội ................................................................................................... 19

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh

Nam Định .............................................................................................. 28

1.3.2. Kinh nghiệm của làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nƣớc, quận Ngũ

Hành Sơn ............................................................................................... 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN

HOA LƯ TỈNH NINH BÌNH: TRƯỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT

TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ ......................................................... 39

NGHỆ Ở XÃ NINH VÂN ........................................................................... 39

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................... 39

2.2. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN HOA

LƢ TỈNH NINH BÌNH .................................................................................. 54

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ............................................................ 42

2.3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ, TỈNH NINH

BÌNH........................................................................................................... 58

2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển các làng nghề huyện Hoa

Lƣ .......................................................................................................... 58

2.3.2. Các chính sách phát triển làng nghề ........................................... 59

2.3.3. Thực trạng các điều kiện phát triển làng nghề huyện Hoa Lƣ .... 62

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA

LƢ, TỈNH NINH BÌNH .................................................................................. 69

2.3.4. Các hình thức sản xuất kinh doanh tại làng nghề ...................... 68

2.4.1. Đánh giá chung ........................................................................... 69

2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển làng nghề huyện

Hoa Lƣ, tỉnh Ninh Bình ........................................................................ 78

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP

CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƯ TỈNH

NINH BÌNH: TRƯỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ Ở XÃ

3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ,

TỈNH NINH BÌNH ........................................................................................ 83

NINH VÂN ................................................................................................... 83

3.1.1. Phát triển làng nghề phải gắn với thị trƣờng ............................... 83

3.1.2. Phát triển sản phẩm làng nghề trên cơ sở kết hợp yếu tố hiện đại

và yếu tố truyền thống. .......................................................................... 84

3.1.3. Phát triển làng nghề phù hợp với thế mạnh của địa phƣơng. ..... 84

3.1.4. Phát triển làng nghề trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa phát triển

kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trƣờng và xây dựng nông thôn mới .... 85

3.1.5. Phát triển làng nghề gắn với đa dạng hoá hình thức tổ chức sản xuất

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA

LƢ TỈNH NINH BÌNH .................................................................................. 87

kinh doanh, kết hợp hài hòa các cơ sở ngành nghề quy mô vừa và nhỏ ...... 86

3.2.1. Giải pháp về quy hoạch phát triển làng nghề .............................. 87

3.2.2. Giải pháp về thị trƣờng .............................................................. 89

3.2.3. Giải pháp phát triển thƣơng hiệu ................................................ 91

3.2.4. Giải pháp về nguồn vốn cho phát triển làng nghề ...................... 92

3.2.5. Giải pháp về môi trƣờng ............................................................. 94

3.2.6. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các làng nghề ........... 95

3.2.7. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển làng nghề ........... 95

KẾT LUẬN .................................................................................................. 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 99

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt

Nguyên nghĩa

1 CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

2 CN- TTCN

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

3 HĐND

Hội đồng nhân dân

4 HTX

Hợp tác xã

5 NN-PTNT

Nông nghiệp - Phát triển nông thôn

6 TTKT

Tăng trưởng kinh tế

7 TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

8 UBND

Uỷ ban nhân dân

9 XHCN

Xã hội chủ nghĩa

10 WTO

World Trade Organization

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu STT Tên bảng Trang

bảng

Số liệu thống kê theo các đơn vị hành chính Bảng 2.1 36 1

thuộc huyện Hoa Lư năm 2009

Cơ cấu kinh tế huyện Hoa Lư từ năm 1991 – Bảng 2.2 37 2

2010.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện Hoa Lư qua Bảng 2.3 38 3

các năm

Số lượng làng nghề, cụm làng nghề tại Ninh Bảng 2.4 49 4

Bình

Số lượng cơ cấu làng nghề huyện Hoa Lư chia Bảng2.5 50 5

theo đơn vị hành chính

Lao động tham gia làm nghề ở các làng nghề xã Bảng 2.6 56 6

Ninh Vân

Nguồn vốn sản xuất tại các làng nghề xã Ninh Bảng 2.7 57 7

Vân năm 2010

Tổng giá trị sản xuất từ nghề chế tác đá trên địa Bảng 2.8 63 8

bàn xã Ninh Vân

Cơ cấu lao động xã Ninh Vân qua các năm 2005- Bảng 2.9 65 9

2010

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế nông thôn có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội ở nước ta. Một trong những nội dung định hướng phát triển kinh

tế nông thôn ở Đại hội IX đề ra là: Mở mang các làng nghề, phát triển các

điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.

Phát triển ngành nghề nông thôn là cách làm “rẻ” nhất để tạo việc làm,

tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho người dân nông thôn, góp phần

thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại, với sản phẩm mũi nhọn là hàng

thủ công mỹ nghệ và cũng là thực hiện mục tiêu “ly nông bất ly hương” ở

nông thôn. Phát triển làng nghề con mang ý nghĩa giữ gìn và quảng bá bản

sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Như vậy, việc phát triển các làng nghề ở nông thôn có ý nghĩa kinh tế,

chính trị, xã hội rất lớn đối với kinh tế nông thôn.

Huyện Hoa Lư là vùng đất nổi tiếng của Ninh Bình không chỉ với

truyền thống lịch sử vẻ vang, với tiềm năng lớn về du lịch mà còn nổi tiếng

với nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp và thủ công truyền thống như nghề thêu

ren (xã Ninh Hải), nghề mộc (Phúc Lộc)…Đặc biệt nghề Đá mỹ nghệ ở xã

Ninh Vân được xem là một nghề đầy triển vọng. Nghề chế tác đá tập trung

chủ yếu ở xã Ninh Vân bởi có lợi thế về truyền thống và nguồn nguyên liệu

núi đá vôi dồi dào, chiếm 32% diện tích đất tự nhiên. Trước đây do chiến

tranh, nghề chế tác Đá mỹ nghệ bị mai một, nay đất nước đang trên đà phát

triển và hội nhập, cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng lên thì nhu

cầu về mặt hàng Đá mỹ nghệ ngày càng lớn.

Tên tuổi của làng nghề Đá mỹ nghệ xã Ninh Vân được đánh dấu bởi

các công trình nổi tiếng như: Tượng đài Bác Hồ ở thành phố Vinh; cụm

tượng đài Bà mẹ và Tổ quốc ở thành phố Hồ Chí Minh; cụm tượng đài ở

Nghĩa trang Trường Sơn; tượng đài Thanh niên xung phong ở Quảng Trị;

tượng đài Trần Hưng Đạo ở Hải Dương; gần đây nhất là trên 500 pho tượng

La Hán ở chùa Bái Đính-Ninh Bình, ngôi chùa được coi là lớn nhất Đông

Dương…Bên cạnh đó, một số sản phẩm còn vượt khỏi phạm vi quốc gia

như tượng cố Tổng Bí thư Cay – Sỏn – Phôm – Vy – Hẳn đặt tại Lào; tượng

đài chiến thắng ở Campuchia; tượng phật ở Đài Loan và hàng nghìn công

trình mang ý nghĩa tâm linh khác nằm ở khắp các khu du lịch, danh lam

thắng cảnh của Quốc gia đó là: các bức phù điêu; cổng tam quan; văn bia;

lăng mộ và các công trình công sở; đình chùa; đền thờ; miếu mạo, với quy

mô to nhỏ khác nhau, kiến trúc nghệ thuật vô cùng phong phú. Với tiềm

năng lớn về lao động và nguyên liệu đá, nghề chế tác Đá mỹ nghệ đã thu hút

trên 75 doanh nghiệp tư nhân và 453 hộ tham gia hoạt động sản xuất kinh

doanh, chế tác Đá mỹ nghệ, doanh thu mỗi năm trên 200 tỷ đồng, đóng góp

ngân sách địa phương gần 100 tỷ đồng. Tạo việc làm cho 6000 lao động

chính, 4000 lao động theo mùa vụ, thu nhập bình quân của riêng người thợ

chế tác đá khoảng 60 - 80 triệu đồng/ người/ năm. Doanh thu tại xã Ninh

Vân, nghề đá chiếm gần 80 % thu nhập toàn xã.

Cùng với sự đóng góp vô cùng to lớn của làng nghề Đá mỹ nghệ trên

tất cả các lĩnh vực là những khó khăn vướng mắc mang tính cấp bách mà

các làng nghề đang gặp phải như: Khu tập trung sơ chế đá chưa được hình

thành, phần lớn các làng nghề còn sản xuất với quy mô nhỏ lẻ. Các doanh

nghiệp luôn trong tình trạng “khát vốn”, bế tắc trong việc tìm đầu ra, hoạt

động mang tính tự phát chưa có kế hoạch phát triển cụ thể, cũng như chưa

có sự liên minh gắn kết tạo nên sức mạnh tổng hợp. Sự cạnh tranh còn thiếu

lành mạnh, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản

phẩm chưa được quan tâm đúng mức…Bên cạnh đó là các vấn đề nhức nhối

ngay tại các làng nghề Đá mỹ nghệ như: ô nhiễm môi trường; tiếng ồn; bụi

bặm; vấn đề suy giảm đạo đức và trình độ học vấn…đã và đang ảnh hưởng

không nhỏ đến đời sống và phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoa Lư.

Bối cảnh đó đã lý giải: Vì sao phải phát triển làng nghề ở huyện Hoa

Lư, đặc biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân? Trên thực tế các cấp

lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đã nhìn thấy rõ tính cấp thiết này và đã có các quan

điểm, chủ trương phát triển làng nghề Đá mỹ nghệ. Tuy nhiên, vấn đề là làm

gì và làm thế nào để phát triển mạnh mẽ hơn làng nghề Đá mỹ nghệ. Để tìm

câu trả lời cho các câu hỏi đó cần thiết phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp

nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục các tồn tại, hạn chế trên cơ sở đánh giá

đúng thực trạng, động thái và xu hướng vận động của làng nghề Đá mỹ

nghệ. Với yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, học viên chọn đề tài “Phát

triển làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình: Trường hợp làng nghề Đá

mỹ nghệ ở xã Ninh Vân” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Do vai trò quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội nên phát triển làng

nghề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện

và đã đạt được những kết quả nhất định. Điển hình là các công trình như:

- “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH” của tiến

sĩ Dương Bá Phượng, NXB khoa học xã hội, 2001.

Trong công trình này tác giả đã đưa ra những nét cơ bản về khái niệm

làng nghề truyền thống về đặc điểm kinh tế - xã hội trong các làng nghề, đề

xuất giải pháp cơ bản để bảo tồn làng nghề truyền thống trong quá trình

CNH, HĐH.

- “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá

trình CNH, HĐH” của tiến sĩ Trần Minh Yến, NXB khoa học xã hội, 2004.

Luận án đã đưa ra những vấn đề cơ bản bao quát nhất lý luận về làng

nghề. Đã chỉ ra được mâu thuẫn của làng nghề trong quá trình phát triển.

Luận án cũng đã trình bày tổng thể các giải pháp để phát triển làng nghề

trong quá trình CNH, HĐH.

- “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh Đồng

bằng sông Hồng”. Đề tài cấp bộ của viện đào tạo Công nghệ và Quản lý

quốc tế, 2005, chủ nhiệm đề tài GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh.

- “Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH

ở vùng Đồng bằng sông Hồng”. Đề tài cấp bộ của học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, 1998, chủ nhiệm đề tài PGS.TS Đặng Lễ Nghi.

Các đề tài nghiên cứu ở cấp bộ đã đưa ra được các số liệu đa dạng,

phong phú và chỉ ra được các giải pháp chung cơ bản để phát triển làng nghề

trong quá trình CNH, HĐH.

Ngoài ra còn có một số công trình khoa học, sách báo, tạp chí và các

bài viết đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng về phát triển

làng nghề ở Việt Nam. Có thể đánh giá chung các công trình nghiên cứu

trên đều đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề trong quá trình CNH,

HĐH. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề phát triển

làng nghề ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, trường hợp làng nghề Đá mỹ

nghệ ở xã Ninh Vân.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích

Trên sơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng

nghề. Mục đích của luận văn là đưa ra bức tranh tổng quan về sự phát triển

làng nghề ở huyện Hoa Lư, đặc biệt là đánh giá đúng thực trạng làng nghề

Đá mỹ nghệ của huyện Hoa Lư. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu

nhằm phát triển làng nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,

góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ

Thực hiện mục đích trên, đề tài cần tập trung giải quyết những nhiệm

vụ sau:

- Trình bày có hệ thống một số lý luận cơ bản về phát triển làng nghề.

- Tổng quan kinh nghiệm phát triển làng nghề ở một số địa phương

trong nước để rút ra bài học cho phát triển làng nghề huyện Hoa Lư

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề của huyện Hoa

Lư.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng

nghề ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy sự phát triển làng nghề huyện Hoa Lư, đặc biệt là các

làng nghề Đá mỹ nghệ làm đối tượng nghiên cứu dưới góc độ Kinh tế chính

trị.

* Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Các làng nghề và đặc biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ,

huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

- Về thời gian: Nghiên cứu sự phát triển làng nghề của huyện Hoa Lư

từ năm 1995 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung. Ngoài ra

còn chú trọng đến các phương pháp như:

- Phương pháp phân tích tổng hợp:

Phương pháp này được thực hiện thông qua việc phân tích dữ liệu thực

tế. Từ đó đánh giá chính xác nhất những thành tựu và hạn chế trong quá

trình phát triển của làng nghề Đá mỹ nghệ. Tìm ra nguyên nhân chủ yếu của

những thành tựu và hạn chế đó, đồng thời đề xuất những quan điểm giải

pháp nhằm phát triển mạnh mẽ làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân trong

thời gian tới.

- Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu:

Trong quá trình làm luận văn, học viên sẽ thu thập tài liệu từ nhiều

nguồn khác nhau, sau đó so sánh, xử lý các số liệu rồi rút ra kết luận. ví dụ:

Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình chế tác Đá mỹ nghệ trong những

năm qua.

- Phương pháp điều tra thực tế:

Học viên dùng hệ thống các câu hỏi theo nội dung xác định, có thể

dùng phiếu điều tra hoặc phỏng vấn chuyên sâu để thu thập thông tin phục

vụ cho luận văn.

6. Những đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng nghề.

- Phân tích đánh giá một cách toàn diện thực trạng phát triển của làng

nghề huyện Hoa Lư. Rút ra những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những tồn

tại, hạn chế và nguyên nhân của nó.

- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát triển

làng nghề huyện Hoa Lư trong thời gian tới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề.

- Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh

Bình: trường hợp làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân.

- Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển

làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình: trường hợp làng nghề Đá mỹ nghệ

ở xã Ninh Vân.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN

LÀNG NGHỀ

1.1.1. Khái niệm về làng nghề và phát triển làng nghề

* Làng nghề:

Đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về làng nghề.

Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là một cộng đồng dân cư sinh sống

trong một làng (hoặc khu vực dân cư) có hoạt động sản xuất kinh doanh tại

các hộ gia đình hoặc các cơ sở sản xuất trong làng, có sử dụng các nguyên

liệu trong và ngoài địa phương, phát triển đến mức trở thành nguồn sống

chính hoặc thu nhập chủ yếu của người dân trong làng.

Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng nghề cổ truyền làm thủ công,

nhưng không nhất thiết toàn bộ dân làng đều làm nghề thủ công. Người thợ

thủ công nhiều khi cũng làm nghề nông nhưng do yêu cầu chuyên môn hoá

họ chuyển sang sản xuất hàng thủ công ngay tại làng.

Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, có quy tụ

các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời có

sự liên kết hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo kiểu phường hội và có

cùng tổ nghề.

Quan niệm thứ tư: Làng nghề là những làng ở nông thôn có các ngành

nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so

với nghề nông.

Quan niệm thứ năm: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng

đều hoạt động cho một nghề thủ công và lấy đó làm nghề sinh sống chủ yếu.

Theo quy định hiện hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

công nhận là làng nghề phải đảm bảo 3 tiêu chí sau:

1. Có tối thiểu 30 % tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động

ngành nghề nông thôn.

2. Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính tới thời

điểm đề nghị công nhận.

3. Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Từ các quan niệm trên cho thấy, “làng nghề” là một thiết chế kinh tế -

xã hội ở nông thôn gắn liền với 2 yếu tố “làng” và “nghề”

Làng là khối dân cư ở nông thôn tồn tại trong một không gian địa lý

nhất định, làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt. Phần lớn

các làng xưa kia đều là nơi sản xuất nông nghiệp. Sau đó, do yêu cầu cuộc

sống đòi hỏi ngày càng nhiều sản phẩm hơn vì vậy một số nghề phi nông

nghiệp đã xuất hiện, có các hộ vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề hoặc

có hộ tách khỏi nông nghiệp để chuyên sản xuất nghề. Dần dần, nghề phi

nông nghiệp đã chiếm ưu thế. Phần lớn các nghề trong làng nghề thuộc lĩnh

vực tiểu thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã

xuất hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu

thụ sản phẩm cho các hộ, các cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, vì

vậy, nghề nghiệp được mở rộng sang cả lĩnh vực buôn bán.

Như vậy, yếu tố "nghề" trong làng nghề không nên hiểu là tất cả các

nghề tạo ra thu nhập, tạo việc làm nói chung mà "nghề" ở đây phải là những

nghề phi nông nghiệp.

Từ đó có thể rút ra khái niệm làng nghề như sau: Làng nghề là những

làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số

hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông.

* Làng nghề truyền thống:

+ Nghề truyền thống:

Nghề truyền thống là một phạm trù dùng để chỉ những nghề đã có một

quá trình lịch sử phát triển lâu đời, được tập trung sản xuất tại một vùng hay

một làng, các sản phẩm được làm ra đã nổi tiếng trong vùng, trong nước

biết đến và được nhiều lớp nghệ nhân, thợ thủ công đã được rèn rũa tay nghề

qua nhiều đời và thế hệ thực hiện.

Đặc trưng cơ bản nhất của nghề truyền thống là có kỹ thuật và công

nghệ truyền thống, có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Mỗi nghề

bao giờ cũng có ông tổ của nghề, được dân làng ghi công và thờ phụng từ

đời này sang đời khác.

Nghề truyền thống ở nước ta rất phong phú đa dạng, có những nghề đã

hình thành và tồn tại hàng trăm năm, nhiều sản phẩm đã từng nổi tiếng trong

nước và thế giới, ví dụ như: Nghề gốm sứ Bát Tràng (Hưng Yên), nghề dệt

tơ lụa Vạn Phúc (Hà Đông), nghề dệt chiếu cói Nga Sơn (Thanh Hoá)…

Những nghề truyền thống được truyền bá trong phạm vi từng làng. Trong

những làng có nghề truyền thống thì đa số người dân biết làm nghề đó,

ngoài ra, họ còn có thể phát triển những nghề khác nhưng những nghề này

chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nghề truyền thống.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, việc

sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công

nghệ mới với những vật liệu mới. Vì vậy, khái niệm nghề truyền thống cũng

được mở rộng hơn. Khái niệm này có thể được hiểu : Nghề truyền thống bao

gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được

truyền từ đời này qua đời khác còn tồn tại đến ngày nay kể cả những nghề

đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản

xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống và sản phẩm của nó vẫn

thể hiện những nét văn hoá đặc sắc của dân tộc.

+ Làng nghề truyền thống

Từ khái niệm “làng nghề” và “nghề truyền thống” có thể khái quát

được khái niệm “ làng nghề truyền thống”.

Làng nghề truyền thống trước hết là những làng nghề đã tồn tại và

phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ

công truyền thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là

nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có

sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong làng nghề

truyền thống những người thợ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên

luôn ý thức tuân thủ những chế ước xã hội và gia tộc. Sản phẩm được nhiều

thế hệ sản xuất ra có giá trị, có tính đặc thù riêng, nổi tiếng ở địa phương và

nhiều nơi biết đến.

Trong các làng nghề truyền thống thường có tuyệt đại bộ phận dân số

làm nghề truyền thống hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha

truyền con nối. Song, sự truyền nghề không phải là sự sao chép, mỗi làng

nghề, mỗi thợ thủ công khi tiếp thu nghề đều có những cải tiến, sáng tạo làm

cho sản phẩm của mình có những nét độc đáo riêng so với sản phẩm của

người khác, làng khác.

* Khái niệm phát triển làng nghề

Theo từ điển tiếng Việt năm 2004, phát triển là một khái niệm chỉ sự

biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến

cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Với ý nghĩa đó, phát triển làng nghề có thể được hiểu đó là sự củng cố,

duy trì, hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề hiện có,

tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích thúc đẩy, nâng cao năng lực sản

xuất và hiệu quả của các làng nghề . Từ đó, có thể sử dụng một cách có hiệu

quả những nguồn lực sẵn có ở nông thôn, đẩy mạnh sự chuyên môn hoá sản

xuất và tạo ra nhiều sản phẩm hơn đáp ứng nhu cầu của xã hội.

1.1.2. Vai trò của phát triển làng nghề trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội

* Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nội dung và mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra một

cơ cấu kinh tế mới, hợp lý và hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. Do đó

tất yếu phải chuyển nền kinh tế nông thôn với cơ cấu thuần nông, sản xuất

mang tính chất tự cấp, tự túc là chủ yếu sang nền kinh tế nông thôn công

nghiệp hoá với cơ cấu nông, công nghiệp, dịch vụ và sản xuất ra nhiều sản

phẩm hàng hoá.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nhằm phát triển

kinh tế nông thôn lên một bước mới về chất làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ

cấu lao động, cơ cấu làm việc, cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập

của dân cư nông thôn bằng các nguồn lực từ trong lĩnh vực nông nghiệp và

phi nông nghiệp. Với mục tiêu như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp, nông thôn ngày càng được thúc đẩy và diễn ra ngay trong

nội bộ ngành nông nghiệp và các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế

nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, các làng nghề

đã tỏ rõ vai trò tích cực đối với sự chuyển dịch này. Nó thể hiện ở chỗ góp

phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp

tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập

thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Trong thực tế

sự ra đời và phát triển của các làng nghề ngay từ đầu đã làm biến đổi cơ cấu

kinh tế nông thôn. Điều đó có nghĩa là ở nông thôn khi nghề thủ công xuất

hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà

bên cạnh nó còn có các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng

tồn tại phát triển. Trên góc độ phân công lao động thì làng nghề có tác động

rất tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất

cho nông nghiệp mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp. Chẳng hạn, ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm phát triển

yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp phải nhiều hơn, đa dạng hơn và chất

lượng cao hơn. Vì vậy, trong nông nghiệp hình thành những khu vực nông

nghiệp chuyên môn hoá, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng

suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hoá. Đồng thời, người nông dân

trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào là

có lợi nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã

được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.

Sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản

lượng cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền

kinh tế thị trường, người lao động chuyển sang đầu tư vào các ngành nghề

phi nông nghiệp, đặc biệt là ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh.

