BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ THANH THÚY PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TẠ NGỌC HẢI THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn
trung thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Học viên
Trần Thị Thanh Thúy
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và tri ơn sâu sắc, trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ
lòng biết ơn chân thành đến lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, cùng
tập thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ và cán bộ quản lý của Học viện đã
tận tình truyền đạt những kiến thức khoa học quý báu và tạo các điều kiện
thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình cao học chuyên ngành Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính.
Đặc biệt, Tôi xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Tạ Ngọc Hải đã hết lòng
giúp đỡ, hướng dẫn tận tình trong quá trình hoàn thiện nghiên cứu, thầy luôn
động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi hoàn thành tốt luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng
Ngãi đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia chương trình đào tạo cao học và
hỗ trợ thông tin, tài liệu giúp hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của
quý thầy giáo, cô giáo và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2018
Học viên
Trần Thị Thanh Thúy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ .............................. 7 1.1. Khái niệm, mục đích, vai trò của phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số .................................................................... 7 1.2. Nội dung và hình thức phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số .................................................................................. 14 1.3. Các yêu cầu và điều kiện bảo đảm phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số .................................................................. 18 Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI ........................................................................................................... 29 2.1. Giới thiệu khái quát về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi .......................................................................... 29 2.2. Thực trạng phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ..................................................................................................... 33 2.3. Đánh giá chung về thực trạng công tác phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh ............................ 44 Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 55
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TĂNG CƢỜNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI ............................................. 57 3.1. Quan điểm tăng cường phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số .................................................................................. 57 3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường phổ biến pháp luật về kinh doanh đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay ................................... 67 Tiểu kết chương 3 .................................................................................... 95 KẾT LUẬN ................................................................................................ 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
đồng bào các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
Nhà nước đã có nhiều chính sách để hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát
triển sản xuất, kinh doanh nhằm mục tiêu giảm nghèo nhanh bền vững cho
đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỉnh Quảng Ngãi có 14 huyện, thành phố và 184 xã, phường, thị trấn
với tổng diện tích tự nhiên trên 5.152 km2 với dân số có 1.247.644 người.
Trong 6 huyện miền núi và 3 huyện đồng bằng có xã miền núi có 83 xã, thị
trấn, chiếm 62% diện tích toàn tỉnh là nơi sinh sống chủ yếu của 178.874
người thuộc đồng bào các dân tộc Hre, Co và Cadong, chiếm 14,34 % dân
số trên toàn tỉnh. Địa hình vùng núi của tỉnh khá phức tạp, nhiều đồi núi
cao, bị chia cắt bởi nhiều sông suối. Mùa mưa thường xảy ra sạt lở lớn,
mùa nắng bị khô hạn kéo dài. Dân cư sống thưa thớt. Diện tích đất canh tác
ít, điều kiện canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đời sống
vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Theo
số liệu điều tra cuối năm 2016, toàn tỉnh có 45.260 hộ nghèo, chiếm
13,06% tổng số hộ trong toàn tỉnh. Trong đó khu vực miền núi có 25.392
hộ nghèo, chiếm 41,93% tổng số hộ nghèo trong toàn tỉnh; Hộ nghèo là
đồng bào dân tộc thiểu số có 23.292 hộ, chiếm 47,54% trong tổng số hộ
đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số chưa được đồng bộ, cần phải được hoàn thiện;
một số chính sách hỗ trợ đã làm cho đồng bào dân tộc thiểu số ỷ lại, dựa
vào sự hỗ trợ của Nhà nước không tự vượt qua khó khăn tổ chức sản xuất,
1
kinh doanh vươn lên làm giàu.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Phổ biến pháp luật về
kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi” làm luận
văn tốt nghiệp khóa học, với mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ
thống và đầy đủ về cơ sở lý luận, thực trạng của hoạt động này trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi, qua đó đề xuất một số giải pháp để tiếp tục góp phần
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian đến.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, hội
thảo, các bài viết có liên quan đến vấn đề phổ biến pháp luật. Trong điều
kiện của bản thân học viên đã tham khảo các tài liệu sau:
+ “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số” - TS. Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Uỷ
viên Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ đã xác định: Phổ
biến giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, với mục tiêu “Phổ biến
kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến cuộc sống của các
tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương
tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước
và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân”. Tạo bước phát triển mới trong công tác giáo
dục pháp luật để hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng
cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ
phát triển toàn diện con người Việt Nam.
+ Một số gi i pháp nâng c o ch t l ng tu n tru n pháp luật cho
đồng dân tộc thiểu số” của tác giả V Ngân đăng trên Tạp chí Dân chủ và
2
Pháp luật ngày 23/6/2016.
+ "Tìm kiếm mô hình phô biến, giáo dục pháp luật có hiệu qu trong
một số dân tộc ít ng ời" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp [39].
- Năm 2015 khóa tốt nghiệp của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh có Luận văn thạc sĩ “Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên phương diện mở rộng cung tín dụng, chuyên ngành Kinh tế phát triển
(60.31.05), của Hoàn Đức Kiên Thế, do Đinh Phi Hỗ hướng dẫn;
+ “Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho ng ời dân ở vùng dân
tộc thiểu số, mi n núi, bi n giới, vùng sâu, vùng x , vùng có đi u kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn” của tác giả Vừ Bá Thông, Chuyên viên Vụ
Pháp chế - Ủy ban Dân tộc.
- Bài viết “Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng ưu
đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội trên địa bàn các huyện miền núi tỉnh
Quảng Ngãi, của Bùi Đức Chánh, Bùi Thị Hồng Linh, Bùi Thị Hồng Tâm
(2014), “Tạp chí Kho học và Công nghệ”, Trường Đại học Phạm Văn
Đồng (số 4/2014), tr 160-168.
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của
các cá nhân, có thể khẳng định rằng đây là những tài liệu có giá trị cao về
mặt lý luận và thực tiễn trên phạm vi rộng của cả nước, của từng vùng và
của từng địa phương. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra được những ưu
điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân dẫn đến thực trạng, các nhân tố ảnh
hưởng, tác động đến phổ biến pháp luật.
Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu về phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh
Quảng Ngãi. Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả xác
định những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục triển khai, đi sâu nghiên cứu
3
trong quá trình thực hiện luận văn. Với tư cách là một xã hội thu nhỏ của
cộng đồng dân tộc thiểu số cùng sinh sống ở tỉnh Quảng Ngãi, trong giai
đoạn hiện nay cần tiếp tục chú trọng đúng mức, cấp thiết của việc phổ biến
pháp luật và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng để góp phần vào việc
ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã hội ở một số huyện miền núi của
tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tế, luận văn làm rõ cơ sở
lý luận, đánh giá thực tiễn phổ biến pháp luật ở tỉnh Quảng Ngãi, xác
định nguyên nhân, đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhiệm vụ của luận văn: Để hoàn thành mục đích đặt ra, luận văn
thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nh t: phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động phổ
biến pháp luật về kinh doanh và cho đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm:
khái niệm, đặc trưng, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp,
hình thức...; những yếu tố tác động đến công tác phổ biến pháp luật cho
nhóm đối tượng này.
Thứ hai: khảo sát, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa – xã
hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi nghiên cứu có ảnh
hưởng đến công tác phổ biến pháp luật về kinh doanh trong giai đoạn 2013-
2017. Làm rõ thực trạng công tác phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2013-2017, trên phương diện những
kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, tìm nguyên nhân của thực trạng; từ
4
đó đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc kiến nghị, đề xuất
xây dựng các giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của
công tác này.
Thứ ba: trên cơ sở các quan điểm có tính chất chỉ đạo, Luận văn đề
xuất, luận giải tính khả thi của các giải pháp tăng cường phổ biến pháp luật
về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận, thực tiễn phổ biến pháp luật về
kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Ngãi với 06 huyện miền núi
thuộc tỉnh Quảng Ngãi (huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh
Long và huyện Ba Tơ) là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số Hre,
Kor và Cadong.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết
học Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, lý luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và pháp luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, về vai trò phổ biến pháp luật nói chung và cho đồng bào dân
tộc thiểu số nói riêng.
- Ph ơng pháp nghi n cứu: Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích;
phương pháp lịch sử và lôgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống
5
hóa... trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Từ việc nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu,
luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về phổ biến pháp luật với tư cách là
một hoạt động khoa học pháp lý và khoa học hành chính; đưa ra một số
nhận xét, đánh giá và kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong
phú thêm hệ thống cơ sở lý luận phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đề xuất các giải pháp có giá trị tham
khảo trong thực tế hoàn thiện phổ biến pháp luật; góp phần nâng cao vai trò,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động phổ biến pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn có ý
nghĩa nâng cao nhận thức pháp luật đối với đội ng cán bộ, công chức hiểu
đầy đủ, sâu sắc về những điểm bất cập, cách lựa chọn phương pháp tổ chức
triển khai trong quá trình sản xuất, kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu
số đúng theo quy định của pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận v phổ biến pháp luật v kinh do nh cho
đồng bào dân tộc thiểu số tr n đị bàn tỉnh Qu ng Ngãi
Chương 2: Thực trạng phổ biến pháp luật v kinh do nh cho đồng
bào dân tộc thiểu số tr n đị bàn tỉnh Qu ng Ngãi
Chương 3: Qu n điểm và gi i pháp tăng c ờng phổ biến pháp luật
6
v kinh do nh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Qu ng Ngãi
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm, mục đích, vai trò của phổ biến pháp luật về kinh doanh
cho đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Trong các hoạt động của đời sống xã hội, ngoài pháp luật, có thể có
những quy phạm xã hội thuộc các lĩnh vực khác c ng đòi hỏi phải được
phổ biến cho những đối tượng khác nhau được biết. Tuy nhiên, khác với
các quy phạm xã hội nói chung, pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận không chỉ dành riêng cho cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng chung
cho tất cả các chủ thể. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý kinh tế -
xã hội, nó chỉ được thực hiện tốt khi các đối tượng được biết đến và hiểu rõ
về nội dung của pháp luật.
