ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*----------
NGUYỄN THỊ HẰNG
PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*----------
NGUYỄN THỊ HẰNG
PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Lan
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Đặng Thị Lan (Giảng viên
khoa Triết học – Trƣờng Đại học khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại học quốc
gia Hà Nội). Cảm ơn cô đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ và cho em những góp
ý bổ ích để em hoàn thành luận văn của mình.
Em cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể các
thầy cô giáo Khoa Triết học và các thầy cô tham gia giảng dạy lớp Cao
học K20 đã tận tình truyền đạt kiến thức cho chúng em trong suốt thời
gian học tập tại trƣờng.
Do khả năng và trình độ của em còn nhiều hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của quý thầy cô
và các bạn để em có thể hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 9 tháng 10 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Hằng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi nghiên cứu. Các số liệu, thông
tin nêu trong luận văn là trung thực.
Học viên
Nguyễn Thị Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ
LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm tƣ duy, tƣ duy lý luận ................................................................ 9
1.1.1. Tƣ duy ...................................................................................................... 9
1.1.2. Tƣ duy lý luận ........................................................................................ 14
1.2. Tƣ duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................ 20
1.2.1. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay .... 20
1.2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 24
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 39
CHƢƠNG 2. PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP ...................................................................................................... 56
2.1. Thực trạng phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 56
2.1.1. Những thành tựu về phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở Việt Nam hiện nay .................................................................... 56
2.1.2. Những hạn chế trong công tác phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân .......................... 65
2.2. Những yêu cầu và phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................... 77
2.2.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 77
2.2.2. Những phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ...................................... 86
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 101
KẾT LUẬN ................................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 104
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức mạnh của tƣ duy lý luận đối với đời sống và hoạt động thực tiễn đã
đƣợc chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận nhƣ cái kim chỉ nam, nó chỉ
phƣơng hƣớng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
lúng túng nhƣ nhắm mắt mà đi… và có kinh nghiệm mà không có lý luận thì
nhƣ một mắt sáng một mắt mờ”. [59, tr.233-234]. Nhận định này đã khẳng
định tầm quan trọng của tƣ duy lý luận và vai trò của nó đối với sự phát triển
đất nƣớc trong bối cảnh hiện nay.
Nghị quyết lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII
đã chỉ rõ: “Đất nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp đòi hỏi Đảng
ta phải xây dựng đƣợc một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [28,
tr.66], đã cho thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và lãnh đạo cấp cơ sở
nói riêng có vai trò quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nƣớc, đặc biệt là năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này có ý
nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa
và phát triển đất nƣớc hiện nay.
Cấp cơ sở là cấp đầu tiên trong bộ máy hành chính ở nƣớc ta, nhƣng lại
là cấp gần với dân nhất, trực tiếp đƣa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống của nhân dân. Đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, năng lực vận dụng
đƣờng lối, chủ trƣơng, quan điểm đổi mới của Đảng vào việc xây dựng các
chƣơng trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở cho phù hợp; rút ra
các bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khái các chƣơng trình, kế hoạch
ở cơ sở. Bên cạnh đó, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở cũng
còn tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt là về trình độ tƣ duy lý luận thấp; còn
1
nhiều yếu kém trong tổng kết thực tiễn; bệnh chủ quan, giáo điều, dập khuôn
máy móc, tôn sùng kinh nghiệm; mới dừng lại ở tƣ duy mạnh về triển khai,
vận dụng mà chƣa nhạy bén và sáng tạo trong các hoạt động ở cấp cơ sở…
Nguyên nhân của những hạn chế này thì do rất nhiều nguyên nhân khác nhau,
có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó có một số nguyên nhân
cơ bản: trình độ văn hóa, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ các các kỹ năng phục vụ cho công tác lãnh đạo quản lý của cán bộ
còn thấp; công tác của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập, thiếu quy hoạch và
sử dụng còn nhiều bất cập; kinh tế, văn hóa, xã hội ở các cơ sở còn kém phát
triển; trình độ dân trí thấp; cơ sở vật chất và các phƣơng tiện phục vụ công tác
ở cơ sở còn nhiều thiếu thốn, chƣa đƣợc đầu tƣ đồng bộ.
Cùng với sự phát triển của đƣờng lối đổi mới đất nƣớc, trình độ tƣ duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trong đó có tƣ duy lý luận của cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở trên cả nƣớc đã có những bƣớc phát triển mới, từng bƣớc
khẳng định đƣợc vai trò và vị trí quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở, trong công tác lãnh đạo, quản lí các hoạt động ở mỗi địa phƣơng. Tuy
nhiên, đứng trƣớc những yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
đất nƣớc hiện nay, phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã và
đang đặt ra những yêu cầu mới với những tiêu chuẩn mới, trong đó đặc biệt là
sự phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Để đáp
ứng đƣợc những yêu cầu mới, đòi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải có
một trình độ tƣ duy lý luận nhất định mới hoàn thành tốt những nhiệm vụ
đang đặt ra. Nhƣ vậy, phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp bách và lâu dài của đất nƣớc. Tƣ
duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhƣ là “kim chỉ nam”
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của ngƣời cán bộ. Tƣ duy lý luận còn là
cơ sở quan trọng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có thể tiếp cận và
hiểu sâu sắc các quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nƣớc, trên cơ sở đó có thể vận dụng một cách sáng tạo vào
2
trong quá trình lãnh đạo, quản lý ở mỗi cơ sở đạt hiệu quả cao.
Thực tế những năm gần đây cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói
chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở nói riêng đã có những chuyển
biến mạnh mẽ về cơ cấu và trình độ. Đội ngũ cán bộ ngày càng đƣợc trẻ hoá
và hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, phẩm chất trí tuệ mà trực
tiếp là năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở vẫn còn
tồn tại nhiều mặt hạn chế, bất cập, chƣa ngang tầm với những đòi hỏi và
nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, vấn đề quan tâm phát triển
tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có ý nghĩa và vai trò to lớn trong
công cuộc xây dựng đất nƣớc hiện nay.
Vậy, làm gì và làm nhƣ thế nào để phát triển tƣ luy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay là vấn đề đang đặt ra cấp thiết
cả về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng
đối với chiến lƣợc phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nƣớc trong thời
kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tƣ duy, tƣ duy lý luận đƣợc nghiên cứu từ rất sớm, đặc biệt là từ
sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, trong đó có nhiều các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này
và cũng có nhiều công trình khoa học đƣợc công bố, xuất bản thành sách,
đăng tải trên các báo, tạp chí, luận văn, luận án, các hội thảo khoa học. Vấn
đề tƣ duy, tƣ duy lý luận đã đƣợc nhiều các tác giả trong và ngoài nƣớc quan
tâm nghiên cứu cũng nhƣ đề cập đến dƣới nhiều góc độ khác nhau. Ở nƣớc
ta, nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều tác phẩm, bài viết trên tạp chí, một số
luận án đã đề cập đến vấn đề đổi mới tƣ duy, nhất là tƣ duy kinh tế, vấn đề
nâng cao năng lực tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, có tác giả lại tìm hiểu
3
về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn hoặc gắn nó với một vấn đề cụ thể
nào đó, luận giải cho sự cần thiết của việc đổi mới tƣ duy lý luận. Trong đó
có một số công trình cơ bản nhƣ:
Vấn đề tƣ duy lý luận và đổi mới tƣ duy lý luận: “Đổi mới tư duy lý luận
và công tác xây dựng Đảng” của tác giả Hoàng Tùng, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1987. Trong đó tác giả tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu về: đổi mới
tƣ duy là tiền đề khắc phục sự chậm trễ về lý luận; đổi mới công tác xây dựng
Đảng. Trên cơ sở phân tích tác giả đƣa ra nhận định: để thực hiện thành công
nhiệm vụ đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội của đất nƣớc, trƣớc hết cần
phải đổi mới tƣ duy lý luận và đổi mới công tác xây dựng Đảng. Nghiên cứu
này đã chứng tỏ đƣợc sức mạnh to lớn của tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới đất nƣớc nói chung.
Nghiên cứu về tƣ duy lý luận trong tác phẩm “Tƣ duy lý luận với hoạt
động của ngƣời cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” do tác giả Trần Thành chủ
biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong đó tƣ duy lý luận là hình
thức cao nhất của tƣ duy, là quả trình tiếp cận, năm bắt, nhận thức và tái tạo
hiện thực khách quan bằng lý luận, hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Bàn về vai trò của tƣ duy lý luận đối với ngƣời cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn đƣợc coi nhƣ “chìa khóa” mở ra cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn. Tƣ duy lý luận giúp cho ngƣời cán bộ nắm đƣợc thực chất quan điểm,
đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; cũng nhờ có tƣ duy lý luận
ngƣời cán bộ mới có khả năng phân tích sự phong phú, đa dạng và phức tạp
của thực tiễn, từ đó vận dụng lý luận một cách chủ động, sáng tạo, biết tổng
kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận.
“Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tƣ duy lý luận” của tập thể học viện
Nguyễn Ái Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1988. Các tác giả đã cho rằng chính
cách nghĩ bảo thủ, chủ quan, máy móc, duy ý chí là nguyên nhân đã làm cản
trở quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, từ đó nêu lên sự cần thiết
4
của việc phải đổi mới tƣ duy. Bởi chỉ có đổi mới tƣ duy mới có thể nhìn thấy
rõ đƣợc cái lạc hậu, lỗi thời cần phải loại bỏ, và đi đến khẳng định những
nhân tố mới, cách làm mới phù hợp với thực tiễn cụ thể của đất nƣớc.
“Tƣ duy lý luận với sự nghiệp đổi mới” của GS.Trần Nhâm, Nxb Chính
trị quốc gia, 2004. Tác giả trên cơ sở nghiên cứu vấn đề đổi mới tƣ duy lý
luận của Đảng ta trong bối cảnh thời đại, trong mối quan hệ với toàn cầu hóa
và những thách thức đặt ra, cũng nhƣ trong mối tƣơng quan giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin và thời đại hiện nay.
“Qúa trình đổi mới tƣ duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, do tập thể
tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Chủ
biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác phẩm đã đề cập đến nhiều vấn
đề liên quan tới quá trình đổi mới và phát triển ở nƣớc ta, góp phần làm sáng tỏ
quá trình đổi mới tƣ duy lý luận của Đảng, nhất là nhận thức lý luận của Đảng
về Chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
“Đổi mới tƣ duy lý luận - tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp
chí Triết học, số 1, 1988. Tác giả đã đề cập vấn đề đổi mới tƣ duy lý luận đã
đƣợc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng nhƣ tính cấp thiết của
vấn đề đổi mới đƣợc thông qua, để thấy đƣợc vai trò của tƣ duy lý luận trong
sự nghiệp đổi mới đất nƣớc. Đây là một nhân tố không nhỏ trong việc định
hƣớng các chiến lƣợc, sách lƣợc phát triển đất nƣớc.
“Tiếp tục đổi mới tƣ duy, nâng cao tƣ tƣởng trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của GS. Đặng Xuân Kỳ, đăng trên Tạp chí Đảng cộng sản,
số 8, 4/1999. Tác giả cho rằng: quá trình đổi mới tƣ duy lý luận đã có những
biến đổi, song cần phải tiếp tục đổi mới hơn nữa bởi lý luận của chúng ta còn
nhiều chỗ lạc hậu so với thực tiễn. Đổi mới không phải chỉ là đƣa ra những
nhận thức, phƣơng pháp tƣ duy khác trƣớc mà ở đây đổi mới có nghĩa là cái
mới đã bao hàm cái đúng đắn đã có trƣớc kia, loại bỏ những sai lệch, lỗi thời
của cái cũ và bổ sung những gì mới mẻ, phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với
5
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.
Vấn đề về thực trạng tƣ duy lý luận ở nƣớc ta và đổi mới tƣ duy lý luận
đƣợc nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu nhƣ: Tác giả Lê Hữu
Nghĩa “Một số căn bệnh trong phƣơng pháp tƣ duy của cán bộ ta”, Tạp chí
Triết học số 2, 1988. Tác giả Ngô Đình Xây “Vài nét về thực trạng tƣ duy lý
luận ở nƣớc ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 4, 1990.
Một số công trình đề cập đến vấn đề phát triển tƣ duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ nhƣ: “Nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã hiện nay” của Hồ Bá Thâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác
giả Nguyễn Đa Phúc “Phát triển tƣ duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cơ sở nƣớc ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 1997. Tác giả
Vũ Đình Chuyên “Nâng cao năng lực tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện ở nƣớc ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang” Luận văn Thạc sĩ
Triết học năm 2000. Tác giả Vũ Đức Quyền “Nâng cao năng lực tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Triết học năm 2004...
Nhìn chung, trong những công trình nghiên cứu trên các tác giả đã luận
giải về vấn đề lý luận, tƣ duy lý luận, các hoạt động trong công tác lãnh đạo,
quản lí của đội ngũ cán bộ và sự cần thiết phải đổi mới tƣ duy lý luận ở nƣớc
ta hiện nay theo những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhấn
mạnh vai trò tƣ duy lý luận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc còn chƣa đủ độ và chƣa đầy đủ. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nƣớc đang đòi hỏi tƣ duy của chúng ta cũng cần phải đổi mới, đƣợc bổ sung
cho phù hợp với tình hình, hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, vấn đề nhận thức rõ vai
trò của tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay là một vấn
đề cấp thiết. Trong đó, đặc biệt là xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ bồi
dƣỡng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở kế thừa quan điểm cơ bản của các nhà nghiên
cứu trƣớc, tác giả đặt ra mục đích trình bày một cách có hệ thống vấn đề phát
6
triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở hiện nay ở nƣớc ta, góp
phần vào việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trong
sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*Mục đích:
Làm rõ vấn đề phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở
Việt Nam hiện nay.
*Nhiệm vụ:
- Trình bày một số vấn đề lý luận chung về tƣ duy lý luận, phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phát triển tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp phát triển tƣ duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tuợng nghiên cứu: Tƣ duy lý luận và phát triển tƣ duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở.
* Phạm vi nghiên cứu:
Cán bộ lãnh đạo và phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo là những
vấn đề lớn, có phạm vi rộng và nhiều vấn đề liên quan rất phức tạp. Vì vậy, trong
luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một mảng vấn đề cụ thể là phát triển tƣ
duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu phát triển tƣ duy lý
luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên lập truờng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
7
cứu đã công bố làm cơ sở thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích và tổng
hợp, lôgíc và lịch sử, so sánh, khái quát hóa và các phƣơng pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Bƣớc đầu khái quát khái niệm phát triển tƣ duy lý luận, nội hàm phát
triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở; chỉ ra đặc điểm, vai trò
phát triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển tƣ
duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm
sáng rõ hơn bản chất, đặc điểm, vai trò phát triển tƣ duy lý luận cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở, đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp khả thi
góp phần phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác giáo dục, tuyên truyền về phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho những ngƣời quan tâm về vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
8
luận văn có 2 chƣơng, 6 tiết.
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. Khái niệm tƣ duy, tƣ duy lý luận
1.1.1. Tư duy
Trong quá trình hoạt động thực tiễn con ngƣời đồng thời tiến hành hoạt
động nhận thức thế giới khách quan. Trong quá trình đó, con ngƣời muốn cải
tạo sự vật, hiện tƣợng đòi hỏi phải nhận thức đƣợc bản chất, quy luật của các
mối quan hệ nội tại, mối quan hệ giữa các sự vật hiện tƣợng với nhau và giữa
chúng với thế giới khách quan. Qúa trình nhận thức này, đòi hỏi chủ thể phải
trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trong đó,
nhận thức cảm tính là sự phản ánh bề ngoài của các sự, hiện tƣợng, cung cấp
các cứ liệu làm cơ sở cho nhận thức lý tính. Chính từ những phản ánh bề
ngoài, trực quan đơn lẻ của giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại, thông qua
những thao tác tƣ duy bằng khái niệm, phán đoán, suy lý, chủ thể nhận thức
có thể đi sâu phân tích và khám phá bản chất của thế giới khách quan. Qúa
trình này đƣợc lặp đi lặp lại dựa trên sự kiểm nghiệm của thực tiễn đối với tri
thức lý luận, giúp cho tƣ duy không ngừng hoàn thiện và phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Tƣ duy là một thuộc tính đặc biệt của con ngƣời, thể hiện trình độ nhận
thức và năng lực hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tƣ duy chính là vấn đề cơ
bản nhất của nhận thức luận. Vì vậy, tƣ duy đã trở thành đối tƣợng nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ: nhận thức
luận, lôgic học, tâm lý học, sinh lý học… Trong mỗi lĩnh vực khoa học, tƣ
duy lại đƣợc tiếp cận dƣới góc độ khác nhau cụ thể là: trong nhận thức luận
nghiên cứu tƣ duy trong quá trình nhận thức với các quan hệ tri thức - hiện
9
thực, chủ thể - khách thể; lôgic học lại nghiên cứu các quy luật, hình thức và
thao tác tƣ duy; lĩnh vực tâm lý học nghiên cứu tƣ duy với tƣ cách là hoạt
động của bộ não, hệ thần kinh cao cấp trong quá trình tƣơng tác với môi
trƣờng xung quanh; còn trong sinh lý học nghiên cứu tƣ duy đơn thuần là
hoạt động thuần túy của hệ thần kinh.
Trong lịch sử Triết học, khi bàn về vấn đề tƣ duy đã có rất nhiều các
quan điểm khác nhau, sự khác nhau đó là do xuất phát từ các lập trƣờng triết
học khác nhau tạo nên. Nhƣng dù đứng trên lập trƣờng duy vật hay duy tâm,
dƣới sự kế thừa lẫn nhau thì các nhà triết học trƣớc Mác đã đạt đƣợc những
thành quả nhất định trong việc phân chia các giai đoạn của nhận thức, khẳng
định vai trò của cảm giác, kinh nghiệm, lý tính, tƣ duy. Tuy nhiên, họ vẫn
chƣa đi sâu vào giải quyết một cách đúng đắn, khoa học về vai trò, tác dụng,
cách thức hoạt động của cảm tính, tƣ duy; quan hệ cảm tính và lý tính theo
lập trƣờng duy vật. Nhƣ vậy, các nhà triết học trƣớc Mác vẫn chƣa xây dựng
đƣợc một quan niệm đầy đủ về tƣ duy nói riêng và phƣơng pháp nhận thức
khoa học nói chung cho hoạt động nhận thức của con ngƣời.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, đã tạo nên một bƣớc tiến mới trong việc
đƣa ra những quan điểm khoa học đúng đắn về tƣ duy. Chủ nghĩa Mác –
Lênin cho rằng: “Tƣ duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất, đƣợc
tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới
khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận… Thực chất, tƣ duy
chính là sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất đƣợc tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận… Tƣ duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản
xuất xã hội của con ngƣời và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện
những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại” [72, tr.634-635]. Ph.Ăngghen
cho rằng: “Nếu ngƣời ta đặt câu hỏi rằng tƣ duy, ý thức là gì, chúng từ đâu
đến, thì ngƣời ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con ngƣời” [35, tr.55].
Tƣ duy phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con ngƣời một
10
cách khái quát và gián tiếp. Chính trong quá trình lao động sản xuất của xã
hội loài ngƣời tƣ duy đã xuất hiện và phản ánh thực tại một cách gián tiếp,
phát hiện những mối quan hệ hợp quy luật của thực tiễn. Vì vậy, tƣ duy luôn
gắn liền với hoạt động sinh lý của bộ não ngƣời, bên cạnh yếu tố sinh học thì
yếu tố xã hội cũng có tác động quyết định đối với tƣ duy. Tƣ duy là sản phẩm
của xã hội từ những đặc điểm, phƣơng thức hoạt động và cả kết quả. Vì thế,
tƣ duy luôn gắn liền với các hoạt động đặc trƣng của xã hội loài ngƣời là lao
động sản xuất, giao tiếp và ngôn ngữ.
Hoạt động thực tiễn của con nguời là nguồn gốc, động lực chủ yếu của
tƣ duy nên thực tiễn trở thành tiêu chuẩn cao nhất của tƣ duy con nguời. Tƣ
duy với tƣ cách là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động chủ quan của
con ngƣời, với sự sáng tạo và tiên đoán các sự vật hiện tƣợng trong thế giới.
Tƣ duy còn đƣợc xuất hiện và hiện thực hóa trong quá trình đặt ra và giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của con ngƣời. Nhƣ vậy, tƣ duy của con
ngƣời không bất biến mà phát triển từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp,
có thể trình bày một số đặc trƣng cơ bản của tƣ duy nhƣ sau:
Thứ nhất, tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh trong nhận
thức của con người.
Chính quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan đã đem lại nhận
thức khoa học, năng lực khám phá và sáng tạo những tri thức mới về các mối
quan hệ bản chất, quy luật khách quan chi phối sự phát triển của hiện thực.
Triết học Mác - Lênin khẳng định nhận thức chính là một quá trình đi từ “trực
quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn,
đó là con đƣờng biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện
thực khách quan” [29, tr.179]. Vậy, tƣ duy là quá trình nhận thức của con
ngƣời đi từ việc nhận thức các tính chất, hiện tƣợng bề ngoài trong thế giới
hiện thực. Trong đó, quá trình nhận thức chỉ có thể đạt đến sự nhận thức về
bản chất và quy luật vận động, phát triển của các sự vật hiện tƣợng khi nhận
thức ở trình độ tƣ duy lý luận. Tƣ duy là trình độ cao của quá trình nhận thức,
11
đó là quá trình phản ánh khái quát hóa, chỉ ở trình độ nhận thức này mới có
thể phản ánh đƣợc những thuộc tính chung mang tính phổ biến, cơ bản của sự
vật khách quan. Tƣ duy không phải là toàn bộ quá trình nhận thức, mà là một
giai đoạn của quá trình nhận thức và đƣợc hình thành trên cơ sở nhận thức
cảm tính. Vì vậy, nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con ngƣời
sẽ hạn chế, bởi con ngƣời không thể dùng cảm giác để nhận thức và hiểu các
vấn đề nhƣ tốc độ, âm thanh, hình ảnh, cũng nhƣ các hiện tƣợng phong phú và
phức tạp khác trong xã hội. Để có đƣợc những nhận thức khoa học về các vấn
đề phong phú đó, không thể thiếu đƣợc sức mạnh của tƣ duy. Tƣ duy đƣợc diễn
ra dƣới hình thức của các khái niệm, phán đoán, suy lý, giải thuyết, lý thuyết, lý
luận. Kết quả của các quá trình tƣ duy này là sự phản ánh các thuộc tính, các
mối quan hệ cơ bản, phổ biến ở mỗi sự vật riêng lẻ và cả ở nhóm các sự vật
nhất định và kết quả cuối cùng đƣợc ghi lại thông qua ngôn ngữ.
Thứ hai, tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp và
khái quát.
Tƣ duy là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con ngƣời
một cách khách quan và gián tiếp bởi con ngƣời, xã hội thông qua chính quá
trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Trong giai đoạn nhận thức bằng tƣ
duy, sự vật đƣợc phán ánh một cách gián tiếp và khái quát bằng các khái
niệm, phán đoán, suy lý. Qúa trình trừu tƣợng hóa của tƣ duy hƣớng vào việc
đi tìm chân lý, những mối liên hệ khách quan có tính bản chất và phát hiện ra
quy luật chi phối các sự vật hiện tƣợng. Chính sự phản ánh thế giới khách
quan một cách gián tiếp và khái quát mà tƣ duy có khả năng tách rời nhất định
với sự vật và có sự độc lập tƣơng đối với các sự vật, hiện tƣợng. Sự xuất hiện
của các khái niệm, phạm trù đã cho thấy khả năng phản ánh thực tại khách
quan mang tính khái quát cao của tƣ duy con ngƣời. Nhƣ vậy, đặc trƣng khái
quát và gián tiếp của tƣ duy đƣợc biểu hiện ở việc đi từ “một hình thức liên hệ
và phụ thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác sâu sắc hơn, chung hơn”
[31, tr.240], từ sự hiểu biết có tính chất hiện tƣợng đến hiểu biết có tính bản
12
chất; đi từ cái ngẫu nhiên, bên ngoài đến quan hệ có tính tất nhiên, mang tính quy luật.
Thứ ba, tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng tạo.
Nghĩa là tƣ duy phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con ngƣời
không phải một cách thụ động, rập khuôn máy móc mà mang tính tích cực,
sáng tạo. Bởi bản chất của con ngƣời là một thực thể năng động, sáng tạo
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới, xuất phát từ hoạt động thực tiễn nên
tƣ duy của con ngƣời cũng phản ánh thế giới một cách tích cực và sáng tạo.
Tƣ duy thể hiện tính tích cực ở việc vƣợt lên trên nhận thức cảm tính, xây
dựng hệ thống tri thức mới về thế giới khách quan, từ đó phản ánh bản chất
của sự vật. Tính sáng tạo của tƣ duy đƣợc thể hiện ở quá trình tƣ duy khám
phá, sáng tạo ra tri thức. Đó là khả năng xây dựng các khái niệm, phạm trù,
liên kết chúng lại với nhau, hệ thống hóa tri thức, vạch ra các mối quan hệ
giữa chúng và khái quát các quy luật chi phối tự nhiên, xã hội và bản thân.
Năng lực sáng tạo của tƣ duy mỗi ngƣời là hạn chế và phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan, khách quan nhƣng năng lực sáng tạo của tƣ duy nhân loại là vô tận.
Tƣ duy của con ngƣời thuộc phạm trù trí tuệ ngƣời, giúp cho con ngƣời khám
phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật hiện tƣợng để đi sâu
vào bản chất và phát hiện ra quy luật vận động, phát triển của thực tại khách
quan [72, tr.634]. Mặc dù, tƣ duy diễn ra trong đầu óc của con ngƣời nhƣng
có xu hƣớng vƣơn ra đời sống và quay trở về thực tiễn để chỉ đạo hành động
của con ngƣời. Thông qua tƣ duy, con ngƣời có thể xây dựng các giải thuyết
khoa học, lý thuyết trừu tƣợng, các mô hình lý tƣởng cho hiện thực và dự báo
tƣơng lai.
Nhƣ vậy, quá trình hoạt động thực tiễn của con ngƣời chính là nguồn
gốc, động lực chủ yếu của tƣ duy và thực tiễn trở thành tiêu chuẩn cao nhất
của tƣ duy con ngƣời. V.I.Lênin khẳng định “quan điểm về đời sống, về thực
tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” và khái
quát mối quan hệ giữa tƣ duy và thực tiễn là “từ trực quan sinh động đến tƣ
duy trừu tƣợng, từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn đó là con đƣờng biện
13
chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [29,
tr.120]. Tƣ duy xuất phát từ thực tiễn, nó không dừng lại ở trừu tƣợng mà còn
quay trở lại thực tại để kiểm tra các tri thức mới thu đƣợc. Nhờ vậy mà con
ngƣời có thể chứng minh đƣợc tính đúng đắn, chân thực của tƣ duy.
Ngay từ khi xuất hiện tƣ duy đã gắn liền với ngôn ngữ, hay ngôn ngữ
chính là vỏ vật chất của tƣ duy, vì vậy ngôn ngữ và tƣ duy luôn thống nhất
với nhau. Tƣ duy không thể tồn tại nếu thiếu ngôn ngữ hay tách rời ngôn
ngữ, bởi ngôn ngữ chính là phƣơng tiện cho sự tồn tại của tƣ duy. Trong khi
tƣ duy có chức năng khái quát, tổng hợp và sáng tạo thông tin mới thì ngôn
ngữ đóng vai trò là phƣơng tiện đi chuyển tải thông tin, ngôn ngữ mang
chức năng nhận thức.
Tóm lại, tƣ duy có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức thế giới.
Khi tƣ duy của con ngƣời nhận thức về giới tự nhiên, lịch sử, xã hội, hoạt
động tinh thần thì tƣ duy đã mang đến cho chúng ta sự hiểu biết về những mối
liên hệ phong phú, đa dạng, phức tạp; về sự vận động và biến đổi, sự phát
triển và tiêu vong của các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan.
Tƣ duy có nhiều đặc trƣng tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau, dựa trên
mỗi cách tiếp cận khác nhau lại có cách phân loại tƣ duy khác nhau, ở mỗi
cấp độ, loại hình tƣ duy có chức năng, đối tƣợng, phƣơng pháp, vị trí và vai
trò khác nhau. Vì vậy, sự phân chia chúng thành các đặc trƣng riêng chỉ mang
tính tƣơng đối, bởi chúng tồn tại, gắn bó và liên hệ với nhau rất chặt chẽ, làm
giả định và tiền đề cho nhau.
1.1.2. Tư duy lý luận
* Khái niệm tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận là trình độ phát triển cao nhất của tƣ duy, là quá trình
mà tƣ duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng
lý luận thông qua những giả thiết, lý thuyết có mối quan hệ tƣơng hỗ với
nhau. Có nhiều cách hiểu khác nhau về tƣ duy lý luận, nhƣng cho đến nay
14
trong các tài liệu triết học có thể hiểu tƣ duy lý luận qua 3 lát cắt sau:
Một là, tƣ duy lý luận đƣợc hiểu với tƣ cách là một động từ, nó đƣợc
xem nhƣ là qúa trình đang vận động, nắm bắt và tái tạo hiện thực. Đây là một
quá trình kép bao gồm bốn quy trình: quá trình tƣ duy tiếp cận, nắm bắt hiện
thực để thu thập thông tin; quá trình xử lý thông tin để tìm ra mối liên hệ bản
chất và quy luật của sự vật; quá trình liên kết các quy luật để tìm ra mối liên hệ
bản chất; quá trình tƣ duy trở về với hiện thực để chỉ đạo và cải tạo hiện thực.