Điều đó có nghĩa là khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp lại, khu vực

sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên. Sự phát triển

này đã khẳng định một hướng đi đúng, nó tạo ra cơ sở kinh tế phi nông

nghiệp cho những vùng thuần nông trước đây chỉ chuyên có trồng trọt và

chăn nuôi. Cùng với các nghề thủ công, làng nghề phát triển đã tạo cơ hội

cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động,

thu hút nhiều lao động. Sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên

tục, vì vậy đòi hỏi dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm

phải thường xuyên. Do đó, dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều

hình thức phong phú đa dạng. Như vậy, sự phát triển làng nghề có tác dụng

quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

* Góp phần giải quyết việc làm, tận dụng nguồn nguyên liệu và lực

lượng lao động.

Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn là vấn đề bức

xúc ở nước ta hiện nay. Bởi khu vực nông thôn chiếm khoảng 75% dân số

và 70% lao động cả nước, đất canh tác bình quân đầu người thấp, người

nông dân chỉ sử dụng khoảng 60-70% thời gian làm nông nghiệp, vì vậy,

tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Với vai trò đặc biệt của mình, làng

nghề đã tạo ra được một khối lượng lớn công việc, thu hút nhiều lao động ở

nông thôn. Phát triển làng nghề có vai trò quan trọng trong giải quyết việc

làm cho người lao động không những cho riêng làng mình mà còn cho dân

cư của làng khác đến làm thuê.

Sự phát triển của làng nghề kéo theo sự phát triển của nhiều ngành

nghề khác tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, bởi vì khi phát triển

làng nghề đưa những nghề thủ công vào các vùng nông thôn nó sẽ lại tạo

điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển hơn, ví dụ như ngành chế biến

lương thực thực phẩm tạo điều kiện cho ngành cơ khí chế tạo công cụ,

ngành chăn nuôi phát triển, ngành tái chế nguyên vật liệu đã tạo điều kiện

cho mạng lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu phát triển và nó còn có tác

dụng làm sạch môi trường.

Do đặc điểm sản xuất của các làng nghề ở quy mô hộ là chủ yếu đồng

thời nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên có khả năng

tận dụng và thu hút nhiều loại lao động từ lao động thời vụ, nông nhàn đến

lao động trên dưới độ tuổi lao động vào quá trình sản xuất. Lực lượng lao

động này chiếm một tỷ lệ rất đáng kể trong tổng số lao động trong các làng

nghề.

* Thu hút vốn nhàn rỗi.

Quy mô các cơ sở kinh tế trong làng nghề chủ yếu là hộ gia đình và

đang hình thành một số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, hầu hết các cơ

sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề đều dành một phần diện tích nhà

ở của gia đình làm nơi sản xuất, kinh doanh, nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ

công nhỏ, thô sơ là những người thợ trong các làng nghề có thể tự sản xuất

hoặc chế tạo được. Cho nên, mức đầu tư cho một lao động và quy mô vốn

cho một cơ sở sản xuất - kinh doanh trong các làng nghề không nhiều. Vì

vậy, rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của

các hộ gia đình. Vốn đầu tư không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là

một lợi thế để các làng nghề có thể huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân

vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

* Cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng nông thôn mới.

Việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân chỉ có thể thực hiện được

trên cơ sở ổn định việc làm và nâng cao thu nhập. Ở nông thôn, vấn đề này

được phản ánh rất rõ thông qua tác động của phát triển làng nghề. Những

vùng có làng nghề phát triển đều thể hiện một sự thay đổi về đời sống, có

dân trí cao hơn hẳn những vùng thuần nông. Ở các làng nghề, tỷ lệ hộ khá

và giàu cao, tỷ lệ hộ nghèo thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ

nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân

của các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất lẫn

tinh thần, số hộ có nhà cao tầng, các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ

lệ khá. Như ở làng nghề Bát Tràng Hà Nội mức thu nhập bình quân của các

hộ từ 40 - 50 triệu đồng/năm còn các hộ có thu nhập cao thì đạt tới hàng

trăm triệu đồng/năm; ở làng nghề Ninh Hiệp Hà Nội tỷ lệ hộ gia đình giàu

chiếm 30%, hộ nghèo chỉ chiếm 1%.

Phát triển làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân đồng thời

tạo ra nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho ngân sách địa phương cũng như

cho các hộ gia đình. Vì vậy, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn

được huy động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương này khác

hẳn với các địa phương không có nghề. Ở làng nghề, đặc biệt là các làng

nghề vùng Đồng bằng sông Hồng, gần như 100% đường làng ngõ xóm được

bê tông hoá hoặc lát gạch, các địa phương đều có trường mầm non, tiểu học,

phổ thông cơ sở khang trang; hệ thống điện nước được cải tạo nâng cấp; đời

sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, sức mua tăng lên tạo

thị trường công nghiệp và dịch vụ tăng; thu hẹp dần khoảng cách giữa thành

thị và nông thôn.

1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

Quá trình phát triển của làng nghề chịu tác động của nhiều nhân tố,

những nhân tố này có sự biến đổi trong từng thời kỳ và tác động theo những

mức độ khác nhau. Ở đây chúng ta có thể nêu lên những nhân tố tác động

đến sự phát triển làng nghề:

* Một là nguồn nguyên vật liệu:

Đây là một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của các làng

nghề. Trước đây, nguồn vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo

nên sự hình thành và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay,

nhờ sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông vận tải và phương tiện

kỹ thuật vấn đề xa hay gần nguồn nguyên liệu trở nên không quan trọng đối

với sự phát triển của các làng nghề. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng, chất

lượng chủng loại và khoảng cách từ cơ sở sản xuất tới nơi có nguồn nguyên

vật liệu vẫn có ảnh hưởng nhất định tới sản xuất và giá thành sản phẩm của

các đơn vị sản xuất kinh doanh. Cho đến nay, nguồn nguyên vật liệu cung

cấp cho một số làng nghề truyền thống vẫn phong phú đặc biệt là nguyên

liệu cho các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với nhiều

làng nghề thì đây lại là một khó khăn gây cản trở tới sản xuất vì nguồn

nguyên liệu vật liệu đang bị cạn kiệt dẫn đến không đủ để đáp ứng cho sản

xuất. Chẳng hạn như nguyên liệu dùng để sản xuất chiếu cói ở Nga Sơn

Thanh Hoá, gỗ quý cho sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ…

* Hai là nguồn nhân lực:

Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự

phát triển. Nguồn nhân lực của làng nghề bao gồm những nghệ nhân, những

người thợ thủ công và chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân có

vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời họ là

những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm yếu tố văn hoá

dân tộc. Hiện nay, ở nhiều làng nghề truyền thống vẫn còn những nghệ nhân

tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó, một lực

lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ có khả năng thích ứng với

những điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, là nhân tố cốt yếu nhất

quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh ở các làng nghề. Song, một

hạn chế rất lớn đối với nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực ở các

làng nghề nói riêng là chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trình độ chuyên

môn và trình độ văn hoá thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp. Đây là

một khó khăn cơ bản trong việc phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá.

* Ba là yếu tố thị trường:

Sự tồn tại và phát triển của làng nghề phụ thuộc rất lớn vào thị trường

và sự biến động của nó. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay

đổi của nhu cầu thị trường, có khả năng tiêu thụ lớn thường có tốc độ phát

triển nhanh. Điều này đã được chứng minh ở sự phát triển của một số làng

nghề gốm sứ mỹ nghệ, chạm khắc gỗ, chế biến lương thực, thực phẩm.

Ngược lại, một số làng nghề không phát triển được, ngày càng mai một,

giảm sút, thậm chí có nguy cơ tan rã không duy trì được nghề do sản phẩm

làm ra không đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường hoặc nhu

cầu thị trường không cần đến loại sản phẩm đó nữa như: Dệt chiếu ở làng

Ứng Luật xã Quang Thiện huyện Kim Sơn Kim Sơn; làm Miến dong ở làng

Chí Tĩnh xã Hùng Tiến, huyện Kim Sơn. Ngay ở trong một làng (một cơ sở

sản xuất) có sản phẩm phát triển như các mẫu nhỏ, khay, đĩa được làm ra từ

cây cói và được xuất khẩu ra nước ngoài, trong khi đó, sản phẩm chiếu chẻ

lại trở nên sa sút. Như vậy, rõ ràng thị trường và sự phát triển của thị trường

đã tác động rất mạnh tới phương hướng phát triền, cách thức sản xuất kinh

doanh, cơ cấu sản phẩm và là động lực thúc đẩy sản xuất của làng nghề. Tuy

nhiên, nếu thị trường không ổn định sẽ gây ra những khó khăn và bấp bênh

cho sản xuất của làng nghề.

* Bốn là nguồn vốn:

Đây là một nguồn lực vật chất rất quan trọng đối với quá trình hoạt

động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu tư để

phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng, đầu tư

đổi mới công nghệ. Trong khi đó, với thực trạng phát triển nhỏ lẻ ở các làng

nghề hiện nay, nguồn vốn có để sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn tự có và

vốn vay của người thân nên kéo theo: Sản phẩm làm ra thường không có sức

cạnh tranh, bởi một phần vì công nghệ lạc hậu, mẫu mã kém phong phú còn

phần khác là không tận dụng được lợi thế về qui mô nên chi phí tăng cao bất

lợi trong cạnh tranh về giá. Để giải quyết được vấn đề này, làng nghề cần

thiết phải huy động được một lượng vốn lớn để thay đổi cả qui mô sản xuất

lẫn công nghệ, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, tận dụng ưu thế về qui

mô, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, nâng cao năng lực

quản lý, lúc này khả năng tìm kiếm thị trường mới của làng nghề được nâng

cao, thị trường được đa dạng hoá, làng nghề có thể xác định được thị trường

mục tiêu cho mình. Vì vậy, sự phát triển của làng nghề phụ thuộc rất lớn vào

các nguồn vốn huy động được. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh

doanh đều rất nhỏ bé . Tuy nhiên, với năng lực của các làng nghề thì không

thể tự huy động được nguồn vốn lớn như vậy. Cho nên, để giải quyết khó

khăn này, các làng nghề cần có sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía Nhà nước.

* Năm là trình độ kỹ thuật và công nghệ:

Trình độ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất

lượng và giá thành của sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm

hàng hoá trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại phát triển

hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó. Nhận thức

được điều đó, nhiều làng nghề đã đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng tiến

bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất để đa dạng hoá sản

phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ổn định cho

các làng nghề. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do đặc điểm kỹ thuật công

nghệ của một số làng nghề vẫn còn mang nặng tính chất thủ công, thô sơ lạc

hậu nên đó vẫn là một trong những nhân tố làm cản trở quá trình phát triển

các làng nghề.

* Sáu là kết cấu hạ tầng:

Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống các đường giao thông, điện, cấp và

thoát nước, bưu chính viễn thông… có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành,

tồn tại và phát triển của các làng nghề. Thực tế ngày càng cho thấy rõ làng

nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có kết cấu hạ tầng đảm bảo và

đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều kiện, tiền đề cho sự ra đời và

phát triển của làng nghề, tạo điều kiện khai thác và phát huy những tiềm

năng sẵn có của làng nghề. Sự phát triển của yếu tố này sẽ đảm bảo việc vận

chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng giao lưu

hàng hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất đồng thời

làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính

viễn thông đã giúp các chủ thể sản xuất kinh doanh nắm bắt kịp thời, nhanh

chóng, chính xác thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thời. Tuy

nhiên, cho đến nay sự phát triển của các làng nghề vẫn còn gặp phải không

ít khó khăn do ảnh hưởng của sự yếu kém và thiếu đồng bộ của hệ thống kết

cấu hạ tầng.

* Bẩy là chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước:

Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn

tới sự phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ trước đổi mới,

chúng ta chỉ tập trung phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,

không chấp nhận kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể. Các hộ sản xuất trong các

làng nghề truyền thống không được coi là các chủ thể kinh tế độc lập. Đó là

một nhân tố khiến cho các làng nghề không phát triển được. Từ khi thực

hiện công cuộc đổi mới đến nay, các làng nghề đã phục hồi và phát triển

mạnh. Sự chuyển biến quan trọng này được tác động bởi các đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI,

VII, VIII, IX, X và nhiều nghị quyết trung ương đã nhấn mạnh vai trò quan

trọng của kinh tế nông thôn, đề ra biện pháp, chính sách phát triển toàn diện

kinh tế xã hội nông thôn, trong đó có làng nghề. Một trong những chính

sách đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đổi mới có tác dụng phát huy sức

mạnh nội lực của làng nghề, đó là chính sách phát triển các thành phần kinh

tế. Với chính sách này, các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể trước

đây không được chấp nhận nay được khuyến khích phát triển. Chính sách

này có tác động thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tồn tại trong làng

nghề cùng phát triển, làm cho làng nghề được phục hồi và phát triển mạnh.

Đồng thời, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đã kích thích sản

xuất trong các làng nghề phát triển vì nó mở rộng thêm nhiều thị trường

mới. Ngoài ra, còn có nhiều chính sách khác như chính sách miễn giảm

thuế, chính sách hỗ trợ vốn, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và

nhỏ… đã có tác động tích cực tới sự phát triển của các làng nghề trên cơ sở

đổi mới đường lối, chính sách kinh tế một loạt các văn bản pháp luật cũng

được ra đời và ngày càng hoàn thiện như: Luật doanh nghiệp, luật HTX, luật

đất đai … đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của làng

nghề. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có chính sách cần thiết và đồng bộ giành

riêng cho sự phát triển làng nghề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở

nông thôn mà nó chỉ được tác động thông qua nhiều chính sách khác.

1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở MỘT SỐ ĐỊA

PHƢƠNG

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của huyện Nghĩa Hƣng,

tỉnh Nam Định

Nghĩa Hưng là một huyện ven biển thuộc tỉnh Nam Định, là huyện có

điều kiện tự nhiên và dân số khá tương đồng với huyện Hoa Lư, có vị trí

thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Nghĩa Hưng có diện tích đất tự nhiên 254,44 km2, dân số hiện có của huyện

khoảng 178.000 người (theo kết quả điều tra tháng 11 năm 2009), tỷ lệ đồng

bào theo tôn giáo chiếm trên 56% tổng số dân của huyện. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế hàng năm giai đoạn 2005-2010 đạt 8,9%, thu nhập bình quân

đầu người đạt 10,5 triệu đồng một năm. Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng

khá nhưng cơ cấu kinh tế huyện Nghĩa Hưng vẫn là cơ cấu Nông nghiệp. Cơ

cấu kinh tế huyện Nghĩa Hưng năm 2009: Công nghiệp - Xây dựng chiếm

19,2%, Thương mại - Dịch vụ là 32%, tỷ trọng Nông - Lâm - Ngư nghiệp là

48,8%. Đến năm 2010 tuy tỷ trọng Nông - Lâm - Ngư nghiệp đã được cải

thiện nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ cao là 48%. Riêng nội bộ ngành Nông

nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi chiếm tỷ trọng trên 60%. Nhóm ngành sản

xuất Công nghiệp - Xây dựng phát triển còn nhỏ bé, chiếm 19,2% đến

19,5% trong GDP toàn huyện năm 2009 và năm 2010. Tuy nhiên trước nhu

cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên cả nước nói

chung, huyện Nghĩa Hưng nói riêng, Công nghiệp đang dần và sẽ trở thành

ngành phát triển mạnh ở địa phương.

Tính đến năm 2010, Nghĩa Hưng có 18 làng nghề. Sự phát triển của các

làng nghề trên địa bàn huyện trong những năm gần đây đang khởi sắc dần

lên. Tỷ trọng giá trị sản xuất của các làng nghề tăng từ 25% năm 2005 lên

35% vào năm 2009 trong tổng giá trị sản xuất của nhóm ngành Công nghiệp

- Xây dựng trên địa bàn huyện. Các làng nghề truyền thống trên địa bàn

huyện bao gồm: Dệt chiếu ở Tân Liêu xã Nghĩa Sơn, Nghĩa Trung, thị trấn

Liễu Đề; khâu Nón lá ở xã Nghĩa Châu, Hoàng Nam, Nghĩa Trung, Nghĩa

Minh..; làm Miến dong ở xã Nghĩa Lâm; chế biến các mặt hàng thủ công mỹ

nghệ: Mây tre đan, hàng cói, thảm, các sản phẩm từ len, sợi, bẹ chuối,

bèo,…ở thị trấn Quỹ Nhất, Nghĩa Thành, Nghĩa Lợi, Nghĩa Hồng; sản xuất

thuỷ sản ở Ngọc Lâm, Nghĩa Hải. Riêng nghề làm Nón đã trở lên nổi tiếng

cả nước. Tổng số lao động được thu hút vào làm việc tại các làng nghề năm

2008 khoảng 12.964 người, trong tổng số 118.300 lao động của huyện. Việc

phát triển làng nghề ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết

việc làm cho người lao động tại địa phương.

Để đạt được kết quả như trên Nghĩa Hưng đã và đang thực hiện hàng

loạt các giải pháp quan trọng như:

Thứ nhất, xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề:

Nghĩa Hưng coi việc quy hoạch tạo mặt bằng cho sản xuất ở các làng

nghề là một khâu đột phá quan trọng trong phát triển làng nghề. Hình thành

các cụm công nghiệp làng nghề thực chất là chuyển một phần diện tích đất

nông nghiệp của chính làng nghề sang đất chuyên dùng cho sản xuất Công

nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong các

làng nghề di dời ra khu sản xuất tập trung, tách sản xuất ra khỏi khu dân cư.

Theo quan điểm của huyện Nghĩa Hưng việc làm này phải phù hợp với đặc

điểm riêng của từng làng, từng nghề. Vì vậy, Nghĩa Hưng có chủ trương là

chỉ thực hiện việc di dời ở những khâu sản xuất đồng bộ, những công đoạn

lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm, còn việc sản xuất những chi tiết nhỏ lẻ, không

ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ của cộng đồng thì vẫn ở từng hộ gia

đình cho phù hợp với điều kiện và tập quán lao động trong làng nghề.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, huyện Nghĩa Hưng,

đến thời điểm hiện nay, các ngành chức năng của tỉnh phối hợp với các địa

phương đã tiến hành xây dựng được 01 cụm công nghiệp với tổng diện tích

đất quy hoạch là 460,87ha. Đến nay đã thu hút được hơn 1000 lao động với

thu nhập bình quân trên 1,7 triệu đồng/ tháng.

Để các khu, cụm công nghiệp làng nghề được hình thành và hoạt động

có hiệu quả. Nghĩa Hưng đã thành lập ra ban quản lý các khu công nghiệp

làng nghề. Ban quản lý khu công nghiệp làng nghề có nhiệm vụ giúp các

cấp, các ngành trước hết là UBND cấp xã, thực hiện tốt chức năng quản lý

nhà nước đối với các khu công nghiệp làng nghề. Ban quản lý các khu công

nghiệp làng nghề là cơ quan trực tiếp quản lý các khu công nghiệp làng

nghề, đồng thời phối hợp với các cơ quan chuyên môn của UBND huyện,

các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội và UBND các xã có khu công nghiệp

làng nghề để giải quyết những vấn đề phát sinh trong việc quản lý nhà nước

đối với các khu công nghiệp làng nghề trên địa bàn.

Thứ hai, vấn đề vốn cho sản xuất kinh doanh:

Để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn cho sản xuất kinh doanh của các

làng nghề tỉnh Nghĩa Hưng đã chú trọng đến hệ thống ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách Xã hội. Ngân hàng

Chính sách Xã hội và Ngân hàng NN-PTNT huyện hỗ trợ vốn vay cho các

hộ, các cơ sở sản xuất của làng nghề, cho vay theo phương thức trả chậm tạo

điều kiện cho các cơ sở mở rộng sản xuất tạo việc làm cho người lao động,

nâng cao thu nhập dân cư.

Thứ ba, giải pháp về phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề:

Các ban ngành đoàn thể tại cơ sở tổ chức các lớp dạy nghề để nâng cao

chất lượng nguồn lao động cho các làng nghề; hỗ trợ về công nghệ và nâng

cao năng lực quản lý. Thay đổi phương thức đào tạo, thời gian đào tạo cho

phù hợp với từng loại đối tượng, phát huy hình thức đào tạo tại chỗ theo hợp

đồng của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất … sau đào tạo được các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất nhận ngay vào làm việc.

Thứ tư, quán triệt việc thực hiện con đường phát triển bền vững, đảm

bảo phát triển kinh tế thân thiện với môi trường:

Cấp giấy phép xây dựng khu xử lý rác thải, ứng dụng công nghệ điện

hoạt hoá để giảm ô nhiễm môi trường tạo ra các mô hình ứng dụng về xử lý

môi trường ở các làng nghề.

Thứ năm, thực hiện các giải pháp về phát triển thị trường:

Xây dựng quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông phù hợp với

tình hình thực tế tại địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông

hàng hoá. Khuyến khích phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ

đầu mối tạo điều kiện và cơ chế thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia

phát triển hệ thống chợ.

1.3.2. Kinh nghiệm của làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nƣớc, quận

Ngũ Hành Sơn

Làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nước, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà

Nẵng đã có từ rất lâu đời, được hình thành giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ

XVIII. Trong hơn 300 năm hình thành và phát triển làng nghề Đá mỹ nghệ

Non Nước đã khẳng định được thương hiệu bằng những sản phẩm điêu khắc

đá tinh xảo, đa dạng ở trong và ngoài nước.

Hiện nay, làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nước có hơn 20 doanh nghiệp,

430 cơ sở sản xuất – kinh doanh lớn, nhỏ với hơn 4.500 lao động. Quy mô

và tốc độ phát triển sản xuất làng nghề không ngừng gia tăng, giải quyết

việc làm cho người lao động, đặc biệt là nông dân bị thu hồi đất, thu nhập

bình quân của lao động từ 2-3 triệu đồng / tháng. Năm 2008 giá trị sản xuất

làng nghề thực hiện: 76,5/282 tỷ đồng, chiếm 27,1 % tổng giá trị sản xuất

của các ngành kinh tế do quận quản lý.

Để có được những kết quả đáng khích lệ đó, thành phố Đà Nẵng kết

hợp với Hiệp hội làng nghề truyền thống điêu khắc Đá Non Nước – Ngũ

Hành Sơn đã thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất. Chú trọng quảng bá thương hiệu, thương mại hóa cho các

sản phẩm Đá mỹ nghệ Non Nước

Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, khi nước ta trở thành

thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì nguồn lực

của các cơ sở, các doanh nghiệp, các làng nghề không chỉ bằng vốn, bằng

năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, bằng công nghệ tiên tiến, bằng giá

thành rẻ, bằng sức sáng tạo, kỹ năng và năng lực thiết kế, sáng tác mẫu mã

mà còn phải có thương hiệu mạnh, có uy tín. Thương hiệu chính là nguồn

lực, là động lực để phát triển, đặc biệt là làng nghề truyền thống. Đối với

thương hiệu làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nước, hiện nay tuy chưa đăng ký

sở hữu trí tuệ về thương hiệu làng nghề nhưng đã có logo làng nghề. Trong

khuôn khổ chương trình 68 của chính phủ (Chương trình hỗ trợ phát triển tài

sản trí tuệ của doanh nghiệp), Sở khoa học công nghệ thành phố Đà Nẵng đã

được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt triển khai dự án “ Tạo lập, quản

lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận Non Nước” cho sản phẩm thủ công

mỹ nghệ từ đá của làng nghề Đá Non Nước, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố

Đà Nẵng. Dự án này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển làng

nghề nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của quận Ngũ Hành Sơn,

thành phố Đà Nẵng nói chung. Trong thời gian tới, khi dự án được triển khai

thì nhãn hiệu sản phẩm Đá mỹ nghệ của làng nghề truyền thống Đá mỹ nghệ

Non Nước sẽ ngày càng được khẳng định được tên tuổi và vị thế.