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân thì “phổ
biến được hiểu là làm cho mọi người đều biết” [26, tr.492]; còn theo Đại từ
điển Tiếng Việt thì “phổ biến có nghĩa là làm cho đông đảo mọi người biết
đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua
hình thức nào đó” [7, tr.3]. Phổ biến pháp luật là giới thiệu tinh thần văn
bản pháp luật cho người có nhu cầu. Phổ biến pháp luật kinh doanh là hỗ
trợ người dân tộc thiểu số là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta và
được thực hiện từ nhiều năm nay. Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc
là một trong những vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện
tốt chính sách dân tộc, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự
7
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Cho nên, ngay
từ khi mới ra đời, Đảng ta đã thực hiện nguyên tắc chính sách dân
tộc là: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Những nguyên tắc này được quán triệt và thực hiện nhất quán trong tất cả
các giai đoạn phát triển của đất nước từ khi có Đảng đến nay. Trong văn
kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ…” [9,
tr.121].
Nhà nước cần phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân
tộc thiểu số bởi họ là một nhóm chủ thể yếu thế trong xã hội. Trình độ dân
trí, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đồng bào dân tộc thiểu
số thấp, không được đào tạo cơ bản, ít thông tin. Họ chủ yếu sống và làm
việc ở các vùng sâu, vùng xa, hoặc vùng có địa hình hiểm trở, địa bàn
thường bị chia cắt, chịu nhiều tác động của thiên tai. Kết cấu hạ tầng (điện,
đường, trường, trạm, dịch vụ) ở vùng này vẫn còn khó khăn, nhiều nơi môi
trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái. Do những khó khăn trên cùng với tập
quán canh tác lạc hậu, kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số kém phát triển
nên phần lớn bà con dân tộc thiểu số thuộc nhóm người nghèo, có trình độ
phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với bình quân chung cả nước. Trình độ
phát triển kinh tế, xã hội, mức sống giữa các dân tộc, giữa các vùng chênh
lệch với các vùng khác. Chất lượng, hiệu quả về giáo dục đào tạo đối với
đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, do nhận thức và điều kiện kinh tế hạn
chế nên họ không quan tâm đến sức khỏe của chính mình.
Từ những phân tích tr n, phổ biến pháp luật v kinh do nh cho đồng
8
bào dân tộc thiểu số có thể hiểu là một khâu hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật, do các cơ qu n, tổ chức, nhà n ớc, đoàn thể, cá nhân tại địa
ph ơng thực hiện, bằng các hình thức, ph ơng pháp thích h p, nhằm mục
đích truy n bá pháp luật cho đối t ng, nâng c o tri thức, tình c m, ni m
tin pháp luật v kinh doanh cho đối t ng, từ đó nâng c o ý thức tôn trọng
pháp luật v kinh doanh, nghi m chỉnh ch p hành pháp luật củ đối t ng.
1.1.2. Mục đích của phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân
tộc thiểu số
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác
định mục đích để làm gì? cần đạt đ c mục đích y bằng con đ ờng nào?
ph i lựa chọn hình thức và ph ơng pháp nh t định nào? Xác định đúng
đắn mục đích của phổ biến pháp luật về kinh doanh chẳng những là căn
cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung
phổ biến pháp luật phù hợp với đối tượng được phổ biến. Mục đích của
phổ biến pháp luật bao gồm:
- Một là: Từng bước nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết về pháp
luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số. Mục đích được đặt ra là không
ngừng nâng cao nhận thức pháp lý cho đối tượng được phổ biến pháp luật để
họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những tri thức về Nhà nước, về
pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định.
- H i là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp
luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng
quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự
hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải
có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào
sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp
9
pháp của mình. Để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải
giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công
dân, thái độ không khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật.
- Ba là phổ biến pháp luật nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói
quen xử sự hợp pháp, tích cực. Hành vi xử sự theo pháp luật của con người
là kết quả của một quá trình nhận thức pháp luật. Để đạt được mục đích này
trong quá trình phổ biến pháp luật về kinh doanh phải lựa chọn nhiều hình
thức, phương pháp và thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự
cần thiết, tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội.
Phổ biến pháp luật về kinh doanh nhằm đạt được ba mục đích nêu
trên, ngoài ra mục đích của nó còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá
trình phổ biến pháp luật. Không dựa vào mục đích của phổ biến pháp luật
thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định hiệu quả của
quá trình phổ biến pháp luật.
1.1.3. Vai trò của phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Pháp luật là một trong những phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản
lý xã hội, là công cụ để mọi người thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp
c ng như nghĩa vụ của mình. Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu
số là khâu đầu tiên trong thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật
vào cuộc sống của người đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là một quá trình tác
động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên người đồng bào dân
tộc thiểu số.
- Phổ biến pháp luật v kinh do nh góp phần cung c p, tr ng bị, nâng
cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là pháp luật luôn được đặt ở vị trí thượng tôn, không một cơ quan,
10
tổ chức hay cá nhân nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. “Nhà
n ớc đ c tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, qu n lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện ngu n tắc tập trung dân chủ” [38,
khoản 1. Đ. 8] Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật là đề điều chỉnh các
quan hệ xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước,
tập thể và công dân. Muốn cho pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ,
nghiêm túc trong thực tế xã hội, phát huy được đầy đủ vai trò, chức năng của
nó thì pháp luật phải được thẩm thấu vào trong nhận thức và bộc lộ ra thông
qua hành vi pháp luật hợp pháp của mỗi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên,
pháp luật không thể tự nó đến được với mỗi người, mà phải thông qua phổ
biến pháp luật.
Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số, vì nhiều nguyên nhân về
lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội… mà trình độ dân trí về pháp luật còn
nhiều hạn chế. Có những người đồng bào dân tộc thiểu số chỉ biết rất ít
hoặc hầu như không biết đến các quy định pháp luật, trong đó có các quy
định về quyền con người, quyền công dân, từ đó dẫn đến khó có thể tiếp
cận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của mình. Muốn trang bị
kiến thức pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số về kinh doanh thì
phương thức chủ yếu mà các cơ quan chức năng phải triển khai là phổ
biến pháp luật về kinh doanh cho họ. Điều đó nói lên một trong những
vai trò hết sức quan trọng của phổ biến pháp luật là góp phần cung cấp,
trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số.
- Phổ biến pháp luật v kinh do nh góp phần xâ dựng, củng cố tình
c m, ni m tin củ đồng bào dân tộc thiểu số đối với pháp luật
Pháp luật chỉ có thể được mọi người dân thực hiện nghiêm chỉnh và
thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc, quy
11
định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ các
nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật một
cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà nước.
Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật
cho các tầng lớp nhân dân, phổ biến pháp luật góp phần xây dựng, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với pháp luật. Có niềm tin vào tính công bằng,
nghiêm minh của pháp luật, đồng bào dân tộc thiểu số sẽ biết cách thực hiện
hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật một cách
độc lập, tự nguyện, tự giác.
- Phổ biến pháp luật v kinh do nh góp phần nâng c o ý thức tự giác
ch p hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp luật h p pháp cho đồng bào dân
tộc thiểu số hiểu biết v hoạt động kinh do nh
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số chỉ
có thể được nâng cao khi phổ biến pháp luật được tiến hành thường xuyên,
kịp thời, hiệu quả, có tính thuyết phục, góp phần hình thành, củng cố tình cảm
tốt đẹp, niềm tin của đồng bào đối với pháp luật, ngày càng nâng cao hiểu biết
của họ về các văn bản quy phạm pháp luật, các sự kiện, hiện tượng pháp luật
xảy ra trong đời sống xã hội; từ đó, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp
luật của đồng bào dân tộc thiểu số.
Để hoạt động phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của đồng bào đối với pháp luật
thì cần giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và nhận thức
không khoan nhượng đối với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Giáo dục tình
c m công bằng là giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số biết đánh giá các
quy phạm pháp luật, biết cách xác định các tiêu chuẩn về tính công bằng của
pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết cách xử sự trong quan hệ với
người khác và với chính bản thân mình dựa trên các quy phạm pháp luật.
12
Giáo dục tình c m trách nhiệm là giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số ý
thức về nghĩa vụ pháp lý của họ, làm cho họ nhận thức được rằng, mọi hoạt
động kinh doanh của họ đều phải dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ
các quy định pháp luật. Giáo dục nhận thức không kho n nh ng với các
hành vi phạm tội là giúp người đồng bào dân tộc thiểu số biết chủ động, tích
cực đấu tranh với tội phạm.
Phổ biến về kinh doanh pháp luật giúp củng cố niềm tin sâu sắc của
đồng bào dân tộc thiểu số vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện
các quy định của pháp luật là những yếu tố quan trọng làm hình thành hành
vi pháp luật tích cực. Những tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm, nhận
thức không khoan nhượng với các hành vi phạm tội... là những yếu tố tâm lý,
tư tưởng không thể tách rời hành vi pháp luật chủ động, tự giác và tích cực.