Hai là, tƣ duy lý luận với tƣ cách là một danh từ, đƣợc hiểu là một kết
quả đã đƣợc hình thành, là sản phẩm của trí tuệ cao và có đƣợc thông qua sự
tích lũy tri thức trong hoạt động hàng ngày của con ngƣời, từ đó tƣ duy lý
luận đƣợc khái quát và hình thành nhờ tƣ duy kinh nghiệm.
Ba là, tƣ duy lý luận đƣợc hiểu với tƣ cách là một tính từ. Ở đây, tƣ
duy lý luận đƣợc hiểu nhƣ là phƣơng pháp, phƣơng thức tƣ duy khi nó phản
ánh và tái tạo hiện thực khách quan. Hiểu tƣ duy lý luận với tƣ cách là một
tính từ, nó đƣợc hiểu thông qua các cặp đối lập: tƣ duy biện chứng đối lập với
tƣ duy siêu hình, tƣ duy lôgic đối lập với tƣ duy phi lôgic, tƣ duy khoa học
đối lập với tƣ duy phi khoa học. Tƣ duy lý luận theo nghĩa này đƣợc hiểu và
đồng nghĩa với tƣ duy biện chứng.
Nhƣ vậy, tư duy lý luận là tư duy lôgic, khoa học và sáng tạo. Tư duy lý
luận thể hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy của chủ thể nhận thức,
vì năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của con người, khiến cho nó thích
hợp với một hoạt động nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử.
* Đặc trưng của tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận là giai đoạn phát triển cao nhất của tƣ duy khoa học. Với
tƣ cách là một nấc thang cao nhất của tƣ duy, tƣ duy lý luận có những đặc
trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, tƣ duy lý luận phản ánh thế giới hiện thực một cách gián tiếp,
có tính khái quát và trừu tƣợng hoá cao. Tƣ duy lý luận là trình độ cao của tƣ
duy, có đặc điểm là phản ánh khái quát và trừu tƣợng cao khách thể hiện
15
thực. Tƣ duy kinh nghiệm có đối tƣợng là những khách thể hiện thực riêng lẻ,
còn tƣ duy lý luận có đối tƣợng là những khách thể trừu tƣợng, khái niệm,
phạm trù, quy luật. Từ những cái trừu tƣợng, tƣ duy lý luận đi vào khái quát
và tổng hợp thành cái cụ thể trong tƣ duy. Kết quả mà tƣ duy lý luận có đƣợc
là sự phản ánh khái quát, trừu tƣợng cao đối với khách thể hiện thực.
Thứ hai, tƣ duy lý luận đƣợc diễn đạt bằng hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật. Tƣ duy lý luận phản ánh bản chất sự vật, hiện tƣợng.
Đồng thời, nó mang tính trừu tƣợng hóa, khái quát hóa cao nên chủ yếu
hƣớng vào việc đi phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra mối liên hệ bên
trong quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tƣợng.
Vì vậy, tƣ duy lý luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy
luật của các sự vật khách quan và có khả năng đƣa ra những dự báo khoa học,
định hƣớng cho hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, tƣ duy lý luận có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn đúng đắn,
phản ánh sự vật, hiện tƣợng trong tính chỉnh thể hệ thống. Thế giới khách quan
tồn tại rất đa dạng, phong phú và nhiệm vụ của tƣ duy lý luận là không chỉ
dừng lại ở việc nhận thức các hiện tƣợng bề ngoài mà còn phải đi sâu vào bản
chất, gạt bỏ những cái ngẫu nhiên, bề ngoài để tìm ra cái tất yếu, quy luật.
Thứ tƣ, tƣ duy lý luận có khả năng đƣa ra các dự báo khoa học nhằm
điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong hoạt động thực tiễn. Tƣ duy lý luận
cũng nhƣ tƣ duy nói chung đều có tính năng động, sáng tạo. Tính năng động
sáng tạo của tƣ duy lý luận không chỉ thể hiện trong hiện thực mà còn trên cơ
sở của những tri thức đã có. Từ đó, tƣ duy lý luận có khả năng tạo ra những
mối liên hệ giữa các tri thức, đồng thời sáng tạo ra những tri thức mới, dự báo
xu hƣớng phát triển của các sự vật hiện tƣợng. Tƣ duy kinh nghiệm mới chỉ
dừng lại ở sự phản ánh các sự vật hiện tƣợng đã và đang diễn ra thông qua
các số liệu thu đƣợc trong hoạt động thực tiễn. Còn tƣ duy lý luận trên cơ sở
phản ánh chính xác quá khứ, hiện tại và với tất cả các điều kiện đã biết thì nó
thực hiện các thao tác theo quy luật của tƣ duy nhƣ: phán đoán, chứng minh,
16
suy luận… rồi đƣa ra những kết luận mới, tri thức mới, những tiên đoán và
dự báo khoa học. Nhờ có tƣ duy lý luận mà con ngƣời có khả năng phản ánh
và dự báo đúng xu hƣớng vận động của hiện thực khách quan trong một thời
gian dài. Tƣ duy lý luận có chức năng dự báo và định hƣớng cho hoạt động
thực tiễn.
Tƣ duy lý luận với tƣ cách là mức độ cao nhất của tƣ duy đóng vai trò là
thế giới quan, nhân sinh quan, phƣơng pháp luận chung nhất cho mọi loại
hình tƣ duy.
ản chất và cấu trúc của tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận về bản chất là biện chứng, là trình độ phát triển cao nhất
của tƣ duy khoa học mà nhân loại đạt đến, vì ở trong nó đã bao hàm hai yếu
tố cơ bản nhất của khoa học hiện đại đó là tƣ duy biện chứng và duy vật. “Tƣ
duy lý luận chân chính, khoa học, hiện đại đó là tƣ duy lý luận mácxít. Về
thực chất tƣ duy lý luận mácxít là tƣ duy biện chứng duy vật - một loại hình
tƣ duy đƣợc hình thành trên cơ sở tổng kết những tri thức tinh túy nhất của
khoa học. Nó là sản phẩm của sự kết tinh tƣ duy nhân loại và bao chứa trong
đó hai thành tố, hai hạt nhân cơ bản và hợp lý của khoa học hiện đại là: duy
vật và biện chứng” [23, tr.23-24]. Trong đó, yếu tố biện chứng làm cho tƣ
duy thấy đƣợc mối liên hệ, quan hệ qua lại bên trong của sự vật và hiện tƣợng
cũng nhƣ mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật hiện tƣợng. Còn yếu tố duy
vật giúp cho nhận thức con ngƣời nắm bắt đƣợc thực chất của sự vật, căn
nguyên của sự vật, các quy luật của sự vật.
Tƣ duy lý luận là quá trình sáng tạo. Tính sáng tạo của tƣ duy lý luận
đƣợc thể hiện ở chỗ nó đem lại những tri thức mới về bản chất, cái bên trong,
những quy luật của hiện thực khách quan dƣới dạng lý luận theo hƣớng khái
quát hóa, trừu tƣợng hóa cao hơn nên nó đem lại nhận thức sâu sắc, đầy đủ,
hệ thống chỉnh thể hơn về bản chất và những tính quy luật vốn có của hiện
thực khách quan. Do vậy, tƣ duy lý luận giúp cho con ngƣời nhận thức đúng
17
đắn về sự vật và đƣa ra những biện pháp tác động phù hợp vào chúng. Nhờ
quá trình sáng tạo tƣ duy lý luận luôn vƣơn tới cái mới và nhận thức ngày
càng đầy đủ, đúng đắn về thế giới khách quan.
Tƣ duy lý luận là trình độ cao nhất của tƣ duy, nó chính là quá trình tiếp
cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ
thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Với tƣ cách là hình thức cao nhất
của tƣ duy, tƣ duy lý luận nắm bắt, tái tạo hiện thực khách quan không phải
bằng những khái niệm thông thƣờng mà bằng những khái niệm lý luận.
Thông qua những khái niệm này giúp cho tƣ duy con ngƣời có thể đi sâu vào
bản chất của sự vật, tìm ra những quy luật của sự vật hiện tƣợng.
Chính vì vậy, thông qua những giả thuyết và lý thuyết với tƣ cách là
công cụ chủ yếu trong tƣ duy lý luận, tƣ duy lý luận đã góp nhần nâng nhận
thức của con ngƣời lên một trình độ mới về chất, để không chỉ nhận thức
đƣợc thực chất của những sự vật hiện tƣợng đã, đang tồn tại mà còn đƣa ra
những tiên đoán khoa học về sự vật, hiện tƣợng. Đây là sức mạnh của tƣ duy
lý luận, là sự sáng tạo lại hiện thực khách quan theo hƣớng khái quát hóa,
trừu tƣợng hóa cao hơn nên nó đem lại nhận thức sâu sắc, đầy đủ, hệ thống –
chỉnh thể hơn về bản chất và những tính quy luật vốn có của hiện thực khách
quan. Tƣ duy lý luận đặc biệt coi trọng tính khoa học và sử dụng những tri
thức lý luận đạt đƣợc nhƣ là công cụ, phƣơng pháp khoa học để phát hiện
những mâu thuẫn, những vấn đề mới nảy sinh, đồng thời đƣa ra những giải
pháp mới để giải quyết, đây là điều mà tuy duy thông thƣờng không có đƣợc.
Hạt nhân của tƣ duy lý luận là tƣ duy triết học. Xét theo lôgic nội tại của
tƣ duy lý luận có hai cấp độ lớn là: tƣ duy của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ
duy của các khoa học cụ thể, trong đó tƣ duy của chủ nghĩa Mác - Lênin làm
cơ sở còn Triết học làm hạt nhân. Nhƣng thực ra ngay trong cơ sở của tƣ duy
lý luận cũng lại có hai cấp độ là: tƣ duy triết học và tƣ duy của các bộ môn
còn lại hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây tƣ duy lý luận cũng vẫn giữ
vai trò là nền tảng, cơ sở và hạt nhân. Nhƣ vậy, về thực chất tƣ duy lý luận có
18
ba cấp độ lớn đó là: tƣ duy Triết học, tƣ duy của các bộ môn còn lại hợp thành
chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ duy khoa học cụ thể. Trong cấu trúc phân tầng
của tƣ duy lý luận, tƣ duy triết học vừa là cơ sở, vừa là hạt nhân. Tƣ duy Triết
học cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong tƣ duy lý luận chủ yếu là do
những đặc trƣng của tƣ duy Triết học quy định. Cấu trúc của triết học Mác -
Lênin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và sự thống nhất gắn bó không tách
rời là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong thành phần của triết học Mác - Lênin
còn có những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên, tâm lý học, lôgic học,
đạo đức học, mỹ học, chủ nghĩa vô thần khoa học và lịch sử triết học. Vì vậy,
nó không chỉ là lý luận của biện chứng khách quan và lôgic của nhận thức
khoa học, mà còn là lý luận của học thuyết xã hội học, của học thuyết đạo đức
học và mỹ học. Phƣơng pháp tƣ duy triết học là tƣ duy lý luận, loại tƣ duy
dựa vào việc tổng kết kinh nghiệm của nhân loại, thành quả của khoa học và
của văn hóa nói chung.
Triết học ở bất cứ thời đại nào cũng đều là kết tinh của tri thức nhân loại.
Tƣ duy triết học bao chứa trong nó những yếu tố cơ bản nhƣ: tính trừu tƣợng
- khái quát, tính chỉnh thể - bao quát, tính phê phán. Chính những đặc trƣng
này đã giúp cho tƣ duy triết học đóng vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan,
phƣơng pháp luận chung nhất cho mọi lĩnh vực của tƣ duy và sử dụng nó một
cách đúng đắn và sáng tạo trong các vấn đề mà hoạt động thực tiễn đã và
đang đặt ra. Mặt khác, những đặc trƣng này còn làm cho tƣ duy triết học có
đƣợc không chỉ là ở sự thuyết minh, chứng minh mà còn ở sự phát minh. Vì
vậy, tƣ duy triết học có thể đóng đƣợc vai trò và thực hiện đƣợc sứ mệnh là
nhân tố vừa là cơ sở vừa là hạt nhân trong tƣ duy lý luận.
Tóm lại, tƣ duy lý luận là cấp độ tƣ duy ở trình độ phản ánh các sự vật
hiện tƣợng một cách khái quát, trừu tƣợng cao, đầy đủ về mối liên hệ bản
chất, tính tất yếu, quy luật của sự vật, hiện tƣợng. Vì vậy, tƣ duy lý luận đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực
tiễn. Tƣ duy lý luận còn có khả năng đƣa ra các dự báo khoa học về xu hƣớng
19
vận động và phát triển của hiện thực khách quan. Tƣ duy lý luận là đỉnh cao
của tƣ duy con ngƣời và ngày càng đƣợc phát triển trong thời đại ngày nay,
khi mà xã hội loài ngƣời đang bƣớc vào nền văn minh tri thức, tri thức khoa
học đang thâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội trở thành lực lƣợng sản
xuất trực tiếp thì tƣ duy lý luận có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự
phát triển. Chính vì vậy, việc chú trọng phát triển tƣ duy lý luận, phát huy sức
mạnh và vai trò của nó là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, đặc
biệt là trong bối cảnh xây dựng nƣớc ta hiện nay.
1.2. Tƣ duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay
1.2.1. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm cán bộ lãnh đạo
Theo từ điển Tiếng Việt: “Cán bộ” là chỉ những ngƣời làm các công tác
nghiệp vụ, chuyên môn trong các cơ quan Nhà nƣớc, những ngƣời có chức vụ
trong một cơ quan, tổ chức để phân biệt với những ngƣời không có chức vụ.
Theo cách hiểu thông thƣờng: “Cán bộ” đƣợc hiểu là những ngƣời làm
việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, các đoàn thể và lực lƣợng vũ trang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là những ngƣời đem chính
sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của nhân dân báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu
rõ để đặt chính sách cho đúng” [15, tr.269].
Lãnh đạo đƣợc hiểu là hoạt động của ngƣời có khả năng tạo ra tầm nhìn
cho một tổ chức hay một nhóm, đồng thời biết sử dụng quyền lực của mình để
gây ảnh hƣởng cho những ngƣời đi theo thực hiện tầm nhìn đó.
Nhƣ vậy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cán bộ nhƣng về cơ bản
thì cán bộ là khái niệm dùng để chỉ những ngƣời có chức vụ, vai trò, cƣơng vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hƣởng đến hoạt động của tổ chức
và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp phần định
20
hƣớng sự phát triển của tổ chức.
Cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, đơn
vị nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đề ra
những phương hướng, chủ trương, quyết định liên quan tới những đơn vị,
phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ chức
phong trào theo một hướng đi cụ thể. Họ là người điều hành, chỉ đạo thông
qua các quết định, chính họ cũng là người điều chỉnh những quyết định sao
cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
- Hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay ở nƣớc ta đƣợc tổ chức thành
bốn cấp:
+ Cấp Trung ƣơng
+ Cấp Tỉnh (Thành phố và trực thuộc Trung ƣơng),
+ Cấp Huyện (Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh)
+ Cấp Cơ sở (Xã, Phƣờng, Thị Trấn).
Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Cấp cơ sở (xã, phƣờng, thị trấn): là cấp nhỏ nhất trong hệ thống 4 cấp
nhƣng lại là cấp rộng rãi nhất, đông đảo nhất. Cơ sở là nơi chấp hành, là nơi
giao tiếp trực tiếp của toàn bộ hệ thống chính trị với dân, là nơi mọi đƣờng
lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nƣớc đƣợc triển
khai thực hiện và đây cũng là nơi trực tiếp nắm bắt đƣợc sự phản hồi những ý
kiến, kiến nghị, tâm tƣ nguyện vọng và đề xuất của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nƣớc.
Cán bộ cấp cơ sở là cán bộ có chức năng và nhiệm vụ tổ chức, thực
hiện các đường lối, chính sách, phương hướng, kế hoạch của cấp Trung
ương và cấp quản lý trực tiếp cho phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể
của địa phương.
Theo Điều 118, Hiến Pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, cấp cơ sở bao
gồm: Xã, Phƣờng, Thị Trấn. Đây là nơi nhân dân sinh sống, cƣ trú, gắn bó
21
chặt chẽ với các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong tục, tập
quán, ngành nghề và những sinh hoạt chung khác. Cấp cơ sở có vị trí rất quan
trọng, là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nƣớc với nhân
dân; là nơi cụ thể hóa các nghị quyết, nghị định, hƣớng dẫn của cấp tỉnh và
cấp huyện, đi sâu, đi sát với địa phƣơng và quản lý địa phƣơng về mọi mặt.
Đồng thời, cấp cơ sở còn là nơi có nhiều tiềm năng lớn về kinh tế ở cả trong
lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, góp phần to lớn thúc đẩy sự phát triển
của đất nƣớc nói chung.
Theo khoản 3, Điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008, cán bộ cấp cơ
sở là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
thƣờng trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thƣ, Phó bí thƣ Đảng
ủy, ngƣời đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã trong biên chế và đƣợc
hƣởng lƣơng từ ngân sách của nhà nƣớc. Cán bộ cấp cơ sở bao gồm các chức
vụ: Bí thƣ, Phó bí thƣ Đảng ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân; Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch hội
nông dân Việt Nam; Chủ tịch hội cựu chiến binh Việt Nam; Bí thƣ Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Trong khuôn khổ của luận văn chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở: Bí thƣ, Phó bí thƣ Đảng ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Với những chức danh này, đội ngũ cán bộ có vai
trò quan trọng và là lực lƣợng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị
cấp cơ sở.
Nhƣ vậy, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là những ngƣời đứng đầu các tổ
chức chính trị, xã hội, các phòng ban của cấp cơ sở; là những ngƣời lãnh đạo,
quản lý, triển khai, tổ chức thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc; đồng thời cũng là ngƣời phát hiện, khái quát những sáng tạo, những
nhân tố mới từ cơ sở, góp phần hoàn thiện đƣờng lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nƣớc. Vì vậy, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần phải có trình
độ và năng lực tƣ duy lý luận nhất định mới có thể hoàn thành tốt chức năng,
22
nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Chức năng cơ bản của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Hệ thống chính trị ở nƣớc ta đƣợc tổ chức phân thành bốn cấp: Trung
ƣơng; tỉnh; thành phố; quận, huyện và cơ sở (xã, phƣờng, thị trấn). Trong đó,
cấp cơ sở là cấp quản lý hành chính nhỏ nhất nhƣng lại là cầu nối sâu sát nhất
các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đi vào đời sống
và trở thành phong trào của nhân dân. Do vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn đề
cao việc quan tâm, xây dựng bộ máy chính trị cấp cơ sở. Đồng thời, đƣa ra
các Nghị quyết để củng cố, kiện toàn, phát triển toàn diện cấp cơ sở nhƣ ở
Nghị quyết Trung ƣơng V khóa IX nhấn mạnh: “Đổi mới và nâng cao chất
lƣợng hệ thống chính trị ở cấp cơ sở xã, phƣờng, thị trấn, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nƣớc” [3, tr.165].
Cán bộ cấp cơ sở cũng xác định đƣợc vai trò quan trọng của mình trong
hệ thống chính trị nƣớc ta. Họ là những ngƣời đại diện cho nhân dân trong
công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nƣớc ở địa phƣơng, đồng thời là đội ngũ trực
tiếp điều hành, tổ chức, cụ thể hóa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây
dựng và phát triển của đất nƣớc hiện nay. Nhƣ vậy, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong đội ngũ cán bộ của hệ
thống chính trị nƣớc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những ngƣời đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [15, tr.269]. Qua lời khẳng định của chủ
tịch Hồ Chí Minh, cho thấy rõ hơn đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, hay
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng thực sự là chiếc cầu nối giữa Đảng và
Nhà nƣớc với nhân dân. Cán bộ cấp cơ sở là những ngƣời trực tiếp đi sâu,
đi sát với dân, cùng chung sống hàng ngày với ngƣời dân, hiểu rõ những
phong tục tập quán của địa phƣơng để có thể giải quyết những vấn đề phức
23
tạp của dân một cách có hiệu quả. Cán bộ cấp cơ sở trực tiếp thực hiện,
triển khai các quy định của Nhà nƣớc, trực tiếp giải quyết những yêu cầu,
các ý kiến, kiến nghị của nhân dân. Từ đó, họ có thể tập hợp đầy đủ và
phản ánh một cách trung thực những ý kiến, nguyện vọng của ngƣời dân
lên các cơ quan cấp trên, đồng thời đề xuất những giải pháp trong việc giải
quyết các vƣớng mắc và yêu cầu của nhân dân. Để làm đƣợc điều này, đòi
hỏi đội ngũ cán bộ này phải lấy dân làm gốc, thực sự vì dân, nhƣng vẫn
phải dựa trên đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nƣớc đã đề ra.
Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở không chỉ là cầu nối giữa các đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc với nhân dân mà còn trực tiếp triển
khai, tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nƣớc và giải quyết các yêu cầu
của dân. Sau quá trình tích lũy, rèn luyện tại địa phƣơng họ chính là những dự
nguồn quan trọng cung cấp cho cán bộ lãnh đạo cấp huyện. Cấp cơ sở là môi
trƣờng thực nghiệm quan trọng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ trƣởng
thành. Nhƣ vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở chính là lực lƣợng giữ vai
trò nòng cốt trong việc điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức ở cấp cơ sở,
vừa thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, vừa vừa đảm bảo quyền lực của chính
quyền và quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua những chức năng cơ bản của cán bộ cấp cơ sở đã cho
thấy rõ hơn những đặc trƣng của bộ máy chính quyền cấp cơ sở và vai trò
quan trọng của đội ngũ này trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nƣớc
hiện nay. Chính vì vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải
luôn tích cực, chủ động và sáng tạo trong tổ chức, điều hành các hoạt
động tại địa phƣơng.
1.2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
* Quan niệm về phát triển
Phát triển là một thuật ngữ đƣợc sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống
24
và trong nghiên cứu khoa học. Theo từ điển tiếng Việt, phát triển là: “Biến đổi
hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản
đến phức tạp” [73, tr.769]. Triết học lại khẳng định: “Phát triển là một phạm
trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tƣợng
theo chiều hƣớng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật” [10, tr.187-188]. Xã hội học quan niệm phát
triển là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân tộc trong đó
các chủ thể lãnh đạo và quản lý, bằng các chiến lƣợc và chính sách thích hợp
với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và
cộng đồng dân tộc mình, tạo ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên
và con ngƣời nhằm đạt đƣợc những thành quả bền vững và đƣợc phân phối
công bằng cho các thành viên trong xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao
chất lƣợng cuộc sống của họ.
Nhìn chung, các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ phát triển bao giờ
cũng gắn với con ngƣời và các hoạt động của con ngƣời; với các sự vật, hiện
tƣợng theo chiều hƣớng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chƣa
hoàn thiện đến hoàn thiện; vận động theo khuynh hƣớng tiến lên, có sự kế
thừa của cái cũ; kết quả của quá trình phát triển là cái mới ra đời thay thế cái
cũ; trong đó phát triển mang ba tính chất cơ bản là tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng phong phú. Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách
quan vì nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, nó là quá
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của các sự vật, hiện tƣợng. Chính vì vậy mà sự vật luôn có sự phát triển
và sự phát triển đó là một tiến trình khách quan. Phát triển mang tính phổ biến
đƣợc hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực trong tự nhiên, xã hội, tƣ duy và các sự
vật hiện tƣợng của thế giới khách quan. Trong các khái niệm, phạm trù phản
ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, trên cơ sở của
sự phát triển các hình thức của tƣ duy, các khái niệm, phạm trù mới phản ánh
đúng hiện thực đang vận động và phát triển. Phát triển còn là một khuynh
25
hƣớng chung của mọi sự vật, hiện tƣợng, nhƣng ở mỗi sự vật hiện tƣợng lại
diễn ra quá trình phát triển khác nhau. Trong quá trình phát triển các sự vật,
hiện tƣợng còn chịu tác động của các yếu tố, các sự vật và hiện tƣợng khác,
chính sự tác động này sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật.
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật phải đặt nó trong quá trình
phát triển, tìm ra xu hƣớng vận động biến đổi chuyển hoá của nó, thấy đƣợc
sự nảy sinh tất yếu của cái mới thay thế cái cũ. Với tƣ cách là một trong
những nguyên tắc phƣơng pháp luận, quan điểm phát triển góp phần vào việc
định hƣớng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Quan niệm về phát triển tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận là hình thức tƣ duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ
khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, hƣớng tới phân tích, tổng hợp, khái
quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan; từ đó đƣa ra định
hƣớng và hƣớng dẫn hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con ngƣời
ngày càng mang lại những kết quả cao.
Phát triển tƣ duy lý luận ở đây đƣợc hiểu là quá trình biến đổi nhận
thức theo khuynh hƣớng nhất định, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chƣa hoàn thiện đến hoàn thiện, góp phần định hƣớng cho hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con ngƣời ngày càng có hiệu quả hơn. Trong đó phát
triển tƣ duy lý luận có những đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, phát triển tƣ duy lý luận phụ thuộc vào chủ thể tƣ duy, đó là
quá trình nâng cao những yếu tố về trí tuệ, tri thức khoa học, kinh nghiệm
thực tiễn, khả năng sáng tạo và vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, phát triển tƣ duy lý luận là sự phát triển tƣ duy khoa học, khả
năng sử dụng các nội dung, phƣơng pháp, thao tác tƣ duy khoa học nhằm đáp ứng
đƣợc những yêu cầu về nhận thức ở trình độ lý luận và sáng tạo ra tri trức mới.
Thứ ba, phát triển tƣ duy lý luận là phát triển khả năng, cách thức vận
dụng những tri thức lý luận vào trong hoạt động thực tiễn nhằm mang lại hiểu
26
quả cao hơn, đồng thời có khả năng đƣa ra các dự báo khoa học.
Nhƣ vậy, có thể hiểu phát triển tƣ duy lý luận là: quá trình nâng cao các
yếu tố của chủ thể nhƣ về trí tuệ, tri thức, kinh nghiệm, khả năng sáng tạo…
cùng với khả năng sử dụng các phƣơng pháp tƣ duy khoa học nhằm đáp ứng
đƣợc những yêu cầu của nhận thức ở trình độ lý luận, từ đó vận dụng các tri
thức lý luận vào trong hoạt động thực tiễn của mình nhằm mang lại hiệu quả
cao. Phát triển tƣ duy lý luận là sự phát triển cao của năng lực tƣ duy, có vai
trò quan trọng trong quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn. Tùy thuộc vào
các cấp độ, phạm vi, đối tƣợng khác nhau mà quá trình phát triển tƣ duy luận
đƣợc biểu hiện cụ thể. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung vào
nghiên cứu việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quan niệm phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt
Nam hiện nay có thể quan niệm là: Quá trình tác động biện chứng,hợp quy
luật của các điều kiện khách quan và chủ quan làm cho các yếu tố như tư
chất trí tuệ, tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn, năng lực sáng tạo và
phương pháp tư duy khoa học của đội ngũ này được hoàn thiện. Nhờ đó trình
độ tư duy của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở biến đổi từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, nhằm đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ của nguời quản lý, tổ
chức, điều hành các hoạt động ở cấp cơ sở trong thời kỳ mới.
Phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện
nay là tập trung đi vào phát triển tƣ duy về lý luận, làm cho tƣ duy lý luận của
đội ngũ cán bộ này có sự biến đổi và từng bƣớc trƣởng thành từ thấp đến cao,
từ chƣa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với những điều kiện khách quan
và chủ quan của đất nƣớc ta trong thời kỳ mới, dựa trên cơ sở của những
đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Qua
đó, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt đối với đội ngũ cán bộ
27
lãnh đạo cấp cơ sở và những yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong thời kỳ đổi
mới của đất nƣớc. Đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp giữ nhiệm vụ
quản lý các hoạt động ở cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt
Nam hiện nay là một quá trình tác động biện chứng, hợp với quy luật của các
điều kiện khách quan và chủ quan, các yếu tố tích cực và hạn chế. Đồng thời,
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũcán bộ lãnh đạo này chính là quá trình tác
động vào trình độ tƣ duy lý luận của họ, làm cho tƣ duy lý luận của họ có sự
biến đổi theo chiều hƣớng tích cực, từ thấp đến cao, từ chƣa hoàn thiện đến
hoàn thiện và từng bƣớc trƣởng thành trong công tác quản lý, tổ chức các hoạt
động ở cơ sở.
Mục đích của sự phát triển là nhằm bồi đắp, bổ sung những tri thức,
kinh nghiệm, phƣơng pháp tƣ duy khoa học làm chuyển hóa năng lực tƣ duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lên một tầm cao mới, đáp ứng
yêu cầu và nhiệm vụ của ngƣời cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở hiện nay. Sự tác
động vào trình độ tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ này làm cho khả năng tƣ
duy lý luận của họ có sự phát triển theo hƣớng từ thấp đến cao, chƣa hoàn
thiện đến hoàn thiện, nhằm phù hợp với những yêu cầu đối với ngƣời cán bộ
lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng. Đồng thời, phải
phù hợp với những mục tiêu, nhiệm vụ, chủ trƣơng, đƣờng lối mà Đảng và
Nhà nƣớc đề ra. Góp phần đáp ứng những yêu cầu cụ thể đối với đội ngũ cán
bộ lãnh đạo trong công tác của họ ở cấp cơ sở.