Để thực hiện dự án trên, Sở Khoa học và Công nghệ và UBND quận

Ngũ Hành Sơn đã sử dụng các biện pháp như: hoàn thiện sản phẩm đang có

đi đôi với việc phát triển sản phẩm mới; thu thập ý kiến khách hàng để củng

cố khâu tiếp thị, quảng bá sản phẩm; phát triển mạng lưới phân phối sản

phẩm hợp lý trong thành phố và cả nước; thực hiện một số chính sách hỗ trợ

cho doanh nghiệp phát triển…đồng thời giúp họ có sự nhận thức, nắm bắt

pháp luật trong nước và quốc tế về bản quyền tác giả, từ đó sáng tạo ra

những sản phẩm mang đặc trưng của làng nghề Đá Non Nước – Đà Nẵng;

thương mại hóa sản phẩm bằng các biện pháp như: tập trung nâng cao, bồi

dưỡng tư duy, sáng tác sản phẩm mới cho các hộ sản xuất để có những sản

phẩm mới thu hút khách du lịch, cách đóng gói bao bì sản phẩm, quy hoạch

khu mua bán, trưng bày sản phẩm Đá mỹ nghệ, xây dựng và phát huy tính

đoàn kết Hội làng nghề để phát triển sản phẩm đồng thời mở rộng thị trường

và đem lại lợi ích cho cộng đồng làng Đá Non Nước.

Hiện tại, UBND thành phố Đà Nẵng đang triển khai xây dựng khu

công viên văn hóa tâm linh Ngũ Hành Sơn, một trong những điểm nhấn

quan trọng nhất của quy hoạch là Bảo tàng Đá mỹ nghệ duy nhất tại Việt

Nam trên diện tích khoảng 7.3 ha. Tại đây sẽ có các khu trưng bày, triển lãm

chế tác và trao đổi, mua bán các tác phẩm Đá mỹ nghệ, quảng trường, trục lễ

hội, sân khấu ngoài trời…tổ chức các sự kiện văn hóa về Đá mỹ nghệ. Đây

là một trong những hoạt động quảng bá và thu hút khách du lịch trong và

ngoài nước đến với thành phố Đà Nẵng nói chung và làng nghề Non Nước

nói riêng.

Thứ hai. Quy hoạch lại làng nghề

UBND thành phố Đà Nẵng đã quy hoạch lại làng nghề Đá mỹ nghệ

Non Nước với quy mô đầu tư lên đến 35,4 ha, di dời 605 hộ để sắp xếp lại

làng nghề. Với mức đầu tư 102 tỷ đồng phấn đấu đến năm 2015 có ít nhất 5

-7 làng nghề hoạt động ổn định, giải quyết việc làm cho trên 15.000 lao

động, tổng doanh thu của các làng nghề này đạt khoảng 314 tỷ đồng/ năm.

Sau khi quy hoạch, sẽ có từng phân khu chức năng của quy trình sản xuất

sản phẩm đá, mang tính liên hoàn, khép kín. Như phân khu chế tác đánh

bóng sản phẩm, khu phố chuyên giới thiệu sản phẩm. Việc sắp xếp lại làng

nghề sẽ tạo thành những điểm nhấn đối với làng nghề đa dạng nghệ thuật

điêu khắc, đặc biệt là những khu vườn tượng để nghệ nhân có điều kiện thực

hiện khả năng sáng tạo của mình, khi có từng khu vực thực hiện quy trình

sản xuất sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong sản xuất, kinh doanh. Dấu ấn

làng nghề được thể hiện rõ thì việc thu hút khách du lịch sẽ dễ dàng hơn.

Lúc đó lợi nhuận sẽ cao hơn.

Trước mắt, thành phố Đà Nẵng sẽ tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ

sở hạ tầng đồng bộ như đường điện, hệ thống xử lý nước thải…, mở rộng

quy mô sản xuất. Đồng thời kết hợp với Sở Công nghiệp và Sở Nông lâm –

Thủy sản lập quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu để cung cấp nguồn

nguyên liệu tại chỗ cho các làng nghề hoạt động ổn định.

Ngoài hai biện pháp trên, UBND quận Ngũ Hành Sơn còn quan tâm chỉ

đạo việc phát triển làng nghề gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái, không

để làng nghề ảnh hưởng đến môi trường du lịch, cảnh quan đô thị, liên kết với

công ty, doanh nghiệp để sử dụng lao động làm việc ngay tại địa phương theo

phương thức tổ hợp, giải quyết việc làm theo phương châm “tại chỗ”.

Căn cứ vào tiềm năng thế mạnh của vùng, cùng với sự nắm bắt thời cơ

và thách thức trong điều kiện hiện nay. UBND Quận Ngũ Hành Sơn đã đề ra

định hướng phát triển làng nghề từ nay đến năm 2020 là: “ Phát huy lợi thế

của làng nghề điêu khắc Đá mỹ nghệ truyền thống Non Nước, tiếp tục phát

triển công nghiệp chế tác trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, nhằm tạo

ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trong nước và quốc tế. Quy hoạch lại làng

nghề theo hướng mở rộng tại làng nghề hiện nay, và đẩy mạnh phát triển

thương mại kết hợp phát triển du lịch. Ưu tiên phát triển mạnh làng nghề Đá

mỹ nghệ Non Nước trên địa bàn được quy hoạch, khuyến khích và tạo điều

kiện cho doanh nghiệp và tư nhân đầu tư phát triển các sản phẩm mỹ nghệ

từ đá với quy mô lớn. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm đầu ra,

giới thiệu mặt hàng với các đối tác trong và ngoài nước. Phấn đấu tốc độ

**

tăng sản phẩm bình quân đạt 30% / năm.

* Bài học kinh nghiệm cho phát triển làng nghề huyện Hoa Lƣ, đặc

biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân

Trong bối cảnh hiện nay, việc xuất khẩu lao động gặp nhiều khó khăn,

cơ hội tìm kiếm việc làm ở các thành phố lớn cũng không còn nhiều, nên

UBND huyện Hoa Lư đã chỉ đạo thực hiện các chương trình giải quyết việc

làm theo phương châm “tại chỗ”, con đường ngắn nhất và rẻ nhất để thực

hiện nó là phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ, trong đó nghề chế tác

đá là một nghề đang có tiềm năng và triển vọng lớn nhất. Qua thực tế cho

thấy, nghề chế tác đá ở huyện Hoa Lư có quá trình lịch sử lâu đời, có tiềm

năng về nguồn nguyên liệu, về vốn và lao động nhưng so với làng nghề Đá

mỹ nghệ Non Nước quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng thì làng nghề

Đá mỹ nghệ ở Ninh Vân huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình chưa thực sự đứng

vững trên thị trường. Vẫn còn rất nhiều bất cập, nhiều yếu tố kìm hãm sự

phát triển của làng nghề. Từ những nghiên cứu kinh nghiệm phát triển làng

nghề của một số huyện trong cả nước ở trên. Để làng nghề huyện Hoa Lư,

đặc biệt làng nghề Đá mỹ nghệ ở Ninh Vân phát triển xứng đáng với tầm

vóc và nhu cầu phát triển của làng nghề điêu khắc đá thì cần phải rút kinh

nghiệm trên một số vấn đề sau:

+ Về quy hoạch

Quy hoạch có vai trò rất quan trọng đối với phát triển làng nghề, trong

khi tất cả các làng nghề Đá mỹ nghệ đều đứng trước nguy cơ ảnh hưởng đến

môi trường sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân thì

quy hoạch làng nghề là một trong những biện pháp hữu hiệu để giảm bớt tác

hại của tiếng ồn bụi khói và nước thải ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.

Do vậy quy hoạch cần phải có kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn và quy hoạch

trên diện rộng, quy mô lớn. Việc phân khu, phân vùng quy hoạch cần căn cứ

vào chức năng của từng khu, từng vùng đồng thời có kế hoạch, lộ trình để

từng bước tiến tới thực hiện triệt để việc tách khu sản xuất ra khỏi khu dân

cư, tránh việc manh mun, nhỏ lẻ, sản xuất kinh doanh không có kế hoạch, tự

phát hoạt động. Việc quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ thì việc quy hoạch

khó mang lại hiệu quả, tác dụng như mong muốn.

+ Về phát triển thương hiệu sản phẩm

Phát triển thương hiệu sản phẩm là vấn đề then chốt để tạo chỗ đứng

cho các sản phẩm làng nghề Đá mỹ nghệ xã Ninh Vân trên thị trường trong

và ngoài nước. Phát triển thương hiệu cần tránh việc sản xuất, kinh doanh

sản phẩm Đá mỹ nghệ một cách ồ ạt, không theo quy hoạch, chất lượng sản

phẩm không đảm bảo, giảm giá trị thẩm mỹ, mất uy tín đối với khách hàng.

Bên cạnh đó, cần chú trọng khâu tiếp thị, quảng bá sản phẩm, phát triển

mạng lưới phân phối và phát triển sản phẩm mới. Tiếp tục sản xuất những

mặt hàng tinh xảo để đa dạng hóa các sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng

cao của khách hàng. Hướng tới xây dựng logo của làng nghề, đăng ký sở

hữu trí tuệ về thương hiệu làng nghề.

+ Về thị trường

Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản

phẩm đến người tiêu dùng, trong đó quan tâm đến thị trường nội địa, tìm

kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm mỹ nghệ, đặc biệt coi

trọng các thị trường truyền thống. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp đầu tư công nghệ sản xuất, cải tiến mẫu mã và đa dạng hóa

sản phẩm nhằm tăng năng lực cạnh tranh cũng như nâng cao giá trị sản xuất

của doanh nghiệp. Kiện toàn bộ máy và nâng cao vai trò hoạt động của hiệp

hội làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân.

+ Giải pháp về chính sách

Để các làng nghề phát triển cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ từ

làng nghề đến chính sách vĩ mô. Lâu nay, Nhà nước với các chính sách,

nguồn vốn của mình luôn chú trọng đến các doanh nghiệp lớn mà lơ là các

doanh nghiệp nhỏ, các cơ sở sản xuất ở làng nghề. Chẳng hạn như việc tiếp

cận nguồn vốn, do nhiều hộ nghề không nắm được thông tin về nguồn vốn

hỗ trợ, khả năng lập dự án kinh doanh còn yếu, lại không có tài sản thế chấp

hoặc không đủ tiền đáo hạn nên khả năng tiếp cận nguồn vốn là vô cùng khó

khăn. Hầu hết các hộ nghề cùng các doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu thực sự về

vốn đều không tiếp cận được nguồn vốn từ chính sách hỗ trợ mà tập trung

vào các doanh nghiệp lớn, có uy tín và quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng.

Chỉ khi nào Nhà nước quan tâm hơn đến thành phần kinh tế tư nhân nhỏ ở

làng nghề bằng các giải pháp cụ thể như chính sách thông thoáng, nguồn

vốn dễ tiếp cận, hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo nghề, giúp đỡ

giải quyết ô nhiễm môi trường... thì các làng nghề mới phát triển đồng bộ

được. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cải tạo hạ tầng, chi phí

thuê mặt bằng, bến bãi sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế hỗ trợ giải

phóng mặt bằng, đơn giản hóa thủ tục cho thuê mặt bằng tại khu sản xuất tập

trung.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ

TỈNH NINH BÌNH: TRƢỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ

MỸ NGHỆ Ở XÃ NINH VÂN

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG ĐẾN

SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý

Huyện Hoa Lư nằm ở trung tâm tỉnh Ninh Bình; cách thành phố Hà

Nội khoảng 80km về phía nam và cách thành phố Thanh Hóa khoảng 60km

về phía bắc; bao vây ba mặt tây, bắc, nam của thành phố tỉnh lỵ Ninh Bình.

Không chỉ tiếp giáp với thành phố tỉnh lỵ, huyện Hoa Lư còn tiếp giáp với

nhiều huyện, thị khác của tỉnh Ninh Bình và huyện Ý Yên của tỉnh Nam

Định, cụ thể: phía bắc giáp với huyện Gia Viễn, có sông Hoàng Long là ranh

giới; phía đông giáp với Ý Yên (Nam Định), có sông Đáy là ranh giới; phía

nam giáp với huyện Yên Mô và thị xã Tam Điệp; phía tây giáp huyện Nho

Quan.

* Về địa hình

Hoa lư là khu vực chuyển tiếp giữa địa hình vùng rừng núi sang vùng

đồng bằng; địa hình bị chia cắt khá phức tạp; là huyện thuộc vùng chiêm

trũng, chịu ảnh hưởng của úng lụt, có nhiều núi đá (ở 10/11 xã, thị trấn đều

có núi đá), hang động sông ngòi.

Địa hình huyện chia làm hai vùng: vùng Bạch Cừ - sông Chanh; vùng

hữu sông Chanh, sông Vân, sông Vạc và ven núi đá vôi.

Vùng Bạch Cư – sông chanh (gồm các xã Ninh Giang, Ninh Khang,

Ninh Mỹ, thị trấn Thiên Tôn và một phần của xã Ninh Hòa): địa hình tương

đối bằng phẳng, xu thế địa hình cao ở khu giữa (phía tây quốc lộ 1A) và

thấp dần về phía sông Chanh, sông Đáy. Nơi cao thường là khu dân cư,

ruộng màu, dọc theo đường. Nơi thấp là các ruộng nước và ven theo các bờ

sông. Trong vùng Bạch Cừ - sông Chanh có một số quả núi đá độc lập, nằm

rải rác ở các xã Ninh Giang, Ninh Khang, Ninh Mỹ và thị trấn Thiên Tôn.

Vùng này nhìn chung thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.

Vùng sông Chanh, sông Vân, sông Vạc và ven núi đá vôi (gồm 7 xã:

Trường Yên, Ninh Hòa, Ninh Xuân, Ninh Thắng, Ninh Hải, Ninh An, Ninh

Vân, trong đó có 6 xã miền núi – trừ xã Ninh An): đây là vùng có địa hình

rất phức tạp. Vùng này bị chia cắt bởi nhiều con sông như: sông Hệ Dưỡng,

sông Vó, sông Hang Luồn, sông Ba Hang…; là vùng đất trũng, đất chua, đất

lầy thụt, địa hình mấp mô, xen lẫn vùng trũng và vùng cao. Những ngọn núi

đá chạy dài ra sát sông Chanh chia diện tích canh tác ở nơi đây thành những

vùng nhỏ. Riêng hai xã Ninh An và Trường Yên có diện tích đất canh tác

tương đối tập trung và bằng phẳng; còn những nơi khác trong vung này có

diện tích canh tác nhỏ hẹp nằm sát ven chân núi.Với diện tích và trữ lượng

đá lớn, với nhiều di tích lịch sử, văn hóa, hang động đẹp, vùng này có nhiều

thế mạnh về sản xuất vật liệu xây dựng và phát triển du lịch.

* Khí hậu và nguồn nước

Huyện Hoa Lư nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với vùng

mùa hè nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa Đông lạnh có mưa phùn.

Theo số liệu thống kê của trạm khí tượng Ninh Bình (tính bình quân nhiều năm) thì nhiệt độ trung bình hàng năm của huyện là 23,4oC, nhiệt độ cao nhất là 38 – 39oC, thấp nhất là 5 – 8oC. Tổng số giờ nắng trong năm từ

1.620 – 1700 giờ, bình quân một tháng là 135 giờ, tháng cao nhất là 136 –

202 giờ, thấp nhất là 43 – 46 giờ. Độ ẩm bình quân trong năm là 83,4 %; độ

ẩm bình quân nhiều năm là 55 %. Huyện là khu vực có lượng mưa lớn hằng

năm của tỉnh, nhưng chế độ phân bố mưa không đều, tập trung chủ yếu vào

mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), chiếm 82 – 89% lượng mưa lớn hàng

năm; trong khi đó vào mùa khô, có năm hàng tháng không có trận mưa nào

(dù là mưa nhỏ). Lượng mưa trung bình hằng năm của nhiều năm là 1820 –

1840mm. Về gió bão, trong năm có hai hướng gió mùa chính là gió mùa

đông nam (từ tháng 5 đến tháng 10) và gió mùa đông bắc (từ tháng 11 năm

trước đến tháng 4 năm sau). Đột xuất có những năm, địa bàn huyện có bị

ảnh hưởng của gió Lào khô, nóng (còn gọi là gió Tây). Mùa mưa bão thường

xảy ra từ tháng 7 đến tháng 9 hàng năm, ít khi xảy ra bão lũ vào tháng 6 hoặc

tháng 10 dương lịch. Bão thường gây ra mưa lớn và trên diện rộng, lượng

mưa phổ biến từ 200 – 600mm, gây ra lũ sông và ngập úng nặng ở các vùng

trũng thấp, cản trở không ít đến sản xuất nông nghiệp của Huyện.

Trên địa phận huyện có hai con sông lớn chảy qua, đó là sông Đáy và

sông Hoàng Long; ngoài ra còn có các con sông nội địa khác như sông

Chanh, sông Vân, sông Vạc, sông Hệ Dưỡng, sông Hang Luồn. Hàng năm

về mùa khô, lượng nước ở các con sông này bảo đảm tưới nước cho cây

trồng qua hệ thống thủy lợi và cung cấp nước sinh hoạt. Về mùa mưa, mực

nước ở các sông dâng cao làm ngập lụt các vùng đất ngoài đê, đồng thời gây

ngập úng cục bộ trong nội đồng.

Nhìn chung, các sông nội địa có tác dụng rất lớn đối với việc cấp nước

và tiêu úng cho khu vực. Đồng thời, vào những năm lũ sông Hoàng Long

lớn, các sông còn làm nhiệm vụ thoát nước cho khu vực Hoàng Long. Tuy

vậy, các sông này đều nhỏ và nông, từ trước đến nay hầu như chưa nạo vét

nên tác dụng còn hạn chế, nhất là việc thoát lũ úng còn chậm. Nếu nạo vét

tốt thì không những có tác dụng rất lớn đến thủy lợi mà giao thông thủy nội

địa cũng rất thuận lợi.

* Về đất đai

Đất phù sa được bồi đắp hằng năm chủ yếu ở các vùng ngoài đê sông

Đáy và sông Hoàng Long vào mùa nước lũ. Đất có thành phần cơ giới nhẹ

(cát pha hoặc thịt nhẹ), độ phì trung bình. Loại đất này phù hợp với các loại

cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày.

Đất phù sa không được bồi phân bố chủ yếu ở xã Ninh An. Đất

thường ở địa hình vàn, độ phì trung bình, thích hợp với trồng lúa và một số

loại cây màu.

Đất phù sa được phân bố ở hầu hết các xã, thị trấn trong huyện. Thành

phần cơ giới của đất từ thịt trung bình đến thịt nặng. Độ phì nhiêu của đất

khá, thích hợp với trồng lúa nước.

Đất phù sa úng nước mưa mùa hè được phân bố ở các xã ven núi và

các xã vùng thấp trong huyện. Thành phần cơ giới của đất từ thịt nặng đến

sét, dễ tiêu nghèo. Do địa hình của loại đất này thấp nên về mùa mưa thường

ngập úng.

* Về khoáng sản

Cả tỉnh Ninh Bình có trên 12000 ha núi đá vôi với trữ lượng hàng chục tỷ m3 đá vôi, loại khoáng sản này mang lại cho Ninh Bình tiềm năng to lớn

về vật liệu xây dựng như sản xuất xi măng, đá xây dựng đặc biệt là việc sản

xuất và chế tác Đá mỹ nghệ đang rất phát triển.

Như vậy điều kiện tự nhiên có cả thuận lợi và khó khăn cho sự phát

triển làng nghề ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

+ Đặc điểm dân cư, dân số và lực lượng lao động

Tại thời điểm năm 2009 dân số huyện Hoa Lư là 103.900 người, trong

đó: nam có 52.957 người, nữ có 50.943 người. Mật độ dân số là 743 người/

km2. Dân ở Hoa Lư gần như đều là người Kinh (chỉ có một số rất ít, không

đáng kể là người dân tộc thiểu số do xây dựng gia đình với người Hoa Lư về

đây sinh sống). Số người theo đạo Công giáo khoảng 5.000 người, số người

theo đạo Phật khoảng 7.700 người, số dân sống ở thị trấn là 5.233 người, số

dân ở nông thôn là 98.667 người. Số lao động trong độ tuổi là 48.827 người.

Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế là 8.000 người. Số lao động

nông nghiệp khoảng 19.000 người, số lao động làm công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp – xây dựng khoảng 37.165.Số lao động làm du lịch, dịch vụ

khoảng trên 2.800 người.

Bảng2.1: Số liệu thống kê theo các đơn vị hành chính

thuộc huyện Hoa Lư năm 2009

STT Tên xã, thị trấn Dân số

Mật độ dân số ngƣời/ (km2)) Diện tích (km2) (ngƣời)

1 Thị trấn Thiên Tôn 2,19 4.350 1986

2 Xã Ninh Giang 6.47 6618 1023

3 Xã Trường Yên 21,40 11.650 544

4 Xã Ninh Khang 6,92 6884 995

5 Xã Ninh Mỹ 4,11 5397 1313

6 Xã Ninh Hòa 8,03 5508 686

7 Xã ninh Xuân 9,65 3561 369

8 Xã Ninh Hải 21,91 5147 235

9 Xã Ninh Thắng 4,10 3868 943

10 Xã Ninh Vân 12,63 10.097 799

11 Xã Ninh An 5,49 5662 1031

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hoa Lư)

+ Về kinh tế

Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII nhiệm kỳ

2010 – 2015 về phát triển kinh tế - xã hội, quân và dân toàn huyện đã tích

cực phấn đấu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đã giành được những kết quả tương đối toàn diện: Kinh tế

tiếp tục tăng trưởng cao; sản xuất nông nghiệp đạt năng xuất cao, huy động

nguồn lực cho đầu tư phát triển khá; cơ sở hạ tầng được đầu tư lớn; đồng bộ

có chiều sâu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các hoạt động

văn hóa xã hội có tiến bộ; đời sống nhân dân được cải thiện; an ninh, quốc

phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống chính

trị được củng cố.

* Cơ cấu và tăng trưởng kinh tế

Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế huyện Hoa Lư từ năm 1991 – 2010.

Cơ cấu kinh tế (%)

Năm

Công nghiệp, xây dựng,

Nông nghiệp

tiểu thủ công nghiệp

Dịch vụ, du lịch

(Tính theo giá trị sản lượng)

1991 64,13 20,87 15

1994 56,94 26 17,06

1999 46,69 35,01 18,3

2003 37 43,33 19,67

2004 40,57 38,48 20,95

2005 34,6 41,0 24,4

2006 25,8 36,9 37,3

2007 24 47 29

2010 6,1 76,2 17,7

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hoa Lư)

Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện Hoa Lư qua các năm

Năm Tốc độ TTKT Công nghiệp Nông nghiệp Dịch vụ

trung bình – Xây dựng (%) (%)

(%) (%)

12,8 2000 -2005 13,5 3,6 27,8

2005 - 2010 19,05 21,2 5,55 16

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hoa Lư)

Như vậy, trong thời gian qua kinh tế của huyện liên tục tăng trưởng

khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, dịch vụ, du lịch có bước phát triển mạnh: Chỉ tính riêng từ năm

2005 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 19,05 %.

