Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM WILAWONE SAYPHANYA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH CHAMPASAK CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM WILAWONE SAYPHANYA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH CHAMPASAK, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 60.31.05.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ VÂN ANH THÁI NGUYÊN - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính bản thân tôi thực hiện, dưới sự
hướng dẫn của TS.Vũ Vân Anh. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn trung thực và chưa sử dụng đẻ bảo vệ một công trình khoa học nào, mọi sự
trích dẫn được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính
xác thực và nguyên bản của luận văn.
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 6 năm 2016
Tác giả
Wilawone SAYPHANYA
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài của mình tôi đã nhận
được sự giúp đỡ quý báu của tập thể và cá nhân.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa sau
đại học, khoa địa lí tại Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyện.
Qua khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
TS.Vũ Vân Anh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi suốt quá trình nghiên
cứu thực hiện đề tài này.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện đề tài em còn nhận được sự giúp đỡ
của trường Cao Đẳng sư phạm PakSe, UBND tỉnh Champasak (CHDCND
Lào), sở nông nghiệp - lâm nghiệp tỉnh Champasak, Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh
Champasak, thư viện trường Đại học Sư phạm thái nguyên, thư viện tỉnh
Champasak, gia đình, bạn bè và người thân đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 6 năm 2016
Tác giả
Wilawone SAYPHANYA
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v
DANH MỤC CÁC HÌNH............................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 1
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu ............................................................. 4
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 5
5. Những đóng góp của luận văn .................................................................................. 7
6. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP .............................................................................................. 9
1.1. Cơ sở lí luận ........................................................................................................... 9
1.1.1. Một số khái niệm ...................................................................................... 9
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của nông nghiệp ......................................................... 9
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp. ............................. 15
1.1.4. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (TCLTNN) ...................... 18
1.1.5. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển nông nghiệp ....................................... 21
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển nông nghiệp ........................................................... 22
1.2.1. Phát triển nông nghiệp ở CHDCND Lào .................................................. 22
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp cấp tỉnh ......................... 27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 33
Chương 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH CHAMPASAK, CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2011 - 2015 .................................................................................................... 34
iii
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak ................. 34
2.1.1. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ ............................................................... 34
2.1.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................... 37
2.1.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội ..................................................................... 40
2.1.4. Đánh giá chung ...................................................................................... 51
2.2. Thực trạng nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND Lào .................................. 55
2.2.1. Khái quát chung ..................................................................................... 55
2.2.2. Ngành trồng trọt ..................................................................................... 59
2.2.3. Ngành chăn nuôi..................................................................................... 68
2.2.3. Ngành dịch vụ nông nghiệp ..................................................................... 72
2.3. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Champasak ....................... 72
2.3.1. Hộ gia đình (nông hộ) ............................................................................. 73
2.3.2. Trang trại ............................................................................................... 73
2.3.3. Hợp tác xã .............................................................................................. 74
2.3.4. Các vùng chuyên canh ............................................................................ 75
2.4. Đánh giá chung .................................................................................................... 76
2.4.1. Những kết quả và thành tựu đạt được ...................................................... 76
2.4.2. Những tồn tại và hạn chế ........................................................................ 77
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 78
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP TỈNH CHAMPASAK - CHDCND LÀO ĐẾN NĂM 2025 .................. 79
3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak đến năm 2025 .................. 79
3.1.1. Quan điểm .............................................................................................. 79
3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp ........................................................... 79
3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp ở tỉnh Champasak .................. 88
3.2.1. Tổ chức sản xuất và sử dụng đất .............................................................. 88
3.2.2. Giải pháp về khoa học - công nghệ .......................................................... 89
3.2.3. Thu hút và huy động vốn đầu tư .............................................................. 89
3.2.4. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
sản xuất nông nghiệp ............................................................................................ 91
iv
3.2.5. Công tác khuyến nông ............................................................................ 92
3.2.6. Sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và có hiệu quả ........................................ 92
3.2.7. Xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm của tỉnh Champasak ................ 93
3.2.8. Tổ chức và thực hiện cơ chế chính sách phù hợp với tỉnh Champasak ....... 94
3.2.9. Giải pháp về môi trường của tỉnh Champasak ........................................ 108
TIÊU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................... 110
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
CNH- HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSHT
Cơ sở hạ tầng
CSVCKT
Cơ sở vật chất kĩ thuật
CHDCND Lào
Cộng Hoa Dân Chủ Nhân Dân Lào
ĐKTN
Điều kiện tự nhiên
ĐV
Đơn vị
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GTSX
Giá trị sản xuất
GTVT
Giao thông vận tải
HTX
Hợp tác xã
HTXNN
Hợp tác xã nông nghiệp
KT - XH
Kinh tế - Xã hội
KHKT
Khoa học kĩ thuật
NXB
Nhà xuất bản
: Kinh tế - xã hội
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
SKH-ĐT
Sở kế hoạch và đầu tư
SNN-LN
Sở nông nghiệp- Lâm nghiệp
: Hợp tác xã nông nghiệp
TCLT
Tổ chức lãnh thổ
TCLTNN
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Tổng sản phẩm GDP của ngành nông nghiệp và tỉ trọng nông
nghiệp trong tổng GDP của cả nước giai đoạn 2011 - 2015 ........... 22
Bảng 1.2. Sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế của Lào theo giai đoạn
2011 - 2015 ...................................................................................... 23
Bảng 2.1. Đơn vị hành chính, diện tích, dân số và mật độ dân số tỉnh
Champasak năm 2015 ..................................................................... 36
Bảng 2.2. Dân số và dân số theo giới tính tỉnh Champasak năm 2015 ............. 41
Bảng 2.3. Cơ cấu sử dụng lao động phân theo ngành kinh tế của tỉnh
Champasak giai đoạn 2011 - 2015 ................................................. 43
Bảng 2.4. Tổng sản phẩm và cơ cấu GDP tỉnh Champasak, CHDCND Lào
phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2011-2015 (theo giá thực tế) .... 55
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp giai đoạn 2011 - 2015
(theo giá thực tế) .............................................................................. 57
Bảng 2.6. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Champasak, giai đoạn
2011 - 2015 (theo giá thực tế) ......................................................... 59
Bảng 2.7. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt phân theo nhóm cây trồng giai
đoạn 2011 - 2015 (theo giá thực tế) ................................................ 60
Bảng 2.8. Diện tích một số loại cây trồng của ngành trồng trọt giai đoạn
2011 - 2015 ...................................................................................... 60
Bảng 2.9. Sản lượng một số loại cây trồng của ngành trồng trọt trong giai
đoạn 2011 - 2015 ............................................................................. 61
Bảng 2.10. Diện tích, sản lượng, năng suất lúa tỉnh Champasak giai đoạn
2011- 2015 ....................................................................................... 62
Bảng 2.11. Diện tích, sản lượng, năng suất lúa của tỉnh Champasak phân
theo mùa vụ giải đoạn 2011 - 2015 ................................................. 63
Bảng 2.12. Diện tích, sản lượng, năng suất ngô giai đoạn 2011 - 2015 ............ 63
v
Bảng 2.13. Diện tích, sản lượng, năng suất khoai lang và sắn giai đoạn
2011 - 2015 ...................................................................................... 64
Bảng 2.14. Diện tích, sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm của
tỉnh Champasak giai đoạn 2011 - 2015 ........................................... 65
Bảng 2.15. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp lâu năm tỉnh Champasak
giai đoạn 2011 - 2015 ...................................................................... 66
Bảng 2.16. Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả tỉnh Champasak giai
đoạn 2011 - 2015 ............................................................................. 66
Bảng 2.17. Số lượng đàn gia cầm tỉnh Champasak trong giai đoạn 2011-
2015 ................................................................................................. 70
Bảng 3.1. Định hướng phát triển sản xuất cây lương thực có hạt đến năm
2025 ................................................................................................. 82
Bảng 3.2. Định hướng phát triển sản xuất cây công nghiệp lâu năm đến
năm 2025 ......................................................................................... 83
Bảng 3.3. Định hướng phát triển sản xuất cây rau, đậu thực phẩm đến năm
2025 ................................................................................................. 84
Bảng 3.4. Định hướng phát triển sản xuất cây ăn quả đến năm 2025 ............... 84
Bảng 3.5. Định hướng một số ngành chăn nuôi đến năm 2025 ........................ 85
Bảng 3.6. Dự báo nhu cầu tiêu dùng một số nông sản chủ yếu của tỉnh
Champasak, CHDCND Lào năm 2020 - 2025 ................................ 86
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Vị trí của Champasak trên đất nước Lào .................................................... 35
Hình 2.2. Bản đồ hành chính tỉnh ChamPaSak, CHDCND Lào ................................ 35
Hình 2.3. Cơ cấu sử dụng lao động phân theo ngành kinh tế của tỉnh
Champasak giai đoạn 2011-2015 ............................................................. 43
Hình 2.4. Cơ cấu GDP tỉnh Champasak, CHDCND Lào phân theo ngành kinh
tế giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá thực tế) ............................................... 56
Hình 2.5. Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Champasak, CHDCND Lào 2015 .................. 56
Hình 2.6. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp giai đoạn 2011 - 2015 (theo
giá thực tế) ................................................................................................. 58
Hình 2.7. Diện tích, sản lượng lúa tỉnh Champasak giai đoạn 2011- 2015 ................ 62
Hình 2.8. Tình hình phát triển ngành Chăn nuôi tỉnh Champasak giai đoạn
2011-2015 .................................................................................................. 68
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò quan trọng trong suốt quá trình
xây dựng và phát triển đất nước Lào. Tỉnh Champasak là tỉnh nằm ở phía Nam của
nước Lào, nằm ở khu vực đồng bằng, cao nguyên có điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên phong phú, điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường thuận lợi cho phát
triển kinh tế nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm một vị trí chủ đạo trong cơ cấu kinh tế
của Champasak. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, diện tích đất nông nghiệp ngày
càng giảm, thị trường nông sản có nhiều biến động, những rủi ro trong nông nghiệp
do chịu ảnh hưởng của thiên tai đang gây ra những khó khăn cho phát triển nông
nghiệp của Champasak.
Để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực phát triển nông nghiệp cần có
những nghiên cứu đánh giá khách quan về nguồn lực và nhân tố ảnh hưởng cũng như
hiện trạng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Champasak. Xuất phát từ thực tế phát triển
nông nghiệp của tỉnh, đề tài “Phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND
Lào giai đoạn 2011 - 2015” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ nhằm góp
phần luận giải quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak từ 2011 đến nay dưới
tác động của nhân tố bên ngoài và bên trong. Từ đó đề xuất những giải pháp có cơ sở
khoa học cho quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Trong hệ thống lí luận về phát triển kinh tế trên thế giới, những nghiên cứu lí
luận về giai đoạn phát triển kinh tế chiếm một vị trí quan trọng. Tiêu biểu cho hướng
nghiên cứu này là nhà kinh tế người Mỹ, Walter W. Rostow. Theo lí thuyết của W.
Rostow: quá trình phát triển kinh tế của mối quốc gia được chia thành 5 giai đoạn: xã
hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao và
ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu kinh tế đặc trưng thể hiện bản chất phát
triển của giai đoạn ấy. Theo mô hình này, then chốt nhất là giai đoạn “cất cánh”.
Học thuyết Keynes: ra đời trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế cuối những
năm đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Nội dung của học thuyết rất rộng, bao hàm
nhiều vấn đề khác nhau để giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ,
1
trong đó có một số điều có thể vận dụng như là cơ sở lí luận cho việc hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Nhìn nhận vai trò của thị trường lao động nông thôn và quá trình công nghiệp
hóa nông nghiệp như một tiến trình chuyển dịch lao động giữa hai lĩnh vực chính nông
nghiệp và công nghiệp, Lewis đưa ra mô hình nguồn lao động vô hạn và thị trường
không hoàn hảo. Theo Lewis, một nền kinh tế nông nghiệp ở giai đoạn đầu phát triển,
lao động nông thôn sống chủ yếu bằng nghề nông rất đông. Trong quá trình công
nghiệp hóa, lao động chuyển sang lĩnh vực công nghiệp, phần đóng góp về GDP và tỷ
lệ lao động của lĩnh vực nông nghiệp đến một thời điểm nhất định sẽ giảm xuống.
Với công trình đoạt giải Nobel năm 1993 “Áp dụng lý thuyết kinh tế và
phương pháp định lượng trong giải thích các thay đổi về kinh tế và tổ chức” của
Douglass C.North, Ông chia quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế thành 4 thời kỳ
tùy theo chi phí thông tin và cưỡng chế thực hiện hợp đồng của mỗi thời kỳ: đó là
thời kì tự cung, tự cấp trong quy mô nông nghiệp làng xã; thời kỳ sản xuất hàng hóa
nhỏ, quan hệ sản xuất kinh doanh vươn ra ngoài phạm vi làng xã, tới mức vùng; thời
kì sản xuất hàng hóa quy mô trung bình và thời kì sản xuất hàng hóa với quy mô lớn.
Vấn đề phân bố không gian của ngành nông nghiệp (Tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp) đã có sức thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Người đầu tiên
đưa ra ý tưởng về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp là nhà khoa học người Đức
J.H.Von Thunen (1783 - 1850). Đầu những năm 1800, Ông đã đề xuất "lí thuyết vành
đai giữa trung tâm và ngoại vi". Dựa trên các kết quả tính toán của mình, Thunen kết
luận về vai trò của thành phố đối với sự phát triển nông nghiệp. Theo ông, xung
quanh một thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các trung tâm
khác) có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp
theo nghĩa rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành đai 1 là thực phẩm tươi sống;
vành đai 2 là lương thực, thực phẩm; vành đai 3 là cây ăn quả; vành đai 4 là lương
thực và chăn nuôi; vành đai 5 là vành đai lâm nghiệp. Tùy theo điều kiện cụ thể về
điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quy mô của thành phố trung tâm
mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp.
Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ chức lãnh
thổ sản xuất nông nghiệp là K.I.Ivanov. Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Tổ chức lãnh
thổ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và việc tính toán điều kiện của địa phương"
2
(1967), ông đã phát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki về các thể tổng hợp lãnh thổ
sản xuất và đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về phương diện lí thuyết, K.I.Ivanov
xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng chuyền) trong việc tổ chức sản xuất của
nhiều phân ngành nông nghiệp. Nhiều tư tưởng và quan niệm mới của ông đã được
ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các hệ thống lãnh thổ.
2.2. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Ở Lào đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới (1975) thì ngành nông nghiệp nói
chung là đã được nhiều cơ quan và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, bên cạnh
đó có nhà nghiên cứu, nhà khoa học như: Keanchanh SINSAMPHAN và Sitha
PHANTHABA “Địa lí Lào” NXB Thanh niên (1998) [12] đã đưa ra lí thuyết về
nông nghiệp Lào và các hình thức nông nghiệp của Lào. Sinuk THILAVONG trong
“Khu vực và các hoạt động kinh tế của con người trên thế giới ” NXB NUOL (1998)
[19], đã đưa ra vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp trên thế giới, hệ thống của
nông nghiệp và các hình thức nông nghiệp trên thế giới. Amphonmali KHEOLA và
Cheung SOMBUON KHAN đã nghiên cứu về “Kinh tế và tổ chức sản xuất nông
nghiệp” với lí luận về vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc gia, NXB
Thanh niên (1985). PGS.TS. Khammany SULIDED “Địa lí kinh tế Lào” đã đưa ra
vai trò của nông nghiệp và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp của
Lào, NXB Giáo dục (2010) [13]. Bunthong BUAHOM (2010), khuyến nông là nhiệm
vụ của toàn dân [3] Nội dung của cuốn sách này đề cập tới vấn đề phát triển nông
thôn, vai trò của kinh tế hộ gia đình trong phát triển nông nghiệp hàng hóa và vai trò
của các cơ quan có liên quan giúp nhân dân thực hiện nhiệm vụ hoạt động khuyến
nông ở các địa phương. Bunthong BUAHOM (2012), phát triển nông nghiệp một
cách bền vững [4]. Cuốn sách này đi sâu phân tích về các khái niệm phát triển nông
nghiệp bền vững, phân tích thực trạng sự phát triển nông- lâm nghiệp của Lào những
năm qua; đã đưa ra các chiến lược và kế hoạch của chính phủ Lào về phát triển nông
nghiệp đến năm 2020 đề ra phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đưa nền
nông nghiệp của Lào đạt được những mục tiêu đã được xác định.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu đề cập đến phát triển nông nghiệp
tỉnh Champasak như: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp
tỉnh Champasak và định hướng đến năm 2020, Sở nông nghiệp - lâm nghiệp tỉnh
3
Champasak, tháng 10 năm 2010. Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Champasak đến năm 2025, tháng 7 năm 2015.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề lý thuyết
về phát triển nông nghiệp, chỉ ra vị trí, tầm quan trọng của các hình thức tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp, tình hình phát triển nông nghiệp ở Lào và Việt Nam. Tuy nhiên, một
loạt vấn đề mà các công trình nghiên cứu đã công bố chưa được đề cập hoặc được đề
cập nhưng chưa có hệ thống và là nhiệm vụ mà chủ đề luận văn này cần giải quyết là:
- Tiêu chí đánh giá nông nghiệp ở Lào và vận dụng ở cấp tỉnh.
- Thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak hiện nay qua cơ cấu
ngành và cơ cấu lãnh thổ; thành tựu và hạn chế trong thời gian qua.
- Quan điểm, phương hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
nông nghiệp tỉnh Champasak nói riêng và CHDCND Lào nói chung.
Các công trình trên là những tiền đề cần thiết định hướng cho luận văn trong
quá trình nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Vận dụng cơ sở lí luận, thực tiễn phát triển nông nghiệp trên thế giới, Việt
Nam và Lào, luận văn tập trung nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND Lào, thực trạng nông nghiệp tỉnh
Champasak trong giai đoạn 2011 - 2015. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy
nhanh quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh.
3.2.Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận, thực tiễn về phát triển nông nghiệp.
- Lựa chọn các tiêu chí đánh giá sự phát triển nông nghiệp cho phù hợp với
lãnh thổ cấp tỉnh.
-Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND Lào
giai đoạn 2011 - 2015.
- Đề xuất các giải pháp cho phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak đến năm 2025.
3.3.Giới hạn nghiên cứu đề tài
-Về nội dung: Nghiên cứu sự phát triển ngành nông nghiệp theo các nhóm tiêu
chí về cơ cấu, giá trị sản xuất, tỷ trọng... Phân tích các nhân tố (tự nhiên kinh tế-xã
hội) tác động đến sự phát triển, phân bố nông nghiệp và thực trạng phát triển, cơ cấu
4
ngành, sự phân hóa lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tỉnh Champasak CHDCND Lào,
phân tích các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp điển hình.
-Về lãnh thổ: Nghiên cứu lãnh thổ toàn tỉnh có sự phân hóa tới cấp huyện.
-Về thời gian nghiên cứu: các vấn đề được nghiên cứu chủ yếu trong khoảng
thời gian 2011 - 2015.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm tổng hợp - lãnh thổ
Quan điểm này xuất phát từ đối tượng của địa lý học là một thể tổng hợp, bao
giờ cũng gắn liền khía cạnh không gian và thời gian nhất định.
Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Champasak được xem xét như một
tổng thể theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Nó lại bao hàm nhiều
vấn đề lớn nhỏ khác nhau, trong đó phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống xã hội
là các bộ phận quan trọng. Chúng có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ lẫn nhau, phát triển
nông nghiệp là nhân, nâng cao mức sống dân cư là quả. Chúng được xem xét trong mặt
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Champasak với nhiều “nhân” và “quả” khác.
Xuất phát từ quan điểm tổng hợp - lãnh thổ, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Champasak trong mối quan hệ với các cấp lãnh thổ cao hơn: vùng và các cấp
lãnh thổ thấp hơn: cụm xã, thôn… Những đặc điểm, những giải pháp vừa mang tính
chất thống nhất vừa mang tính dị biệt đặc trưng cho từng khu vực nghiên cứu cụ thể.
- Quan điểm hệ thống
Mỗi đối tượng nghiên cứu đều là một chỉnh thể thống nhất, đồng thời nó lại là
một bộ phận của một chỉnh thể lớn hơn. Vì vậy, khi nghiên cứu phải đặt đối tượng
nghiên cứu trong chỉnh thể lớn - nhỏ của nó để thấy được bản chất sâu sắc và toàn
diện. Tính hệ thống trong nghiên cứu còn thể hiện ở sự nhất quán trong cách nhìn
nhận sự đồng bộ của hệ thống số liệu, tài liệu, đảm bảo tính hợp lý và logic của đề tài
nghiên cứu.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Bất cứ một sự vật nào đều tồn tại một hoàn cảnh lịch sự cụ thể, vì thế muốn
hiểu rõ bản chất phải hiểu được cả cội nguồn của nó để giải thích những đặc điểm có
trong hiện tại và dự báo xu hướng phát triển trong tương lai. Phát triển nông nghiệp ở
địa phương đã được áp dụng từ lâu song kĩ thuật sử dụng, hiệu quả kinh tế không
5
phải bao giờ cũng như nhau. Xem xét đối tượng trong tiến trình phát triển không
những thấy được quy luật mà còn có thể phát triển tối đa những kinh nghiệm, những
bài học có giá trị.
- Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với việc khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, vì vậy những biện pháp phát triển nông nghiệp của con người vừa xem
xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế vừa đánh giá tác động của chúng đến môi trường
sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững của thiên nhiên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu
Nông nghiệp thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Tư liệu về nông
nghiệp rất đa dạng và phong phú, việc lựa chọn tài liệu, về cơ bản được nhìn nhận
theo góc độ địa lý kinh tế - xã hội.
Đối với địa bàn tỉnh Champasak, tài liệu được thu thập từ một số dự án có liên
quan, từ Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
UBND huyện và các phòng ban của Ủy ban.
- Phương pháp thống kê
Trên cơ sở những số liệu đã thu thập, phương pháp thống kê được sử dụng để
xử lí các số liệu phục vụ mục đích nghiên cứu. Dựa trên các nguồn tài liệu để tìm ra
bản chất của vấn đề, tránh sự chênh lệch giữa các nguồn số liệu. Sản phẩm của việc
xử lý này được phân tích, tổng hợp hay hệ thống hóa bằng bảng số liệu, trực quan hóa
thành biểu đồ.
Việc xử lý số liệu còn kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp và so
sánh để tìm ra những nhận định, đánh giá của bản thân về vấn đề cần nghiên cứu.
Đồng thời, những ý kiến đánh giá của các chuyên gia, những cán bộ nghiên cứu cũng
được tiếp thu, học hỏi.
- Phương pháp thực địa
Những thông tin từ các tài liệu hiện có không thể có giá trị cao nếu không gắn
liền với thực tế trong cuộc sống. Trên cơ sở đó, thực địa trên địa bàn được tiến hành
nhiều lần, nhằm tìm hiểu các hình thức sản xuất nông nghiệp, từ đó tìm ra những đặc
điểm chung cũng như sự khác nhau giữa các hình thức này. Đồng thời, có thể hiểu
hơn đời sống dân cư địa phương.
6
- Phương pháp chuyên gia
Tác giả xin ý kiến các nhà khoa học, các chuyên viên ở Sở Nông nghiệp, Sở kế
hoạch đầu tư, những người am hiểu sâu sắc về lĩnh vực nông nghiệp nói chung, các
ngành chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thủy sản nói riêng để đề tài được hoàn thiện
và có giá trị khoa học
- Phương pháp bản đồ - GIS
Trong quá trình nghiên cứu, bản đồ được sử dụng như một loại tài liệu tham
khảo hữu dụng. Đồng thời, một trong những sản phẩm nghiên cứu là bản đồ. Thông
qua phần mềm Mapinfo, các kết quả nghiên cứu được thể hiện một cách trực quan và
rõ rệt.
- Phương pháp dự báo
+Phương pháp dự báo định tính
Phương pháp này dựa trên cơ sở nhận xét của những yếu tố liên quan, dựa trên những ý kiến về các khả năng có liên hệ của những yếu tố liên quan này trong tương lai. Phương pháp định tính có liên quan đến mức độ phức tạp khác nhau, từ việc khảo sát ý kiến được tiến hành một cách khoa học để nhận biết các sự kiện tương lai hay từ ý kiến phản hồi của một nhóm đối tưởng hưởng lợi (chịu tác động) nào đó.
+Phương pháp dự báo định lượng
Mô hình dự báo định lượng dựa trên số liệu quá khứ, những số liệu này giả sử có liên quan đến tương lai và có thể tìm thấy được. Tất cả các mô hình dự báo theo định lượng có thể sử dụng thông qua chuỗi thời gian và các giá trị này được quan sát đo lường các giai đoạn theo từng chuỗi . Tuy nhiên hiện nay thông thường khi dự báo người ta thường hay kết hợp cả
phương pháp định tính và định lượng để nâng cao mức độ chính xác của dự báo. Bên
cạnh đó, vấn đề cần dự báo đôi khi không thể thực hiện được thông qua một phương
pháp dự báo đơn lẻ mà đòi hỏi kết hợp nhiều hơn một phương pháp nhằm mô tả đúng
bản chất sự việc cần dự báo.
5. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã đúc kết, bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển nông nghiệp để vận dụng vào cấp tỉnh, lựa chọn một số tiêu chí cơ bản
đánh giá sự phát triển nông nghiệp để áp dụng cho tỉnh Champasak.
- Luận văn đã đánh giá đúng vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nông nghiệp tỉnh Champasak.
7
- Luận văn đã đánh giá được sự phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak trong
giai đoạn 2011 - 2015 xét theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trên cơ sở vận dụng
các tiêu chí đã được lựa chọn.
- Luận văn đưa ra được một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần đẩy nhanh quá
trình phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak trong giai đoạn tiếp theo.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, các
biểu đồ và bảng biểu, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển nông nghiệp.
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh
Champasak,CHDCND Lào giai đoạn 2011 - 2015.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak,
CHDCND Lào đến năm 2025.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn nuôi, còn theo
nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tựu chung lại, toàn bộ nền kinh tế có
thể được chia thành 3 khu vực, trong đó khu vực 1 bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, được hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm các ngành nông, lâm và ngư nghiệp. Nông nghiệp phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa được hiểu là sản phẩm của nông nghiệp được mang ra trao
đổi trên thị trường và chịu sự chi phối của quy luật cung, cầu và quy luật cạnh tranh.
So với nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, nông nghiệp hàng hóa có những ưu thế nổi
bật. Vì trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, nông sản chịu sự chi phối của các
quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh buộc các tổ chức, các tập thể
và các cá nhân sản xuất phải tổ chức lại, cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất, chất lượng,
hạ giá thành, thay đổi mẫu mã cho phù hợp với người tiêu dung. Từ đó, thúc đẩy
nông nghiệp phát triển.[18] [22]
Nền nông nghiệp hội nhập cũng được hiểu là quá trình chủ động gắn kết nền
nông nghiệp và thị trường nông sản của từng nước với nền nông nghiệp khu vực và
thế giới thông qua các hiệp định thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp ở các cấp độ
đơn phương, song phương và đa phương.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của nông nghiệp
Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản của con
người. Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu để
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho dân cư. Nông
nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn của nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hóa lớn để
xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Nông nghiệp là khu vực cung cấp
lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Nông
nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường.[22]
9
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, với
những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai trò quan trọng
trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính sách và tiến hành các
biện pháp quản lí có hiệu quả. Nông nghiệp có những đặc điểm sau đây: Đất là tư liệu
sản xuất chủ yếu và đặc biệt của nông nghiệp; Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
cơ thể sống; Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ; Sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên.
1.1.2.1. Vai trò
a) Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản của
con người
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất của xã hội loài người.
Sản phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống mình là lương thực.
Cách đây khoảng 1 vạn năm, con người đã biết thuần dưỡng động vật hoang, trồng các
loại cây rừng và biến chúng thành vật nuôi, cây trồng. Sự ổn định bước đầu của dân số
thế giới từ khi loài người biết trồng trọt và tạo được cơ sở lương thực, thực phẩm.
Với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, nông nghiệp ngày càng được mở
rộng, các giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng và phong phú. Các Mác đã
khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói đến các hoạt động
khác. Ông đã chỉ rõ: nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người...
và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho sự sống của họ và của
mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Điều này khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của
nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia cũng như sự ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Từ đó, chúng ta có thể khẳng
định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp và
phân công lại lao động xã hội. Cho đến nay, chưa có ngành nào dù hiện đại đến đâu,
có thể thay thế được sản xuất nông nghiệp.[24]
b) Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu để
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho dân cư
Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các ngành công
nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống; công nghiệp
dệt, da và đồ dùng bằng da... đều sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp.
10
Đối với các nước đang phát triển, nguyên liệu từ nông sản là bộ phận đầu vào
chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc
làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với số việc làm của chính khâu sản
xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được
tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của thị trường trong nước và
quốc tế. Vì thế, trong chừng mực nhất định, nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự phát
triển và phân bố các ngành công nghiệp chế biến.
c) Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng
hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ lệ cao
trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và cơ cấu ngành nghề của dân cư. Đời
sống dân cư nông thôn càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông thôn càng đa dạng và
đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp và nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu
thụ rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân.
d) Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu,
mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước
Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất khẩu chủ
yếu của hầu hết các nước đang phát triển. Trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ
nông sản xuất khẩu- nhất là dưới dạng thô, có xu hướng giảm đi, nhưng về giá trị
tuyệt đối thì vẫn tăng lên. Vì vậy, trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá ở
nhiều nước, nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu, tạo ra tích luỹ để tái sản
xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Ở Việt Nam, năm 2002, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng nông- lâm- thuỷ
sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trên 5 tỷ đô la) với các mặt
hàng chủ yếu là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả...
e) Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh
vực hoạt động khác của xã hội
Đây là xu hướng có tính qui luật trong phân công lại lao động xã hội. Tuy vậy,
khả năng di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác còn phụ
thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, vào việc phát triển
11
công nghiệp và dịch vụ ở thành thị và cả việc nâng cao chất lượng nguồn lao động ở
nông thôn.
f) Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái, bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường xuyên đất
đai, nguồn nước, các loại hoá chất..., với việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây
trồng, phủ xanh đất trống, đồi trọc... Tất cả điều đó đều có ảnh hưởng lớn đến môi
trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là
điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể phát triển và đạt hiệu quả cao.
Rõ ràng, hiện tại cũng như sau này, nông nghiệp luôn luôn có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế. Trên 40% lao động thế giới đang tham gia sản xuất nông nghiệp
(trong đó ở các nước phát triển dưới 10%, các nước đang phát triển từ 30 - 70%) và
tạo ra 4% GDP toàn cầu (ở các nước phát triển là 2%, các nước đang phát triển là
27%, có những nước trên 50%).
Ở Việt Nam, cho đến hết năm 2003 có 66% lao động trong ngành nông nghiệp
và tạo ra 21,8% giá trị GDP cả nước.
Tại các nước đang phát triển như ở nước ta, nông nghiệp là ngành có liên quan
trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư. Vì vậy, nông
nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự ổn định kinh tế và chính trị - xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, với
những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai trò quan trọng
trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính sách và tiến hành các
biện pháp quản lý có hiệu quả.
a) Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
Trong công nghiệp, giao thông, đất đai chỉ là nơi xây dựng nhà xưởng, hệ
thống đường giao thông. Còn trong nông nghiệp, đất đai trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất như là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Thường
thì, không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quy mô sản xuất, trình
độ phát triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp lệ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng của đất đai (thổ nhưỡng).
12
Trong quá trình sử dụng, đất đai ít bị hao mòn, bị hỏng đi như các tư liệu sản xuất
khác. Nếu con người biết sử dụng hợp lý, biết duy trì và nâng cao độ phì trong đất, thì
sẽ sử dụng được lâu dài và tốt hơn. Tất nhiên, việc duy trì, nâng cao độ phì trong đất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đầu tư vốn, lao động, phương tiện sản xuất hiện đại,
áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Trong lịch sử phát triển nông nghiệp có hai hình thức sử dụng đất là quảng
canh và thâm canh. Quảng canh là biện pháp tăng sản lượng nông nghiệp chủ yếu
do mở rộng diện tích đất trồng trọt (đặc trưng của nền nông nghiệp ở trình độ
thấp), còn mức độ sử dụng máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu... trên một đơn vị
diện tích rất thấp. Hình thức quảng canh phổ biến ở những nước có nền kinh tế
chậm phát triển. Thâm canh là biện pháp tăng sản lượng nông nghiệp do tăng
năng suất cây trồng và sức sản xuất của vật nuôi, đặc trưng của nền nông nghiệp
tiên tiến hiện đại. Nền nông nghiệp thâm canh áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học
kĩ thuật trong nông nghiệp, như máy móc, tưới tiêu khoa học, lai tạo giống, phân
bón, thuốc trừ sâu... Nhìn chung, hình thức thâm canh phổ biến ở những nơi bị hạn
chế về diện tích đất canh tác, ít có khả năng khai hoang, mở rộng diện tích, bình
quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp.[22]
b) Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, cơ thể sống
Trong khi đối tượng sản xuất của công nghiệp phần lớn là các vật vô tri, vô
giác thì nông nghiệp có đối tượng sản xuất là các cây trồng, vật nuôi, nghĩa là các cơ
thể sống. Cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo các qui luật sinh học và
đồng thời cũng chịu tác động rất nhiều của quy luật tự nhiên (điều kiện ngoại cảnh
như thời tiết, khí hậu, môi trường). Quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp là
quá trình chuyển hóa về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng của cây
trồng và vật nuôi. Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các quy luật sinh học
không thể đảo ngược. Ví dụ như hạt giống được nẩy mầm rồi mới sinh trưởng, phát
triển và ra hoa kết trái, hoặc sự thụ thai, sinh đẻ, lớn lên và trưởng thành của vật nuôi.
Các quy luật sinh học và điều kiện ngoại cảnh tồn tại độc lập với ý muốn chủ
quan của con người. Vì vậy, nhận thức và tác động phù hợp với quy luật sinh học và
quy luật tự nhiên là một yêu cầu quan trọng nhất của bất cứ một quá trình sản xuất
nông nghiệp nào.
13
c) Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ
Tính thời vụ là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
ngành trồng trọt, bởi vì, một mặt, thời gian lao động không trùng với thời gian sản
xuất của các loại cây trồng và mặt khác, do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu, mỗi loại
cây trồng có sự thích ứng khác nhau.
Thời gian lao động là khoảng thời gian mà lao động có tác động trực tiếp tới
việc hình thành sản phẩm. Còn thời gian sản xuất được coi là thời gian sản phẩm
đang trong quá trình sản xuất.
Quá trình sinh học của cây trồng, vật nuôi diễn ra thông qua hàng loạt các giai
đoạn kế tiếp nhau: giai đoạn này là sự tiếp tục của giai đoạn trước và tạo tiền đề cần
thiết cho giai đoạn sau. Vì vậy, sự tác động của con người vào các giai đoạn sinh
trưởng của chúng hoàn toàn không phải như nhau. Từ đây nảy sinh tình trạng có lúc
đòi hỏi lao động căng thẳng và liên tục, nhưng có lúc lại thư nhàn, thậm chí không
cần lao động. Việc sử dụng lao động và các tư liệu sản xuất không giống nhau trong
suốt chu kỳ sản xuất là một trong các hình thức biểu hiện của tính thời vụ.
Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào như lao động, vật tư, phân
bón, mà còn ở cả khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Chu kỳ sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp tương đối dài và không giống
nhau. Trong nông nghiệp, thời gian sản xuất bao giờ cũng dài hơn thời gian lao động
cần thiết để tạo ra sản phẩm đó, kể cả sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi.
Sự không phù hợp giữa thời gian lao động và thời gian sản xuất là nguyên
nhân nảy sinh tính mùa vụ. Thời gian nông nhàn và thời gian bận rộn thường xen kẽ
nhau. Tất nhiên, trong giai đoạn hiện nay bằng nhiều biện pháp kinh tế- tổ chức,
người ta đã hạn chế tính thời vụ tới mức thấp nhất. Chẳng hạn để khắc phục tính thời
vụ, chúng ta có thể xây dựng một cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, thực hiện đa dạng
hóa sản xuất (tăng vụ, rải vụ...), phát triển các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn.
d) Nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nhất là vào đất đai và
khí hậu. Đặc điểm này bắt nguồn từ chỗ đối tượng lao động của nông nghiệp là cây
trồng và vật nuôi. Chúng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có đủ 5 yếu tố cơ
bản của tự nhiên là nhiệt độ, nước, ánh sáng, không khí và chất dinh dưỡng, trong đó
14
yếu tố này không thể thay thế yếu tố kia. Các yếu tố trên kết hợp và cùng tác động
với nhau trong một thể thống nhất. Chỉ cần thay đổi một yếu tố là có hàng loạt các kết
hợp khác nhau và dĩ nhiên, điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nông nghiệp.
Mỗi yếu tố và sự kết hợp của các yếu tố thay đổi từ nơi này sang nơi khác.
Những thay đổi ấy phụ thuộc vào tính quy luật theo lãnh thổ và theo thời gian (mùa).
Đất, khí hậu, nước với tư cách như tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng (tự
nhiên) nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng
các quy trình kỹ thuật để sản xuất ra nông phẩm.
Do những đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên không gian
rộng lớn, liên quan tới khí hậu, thời tiết, đất đai của từng vùng cụ thể. Trong cơ chế
thị trường, việc bố trí sản xuất nông nghiệp sao cho phù hợp với từng vùng sinh thái
sẽ tăng thêm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, cần
xem xét, vận dụng các đặc điểm trên của sản xuất nông nghiệp một cách linh hoạt.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp.
Sự phát triển và phân bố nông nghiệp chịu ảnh hưởng sâu sắc của vị trí địa lí,
điều kiện tự nhiên - tài nguyên thiên nhiên và các nhân tố kinh tế xã hội trong cũng
như ngoài lãnh thổ (dân cư, nguồn lao động, tiến bộ khoa học kĩ thuật, cơ sở hạ tầng,
cơ sở vật chất kĩ thuật, vốn đầu tư, đường lối chính sách phát triển kinh tế, thị trường
và mối quan hệ kinh tế liên vùng, các hoạt động kinh tế chính trị, xã hội trong khu
vực và quốc tế.[22]
1.1.3.1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí cùng với khí hậu, thổ nhưỡng quy định sự có mặt của các hoạt
động nông nghiệp. Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với các quốc gia trong khu
vực và nằm trong các miền khí hậu khác nhau sẽ hình thành cơ cấu nông nghiệp khác
nhau, trên cơ sở đó vị trí địa lý ảnh hưởng tới trao đổi và phân công lao động trong
nông nghiệp.
1.1.3.2. Các nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tư nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố nông
nghiệp là đất đai, khí hậu và nguồn nước. Các nhân tố này ảnh hưởng đến khả năng
nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng các quy
trình kĩ thuật để sản xuất ra nông phẩm đồng thời cũng quyết định đến hiệu quả sản
xuất nông nghiệp.
15
- Địa hình
Địa hình có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Địa hình bằng
phẳng tạo điều kiện cho canh tác, áp dụng cơ giới hóa trong nông nghiệp, giữ được
độ ẩm cho đất, hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh quy mô
lớn. Ngược lại, địa hình dốc, việc làm đất, làm thủy lợi đều gặp khó khăn, tốn kém
trong công tác chống xói mòn, rửa trôi... Địa hình cũng có ảnh hưởng tới việc lựa
chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
- Đất đai
Đất là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, là cơ sỏ để tiến hành trồng
trọt và chăn nuôi. Không có đất thì không có sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên đất,
đặc điểm về số lượng và chất lượng của đất là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến
quy mô, cơ cấu, sự phân bố các sản phẩm nông nghiệp.
Năng suất cây trồng cũng như việc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp phụ
thuộc rất nhiều vào chất lượng đất, độ mùn trong đất, thành phần cơ giới, cơ cấu và
tầng dày của đất. Đất là tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp nhưng
không phải là tài nguyên vô tận, nhiều nơi đất đang bị thoái hóa do xâm thực rửa
trôi, hoang mạc hóa và nhất là sự khái thác không hợp lý của con người. Vì vậy, việc
sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên đất là một trong những vấn đề quan trọng hàng
đầu đối với sản xuất nông nghiệp.
- Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió và cả
những bất thường của thời tiết mưa như bão, lũ lụt, hạn hán, gió nóng có ảnh hưởng
rất lớn tới việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen
canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định,
vượt qua giới hạn cho phép, cây trồng, vật nuôi sẽ chậm phát triển, thậm chí bị chết.
- Nguồn nước
Nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và
hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Những nơi có nguồn cung cấp nước dồi dào, thường
xuyên đều là những vùng nông nghiệp trù phú. Ngược lại, nông nghiệp không thể
phát triển được ở những nơi thiếu nước. Tuy nhiên, ở nơi có nguồn nước dồi dào thì
16
vẫn có sự phân hóa lượng nước theo mùa. Do đó, trong sản xuất nông nghiệp cấn
thiết phải có những biện pháp thủy lợi để tiêu nước vào mùa mưa và cấp nước vào
mùa khô.
- Sinh vật
Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật là tiền đề hình thành và phát triển
các giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp
với điều kiện tự nhiên và sinh thái khác nhau.
Như vậy, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên. Đất, khí hậu,
nước với tư cách là tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng nuôi trồng các loại
cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng các quy trình kĩ thuật để sản
xuất ra sản phẩm.
1.1.3.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
- Dân cư và nguồn lao động
Dân có ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Dân cư vừa là lực lượng sản
xuất trực tiếp, vừa là nguồn tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp. Số lượng và chất
lượng nguồn lao động có ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp theo cả chiều rộng
(mở rộng diện tích, quy mô sản xuất) và chiều sâu (thâm canh, tăng vụ, xen canh).
Chính sức lao động của con người là lực lượng sản xuất chủ yếu trong hầu hết các
khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp. Với tư cách là lực lượng sản xuất, con
người được đào tạo, có trình độ chuyên môn kĩ thuật sẽ thúc đẩy khả năng ứng dụng
khoa học công nghệ, giúp tăng năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp.
Dưới góc độ là thị trường tiêu thụ, quy mô dân số sẽ quyết định đến quy mô
các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Dân số càng đông thì nhu cầu về lương thực,
thực phẩm càng lớn và vì vậy, sản xuất nông nghiệp cũng phải phát triển tương ứng
với nhu cầu của dân cư. Những đặc tính về phong tục, tập quán, thói quen tiêu dùng
cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong sản
xuất nông nghiệp.
- Khoa học kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ nông nghiệp
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật (KHKT) đã tạo ra bước chuyển biến mới trong
ngành nông nghiệp, đã và đang đưa nông nghiệp trở thành ngành sản xuất tiên tiến - một
17
dạng sản xuất kiểu công nghiệp. Nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng này là đưa nông
nghiệp lên giai đoạn đại cơ khí, đẩy mạnh các quá trình liên kết, nâng cao vai trò của
khoa học và biến nó thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nông nghiệp. Áp dụng rộng
rãi các tiến bộ KHKT, xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơ sở vật chất kĩ thuật hoàn thiện
giúp con người hạn chế những ảnh hưởng của ĐKTN, chủ động hơn trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp.
- Nguồn vốn
Nguồn vốn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và phân bố nông
nghiệp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Lào. Nguồn vốn đầu tư vào sản
xuất lớn sẽ tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, thúc đẩy
nông nghiệp phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp
Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới con đường
phát triển và các hình thức TCLT nông nghiệp. Sự điều hành vĩ mô của nhà nước với
các chính sách, chế độ, biện pháp đúng đắn sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển. Ngược lại, nếu hệ thống chính sách không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí đẩy
lùi quá trình phát triển nông nghiệp.
- Thị trường tiêu thụ
Trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường tiêu thụ là yếu tố cơ bản tác động đến
cơ cấu, quy mô và giá trị của sản phẩm nông nghiệp, có tác dụng thúc đẩy nông
nghiệp phát triển và ngược lại. Nhu cầu của thị trường quyết định hướng sản xuất
nông nghiệp. Mọi biến động trên thị trường đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực
đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thị trường cũng có tác dụng điều tiết đối với sự
hình thành và phát triển vùng chuyên môn hóa nông nghiệp.
1.1.4. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (TCLTNN)
1.1.4.1. Hộ gia đình (nông hộ)
Hộ là một đơn vị KT-XH tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng mà ở
các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Đây là một tế bào của xã hội mà quan hệ
giữa các thành viên trong thế bào này thường là quan hệ huyết thống, dòng họ. Kinh
tế của họ thường dựa trên cơ sở sức lao động của tất cả các thành viên trong gia đình,
tiến hành khai thác đất và các yếu tố sản xuất khác nhằm mang lại của cải vật chất để
18
phục vụ cho nhu cầu của tất cả mọi người trong hộ. Tất cả các thành viên trong hộ gia
đình đều phải có nhiệm vụ và trách nhiệm làm tăng thu nhập để đảm bảo sự tồn tại.
Hộ gia đình vừa là đơn vị sản xuất cũng vừa là đon vị tiêu dùng. [16]
Hộ gia đình là hình thức sản xuất nhỏ vốn tồn tại phổ biến ở các nước đang
phát triển trong đó có nước ta. Các đặc trưng cơ bản của hộ gia đình :
- Đất đai, qui mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. Tùy từng
nơi khác nhau mà quy mô canh tác có diện tích khác nhau. Ví dụ: ở Lào 1,5 ha/hộ,
Việt Nam khoảng 0,5 ha/hộ (miền Bắc) 0,6 - 1 ha (miền Nam), Ấn Độ 2 ha/hộ,
Philippin 3ha/hộ
- Về vốn sản xuất của hộ gia đình hầu như rất ít, quy mô thu nhập nhỏ, khả
năng tích lũy thấp do hầu như vật chất để phục vụ nhu cầu hàng ngày của gia đình
nên khả năng đầu tư tái sản xuất cũng hạn chế. Các vật tư phục vụ cho quá trình tái
sản xuất được mua từ tiền bán nông phẩm.
- Về lao động: sử dụng lao động phục vụ cho quá trình sản xuất chủ yếu từ lao
động trong gia đình. Tiến hành sản xuất không phải mất tiền mua mà là sử dụng lao
động để tự phục vụ nhằm tự thỏa mãn nhu cầu của gia đình. Kĩ thuật canh tác và
công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính truyền thống.
Đối với các nước đang phát triển hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể
tồn tại thúc đẩy nông thôn quá độ lên 1 mức cao hơn: nông thôn sản xuất hàng hóa.
Hộ gia đình có khả năng tồn tại và phát triển qua nhiều chế độ xã hội khác nhau và
trên thực tế vẫn đang tồn tại và tiếp tục phát triển.[15]
1.1.4.2. Trang trại
Trang trại có nguồn gốc từ hộ gia đình, được phát triển trong quá trình chuyển
dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa. Trang trại là
kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng hóa, là hình thức tiến bộ của sản
xuất nông nghiệp thế giới. Hoạt động của kinh tế trang trại chịu sự chi phối của nền
kinh tế thị trường và tuân theo quy luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh.
Tiêu chí cơ bản của trang trại:
- Quy mô đất đai có sự khác nhau giữa các nước.
19
- Cách thức tổ chức sản xuất (tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hóa), tập trung
vào những nông sản có lợi thế so sánh và khả năng sinh lợi cao hơn và vào việc thâm
canh (đầu tư tương đối lớn về vốn, công nghệ, lao động, ... trên một đơn vị diện tích).
- Lao động (có thuê mướn lao động thường xuyên và lao động thời vụ).
- Sản xuất chuyên môn hóa (cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, cho
nên vùng chuyên môn hóa, tập trung hàng hóa,...).
1.1.4.3. Hợp tác xã
HTXNN là một tổ chức kinh tế do nông dân tự nguyện lập ra với nguồn vốn
hoạt động do góp cổ phần và huy động từ các nguồn khác, nhằm duy trì, phát triển
kinh tế hộ gia đình và tăng nhanh tỉ suất hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế cao cho các
chủ trang trại.
Tiêu chí cơ bản của HTXNN:
- Là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của của những nông hộ, trang trại có
cùng yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh và đời sống của mình mà
bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu quả.
- Hoạt động của HTXNN không chỉ vì lợi nhuận cho các thành viên góp vốn
vào HTX mà còn nhằm phục vụ tốt nhất các dịch vụ để mang lại thu nhập và lợi
nhuận cao nhất cho các hộ, các chủ trang trại. Có hai loại hình HTXNN: HTX đơn
ngành, phổ biến ở các nước Âu-Mỹ, cung ứng từng loại dịch vụ.
- Cơ sở thành lập HTXNN dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và
mỗi xã viên đều có quyền bình đẳng theo nguyên tắc mỗi người không phân biệt
lượng vốn góp ít hay nhiều.
- HTXNN là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có
nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch
vụ cần thiết và đủ khả năng quản lí kinh doanh.
Như vậy, bản chất của HTXNN là tổ chức kinh tế trên cơ sở của các nông hộ
và nông trại, mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ vừa kinh doanh.
1.1.4.4. Vùng chuyên canh
Trên một lãnh thổ nhất định, hoạt động sản xuất có sự tập trung cao độ với quy
mô lớn được đầu tư trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hóa một loại nông phẩm
nhằm đem lại hiệu quả cao về KT-XH.
20
Tiêu chí cơ bản của vùng chuyên canh:
- Mức độ tập trung hóa đất đai rất lớn trên một lãnh thổ nhất định. Nhìn chung,
diện tích đất dành cho một loại cây trồng riêng tương đối lớn.
- Chuyên môn hóa sản xuất phát triển ở trình độ cao. Nói đến vùng chuyên
canh là phải nói đến chuyên môn hóa. Mục tiêu chính của chuyên môn hóa là tạo ra
nhiều sản phẩm hàng hóa trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của vùng
với chất lượng cao, giá thành hạ để cạnh tranh được trên thị trường.
- Sản xuất được tiến hành gắn với thâm canh, áp dụng các tiến bộ KHKT, đảm
bảo được các mối liên hệ đặc biệt giữa vùng nguyên liệu và các cơ sở chế biến.
1.1.4.5. Tiểu vùng nông nghiệp
Tiểu vùng nông nghiệp là những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối
thống nhất về các ĐKTN và KT-XH, được hình thành với mục đích phân bố hợp lí và
chuyên môn hóa đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng đầy đủ và có hiệu
quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước cũng như trong nội bộ
từng tiểu vùng.[22]
Tiểu vùng nông nghiệp là một bộ phận lãnh thổ của địa phương (một tỉnh) bao
gồm những lãnh thổ có sự tương đồng về: Điều kiện sinh thái nông nghiệp khí hậu, đất
đai, nguồn nước,...), điều kiện KT-XH (số lượng, chất lượng, sự phân bố dân cư, lao
động nông nghiệp, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất), trình độ thâm canh,
CSVCKT, chế độ canh tác, cơ cấu sản xuất nông nghiệp, các sản phẩm chuyên môn hóa.
Việc phân chia các tiểu vùng nông nghiệp có ý nghĩa to lớn nhằm phân bố hợp
lí cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với các điều kiện sinh thái nông nghiệp, điều
kiện KT-XH và hình thành các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
1.1.5. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển nông nghiệp
+ Nhóm tiêu chí phát triển chung của nông nghiệp
Bao gồm: GDP nông lâm thủy sản, tỷ trọng nông lâm thủy sản trong cơ cấu
kinh tế, giá trị sản xuất ngành nông, lâm thủy sản, tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ
tăng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản, lao động nông lâm thủy sản.
+ Nhóm tiêu chí cơ cấu: Gồm cơ cấu ngành nông lâm thủy sản, cơ cấu kinh tế
theo lãnh thổ.
+ Nhóm tiêu chí hiệu quả kinh tế: Gồm năng suất lao động, thu nhập trong
nông lâm thủy sản.
21
+ Các tiêu chí khác như: Cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu lao động nông nghiệp,
bình quân đất nông nghiệp đầu người, hệ số sử dụng đất…
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển nông nghiệp
1.2.1. Phát triển nông nghiệp ở CHDCND Lào
1.2.1.1. Đặc điểm
Nông nghiệp phát triển tương đối ổn định và vững chắc, đặc biệt là từ sau đổi mới.
Nền nông nghiệp của Lào vẫn đạt được tăng trưởng ổn định trong quá trình
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế. Tốc độ tăng GDP nông nghiệp hàng năm vẫn được
duy trì ở mức cao tổng sản phẩm trong nước của nông nghiệp từ sau đổi mới đến nay
tăng liên tục trong khi tỉ trọng của nó trong tổng GDP toàn bộ. Do thực hiện công
cuộc đổi mới, nền nông nghiệp nước ta đã phát triển khá ổn định.[21]
Bảng 1.1: Tổng sản phẩm GDP của ngành nông nghiệp và tỉ trọng nông nghiệp
trong tổng GDP của cả nước giai đoạn 2011 - 2015
Tốc độ tăng trưởng GDP GDP nông nghiệp % trong tổng Năm theo giá hiện hành Toàn bộ nền GDP Nông nghiệp (tỉ kip) kinh tế
2011 8.782.590 26,7 8,0 2,7
2012 9.566.567 25,5 8,3 3,1
2013 9.318.869 23,7 7,56 3,0
2015 9.879.537 23,2 8,11 3,3
(Nguồn: Niên giám thống kê quốc gia Lào)
Có thể thấy, tổng sản phẩm trong nước của nông nghiệp giai đoạn 2011-2015
có xu hướng tăng liền tục và khá ổn định trong khi đó tỉ trọng của ngành nông nghiệp
so với cả nước tốc độ tăng trưởng GDP năm 2011-1012 là 2,7 %, năm 2012-2013 tốc
độ tăng trưởng GDP là 3,1%, năm 2013-2014 tốc độ tăng trưởng GDP là 3%, năm
2014-2015 tốc độ tăng trưởng GDP là 3,3%.
Tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP cả nước trong giai đoạn 2011-2012 là
26,7%, giai đoạn 2012-2013 tổng GDP cả nước là 25,5%, trong đó tổng GDP cả nước
là 23,7%, trong giai đoạn 2013-2014, giai đoạn 2014-2015 tổng GDP cả nước tăng
trở lại 23,2%. Điều này đó là sự chuyển dịch hợp quy luật theo hướng CNH, HĐH.
22
Nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa, đang chi phối nền kinh tế. Ngành này sử
dụng khoảng 85% dân số và đóng góp khoảng 51% GDP. Sản phẩm nông nghiệp bao
gồm khoai tây, rau xanh, cà phê, đường mía, thuốc lá, ngô, vải, chè, lạc, gạo, trâu,
lợn, gia súc, gia cầm.
Nông nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu theo xu hướng mở rộng
nền kinh tế hàng hóa.
Đối với một nước mà nông nghiệp vẫn giữ địa vị trọng yếu như Lào thì việc
chuyển đổi cơ cấu có ý nghĩa là đặc biệt quan trọng. Trong phạm vi toàn ngành, cơ
cấu nông nghiệp đang có sự chuyển dịch đúng hướng và hiệu quả kinh tế tăng lên rõ
rệt và ổn định.
Bảng 1.2. Sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế của Lào
theo giai đoạn 2011 - 2015
(đơn vị %)
Chia ra theo ngành Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn Nông - lâm bình quân Công nghiệp Dịch vụ nghiệp
2,7 8,0 13,5 8,1 2011
3,1 8,3 10,9 9,8 2012
3,0 7,6 8,90 7,0 2013
3,3 8,11 15,5 9,1 2015
[Nguồn: 25]
Đầu thế kỷ 21, nhất là các năm 2011, 2012 nền kinh tế của Lào đã phát triển
liên tục, GDP thực tế tăng trưởng trung bình là 8% so với năm trước, trong đó ngành
nông- lâm nghiệp tốc độ tăng trưởng là 2,7%/năm, chiếm 26,7% của GDP, ngành
công nghiệp tốc độ tăng trưởng là 13,5%/năm, chiếm 28,0% của GDP, ngành dịch vụ
tốc độ tăng trưởng là 8,1%/năm, chiếm 39,2% của GDP.
Giai đoạn 2012-2013 GDP thực tế của Lào đạt được 8,3% trong đó ngành
nông-lâm nghiệp tốc độ tăng trưởng là 3,1%/năm, chiếm 25,5% của GDP, ngành
công nghiệp tăng 10,9%/năm, chiếm 30,3% của GDP, ngành dịch vụ tốc độ tăng
trưởng là 9,8%/năm, chiếm 38,4% của GDP.
23
Giai đoạn 2013-2014 GDP thực tế của Lào đạt được 7,56% trong đó ngành
nông - lâm nghiệp tốc độ tăng trưởng là 3%/năm, chiếm 23,7% của GDP, ngành công
nghiệp tăng 8,9%/năm, chiếm 29,1% của GDP, ngành dịch vụ tốc độ tăng trưởng là
7,0%/năm, chiếm 39% của GDP.[23]
Giai đoạn 2014-2015 GDP thực tế của Lào đạt được 8,11% trong đó ngành
nông-lâm nghiệp tốc độ tăng trưởng là 3,3%/năm, chiếm 23,15% của GDP, ngành
công nghiệp tăng 15,5%/năm, chiếm 32,42% của GDP, ngành dịch vụ tốc độ tăng
trưởng là 9,1%/năm, chiếm 37,87% của GDP.
Sự phát triển của nông-lâm nghiệp và kinh tế nông thôn đã góp phần giảm tỉ lệ
nghèo đói của nhân dân các bộ tộc Lào từ mức 46% trong năm 1992 xuống năm 2013
là 23% và 10% năm 2015. Muốn sản xuất nông nghiệp có năng suất cao, chất lượng
tốt, giá thành hạ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với yêu cầu của thị
trường và đạt hiệu quả cao thì việc không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thông qua các chính sách đào tạo nghề nông cho nông dân nhằm bồi dưỡng kiến thức
về khoa học - kỹ thuật là vấn đề cấp bách. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, tất yếu phải cần đến xu hướng giải phóng lao động, đó là tiền đề
của những chính sách đào tạo nghề mới, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển
đổi sang các ngành phi nông nghiệp. Khi hệ thống đào tạo nguồn nhân lực được phát
triển đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Trong giai đoạn phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản
xuất hàng hóa lớn, vững bền; phát triển nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa đất nước, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của cư dân nông thôn,
bảo vệ môi trường.
Về phát triển nông nghiệp theo lãnh thổ
- Vùng đồng bằng: Diện tích sản xuất ở các vùng này có hệ thống thủy lợi
tương đối ổn định, tiến hành sản xuất theo kiểu tập trung, có sử dụng khoa học và
công nghệ hiện đại vào trong quá trình sản xuất, đảm bảo giữ được độ phì nhiêu của
đất đai; hướng dẫn sử dụng phân hóa học, vật tư và cơ giới nông nghiệp; tạo thêm
giá trị nông phẩm bằng việc chế biến; có các biện pháp để giảm bớt ảnh hưởng xấu
của thời tiết. Những người chủ sản xuất nhỏ phải tập trung vào quá trình sản xuất,
hợp tác với các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao được giá trị hàng hóa nông
nghiệp và đảm bảo được khâu tiêu thụ sản phẩm.
24
Những vùng có thể mạnh có thể tiến hành sản xuất theo kiểu quy mô lớn, các
dự án nông nghiệp sẽ được tiến hành cùng với chính quyền địa phương, thỏa thuận và
hợp tác với người nông dân ở địa phương, kết hợp với kế hoạch kinh tế - xã hội của
huyện và của tỉnh, thực hiện thành công chỉ thị của Đảng "xây dựng tỉnh thành đơn vị
chiến lược, xây dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện và xây dựng bản làng
thành đơn vị phát triển" [8]. Tiếp tục củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp
như: các công tình thủy lợi, khuyến nông bằng cách hợp tác với nhân dân và tư nhân
dưới sự chỉ đạo của nhà nước.
Tập trung củng cố và xây dựng hệ thống cơ sở thủy lợi, ưu tiên phát triển 7
vùng đồng bằng (đồng bằng Viêng Chăn, Bo ly khăm xay, Khăm muôn, Sa văn na
ket, Sa la văn, Chămpa sắk và Ăt ta pư).
- Vùng miền núi: Các vùng này đời sống của nông dân còn nhiều khó khăn,
việc sản xuất nhằm tự cung, tự cấp về lương thực thực phẩm; về chăn nuôi, phần lớn
là nuôi trâu, bò và các loại cá, gà,... cung cấp cho thị trường địa phương, các tỉnh
trong nước và xuất khẩu sang các nước láng giềng.
1.2.1.2. Các vùng sản xuất nông nghiệp của Lào
Nông nghiệp Lào chia ra 6 vùng sản xuất nông nghiệp sau:
- Vùng đồng bằng Viêng Chăn: Bao gồm thủ đô Viêng Chăn, Bo ly khăm xay và
một phần của tỉnh Viêng Chăn. Các vùng này có độ cao so với mặt nước biển khoảng
500-1000 mét, và lượng mưa khoảng 2500-3000 mm. Các vùng đó bao gồm cả vùng
trung du và đồng bằng, rừng tự nhiên vẫn còn tồn tại một số vùng nhưng bị tàn phá do
nạn chặt phá rừng lấy gỗ, làm nương. Diện tích nông nghiệp là 321.095 ha, trong đó diện
tích đảm bảo thủy lợi chỉ là 38.950 ha [8]; nhân dân phần lớn chỉ làm ruộng, trồng các
loại cây lương thực và hoa màu, chăn nuôi,... theo kiểu truyền thống và bước đầu của
nông nghiệp chính vì thế chất lượng và hiệu quả không cao. Từ năm 2006 đến 2015, nhà
nước đã có các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài về
phát triển nông nghiệp. Chính vì thế, ở vùng này có xuất hiện một số nông trại như nông
trại nuôi lợn, cá, gà trứng và thịt dê, bò; trồng các loại cây công nghiệp.
-Vùng ven bờ sông Mê kông: Bao gồm vùng ven bờ sông Mê kông và vùng
đồng bằng dọc theo các sông nhỏ là chi nhánh của sông Mê kông. Các vùng này có
độ cao so với mặt nước biển 100-200 mét, phần lớn là đồng bằng và có độ dốc ít; phù
25
hợp các loại hoa màu, trồng lúa nước và có hệ thống thủy lợi đảm bảo hơn so với các
vùng khác; mật độ dân số tương đối cao so với các vùng trên cả nước. Nhưng khu
vực này về mùa mưa thường bị lũ lụt và sạt lở. Ở vùng này. Nhà nước chỉ khuyến
khích các hộ gia đình trồng lúa, trồng các loại hoa màu theo thời vụ như lúa nước,
ngô, mía, lạc, chuối,...
-Vùng trung lưu ở miền trung và miền Nam: Những vùng này nằm ở tỉnh Khăm
Muôn, Sa Văn Na Khêt, Sê koong và Ăt Ta Pư. Là vùng song song với sông Mê kông,
bao gồm cả vùng núi cao và vùng đồng bằng dọc theo các sông nhỏ là chi nhánh của
sông Mê kông; có độ cao so với mặt nước biển khoảng 200-500 mét. Các vùng này có
sự hạn chế về việc phát triển sản xuất nông- lâm nghiệp (vì đất có chất a xít và bị ảnh
hưởng bom từ thời chiến tranh), mật độ dân số thấp và tình trạng nghèo đói cao. Phát
triển mạnh nhất ở vùng này là trồng các loại cây công nghiệp như cây cao su,...
-Vùng núi miền Bắc: Bao gồm vùng miền núi ở tỉnh Phông Xa Ly, Luông
Nam Tha, Bo Kẹo và và một số vùng của tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng và miền
Đông của tỉnh Bo Ly Khăm Xay. Các vùng này có độ cao so với nước biển khoảng
1500- 2500 mét, mật độ dân số thấp, mức độ nghèo đói cao hơn các vùng. Hiện nay,
rừng tự nhiên bị tàn phá nặng nề bởi việc làm nương không cố định của người dân và
của một số nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Vì thế, trong những năm qua nhà
nước cũng đang có chính sách khôi phục lại. Vùng đất này phù hợp với phát triển các
ngành chăn nuôi và trồng các loại hoa màu kinh tế.
-Vùng đồng bằng miền Bắc: Bao gồm một phần diện tích của tỉnh Luông Nam
Tha, Phông Xa Ly, U Đôm Xay và Xay Nha Bu Ly. Các vùng này có độ cao so với
mặt nước biển khoảng 500-1500 mét và có lượng mưa khoảng 1500-2000 mm. Hiện
nay, rừng tự nhiên bị tàn phá nặng nề bởi việc làm nương không cố định của người
dân và một số nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khai thác gỗ, trồng cây công
nghiệp. Các vùng này có thể mạnh về trồng ngô, trồng cỏ để chăn nuôi, có mật độ
dân số cao hơn các vùng miền núi, việc phát triển nông nghiệp có tiến bộ hơn và nhân
dân có thu nhập cao, cuộc sống ổn định hơn vùng miền núi.
-Vùng cao nguyên: Bao gồm một phần của tỉnh Chăm Pa Sắk, Sa La văn và
Xê Koong. Khu vực này có độ cao so với mặt nước biển khoảng 500-1500 mét, lượng
mưa khoảng 2500-3000 mm, đất đai màu mỡ, phù hợp với trồng các loại cây công
26
nghiệp như: chè, cà phê, cao su,... vẫn có tình trạng nhân dân phá rừng làm nương ở
một số khu vực. Nhà nước đã cho phép nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư
trồng cây công nghiệp như: cà phê, cao su,... là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn về
việc sử dụng đất. Hiện nay, độ phì nhiêu của đất bị giảm, hiện tượng buôn bán gỗ trái
phép là một vấn đề khó giải quyết,...
Từ thực tế cho thấy, các quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung chỉ là
kế hoạch lâu dài mang tính chiến lược, nhằm khuyến khích đầu tư trong nước và
ngoài nước. Hệ thống nông nghiệp ở đây có hai loại: Hệ thống nông nghiệp vùng
đồng bằng dựa vào lượng nước mưa và hệ thống nông nghiệp vùng ven bờ sông Mê
kông (là vùng đồng bằng dọc theo các sông nhỏ là chi nhánh của sông Mê kông) dựa
vào thủy lợi.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp cấp tỉnh
* Những hạn chế
Nhà nước chưa có nhiều biên pháp thúc đẩy sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu
nông-lâm nghiệp, nên sự chuyển dịch đó còn diễn ra chậm chạp. Điều này được thể
hiện ở chỗ:
- Cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho từng mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp tại
nhiều vùng vẫn còn nhiều mặt bất hợp lý. Nhiều nơi, nông dân vẫn giữ nguyên các
loại giống cây trồng, vật nuôi chưa được cải tạo cùng các phương pháp sản xuất canh
tác truyền thống, nên năng suất còn thấp. Việc chuyển đổi cơ cấu trong thực tế mới
chỉ diễn ra ở các khu vực xung quanh khu đô thị, vùng đồng bằng, hoặc theo các trục
quốc lộ, các trục giao thông thuận lợi, còn ở vùng sâu, vùng xa, sự chuyển dịch này
chưa có gì đáng kể.
- Cơ cấu ngành nghề cũng chưa có sự biến đổi rõ rệt, cơ bản vẫn mang tính
chất của một nền sản xuất phục vụ cho tiêu dùng cá nhân, hoặc sản xuất tiêu thụ
trong nước, đảm bảo an toàn lương thực là chính, chứ chưa lấy mục tiêu hướng về
xuất khẩu. Trong các ngành nghề thì ngành chăn nuôi chưa tách khỏi ngành trồng trọt
thành một ngành chuyên môn độc lập; ngành thủ công nghiệp cũng chưa phát triển,
mục đích của sản xuất chỉ chủ yếu thỏa mãn các nhu cầu tại chỗ, chứ chưa hướng tới
thị trường trong nước và quốc tế.
27
- Đối với một nước nông nghiệp kém phát triển như Lào để phát triển nền
nông nghiệp thì sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo hướng phi nông nghiệp là hết
sức quan trọng. Nhưng trong thời gian qua, quá trình này diễn ra còn chậm chạp. Tỷ
trọng sản xuất dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp tăng chưa đáng kể trong cơ cấu GDP.
Các ngành, nghề truyền thống trong nông thôn tuy có phát triển bước đầu, song chỉ
mang tính chất trao đổi hàng hóa giản đơn. Những năm qua, Lào đã cố gắng xây
dựng một số dự án đầu tư đối với nghề dệt thủ công truyền thống ở vùng nông thôn,
song do nguồn vốn còn ít ỏi và thiếu kinh nghiệm nên khả năng đáp ứng của các
ngành nghề này so với nhu cầu chung của nền kinh tế -xã hội còn hạn chế.
* Nhà nước chưa có giải pháp để các thành phần kinh tế phát huy hết tiềm
năng sản xuất và kinh doanh, do vậy chưa thúc đẩy khu vực nông nghiệp phát triển
mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa.
Các đơn vị kinh tế hộ nông dân là những đơn vị có quyền tự chủ trọng sản xuất
và kinh doanh. Tuy nhiên, do việc tổ chức sản xuất ở quy mô quá nhỏ, ruộng đất lại
manh mún, cùng với sự yếu kém trong kết cấu hạ tầng phụ vụ nông nghiệp, và đặc biệt
là do cách thức làm ăn chưa khoa học, nên chất lượng sản phẩm thấp, gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tiêu thủ sản phẩm. Trong khi đó, việc khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế khác có quy mô lớn hơn, như thành phần kinh tế tư bản tư nhân ở
khu vực nông thôn để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa hầu như chưa có, hoặc
nếu có thì chủ vẫn là các đơn vị sản xuất kinh doanh ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
thương mại và xây dựng. Nói chung, các thành phần kinh tế đang hoạt động trong khu
vực nông nghiệp hiện nay còn nhiều yếu kém, nhà nước chưa có điều kiện giúp đỡ các
thành phần kinh tế đầu tư về chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất. Vì thế, các đơn vị
này còn tổ chức sản xuất theo kiểu hộ kinh tế cụ thể, sản xuất, kinh doanh manh mún
và chưa có khả năng thúc đẩy kinh tế hàng hóa tại khu vực nông thôn.
*Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa đầu
tư đầy đủ, chưa có chính sách khuyến khích và đồng bộ. Nhìn chung, cho tới nay,
trình độ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp của Lào còn nhiều mặt hạn chế như:
- Kỹ thuật lao động trong các ngành nghề nông nghiệp phần lớn ở trình độ thủ
công đơn giản. Việc sử dụng máy móc trong nông nghiệp còn quá ít. Đến năm 2015,
cả nước có khoảng 39% người nông dân sử dụng máy móc vào trong sản xuất. Trong
28
đó khoảng 85% là sử dụng máy cày loại nhỏ, 15% sử dụng máy gặt; 12.700 nhà máy
xay xát các loại [8].