Nội dung phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở:
Thứ nhất, phát triển các yếu tố của tƣ duy lý luận là tri thức khoa học.
Trong đó, bao gồm tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn,
kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, nhiệm vụ và yêu cầu của cán bộ cấp cơ
sở, cập nhật các tri thức mới, các thông tin kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
an ninh quốc phòng, đối ngoại...
Thứ hai, phát triển tƣ duy lý luận thông qua việc nâng cao khả năng vận
28
dụng những tri thức lý luận vào trong công tác lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở cấp cơ sở. Cụ thể là khả năng vận dụng các tri thức khoa học vào
trong công tác quản lý; khả năng vận dụng các phƣơng pháp, kỹ năng trong
các công tác và phong trào thực tiễn của cơ sở; nâng cao chất lƣợng các hoạt
động, đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống nảy sinh ; phát
triển năng lực vận dụng tri thức lý luận vào hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Về
kinh nghiệm thực tiễn bao gồm: kinh nghiệm thực tiễn trong các phong trào,
hoạt động cụ thể ở cấp cơ sở, kinh nghiệm trong công tác quản lý, tổng kết
kinh nghiệm, kinh nghiệm sống của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở... Đặc
biệt, chú trọng đến việc đổi mới các hình thức tổ chức, quản lý trong hoạt
động thực tiễn ở cơ sở của đội ngũ cán bộ này; phải gắn lý luận với thức tiễn,
vận dụng một cách sáng tạo vào trong việc phát triển lý luận, triển khai đƣờng
lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ ba, rèn phong cách lãnh đạo quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở; kỹ năng của ngƣời cán bộ, các kỹ năng mềm (thuyết phục, thuyết
trình...) cần thiết cho mỗi vị trí lãnh đạo cụ thể ở địa phƣơng. Đồng thời, rèn
luyện phƣơng pháp tƣ duy khoa học cho đội ngũ cán bộ này thể hiện ở việc:
phát triển khả năng sử dụng nguyên tắc phƣơng pháp luận biện chứng duy vật
và phƣơng pháp tƣ duy lôgic của họ vào việc xác định lập trƣờng tiếp cận,
cách thức, biện pháp sử dụng các hình thức, thao tác tƣ duy lôgic chặt chẽ vào
quá trình phản ánh ngày càng sâu sắc hơn, chính xác về đối tƣợng, góp phần
tái tạo tri thức mới và vận dụng hiệu quả các tri thức vào hoạt động quản lý ở
cấp cơ sở.
Thứ tƣ, thay đổi các nội dung, hình thức, phƣơng pháp tƣ duy khoa học
đang trực tiếp hay gián tiếp tác động đến sự phát triển tƣ duy lý luận cho cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đổi mới các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tạo
tiền đề cho những buớc phát triển về đời sống vật chất, văn hoá - xã hội, góp
phần nâng cao trình độ tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở
29
nƣớc ta hiện nay.
Điều kiện của sự phát triển là dựa trên: sự quan tâm, tạo điều kiện ngay
từ các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, chú trọng đến việc phát triển tƣ duy lý luận
cho họ, tạo mọi điều kiện thuận lợi và môi trƣờng để họ có cơ hội học tập, rèn
luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong lãnh đạo. Ngoài ra,
cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phƣơng,
đặc biệt là những vùng còn gặp nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, nâng cao
chất lƣợng cuộc sống, trình độ dân trí cho ngƣời dân và chú trọng đến công
tác thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tại cơ sở.
Đối tƣợng phát triển tƣ duy lý luận ở đây là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở (bao gồm các chức vụ): Bí thƣ, Phó bí thƣ Đảng ủy; Chủ tịch, Phó chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc
Việt Nam; Chủ tịch hội nông dân Việt Nam; Chủ tịch hội cựu chiến binh Việt
Nam; Bí thƣ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ.
Phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay đƣợc thể hiện trƣớc hết là ở khả năng nắm bắt bản chất chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nƣớc… trong quan hệ với nhiệm vụ của ngƣời cán bộ
lãnh đạo; ở khả năng nắm bắt vấn đề thực tiễn trên địa bàn mình phụ trách và
đề ra phƣơng hƣớng tối ƣu để giải quyết vấn đề đó. Nhƣ vậy, để phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đƣợc thể hiện ở: khả năng
thu nhận tri thức, năng lực tìm ra mối quan hệ và khái quát hóa tri thức, năng
lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, năng lực phát triển tri thức. Phát triển tƣ
duy lý luận phụ thuộc vào chủ thể tƣ duy, đó là quá trình nâng cao những yếu
tố về trí tuệ, tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn, khả năng sáng tạo và
vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, khả năng sử dụng các nội dung,
phƣơng pháp, thao tác tƣ duy khoa học nhằm đáp ứng đƣợc những yêu cầu về
30
nhận thức ở trình độ lý luận nhằm mang lại hiểu quả cao hơn.
Tóm lại, thực chất phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở là quá trình tác động biện chứng, hợp quy luật của những điều kiện
khách quan và chủ quan để tạo ra sự chuyển biến về chất các yếu tố tri thức
khoa học, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ lý luận, kỹ năng sử dụng phƣơng
pháp tƣ duy khoa học của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Giúp họ có khả
năng nhận thức ở trình độ lý luận và vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn
công tác, thực hiện các nhiệm vụ ở cơ sở đạt hiệu quả, đáp ứng những yêu cầu
và nhiệm vụ của ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
* Đặc điểm của việc phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Trải qua 30 năm đổi mới, xây dựng và phát triển đất nƣớc những thành
quả đạt đƣợc đã chứng minh tính đúng đắn trong đƣờng lối của Đảng. Những
thành quả đạt đƣợc là nhờ sự vận dụng một cách sáng tạo, khoa học chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những thành tựu về khoa học kỹ thuật
đi trƣớc của nhân loại đã giúp cho chúng ta có điều kiện thuận lợi, đƣa đất
nƣớc tiến lên từng bƣớc vững chắc và đi vào thế ổn định. Tuy nhiên, những
thành quả đạt đƣợc đó mới chỉ là bƣớc đầu, sự nghiệp đổi mới đất nƣớc còn
gặp nhiều khó khăn, thách thức, cùng các tác động phức tạp từ trong và ngoài
nƣớc. Đặc biệt, nƣớc ta đang trong giai đoạn phục hồi sau thời kỳ khủng
hoảng kinh tế, khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
đạo đức, lối sống, tƣ tƣởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và tiếp tục kiên
cƣờng chống lại các âm mƣu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế
lực chống phá trong và ngoài nƣớc nhằm lật đổ nền chính trị của nƣớc ta.
Trƣớc những thành quả đạt đƣợc và những khó khăn, thách thức trong
bối cảnh hiện tại của đất nƣớc, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã đƣa ra những mục tiêu tổng quát sau: „„Phấn đấu đến năm 2020 nƣớc
ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại; chính trị - xã hội
31
ổn định, dân chủ, kỷ cƣơng, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ đƣợc giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế tiếp tục đƣợc
nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau“ [5,
tr.31]. Nhƣ vậy, để thực hiện đƣợc những mục tiêu mà Đại hội XI của Đảng
đề ra đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ cở
nói riêng không chỉ có trình độ hiểu biết về mọi mặt mà còn cần có tƣ duy
nhạy bén, tích cực, sáng tạo, đặc biệt là trong công tác tổ chức, điều hành và
quản lý của mình. Để làm đƣợc điều này, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần đƣợc
quan tâm đào tạo, bồi dƣỡng để nâng cao về trình độ, phát triển tƣ duy lý luận
để có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nƣớc giao phó. Nhƣ
vậy, tƣ duy lý luận có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay ở nƣớc ta.
Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành chính quốc gia ở
nƣớc ta. Cấp cơ sở là tế bào của xã hội, sự phát triển của toàn bộ xã hội là do
sự phát triển của các đơn vị cấp cơ sở hợp thành. Trong đó, sự phát triển của
cấp cơ sở và toàn xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi cấp cơ sở còn
yếu kém thì chƣa thể nói đến sự vững mạnh của xã hội, ngƣợc lại sự phát
triển của xã hội sẽ tạo điều kiện đảm bảo cho các cơ sở phấn đấu. Do vị trí của
mình nên cấp cơ sở có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nƣớc ta.
Việt Nam có diện tích khoảng trên 330.900km2, nhƣng dân số trên 88
triệu ngƣời, 64 tỉnh thành và 54 dân tộc khác nhau, đã tạo nên một nền văn
hóa phong phú, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Với nhiều vùng
miền khác nhau nhƣ: đồng bằng, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên cƣơng,…
gây khó khăn cho công tác quản lý ở từng địa phƣơng. Hơn nữa, nƣớc ta là
một nƣớc nông nghiệp quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ Tƣ bản
chủ nghĩa, với hơn 70% dân số sống và lao động ở nông thôn. Vì vậy, việc
phát huy vai trò của cấp cơ sở là tất yếu khách quan trong quá trình đi lên Chủ
32
nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Trong đó, việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở phụ thuộc vào công tác lãnh đạo, kinh nghiệm trong công tác và tổng kết
thực tiễn của đội ngũ cán bộ này. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có thế
mạnh về kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, vì đa số họ là những ngƣời
có quá trình công tác và trƣởng thành từ hoạt động thực tiễn tại địa phƣơng.
Bởi vậy, đội ngũ này có điều kiện gần gũi với nhân dân, với phong trào quần
chúng, hiểu rõ đặc điểm thực tế của địa bàn và các công tác mình phụ trách.
Xuất phát từ thực tiễn công tác ở cơ sở đã giúp đội ngũ cán bộ này có điều
kiện tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm trong quá trình hoạt động phong phú,
đồng thời tạo khả năng phát hiện vấn đề và đƣa ra cách giải quyết các vấn đề,
rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống nhanh và chính xác. Nhƣ vậy, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở có khả năng vận dụng những kinh nghiệm đã đƣợc họ
rút ra trong chính quá trình công tác của mình và các cán bộ tiền nhiệm giàu
kinh nghiệm. Thông qua đó, phản ánh trình độ và năng lực tƣ duy kinh
nghiệm của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nó có vai trò quan trọng trong hoạt
động lãnh đạo và góp phần phát triển trình độ tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ này. Những kinh nghiệm trong quá trình công tác và tổng kết thực tiễn là
một đặc điểm quan trọng giúp cho quá trình công tác của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở đạt hiệu quả cao và có những chủ trƣơng, giải pháp phù hợp với
thực tiễn ở mỗi địa phƣơng.
Thứ hai, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở còn phụ thuộc vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, an chấp hành Trung ương Đảng về công tác lãnh đạo
cấp cơ sở. Phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
giúp đội ngũ này có khả năng triển khai, vận dụng các chủ trƣơng, đƣờng lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc một cách sáng tạo vào hoàn
33
cảnh cụ thể ở cơ sở, từ đó xây dựng đƣợc các chủ trƣơng, phƣơng hƣớng,
chƣơng trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện ở mỗi địa phƣơng. Xuất phát từ
thực tế ở địa phƣơng, từ những đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng
để xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ, chƣơng trình và các giải pháp phù hợp.
Vì vậy, yêu cầu đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần phải nhận thức đúng
đắn và vận dụng một cách sáng tạo lý luận vào thực tiễn ở cơ sở. Trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nƣớc ta hiện nay, việc phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là yêu cầu cần thiết hơn bao giờ
hết, có tác dụng thúc đẩy, nâng cao năng lực tƣ duy, năng lực quyết đoán,
nhận định đúng đắn tình hình và khả năng nhạy bén, dám nghĩ dám làm.
Thứ ba, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở còn phụ thuộc vào trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng
hoá của đội ngũ cán bộ này. Trong mọi thời kỳ, việc thƣờng xuyên học tập để
nâng cao trình độ tri thức, trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là
nhiệm vụ quan trọng đối với mọi cán bộ nói chung. Nhiệm vụ này đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở càng cần thiết hơn. Đặc biệt, với vai trò và
nhiệm vụ tại cơ sở đòi hỏi đội ngũ cán bộ này cần phải có trình độ tri thức,
trình độ tƣ duy lý luận nhất định để không chỉ góp phần định hƣớng cho hoạt
động quản lý của họ mà thông qua đó có ý nghĩa định hƣớng và giải quyết các
hoạt động tại cơ sở. Khi có trình độ tƣ duy lý luận nhất định, đội ngũ cán bộ
này mới đạt đƣợc trình độ tri thức khách quan, khoa học và toàn diện, trên cơ
sở đó vận dụng một cách sáng tạo các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc vào thực tiễn ở cơ sở. Để phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, đòi hỏi họ phải có trình độ tri
thức, trình độ tƣ duy lý luận nhất định; nhận thức một cách có hệ thống và
nắm bắt đƣợc các mối quan hệ, liên hệ giữa các bộ phận tri thức cấu thành hệ
thống lý luận, hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác -
34
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà
nƣớc. Qua đó hình thành tƣ duy, phƣơng pháp luận khoa học cho nhận thức
và áp dụng vào trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
* Tầm quan trọng của tư duy lý luận đối với cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở Việt Nam hiện nay
Việc phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có vai trò
hết sức to lớn đối với các hoạt động ở cấp cơ sở. Trƣớc thực tiễn đổi mới đất
nƣớc hiện nay, vai trò của việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Những nội dung cơ bản trong hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở đã phân tích ở trên, cũng đồng thời thể hiện những yêu cầu
trong việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này. Trƣớc tiên là sự
nắm bắt sâu sắc lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
các đƣờng lối, chính sách, quan điểm của Đảng, dựa vào hệ thống lý luận đó
để áp dụng vào trong thực tiễn một cách khoa học và đạt hiệu quả. Mặt khác,
trong quá trình công tác ở cơ sở, những yêu cầu về trình độ tƣ duy lý luận của
đội ngũ cán bộ này còn đƣợc thể hiện ở khả năng tƣ duy, lắng nghe và nắm
bắt tâm tƣ nguyện vọng của ngƣời dân, biết sử dụng đúng ngƣời đúng việc; ở
khả năng thu nhận kịp thời các thông tin từ thực tiễn, xử lý các thông tin một
cách chính xác và vận dụng chúng một cách đúng đắn vào những hoạt động
cụ thể tại địa phƣơng mình. Đồng thời, góp phần khắc những phục hạn chế,
yếu kém còn tồn đọng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở.
Thứ nhất, nâng cao trình độ về mọi mặt, uy tín, trách nhiệm và vị thế
của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Cấp cơ sở là
hình ảnh của xã hội thu nhỏ, mọi mặt của đời sống xã hội đều diễn ra ở cơ sở.
Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là những ngƣời hàng ngày trực tiếp tiếp xúc với
dân, đƣa các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đi vào
đời sống và biến chúng thành hành động cụ thể. Đội ngũ cán bộ này, không
chỉ là lực lƣợng nòng cốt đảm bảo sự đoàn kết trong chi bộ, Đảng bộ và nhân
35
dân mà vai trò và uy tín của Đảng còn đƣợc thể hiện thông qua đội ngũ cán bộ
ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở bao gồm cấp ủy viên mà trƣớc hết
là bí thƣ, chủ tịch, các phó bí thƣ và phó chủ tịch, thƣờng vụ cấp ủy và trƣởng
đầu ngành ở cơ sở, là ngƣời quyết định mọi công việc ở cơ sở và trực tiếp
chịu trách nhiệm trƣớc Đảng và nhân dân về sự thành công hay thất bại của sự
nghiệp đổi mới ở cơ sở. Do vậy, yêu cầu đội ngũ cán bộ này phải có trình độ
văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận nhất định mới có thể
thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới ở
cơ sở, phụ thuộc rất lớn vào trình độ trí tuệ, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này. Họ giữ vai trò quyết định mọi công việc
ở cơ sở, đây đƣợc đánh giá là khâu quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng. Vì xét đến cùng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
trong đó vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở chỉ đƣợc phát huy
trong phong trào cách mạng. Mối quan hệ giữa cán bộ và phong trào cách
mạng của quần chúng là mối quan hệ nhân quả, cán bộ vừa là ngƣời quyết
định vừa là ngƣời bị quyết định. Song đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn
giữ vai trò là cầu nối giữa nhân dân với các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ hai, phát triển tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có vai
trò định hướng, giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở theo
những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Việc phát
triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở sẽ góp phần nâng cao năng
lực, trình độ tƣ duy lý luận, đồng thời khắc phục những hạn chế trong tƣ duy
của đội ngũ cán bộ này, đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất
nƣớc. Do đặc điểm của công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở mang
tính đặc thù, nó khác với cấp Trung ƣơng, tỉnh, huyện, đó là cấp chiến lƣợc,
cấp trung gian nên tƣ duy của các cấp này mang tính khái quát, trừu tƣợng và
định hƣớng cao. Còn cấp cơ sở đƣợc xem là cấp chiến thuật, cấp hành động
nên nhìn chung tƣ duy của cán bộ cơ sở chủ yếu thiên về tƣ duy thực hành, tƣ
36
duy cụ thể, mọi công tác ở cơ sở đều mang tính cụ thể, từ những việc ký tên,
đóng dấu, tiếp dân, xử lý các vấn đề tại cơ sở; đến những công việc chung
nhƣ ra các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cơ sở cũng
chính là cụ thể hoá các đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và nhà nƣớc. Trong
quá trình công tác, khi đi vào giải quyết các vấn đề cụ thể ở cơ sở, đội ngũ cán
bộ này còn biểu hiện nhiều yếu kém về năng lực và trình độ. Vì vậy, việc phát
triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở giữa vai trò quan
trọng, góp phần định hƣớng đúng đắn, giáo dục và bồi dƣỡng cho đội ngũ cán
bộ này theo những chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nƣớc. Xuất phát từ những yêu cầu của công cuộc đổi mới ở cơ sở đặt ra, đồng
thời thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng Đảng và chính quyền
trong sạch vững mạnh để lãnh đạo việc phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở,
trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trƣờng và mở rộng
quan hệ hợp tác với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới,… đòi hỏi đội
ngũ cán bộ này cần phải có tƣ duy lý luận khoa học, chứ không chỉ dừng lại ở
những kinh nghiệm sẵn có. Cấp cơ sở cũng chính là nơi thực hiện hóa các
đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nƣớc. Do vậy, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải có nhận thức đúng bản chất các lý luận trên,
có trình độ tƣ duy lý luận nhất định đảm bảo cho quá trình lãnh đạo, quản lý
của mình theo đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và nhất quán với đƣờng lối
chung của Đảng. Đồng thời, nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và Pháp luật của Nhà nƣớc, có nhƣ vậy đội ngũ cán bộ này mới đảm
bảo đƣợc việc truyền đạt và tổ chức triển khai thực hiện đến từng ngƣời dân,
tiếp nhận và giải quyết kịp thời các vấn đề, ý kiến của quần chúng đối với các
chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, việc phát triển tƣ
duy lý luận có vai trò quan trọng, giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nƣớc ta
nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng nhận thức đúng đắn
chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính
37
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ ba, phát triển tư duy lý luận góp phần khắc những phục hạn chế,
phê bình những biểu hiện của bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, bệnh quan
liêu, xa rời quần chúng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Phát triển tƣ
duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở không chỉ có vai trò định hƣớng,
giáo dục, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ này theo những chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nƣớc, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao năng lực, trình độ tƣ duy lý luận, và khắc phục những hạn chế trong
tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung. Đồng thời, giúp cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhận thức đúng đắn lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, các đƣờng lối, chính sách của Đảng; khắc phục chủ nghĩa kinh
nghiệm, bệnh giáo điều , quan liêu, xa rời quần chúng trong đội ngũ cán bộ.
Qua đó củng cố thêm niềm tin xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhận thức đúng
tình hình thực tiễn và các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, chứ
không chỉ dừng lại ở bên ngoài các sự kiện. Mặt khác, phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ này còn góp phần soi sáng cho hoạt động thực tiễn ở
cơ sở, giúp họ nhận diện rõ những mâu thuẫn và vấn đề đặt ra ở cơ sở, nhận
thức đúng tình hình trong nƣớc và thế giới, những luận điệu xuyên tạc của kẻ
thù,… nhằm đƣa ra các chủ trƣơng, giải pháp phù hợp thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động, việc học tập và tiếp thu
bản chất cách mạng, khoa học các lý luận trên là một công việc mang tính khó
khăn, phức tạp và cần phải có thời gian. Trong đó, chủ nghĩa Mác – Lênin là
một học thuyết cách mạng khoa học, là sự kết tinh của tinh hoa trí tuệ của
nhân loại và là đỉnh cao của tƣ duy lý luận. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là sự kết
tinh của chủ nghĩa yêu nƣớc, văn hóa dân tộc và sự vận dụng một cách sáng
tạo, phát triển lý luận Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Những
đƣờng lối, chính sách của Đảng thể hiện sự tập trung cao nhất trí tuệ của toàn
Đảng, toàn dân trong việc đề ra các phƣơng hƣớng, nhiệm vụ cách mạng của
38
đất nƣớc trong mỗi thời kỳ cụ thể. Các lý luận trên đều là đỉnh cao của tƣ duy
nhân loại, tuy ở mức độ và phạm vi khái quát khác nhau nhƣng chúng đều là
những mẫu mực về tƣ duy lý luận. Vì vậy, việc tiếp thu đúng đắn các lý luận
này đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải có trình độ văn hóa, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực và trình độ tƣ duy nhất định, đặc biệt là
trình độ tƣ duy lý luận.
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển tƣ duy lý luận của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ của thực tiễn đổi mới đất nƣớc, từ
thực trạng về năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở
nƣớc ta hiện nay đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu đối với việc phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ này. Có rất nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển
tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam, trong đó có hai
nhân tố tác động cơ bản là nhân tố khách quan và chủ quan. Từ đó đề ra
những yêu cầu cho việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay. Có những yêu cầu chung xuất phát từ sự phát
triển của thực tiễn, lại có những yêu cầu riêng phù hợp với đặc điểm năng lực
tƣ duy lý luận của từng đối tƣợng. Dƣới đây xin đề cập một số những nhân tố
ảnh hƣởng, tác động và những yêu cầu cơ bản nhất đối với việc phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay. 1.3.1. Nhân tố khách quan
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
phát triển với tốc độ nhƣ vũ bão, đã hình thành nên hệ thống công nghệ mới
với các thành phần chủ yếu nhƣ: công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ năng lƣợng, công nghệ hàng không vũ trụ, công nghệ gen,… Tất
cả những thành tựu vĩ đại đó, đã nhanh chóng đƣợc áp dụng vào trong đời
sống xã hội, mang lại những bƣớc phát triển kỳ diệu cho nhân loại, đồng thời
đƣa loài ngƣời lên một trình độ văn minh trí tuệ. Những thành tựu to lớn của
khoa học công nghệ hiện đại đã giúp cho khoa học công trở thành lực lƣợng
39
sản xuất trực tiếp, một nguồn lực tăng trƣởng kinh tế quan trọng. Đồng thời,
đƣa nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội bƣớc vào quá trình hội nhập,
quốc tế hóa trên mọi phƣơng diện. Điều này đã và đang tác động mạnh mẽ tới
tốc độ của các nƣớc với mức độ khác nhau. Để có thể cùng phát triển, các
nƣớc trên toàn thế giới không thể tồn tại biệt lập tách rời khỏi dòng chảy
chung của thế giới. Nhƣ vậy, những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học
công nghệ mang lại, cùng với những hệ quả của nó đã mở ra thời cơ mới cho
các nƣớc có thể rút ngắn quá trình phát triển, cũng đặt ra không ít những
thách thức gay gắt đối với các nƣớc, nhất là những nƣớc nghèo và lạc hậu về
kinh tế nhƣ nƣớc ta hiện nay.
Đối với nƣớc ta, những thành tựu mà khoa học công nghệ mang lại đã
và đang tác động hết sức mạnh mẽ đến mọi mặt của quá trình xây dựng và
phát triển đất nƣớc, đặc biệt là trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc, trong đó bao gồm cả ở cấp
cơ sở. Những tác động của khoa học công nghệ đến tƣ duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay đƣợc thể hiện trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội từ kinh tế, văn hóa, chính trị, đạo đức. Nhƣ vậy, dƣới tác
động của khoa học công nghệ và quá trình quốc tế hóa, các nƣớc trên thế giới
không thể tồn tại một cách biệt lập mà đòi hỏi ngay từ mỗi vùng miền, địa
phƣơng, mỗi cơ sở trong mỗi nƣớc đều phải thay đổi để hòa nhập vào dòng
chảy chung của thế giới. Việt Nam là một nƣớc đang phát triển nên còn lạc
hậu về khoa học công nghệ so với thế giới, nhƣng chúng ta đã biết sử dụng
những thành quả của khoa học công nghệ hiện đại vào trong sản xuất, tiêu
dùng cũng nhƣ mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, những tác động
của sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trƣờng đang từng bƣớc làm biến đổi cuộc
sống của ngƣời dân ở cơ sở từ trong sản xuất, tiêu dùng đến những tƣ duy cũ.
Tất cả những điểm này, đã tác động không nhỏ tới tƣ duy cán bộ lãnh cấp cơ
sở trên mọi lĩnh vực công tác ở cơ sở. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ
vừa mở ra thời cơ đồng thời vừa mang đến những thách thức không nhỏ đối
40
với sự lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở trong việc
xây dựng và phát triển cơ sở vững mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, đồng thời phát huy đƣợc mọi tiềm lực ở cơ sở, vừa áp dụng đƣợc
những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại vào đời sống.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển, trong đó đặc biệt là
sự bùng nổ của công nghệ thông tin, đây vừa là tiền đề đồng thời là thách
thức, đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác giáo dục tƣ tƣởng chính
trị và phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay. Mặt khác, những tác động của thành tựu khoa học công nghệ đến
mọi mặt của đời sống, đặc biệt là trên lĩnh vực thông tin , đã giúp cho đội
ngũ cán bộ nƣớc ta nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng và nhân dân có
điều kiện thu nhận mọi sự kiện trong nƣớc, cũng nhƣ tình hình thế giới một
cách nhanh chóng. Tuy nhiên, những thông tin đến với cơ sở rất đa dạng,
nhiều chiều, thƣờng chƣa đƣợc chọn lọc, gây ảnh hƣởng lớn đến nhận thức,
tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở. Đặc biệt là trong bối
cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái
trào, tƣơng quan lực lƣợng đang ở xu thế có lợi cho chủ nghĩa tƣ bản. Bên
cạnh đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc với các chiến lƣợc “diễn
biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, đã bằng mọi thủ đoạn nhƣ: đả kích, xuyên
tạc chế độ xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền các văn hóa phẩm phản động…,
nhằm mục đích làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta từ bỏ con
đƣờng xã hội chủ nghĩa. Đứng trƣớc những cám dỗ đó, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ và nhân dân phải giữ vững lập trƣờng kiên định, bản lĩnh chính trị vững
vàng, đấu tranh kiên quyết mới có thể chống lại đƣợc âm mƣu của các thế
lực thù địch trong cuộc đấu tranh này. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và
nhân dân ta từ trƣớc đến nay vẫn luôn kiên định tin tƣởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, vào mục tiêu, lý tƣởng xã hội chủ nghĩa mà chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy nhiên, đứng trƣớc những diễn biến
41
phức tạp của tình hình chính trị thế giới, trình độ dân trí ở cấp cơ sở của nƣớc
ta nhìn chung còn thấp, các nguồn thông tin chính thống thƣờng thiếu và
chậm, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần phải đƣợc nâng cao bản
lĩnh chính trị của mình, củng cố vững chắc lập trƣờng giai cấp, lý tƣởng xã
hội chủ nghĩa, đến việc tuyên truyền giáo dục cho nhân dân mục tiêu, lý
tƣởng đó, chống lại các âm mƣu “diễn biến hòa bình” và giữ vững định
hƣớng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở
hiện nay là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Hòa cùng dòng chảy chung của nhân loại, công cuộc đổi mới ở Việt
Nam từ sự khởi xƣớng của Đại hội Đảng VI đã chịu sự tác động chung của
thế giới đối với các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đổi mới đặt ra còn đƣợc
thúc đẩy bởi những đòi hỏi, sự chín muồi của tình hình trong nƣớc, nhất là sự
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội từ những năm 80 của thế kỷ
trƣớc cho đến nay. Đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, có những bƣớc
chuyển quan trọng, đây vừa là thời cơ cũng vừa là thách thức cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nƣớc trong thời kỳ mới. Thời cơ là chúng ta có thể
rút ngắn giai đoạn phát triển nhờ việc tiếp thu những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại của nhân loại. Đồng thời nƣớc ta cũng đứng trƣớc những
tụt hậu về khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa xã hội và những âm mƣu của
các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc. Đổi mới mang đến thời cơ, vận hội
lớn để phát triển đất nƣớc, đó chính là sự nỗ lực tìm kiếm một con đƣờng và
phƣơng pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội sao cho phù hợp với thực tế, cùng
với những biến đổi nhanh chóng của thế giới. Đặc biệt là trong điều kiện các
nƣớc trong khu vực và trên thế giới đang có sự chuyển biến mau lẹ, do sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hƣớng toàn cầu hóa, đòi
hỏi chúng ta phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, mở rộng tầm nhìn ra bên
ngoài để có thể tự nhận thức, đánh giá về chính bản thân mình một cách phù
hợp. Từ đây, nhận thức rõ mình cần phải làm gì, hành động nhƣ thế nào để
có thể tồn tại và phát triển trong thế giới ngày ngay. Chính sự phụ thuộc lẫn
42
nhau giữa các quốc gia, đã đặt ra đòi hỏi phải thƣờng xuyên đổi mới, biết
phản ứng linh hoạt trƣớc những biến đổi của thời cuộc, điều chỉnh hợp lý
những kế hoạch, chính sách và giải pháp phát triển nhờ có sự đánh giá đúng
mình, đúng ngƣời, phát hiện kịp thời những tình huống và dự báo chính xác
các khả năng. Nhƣ vậy, đổi mới đã mang lại thời cơ lớn cho sự phát triển của
đất nƣớc, đây còn là thời cơ để tiến hành đổi mới do những tác động từ bên
ngoài nhƣ: tình hình trong khu vực và thế giới, kinh tế xã hội trong nƣớc,
những yêu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời, đổi mới còn tạo ra thời cơ
mới cho sự phát triển về nhận thức, tƣ duy và lối sống của con ngƣời, từ cá
nhân cho tới cộng đồng; sự phát triển năng lực và bản lĩnh lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ các cấp; sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc vào trong
đời sống chính trị của các cấp, tổ chức, đoàn thể nhân dân thông qua quá
trình đổi mới và đƣợc rèn luyện trong hoạt động thực tiễn. Đảng và Nhà
nƣớc cũng có sự quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động quản lý, lãnh đạo của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trong đó đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp
cơ sở trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nƣớc.