Phải nhờ vào động lực thôi thúc nội tâm, những tình cảm và niềm tin vững
chắc vào pháp luật thì mới có thể hình thành được hành vi pháp luật hợp
pháp, tự nguyện và tích cực trong đồng bào dân tộc thiểu số. Điều đó nói lên
một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động phổ biến pháp luật
về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là góp phần nâng cao ý thức tự
giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi kinh doanh hợp pháp của đồng
bào dân tộc thiểu số.
Việc xây dựng, củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với
pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản
động, thù địch vẫn đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây
13
chia rẽ giữa đồng bào dân tộc thiểu số.
1.2. Nội dung và hình thức phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số
1.2.1. Nội dung phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Việc xác định nội dung của phổ biến pháp luật về kinh doanh là vấn
đề đặc biệt quan trọng, bởi việc xác định nội dung phổ biến pháp luật về
kinh doanh là gì? mức độ như thế nào? cho từng loại đối tượng nào?... là
vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của phổ biến pháp luật về kinh doanh.
Hay nói cách khác trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác định một nội
dung phổ biến pháp luật về kinh doanh thiết thực để có hiệu quả cao. Nội
dung phổ biến pháp luật về kinh doanh là một phạm vi rộng bao gồm kiến
thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật,
các văn bản pháp luật thực định. Ngoài ra nội dung của phổ biến pháp luật
về kinh doanh còn bao hàm các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về
việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, cả về nghiên cứu
điều tra xã hội học pháp luật.
Nội dung phổ biến pháp luật về kinh doanh được xác định trên cơ sở
mục đích, nhiệm vụ, đối tượng của phổ biến pháp luật. Nội dung phổ biến
pháp luật về kinh doanh bao gồm một hệ thống các thông tin về pháp luật
thực định, những thông tin về pháp luật chuyên ngành, những thông tin về
thực tiễn thi hành, áp dụng và bảo vệ pháp luật...
Trong lý luận về phổ biến pháp luật về kinh doanh, cần làm rõ một
số vấn đề liên quan tới nội dung phổ biến pháp luật như phạm vi, đặc điểm,
những yếu tố chủ yếu của nội dung phổ biến pháp luật về kinh doanh.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội
dung phổ biến pháp luật riêng biệt có thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu,
14
nội dung để đạt tới mục tiêu phổ biến pháp luật đặt ra cho mọi đối tượng.
Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu đặc điểm đặc thù của từng đối
tượng cụ thể, áp dụng các hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật hợp lí
và phải có sự phối hợp giữa các hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật
để bảo đảm được toàn bộ nội dung phổ biến pháp luật với phạm vi khác
nhau, ở các cấp độ khác nhau với từng đối tượng khác nhau.
Đối với phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ vào
những đặc điểm về đối tượng giáo dục đã phân tích ở trên nên nội dung phổ
biến pháp luật c ng phải phù hợp với những đặc điểm đó.
1.2.2. Hình thức phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Để đối tượng được tiếp nhận tri thức pháp luật về kinh doanh, cần
phải biến đổi về chất trong nhận thức của họ thì bản thân mục đích và nội
dung của phổ biến pháp luật về kinh doanh không thể tự nó đi vào nhận
thức. Vấn đề cần phải thông các phương thức truyền tải thông tin, các hình
thức giao tiếp giữa chủ thể và đối tượng.
Hiệu quả của công tác phổ biến pháp luật không chỉ phụ thuộc vào
nội dung phổ biến pháp luật mà còn phụ thuộc vào hình thức và phương
pháp giáo dục bởi vì mục đích và nội dung của phổ biến pháp luật không
thể tự thân đi vào nhận thức, tình cảm của người được phổ biến pháp luật
mà phải qua nhiều kênh thông tin, qua các hoạt động cụ thể, các dạng hoạt
động đó phải phù hợp với khả năng nhận thức của từng đối tượng, vì vậy
xác định đúng đắn hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật là rất quan
trọng.
Có nhiều quan niệm khác nhau về hình thức phổ biến pháp luật. Xuất
phát từ giáo dục học, khái niệm hình thức giáo dục được hiểu là các hoạt
động phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm
15
lĩnh nội dung giáo dục và đạt được mục đích giáo dục, trên cơ sở đó hình
thức phổ biến pháp luật được hiểu là các dạng hoạt động cụ thể để có thể
tổ chức phối hợp giữa chủ thể phổ biến pháp luật và đối tượng phổ biến
pháp luật để thể hiện nội dung và đạt mục đích phổ biến pháp luật.
Phương pháp giáo dục được hiểu là hệ thống các cách thức sử dụng
để tiến hành hoạt động phổ biến pháp luật.
Từ khái niệm về hình thức pháp luật người ta phân chia hình thức
phổ biến pháp luật thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn c ng như qua
nghiên cứu lý luận về nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tượng phổ biến
pháp luật, hình thức phổ biến pháp luật được chia làm hai loại, đó là:
Các hình thức phổ biến pháp luật m ng tính phổ biến, tru n thống
của giáo dục chính trị, tư tưởng như: phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các
cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cư; tổ chức hội
nghị, hội thảo pháp luật, các câu lạc bộ pháp luật; tổ chức thông tin cổ động
pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền pháp luật qua các
phương tiện thông tin đại chúng; các hình thức văn hoá văn nghê, dạy và
học pháp luật trong các nhà trường; hoạt động xây dựng, quản lý và khai
thác tủ sách pháp luật…
Các hình thức phổ biến pháp luật đặc thù nh : các hoạt động định
hướng phổ biến pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp của các cơ quan nhà nước; phổ biến pháp luật của các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp như trợ giúp pháp lý, hoà giải, tư
vấn pháp luật…
Căn cứ vào đối tượng phổ biến pháp luật về trình độ nhận thức, điều
kiện sống, mức độ quan tâm đến pháp luật, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của
đối tượng mà sử dụng hình thức phổ biến pháp luật phù hợp. Bên cạnh đó
cần chú ý gắn phổ biến pháp luật với việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính
16
trị của địa phương. Điều này nếu thực hiện tốt, một mặt sẽ phát huy được
tác dụng của phổ biến pháp luật, mặt khác làm tăng hiệu quả của công tác
này.
Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số, do các đặc điểm đã nêu ở
trên thì với mỗi nhóm người đồng bào dân tộc thiểu số khác nhau sẽ có
hình thức, phương pháp khác nhau. Như đối với nhóm người đồng bào dân
tộc thiểu số trong độ tuổi từ 55 trở lên do điều kiện về tuổi tác, sức khoẻ,
trình độ và khả năng tiếp thu kiến thức có nhiều khó khăn nên phổ biến
pháp luật thông qua hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, giao lưu văn hoá văn
nghệ sẽ giúp người đồng bào thấy thoải mái hơn, dễ tiếp thu hơn, dễ nhớ
hơn và hoạt động phổ biến pháp luật mang lại hiệu quả cao hơn. Đối với
nhóm người đồng bào dân tộc thiểu số từ 18-35 vừa có sức khoẻ, khả năng
tiếp thu tốt hơn, lại năng động hơn, tinh thần học hỏi cao hơn thì có thể tổ
chức lớp học, tổ chức buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật lồng ghép
với sinh hoạt văn hoá văn nghệ sẽ thu hút được đông đảo người tham gia
hơn. Như vậy có thể nói, đối với người đồng bào dân tộc thiểu số thì một số
hình thức phổ biến pháp luật được sử sụng đó là tuyên truyền miệng thông
qua đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hoạt động trợ giúp
pháp lý, sinh hoạt câu lạc bộ, biên soạn tài liệu, xây dựng tiểu phẩm và huy
động các cán bộ chính quyền, đoàn thể, những người có uy tín trong cộng
đồng tham gia phổ biến phổ biến pháp luật. Những hình thức, phương pháp
này được sử dụng thường xuyên sẽ mang lại hiệu quả thiết thực đối với
17
công tác này.
1.3. Các yêu cầu và điều kiện bảo đảm phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
1.3.1. Yêu cầu đối với phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào
dân tộc thiểu số hiện nay
1.3.1.1. Y u cầu v mục đích
Mục đích chính của phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
là nâng cao khả năng sử dụng pháp luật, khả năng tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người đồng bào; thực hiện bình đẳng, nâng cao vai trò
của người đồng bào dân tộc thiểu số ngoài xã hội; xoá bỏ những hủ tục lạc
hậu phát huy truyền thống tốt đẹp của địa phương. Để đạt được những mục
đích trên thì phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số phải đáp ứng
được những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn
với việc phát huy vai trò của người đồng bào trong điều kiện hiện nay.
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào thì người đồng bào dân tộc thiểu số
luôn là lực lượng xã hội có đóng góp to lớn đối với sự phát triển đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
đang từng bước tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội
nhập sâu với nền kinh tế thế giới đã thu được những kết quả quan trọng
như: Tham gia xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh bằng hình thức
đóng góp, tham gia ý kiến, phát hiện đấu tranh loại bỏ những tiêu cực trong
bộ máy và hoạt động của chính quyền cơ sở; tham gia xây dựng tổ chức
vững mạnh thông qua việc tích cực ủng hộ các hoạt động tại địa phương,
đóng góp ý kiến với tổ chức trên tinh thần xây dựng. Chủ động học tập,
nâng cao trình độ, biết vận dụng kiến thức khoa học công nghệ mới vào sản
18
xuất, kinh doanh phát triển kinh tế gia đình, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ
của địa phương. Vì vậy, việc nâng cao trình độ mọi mặt cho người đồng bào
dân tộc thiểu số một yêu cầu cần thiết trong điều kiện hiện nay, và việc nâng
cao kiến thức đó phải ở mọi lĩnh vực nhằm giúp đồng bào có tri thức để phát
huy được vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
H i là, hiểu biết pháp luật phải gắn với thói quen xử sự theo pháp
luật và có kỹ năng thực hiện pháp luật.