- Số cán bộ nghiên cứu khoa học để phục vụ nông nghiệp còn ít, cơ sở nghiên
cứu và triển khai trong nông-lâm nghiệp chưa có mang tính chất đột phá.
- Năng lực tổ chức, quản lý đưa tiến bộ khoa học, công nghệ vào trong nông -
lâm nghiệp còn nhiều hạn chế, nhất là trong một số lĩnh vực, như tạo giống, kỹ thuật
công nghệ để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, vật liệu xây dựng, và
đặc biệt là ngành chế biến nông - lâm sản.
- Việc quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ khoa học - kỹ thuật, các cán bộ
quản lý kinh tế trong khu vực nông nghiệp chưa được chú ý đúng mức. Do các chính
sách sử dụng cán bộ còn nhiều bất cập, nên ở Lào hiện nay hàng năm số lượng cán bộ
khoa học - kỹ thuật được đào tạo không phải là ít nhưng phân bố không hợp lý nên sử
dụng không hiệu quả. Theo thống kê của Bộ nông - lâm nghiệp Lào, từ năm 2006 tới
nay mỗi năm Lào đào tạo gần 1000 cán bộ trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp (cả trong
và ngoài nước). Tuy nhiên, lại tập trung công tác ở khu vực thành phố, thị xã còn tại
khu vực nông thôn lại rất hiếm cán bộ khoa học - kỹ thuật nông - lâm nghiệp.
Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do ở Lào hiện nay vẫn chưa tìm ra một cơ chế nào thích
hợp nhằm “ kéo” được cán bộ khoa học - kỹ thuật nông - lâm nghiệp về vùng nông
thôn. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trong quá trình phát triển các
ngành nghề dịch vụ nông - lâm nghiệp.
- Những năm qua, mặc dù Nhà nước Lào đã có chính sách phát triển và mở
rộng thị trường ở các địa phương vùng, nhưng đến nay các thị trường là các mặt hàng
may mặc, đồ chơi nhập từ các nước láng giềng; còn các sản phẩm nông, lâm, hải sản
vẫn còn khan hiếm và giá cả cũng tương đối cao so với các mặt hàng cùng loại từ
nước ngoài nhập vào. Các loại hàng hóa cao cấp cũng mới xuất hiện, song số lượng
rất ít, lại đơn điệu về chủng loại. Nhiều mặt hàng phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt
đời sống nông thôn, như hàng hóa vật tư nông nghiệp, các loại máy móc, dụng cụ
phục vụ sinh hoạt gia đình, mặt hàng thuốc chữa bệnh, các văn hóa phẩm phục vụ
đời sống tinh thần của người dân nông thôn v.v... còn thiếu. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng
hóa đặc trưng cho thị trường nông thôn lại mất cân đối. Những thứ mà nông dân cần
mua có nơi chưa được đáp ứng đầy đủ và phải đi xa mới có thể mua được.
29
- Việc đầu tư nâng cấp và xây dựng các kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn còn
hạn chế và không đồng đều. Nhìn chung, mấy năm trở lại đây việc đầu tư nâng cấp
cải tạo và phát triển kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn (vùng đồng bằng, khu vực
giáp ranh các tỉnh, thị xã) đều có bước tiến triển tốt. Nhiều vùng đã có đầy đủ các yếu
tố như điện, đường, trường, trạm. Tuy vậy, tại khu vực nông thôn vùng xa đô thị, tại
các vùng hẻo lánh, vấn đề cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng còn gặp nhiều khó
khăn. Nguyên nhân chủ yếu còn thiếu sự quy hoạch tổng thể, hoặc có quy hoạch
nhưng lại thiếu vốn, đầu tư không đúng trọng điểm. Vì vậy, hệ thống giao thông
không thuận tiện, thiếu các cơ sở trường học, các dịch vụ chăm sóc y tế tại cơ sở,
khiến cho việc phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội ở những khu vực này còn
nhiều hạn chế, nhất là các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
-Việc thực hiện hệ thống chính sách của nhà nước về giao đất, giao rừng cho
nhân dân còn nhiều hạn chế, chưa có quy hoạch đất đai tập trung để phát triển các
ngành nghề nông nghiệp, chính sách về mặt bằng, cơ sở hạ tầng,... chưa được giải
quyết một cách đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các vùng
phát triển ngành nghề và dịch vụ gắn với bảo vệ môi trường sinh thái trong nông
thôn, nên đã hạn chế đến việc phát triển ngành nghề nông nghiệp. Đất đai bị phân
chia quá nhỏ lẻ, phân tán, manh mún gây cản trở khó khăn cho các hộ kinh doanh
nông nghiệp.[1] [3]
* Nguyên nhân những hạn chế
- Về khách quan
+ Tại Lào nền nông nghiệp phát triển trong điều kiện một quốc gia có nhiều
nhân tố bất lợi về mặt tự nhiên: đất đai không bằng phẳng, địa hình lại bị chia cắt bởi
nhiều núi non hiểm trở, đất rộng, người thưa lại phân bố không đều; không gian kinh
tế lại diễn ra trên diện rộng. Điều đó gây khó khăn rất nhiều cho Nhà nước Lào trong
việc tổ chức triển khai và quản lý nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng.
+ Trình độ văn hóa và sự nhận thức của người nông dân Lào còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển nông nghiệp. Không chỉ như vậy, trong cơ chế thị
trường, một số mặt tiêu cực về sinh hoạt đời sống xã hội có nguy cơ bùng phát và gia
tăng tại các khu vực nông thôn, như tỉ lệ trẻ em bỏ học, tỉ lệ tái mù chữ ở những
người vốn đã biết chữ trước đây, các hủ tục văn hóa lạc hậu, các tệ nạn xã hội đang
30
có nguy cơ tăng ở một số địa phương, nhất là những địa phương nằm trong khu vực
giao lưu buôn bán giữa các nước trong khu vực có chung đường biên giới với Lào.
Tất cả đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nông nghiệp của Lào.
+ Người nông dân có trình độ sản xuất và tổ chức sản xuất còn thấp. Thói quen
canh tác sản xuất của đa sống nông dân còn lạc hậu, rất khó thay đổi. Hiện nay, ở một
số vùng, dân cư còn dựa vào việc săn bắn, hái lượm để kiếm sống hàng ngày. Đa số
người nông dân còn xa lạ với cách làm ăn kiểu mới, xa lạ với thị trường.
+ Mặc dù lực lượng lao động tại khu vực nông thôn có đông đảo hơn với các
ngành khác, song trình độ nhận thức cũng như chất lượng tay nghề của người lao
động còn thấp, rất khó khăn cho việc tiếp thu các kiến thức về khoa học - công nghệ
trồng trọt và chăn nuôi hiện đại.
+ Khi nền nông nghiệp chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh các yếu tố tích
cực thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang hàng ngày, hàng giờ tác động tới mọi
mặt hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội của người nông dân, góp phần tạo ra các
hiện tượng tiêu cực cản trở sự phát triển mạnh của các hoạt động kinh tế - xã hội nói
chung, nông nghiệp nói riêng.
+ Sức cạnh tranh của các nông sản hàng hóa còn thấp trên thị trường trong
nước và xuất khẩu. Đây được coi là hạn chế lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp ở
Lào những năm qua; nhược điểm này thể hiện trên tất cả các sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, trong đó rõ nét nhất là chất lượng còn thấp, chi phí
cao, chủng loại đơn điệu, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp.
- Về chủ quan:
+ Chủ trương đưa nông nghiệp chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, lấy hộ gia
đình làm đơn vị tự chủ của Nhà nước Lào những năm qua là hoàn toàn đúng đắn,
song chưa được thúc đẩy và khuyến khích bằng các chính sách và hình thức tổ chức
cụ thể, hoặc nếu có cũng chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ và tiểu thủ
công nghiệp nông thôn phát triển còn yếu cả về chất lượng và số lượng, chưa kích
thích thúc đẩy kinh tế nông nghiệp tự nhiên sang kinh tế hàng hóa. Việc tạo ra các
chính sách để thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh vực, các ngành nghề trong các thành
phần kinh tế còn thiếu tính khả thi, nên vừa ít thu hút được vốn, hoặc có vốn song sử
dụng không hiệu quả.
31
+ Việc khảo sát điều tra, thu thập số liệu đối với phát triển vùng-lãnh thổ và
ngành kinh tế khác chưa được triển khai đồng bộ. Do đó, chưa tạo ra được một kế
hoạch tổng thể về phát triển nông nghiệp trong những năm trước mắt và lâu dài trên
tất cả các mặt từ kế hoạch sản xuất, triển khai ngành nghề, cho tới việc đầu tư nâng
cấp, cải tạo hạ tầng cơ sở để phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp.
+ Hệ thống các chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia vào xây dựng và phát triển nông nghiệp, đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế đều
có quyền tự do sản xuất kinh doanh, tuân theo pháp luật, và bình đẳng trước pháp
luật,... còn thiếu đồng bộ. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước chưa phát huy
được khả năng quản lý nền kinh tế của mình, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang
cơ chế thị trường. Việc quản lý thị trường và giá cả, cũng như việc can thiệp vào thị
trường nông sản còn chưa hiệu quả. Điều đó đã làm cho giá giữa hàng nông sản và
hàng tiêu dùng ngày càng có xu hướng giãn rộng, gây bất lợi cho bà con nông dân
trong sản xuất các mặt hàng nông sản.
+ Do việc chuyển sang cơ chế mới, đội ngũ các bộ quản lý Nhà nước về kinh
tế nói chung và nông nghiệp nói riêng vừa thiếu về số lượng, lại yếu về chuyên môn
nghiệp vụ. Trong cơ chế thị trường, nhiều cán bộ đã sa sút phẩm chất đạo đức một
cách nhanh chóng, làm ảnh hưởng đến việc thực thi các chính sách của Đảng và Nhà
nước không đến nơi đến chốn, thậm chí cắt xén làm méo mó đường lối, chính sách
của Nhà nước, gây cản trở thêm cho tiến trình phát triển nông nghiệp. Tệ nạn tham
nhũng, hối lộ, tiêu xài lãng phí đang trở thành thói quen của một bộ phận cán bộ khi
thực hiện các dự án làm cho người nông dân mất lòng tin.
Đây là những nguyên nhân có tính chất chủ quan, chủ yếu thuộc vai trò tác
động của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp ở Lào hiện nay. Cùng với các
nguyên nhân khách quan đã nêu ở trên, nếu không sớm có giải pháp khắc phục thì
những nguyên nhân này sẽ cản trở quá trình phát triển nông nghiệp ở Lào trong hiện
tại cũng như tương lai.
Tóm lại, từ những năm đầu của thế kỷ 21, nông nghiệp là một ngành được
Đảng và Nhà nước Lào quan tâm phát triển, đã có bước chuyển biến tích cực. Giá trị
sản xuất trong các ngành nghề sản xuất nông nghiệp có tăng lên cả về số lượng và
chất lượng. Cơ cấu ngành nghề cũng ngày càng được mở rộng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
32
nông nghiệp đã được đầu tư và bước đầu đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển
nông nghiệp. Nhưng kết quả đạt được từ việc phát triển nông nghiệp của Lào trong
những năm qua đã góp phần cải thiện đáng kể cuộc sống dân cư, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển ổn định và bền vững.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển KT-XH ở hầu hết các
nước, nhất là các nước đang phát triển. Ngành kinh tế này đảm bảo an ninh lương
thực cho loài người, cung cấp nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất cho
các ngành kinh tế khác, tạo thêm việc làm và góp phần sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường sinh thái,... Với những đặc điểm nổi bật như tính vùng, tính mùa
vụ,... sản xuất nông nghiệp cần có những quy hoạch, định hướng cụ thể phù hợp với
thực tiễn ở mỗi vùng miền.
Ngành nông nghiệp ở Lào nói chung đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp
một phần quan trọng vào GDP và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Mặc dù còn gặp
nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, biến động của thị trường tiêu thủ nhưng hoạt
động sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục khẳng định được những thành tựu vững chắc
góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, thúc
đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch. Đời sống của người nông
dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới.
33
Chương 2
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TỈNH CHAMPASAK, CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak
2.1.1. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ
a. Vị trí địa lí
Tỉnh Champasak, nằm ở phía nam của Lào có tổng diện tích là 15.415 km 2
(1,535,000 ha) có sông Mê Kông chảy qua từ vĩ tuyến 13°-15°22′ N và từ kinh tuyến
100°13′-106°55′ E.
Tỉnh Champasak là một tỉnh lớn nằm ở vị trí trọng yếu trên điểm giao của
hành lang Đông -Tây, giáp biên giới với Thái Lan và Campuchia. Các tỉnh tiếp giáp
với Champasak về phía bắc là tỉnh Salavan có chiều dài 140 km, phía đông giáp với
tỉnh Sekong và Attapư có chiều dài 180 km, phía nam giáp với tỉnh Siêng Teang của
Vương quốc Campuchia có chiều dài 135 km và giáp với tỉnh của Thái Lan về phía
tây là Ubon Ratsathani có chiều dài 233 km. [21]
Champasak là một tỉnh lớn nhất của Lào (xét về diện tích), là trung tâm nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch của Nam Lào. Champasak có vị trí chiến lược
về kinh tế, là đầu mối giao thông từ Thái Lan, Campuchia, từ Trung Lào xuống và đi
sang phía Đông (đường 18A, 18B). Thủ phủ của Champasak là thị xã Pakse, là trung
tâm kinh tế, thương mại, văn hóa của cả 4 tỉnh Nam Lào, cách Viêng Chăn trên 650
km. Sân bay Pakse đã được nâng cấp thành sân bay quốc tế cấp khu vực vào tháng
3/2002. Do vị trí địa lý giáp với các tỉnh của Thái Lan, Campuchia, nên Champasak
có thêm lợi thế phát triển kinh tế mậu biên.
Năm 2015 tỉnh Champasak có diện tích là 1,535,000 ha, diện tích đất lâm
nghiệp có 1,080,033 ha, chiếm 70,36%, đất sản xuất nông nghiệp có 303.944 ha,
chiếm 19,80%, đất chuyên dùng, đất ở là 103.523 ha,chiếm 6,74% và diện đất khác là
47.500 ha, chiếm 3,10%, diện tích cao nguyên có 26 %, diện tích đồng bằng có 74 %,
đặc điểm đất của tỉnh Champasak phần lớn là đất có chất lượng cao phù hợp với sản
xuất nông nghiệp. Tỉnh có 3 rừng cấm quốc gia có diện tích là 329.600 ha, 11 rừng
cấm của tỉnh có diện tích là 81.940 ha.
34
Champasak là một trong những tỉnh có kinh tế phát triển hàng đầu của Lào
với tài nguyên rừng phong phú, cao nguyên, đất đai màu mỡ,… thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp và dịch vụ. Nơi đây được coi là một trong những vựa lúa lớn nhất
của Lào, còn là một địa chỉ hành hương du lịch hấp dẫn với nhiều danh lam thắng
cảnh nổi tiếng như: thác Khone phapheng, thác Phasom.
Hình 2.1. Vị trí của Champasak trên đất nước Lào [21]
Hình 2.2. Bản đồ hành chính tỉnh ChamPaSak, CHDCND Lào [21]
35
Về mặt tự nhiên, vị trí địa lý đã quy định tính chất nhiệt đới của khí hậu, là cơ
sở để phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, đặc biệt cho việc phát triển cho việc nông
- lâm - ngư nghiệp của tỉnh Champasak.
Champasak còn có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông lâm
sản, thủy điện, và đặc biệt là du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Hiện
nay tỉnh Champasak được chia thành 3 khu vực kinh tế: Khu vực chuyên canh cây
công nghiệp và chuyên canh lúa, ngô, khoai sắn; khu vực công nghiệp rộng 2.500
hecta; khu vực xây dựng kinh tế - chính trị - văn hóa - du lịch.
b. Phạm vi lãnh thổ
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 15.415 km2 (chiếm 6,51% diện tích cả nước) có
diện tích lớn thứ 9 trong 17 tỉnh, 1 thủ đô và có diện tích lớn nhất trong các tỉnh miền
nam của Lào (tỉnh Salavan, tỉnh Sekoong và Attapư).
Bảng 2.1. Đơn vị hành chính, diện tích, dân số và mật độ dân số
tỉnh Champasak năm 2015
Số đơn vị hành chính
Huyện Dấn số (người) TT Làng
Tổng số
1 Pakse 2 Sanasomboon 3 BaChieng 4 Paksong 5 Pathomphone 6 Phonethong 7 Champasak 8 Sukuma 9 Meunlapamok 10 Khong Nhóm/ xã 64 5 5 5 10 9 5 5 6 5 9 Phường, thị trấn 10 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 643 42 47 47 87 68 71 77 56 36 112 Diện tích (km2) 15.415 108 1.026 907 3.973 2.616 903 867 1.232 2.222 1.496 694.000 97.539 73.436 57.749 70.654 55.803 95.116 60.491 53.826 47.955 81.431 Mật độ dân số (người/ km2) 45,02 903,14 71,58 63,67 17,78 21,33 105,33 69,77 43,69 21,58 54,43
(Nguồn: Niên giám thống kê, SKH-ĐT tỉnh Champasak năm 2015)
Tỉnh Champasak gồm có 10 huyện, 64 nhóm/xã, 643 làng, 10 thị trấn, dân số
năm 2015 là 694.000 người, mật độ dân số 45,02 người/ km2 so với diện tích của tỉnh
15.415 km2. Huyện có dân số lớn nhất là huyện Pakse có dân số là 97.539 người, mật
độ dân số 903,14 người/km2, dân số nhỏ nhất là huyện Paksong có dân số là 70.654
36
người (so với diện tích), mật độ dân số là 17,78 người/km2. Trong đó thủ phủ
của Champasak là thành phố Pakse. Pakse có nghĩa là “thành phố cửa sông” vì nằm
trong sự bao bọc của hai con sông: sông Xe done ở phía Bắc và sông Me kong ở phía
Nam. Đây là trung tâm kinh tế, thương mại, văn hóa của tỉnh phía Nam Lào, cách
Viêng Chăn (Viêntien) trên 650 km. Từ Pakse qua cầu Hữu Nghị sông Me kong đi
qua huyện Phonthong khoảng 40 km là cửa khẩu Vang Tao, tiếp giáp với tỉnh
Ubonlatsathani của Thái Lan. Phía Nam Champasak có đường biên giới với
Campuchia và hiện đã có cửa khẩu thông thương qua lại. Thuận tiện cho du khách
hành hương du lịch đi lại đến Thái Lan, Camnpuchia một cách dễ dàng.
2.1.2. Các nhân tố tự nhiên
2.1.2.1. Địa hình
Địa hình tỉnh Champasak có nhiều núi ở phía bắc và phía đông. Vùng trung
tâm của tỉnh là đồng bằng dọc theo sông Mê Kông và sông Xedone, phía đông là cao
nguyên Bolaven, có độ cao trung bình từ 1,500-1,800 mét. Khu vực này có mưa, thời
tiết ẩm ướt và lạnh. Vùng núi lửa cũ ở phía nam là vùng đất đai có nhiều hòn đảo,
vùng này được coi là Siphandon (4000 hòn đảo). Đảo Donkhong lớn nhất cả nước.
Champasak có 4 vùng có thể phát triển nông nghiệp theo nhiều hướng khác
nhau, bao gồm: vùng cao nguyên Bolaven (156 ngàn hécta) trồng cà phê, cây trà, cao
su, các loại cây ăn quả và hoa màu, đồng thời trồng các loại cây có thể bảo vệ nguồn
đất, nguồn nước; vùng nối liền cao nguyên Bolaven và đồng bằng (37,5 ngàn hécta)
nằm trên 3 huyện có thể trồng điều, cây ăn quả, chuối, đậu nành; vùng đồng bằng
sông Mekông và đảo với diện tích trồng lúa khoảng trên 120 ngàn hécta, có thể tập
trung sản xuất lúa, nuôi cá, trâu, bò, và gia cầm. Vùng cuối cùng là phía Tây sông Me
kông gần biên giới Lào, Thái lan nằm trong 3 huyện có thể trồng điều, chăn nuôi và
xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, cũng như quy hoạch, phát triển các trang
trại chăn nuôi. Với địa hình khá bằng phẳng, phong phú chủ yếu là đất phù sa màu
mỡ, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp, đa dạng với nhiều cây
trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
2.1.2.2. Đất trồng
Vùng đồng bằng Champasak có diện tích là 74% (so với diện tích của tỉnh). Đồng
bằng bắt đầu từ huyện Pakse sau đó kéo dài đến biên giới Lào - Thái Lan - Campuchia.
37
Dãy núi ở phía Nam của huyện Pakse cao hơn 1.200 m và có nhiều đồi núi thấp liên tục,
có núi thấp trung bình là khoảng 650 mét. Ở phía đông, đông nam của đồng bằng
Champasak tương đối bằng phẳng, thuận lợi như một khu vực đất màu mỡ, đất phù sa
sông Mê Kông và sông Se Done. Hầu hết đặc điểm của đất ở khu vực này có thành phân
đất cát, đất đất thịt, đất sét, một số các loại đất này hơi chua, với PH từ 4,2- 6,8 (trừ đất
phù sa ít chua phân bố ven sông) các loại đất của vùng đồng bằng riêng đất phù sa phù
hợp với trồng cây lương thực, đặc biệt là gạo, ngô ngoài ra còn có rau màu, các loại cây
công nghiệp ngắn ngày và dài ngày như: cây mía và một số cây ăn quả.
Vùng cao nguyên Bolaven nằm ở phía nam của cao nguyên Taoi, phía bắc giáp
với sông xedone, phía Nam giáp vơi Xekong và phía tây giáp vói sông Mekong, độ cao
trung bình của cao nguyên là 1000 m ở cao nguyên Bolaven có một số núi cao hơn
1000m như núi Katea cao đến 1200 m. Cao nguyên Bolaven bao gồm núi lửa cũ Ba-
zan, trong đó đất đỏ, đất đỏ màu mỡ, không khí thuận lợi, tỷ lệ đất thịt có nhiều. Đặc
điểm của đất vùng này trong mùa mưa là đất thịt, mùa khô là khô, nhưng lớp dưới của
đất sẽ ẩm ướt, đất trồng khu vực này sẽ chứa chất P có 0,6%, Ni tơ có 0,3% và phân
bón rừng có 7%, loại đất này thích hợp cho việc trồng các loại cây. Đặc biệt khu vực
này trồng cây cà phê, cây chè, đậu các loại, rau các loại, ... Ngoài ra khu vực cao
nguyên Bolaven còn có sông nước nhiều dòng qua, có lượng mưa nhiều, thời tiết mát
mẻ. Tất cả vùng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một số trang trại lớn.
Hạn chế nổi bật có một số khu vực của tỉnh là sự thiếu nước trong mùa khô,
ngập úng trong lũ lụt trong mùa mưa, độ phì của đất thấp và đang có xu hướng biến
đổi không có lợi cho cây trồng và sử dụng hợp lý quỹ đất.
+ Về hiện trạng sử dụng đất
Trong cơ cấu sử dụng đất của tỉnh Champasak giai đoạn 2011 - 2015 với tổng
diện tích là 1.535.000.000 ha có đất lâm nghiệp là 1.080.033 ha, chiếm 70,36%, diện
tích đất nông nghiệp 303.944, chiếm 19,80%, diện tích đất chuyên dụng, đất ở là
103.523 ha, chiếm 6,74%, diện tích đất khác là 47.500 ha, chiếm 3,10 %. Trong đó
diện tích cao nguyên chiếm 26%, diện tích đồng bằng chiếm 74%.
2.1.2.3. Khí hậu
Khí hậu của tỉnh Champasak cũng như của cả nước bao gồm 2 mùa rõ rệt mùa
mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ 5 tháng đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
38
tháng 4, nhiệt độ trung bình năm khoảng 27°C, nhưng các khu vực phía đông của tỉnh
(khu vực cao nguyên Bolaven, huyện Paksong) có thời tiết lạnh nhiệt độ trung bình
dưới 20°C và độ ẩm tương đối cao. Cả tỉnh có lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 1,400 - 2,000 mm/năm.
Với đặc điểm khí hậu trên cho phép địa bàn tỉnh có thể phát triển nền nông
nghiệp đa dạng với các cây trồng, vật nuôi nhiệt đới. Tuy nhiên, cần lựa chọn hệ thống
cây trồng hợp lý để đảm bảo hiệu quả cao, tránh tình trạng ngập úng trong mùa mưa và
tình trạng khô hạn trong mùa khô. Nhìn chung điều kiện khí hậu của tỉnh Champasak
tương đối thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp sinh thái và bền vững.
2.1.2.4. Thủy văn
Tỉnh Champasak có tài nguyên nước phong phú nhiều dòng sông chảy qua
như: sông Mekong chảy qua tỉnh Champasak dài 225 km, chảy qua 8 huyện, sông
Xedone dài 150 km, sông Sekhampo dài 50 km, sông sông Tapung dài 80 km, sông
Sekatam dài 45 km, suối Kaper dài 25 km, suối Paklai dài 40 km, suối Champi dài 70
km, suối Set dài 80 km, suối Makchan dài 40 km, suối Vangnhao dài 50 km, suối
Mesang dài 25 km, suối Tomo dài 35 km, suối Toui dài 50 km, suối Namsay dài 20
km, suối Nampak dài 25 km, suối Banglieng dài 50 km, suối Nhang dài 18 km, suối
Phaling dài 30 km, suối Phek dài 20 km, suối Khamuon dài 55 km. Dân cư của tỉnh
có nước dùng đủ suốt năm và có đủ nước tưới cho nông nghiệp. Ngoài ra nguồn
nước phù hợp phát triển đập thủy điện, giao thông và du lịch. Trong đó có một số khu
vực của tỉnh trong việc khai thác nước dưới đất gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do thiếu
kinh phí nên lượng dưới đất khai thác phục vụ sản xuất còn rất hạn chế. Hiện nay,
nhiều hộ nông dân mới chỉ kết hợp khai thác nước dưới đất phục vụ sinh hoạt và sản
xuất vào mùa khô bằng cách khoan giếng và dùng máy bơm để khai thác nguồn nước.
Có thể khẳng định, tài nguyên nước của tỉnh Champasak khá phong phú, đảm
bảo đáp ứng đủ nhu cầu nước tưới cho cuộc sống của người dân.
Nguồn nước ngầm của tỉnh Champasak tồn tại trong nhiều tầng, có chất lượng
tương đối tốt, lại có các dòng chảy ngầm chảy qua lãnh thổ giúp cho người dân tỉnh
Champasak luôn được bổ sung nước ngầm từ các khu vực, để đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế-xã hội. Hiện nay dân cư toàn tỉnh sử dụng nguồn nước ngầm chiếm
83,86%. Tuy nhiên, nguồn nước ngầm của tỉnh Champasak đang bị nhiễm asen gây
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân.
39
2.1.2.5. Sinh vật
Champasak có diện tích rừng là 1,080,033 ha. Trong đó có rừng cấm có diện
tích là 411.540 ha, rừng cấm quốc gia có diện tích là 329.600 ha chiếm 30,52%, như:
rừng cấm quốc gia Se Pien có diện tích là 87.267 ha, rừng cấm quốc gia Dong Hoa Sao
có diện tích là 11.667 ha, rừng cấm quốc gia Phu Xieng Thong có diện tích là 230.666
ha. Tỉnh có 11 rừng cấm diện tích là 81.940 ha, chiếm 7,59%. Vì vậy, Champasak có
nguồn tài nguyên sinh vật khá phong phú và đa dạng tới nhiều loại động, thực vật có
giá trị lớn. Là tỉnh có nổi tiếng với 4000 hòn đảo, có thác nước lớn và đẹp nhất cả nước
Lào và nổi tiếng khu vực Đông Nam Á (thác nước Khonpapeang). Đặc biệt ở tỉnh
Champasak có cá hèo ngọt, đây là cá nổi tiếng của tỉnh nói riêng, cả nước nói chung,
ngoài ra tỉnh Champasak còn có rừng và động vật hoang dã phong phú loài bao gồm cả
cá tuyệt chủng hiếm và cần bảo vệ như: chim công, chim gà trắng, vịt nước, beo, hổ,
động vật hoang dã này sống trong các khu bảo tồn ở rừng cấm quốc gia Sepien, vườn
quốc gia Đong Hua Sao, Phu Xieng thong và một số rừng cấm của tỉnh.
2.1.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động
a. Dân cư
Tổng dân số của tỉnh Champasak năm 2015 là 694.000 người chiếm 10,69%
dân số cả nước (dân số của cả nước là 6.492.400 người năm 2015), đứng thứ nhất ở
vùng miền nam của Lào. Mật độ dân số là 45,02 người/km2.Tỷ lệ gia tăng dân số tự
nhiên của tỉnh Champasak, CHDCND Lào đang có xu hướng giảm theo thời gian. Bộ
Y tế nói chung, sở Y tế của tỉnh Champasak nói riêng đã quan tâm tạo điều kiện cho
người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế. Các trạm y tế đã mở rộng tới các xã, làng
khu vực xa, khu vực nông thôn...Các bệnh viện của tỉnh đã nâng cấp hiện đại và trở
thành trung tâm điều trị sức khỏe trong tỉnh và các tỉnh lân cận ở miền Nam; Hiện
nay, tỉnh Champasak có 1 bệnh viện lớn tại thị trấn Pakse đây là bệnh viện trung tâm
điều trị bệnh nhân của tỉnh và ở mỗi huyện có 1 bệnh vịên. Hiện nay có 9 bệnh viện,
579 trạm y tế ở khu vực nông thôn được đầu tư xây dựng.
Tỷ lệ gia tăng tự nhiên 2.6% (năm 2007), giảm 2.1% (năm 2008), giảm 1.8%
(năm 2009) xuống còn 1.2% (năm 2015). Tuy nhiên, ngành y tế thì chưa phát triển,
các bệnh nặng đều phải chuyển sang Việt Nam hoặc Thái Lan điều trị.
40
Về phân bố dân cư: Dân cư dân số không đồng đều trên địa bàn tỉnh. Những
khu vực có mức độ trung cao nhất của tỉnh là huyện Pakse là 903,14 người/km2,
huyện Phonethong là 105,33 người/km2, huyện Sanasomboon là 71,58 người/km2,
huyện Champasak là 69,77 người/km2, Huyện BaChieng là 63,67 người/km2, huyện
Khong là 54,43 người/km2, huyện Sukuma là 43,69 người/km2, huyện Meunlapamok
là 21,58 người/km2, huyện Pathoomphone là 21,33 người/km2, huyện Paksong là
17,78 người/km2. Dân số của tỉnh gia tăng hàng năm là lợi thế cạnh tranh nhưng cũng
là thách thức lớn, bài toán nan giải đối với tỉnh trong quá trình phát triển KT- XH giai
đoạn tới. Dân số dân cư vừa là nguồn lao động dồi dào vừa là thị trường tiêu thụ rộng
lớn nhưng cũng gây ra nhiều sức ép đối với sự phát triển KT- XH và môi trường.
Trong cơ cấu dân số theo giới, tỉnh Champasak số nữ có nhiều hơn số nam.
Dân cư của tỉnh phần lớn tập trung tại nông thôn đặc biệt ở các huyện Sanasomboon,
BaChieng, Paksong, Pathoomphone, Phonethong, Champasak. Toàn tỉnh gồm có 643
làng, có 105.393 hộ, trong đó có 97 làng ở thành thị chiếm 15,09% và 546 làng ở
nông thôn chiếm 84,91%, mức độ chênh lệch giữa dân cư sống ở thành thị và sống ở
nông thôn rất cao.
Bảng 2.2. Dân số và dân số theo giới tính tỉnh Champasak năm 2015
(ĐV: người)
TT Các huyện Diện tích (km2) Tổng dân số Nam Nữ
15.415 694.000 345.200 348.800 Tổng số
1 Pakse 108 97.539 47.851 48.690
2 Sanasomboon 1.026 73.436 36113. 36.531
3 BaChieng 907 57.749 29.082 27.875
4 Paksong 3.973 70.654 36.047 33.815
5 Pathoomphone 2.616 55.803 27.839 27.172
6 Phonethong 903 95.116 47.900 46.624
7 Champasak 867 60.491 30.369 29.330
8 Sukuma 1.232 53.826 27.547 28.129
9 Meunlapamok 2.222 47.955 22.921 26.884
10 Khong 1.496 81.431 39.531 43.750
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015,SKH-ĐT tỉnh Champasak)
41
Toàn tỉnh có 23 làng nghèo chiếm 3,58% so cả tỉnh, 867 hộ nghèo chiếm
0,82% toàn tỉnh. Như vậy, tỉ lệ dân thành thị rất thấp, phản ánh tính chất thuần nông
của nền kinh tế và mức độ đô thị hóa chậm. Mặc dù đây là lực lượng lao động quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp song dân cư nông thôn quá đông trong khi tỉ lệ dân
thành thị lại thấp cũng phản ánh nền kinh tế nơi đây còn chậm phát triển, tốc độ đô
thị hóa thấp, đồng thời làm hạn chế quá trình CNH, HĐH của tỉnh.
b. Nguồn lao động
Nguồn lao động của tỉnh Champasak có quy mô lớn và tốc độ tăng nhanh.
Năm 2011 tổng số lao động đang làm việc từ 14 - 60 tuổi là 347.714 người chiếm
53,04 (dân số 655.588 người), năm 2012 tổng số lao động đang làm việc là 356.101
người, chiếm 53,36% (dân số 667.304 người), năm 2013 tổng số lao động đang làm
việc là 363.757 người, chiếm 53.49% (dân số 679.984 người), năm 2014, tổng số lao
động đang làm việc là 391.374 người, chiếm 56,48% (dân số 692.903 người). Còn
năm 2015, tổng số lao động đang làm việc là 475.520 người,chiếm 68,52% (dân số
694.000 người) và so với năm qua tăng lên 12,04%.
Năng suất lao động tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên năng suất
lao động các ngành còn thấp. Phần lớn lao động có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp
thu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. Về trình độ dân trí, tỉnh đã phổ
cập giáo dục tiểu học toàn dân và có hai huyện như huyện Pakse và huyện
Phonethong đã được công nhận là huyện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Thu nhập
còn thấp. Trong giai đoạn năm 2011 thu nhập là 9.495.001 kip hoặc 1.187$/lao
động/năm (1$ = 8.000 kip), 2012 thu nhập là 10.305.166 kip hoặc 1.286$/lao
động/năm (1$ = 8015 kip), năm 2013 thu nhập là 11.684.698 kip hoặc 1.458$/lao
động/năm (1$ = 8015 kip), năm 2014 thu nhập là 12.028.608 kip hoặc 1.504$/lao
động/năm (1$ = 8000 kip), 2015 thu nhập là 16.040.000 kip hoặc 2.005$/ lao
động/năm (1$ = 8000 kip). Hiện nay, tỉnh Champasak đã chú ý điều chỉnh công việc
cho người lao động giúp cho tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống tỉ lệ còn 2%.