Sản xuất nông nghiệp:

Nhân dân Hoa Lư chủ yếu làm nông nghiệp. Trước đây, người dân

trong huyện trồng lúa là chính với biện pháp canh tác thủ công, lạc hậu,

hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên nên năng xuất, hiệu quả rất thấp, không

đảm bảo được nhu cầu lương thực tối thiểu của nhân dân. Ngoài trồng lúa,

nhân dân địa phương còn trồng một số loại cây khác phục vụ cho đời sống

như: ngô, khoai lang, bông, đay… năng suất, hiệu quả cũng rất hạn chế.

Nhưng hiện nay, các cấp ủy, chính quyền đã lãnh đạo tạo sự chuyển đổi

mạnh mẽ về cơ cấu giống lúa, đã đưa nhiều giống lúa có năng suất, chất

lượng vào sản xuất, đồng thời chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, tích cực áp dụng

tiến bộ kỹ thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, dịch hại, quan tâm đầu tư về

thủy lợi, làm tốt công tác cung ứng vật tư nông nghiệp… nên năng suất, sản

lượng lúa ngày càng tăng.

Về trồng trọt: Địa phương đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu giống, cơ

cấu mùa vụ, bố trí hợp lý giữa các giống lúa, trà lúa, chuyển các giống lúa

cũ trước đây năng suất thấp, sang gieo cấy các giống lúa phù hợp với đồng

đất của huyện và có năng suất cao. Năm 2005 năng suất đạt 100,06 tạ/ha,

sản lượng đạt 32.805 tấn; năm 2009 năng suất đạt 123,90 tạ/ha, sản lượng

đạt 39.335 tấn. Việc sản xuất lúa cao sản được triển khai thực hiện có hiệu

quả, năm 2009 diện tích là 1000 ha, năng suất đạt 69,7 tạ/ ha, tăng hơn so

với bình quân là 11,3%; năm 2010 diện tích là 1000 ha, năng suất đạt 70

tạ/ha.

Sản xuất vụ đông được mở rộng về diện tích, đa dạng về loại cây. Tính

đến hết tháng 10 năm 2010 toàn huyện đã gieo trồng được 1.006 ha cây vụ

đông các loại, trong đó ngô là 77 ha, đậu tương là 865,5 ha. Tổng giá trị thu

nhập cây vụ đông của huyện trong năm 2009 là 18,9 tỷ đồng, bình quân đạt

16,7 triệu đồng/ha, tăng 1,9 triệu đồng/ha so với năm 2008.

Phát huy những kết quả đã đạt được, năm 2010, Hoa Lư tiếp tục tuyên

truyền đến người sản xuất về mục đích, ý nghĩa và vai trò của sản xuất vụ

đông, qua đó thực hiện mở rộng sản xuất, tập trung trên diện tích đất 2 lúa,

xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa, tăng diện tích những cây trồng có giá

trị kinh tế cao như ngô ngọt, ngô nếp...

Về chăn nuôi: Nhân dân trong huyện nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm

như trâu, bò, lợn, gà, dê, thỏ, vịt, ngan, ngỗng…Theo số liệu thống kê đến

năm 2010 toàn huyện có 463 con trâu; 1.677 con bò; 20.449 con lợn; 4.433

con dê; 283.469 con gia cầm các loại. Trong chăn nuôi đã chú ý đến việc cải

tạo đàn bò, mở rộng nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao, đưa vào chăn nuôi nhiều loại

gia súc, gia cầm cho hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, nhân dân còn nuôi

thả tôm càng xanh và nhiều loại cá khác nhau trên đồng đất của huyện. Năm

2008, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 764 tấn. Hiện nay trên địa bàn

huyện có khoảng 160ha thùng đào, thùng đấu, ao hồ và diện tích cấy một vụ

lúa bấp bênh có thể chuyển sang nuôi trồng thủy sản để đạt hiệu quả kinh tế

cao hơn.

* Về sản xuất công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp

Thực hiện Nghị quyết số 03 – NQ/HU, ngày 21/12/2007 của huyện ủy,

các cấp, các ngành trong huyện đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh

nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là

đầu tư xây dựng nhà máy xi măng Duyên Hà, nhà máy xi măng Hệ Dưỡng

thuộc tập đoàn xi măng Đài Loan, triển khai xây dựng làng nghề chế tác Đá

mỹ nghệ Ninh Vân, thêu ren Ninh Hải, khuyến khích phát triển các ngành

nghề truyền thống và một số nghề mới. Các ngành nghề sản xuất vật liệu

xây dựng, Đá mỹ nghệ, thêu ren, cốt chăn bông ngày một phát triển, chất

lượng sản phẩm được nâng lên và đứng vững trên thị trường. Giá trị xuất

khẩu năm 2009 là 8 triệu 578 nghìn USD, đạt 114,3 %. Giá trị sản xuất công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 404 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 1.218 tỷ

đồng năm 2010, tăng bình quân 9% so với bình quân 5 năm trước.

* Về thương mại dịch vụ

Trên địa bàn huyện, hệ thống chợ được hình thành khá sớm. Đến nay,

hầu như các xã, thị trấn trong huyện đều có chợ với quy mô và hình thức biểu

hiện khác nhau. Trong số các chợ của Hoa Lư, đáng chú ý hơn cả là chợ Rền

(chợ Trường Yên) ở xã Trường Yên, chợ Thành Mỹ (nay là chợ Ninh Mỹ) ở

xã Ninh Mỹ, chợ Yên ở xã Ninh An, chợ Văn Lâm ở xã Ninh Hải…; đây là

những chợ hình thành sớm, có quy mô hơn so với các chợ khác.

Chợ Rền ở xã Trường Yên, theo các cụ truyền lại có từ thời Đinh (Thế

kỷ X), duy trì hoạt động qua nhiều thời gian khác nhau (kể cả trong thời

gian chiến tranh ác liệt), cho đến ngày nay. Có những chợ, như chợ Ninh

Mỹ, do điều kiện chiến tranh phải thay đổi địa điểm họp chợ rất nhiều lần

nhưng chợ vẫn tồn tại, duy trì được hoạt động và ngày càng phát triển. Các

chợ của Hoa Lư họp hàng ngày, thường họp buổi sáng (riêng chợ Trường

Yên họp cả ngày). Trước đây, các sản phẩm, hàng hóa trao đổi, mua bán ở

các chợ trên địa bàn huyện chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp tươi sống

chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế (như lúa, gạo, ngô, khoai, lợn, gà,

cua, cá, tôm, một số loại hoa quả…). Bên cạnh đó, còn một số mặt hàng

bánh trái chế biến từ gạo, sắn, ngô, khoai, một số loại hàng ăn, một vài hàng

xén và hàng thợ rèn…nhỏ bé, đơn giản, phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời

sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân địa phương. Dần dần, theo sự phát

triển của xã hội và cho tới ngày nay, các sản phẩm, hàng hóa trao đổi, mua

bán ở các chợ trên địa bản huyện ngày càng đa dạng, phong phú về số

lượng, chủng loại, mẫu mã; ngoài các sản phẩm, hàng hóa nông nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp còn có các sản phẩm, hàng hóa công nghiệp, nhiều sản

phẩm, hàng hóa đắt tiền được bày bán ở chợ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng

và ngày càng cao của nhân dân trong huyện.

Cùng với hoạt động ngày càng sôi nổi của hệ thống chợ, các hoạt động

thương mại, dịch vụ trên địa bàn huyện cũng có bước phát triển mới và ngày

càng sôi động. Nhiều hàng hóa vật dụng trước đây người dân phải đi xa trên

thị xã, thành phố mới mua được, thì nay họ đã có thể mua tại địa phương

mình. Trên địa bàn huyện có nhiều loại hình dịch vụ khác nhau (dịch vụ vận

tải, dịch vụ vật tư nông nghiệp, dịch vụ thông tin liên lạc, dịch vụ ăn uống,

dịch vụ du lịch, dịch vụ giải trí, dịch vụ khám - chữa bệnh, v v.); các dịch

vụ này đã thiết thực góp phần phục vụ lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt,

công tác, học tập của nhân dân trong huyện và đáp ứng một phần nhu cầu

của những người từ nơi khác đến, trong đó có cả khách nước ngoài.

+ Về văn hóa – xã hội

Hoa Lư là mảnh đất giàu tiềm năng và có bề dày về truyền thống lịch

sử, văn hóa. Với ý nghĩa là cố đô của Việt Nam, kinh đô của nước Đại Cồ

Việt – nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên của nước ta, Hoa Lư từng là

nơi hội tụ văn hóa của dân tộc Việt Nam.

- Văn hóa ẩm thực. Là địa bàn có đồng chiêm trũng, núi đá nên về ẩm

thực, Hoa Lư có một số món ăn truyền thống được chế biến từ tôm, cua, ốc, cá

và đặc biệt là thịt dê. Thịt dê chính là món đặc sản của địa phương Hoa Lư.

- Di tích và danh thắng. Hoa Lư có hơn 3000 ha núi đá. Vùng núi đá

đã tạo ra nhiều hang động rất đẹp, tiêu biểu như động Thiên Tôn ở thị trấn

Thiên Tôn; khu hang động Tràng An ở xã Trường Yên, Tam Cốc – Bích

Động ở xã Ninh Hải, động Bàn Long, hang Múa ở xã Ninh Xuân..v..v. Cùng

hàng trăm ngôi đền, chùa, danh thắng khác, trong đó có nhiều kiến trúc độc

đáo như đền Vua Đinh, đền Vua Lê ở xã Trường Yên, chùa Bích Động và

đền Thái Vi ở xã Ninh Hải.

Có thể nói, Hoa Lư là địa phương có một quần thể di tích lịch sử - văn

hóa, danh lam, thắng cảnh nổi tiếng. Đến nay đã có nhiều di tích trên địa bàn

huyện được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Tôn giáo, tín ngưỡng. Cũng như ở các nơi khác trong tỉnh và trong cả

nước, nhân Hoa Lư có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người đã khuất, người có

công với dân, với nước. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện có hai tôn giáo chính

là Đạo Phật và Đạo Thiên chúa. Hiện nay, ở 11 xã, thị trấn của huyện đều có

chùa, trong đó: Trường Yên có 9 chùa, Ninh Hòa có 4 chùa, thị trấn Thiên

Tôn có 1 chùa, Ninh Giang có 3 chùa, Ninh Khang có 3 chùa, Ninh Xuân có

5 chùa, Ninh An có 3 chùa, Ninh Vân có 9 chùa, Ninh Thắng có 3 chùa, Ninh

Hải có 6 chùa. Hiện nay, ở huyện Hoa Lư có 4 nhà thờ Công giáo.

- Giáo dục. Hoa Lư là địa phương có truyền thống hiếu học, tôn sư

trọng đạo và là một trong những đơn vị đi đầu trong phong trào phổ cập giáo

dục tiểu học và xóa mù chữ, phổ cập trung học cơ sở, xây dựng trường đạt

chuẩn quốc gia của tỉnh Hà Nam Ninh trước đây và của tỉnh Ninh Bình hiện

nay. Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ năm

1990; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 1997; hoàn thành

phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 1999. Tất cả các xã, thị trấn

trong huyện đều có trường đạt chuẩn quốc gia. Đến nay, trên địa bàn huyện

có 1 trường trung học phổ thông, 1 trường trung học dân lập, 1 trung tâm

giáo dục thường xuyên, 11 trường trung học cơ sở, 11 trường tiểu học, 11

trường mầm non. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học ngày càng được củng cố,

tăng cường. Từ huyện đến cơ sở đều có hội khuyến học; 100% số xã đều có

trung tâm học tập cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người tham gia

học tập, nâng cao hiểu biết và trình độ, tiến tới xây dựng một xã hội học tập.

- Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Năm 1993, cả huyện chỉ có 3

nhà hộ sinh là Phúc Am, Đa Giá, Yên Phong thì nay toàn huyện đã có 1 bệnh

viện, 1 phòng khám đa khoa khu vực và tất cả các xã trong huyện đều có trạm

y tế. Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho việc khám, chữa bệnh từ huyện đến

cơ sở từng bước được củng cố, tăng cường. Ngoài bệnh viện huyện, phòng

khám đa khoa khu vực, các trạm xá xã, ở huyện Hoa Lư còn tổ chức hội đông

y và cơ sở khám, chữa bệnh theo phương pháp y học cổ truyền.

+ Cơ sở hạ tầng.

Khi cơ sở hạ tầng được đảm bảo, những chi phí của doanh nghiệp, những

hộ sản xuất kinh doanh sẽ giảm được chi phí. Khi đó nguồn lực đầu tư cho tăng

trưởng sẽ cao hơn. Do vậy, trong những năm vừa qua cơ sở hạ tầng của huyện

Hoa Lư đang được các cấp, các ngành quan tâm cải tạo ngày một tốt hơn, góp

phần đáng kể vào thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển.

- Về giao thông.

Huyện hoa Lư nằm ở vị trí chiến lược của tỉnh Ninh Bình, là một trong

những đầu mối giao thông giữa miền Bắc và miền Trung, giữa đồng bằng

châu thổ sông Hồng với vùng núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Hoa Lư nằm

trên hai đường giao thông thủy, bộ quan trong của đất nước và của địa

phương theo nhiều hướng. Về đường bộ có Quốc lộ 1A chạy qua xã Ninh

Giang, thị trấn Thiên Tôn, xã Ninh Mỹ và xã Ninh An; đường 12C chạy qua

thị trấn Thiên Tôn, xã Ninh Hòa, xã Trường Yên đi lên rịa (thuộc huyện

Nho Quan). Hiện nay, đường giao thông từ huyện đến xã, từ xã đến các thôn,

xóm hầu hết được trải nhựa đã tạo điều kiện thuận lợi cho ô tô các loại có thể

đi đến tất cả các xã, thị trấn trong huyện một cách dễ dàng. Bên cạnh đường

Quốc lộ 1A là đường sắt Bắc – Nam đi qua địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa

Lư. Về đường thủy, Hoa Lư có nhiều con sông chạy qua, đây là điều kiện

thuận lợi cho hoạt động giao thông đường thủy ở Hoa Lư và khu vực.

- Về thủy lợi và hệ thống đê điều

Trên địa bàn huyện có Công ty Khai thác thủy lợi Hoa Lư (tiền thân là

Trạm thủy nông – thành lập năm 1973), đến ngày 1 -1 – 2007 chuyển thành

Đội Khai thác công trình thủy lợi Hoa Lư, đang quản lý một hệ thống cơ sở

vật chất, trang thiết bị lớn phục vụ nhiệm vụ tưới tiêu, bao gồm:

- 27 trạm bơm điện với 119 máy bơm, tổng công suất là 203.600 m3/ h

- Công trình dưới đê với 16 cống và âu thuyền sông Chanh

- Kênh cấp 1 gồm: kênh tưới 45,6 km, kênh tiêu 56,9 km.

Nhiệm vụ chính của Đội Khai thác công trình thủy lợi Hoa Lư là khai

thác công trình thủy lợi trên địa bàn phục vụ tưới tiêu nước cho sản xuất

nông nghiệp của huyện Hoa Lư và 8 xã, phường của thành phố Ninh Bình.

Trên địa bàn huyện Hoa Lư có các tuyến đê chính như: đê hữu sông

Hoàng Long (còn gọi là đê Trường Yên); đê hữu sông Đáy. Hiện nay, các

tuyến đê sông lớn thuộc địa bàn huyện Hoa Lư đã được củng cố vững chắc

và thường xuyên được chính quyền các cấp quan tâm tu bổ, bảo đảm tốt

nhiệm vụ thiết kế của công trình. Ngoài các tuyến đê chính còn có các đê

sông nhỏ như: đê sông Chanh, đê sông Hang Luồn, đê sông bến Đang, đê

hữu sông Vạc, đê tả sông Vó…

Nhìn chung, hệ thống đê điều trên địa bàn huyện Hoa Lư được quan

tâm tu bổ thường xuyên, kênh mương đang từng bước được kiên cố hóa, cơ

sở vật chất, thiết bị phục vụ cho công tác tưới tiêu ngày càng được củng cố,

tăng cường, qua đó góp phần tích cực vào việc tưới tiêu, phòng chống lụt

bão, bảo vệ mùa màng, cơ sở hạ tầng, đời sống dân sinh ở địa phương.

- Về hiện trạng nguồn lưới điện

Hoa Lư là một huyện có 1/3 số xã là xã miền núi. Kể từ khi thực hiện

bàn giao lưới điện hạ thế cho ngành điện quản lý, Công ty Điện lực Ninh

Bình đã từng bước đầu tư, nâng cấp, cải tạo lưới điện hạ áp nông thôn và kết

quả mang lại rất khả quan. Năm 2008, công ty đã đầu tư 21 hạng mục công

trình đường dây, công tơ điện, hộp điện… với tổng mức đầu tư là 3,4 tỷ

đồng. Năm 2009, công ty tiếp tục đầu tư thêm 26 hạng mục với mức đầu tư

là 3,6 tỷ đồng. Hiện nay nguồn lưới điện của huyện đã ổn định, đảm bảo cho

sản xuất và sinh hoạt của người dân.

+ Các doanh nghiệp trên địa bàn

Cách đây mấy chục năm cho tới ngày nay, trên địa bàn huyện đã và

đang có nhiều doanh nghiệp của Nhà nước, của tỉnh, của huyện hoạt động

như:

Ở xã Trường Yên có: Xí nghiệp Ngói, Xí nghiệp Gạch sông Chanh,

Công ty Đá Trường Yên.

Ở xã Ninh Hòa có: Xí nghiệp Cơ khí Gia Khánh, Xí nghiệp Thêu thảm.

Ở thị trấn Thiên Tôn có: Đội máy kéo Gia Khánh, Xí nghiệp may Vạn

Xuân và khách sạn Vạn Xuân.

Ở xã Ninh Xuân có : Xí nghiệp Xi măng Ninh Xuân, Xí nghiệp Vôi

Ninh Xuân.

Ở xã Ninh An có: Công ty Phân lân Ninh Bình, Xí nghiệp H42.

Ở xã Ninh Vân có: Xí nghiệp Đá Hệ Dưỡng, Công ty Xi măng Hệ

Dưỡng, Nhà máy Xi măng Duyên Hà.

Ở xã Ninh Hải có: Công ty du lịch Ninh Bình, Công ty cổ phần Du lịch

Tam Cốc – Bích Động.

Đến năm 2008, trên địa bàn huyện Hoa Lư có 125 doanh nghiệp đang

hoạt động. Trong đó, có 2 doanh nghiệp Nhà nước, 121 doanh nghiệp ngoài

quốc doanh và 2 doanh nghiệp khu vực đầu tư nước ngoài.

Nhìn chung, các loại hình doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng khắc phục

mọi khó khăn trong cơ chế thị trường: Giá cả thị trường luôn biến động

nhưng các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vốn để mua sắm máy móc,

thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới công cụ lao động, củng cố mối quan

hệ tốt với khách hàng nên đã ký kết được nhiều hợp đồng kinh tế khá lớn có

giá trị kinh tế và kim ngạch xuất khẩu cao.

Các doanh nghiệp khác tuy bị chao đảo vì thị trường, lao động và vật tư

không ổn định, song đã khắc phục mọi khó khăn giữ vững được nguồn hàng,

ngành hàng phục vụ tốt các công trình kinh tế xã hội, đồng thời thực hiện tốt

các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tổng số có 83/ 125 các loại hình doanh nghiệp

hiện nay đang sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chấp hành tương đối tốt Luật

Doanh nghiệp và chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh đó vẫn còn một số doanh nghiệp tuy thành lập đã khá lâu

song chưa có trụ sở, chưa xác định được phương hướng sản xuất hoặc nợ

đọng vốn Nhà nước phải ngưng hoạt động kinh doanh. Một số doanh nghiệp

đăng ký trụ sở làm việc tại huyện Hoa Lư, song lại thường xuyên đi hoạt

động kinh doanh ở các tỉnh rất xa nên rất khó cho công tác quản lý theo dõi

của cơ quan Nhà nước.

Với diện tích núi đá vôi lớn (hơn 3.000 ha) và nhiều hang động đẹp,

nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, Hoa Lư là địa phương

có tiềm năng thế mạnh về phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,

phát triển du lịch và nghề chế tác Đá mỹ nghệ.

2.2. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở

HUYỆN HOA LƢ TỈNH NINH BÌNH

Ngoài trồng trọt và chăn nuôi, trong huyện còn có nhiều ngành nghề,

dịch vụ khác nhau. Các ngành nghề rất đa dạng, phong phú; nhiều ngành

nghề đã xuất hiện từ lâu ở địa phương, trong đó có một số ngành nghề

truyền thống nổi tiếng đến nay vẫn còn tồn tại và phát triển như nghề Đá mỹ

nghệ, nghề thêu ren. Theo thống kê, các ngành nghề đã có ở Hoa Lư như

sau: nghề khai thác, chủ yếu là khai thác đá; các ngành nghề sản xuất, chế

biến như sản xuất vật liệu xây dựng (làm gạch, ngói đất nung, gạch, ngói

không nung, đối vôi củ, vôi nghiền), chế biến lâm sản (xẻ gỗ, làm đồ mộc),

khâu – may – dệt (thêu ren, dệt thảm đay, thảm len, khâu cố chăn bông, may

mặc), sản xuất chế tác Đá mỹ nghệ, rèn đúc công cụ và đồ dùng bằng kim

loại (đồng, sắt, nhôm), nghề trồng dâu, nuôi tăm, kéo kèn, ngành nghề sản

xuất đồ dùng thông thường phục vụ đời sống (mây, tre đan, dệt chiếu cói,

khâu nón), xay xát gạo, nghiền bột, chế biến lương thực, thực phẩm (nấu

rượu, làm bánh, bún từ gạo,ngô, khoai, sắn…), nghề dịch vụ, lao vụ (thợ nề,

thợ mộc, vận tải thủy - bộ, chở đò du lịch), một số ngành nghề khác như sửa

chữa xe máy, xe đạp, kính khóa…

- Nghề khai thác đá ở Hoa Lư có từ trước Cách mạng tháng 8/ 1945 do

nhu cầu xây dựng nhà ở như xây móng nhà, tường nhà….

- Nghề chế tác Đá mỹ nghệ. Đây là một trong hai nghề thủ công truyền

thống nổi tiếng ở Hoa Lư (nghề Đá mỹ nghệ và nghề thêu ren), nghề này có

từ rất sớm, từ thời Hậu Lê đến nay vẫn còn tồn tại và phát triển mạnh mẽ.

- Nghề thêu ren là nghề truyền thống nổi tiếng khác ở Hoa Lư. Nghề

này xuất hiện ở Văn Lâm từ lâu, từ thời Trần. Trải qua những bước thăng

trầm, đến nay nghề thêu ở Văn Lâm đã khẳng định được vị trí của mình và

ngày càng phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhiều người

nhiều gia đình.