Mục đích của phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là
cung cấp kiến thức về pháp luật cho người đồng bào để mở rộng tri thức
pháp luật cho họ. Nhưng trên thực tế không ít người mặc dù có tri thức về
pháp luật nhưng ở họ không có tình cảm đúng đắn với pháp luật nên không
xử sự theo đúng quy định của pháp luật. Nếu chỉ dừng lại ở việc hiểu biết
những quy định của pháp luật nhưng họ không thực hiện hoặc thực hiện với
thái độ không tự giác, không tích cực thì hiệu quả của phổ biến pháp luật sẽ
không cao, mục đích của phổ biến pháp luật chưa đạt được. Vì vậy có tri
thức về pháp luật phải có thói quen xử sự theo pháp luật và phải có kỹ năng
thực hành nó. Thực tế công tác phổ biến pháp luật trong thời gian qua có
lúc, có nơi dường như chỉ tập trung vào việc trang bị các quy định hiện
hành của nhà nước, mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng c ng
mở chuyên trang, chuyên mục về pháp luật nhưng c ng chỉ tập trung vào
việc trích đọc các điều luật nên chất lượng giáo dục chưa cao. Nếu không
được hướng dẫn kỹ năng thực hiện pháp luật thì đồng bào dân tộc thiểu số
sẽ rất khó khăn trong việc sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của mình.
B là, phổ biến pháp luật cho đồng bòa dân tộc thiểu số phải gắn với
việc nâng cao nhận thức.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật chính là việc giúp cho người
19
đồng bào nhận thức rõ về vị trí, vai trò của mình, trang bị những hiểu biết
cần thiết về quyền bình đẳng, chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử. Vì
vậy phổ biến pháp luật cho người đồng bòa dân tộc thiểu số không chỉ là
cung cấp những kiến thức về pháp luật mà còn còn nhấn mạnh những
phương thức để nâng cao vị thế của họ, nâng cao nhận thức góp phần tạo
sự chuyển biến về nhận thức c ng như hành vi của các đối tượng khác
trong xã hội.
Bốn là, phổ biến pháp luật cho người đồng bòa dân tộc thiểu số góp
phần nâng cao trình độ, năng lực, tư duy cho người đồng bòa dân tộc thiểu số.
Trách nhiệm của báo cáo viên, tuyên truyền viên là tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với
vùng có đông người đồng bào dân tộc thiể số. Phổ biến pháp luật cho đồng
bào dân tộc thiểu số c ng chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng
đối với người cán bộ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Trình độ hiểu biết và
ý thức chấp hành pháp luật của người đồng bòa dân tộc thiểu số là một
trong những thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động công tác phổ biến pháp
luật. Thông qua hoạt động phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc
thiểu số nắm được nhóm lợi ích đặc thù cho người đồng bào dân tộc thiểu
số khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: Các báo cáo viên, tuyên truyền viên những chính sách hỗ trợ
sản xuất, kinh doanh thì phải hướng dẫn sử dụng cây trồng, vật nuôi, vật tư
nông nghiệp, phân bón chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để canh tác;
hỗ trợ định kỳ tiêm vaccin phòng cho gia súc, gia cầm của đồng bào dân
tộc thiểu số.
1.3.1.2. Y u cầu v ch t l ng phổ biến pháp luật v kinh do nh cho đồng
bào dân tộc thiểu số
Chất lượng phổ biến pháp luật về kinh doanh trong điều kiện hiện
20
nay được thể hiện ở một số yêu cầu cơ bản sau:
- Y u cầu v phổ biến các chính sách u đãi v kinh do nh cho
ng ời đồng bò dân tộc thiểu số.
Nội dung phổ biến pháp luật là yếu tố quan trọng trong hoạt động
phổ biến pháp luật, xác định đúng nội dung các chính sách ưu đãi là tiền đề
cho việc phổ biến pháp luật đạt hiệu quả. Đối với phổ biến pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số thì nội dung phải đảm bảo yếu tố thiết thực, đó là
những nội dung có liên quan trực tiếp các hoạt động khuyến nông nâng cao
năng lực sản xuất, kinh doanh cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa. Những
nội dung phổ biến pháp luật phải có ý nghĩa thiết thực trong từng thời gian
nhất định, điều này có nghĩa là không chỉ nên tập trung quá vào những văn
bản mới được ban hành mà còn phải tuỳ vào từng giai đoạn nhất định, tuỳ
vào yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị, nhiệm vụ ngăn
ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, hoặc những vấn đề nóng bỏng của địa
phương như vấn đề vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, vấn đề
phòng chống ma tuý, mại dâm, về dân số hoặc bầu cử đại biểu HĐND các
cấp…Bên cạnh đó nội dung phổ biến pháp luật phải chú trọng đến quy
hoạch sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi; các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chuyển
giáo công nghệ; hỗ trợ đào tạo, tập huấn cho lao động nghèo, lao động là
đồng bòa dân tộc thiểu số.
- Y u cầu v hình thức, ph ơng pháp phổ biến pháp luật v kinh
doanh
Hiệu quả của công tác pháp luật về kinh doanh không chỉ phụ thuộc
vào nội dung mà còn phụ thuộc vào hình thức và phương pháp, bởi vì để
chuyển tải được nội dung phổ biến pháp luật về kinh doanh đến đối tượng
đòi hỏi phải có cách thức và biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp
21
nhận của từng đối tượng và phù hợp với từng nhóm đối tượng. Đối với
người đồng bòa dân tộc thiểu số có thể phân loại các nhóm đối tượng theo
độ tuổi, theo trình độ văn hoá, theo địa bàn sinh sống hoặc theo tôn
giáo…Với mỗi nhóm đối tượng khác nhau có thể sử dụng hình thức và
phương pháp khác nhau, có thể sử dụng một hoặc nhiều hình thức kết hợp
để nâng cao chất lượng pháp luật về kinh doanh. Việc sử dụng hình thức,
phương pháp phổ biến pháp luật về kinh doanh phải gắn với đặc thù của địa
phương, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, địa bàn dân cư và gắn với từng thời
điểm thích hợp. Ví dụ không nên tổ chức hội nghị tuyên truyền kiến thức
pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số vào thời điểm thu hoạch
mùa hoặc vào các ngày lễ trọng của đồng bào dân tộc thiểu số... Như vậy
chỉ có sử dụng đúng hình thức, phương pháp thì nội dung phổ biến pháp
luật về kinh doanh mới dễ dàng đi vào nhận thức của người đồng bòa, nâng
cao chất lượng phổ biến pháp luật.
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bòa dân tộc thiểu số hiện nay
Để công tác phổ biến pháp luật đáp ứng các yêu cầu trên đòi hỏi phải
có những điều kiện nhất định. Đó chính là những điều kiện bảo đảm cho
công tác phổ biến pháp luật. Có thể kể đến một số điều kiện cơ bản sau:
- Đi u kiện v sự lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác phổ biến
pháp luật v kinh do nh cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Có thể nói, khi thực hiện bất kỳ một nhiệm vụ nào, hay tiến hành một
hoạt động nào c ng cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo. Sự lãnh đạo, chỉ đạo có
thể chỉ là sự định hướng, có thể là sự chỉ đạo trực tiếp trong việc phân công,
giao trách nhiệm hoặc thông qua việc đôn đốc, kiểm tra, giám sát…Dù thể
hiện ở bất kỳ hình thức nào thì công tác lãnh đạo, chỉ đạo c ng đặc biệt quan
trọng, nó quyết định đến sự thành công của công việc. Trong hoạt động phổ
22
biến pháp luật c ng vậy, từ thực tiễn cho thấy ở nơi nào có sự chỉ đạo sát
sao, sự quan tâm đúng mức sẽ mang lại hiệu quả cao. Chính vì vậy mà Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Xác định:
"Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền các cấp tổ chức thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật…" [2].
Đối với công tác phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc
thiểu số thì sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ lại càng quan trọng. Vì vậy,
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phải nhận thức đúng đắn về vai trò
và tầm quan trọng của công tác phổ biến pháp luật. Coi việc chỉ đạo, thực
hiện nhiệm vụ phổ biến pháp luật là việc làm thường xuyên, liên tục của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và của cả hệ thống chính trị.
Cấp uỷ cần đưa nội dung chỉ đạo công tác phổ biến pháp luật cho
nhân dân nói chung, cho người đồng bào dân tộc thiểu số vào nghị quyết để
khắc phục tình trạng giao khoán việc phổ biến pháp luật cho chính quyền
và đoàn thể.
Các cấp chính quyền cần có sự quan tâm đúng mức đến việc xây
dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, hướng dẫn nội dung phổ
biến pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, của từng
đối tượng.
- Đi u kiện v chủ thể phổ biến pháp luật
Chủ thể phổ biến pháp luật là những người có vai trò rất quan trọng
trong việc chuyển tải những nội dung, những quy định của pháp luật đến
mọi tầng lớp nhân dân, góp phần đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống.
Chính vì vậy phổ biến pháp luật không thể tiến hành được nếu thiếu chủ thể
23
giáo dục, do đó chủ thể phổ biến pháp luật là một trong những điều kiện
cần để đảm bảo cho công tác phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân
tộc thiểu số đạt quả tốt.