42
Bảng 2.3. Cơ cấu sử dụng lao động phân theo ngành kinh tế
của tỉnh Champasak giai đoạn 2011 - 2015
Tổng số Nông Công Năm % % % Dịch vụ % (người) nghiệp nghiệp
2011 347.714 100 251.199 72,24 10.774 3,10 85.741 24,66
2012 356.101 100 257.484 72,31 11.008 3,09 87.609 24,60
2013 363.757 100 263.020 72,31 11.245 3,09 89.492 24,60
2014 391.374 100 271.879 69,47 17.769 4,54 101.726 25,99
2015 475.520 100 312.000 65,61 24.350 5,12 112.170 23,59
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015,SKH-ĐT tỉnh Champasak)
Trong cơ cấu cho thấy ngồn lao động của tỉnh Champasak ngành nông nghiệp
chiếm tỉ trọng cao nhất so với cả ngành kinh tế của tỉnh. Nhưng hiện nay ngành nông
nghiệp có xu hướng dần giảm xuống tỉ trọng so với ngành kinh tế khác, còn ngành
công nghiệp và ngành dịch vụ có xu hướng tăng lên theo hướng phát triển CNH,
HĐH của tỉnh và cả nước nói chung.
Hình 2.3. Cơ cấu sử dụng lao động phân theo ngành kinh tế
của tỉnh Champasak giai đoạn 2011-2015
Bên cạnh trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao, một trong
những đặc điểm nổi trội dân cư và nguồn lao động tỉnh Champasak nói riêng và cả
nước nói chung là truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, có truyền thống sản xuất
trong nông nghiệp. Có thể nói, lực lượng lao động khá dồi dào là một trong những
43
nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt trong sản xuất
nông nghiệp; một ngành sử dụng người lao động.
2.1.3.2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ trong nông nghiệp
Khoa học công nghệ đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nói chung và của ngành nông nghiệp nói riêng đặc biệt trong việc nâng
cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của các mặt hàng nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp đã phối hợp với các viện, trường, cơ quan nghiên cứu lựa chọn
và đưa vào sản xuất những giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, khả năng kháng
bệnh tốt, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch (nhất là giống lúa, cây ăn quả, giống lợn, các
loại đặc sản xuất khẩu); chú trọng công tác tuyên truyền tập huấn, chuyển giao, công nghệ
cho hộ nông dân. Tổng kết, phổ biến, nhân rộng những mô hình sản xuất - kinh doanh có
hiệu quả trên địa bàn của tỉnh. Triển khai các chương trình quốc gia về khoa học công
nghệ như: chương trình công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
Trong những năm qua tỉnh Champasak đã tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa
học, quy trình công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, tập trung nghiên cứu các giống
cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm có năng suất cao, chuyển
giao kỹ thuật nông nghiệp cho các hộ nông dân: ngành nông nghiệp đã thực hiện thành
công chương trình tự sản xuất giống lúa có diện tích ngày càng được mở rộng năm 2011
có diện tích trồng lúa là 100.191 ha, năm 2015 có diện tích trồng lúa là 127.428 ha.
Mặc dù vậy, về cơ bản sự phát triển khoa học công nghệ của tỉnh nói chung,
trong sản xuất nông nghiệp nói riêng còn chưa hoàn thiện, người nông dân nơi đây
vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn như giá cả vật tư, phân bón, giống còn ở mức
cao, một số giống thiếu nguồn cung, chủ yếu là nhập khẩu từ Thái Lan.
2.1.3.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật
a. Cơ sở hạ tầng
+ Giao thông
Tỉnh Champasak là tỉnh có hệ thống giao thông phát triển từ rất sớm và trong
những năm qua hệ thống đường giao thông đã được củng cố và phát triển, tạo điều
kiện cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân địa
phương và là đầu mối giao thông vận tải quan trọng của quốc gia. Mạng lưới GTVT
được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế quốc dân.
44
- Hệ thống đường bộ
Toàn tỉnh Champasak có 650 đường bộ. Với tổng chiều dài qua tỉnh là
3647,48 km, có 5 đường cao tốc quốc dân tổng chiều dài là 455,83 km, có 14 đường
cao tốc của tỉnh tổng chiều dài là 126,39 km, có 26 đường cao tốc của huyện tổng
chiều dài là 468,95 km, có 232 đường thị trấn tổng chiều dài là 156,27 km, có 373
đường nông thôn tổng chiều dài là 2.440,04 km. Trong đó có một số đoạn được trải
nhựa là 17,78%, được trải bê tông là 1,41%. Hệ thống đường liên huyện đã được khai
thác nhưng mới được rải cấp phối, chất lượng xấu, khu vực nông thôn của tỉnh tỷ lệ
đường đạt 60%. Hệ thống đường liên xã, liên thôn ở miền nam của Lào nói chung,
các huyện, xã của tỉnh Champasak nói riêng cơ bản đã giải quyết xong nền và lòng
đường, mặt đường chưa được cứng hóa và có nhiều xã không có đường bộ và chưa
được trải nhựa. Ngoài ra cả tỉnh có 267 cầu, cầu bê tông có tổng chiều dài là 3.622,1
m, cầu đồng có tổng chiều dài là 182,9 m, cầu gỗ có tổng chiều dài là 9 m.
* Các tuyến đường liên tỉnh.
1. Đường số 13, đó là con đường chính của nước CHDCND Lào. Kết nối phía
bắc đến phía nam (Riêng trong tỉnh Champasak có chiều dài 204 km).
2. Đường số 23 đến tỉnh Sekong.
3. Đường số 20 đến tỉnh Salavan.
4. Đường số 18 đến tỉnh Attapư.
* Tuyến đường sang Thái Lan
Đường số 10 từ Chongmek - Pakse khoảng cách 45 km là con đường quan
trọng. Đặc biệt, du khách từ Thái Lan qua tỉnh Ubonlatsathani đi vào tỉnh Champasak
(Lào). Các tuyến đường từ Pakse đến Khong Toey khoảng cách khoảng 995 km.
* Tuyến đường sang Việt Nam
1. Pakse - huyện Lao Bảo - tỉnh Quảng Trị chiều dài 500 km.
2. Pakse - Hà Đông - tỉnh Quảng Trị chiều dài 570 km.
3. Pakse - Hà Nội chiều dài 1170 km.
4. Pakse - Đà Nẵng chiều dài 820 km.
5. Pakse - Kon Tum chiều dài 419 km.
6. Pakse - Quảng Ngãi chiều dài 499 km.
7. Pakse - Hồ Chí Minh chiều dài 1499 km.
45
* Tuyến đường sang Campuchia
Từ Pakse - đến biên giới Campuchia, chiều dài 203 km.
Hệ thống đường bộ của tỉnh Champasak khá thuận lợi, hệ thống đường liên huyện
đã được khai thông thuận tiện, nhưng một số đường chất lượng xấu. Hệ thống liên xã,
liên thôn chưa nhiều, tình trạng khó khăn, mặt đường chưa được cứng hóa, nhiều xã,
làng có đường nhưng đi được trong mùa khô,còn mùa mưa đi lại gặp khó khăn.
- Hệ thống đường sông
Trên địa bàn tỉnh Champasak, CHDCND Lào có một sông chính chảy qua là
sông MeKong đây là sông lớn và quan trọng nhất của nước Cộng Hòa dân chủ nhân
dân Lào, với tổng chiều dài là 4.500 km đoạn chảy qua tỉnh Champasak là 225 km,
chảy qua 8 huyện như huyện Sanasomboun, huyện Phonethong, huyện Pakse, huyện
Pathoomphone, huyện Champasak, huyện Sukuma, huyện Meunlapamok, huyện
Khong. Đây là những tuyến đường thủy quan trọng nối với cả tỉnh. Mạng lưới giao
thông trên địa bàn tỉnh Champasak tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, vào mùa khô có
nhiều khu vực mực nước xuống thấp, lòng sông hẹp không thuận lợi cho việc vận
chuyển hàng hóa chỉ phù hợp với những huyện nhỏ như: huyện Pakse, huyện
Sanasomboon, huyện Phone thong, huyện Champasak và huyện Khong. Tuyến gấp
khúc cần phải có trang thiết bị đầy đủ hệ thống thông tin tín hiệu nhằm đảm bảo an
toàn cho các phương tiện vận tải, nhất là đối với hành khách.
- Đường hàng không
Sân bay Pakse đã được nâng cấp thành sân bay quốc tế cấp khu vực vào tháng
3/2002. Do vị trí địa lý giáp với các tỉnh của Thái Lan, Campuchia nên Champasak
có thêm lợi thế phát triển kinh tế biên mậu. Tỉnh Champasak cách 503 km tính từ
Wattay (Vientiane, Lào). Hiện tại, 13 hãng hàng không hoạt động ở Wattay. Wattay
cung cấp các chuyến bay thẳng đến 17 thành phố. Hàng tuần, có ít nhất 70 chuyến
bay nội địa và 203 chuyến bay quốc tế khởi hành từ Wattay.
Đường hàng không Paksé -Thành phố Hồ Chí Minh nối Champasak với Thành
phố Hồ Chí Minh đã có trước đây, tuy nhiên đã bị hủy từ năm 2003 vì nhiều lý do.
Đường bay mới Paksé-Thành phố Hồ Chí Minh được mở lại, kết nối với cả thủ đô
Vientiane sẽ góp phần thúc đẩy trao đổi hàng hóa và khách du lịch giữa Việt Nam với
Lào nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh với Champasak nói riêng. Hơn nữa,
46
đường hàng không này còn giúp thu hút khách du lịch từ các khu vực nội địa của Việt
Nam và Lào, cũng như du khách quốc tế có mặt tại Việt Nam và Lào. Đường bay mới
được khai trương lại này có ba chuyến bay trong tuần, vào các ngày thứ ba, năm và
bảy, sử dụng các loại máy bay mới và hiện đại như ATR hoặc MA.
+ Hệ thống điện
Tỉnh Champasak có 10 huyện, 64 nhóm (xã) và có 645 làng. Mọi huyện, xã tới
các thị trấn đều có điện. Mạng lưới phân phối điện đã đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và
đời sống, là cơ sở khá thuận lợi cho phát triển kinh tế. Tỉnh Champasak có thủy điện
SeLabam có thể sản xuất điện được 27.484 kwh đạt doanh thu 6.800.871.000 kip. Tuy
nhiên, để đáp ứng nhu cầu trong những năm tới cần phải có quy hoạch, đầu tư và cải tạo
mạng lưới điện thì mới có khả năng đáp ứng phục vụ cho phát triển KT- XH của tỉnh.
+ Thông tin liên lạc
Việc quản lý hệ thống được cải thiện, việc thực hiện pháp luật về các dịch vụ
bưu chính, viễn thông và Internet để đáp ứng xã hội bằng cách sử dụng thông tin với
công nghệ tiên tiến từ trung ương đến địa phương để có hiệu quả và là một nguồn thu
nhập quan trọng cho đất nước, sau đó tập trung xây dựng dịch vụ bưu chính cơ sở hạ
tầng, viễn thông và Internet được kết nối thông qua các khu vực quốc tế và miền
Nam. Mạng lưới viễn thông đã được phát triển, phủ sóng điện thoại di động Lào
Telecom (LTC), Unitel, Beeline, ETL. Cả tỉnh có 12 văn phòng bưu điện dịch vụ, có
17 trạm bưu điện, có 1163 hộp bưu điện, có trạm BTS 323 trạm, truyền Optic 2.213
km, có 6.353 điện thoại cố định có dây, có 4.472 điện thoại không dây, điện thoại di
động phải trả hàng tháng có 8.746 số, nạp tiền có 491.124 số điện thoại, tổng số điện
thoại có 504.538 và khách hàng sử dụng Internet là 595 người. Internet tốc độ cao
(ADSL) có 372 khách hàng. Đây là một điều kiện thuận lợi lớn của người dân sử
dụng, đầu tư và phát triển hiệu quả kinh tế của tỉnh Champasak. Nhưng ở nhiều khu
vực của tỉnh Champasak hiện còn rất hạn chế về công nghệ thông tin, tốc độ đường
truyền internet khá chậm, những trang thiết bị liên quan lĩnh vực này còn thiếu.
b.Cơ sở vật chất kĩ thuật
+ Thủy lợi
Thủy lợi là nguồn cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp như hồ chứa xây
dựng, đập tràn nước, máy bơm nước và xây dựng kênh mương và giữ vai trò quan
47
trọng trong việc sản xuất nông nghiệp. Bằng các nguồn vốn đầu tư, hiện nay hệ thống
thủy lợi của tỉnh khá phát triển, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu cho sản
xuất nông nghiệp và phòng chống lũ lụt.
Toàn tỉnh có 191 công trình thủy lợi có thể cung cấp nước trong sản xuất nông
nghiệp trong mùa khô và mùa mưa với diện tích là 22.322 ha. Trong đó có 66 hồ đập
có diện tích là 9.232 ha, 56 công trình tiêu có diện tích là 2.975 ha, có 69 bể chứa nước
có diện tích là 259 ha, 2.524 trạm bơm có diện tích là 9.846 ha. Nhưng hệ thống thủy
lợi của tỉnh Champasak, CHDCND Lào còn có nhiều hạn chế, không có hồ chứa nước
lớn, không chủ động được nước tưới, nhiều diện tích đất hoang hóa. người dân chưa
chú trọng đến việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất,…
nên hiệu quả sản xuất không cao. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định về
CSVCKT, trang thiết bị nhưng những năm qua, hệ thống dịch vụ nông nghiệp của tỉnh
đã góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp.
+ Dịch vụ nông nghiệp
Các HTX đã phát huy được hiệu quả trong việc liên doanh, liên kết phục vụ
cho phát triển kinh tế. Dịch vụ nông nghiệp của tỉnh hiện bao gồm dịch vụ phân bón,
thuốc trừ sâu, mạng lưới trạm, trại giống cây trồng, vật nuôi, các trung tâm ứng dụng
kĩ thuật trong nông nghiệp,... Trong những năm qua, hệ thống cơ sở dịch vụ nông
nghiệp của tỉnh đã từng bước gắn với yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa, từng bước
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hợp lý, nâng cao năng suất chất
lượng và giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các cơ sở còn mỏng, trang
thiết bị còn nghèo nàn, xuống cấp nhiều và thiếu nguồn nhân lực kĩ thuật, sức cạnh
tranh trong cơ chế thị trường còn yếu.
+ Cơ sở chế biến
Những năm gần đây tuy được phát triển tuy nhiên hệ thống cơ sở chế biến trên
bàn tỉnh còn nhỏ lẻ, thủ công, mới chủ yếu là các cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia
cầm với quy mô nhỏ và trung bình.
Việc thu đầu tư, xây dựng các cơ sở chế biến đã góp phần nâng cao giá trị
hàng nông sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Hiện nay, nhiều HTX
và các hộ gia đình trên địa bàn tỉnh cũng đã đứng ra xây dựng nhiều cơ sở chế biến,
hiện nay đã xây dựng được hơn 34 cơ sở chế biến thức ăn, gia súc, gia cầm.
48
Nhìn chung, hiệu quả sản xuất của các nhà máy chế biến còn thấp, thời gian
nhà máy không hoạt đông chiếm tỷ lệ cao, sản phẩm xuất ra phần lớn ở dạng nguyên
liệu thô, chất lượng và giá trị không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu sản phẩm cũng
như thị hiếu thị trường ngày. Yếu tố này càng làm chậm hơn khả năng tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp của tỉnh.
Trong những năm tới, ngành công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp nông
thôn cần tiếp tục được phát triển nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như
xuất khẩu. Cần quy hoạch phù hợp giữa cơ sở chế biến và vùng nguyên liệu.
2.1.3.4. Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã ban hành một số chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn cả vĩ mô và vi mô. Theo luật điều 1, 3 Bộ Nông nghiệp
thiết lập các nguyên tắc, quy tắc, các biện pháp liên quan đến việc vận chuyển và sản
xuất nông nghiệp. Coi đó là cơ sở kinh tế của các quốc gia, bao gồm cả việc quản lý,
hoạt động bảo vệ và sản xuất nông nghiệp nhằm khuyến khích, thúc đẩy và mở rộng
sản xuất nông nghiệp để đảm bảo việc cung cấp thực phẩm và hàng hóa sản xuất, tạo
điều kiện để xây dựng và mở rộng chế biến công nghiệp, nông nghiệp làm tăng
trưởng kinh tế, không gây thiệt hại và tác hại đối với môi trường.
Khuyến khích và thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển nông
nghiệp hiện đại, tập trung vào nhà máy cung cấp nguyên liệu, chế biến công nghiệp,
trong nước và xuất khẩu.
Nhà nước bảo vệ lợi ích của sản xuất nông nghiệp thông qua việc điều hành
một trang trại với các luật, quy định và quy tắc và chính sách như chính sách tín
dụng, loại trừ hoặc giảm thuế, thuế nhập khẩu hạn chế các loại nông sản nước ngoài,
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và tăng thị phần trong nước.
+ Chính sách thuế:
Các cá nhân và tổ chức có mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất phải
có giấy phép của nhà nước theo quy định tại khoản 2, Điều 7 của Luật Đất đai. Cá
nhân, tổ chức được phép sử dụng đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 phải
được sử dụng trong nông nghiệp như đã được yêu cầu của pháp luật, pháp luật tuân
thủ hiệu quả và chính xác. Họ được phép sử dụng đất nông nghiệp không thực hiện
theo các điều kiện quy định trong 3 năm và sẽ có đủ điều kiện để sử dụng đất theo
quy định tại điều 18 của Luật đất đai.
49
Nhà nước đã quan tâm phân bổ đất cho người dân bản địa để sản xuất cố định,
giảm phá rừng làm nương rẫy.
Ngoài ra tỉnh Champasak có những chính sách ưu đãi riêng cho lĩnh vực nông
nghiệp như giá thuê đất rẻ hơn, thời gian và thủ tục cũng thoải mái hơn. Hiện nay, các
bước đầu tư tại tỉnh Champasak đều được quy định theo luật đầu tư của Nhà nước
Lào, theo đó nếu vốn đầu tư dưới 5 triệu USD thì do cấp tỉnh ra quyết định, từ 5 - 20
triệu USD thì do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào, trên 20 triệu USD thì do Chính phủ
Lào quyết định. Những dự án đầu tư liên quan đến đất đai phải nộp hồ sơ tại Sở Kế
hoạch và Đầu tư, còn liên quan đến công nghiệp thì nộp tại Sở Công nghiệp... Trong
vòng 10 - 13 ngày sau khi nộp hồ sơ, hội đồng sẽ xem xét hồ sơ để có quyết định
chính thức và trong vòng 25 ngày sẽ mời nhà đầu tư lên để trao giấy chứng nhận. Giá
thuê đất ở đây không giống nhau, phụ thuộc vào từng lĩnh vực và thời hạn thuê đất tối
đa không quá 99 năm.
+ Chính sách phát triển thị trường:
Tỉnh đã tăng vai trò quản lý điều hành - thị trường, điều chỉnh theo sự biến
động của giá cả hàng hóa, cung cấp và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, đặc biệt là gạo và
các biện pháp can thiệp khi cần thiết để giữ cho giá cả hợp lý đảm bảo chất khan
hiếm. Kiểm soát tình trạng hàng hóa để tăng giá đầu cơ, đảm bảo cung cấp cho xã hội
thường xuyên loại bỏ cơ hội tích trữ hàng hoá để tranh thủ lợi nhuận.
2.1.3.5. Nguồn vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ
a.Nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn rất hạn
chế, chủ yếu là vốn của nông dân. Trong những năm gần đây, Nhà nước và UBND
tỉnh Champasak cũng đã có biện pháp hỗ trợ vốn cho sản xuất nông nghiệp. Khu vực
kinh tế của tỉnh Champasak có thể cạnh tranh nhiều cả về giá trị trong nước và nước
ngoài, năm 2011 là 24.641,24 triệu kip, quỹ vốn đầu tư trong nước có giá trị là
20.769,24 triệu kip, quỹ vốn đầu tư từ nước ngoài có giá trị là 3.872 triệu kip, quỹ
đặc biệt được sử dụng để phát triển nông nghiệp - lâm nghiệp là 6.742,72 triệu kip.
Đặc biệt là nguồn tài trợ cho phát triển (ODA) với 12,527 triệu USD , trong đó vốn
được sử dụng để phát triển nông nghiệp - lâm nghiệp là 4,986 triệu USD. Năm 2015
quỹ vốn đầu tư trong nước và nước ngoài có giá trị là 27.291,11 triệu kip, vốn đầu tư
50
trong nước có giá trị là 25.965,33 triệu kip, vốn đầu tư từ nước ngoài có giá trị là
1.325.78 triệu kip. Quỹ đặc biệt được sử dụng để phát triển nông nghiệp - lâm nghiệp
là 153.661,28 triệu kip.
Để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, tỉnh Champasak đã lựa chọn đúng chương
trình và dự án ưu tiên đầu tư, đảm bảo các tiêu chí phù hợp với định hướng phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng của nước nói chung, đạt hiệu quả cao và an toàn
môi trường; nâng cao thu nhập dân cư, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động;
thu hút được đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các địa tỉnh để khuyến
khích đầu tư khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương.
b.Thị trường tiêu thụ
Sự phát triển trong và ngoài tỉnh không chỉ thúc đẩy sự phát triển của nông
nghiệp và giá cả nông nghiệp mà còn có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và
phát triển của các tiểu vùng nông nghiệp chuyên môn hóa.
Tỉnh có 25 chợ, chợ lớn có 4 chợ, chợ ở các huyện có 8 chợ của trong làng 13
chợ. Có hai trung tâm dịch vụ mua sắm hàng hóa tại thành thị để đáp ứng nhu cầu của
người dân. Tuy nhiên, xét trên bình diện của tỉnh, quy mô dân số của tỉnh vẫn còn
nhỏ, mặt khác sản xuất nông nghiệp phần lớn người dân chủ yếu vẫn là tự cung, tự
cấp, chưa mang tính chất hàng hóa, điều này cũng làm hạn chế đi thị trường tiêu thụ
và sản xuất hàng hóa nông sản của tỉnh. Nhiều sản phẩm chưa phong phú, chưa có
thương hiệu nên chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra, sự phát triển của công nghiệp chế biến cũng đặt ra những nhu cầu về
nguyên liệu với ngành nông nghiệp. Một số loại sản phẩm của tỉnh Champasak không
chỉ cung cấp cho thị trường nội tỉnh mà còn cung cấp cho thị trường ngoại tỉnh và
phục vụ xuất khẩu như cà phê, trà, hoa quả, bông gòn, hạt điều, bắp cải, chuối tiêu,
khoai tây,...
2.1.4. Đánh giá chung
2.1.4.1. Những thuận lợi
Champasack là một tỉnh phía nam của Lào và nằm ở khu vực chiến lược quan
trọng về an ninh, là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị quốc gia, có biên giới giáp
với Vương quốc Campuchia và Vương quốc Thái Lan, có mối quan hệ bình thường
với các tỉnh miền Trung và miền Nam của Việt Nam.
51
Tỉnh Champasak có nhiều con sông, thác nước có thể được sử dụng để tạo ra
các hồ chứa thủy lợi, đập thủy điện. Sông Mê Kông là con sông lớn nhất của Lào
chảy qua cho khu vực này có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng,
đặc biệt là đất đai màu mỡ, nước, rừng, khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Thuận lợi phát triển nông sản để tiêu thụ và xuất khẩu như: gạo, cà phê, trái cây và
rau. Đây được coi là một trong những vựa lúa lớn nhất của Lào.
Tài nguyên khoáng sản phong phú có nhiều loại như: boxit, đồng, thạch cao,
các vật liệu đá xây dựng và khai thác mỏ khác.
Tỉnh Champasak cũng giống nhiều tỉnh trong đất nước Lào, có truyền thống
làm nông nghiệp từ lâu đời, nhân dân cần cù lao động, có nhiều loại nông sản quý,
chất lượng cao, có uy tín trên phạm vi cả tỉnh và từng bước tạo lập uy tín trên thị
trường cả nước. Tỉnh Champasak có vị trí địa lý, khí hậu và các tài nguyên thiên đa
dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa canh trên cơ sở chuyên
môn hóa. Nhân dân trong tỉnh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất
nông nghiệp nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của tỉnh nói
riêng, nói chung của Nhà nước, theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn
coi trọng phát triển phát triển nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh nói riêng nói chung của Nhà nước và cũng đã xuất hiện nhiều mô hình sản
xuất kinh doanh nông nghiệp có hiệu quả theo hướng tự chủ, gắn với thị trường trong
điêu kiện hội nhập.
Tỉnh Champasak được gọi là thủ phủ của Nam Lào, có lịch sử phát triển từ lâu
đời nhưng về kinh tế của Champasak thật sự còn đang ở giai đoạn bắt đầu đổi mới.
Cũng chính vì đang ở giai đoạn này mà cơ hội kinh doanh nơi đây còn rất tiềm năng
đối với các nhà đầu tư. Đầu tiên phải nói đến lĩnh vực nông nghiệp, bởi điều kiện tự
nhiên xưa nay đã phú cho vùng đất này có được một thổ nhưỡng tốt, vừa có đồng
bằng vừa có cao nguyên, có đất đỏ bazan. Đất rộng, màu mỡ, khí hậu thuận lợi là
những yếu tố cơ bản để phát triển các loại hình nông nghiệp. Hệ thống ngân hàng tại
Champasak sẵn sàng tài trợ vốn cho các nhà đầu tư. chi phí vận chuyển cao sẽ đội giá
thành sản phẩm, đây là điểm yếu cơ bản khi cạnh tranh trên thị trường. Lãi suất ngân
hàng ở Champasak lao động ở mức 15 -16%/năm cũng thuận lợi cho nhà đầu tư có
nhu cầu vay vốn. Thương mại cũng là một tiềm năng khi các tuyến đường xuyên Á,
52
13, 18... được xây dựng và nối thông với các nước Đông Dương. Hàng hóa từ Thái
Lan qua Lào rồi sang Việt Nam và ngược lại đã phát triển từ lâu. Có một thời, các sản
phẩm như: tông Lào (dép), quần áo Thái từng là sản phẩm mong ước của nhiều người
dân miền Trung Việt Nam. Còn hiện nay, sản phẩm “made in Việt Nam” đã xuất hiện
nhiều hơn ở Thái Lan và Lào như tại siêu thị miễn thuế của Đào Hương tràn ngập sản
phẩm Vinamit được chế biến tại Bình Dương.
Ngoài ra, tỉnh còn có tiềm năng du lịch như: du lịch có nhiều khu vực du lịch
nổi tiếng có 112 khu du lịch thiên nhiên và 40 khu vực văn hóa và du lịch di tích lịch
sử. Với cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng một số hệ thống thuận lợi như:
đường bộ, đường sông và đường hàng không,...nói chung giao thông của tỉnh
Champasak thuận lợi, có thể kết nối với Việt Nam, Thái Lan và Campuchia bằng
đường bộ hoặc đường hàng không khá dễ dàng. Và khu vực du lịch cũng có thể phát
triển bởi các tour, tuyến như: một ngày ăn cơm 3 nước (Việt Nam, Campuchia, Lào)
qua cửa khẩu quốc tế Hoa Lư, Mộc Bài, hay cửa khẩu Bờ Y, Lao Bảo... Pakse rất gần
Thái Lan và khi đưa vào tuyến du lịch sẽ tăng thêm tính hấp dẫn. Đặc biệt, Lào còn có
thác Khonphaphen trên sông Mê-kông nổi tiếng, có đền Watphu - di sản văn hóa thế
giới, có điệu múa truyền thống lâm-vông nhịp nhàng, quyến rũ và lay động lòng người.
2.1.4.2. Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những lợi thế có được, tỉnh Champasak,CHDCND Lào cũng có
nhiều khó khăn như:
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên của tỉnh Champasak là khí hậu khắc nghiệt,
khả năng phòng chống và giảm nhẹ thiên tai còn thấp nên nông nghiệp phát triển chủ
yếu theo chiều rộng dựa trên khả năng tự nhiên, mức đầu tư khoa học và công nghệ
thấp, khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản còn thấp; do năng suất, chất
lượng thấp, chi phí sản xuất cao. Công nghệ sau thu hoạch và công nghê chế biến lạc
hậu, hao hụt nhiều.
Thiên tai gây tổn thất nặng nề cho sản xuất nông nghiệp. Xói mòn, thoái hóa
đất canh tác, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng, nước. Cơ sở vật
chất phục vụ dự báo, phòng chống và khắc phụ hậu quả thiên tai còn nghèo nàn. Tình
trạng này có thể gây nên bất ổn trong sự phát triển của nông nghiệp của tỉnh và có
ảnh hưởng đến thực hiện các kế hoạch phát triển nông nghiệp của Nhà nước.
53
Các nguồn lực cho nền nông nghiệp của tỉnh Champasak nói riêng còn hạn chế.
Chủ thể chính trong nông nghiệp là kinh tế hộ nông dân năng lực còn yếu kém, các loại
hình nông nghiệp khác trong nông nghiệp còn nhỏ bé, lại thiếu liên kết hợp tác, hỗ trợ
nhau cùng tạo lập năng lực cạnh tranh trên thị trường. Nguồn lao động nông nghiệp,
nông thôn chất lượng thấp, thiếu kinh nghiệm trong sản xuất gắn với kinh tế của quốc
gia. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp còn thấp, trình độ khoa học công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp, bảo quản, chế biến nông sản còn lạc hậu, chất lượng
nông sản - nhất là vệ sinh an toàn thực phẩm của tỉnh chưa được đảm bảo; tổ chức lưu
thông còn thiếu, yếu kém. Chênh lệch về đời sống giữa nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ, giữa đô thị và nông thôn có xu hướng gia tăng làm giảm sự quan tâm của nông
dân đối với nông nghiệp. CSHT, dịch vụ, hệ thống pháp lý còn thiếu đồng bộ chưa đáp
yêu cầu phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hạ tầng dịch vụ phục vụ thương
mại nông sản cũng còn thiếu. Tuy có những bước tiến mạnh mẽ, nhưng nền nông nghiệp
của tỉnh về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi quy mô nhỏ, vừa phân tán vừa lạc hậu thực trạng
này đã cản trở trực tiếp ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ, cũng như công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Việc hỗ trợ, đầu tư của tỉnh và Nhà nước cho nông nghiệp chưa tương xứng
với những đóng góp của nông nghiệp trong nền kinh tế nông dân; hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động quản lý tỉnh và Nhà nước đối với nông nghiệp chưa cao. Tỉnh có khả
năng thu hút đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp của nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài còn thấp. Còn nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp chủ yếu là vốn nhà
nước và vốn tự có của nông dân.
Ngoài ra tại Champasak hiện còn rất hạn chế về công nghệ thông tin, tốc độ
đường truyền internet khá chậm, những trang thiết bị liên quan lĩnh vực này đang thiếu.
Nhìn chung sản xuất nông nghiệp của tỉnh Champasak có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập hiện nay, những khó
khăn, thách thức cũng không phải là nhỏ. Do vậy, trong quá trình phát triển nông
nghiệp, cần phải có những chiến lược, kế hoạch, giải pháp và định hướng đúng đắn
cụ thể và phù hợp để tận dụng tối đa lợi thế, khắc phục khó khăn để mang lại hiệu
quả cao nhất, góp phần đảm nhiệm được vai trò ngành kinh tế quan trọng của cả tỉnh
nói chung và từng địa phương trong tỉnh nói riêng.
54
2.2. Thực trạng nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND Lào
2.2.1. Khái quát chung
Nông nghiệp là ngành giữ vị trí trọng yếu trong nền kinh tế chung của tỉnh.
Giai đoạn 2011-2015, nông nghiệp của tỉnh đạt những thành tựu đáng kể
Bảng 2.4. Tổng sản phẩm và cơ cấu GDP tỉnh Champasak, CHDCND Lào
phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2011-2015 (theo giá thực tế)
Năm Tổng số (nghìn Kip) NN (%) CN (%) Dịch vụ (%)
2011 6.224.809.139 54,37 18,71 27,92
1012 6,876.678. 794 51,79 15,68 32,52
2013 7.945.407.836 46,03 23,43 30,54
2014 8.334.659.006 42,81 26,40 30,79
2015 11.131.760.000 40,43 28,14 31,43
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015 SKH-ĐT tỉnh Champasak)
Về tỉ trọng nông- lâm trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, khu vực nông-lâm đã từng
giữ vai trò quan trọng hàng đầu về cả giá trị tuyệt đối và tỉ trọng lớn nhất so với
ngành kinh tế khác của tỉnh Champasak. Nhưng trong cơ cấu GDP của ngành nông
nghiệp lại có xu hướng giảm tỉ trọng theo hướng tích cực như trong năm 2011 ngành
nông- lâm có thể chiếm được 54,37%, năm 2012 chiếm được 51,79%, năm 2013
chiếm 46,03%, năm 2014 chiếm 42,81%, năm 2015 chiếm 40,43%. Còn ngành công
nghiệp và ngành dịch vụ có giá trị tăng lên theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
như năm 2015 ngành công nghiệp có giá thực tế chiếm được 28,14%, tăng lên 9,43%
(so với năm 2011), giá thực tế của ngành dịch vụ chiếm được 31,43%, tăng lên 3,51%
(so với năm 2011).
55
Hình 2.4. Cơ cấu GDP tỉnh Champasak, CHDCND Lào phân theo ngành kinh tế
giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá thực tế)
Về năng suất lao động của nhân dân của tỉnh trong giai đoạn năm 2011 thu
nhập là 9.495.001 kip hoặc 1.187$/lao động/năm (1$ = 8.000 kip). Còn 2015 thu
nhập là 16.040.000 kip hoặc 2.005$/ lao động/năm (1$ = 8000 kip), đặc biệt trong
khu vực nông-lâm- ngư nghiệp cón thấp so với nhu cầu thu nhập bình quân của
người dân tỉnh. Năm 2011 thu nhập là 3.384.304.411 nghìn kip, năm 2015 thu nhập
là 4.500.510.054 nghìn kip.
Về sử dụng đất của tỉnh Champasak:
Hình 2.5. Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Champasak, CHDCND Lào 2015
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015 SNN-LN tỉnh Champasak)
Theo số liệu thống kê sử dụng đất năm 2011-2015 thì tổng số diện tích đất tỉnh
là 1.535.000 ha. Diện tích đất lâm nghiệp là 1.080.033 ha chiếm 70,36%. Năm 2011
đất sản xuất nông nghiệp là 300.220 ha chiếm 19,56 %. Đất phi nông nghiệp là
90.287 ha chiếm 5,88%, đất khác là 64.480 ha chiếm 4,20 %. Còn năm 2015 đất sản
56
xuất nông nghiệp tăng lên 3.724 ha so với năm 2011, Đất chuyên dụng, đất ở tăng lên
13.176 ha và đất khác giảm xuống 16.900 ha so với năm 2011. Theo tổng số của diện
tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu, có thể nói là ngành
nông nghiệp có vai trò guan trọng trong quốc sống của người dân trong tỉnh và quan
trọng trong nền kinh tế của tỉnh Champasak và cả nước CHDCND Lào.
Về quy mô giá trị sản xuất khu vực nông- lâm- ngư nghiệp giai đoạn 2011-
2015 có tăng lên.