- Nghề nung, đốt gạch, ngói đất ở huyện có vào khoảng từ năm 1950

trở lại đây, nghề này phát triển mạnh và phục vụ nhu cầu về vật liệu xây

dựng từ năm 1958 trở đi.

- Nghề xẻ gỗ, đóng đồ mộc đã có ở huyện từ lâu. Hiện nay, nghề này

vẫn đang tồn tại và phát triển ở một số nơi trong huyện như Ninh Mỹ, thị

trấn Thiên Tôn, Ninh Giang.

- Nghề làm cốt chăn bông có từ cách đây 80 – 100 năm ở xã Ninh Mỹ -

Hoa Lư, hiện nay nghề này vẫn còn tồn tại ở xã Ninh Mỹ.

- Nghề dệt vải đến nay chỉ còn tồn tại ở xã Ninh Khang, tại hai thôn

Bạch Cừ và Đại Phú có trên 30 hộ gia đình làm nghề này.

- Nghề dệt thảm đay, thảm len, nghề dệt chiếu cói có ở khắp các xã

trong huyện và các nghề tiểu thủ công nghiệp khác như đan tre, đan mây,

khâu nón đã có từ lâu ở địa phương.

- Nghề rèn sản xuất đồ dùng bằng kim loại, nghề chế biến lương thực như

làm bún, làm bánh gai và còn nhiều nghề nằm rải rác ở các nơi trong huyện.

Trong những năm gần đây, nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống ở

huyện Hoa Lư đã được khôi phục và phát triển mạnh ở tất cả các xã trong

huyện. Căn cứ quy định về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét công nhận làng

nghề tỉnh Ninh Bình (ban hành kèm theo quyết định số 1329/ 2005/ QĐ –

UB, ngày 4/ 7/ 2005 của UBND tỉnh Ninh Bình) từ năm 2006 – 2009 huyện

Hoa Lư được UBND tỉnh Ninh Bình cấp bằng công nhận danh hiệu cho 30

làng nghề, đây là huyện có số làng nghề nhiều nhất trong tỉnh

Bảng 2.4: Số lượng làng nghề, cụm làng nghề tại Ninh Bình

STT Tên huyện, thị Tổng số xã, Tổng số Xã có Xã có cụm

xã, thành phố thị trấn làng nghề làng nghề ngành nghề

1 Thành phố 1 1 2

Ninh Bình

2 Thị xã Tam

Điệp

3 Kim Sơn 27 20 6 4

4 Hoa Lƣ 11 30 10 3

5 Yên Khánh 20 5 5 3

6 Yên Mô 17 2 2 2

7 Gia Viễn 17 4 4 1

8 Nho Quan 26 4 3 2

(Nguồn: Sở Công thương Ninh Bình)

Từ bảng trên cho thấy, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, Hoa Lư là huyện

có điều kiện thuận lợi cho định hướng phát triển làng nghề, đó là thế mạnh

của huyện Hoa Lư để hội nhập với các vùng khác trên địa bàn tỉnh cũng như

cả nước.

Số lượng các làng nghề ở huyện Hoa Lư hiện nay rất phong phú và đa

dạng trọng tâm tập trung vào chế tác Đá mỹ nghệ và hàng thêu ren. Những

xã có làng nghề phát triển mạnh đạt giá trị sản xuất lớn trong tổng giá trị sản

xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện là xã Ninh Vân (nghề chế

tác đá), xã Ninh Hải (nghề thêu ren).

Bảng2.5: Số lượng cơ cấu làng nghề huyện Hoa Lư

chia theo đơn vị hành chính

Số làng nghề

Tổng Xã Đá mỹ Thêu Nghề Làm cốt Xây Làm

số nghệ ren mộc chăn Dệt Bún đá

Trường Yên 2 1 1

Ninh Hòa 1 1

Ninh Giang 1 1

Ninh Mỹ 1 1

Ninh Thắng 3 1 1 1

Ninh Hải 5 5

Ninh Vân 13 13

Ninh Xuân 1 1

Ninh Mỹ 2 1 1

Ninh An 1 1

Tổng số 2 2 30 13 6 3 3 1

(Nguồn: Phòng Công thương huyện Hoa Lư)

Như vậy, toàn huyện hiện nay có khoảng 30 làng nghề trong đó có 11

làng nghề được công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề thủ công

đã tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng trăm ngàn lao động nông nhàn, góp

phần xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.

Trải qua nhiều bước thăng trầm, phụ thuộc vào nhu cầu thị trường, vào công

tác xúc tiến thương mại, hoạt động của các làng nghề lúc được thăng hoa có

lúc lại gần như mai một. Những năm 90, khi nghị định thư về hàng thủ công

mỹ nghệ ở Việt Nam không được ký kết, nghề Đá mỹ nghệ, nghề thêu ren

gần như điêu đứng không phát triển được. Trong 10 năm trở lại đây, nhờ có

các sản phẩm độc đáo với những mặt hàng mỹ nghệ mà nghề tiểu thủ công

nghiệp ở huyện được phát triển rộng khắp trong cả nước. Hiện nay mặt hàng

thêu ren và sản xuất đá lát là nhóm hàng chủ lực chiếm tỷ trọng cao trong

tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tỉnh Ninh Bình.

Nghề truyền thống ở Ninh Vân, đang phát triển rất sôi động, hơn 70

doanh nghiệp lớn nhỏ khai thác đá và tổ chức tập hợp các nghệ nhân để kinh

doanh sản phẩm từ đá. Tuy nhiên, cùng với sự nhộn nhịp của làng nghề là bụi

đá, ô nhiễm môi trường, công tác bảo hộ cho các nghệ nhân chưa đảm bảo,

người lao động trực tiếp chưa được các doanh nghiệp quan tâm. Hiện nay, các

cấp lãnh đạo của huyện Hoa Lư và tỉnh Ninh Bình đã phối hợp thực hiện quy

hoạch, đầu tư kinh phí, phê duyệt các dự án để giải quyết các vấn đề trên.

2.3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ,

TỈNH NINH BÌNH.

2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển các làng nghề huyện Hoa

Lƣ.

Ở huyện Hoa Lư các ngành nghề rất đa dạng, phong phú; nhiều ngành

nghề đã xuất hiện từ lâu ở địa phương, trong đó có một số ngành nghề

truyền thống nổi tiếng đến nay vẫn còn tồn tại và phát triển như nghề Đá mỹ

nghệ, nghề thêu ren. Riêng nghề chế tác Đá mỹ nghệ đã có 400 năm nay.

Căn cứ vào những di tích lịch sử, sắc phong của các triều đại còn lưu lại ở

các Đinh, Đền, Miếu, Phủ tại các làng, căn cứ vào các chữ ghi trên bia đá ở

địa bàn xã Ninh Vân vào khoảng thế kỷ XVI, thời hậu Lê ở xã đã có nghề

trạm khắc đá. Những người thợ nơi đây đã để lại những tác phẩm bằng đá từ

đơn sơ đến tinh sảo, mang đậm tính nhân văn thuần việt là các đồ tế bằng đá

ở các vùng kinh đô Hoa Lư, vùng Nam Thiên Đệ Nhất Động, quần thể Phủ

Dầy, động Hương Tích, lăng vua Tự Đức ở Huế, lăng Tú Xương ở Nam

Định và nhà thờ đá Phát Diệm.

Những năm 1960 trở về trước thợ đá làng chỉ đóng đục những sản

phẩm đơn sơ như cối xay ngô, cối giò, tảng bồng, đá lăn, họ phải đi tới

nhưng vùng cao như Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lai Châu để chế

tác đá.

Đến thập kỷ 70 tổ hợp đầu tiên của người thợ đá là Hợp tác xã Thạch

Sơn của xã Ninh Vân được UBND tỉnh thành lập. Người có công xây dựng

hợp tác là hai ông chủ nhiệm Lương Văn Tự và ông Vũ Huy Phương. Hai

ông đã đi liên hệ nhiều nơi để tìm việc làm cho những người thợ đá trong

Hợp tác xã. Đến năm 1974, HTX Thạch Sơn vinh dự có 7 người thợ giỏi ra

Hà Nội tham gia xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nghề đá cũng có nhiều giai đoạn

gian truân, song với tinh thần cần cù, bền bỉ của người thợ đá, HTX Thạch Sơn

vẫn hoạt động và phát triển, tay nghề của những người thợ được nâng cao.

Thập kỷ 90, đất nước ngày một phát triển và trên đà đổi mới, nghề chế

tác Đá mỹ nghệ mới thực sự được coi trọng. Được sự quan tâm của Nhà

nước, người thợ đá nắm bắt được cơ chế đã mở rộng, phát triển các mặt

hàng chế tác đá. Họ tạo ra các sản phẩm vô cùng phong phú nằm ở khắp các

khu di tích, danh lam thắng cảnh của quốc gia, một số sản phẩm vươn ra

ngoài phạm vi quốc gia như tượng đài ở Lào, Campuchia…

Có thể nói, những năm qua nghề chế tác đá đã phát triển mạnh mẽ hơn

bao giờ hết. Nhờ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

người thợ đã phát huy hết tiềm lực và tài năng sáng tạo để phát triển nghề

một cách đa dạng, phong phú, góp phần giải quyết việc làm, cải thiện đời

sống cho những người dân.

2.3.2. Các chính sách phát triển làng nghề.

Cơ chế và chính sách có những tác động to lớn, có ý nghĩa quyết định

đối với sự tồn tại và phát triển của làng nghề nói chung và làng nghề ở Hoa

Lư nói riêng. Trong thời gian bao cấp có nhiều làng nghề không thể phát

triển được. Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với những chính sách kinh tế mới

của Đảng và Nhà nước đã mở ra con đường phát triển mới cho các làng

nghề.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thực hiện sự nghiệp

đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đây là động lực

thúc đẩy các làng nghề phục hồi và phát triển.

- Nghị Định 29/NĐ-HĐBT (tháng 3/1988) về chính sách đổi mới kinh

tế gia đình. Nghị Quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4/1988) xác định vị trí,

vai trò của kinh tế hộ gia đình. Nghị Quyết số 16/NQ-HĐBT (tháng 8/1988)

của Hội đồng bộ trưởng về chính sách đổi mới kinh tế ngoài quốc doanh.

Ngày 24/11/2000 Thủ tướng chính phủ có quyết định số 132/2000/QĐ-TTg

về một số chính sách khuyến khích phát triển nông thôn. Nghị Định số

66/2006/NĐ-CP, ngày 07/7/2006 Chính phủ ra nghị định về phát triển ngành

nghề nông thôn.

Đặc biệt NQTW5 (khoá IX) về phát triển kinh tế thị trường, kinh tế tư

nhân và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn;

NQTW7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã mở ra một giai

đoạn mới cho sự phát triển của các làng nghề.

Cùng với cơ chế và chính sách chung của Nhà nước; Tỉnh uỷ, HĐND,

UBND tỉnh Ninh Bình; Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Hoa Lư có nhiều

kế hoạch, chương trình và đề án khuyên khích các làng nghề phát triển như:

- Quyết Định 2472/QĐ-UB, ngày 28/11/2003 của UBND tỉnh Ninh

Bình về phê duyệt quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn

tỉnh đến năm 2010. Ngày 8/8/2006 Tỉnh uỷ Ninh Bình có Nghị Quyết số 04-

NQ/TU về đẩy mạnh phát triển trồng, chế biến cói; thêu ren và chế tác Đá

mỹ nghệ giai đoạn 2006 - 2010. UBND tỉnh có Kế hoạch số 18 về đẩy mạnh

phát triển trồng, chế biến cói, thêu ren và chế tác Đá mỹ nghệ giai đoạn

2006 - 2010. Nghị quyết số 14- NQ/ TU của UBND tỉnh Ninh Bình nhằm

thúc đẩy xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên toàn

tỉnh, đặc biệt là hỗ trợ kế hoạch phát triển thương mại điện tử của tỉnh Ninh

Bình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tiểu thủ

công nghiệp nói riêng phát triển việc buôn bán hàng hóa, đặc biệt là hàng

xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn được vay vốn hỗ trợ với mức lãi

suất thấp cũng như tham gia những chương trình xúc tiến thương mại của

tỉnh nên không những duy trì sự phát triển của doanh nghiệp mình mà còn

hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển chung của các doanh nghiệp.

Nghị quyết số 13/ NQ – HU ngày 12/4/2004 của Ban chấp hành Đảng

bộ huyện về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nghị

quyết số 12/ NQ – HU ngày 27/6/2008 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện

về đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng

nghề đến năm 2010, định hướng đến năm 2015. Quyết định số 415/ QĐ –

UB ngày 10/3/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình phê duyệt quy

hoạch chi tiết xây dựng giai đoạn đầu khuôn viên làng nghề Đá mỹ nghệ xã

Ninh Vân. UBND xã Ninh Vân có đề án số 29/ĐA – UBND ngày 28/4/2008

về việc giáo đất sản xuất có thời hạn 50 năm làng nghề chế tác Đá mỹ nghệ

Ninh Vân.

Thực hiện nghị quyết, chương trình hoạt động, kế hoạch của Trung

ương, của tỉnh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Xác định phát triển tiểu thủ công

nghiệp đặc biệt là làng nghề chế tác Đá mỹ nghệ được xem là một trong

những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh.

Nhìn chung, cơ chế chính sách của tỉnh, huyện đã tạo điều kiện thuận

lợi để thúc đẩy làng nghề phát triển song việc thực hiện các chính sách về

mặt bằng sản xuất, nguồn vốn vay tín dụng (thủ tục, hạn mức cho vay thấp,

yêu cầu phải có tài sản thế chấp…) cũng là các hạn chế để các làng nghề

phải khắc phục.

2.3.3. Thực trạng các điều kiện phát triển làng nghề huyện Hoa Lƣ

* Về lực lượng lao động.

Dân số huyện Hoa Lư là 103.900 người, trong đó: nam có 52.957

người, nữ có 50.943 người. Tại các làng nghề Đá mỹ nghệ trong huyện số

lao động tham gia sản xuất Đá mỹ nghệ - chiếm 93% lao động của làng

nghề, số còn lại làm nghề thêu ren, buôn bán kinh doanh dịch vụ khác. Do

đặc thù của nghề chế tác đá nên số nam giới tham gia sản xuất cao gấp 3 lần

nữ giới. Lực lượng lao động luôn được đào tạo, được bổ xung nâng cao tay

nghề để đáp ứng các hợp đồng đã ký kết. Trong giai đoạn 2005 – 2009 các

làng nghề Đá mỹ nghệ đã mở được trên 50 lớp với 3000 lượt lao động được

đào tạo và nâng cao tay nghề. Tuy nhiên, số lao động qua đào tạo mới chỉ

chiếm 30% số lao động tham gia chế tác đá. Đa phần số lao động tham gia

làm nghề được truyền thụ lại kỹ thuật của những thế hệ đàn anh đi trước

(truyền nghề) chiếm tới 80%.

Theo số liệu “ Lao động tham gia làm nghề Đá mỹ nghệ ở huyện Hoa

Lư giai đoạn 2005 – 2009” cho thấy, số lượng lao động tham gia vào các

làng nghề có xu hướng tăng lên. Ngoài lao động thường xuyên làm việc tại

làng nghề còn bổ sung một số lượng lớn các lao động thời kỳ nông nhàn,

góp phần đáng kể để giải quyết vấn đề việc làm cho nhân dân. Cụ thể: số lao

động thường xuyên của xã khoảng 6000 người, số lao động mùa vụ khoảng

4000 người. Hàng năm Trung ương và địa phương vẫn dành kinh phí để đào

tạo nghề, song vốn ít, thời gian đào tạo ngắn là nguyên nhân chính làm cho

chất lượng đào tạo chưa thực sự hiệu quả. Khoảng thời gian 1 -2 tháng (đối

với đào tạo nghề mới) và 10 – 15 ngày (đối với nâng cao tay nghề). Trên

thực tế chỉ mang tính chất giới thiệu nhưng chưa chuyên sâu. Vì vậy chất

lượng lao động còn thấp, số thợ làng nghề có kinh nghiệm chưa cao.

Bảng 2.6: Lao động tham gia làm nghề Đá mỹ nghệ ở huyện Hoa Lư

Đơn vị tính: Người.

2005 2006 2007 2008 2009

Lao động thường xuyên 2.965 3.875 4.956 5.050 6.000

Lao động nông nhàn 1.450 2.500 3.350 3.560 4.000

Tổng số 4.415 6.375 8.306 8.610 10.000

(Nguồn: Phòng công thương huyện Hoa Lư)

Trong thời gian tới, do quá trình đô thị hóa và việc áp dụng những

thành tựu về Khoa học – công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp ngày

càng trở nên phổ biến hơn thì lực lượng lao động dư thừa từ nông nghiệp sẽ

tăng lên. Vì vậy, việc đào tạo nghề tại các làng nghề để thu hút lao động vào

làng nghề là hết sức cần thiết để giải quyết áp lực về việc làm cho xã hội.

Đây chính là nguồn lực quan trọng để phát triển, hiện đại hóa làng nghề.

* Về nguồn vốn sản xuất kinh doanh tại các làng nghề

Vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho các làng nghề hoạt động trong

cơ chế thị trường. Vốn cho nhu cầu đầu tư trang thiết bị, mặt bằng sản xuất,

máy móc, mua vật liệu … phục vụ sản xuất ngày càng lớn. Đặc biệt, đối với

hàng Đá mỹ nghệ muốn sản xuất được cần một số vốn khá lớn. Theo điều

tra thực tế hiện nay một trong những vấn đề khó khăn hàng đầu của doanh

nghiệp là vốn sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải tự xoay sở nguồn

vốn bằng nhiều nguồn khác nhau.

Bảng 2.7: Nguồn vốn sản xuất tại các làng nghề huyện Hoa Lư năm

2010

Đơn vị tính: Triệu đồng

Nguồn vốn Loại vốn

Làng nghề Tổng số Vốn tự có Vốn vay Vốn cố Vốn lưu

vốn định động

Xuân Thành 15.533 4.660 10.873 10.097 5.436

Xuân phúc 20.220 6.066 14.154 13.143 7.077

Dưỡng Thượng 4.880 1.464 3.416 3.172 1.708

Dưỡng Hạ 3.283 985 2.298 2.134 1.149

Hệ 10.614 3.184 7.430 6.899 3.715

Phú Lăng 5.837 1.751 4.086 3.794 2.043

Trấn Lữ 12.550 3.765 8.785 8.157 4.392

Vũ Xá 9.581 2.874 6.707 6.228 3.353

Thượng 15.860 4.758 11.102 10.309 5.551

Vạn Lê 6.050 1.815 4.235 3.932 2.117

Đồng Quan 16.146 4.844 11.302 10.495 5.651

Tân Dưỡng 1 2.150 645 1.505 1.397 752

Tân Dưỡng 2 1.391 417 974 904 487

124.095 80.661 37.228 86.866 43.432

Tổng (Nguồn: Phòng tài chính - kế hoạch huyện Hoa Lư)

Qua bảng số liệu về “ Nguồn vốn sản xuất tại các làng nghề huyện Hoa

Lư” ta thấy nhu cầu về nguồn vốn cho phát triển làng nghề là rất lớn song

vốn thực tế của các làng nghề là không lớn lắm do quy mô bị phân tán.

Đồng thời vốn đầu tư cho tài sản cố định của các làng nghề chiếm từ 60 – 70

% trong tổng số vốn đầu tư, vốn lưu động chỉ chiếm 25 – 35 %. Làng nghề

Đá mỹ nghệ của huyện là làng nghề thủ công truyền thống đã được duy trì,

phát triển hàng trăm năm nay. Các sản phẩm rất đa dạng phong phú, từ

những con giống để thờ cúng, các đồ lưu niệm như tranh đá, tượng đá đến

những tác phẩm có giá trị nghệ thuật như các bức phù điêu, cổng tam quan,

tượng đài các nhân vật lịch sử… Tất cả đều do những người thợ đá Ninh

Vân tạc nên từ những bí quyết và đôi bàn tay khéo léo. Do đó, nguồn vốn

của các doanh nghiệp và các hộ gia đình là rất lớn, không chỉ để mua

nguyên vật liệu, thuê mặt bằng sản xuất mà còn để mua máy móc, trang thiết

bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, nhu cầu về vốn

cho sản xuất kinh doanh của các làng nghề tại xã Ninh Vân là rất lớn, công

nghệ sử dụng cũng đòi hỏi phải có sự đầu tư nên vấn đề khó khăn nhất đối

với các doanh nghiệp và các hộ gia đình hiện nay vẫn là nguồn vốn để đầu

tư mua máy móc thiết bị và mặt bằng sản xuất.

* Nguồn nguyên liệu cho làng nghề.

Nguồn nguyên liệu phục vụ cho hoạt động của các làng nghề trên địa

bàn huyện chủ yếu cung cấp từ nguyên liệu trong tỉnh, do lợi thế nguồn

nguyên sẵn có lại được khai thác tại chỗ. Tuy nhiên, do nguồn nguyên liệu

hiện nay của tỉnh được quy hoạch quá ít so với nhu cầu của làng nghề nên

các doanh nghiệp, hộ gia đình vẫn phải đi mua nguyên liệu ở ngoài tỉnh.

Hiện nay, ở các làng nghề Đá mỹ nghệ, sản lượng đá ở Hoa Lư chỉ đáp ứng

được 30 – 40 % tổng số nguyên liệu cần dùng cho sản xuất Đá mỹ nghệ. Vì

vậy, các làng nghề, cơ sở sản xuất chế tác Đá mỹ nghệ thường bị động về

nguyên liệu, phải mua nguyên liệu với giá cao, có khi chất lượng đá không

đảm bảo dẫn đến làm giảm chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến uy tín của

làng nghề. Thực tế cho thấy, vùng nguyên liệu cho làng nghề đang bị khai

thác cạn kiệt, nguyên nhân chính là có rất nhiều nhà máy xi măng (hiện nay

đang có 4 nhà máy xi măng) hoạt động xung quanh vùng nguyên liệu. Tại

đây có hai loại đá, một loại Đá mỹ nghệ làm nghề thủ công và một loại đá

dùng cho sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng. Việc xác định loại đá nào cho

cho nghề thủ công và loại đá nào dùng sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng

rất khó khăn do kinh phí cho công tác thăm dò khảo sát các mỏ đá rất lớn

nên nhiều khi gây ra hiện tượng lãng phí nguồn nguyên liệu đá cho nghề thủ

công mỹ nghệ một cách nghiêm trọng, nhiều vùng quy hoạch cho các nhà

máy xi măng, khi khai thác vào sâu bên trong các quả núi lại có rất nhiều đá

tảng, đá khối rất đẹp và chắc. Đặc biệt trước đây, khi nghề chạm khắc đá

chưa phát triển Ninh Binh đã cấp phép cho một số doanh nghiệp tư nhân

khai thác dọc các dãy núi Ninh Vân để sản xuất vật liệu xây dựng. Việc khai

thác và việc quản lý các doanh nghiệp này chưa hợp lý đã làm cho diện tích

núi đá đang ngày càng thu hẹp. Trước thực trạng đó, tại các kỳ đại hội

huyện, tỉnh Ninh Bình đã nhấn mạnh việc bảo vệ, duy trì và phát triển vùng

nguyên liệu đá. Đây không chỉ là vấn đề công ăn việc làm mà còn là vấn đề

giữ nét đẹp văn hóa, thương hiệu cho làng nghề Đá mỹ nghệ Hoa Lư, Ninh

Bình. Do đó, cần kíp nhất hiện nay là tỉnh phải xây dựng phương án quy

hoạch lại vùng nguyên liệu và tìm mọi biện pháp để giữ và bảo tồn vùng

nguyên liệu cho phát triển làng nghề.