Để phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số đạt hiệu
quả thì chủ thể phổ biến cần phải đảm bảo các điều kiện sau: có trình độ
pháp lý nhất định; nhiệt tình, tâm huyết, tận tuỵ với công tác phổ biến pháp
luật cho người đồng bòa dân tộc thiểu số; có khả năng vận động, thuyết
phục, hoà đồng, giao tiếp bằng tiếng dân tộc. Phải biết được đối tượng giáo
dục họ là ai, họ cần những lĩnh vực pháp luật nào. Biết chia sẻ, lắng nghe
sự phản hồi của đối tượng phổ biến. Tích cực, chủ động nghiên cứu tích luỹ
tư liệu, kiến thức về pháp lý, về pháp luật hiện hành, về đường lối của
Đảng, kiến thức về chuyên ngành, kiến thức xã hội và về những kinh
nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài, ngoài ra chủ thể phổ biến
pháp luật c ng cần phải có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền,
phải có hiểu biết về phong tục tập quán nơi tiến hành hoạt động phổ biến
pháp luật. Bên cạnh đó chủ thể phổ biến c ng cần phải luôn gương mẫu,
trau dồi phẩm chất đạo đức, tự học, tự rèn để có khả năng hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số cần phải phát huy vai trò
nòng cốt, chủ động xây dựng chương trình phổ biến pháp luật cho người
đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó phải cụ thể hoá các nội dung đối với
từng nhóm ở các khu vực khác nhau. Chỉ đạo các cấp tiến hành đồng bộ,
thống nhất hoạt động này, đồng thời chủ động phối hợp với các ngành,
đoàn thể để tổ chức thực hiện phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân
tộc thiểu số đạt hiệu quả. Cần tăng cường kiểm tra, đánh giá, rút kinh
24
nghiệm về công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện phổ biến pháp luật.
- Đi u kiện v cơ chế phối h p trong phổ biến pháp luật v kinh
doanh:
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân
tộc thiểu số có một vị trí hết sức quan trọng, nó không chỉ giúp họ hiểu
biết pháp luật, biết xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả kinh tế cao được nhân rộng, người dân áp dụng vào sản xuất, kinh
doanh phù hợp với từng vùng, miền, địa bàn của từng địa phương. Việc
phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ giúp
cho họ nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật mà nó còn có tác dụng
phổ biến cho các thành viên khác trong gia đình. Chính vì vậy phổ biến
pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số không phải là trách nhiệm
của một ngành, một cơ quan nào mà là trách nhiệm chung của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội lãnh đạo đoàn thể, tổ chức của
mình chủ động và tích cực phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện
phổ biến phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số.
Để tạo sức mạnh tổng hợp và có hiệu quả trong công tác phổ biến
pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số cần phải có sự phối hợp đồng
bộ giữa các ngành, đoàn thể, trong đó chú trọng đến việc phân công trách
nhiệm giữa các ngành để tránh sự chồng chéo c ng như đùn đẩy trách nhiệm.
Như vậy thực hiện tốt cơ chế phối hợp trong công tác phổ biến pháp luật cho
người đồng bào dân tộc thiểu số là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho
công tác này đạt được hiệu quả thiết thực.
- Đi u kiện v kinh phí và tr ng thiết bị
Kinh phí và trang thiết bị là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
25
công tác phổ biến pháp luật nói chung, phổ biến pháp luật cho người đồng
bào dân tộc thiểu số nói riêng, nó là cơ sở để quyết định chất lượng của phổ
biến pháp luật.
Xuất phát từ thực tế trong thời gian qua, do khó khăn về kinh phí nên
công tác phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số nhìn
chung vẫn còn nhiều hạn chế. Số cuộc tuyền truyền chưa được nhiều, số
lượng tờ rơi, các trang thiết bị như loa đài, micro, băng đĩa phục vụ cho
việc tuyên truyền phổ biến pháp luật còn thiếu, còn chưa đảm bảo chất
lượng, việc biên soạn, xây dựng chương trình, tiểu phẩm vẫn còn ít, chưa
đáp ứng được yêu cầu của công tác phổ biến pháp luật, chế độ đãi ngộ đối
với các cộng tác viên, tuyên truyền viên pháp luật còn thấp thậm chí có nơi
còn không có chế độ đãi ngộ…Vì vậy để nâng cao hiệu quả công tác phổ
biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số thì việc đầu tư nguồn
26
lực tương xứng với nhiệm vụ đặt ra là hết sức cần thiết hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là
dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số khác. Hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số
là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, là một trong những vấn đề
chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt. Đồng bào dân tộc thiểu số là nhóm
dân tộc chủ yếu yếu thế trong xã hội; trình độ dân trí, khoa học, kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ thấp; không được đào tạo cơ bản, ít thông tin. Họ
chủ yếu sống và làm việc ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế, xã hội khó khăn nhất; trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều;
cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên đồng bào dân tộc thiểu số kém phát
triển; phần lớn bà con dân tộc thiểu số thuộc nhóm người nghèo; tỷ lệ hộ
đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với tỷ lệ bình
quân chung cả nước và từng khu vực, vùng miền.
Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua chính sách pháp luật. Phổ
biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận
của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, của pháp luật về hỗ trợ và
pháp luật về dân tộc thiểu số nói riêng. Chế định này là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các hành
động, biện pháp hỗ trợ và các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà
nước phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nội
dung của Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
bao gồm các hành động, biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với đồng bào
dân tộc thiểu số trong quá trình kinh doanh như: Bố trí kinh phí cho rà soát,
xây dựng quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi; Chính sách bảo vệ và phát triển rừng thông qua hỗ trợ
27
tiền khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng và giao đất để trồng rừng sản
xuất; hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất, hỗ trợ khai hoang, phục hóa hoặc tạo
ruộng bậc thang để sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ tiền mua giống, phân bón
cho việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ lãi suất
tiền vay tại ngân hàng thương mại nhà nước để phát triển sản xuất nông
nghiệp, đầu tư cơ sở chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản; hỗ trợ phát
triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và phát triển ngành nghề đối với hộ
nghèo; hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ bảo vệ thực
vật, thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm cho các huyện nghèo; hỗ trợ xúc tiến
thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, thông tin thị trường cho nông
dân; hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ;
hỗ trợ đào tạo nghề; hỗ trợ xuất khẩu lao động; tạo việc làm; hỗ trợ đầu tư cơ
sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã đặc biệt khó khăn và huyện nghèo.
Chất lượng của hệ thống phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số trước tiên phụ thuộc vào khâu ban hành pháp luật;
trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ, đối tượng tác động của pháp luật có
liên quan; chủ thể và khách thể áp dụng pháp luật hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số; ý thức pháp luật và những điều kiện vật chất cần để áp dụng pháp
luật hỗ trợ. Nội dung của pháp luật hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đã thể
hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là luôn quan tâm tạo
điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số có cơ hội cùng với đồng bào Kinh
phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm mục tiêu giảm nghèo nhanh bền
28
vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Giới thiệu khái quát về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã
hội của tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
- V vị trí đị lý, đặc điểm tự nhi n
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, có
chiều dài đường bờ biển là 130 km, có 6 cửa biển, giàu nguồn lực hải sản
với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
Miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà
máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam.
Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′ đến 15°25′ Bắc, từ 108°06′ đến
109°04′ Đông, tựa vào dãy Trường Sơn, hướng ra Biển Đông (với chiều dài
bờ biển 144 km) phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam (với chiều dài địa giới 98
km), phía Nam giáp tỉnh Bình Định (với chiều dài địa giới 83 km), phía
Tây Nam giáp tỉnh Kon Tum (với chiều dài địa giới 79 km), phía Đông
giáp biển Đông. Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ
đô Hà Nội 883 km về phía Bắc và cách Tp Hồ Chí Minh 838 km về phía
Nam. Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang
Đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía Tây của tỉnh
là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen
kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển, đồi núi chiếm phần lớn diện tích,
đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Khí hậu là nhiệt đới điển hình, nhiệt độ trung
bình 25-26,5°, nền nhiệt độ cao, ít biến động. Có 4 con sông chính, lớn nhất
là sông Trà Khúc, sông Vệ, sông Trà Bồng và Trà Câu. Đất đai trong địa
29
bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất
phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa,
đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá.
Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất
tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu,
chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3%
diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày,
rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp
với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn ngày. Nhìn chung, đây là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần nâng cao đời
sống kinh tế cho người dân trong tỉnh.
- V lịch sử chính trị:
Đơn vị hành chính tỉnh Quảng Ngãi chính thức được thành lập vào
năm 1832, đến sau cuộc thắng lợi Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh
Quảng Ngãi được đổi tên thành tỉnh Lê Trung Đình. Năm 1946, lấy lại tên
c là tỉnh Quảng Ngãi. Tháng 12/1975, Quốc Hội khóa V thông qua Nghị
quyết thành lập các tỉnh hợp nhất trong đó có tỉnh Nghĩa Bình trên cơ sở
hợp nhất giữa tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Ngày 01/7/1989, Quảng
Ngãi được tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình và tái thành lập lại tỉnh Quảng Ngãi.
Đến nay, tỉnh Quảng Ngãi gồm có 14 huyện, thành phố, trong đó có 6
huyện miền núi, 01 hải đảo, 01 thành phố và 06 huyện đồng bằng với 184 xã, phường, thị trấn với diện tích là 5.152 km2.