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp giai đoạn 2011 - 2015
(theo giá thực tế)
(Đơn vị: nghìn Kip)
Chỉ tiêu Tổng Nông nghiệp Lâm nghiệp Ngư nghiệp
2011 3.384.304.411 3.226.412.857 127.512.000 30.379.554
2012 3.561.693.183 3.519.236.035 7.107.418 35.349.730
2013 3.657.271.227 3.611.199.570 9.071.657 37.328.877
2014 3.568.142.516. 3.493.477.543 35.538.985 39.664.937
2015 4.500.510.054 4.417.313.776 40.957.628 42.238.650
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Trên cơ sở căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, trình độ sản xuất nông
nghiệp trong những năm qua, tỉnh Champasak tập trung chỉ đạo đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp. Trong đó ngành nông nghiệp chiếm tỉ
trọng cao nhất, năm 2011 chiếm được 95,33% còn năm 2015 chiếm được 98,15%.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp có tổng giá trị cao nhưng có một số ngành giá trị sản
xuất chưa ổn định như ngành lâm nghiệp, giải đoạn năm 2011 ngành ngành lâm
nghiệp có giá trị chiếm 3,77%, còn giải đoạn năm 2012 đến 2013 ngành lâm nghiệp
có giá trị giảm xuống tới 3,57% và lại có xu hướng tăng trong giải đoạn 2014-2015.
còn ngành ngư nghiệp giá trị có xu hướng tăng lên liên tục.
57
Hình 2.6. Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp giai đoạn 2011 - 2015
(theo giá thực tế)
- Vị trí của ngành nông nghiệp của tỉnh Champasak
Ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) của tỉnh Champasak luôn chiếm vị
trí quan trọng trong cơ cấu. GTSX trong khu vực nông- lâm ngư nghiệp hiện chiếm
40,43% (năm 2015 so với ngành kinh tế khác của tỉnh). GTSX nông nghiệp chiếm
98,15% (so với lâm nghiệp, ngư nghiệp), quy mô GTSX nông nghiệp cao gấp 97,24
% so vơi ngành lâm nghiệp và 97,21% so với ngành ngư nghiệp (theo giá thực tế
năm 2015).
- Quy mô giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
GTSX của ngành nông nghiệp ngày càng tăng nhưng mức tăng không cao, giai
đoạn 2011-2015, tăng 183.838.105 nghìn kip hoặc tăng 1.3 lần (từ 3.384.304.411 lên
4.500.510.054 nghìn Kip).
- Cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh Champasak
Trên cơ sở những thuận lợi về tự nhiên của tỉnh, sản xuất nông nghiệp đã đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Trong từng ngành cũng lựa chọn cơ
cấu cây trồng và vật nuôi phù hợp với lợi thế của tỉnh, những sản phẩm có hiệu quả
kinh tế cao, thị trường có nhu cầu lớn. Cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh đang có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với định hướng chung về phát triển kinh tế
nông nghiệp của tỉnh và cả nước. Ngành trồng trọt vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong
cơ cấu GTSX nông nghiệp.
58
Bảng 2.6. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Champasak,
giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá thực tế)
(Đơn vị nghìn kip)
Chia ra
Năm
Trồng trọt
Chăn nuôi
Dịch vụ NN
Tổng số
Nghìn kip
%
Nghìn kip % Nghìn kip %
2011
3.226.412.857 2.464.154.832 76,37 728.689.277 22,59 33.568.748
1,04
2012
3.519.236.035 2.881.044.724 81,87 595.432.189 16,92 42.759.122
1,22
2013
3.613.019.571 2.774.731. 979 76,80 792.351.951 21,93 45.935.641
1,27
2014
3.484.938.559 2.923.672.720 83,89 497.631.482 14,28 63.634.357
1,83
2015
4.417.313.776 3.749.292.143 84,88 582.961.436 11,97 85.060.197
1,93
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Trong thống kê của tỉnh Champasak ngành nông nghiệp gồm ngành trồng trọt,
chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Ngành trồng trọt là ngành có giá trị cao nhất vì chiếm
hơn 70% lao động làm nông nghiệp và vốn lớn đầu tư vào ngành trồng trọt. Vì vậy,
ngành trồng trọt chiếm tỉ trọng cao nhất so với ngành chăn nuôi năm 2011 ngành trồng
trọt tỉ trọng chiếm 76,37%, năm 2015 tỉ trọng chiếm tới 84,88% và ngành chăn nuôi số
lượng có xu hướng tăng lên nhưng tỉ trọng lại giảm xuống so với tỉ trọng của ngành nông
nghiệp, năm 2011 tỉ trọng chiếm tới 22,59%, còn năm 2015 tỉ trọng chiếm 11,97%.
Ngành dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Champasak chiếm tỉ trọng nhỏ nhất so với ngành
trồng trọt và chăn nuôi nhưng có xu hướng tăng lên, năm 2011 số lượng là 33.568.748
nghìn kip chiếm 1,04%, năm 2015 số lượng là 85.060.197 nghìn kip chiếm 1,93%.
2.2.2. Ngành trồng trọt
Ngành trồng trọt là một ngành chủ chốt trong sản xuất nông nghiệp, là ngành
thu hút chủ yếu nguồn lao động, có trình độ thâm canh cao, có truyền thống sản xuất
từ lâu đời. Dựa trên những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Vì
vậy, tỉnh Champasak có cơ cấu cây trồng phong phú với các loại cây trồng chủ yếu là
cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả,...
Hoạt động trồng trọt đã có những chuyển biến đáng kể và ngày càng có xu
hướng đa dạng hóa với sự phát triển mạnh mẽ của cây rau màu, cây công nghiệp có
giá trị hàng hóa, đặc biệt là cây ăn quả.
59
Hiện nay GTSX ngành nông - lâm chiếm 40,43% so với các ngành kinh tế của
tỉnh Champasak; ngành trồng trọt đang chiếm tới 84,88% so với ngành nông nghiệp
(giá thực tế, năm 2015).
Bảng 2.7. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt phân theo nhóm cây trồng
giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá thực tế)
(Đơn vị: nghìn Kip)
Chỉ tiêu Năm 2011 % Năm 2015 %
Tổng số 2.497.723.580 100 3.834.352.340 100
Cây lương thực 1.416.961.325 56,73 1.915.932.798 49,97
Cây thực phẩm rau, đậu 736.054.648 29,47 917.090.133 23,94
Cây công nghiệp 206.923.805 8,28 641.950.128 16,74
Cây ăn quả 137.783.802 5,52 359.379.281 9,37
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011- 2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
GTSX cây lương thực chiếm ưu thế (56,73% cao nhất trong năm 2011. Tiếp
đến là cây thực phẩm rau, đậu chiếm 29,47%, còn cây công nghiệp và cây ăn quả
chiếm tỉ trọng nhỏ nhất trong cơ cấu cây trồng của tỉnh. Còn năm 2015 cây lương
thực chiếm 49,97%, Cây thực phẩm rau, đậu chiếm 23,94%, còn cây công nghiệp và
cây ăn quả có xu hướng tăng lên như tỉ trọng chiếm được 16,74% (so với năm 2011
tăng 8,46%) và cây ăn quả tỉ trọng chiếm 9,37% (so với năm 2011 tăng 3,85%).
Nhìn chung sản xuất ngành trồng trọt phân theo nhóm cây trồng của tỉnh Champasak
có giá trị sản xuất tăng lên theo xu hướng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bảng 2.8. Diện tích một số loại cây trồng của ngành trồng trọt
giai đoạn 2011 - 2015
Năm 2011 Năm 2015 Các loại cây trồng % ha % ha
Tổng số 100 290.585 100 246.969
Cây lương thực 46,60 146.574 50,44 115.090
Cây thực phẩm rau, đậu 13,29 35.991 12,38 32.831
Cây công nghiệp hàng năm 5,48 12.867 4,43 13.523
Cây công nghiệp lâu năm 30,99 83.022 28,57 76.542
Cây ăn quả 3,64 12.131 4,17 8.983
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011- 2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
60
Trong cơ cấu các loại cây trồng là cây lương thực có diện tích nhiều nhất, năm
2011 chiếm 46,60% (so với các loại cây trồng), năm 2015 chiếm 50,44%. và sản
lượng cây lương thực vẫn chiếm đa số so với ngành trồng trọt. Trong đó, diện tích
cây ăn quả chiếm tỷ lệ ít nhất.
Bảng 2.9. Sản lượng một số loại cây trồng của ngành trồng trọt
trong giai đoạn 2011 - 2015
Năm 2011 Năm 2015
Các loại cây trồng % %
Tổng số Sản lượng (tấn) 1.499.536 100 Sản lượng (tấn) 2.024.438,55 100
Cây lương thực 677.117 45,16 958.802 47,36
Cây thực phẩm rau, đậu 350.895 23,40 363.143 17,94
Cây công nghiệp hàng năm 34.744 2,32 34.015 1,68
Cây công nghiệp lâu năm 384.155 25,62 579.979 28,65
Cây ăn quả 52.625 3,51 88.499,55 4,37
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011- 2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Trong giai đoạn 2011 - 2015 sản lượng cây trồng cũng là cây lương thực
chiếm tỉ trọng nhiều nhất so với cây khác. Theo thống kê cây thực phẩm rau, đậu và
cây công nghiệp hàng năm có giá trị giảm xuống so với cây công nghiệp lâu năm và
cây ăn quả có giá trị tăng lên.
a.Cây lương thực
Cây lương thực là loại cây chủ đạo trong cơ cấu cây trồng của tỉnh Champasak.
Hiện nay với chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành trồng cây lương
thực đã có những thay đổi. Cơ cấu cây lương thực cũng đa dạng hơn, có năng suất cao,
sức chống chịu tốt đem lại hiệu quả cao và thích nghi với điều kiện sinh thái địa phương.
Việc áp dụng KHKT, tăng cường đầu tư thâm canh, tăng vụ, đưa các giống
mới có năng suất cao vào sản xuất nhất là lúa, ngô, nên sản lượng cây lương thực vẫn
tăng do việc tăng năng suất. Năm 2011 sản lượng cây lương thực có hạt của tỉnh
Champasak có 461.260 chiếm 68,12% (so với sản lượng cây lương thực), lượng thực
có hạt bình quân 678/người. Còn năm 2015 sản lượng cây lương thực cơ hạt đạt được
638.116 tấn chiếm 66,55% (so với sản lượng cây lương thực) và so với năm 2011
tăng lên 176,856 tấn). Lương thực có hạt bình quân năm 2015 đạt được 897 tăng lên
219 kg/người (so với năm 2011).
61
+ Cây lúa:
Tỉnh Champasak, cây lương thực gồm có lúa, ngô, khoai, sắn. Trong đó lúa là
cây lương thực quan trọng nhất của nhân dân của tỉnh Champasak.
Bảng 2.10. Diện tích, sản lượng, năng suất lúa tỉnh Champasak
giai đoạn 2011- 2015
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tấn / ha) Năm
2011 100.191 421.787 4,21
2012 113.902 503.841 4,42
2013 115.675 511.427 4,42
2014 127.428 580.407 4,55
2015 129.910 595.816 4,59
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Hình 2.7. Diện tích, sản lượng lúa tỉnh Champasak giai đoạn 2011- 2015
Lúa là cây trồng chính của tỉnh Champasak với trên 90% diện tích và hơn sản
lượng lương thực có hạt của toàn tỉnh. Trong những năm qua, diện tích gieo trồng lúa
đạt khoảng trên 100.000 ha. Hiện nay, diện tích lúa có tăng lên, sản lượng lúa và năng
suất cũng tăng lên vì nhân dân đã sử dụng KHKT vào việc sản xuất nông nghiệp của
tỉnh theo hướng phát triển công nghiệp hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
62
Bảng 2.11. Diện tích, sản lượng, năng suất lúa của tỉnh Champasak
phân theo mùa vụ giải đoạn 2011 - 2015
Diện tích (ha) Năm Năng suất (tấn / ha) Sản lượng (tấn) Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa Mùa khô
2011 2012 2013 2014 2015 86.950 104.813 101.403 110.853 113.284 13.241 10.862 12.499 16.575 16.626 355.332 459.181 434.996 487.753 500.715 66.455 52.246 68.845 92.654 95.101 4,09 4,38 4,29 4,40 4,42 5,02 4,81 5,51 5,59 5,72
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Champasak canh tác 2 vụ lúa chính đều quan trọng
nhưng về cơ bản vụ mùa mưa đã trở thành vụ sản xuất chính, đóng vai trò quan trọng
trong sản xuất lúa của tỉnh Champasak. Vụ lúa mùa mưa có tăng khá nhanh cả về sản
lượng và năng suất. Năng suất tăng năm 2011 là 4,09 tấn/ha, năm 2012 là 4,38 tấn/ha,
lại giảm xuống năm 2013 là 4,29 tấn/ha và có xu hướng tăng lên năm 2014 là 4,40
tấn/ha và năm 2015 là 4,42 tấn/ha.
b.Cây hoa màu lương thực
Ngoài lúa, trên địa bàn tỉnh còn trồng một số loại cây màu lương thực khác
như: ngô, khoai, sắn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đất đai, thực hiện
thâm canh, gối vụ và nâng cao hệ số sử dụng đất. Đồng thời các sản phẩm màu lương
thực cũng là nguồn bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực cho nhân dân đồng
thời cung cấp phần lớn thức ăn cho chăn nuôi, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến, góp phần đa dạng hóa nông nghiệp.
+ Cây ngô
Cây ngô có vai trò quan trọng trong các loại cây lương thực. Cây ngô được
trồng nhiều trên cả đất ruộng 2 vụ lúa.
Bảng 2.12. Diện tích, sản lượng, năng suất ngô giai đoạn 2011 - 2015
sản lượng (tấn) 39.473 41.361 42.182 42.223 42.300 Diện tích (ha) 7.273 7.393 7.536 7.543 7.543
Năm năng suất (tấn/ha) 2011 5,43 2012 5,59 2013 5,60 2014 5,60 5,61 2015 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
63
Trong giai đoạn 2011-2015 diện tích và sản lượng cây ngô có xu hướng tăng
lên, năm 2011-2015 diện tích trồng cây ngô tăng lên 270 ha và sản lượng tăng và
năng suất của cây ngô cũng tăng theo diện tích.
+ Khoai lang, sắn
Đây là những cây dễ tính, thích hợp với đất tơi xốp, dễ thoát nước, có thời gian
sinh trưởng ngắn, thích hợp với việc trồng luân canh, xen canh với cây công nghiệp
hàng năm hoặc trên đất lúa. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, các cây này ít được
chú ý vì an ninh lương thực đã được đảm bảo trong khi hiệu quả lại thấp do giống,
kỹ thuật sản xuất ít được quan tâm nên diện tích và sản lượng cũng như năng suất
giảm dần theo thời gian.
Cây khoai lang, sắn của tỉnh Champasak được trồng nhiều ở huyện Paksong và
huyện Bachieng. Sản phẩm của những cây này dùng để làm thức ăn chủ yếu cho
ngành chăn nuôi và nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến.
Bảng 2.13. Diện tích, sản lượng, năng suất khoai lang
và sắn giai đoạn 2011 - 2015
Năm Diện tích khoai (ha) Sản lượng khoai (tấn) Diện tích Sắn (ha)
2011 5.502 196.083 Năng suất khoai (tấn/ha) 35,64 2.124 Sản lượng sắn (tấn) 19.774 Năng suất sắn (tấn/ha) 9,31
2012 6.020 226.993 37,71 2.133 19.858 9,31
2013 6.951 298.810 42,99 2.135 19.877 9,31
2014 6.986 300.844 43,06 2.137 19.895 9,31
2015 6.984 300.791 43,07 2.137 19.895 9,31
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Trong cơ cấu giai đoạn 2011-2015 chung ta có thể nhìn thấy khoai và sắn có
xu hướng gia tăng cả diện tích và sản lượng.
c. Cây công nghiệp:
Cây công nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu chủ yếu cho công nghiệp chế
biến với một số cây công nghiệp hàng năm và cây công nghiệp lâu năm như : lạc, đậu
tương, mía, đay, chè, cà phè,.... một phần sản phẩm được sử dụng tươi sống, còn phần
lớn được đưa vào chế biến.
64
+ Cây công nghiệp hàng năm:
Cây công nghiệp hàng năm khá đa dạng với các cây chủ yếu như: lạc, đậu tương,...
Bảng 2.14. Diện tích, sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm của tỉnh
Champasak giai đoạn 2011 - 2015
Năm 2011 2012 2013 2014 2015
Đậu tương, 6.860 6.647 6.647 6.649 6.650 xanh, đen
Lạc 3.809 3.791 3.801 3.805 3.805
Bông 600 600 480 600 600 Diện
tích Mía 488 493 493 512 515
(ha) Thuốc lá 873 867 440 867 867
Đu Đủ tía 893 432 232 435 432
Đậu tương, 10.898 10.517 10.515 10.520 10.574 xanh, đen
Lạc 8.951 8.909 8.932 8.942 8.942 Sản Bông 510 510 408 510 510 lượng Mía 8.535 8.623 8.622 8.955 9.007 (tấn) Thuốc lá 4.211 4.196 2.134 4.205 4.196
Đu Đủ tía 1.639 786 742 791 786
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Diện tích và sản lượng cây đậu tương, xanh, đen có xu hướng giảm xuống
trong giai đoạn 2011 diện tích 6.860 ha, sản lượng 10.898 tấn. Còn giai đoạn 2015
diện tích 6.650 ha, sản lượng 10.574 tấn. Diên tích và sản lượng cây lạc cũng có xu
hướng giảm xuống. Diện tích và sản lượng bông, thuốc lá và đu đủ tía giảm xuống
trong giai đoạn 2012 - 2013. Còn mía có diện tích và sản lượng có xu hướng tăng lên
như: giai đoạn năm 2011 có diện tích là 488 ha còn năm 2015 có diện tích là 515 ha,
sản lượng tăng 472 tấn.
+ Cây công nghiệp lâu năm
Tại tỉnh Champasak là một trong những khu vực ở miền nam của nước Lào đã
có diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm khá lớn như: cà phê, chè, sa nhân.
Trồng cây cà phê, chè, sa nhân ở khu vực cao nguyên Bolaven thuộc với
huyện Paksong và huyện Bachieng.
65
Bảng 2.15. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp lâu năm tỉnh Champasak
giai đoạn 2011 - 2015
Năm
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn) Cây Cà phê Chè Sa nhân Cao su Cà phê Chè Sa nhân Cao su 2014 50.145 458 3.282 28.824 517.746 188 758 26.378 2011 47.773 359 2.557 25.853 371.522 117 534 11.982 2013 46.864 458 3.282 28.424 420.534 187 530 21.546 2015 50.433 483 3.282 28.824 547.330 203 852 30.594
2012 48.760 458 3.282 28.397 406.141 178 588 20.280 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015 SNN-LN tỉnh Champasak)
Trong cơ cấu diện tích và sản lượng cây công nghiệp lâu năm là cây cà phê
chiếm tỉ trong nhiều nhất so với cây công nghiệp lâu năm khác, năm 2011 diện tích
là 47.773 ha, năm 2015 là 50.433 ha, còn sản lượng cây cà phê năm 2011 là 371522
tấn, năng suất 7,78 tấn/ha và 547330 tấn, năng suất 10.85 tấn/ha (năm 2015).
d. Cây ăn quả
Tỉnh Champasak có điều kiện đất đai, thời tiết thuận lợi và phong phú với
trồng cây ăn quả và phát triển một số cây ăn quả như: sầu riêng, dứa, chuối, me, long,
nhãn, chôm chôm, cam, dừa, xoài và na,...
Bảng 2.16. Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả tỉnh Champasak
giai đoạn 2011 - 2015
Năm
Diện tích (ha)
Cây Sầu riêng Dứa Cam Long Nhãn Chôm chôm Chuối Dừa Me Chanh Na Xoài Đu Đủ Hạt điều Mít 2011 748 1.095 297 25 67 422 1.100 690 248 265 225 300 1.120 2.112 269 2013 771 1.098 321 34 78 422 1.557 731 341 395 233 325 1.130 3.797 381 2014 848 1.105 351 39 78 422 1.557 756 341 410 233 340 1.155 3.857 381 2015 976 1.105 351 39 78 422 1.562 756 341 410 227 340 1180 3.857 381 2012 751 1.098 299 26 69 422 1.530 695 292 268 227 309 1.115 2.112 284
66
Năm
Sản lượng (tấn)
Cây Sầu riêng Dứa Cam Long Nhãn Chôm chôm Chuối Dừa Me Chanh Na Xoài Đu Đủ Hạt điều Mít 2011 6.782 14.245 514 96 120 1200 12.600 4.060 646 715 667 2.026 2.677 4.026 2.251 2012 6.782 14.245 514 96 127 1200 12.600 4.060 646 715 667 2.026 2.673 4.026 2.251 2013 9.875 15.056 514 141,25 308,56 1200 16.512 5.194 942,40 1.474 976 2.168,55 5.812,80 9.839,40 3.404,94 2014 9.876 15.372 910,94 168 339 1270 19.584 6.328 955 1.474 976,10 2.740 5.977,70 18.575 3.405 2015 11.019 15.097 1.687 239 404 1.270 21.594 7.974 942 1.474 976,10 2.993 5994,45 12.348 4.488
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Theo thống kê diện tích và sản lượng cây ăn quả có xu hướng tăng lên. Trong
giai đoạn năm 2011 có diện tích là 8.983ha, năm 2015 có diện tích là 12.025 ha, còn
sản lượng năm 2011 sản lượng cây ăn quả là 52.625 tấn, năm 2015 sản lượng cây ăn
quả là 88.499,55 tấn.
e. Rau, đậu thực phẩm
Với sự gia tăng về nhu cầu tiêu dùng của dân cư, cùng với sự mở rộng canh
tác vụ đông nhiều loại cây thực phẩm đã được đẩy mạnh phát triển. Năm 2011diện
tích trồng rau quả thực phẩm 32.831 ha, sản lượng là 350.895 tấn, năm 2012 diện tích
là 35.449 ha, sản lượng 359.785 tấn, năm 2013 diện tích 35.911 ha, sản lượng là
361.865 tấn còn năm 2014 diện tích 35.950 ha, sản lượng là 362.417 tấn, 2015 diện
tích 35.991 ha, sản lượng là 363.143 tấn. Giá trị sản xuất các loại cây rau quả thực
phẩm liên tục tăng nhanh. Năm 2011 GTSX là 204.230.000 kip, chiếm 10,50% so với
GTSX ngành trồng trọt của tỉnh Champasak (giá thực tế). Còn năm 2015 GTSX là
303.252.000 kip, chiếm 12,39%.
Hiện nay trong sản xuất rau quả thực phẩm của tỉnh Champasak là sản xuất đã
mang tính hàng hóa rõ rệt, sản xuất rau an toàn và ngày càng hướng mạnh vào thị
trường, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhiều loại rau quả thực phẩm của tỉnh
Champasak được sản xuất với khối lượng lớn cung cấp cho thị trường nội tỉnh và nơi
67
khác. Với hiệu quả kinh tế cao mà cây rau đậu thực phẩm mang lại đã khuyến khích
nông dân ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả hơn các loại giống mới và công nghệ - kỹ
thuật vào sản xuất.
2.2.3. Ngành chăn nuôi
Ngành chăn nuôi đã góp phần quan trọng vào nâng cao thu nhập cho các hộ
nông dân, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa. An ninh lương thực được đảm bảo, có lượng thực hàng hóa. Nhưng
hiện nay ngành chăn nuôi của tỉnh Champasak đã cung cấp phần lớn cho người tiêu
dùng trong tỉnh và mỗi tỉnh vùng miền nam còn nước ngoài chỉ là một số con.
Trong giai đoạn 2011-2015 tổng số ngành chăn nuôi của tỉnh Champasak có
xu hướng tăng lên nhưng đàn trâu và đàn bò tỉ trọng giảm xuống so với tổng số lượng
chăn nuôi của tỉnh như: năm 2011 đàn trâu có 135.722 con, so với số lượng chăn nuôi
chiếm 2.53% (tổng số 5.358.276 con), năm 2015 đàn trâu có 149.720 con, so với số
lượng chăn nuôi chiếm 2,19% (tổng số ngành chăn nuôi 6.831.250 con). Còn đàn lợn
và đàn gia cầm số lượng có xu hướng tăng tỉ trọng. Đặc biệt đàn gia cầm, năm 2011
đàn gia cầm có 4.891.930 con, so với số lượng chăn nuôi chiếm 91,30 (tổng số
5.358.276 con), năm 2015 đàn gia cầm có 6.278.585 con, so với số lượng chăn nuôi
chiếm 91,91% (tổng số ngành chăn nuôi 6.831.250 con).
Hình 2.8. Tình hình phát triển ngành Chăn nuôi tỉnh Champasak
giai đoạn 2011 - 2015
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
68
+ Chăn nuôi trâu
Trâu là vật nuôi gắn liền với sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện của tỉnh
Champasak, CHDCND Lào hiện nay sức kéo của trâu tiếp tục giữ những vị trí quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn 2011-2015 số lượng đàn trâu của
tỉnh tăng lên 13.998 con, còn thấp so với số lượng gia súc khác. Nguyên nhân là do
nhu cầu sức kéo được thay thế dần bằng máy móc nông nghiệp, chăn nuôi trâu
chuyển sang mục đích chăn nuôi lấy thịt. Bây giờ UBND tỉnh nói chung, nói riêng là
sở nông nghiệp - lâm nghiệp đã quan tâm với ngành chăn nuôi nhiều hơn làm cho số
lượng của thực vật tăng lên. Năm 2011 tỉnh Champasak sử dụng đàn trâu để tiêu thụ
là 20.495 con, cung cấp sản lượng thịt trâu 2347,01 tấn, sản lượng thịt đàn trâu bình
quân là 3,58 kg /người và có thể xuất khẩu đàn trâu sang tỉnh khác và nước ngoài
được 703 con chiếm 0,52% (so với tổng số của đàn trâu). Còn năm 2015 sử dụng đàn
trâu để tiêu thụ là 23.508 con, cung cấp sản lượng thịt trâu 2637,2 tấn, sản lượng thịt
đàn trâu bình quân là 3,80 kg /người và có thể xuất khẩu đàn trâu sang tỉnh khác và
nước ngoài được 1.616 con chiếm 1,08% (so với tổng số của đàn trâu).
+ Chăn nuôi bò
Chăn nuôi bò cũng góp phần cung cấp sức kéo cho nông nghiệp và cung cấp
thịt, hiện nay tỉ lệ chăn nuôi bò lấy sức kéo giảm thay vào đó là xu thế chăn nuôi bò
lấy thịt cung cấp cho thị trường và giai đoạn 2011-2015 số lượng của con bò có nhiều
hơn con trâu. Trong giai đoạn 2011-2015 số lượng của đàn bò đã gia tăng là 22.959
con. Năm 2011 tỉnh Champasak sử dụng đàn bò để tiêu thụ là 30.686 con, cùng cấp
sản lượng thịt bò là 2.766,58 tấn, sản lượng thịt đàn trâu bình quân là 4,22 kg /người
và có thể xuất khẩu đàn bò sang tỉnh khác và nước ngoài được 490 con chiếm 0,34%
(so với tổng số của đàn bò). Còn năm 2015 sử dụng đàn bò để tiêu thụ là 37.016 con,
cùng cấp sản lượng thịt bò 3.268,74 tấn, sản lượng thịt đàn bò bình quân là 4,71 kg
/người và có thể xuất khẩu đàn bò sang tỉnh khác và nước ngoài được 1.610 con
chiếm 0,97% (so với tổng số của đàn bò).
+ Chăn nuôi lợn
Những năm gần đây, sản lượng lương thực tăng vững chắc, cơ sở thức ăn nông
nghiệp được mở rộng nên chăn nuôi lợn ở tỉnh Champasak tong những năm đã tăng
nhanh cả về số lượng và chất lượng, công tác cải tạo giống được thực hiện, chương
69
trình nạc hóa đàn lợn đang được khuyến khích phát triển. Trong giai đoạn 2011-2015
số lượng của đàn lợn đã gia tăng là 49.362 con. Năm 2011 tỉnh Champasak sử dụng
đàn lợn để tiêu thụ là 139.036 con, cùng cấp sản lượng thịt lợn có 4.733,35 tấn, sản
lượng thịt đàn lợn bình quân là 7,22 kg /người và có thể xuất khẩu đàn trâu sang tỉnh
khác và nước ngoài được 2.144 con chiếm 1,14% (so với tổng số của đàn lợn). Còn
năm 2015 sử dụng đàn trâu để tiêu thụ là 188.152 con, cùng cấp sản lượng thịt trâu
6.287,64 tấn, sản lượng thịt đàn lợn bình quân là 9,06 kg /người và có thể xuất khẩu
đàn lợn sang tỉnh khác và nước ngoài được 2.462 con chiếm 1,04% (so với tổng số
của đàn trâu). Toàn tỉnh có 85 trang trại nuôi lợn.
+ Gia cầm
Chăn nuôi gia cầm ngày càng có vai trò quan trọng đối với đời sống của các
hộ nông dân tỉnh Champasak, Việc nuôi gia cầm một mặt tận dụng được nguồn lao
động phụ, phế liệu của ngành trồng trọt, mặt khác đẹm lại hiệu quả kinh tế cao và
chăn nuôi gia cầm chủ yếu dưới hình thức hộ gia đình. Hầu như gia đình nào ở nông
thôn cũng chăn nuôi kết hợp nhiều loại gia cầm như gà, vịt,...vừa tạo nguồn thực
phẩm trong gia đình hàng ngày, vừa góp phần tạo ra sản phẩm hàng hóa. Hiện nay
chăn nuôi chủ yếu là hình thức chăn thả tự nhiên. Tuy nhiên, ở một số địa phương
bước đầu xuất hiện mô hình chăn nuôi gia cầm thâm canh hay bán thâm canh với quy
mô khá lớn, nhiều hộ gia đình đầu tư chuồng trại chăn nuôi khá lớn.
Bảng 2.17. Số lượng đàn gia cầm tỉnh Champasak trong giai đoạn 2011-2015
Tổng số gia cầm Gà Vịt Chim cút Năm (con) (con) (con) (con)
2011 4.891.930 3.324.870 1.538.160 28.900
2012 5.253.932 3.629.106 1.593.826 31.000
2013 5.625.670 3.884.911 1.708.759 32.000
2014 6.008.215 4.512.608 1.460.607 35.000
2015 6.278.585 4.737.000 1.501.584 40.000
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011-2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
Trong những năm gần đầy, chăn nuôi gia cầm ở tỉnh Champasak ngày càng có
phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng và đa dạng phong phú về chủng loại
như: nuôi đàn gà chuyên thịt, chuyên trứng, đàn vịt và đàn chim. Trong giai đoạn
70
năm 2011-2015 số lượng đàn gia cầm đã gia tăng là 1.386.654 con. Năm 2011 số
lượng gia cầm có 4.891.930 con chiếm 91,30% (so với ngành chăn nuôi), sản xuất
trứng được 59.929.222 quả và có thể cung cấp sản lượng thịt được 5.926,52 tấn, sản
lượng thịt gia cầm bình quân là 9,04 kg/người. Còn năm 2015 số lượng có 6.278.584
con, chiếm 91,91%, sản xuất trứng được 97.464.625 quả và có thể cung cấp thịt gia
cầm được 7.751,98 tấn, sản lượng thịt gia cầm bình quân là 11,17 kg /người. Trong
đó đàn gà có tổng số nhiều nhất so với gia cầm. Năm 2011 số lượng gà là 3.324.870
con, chiếm 67,97%, sản xuất trứng được 957.222 quả và năm 2015 số lượng có
4.737.000 con chiếm 75,45% sản xuất trứng được 94.000.000 quả.
+ Chăn nuôi gia súc khác
Ngoài các vật nuôi truyền thống trên tỉnh Champasak còn nuôi voi, ngựa, de,
đà điểu ở một địa phương trong tỉnh. Chăn nuôi những loại con vật này vừa tận dụng
được nguồn lao động, bãi chăn thả tự nhiên và những phụ phẩm của ngành trồng trọt
vừa làm phong phú thêm cho sản phẩm chăn nuôi của tỉnh.
Voi: Được nuôi để là phương tiện đi lại, vận chuyển hàng hóa ở khu vực nông
thôn, đưa khách đi du lịch theo núi, theo khu du lịch của tỉnh. Phần lớn có đàn voi ở
Huyện Pathoomphone. Năm 2011 số lượng đàn voi là 28 con, năm 2012 số lượng là
23 con, năm 2013 số lượng là 23 con, năm 2014 số lượng là 23 con và 2015 số
lượng là 23 con.
Ngựa: Được nuôi để là phương tiện đi lại, vận chuyển hàng hóa ở khu vực
nông thôn. Ngoài ra ngựa còn cung cấp thịt cho người dân. Năm 2011số lượng đàn
ngựa là 2.095 con, năm 2012 số lượng là 2.269 con, năm 2013 số lượng là 2.530 con,
năm 2014 số lượng là 2.821 con, năm 2015 số lượng là 3.107 con.
Dê: Đây là giống gia súc nhỏ được nuôi để lấy thịt. Tổng đàn dê năm 2011số
lượng là 11.713 con, năm 2012 số lượng là 12.228 con, năm 2013 số lượng là 12.789
con, năm 2014 số lượng là 13.378 con. Còn 2015 số lượng là 13.955 con. Sản lượng
thịt đàn dê bình quân năm 2011 là 0,11kg/ người và năm 2015 sản lượng thịt đàn dê
bình quân là 0,12 kg /người.
Ngoài voi, ngựa, dê còn có đà điểu và chim công. Tổng số đàn đà điểu năm
2011 số lượng là 1.279 con, năm 2012 số lượng là 1.432 con, năm 2013 số lượng là
488 con, năm 2014 số lượng là 554 con và 2015 có 620 còn. Còn chim công năm
71
2011 số lượng là 585 con, năm 2012 số lượng là 1.046 con, năm 2013 số lượng là
199 con, năm 2014 số lượng là 236 con và 2015 có 299 còn.
Như vậy có thể thấy, tỉnh Champasak có điều kiện thuận lợi phù hợp với việc
phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và những năm qua tỉnh đã chú trọng về quy mô, số
lượng, quan tâm tới chất lượng sản phẩm vật nuôi, cải tạo cơ cấu giống đàn gia suac, gia
cầm. Vì vậy, tỉ trọng ngành chăn nuôi tăng lên khá nhanh trong cơ cấu nông nghiệp. Tuy
nhiên tiềm năng của tỉnh còn rất lớn, cần có sự đột phá trong phát triển chăn nuôi.
Để phát triển ngành chăn nuôi, tỉnh Champasak cần áp dụng những tiến bộ
KHKT trong công tác chọn, tuyển và lai tạo giống, chăm sóc và phòng trừ bệnh, tiến
tới giải quyết một phần thức ăn gia súc đã qua chế biến công nghiệp và đầu tư nhiều
hơn nữa vào cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành.