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội cũng tồn tại nhiều vấn đề có ảnh hƣởng
đến tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đặc biệt là bƣớc vào thời
kỳ đổi mới với xu thế toàn cầu hóa, tăng cƣờng mở rộng mối quan hệ ngoại
giao và hợp tác đa phƣơng với nhiều nƣớc, tổ chức quốc tế trên thế giới. Với
chủ trƣơng mở cửa để phát triển kinh tế, giao lƣu văn hóa với các nƣớc, tiếp
thu các tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa tranh thủ đƣợc thời cơ về vốn, khoa
học công nghệ hiện đại, phƣơng pháp quản lý. Đồng hành với quá trình đó,
chúng ta cũng không tránh khỏi những thông tin, luồng văn hóa không lành
mạnh, đi trái với văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc tràn vào nƣớc
ta bằng nhiều con đƣờng khác nhau. Đứng trƣớc những thách thức đó đòi hỏi
Đảng và Nhà nƣớc ta phải có chủ trƣơng, biện pháp kịp thời để ngăn chặn,
đồng thời có phƣơng án bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Ở cơ sở các loại văn hóa phẩm độc hại, phản động đƣợc lƣu
43
truyền một cách lén lút trong nhân dân thông qua các loại hình nhƣ sách, báo,
tạp chí, băng video… Tác hại của nó đã và đang làm xói mòn nghiêm trọng
những giá trị văn hóa truyền thống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt
đáng báo động là trong giới thanh thiếu niên hiện nay. Điển hình là các tệ
nạn xã hội nhƣ: cờ bạc, lô đề, ma túy, trộm cắp… đang trở thành những vấn
đề gây nhức nhối ở cơ sở. Những vấn đề cấp thiết này, đòi hỏi các nhà lãnh
đạo ở cấp cơ sở phải trực tiếp giải quyết, tất cả những điều này có ảnh hƣởng
và tác động không nhỏ đến tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở,
trong việc đấu tranh chống lại sự xâm nhập và tác hại của chúng đối với sự
phát triển chung của cơ sở và toàn xã hội.
Về kinh tế - xã hội, cũng có nhiều nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến tƣ
duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Việt Nam bƣớc ra từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số, phần
lớn trình độ dân trí còn thấp, chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh…
bƣớc vào thời kỳ đổi mới, nƣớc ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Đứng trƣớc những hậu quả nặng nề
của chiến tranh, thời kỳ phong kiến vẫn còn ảnh hƣởng sâu sắc trong đời
sống của nhân dân, bên cạnh đó các thế lực thù địch, phản động không ngừng
tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nƣớc ta. Tất cả những vấn đề trên, cùng với những đòi hỏi cấp bách quả quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trƣớc những yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc đã và đang trở thành những vấn đề quan
trọng, có ảnh hƣởng mật thiết, chi phối xu hƣớng, trình độ phát triển tƣ duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay. Những
nhân tố ảnh hƣởng đó đƣợc thể hiện ở những mặt cơ bản sau:
Tàn dư tư tưởng của nền sản xuất nhỏ
Xuất thân từ một nền sản xuất nhỏ, với chế độ công xã nông thôn tồn
tại dai dẳng hàng ngàn năm ở nƣớc ta, là một trong những yếu tố quan trọng
đã hình thành nên phong cách, truyền thống tƣ duy và trình độ năng lực tƣ
44
duy của ngƣời Việt cho đến hiện nay. Chính những tính chất đặc trƣng của
nền sản xuất nhỏ nhƣ: khép kín, nhỏ lẻ, manh mún,… đã trở thành điều kiện
thuận lợi cho tƣ duy kinh nghiệm hình thành và phát triển, gây hạn chế tới sự
phát triển tƣ duy của ngƣời Việt, trong đó đặc biệt là tƣ duy lý luận. Xuất
thân từ nền sản xuất nhỏ phƣơng Đông, với một trình độ sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, công cụ lao động thô sơ, khoa học kỹ thuật chƣa phát triển,
còn phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên, khí hậu, lao động chủ yếu sử
dụng sức ngƣời nên những kinh nghiệm tích lũy đƣợc trong đời sống giữ một
vai trò hết sức quan trọng, dẫn đến tình trạng cƣờng điệu kinh nghiệm, coi
nhẹ lý luận. Chính sự lặp đi lặp lại tình trạng trên, đã dần hình thành tƣ tƣởng
sùng bái kinh nghiệm, tƣ duy thụ động, ngại thay đổi, hài lòng với thực tại,
điều này đã trực tiếp kìm hãm sự phát triển của tƣ duy ngƣời Việt Nam.
Do sự tồn tại lâu dài trong nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lâu đời nên chƣa
có sự đòi hỏi phát triển tƣ duy lý luận và áp dụng các khoa học kỹ thuật tiến
bộ vào trong đời sống, đã làm cho tƣ duy lý luận của ông cha ta chƣa có điều
kiện để phát triển: “Một xã hội mà cái quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn
định, sự nhất trí để đề phòng giặc ngoại xâm, với một thể chế mà làng xã là
thành lũy, với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần
cù, bàn tay khéo léo thì kỹ thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học
không cần nhiều triết học” [27, tr.38]. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân khác
nhau tồn tại lâu dài trong lịch sử, nên nhìn chung dân tộc ta còn thiếu và yếu
về các tri thức khoa học, về lôgic học, điều này đã trở thành rào cản lớn trong
quá trình phát triển tƣ duy lý luận của đất nƣớc: “Khó khăn to lớn là do tƣ
duy ngƣời Việt trong lịch sử chƣa trải qua giai đoạn lôgic hình thức cổ điển
và lôgic biện chứng khoa học” [24, tr.40-41]. Bên cạnh đó, trải suốt chiều dài
lịch sử Việt Nam về cơ bản là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm và đấu
tranh với thiên nhiên khắc nhiệt. Chính trong quá trình đấu tranh chống kẻ
thù xâm lƣợc và chống chọi với thiên tai nhƣ lũ lụt, hạn hán,… đã tạo nên
tính cố kết dân tộc thành một khối cộng đồng bền vững, từ đó hình thành
45
những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc nhƣ: ý thức dân tộc, lòng yêu
nƣớc, sự thƣơng yêu đùm bọc lẫn nhau. Đây đƣợc coi là những nền tảng cơ
bản để nhân dân ta xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy vậy, do những điều kiện
lịch sử xã hội quy định, dân tộc ta phải trải qua quá trình dài đấu tranh chống
kẻ thù xâm lƣợc, nên việc quan tâm hàng đầu của ông cha ta là đấu tranh bảo
vệ toàn vẹn nền độc lập cho dân tộc, mà chƣa có nhiều điều kiện quan tâm
đến việc phát triển khoa học, phát triển tƣ duy lý luận. Việt Nam chịu ách
thống trị của thực dân Pháp gần 100 năm, trong thời gian này thực dân Pháp
và bọn tay sai phong kiến đã cấu kết với nhau thực hiện chính sách ngu dân
để dễ cai trị, thoát đƣợc ách thống trị của thực dân phong kiến, nƣớc ta lại
bƣớc vào cuộc chiến chống đế quốc Mỹ, sau đó là chiến tranh bảo vệ biên
giới phía Tây Nam và phía Bắc. Trong hoàn cảnh nhƣ vậy, nƣớc ta không có
thời gian và điều kiện cho việc học tập, nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ
thống và giải quyết các vấn đề về thời kỳ quá độ, phát triển kinh tế, giáo dục
đào tạo, lý luận chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, tƣ tƣởng phong kiến vẫn đang
còn tồn tại dai dẳng trong hoạt động khoa học, nghiên cứu lý luận, đã gây
ảnh hƣởng sâu sắc trong hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và nhân dân
ta, nhất là tại cơ sở. Trong khi nƣớc ta chƣa trải qua nền dân chủ tƣ sản, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, đã gây ảnh
hƣởng lớn đến quá trình phát triển khoa học, phát triển tƣ duy lý luận của đội
ngũ cán bộ và nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Bên cạnh đó,
cũng không thể phủ nhận chính việc xuất phát từ nhu cầu đấu tranh chống
ngoại xâm lâu dài của dân tộc, chống lại thiên tai, bệnh tật bảo vệ con ngƣời,
đã tạo điều kiện thúc đẩy khoa học quân sự, y học nƣớc ta phát triển mạnh
mẽ và đã thu đƣợc nhiều thành tựu. Nhìn chung trình độ dân trí của nƣớc ta
còn thấp, cùng với đó là chiến tranh đã đi qua nhƣng hậu quả của nó để lại
còn nặng nề, trong đó đặc biệt là những khó khăn trong lĩnh vực kinh tế đã
và đang trở thành vấn đề có ảnh hƣởng lớn đến quá trình phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở nói riêng và đội ngũ cán bộ các
46
cấp nói chung.
Trong những năm qua, thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, đã đƣa
đất nƣớc đạt đƣợc những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, từng bƣớc
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và đi lên theo hƣớng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa. Nhờ vậy, tổng sản phẩm trong nƣớc GDP năm 2014 tính theo
giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tƣơng đƣơng 184 tỷ USD. Trong đó, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ trọng khu vực I (nông - lâm
nghiệp - thủy sản) từ 2,68% năm 2012, còn 2,64% năm, đến năm 2014 là
3,49 ; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) từ 5,75% năm 2012, xuống còn
5,43% năm 2013 và tăng lên 7,14 năm 2014; ngành dịch vụ từ 5,90 % năm
2012, lên 6,57% năm 2013, xuống còn 5,96 năm 2014 [Phụ lục 3]. Về cơ sở
hạ tầng: điện, đƣờng, trƣờng, trạm y tế… từ nông thôn đến thành thị đƣợc
quan tâm đầu tƣ xây dựng đồng bộ, tạo điều kiện cho các hoạt động chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân và công tác giáo dục đào tạo. Trên lĩnh vực giáo
dục, về cơ bản công tác phổ cập tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông đƣợc tiến hành trên cả nƣớc, đã từng bƣớc nâng cao chất lƣợng đời
sống của nhân dân về mọi mặt. Những thành tựu đạt đƣợc trên lĩnh vực kinh
tế - xã hội của nƣớc ta, về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo và phát triển tƣ
duy lý luận. Thời gian qua, Đảng và Nhà nƣớc đã quan tâm đến công tác giáo
dục, đào tạo và bồi dƣỡng cho đội ngũ cán bộ này, góp phần nâng cao trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Tuy nhiên, công tác này nhìn chung vẫn
còn mang tính chất chƣa đồng bộ, nên có ảnh hƣởng lớn đến việc phát triển
tƣ duy của đội ngũ cán bộ này trên nhiều phƣơng diện, gây khó khăn cho
việc quản lý các hoạt động tại cơ sở. Nhƣ vậy, sự nghiệp xây dựng và đổi
mới đất nƣớc đã và đang đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn mới, khó khăn, phức
tạp, cần phải đƣợc lý giải về mặt lý luận. Đứng trƣớc yêu cầu đó, đòi hỏi đội
ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, kể cả ở cấp cơ sở cũng phải đƣợc
47
nâng lên trình độ tƣ duy lý luận mới có thể đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới
của đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay. Cùng với sự phát triển chung của đất
nƣớc, nhiệm vụ của ngƣời cán bộ cũng có những bƣớc phát triển mới. Trong
đó, đặc biệt là những yêu cầu về trình độ tƣ duy luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở, cũng phải phát triển phù hợp với những yêu cầu của ngƣời cán
bộ quản lý các hoạt động ở cơ sở trong thời kỳ mới của đất nƣớc.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: “Đảng phải tiếp tục tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
mình… Trong công tác xây dựng Đảng phải thƣờng xuyên nắm vững và
quán triệt các nhiệm vụ sau: giữ vững và tăng cƣờng bản chất giai cấp công
nhân; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên;
kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, thực hiện nghiên túc nguyên tắc tập
trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ
chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận..” [1]. Đƣờng lối đổi
mới đất nƣớc đƣợc đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trong đó có
đổi mới tƣ duy và đến Đại hội VII, Đại hội VIII tiếp tục đƣợc bổ sung và
phát triển, trở thành những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển tƣ duy
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trên mọi phƣơng diện của đời sống xã hội. Việc
xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp đã điều kiện cho việc phát huy
tính dân chủ, khả năng sáng tạo và quá trình phát triển của khoa học, phát
triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Bên cạnh đó, việc
thực hiện đƣờng lối đổi mới đất nƣớc trong điều kiện hội nhập,với xu hƣớng
quốc tế hóa mở cửa, giao lƣu hợp tác với các nƣớc và các tổ chức trong khu
vực và trên thế giới; những tác động của cơ chế thị trƣờng, những âm mƣu về
chiến lƣợc “diễn biễn hòa bình” đang trở thành những vấn đề mấu chốt, gây
trăn trở, buộc tƣ duy của Đảng cũng nhƣ toàn thể dân tộc phải vận động và
phát triển. Nhƣ đã nói ở trên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là những
ngƣời lãnh đạo trực tiếp các hoạt động ở cấp cơ sở, là những ngƣời đầu tiên
chịu trách nhiệm thông suốt đƣờng lối và tiến hành cụ thể hóa đƣờng lối của
48
Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra thành những nhiệm vụ cụ thể ở cơ sở. Thông qua
quá trình tiếp nhận và tiến hành cụ thể các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
đó mà tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ này có điều kiện phát triển. Qúa
trình phát triển đƣờng lối cũng đồng thời là quá trình phát triển về mặt tƣ duy
của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, nhƣng hai quá trình đó không phải là đồng bộ
mà còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và các nhân tố chủ quan của đội
ngũ cán bộ này. Bƣớc vào thời kỳ mới, các đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng
và Nhà nƣớc đề ra ngày càng bộc lộ rõ hơn tính quy luật về con đƣờng đi lên
trong sự nghiệp cách mạng của đất nƣớc. Tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở từ đó cũng có những bƣớc phát triển nhất định, làm quen dần với
tính tất yếu của sản xuất hàng hóa, nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Sự chú trọng đến việc nâng cao năng
lực quản lý, lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, năng lực
quản lý Nhà nƣớc; quan tâm đến công tác tổ chức, quy hoạch, tuyển chọn,
luân chuyển, giáo dục đào tạo, bồi dƣỡng, các chế độ đãi ngộ cho cán bộ,
đang trở thành những vấn đề có ảnh hƣởng sâu sắc đến việc phát triển tƣ duy,
nhất là tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Phát triển tƣ duy lý luận phụ thuộc vào đặc tính bẩm sinh của mỗi ngƣời
nhƣ: đặc điểm hệ thần kinh, cấu tạo gen, di truyền… những yếu tố này đóng
vai trò chính trong việc tạo ra tiềm năng về năng khiếu, trí nhớ, sự thông
minh, đây chính là tiền đề cho sự phát triển trí tuệ nói chung và sự phát triển
tƣ duy lý luận nói riêng. Trong đó, yếu tố bẩm sinh là yếu tố đầu tiên có ảnh
hƣởng trực tiếp đến sự phát triển tƣ duy lý luận của chủ thể tƣ duy. Con ngƣời
luôn tồn tại gắn liền với những hoạt động thực tiễn trong môi trƣờng xã hội
nhất định, chính trong điều kiện thực tiễn ấy trình độ tƣ duy lý luận của con
ngƣời mới có cơ hội đƣợc thể hiện, phát triển. Mặt khác, phát triển tƣ duy lý
luận còn phụ thuộc vào các yếu tố xã hội và các yếu tố này có mối quan hệ
49
biện chứng với nhau.
Trong những yêu tố trên, yếu tố bẩm sinh dù có lớn đến đâu thì sự phát
triển của của tƣ duy lý luận vẫn chủ yếu là do nhân tố xã hội và sự tự ý thức
rèn luyện của chính bản thân chủ thể quyết định. Nếu không có sự phấn đấu,
rèn luyện thông qua quá trình học tập, trau dồi kiến thức thƣờng xuyên thì nó
sẽ dần dần bị mai một đi. Chính trong quá trình tiếp thu, rèn luyện, nâng cao
trình độ trí tuệ và phƣơng pháp tƣ duy khoa học biện chứng đã giúp cho sự
phát triển của tƣ duy lý luận thành hiện thực. Nhƣ vậy, qúa trình giáo dục, đào
tạo, học tập và rèn luyện một cách tự giác của mỗi ngƣời để nâng cao trình độ
tri thức, trí tuệ có ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển của tƣ duy lý luận.
Chất lƣợng đội ngũ cán bộ đƣợc hình thành do nhiều nhân tố tác động
khác nhau, trong đó chủ yếu là thông qua con đƣờng giáo dục, đào tạo, bồi
dƣỡng trình độ về mọi mặt. Vì vậy, để nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ
trƣớc hết phải đƣợc bắt đầu từ việc chăm lo công tác giáo dục đào tạo, bồi
dƣỡng, rèn luyện phẩm chất và năng lực lãnh đạo, trong đó đặc biệt chú trọng
đến việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ. Bởi trình độ, năng lực,
phẩm chất của cán bộ lãnh đạo đƣợc nâng cao, sẽ góp phần tác động trực tiếp
đến sự phát triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và cán
bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở nói riêng. Trong đó, công tác giáo dục, đào tạo và bồi
dƣỡng là khâu trang bị những kiến thức, truyền thụ kinh nghiệm, hình thành
các kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động; đồng thời hình thành nên phẩm chất
chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức, tâm lý, từ đó tạo nên những hình mẫu con ngƣời
đặc trƣng trong xã hội và tạo ra năng lực hành động cho mỗi ngƣời. Thông
qua công tác giáo dục, đào tạo, bồi dƣỡng mà mỗi ngƣời tiếp nhận những tri
thức, kinh nghiệm, nhận thức đƣợc các quy luật của tự nhiên, xã hội, tƣ duy
và biết vận dụng chúng vào trong thực tiễn, khắc phục những mặt hạn chế và
phát huy những mặt tích cực. Nhận thức rõ điều này, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác
50
giáo dục, đào tạo, bồi dƣỡng và nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt cho
đội ngũ cán bộ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, vì vậy huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng” [13].
Hiện nay, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta bƣớc đầu đã
giành đƣợc những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng, cho phép đất
nƣớc ta bƣớc sang một giai đoạn mới đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa. Ở nƣớc ta, công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một cuộc cách mạng,
một quá trình chuyển từ xã hội nông nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp
văn minh. Đây thực chất là quá trình cải biến về lực lƣợng sản xuất, quan hệ
sản xuất, về công nghệ, các hình thức, phƣơng pháp tổ chức quản lý, điều
hành kinh tế - xã hội, cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử
dụng kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng suất lao động cho xã hội. Bên cạnh
đó, còn có sự tham gia của yếu tố trí tuệ và nguồn nhân lực ngày càng đƣợc
nâng cao về trình độ, nên tỷ trọng của yếu tố này trong thành quả lao động và
sản phẩm lao động ngày càng cao. Do vậy, việc trang bị kiến thức, trí tuệ, đổi
mới cách thức tổ chức, quản lý và tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đƣợc
đặt ra là một vấn đề vô cùng quan trọng. Đó cũng chính là đòi hỏi cấp bách
đối với công tác nâng cao chất lƣợng về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
các cấp nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng trong giai đoạn hiện
nay. Trong đó, để nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ,
đòi hỏi trong khâu giáo dục đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ cần phải chú trọng đến
các kiến thức lý luận chính trị, tổ chức quản lý thực tiễn, chuyên môn nghiệp
vụ, phẩm chất và năng lực của cán bộ phải đƣợc đào tạo một cách toàn diện,
đặc biệt coi trọng tính hiệu quả.
Những năm gần đây, về cơ bản trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đã đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức mới, vừa cơ bản vừa hệ thống và
có bƣớc trƣởng thành đáng kể. Số cán bộ đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng tăng lên
ƣớc tính hơn 90% cán bộ các cấp, các ngành đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng qua các
trƣờng lớp dƣới mọi hình thức. Trong đó, ở cấp cơ sở trình độ của đội ngũ cán
51
bộ cũng đƣợc nâng lên, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học chiếm 50%,
có trình độ lý luận chính trị chiếm 16% trở lên [Phụ lục 2]. Mặt bằng kiến
thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nƣớc ta có bƣớc phát triển nhanh ở mọi
cấp, mọi ngành, cả kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý kinh tế và
quản lý nhà nƣớc và các kỹ năng, kiến thức bổ trợ khác. Trình độ kiến thức
đƣợc nâng lên đã tạo nên chất lƣợng mới cho cán bộ, về cơ bản đội ngũ này
đã đảm đƣơng đƣợc công việc của mình, góp phần tạo nên những thành tựu
trong công cuộc đổi mới đất nƣớc.
Những tiêu chí và yêu cầu trong công tác lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
nhìn chung đã có nhiều bƣớc đổi mới, điều này đã tác động trực tiếp đến việc
phát triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc hiện nay. Xuất
phát từ những đòi hỏi mới của thực tiễn nên những tiêu chí và yêu cầu trong
công tác của đội ngũ cán bộ các cấp nói chung và cấp cơ sở nói riêng cũng có
những biến đổi cho phù hợp. Trong đó, ngay từ khâu tuyển chọn cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở cũng đƣợc chuẩn hóa về trình độ và chuyên môn, nâng cao chất
lƣợng cho đội ngũ cán bộ. Về nội dung các chƣơng trình giáo dục, bồi dƣỡng
nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ cán bộ cũng thƣờng xuyên đƣợc
đổi mới, giúp cho đội ngũ cán bộ này có trình độ và năng lực lãnh đạo nhất
định để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình ở cấp cơ sở. Mặt khác, những
yêu cầu cụ thể của các vấn đề cần giải quyết trong thực tiễn ở cơ sở ngày càng
đòi hỏi cao và phức tạp, buộc trình độ và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở cũng cần phải thƣờng xuyên đƣợc trau dồi, rèn luyện. Tất cả
những yếu tố trên đã tác động trực tiếp đến nhận thức, đặc biệt là việc phát
triển trình độ tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta
hiện nay. Nhƣ vậy, đứng trƣớc những yêu cầu ngày càng cao của hoạt động
thực tiễn, đòi hỏi trình độ và năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
cũng cần phải đƣợc nâng lên, trong đó chú trọng đến việc phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là một vấn đề quan trọng hiện nay.
Bên trên đã trình bày những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển tƣ
52
duy lý luận của đội ngũ cán bộ, bao gồm cả những yếu tố khách quan và chủ
quan. Tuy nhiên, khi khẳng định vai trò quyết định của các yếu tố trên không
có nghĩa là phủ nhận vai trò của các yếu tố khác. Mỗi yếu tố có sự tác động
khác nhau đến từng chủ thể nhận thức, vì giống nhƣ tƣ duy thì tƣ duy lý luận
về loại hình và trình độ ở mỗi ngƣời là không giống nhau. Các yếu tố chủ
quan là tiền đề cho sự phát triển tƣ duy lý luận của con ngƣời, bên cạnh đó
các yếu tố khách quan nêu trên cũng chính là điều kiện, môi trƣờng để cho tƣ
duy lý luận phát triển và hoàn thiện. Vì vậy, sự phát triển của tƣ duy lý luận
chỉ đƣợc phát triển, hình thành và hoàn thiện dựa trên sự thống nhất của cả
53
hai yếu tố chủ quan và khách quan.
Tiểu kết chƣơng 1
Tƣ duy lý luận là trình độ phát triển cao nhất của tƣ duy, là quá trình
mà tƣ duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng
lý luận và đƣợc thông qua những giả thiết, những lý thuyết có mối quan hệ
tƣơng hỗ với nhau. Phát triển tƣ duy lý luận phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó có các điều kiện khách quan và chủ quan. Các điều kiện và nhân tố này có
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống tác động đến sự phát triển
tƣ duy lý luận của các chủ thể, trong đó, sự phát triển của thực tiễn xã hội, sự
tác động của quá trình đào tạo, ý thức tự rèn luyện và trau dồi về mọi mặt của
chủ thể nhận thức giữ vai trò quyết định.
Trong hệ thống chính trị của nƣớc ta hiện nay, cấp cơ sở (xã, phƣờng,
thị trấn) là cấp nhỏ nhất trong hệ thống 4 cấp nhƣng lại là cấp rộng rãi nhất,
đông đảo nhất. Cơ sở là nơi giao tiếp trực tiếp của toàn bộ hệ thống chính trị
với dân và là nơi mọi đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nƣớc đƣợc triển khai thực hiện. Đây cũng là nơi trực tiếp nắm bắt
những ý kiến, kiến nghị, tâm tƣ, nguyện vọng của quần chúng nhân dân đối
với Đảng và Nhà nƣớc. Vì vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có vai trò
đặc biệt quan trọng. Cán bộ lãnh đạo nhìn chung là những ngƣời đứng đầu,
phụ trách một tổ chức, đơn vị do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ có trách nhiệm
đề ra những phƣơng hƣớng, chủ trƣơng, quyết định liên quan tới những đơn
vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là ngƣời dẫn dắt, tổ chức
phong trào theo một hƣớng đi cụ thể. Họ là ngƣời điều hành, chỉ đạo thông
qua các quết định, chính họ cũng là ngƣời điều chỉnh những quyết định sao
cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Với tƣ cách là những ngƣời quản lý, lãnh
đạo cấp cơ sở, đòi hỏi đội ngũ cán bộ này phải hội tụ đầy đủ những năng lực
và phẩm chất của ngƣời lãnh đạo, quản lý nói chung và những năng lực, phẩm
chất đặc trƣng của ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Trong điều kiện hiện nay,
để thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đòi hỏi đội
54
ngũ cán bộ này phải không ngừng nâng cao trình độ tƣ duy lý luận.
Phát triển tƣ duy lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, giúp cho đội ngũ cá bộ này hoàn thành tốt các
nhiệm vụ, luôn chủ động đề ra các kế hoạch trong công tác và đƣa ra các
chƣơng trình, hành động thiết thực, nâng cao khả năng tiếp thu lý luận và vận
dụng một cách có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Từ đó vận dụng một
cách sáng tạo các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng vào thực tiễn,
đồng thời nâng cao khả năng nắm bắt, phát hiện các vấn đề và các nhân tố
mới thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Tƣ duy lý luận còn giúp
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có khả năng quan sát, khái quát và tổng
kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để công tác quản lý ở cơ sở đạt hiệu quả. Do
vậy, phát triển tƣ duy lý luận là điều kiện và nền tảng cơ bản tạo nên năng lực
lãnh đạo, quản lý, trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở khi đứng trƣớc những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất
55
nƣớc trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những thành tựu về phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở Việt Nam hiện nay
2.1.1.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở đã có chuyển
biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nuớc ta hiện nay, đơn vị hành
chính cấp cơ sở là cấp nhỏ nhất, nhƣng lại là nơi trực tiếp tổ chức vận động
nhân dân thực hiện mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc. Cấp cơ sở chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, mọi mặt của đời sống
xã hội đều diễn ra ở đó, vì thế nó có vị trí và vai trò quan trọng trong việc trực
tiếp đƣa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trở
thành hiện thực trong đời sống. Hiện nay nƣớc ta có 11161 xã, phƣờng, thị
trấn trong đó có 1545 phƣờng, 615 thị trấn và 9001 xã. Với quy mô lớn nhƣ
vậy, cấp cơ sở là nơi tập trung mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề và
là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, trọng tâm là lƣơng
thực, thực phẩm và các ngành công nghiệp. Song cũng là nơi cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho nhiều ngành công nghiệp, ngoài ra còn
cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho nhiều lĩnh vực ngành nghề, góp phần
không nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của nƣớc ta.