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, với bao biến cố thăng
trầm, vượt lên trên mọi hy sinh tổn thất to lớn và nặng nề, quân và dân tỉnh
Quảng Ngãi đã kề vai sát cánh bên nhau, bền bỉ đấu tranh, lần lượt đập tan
các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, lập nên những chiến công oanh liệt góp
phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Phát huy truyền
30
thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà, đội
ng cán bộ, công chức tỉnh Quảng Ngãi ngày càng được rèn luyện và
trưởng thành, từng bước được bồi đắp lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, vào các chính sách và pháp luật của Nhà nước, được trang bị
những kiến thức khoa học, tri thức pháp luật để có thái độ đúng đắn và ý
thức chấp hành tốt những quy định của pháp luật.
- V phân bố dân số:
Tính đến năm 2015, dân số toàn tỉnh Quảng Ngãi có 1.247.644
người trong đó: Nam có 616.346 người, nữ có 631.2982 người, nông thôn
có 1.063.019 người, thành thị có 184.625 người, mật độ dân số là 242 người/km2. Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống,
trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.055.154 người, thứ hai là
Người Hrê với hơn 115.268 người, thứ ba là Người Cor với hơn 28.110
người, Người Kdong có 17.713 người, cùng với các dân tộc ít người khác
như Hoa, Mường, Tày, Thái...
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đất nước nói
chung, dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
và các cấp ủy Đảng ở địa phương, Quảng Ngãi đã thu được những thành
tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển
dịch đúng định hướng, quy mô kinh tế tăng lên đáng kể, các ngành, thành
phần, vùng kinh tế đều phát triển, nhất là ngành công nghiệp và Khu kinh
tế Dung Quất phát triển mạnh, đã và đang là động lực to lớn, trực tiếp thúc
đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp năm
2015 đạt 22.234 tỷ đồng, tăng 4.474 tỷ đồng so với năm 2010, tăng bình
quân 4.6%/năm. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân
31
7,2%/năm. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có bước chuyển biến tiến bộ. Các
hoạt động văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, công tác định canh định cư, xóa
đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả quan trọng. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Quốc phòng - an ninh được bảo
đảm; chính trị - xã hội ổn định; lực lượng v trang được tăng cường. Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên; các tổ chức
trong hệ thống chính trị được kiện toàn và hoạt động có hiệu quả hơn. Sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố. Nhìn chung,
Quảng Ngãi về cơ bản đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh Quảng Ngãi c ng còn nhiều hạn chế: Kinh tế phát triển chưa thật
bền vững; chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn thấp. Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn phát triển chậm; nông nghiệp phát triển chưa
toàn diện; loại hình dịch vụ thiếu đa dạng; sản xuất giữa các vùng còn chênh
lệch lớn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ. Quản lý nhà nước về
quy hoạch, bảo vệ tài nguyên, môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản chưa theo
kịp yêu cầu. Lĩnh vực văn hoá - xã hội phát triển chưa tương xứng với nhịp độ
tăng trưởng kinh tế.….Đây chính là những thách thức lớn đối với tỉnh Quảng
Ngãi cần tiếp tục có những giải pháp để vừa phát huy thế mạnh của địa phương,
đồng thời vừa khắc phục được những khó khăn, tồn tại. Vì vậy, phổ biến pháp
luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, kinh
doanh là một đòi hỏi khách quan và mong muốn của số đông đồng bào dân tộc
thiểu số tạo niềm tin trong Nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số
nói riêng tích cực phát triển sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập, cải thiện đời
sống, vượt qua đói nghèo. Để đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững
chỉ có cách từng người, từng hộ đồng bào dân tộc thiểu số phải chủ động, tích
32
cực tổ chức sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập nâng cao đời sống.
2.2. Thực trạng phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân
tộc thiểu số
2.2.1. Hoạt động tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ phổ biến pháp
luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung, đồng bào dân
tộc thiểu số nói riêng trong đó có đồng bào Hre, Cor, Kdong trước đây tuy
đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật, và đã
thu được những kết quả tốt, đáp ứng được một phần yêu cầu của việc tăng
cường quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên, công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản
lý xã hội bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng
bộ, rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm; còn thiếu cơ chế, kế hoạch
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức, giữa các cấp, các
ngành để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, và sự tham gia của
toàn xã hội [65, tr.7]. Vì những hạn chế đó, nhu cầu thông tin về pháp luật
của nhân dân trong thời gian qua chưa được đáp ứng đầy đủ.
Nhận thức đúng đắn về vấn đề chính sách dân tộc nói chung và phổ
biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, ngày
13/10/2011 Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về
đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội phấn đấu giảm nghèo nhanh và bền vững 6
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến
năm 2020; HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 24/2011/NQ-HĐND ngày
27/10/2011 về Chương trình giảm nghèo bền vững; ngày 27/12/2011 UBND
tỉnh đã ban hành Quyết định số 207/QĐ-UBND Phê duyệt Đề án đẩy mạnh
phát triển kinh tế, xã hội, phấn đấu giảm nghèo nhanh, bền vững 6 huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng đến năm
33
2020 và các Sở ngành có liên quan ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực
hiện. Các quy định của tỉnh đảm bảo tuân thủ đúng các quy định về quy trình
ban hành văn bản pháp luật, không trái với các quy định của cấp trên
Cùng với vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, vai trò chỉ đạo, điều
hành phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ phía chính quyền từ
huyện đến xã c ng là nhân tố hết sức quan trọng, thể hiện khía cạnh “Nhà
n ớc qu n lý” trong phương châm “Đ ng lãnh đạo, Nhà n ớc qu n lý, nhân
dân làm chủ”. Đây được coi là khâu then chốt của hoạt động phổ biến pháp
luật nói chung, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đều xây dựng kế hoạch về phổ biến, giáo
dục pháp luật đồng thời tập trung chỉ đạo việc phổ biến pháp luật trên địa
bàn, trong đó có phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh
đó, thường xuyên củng cố kiện toàn kịp thời, nhất là khi có sự thay đổi về
công tác nhân sự của thành viên tham gia hội đồng, đồng thời chỉ đạo chính
quyền các huyện, thành phố thường xuyên củng cố kiện toàn các ban, tổ hòa
giải ở cơ sở, kịp thời tiếp nhận và giải quyết những nội dung, vấn đề pháp sinh
ở từng địa bàn dân cư.
2.2.2. Chủ thể, nội dung và hình thức phổ biến pháp luật về kinh doanh
cho đồng bào dân tộc thiểu số
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, số lượng các buổi phổ biến
pháp luật dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số ở một số huyện miền núi
vốn dĩ đã ít, nội dung phổ biến pháp luật lại chưa gắn với nhu cầu tiếp thu tri
thức pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung tuyên truyền
pháp luật chưa sát hợp với yêu cầu đặt ra của địa phương, chưa phù hợp với
đối tượng người nghe, chưa thu hút người nghe. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, bất cập trong phổ biến cho đối
34
tượng là người đồng bào dân tộc thiểu số. Tình trạng người dân vùng đồng
bào dân tộc thiểu số vì nhận thức về pháp luật còn hạn chế, do đó vi phạm
pháp luật trên một số lĩnh vực còn phổ biến.
- Thực trạng về đối tượng
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số: chưa có chương trình, nội dung
chuyên biệt nào để tuyên truyền và phổ biến pháp luật về kinh doanh mà
chủ yếu vẫn là chương trình tuyên truyền lồng ghép trên các phương tiện
thông tin đại chúng như báo hình, báo viết, báo nói, họp khu dân cư, các
Hội nghị…. Hình thức phổ biến này nhanh, nhạy nhưng chương trình nội
dung chưa sâu, chưa thường xuyên mà chủ yếu theo vụ việc mang tính chất
phản ánh những vấn đề xảy ra trong thực tế. Vì vậy hình thức này tuy có
tiến hành hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao. Trên phương tiện phát thanh
của tỉnh đã có chương trình phát sóng tiếng Hre, Cor, Kdong hằng tuần
nhưng nội dung phát thanh vẫn chưa đi sâu vào chuyên mục Nhà nước và
pháp luật mà chỉ mới giới thiệu về các chính sách ưu đãi, chính sách hỗ trợ
đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhưng chưa nói kỹ về hướng dẫn kỹ
thuật, phương pháp nuôi, trồng, sản xuất kinh doanh. Báo Quảng Ngãi là cơ
quan ngôn luận của tỉnh Đảng bộ, đã xây dựng chuyên trang pháp luật
nhằm phản ánh, tuyên truyền, giải đáp thắc mắc của nhân dân về pháp luật,
tuy nhiên chủ yếu các tin, bài báo nêu lên vẫn mang tính chất phản ánh vụ
việc "nóng" chứ chưa mang tính chuyên sâu; thời lượng phát sóng trên các
phương tiện báo chí truyền thanh, truyền hình còn quá ít, nội dung còn
chung chung về các lĩnh vực kinh tế - chính trị và xã hội chưa đi sâu vào
chương trình, chưa dành riêng cho đối tượng là người đồng bòa dân tộc
thiểu số.