* Thị trường tiêu thụ sản phẩm

Thị trường tiêu thụ là yếu tố quan trọng, lượng hàng mà làng nghề bán

được, quyết định doanh thu và lợi nhuận của làng nghề. Vì vậy, cần phải xác

định được thị hiếu, nhu cầu thị trường để có biện pháp phát triển sản xuất

đáp ứng những nhu cầu đó. Hiện nay, thị trường tiêu thụ của làng nghề Đá

mỹ nghệ của huyện chủ yếu là tập trung trong nước (chiếm 70-90%), để tiêu

thụ sản phẩm, đa số các doanh nghiệp, hộ gia đình trong làng nghề tự tìm

cách giao dịch trực tiếp với khách hàng. Do đặc trưng sản phẩm Đá mỹ nghệ

chủ yếu là hàng tâm linh (như mộ đá, bát hương, tượng phật,…) và các sản

phẩm phụ cho các công trình xây dựng tại các đền, chùa, miếu mạo, công

trình công sở và tượng đài nên một số doanh nghiệp có tiếng tăm trong làng

nghề tận dụng mối quan hệ với các cấp lãnh đạo để ký hợp đồng xây dựng

các công trình trên. Ngoài ra, một số doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình tự

tìm cách tiêu thụ sản phẩm bằng các biện pháp như quảng cáo, tiếp thị, bán

hàng trực tiếp đối với khách vào làng nghề mua hàng. Cần phải thấy rằng,

hiện nay làng nghề phát triển rất nhanh và mạnh, thứ nhất là do nhu cầu xây

dựng đối với các sản phẩm của làng nghề là rất lớn, thứ hai: do có mặt hàng

lạ mắt, lại có tính nghệ thuật cao nên chiếm được thị hiếu của khách hàng.

Giá cả cũng không thống nhất và ổn định mà tuỳ từng doanh nghiệp, hộ gia

đình tự định giá. Nhờ điểm này mà nhiều hộ gia đình, doanh nghiệp giàu lên

nhanh chóng do chiếm được lợi nhuận khổng lồ từ việc bán hàng. (ví dụ: 1

cây đèn đá tại nơi sản xuất có giá 10.000.000 đồng khi mang ra các cửa

hàng ở Quảng Ninh, Hà Nội có thể bán tới 50.000.000 đồng đến 70.000.000

đồng. Theo thống kê thực tế nếu 1 hộ gia đình ký được hợp đồng

1.000.000.000 đồng thì trừ đi tất cả chi phí hộ gia đình đó sẽ lãi được một

nửa số tiền đó). Tuy nhiên, nếu nhìn xa thì chỉ một vài năm nữa trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhu cầu đá chững lại thì làng

nghề đá sẽ khó tìm được thị trường tiêu thụ. Do đó, để phát triển làng nghề

một cách lâu dài, ổn định, bền vững cần phải gắn việc phát triển làng nghề

với phát triển du lịch.

Ngoài thị trường trong nước thì làng nghề còn đáp ứng nhu cầu của thị

trường nước ngoài chỉ tiêu thụ từ 10 – 30% lượng sản phẩm. Các mặt hàng

xuất khẩu chủ yếu là đá xẻ, đá lát và một số các công trình tượng đài ở một

số nước láng giềng.

Kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu qua 2 kênh:

Người sản xuất ---- Người trung gian (phòng giao dịch) ---- Nơi tiêu thụ.

Người sản xuất -------- Nơi tiêu thụ.

2.3.4. Các hình thức sản xuất kinh doanh tại làng nghề.

Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong các làng nghề là

sản xuất theo hộ gia đình truyền thống. Tuy nhiên, trong những năm trở lại

đây có sự đầu tư vốn và công nghệ sản xuất tại các làng nghề dần mở rộng

về quy mô và hình thành nên các doanh nghiệp, các công ty TNHH trong

các làng nghề. Đối với nghề chế tác đá, hiện nay hình thức tổ chức sản xuất

kinh doanh phổ biến nhất là các cơ sở sản xuất và chế tác Đá mỹ nghệ, do

một người chủ gia đình đứng lên tổ chức, phần lớn lao động là nam giới từ

nơi khác đến, phụ nữ chỉ tham gia làm đá lúc nông nhàn và ở các khâu phụ

trong dây chuyền sản xuất. Độ tuổi lao động tập trung từ 20 – 50 tuổi. Do

thu nhập từ nghề đá là rất cao nên đã thu hút toàn bộ lao động của xã, không

những thế lao động từ các xã, huyện khác trong tỉnh cũng đến đây làm. Loại

hình chủ yếu của làng nghề Đá mỹ nghệ là các doanh nghiệp nhỏ, cơ sở sản

xuất, hộ gia đình. Đặc biệt hợp tác xã không tham gia tổ chức sản xuất Đá

mỹ nghệ mà chỉ kinh doanh các dịch vụ nông nghiệp. Hiện nay, ở xã Ninh

Vân có 75 doanh nghiệp tư nhân, 2 công ty TNHH, 453 hộ tham gia sản

xuất Đá mỹ nghệ.

* Hộ gia đình: Hộ gia đình là mô hình sản xuất chủ yếu ở các làng

nghề Đá mỹ nghệ. Hầu hết các hộ gia đình các làng nghề Đá mỹ nghệ của

huyện đều thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh Đá mỹ nghệ nên có rất

nhiều lao động ở nơi khác đến học và làm việc, mỗi cơ sở sản xuất thuê từ 5

-10 lao động thường xuyên. Ngoài ra, còn tận dụng mọi sức lao động của

các thành viên trong gia đình, tuỳ từng độ tuổi, trình độ tay nghề để làm

công việc phù hợp: đàn ông to, khoẻ thì xẻ, đục đá, phụ nữ thường băm đá

hoặc làm các phần phụ trong khâu sản xuất... Thường các hộ gia đình có 1

hoặc 2 người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành, giao

dịch... Vì vậy mô hình sản xuất hộ gia đình là quy mô nhỏ. Tuy nhiên, mô

hình này lại rất phù hợp với cơ sở vật chất ở làng nghề, nó phát huy được ưu

điểm trong sản xuất – kinh doanh như: tận dụng, tranh thủ mọi thời gian lao

động, linh hoạt trong sản xuất – kinh doanh, hiệu quả kinh tế được hoạch

toán cụ thể... Đồng thời, nó cũng có rất nhiểu hạn chế như: các chủ cơ sở sản

xuất kinh doanh không có kiến thức về quản lý kinh tế, khó tiếp cận và

chậm ứng dụng Khoa học – Công nghệ, năng lực sản xuất còn hạn chế, bên

cạnh đó là việc trẻ em bỏ học sớm để làm kinh tế là phổ biến ở các làng

nghề.

* Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn

Hình thức này mới xuất hiện ở các làng nghề truyền thông mấy năm

trở lại đây và ngày càng phát triển sau khi Luật doanh nghiệp ra đời. Được

xuất hiện từ những cơ sở sản xuất làm ăn phát đạt, có nguồn vốn dồi dào và

năng động trong cơ chế thị trường. Tồn tại dưới hình thức các xưởng sản

xuất, có đội ngũ lao động đông đảo, được chuyên môn hoá, có khả năng mở

rộng thị trường, hiện nay làng nghề Đá mỹ nghệ có trên 75 doanh nghiệp tư

nhân và 2 Công ty TNHH. Mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng các doanh nghiệp

và các công ty đã khẳng định được vai trò và ưu thế của mình trong xu thế

hội nhập của làng nghề.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

HUYỆN HOA LƢ, TỈNH NINH BÌNH

2.4.1. Đánh giá chung

* Những thành tựu đạt đƣợc

Một là: Phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Trong thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh

tế, các làng nghề trên địa bàn huyện Hoa Lư đã được khôi phục và phát triển.

Làng nghề chính là yếu tố cơ bản và quan trọng để thay đổi bộ mặt của nông

thôn. Cùng với sự phát triển về nguồn nhân lực có chất lượng cao, việc định

hướng phát triển các làng nghề theo hướng hàng hoá với thị trường ngày càng

được mở rộng do sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của cả nước

đã tạo nên những cơ hội lớn cho sự phát triển các làng nghề ở địa phương.

Tổng giá trị đóng góp của các làng nghề ngày càng trở nên quan trọng.

Năm 2005, tổng giá trị sản xuất của các làng nghề Đá mỹ nghệ của

huyện đạt 38 tỷ 250 triệu đồng. Đến năm 2006, tổng giá trị sản xuất của các

làng nghề tăng lên 40,5 tỷ đồng. So với năm 2005, tăng 5,9%. Năm 2007,

tổng giá trị sản xuất từ nghề sản xuất Đá mỹ nghệ tăng so với năm 2006 là

6,1%. Năm 2010 tăng so với năm 2009 là 6,8%.

Bảng 2.8: Tổng giá trị sản xuất từ nghề chế tác đá

trên địa bàn huyện Hoa Lư

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Giá trị sản xuất 38.250 40.500 42.000 43.700 43.450 48.372

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hoa Lư)

So sánh số liệu ở các làng nghề xã Ninh Vân cho thấy từ năm 2005

đến nay giá trị sản xuất từ nghề Đá mỹ nghệ tại làng nghề trên địa bàn xã

tăng lên liên tục, các làng nghề phát triển không những cải thiện mức sống

của dân cư nông thôn trong vùng mà còn thúc đẩy kinh tế xã tăng trưởng cao

trong những năm gần đây.

Trong 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2009, tốc độ tăng trưởng kinh tế

bình quân của xã có làng nghề đạt 13,7%. Tại xã Ninh Vân, nơi có làng

nghề Đá phát triển năm 2010, giá trị sản xuất ngành công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp và dịch vụ đạt 90 tỷ 495 triệu đồng, chiếm 80% cơ cấu kinh tế,

trong đó:

- Sản xuất đá vật liệu xây dựng đạt: 4 tỷ 825 triệu đồng.

- Chế tác Đá mỹ nghệ đạt: 72,396 triệu đồng.

- Vận tải đạt: 3 tỷ 630 triệu đồng.

- Các dịch vụ tổng hợp khác đạt: 9 tỷ 644 triệu đồng.

Sự phát triển của các làng nghề trên địa bàn xã Ninh Vân đã góp

phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã. Sự củng cố và phát

triển các làng nghề trong quá trình đổi mới đã thúc đẩy công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp của xã phát triển, làm cho cơ cấu kinh tế của xã thay đổi theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Làng nghề đang dần giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển

kinh tế ở khu vực nông thôn nói riêng và kinh tế của địa phương nói chung.

Sự phát triển của các làng nghề sẽ kéo theo sự tăng trưởng và phát triển của

thương mại, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cũng

như phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng không ngừng tăng lên ở các làng nghề.

Hai là: Phát triển làng nghề góp phần quan trọng vào giải quyết

việc làm, nâng cao đời sống dân cư.

Trong những năm qua, làng nghề chế tác Đá mỹ nghệ thu hút được

một lực lượng lao động lớn, góp phần giải quyết việc làm cho lao động tại địa

phương. Năm 2009, ở các làng nghề có 10.000 lao động tham gia làm nghề

đá. Những làng nghề phát triển, có khả năng thu hút lao động rất lớn như làng

nghề Đá mỹ nghệ Xuân Vũ, Dưỡng Thượng, Dưỡng Hạ…

Làng nghề có khả năng giải quyết việc làm rất lớn, tuy nhiên việc

làm phần lớn lại bấp bênh, không ổn định. Nhiều làng nghề gặp khó khăn

trong sản xuất kéo theo khả năng giải quyết việc làm cũng hạn chế. Muốn

làng nghề có khả năng giải quyết việc làm tốt thì cần phải đổi mới, nâng cao

chất lượng sản phẩm, cung ứng nguyên liệu đầy đủ, tìm kiếm thị trường

tiềm năng. Có như vậy mới đảm bảo tính ổn định của việc làm, chuyển dịch

cơ cấu lao động theo hướng chuyên môn hoá, góp phần công nghiệp hóa

nông nghiệp, nông thôn.

Sự thay đổi cơ cấu lao động xã Ninh Vân qua các năm 2005-2010

được thể hiện ở bảng số liệu sau:

Bảng 2.9 : Cơ cấu lao động xã Ninh Vân qua các năm 2005-2010

Đơn vị tính: %

Năm Nông nghiệp CN-TCN-XD DV-TM

2005 67,6 23,7 8,7

2006 58,9 30,6 10,5

2007 54,7 34,8 10,5

2008 49,2 38,3 12,5

2009 48,6 39 12,4

2010 46,3 41,8 11,9

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Hoa Lư)

Qua bảng số liệu trên ta thấy, cơ cấu lao động đang có xu hướng

chuyển dịch dần từ sản xuất nông nghiệp sang khu vực sản xuất công nghiệp

và dịch vụ. Chứng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở xã Ninh Vân đang

diễn ra theo chiều hướng tích cực. Năm 2005, tỷ trọng lao động sản xuất

nông nghiệp chiếm 67,6% thì đến năm 2009 tỷ trọng sản xuất nông nghiệp

chỉ còn 48,6% trong tổng số lao động của xã. Tỷ trọng lao động trong lĩnh

vực Công nghiệp – xây dựng và Dịch vụ- thương mại ngày càng tăng lên.

Hiện nay, sức ép giải quyết việc làm ở huyện Hoa Lư là rất lớn bởi dân

số đông, tốc độ đô thị hoá nhanh. Do vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh

phát triển làng nghề một cách vững chắc để giải quyết việc làm cho người

dân trong thời gian nông nhàn. Phát triển làng nghề là biện pháp quan trọng

để thực hiện chủ trương " ly nông, ly điền, bất ly hương".

Việc phát triển các làng nghề sẽ tạo việc làm và thu nhập, nâng cao đời

sống cho người lao động. Ở các làng nghề phát triển, tiền công của người

lao động đạt khá cao. Tuy nhiên, tiền công còn phụ thuộc vào tính chất công

việc và tay nghề của người lao động. Làng nghề phát triển làm cho bộ mặt

làng nghề trở lên khang trang hơn. Ở làng nghề kinh tế phát đạt, đời sống

nhân dân tăng lên rõ rệt; nhiều nhà mới kiên cố mọc lên; 100% đường làng

được bê tông hoá, nhiều gia đình mua sắm ô tô, xe máy, ti vi, điện thoại,...

Hiện nay, có một dấu hiệu đáng mừng là các gia đình trong làng nghề ngày

càng quan tâm đến vấn học hành của con cái thay vì tình trạng bỏ học của

học sinh để tham gia làm nghề cùng gia đình.

Việc phát triển làng nghề không những giải quyết vấn đề việc làm

trước mắt mà còn góp phần từng bước cải thiện đời sống dân cư trong vùng

cả về vật chất lẫn tinh thần.

Thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, XXI,

Các Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoa Lư khoá XX, XXI

về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; thời gian qua sản

xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Hoa Lư tiếp tục phát triển,

đã đi sâu vào khai thác, sử dụng tiềm năng thế mạnh của địa phương, các

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, tạo

nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; giá trị sản xuất Công

nghiệp -Tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh, các làng nghề phát triển mạnh cả

về sản lượng, giá trị sản xuất và ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ.

Các nghề Công nghiệp -Tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ, tạo

nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn. Các làng nghề đa mỹ nghệ với nòng cốt là 75 doanh nghiệp và hệ

thống các cơ sở sản xuất Đá mỹ nghệ, các lao động sản xuất ở hầu hết các

thôn trong xã Ninh Vân. Ngoài lao động chuyên còn thu hút hàng ngàn lao

động nông thôn và lao động phụ tham gia sản xuất; là ngành giữ vai trò chủ

lực, chiếm từ 70 – 80 % giá trị sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp,

Ngành nghề chế tác Đá mỹ nghệ phát triển nhanh, thị trường ngày càng

được mở rộng và có thêm nhiều làng nghề được hình thành phát triển.

Nghề chế tác Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân chiếm 80 – 90 % tổng số quy

mô ngành nghề sản xuất nhỏ tại xã, nó tạo công ăn việc làm cho trên 10.000

lao động, trong đó hơn 6.000 là lao động thường xuyên (với mức thu nhập

bình quân từ (4 - 6) triệu đồng/người/tháng).

Do vậy, có thể nói hàng Đá mỹ nghệ có ý nghĩa rất to lớn trong việc

giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các hộ nông dân, người dân địa

phương và góp phần rất đáng kể vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo của xã

Ninh Vân nói riêng, huyện Hoa Lư nói chung.

* Những tồn tại, hạn chế

Một là: Thị trường gặp khó khăn, chưa ổn định.

Hàng hoá được sản xuất ở các làng nghề phải xuất phát từ yêu cầu thị

trường, tức là phải giải quyết đầu ra cho sản phẩm, đây là vấn đề then chốt

có tính quyết định đến sự mở rộng hay thu hẹp qui mô của các ngành hàng,

đặc biệt các sản phẩm hàng hoá có nguồn gốc nguyên liệu từ đá. Trên thực

tế cho thấy, thị trường tiêu thụ các sản phẩm ngành hàng đá còn nhỏ và

không ổn định… và luôn xuất hiện mối lo không tiêu thụ được sản phẩm

khiến chính các cơ sở sản xuất, các nghệ nhân, các doanh nghiệp liên quan

và cả các nhà quản lý đang phải quan tâm, trăn trở và tìm hướng giải quyết.

Qua nghiên cứu thực tế, thị trường tiêu thụ và hoạt động tiêu thụ trên địa

bàn huyện có những khó khăn cơ bản:

- Sản phẩm chưa có thương hiệu..

- Chưa có đơn vị sản xuất trực tiếp xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.

- Chưa hình thành kênh tiêu thụ vững chắc.

- Hầu hết các cơ sở sản xuất và thu mua chưa chú trọng đến đầu tư

quản lý, phát triển thị trường tiêu thụ.

Hai là: Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.

Để phát triển làng nghề thì cần phải có vốn. Nhiều doanh nghiệp cơ sở

sản xuất hiện tại còn thiếu vốn để sản xuất kinh doanh mở rộng sản xuất

nhất là không ký được các hợp đồng lớn vì thiếu vốn nên không thực hiện

được. Trong khi đó vốn đầu tư từ các nguồn còn hạn hẹp, phân tán, chủ yếu

là vốn tự có của cơ sở sản xuất và người lao động, vốn đầu tư của nhà nước

qua các chương trình dự án chưa đáng kể.

Nguồn vốn có thể vay từ ngân hàng hoặc quỹ tín dụng xã, nhưng chưa

có vốn vay với lãi xuất thấp và hầu hết các doanh nghiệp sản xuất nhỏ lẻ

phải tự lo vốn. Do vậy, để có đủ vốn cho phát triển làng nghề là một vấn đề

rất khó khăn.

Ba là: Trình độ quản lý các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong các

làng nghề còn khó khăn và chưa đồng bộ.

Trình độ quản lý thể hiện ở kinh nghiệm buôn bán với khách hàng của

các doanh nghiệp còn hạn chế, lại bị thu hẹp về quy mô sản xuất, hoạt động

theo các mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu. Do thiếu thông tin,

trình độ buôn bán còn hạn hẹp nên sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu qua trung

gian là chính, số lượng sản phẩm tiêu thụ trực tiếp không nhiều và không

thường xuyên. Về mẫu mã, chủng loại còn thiếu đa dạng, còn ít, lại có sự

trùng nhau nên dẫn đến việc tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh, thiếu sự

hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp trong cùng

một ngành hàng. Hiện tượng này sẽ đưa ra một số thông tin không chính xác,

thiếu xây dựng…làm hạn chế tốc độ phát triển của các làng nghề.

Nhiều hộ sản xuất kinh doanh không có giấy phép kinh doanh, chưa

chấp hành nghiêm pháp luật, kế toán, thống kê. Hệ thống cơ quan quản lý

liên ngành chưa hoàn thiện, thiếu biên chế, nguồn lực trình độ chưa đáp ứng

được đòi hỏi của việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

Bốn là: Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.

Phần lớn nhân lực lao động trong các làng nghề tuy có tay nghề nhưng

lại thiếu sự đào tạo bài bản nên khó nắm bắt và vận dụng các tiến bộ khoa

học kỹ thuật trong xử lý công nghệ môi trường, đồng thời thiếu kinh nghiệm

về an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ cá nhân nên lao động thường xuyên tại

các làng nghề thiếu ổn định, ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm.

Do vậy, đào tạo nguồn nhân lực cho làng nghề là yêu cầu cần thiết để làng

nghề phát triển ổn định.

Năm là: Môi trường tự nhiên ngày càng ô nhiễm.

Trong quá trình khôi phục và phát triển các làng nghề, ô nhiễm môi

trường hiện đang là vấn đề mà các địa phương đang gặp phải. Do đặc điểm

của khu vực nông thôn, chưa có qui hoạch, nơi xử lý tập trung rác thải, bị

hạn chế về phương tiện vận chuyển cũng như xử lý , nên rác từ các làng

nghề thường được đôn trực tiếp ra ao, hồ, sông, suối quanh khu dân cư. Vì

vậy, ô nhiễm môi trường là không thể tránh khỏi. Ở xã Ninh Vân các doanh

nghiệp và hộ gia đình ngoài việc “đau đầu” tìm lối ra cho sản phẩm thì ô

nhiễm môi trường trở thành gánh nặng quá sức đối với người dân nơi đây.

Hàng năm cả xã sản xuất hàng nghìn tấn hàng từ đá, đồng thời thải ra một

lượng cát bụi cũng như tiếng ồn tương ứng. Theo điều tra và khảo sát của cơ

quan y tế và Sở Khoa học công nghệ và môi trường Ninh Bình thì hàm

lượng bụi lơ lửng đo được ở khu vực này vào hai thời điểm đều cao hơn tiêu

chuẩn môi trường cho phép từ 1,37 đến 1,75 lần. Ô nhiễm môi trường là

nguyên nhân gây ra các bệnh như tai, mũi, họng, mắt, hô hấp, thần kinh…

cho người dân. Có đến 80% hộ sản xuất tại nhà khiến cho những người

trong gia đình cũng bị ảnh hưởng, như mắc phải các bệnh về đường hô hấp,

lao, nghẹt mũi, khó thở…Trong khi đó, việc xử lý ô nhiễm môi trường lại

chưa được chú trọng, nằm ngoài khả năng của hộ sản xuất và địa phương.

Hiện nay, UBND tỉnh Ninh Bình đã chỉ đạo các sở có liên quan cùng bắt tay

vào việc cải thiện môi trường tại các làng nghề, tuy nhiên cũng chỉ là bước

khởi đầu mang tính chất nhỏ lẻ, chưa thực sự có hệ thống. Chỉ khi cả chính

quyền và hộ sản xuất kinh doanh ý thức được tầm quan trọng của môi

trường, chung tay tìm giải pháp khả thi nhất thì mới có thể tính đến hiệu

quả.