Nhận thức đƣợc vị trí và vai trò quan trọng của cấp cơ sở, Đảng và Nhà nƣớc
rất coi trọng công tác xây dựng cấp cơ sở thành đơn vị vững mạnh, trong đó
đặc biệt chú trọng đến công tác phát triển, đào tạo nâng cao chất lƣợng và
56
hiệu quả làm việc cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
cấp cơ sở luôn là hậu phƣơng vững chắc, có nhiều đóng góp quan trọng cả về
sức ngƣời, sức của góp phần không nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ và thống nhất
đất nƣớc. Bƣớc vào thời kỳ xây dựng và phát triển đất nƣớc, thực hiện đƣờng
lối đổi mới của Đảng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, với việc xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý
của Nhà nƣớc và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, thì công cuộc xây dựng
cấp cơ sở càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Trong đó, muốn tạo ra
bƣớc chuyển biến mạnh mẽ, xây dựng cấp cơ sở vững mạnh, trƣớc hết phải
nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, mà nhiệm vụ
hàng đầu là phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này. Trong quá trình
thực hiện, bƣớc đầu việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở đã thu đƣợc những thành tựu đáng kể, song cũng còn tồn đọng
những hạn chế do những nguyên nhân nhất định.
Thực hiện đề án “Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới” từ 2006
đến 2010, về cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở bƣớc đầu đã đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng.
Hòa cùng với sự phát triển của các cấp huyện, tỉnh, thành phố, đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở cũng nhận đƣợc sự chỉ đạo, quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt của
các tổ chức Đảng và Nhà nƣớc. Trong đó, đặc biệt là sự quan tâm và đầu tƣ
cho giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở; xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác và các chế
độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ này. Tất cả những điều này, góp phần trực tiếp
và gián tiếp tác động đến việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ngày càng đƣợc nâng lên.
Để phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đòi hỏi phải
kết hợp rất nhiều yếu tố nhƣ từ khâu tuyển chọn, quy hoạch, bố trí sử dụng
57
cán bộ; đào tạo nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, các chế độ chính
sách và sự tự giác rèn luyện của đội ngũ cán bộ này. Trong đó, công tác giáo
dục, đào tạo, bồi dƣỡng lý luận cho đội ngũ cán bộ giữ vai trò quan trọng.
Những năm gần đây, phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trên cả nƣớc
đã đƣợc đào tạo qua chƣơng trình lý luận trung cấp ở các trƣờng chính trị của
tỉnh, các lớp nghiệp vụ lãnh đạo quản lý theo chức năng của mình, từng bƣớc
tiến tới chuẩn hóa trình độ học vấn, đây là một trong những điều kiện cần để
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung. Về trình độ
chuyên môn, số cán bộ chƣa qua đào tạo có 45.071 ngƣời (chiếm 31,06%); số
có trình độ sơ cấp là 9.375 ngƣời (chiếm 6,46%); trung cấp là 52.429 ngƣời
(chiếm 36,13%); cao đẳng là 6.095 ngƣời (chiếm 4,20%) và đại học là 32.142
ngƣời (chiếm 22,15%). Về trình độ lý luận chính trị, số chƣa qua đào tạo là
25.336 ngƣời (chiếm 17,46%); số có trình độ sơ cấp là 23.639 ngƣời (chiếm
16,29%); trung cấp 89.244 ngƣời (chiếm 61,5%) và cao cấp là 6.893 ngƣời
(chiếm 4,75%) [Phụ lục 2]. Bên cạnh đó, đội ngũ này còn đƣợc trang bị kiến
thức về những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
đƣờng lối lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã giúp cho năng lực lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ngày càng đƣợc khẳng định. Góp
phần nâng cao khả năng tiếp nhận tri thức khoa học ngày càng nhiều và sâu
sắc hơn, từ đó phát triển thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học cho hoạt
động thực tiễn, cũng nhƣ phát triển những kiến thức cần thiết phục vụ cho
công tác quản lý của mình. Đa số cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có khả năng nắm
bắt đƣợc thực chất quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nƣớc gắn liền với các vấn đề thực tiễn đang đặt ra ở
địa phƣơng. Từ đó, vận dụng một cách sáng tạo các kiến thức của mình vào
giải quyết các vấn đề nảy sinh ở cơ sở. Đồng thời, có cái nhìn một cách tổng
thể về sự liên kết giữa ổn định chính trị với phát triển kinh tế, phát triển kinh
tế với các vấn đề về phúc lợi xã hội và phát triển văn hóa, thấy đƣợc nhiệm
58
vụ trọng tâm trong từng giai đoạn phát triển gắn với sự phát triển tổng thể
của cả cấp cơ sở, huyện, tỉnh, thành phố và cả nƣớc trong tính tổng thể của
cả quá trình xây dựng và phát triển.
Có thể khẳng định, thông qua công tác giáo dục, đào tạo, trình độ tƣ
duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã đƣợc nâng lên đáng kể.
Trƣớc hết là số cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ngày càng đƣợc trẻ hóa, có trình độ
văn hóa, trình độ lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nƣớc. Đặc biệt
Luật Cán bộ công chức (năm 2008) đã dành riêng một chƣơng quy định về
cán bộ, công chức cấp cơ sở. Điều này góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 5 khóa
IX. Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ làm phó chủ tịch xã tại 62
huyện nghèo trong cả nƣớc; Đề án tuyển chọn 500 trí thức trẻ về các xã tham
gia phát triển nông thôn miền núi giai đoạn (2013 – 2020). Mục tiêu đến năm
2020 thu hút ít nhất 1.000 sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và cán bộ khoa học trẻ
vào các lĩnh vực công tác của cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã
hội từ Trung ƣơng đến địa phƣơng nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đồng thời nâng cao
chất lƣợng đội ngũ cán bộ theo chủ trƣơng của Đảng.
Về trình độ văn hóa, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có trình độ văn
hóa từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên và trình độ lý luận chính trị từ
trung cấp trở lên. Trong đó, một số cơ sở ở miền núi, vùng sâu vùng xa do
điều kiện văn hóa xã hội còn nhiều hạn chế, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có
trình độ văn hóa từ cấp III trở lên, trình độ lý luận từ sơ cấp trở lên. Theo
thống kê của Bộ Nội vụ về số lƣợng, chất lƣợng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cho
thấy: về đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở cả nƣớc có 145.112 ngƣời.
Trong đó, số cán bộ ngƣời dân tộc thiểu số là 27.571 ngƣời (chiếm 19%); số
cán bộ nữ là 24.959 ngƣời (chiếm 17,2%) [Phụ lục 1]. Bƣớc vào thời kỳ mới,
đòi hỏi trình độ của cán bộ lãnh đạo cũng cần đƣợc đổi mới cả về nội dung và
phƣơng pháp tƣ duy. Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đƣợc bồi dƣỡng về lý luận
59
chính trị tƣơng đối hệ thống, nên nhận thức của đội ngũ này tự giác, bài bản
hơn trong hoạt động và năng lực tổ chức; điều hành có kế hoạch, khách quan
trong việc soạn thảo các nghị quyết và ra quyết định; xem xét các vấn đề một
cách toàn diện, cụ thể và sáng tạo ra cách làm mới. Điều đó thể hiện sự tiến
bộ về trình độ tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ này, trong việc giải quyết các
vấn đề ở cơ sở. Trong thời gian qua, cùng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng,
sự ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ƣơng đến địa phƣơng,
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã có bƣớc phát triển cả về số lƣợng, chất lƣợng.
Công tác bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dƣỡng, khen thƣởng, kỷ
luật, thôi việc, phân cấp quản lý cán bộ và chính sách thu hút nguồn nhân lực
chất lƣợng cao về công tác tại cơ sở, đã đƣợc thực hiện một cách công khai,
minh bạch, theo đúng quy định. Điều này đã tạo động lực cho đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở nêu cao tinh thần trách nhiệm, phấn đấu học tập, bồi dƣỡng nâng
cao trình độ, đáp ứng yêu cầu vị trí làm việc, góp phần vào sự phát triển kinh
tế - xã hội của địa phƣơng nói riêng và của đất nƣớc nói chung. Cho đến nay,
nhìn chung đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý
luận chính trị, kỹ năng giải quyết công việc, hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao,
góp phần đƣa đời sống ngƣời dân phát triển từng bƣớc.
Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ ở các cấp cấp
cơ sở đã có chuyển biến tích cực, bƣớc đầu đạt đƣợc những kết quả quan
trọng. Báo cáo của Bộ Nội vụ về kết quả 3 năm thực hiện Quyết định số
1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt
kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức giai đoạn (2011-2015) cho
thấy 100% các bộ, ngành và địa phƣơng đã xây dựng, ban hành. Kế hoạch đào
tạo, bồi dƣỡng cán bộ giai đoạn (2011-2015) và tổ chức triển khai thực hiện
đúng yêu cầu về đối tƣợng và nội dung đào tạo, bồi dƣỡng; nhiều bộ, ngành
và địa phƣơng đã ban hành quy chế đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ; các chế độ,
chính sách khuyến khích, hỗ trợ cán bộ học tập, nâng cao trình độ, bảo đảm
hoàn thành hai mục tiêu: đào tạo, bồi dƣỡng để đáp ứng tiêu chuẩn quy định
60
về ngạch công chức và đáp ứng yêu cầu công việc theo chức vụ lãnh đạo,
quản lý và vị trí việc làm của cán bộ. Sau 3 năm thực hiện: đã có 98% cán bộ
từ Trung ƣơng đến cấp huyện đƣợc đào tạo, đáp ứng tiêu chuẩn quy định;
khoảng 71% cán bộ, công chức lãnh đạo cấp phòng của các bộ, ngành và 80%
của các địa phƣơng đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng theo chƣơng trình quy định; 67%
cán bộ các bộ, ngành và 56% cán bộ của địa phƣơng thực hiện chế độ bồi
dƣỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm. Đối với cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở và
những ngƣời hoạt động không chuyên trách: đào tạo trình độ chuyên môn cho
cán bộ cấp cơ sở đáp ứng theo tiêu chuẩn quy định đạt gần 75%; 60% cán bộ
cấp cơ sở đƣợc bồi dƣỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành
theo vị trí công việc; 70% công chức cấp cơ sở thực hiện chế độ bồi dƣỡng
bắt buộc tối thiểu hằng năm; 50% những ngƣời hoạt động không chuyên trách
cấp cơ sở đƣợc bồi dƣỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ [Phụ lục
4]. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và cấp cơ sở nói
riêng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
năng động, sáng tạo trong công tác; tích cực thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc. Về trình độ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn của đội ngũ cán bộ ngày càng đƣợc nâng cao, từng bƣớc thích
nghi với cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và xu hƣớng
hội nhập quốc tế. Trong đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã có những
đóng góp quan trọng, trong việc đạt đƣợc những thành tựu trong phát triển
kinh tế - xã hội, đƣa nƣớc ta gia nhập các nƣớc đang phát triển và bảo đảm
vững chắc an ninh, quốc phòng.
Những năm gần đây, đƣợc sự quan tâm của các cấp, các ngành, của
Đảng và Nhà nƣớc trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở về: lý luận chính trị; đƣờng lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nƣớc; kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, về công
tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
xã hội; kiến thức về pháp luật quản lý Nhà nƣớc và một số lĩnh vực khác, đã
61
góp phần nâng cao chất lƣợng cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, bồi dƣỡng lập
trƣờng giai cấp, phẩm chất chính trị, trau dồi phƣơng pháp, kỹ năng trong
công tác quản lý và giải quyết công việc ở địa phƣơng. Góp phần quan trọng
vào việc đẩy mạnh các phong trào thực tiễn ở cơ sở, gắn lý luận với thực tiễn,
giữ vững ổn định chính trị và thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nƣớc phát triển.
2.1.1.2. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa – trừu tượng hóa,
kỹ năng diễn thuyết, thuyết trình và các kỹ năng mềm cần thiết của đội ngũ
lãnh đạo cấp cơ sở ngày càng được nâng cao.
Đội ngũ cán bộ này đƣợc rèn luyện thực tiễn ở địa phƣơng, cùng với sự
quan tâm về mọi mặt của các cấp, của Đảng và Nhà nƣớc, giúp họ đƣợc bồi
dƣỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
các kỹ năng bổ trợ cho công tác quản lý tại cơ sở. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất
làm việc và đời sống của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhìn chung đã đƣợc cải
thiện đáng kể. Tất cả những điều kiện này, đã góp phần giúp cho đội ngũ cán
bộ này nâng cao năng lực tƣ duy lý luận, khả năng nắm bắt, triển khai và tổ
chức thực hiện các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nƣớc, nâng cao năng lực lãnh đạo. Số cán bộ sau khi đƣợc bồi dƣỡng
chƣơng trình trung cấp lý luận chính trị trở lên, đã có 80% hoàn thành tốt
nhiệm vụ đƣợc giao. Điều này đƣợc thể hiện cụ thể thông qua việc họ triển
khai các chủ trƣơng, chính sách xuống cơ sở một cách linh hoạt, có hiệu quả.
Đặc biệt là sự linh hoạt trong việc nghiên cứu tình hình thực tế của các địa
phƣơng, từ đó áp dụng các mô hình phát triển kinh tế cụ thể vào từng đơn vị
nhƣ: mô hình VAC (vƣờn, ao, chuồng), VACR (vƣờn, ao, chuồng, rừng), mô
hình kinh tế trang trại, cây ăn quả đã thu đƣợc kết quả tốt. Tuy những mô hình
này đƣợc triển khai từ lâu, nhƣng khoảng 10 năm trở lại đây đã thu đƣợc
những kết quả, góp phần làm nâng cao đời sống và giải quyết công ăn việc
làm cho nhân dân tại nhiều cơ sở trên cả nƣớc. Trong đó, từ năm 2005 đến
nay các cơ sở ở vùng nông thôn, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã khẩn trƣơng
lãnh đạo nhân dân tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hƣớng
62
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đặc biệt là bắt tay vào việc khai thác và phát
huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế tại cơ sở, quan tâm đến công
tác xây dựng kết cấu hạ tầng bao gồm: điện đƣờng, trƣờng các cấp, trạm y tế,
nhà máy nƣớc sạch, nơi xử lý rác, thực hiện chƣơng trình xóa đói giảm nghèo,
phong trào chăm sóc sức khỏe cộng đồng, kế hoạch hóa gia đình, phong trào
chống suy dinh dƣỡng cho trẻ em, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cƣ, phong trào đền ơn đáp nghĩa, phòng chống các tệ
nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nhƣ vậy,
chính việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã
giúp cho họ có đƣợc tƣ duy khoa học hơn để phát huy những thế mạnh, lợi thế
và khả năng của địa phƣơng mình. Từ đó, hoạch định chiến lƣợc phát triển
kinh tế - xã hội, tạo đà phát triển cho địa phƣơng, điều này không những đáp
ứng đƣợc những yêu cầu trƣớc mắt mà còn mang tính toàn diện, lâu dài, trọng
tâm, trọng điểm tạo nên sự phát triển hài hòa và đồng bộ giữa các địa phƣơng.
2.1.1.3. Cơ sở vật chất và đời sống của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở - nền tảng để phát triển năng lực tư duy lý luận từng bước được cải thiện.
Hiện nay, phần lớn các cấp cơ sở đã có trụ sở làm việc độc lập, đƣợc đầu
tƣ xây dựng kiên cố, có các phòng chức năng nhƣ phòng họp, phòng làm việc,
đƣợc trang bị về cơ bản các trang thiết bị phục vụ công việc nhƣ máy vi tính,
máy in và các trang thiết bị văn phòng phẩm chuyên dụng khác đƣợc trang bị
để đáp ứng nhu cầu làm việc. Về đời sống vật chất và tinh thần, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhận đƣợc sự quan tâm sâu sắc của các cấp, của Đảng
và Nhà nƣớc. Trong đó, đặc biệt là về chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này, nhất là
đối với cán bộ ở các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, các vùng còn gặp
nhiều khó khăn. Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đƣợc hƣởng lƣơng, phụ cấp theo
chế độ quy định của Nhà nƣớc. Những nơi đặc biệt khó khăn đƣợc hỗ trợ về
nơi ở, thăm hỏi động viên tinh thần của cấp trên vào các dịp lễ trong năm, tổ
chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ tại địa phƣơng, đƣợc tham gia học các
63
lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ, bồi dƣỡng chính trị hàng năm, tất cả những điều này
đã góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng công việc và đời sống của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, giúp họ yên tâm công tác.
2.1.1.4. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có thế mạnh về kinh nghiệm
thực tiễn
Nhìn chung trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở hiện nay đã
và đang từng bƣớc đƣợc nâng lên. Phần lớn đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trƣởng
thành từ nông dân lao động, trong hoạt động sản xuất, quản lý lãnh đạo của
các địa phƣơng nên họ có thế mạnh về tƣ duy cụ thể, tƣ duy thực hành. Cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ít nhiều chịu sự ảnh hƣởng và mang tâm lý, tác phong
của ngƣời nông dân, gắn liền với việc giải quyết các công việc cụ thể trong
lao động và sinh hoạt. Chính điều kiện này đã giúp cho đội ngũ cán bộ này có
nhiều kinh nghiệm trong đời sống của từng địa phƣơng, hiểu rõ đƣợc tâm lý
của ngƣời dân, từ đó có năng lực nhất định trong việc điều hành và quản lý
các công tác ở cơ sở. Đồng thời, cấp cơ sở cũng chính là cấp gần với dân nhất
và là nơi trực tiếp cụ thể hóa đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc. Trong đó, cán bộ là những ngƣời trực tiếp quản lý, giải quyết các
công việc ở cơ sở, họ là những ngƣời gần gũi với nhân dân, hiểu rõ tâm lý,
nguyện vọng của dân, tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn phong
phú, tạo khả năng phát hiện các vấn đề và các giải pháp giải quyết vấn đề từ
thực tế, đặc biệt là những giải pháp mang tính chất tình huống. Họ có khả
năng vận dụng không chỉ những kinh nghiệm do chính họ tổng kết rút ra, mà
cả những kinh nghiệm của các địa phƣơng khác. Những vấn đề đó phản ánh
năng lực tƣ duy kinh nghiệm của ngƣời cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, nó
có giá trị nhất định trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của họ và trong việc
phát triển tƣ duy lý luận. Tuy nhiên, nó cũng làm hạn chế tầm hiểu biết sâu
sắc, có cơ sở khoa học, tầm nhìn bao quát và chiến lƣợc, nên chƣa tạo ra đƣợc
năng lực tƣ duy khoa học phổ biến trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở.
Song cũng từ thực tiễn ở cơ sở, đội ngũ cán bộ này từng bƣớc đƣợc rèn luyện,
64
trƣởng thành, tích lũy kinh nghiệm phong phú trong công tác và đã đạt đƣợc
những thành công nhất định. Nhƣng chỉ dừng lại ở tƣ duy thực hành thôi chƣa
đủ, đứng trƣớc những yêu cầu đổi mới đất nƣớc hiện nay, tƣ duy đòi hỏi phải
đƣợc nâng lên trình độ tƣ duy lý luận.
Nhìn chung, với những ƣu điểm trình bày trên cùng với quá trình học
tập, rèn luyện trong công tác thực tiễn, trình độ tƣ duy lý luận của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã có bƣớc phát triển nhất định. Tuy nhiên, tƣ duy khoa
học chƣa đƣợc hình thành một cách phổ biến trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở, bên cạnh những ƣu điểm vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế, yếu kém.
Vì vậy, cần có sự phân tích, đánh giá những hạn chế trong công tác phát triển
tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, từ đó tìm ra nguyên
nhân để có phƣơng hƣớng và giải pháp khắc phục hiệu quả.
2.1.2. Những hạn chế trong công tác phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân
Thứ nhất, trình độ học vấn và trình độ lý luận chính trị của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đang đặt
ra hiện nay
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo
nên nền tảng cho năng lực tƣ duy. Những năm gần đây, trình độ học vấn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta đã đƣợc nâng lên đáng kể. Tuy
nhiên, trình độ học vấn của đa số cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế, đã dẫn đến tình trạng yếu cả về năng lực tƣ duy và tổ chức
thực tiễn tại cơ sở. Trong đó, về trình độ chuyên môn: số cán bộ chƣa qua đào
tạo có 45.071 ngƣời (chiếm 31,06%); số có trình độ sơ cấp là 9.375 ngƣời
(chiếm 6,46%); trung cấp là 52.429 ngƣời (chiếm 36,13%); cao đẳng là 6.095
ngƣời (chiếm 4,20%) và đại học là 32.142 ngƣời (chiếm 22,15%) [Phụ lục 2].
Về trình độ lý luận chính trị: phần lớn cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã đƣợc học
chƣơng trình trung cấp lý luận chiếm khoảng 61%. Số cán bộ đã đƣợc học
chƣơng trình cao cấp lý luận chính trị còn rất ít, còn lại số lƣợng số cán bộ
65
cấp cơ sở mới chỉ dừng lại ở trình độ lý luận mức sơ cấp. Trong đó, số chƣa
qua đào tạo là 25.336 ngƣời (chiếm 17,46%); số có trình độ sơ cấp là 23.639
ngƣời (chiếm 16,29%); trung cấp 89.244 ngƣời (chiếm 61,5%) và cao cấp là
6.893 ngƣời (chiếm 4,75%) [Phụ lục 2]. Số liệu thống kê cho thấy, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thấp hơn so với mặt
bằng chung của đội ngũ cán bộ các cấp. Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ tốt nghiệp trung cấp chiếm đại đa số (cán bộ chiếm tỉ
lệ là 36,13%). Đó là số liệu thống kê trên văn bằng, chứng chỉ còn trong thực
tế không ít cán bộ cấp cơ sở chỉ ở trình độ "cầm tay chỉ việc", nên khi tham
mƣu trong quản lý nhà nƣớc và giải quyết các thủ tục hành chính còn nhiều
lúng túng, dẫn đến sai phạm gây bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân. Với
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị nhƣ vậy, đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở đang gặp phải những thách thức lớn trƣớc những đòi hỏi phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phƣơng hiện nay.
Trong thực tế, một số cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở vẫn chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu công việc; các cấp ủy, chính quyền địa phƣơng chƣa coi trọng
đúng mức công tác đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ,
vì vậy một số chỉ tiêu theo kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ theo quy định
đạt thấp. Cán bộ lãnh đạo chủ yếu vừa học, vừa làm nên còn để công việc chi
phối quá trình học tập, thời gian dành trọn cho việc học tập không nhiều. Có
tình trạng cán bộ không muốn đi học vì đi học có thể bị sắp xếp, điều chuyển
vị trí công tác khác không “hấp dẫn” bằng vị trí hiện tại. Cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở, nhất là cán bộ ngƣời dân tộc, vùng sâu, vùng xa, cán bộ có tuổi, có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn ngại đi học vì phải đi tập trung, không phụ giúp
đƣợc cho gia đình. Công tác đào tạo, bồi dƣỡng mặc dù đã có những cố gắng
đổi mới nhƣng vẫn còn tình trạng chạy theo số lƣợng, chƣa cử đúng đối tƣợng
đào tạo, học chƣa đúng chuyên ngành cần đào tạo, bồi dƣỡng, vì thế chƣa đáp
ứng đƣợc yêu cầu công việc của cơ quan, tổ chức. Việc đào tạo chƣa gắn kết
chặt chẽ với việc sử dụng, nhiều trƣờng hợp đƣợc cử đi đào tạo nhƣng không
66
bố trí công việc theo chuyên ngành đào tạo sau khi tốt nghiệp, gây nên tâm lý
thờ ơ với việc đào tạo. Nội dung và chất lƣợng đào tạo chƣa cao, chƣơng
trình, giáo trình đào tạo, bồi dƣỡng chƣa thật phù hợp với từng đối tƣợng cán
bộ. Việc đào tạo, bồi dƣỡng vẫn còn nặng về lý thuyết, tính ứng dụng chƣa
cao, chƣa chú trọng tính đặc thù riêng biệt của từng vị trí việc làm của cán bộ.
Nội dung và thời lƣợng chung cho các chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng liên
tục thay đổi và cải cách nhƣng hiệu quả chƣa cao, chƣa phù hợp với yêu cầu
thực tiễn của từng ngành, từng địa phƣơng (có điều kiện đặc thù, tính chất,
trình độ phát triển rất khác nhau), chƣa đáp ứng yêu cầu từng vị trí làm việc
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ chƣa
đƣợc thực hiện đồng bộ, mới chỉ đào tạo về lý luận chính trị và chuyên môn
nghiệp vụ mà chƣa chú ý bồi dƣỡng về kỹ năng quản lý, tổ chức, nhất là xử lý
những tình huống trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, trình độ nghiệp vụ về công tác quản lý Nhà nƣớc, quản lý
kinh tế, pháp luật, quản lý văn hóa… ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói
chung còn thấp, chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu trong giai đoạn xây dựng
và phát triển mới của đất nƣớc hiện nay. Nhƣ vậy, do trình độ của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn thấp, dẫn đến năng lực phân tích lý luận và các vấn
đề nảy sinh trong thực tế còn rất lung túng, công tác chỉ đạo, giáo dục, thuyết
phục ở cơ sở thƣờng rơi vào bệnh mệnh lệnh. Vai trò của chức năng giáo dục
còn yếu, việc trao đổi và tranh luận dân chủ trong quá trình công tác còn ít
diễn ra, từ đó dẫn tới việc xa dân, xa rời thực tế ở cơ sở.
Thứ hai, tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn yếu
Nhƣ ở trên đã trình bày, cấp cơ sở là cấp nhỏ nhất trong bộ máy hành
chính của nƣớc ta, là cấp trực tiếp tiếp xúc với nhân dân nhiều nhất. Cấp cơ sở
còn thƣờng đƣợc ví nhƣ “một xã hội thu nhỏ” nên công tác lãnh đạo quản lý ở
đây mang những đặc trƣng riêng là đội ngũ cán bộ này phải chịu trách nhiệm
lãnh đạo, quản lý mọi lĩnh vực nhƣ: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục, y tế, an ninh quốc phòng và rất nhiều các vấn đề cụ thể ở cơ sở đòi hỏi
67
đội ngũ cán bộ lãnh đạo này phải giải quyết thỏa đáng. Với những yêu cầu đặt
ra, yêu cầu ở đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải trau dồi cho mình một hệ thống tri
thức toàn diện, tất nhiên là ở một quy chuẩn nhất định chứ không thể đòi hỏi
ở mức quá cao nhƣ đối với đội ngũ cán bộ ở các cấp, các ngành khác đƣợc.
Do đặc thù công việc hết sức đa dạng ở cơ sở nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh
đạo này phải có một kiến thức phổ quát về các lĩnh vực trong đời sống mới có
thể làm tốt công việc quản lý, lãnh đạo của mình ở cấp cơ sở. Tuy nhiên, thực
trạng thiếu và yếu kém về các loại hình tƣ duy khoa học, trong đó đặc biệt là
sự yếu kém về các tri thức khoa học nói chung bao gồm cả khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên trong tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Sự yếu
kém này một phần là do trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở nƣớc ta còn thấp nên dẫn đến sự hạn chế về trình độ khoa học chung.
Công tác giáo dục, đào tạo và bồi dƣỡng cho đội ngũ cán bộ này về các khoa
học cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên còn ít đƣợc chú trọng. Thời gian qua,
công tác giáo dục, đào tạo và bồi dƣỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở chủ yếu mới dừng lại ở việc quan tâm đến lĩnh vực bồi dƣỡng về: Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, còn số lƣợng cán bộ qua đào tạo về
quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế còn rất hạn chế. Việc thiếu và yếu kém về
các tri thức khoa học nói chung có ảnh hƣởng không nhỏ đến việc phát triển
năng lực và trình độ tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Vì muốn tƣ
duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phát triển đến một trình độ lý luận
cao, lôgic, biện chứng thì không chỉ đòi hỏi về mặt phƣơng pháp và đối tƣợng
để tƣ duy mà còn cần các tiền đề và luận cứ khoa học, trong đó các tri thức
khoa học là nơi cung cấp tiền đề và luận cứ giúp cho quá trình tƣ duy đạt hiệu quả.