Đối với ng ời có u tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Tỉnh
Quảng Ngãi hiện có 1.077 người có uy tín. Trong đó: cấp tỉnh 10 người, cấp
35
huyện 68 người, cấp xã 999 người. Có thể nói người có uy tín là những người
nhận được sự kính trọng của nhân dân ở thôn, buôn; những việc xích mích
trong buôn làng với nhau đều do người có uy tín tham gia giải quyết một cách
có hiệu quả. Khi tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân ở
buôn, làng thì họ được xem với tư cách là chủ thể của phổ biến pháp luật. Có
thể nói các người có uy tín ở các buôn làng ở huyện miền núi thường chỉ dựa
vào uy tín tập quán, luật tục để chỉ dẫn và giải quyết công việc, còn kiến thức
pháp luật còn hạn chế. Vì vậy họ có vai trò "kép" vừa là chủ thể vừa là đối
tượng của phổ biến pháp luật. Do vậy với vị trí, vai trò của già làng, người có
uy tín nên họ cần phải được bồi dưỡng kiến thức pháp luật hơn ai hết trong
các cộng đồng dân cư, điều đó c ng phù hợp với quy định của Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật: “Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ người
làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật, già làng, trưởng bản, người có uy
tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số tham gia phổ biến giáo dục pháp luật
tại địa phương; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tình
nguyện phổ biến pháp luật cho người dân ở vùng đồng bào dân tộc, miền núi,
vùng sâu, vùng xa…” [37, khoản 3. điều 17].
Đối với người dân: hoạt động phổ biến pháp luật cho người dân ở vùng
dân tộc thiểu số phải chú trọng lồng ghép phổ biến pháp luật trong hoạt động
văn hóa truyền thống, thông qua hòa giải ở cơ sở, trên đài phát thanh, phát lại
truyền hình của địa phương để người dân tiếp cận với pháp luật, có kiến thức
vững vàng nắm bắt được những tri thức về Nhà nước, về hoạt động động sản
xuất kinh nhằm giúp người dân tiếp cận và nhận thức một cách trực quan sinh
động về các hành vi vi phạm pháp luật và hiểu nguyên tắc xử lý c ng như hình
thành thái độ, cách ứng xử của người dân.
Phải thực sự quan tâm hơn nữa đến đồng bào dân tộc thiểu số về lĩnh
vực phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật. Phải ưu tiên mở các lớp học,
36
bồi dưỡng kiến thức pháp luật, ngôn ngữ dân tộc thiểu số “bản địa” cho các
cán bộ chính quyền cơ sở, nhất là chữ viết cho đối tượng cán bộ công chức
là người dân tộc. Sách vở, tài liệu cần thiết phải in ấn bằng nhiều ngôn ngữ
(tiếng Việt và tiếng Hre, Cor, Kdong).
- Thực trạng về chủ thể
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh hiện có 38
thành viên. Từ năm 2013 đến nay Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh đã tổ
chức 19 đợt cho 3.285 lượt cán bộ, công chức, viên chức cấp tỉnh; 103 đợt
tuyên truyền cho 4.386 lượt cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, 14
buổi tuyên truyền về các chính sách ưu đãi của Nhà nước cho đồng bào dân
tộc thiểu số có 755 lượt người dân tham dự.
Đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng nói chung, cho đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng trong đó có cộng đồng dân tộc Hre, Cor, Kdong đã có sự
gia tăng về số lượng và chất lượng và được phân bổ ở các cơ quan, ban,
ngành, đoàn thể nên hoạt động phổ biến pháp luật được thực hiện thường
xuyên, liên tục; nội dung phong phú, hình thức từng bước được đa dạng, phù
hợp với từng đối tượng, địa bàn; phát huy được tính chủ động, tích cực và
thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu cho Cấp ủy đảng, chính quyền trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật [23, tr.2].
Tuy nhiên, đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật của tỉnh
còn bộc lộ những hạn chế, bất cập về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp
vụ, thiếu về số lượng, nhất là những người chuyên trách làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật. “Việc bố trí cán bộ, báo cáo viên am hiểu sâu về
pháp luật, về dân tộc và tôn giáo, khi báo cáo biết tập trung vào những vấn đề
chính, có liên hệ, so sánh, dẫn chứng thực tế dễ thu hút người nghe, góp phần
rất lớn đến hiệu quả tuyên truyền” [65, tr.5]. Chính vì vậy, phổ biến pháp luật
37
cho đồng bào dân tộc thiểu số đòi hỏi phải củng cố, xây dựng được một đội
ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đủ về số lượng, chuẩn về tri
thức pháp luật và có các kỹ năng nghiệp vụ.
- Về nội dung, chủ thể phổ biến pháp luật đã lựa chọn được những nội
dung pháp luật phù hợp với đối tượng, đặc thù kinh tế - xã hội và tình hình
thực hiện pháp luật ở từng địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống. Nội dung phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là những
văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và những văn bản pháp
quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành. Đối với mỗi cộng đồng dân
cư lại phải lựa chọn những nội dung phổ biến pháp luật phù hợp với nhu cầu
của họ. Dưới góc độ này, một trong những kết quả đạt được là chủ thể phổ
biến pháp luật đã lựa chọn được những nội dung pháp luật phù hợp với đối
tượng, đặc thù kinh tế - xã hội và tình hình thực hiện pháp luật ở từng địa bàn.
- Về hình thức, hoạt động phổ biến pháp luật cho các đối tượng nói
chung, cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã được tiến hành một cách
linh hoạt, đa dạng, phong phú. Hình thức phổ biến pháp luật được các chủ thể
sử dụng chủ yếu là tuyên truyền miệng, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng
nghiệp vụ, các cuộc hội nghị triển khai các văn bản quy phạm pháp luật mới
được ban hành, các văn bản đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ
công chức và nhân dân. Ngoài ra còn có các hình thức phổ biến pháp luật
khác, như đối thoại pháp luật, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, biên
soạn tài liệu pháp luật phát hành cho các đối tượng, tủ sách pháp luật. Thông
qua các buổi sinh hoạt định kỳ, các cơ quan, đơn vị, trường học thường xuyên
tổ chức tuyên truyền miệng đến các đối tượng. Các chủ thể phổ biến pháp luật
còn lồng ghép nội dung, các mô hình về sản xuất kinh doanh giỏi của các tỉnh
vào các buổi hội họp, tọa đàm, sinh hoạt với nông dân, thông qua các chương
38
trình khuyến nông, khuyến lâm, trang bị tủ sách pháp luật, phát tờ rơi...
Thời gian qua công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số đã được đẩy mạnh và thực sự coi là
nhiệm vụ chính trị quan trọng của tỉnh. Cần tiếp tục đổi mới hình thức
tuyên truyền phổ biến pháp luật bằng cách chọn lọc những nội dung cốt lõi
trong các văn bản pháp luật, sát hợp với quyền và lợi ích của người dân sau
đó dịch sang tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số để tuyên truyền, phổ biến
đến người đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên khó khăn đó chính là chưa
có chương trình giáo dục dạy chữ viết bằng ngôn ngữ của đồng bào trong
các trường học, từ đó hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các
huyện miền núi chỉ có thể nghe và nói tiếng “Mẹ đẻ” chứ chưa thể đọc và
viết. Trên địa bàn các huyện miền núi hiện có một số giáo viên giảng dạy
tiếng Hre, Cor, Kdong. Tuy nhiên, vấn đề dịch thuật các văn bản pháp luật
từ tiếng Việt – Hre, Cor, Kdong cần có sự am hiểu cơ bản về pháp luật, từ
ngữ chuyên ngành pháp luật để dịch thuật một cách đầy đủ, sát nghĩa.
Ngoài ra, còn phối hợp cùng Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
tỉnh Quảng Ngãi tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cho các đối tượng
như: Nhân dân các dân tộc đồng bào thiểu số làm ăn sinh sống tại các
huyện miền núi của tỉnh; Đối tượng người nghèo (có xác nhận của chính
quyền địa phương); Gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách
mạng. Tất cả các đối tượng trên khi có nhu cầu trợ giúp pháp lý thì được
miễn phí, trung tâm trợ giúp pháp lý có đội ng cộng tác viên đông đảo và
đa số được đào tạo cơ bản.
2.2.3. Phổ biến pháp luật trong sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp
Từ năm 2012-2017, 6 huyện miền núi đã tổ chức được 71 lớp tập
huấn cho đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và người đồng
bào dân tộc thiểu số với hơn 12 nghìn lượt người tham dự, về chính sách
39
bảo vệ và phát triển rừng tương đối toàn diện được quy định trong Luật
Bảo vệ và phát triển rừng, được quy định cụ thể chủ yếu tại Nghị quyết
30a/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và Nghị định số 75/2015 ngày
09/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế chính sách bảo vệ và phát
triển rừng gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng
bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020. Các chế định giao rừng gắn với
giao đất lâm nghiệp đã tạo tâm lý ổn định cho các tổ chức, cá nhân tham
gia nhận rừng, đồng thời khẳng định tính pháp lý của chủ rừng, khắc phục
tình trạng lâu nay “rừng không có chủ”. Nhờ vậy, đã tạo động lực cho
Nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số yên tâm đầu tư các nguồn lực
để quản lý bảo vệ, sử dụng, phát triển rừng và đất lâm nghiệp được giao.