Trong thời gian tới, việc phát triển các làng Đá mỹ nghệ sẽ ngày càng

mạnh mẽ hơn, do vậy, vấn đề bảo vệ môi trường cần phải được quan tâm

cùng với những qui hoạch phát triển của làng nghề. Như vậy, làng nghề mới

phát triển bền vững được.

* Nguyên nhân của những hạn chế.

Thứ nhất: Công tác quản lý của các cấp chưa quan tâm đúng mức tới

phát triển làng nghề. Các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không chịu học

hỏi, nâng cao trình độ quản lý, ít đầu tư cho công nghệ thông tin. Bên cạnh

đó, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động mang tính tự phát, chưa có kế

hoạch phát triển cụ thể, cũng chưa có sự liên minh, gắn kết tạo nên sức

mạnh tổng hợp. Hiệp hội Làng nghề vì mới thành lập nên hoạt động còn hạn

chế, các thành viên của Hiệp hội chưa gắn kết với nhau để bàn bạc, tháo gỡ

khó khăn cho phát triển làng nghề.

Thứ hai: Các thủ tục xin vay vốn đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản

xuất còn khá phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải có tài

sản thế chấp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ)…nên một số

doanh nghiệp nhỏ, hộ cá thể thường tìm nguồn khác để vay.

Thứ ba: Quy mô sản xuất của các cơ sở sản xuất còn nhỏ lẻ, việc tổ chức

sản xuất ở làng nghề còn manh mún, thiếu tập trung. Phần đông còn sản xuất

tự phát, giải rác ở nơi góc vườn, sân nhà, hai bên đường làng…chưa vào quy

củ, tổ chức nào, gây tình trạng ô nhiễm môi trường, tiếng ồn và ảnh hưởng

đến an toàn giao thông. Mặt khác, hầu hết các hoạt động sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm đá còn mang tính chất tự phát, do các cơ sở tự lo liệu dẫn đến tình

trạng hàng bị ứ đọng, tồn kho, chưa có kênh tiêu thụ nào ổn định nên việc

phát triển bền vững làng nghề là vô cùng khó khăn.

2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển làng nghề

huyện Hoa Lƣ, tỉnh Ninh Bình

Việc phát triển các làng nghề ở huyện Hoa Lư, đặc biệt trường hợp

làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân thời gian vừa qua đã có những thành

tựu, hiệu quả rõ rệt cả về kinh tế và xã hội. Tuy vậy, những tồn tại và hạn

chế nêu trên đặt ra hàng loạt các vấn đề cho phát triển làng nghề đó là:

* Về công tác quy hoạch

Để phát triển làng nghề gắn với phát triển nông thôn mới và bảo vệ

môi trường, trước hết phải hình thành qui hoạch không gian sản xuất của các

làng nghề mới và cải tạo điều kiện sản xuất của các cơ sở sản xuất hiện có

nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Quy hoạch không gian sản

xuất cho các làng nghề còn hình thành lên các cụm công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Mặt khác, quy hoạch không gian sản xuất mới tạo ra điều kiện cho các hộ

gia đình trong các làng nghề có cơ hội hợp tác, liên kết với hợp tác xã, các

doanh nghiệp quy mô lớn và tập trung xử lý rác thải một cách hợp lý, bảo vệ

môi trường sinh thái.

Do vậy, trước hết phải quan tâm đến quy hoạch, hiện làng nghề Đá mỹ

nghệ huyện Hoa Lư đã được UBND tỉnh Ninh Bình phê duyệt quy hoạch

xây dựng làng nghề với khuôn viên rộng 11ha, tuy nhiên với diện tích trên

chỉ giải quyết được 71 hộ làm đá, còn lại gần 1000 hộ vẫn phải dùng sân

nhà, vườn cây hay lòng, lề đường giao thông để làm bến, bãi sản xuất gây

tình trạng ách tắc, mất an toàn giao thông, tiếng ồn, bụi, ô nhiễm môi trường

làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, đời sống nhân dân địa phương và cảnh quan

môi trường.

* Đảm bảo nguồn nguyên liệu tại chỗ

Nguyên liệu cho sản xuất trong các làng nghề ở huyện Hoa Lư hiện

nay vẫn chưa chủ động được. Nguyên liệu hiện nay cho các làng nghề chỉ có

35% nguyên liệu tại chỗ còn lại là phải mua ở các địa phương khác. Đây là

một khó khăn cần phải khắc phục để phát triển ổn định các làng nghề.

Đối với nguyên liệu cho làng nghề Đá mỹ nghệ, trước mắt phải giữ

nguyên được diện tích đá nằm trên địa bàn xã Ninh Vân, cần phải nhanh

chóng quy hoạch lại các dãy núi để bảo tồn vùng nguyên liệu cho làng nghề

đá phát triển. Việc phát triển vùng nguyên liệu cũng cần phải tính đến sự

liên kết với vùng nguyên liệu đá tại huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Vấn

đề sống còn cho mức độ ổn định vùng nguyên liệu đá là ổn định đầu ra cho

sản phẩm, trong đó phải tạo điều kiện và đẩy mạnh phát triển các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất Đá mỹ nghệ cần được các cấp, các ngành đặc biệt

quan tâm.

Như vậy, đảm bảo nguồn nguyên liệu là rất cần thiết, giúp các làng

nghề chủ động hơn, tạo điều kiện ứng dụng kỹ thuật, mở rộng quy mô sản

xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

* Về thương hiệu.

Hiện nay, làng nghề Đá mỹ nghệ nói riêng và làng nghề nói chung ở

Hoa Lư chưa quan tâm đến việc đăng ký thương hiệu sản phẩm, thương hiệu

làng nghề truyền thông. Mặc dù, thương hiệu có vai trò rất quan trọng trong

phát triển làng nghề:

- Thương hiệu làng nghề giúp các thành viên bán được nhiều hàng hơn

và nhờ đó giảm được chi phí sản xuất lưu thông. Khách hàng thường có xu

hướng mua và thậm chí mua nhiều hơn hàng hoá dịch vụ của các thương

hiệu mà họ nhận biết và yêu thích.

- Thương hiệu tạo khả năng bán được hàng hoá dịch vụ với giá cao hơn.

- Thương hiệu giúp tạo dựng nhanh chóng hệ thống phân phối. Một

thương hiệu nổi tiếng sẽ nhận được lựa chọn tiêu thụ của số đông người tiêu

dùng và do đó giúp thâm nhập nhanh chóng vào các kênh phân phối hiện

hữu với các chi phí thấp hơn.

- Thương hiệu sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho làng nghề. Thương hiệu nổi

tiếng trong lĩnh vực là rào cản thực sự cho đối thủ cạnh tranh.

- Thương hiệu tạo khả năng thâm nhập vào các thị trường mới. Thương

hiệu của nhiều làng nghề nổi tiếng có thể giúp làng nghề mở rộng sang một

lĩnh vực khác một cách nhanh chóng và đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ: Gốm

Bát Tràng đang trở thành làng nghề du lịch và kinh doanh đồ lưu niệm.

Những ích lợi của việc xây dựng thương hiệu cho làng nghề là rất lớn,

song nhận thức về thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, sở hữu công nghiệp

phần lớn các hộ sản xuất kinh doanh ở làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân còn

nhiều hạn chế nên việc quảng bá, xúc tiến thương mại chưa thật sự được chú

trọng. Trước mắt, làng nghề cần phải hướng tới xây dựng lôgô cho làng

nghề và đăng ký sở hữu trí tuệ với thương hiệu riêng, logo riêng của mình.

* Về thị trường .

Hỗ trợ các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại, đi

tham gia hội chợ trong và ngoài nước. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện

tử, hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông thôn, doanh nghiệp, làng nghề xây

dựng hệ thống thông tin nhằm giới thiệu quảng bá sản phẩm làng nghề, xây

dựng thương hiệu, sở hữu trí tuệ, trước mắt tăng nguồn kinh phí hỗ trợ để

thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng Internet nhằm quảng bá

thương hiệu và sản phẩm.

Tuyên truyền vận động nhân dân khắc phục khó khăn, ổn định sản

xuất, phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Coi trọng việc nâng cao

chất lượng sản phẩm để giữ vững và phát triển thị trường. Các doanh nghiệp

cần đa dạng mặt hàng, tích cực cải tiến mẫu mã như: Tranh đá, tượng đá, đá

lát cao cấp, các con giống với kích cỡ nhỏ nhưng tinh xảo phục vụ khách du

lịch, để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

* Đảm bảo lợi ích của người lao động.

Hiện nay, tại các cơ sở sản xuất, chế tác Đá mỹ nghệ, người lao động

vẫn đang phải làm việc ngoài trời, trong điều kiện nắng mưa thất thường,

trong môi trường bị ô nhiễm bụi và tiếng ồn nghiêm trọng. Do vậy,vấn đề

cần thiết là phải cải thiện môi trường lao động, phòng ngừa tai nạn và bệnh

nghề nghiệp cho người lao động. Khi lợi ích của người lao động được đảm

bảo thì sẽ khuyến khích họ sản xuất có hiệu quả, chất lượng. Điều đó phải

có sự tác động, quản lý của Nhà nước, trách nhiệm của doanh nghiệp, sự

năng động sáng tạo của người lao động, đây là vấn đề liên kết, phối hợp

giữa Doanh nghiệp với người lao động, trên cơ sở chính sách của Nhà nước.

* Vấn đề môi trường.

Ô nhiễm môi trường là “chuyện thường” của các làng nghề, nhưng với

làng nghề chế tác Đá mỹ nghệ huyện Hoa Lư lại trở thành gánh nặng quá

sức đối với người dân nơi đây. Hàng năm, cả huyện sản xuất hàng nghìn tấn

hàng từ đá, đồng thời thải ra một lượng cát bụi cũng như tiếng ồn tương

ứng. Vây quanh làng nghề lại có hai nhà máy xi măng và một nhà máy phân

lân ngày đêm xả khói và nước thải đen bẩn gây nguy hại đến sức khoẻ con

người. Trong khi đó, việc xử lý ô nhiễm môi trường lại chưa được chú trọng

và nằm ngoài khả năng của hộ sản xuất và địa phương. Theo báo cáo của

phòng môi trường thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Ninh Bình thì

không khí khu vực huyện Hoa Lư có chiều hướng ô nhiễm gia tăng. Môi

trường không khí khu vực làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân đang bị ô

nhiễm do các lao động đục đẽo đá thủ công. Hàm lượng bụi lơ lửng đo

được ở khu vực này vào 2 thời điểm đều cao hơn tiêu chuẩn môi trường

cho phép. Ô nhiễm bụi đá rất nguy hiểm đến sức khoẻ con người, về lâu

dài có thể mắc các bệnh về mắt, phổi…Trước thực trạng trên, những động

thái để giảm ô nhiễm môi trường ở các làng nghề huyện Hoa Lư thực sự

cần thiết và cần làm ngay.

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT

TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ TỈNH NINH BÌNH:

TRƢỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ Ở XÃ NINH VÂN

3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

HUYỆN HOA LƢ, TỈNH NINH BÌNH

3.1.1. Phát triển làng nghề phải gắn với thị trƣờng

Xây dựng chiến lược phát triển thị trường là yếu tố quan trọng để ổn

định và phát triển làng nghề. Việc tập trung vào một thị trường thường mang

đến rủi ro cao, đặc biệt khi nền kinh tế rơi vào trạng thái khủng hoảng như

giai đoạn cuối năm 2008, năm 2009. Do vậy, cần đa dạng hoá thị trường, đa

dạng hoá sản phẩm là giải pháp không thể không thực hiện để ổn định phát

triển sản xuất cho các làng nghề. Mở rộng và tìm kiếm thị trường xuất khẩu

mới đồng thời xây dựng thương hiệu và quảng bá các mặt hàng thông qua

các hội chợ thương mại trong nước và quốc tế để thu hút đầu tư, cần có các

dự án đầu tư dạy nghề hỗ trợ người lao động khôi phục nghề thủ công truyền

thống, từ đó giải quyết việc làm cho người lao động, tiến tới hướng dẫn để họ

có thể sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với mẫu mã đẹp, đa dạng có

thể tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu với đầu ra luôn ổn định.

Ðể giải quyết khó khăn cho các làng nghề và tạo việc làm cho người

lao động trong thời điểm hiện tại, trước mắt phải đặc biệt quan tâm tìm đầu

ra cho sản phẩm làng nghề, đẩy mạnh kích cầu thị trường trong nước để tăng

cơ hội việc làm cho người lao động. Ngoài ra, cần thiết lập hệ thống bán

hàng chuyên nghiệp, đưa các sản phẩm làng nghề vào các siêu thị cũng như

đẩy mạnh phát triển du lịch làng nghề, vì chính những hoạt động này sẽ tạo

thêm nhiều việc làm cho người lao động.

3.1.2. Phát triển sản phẩm làng nghề trên cơ sở kết hợp yếu tố hiện

đại và yếu tố truyền thống.

Làng nghề là một trong những nơi lưu giữ và thể hiện bản sắc văn hoá

của dân tộc. Yếu tố truyền thống là một trong những đặc trưng nổi trội của

các sản phẩm làng nghề. Yếu tố đó được hình thành lâu dài trong lịch sử của

nghề, để tạo ra các sản phẩm có bản sắc riêng. Mỗi sản phẩm truyền thống

đều có công nghệ, công cụ sản xuất khác nhau, chất lượng sản phẩm phụ

thuộc vào tay nghề của người thợ thủ công nhất định. Quá trình sản xuất vận

động theo quy luật khách quan, chỉ những yếu tố tiến bộ được lưu giữ, được

bảo tồn, hoàn thiện và phát triển. Sản phẩm của làng nghề được sản xuất ra

với công nghệ cải tiến phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, thể hiện

bản sắc văn hoá của dân tộc.

Để phát triển làng nghề, trước hết phải khôi phục các giá trị về văn hoá,

nghệ thuật, kỹ thuật và công nghệ của các sản phẩm độc đáo. Việc sản xuất

cần phải lấy sản xuất hàng hoá làm hướng đi chính cho sự phát triển làng

nghề. Để làng nghề phát triển được trong nền kinh tế hàng hoá có sức cạnh

tranh ngày càng gay gắt thì bên cạnh việc giữ gìn những giá trị truyền thống

đặc thù trong các làng nghề còn phải không ngừng thay đổi, đổi mới những

công nghệ hiện đại, lựa chọn những mô hình tổ chức sản xuất hiện đại để

nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người

tiêu dùng, tăng doanh thu và lợi nhuận.

3.1.3. Phát triển làng nghề phù hợp với thế mạnh của địa phƣơng.

Thế mạnh của địa phương là những lợi thế của địa phương có được so

với các địa phương khác về điều kiện tự nhiên, tay nghề, thị trường, …nó

tạo ra lợi thế tương đối cho địa phương trong việc sản xuất một hay nhiều

sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Vì vậy, cần tận dụng những lợi thế này để

phát triển kinh tế địa phương, phải gắn với hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy

mạnh xuất khẩu, phát triển kinh tế xã hội và phát huy lợi thế so sánh của

vùng, của địa phương để phát triển làng nghề.

Phát triển làng nghề theo hướng sản xuất hàng hoá là điều kiện tiên

quyết để mở rộng quy mô sản xuất; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh;

nâng cao năng lực cạnh tranh. Bởi vì, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động

sản xuất kinh doanh đều bị chi phối bởi các quy luật của thị trường. Vì vậy,

muốn tồn tại thì bản thân các cơ sở sản xuất tại các làng nghề phải xác định

được thế mạnh của mình; lựa chọn ngành nghề phát triển phù hợp, hướng

phát triển và cách thức kinh doanh cho phù hợp với năng lực, sở trường của

mình và yêu cầu của thị trường xã hội.

Sản xuất kinh doanh cho dù bất kỳ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nào

đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Do vậy, khi lập kế hoạch sản

xuất mặt hàng nào cần phải có đầy đủ thông tin về nhu cầu tiêu dùng của xã

hội; còn quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm thì phải điều tra về khả năng

tiêu thụ của các thị trường. Từ những thông tin đó, lấy làm căn cứ quyết

định lựa chọn phương án sản xuất.

Nên tập trung vào phát triển các sản phẩm mà làng nghề có thế mạnh,

nhất là những sản phẩm đã và đang có uy tín trên thị trường. Cần duy trì

những đặc trưng vốn có của sản phẩm do các làng nghề sản xuất, song phải

ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất để

nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh;

coi yếu tố cạnh tranh là động lực cho sự phát triển.

3.1.4. Phát triển làng nghề trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa phát

triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trƣờng và xây dựng nông thôn mới

Phát triển làng nghề vừa có mục tiêu tạo việc làm, thu hút lao động ở

địa phương nâng cao thu nhập cho người lao động, vừa có mục tiêu nâng

cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất, lẫn văn hoá tinh thần của dân cư.

Đồng thời, phát triển làng nghề còn trực tiếp góp phần nâng cao tỷ trọng

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế, tạo ra các tiểu khu

công nghiệp ngay trong khu vực nông thôn, biến các làng xã thành thị trấn,

thị tứ...

Phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hoà giữa sản xuất

hàng hoá với bảo vệ môi trường và giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá truyền

thống của dân tộc, xây dựng con người nông thôn mới.

Phát triển làng nghề phải phát huy sự tham gia của cộng đồng gắn liền

với quá trình đô thị hoá, hình thành các thị trấn, thị tứ,...với sự hỗ trợ của

nhà nước, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo ở khu

vực nông thôn.

3.1.5. Phát triển làng nghề gắn với đa dạng hoá hình thức tổ chức

sản xuất kinh doanh, kết hợp hài hòa các cơ sở ngành nghề quy mô vừa

và nhỏ

Để thúc đẩy phát triển sản xuất theo hướng chuyên môn hoá, năng suất,

chất lượng cao, có nguồn hàng tương đối ổn định và tránh cạnh tranh không

lành mạnh, các làng nghề có thể thuỳ theo điều kiện cụ thể tham gia vào

chuỗi sản xuất kinh doanh một hoặc một nhóm sản phẩm (tạo thành các

vùng chuyên) ở các công đoạn khác nhau từ gia công bán thành phẩm đến

sơ chế tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm (đặc biệt chú trọng phát triển mối liên

kết giữa các làng nghề).

Đồng thời, phát triển làng nghề phải gắn với phát triển du lịch. Vì du

khách đi du lịch vừa thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên lại vừa có nhu cầu

tìm hiểu về văn hoá của địa phương, do vậy, đây là kênh quảng cáo hiệu quả

cho các sản phẩm của làng nghề bởi sản phẩm của làng nghề chính là thể

hiện cho nét văn hoá sống của người dân bản địa. Hơn thế nữa, nếu kết hợp

với du lịch thì các sản phẩm của làng nghề có thể xuất khẩu tại chỗ. Nếu làm

được như vậy thì việc phát triển làng nghề sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sản

phẩm cần phải có chất lượng ổn định và đặc sắc riêng.

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

HUYỆN HOA LƢ TỈNH NINH BÌNH

3.2.1. Giải pháp về quy hoạch phát triển làng nghề

Làng nghề tiểu thủ công nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến

lược phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và kinh tế huyện nói chung, là

một yếu tố cấu thành nông thôn mới, góp phần CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. Để thực hiện được việc phát triển kinh tế gắn với giữ gìn được

giá trị văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái thì quy hoạch phát

triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, ngành nghề nông thôn

là điều quan trọng hàng đầu. Trong đó có qui hoạch phát triển làng nghề và

qui hoạch vùng nguyên liệu cho làng nghề.

Căn cứ Nghị quyết của UBND tỉnh Ninh Bình, vào Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện Hoa Lư lần thứ XXI và định hướng phát triển kinh tế xã hội

của huyện đến năm 2015, tiến hành nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung

quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện, đồng thời xây dựng quy

hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, ngành nghề

nông thôn của huyện theo hướng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp và nông thôn, phát triển các làng nghề, cụm công

nghiệp, cơ sở ngành nghề nông thôn. Xây dựng quy hoạch phát triển công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phải đảm bảo thiết thực, hiệu quả, bền vững

phù hợp với năng lực sản xuất, lợi thế của từng vùng gắn với nhu cầu của thị

trường, quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp, làng nghề phải phù hợp với quy

hoạch đô thị và khu dân cư nông thôn; gắn quy hoạch sử dụng đất nông

nghiệp với việc phát triển ngành nghề. Ưu tiên quỹ đất để phát triển ngành

nghề, làng nghề thủ công truyền thống; quy hoạch đất dịch vụ liền kề với

các cụm công nghiệp để tạo việc làm đối với những lao động bị thu hồi đất

để xây dựng các cụm công nghiệp. Tập trung đẩy mạnh phát triển công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, phát

triển làng nghề, tiếp thu nghề mới, chủ động về nguyên liệu để phát triển

làng nghề ổn định và vững chắc.

Định hướng của tỉnh và huyện tập trung duy trì và phát triển làng nghề

Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân, đây là địa phương đã có các làng nghề truyền

thống, nhân dân có tay nghề cao.

Quy hoạch làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân với tổng diện tích 23 ha

đối diện với khu làng nghề cũ ở 2 thôn Xuân Phúc và Xuân Thành. Việc quy

hoạch làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân sẽ khắc phục được tình trạng điểm

sản xuất xen kẽ với khu dân cư, gây cản trở giao thông, gây tiếng ồn, làm ô

nhiễm môi trường.

Quy hoạch vùng nguyên liệu cho làng nghề gồm các dãy núi bao quanh

thôn Xuân Phúc, Xuân Thành, Dưỡng Thượng, Dưỡng Hạ, Phú lăng, Vạn lê,

Hệ Dưỡng với diện tích khoảng 200-300ha. Các dãy núi này khai thác

không ảnh hưởng tới du lịch, đồng thời tiến hành ngay việc khảo sát, thăm

dò để phát hiện ra loại đá phục vụ cho làng nghề Đá mỹ nghệ tại các quả núi

đang cho khai thác để phục vụ 2 nhà máy xi măng Hệ Dưỡng và xi măng

Duyên Hà. Trước mắt, cần tận dụng nguồn nguyên liệu đá đã được quy

hoạch với diện tích gần 100 ha, kết hợp với các doanh nghiệp khai thác đá

và vật liệu xây dựng để khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu tránh lãng phí.

Ngoài ra, các làng nghề vừa sử dụng nguyên liệu tại chỗ và nguyên liệu

nhập từ nơi khác để chủ động nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và kinh doanh.

3.2.2. Giải pháp về thị trƣờng

Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở sản xuất tiểu

thủ công của các làng nghề trong và ngoài nước cần có các giải pháp sau:

Các cơ sở sản xuất kinh doanh phải chủ động đăng ký bản quyền và

xây dựng thương hiệu sản phẩm, là cơ sở đảm bảo tính pháp lý và độ tin cậy

trong giao dịch cũng như trao đổi hàng hoá trên thị trường.