Thứ ba, khả năng phân tích, tổng hợp và tư duy trừu tượng của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nước ta còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn
Những năm gần đây trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
68
cơ sở đƣợc nâng lên đánh kể, nhƣng nhìn chung năng lực tƣ duy nhất là tƣ
duy lôgic, khả năng phân tích, tổng hợp của đội ngũ này vẫn còn hạn chế. Mặt
khác, do nhiều các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nên việc tiếp
thu các nguyên lý lý luận, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của
Nhà nƣớc, các tri thức khoa học khác còn rất nhiều hạn chế. Đặc biệt là việc
tiếp thu các kiến thức của môn Triết học, đây là cơ sở khoa học cơ bản, góp
phần quan trọng cho việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Từ thực tiễn công tác đào tạo, bồi
dƣỡng về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở cấp cơ sở tại các trung tâm chính trị của các huyện, trƣờng chính trị tỉnh
cho thấy, số cán bộ tiếp thu khá các môn lý luận chiếm từ 15 – 25%, tiếp thu
có mức độ và còn hạn chế từ 45-55%, số còn lại là yếu [Phụ lục 4]. Thực
trạng này một mặt là do trình độ của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn nhiều hạn
chế, mặt khác do các môn học đa phần là trừu tƣợng, gây khó khăn cho quá
trình tiếp nhận của ngƣời học, chƣa kể tới trình độ và năng lực của giáo viên
cũng còn gặp nhiều hạn chế. Tất cả những điều này đã gây hạn chế rất lớn tới
việc nắm đúng bản chất của các nguyên lý, các khái niệm, phạm trù của triết
học và các môn học khác. Qua khâu kiểm tra, đánh giá cho thấy một số cán
bộ chƣa biết phân tích, chứng minh, trình bày, làm đề cƣơng,… chứng tỏ khả
năng phân tích, tổng hợp kiến thức, suy luận lôgic ở đội ngũ cán bộ này còn
yếu kém. Nhƣ vậy, về cơ bản năng lực trừu tƣợng hóa và khái quát hóa của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn yếu, chƣa sắp xếp đƣợc các mối liên hệ
tất yếu, các khái niệm, phạm trù cũng nhƣ các quy luật trong tƣ duy theo lôgic
và khoa học. Đƣợc thể hiện cụ thể nhất trong việc nhận thức, giải quyết
những công việc thực tế tại cấp cơ sở, họ mới chỉ dừng lại ở các sự kiện mà
chƣa nắm đƣợc bản chất của sự vật, ở cái cụ thể cảm tính và dựa chủ yếu vào
kinh nghiệm để nhận thức, giải quyết các vấn đề cụ thể ở cơ sở.
Thứ tư, trong hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở còn
tồn tại nhiều biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan duy ý chí,
69
phiến diện.
Song song với sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nƣớc, đặc biệt là từ
sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cho đến nay đã có rất nhiều bài viết và
các công trình nghiên cứu về đổi mới tƣ duy. Trong đó, đã chỉ ra những mặt
hạn chế, yếu kém trong tƣ duy của đội ngũ cán bộ nói chung: lạc hậu về lý
luận, yếu kém về tƣ duy lôgic, nặng về tƣ duy siêu hình, các căn bệnh trong
phƣơng pháp của tƣ duy (kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo điều, chủ quan
duy ý chí, phiến diện), đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cũng không nằm
ngoài những hạn chế, yếu kém đó, với những biểu hiện đặc thù riêng ở mỗi cơ
sở. Nhƣ đã trình bày ở phần trên, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta là đội
ngũ gần dân nhất, trực tiếp quản lý, triển khai các hoạt động ở địa phƣơng,
chính vì vậy họ có tƣ duy kinh nghiệm phong phú, đa dạng, nhƣng lại yếu
kém về tƣ duy biện chứng, tƣ duy siêu hình vẫn còn tồn tại. Trong đó, tƣ duy
siêu hình luôn xem xét các sự vật, hiện tƣợng trong trạng thái biệt lập, không
vận động, biến đổi và phát triển, những đặc trƣng này vẫn còn tồn tại trong tƣ
duy của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có tƣ
duy kinh nghiệm phong phú, nhờ sự tích lũy trong quá trình thực tiễn ở cấp cơ
sở, đây đƣợc coi là ƣu điểm trong tƣ duy của đội ngũ cán bộ này. Nhƣng tƣ
duy kinh nghiệm đó lại thu đƣợc chủ yếu bằng con đƣờng trực quan, cảm
tính, chủ yếu thông qua việc tích lũy trong quá trình giải quyết các công việc
cụ thể ở cơ sở. Những tri thức ấy chủ yếu là những kinh nghiệm đời thƣờng, ở
bên ngoài các sự vật, hiện tƣợng mà chƣa đi vào các mối liên hệ bản chất bên
trong sự vật, hiện tƣợng. Để làm đƣợc điều này, cần đến vai trò của tƣ duy lý
luận, chứ không chỉ dừng lại ở tƣ duy kinh nghiệm. Mặt khác, “Đặc điểm cơ
bản của kinh nghiệm không phải là ở chỗ nó phản ánh mối liên hệ bên trong
hay mối liên hệ bên ngoài của sự vật, mà ở chỗ nó bao giờ cũng phản ánh mối
quan hệ riêng biệt hay các quan hệ riêng biệt không liên quan với nhau trong
sự vật. Nội dung của kinh nghiệm biểu hiện ở các sự kiện… mỗi sự kiện phản
ánh một mặt nào đó của sự vật và các sự kiện đƣợc biểu hiện ra là những cái
70
không liên hệ với nhau” [47, tr.37]. Từ đây, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đã hình
thành thói quen xem xét các sự vật, hiện tƣợng trong trạng thái tách rời, cô lập,
không có liên hệ với nhau. Điều này đƣợc biểu hiện trong nhận thức và giải
quyết các vấn đề, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã tách rời các sự việc, giữa
các sự việc không có liên quan với nhau, dẫn tới tách rời giữa cái riêng và cái
chung, nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tƣợng, nhiều trƣờng hợp trong
thực tiễn đã không kết hợp một cách đồng bộ các biện pháp giữa kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... để thu đƣợc hiệu quả ở cơ sở.
Kinh nghiệm thƣờng gắn liền với thực tiễn, đóng vai trò quan trọng
trong cuộc sống, nó cụ thể và sinh động, giúp cho con ngƣời kịp thời điều
chỉnh hoạt động của mình và đƣa ra quyết định trong những hoàn cảnh cụ thể.
Nhƣng tri thức kinh nghiệm chỉ là những khái quát ban đầu gắn với tính cụ
thể, cảm tính, mới đem lại những hiểu biết mang tính riêng lẻ, bề ngoài của sự
vật, dẫn đến tính định hƣớng trong thực tiễn chƣa cao. Những tri thức kinh
nghiệm cần phải đƣợc nâng lên trình độ lý luận, mới có thể đảm bảo cho định
hƣớng cũng nhƣ chỉ đạo các hoạt động trong thực tiễn. Nhìn chung bệnh kinh
nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã làm tuyệt đối hóa vai trò
của kinh nghiệm, biến các kinh nghiệm cụ thể, cá biệt, kinh nghiệm của cá
nhân thành những kinh nghiệm phổ biến áp dụng cho nhiều trƣờng hợp, nó hạ
thấp và chƣa đánh giá đúng vai trò của lý luận, chƣa nhìn thực tiễn trong quá
trình vận động biến đổi. Chính việc quá đề cao kinh nghiệm nên cán bộ cấp
cơ sở thƣờng xem thƣờng việc học tập, bồi dƣỡng nói chung và học tập các
môn lý luận nói riêng, tình trạng ngại học, chƣa tự giác trong học tập, học qua
loa lấy lệ vẫn còn khá phổ biến. Điều này đã làm cho học không đi đôi với
hành, lý luận và thực tiễn tách rời nhau, tách rời tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận.
Nhƣ vậy, việc yếu kém về tƣ duy lý luận, lại mang nặng tƣ duy siêu
hình và bệnh kinh nghiệm đã tất yếu kéo theo bệnh chủ quan duy ý chí, phiến
diện trong nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Biểu hiện là lấy ý
71
muốn chủ quan thay cho quy luật khách quan, nhìn các sự vật không trong
tổng thể các mối quan hệ mà mới chỉ dừng lại ở một chiều dẫn tới việc định
hƣớng và chỉ đạo hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở
còn nhiều hạn chế và chƣa mang lại hiệu quả. Đặc biệt là trong quá trình triển
khai các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng ở cơ sở. Khi đề ra các
chủ trƣơng, nghị quyết ở cấp cơ sở, đội ngũ này ít có sự đầu tƣ nghiên cứu,
điều tra, lên kế hoạch một cách khoa học, vì nghĩ mình là cán bộ cấp cơ sở
nên nắm rõ thực tế ở địa phƣơng, do vậy không cần phải điều tra, lên kế
hoạch cụ thể dẫn đến tình trạng cái gì cũng nắm chung chung, việc đƣa ra các
nghị quyết thƣờng mang nặng tính chủ quan. Qúa trình tổ chức thực hiện các
công việc cụ thể không đƣợc tiến hành một cách đồng bộ, chặt chẽ từ các
khâu ra kế hoạch, phân công cho đến khâu kiểm tra, giám sát, nhất là việc
tổng kết rút kinh nghiệm vẫn còn mang tính hình thức. Hoạt động của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở vẫn chủ yếu dừng lại ở việc triển khai các nghị
quyết, công tác tổng kết thực tiễn, nhƣng để góp phần giải quyết một cách
triệt để những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn vẫn chƣa thực sự có hiệu quả và
đƣợc coi trọng.
* Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Những hạn chế trong việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay là do rất nhiều các nguyên nhân khác
nhau. Trong đó, bao gồm nguyên nhân khách quan và chủ quan, có những
nguyên nhân chung cho cả nƣớc và cả những nguyên nhân mang đặc thù riêng
của cơ sở. Trên cơ sở trình bày những ƣu điểm và hạn chế trong việc phát
triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, để thấy rõ những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong việc phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ này.
Nguyên nhân khách quan
Điều kiện kinh tế - xã hội của nƣớc ta nhìn chung còn thấp, với nền sản
72
xuất nhỏ trong đó chủ yếu là sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Phần
lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở sinh sống ở các vùng nông thôn là chủ
yếu, đặc biệt là gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh
mún gắn với các địa phƣơng ở cơ sở, là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự hạn chế trong việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở cấp cơ sở. Với nền văn minh nông nghiệp và sản xuất còn lạc hậu nhƣ
vậy, nên chủ yếu trình độ tƣ duy của đội ngũ này là ở trình độ tƣ duy kinh
nghiệm, giản đơn. Vì vậy, nó chƣa cho phép tƣ duy con ngƣời có đƣợc sự
trừu tƣợng hóa, khái quát hóa mang tính khoa học để đi sâu vào nắm bắt
những quy luật khách quan của sự vật, hiện tƣợng, tƣ duy con ngƣời chủ yếu
mới dừng lại ở những kinh nghiệm trực quan, bề ngoài của sự vật. Do đó, cần
phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lƣợng đời sống về
mọi mặt cho nhân dân thì mới có thể khắc phục đƣợc những hạn chế trong tƣ
duy cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, cũng nhƣ cán bộ và nhân dân cả nƣớc. Song
song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cũng là đồng thời với quá trình
khắc phục những hạn chế trong tƣ duy của cán bộ cấp cơ sở nói riêng và đội
ngũ cán bộ nƣớc ta nói chung, hai quá trình này nằm trong mối quan hệ biện
chứng, vừa tác động vừa hỗ trợ lẫn nhau.
Bên cạnh điều kiện sống và công tác thuận lợi ở các cấp cơ sở tại các
tỉnh và thành phố trong cả nƣớc, thì đa số các cấp cơ sở ở các vùng nông thôn
còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ dân trí nói
chung còn thấp, làm cho việc giao lƣu văn hóa hạn hẹp, ít có điều kiện học
tập, rèn luyện tƣ duy lý luận. Đặc biệt phải kể tới những vùng nông thôn,
vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn, ở đó khả năng cập nhật các thông tin lý
luận, khoa học rất hiếm, các nguồn tài liệu, sách, tạp chí về các lĩnh vực còn
ít. Đa số cán bộ ở đây có trình độ học vấn thấp, phần lớn mới dừng ở trình độ
học bổ túc văn hóa, chƣa có đầy đủ trình độ văn hóa phổ thông làm nền tảng,
phần lớn chƣa đƣợc học lý luận chính trị cơ bản. Chính do trình độ văn hóa
73
còn thấp dẫn tới khả năng tiếp thu lý luận còn hạn chế, chƣa xây dựng đƣợc
phƣơng pháp tƣ duy khoa học nên vẫn duy trì phƣơng pháp và phong cách tƣ
duy cũ, đã ăn sâu trong tƣ duy của ngƣời cán bộ từ lâu.
Trong những năm gần đây, đƣợc sự quan tâm của các cấp chính quyền,
cơ sở vật chất phục vụ cho công việc của cán bộ cấp cơ sở nói riêng và toàn
cấp cơ sở nói chung đã đƣợc đầu tƣ xây dựng, trang bị đáng kể. Song vẫn
đang trong quá trình hoàn thiện, nhiều cơ sở còn chƣa có trụ sở làm việc kiên
cố, chƣa trang bị đầy đủ và đồng bộ các phƣơng tiện làm việc, hoặc còn ở
mức sơ sài chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Ngoài ra, kinh phí dành cho việc thực hành, khảo sát các vấn đề thực tế ở cấp
cơ sở còn thấp và chƣa đƣợc thực hiện thƣờng xuyên.
Nguyên nhân chủ quan
Về công tác giáo dục, đào tạo: Trong thời gian qua, đƣợc sự quan tâm,
tạo điều kiện của các cấp, các ngành, của Đảng và Nhà nƣớc công tác nâng
cao trình độ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đã từng bƣớc đƣợc cải
thiện. Song về cơ bản công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ cho đội
ngũ này vẫn chƣa đƣợc đồng bộ và thiếu tầm nhìn, mới chỉ chú ý đến việc
nâng cao trình độ lý luận chính trị mà chƣa chú trọng đến việc từng bƣớc
nâng cao trình độ văn hóa và khoa học. Qua số liệu thống kê cho thấy: số cán
bộ cấp cơ sở chƣa đƣợc đào tạo trình độ chuyên môn đáp ứng theo tiêu chuẩn
quy định đạt gần 25%; 40% cán bộ cấp cơ sở chƣa đƣợc bồi dƣỡng kiến thức,
kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc; 20% cán bộ cấp cơ
sở thực hiện chế độ bồi dƣỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm; 50% những ngƣời
hoạt động không chuyên trách cấp cơ sở đƣợc bồi dƣỡng kiến thức phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ [Phụ lục 4]. Nhìn chung, chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở chƣa đƣợc cải thiện rõ rệt so với yêu cầu
cải cách hành chính. Trong đó, vẫn còn một số cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở
của địa phƣơng vùng sâu, vùng xa chƣa đạt trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn
74
quy định, tình trạng làm việc không theo chuyên môn đào tạo còn nhiều.
Về nội dung chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng lý luận còn chậm đổi
mới, nhiều bài học bị trùng lặp, nặng về lý thuyết, chƣa nhanh nhậy trong việc
cập nhật các thông tin mới. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy, ngƣời dạy
chƣa áp dụng các phƣơng pháp dạy học tích cực mà vẫn sử dụng các phƣơng
pháp truyền thống nặng về thuyết trình, đọc chép,… làm cho ngƣời học tiếp
thu kiến thức một cách rời rạc, thụ động, nhàm chán, gây ảnh hƣởng tới quá
trình lĩnh hội kiến thức và phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở. Công tác đào tạo ở các trƣờng chính trị vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, biểu
hiện ngay từ mô hình đào tạo, chuẩn đầu vào, đầu ra cho cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở chƣa có các tiêu chí rõ ràng. Nội dung chƣơng trình đào tạo, mặc dù đã
có nhiều cải tiến nhƣng nhìn chung mới chỉ dừng lại ở lý luận chung, còn
thiếu nhiều các môn học mang tính nghiệp vụ về công tác Đảng, công tác
chính quyền, phong cách lãnh đạo, quản lý,… chƣa đƣợc đƣa vào chƣơng
trình học. Về phƣơng pháp đào tạo, chủ yếu vẫn là các phƣơng pháp truyền
thống, chƣa có sự đổi mới nhiều trong phƣơng pháp nên chƣa phát huy đƣợc
tính chủ động, sáng tạo của ngƣời học, chƣa gắn ngƣời học với những yêu cầu
công việc cụ thể của họ, dẫn tới việc ngƣời học bị hạn chế trong việc hiểu rõ
và nắm bắt đúng các nguyên lý, phạm trù, quy luật, tri thức khoa học. Vì vậy,
cần đổi mới, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dƣỡng cho
cán bộ lãnh đạo nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng.
Đổi mới nội dung chƣơng trình, giáo trình, phƣơng pháp và tài liệu giảng dạy
cho phù hợp, theo yêu cầu của vị trí việc làm, trong đó chú trọng kỹ năng thực
tiễn áp dụng cho từng đối tƣợng ngƣời học; cần có sự liên thông trong nội
dung chƣơng trình, giảm bớt những nội dung trùng lắp. Nghị định
số18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ, công chức nhấn mạnh: "Đào tạo, bồi dƣỡng theo vị trí việc làm nhằm
trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phƣơng pháp cần thiết để làm tốt công
75
việc đƣợc giao".
Trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, tình trạng ngại học, chƣa tự
giác học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ nhận thức còn phổ biến. Thực
trạng này là do đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở chƣa tự nhận thức đƣợc
việc cần phải nâng cao trình độ của mình quan trọng đến mức nào, đặc biệt là
trƣớc những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao đối với ngƣời cán bộ trong thời
kỳ đổi mới đất nƣớc hiện nay. Mặt khác, cơ chế để tạo động lực học tập, rèn
luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
vẫn chƣa đƣợc chú trọng, chƣa có quy chế cụ thể quy định tiêu chuẩn cán bộ
cơ sở. Hơn nữa, trong công tác quy hoạch cán bộ chƣa chú ý đến trình độ văn
hóa cũng nhƣ trình độ lý luận chính trị. Bên cạnh đó, đời sống vật chất và tinh
thần của cán bộ cấp cơ sở nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn, nên ngoài việc
công tác họ còn phải chăm lo cho cuộc sống của mình. Vì vậy, những vấn đề
trên chƣa tạo đƣợc động lực học tập, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở.
Công tác tổ chức cán bộ, quy hoạch và đào tạo cán bộ cấp cơ sở trong
thời gian qua đã có những bƣớc phát triển mới. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
nhiều mặt hạn chế hết sức cơ bản, năng lực tổ chức thực tiễn của một bộ phận
cán bộ cấp cơ sở chƣa tƣơng xứng với trình độ đào tạo, trình độ quản lý nhà
nƣớc và tổ chức điều hành còn nhiều hạn chế. Trong đó, đội ngũ cán bộ chƣa
đƣợc đồng bộ, thiếu cán bộ đặc biệt là đội ngũ cán bộ giỏi, tâm huyết với
công việc. Công tác tổ chức cán bộ nhƣ: khâu tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán
bộ chƣa đi vào kế hoạch chặt chẽ, chƣa chú trọng về mặt trình độ văn hóa và
trình độ lý luận. Công tác tuyển dụng vẫn còn nhiều bất cập, việc tuyển dụng
viên chức sự nghiệp còn phân tán, hình thức, gây lãng phí cho Nhà nƣớc.
Công tác quy hoạch cán bộ chƣa đƣợc đi vào kế hoạch, chƣa có sự kết hợp
đồng bộ giữa quy hoạch ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt là tiêu chuẩn chung của
ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở chƣa đƣợc đƣa vào quy chế. Công tác quy
hoạch cán bộ ở cấp cơ sở còn chƣa gắn chặt với công tác đào tạo, giữa đào tạo
76
với sử dụng nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác
kiểm tra, đánh giá và quản lý cán bộ vẫn còn hạn chế, thiếu cụ thể, thiếu khoa
học. Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế,
khuyết điểm, yếu kém. Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ chƣa
thực sự gắn với quy hoạch cán bộ, do đó chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về đạo
tạo cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Tất cả những vấn đề trên, đã gây ảnh hƣởng
không nhỏ đến việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
Công tác lãnh đạo thƣờng dừng lại ở các chủ trƣơng, còn thiếu các biện
pháp cụ thể, khâu kiểm tra, phối hợp giữa các ngành chƣa đƣợc chặt chẽ,
đồng bộ. Trong công tác chỉ đạo thiếu các biện pháp quyết liệt trong xử lý
công việc cụ thể ở cơ sở, thiếu tầm nhìn chiến lƣợc. Đội ngũ cán bộ này còn
mang nặng tâm lý ngại học, chỉ cần làm chƣa cần học nhiều, hay đối với cán
bộ cấp cơ sở thì chỉ cần học lý luận là có thể lãnh đạo đƣợc. Dẫn đến thực
trạng về trình độ tƣ duy nói chung của đội ngũ cán bộ này chƣa đƣợc nâng lên
một cách đồng bộ và vận dụng đƣợc lý luận vào thực tiễn công tác của mình.
Do vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở gặp phải rất nhiều khó khăn trong
quá trình học tập và công tác.
2.2. Những yêu cầu và phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra nhiều vấn
đề mới, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải không ngừng học tập,
phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt, đặc biệt là phát triển tư duy lý luận.
Thực tiễn luôn vận động, phát triển không ngừng, nó giữ một vai trò quan
trọng đối với việc phát triển tri thức và nhận thức lý luận của con ngƣời. Xuất
phát từ thực tiễn sinh động, luôn vận động và phát triển đã tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển tƣ duy lý luận, thực tiễn trở thành cơ sở và động lực cho sự
77
phát triển tƣ duy lý luận, từ đó đảm bảo cho tƣ duy lý luận phù hợp với thực
tiễn. Nhƣ vậy, thực tiễn càng phát triển đồng thời sẽ đặt ra những yêu cầu
mới, đòi hỏi tƣ duy của con ngƣời cũng phải thay đổi và phát triển để đáp ứng
những yêu cầu của thực tiễn. Những năm qua, đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi
mới theo hƣớng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thực tiễn đổi mới đã đặt ra
những yêu cầu mới trên mọi phƣơng diện, nhất là đòi hỏi ngày càng cao đối
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và ngay cả đội ngũ cán bộ cấp cơ sở -
những ngƣời trực tiếp thực hiện công tác quản lý ở địa phƣơng. Thực tiễn đổi
mới đất nƣớc, đó là thời kỳ chuyển đổi nền sản xuất ở trình độ thủ công sang
trình độ cơ khí hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp – công nghiệp
– dịch vụ sang cơ cấu kinh tế công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ; xây dựng
xã hội theo mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”; xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Đứng trƣớc thực tiễn này, đòi hỏi ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải không
ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ, trong đó đặc biệt chú ý đến việc phát triển
tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này. Những yêu cầu của thực tiễn, đã đặt ra
những đòi hỏi cao hơn ở đội ngũ cán bộ các cấp nói chung - những ngƣời trực
tiếp giúp đỡ Đảng và Nhà nƣớc trong việc điều hành bộ máy hành chính các
cấp. Chính vì vậy, trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc đã dành
sự quan tâm hơn đến các hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trong đó đặc
biệt quan tâm tới đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Cấp cơ sở là cấp nhỏ
nhất trong bộ máy hành chính của nƣớc ta, nhƣng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là
những ngƣời trực tiếp tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động ở địa phƣơng,
trực tiếp tiếp xúc và lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời tiếp thu những
ý kiến và kiến nghị của nhân dân. Do vậy, đòi hỏi ngày càng cao ở đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải là những ngƣời có trình độ về văn hóa, trình
độ lý luận, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng với nhân dân, biết
lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân; nắm đƣợc thực chất đƣờng lối, chủ
trƣơng của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc để vận dụng và cụ thể hóa vào thực
78
tiễn, giúp cho công tác ở cơ sở đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện đƣợc
những mục tiêu đó, đòi hỏi ngƣời cán bộ này phải có khả năng tổng hợp, phân
tích, trừu tƣợng hóa, khái quát hóa, quan điểm đồng bộ hệ thống; đảm bảo cho
các hoạt động thực tiễn ở địa phƣơng đƣợc giải quyết có hiệu quả, nhất là
những vấn đề trọng tâm, tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển toàn diện nền
kinh tế - xã hội ở cơ sở theo đúng mục tiêu định hƣớng. Đất nƣớc đang bƣớc
vào thời kỳ đổi mới cả về chiều sâu và quy mô, do đó yêu cầu cần phải phát
triển toàn diện, đồng bộ về kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học - công nghệ hiện đại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ. Để làm
đƣợc điều này, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải có trình độ tƣ
duy lý luận, năng động, sáng tạo trong việc đánh giá, xử lý các vấn đề thực
tiễn và trong các mối liên hệ của chúng, từ đó xây dựng các phƣơng án và kế
hoạch hoạt động cụ thể ở cơ sở. Tuy nhiên, để hoạt động lãnh đạo, quản lý ở
cấp cơ sở đáp ứng đƣợc các yêu cầu của thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay
trên các phƣơng diện của đời sống xã hội, không chỉ cần phải phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo mà còn phải quan tâm tới các vấn
đề đổi mới về kinh tế, chính trị, văn hóa… nhƣ vậy, mới có thể đáp ứng
đƣợc yêu cầu của thực tiễn luôn vận động, phát triển ở nƣớc ta hiện nay.
Thứ hai, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải nắm được bản chất khoa học
của tư duy lý luận, thực chất lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
năng lực vận dụng lý luận vào xử lý, giải quyết các vấn đề thực tiễn tại cơ sở.
Tăng cƣờng công tác đổi mới, giáo dục, bồi dƣỡng lý luận Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần tác động trực tiếp đến việc
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta nói
riêng, cũng nhƣ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung. Bởi lý
luận Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn không thể thiếu để
đảm bảo cho sự phát triển tƣ duy lý luận biện chứng. Bản chất của chủ nghĩa
79
Mác – Lênin là phép biện chứng duy vật, đƣợc Mác – Ăngghen – Lênin xây
dựng học thuyết với một hệ thống lý luận chặt chẽ, hoàn chỉnh gồm ba bộ
phận: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là một
hệ thống lý luận mang tính khoa học, cách mạng, đã vạch ra những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tƣ duy con ngƣời, chỉ ra quy luật vận động
của chủ nghĩa tƣ bản, trở thành cơ sở khoa học và phƣơng pháp luận cho giai
cấp công nhân, các Đảng Cộng sản và các nƣớc xã hội chủ nghĩa trên thế giới
xây dựng đƣờng lối cách mạng của nƣớc mình. Toàn bộ hệ thống lý luận Mác
– Lênin, cũng nhƣ mỗi nguyên lý lý luận luôn có sự gắn bó chặt chẽ giữ nội
dung và phƣơng pháp, chúng luôn nằm trong quá trình vận động và phát triển,
trái ngƣợc với những giáo điều, xơ cứng. Lý luận Mác - Lênin là lý luận biện
chứng về sự phát triển, giải phóng con ngƣời đầy đủ và hoàn chỉnh nhất từ
trƣớc đến nay, nó sẽ luôn vận động và phát triển. Vì vậy, việc học tập nâng
cao trình độ lý luận Mác – Lênin góp phần làm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở nắm đƣợc những tri thức khoa học, phƣơng pháp biện chứng của lý
luận Mác – Lênin, cơ sở khoa học nền tảng của việc phát triển tƣ duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ các cấp nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa tinh thần biện chứng của dân tộc
và vận dụng một cách sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình giải quyết các vấn đề của
cách mạng Việt Nam, đã đóng góp to lớn trong việc phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin trong nhiều vấn đề quan trọng về Đảng, phƣơng pháp cách mạng, về
chủ nghĩa nhân đạo, về văn hóa, đặc biệt là sự phát triển của lý luận Mác –
Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nƣớc
thuộc địa, nửa phong kiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dặn dò đội ngũ cán
bộ lãnh đạo nƣớc ta rằng: “Học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, học
lập trƣờng, quan điểm và phƣơng pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng
lập trƣờng, quan điểm và phƣơng pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề
thực tiễn trong công tác cách mạng của chúng ta… khi học tập là nhằm mục
80
đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận… khi vận dụng
thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ
thực tiễn cách mạng của ta” [12, tr.101-102]. Tƣ tƣởng Hồ chí Minh mang
tính cách mạng, khoa học và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Vì vậy, cùng với việc nâng cao trình độ lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, việc học tập và tiếp thu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một yêu
cầu quan trọng giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và đội
ngũ cán bộ ở cơ sở nói riêng rèn luyện và phát triển tƣ duy lý luận.
Nhƣ vậy, yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là
phải nắm bắt và hiểu đƣợc nội dung, phƣơng pháp khoa học của lý luận Mác
– Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn ở
cơ sở. Thông qua nghiên cứu lý luận, ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có điều
kiện để học tập, rèn luyện và phát triển tƣ duy lý luận. Đồng thời, việc nắm
bắt bản chất của lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các đƣờng lối,
chủ trƣơng của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc chính là tiền đề khoa học
giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo này nâng cao năng lực tƣ duy về kinh tế,
chính trị, tƣ tƣởng, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh quốc phòng,… nhất là
trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Từ đó
phát triển năng lực quản lý, lãnh đạo của cán bộ cấp cơ sở một cách toàn diện,
biết khai thác các thế mạnh của cơ sở, phát triển các lĩnh vực ở cấp cơ sở một
cách đúng đắn theo đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nƣớc, đảm bảo cho hoạt động ở cơ sở đạt hiệu quả cao. Để làm đƣợc
điều này, đòi hỏi ngƣời cán bộ phải nâng cao trình độ tƣ duy lý luận của
mình, nắm vững các đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc. Do vậy,
yêu cầu đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải thƣờng xuyên trau dồi, nâng
cao trình độ tƣ duy lý luận, cũng nhƣ năng lực lãnh đạo, quản lý một cách
toàn diện trên các lĩnh vực ở cơ sở.