2.2.4. Ngành dịch vụ nông nghiệp
Việc phát triển dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Champasak đã được các
cấp, các ngành quan tâm và các doanh nghiệp cũng tích cực mở rộng đại lý phân phối
trên các đại bàn. Chính điều này đã góp phần tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất
trồng trọt, chăn nuôi của tỉnh Champasak có những bước tiến nhanh chóng. Với việc
đẩy mạnh ứng dụng những tiến bộ mới vào sản xuất, ngành dịch vụ nông nghiệp ngày
càng trở nên thường xuyên và cần thiết hơn. Các loại hình dịch vụ khá đa dạng, trong
đó dịch vụ làm đất và cung ứng giống cây trồng, ngoài ra các dịch vụ như thủy lợi,
dịch vụ điện, dịch vụ khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, tiêu thụ nông sản,... cũng
đóng góp quan trọng vào những khởi sắc của ngành dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng
của ngành dịch vụ nông nghiệp đã không ngừng tăng lên trong năm 2011 GTSX là
33.568.748 nghìn kip chiếm 1,04% so với ngành trồng trọt và chăn nuôi, còn năm
2015 GTSX là 85.060.197 nghìn kip chiếm 1,93%.
Tuy nhiên, xét trong cơ cấu GTSX của ngành nông nghiệp, hoạt động dịch vụ
nông nghiệp còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với ngành khác và khó khăn trong phát
triển ngành dịch vụ nông nghiệp trên đại bàn tỉnh Champasak .
2.3. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Champasak
Trên địa bàn tỉnh Champasak, CHDCND Lào hiện nay đang có một số hình
thức tổ chức sản xuất nông nghiệp cùng tồn tại và tác động tích cực đến sự phát triển
của ngành.
72
2.3.1. Hộ gia đình (nông hộ)
Trong bất kì giai đoạn phát triển nào của nước ta nói chung nói riêng của tỉnh
Champasak hình thức hộ gia đình cũng giữ một vai trò rất quan trọng, là đơn vị sản
xuất tự chủ và đơn vị tiêu dùng rất đa dạng. Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức
sản xuất truyền thống và đang chiếm ưu thế. Trong công cuộc đổi mới, nông nghiệp
dượi coi là mặt trận hàng đầu và đến nay đã có nhiều khởi sắc, sản xuất theeo cơ chế
thị trường. Champasak luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ nông và chuyển
giao kỹ thuật giúp họ phát triển sản xuất kinh doanh. Tính đến năm 2015 tổng số hộ
gia đình là 105.393 hộ. Còn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh là 77.990 hộ
chiếm 74% . Dân số của tỉnh Champasak có 694.000 (năm 2015) người so sanh với
dân số của cả nước chiếm 10,69%, Ở các nước trên thế giới cũng như đất nước Lào
nói chung, nói riêng là tỉnh Champasak đều thừa nhận “hộ” là “gia đình” và “kinh tế
hộ” là “kinh tế gia đình”. Hộ là một đơn vị KT - XH tự chủ cùng một lúc thực hiện
nhiều chức năng mà các đơn vị khác không thực hiện được. Đây là một tế bào của xã
hội mà quan hệ giữa các thành viên trong tế bào này thường là quan hệ huyết thống,
dòng họ. Kinh tế của hộ thường dựa trên cơ sở sức lao động của tất cả các thành viên
trong gia đình, tiến hành khai thác đất và các yểu tố sản xuất khác nhằm mang lại của
cải vật chất để phục vụ cho nhu cầu của tất cả mọi người trong hộ. Tất cả các thành
viên trong hộ gia đình đều phải có nhiệm vụ và trách nhiệm làm tăng thu nhập để
đảm bảo sự tồn tại. Hộ gia đình vừa là đơn vị sản xuất cũng vừa là đơn vị tiêu dùng.
Đất đai, qui mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. Tùy từng nơi
khác nhau mà quy mô canh tác có diện tích khác nhau. Ví dụ: Lào 1,5 ha/hộ; Việt
Nam khoảng 0,5ha/ hộ (Miền Bắc); 0,6 - 1ha/ hộ (Miền Nam); Ấn Độ < 2ha/ hộ;
Philippin < 3ha/ hộ.
Đối với các nước đang phát triển hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể
tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ lên 1 mức cao hơn: nông thôn sản xuất hàng
hóa. Hộ gia đình có khả năng tồn tại và phát triển qua nhiều chế độ xã hội khác nhau
và trên thực tế nó đã đang tồn tại và phát triển như vậy.
2.3.2. Trang trại
Tại tỉnh Champasak, mặc dù hình thức trang trại vẫn còn khá mới mẻ, nhưng
từ khi có chủ trương về phát triển nông nghiệp toàn diện thì mô hình kinh tế này đã
73
bắt đầu phát triển khá mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và loại hình. Phát huy vai trò
tự chủ của chủ hộ gia đình đặt nền móng cho sự ra đời của các trang trại, tuy nhiên số
trang trại của còn tỉnh thấp. Trong tổng số trang trại của tỉnh Champasak chiếm số
lượng lớn nhất chủ yếu là trang trại chăn nuôi. Năm 2011 có168 trang trại. Nuôi đàn
trâu, đàn bò có 27 trang trại, chim cút có 8 trang trại, nuôi gà lấy thịt có 9 trang trại,
nuôi gà lấy trứng có 1 trang trại, nuôi vịt lấy trứng có 7 trang trại, nuôi đàn lợn có 88
trang trại, nuôi cá có 17 trang trại, nuôi đàn dê có 11 trang tại. Còn năm 2015 có181
trang trại. Nuôi đàn trâu, đàn bò có 30 trang trại, chim cút có 8 trang trại, nuôi gà lấy
thịt có 12 trang trại, nuôi gà lấy trứng có 2 trang trại, nuôi vịt lấy trứng có 8 trang trại,
nuôi đàn lợn có 89 trang trại, nuôi cá có 21 trang trại, nuôi đàn dê có 13 trang tại.
Tỉnh Champasak, kinh tế trang trại phát triển phần lớn đã góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi. Việc hình thành và phát triển loại hình kinh tế
trang trại đã giúp người dân làm quen với kinh tế thị trường và đã góp phân khai thác
các loại con vật sử dụng hiệu quả và tạo ra một khối lượng hàng hóa đáng kể cung
cấp cho thị trường.
Trong thời gian tới, tỉnh Champasak cần phát triển mạnh kinh tế trang trại nhất
là trang trại chăn nuôi. Với tiêu chí trang trại mới nay, sẽ tác động rất lớn trong việc
thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, quy mô sản xuất hàng hóa ngày càng lớn, tạo
được sức cạnh tranh trên thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế của nước và quốc
tế, có ý nghĩa rất lớn đối với sản xuất của người dân , tạo đông lực cho người sản xuất
nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm, liên kết và hình thành thức ăn, thu hoạch và tiêu
thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, tỉnh Champasak có nhiều điều kiện thuận lợi với kinh tế trang trại,
các loại trang trại, đòi hỏi chủ trại phải có năng lực kể cả cơ sở vật chất, vốn, kỹ
thuật. Bênh cạnh đó, để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Champasak phải có chính
sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển về đất, vốn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật để kinh tế
hợp tác phát triển bền vững.
2.3.3. Hợp tác xã
Trong thời gian qua, các HTX trên địa bàn tỉnh đã tiến hành chuyển đổi mô hình
tổ chức sản xuất và cơ chế quản lí từ mô hình kinh tế quốc doanh và tập thể thành mô
hình HTX kiểu mới- hoạt động theo luật HTX. Các HTX đã tiền hành giao quyền sử
74
dụng đất lâu dài cho nông dân để chuyển sang làm dịch vụ hỗ trợ sản xuất như dịch vụ
thủy nông, cung ứng vật tư phân bón, bảo vệ thực vật, làm đất, giống cây trồng, tiêu
thụ nông sản,... Điểm khác biệt ở tỉnh Champasak là hầu hết các HTX trước đây không
bị tan vỡ hoặc bị giải thể mà được chuyển đổi trên cơ sở HTX cũ với việc tự nguyện
đăng ký tham gia của toàn thể xã viên và chuyển giao vốn, tài sản từ các HTX trước
đó. Trong cơ chế thị trường, các HTX đã tỏ rõ vai trò quan trọng: HTX không chỉ là
cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng mà con hướng dẫn cho xuất phát triển.
Đề án củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp
đạt kết quả bước đầu, đáp ứng dịch vụ thiết yếu phát triển sản xuất và phục vụ đời sống
dân cư nông thôn. Số HTX ở tỉnh Champasak nhìn chung phát triển không mạnh, năm
2013 tổng số hợp tác xã của cả tỉnh có 4 huyện như: huyện Phon Thong có 5 làng,
huyện Champasak có 2 làng, huyện Sukuma có 1 làng, huyện Meunlapamok . Trong
đó phần lớn là các hợp tác xã nông nghiệp.
2.3.4. Các vùng chuyên canh
Tỉnh Champasak được chia thành 4 vùng nông nghiệp như :
Vùng 1: Đây là vùng cao nguyên Bolaven có diện tích trên 156 ngàn hécta)
nằm ở huyện Paksong, vùng này có diện tích rộng, có đất phong phú, thời tiết mát
chính phủ nhà nước và chủ tích tỉnh được thúc đẩy đặc biệt vùng này là vùng trồng
cây cà phê, trồng cây chè, các loại cây ăn quả và hoa màu, đồng thời trồng các loại
cây có thể bảo vệ nguồn đất, nguồn nước.
Vùng 2 : Vùng này là vùng nối liền cao nguyên Boloven và đồng bằng có diện
tích 37,5 ngàn hécta) trên 3 huyện có thể trồng điều, cây ăn quả, chuối, đậu nành,
trồng cây trầm hương, cao su.
Vùng 3 : Vùng này là vùng đông bằng sông Mê kông và đảo với diện tích
trồng lúa khoảng trên 120 ngàn hécta nhằm trên 8 huyện (huyện Sanasomboon, huyện
Pakse, huyện Phonethong , huyện Champasak, huyện Pathumphone, huyện Sukuma,
huyện Meunlapamok, và huyện Khong), vùng này có thể tập trung sản xuất lúa, nuôi
cá và trồng cây văn hóa lụa dâu cây bản địa.
Vùng 4: vùng cuối cùng là phía Tây sông Mekong gần biên giới Lào, Thái lan
có tổng diện tích khoảng 33,8 ngàn hécta , nằm trong 3 huyện có thể trồng điều, chăn
nuôi và xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, cũng như quy hoạch, phát triển các
trang trại chăn nuôi.
75
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Những kết quả và thành tựu đạt được
Sự phát triển kinh tế của tỉnh Campasak có xu hướng tăng lên tổng sản phẩm và
cơ cấu GDP tỉnh Champasak, CHDCND Lào. Trong giải đoạn năm 2011 thu nhập là
9.495.001 kip hoặc 1.187$/lao động/năm (1$ = 8.000 kip), 2012 thu nhập là 10.305.166
kip hoặc 1.286$/lao động/năm (1$ = 8015 kip), năm 2013 thu nhập là 11.684.698 kip
hoặc 1.458$/lao động/năm (1$ = 8015 kip), năm 2014 thu nhập là 12.028.608 kip hoặc
1.504$/lao động/năm (1$ = 8000 kip), 2015 thu nhập là 16.040.000 kip hoặc 2.005$/ lao
động/năm (1$ = 8000 kip). Trong đó, GTSX nông nghiệp chiếm tỉ trộng nhiều nhất và
quan trọng nhất trong phát triển kinh tế của tỉnh Champasak.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh diễn ra trên diện rộng và trên
nhiều lĩnh vực, như chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi, chuyển dịch mùa vụ, chuyển
đổi giống cây trồng, vật nuôi , chuyển đổi mục đích sử dụng đất có hiệu quả. Chính sự đa
dạng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã làm cho sản xuất
nông nghiệp của tỉnh đạt được những kết quả cao trong những năm qua, đã bước đầu
chuyển nông nghiệp sang nền sản xuất hàng hóa, có sức cạnh tranh ngày càng cao.
Lợi thế của tỉnh là đất khá tốt, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh khá lớn, có
nhiều đồi núi thấp nằm liền vùng, đất sản xuất tương đối bằng phẳng, đất đài màu mỡ,
đất bazan có chất lượng cao thuận lợi cho việc phát triển cây nông nghiệp. Đặc biệt là
vùng cao nguyên , vùng đồng bằng chiếm tỉ lẻ nhiều nhất phù hợp với trồng lúa, rau
màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả. Ngoài ra
còn phù hợp với chăn nuôi, đàn trâu , đàn bò, đàn lợn, ... Đây là những loại sản phẩm
có tính chiếm lược của ngành nông nghiệp của tỉnh hiện tại và trong tương lai.
Việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp được quan tâm
đúng mức, tỉnh đã làm tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng các trang trại
vật nuôi, giống thủy sản và chuyển giao kỹ thuật tới các hộ nông dân, nên đã góp
phần làm tăng năng suất, tăng thu nhập cho các hộ nông dân và các khu vực sản xuất
các loại nông sản có chất lượng cao.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phất triển sản xuất nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH được ưu tiên đầu tư.
Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư và nâng cấp cơ bản đã đáp ứng
việc đi lại và vận chuyển hàng hóa.
76
Hệ thống công trình thủy lợi đã cung cấp đây đủ cho nông dân sử dụng vào
cuộc sống và việc phát triển nông nghiệp của nông dân. Hệ thống cung cấp nước
sạch, điện nông thôn cũng ngày càng được mở rộng đáp ứng yêu câu sinh hoạt của
nhân dân, ngành nghề nông thôn, cơ giới hóa trong nông lâm nghiệp ngày càng phát
triển theo hướng CNH,HĐH.
2.4.2. Những tồn tại và hạn chế
Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu theo hình thức hộ gia đình, chưa có nhiều mô
hình sản xuất theo quy mô trang trại. Chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, sức
cạnh tranh trên thi trường chưa cao.
Dịch vụ nông nghiệp có phát triển nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất,
nhất là khâu làm đất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Bình quân đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ khoảng 1-1,5 ha/hộ so vơi yêu
cầu của sự phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh còn thấp , chất lượng đất ngày càng
giảm do hệ số quay vòng cao, sử dụng nhiều phần bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật
đã hạn chế khả năng áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, hạn chế khả năng tổ chức
sản xuất hàng hóa với quy mô lớn và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
Hệ thống thủy lợi còn nhiều hạn chế, không có hồ chứa nước lớn, không chủ
động được nước tưới, nhiều diện tích đất hoang hóa. Hệ thống khuyến nông, thú y ở
tỉnh bạn còn yếu và thiếu cán bộ chuyên sâu, người dân chưa chú trọng đến việc lựa
chọn giống cây trồng, vật nuôi, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất…, nên hiệu quả sản
xuất không cao.
Việc thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông - lâm -
ngư nghiệp chưa đồng bộ. Mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, sản phẩm
chua được chú ý đúng mức. Vấn đề dự báo, thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm,
công tác xúc tiến thương mại còn yếu.
Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng tới tăng
trưởng ngành chăn nuôi. Các mặt hàng chủ lực trong sản xuất nông-lâm ngư nghiệp
còn ít, chất lượng chưa cao.
Lực lượng cán bộ quan lý kỹ thuật nông nghiệp từ tỉnh tới cơ sở còn mỏng,
nên một số chủ trương, chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Nhà nước chậm
được chủ thể hóa hoặc chưa đến được với người nông dân và các đơn vị sản xuất kinh
doanh nông nghiệp.
77
Trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp tuy đã
được chú trọng, nhưng còn ở mực thấp so với yêu cầu phát triển. Do vậy chi phí sản xuất
còn cao, chất lượng sản phẩm thấp và giá trị hàng hóa ít, tính cạnh tranh còn hạn chế.
Trình độ của lao động nông nghiệp, nông thôn cao nhưng khả năng ứng dụng
các tiến bộ KHKT vào sản xuất còn hạn chế.
Hệ thống CSVCKT đã được tăng cường nhưng nhìn chung còn quy mô nhỏ,
lạc hậu, thiếu đồng bộ, hiệu quả và tác dung còn chưa cao. Vốn đầu từ của nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài còn thấp và chưa khai thác vào ngành nông nghiệp đặc
biệt vốn của doanh nghiệp trong nước và vốn nước ngoài.
Hạn chế về công nghệ thông tin, tốc độ đường truyền internet khá chậm, những
trang thiết bị liên quan lĩnh vực này đang thiếu. Còn y tế thì chưa phát triển so với yêu
cầu điều trị bệnh của người dân trong tỉnh và các tỉnh ở vùng miền nam. Giáo dục cũng
là một lĩnh vực đang được ưu tiên trong đầu tư để nâng cao dân trí và ngoại ngữ. Khi có
nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhu cầu học ngoại ngữ nhưng trình độ dân trí của tỉnh chưa
cao so với yêu cầu của xã hội toàn tỉnh chỉ có hai huyện được công nhận là huyện phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Các ngành khác ở đây cũng tất yếu tăng lên.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Ngành nông nghiệp của tỉnh Champasak trong những năm qua đã đạt được
những thành tựu khá quan trọng. Giá trị sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng, các sản
phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng về số lượng và chất lượng. Cơ cấu ngành nông
nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ trọng ngành trồng trọt và ngành chăn
nuôi ngày càng tăng lên. Ngành dịch vụ nông nghiệp đang có phát triển so với ngày
xưa. Sản xuất nông nghiệp theo xu hướng sản xuất hàng hóa ngày càng được mở rộng
ở khắp địa phương trong tỉnh. Kinh tế trang trại ngày càng phát triển nhất là trang trại
chăn nuôi, trình độ sản xuất ngày càng nâng cao.
Tuy nhiên bênh cạnh những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển nông
nghiệp của tỉnh Champasak, CHDCND lào cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Tốc độ
tăng trưởng còn chưa ổn định. Tốc độ tăng trưởng ngành chăn nuôi còn thấp. Có hạn
chế về lãnh thổ, điều kiện về vốn, khoa học, kỹ thuật,... nên quy mô sản xuất còn nhỏ,
ngành chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát phòng chống dịch
bệnh, nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
78
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH CHAMPASAK - CHDCND LÀO ĐẾN NĂM 2025
3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak đến năm 2025
3.1.1. Quan điểm
Các quan điểm phát triển phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách, chiến
lược, kế hoạch của quốc gia cũng như của tỉnh Champasak miền nam của Lào.
Quan điểm này nhấn mạnh: định hướng, chiến lược phát triển của tỉnh
Champasak phải đặt trong bối cảnh chung của cả nước, kế hoạch phát triển KT-XH,
kế hoạch xây dựng cũng như phát triển các công trình trọng điểm của tỉnh. Phát triển
phải đảm bảo hài hòa giữa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và mở rộng hợp tác,
đặc biệt là hợp tác đầu tư. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên cơ sở
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo đột phá phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt như
kết cấu hạ tầng, du lịch và công nghiệp để thực hiện CNH, HĐH và CNH nông
nghiệp nông thôn nhằm giảm mức chênh lệch, tiến vượt mức trung bình của cả nước
nói chung và của tỉnh nói riêng.
Đảm bảo chất lượng tăng trưởng, xác định điểm, ngành đột phá đi lên, cần
thông qua chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lí, thu hút nhiều thành phần tham gia phát
triển sản xuất, tăng năng suất lao động, hiệu suất đầu tư và năng suất cây trồng vật
nuôi cũng như đảm bảo kinh tế phát triển và bền vững.
Phát triển kinh tế gắn chặt với xây dựng, củng cố và nâng cao hệ thống chính
trị vững mạnh từ cơ sở.
Phát triển kinh tế phải đi liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ
môi trường.
3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp
Trên cơ sở đánh giá nguồn lực, thực trạng, những khó khăn và thuận lợi trong
sản xuất nông nghiệp, việc định hướng và đưa ra các mục tiêu phát triển nông nghiệp
tỉnh Champasak phải dựa trên các quan điểm sau:
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
sản xuất hàng hóa, phù hợp với tiềm năng và lợi thế so sanh của tỉnh. Phát triển
79
nhành đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu tạo sự liên kết
bền vững giữa khu vực sản xuất nguyên liệu với công nghiệp và thị trường tiêu thụ.
Thực hiện có hiệu quả các chương trình nông nghiệp trọng điểm, nhất là trọng
điểm phát triển cây lúa, cây chè, cây cà phê, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản, chăn
nuôi bò thịt, trâu, ... và đảm bảo an ninh lương thực.
Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái bền vững trên cơ sở sản xuất nông, lâm
kết hợp để bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sinh thái. Hoàn
thành cơ bản việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân.
+ Định hướng chung về kinh tế - xã hội của tỉnh Champasak, CHDCND Lào
đến năm 2025
Tỉnh Champasak, lấy việc phát triển kinh tế là công trình trọng điểm của tỉnh,
tăng trưởng nền và chuyển đổi cơ cấu kinh tế đi theo hướng phát triển liên tục, ổn
định, có hiệu quả, chất lượng và bền vững bằng cách đẩy mạnh tiềm năng và khuyến
khích phát triển ngành nông nghiệp là trở thành nền tảng phát triển bền vững. Sản
xuất một số sản phẩm hàng hóa có cả về số lượng và chất lượng, sạch, an ninh, giá
tốt để xuất khẩu, xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp gắn với chế biến và thị trường;
tăng cường phát huy điểm mạnh và những lợi thế vùng đồng bằng và cao nguyên
Bolaven vào trong sản xuất nông nghiệp để xây tạo gia tăng giá trị sản xuất và cạnh
tranh cao; người dân nội tỉnh là tích cực tham gia trong việc phát triển và bảo vệ các
nguồn tài nguyên nước, phát triển thủy lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp, cùng với
phát triển nông dân, tạo điều kiện chính sách bảo vệ và thúc đẩy để đảm bảo an ninh
lương thực bền vững. Tạo điều kiện và các yếu tố để thúc đẩy vào việc quản lý đất
nông nghiệp, tạo các điều kiện và yếu tố để cải thiện độ phì của đất để quản lý và sử
dụng đất nông nghiệp bền vững. Đồng thời tỉnh Champasak vẫn còn khai thác mọi
tiềm năng lợi thế để thu hút nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào việc sản
xuất nông nghiệp, chế biến và dịch vụ. Tại tỉnh Champasak còn tiếp tục khuyến khích
và phát triển các ngành công nghiệp có hiệu quả, hiện đại, thân thiện với môi trường,
rừng và dịch vụ du lịch, đặc biệt đập thủy điện, công nghiệp chế biến, công nghiệp
máy móc,... làm cho cuộc sống của người dân được nâng cao... Cơ sở hạ tầng của tỉnh
tiếp tục nâng cấp và mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập trong khu
vực và quốc tế.
80
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục được cung cấp kinh phí cho việc xây
dựng và sửa chữa nhà trường và cung cấp đầy đủ các giáo viên trong khu vực nông
thôn, tạo điều kiện làm cho người lao đông toàn tỉnh được công nhận là tỉnh phổ cập
giáo dục trung học cơ sở năm 2025. Bên cạnh đó, việc giữ gìn sức khỏe của người
dân trong tỉnh cũng là quan trọng và cần chú ý để nâng cao chất lượng của bệnh viện
và hiện đại để dịch vụ đẩy đủ nhu cầu của người dân trong thành thị và nông thôn.
Tạo điều kiện cho người dân đã sử dụng nước sạch hơn 92%.
Năm 2020 bảo đảm toàn tỉnh có sự ổn định chính trị vững chắc cho an sinh xã
hội và trật tự, kinh tế có sự phát triển liền tục tốc độ tăng trưởng trung bình chiếm
8%/năm, tổng sản phẩm (GDP) có thể đạt được 21.546 tỷ trong năm 2020; thu nhập
bình quân của người lao động trong tỉnh có thể đạt được 26,7 triệu hoặc 3.344
$/người/năm; trong đó ngành nông nghiệp - lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình
quan chiếm 2,3%/năm, ngành công nghiệp tốc độ tăng trưởng bình quân chiếm 9,4%
và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng bình quân chiếm 10,6%/năm. Ngoài ra tỉnh
Champasak còn đảm bảo tỉ lệ sự che phủ của rừng chiếm 70% của toàn tỉnh.
Trong năm 2025 tỉnh Champasak sẽ có cơ sở hạ tầng đầy đủ để đáp ứng nhu
cầu của ngươời dân trong tỉnh và đây là một yếu tố và điều kiện được liên kết kinh tế
với các khu vực và quốc tế. tỉnh sẽ mở rộng hợp tác toàn diện với nước ngoài và
quốc tế để làm cho kinh tế phát triển và để đảm bảo đời sống của người dân và đảm
bảo toàn tỉnh có sự ổn định chính trị vững chắc cho an sinh xã hội và trật tự, kinh tế
có sự phát triển liền tục tốc độ tăng trưởng sản phẩm (GDP) tăng lên. Thu nhập của
người lao động có gia tăng 2-3 lần so với tổng sản phẩm trong năm 2015.
+ Định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh Champasak,
CHDCND Lào đến năm 2025
Phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy dân chủ
cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn; tăng thu nhập và giảm
tỷ lệ nghèo.
Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ năng sản
xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động nông thôn.
Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên kết dọc theo
ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Phát triển doanh nghiệp
81
nông thôn. Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn.
Cải thiện cơ bản môi trường và sinh thái nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, phòng
chống thiên tai.
Để xây dựng động lực sản xuất nông nghiệp tăng trưởng vững chắc để tập
trung vào chiến lược hoạt động, cụ thể là để xác định việc phân bổ của sản xuất nông
nghiệp để bảo vệ môi trường đi đôi với nhau, phát triển trên bề mặt nước, dung dịch
có hệ thống ngầm yếu tố giống hạt giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, bảo đảm chất
lượng và hiệu suất động cơ phù hợp với thực tế như thế nào để dẫn đầu trong các
trình điều khiển cuộc họp và nhóm.
a. Ngành nông nghiệp
- Trồng trọt
Đẩy mạnh phát triển sản xuất trên cơ sở sử dụng có hiệu quả diện tích đất nông
nghiệp theo hướng thâm canh, sạch và tăng mạnh sản lượng sản xuất và chất lượng
sản xuất để đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh. Sản lương cây lương thực
cần đạt năm 2020 khoảng 362.986 tấn so với diện tích khoảng 16.664 ha và cần đạt
được khoảng 363.357 tấn so với diện tích khoảng 16.678 ha năm 2025.
* Cây lương thực
Bảng 3.1. Định hướng phát triển sản xuất cây lương thực có hạt đến năm 2025
Hạng mục Đơn vị tính Năm 2020 Năm 2025
Diện tích ha 139.509 144.069
Lúa Năng suất Tấn/ha 4,67 4,96
Sản lượng Tấn 651.405 714,878
Diện tích ha 7.543 7.543
Năng suất Tấn/ha ngô 5,61 5,61
Sản lượng Tấn 42.300 42.300
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp, SNN-LN tỉnh Champasak
giai đoạn 2016-2020 và định hướng 2025)
Cây lúa còn được ưu tiên phát triển cả về số lượng và chất lượng vì tổng dân
của tỉnh 74% làm nông nghiệp. Đặc biệt là trồng lúa.ngoài ra cây lúa có GTSX cao so
với cây nông nghiệp khác.
82
Năng suất lúa trong thời gian tới tập trung theo hướng sản xuất lúa chất lượng
cao. Trong năm thâm canh lúa, tiếp tục thực hiện việc sử dụng giống chất lượng cao,
lúa còn lại là trồng tiến bộ kỹ thuật, lúa thuần, giống lúa chất lượng, trồng lúa đặc
sản trong sản xuất đại trà phu hợp với đất đài và sinh thái từng tiểu vùng.
* Cây công nghiệp
Trong phương hướng phát triển cây công nghiệp của tỉnh Champasak chủ yếu
là cây công nghiệp lâu năm, trong đó cây ca phê là cây chính.
Bảng 3.2. Định hướng phát triển sản xuất cây công nghiệp lâu năm
đến năm 2025
Hạng mục Cây Năm 2015 Năm 2020 Năm2025
Cà phê 50.433 50.760 50.760
Chè 483 483 483 Diện tích
(ha) Sa nhân 3.282 3.282 3.282
Cao su 28.824 28.824 28.824
Cà phê 547.330 586.009 634.354 Sản lượng Chè 203 203 203 (tấn) Sa nhân 852 886 886
Cao su 30.594 35.562 36.318
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp, SNN-LN tỉnh Champasak giai đoạn
2016-2020 và định hướng 2025)
* Cây rau, đậu thực phẩm
Chủ trọng phát triển theo hướng kết hợp với quy mô và rau thời vụ thì sản
phẩm quan trọng trong cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Champasak là rau, đậu thực
phẩm, rau an toàn, rau sạch. Cây rau có nhiều loại và đa dạng như: rau ăn lá, ăn củ và
ăn quả (Bắp cải,củ tỏi, gừng, ớt, dưa,dừa hậu, đậu thực phẩm,cá chua,...). Phát huy lợi
thế cạnh tranh và nâng cao giá trị, hiệu quả sản xuất và chất lượng, nhằm đáp ứng
tích cực nhu cầu của người dân trong tỉnh và thị trường.
83
Bảng 3.3. Định hướng phát triển sản xuất cây rau, đậu thực phẩm
đến năm 2025
Hạng mục Đơn vị tính Năm 2020 Năm 2025
Điện tích gieo trồng ha 36.424 36.881
Năng suất Tấn/ha 10,18 10,29
Sản lượng Tấn 370.909 379.404
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp, SNN-LN tỉnh Champasak
giai đoạn 2016-2020 và định hướng 2025)
* Cây ăn quả
Phát triển cây ăn quả theo hướng sản xuất hiệu quả. Trong những năm gần
đây cây ăn quả có xu hướng gia tăng về quy mô sản xuất, tuy nhiên chất lượng và sản
lượng chưa cao đáp ứng nhu cầu của người dân và thị trường.
Bảng 3.4. Định hướng phát triển sản xuất cây ăn quả đến năm 2025
Hạng mục Đơn vị tính Năm 2020 Năm 2025
Điện tích gieo trồng ha 12.217 12.390
Năng suất Tấn/ha 8,24 8,20
Sản lượng Tấn 100.659 101.537
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp SNN-LN tỉnh Champasak
giai đoạn 2016-2020 và định hướng 2025)
b.Ngành chăn nuôi
Đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thực phẩm
trong tỉnh và thị trường trong nước và ngoài nước nhằm đắp ứng nhu cầu thịt ngày
càng tăng. Phát triển ngành chăn nuôi là chủ trương tỉnh ưu tiên đâu tư, chăn nuôi
theo hướng gắn sản xuất với thị trường , nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao, hiệu
quả và đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và cải thiện an
sinh xã hội.
84
Bảng 3.5. Định hướng một số ngành chăn nuôi đến năm 2025
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2020 Năm 2025
Con 161.427 178.228 Tổng đàn trâu 1 Tấn 3.294,50 3.632,88 Sản lượng thịt
Con 187.480 218.588 Tổng đàn bò 2 Tấn 4.059,72 4.736,99 Sản lượng thịt
Con 273.034 324.279 Tổng đàn lợn 3 Tấn 7.861,68 9.349,32 Sản lượng thịt
Con 7.537.449 9.619.907 Tổng đàn gia cầm
Tấn 10.028,48 12.813,01 4 Sản lượng thịt
Quả 116.563.845 132.002.250 Sản lượng trứng
Con 16.486 20.261 Tổng đàn dê 5 Tấn 120,83 133,56 Sản lượng thịt
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông nghiệp SNN-LN tỉnh Champasak
giai đoạn 2016-2020 và định hướng 2025)
- Chăn nuôi trâu
Quy mô đàn trâu có xu hướng tăng nhưng tổng số gia tăng của đàn trâu nhỏ so
với sự gia tăng của đàn bò, do nhu cầu sử dụng trâu cào cày kéo giảm, chủ yếu chăn nuôi
để lấy thịt. Năm 2020 đàn trâu sẽ tang 11.707 con và cung cấp thịt tăng 657,3 tấn (so với
năm 2015) và năm 2025 đàn trâu sẽ tăng 28.508 con, cung cấp thịt tăng 995,68 tấn.
- Chăn nuôi bò
Quy mô đàn bò có xu hướng phát triển mạnh và tăng nhanh so với đàn trâu, do
có thể cung cấp thịt cho người dân trong tỉnh và thị trường. Năm 2020 đàn bò sẽ tăng
21.552 con và cung cấp thịt tăng 790,98 tấn (so với năm 2015) và năm 2025 đàn bò
sẽ tăng 52.660 con, cung cấp thịt tăng 1.468,25 tấn.
- Chăn nuôi lợn
Đẩy mạnh phát triển đàn lợn, tăng cường đầu tư vào chăn nuôi, đặc biệt là
nuôi lợn với quy mô đàn lợn có xu hướng tăng nhanh số lượng và không ngừng nâng
cao chất lượng sản phẩm thịt lợn, tăng cường khả năng kiểm soát dịch bệnh nhất là
những bệnh nguy hiểm để đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm 2020
đàn lợn sẽ tăng 36.017 con và cung cấp thịt tăng 1.574,04 tấn (so với năm 2015) và
năm 2025 đàn lợn sẽ tăng 87.262 con, cung cấp thịt tăng 3.061,68 tấn.
85
- Chăn nuôi gia cầm
Theo quy hoạch phát triển đàn gia cầm của tỉnh Champasak có xu hướng tăng
nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2020 đàn gia cầm sẽ tăng 1.258.864 con và
cung cấp thịt tăng 2.276,50 tấn, sản lượng trứng tăng 29.099.220 quả (so với năm
2015) và năm 2025 đàn gia cầm sẽ tăng 3.341.322 con, cung cấp thịt tăng 5.061,03
tấn, sản lượng trứng tăng 34.537.625 quả.
- Các loại vật nuôi khác
Tùy điều kiện ở từng địa bàn tỉnh mà có thể phát triển nuôi gia súc khác được
để tạo ra sản phẩm chăn nuôi đặc sản chất lượng cao. Đặc biệt đàn dê Năm 2020 đàn
dê sẽ tăng 2.531 con và cung cấp thịt tăng 26,05 tấn (so với năm 2015) và năm 2025
đàn đê sẽ tăng 6.306 con, cung cấp thịt tăng 54,89 tấn.
Bảng 3.6. Dự báo nhu cầu tiêu dùng một số nông sản chủ yếu
của tỉnh Champasak, CHDCND Lào năm 2020 - 2025
TT Hạng mục Đơn vị tính Năm 2020 Năm 2025
1 Lúa Tấn 651.405 714,878
2 Ca phè Tấn 586.009 634.354
3 Thịt các loại Tấn 25.349,28 27.741,43
4 Cá Tấn 22.278 25.451
5 Trứng Quả 116.563.845 132.002.250
6 Đậu các loại Tấn 19.516 19.516
7 Rau xanh các loại Tấn 370.909 379.404
(Nguồn: Niên giám thống kê 2015, SNN-LN tỉnh Champasak)
c. Dịch vụ nông nghiệp
Dịch vụ nông nghiệp được mở rộng và nâng cao hiệu quả dịch vụ như dịch vụ
về giống, dịch vụ thú ý, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ thủy nông và thị trường,...
Đẩy mạnh công tác khuyến nông cho nông cho nông dân.
- Thị trường
Thị trường nội tỉnh rất có tiềm năng nhu cầu tiêu dùng của trên 890.411 dân
vào năm 2025 với mực sống của người dân ngày càng được nâng cao. Năm 2015 toàn
tỉnh có 25 chợ, nhưng chưa đáp ứng nhu câu của người dân trong tỉnh. Bênh cạnh đó,
86
tỉnh Champasak cần khai thác tối đa các thị trường ở các tỉnh khác trong nước và
nước ngoài.
- Phát triển hệ thống thủy lợi
Thủy lợi là nguồn cung cấp nước cho các phương pháp sản xuất nông nghiệp
như hồ chứa xây dựng, đập tràn nước, máy bơm nước và xây dựng kênh mương và
thủy lợi là vô cùng quan trọng trong việc sản xuất nông nghiệp. Bằng các nguồn vốn
đầu tư khau, hiện nay hệ thống thủy lợi của tỉnh khá phát triển, về cơ bản đã đáp ứng
được nhu cầu tưới, tiêu cho sản xuất nông nghiệp và phòng chống lũ lụt.