Tăng cường đầu tư cho công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại thông qua

các hình thức quảng cáo, triển lãm, tham gia hội chợ trong và ngoài nước.

Các cơ sở sản xuất của làng nghề phải chủ động liên kết với các trung

tâm thương mại, các điểm phân phối ở các thị trấn, thị tứ thuộc nông thôn

trên cả nước. Đồng thời, liên kết các làng nghề với nhau, giữa các cơ sở sản

xuất của làng nghề với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong

cả nước.

Tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, ứng dụng tiến bộ về kỹ thuật, công

nghệ mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm

và hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm

Hình thành các tổ chức liên kết ngành nghề từ làng, xã để tổ chức hỗ

trợ các cơ sở kinh doanh về thông tin kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, thị

trường, giá cả, thị hiếu tiêu dùng,…và hỗ trợ về vốn sản xuất, khắc phục rủi

ro có thể xảy ra, tạo lập liên minh kinh tế giữa các cơ sở sản xuất của các

làng nghề có cùng sản phẩm; tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa

các cơ sở sản xuất và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Cần có hỗ trợ về chính sách tín dụng cho các làng nghề, trợ giúp về

thông tin thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả, nhu cầu, thị hiếu của người

tiêu dùng trên thị trường quốc tế và khu vực.

Liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để đưa sản phẩm của các

làng nghề đến với người tiêu dùng. Đây là hình thức mở rộng thị trường tiêu

thụ sản phẩm nhưng giảm được chi phí quản lý và tiếp thị nên rất hiệu quả.

Hình thành đội ngũ doanh nhân có trình độ quản lý, trình độ tổ chức

kinh doanh, tiếp thị sản phẩm tại các làng nghề và cơ sở nghề. Nâng cao

chất lượng đội ngũ lao động, đào tạo tay nghề cho thợ thủ công và có trình

độ, đào tạo cán bộ về quản lý, kỹ thuật và đổi mới công nghệ thiết bị kỹ

thuật trong chế tác Đá mỹ nghệ, nhất là đội ngũ lao động trong các doanh

nghiệp để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm Đá mỹ nghệ. Mở

rộng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, ưu tiên hỗ trợ cho các

doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH.

Hình thành kênh tiêu thụ ổn định cho sản phẩm Đá mỹ nghệ. Giải

quyết tốt vấn đề thị trường trên cơ sở xúc tiến các hoạt động thương mại tại

các làng nghề nhằm củng cố thị trường đã có, phát triển mạnh thị trường

trong nước và đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu. Giải quyết vấn đề

mẫu mã, thương hiệu trên cơ sở đầu tư cải tiến công nghệ, kỹ thuật sản xuất

và đăng ký danh mục sản phẩm để sản phẩm Đá mỹ nghệ Ninh Vân của

huyện có tên tuổi trên thị trường.

Hình thành kênh thông tin đáng tin cậy, cung cấp các thông tin cần

thiết về thị trường đầu vào và đầu ra cho các cơ sở sản xuất Đá mỹ nghệ.

Đến 2015 mỗi doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình sản xuất có ít nhất

một kênh thông tin chính xác, kịp thời phục vụ cho quá trình ra quyết định

sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Tạo điều kiện thuận lợi để Hiệp hội làng nghề Đá mỹ nghệ hoạt động

có hiệu quả, đồng thời để nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện để các

doanh nghiệp giúp nhau phát triển mặt hàng Đá mỹ nghệ. Hiệp hội làng

nghề phải chủ động liên kết, liên minh, đoàn kết để vì mục đích nâng cao

hiệu quả và thương hiệu làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân trên thị trường.

Đa dạng hoá các hình thức tiếp thị sản phẩm ra nước ngoài. Do hình

thức, tính chất sản xuất của nghề Đá mỹ nghệ, nên năng lực tiếp cận thị

trường nước ngoài rất yếu, phải thông qua các trung gian nên việc hỗ trợ các

doanh nghiệp tiếp thị, triển lãm, quảng bá là hết sức cần thiết.

Khuyến khích các hộ gia đình và doanh nghiệp bán hàng tại chỗ thông

qua hình thức kết hợp sản xuất với du lịch quảng bá sản phẩm trực tiếp với

du khách.

Xây dựng nhãn hiệu riêng cho từng sản phẩm, gắn nhãn hiệu với

thương hiệu của hộ, doanh nghiệp với tên làng nghề Đá mỹ nghệ Ninh Vân

để hình thành thương hiệu của từng sản phẩm Đá mỹ nghệ truyền thống của

huyện Hoa Lư, lồng ghép các nội dung quảng bá, trao đổi và phát triển sản

phẩm Đá mỹ nghệ vào trang Website của huyện, đồng thời tiến tới xây dựng

riêng một trang Web bằng tiếng Việt và tiếng Anh để các đơn vị có thể tham

gia quảng bá, giới thiệu các thế mạnh và các sản phẩm đặc trưng nhất của

mình tới các nhà tiêu thụ và khách hàng. Đồng thời cũng là trang thông tin

tham khảo cho khách hàng, nhà tiêu thụ và các đối tượng cần quan tâm.

3.2.3. Giải pháp phát triển thƣơng hiệu

Nâng cao nhận thức đối với làng nghề truyền thống về thương hiệu và

vai trò của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.

Đẩy mạnh hơn nữa việc thông tin, tuyên truyền và giáo dục, khắc phục tư

tưởng của tư duy cũ cho rằng thương hiệu không quan trọng, coi sản phẩm

không cần thương hiệu. Từ đó, không chú ý đến việc tạo dựng thương hiệu

cho các sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Cần thấy

rằng, việc xây dựng và phát triển thương hiệu là sự nghiệp của mọi thành

viên trong làng nghề, đồng thời gắn với tăng cường chất lượng hàng hoá và

trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng.

Xây dựng chiến lược thương hiệu cho các làng nghề. Cần nghiên cứu

thị trường, nghiên cứu sản phẩm và khách hàng để nhận được những thông

tin cần thiết liên quan đến thương hiệu: Nhận thức của người tiêu dùng về

xuất xứ sản phẩm, sự thay đổi nhận thức của khách hàng trong khi sử dụng

sản phẩm, sự thay đổi về ngôn ngữ trên nhãn hiệu sản phẩm ảnh hưởng đến

nhận thức của khách hàng, ý định mua sản phẩm của khách hàng, xác định

thị trường mục tiêu cho sản phẩm, xây dựng chiến lược phù hợp để thâm

nhập vào thị trường dựa trên kết quả nghiên cứu.

Cùng với việc xây dựng, tạo bản sắc thương hiệu sản phẩm làng nghề

(đặt tên thương hiệu, xác định được biểu trưng và biểu tượng của thương

hiệu, khẩu hiệu của thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu cho thương hiệu để

xác lập quyền nhãn hiệu), thì phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi

mới phương thức kinh doanh, tạo dựng uy tín và hình ảnh của thương hiệu

sản phẩm. Xây dựng mạng lưới phân phối, tăng cường quảng bá thương

hiệu. Việc xây dựng, đăng ký bảo hộ mới là bước mở đầu, làng nghề cần

phải phát triển thương hiệu sản phẩm thông qua xây dựng mạng lưới phân

phối, đưa thương hiệu sản phẩm đó đến với người tiêu dùng, tăng cường

quảng bá hàng hoá, đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, công dụng

mới của sản phẩm để nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu khách hàng của

các sản phẩm làng nghề. Phải sử dụng tổng hợp các yếu tố của marketing

hỗn hợp như quảng cáo trực tiếp, quảng cáo tại nơi bán hàng, quảng bá bằng

phương tiện thông tin đại chúng, phát triển các quan hệ cộng đồng; áp dụng

các hình thức khuyến mại,…để phát triển thương hiệu.

3.2.4. Giải pháp về nguồn vốn cho phát triển làng nghề

Vì vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong quá trình tổ chức sản

xuất. Nhất là do đặc thù của các sản phẩm Đá mỹ nghệ cần số vốn rất lớn

trong trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh. Trong khi, mức tích luỹ

của dân cư trong làng nghề còn thấp, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn

khác còn rất hạn chế, sự liên kết, hợp tác kinh tế với các doanh nghiệp công

nghiệp, thương mại khác để khai thác nguồn vốn còn yếu; môi trường đầu tư

cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề chưa đủ sức hấp dẫn

thu hút các nhà đầu tư vào khu vực làng nghề. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu

vốn cho phát triển các làng nghề cần thực hiện một số giải pháp sau:

Trước hết, làng nghề cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, bên

cạnh đó, huyện cần xây dựng kế hoạch và hợp lý hoá cơ cấu vốn đầu tư cho

phát triển các làng nghề bằng nguồn vốn ngân sách.

Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để tập trung đầu tư phát triển

làng nghề. Cần kết hợp giữa nội lực và ngoại lực thành nhân tố tổng hợp để

phát triển nhưng nhân tố nội lực vẫn giữ vai trò chủ đạo. Vì thế, thu hút vốn

cho phát triển làng nghề cần có tổng lực các nguồn vốn: Vốn ngân sách nhà

nước, vốn tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn của dân cư,…đồng

thời tranh thủ các nguồn vốn khác từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước

hoặc thông qua hình thức liên kết kinh tế bằng việc cung ứng nguyên liệu,

vật liệu, thiết bị hay ứng vốn trước cho các cơ sở sản xuất và người ứng vốn,

thiết bị sẽ bao tiêu sản phẩm.

Thay đổi chính sách thuế đối với các sản phẩm của các làng nghề. Đổi

mới cơ chế, chính sách thuế, chính sách tín dụng phù hợp để tạo điều kiện

hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh của làng nghề đầu tư đổi mới công

nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị

trường trong nước và quốc tế. Trước hết, cần sắp xếp lại các sắc thuế, giảm

bớt số lượng sắc thuế, giảm thuế cho các đối tượng như: Cơ sở sản xuất kinh

doanh mới thành lập, song có triển vọng phát triển sản xuất, thị trường ổn

định, thu hút được nhiều lao động và giữ gìn được giá trị bản sắc văn hoá

của dân tộc; cơ sở sản xuất sản phẩm xuất khẩu; cơ sở sản xuất ứng dụng

công nghệ cao, chống ô nhiễm môi trường.

Hệ thống ngân hàng cần mở rộng tín dụng cho các làng nghề với sự bảo

lãnh của chính quyền địa phương. Tổ chức các hình thức Quỹ tín dụng nhân

dân cổ phần…Đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với các cơ sở sản xuất của làng

nghề. Cần tăng khả năng vay vốn bằng tín chấp cho làng nghề. Cần ưu tiên cho

vay đối với các ngành mà địa phương đang khuyến khích phát triển.

3.2.5. Giải pháp về môi trƣờng

Để đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường trong làng nghề cần

khuyến khích, trợ giúp vốn cho các hộ sản xuất trong làng nghề ứng dụng

những công nghệ thân thiện với môi trường.

Có chính sách và các biện pháp tổng hợp để bảo vệ môi trường sinh

thái xung quanh khi đẩy mạnh phát triển ngành nghề nông thôn nói chung và

làng nghề đá nói riêng: Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận

thức cho nhân dân về ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực của nó đến đời

sống và sản xuất của người dân. Áp dụng nhiều biện pháp tuyên truyền. Nội

dung tuyên truyền là tình hình ô nhiễm môi trường ở địa phương, tác hại của

nó, quy định pháp luật, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân, cơ sở sản xuất,

doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ môi trường. Ứng dụng các giải pháp

công nghệ để xử lý ô nhiễm môi trường như: Sử dụng hệ thống phun mưa

trong các xưởng sản xuất, lắp đặt hệ thống hút bụi tự động trong các máy cắt

đá….Đồng thời tăng cường công tác quản lý Nhà nước về ô nhiễm môi

trường. Tổ chức các cơ quan chuyên trách, sử dụng các phương tiện kỹ thuật

hiện đại theo dõi quản lý chất thải, tình hình ô nhiễm môi trường. Tăng cường

pháp chế và sử dụng công cụ kinh tế vĩ mô để bảo vệ môi trường, kịp thời xử

lý nghiêm những cá nhân, đơn vị có sai phạm gây ra ô nhiễm môi trường.

3.2.6. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các làng nghề

Đây là biện pháp có hiệu quả lớn để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn, không cần nhiều vốn đầu tư mà lại giải quyết được

nhiều việc làm cho lao động. Trên địa bàn huyện tiềm năng để phát triển các

doanh nghiệp nhỏ và vừa còn lớn . Vì vậy, để phát triển mạnh các doanh

nghiệp này huyện sẽ có một số cơ chế, chính sách phù hợp như:

Tạo điều kiện thuận lợi để các gia đình, hộ sản xuất đăng ký sản xuất

kinh doanh, hỗ trợ các hộ, tổ sản xuất phát triển và chuyển đổi thành doanh

nghiệp tư nhân, công ty TNHH,… nhằm tăng khả năng đầu tư, sức cạnh

tranh sản phẩm trong làng nghề.

Khuyến khích các hình thức hợp tác, phân công lao động sản xuất và

hình thành hệ thống chuyên môn hoá trong sản xuất cùng một ngành hàng

của các hộ trong làng nghề như: Vùng chuyên sản xuất hàng thô, vùng

chuyên gia công, đánh bóng sản phẩm...

3.2.7. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển làng nghề

Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng nghị quyết TW5 (khoá IX) về phát triển

kinh tế tư nhân, thực hiện tốt kế hoạch về hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN, từ đó tạo ra sự bình đẳng đối với mọi thành phần

kinh tế trong xã hội.

Trên cơ sở các cơ chế chính sách thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư của tỉnh,

huyện sẽ cụ thể hoá các cơ chế chính sách mang tính đặc thù của huyện trên

nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vào sản xuất Công nghiệp-

Tiểu thủ công nghiệp.

Tiếp tục thực hiện cơ chế chính sách khuyến khích các chủ đầu tư bỏ

vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, khi doanh nghiệp đi vào hoạt động và thực hiện

nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước thì ngân sách địa phương sẽ đầu tư trở lại

cho các chủ đầu tư phấn vốn đã bỏ ra để xây dựng cơ sở hạ tầng theo đúng

chính sách hỗ trợ đầu tư của tỉnh.

Tạo điều kiện thuận lợi, kêu gọi các nhà đầu tư, các dự án kinh tế, kỹ

thuật của các ngành Trung ương, tỉnh, các tổ chức kinh tế trong, ngoài nước

đầu tư vào làng nghề. Huyện trích một phần kinh phí để hỗ trợ xây dựng cơ

sở hạ tầng, xử lý môi trường, thu hút lao động ở các làng nghề.

UBND huyện căn cứ vào nhu cầu thuê đất của các doanh nghiệp, cơ sở

sản xuất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vào khu làng nghề phù hợp với

từng giai đoạn, kinh phí đầu tư từ nguồn đấu giá quyền sử dụng đất thu được

hàng năm, vốn của doanh nghiệp và vốn huy động khác. Các cơ sở xin thuê

đất sẽ được thuê với giá thấp nhất theo quy định hiện hành của chính phủ từ

nay đến 2015.

Các đơn vị được UBND tỉnh cấp bằng công nhận danh hiệu làng nghề

Đá mỹ nghệ và các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm thành thương hiệu của

người sản xuất, ngoài kinh phí được tỉnh hỗ trợ, huyện sẽ hỗ trợ thêm một

phần kinh phí để động viên, vận động nhân dân tham gia củng cố, xây dựng

và bảo tồn làng nghề truyền thống của huyện nhà.

Trên cơ sở chính sách của tỉnh, huyện Hoa Lư có chính sách hỗ trợ

thêm ngoài chính sách của tỉnh như: Ngân sách huyện giành một nguồn kinh

phí trong kế hoạch hàng năm cho các đơn vị tổ chức ứng dụng tiến bộ kỹ

thuật đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, hướng dẫn việc đổi mới làng

nghề, cải tiến mẫu mã, hướng dẫn việc áp dụng các loại công nghệ phù hợp

để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, đa dạng hoá sản phẩm.

KẾT LUẬN

Phát triển làng nghề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát

triển kinh tế - xã hội ở nông thôn: Kích thích tăng trưởng kinh tế theo hướng

tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập,

nâng cao mức sống của người dân nông thôn, góp phần đa dạng hóa các

hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh và thúc đẩy quá trình CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn, giải quyết vấn đề ly nông bất ly hương.

Hoa Lư là huyện có nhiều tiềm năng phát triển làng nghề. Trong thời

gian qua, các làng nghề huyện Hoa Lư đã được củng cố và phát triển, đặc

biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ xã Ninh Vân. Việc làng nghề phát triển đã

góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết được số lượng việc

làm lớn, ổn định kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trong huyện,

đồng thời có những chuyển biến tốt về hình thức tổ chức sản xuất, về công

nghệ và tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, làng nghề Đá mỹ nghệ ở huyện

Hoa Lư đang gặp rất nhiều khó khăn như: Trình độ lao động còn thấp,

chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất - kinh doanh, công nghệ còn lạc

hậu, chắp vá, môi trường ô nhiễm, các doanh nghiệp hoạt động tự phát,

chưa có kế hoạch phát triển cụ thể, cơ sở hạ tầng nhỏ bé chưa theo kịp với

nhu cầu phát triển làng nghề, cơ chế và chính sách quản lý của nhà nước

đối với làng nghề còn thiếu.

Để phát triển làng nghề huyện Hoa Lư, đặc biệt đối với trường hợp

làng nghề Đá mỹ nghệ xã Ninh Vân thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp

cơ bản như: Giải pháp về quy hoạch, về nguồn vốn, về môi trường, về thị

trường, đồng thời phải phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các làng

nghề Đá mỹ nghệ và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm Đá mỹ

nghệ,... Các giải pháp đó cần được thực hiện một cách đồng bộ thông qua

các biện pháp cụ thể. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh đến giải pháp duy trì, mở

rộng thị trường, quy hoạch phát triển làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo

vệ môi trường và hoàn thiện chính sách quản lý của nhà nước nói chung và

của huyện Hoa Lư nói riêng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và JICA (2003), Nghiên cứu

quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp

hóa nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

2. Ban kinh tế Trung ương (2001), Nghiên cứu sự hình thành và phát triển

làng nghề mới gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng,

đề tài khoa học, báo cáo tóm tắt.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Một số chính sách về

phát triển ngành nghề nông thôn, Viện chính sách và chiến lược

phát triển nông nghiệp nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà

Nội.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Phát triển Nông nghiệp

nông thôn bền vững, Hội nghị phát triển bền vững toàn quốc lần

thứ 2.

5. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông

thôn (2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

6. Nguyễn Văn Bách, Chu Tiến Quang chủ biên (1999), Phát triển nông

nghiệp, nông thôn, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở

Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Cục Thống kê tỉnh Ninh Bình (2009), Niên giám thống kê huyện, thị xã,.

8. Đặng Kim Chi chủ biên (2005), Làng nghề Việt Nam và môi trường,

Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Mai Thế Hởn chủ biên, Hoàng Ngọc Hoà và Vũ Văn Phúc (2002), Phát

triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá

trình công nghiệp hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Vĩnh Thanh (2009), Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề

truyền thống ở đồng bằng sông Hồng hiện nay, Nxb Học viện hành

chính Quốc gia Việt Nam.

14. Lê Đình Thắng chủ biên (2000), Chính sách phát triển nông nghiệp và nông

thôn Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

15. Tỉnh uỷ Ninh Bình (2006), Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 8/8/2006 của

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về đẩy nhanh phát triển trồng, chế biến cói,

thêu ren và chế tác Đá mỹ nghệ giai đoạn 2006 - 2010.

16. UBND tỉnh Ninh Bình (2006), Kế hoạch số 18/KH-UBND ngày / /2006

về đẩy nhành phát triển trồng, chế biến cói, thêu ren và chế tác Đá

mỹ nghệ giai đoạn 2006 – 2010.

17. UBND huyện Hoa Lư, Báo cáo kinh tế xã hội các năm 2005, 2006,

2007, 2008, 2009, 2010.

18. Trần Minh Yến (2004), Phát triển nghề thủ công truyền thống trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

19. Website:

http://www.vnep.org.vn

http://baoninhbinh.org.vn

http://www.congthuongninhbinh.gov.vn

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ ĐÁ

MỸ NGHỆ Ở XÃ NINH VÂN HUYỆN HOA LƢ TỈNH NINH BÌNH

Họ và tên: …………………………………………………….

Địa chỉ:……………………………………………………….

Mặt hàng sản xuất:………………………………………………..

1. Phƣơng thức tiêu thụ sản phẩm

* Trực tiếp

10% - 30 %  30% - 70%  70%-100%

* Qua trung gian

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

* Qua mạng

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

2. Thị trƣờng tiêu thụ

* Trong nƣớc

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

* Xuất khẩu

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

3. Số lao động tại cơ sở

Trên 10 người  Dưới 10 người 

4. Hình thức tiếp thị

Quảng cáo  Các hình thức khác  Không có 

5. Trình độ lao động

Đại học  Cao đẳng  Trung cấp  Tự học 

6. Nguyên liệu để sản xuất

Trong tỉnh  Ngoài tỉnh 

* Đánh giá mức độ khó khăn của nguồn cung cấp nguyên liệu cho

làng nghề:

Không khó khăn  Khó khăn  Khó khăn nghiêm trọng

7. Phƣơng thức tiếp cận vốn

* Vốn tự có

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

* Vay ngân hàng

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

* Vay ngƣời thân

10% - 30 %  30% - 70%  70%- 100%

8. Vốn sản xuất kinh doanh

- Ước tổng số vốn:………………………………………………..

- Vốn cố định: ( % ) ………………………………………….

- Vốn lưu động : ( % ) ………………………………………….

9. Cơ sở vật chất kỹ thuật

- Diện tích mặt bằng sản xuất kinh doanh: ……………………………….

- Thực trạng nơi sản xuất kinh doanh :

Nhỏ lẻ  Tập trung 

10. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh

- Thu nhập trung bình của lao động sản xuất kinh doanh/tháng:

……………................................................................................

- Tổng doanh thu hàng năm của doanh nghiệp:

…………………………………………………………………

- Tỷ lệ % thu nhập từ nghề chế tác đá so với tổng thu nhập:

………………………………………………………………..

11. Đánh giá độ cạnh tranh sản phẩm của làng nghề trên thị trƣờng

Cao  Trung bình  Thấp

12. Đánh giá về mức độ ô nhiễm môi trƣờng

Nghiêm trọng  Bình thường  Không quan

tâm 

13. Đề nghị xếp mức độ khó khăn của làng nghề đá Mỹ nghệ (đánh

số thứ tự theo cấp độ, từ khó khăn nhất 1- 12)

- Vốn

- Nguyên liệu

 - Mặt bằng sản xuất

 - Cơ chế chính sách

 - Cơ sở hạ tầng

 - Thiếu thông tin

 - Trình độ lao động

 - Môi trường ô nhiễm

 - Kỹ thuật công nghệ lạc hậu

 - Thu nhập thấp

 - Mẫu mã, chất lượng sản phẩm

 - Thị trường

14. Để phát triển làng nghề đá Mỹ nghệ, vui lòng cho biết ý kiến :

…………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn!

Ngƣời trả lời

(Ký và ghi rõ họ tên