Thứ ba, phải nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp
81
vụ, đẩy mạnh công tác tự học và rèn luyện; khả cập nhật và xử lý thông tin
một cách nhanh nhậy, chính xác, nhất là các thông tin thời sự, kinh tế, văn
hóa, khoa học, xã hội…
Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là những ngƣời trực tiếp tổ chức, quản lý các
hoạt động ở địa phƣơng; đƣa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nƣớc đi vào đời sống của nhân dân, đồng thời trực tiếp
lắng nghe và tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của nhân dân. Vì vậy, đòi hỏi
ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải là những ngƣời có trình độ về mọi mặt,
làm việc với tinh thần, trách nhiệm cao, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân.
Để có thể đảm đƣơng một cách tốt nhất những vai trò đó, ngƣời cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở phải có trình độ, năng lực về mọi mặt của đời sống xã hội nhƣ:
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo… Đứng trƣớc những yêu cầu
đổi mới của nƣớc ta hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, phải
ngày càng đƣợc đào tạo hệ thống, chính quy hơn; phải có trình độ cao cấp về
lý luận, có sự chuẩn hóa trình độ đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nếu không
sẽ rất khó để khắc phục đƣợc những yếu kém trong quá trình lãnh đạo, quản
lý ở cơ sở. Bởi vì, về cơ bản công tác quản lý, tổ chức trong thực tiễn chịu sự
chi phối của năng lực trí tuệ, trình độ văn hóa. Điều này có ảnh hƣởng và liên
quan trực tiếp tới công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ, đặc
biệt trong những năm gần đây phƣơng châm trẻ hóa đội ngũ cán bộ để đảm
bảo thực chất về trình độ học vấn đạt đƣợc của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Khi
đội ngũ cán bộ này có trình độ học vấn cao mới có một nền tảng tri thức, khả
năng trừu tƣợng hóa, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp các vấn đề, khả năng
học tập nắm bắt bản chất của các lý luận một cách hệ thống. Từ đó, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở nƣớc ta hiện nay về cơ bản vẫn còn thấp. Vì vậy, cần phải tiếp tục nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một yêu cầu cấp bách đối với đội ngũ
82
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Bởi trình độ chuyên môn nghiệp vụ không những
có tác động trực tiếp đến hoạt động lãnh đạo, quản lý mà còn có ảnh hƣởng
sâu sắc đến sự phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này. Trong quá
trình bồi dƣỡng, trau dồi kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và nghiên cứu
vận dụng các kiến thức chuyên môn, những tri thức khoa học đó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở rèn luyện, phát triển tƣ
duy và phong cách quản lý, lãnh đạo một cách khoa học.
Bên cạnh đó, để phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở, họ cần phải đẩy mạnh công tác tự học và rèn luyện; khả năng nắm
bắt, xử lý thông tin nhạy bén, đầy đủ và chính xác. Trong công tác tự học và
rèn luyện, thực trạng coi nhẹ học tập lý luận ở đội ngũ cán bộ này còn khá
phổ biến, bệnh ngại học nhất là việc học và bồi dƣỡng về văn hóa còn chƣa tự
giác, gây ảnh hƣởng xấu đến việc nâng cao trình độ tƣ duy cho ngƣời cán bộ.
Đồng thời gây ảnh hƣởng trực tiếp đến công tác lãnh đạo, quản lý ở địa
phƣơng, tình trạng học lấy vì và học để chống chế còn phổ biến, dẫn tới kết
quả học chƣa cao và chƣa vận dụng vào thực tiễn công tác ở cấp cơ sở một
cách hiệu quả. Do vậy, đòi hỏi ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần phải nâng
cao ý thức tự học, tự rèn luyện về trình độ văn hóa, trình độ lý luận chính trị,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và các kỹ năng khác liên quan đến công tác
lãnh đạo, quản lý. Về khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, trong xã hội hiện
nay thông tin về mọi lĩnh vực rất đa dạng và phong phú nhƣ: kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục, lý luận, khoa học công nghệ, thông tin ở các cấp từ thấp
đến cao, thông tin trong nƣớc và quốc tế, thông tin chính xác đã đƣợc định
hƣớng đến những thông tin sai lệch, xuyên tạc đi chệch đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Trong khi đó, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và đặc biệt là cán bộ ở cấp cơ sở rất
cần thiết phải có thông tin và cập nhật thông tin thƣờng xuyên để có điều kiện
mở mang kiến thức, cũng nhƣ nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt. Trƣớc
sự bùng nổ thông tin nhiều chiều, phong phú, có những thông tin chính xác,
83
có những thông tin sai lệch gây bất lợi cho quá trình tiếp cận và nhận thức của
ngƣời cán bộ. Vậy việc tiếp cận, nắm bắt, xử lý và sử dụng thông tin nhƣ thế
nào cho có chọn lọc và đạt đƣợc hiệu quả là một vấn đề hết sức quan trọng.
Vì đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ngoài việc nắm bắt thông tin để nâng
cao hiểu biết và trình độ cho mình, còn cần phải định hƣớng, phổ biến đƣợc
các thông tin cho cấp dƣới và nhân dân phân biệt đƣợc đúng sai trong quá
trình cập nhật thông tin, từ đó giữ vững đƣợc ổn định xã hội địa phƣơng về
mọi mặt trong điều kiện bùng nổ thông tin. Việc tiếp cận, xử lý và sử dụng
các thông tin qua các nguồn từ sách, báo, tạo chí, internet,… một cách đúng
đắn, chính xác và có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở mang sự hiểu
biết, nâng cao tri thức, trình độ, năng lực về mọi mặt nói chung, đồng thời
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng. Để
thực hiện đƣợc những yêu cầu này, đòi hỏi ngƣời cán bộ phải chịu khó đọc,
nghe, quan sát, sử dụng thành thạo máy vi tính, để có thể lựa chọn những
thông tin cần thiết, bổ ích để bồi dƣỡng và làm phong phú thêm trình độ, năng
lực lãnh đạo, quản lý của mình ở cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, phải tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo và sự quan tâm
của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở.
Yêu cầu về trình độ đối với cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở vừa toàn diện,
vừa chuyên sâu theo từng loại cán bộ, trên từng lĩnh vực hoạt động. Yêu
cầu trong công tác bồi dƣỡng, đào tạo cán bộ vừa phải cơ bản, toàn diện,
vừa theo chuyên ngành mới sát với thực tế ở mỗi cơ sở. Trong từng lĩnh
vực lại có cán bộ chuyên môn, nhƣng trên cƣơng vị của ngƣời cán bộ lãnh
đạo yêu cầu cần phải có tri thức nhất định mới đảm bảo cho công tác quản
lý ở cơ sở đạt hiệu quả, thuận lợi trong việc sử dụng cán bộ chuyên môn,
nghiệp vụ. Do đó, cần tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng, học tập
thƣờng xuyên và tự rèn luyện trong hoạt động ở cơ sở. Năng lực lãnh đạo,
quản lý là sản phẩm của việc đƣợc đào tạo có hệ thống ở trƣờng, vừa là kết
84
quả của việc rèn luyện và rút kinh nghiệm trong công tác thực tế. Thông
qua đó giúp cho đội ngũ cán bộ này rèn luyện, nâng cao trình độ văn hóa,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị,… gắn học với
hành, lý luận đƣợc học đem áp dụng vào giải quyết các vấn đề trong thực
tiễn ở cơ sở; đƣa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nƣớc đi vào đời sống của nhân dân, biến chúng trở nên gần
gũi và đi vào phong trào trong nhân dân. Song cũng tạo ra môi trƣờng
thuận lợi, giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có thể rèn luyện về mọi
mặt và góp phần cung cấp đội ngũ cán bộ nguồn cho tuyến trên. Có làm tốt
những công tác này, thì các hoạt động ở cấp cơ sở mới có thể phát triển
theo định hƣớng mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra.
Thứ năm, để phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở ở nước ta hiện nay, cần phải kiên quyết đấu tranh chống phương pháp
tư duy siêu hình, các biểu hiện của bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý…
Hiện nay, nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ đổi mới, đã và đang tạo ra những
đòi hỏi cấp bách đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải mở rộng tầm nhìn, trình độ trí
tuệ và tƣ duy một cách toàn diện. Mọi tri thức đều bắt nguồn từ thực tiễn nên
trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ của con ngƣời phát triển, chính
trong đó nhận thức, lý luận của con ngƣời đƣợc hình thành và phát triển. Để
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, đòi hỏi các chủ thể
phải luôn bám sát vào thực tiễn, có khả năng nắm bắt thực tế để giải quyết các
vấn đề, năng lực quan sát, khái quát và sáng tạo trong hoạt động ở cơ sở. Nếu
ngƣời cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý của mình mà xa rời thực tiễn ở
cơ sở, sẽ dễ dẫn đến các kết quả theo ý chủ quan, bệnh giáo điều, không phù
hợp với quy luật khách quan. Bởi lý luận luôn xuất phát từ thực tiễn, phải là
sự khái quát, tổng hợp từ những kinh nghiệm trong thực tế và từ những hệ
thống tri thức của con ngƣời.
Phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc
ta hiện nay là một yêu cầu cấp thiết, nhất là trƣớc thực tiễn đổi mới đất nƣớc
85
đang đặt ra nhiều vấn đề mới, đòi hỏi ngƣời cán bộ phải không ngừng học tập,
phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt. Yêu cầu cơ bản là họ phải nắm đƣợc
bản chất khoa học của tƣ duy lý luận, thực chất lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nƣớc; năng lực vận dụng lý luận vào xử lý, giải quyết các vấn đề
thực tiễn tại cơ sở. Đồng thời, phải nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đẩy mạnh công tác tự học, rèn luyện; khả năng cập nhật và xử
lý thông tin một cách nhanh nhậy, chính xác, nhất là các thông tin thời sự,
kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội và các vấn đề liên quan đến công tác quản
lý, lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Mặt khác, phải tăng
cƣờng sự quản lý, chỉ đạo, quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền các
cấp đối với công tác đào tạo, bồi dƣỡng, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở cấp cơ sở; kiên quyết đấu tranh chống phƣơng pháp tƣ duy siêu
hình, các biểu hiện của bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí ở đội ngũ cán bộ
lãnh đạo này. Song phải luôn theo sát tình hình thực tiễn, rèn luyện trong môi
trƣờng thực tiễn ở cơ sở và luôn có ý thức học tập các tấm gƣơng điển hình
trong công tác lãnh đạo, quản lý ở các cấp cơ sở khác và các cấp trong cả
nƣớc. Bên cạnh đó, cần phải đổi mới chính sách đãi ngộ, xây dựng trụ sở làm
việc kiên cố, đầu tƣ đầy đủ các phƣơng tiện, trang thiết bị làm việc, tạo mọi
điều kiện thuận lợi để cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở công tác đạt hiệu quả. Có
thực hiện đƣợc những yêu cầu trên, mới tạo điều kiện thuận lợi và môi trƣờng
thực tiễn quan trọng cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và phát
triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
2.2.2. Những phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu
quả đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, nhằm nâng cao trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, khả năng nắm bắt và xử
86
lý thông tin kịp thời cho đội ngũ này.
Thứ nhất, việc tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần phải tiến hành chuẩn hóa chƣơng trình đào tạo,
chƣơng trình bồi dƣỡng chức danh, xóa bỏ các quy định trùng lặp về tiêu
chuẩn đào tạo. Đáng lƣu ý là đội ngũ cán bộ lãnh đạo này đƣợc hình thành
qua bầu cử, thƣờng xuyên có sự luân chuyển vị trí, chức danh công tác giữa
công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Vì vậy, việc xây dựng các chƣơng
trình đào tạo cơ bản chung cho tất cả các chức danh cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
và các chƣơng trình bồi dƣỡng riêng cho mỗi chức danh nhƣ: chủ tịch, phó
chủ tịch, bí thƣ, phó bí thƣ, trƣởng các ban ngành,… là hết sức cần thiết, làm
đƣợc nhƣ vậy mới tránh đƣợc sự trùng lặp, góp phần thiết thực vào việc nâng
cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Thứ hai, về nội dung chƣơng trình đào tạo, cần phải cụ thể hóa nội
dung chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm
của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
xã phần lớn đều xuất thân từ nông dân, sinh sống ở nông thôn, đa dạng về
trình độ học vấn, thâm niên công tác. Trong khi đó nội dung chƣơng trình còn
dàn trải, nặng về lý thuyết, kiến thức nghiệp vụ chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức, chƣa gắn với thực tiễn lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này. Vậy để
nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng thì đòi hỏi chƣơng trình đào tạo cần
phải đƣợc đổi mới, đổi mới nội dung chƣơng trình phải xuất phát từ tình hình
chung của đất nƣớc, từ những nhiệm vụ của cơ sở trong giai đoạn hiện nay và
trong tƣơng lai. Từ thực tiễn công tác, cũng nhƣ căn cứ vào những quy định
của Đảng, Nhà nƣớc về đào tạo cán bộ làm căn cứ cho việc nghiên cứu, sửa
chữa, bổ sung và đổi mới chƣơng trình. Đồng thời, kế thừa những ƣu điểm
của các chƣơng trình đang sử dụng vào chƣơng trình kiến thức mới, phù hợp
với mục tiêu, yêu cầu đào tạo và khắc phục những hạn chế trong nội dung
chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng. Đòi hỏi chƣơng trình này phải có tính toàn
diện, cơ bản, hệ thống; nội dung chƣơng trình phải trang bị cho ngƣời học
87
những kiến thức toàn diện, cơ bản, tƣơng đối có hệ thống về lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, kiến thức lý luận về xây dựng Đảng,
chính quyền, đoàn thể, các quan điểm cơ bản về đƣờng lối, chính sách, chủ
trƣơng của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Góp phần nâng cao trình độ,
năng lực quản lý, lãnh đạo và đáp ứng đƣợc những yêu cầu trong công tác của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở. Đồng thời, phải gắn lý luận với thực
tiễn, vận dụng lý luận vào việc giải quyết các tình huống; hình thành thế giới
quan, phƣơng pháp luận khoa học, nâng cao nghiệp vụ, phục vụ thực tiễn
công tác ở cấp cơ sở hiện nay.
Thứ ba, bồi dƣỡng, củng cố kiến thức khoa học Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về cán
bộ lãnh đạo. Song phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục lý luận với công
tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Việc
học tập, bồi dƣỡng lý luận, đặc biệt là lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh chỉ thực sự có hiệu quả khi ngƣời học có động cơ học tập đúng đắn,
mục đích rõ ràng là học để làm việc, làm ngƣời, để phục sự tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Thông qua công tác lý luận nhằm bảo vệ và phát triển một cách
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể
của nƣớc ta hiện nay, đồng thời làm sâu sắc và cụ thể hơn nữa lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, củng cố sự nhất trí
về chính trị tƣ tƣởng trong Đảng, xây dựng đạo đức cách mạng và kiên quyết
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái đi ngƣợc với đƣờng lối của
Đảng. Mặt khác, cần coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng, ngăn chặn, khắc
phục tình trạng thái hóa biến chất trong đội ngũ cán bộ nói chung, ở đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng. Thƣờng xuyên kiểm tra, giám sát và đánh
giá chất lƣợng cán bộ. Nâng cao chất lƣợng sinh hoạt chi bộ, cấp ủy, thực
hiện nghiêm túc chế độ phê bình và tự phê bình để tổ chức đảng thực sự trở
thành nơi quản lý, giáo dục, rèn luyện của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Thứ tư, trong thời gian tới cần bổ sung và bồi dƣỡng thêm kiến thức về
88
các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn và các lĩnh vực
khoa học khác có liên quan đến hoạt động thực tiễn của cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở. Đặc biệt là về trình độ học vấn cần đƣợc chuẩn hóa ở trình độ trung
học phổ thông, từng bƣớc trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảm bảo mặt bằng chung là
có trình độ học vấn trung học phổ thông. Nhƣ vậy, mới tạo tiền đề về trình độ
cơ bản cho đội ngũ cán bộ tiếp thu lý luận, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao trình độ không chỉ dừng
lại ở việc học trong trƣờng lớp mà còn thông qua các kênh giáo dục đào tạo
khác, các phƣơng tiện thông tin đại chúng, giúp cho họ có thể tiếp thu những
tri thức một cách nhanh và chuẩn xác. Trên cơ sở những tri thức cơ bản đó,
giúp việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở đạt
hiệu quả, góp phần nâng cao chất lƣợng họat động thực tiễn ở cơ sở.
Thứ năm, đồng thời với việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, việc nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong
đó, với đội ngũ cán bộ nằm trong quy hoạch các chức danh chủ chốt phải có
trình độ là đại học hệ chính quy, tiếp tục nâng cao trình độ lý luận và các
nghiệp vụ cần thiết phục vụ cho công tác của đội ngũ cán bộ này. Thực tiễn
cụ thể ở mỗi cơ sở lại đặt ra những yêu cầu riêng, nên cần phải quan tâm tới
việc cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đi đào tạo trình độ sau đại học ở những
chuyên ngành mà cơ sở đang thiếu và cần thiết. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo đã lớn tuổi, họ có nhiều kinh nghiệm công tác và cống hiến nhƣng thiếu
bằng cấp về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hay về lý luận, cần phải cho họ
cơ hội đi bồi dƣỡng, nâng cao trình độ để có thể đáp ứng kịp thời với những
nhiệm vụ và yêu cầu trong công tác. Tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế,
chính sách để khuyến khích đào tạo, nâng cao chất lƣợng cán bộ, đồng thời
tạo nguồn bổ sung thay thế cán bộ và thực hiện các chiến lƣợc về cán bộ của
Đảng. Trong quá trình học tập, trau dồi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
không những giúp cho đội ngũ cán bộ này nâng cao đƣợc trình độ, nắm đƣợc
89
các tri thức khoa học cần thiết mà còn tạo nền tảng thuận lợi để họ phát triển
tƣ duy lý luận, hình thành phong cách lãnh đạo khoa học. Mặt khác, cần tiếp
tục đề ra các chính sách đãi ngộ, đầu tƣ cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, để họ
trở thành những cán bộ vừa giỏi về chuyên môn, vừa có trình độ lý luận, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, về khả năng nắm bắt và xử lý thông tin cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay. Trong thời đại bùng nổ thông tin nhƣ
hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc đang lợi dụng các phƣơng
tiện thông tin đại chúng để chống phá, bôi nhọ nhằm hạ bệ uy tín của nƣớc
ta… đứng trƣớc những thách thức đó, đòi hỏi cấp thiết ở đội ngũ cán bộ này
phải thƣờng xuyên trau dồi, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, trình độ lý luận để có thể nhận thức đƣợc các loại thông tin, từ đó
biết cách tiếp nhận và sử dụng thông tin một cách hiệu quả. Thông qua việc
tiếp cận, xử lý và sử dụng thông tin chính xác đã tạo điều kiện để đội ngũ cán
bộ lãnh đạo nâng cao tri thức, trình độ về mọi mặt, tích lũy kinh nghiệm và sử
dụng có hiệu quả các thông tin phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt, xử lý và
sử dụng thông tin mà họ còn phải biết định hƣớng, chọn lọc các thông tin
chính xác, phù hợp, các thông tin mang tính chất định hƣớng, phục vụ cho
công tác của mình, từ đó góp phần ổn định tình hình chính trị, an ninh quốc
phòng ở cơ sở nói riêng và của cả nƣớc nói chung.
2.2.2.2. Đổi mới hình thức tổ chức và quản lý trong hoạt động thực tiễn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở, gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng lý
luận một cách sáng tạo; phát triển lý luận, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Một là, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc đã và đang đặt
ra những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn cần đƣợc giải quyết. Để thực hiện
đƣợc các yêu cầu đó, trƣớc tiên phải đổi mới hình thức tổ chức và lãnh đạo
trong môi trƣờng quản lý mới, dần hình thành và phát triển tƣ duy lý luận cho
90
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Trong đó, cần phải đổi mới nội dung, hình
thức sơ kết, tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo này. Thực tiễn
luôn vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi lý luận cũng cần phải có sự
biến đổi và phát triển để đáp ứng những yêu cầu mà thực tiễn đặt ra. Nhƣ vậy,
đổi mới hình thức tổ chức và quản lý trong hoạt động thực tiễn mà cụ thể là
năng lực sơ kết, tổng kết, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, đồng thời
phải gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận, đƣờng
lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc là một trong những đòi hỏi
quan trong đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung. Còn đối với đội ngũ
lãnh đạo cấp cơ sở, để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ trên đòi hỏi họ phải có
năng lực tổng kết thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn, biết vận dụng lý luận
một cách sáng tạo vào trong công tác quản lý, lãnh đạo, đồng thời đƣa ra
những giải pháp phù hợp với thực tiễn tại cơ sở.
Hai là, quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn có vai trò hết
sức quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhận thức và lý luận. Thực
tiễn chính là cơ sở để hình thành nên nhận thức và lý luận, chúng đƣợc rút ra
từ những kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Sau đó nhận
thức hay lý luận đƣợc con ngƣời rút ra từ thực tiễn, lại quay trở lại chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của họ. Đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp nói chung và cán
bộ cấp cơ sở nói riêng phải thƣờng xuyên tổng kết thực tiễn, đây chính là quá
trình thu nhận và khái quát những kinh nghiệm về các hoạt động xã hội một
cách sáng tạo. Gắn với thực tiễn của Việt Nam, sau gần 30 năm tiến hành
công cuộc đổi mới đất nƣớc đã thu đƣợc những thành tựu to lớn. Cùng với sự
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đƣa nƣớc ta vƣợt qua những
khó khăn, thử thách và cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng để bƣớc
sang một giai đoạn phát triển mới. Trong quá trình phát triển đất nƣớc, ở mỗi
giai đoạn cụ thể Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chủ động trong công tác tổng kết
thực tiễn, rút kinh nghiệm và kế thừa một cách chọn lọc những thành tựu khoa
học của thế giới, từ đó đƣa ra cách giải quyết kịp thời và có hiệu quả các vấn
91
đề. Đảng và Nhà nƣớc luôn coi công tác nâng cao trình độ lý luận chính trị
gắn với việc tổng kết thực tiễn, rút ra các bài học kinh nghiệm là những việc
làm hết sức quan trọng. Có làm đƣợc nhƣ vậy, mới đảm bảo cho sự thành
công của đất nƣớc trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới hiện nay. Tại Nghị
quyết Trung ƣơng 5 khóa IX đã khẳng định: “Coi trọng việc tổng kết thực tiễn
trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của cấp ủy Đảng; coi tổng kết
thực tiễn là nhiệm vụ thƣờng xuyên của các cấp, các ngành,…”[3, tr.134].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta đã chỉ rõ: “Tăng cƣờng
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta và
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý
luận, đề ra đƣờng lối và chủ trƣơng đáp ứng yêu cầu phát triển cúa đất
nƣớc”[5, tr.255-256]. Do vậy, để phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nói chung cần phải thƣờng xuyên tổng kết thực tiễn, để khắc phục và
đẩy lùi bệnh giáo điều, xa rời thực tiễn. Sau mỗi giai đoạn hoạt động cần phải
tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, bổ sung và phát
triển lý luận.
Thực tế công tác tổng kết thực tiễn ở cơ sở là tổng kết quá trình thực
hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc ở
cơ sở; tổng kết quá trình thực hiện các kế hoạch, mục tiêu, các biện pháp lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ đó đƣa ra các giải pháp
phù hợp để công tác ở cơ sở đạt hiệu quả cao. Thông qua những ƣu điểm và
nhƣợc điểm rút ra trong quá trình tổng kết thực tiễn, ngƣời cán bộ có thể rút
kinh nghiệm, tổng kết những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển để đƣa
ra các quyết sách phù hợp với xu thế vận động và phát triển của xã hội. Nhƣ
vậy, công tác tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có vai
trò đặc biệt quan trọng, giúp cho đội ngũ này nâng cao nhận thức về lý luận,
khả năng vận dụng sáng tạo lý luận và những bài học kinh nghiệm vào trong
92
công tác ở cơ sở.
Thứ ba, vậy làm thế nào để đổi mới và tiến hành công tác tổng kết thực
tiễn có hiệu quả? Để làm tốt công tác này, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở phải chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ nhất
định về lý luận chính trị, có phƣơng pháp luận khoa học, biết vận dụng sáng
tạo lý luận gắn với thực tiễn ở cơ sở. Để những kết luận rút ra trong quá trình
tổng kết thực tiễn đảm bảo tính chính xác, khoa học và có sức thuyết phục,
yêu cầu trong quá trình tổng kết thực tiễn phải quán triệt các nguyên tắc, quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đó là: toàn diện, khách quan, lịch sử cụ thể và
phát triển; đồng thời nghiêm túc thực hiện theo phƣơng châm của Đảng đề ra
là nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng, nói rõ sự thật, khách quan, chống hình
thức và phải có động cơ trong sáng. Việc tuân thủ những nguyên tắc, quan
điểm này giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở thực hiện công tác tổng
kết thực tiễn một cách khách quan, khoa học. Đồng thời, đội ngũ cán bộ này
có điều kiện gắn lý luận với thực tiễn, áp dụng kiến thức lý luận đƣợc học vào
thực tế công tác ở cơ sở, trên cơ sở đó trau dồi lý luận và phát triển trình độ tƣ
duy lý luận của mình, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nƣớc hiện nay.
2.2.2.3. Rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo; công
tác quy hoạch cán bộ và đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cần
thiết, có chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt
Nam hiện nay
Thứ nhất, trong công tác lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở, trƣớc hết phải đổi mới quan niệm, phƣơng pháp đánh giá và bố
trí cán bộ. Ở mỗi cấp ủy cơ sở cần có những biện pháp quản lý và phát triển
đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Trong công tác lãnh đạo, quản lý cán bộ cần dựa trên
quan điểm: khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, phát triển, đồng thời cần
phát huy tính dân chủ, khách quan trong việc sử dụng và đánh giá cán bộ. Đặc
biệt là ngay từ khâu quy hoạch cán bộ lãnh đạo cần phải đƣợc chú trọng, để
93
công tác này đi vào kế hoạch cụ thể, giữa kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Cần
quan tâm đầu tƣ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao
chất lƣợng về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ nguồn kế cận, đặc biệt là ở những
chức vụ đầu ngành, kiêm nhiệm, nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu của
ngƣời cán bộ lãnh đạo hiện nay. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cần phải
có kế hoạch cụ thể, gắn với công tác đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng cán bộ nhƣ
thế nào cho có hiệu quả và gắn với thực tiễn ở cơ sở. Tại cơ sở trong mỗi
nhiệm kỳ, mỗi cấp ủy, những cán bộ lãnh đạo đầu ngành cần phải dự bị cho
mình đƣợc từ 2 đến 5 cán bộ kế cận để giới thiệu cho Đảng và nhân dân. Để
làm đƣợc điều này, đòi hỏi công tác quản lý, quy hoạch, sử dụng và kiểm tra,
đánh giá đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, dƣới sự chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng và các ban ngành phải đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc,
chuẩn hóa, khách quan.
Thứ hai, đứng trƣớc những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng mới của
nƣớc ta hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng phải luôn có ý thức tự trau dồi cả về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận, các nghiệp vụ khác, mà còn phải chú
ý đến việc rèn luyện về phong cách lãnh đạo, tu dƣỡng về phẩm chất đạo đức
của ngƣời cán bộ. Vậy phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở hiện
nay là một yêu câu cấp thiết. Đây vừa khâu đảm bảo yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng đất nƣớc, vừa tạo động lực kích thích cán bộ có ý thức tự giác trong
việc rèn luyện, học tập để nâng cao trình độ học và năng lực trong công tác.
Tại Nghị quyết Trung ƣơng 3 khóa VII đã nêu ra năm tiêu chuẩn cơ bản của
ngƣời cán bộ lãnh đạo nhƣ sau: có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức
và năng lực tham gia các quyết định của tập thể và khả năng tổ chức thực tiễn;
có phẩm chất đạo đức cách mạng; có ý thức tổ chức kỷ luật; có kiến thức văn
hóa. Nhà nƣớc một mặt cần có chính sách cụ thể hóa và công khai hóa các
tiêu chuẩn nêu trên đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Mặt
khác, với các cán bộ đầu ngành, chủ tịch, phó chủ tịch,… ở cấp cơ sở yêu cầu
94
về trình độ lý luận chính trị phải từ trung cấp trở lên, về chuyên môn nghiệp
vụ phải từ cao đẳng trở lên, các tiêu chuẩn còn phụ thuộc vào đặc thù về trình
độ, văn hóa của đội ngũ cán bộ ở mỗi cấp cơ sở khác nhau, nhƣng đó là
những tiêu chuẩn chung để có định hƣớng phấn đấu. Về phong cách lãnh đạo,
cần có sự quan tâm, định hƣớng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở để xây
dựng phong cách lãnh đạo, quản lý chuyên nghiệp. Trong đó, đặc biệt chú ý
rèn luyện về kỹ năng giao tiếp và ứng xử văn hóa, kỹ năng thuyết trình, tiếp
nhận và xử lý các vấn đề của ngƣời cán bộ lãnh đạo trong quá trình quản lý và
tổ chức các hoạt động ở cơ sở. Nhìn chung kỹ năng viết báo cáo, tổng kết
thực tiễn của đội ngũ án bộ ở cơ sở còn yếu, nên cần đặc biệt chú trọng bồi
dƣỡng cho họ về kỹ năng viết các văn bản, báo cáo, sử dụng máy vi tính, bằng
cách mở các lớp bồi dƣỡng về văn thƣ lƣu trữ, tin học… giúp đội ngũ cán bộ
này có điều kiện học tập, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, phục vụ cho công tác
tại cơ sở đạt hiệu quả.