Lào là quốc gia sản xuất nông nghiệp cũng phụ thuộc vào tính chất và hạn hán
và lũ lụt đe dọa để làm cho hiệu quả sản xuất và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa cần thiết
để xây dựng các lưu vực thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp sử dụng tưới tiêu cho
nông nghiệp sản xuất phải được yêu cầu của pháp luật và tài nguyên nước nguồn.
Định hướng phát triển thủy lợi toàn tỉnh trong năm 2020 toàn tỉnh sẽ có 178
dự án, có đập thủy điện có 103 dự án, đập tràn có 62 dự án, bể chứa nước có 13 dự
án, máy bơm nước có 7.870 dự án. Cung cấp nước để sản xuất nông nghiệp của người
dân trong mùa khô gồm có 25.130 ha, trong đó máy bơm nước dùng điện có 15.311
ha, đập tràn có 2.916 ha, bể chứa nước có 1.721 ha, máy bơm dùng dầu có 5.182 ha.
Có thể cung cấp nước vào mùa mưa có 27.642 ha, trong đó máy bơm nước dùng điện
có 16.842 ha, đập tràn có 3.207 ha, bể chứa nước có 1.893 ha, máy bơm dùng dầu có
5.700 ha. Còn năm 2025 toàn tỉnh có 190 dự án trong đó, đập thủy điện có 111 dự án,
đập tràn có 65 dự án, bể chứa nước có 14 dự án, máy bơm nước có 7.870 dự án. Cung
cấp nước để sản xuất nông nghiệp của người dân trong mùa khô gồm có 26.965 ha,
trong đó máy bơm nước dùng điện có 16.571 ha, đập tràn có 3.289 ha, bể chứa nước
có 1.931 ha, máy bơm dùng dầu có 5.182 ha. Có thể cung cấp nước vào mùa mưa có
29.661 ha, trong đó máy bơm nước dùng điện có 18.228 ha, đập tràn có 3.609 ha, bể
chứa nước có 2.124 ha, máy bơm dùng dầu có 5.700 ha.
Nhưng hệ thống thủy lợi của tỉnh Champasak, CHDCND Lào còn nhiều hạn
chế, không có hồ chứa nước lớn, không chủ động được nước tưới, nhiều diện tích đất
hoang hóa. người dân chưa chú trọng đến việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, áp
dụng kỹ thuật vào sản xuất,… nên hiệu quả sản xuất không cao. Mặc dù còn có
những hạn chế nhất định về CSVCKT, trang thiết bị nhưng những năm qua , hệ thống
87
dịch vụ nông nghiệp của tỉnh đã góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được
trong sản xuất nông nghiệp.
- Hệ thống cơ sở chế biến nông nghiệp
Để gắn sản xuất với chế biến nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, tập
trung sản xuất một số loại sản phẩm nông nghiệp phục vụ nguyên liệu cho công
nghiệp và quy hoạch phát triển ngành chế biến nông sản thực phẩm.
3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp ở tỉnh Champasak
Để thực hiện các định hướng, mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh
Champasak phải có nhiều biện pháp cụ thể như:
3.2.1. Tổ chức sản xuất và sử dụng đất
Quản lý đất đai là một trung tâm phối hợp với các thành phần bên liên quan, bao
gồm cả tài nguyên, môi trường bao gồm cả thành phố đa dạng sinh học với các tổ chức
như đất đai nông thôn, đô thị, các nền kinh tế bởi vì nền kinh tế đặc biệt. Tiếp tục đặt
mở rộng tỉnh nhanh tập trung 4 thành phố (huyện Phonethong, huyện Sanasombuon,
huyện Bachieng) đất mỗi đoạn phải đăng ký để đáp ứng các mục tiêu chính của tỉnh
muốn góp phần xóa đói giảm nghèo của người dân, để xác nhận quyền sử dụng đất
vĩnh viễn và chính sách ứng phó biến đổi các nguồn vốn, để thêm giá trị cho đất mỗi
đoạn, tiếp tục khám phá và công ty xem xét lại tất cả các khu vực nhượng quyền đề
xuất của sản xuất, đưa các chính sách thúc đẩy và phát triển đất góp phần giải quyết
tình trạng đói nghèo của nhân dân trong tỉnh phối hợp với các bên liên quan đến khảo
sát ngành lâm nghiệp và các dịch vụ cho các công ty trong và ngoài nước.
Được phối hợp với các ngành liên quan đến các điều khoản được cải thiện tạo
các quy tắc và các quy định để quản lý, bảo vệ đất đai và tài nguyên, khô tự nhiên
đảm bảo hiệu quả cao. Nghiên cứu giáo dục ý tiến hành và thu thập thông tin về đất
đai và tài nguyên, khu vực tự nhiên, Champasak là một tài liệu tham khảo để phát
triển đất, phân bổ ương, khu vực giao, phân loại, lập bản đồ và quy hoạch sử dụng đất
tỉnh vĩ mô và các thành phố để cung cấp sự thoải mái và giúp đỡ trong việc thực hiện
đất và cơ chế đăng ký kiểm tra và giám sát việc sử dụng đất đai, tài nguyên và các
giải pháp tự nhiên hậu quả tiêu cực đột ngột đến. Thanh tra tập trung vào các cơ quan
quản lý đất đai đã đề nghị các cơ quan cấp tỉnh cho phép các đất cho công ty, cả trong
nước và nước ngoài ám ảnh.
88
3.2.2. Giải pháp về khoa học - công nghệ
Tập trung củng cố, xây dựng, nâng cấp hệ thống đê kè, quản lý và khai thác tốt
các công trình tưới tiêu, đảm bảo chủ động phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh
công tác quy hoạch thủy lợi để cung cấp nước đầy đủ vào việc sản xuất nông nghiệp
của người dân. Khai thác, sử dụng vận hành có hiệu quả trạm bơm, nâng cấp các trạm
bơm đã xuống cấp, nâng cao chất lượng công tác phong chống lụt bão, úng và tìm
kiếm cứu nạn, chống hạn, phục vụ phát triển nông nghiệp và bảo vệ sản xuất.
Cải tạo, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi nhằm đảm bảo tưới, tiêu phục vụ
sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh. Tích cực củng cố đê
điều, kế các công trình phòng lũ, đảm bảo an toàn chống lụt, bão, úng theo tần xuất
thiết kế các công trình. Tăng cường sửa chữa, cải tạo hệ thống công trình tưới, tiêu hiện
có. Tập trung đầu tư xây dựng mới và nâng cấp một số công trình trọng điểm.
Nâng cấp cải tạo hệ thống giao thông nông thôn, cải tạo hệ thống giao thông nội
đồng, cầu cống, để tăng khả năng vận chuyển hàng hóa, giảm giá thành sản xuất. Đẩy
mạnh việc nâng cấp, tu sửa và mở mới một số truyến đường, đặc biệt là hệ thống nội
đồng. Việc nâng cấp, mở rộng lòng đường gắn với việc mở rộng kiên cố hóa các tuyến
kênh mương nội đồng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư sản xuất.
Phát triển các chợ đầu mới với quy hoạch ổn định về vị trí, quy mô chợ,
phương thức quản lý chợ với mục tiêu là điểm đầu mối giao lưu hàng hóa thuận tiện,
dẽ dàng và không gây phiền hà đối với người dân muốn trao đổi mua bán sản phẩm
của mình. Xây dựng hệ thống chợ bán lẻ ở nông thôn, nhằm tạo ra được hệ thống
kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Hệ thống các cơ sở dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp đóng một vai trò quan
trọng trong việc cung ứng phân bón thuốc trừ sâu, giống cây trồng vật nuôi và tiêu
thụ sản phẩm. tổ chức tốt hệ thống dịch vụ này sẽ nâng cao được năng suất, chất
lượng cây trồng, vật nuôi.
3.2.3. Thu hút và huy động vốn đầu tư
Hiện nay, các bước đầu tư ở tỉnh Champasak đều được quy định theo luật đầu
tư của Lào, theo đó nếu vốn đầu tư dưới 5 triệu USD thì do cấp tỉnh ra quyết định, từ
5 - 20 triệu USD thì do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào, trên 20 triệu USD thì do Chính
phủ Lào quyết định. Những dự án đầu tư liên quan đến đất đai phải nộp hồ sơ tại Sở
89
Kế hoạch và Đầu tư, còn liên quan đến công nghiệp thì nộp tại Sở Công nghiệp...
Trong vòng 10 - 13 ngày sau khi nộp hồ sơ, hội đồng sẽ xem xét hồ sơ để có quyết
định chính thức và trong vòng 25 ngày sẽ mời nhà đầu tư lên để trao giấy chứng
nhận. Giá thuê đất ở đây không giống nhau, phụ thuộc vào từng lĩnh vực và thời hạn
thuê đất tối đa không quá 99 năm.
Hiện nay, Việt Nam có 37 dự án đầu tư tại Champasak, với tổng vốn đầu tư
tương đương 217,7 triệu USD. Các dự án này đến từ TP.HCM, Bình Dương, Đồng
Nai, Đắc Lắc, Bình Định... với các lĩnh vực gồm: cao su, dịch vụ nhà hàng, khách
sạn, cà phê, hạ tầng khu công nghiệp, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến nông sản,
các dự án chăn nuôi bò gắn với xây dựng nhà máy chế biến sữa ,.. Trong số các nước
đầu tư vào Champasak, Việt Nam đứng vị trí thứ nhất, chiếm 51% trong tổng vốn đầu
tư nước ngoài. Trong đó, nông nghiệp có 21 dự án có tổng vốn là 165 triệu USD,
công nghiệp có 10 dự án với 33,9 triệu USD, dịch vụ có 6 dự án với hơn 20 triệu
USD. Đồng Nai có 2 dự án tại Champasak với trên 23 triệu USD và chiếm trên 10%
số vốn FDI vào Champasak. Đứng thứ 2 là Thái Lan chiếm 26%
Còn Bình Dương và Champasak là 2 tỉnh đã có ký kết hợp tác chiến lược trên
các lĩnh vực. Vậy, các nhà đầu tư phải dựa theo luật đầu tư của Lào, Bình Dương
cũng như các nhà đầu tư của Việt Nam đều giống nhau. Tuy nhiên, với tinh thần hợp
tác toàn diện theo biên bản ký kết giữa hai địa phương, chúng tôi sẽ tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư Bình Dương khi đến khảo sát, tìm hiểu về cơ hội
đầu tư cũng như trong quá trình làm thủ tục, triển khai xây dựng dự án đầu tư. Trong
các nhà đầu tư của Việt Nam tại Champasak, nhà đầu tư Bình Dương có vốn lớn nhất
là Công ty TNHH Cổ phần Đầu tư phát triển cao su Dầu Tiếng Việt Lào với 35 triệu
USD. Công ty này đang có nhu cầu mở rộng diện tích và hiện nay chúng tôi đã kiến
nghị với Chính phủ Lào để có quyết định cho nhà đầu tư.
Nhà đầu tư Việt Nam và Bình Dương đầu tư ở đây rất có hiệu quả, đặc biệt đã
góp phần không nhỏ vào quá trình xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho
người lao động ở địa phương. Cụ thể, hiện nay các dự án đầu tư đều được quy định
theo tỷ lệ 90 - 100, tức lao động của Lào chiếm 90% trong số lao động của dự án,
Việt Nam chiếm 10% (chủ yếu là công nhân kỹ thuật và chuyên gia). Hiện nay, bình
quân thu nhập của người dân Champasak đạt từ 700 ngàn - 1,5 triệu Kíp/tháng.
90
3.2.4. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản
xuất nông nghiệp
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật của tỉnh đang góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế của tỉnh. Trong giai đoạn tới, việc xây dựng hệ thống cơ sở vật chất,
kĩ thuật hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ sẽ thúc đẩy nền nông nghiệp của tỉnh có phát
triển hơn.
Phát triển hệ thống giao thông: Nâng cấp cải tạo hệ thống giao thông nông
thôn, cải tạo hệ thống giao thông nội đồng, cầu cống, để tăng khả năng vận chuyển
hàng hóa, giảm giá thành sản xuất. Đẩy mạnh việc nâng cấp, tu sửa và mở mới một số
truyến đường, đặc biệt là hệ thống nội đồng. Việc nâng cấp, mở rộng lòng đường gắn
với việc mở rộng kiên cố hóa các tuyến kênh mương nội đồng sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc vận chuyển vật tư sản xuất.
Tiếp tục để bảo vệ và phát triển nguồn nước để tạo điều kiện cho việc sử dụng
nước trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, khai thác tài nguyên
nguồn thăm dò và quản lý nước ngầm và bề mặt là nền tảng cho sự phát triển bền
vững, nâng cấp cơ sở hạ tầng Khí tượng Thủy văn là một rất hiệu quả đặc biệt là quản
lý 13 đầu nguồn
Nâng cấp các công trình thủy lởi hiện có. Kiên cố hệ thống hóa kênh mương,
giải quyết căn bản nước tươi cho vùng gò đồi, vùng cây công nghiệp.
Phát triển và nâng cao mạng lưới điện nhất là vùng nông thôn. Điện khí hóa
nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với
nông thôn, đưa công nghiệp mới vào nông nghiệp, giải phóng sức lao động, thực hiện
CNH nông thôn.
Cải tạo, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi nhằm đảm bảo tưới, tiêu phục
sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh trên địa bàn tỉnh.
Phát triển hệ thống chợ nông thôn, chợ đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi cho
nông dân tiêu thụ nông sản và sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
thụ của nhân dân.
Thực hiện cơ khí hóa nông nghiệp nông thôn thông qua việc hỗ trợ nông dân
máy móc, thiết bị cơ khí vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm, giải phóng sức lao động cho người nông dân.
91
Phát triển và nâng cao năng lực của các cơ sở chế biến nông sản. Cải tạo, xây
dựng một số nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên liệu.
3.2.5. Công tác khuyến nông
Nâng cao nhận thức về đặc điểm, tính chất, vai trò và tổ chức của HTX kiểu
mới cho cán bộ các cấp và hộ xã viện. Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh phù
hợp, có hiệu quả, phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp.
Đào tạo cán bộ quản lý cho XTX. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, mở rộng thị
trường, đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản, phát tiển kinh tế trang trại, tạo điều kiện
cho hợp tác xã mở rộng dịch vụ nhất là dịch vụ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, dịch vụ vốn và dịch vụ chế biến, tiêu thụ nông sản...
Nghiên cứu bổ sung các cơ chế chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư mạnh vào địa bàn nông thôn, đặc biệt là các doanh nghiệp tiêu thụ và chế biến
sản phẩm nông nghiệp. Tiếp tục phát triển kinh tế hộ lên một bước mới theo hướng
phát triển trng trại, gia trại sản xuất quy mô lớn. Tạo điều kiện cho hộ dồn điền đổi
thửa, cho thuê đất, tích tụ tập trung đất. Đưa sản xuất chăn nuôi, thủy sản tập trung ra
khỏi khu dân cư, hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa, các vùng nguyên liệu
phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh
nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông sản, sử dụng nguyên liệu
và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ
nông sản cho nông dân. Hình thành chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề
nhằm tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập gắn kinh tế với dịch vụ du lịch, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
3.2.6. Sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và có hiệu quả
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: đào tạo nghề cho bộ phận con em nông
dân và những nông dân cần chuyển nghề, theo từng nhóm đối tượng như lao động
nông nghiệp, lao động công nghiệp, lao động dịch vụ, lao đổng xuất khẩu. Thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực.
Hiệu suất năng phát triển bên trong để đáp ứng nhu cầu lao động bằng cách thúc
đẩy hợp tác với Trung tâm Đào tạo Trận chuyên nghiệp Đào tạo đầu tư chiến nghề lao
động của tỉnh để đạt được 3500 so với năm ngoái tăng 3,2% kỹ năng đào tạo quản lý để
92
đạt được 950 người, việc tìm kiếm các cầu cung ứng lao động vào năm 2000 và cho
phép người nước ngoài hạn ngạch hơn 300 người để giải quyết những người lao động
trong chính xác ở nước ngoài được giảm. Đào tạo làng để quản lý và phát triển các kỹ
năng để đạt được các mục tiêu 20 làng. Tiếp tục lan rộng pháp luật lao động và các quy
định về việc tiếp tục nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động có nghĩa vụ đảm bảo chất
lượng lao động để quản lý đất nước vào các biện pháp thị trường đối với người phạm
tội nghiêm nguyên nhân thất nghiệp đã giảm từ 3% lên 2,6% công nhân bong bóng.
Chính sách tiếp chống lại đạo đức cách mạng và hoàn cảnh khó khăn trên.
3.2.7. Xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm của tỉnh Champasak
Thương mại cũng là một tiềm năng khi các tuyến đường xuyên Á, 13, 18...
được xây dựng và nối thông với các nước Đông Dương. Hàng hóa từ Thái Lan qua
Lào rồi sang Việt Nam và ngược lại đã phát triển từ lâu. Có một thời, các sản phẩm
như: tông Lào (dép), quần áo Thái từng là sản phẩm mong ước của nhiều người dân
miền Trung Việt Nam. Còn hiện nay, sản phẩm “made in Việt Nam” đã xuất hiện
nhiều hơn ở Thái Lan và Lào như tại siêu thị miễn thuế của Đào Hương tràn ngập sản
phẩm Vinamit được chế biến tại Bình Dương.
Sản phẩm nông nghiệp tỉnh Champasak được xác định tiêu thụ thị trường nội
tỉnh là chủ yếu, ngoài ra cung cấp cho tỉnh khác và ngoài nước, các tỉnh khác và một
phần tham gia xuất khẩu. Hiện nay thì tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt nhất là
với hàng hóa nhập khẩu. Để tháo gỡ khó khăn, kích thích sản xuất phát triển, giải
pháp thương mại cần giải quyết tập trung các vấn đề sau.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, dự báo thị trường, khuyến khích, tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh ký kết hợp
đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ nông
sản trong nước và từng bước xuất khẩu. Thực hiện tốt chương trình để đẩy mạnh tiêu
thụ nông sản thông qua hợp đồng.
Xây dựng mạng lưới tiêu thụ nông sản phẩm rộng khắp, đa dạng hóa loại hình
và quy mô, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Hướng dẫn, tạo điều kiện
để các HTX có thể đảm nhiệm dịch vụ đầu ra cho nông sản hàng hóa.
Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản để tạo thị trường đầu ra ổn định.
Đầu tư phát triển hệ thống chợ, nhanh tróng hình thành những trục, những tụ điểm
93
giao lưu hàng hóa trên địa bàn nông thôn. Trước mắt phát triển các thi trấn, thị tứ, các
chợ đầu mối gắn với các trục giao thông chính.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm từ việc áp dụng kỹ thuật sản xuất đạt tiêu
chuẩn chất lượng và được công nhận của cơ quan kiểm định trong nước và quốc tế,
cho tới việc quảng bá cung cấp sản phẩm tới người tiêu dùng.
3.2.8. Tổ chức và thực hiện cơ chế chính sách phù hợp với tỉnh Champasak
Tỉnh Champasak đang có những chính sách ưu ái riêng cho lĩnh vực nông
nghiệp như giá thuê đất rẻ hơn, thời gian và thủ tục cũng thoải mái hơn.
Lãi suất ngân hàng ở Champasak lao động ở mức 15 -16%/năm cũng thuận
lợi cho nhà đầu tư có nhu cầu về vốn.
Các hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng như Nhà nước
của Lào các chính sách sử dụng chúng để điều khiển, dẫn dắt hoạt động các cụ thể
kinh tế hành động phu hợp với lợi chung của xã hội, huy động và sự dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên để thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Thông thường các chính
sách phát triển nông nghiệp được đề cặp đến những nội dung cơ bản sau:
- Chính sách đất đai trong nông nghiệp
Để chính sách đất đai có tác động tích cực hơn nữa đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp vận động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cần có sự điều chỉnh một số nôi dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp: Việc đổi mới quy hoạch đất
nông nghiệp phải dựa vào những căn cứ khoa học với quan điểm toàn diện và tâm
nhìn xa trên cơ sở phân tích những tiềm năng lợi thế của đất đai từng vùng, yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn nói riêng với xu hướng giải phóng lao động nông nghiệp
trong quá trình đó. Theo đó công tác quy hoạch, quản lý và sử dụng tích tụ đất đai
nông nghiệp của tỉnh và nước theo hướng hạn chế tối đa lấy đất nông nghiệp trồng
lúa và cây lương thực cho mục tiêu công nghiệp hóa và đô thị hóa. Nếu lấy phải tính
tới chi phi cơ hội giữa đất lúa, đất đồi gò và đất hoang hóa cho phát triển nông nghiệp
và dịch vụ. Kiên quyết giữ các vùng đất tốt, trước hết là vùng đồng bằng sản xuất lúa
chủ yếu, vùng đồng bằng dọc theo sông Mê kông và các sông nhỏ cho sản xuất nông
nghiệp. Nhưng diện tích sản xuất đất nông nghiệp đang được canh tác là kết quả của
94
sự nỗi lực của nhiều thế hệ, thậm chí hàng ngàn đời mới có được, do đó quy hoạch sử
dụng đất từng vùng cũng phải tuân theo nguyên tắc chung, tránh lấy vào trọng điểm
lúa và đảo bảo hải hóa về KT-XH- môi trường. Tiến hành chương trình thống kê và
thu hồi đất công hiện nay do nhiều đối tượng quản lí sử dụng khác nhau thống nhất về
một cơ quan quản lý như quỹ đất này hiệu quả và gìn giữ cho các mục đích sử dụng
lâu dài trong tương lai. Đặt biệt, tập trung quản lý lại quỹ đất nông lâm trường, đất
của doanh nghiệp,...
Thứ hai, về chính sách giao đất, hạn điền cho thuê đất và thời hạn giao đất.
Cho hộ nông dân, cộng đồng dân cư cấp thôn, bản, làng sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc giao đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ổn định lâu dai cho nông dân, giải quyết những tranh chấp và
khiếu kiện về đất đai; đảm bảo mỗi khoảnh đất, khoảnh rừng đều có chủ quản lý hợp
phép, cụ thể. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các chủ sản xuất nông nghiệp buộc phải
hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất cần khẩn trương nghiên cứu cơ chế
chuyển giao chính sách giao đất sang chính sách cho thuê đất với những mức tiền
thuê có phân biệt trên cơ sở xác định địa tô chênh lệch I của từng diện tích đất. Điều
đó nó phù hợp với chính sách của Nhà nước Lào.
Về chính sách hạn điền cần hoàn thiện theo hướng mở rộng hạn điền nhằm tạo
thuận lợi cho quá trình tích tụ đất đai để tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn
cho phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp. Việc xác định hạn điền cho từng
vùng căn cứ cụ thể vào khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ đẻ phát triển
các loại hình sản xuất nông sản tập trung.
Về chính sách thời hạn sử dụng đất nông nghiệp cần sớm nghiên cứu để quy
định thời hạn sử dụng đất theo hướng nông dân và các chủ thể kinh doanh nông
nghiệp phải có quyền sử dụng đất lâu dài để yên tâm đầu tư vốn, công nghệ cải tạo
đất thời hạn giao quyền sử dụng đất nông nghiệp nên nói rộng lên tới 50-80 năm, bảo
hộ kinh doanh nông nghiệp đẻ người dân an tâm đầu tư lâu dài. Ngoài ra cần nghiên
cứu, xây dựng và ban hành chính sách thu hồi đất đói với những diện tích đất nông
nghiệp đã được giao đẻ sản xuất nhưng chủ thể được giao đất đã không sử dụng có
hiệu quả hoặc mang tính tàn phá, hủy hoại
95
Về quyền cho thuê đất nông nghiệp cần tạo thuận lợi cho việc cho thuê lại đất
nông nghiệp với điều kiện chủ thể thuê lại phải cam kết thực hiện sử dụng đất đúng mục
tiêu, bảo vệ đất và các nghĩa vụ với tỉnh và Nhà nước. Đồng thời, khuyến khích chuyển
đổi hay mua bán đất nông nghiệp nhằm tích tụ rộng đất, mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp; cấm mua mua bán đẻ chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ ba, vấn đề sử dụng đất trống, đất rừng :Tỉnh và Nhà nước Lào nói chung
nhanh chóng quy hoạch sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng để khuyến khích mọi cá
nhân, tổ chức trong nước và ngoài nước khai thác sử dụng đất trống, trước hết cần ưu
tiên giao đất, giao rừng cho cư dân tại chỗ và số dân điều chỉnh ở vùng đồng bằng tại
tỉnh, nhất là vùng đồng bằng có điều kiện phát triển nông nghiệp. Tỉnh và Nhà nước
hỗ trợ và giao đất để đồng bào định canh định cư có thể sinh sống bằng nghề nông,
nghề rừng và cho các nhà đầu tư thuê để kinh doanh theo quy định của pháp luật,
khuyến khích mọi thành phân kinh tế bỏ vốn đầu tư thuê đất theo dư án sản xuất kinh
doanh để khai thác sử dụng đất vào mục đích phát triển sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp với nhiều hình thức(vườn đồi, hùn vốn phát triển công nghiệp chế biến,...).
Thứ tư, về chính sách đến bù đất nông nghiệp: Đối với các loại hình sử dụng
đất nông nghiệp đặt biệt phục vụ lợi ích công như đất lúa trong vùng chuyên canh
đảm bảo an ninh lương thực, đất rừng và mặt nước trong khu vực bảo đảm an toàn
sinh thái, đa dạng sinh học,... sẽ áp dụng chính sách hỗ trợ đảm bảo lợi ích chính
đáng của người quản lý sử dụng đất. Đối với những trường hợp tỉnh và Nhà nước nói
chung thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang các mục đích khác, tiến hành xác định giá
trị đất đai nhằm đảm bảo hài hoà quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và
nhà nước trong quá trình giải tỏa thu hồi đất. Đất lúa ngoài phạm vi quy hoạch an
ninh lương thực được áp dụng mức bồi hoàn thu hồi đất cao. Có cơ chế khuyến khích
những tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công
ty, vào các dự án đầu tư, kinh doanh khi có đất bị thu hồi. Có chính sách giải quyết
vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm cho người bị thu hồi đất.
Lại quy hoạch, xác định chính xác diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
phải bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh và trồng mới với cây trồng phù hợp để giữ gìn môi
trường sinh thái; ngăn chặn tình trạng phá rừng đã quy hoạch để lấy đất trồng các loại
cây khác.
96
- Chính sách phát triển các thành phần kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, các
loaại hình kinh doanh trong nông nghiệp càng trở nên cần thiết, các thành phần kinh tế
sẽ hỗ trợ cho nhau trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Hiện nay, việc huy động các
thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế, vì vậy, trong sản xuất
nông nghiệp ở tỉnh và nhà nước nói chung, hộ gia đình quy mô nhỏ là đơn vị chủ yếu
sản xuất và cung cấp nông sản. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông nghiệp phải cần phát triển kinh tế nhiều thành phần theo hướng.
Một là đối với doanh nghiệp, cần thiếp tục đổi mới hoàn thiện hình thức tổ
chức để các công trường quốc doanh trở thành trung tâm dịch vụ và chuyển giao công
nghệ cho hộ nông dân; đối với doanh nghiệp của tỉnh và Nhà nước có đủ năng lực giữ
vai trò chủ đạo về công nghệ chế biến, sử dụng có hiệu quả cơ sở kỹ thuật và tiền
vốn, thì vươn leên trở tành trung tâm công nghệ, hướng dẫn các doanh nghiệp, hộ gia
đình trong vùng phát triển công nghiệp chế biến, đồng thời là thị trường tiêu thụ nông
sản ổn định cho các hộ gia đình.
Hai là đối với các nông trường và nhóm sản xuất của nông dân, cần củng cố và
phát triển mạnh các đơn vị dịch vụ nông nghiệp kiểu mới cho kinh tế hộ, từ đó tạo
nên mối quan hệ gắn bó giữa nông trường nông nghiệp với hộ nông dân tự chủ theo
các hợp đồng kinh tế là chủ yếu. Để làm được điều này, trước hết cần thiếp tục củng
cố và phát huy vai trò tích cực, tính ưu việt của các nông trường và nhóm sản xuất
của nông dân khá, khắc phục dần nhiều mặt yếu kém của các nông trường nhóm sản
xuất của các nông dân trung bình hoặc yếu bằng các biện pháp phu hợp như đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, miễn các loại thuế và phí, tạo
nguồn vốn cho các hoạt động dịch vụ bằng chính sách tín dụng với lãi suất ưu đãi ở
những địa phương có điều kiện.
Đối với các trụ sở cung ứng dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho các hộ gia đình
phải đảm bảo chất lượng dịch vụ và hiệu quả cao hơn dịch vụ tư nhân hoặc kinh tế hộ
tự làm. Có như vậy, hộ gia đình mới sử dụng dịch vụ của trụ sở cung ứng, sản xuất
được chuyên môn hóa tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất. Để mở rộng và phát
triển các hoạt động dịch vụ, các nông trường và nhóm sản xuất của nông dân cần nhiều
vốn, nhất là vốn lưu động. Thế nhưng, nguồn vốn này chủ yếu hình thành từ vốn quỹ
97
tiết kiệm do dân tự nguyện xây lên và thực tế thì nguồn vốn góp của dân này rất hạn
chế. Do vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu tinh và Nhà nước nói chung sớm có cơ chế và chính
sách đầu tư, tín dụng tích cực để hỗ trợ các nông trường và nhóm sản xuất của nông
dân trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ba là khuyến khích kinh tế trang trại phát triển mạnh. Kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất tương đối mới ở tỉnh Champasak nói riêng và nói riêng của cả
nước Lào so với kinh tế hộ. Hơn 10 năm qua kinh tế trang trại có đóng góp đáng kể
trong việc tăng sức sản xuất trong nông nghiệp. Nhận thấy vai trò tích cực của hình
thức tổ chức sản xuất này, trong thời gian vừa qua, ở Lào nói chung và nói riêng ở
tỉnh Champasak đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế trang trại phát
triển. Tuy nhiên, vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các trang tại còn nhiều khó
khăn và bất cập, số lượng trang trại hiện có chưa nhiều, quy mô còn nhỏ, thiếu vốn,
thiếu khoa học công nghệ, thiếu cơ sở pháp lý về đất đai đang sử dụng, thiếu thị
trường,... Vì vậy, để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, khắc phục tính manh
mún, quy mô nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh và Nhà nước cần hỗ trợ kinh tế
trang trại cả về cơ chế chính sách lẫn khoa học công nghệ và kết cấu hạ tầng.
Bốn là đối với kinh tế hộ nông thôn - đơn vị kinh tế tự chủ và chủ yếu trong
sản xuất nông nghiệp, cần đổi mới phương thức tổ chức sản xuất cho phù hợp với yêu
cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn, khắc phục tình trạng phân tán nhỏ lẻ, tự cung, tự
cấp, manh mún như hiện nay. Hộ nông dân mặc dù đã được trao quyền sử dụng đất
lâu dài song quy mô đất được chia nhỏ, manh mún, phân tán nên đã cản trở quy trình
tập trung ruộng đất theo yêu cầu sản xuất. Vì vậy, giải pháp trước mắt là thực hiện
chủ trương với sự quản lý và chỉ đạo thống nhất của tỉnh và Nhà nước nói chung có
đầu tư hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật, khắc phục tính tự phát như hiện nay. Để làm việc
này, ngành nông nghiệp, ngành liên quan cần tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để
nhân rộng các mô hình tốt khắc phục mặt chưa tốt trong quá trình thực hiện.
Năm là đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong
quá trình phát triển nông nghiệp, những năm đổi mới cho thấy quy mô và tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào các yếu tố kết cấu
hạ tầng ở nông thôn, nhất là đường giao thông, điện, nước, trạm nghiên cứu và thực
nghiệm, thủy lợi, trình độ dân trí, giáo dục, lao tạo lao động lành nghề, khoa học công
98
nghệ... Song tất cả các yếu tố đó đều đòi hỏi phải có vốn đầu tư để xây dựng mới,
nâng cấp, hoàn thiện. Trong điều kiện vốn tích lũy trong nông thôn còn thấp, việc huy
động nguồn vốn bên ngoài có vai trò chủ yếu. VÌ vậy, để gia tăng vốn đầu tư trong
nông nghiệp, cần huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để huy động được nguồn
vốn này, cần có cơ chế, chính sách của tỉnh và Nhà nước thông thoáng và hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư, khuyến khích đầu tư thỏa đáng như: giảm mạnh tiền thuế đất, đơn
giản thủ tục hành chính, giảm thuế và phí. Các lĩnh vực cần tập trung khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, xây dựng các nhà máy chế biến và nghiên cứu, triển
khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đảm bảo
sự cạnh tranh của các nông sản.
Có thể nói rằng việc khuyến khích và phát triển nhiều loại hình kinh doanh
trong nông nghiệp, các thành phần kinh tế là điều kiện quan trọng phát triển sản xuất
nông nghiệp, chuyên môn hóa cao, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên của tỉnh nói
chung của đất nước.
- Chính sách về khoa học - công nghệ
Thứ nhất là tăng đầu tư ngân sách cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi
mới cơ chế quản lý nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học.
Ngân sách trong tỉnh Champasak nói riêng tăng đầu tư cho nghiên cứu,
chuyển giao khoa học - công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Tạo ra bước chuyển
đột phá trong hoạt động nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ, nâng tỷ lệ đóng
góp của khoa học công nghệ và quản lý cho tăng trưởng của ngành ngày càng nhiều.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ chế tài chính, khuyến
khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao khoa
học - công nghệ, nâng cao hiệu quả đần tư của Nhà nước vào khoa học - công nghệ.
Áp dụng triệt đề chế độ khoán khinh phí (hoặc mua sản phẩm) trọn gói. Thực hiện
triệt đề việc trao quyền tự chủ cho các cơ quan đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao
khoa học - công nghệ. Cơ quan nghiên cứu tự hạch toán, phân phối nội bộ. Gắn cơ
quan nghiên cứu - đào tạo - khuyến nông. Lập quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có
quy mô sản xuất để tiếp nhận khoa học - công nghệ có tính chất đột phá, đạt hiệu quả
tốt với hoạt động sản xuất kinh doanh từ nước ngoài hoặc trong nước .
99
Thứ hai tập trung nghiên cứu các vấn đề trọng tâm, tạo nhiều đột phá về khoa
học - công nghệ để đưa vào sản xuất. Trong nông nghiệp tập trung nghiên cứu ứng
dụng công nghệ sinh học hiện đại chọn tạo kết hợp nhập nội và khu vực hóa các
giống cây trồng, vật nuôi, cây lâm nghiệp có năng suất và chất lượng cao ngang bằng
với các tỉnh khác trong khu vực, nhất là trồng lúa, rau quả, lợn, bò, trâu và gia cầm,
đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh và thị trường; phát triển công nghệ đẻ và
nhân giống thủy sản có giá trị cao; phát triển các quy trình nuôi trồng tiên tiến; công
nghệ chế biến và bảo quản đạt tiêu chuẩn quốc tế; công nghệ tiến bộ trong xây dựng
và quản lý các hệ thống thủy lợi, cấp nước sinh hoạt.