Thứ ba, ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
chỉ rõ: “Dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dƣỡng, đãi ngộ cán bộ
cơ sở, chú trọng kiện toàn và tăng cƣờng đội ngũ cán bộ” [1; tr.148]. Để đổi
mới và phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần
phải có hệ thống các gải pháp, bên cạnh công tác quản lý, lãnh đạo và tiêu
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần phải thực hiện chính sách cán bộ,
trong đó chính sách đãi ngộ và động viên tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng.
Điều này quyết định trực tiếp đến chất lƣợng công việc của cán bộ và thu hút
những cán bộ có năng lực. Trong những năm qua, nhờ có những chính sách
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nên đã xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ
từ Trung ƣơng đến cơ sở năng động, sáng tạo, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và
Nhà nƣớc giao phó. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ ở cấp
cơ sở hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý, chƣa có sự thống nhất,
đồng bộ nên chƣa khuyến khích đội ngũ cán bộ này làm việc có hiệu quả,
nhất là những cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, những vùng còn gặp
95
nhiều khó khăn. Do vậy, chƣa tạo đƣợc động lực phấn đấu, thu hút cán bộ
giỏi, động lực để kích thích tinh thần học tập và sáng tạo trong công tác của
đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Chính sách đãi ngộ cho cán bộ cấp cơ sở còn thấp,
nhất là các địa phƣơng ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng còn gặp nhiều
khó khăn. Do vậy, cần phải sớm đổi mới các cơ chế, chính sách, chế độ đối
với công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ; đồng thời có chế độ trợ cấp thỏa
đáng, nhằm khuyến khích đội ngũ cán bộ này yên tâm học tập, nâng cao trình
độ và phấn đấu trong công tác ở cơ sở đạt hiệu quả cao. Vấn đề quan trọng
trong việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ này là
chế độ phụ cấp. Vì vậy, cần nghiên cứu và tiếp tục ban hành các chế độ phụ
cấp đặc biệt cho các cơ sở, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, các vùng gặp
nhiều khó khăn. Có nhƣ vậy mới kêu gọi, thu hút, động viên đƣợc cán bộ về
công tác ở những nơi đó và cử họ đi học nâng cao trình độ về mọi mặt. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở khi đƣợc cử đi học, cần hỗ trợ họ về kinh phí
học tập, đặc biệt ƣu tiên các cán bộ ở các vùng sâu, vùng xa, vùng còn gặp
nhiều khó khăn, đối với cán bộ là nữ giới cần đƣợc quan tâm tạo điều kiện và
đƣợc hƣởng mức trợ cấp cao hơn. Đặc biệt, có các chính sách cụ thể để tạo
điều kiện cho đội ngũ cán bộ này phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính
đáng, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi
hỏi cán bộ và gia đình họ phải biết làm kinh tế có hiệu quả. Qua đó, đảm bảo
cho họ thêm yên tâm công tác, gắn bó hơn với công tác ở cơ sở, tạo đƣợc
niềm tin và uy tín với cấp ủy Đảng và nhân dân. Từ những hoạt động thực
tiễn hiệu quả đó, sẽ gợi mở cho đội ngũ cán bộ này những chủ trƣơng, biện
pháp tổ chức và thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc
tại địa phƣơng. Từ đó, tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở học
tập, rèn luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó đặc biệt là phát triển tƣ
duy lý luận, đáp ứng những yêu cầu của ngƣời cán bộ trong thời kỳ mới của
đất nƣớc.
Thứ tư, bên cạnh các chính sách đãi ngộ cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
96
cần phải có chính sách tiếp tục cải tiến điều kiện làm việc. Phần lớn điều kiện
làm việc ở cấp cơ sở nhƣ trụ sở, trang thiết bị phục vụ công việc, các phƣơng
tiện đi lại còn thiếu thốn, đặc biệt phải kể đến là ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần có chính sách ƣu tiên cho hệ thống
chính trị ở cơ sở cả về vật chất và tinh thần, bởi hệ thống chính trị ở cơ sở giữ
vai trò vô cùng quan trọng trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện
các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc;
đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cƣờng đại đoàn kết toàn dân. Bên cạnh đó, cần xây dựng các trụ sở làm
việc kiên cố, phục vụ chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở,
đặc biệt là đối với các cơ sở còn gặp nhiều khó khăn. Phấn đấu đến năm 2020
tất cả các cấp cơ sở trong cả nƣớc đều có trụ sở làm việc kiên cố, đủ các
phòng làm việc, đƣợc trang bị đầy đủ các phƣơng tiện, trang thiết bị đồng bộ.
Trong đó, các trang thiết bị phục vụ công việc cần đƣợc trang bị đầy đủ và
từng bƣớc hiện đại hóa theo yêu cầu tin học hóa hệ thống quản lý hành chính
Nhà nƣớc. Hệ thống truyền thanh, nhà văn hóa, trung tâm tin học, bƣu điện,
cần thƣờng xuyên bổ sung các loại sách, báo, tạp chí, máy tính và các phƣơng
tiện làm việc cần thiết khác cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Tất cả
những yêu cầu trên phải đƣợc thực hiện đầy đủ, để đội ngũ cán bộ và nhân
dân có điều kiện tiếp nhận thông tin, đảm bảo cho quá trình công tác ở cơ sở
của đội ngũ cán bộ này đƣợc thuận tiện và đạt hiệu quả.
2.2.2.4. Đổi mới các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề cho
những buớc phát triển về đời sống vật chất, văn hoá - xã hội, góp phần
nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở
nước ta hiện nay
Một là, điều kiện kinh tế - xã hội luôn đóng vai trò hết sức quan trọng,
là nhân tố quyết định sự hình thành, tồn tại và biến đổi về tinh thần, ý thức
của con ngƣời sống trong hoàn cảnh đó. Sự thay đổi của điều kiện kinh tế sẽ
dẫn đến sự thay đổi những điều kiện xã hội và sự biến đổi về đời sống tinh
97
thần của xã hội. Vậy, xét đến cùng việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
nói riêng, cơ bản phụ thuộc vào tốc độ và kết quả của quá trình đổi mới và
phát triển nền kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới chính sách kinh tế - xã hội
của đất nƣớc trong những năm qua bƣớc đầu đã thu đƣợc những thành quả, đó
chính là cơ sở để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trình độ văn hóa, khoa
học công nghệ,… cho toàn thể cán bộ và nhân dân. Đồng thời, là cơ sở giúp
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nâng cao trình độ về mọi mặt, đặc biệt
là trình độ tƣ duy lý luận và có điều kiện để nhận diện, sửa chữa những mặt
còn yếu kém đang tồn đọng trong công tác tại cơ sở. Do vậy, cần có các chính
sách phù hợp tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới hoàn cảnh kinh tế - xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh hơn về tƣ duy lý luận của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, đổi mới các chính sách phát triển kinh tế - xã hội cần phải tiến
hành đẩy mạnh quá trình đổi mới toàn diện tất các lĩnh vực, các mặt của đời
sống xã hội. Đối với cấp cơ sở, việc triển khai và thực hiện có hiệu quả các
chính sách đổi mới kinh tế - xã hội, trong đó tiêu biểu là thực hiện có hiệu quả
các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, tạo điều kiện để đánh giá và đƣa ra
những giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém về các mặt kinh tế - xã
hội, giáo dục, y tế, văn hóa và những nhận thức còn hạn chế của đội ngũ cán
bộ và nhân dân. Sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế - xã hội sẽ tạo tiền đề
thúc đẩy đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói
riêng phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ tƣ duy lý luận của
mình để đáp ứng những yêu cầu phát triển chung của đất nƣớc. Những chuyển
biến tích cực của kinh tế sẽ tạo đà thúc đẩy việc mở rộng giao lƣu phát triển
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, từ đó góp phần nâng cao nhận thức cho
đội ngũ cán bộ và nhân dân, từng bƣớc nâng cao trình độ dân trí. Nhƣ vậy, đổi
98
mới chính sách phát triển kinh tế - xã hội vừa là mục tiêu và động lực thúc
đẩy sự phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc
ta hiện nay.
Ba là, cấp cơ sở ở nƣớc ta có địa hình và điều kiện rất phong phú và đa
dạng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong những năm gần đây
đƣợc cải thiện rõ rệt, tuy nhiên ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn
còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh quá trình xây dựng và
phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tạo điều kiện nâng cao đời sống cho cán bộ
và nhân dân. Trong việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cần đặc biệt
chú trọng tới việc đầu tƣ xây dựng hệ thống đƣờng giao thông, trƣờng học các
cấp, mạng lƣới điện, trạm y tế, công trình thủy lợi, nhà máy nƣớc sạch, hệ
thống thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng thiết yếu và các công trình phúc
lợi xã hội khác. Có nhƣ vậy mới thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
vừa là cơ hội để nhìn nhận và khắc phục những mặt hạn chế, lạc hậu, vừa tạo
thời cơ vƣơn lên xây dựng đời sống văn hóa mới, nâng cao trình độ dân trí ở
cơ sở. Song cũng tạo môi trƣờng thuận lợi thúc đẩy đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở nâng cao trình độ về mọi mặt và phát triển tƣ duy lý luận.
ốn là, bên cạnh quá trình biến đổi về hoàn cảnh kinh tế và đời sống,
cần chú trọng đến những biến đổi các điều kiện xã hội khác nhƣ: chính trị,
văn hóa, tƣ tƣởng, đặc biệt là về giáo dục - đào tạo, khoa học, kỹ thuật và
công nghệ. Vì một nền kinh tế - xã hội phát triển đến đâu thì bản thân nó cũng
không tự nâng cao đời sống , văn hóa cho toàn thể cán bộ và nhân dân, càng
không thể tự phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ
sở. Trình độ dân trí, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới là tảng nền
tảng cơ bản để thúc đẩy và phát huy mọi năng lực của con ngƣời. Do đó,
Đảng và Nhà nƣớc ta trong từng giai đoạn phát triển của đất nƣớc luôn coi
trọng và đặt vấn đề giáo dục - đào tạo lên hàng đầu, coi đó là quốc sách và
tiềm lực để phát triển quốc gia. Để nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ và
nhân dân cần phải tiếp tục đầu tƣ cho giáo dục, trong đó tập trung đầu tƣ nâng
99
cao chất lƣợng giáo dục, đổi mới nội dung, phƣơng pháp dạy và học; xây
dựng cơ sở hạ tầng và trang bị đầy đủ các phƣơng tiện phục vụ cho công tác
giáo dục; có những chính sách thỏa đáng để thúc đẩy giáo dục - đào tạo ở
vùng sâu, vùng xa, các vùng còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần
đây, đƣơc sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc, nhìn chung trình độ
dân trí của nƣớc ta ngày càng đƣợc cải thiện, đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết
cho đội ngũ cán bộ cần phải có ý thức tự rèn luyện, nâng cao năng lực và trình
độ về mọi mặt. Vậy, phát triển kinh tế - xã hội, từng bƣớc cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân trí của xã hội là một trong những
nền tảng quan trọng tạo điều kiện phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng.
Nhƣ vậy, tiếp tục đổi mới các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
từng bƣớc nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống về mọi cho cán bộ và
nhân dân là hai vấn đề có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Một xã hội có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí, văn hóa, khoa học -
công nghệ phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở phát triển tƣ duy lý luận của mình, đồng thời cũng nhận thấy rõ
những khuyết điểm, yếu kém. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra những vấn đề mới
nảy sinh, đòi hỏi đội ngũ cán bộ này phải luôn nhạy bén, năng động, có
phƣơng pháp lãnh đạo phù hợp và sáng tạo trong công tác lãnh đạo, quản lý ở
cấp cơ sở. Từ đó, tạo điều kiện khắc phục những hạn chế còn tồn tại, nâng cao
chất lƣợng công tác và tạo điều kiện thuận lợi từng bƣớc phát triển tƣ duy lý
100
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 2
Đứng trƣớc thực trạng, nguyên nhân và những yêu cầu mới đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở nƣớc ta hiện nay, phát triển tƣ duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ này cần phải đƣợc thực hiện một cách đồng bộ các giải
pháp: Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng và sử dụng có hiệu quả
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, khả năng nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo này ở nƣớc ta hiện nay. Đổi mới hình thức tổ
chức và quản lý trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp
cơ sở; phải gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng một cách sáng tạo và phát triển
lý luận, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nƣớc. Rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo; công tác
quy hoạch cán bộ và đảm bảo các điều kiện, phƣơng tiện làm việc cần thiết,
các chính sách dãi ngộ cho đội cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đổi mới các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề cho những buớc phát triển về đời
sống vật chất, văn hoá xã hội góp phần nâng cao trình độ dân trí cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và nhân dân ở nƣớc ta hiện nay. Trên đây không phải toàn bộ
các giải pháp, nhƣng đó là những giải pháp cơ bản, khi đƣợc áp dụng đồng bộ
sẽ phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, góp phần
không nhỏ vào việc khắc phục những hạn chế trong tƣ duy của đội ngũ này,
101
đáp ứng kịp thời những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nƣớc hiện nay.
KẾT LUẬN
Hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và công tác cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng luôn có sự vận động và phát triển theo dòng chảy
chung của dân tộc. Vì vậy, việc làm thế nào để phát triển tƣ duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trên cả nƣớc thực sự là một công việc phù
hợp với quy luật vận động của xã hội và là một đòi hỏi mang tính cấp thiết
hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong điều kiện hiện nay đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc, đặc biệt là trong công tác quản lý ở mỗi địa phƣơng. Để thực
hiện tốt chức năng và nhiệm vụ đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân giao phó,
ngƣời cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải không ngừng rèn luyện, học tập và phát
triển tƣ duy lý luận.
Thực trạng tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở mỗi địa
phƣơng có nhiều ƣu điểm nhƣng cũng vần còn tồn tại nhiều những hạn chế.
Các ƣu điểm là có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có năng lực vận dụng sáng
tạo chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc vào điều kiện cụ thể của địa
phƣơng và năng lực tổng kết thực tiễn. Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều hạn chế
trong đó chủ yếu do: về trình độ văn hóa, trình độ lý luận, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và các kỹ năng quản lý lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này còn
thấp; tồn tại các khuyết tật nhƣ bệnh sùng bái kinh nghiệm, bệnh chủ quan,
giáo điều, dập khuôn máy móc; cơ sở vật chất và các phƣơng tiện phục vụ
công tác còn chƣa đƣợc đầu tƣ xây dựng đồng bộ và còn thiếu nhiều, đặc biệt
là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng còn gặp nhiều khó khăn đã làm hạn chế
rất nhiều trong quá trình công tác ở cơ sở; trình độ dân trí còn thấp; khâu quy
hoạch, sử dụng cán bộ cong nhiều bất cập; kinh tế, văn hóa, xã hội còn tồn tại
nhiều yếu kém. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế này là do trình độ tƣ
duy lý luận, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cấp nhìn
102
chung còn thấp và nhiều bất cập.
Để phát huy những ƣu điểm, khắc phục những hạn chế nhằm mục tiêu
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần thực hiện
một số giải pháp: tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng và sử dụng có
hiệu quả đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, nâng cao trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, khả năng nắm bắt và xử lý thông
tin kịp thời cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo này ở nƣớc ta hiện nay. Đổi mới hình
thức tổ chức và quản lý trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
ở cấp cơ sở; phải gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng một cách sáng tạo và
phát triển lý luận, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nƣớc. Rèn phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo; công
tác quy hoạch cán bộ và đảm bảo các điều kiện, phƣơng tiện làm việc cần
thiết, các chính sách dãi ngộ cho đội cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đổi mới các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề cho những buớc phát triển về
đời sống vật chất, văn hoá xã hội góp phần nâng cao trình độ dân trí cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nƣớc đang đặt ra những yêu cầu mới
đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân giao phó, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
phải không ngừng học tập, rèn luyện, hoàn thiện bản thân cả về trình độ văn
hoá, trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức,
năng lực lãnh đạo, quản lý và tích lũy kinh nghiệm thực thực tiễn, góp phần
phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này và khắc phục đƣợc những
hạn chế trong tƣ duy của họ, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện
nay. Có nhƣ vậy, cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở mới có đủ năng lực và phẩm chất
103
lãnh đạo, quản lý trong các công tác hoạt động ở mỗi cấp cơ sở trên cả nƣớc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.134
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Chí Bảo (1988), “Từ tƣ duy kinh nghiệm tới tƣ duy lý luận”, Tạp
chí lý luận (6), tr.54- 62.
7. Nguyễn Đức Bình (1988), “Nguyên nhân của thực trạng tƣ duy”, Tạp chí
Cộng sản (9), tr.28.
8. Vũ Đình Chuyên (2000), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh
Kiên Giang, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Đào (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và
Nhân Văn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
10. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (2006), Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội, tr.187-188.
11. Vũ Trà Giang (2008), Rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
104
sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Triết học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (1976), Về xây dựng Đảng, NXB Sự Thật, tr101-102.
13. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự Thật, Hà Nội
14. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.269.
16. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (2000), về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (1996), Sửa đổi lối làm việc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đỗ Ngọc Hanh (2013), Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị
viên quân đội nhân dân việt nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Nguyễn Đình Hải (2006), “Triết học và năng lực tƣ duy của con ngƣời
trong kỷ nguyên toàn cầu”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự (4).
21. Nguyễn Thị Hằng (2011), Vai trò của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay ở nước ta, Khóa luận tốt nghiệp Triết học, Trƣờng Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Trần Ngọc Hiên (2008), “Tƣ duy lý luận về khoa học phát triển”, Tạp
chí Thông tin & Phát triển (5), tr.3-5.
23. Tô Duy Hợp (1988), Phƣơng pháp tƣ duy – vấn đề kế thừa và đổi mới,
Tạp chí Triết học (1), tr.35-42.
24. Tô Duy hợp (1990), “Lôgic phi cổ điển, chuẩn mực lôgic hiện đại và tiên
tiến của tƣ duy”, Triết học, (4-1990), tr.40-41.
25. Tô Duy Hợp (1998), “Hội nghị bàn tròn về đổi mới tƣ duy”, Tạp chí
Cộng sản (8), tr.54.
26. Nguyễn Duy Hùng (2008), Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
105
Hà Nội.
27. Trần Đình Hƣợu (1984), Tƣ tƣởng hay triết học và nội dung thực tiễn
của cách đặt vấn đề đó trong việc nghiên cứu ý thức hệ Việt Nam, Triết
học (4), tr.38.
28. Văn kiện hội nghị lần thứ III, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb
Chính trị Quốc gia, 1997; tr.66.
29. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, tr.179.
30. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
31. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, tr.240.
32. Nguyễn Văn Linh (1991), Đổi mới để tiến lên, Nxb Sự Thật, Hà Nội, tập 3.
33. Nguyễn Ngọc Long (1984), “Kinh nghiệm và lý luận”, Tạp chí nghiên
cứu lý luận (1), tr.33-37.
34. Trƣơng Gia Long (2005), “Đổi mới tƣ duy lý luận – động lực tinh thần
của sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Khoa học chính trị (1), tr.3-6.
35. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn Tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
36. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Biện chứng của tự nhiên, Toàn tập, tập
20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Ngô Kim Ngân (2001), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp
xã trong thời kỳ mới, Tạp chí giáo dục lý luận (7), Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Hữu Nghĩa (1998), “Một số căn bệnh trong phƣơng pháp tƣ duy của
cán bộ ta”, Triết học (2), tr.21-26.
40. Phạm Thành Nghị (2003), Tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
41. Phạm Văn Nhuận (2010), “Phát triển tƣ duy lý luận là mệnh lệnh cuộc
106
sống”, Tạp chí Cộng sản (4).
42. Niên giám thống kê năm 2011, Nxb Thống kê Hà Nội.
43. Niên giám thống kê năm 2012, Nxb Thống kê Hà Nội.
44. Niên giám thống kê năm 2013, Nxb Thống kê Hà Nội.
45. Niên giám thống kê năm 2014, Nxb Thống kê Hà Nội
46. Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ, Hà Nội.
47. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Luận án Tiến sĩ
Khoa học Triết học. H.1994.
48. Nguyễn Đa Phúc (1997), Phát triển tư duy biện chứng của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cơ sở nước ta hiện nay, luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Nguyễn Trọng Phúc (2009), “Tư duy lý luận của Đảng về phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới”, Tạp chí Lịch
sử Đảng (5), tr.41-47.
50. Hữu Phƣơng (2009), “Tƣ duy giáo dục Việt Nam”, Tạp chí dạy và học
ngày nay (8), tr.11-12.
51. Lê Văn Quang (2006), “Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đổi mới
tƣ duy lý luận ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (8), tr.25-29.
52. Bùi Thanh Quất (2010), “Góp thêm một vài suy nghĩ về lý luận nhận
thức biện chứng duy vật”, Tạp chí triết học (11), tr.47.
53. Nguyễn Duy Qúy (1998), “Đổi mới tƣ duy trong sự nghiệp đổi mới toàn
bộ đất nƣớc”, Tạp chí Triết học (4), tr.5-7.
54. Phạm Hồng Qúy (2004), “Tìm hiểu thêm về khái niệm tƣ duy”, Tạp chí
Tâm lý học (11), tr.45-50.
55. Nguyễn Duy Qúy (1987), “Nâng cao tri thức khoa học – điều kiện quan
trọng để đổi mới tƣ duy”, Tạp chí Cộng sản (12), tr.36.
56. Nguyễn Đức Quyền (2004), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
107
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ Triết học. Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
57. Tô Huy Rứa (Đồng chủ biên) (2006), Qúa trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58. Lại Văn Toàn (1988), “Đổi mới tƣ duy lý luận, tƣ duy lý luận trong sự
nghiệp đổi mới”, Tạp chí Triết học (1).
59. Trần Thành (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa học Triết học.
61. Hồ Bá Thâm (1994), “Bàn về năng lực tƣ duy”, Tạp chí Triết học (2),
tr.7-10.
62. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Lê Thi (1988), “Thực trạng tƣ duy của cán bộ đảng viên ta và căn
nguyên của nó”, Tạp chí triết học (4), tr.11-14.
64. Trần Đình Thỏa (2002), “Một số vần đề tƣ duy biện chứng mácxít”, Tạp
chí Triết học (2) (129), tr.50-53.
65. Dƣơng Thị Thủy (2001), Vai trò của lý luận và thực tiễn trong việc xây
dựng tư duy lý luận của chúng ta hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp
LA/521, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
66. Phạm Huyền Trang (2013), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
67. Dƣơng Văn Thịnh (2011), “Giảng dạy triết học Mác – Lênin với việc
nâng cao trình độ tƣ duy lý luận ở nƣớc ta hiện nay”, Tạp chí Triết học
108
(242), tr.45-48.
68. Nguyễn Phú Trọng (2005), “Đổi mới tƣ duy lý luận vì sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Cộng sản (3).
69. Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận và công tác xây dựng Đảng,
Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.45.
71. Từ điển Triết học (1996), Nxb Sự thật, Hà Nội.
72. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến Bộ Matxcơva.tr.634-635.
73. Từ điển tiếng Việt (2006), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, tr769.
74. Nguyễn Hữu Vui (1987), “Đổi mới tƣ duy trong công tác giảng dạy lý
luận ở trƣờng Đại học”, Tạp chí Triết học (3), tr.144-15.
75. Ngô Đình Xây (1987), “Một vài suy nghĩ về thực chất đổi mới tƣ duy lý
luận hiện nay ở nƣớc ta”, Tạp chí Thông tin lý luận, viện Mác – Lênin
(4), tr.201-208.
76. Ngô Đình Xây (1990), “Vài nét về thực trạng tƣ duy lý luận hiện nay ở
nƣớc ta”, Tạp chí Triết học (4), tr.32-36.
77. Ngô Đình Xây (2012) (đồng tác giả), “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận
theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, Nâng cao năng lực, hiệu quả tham
mưu của các cơ quan Đảng Trung ương trong việc triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Vũ Văn Viên (2008), “Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo – một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng”, Viện khoa học xã hội Việt Nam, “Văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng sản Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Khoa
học xã hội, tr.171-185.
79. Ngô Doãn Vịnh và Bùi Tất Thắng (2009), “Một số vấn đề về đổi mới tƣ
duy đối với chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-
109
2020”, Tạp chí kinh tế và dự báo (1), tr.17-20.
PHỤ LỤC 1
BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ THEO GIỚI TÍNH VÀ DÂN TỘC Ở NƢỚC TA
(Tháng 6/2013)
Giới tính Dân tộc
Số lƣợng Nam Nữ Dân tộc kinh Dân tộc thiểu số
120.153 24.959 117.541 27.571
145.112 (Ngƣời)
100% 82,8% 17,2% 81% 19%
Nguồn: Thống kê của Bộ Nội vụ về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp cơ sở 2013.
PHỤ LỤC 2
TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM (2014-2015)
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ Trình độ lý luận chính trị
Tổng số THPT Trung Sơ cấp Trung
Cao đẳng Đại học cấp cấp
Trên Đại học
Cao cấp, Cử nhân
211.514 730 52.429 6.095 32.142 362 23.639 89.244 6.893
100% 0,85% 36,13% 4,20% 22,15% 0,49% 16,29% 61,5% 4,75%
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê 20114, 2015
PHỤ LỤC 3
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014
Chỉ tiêu về kinh tế
Đóng góp của các khu vực vào tăng trƣởng năm 2014 (Điểm phần trăm)
STT
Năm 2012 Năm 2014
1 Tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP) (đơn vị %)
Nông, lâm nghiệp, thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
Tốc độ tăng so với năm trƣớc Năm 2013 5,42 2,64 5,43 6,57
5,25 2,68 5,75 5,90 5,98 3,49 7,14 5,96 5,98 0,61 2,7 2,62
2 Vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội 109,3 108,4 111,5
119,0 108,7 110,1
108,1 107,1 113,6
96,3 109,8 110,5
1.749 1.900 2.028 3 (đơn vị %) Khu vực Nhà nƣớc Khu vực ngoài Nhà nƣớc Khu vực có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài GDP bình quân đầu ngƣời (USD/năm)
4 Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
(tỷ usd)
hộ thiếu đói (nghìn hộ) 132,2 131,3 10,5 13,2 426,7 150 148 11 15 13867 15337 10882 2758 1340 314,9
Xuất khẩu hàng hóa Nhập khẩu hàng hóa Xuất khẩu dịch vụ Nhập khẩu dịch vụ 5 Giáo dục đào tạo Trƣờng mầm non Trƣờng tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Cơ sở dạy nghề 6 Đời sống dân cƣ và bảo đảm an sinh xã hộ Tỷ lệ hộ nghèo (%) 9,9% 8,2% 114,6 tỷ 114,3 9,4 12,5 4,1 7,3 5 2,8 450,3 11,3- 11,5%
24,4 2929 4304
Tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo (tỷ đồng) 7 Lao động, việc làm (triệu ngƣời) Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên Lực lƣợng lao động trong độ tuổi lao động 52,58 46,95 53,65 47,46 54,48 47,75
Nguồn: Tư liệu thống kê tình hình kinh tế xã hội 2012, 2013, 2014, Tổng cục thống kê
PHỤ LỤC 4
BẢNG THỐNG KÊ CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
Tiếp thu các môn lý luận
Yếu
Khá trở lên
Có mức độ và còn hạn chế
Đào tạo, đáp ứng tiêu chuẩn quy định
Đào tạo chƣa đáp ứng tiêu chuẩn quy định
Thực hiện chế độ bồi dƣỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm
Đào tạo trình độ trung cấp chuyên môn trở lên
Bồi dƣỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
Bồi dƣỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc
Trung ƣơng đến cấp Huyện 98% 0,2% 96% 92% 85% 94% 60-85% 15-20%
80% 20% 67% 83% 74,3% 87,1% 47-68% 23-35% 10-12% Cán bộ, công chức lãnh đạo cấp phòng của các bộ, ngành
Cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở 75% 25%; 56% 36,13% 39,2% 60% 45-55% 20-25% 15 – 25%,
46% 54% 43% 25,7% 50% 41,2% 10-15% 38-62% 30-42% Những ngƣời hoạt động không chuyên trách cấp cơ sở
Nguồn: Theo thống kê của Bộ Nội vụ về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công 2013.
PHỤ LỤC 5
BẢNG THỐNG KÊ ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH PHÂN THEO ĐỊA PHƢƠNG (12/2014)
Xã Tên Quận Thị xã Huyện Phƣờn g Thị trấn Thành phố trực thuộc tỉnh
Cả nƣớc 49 47 548 1545 615 9001 64
12 19 6 93 433 119 1906 Đồng bằng sông Hồng
13 0 5 123 136 143 2287 Trung du và miền núi phía Bắc
15 6 14 138 323 146 2449 Bắc Trung bộ và Duyên hải
5 Tây Nguyên 0 4 52 77 49 600
5 Đông Nam bộ 19 8 39 374 33 465
14 5 10 103 202 125 1294 Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: Niên giám thống kê 2014