Thứ ba tăng cường công tác tập huấn phổ biến những tiến bộ khoa học - công
nghệ; xây dựng các điểm nhân giống và chuyên môn hóa sản xuất giống phu hợp với
quy mô phát triển sản xuất. Hoàn thiện mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, mạng
lưới kỹ thuật viên đến từng xã(như hệ thống thú y, bảo vệ thực vật, dịch vụ kỹ thuật,...)
đẻ tạo điều kiện đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ nông dân vươn
lên trong sản xuất kinh doanh an toàn và hiệu quả. Tăng cường công tác kiểm định
giống để hạn chế tối đa các loại hạt giống kém phẩm chất lưu thông trên thị trường.
Thứ tư, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật cho nông nghiệp - nông
thôn. Muốn vậy phải cải tổ hệ thống đào tạo cấp cao đẳng, đại học theo hướng gắn đào
tạo, nghiên cứu với năng lực thực tiễn cho sinh viên và người nghiên cứu sinh trước khi
tốt nghiệp. Xây dựng tiêu chuẩn hóa để có cơ sở lựa chọn, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ ở
các viên nghiên cứu, bố trí cán bộ phù hợp. Thực hiện chế độ khuyến khích sinh viên cao
đẳng, đại học(ngành liên quan đến nông nghiệp, y tế, giáo dục,...) về công tác tại cơ sở xã
có thời hạn 3-5 năm; áp dụng chế độ khuyến khích để tăng lương cho cán bộ khoa học.
Thứ năm, xây dựng và thực hiện các chính sách đối với hoạt đông khoa học -
công nghệ. Đối với nông nghiệp của tỉnh Champasak nói riêng và nông nghiệp của
nước Lào nói chung hiện nay, tỉnh Champasak nói riêng cần có chính sách chăm lo
điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần của người nghiên cứu, phát minh và
ứng dung khoa học - công nghệ; ưu đãi nhân tài có cống hiến quan trọng; khuyến
khích cán bộ khoa học làm việc ở nông thôn, vung sâu, vùng xa; tiền lương, tiền
hưởng thu nhập của người lao đông khoa học - công nghệ được hưởng phải gắn với
100
kết quả và hiệu quả lao động do họ mang lại; nên áp dụng chế độ khen thưởng thích
đáng về tinh thần và vật chất cho lao động khoa học - công nghệ.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm
Ở tỉnh Champasak hiện nay lao động nông nghiệp đang chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng lao đọng xã hội (khoảng 70%) Mặt khác tốc độ tăng dân số của tỉnh nói riêng
còn cao, đặc biệt trong những năm gần đây tốc độ tăng dân số có chiều hướng tăng
lên (năm 2011là 655.558 người đến năm 2015 là 594.000 người. Do đó, vấn đề giải
quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông
nghiệp ở tin hr Champasak trong thời gian tới có tính cấp thiết và là điều kiện quan
trọng để phát triển nền nông nghiệp.
Thứ nhất, đào tạo cán bộ nghiên cứu kinh tế, kỹ thuật đáp ứng cho 3 cấp như:
cấp tỉnh, huyện, xã trong vùng, nhất là đội ngũ cán bộ cho các xã.
Đào tạo đội ngũ giáo viên dạy nghề để duy trì và phát triển dạy nghề cho lực
lượng lao động tại chỗ; tổ chức đào tạo các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chủ
kinh tế trang trại và kinh tế hộ, chuẩn bị tốt lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật,
quản lý, có đủ trình độ năng lực phẩm chất để sẵn sàng tham gia vào đối tác trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Đào tạo và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên phổ thông vừa có trình độ vừa có tâm
huyết với nghề nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chuẩn bị tốt
cho sự nghiệp tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nâng cao trình độ quản lý các cấp,
các ngành, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở mỗi vùng, mỗi địa phương.
Chú ý nâng cao mặt bằng dân trí của nhân dân, trước hết là trình độ văn hóa, hiểu biết
về các chủ trương, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước Lào.
Thư hai, đào tạo nghề nông cho nông dân. Bồi dưỡng nông dân kiến thức về
khoa học - kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp có năng suất cao, chất lượng tốt, giá
thành hạ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với yêu cầu của nông dân và
thị trường để đạt hiệu quả cao; bồi dưỡng kiến thức xây dựng nông thôn mới để giúp
nông dân tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch phát triển làng, xã, tự giác đóng
góp xây dựng và quản lý sau xây dựng các công trình hạ tầng của cộng đồng. Đối với
thành niên phải đào tạo nghề và giúp họ chuẩn bị sẵn điều kiện chuyển sang làm nghề
101
phi nông nghiệp, trong đó có dạy nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp phục vụ cho nhu
cầu phát triển nông nghiệp và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, kiên trì và quyết tâm thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở.
Việc đội ngũ cán bộ theo tiêu chí: cán bộ phải tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học
phổ thông có chứng chỉ cấp về quản lý về nghề chuyên môn hoặc quản lý của tỉnh và
nhà nước.
Trên cơ sở quy hoạch phải đào tạo thiết thực kiến thức quản lý tỉnh và nhà
nước về kinh tế - xã hội - phát triển nông nghiệp-nông thôn cho cán bộ cơ sở cấp
thôn, xã, chỉ có đủ tiêu chuẩn trên mới bố trí vào bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Thứ tư, tổ chức đào tạo nông dân. Đổi mới hình thức đào tạo, từng bước xã hội
hóa việc đào tạo cho người lao động, mở rộng các loại hình đào tạo. Khuyến khích
các doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo và thu hút lao động tại chỗ.
Nhà nước và tỉnh Champasak nói riêng có chính sách đặc biệt ưu đãi (đất, vốn,
thuế, công nghệ,...) cho các đối tượng tư nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng
trường dạy nghề cho lao động nông thôn. Khuyến khích và hỗ trợ các cộng đồng địa
phương đúng ra tự tổ chức dạy nghề(tự tổ chức trường, liên kết với các thành phần
kinh tế tổ chức dạy nghề); keu gọi các tổ chức tài trợ quốc tế chuyên từ đầu tư phát
triển nhân đạo ở nông thôn sang đầu tư dạy nghề, hướng nghiệp cho lao động nông
thôn, kể cả chuẩn bị đào tạo cho người xuất khuẩu lao động. Việc dạy nghề phải gắn
với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đào tạo việc làm ở mỗi địa phương; ưu
tiên dạy nghề cho thành niên nông thôn để chuyển đổi nghề nhằm cung cấp đầy đủ
lao động cho sự phát triển nông nghiệp của tỉnh của nhà nước nói chung.
- Về chính sách giải quyết việc làm:
Thứ nhất, Tỉnh Champasak có các chủ trương, chính sách để phân bố lại lao
động nông nghiệp hợp lý giữa các vùng trên phạm vi của tỉnh. Đây là biện pháp quan
trọng để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Để thực hiện
tốt biện pháp này đòi hỏi phải kết hợp chăt chẽ lao đông với các nguồn tài nguyên và
tư liệu sản xuất sẵn có trong từng vùng khác nhau trên phạm vi cả tỉnh để khai thác có
hiệu quả các tiềm năng đó, tạo ra nhiều ngành mới, nhiều vùng chuyên môn hóa kết
hợp với phát triển tổng hợp. Mặt khác, yêu cầu từng huyện, từng xã cũng như từng
doanh nghiệp nông nghiệp phải nắm chắc nguồn nhân lực và nhu cầu lao động, thực
102
hiện kế hoạch hóa nguồn nhân lực phải gắn liền với kế hoạch hóa dân số, chú trọng
và thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số, coi đây là cuộc vận động lớn có ý
nghĩa là chiến lược về kinh tế - xã hội.
- Chính sách về đầu tư; tín dụng
Thứ nhất là tiếp tục tăng vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn, đồng thời tạo cơ chế khuyến khích thu hút vốn
đầu tư từ mọi tầng lớp dân cư, thành phần kinh tế. Thực hiện Đại hội Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào lần thứ IX đề ra (2011)như: xây dụng tỉnh thành đơn vị chiến lược,
xây dựng huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện và xây dựng làng trở thành
làng phát triển. Ngoài ra để nâng cao hiệu quả chính sách đầu tư cho nông nghiệp,
nông thôn cần khắc phục tính dàn trải, kéo dài trong đầu tư cơ bản, thực hiện các biện
pháp chống nợ đọng, hạn chế thất thoát và thực hiện tốt công tác giám sát đầu tư.
Thứ hai, cần đa dạng hóa phương thức đầu tư, cụ thể là:
Đầu tư trực tiếp bằng ngân sách của tỉnh và nhà nước để khuyến khích phát triển
những sản phẩm nông nghiệp có ý nghĩa sống còn đối với quốc gia và mang lại hiệu quả
kinh tế cao như: lúa gạo, những loại thực phẩm có giá trị kinh tế cao. Vốn đầu tư sẽ được
sử dụng để chuyển giao công nghệ mới, áp dung kỹ thuật tiên tiến hoặc giống mới có
năng suất và chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đối tượng đầu tư theo nội
dung này là hệ thống trạm trại nghiên cứu thực nghiệm và triển khai như: giống, thủy
nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất, phát triển công nghệ chế biến sau thu hoạch.
Đầu tư gián tiếp thông qua tín dụng phát triển nông thôn với lãi suất ưu đãi.
Tỉnh Champasak và nhà nước Lào nói chung nên ưu tiên, khuyến khích đầu tư vốn
thông qua các dự án.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn phục vụ cho hoạt đông sản xuất -
kinh tế doanh nghiệp như: thủy lợi, giao thông, điện thông tin liên lạc, trung tâm triển
lãm và hỗ chợ thương mại, trung tâm giao dịch hàng hóa, trung tâm thông tin, trung
tâm kiểm tra chất lượng hàng hóa, trung tâm thương mại, chợ, siêu thị, kho ngoại
quan, mạng lưới cửa hàng, trung tâm mua gom nông sản, chế biến nông sản... theo
phương thức đầu tư toàn bộ và nhân dân cùng làm để xây dựng và hoàn thiện kết cấu
hạ tầng nông thôn phục vụ sản xuất và tạo tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn. Kết cấu hạ tầng càng hoàn thiện thì quy mô và trình độ phát triển nông nghiệp
103
còn cao; điều này đặc biệt có ý nghĩa đói với những vùng sản xuất hàng hóa lớn về
lương thực phẩm và nông sản xuất khẩu.
Đầu tư qua giá mua vật tư và bán nông sản của hộ sản xuất cũng là một
phương thức được nhiều nước áp dụng; hộ sản xuất nông nghiệp được mua vật tư,
xăng đầu phục vụ sản xuất với giá ổn định.
Thứ ba, tỉnh Champasak nói riêng có khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp. Tỉnh có lợi thế so sánh để đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là các loại
nông sản có giá trị kinh tế cao. Mặt khác cần tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát
của tỉnh và nhà nước đối với quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư theo hướng
tiếp tục hoàn tiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp.
- Chính sách về lưu thông hàng hóa, phát triển thị trường và giá cả
Thứ nhất, tỉnh Champasak có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế tham gia lưu thông nông sản, tìm kiếm, mở rộng thị trường và xuất
khẩu trực tiếp nông, lâm sản trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm và hiệu quả
xuất khẩu. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại: dự báo tình hình thị trường,
xây dựng hệ thống thông tin từ trung ương đến cơ sở, hỗ trợ các doanh nghiệp tham
gia các hoạt động giới thiệu hàng nông, lâm nghiệp của tỉnh Champasak nói riêng nói
chung của nước Lào.
Thứ hai, nghiên cứu ban hành chính sách giá cả nông sản, nhất là giá lúa phù
hợp trong quan hệ so sánh với hàng công nghiệp, bảo vệ lợi ích của người sản xuất và
người tiêu dùng. Tăng cường quan hệ dự trữ quốc gia nhất lương thực.
Thư ba, tỉnh Champasak có chính sách khuyến khích, mở rộng hệ thống tiếp
thị, thành lập các tổ chức nghiên cứu, dự báo thị trường; tăng cường công tác thông
tin kinh tế, nhất là thông tin về giá cả, quan hệ cung- cầu trên thị trường để giúp nông
dân định hướng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư, hỗ trợ tín dụng để các doanh nghiệp thu mua kịp thời nông sản do
nông dân làm ra, còn nông dân ở các vùng đồng bằng sông Mê Kông. Nghiên cứu
ban hành chính sách giá nông sản nhất là giá lúa, bảo đảm thu nhập cho người sản
xuất nông nghiệp.
104
Thứ sáu, khuyến khích thương nghiệp tư nhân phát triển ở các vùng nông thôn
theo hướng hình thành hệ thống các nhà bán buôn lớn, chuyên về từng mặt hàng để làm
cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng; hình thức này phát triển sẽ hình thành các địa điểm
buôn bán ở các thị xã, thị trấn có thể là những điểm thu mua kết hợp với chế biến, để từ
do cung cấp cho các cơ sở chế biến hiện đại, cho xuất khẩu hoặc bán rẻ. Tăng cường
công tác quản lý thị trường, đấu tranh kiên quyết với các hành vi vi phạm buôn bán hàng
giá, kém chất lượng, đầu cơ, trục lợi bất chính, gây động bất lợi trên thị trường.
Thư bảy, tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các cơ sở hạ tầng phục
vụ kinh doanh hàng nông, lâm sản; nghiên cứu và đầu tư phát triển công nghiệp chế
biến hàng nông, lâm sản xuất khẩu, nhất là các trục giao thông, hệ thống kho tàng,
bến cảng tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất nhập khẩu nông sản. Quy hoạch
xây dựng hệ thống các chợ đầu mối; nâng cấp các chợ quê truyền thống thuận lợi cho
tiêu thụ nông sản nhỏ lẻ; hỗ trợ các tổ chức kinh tế hoặc hộ tư nhân có dư án xây
dựng cơ sở thu mua tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp.
Như vậy, để đẩy mạnh công tác tiêu thụ nông sản hàng hóa cho các chủ thể
kinh tế, tỉnh Champasak cần có những chính sách nhằm khuyến khích ứng dụng tiến
bộ khoa học - công nghệ, phát triển sản xuất, có các dịch vụ tư vấn, thông tin thị
trường , các dịch vụ khuyến khích xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ
thống giao thông vận tải phải được thông suốt giữa các vùng. Ngoài ra tỉnh cần quy
hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp
chế biến(sử dụng nguồn đầu vào của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp) sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa.
- Chính sách thuế nông nghiệp
Chính sách thuế đối với nông nghiệp, nông thôn cần chú ý vấn đề sau:
Phải có chính sách thuế ưu đãi đặc biệt đối với các hoạt động sản xuất nông
nghiệp và các hoạt động kinh tế ở nông thôn. Bởi vì, nông nghiệp, nông thôn của tỉnh
Champasak nói riêng còn đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Để khuyến
khích phát triển các ngành nghề ở nông thôn mức thuế phải có sự ưu đãi hơn so với
thành phố; giảm mức thuế sử dụng ruộng đất nông nghiệp và tiến tới không đánh thuế
vào sản xuất nông nghiệp.
105
Nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Champasak đang phát triển một cách đa dạng
với các hình thức hoạt đông sản xuất khác nhau ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Về
nguyên tác mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều phải nộp
thuế cho tỉnh Champasak và nhà nước nói chung, có loại hình thức hoạt đọng sản
xuất vì mục tiêu kinh doanh, có loại hình thức ra đời không vì mục đích kinh doanh
mà chỉ nhằm mục đích làm lợi cho kinh tế hộ. Vì vậy, tỉnh Champasak và nhà nước
nói chung cần tiến hành nghiên cứu đêể có chính sách phù hợp với từng loại hình
thức hoạt động sản xuất đó.
Việc thi hành luật thuế đối với nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Champasak cần
chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ để tránh tình trạng nhiều địa phương đặt ra nhiều thứ thuế
và lệ phí ngoài quy định cảu chính sách và luật pháp của Nhà nước. Cần xử lý
nghiêm các địa phương tự tiện quy định các khoản đóng góp phi lý đối với nông dân
để làm lợi cho một số người.
Để đảm bảo sự công bằng xã hội, tỉnh Champasak cần ban hành chính sách
quy định cụ thể chế độ đóng góp đối với nông dân(người thuế) và các khoản lệ phí
phải thu. Nên giảm các khoản đóng góp đối với nông dân tỉnh tăng đầu tư trực tiếp
cho nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp
Để chính sách bảo trợ có tác động tích cực, khuyến khích phát triển nông
nghiệp trong thời gian tới chung ta cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, về phạm vi bảo trợ: do hoạt động sản xuất nông nghiệp tiến hành
trên phạm vi không gian rộng lớn và sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nên
không thể thực hiện bảo trợ cho tất cả các vùng các loại nông sản được. Trong điều
kiện khả năng của tỉnh Champasak có hạn chỉ nên tập trung bảo trợ cho những vùng
sản xuất gặp nhiều khó khăn và những nông sản thiết yếu cho tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu - chủ yếu là sản xuất lương thực.
Thứ hai, về các hình thức baot trợ
Ở tỉnh Champasak và Nhà nước nói chung trực tiếp đầu tư xây dựng các công
trình có nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp của vùng, địa phương,
như hệ thống công trình thủy lợi cho vung sản xuất tập trung, hệ thông giao thông
nông thôn., hệ thống công trình thủy lợi,...
106
Đặc điểm của lĩnh vực nông nghiệp là sản xuất và thu hoạch theo thời vụ, nên
vào thời kỳ thu hoạch, giá thị trường xuống thấp làm cho người sản xuất bị thua lỗ rất
lớn. Về bảo vệ lợi ích cho nông dân của tỉnh và Nhà nước phải bằng mọi cách mua
hết sản phẩm với giá cao hơn giá thị trường. Để bảo đảm cho ngươi sản xuất bù đáp
được chi phí sản xuất và các mức lãi hợp lý.
Xu hướng chung là thu hẹp dần quan hệ cánh kéo giữa giá thóc và giá phân
đạm, thuốc sâu khuyến khích nông dân đầu tư. Song do tỉnh Champasak nói riêng nói
chung của nước Lào phân lớn phân bón và thuốc trừ sâu phải nhập khẩu nên giá các
loại vật tư đó vẫn còn cao so với giá thóc. Vì vậy, để tạo điều kiện cho nông dân đầu
tư thâm canh, tỉnh Champasak cần có kế hoạch nhập khẩu các vật tư thiết bị, đáp ứng
đầy đủ, kịp thời nhu cầu sản xuất, tỉnh Champasak và Nhà nước cần có sự hỗ trợ khi
giá các loại vật tư tăng lên gây bất lợi cho người nông dân.
Đối với giá dịch vụ thủy nông, tỉnh Champasak cần xem xét giá điện phục vụ
tưới tiêu. Mặt khác phải có kế hoạch đầu tư hiện đại hóa công trình thủy lợi để giảm
giá thành tưới tiêu nước. Trong trường hợp sâu bệnh phát triển thành dịch trên quy
mô lớn, hạn hán, úng lụt kéo dài thì tỉnh Champasak phải có biện pháp kịp thời giúp
người sản xuất nông nghiệp.
Thông qua chính sách tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với nông dân trồng lúa.
Hàng vụ trên cơ sở kế hoạch sản xuất của từng hộ nông dân, ngân hàng nông nghiệp
có thể ứng trước chi phí trồng lúa(có thể ứng trước 1/3/chỉ phí) cho họ, đến vụ thu
hoạch nông dân sẽ thanh toán cả vốn lẫn lãi.
Trên đầy là các hình thức bảo trợ chủ yếu có thể thực hiện đối với sản xuất
nông nghiệp nói chung và lương thực (lúa) nói riêng. Các hình thức đó cần được thực
hiện một cách đồng bộ. Tuy nhiên trong hoàn cảnh của tỉnh Champasak hiện nay, tùy
điều kiện từng vùng cụ thể mà lựa chọn một số hình thức thich hợp.
Xây dụng môi trường văn hóa và đạo đức kinh doanh trong nông nghiệp.Khi
xây dựng môi trường văn hóa và đạo đức kinh doanh trong nông nghiệp cần đề cập
một số giải pháp như;
Một là, tuyên truyền cho cộng đồng dân cư thấu hiệu đầu tư vốn để sản xuất
kinh doanh là điều kiện cần thiết nâng cao đời sông và làm giàu cho bản và cho xã hội;
xóa bỏ căn bệnh ghen ty, đố ky đối với người có tài, có khả năng làm giàu chính đáng,
xây dựng bầu không khí " làm giàu cho mình và cho xã hội " trong từng cộng đồng.
107
Ba là, khuyến khích tinh thần hợp tác, cùng nhau chia sẻ những thuận lợi, khó
khăn trong qua trình phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện nhiều sản phẩm độc
đáo trên thi trường và cùng nhau bảo vệ sản phẩm uy tín chung, không phân biệt
doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh nào làm ra. Thực hiện giải pháp này sẽ tạo ra sức
mạnh chung, trong đó từng doanh nghiệp, từng hộ nông dân cung hướng tơi.
Bốn là, cung cấp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và hộ nông dân về thông
tin, kiến thức bảo vệ môi trường và phát triển xã hội nông thôn gắn với hoạt động sản
xuất kinh doanh, phát động phong trào văn hóa mới trong kinh doanh, cùng nhau tạo
ra một xã hội nông thôn mới vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, kinh doanh sôi
động, vừa đảm bảo gìn giữ và xây dựng môi trường xã hội có nếp sống văn minh,
sạch sẽ và có tính bền vững cao. Sản xuất và sinh hoạt có văn hóa vừa hiện đại, văn
minh, vừa thích hợp với truyền thống dân tộc.
Năm là, tăng cường xây dựng lang văn hóa, phát triển văn hóa, văn nghệ để
nâng cao đời sống tinh thần cho nông dân và xây dựng nông thôn mới làm nên tảng
để phát triển nông nghiệp.
3.2.9. Giải pháp về môi trường của tỉnh Champasak
Thực trạng môi trường nông nghiệp trong thành thị và nông thôn của cả nước
nói chung và của tỉnh Champasak nói riêng đang có chịu ô nhiễm môi trường ngày
càng lớn do bị phá rừng nhiều và trong khu vực nông nghiệp đã sử dụng phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi, việc xử lí chất thải ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản cùng với sức ép về nhu cầu của những sản phẩm nông sản sạch, bảo đảm chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi ngành nông nghiệp cũng như các ngành liên
quan. Trong quá trình khai thác sử dụng các tài nguyên để phát triển nông nghiệp cần
xem việc sử dụng triệt để tài nguyên sinh thái, lấy sinh thái làm nền tảng vững chắc
cho sự phát triển nông nghiệp với các mô hình như nông lâm kết hợp, cả nước đều
góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững.
Để phát triển nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ nên có biên pháp như sau:
- Khuyến khích đầu tư và sử dụng các yếu tố vừa đảm bảo nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm vừa không gây tác hại cho người sử dụng, không làm ô nhiễm
môi trường sinh thái.
108
- Thu hút các nhà đầu tư thì điều kiện cơ bạn phải xây dựng được hệ thống
CSHT, CSVCKT ổn định, hiện đại.
- Sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai, trong sản xuất nông nghiệp, cần tạo
điều kiện cho quá trình tích tụ ruộng đất để tạo sự phân công lao động hợp lý, phát
triển nền nông nghiệp hàng hóa.
- Bảo vệ môi trường sinh thái nên quản lý chặt chẽ việc khai thác, sử dụng tài
nguyên, đặc biệt là tài nguyên rừng trong giai đoạn 2016 - 2025, toán tỉnh Chanpasak
nên quản lý rừng bền vững, đảm bảo duy trì và nâng cấp độ che phủ rừng trên địa bàn
tỉnh chiếm được 69,97% so với diện tích đất rừng của tỉnh trong đó, bảo vệ rừng cấm
quốc gia chiếm được 329.600 ha, rừng cấm tỉnh chiếm 81.940 ha và trồng rừng mới
chiếm được 73.838 ha.
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân cũng như nâng cao vai trò,
trách nhiệm của cơ quan quản lý của tỉnh và nhà nước để khai thác có hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên để phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo được các vẫn đề về môi trường.
109
TIÊU KẾT CHƯƠNG 3
Theo đánh giá chung về định hướng phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak
chú trọng là định hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, trong đó là ngành trồng
trọt và chăn nuôi là ngành có GTSX cao nhất trong cơ cấu so với ngành kinh tế
của nước Cộng Hoa Dân Chủ Nhân Dân Lào nói chung và tỉnh Champasak nói
riêng. Người dân của tỉnh Champasak hơn 70% làm nông nghiệp vì vậy, việc phát
triển nông nghiệp là việc cơ sở đẩy mạnh thâm canh tang vụ nâng cao năng suất
nhờ áp dụng những tiến bộ về KHKT. Sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển
bền vững đảm bảo lương thực thực phẩm có năng suất và chất lượng cao, sạch, an
ninh cho người dân.
Bênh cạnh định hướng phát triển nông nghiệp còn có những giải pháp chủ yếu
để thực hiện những định hướng như tổ chức sản xuất và sử dụng đất, giải pháp về
khoa học - công nghệ, thu hút và huy động vốn đầu tư, tăng cường xây dựng cơ sở hạ
tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, công tác khuyến nông ,
sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và có hiệu quả, xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản
phẩm , tổ chức và thực hiện cơ chế chính sách phù hợp và giải pháp về môi
trường,…Những giải pháp được đê tài đề cập tới đều xét trên các khía cạnh kinh tế -
xã hội - môi trường nhằm đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững.
110
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu phát triển nông nghiệp tỉnh Champasak, CHDCND Lào nhằm
đánh giá tiềm năng, phân tích hiện trạng và đề xuất một số giải pháp phát triển nông
nghiệp của tỉnh là rất cần thiết. tỉnh Champasak cũng là một tỉnh có điều kiện thuận
lợi và có tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh. Đặc biệt tại tỉnh Champasak có đất đài
màu mỡ đất đỏ bazan và có diện tích đồng bằng chiếm 74% và diện cao nguyên
chiếm 26% so với diện tích đất toàn tỉnh. Vì vậy, tỉnh Champasak hiện nay vẫn chủ
yếu dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mặc dù, tỉnh Champasak là một tỉnh
đồng bằng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp nhưng hiện nay việc
khai thác vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng. Do đó phát triển nông nghiệp
tỉnh Champasak có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế chung của
tỉnh, từng bước góp phần vào phát triển chung của nền nông nghiệp cả nước. Trong
quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, ngành nông nghiệp của tỉnh Champasak đang phát triển dựa trên khá
nhiều những điều kiện tự nhiên và kinh tế -xã hội thuận lợi. Với địa hình khá bằng
phẳng đất đài màu mỡ, đất đỏ bazan, có khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
có nhiều nguồn nước để cung cấp nhu cầu của người dân cho sản xuất nông nghiệp.
Nguồn lao động ngày càng được nâng cao và có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất
nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
ngày càng có phát triển. Các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp luôn
được ưu tiên đầu tư và quan tâm thực hiện.
Thứ hai,ngành nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh
so với ngành công nghiệp và dịch vụ. Phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm đảm bảo
an ninh lương thực cho hơn 694.000 dân, cung cấp nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thực phẩm,...
Thứ ba, trong giai đoạn 2011-2015 sản xuất nông nghiệp của tỉnh Champasak
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong tổng sản phẩm và cơ cấu GDP tỉnh
phân theo ngành kinh tế là ngành nông nghiệp có thể đạt được 3.384.304.411 nghìn
Kip. Trong đó ngành nông nghiệp lúa là một cây chính của người dân của Lào nói
chung và của tỉnh Champasak nói riêng. đồng thời tại tỉnh còn có cà phê, chè,...chăn
111
nuôi có đàn trâu, bò lợn, gia cầm, gia súc,...Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đã
từng bước được hoàn thiện và ngày càng phu hợp, có tác dụng thức đẩy phát triển
nông nghiệp của tỉnh.
Thứ tư, tuy nhiên trong sản xuất nông nghiệp hiện nay cảu tỉnh Champasak
vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều chỗ tống chưa hoạt động vào việc sản xuất nông nghiệp,
đầu tư cho nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu của người dân và thị trường, việc xây
dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, tiêu thụ nông sản hàng
hóa chưa được quan tâm đúng mức, sức cạnh tranh của nông sản cưa cao.
Thứ năm, để phát huy được những thành tựu, hạn chế được những khó khăn,
thách thức đối với phát triển nông nghiệp, tỉnh Champasak cần phải thực hiện các giải
pháp trong đó bao gồm các giải pháp chung và các giải pháp để phát triển nông
nghiệp của tỉnh. Phát huy cao về tiềm năng lao động, vốn đầu tư, ứng dụng công nghệ
khoa học kỹ thuật, khai thác thị trường từng bước xây dựng nông nghiệp của tỉnh
theo hướng CNH, HĐH.
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amphonmali KHOELA, Juong SOMBUONKHAN (1985)“Kinh tế và tổ chức
sản xuất nông nghiệp” NXB Thanh niên .
2. Bunlot Chanthachon (2009) “Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa ở tỉnh Salavan, NCHDCND Lào Luận”.
3. Bunthong BUAHOM (2010), “khuyến nông là nhiệm vụ của toàn dân”
4. Bunthong BUAHOM (2012), “phát triển nông nghiệp một cách bền vững”
5. Cục dân tộc Lào (2005), các dân tộc Lào (địa chí Champasak).NXB Cục dân
tộc Lào.
6. Cục thống kê quốc gia Lào (tháng 12/2015), Báo cáo thực trạng kinh tế-xã hội
của Lào năm 2015.
7. Cục thống kê tỉnh Champasak (tháng 12/2015). Niên thống kê phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh Champasak 2011,2012, 2013, 2014,2015.
8. Cục thống kê tỉnh Champasak (Tháng 7 năm 2015), Báo cáo tổng hợp kết qủa
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
(2011-2015).
9. Địa lý Lào (1998), Bộ giáo dục và thể thao, NXB Trung Tâm Phát Triển Giáo Viên.
10. Nguyễn Thu Hằng (2011),“ Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên”
Luận văn thạc sĩ khoa học địa lí, trường Đại học sư phạm Thái Nguyên.
11. Thân Thị Huyền,“Phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2000-2010” Luận
văn thạc sĩ địa lí học trường Đại học Thái Nguyên - Đại học sư phạm Thái Nguyên.
12. Keanchanh SINSAMPHAN và Sitha PHANTHABA (1998), “ Địa lí Lào”, NXB
Thanh niên Lào.
13. Khammany SULIDED (2010)“ Địa lí kinh tế Lào”, NXB Giáo dục Lào.
14. Trịnh Thùy Linh,“Phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Nam giai đoạn 2000-2011” Luận
văn thạc sĩ địa lí học trường Đại học Thái Nguyên- Đại học sư phạm Thái Nguyên.
15. Đăng Văn Phan (2007), “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam” NXB Giáo dục.
16. Đặng Văn Phan (chủ biên), Nguyễn Thị Kim Hồng (2006), “Địa lí kinh tế - xã
hội Việt Nam”, NXB Giáo dục.
113
17. Phansay PHENGKHAMMAY (2014) “Vai trò Nhà nước đối với phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở CHDCND Lào”. Luận án tiến sĩ kinh tế học viên chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
18. Phomma Phanthalangsy (2002), “Luận án án phát triển nông nghiệp hàng hóa ở
tỉnh Kham muon, CHDCND Lào”.
19. Sinuk THILAVONG (1998) “Khu vực và các hoạt động kinh tế của con người
trên thế giới”, NXB NUOL.
20. Sở nông nghiệp và lâm nghiệp tỉnh Champasak, Báo cáo quy hoạch tổng thể phát
triển nông nghiệp tỉnh Champasak đến năm 2020 và định hướng phát triển nông
nghiệp - lâm nghiệp đến năm 2025.
21. Sở nông nghiệp và lâm tỉnh Champasak, thống kê nông nghiệp - lâm nghiệp tỉnh
Champasak năm 2011-2015.
22. Lê Thông (1986), “Các hình thức TCLTNN trên thế giới” NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Lí Văn Toàn (2007), “Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế
trang trại trên địa ban tỉnh Thái Nguyên”. Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường đại
học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên.
24. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2012) “Địa lí kinh
tế - xã hội đại cương” NXB Đại học sư phạm.
25. Nguyễn Xuân Trường (Chủ biên) Dương Quỳnh Phương, (2015)“Địa lí kinh tế -
xã hội Việt Nam” NXB Giáo dục Việt Nam.
26. UBND tỉnh Champasak (2014), Đề án tiếp tục củng cố, phát triển kinh tế tập thể
tỉnh Champasak trong giải đoạn 2016 -2020.
27. Ủy ban nhân dân tỉnh Champasak (Tháng 10 năm 2010), Bài báo tổng hợp
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Champasak và định
hướng đến năm 2020.
28. Ủy ban nhân dân tỉnh Champasak (Tháng 7 năm 2015), Báo cáo tổng hợp
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Champasak và định
hướng đến năm 2025.
114
PHỤ LỤC
Phục lục 1:
Diện tích, sản lượng cây lương thực có hạt của tỉnh Champa sak,
CHDCND Lào giai đoạn 2011 – 2015 [21]
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năm
107.464 461.260 2011
121.438 546.024 2012
123.068 552.788 2013
134.967 622.630 2014
137.453 638.116 2015
Phục lục 2:
Số lượng đàn trâu, bò, lợn và đàn gia cầm tỉnh Champasak
giai đoạn 2011 – 2015 [21]
Năm Đàn trâu (con) Đàn bò (con) Đàn lợn (con) Đàn gia cầm(con)
2011 135.722 142.969 187.655 4.891.930
2012 139.129 148.830 200.979 5.253.932
2013 142.788 154.749 214.404 5.625.670
2014 146.928 160.936 228.340 6.008.215
2015 149.720 165.928 237.017 6.278.585
Phục lục 3:
Số lượng đàn gia cầm của tỉnh Champasak trong giai đoạn 2011 – 2015 [21]
Tổng số gia cầm Gà Vịt Chim cút Năm (con) (con) (con) (con)
2011 4.891.930 3.324.870 1.538.160 28.900
2012 5.253.932 3.629.106 1.593.826 31.000
2013 5.625.670 3.884.911 1.708.759 32.000
2014 6.008.215 4.512.608 1.460.607 35.000
2015 6.278.585 4.737.000 1.501.584 40.000
PHỤLỤC ẢNH
Mô hình gieo trồng lúa ở khu vực đồng bằng của tỉnh Champasak.
(Nguồn: Tác giả)
Cà phê khu vực cao nguyên Bolaven huyện Paksong Tỉnh Champasak
(Nguồn: Tác giả)
Cây rau khu vực cao nguyên Bolaven huyện Paksong Tỉnh Champasak [25]
Cây ăn quả khu vực cao nguyên Bolaven huyên Bachieng,
huyện Paksong tỉnh Champasak
(Nguồn: Tác giả)
Cây cao su huyện Bachieng tỉnh Champasak
(Nguồn: Tác giả)
Chăn nuôi trâu, bò khu vực Nuonghin huyện Paksong tỉnh Champasak
Chăn nuôi lợn, gà khu vực huyện BaChieng tỉnh Champasak
(Nguồn: Tác giả)
Nuôi cá khu vực km 8 huyện BaChieng tỉnh Champasak
Hệ thống thủy lợi ở khu vực đồng bằng tỉnh Champasak
(Nguồn: Tác giả)