Tuy nhiên, các chế định này còn có những hạn chế làm cho việc thực thi
pháp luật ở cơ sở chưa tốt đó là:
- Thủ tục rườm rà, phức tạp nhất là trong khâu rà soát quy hoạch, đo
đạc, cắm mốc, giao đất trên thực địa, thực hiện theo nguyên tắc đầu tư,
hằng năm. Vì vậy, có nơi còn làm theo kiểu hình thức và chủ yếu thực hiện
giao khoán cộng đồng, cả tổ dân cư, cả thôn, cả xã cùng nhận một khu rừng
để cùng chia đều theo nguyên tắc bình quân về các khoản hỗ trợ, do đó
phân định trách nhiệm không rõ ràng;
- Còn chồng chéo thể hiện một nội dung trên nhiều văn bản pháp
luật. Ví dụ: Quy định mức hỗ trợ nhận khoán bảo vệ rừng là 200.000
đồng/ha/năm, nhưng quy đinh tại Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày
09/9/2015 là 400.000 đồng/ha/năm. Định mức này c ng còn thấp so với
công việc, trách nhiệm của người nhận khoán;
- Chế tài xử phạt chưa cụ thể, rõ ràng, quy định chung chung khó
thực hiện. Ví dụ tại Khoản 4, Điều 4, Nghị định 75/2015/NĐ-CP ngày
09/9/2015 quy định: “Trách nhiệm và quyền lợi của hộ gia đình và cộng
40
đồng dân cư thôn được hưởng chính sách bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh
rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng” [8, tr.2].
Quy định này là không sát với thực tế, vì Nhân dân trong vùng mà nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số không thể đọc hết pháp luật về bảo vệ rừng và
phát triển rừng để hiểu về trách nhiệm và quyền lợi được hưởng và các chế
tài bị xử phạt “Quy định chế tài đối với hộ nhận khoán để mất rừng chưa cụ
thể, nhiều hộ nhận khoán bảo vệ rừng thiếu trách nhiệm, dẫn đến mất rừng,
một số nơi vẫn để xảy ra hiện tượng phá rừng để làm nương rẫy” [36, tr.6].
2.2.4. Phổ biến pháp luật về sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp
Thực hiện Chỉ thị số 10/2013/CT-UBND ngày 14/6/2013 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp vùng đồng bào thiểu số, UBND
các huyện miền núi đã triển khai xây dựng nội dung, chương trình và thành
lập đội ng báo cáo viên để chuyển tải các kiến thức, thông tin pháp luật đến
với người đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, 6 huyện miền núi có 51 báo
cáo viên pháp luật, 843 tuyên truyền viên pháp luật và 458 tổ hòa giải với
1.582 hòa giải viên được lựa chọn từ những người có uy tín trong nhân dân,
như: Trưởng thôn, hòa giải viên, Trưởng ban công tác mặt trận, Chủ tịch Hội
phụ nữ, cộng tác viên pháp lý tại cơ sở…Đội ng này được cung cấp tài liệu
tuyên truyền, hàng năm được tập huấn kỹ năng tuyên truyền, phổ biến, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật…
Có thể khẳng định rằng, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ
biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số hiểu về cách tiếp cận với
chính sách hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất, hỗ trợ khai hoang, phục hóa hoặc
tạo ruộng bậc thang để sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ tiền mua giống, phân
bón cho việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ
41
phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và phát triển ngành nghề đối với
hộ nghèo; hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ bảo vệ
thực vật, thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm cho đồng bào dân tộc thiểu số
chỉ đi vào chiều sâu, thực chất và đạt hiệu quả cao khi có sự quan tâm,
đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng từ phía Nhà nước nói chung, các cấp, các
ngành ở địa phương nói riêng.
2.2.5. Phổ biến pháp luật xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm
Nội dung này, các huyện thường lồng ghép vào các Hội nghị triển
khai chính sách ưu đãi của Nhà nước cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
nên phải đổi mới phương pháp phổ biến pháp luật theo hướng kết hợp hài
hòa giữa thuyết trình với phương pháp nêu tình huống, đặt vấn đề; kết hợp
trình bày các tình huống thực tiễn hoặc giả định nhằm kích thích năng lực
tư duy của đối tượng; tăng cường đối thoại, thảo luận dựa trên cơ sở quy
định một số văn bản chỉ mới mang tính chủ trương rất khó thực hiện đạt
hiệu quả. Vì:
- Chỉ quy định như vậy thì không thể thực hiện được, ngoài Nghị
quyết của Chính phủ phải có Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ
tướng và phải có cả văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành có liên quan thì mới
thực hiện được;
- Mỗi năm cứ cấp 100 triệu đồng/huyện, kinh phí hằng năm có thể
giải ngân hết; nhưng chắc rằng huyện không thể thực hiện được các nội
dung đúng như quy định. Do kinh phí quá ít, dàn trải; khả năng về trình độ
chuyên môn của cán bộ huyện thì khó thực hiện được;
- Vì vậy hiệu quả thấp: “..các mô hình sản xuất chưa thật sự bền
vững. Mô hình sản xuất có hiệu quả còn ít, chưa hình thành được các mối
liên kết bền vững giữa các doanh nghiệp và nông dân. Chưa có chính sách
đặc thù về ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ phát triển
42
kinh tế, xã hội cho vùng dân tộc thiểu số” và “Chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư về nông thôn mặc dù đã được sửa đổi nhưng chưa đủ
sức thu hút doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào nông nghiệp. Vì vậy, việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các hình thức liên kết tiêu thụ sản
phẩm, giải quyết việc làm ở nông thôn còn nhiều hạn chế [36, tr.9].
2.2.6. Phổ biến pháp luật trong lĩnh vực tín dụng
Phổ biến pháp luật trong lĩnh vực tín dụng cần phải trang bị cho
đồng bào dân tộc thiểu số các kiến thức am hiểu pháp luật, nắm được các
chính sách ưu đãi của Nhà nước trong vùng đồng bào, tính toán, nghiên cứu
giữa cung và cầu cho một sản phẩm kinh doanh, lợi thế của vùng và thực
tiễn cuộc sống đang đặt ra, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Nhóm
quy phạm pháp luật này thường được quy định ngay trong các Nghị quyết,
Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra,
Ngân hàng Nhà nước còn có Quyết định, Thông tư và các Ngân hàng chuyên
doanh c ng có hướng dẫn để thực hiện các văn bản của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ. Nhóm quy phạm pháp luật này rất nhiều văn bản, hiện có
11 chính sách tín dụng cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo được vay vốn;
trong đó, riêng vay để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm có 6 chính
sách [36, tr.6]. Mặt tốt của chính sách này luôn đề cao nguyên tắc: “Công
khai, dân chủ, đúng đối tượng. Hằng năm, rà soát để bổ sung và đưa ra
những hộ không còn thuộc diện đặc biệt khó khăn” [23, tr.1] hoặc “Hỗ trợ
trực tiếp đến hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo ở các xã, thôn
đặc biệt khó khăn; bảo đảm công khai, minh bạch, đúng đối tượng” [27,
tr.1]. Tuy nhiên, tồn tại của nhóm quy phạm phạm pháp luật này là: “Cơ
chế, chính sách cho vay còn tản mạn ở nhiều chính sách với nhiều mức vay,
lãi suất, thời gian vay khác nhau áp dụng cho các đối tượng cùng trên một
địa bàn” [36, tr. 12] nên tạo tư tưởng so bì, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước
43
không tích cực tự đầu tư sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, công tác quản lý gặp
khó khăn, nhất là cán bộ cơ sở không nắm hết nội dung chính sách, dẫn đến
có lúc một đối tượng đã vay nhiều nguồn khác nhau cho cùng một hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng công tác phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương
đã nhận thức đúng đắn về công tác phổ biến pháp luật đối với cán bộ và
nhân dân các dân tộc thiểu số. Tỉnh đã tổ chức xây dựng các chương trình,
kế hoạch và tập trung chỉ đạo cơ quan đơn vị, địa phương triển khai các
đảm bảo các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến nhân
dân bằng nhiều biện pháp, hình thức đa dạng nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất đối với nhân dân trong tiếp cận với các thông tin cơ bản nhất về chủ
trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện kết luận 04-KL/TW, ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW, UBND tỉnh
ban hành kế hoạch số 41/KH-UBND, ngày 10/9/2011 về triển khai thực
hiện đề án “Tăng c ờng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng
c o ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân. Hằng năm Ủy ban nhân dân
tỉnh đều ban hành kế hoạch về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; triển
khai thực hiện quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở
trên địa bàn tỉnh. Đồng thời thường xuyên kiện toàn đội ng báo cáo viên,
tuyên truyền viên, cụ thể: năm 2013 có 53 báo cáo viên đến năm 2016 tăng
lên 72 báo cáo viên. Đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên từng bước đáp
ứng hoạt động triển khai phổ biến pháp luật ở cơ sở đảm bảo kế hoạch đề
ra đồng thời xây dựng nhiều biện pháp, giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp,
44
các ngành trong tỉnh tổ chức thực hiện, bước đầu đã có những chuyển biến
tích cực. Từ năm 2013 đến nay, Sở Giáo dục – Đào tạo dành một phần kinh
phí hỗ trợ mở 05 khóa dạy tiếng Cor cho trên 360 cán bộ công chức cấp
huyện, xã và được Bộ Giáo dục – Đào tạo cấp chứng chỉ công nhận.
Bên cạnh đó, việc đảm bảo nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước
c ng được tổ chức thực hiện nghiêm túc theo các nghị quyết của Hội đồng
Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo Nghị quyết số 30/2011/NQ-HĐND, ngày
29/01/2011 và Nghị quyết số 107/2014/NQ-HĐND, ngày 25/7/2014 quy định
nội dung chi, mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn
tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở trên địa bàn Tỉnh.
Các cơ quan thông tin đại chúng đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật trên các loại hình như: Báo nói, báo hình và báo viết, để
thông tin kịp thời đến mọi công dân những chủ trương chính sách của
Đảng và những văn bản pháp luật mới ban hành nhằm tạo điều kiện cho
cán bộ và nhân dân nắm bắt và tiếp thu những quy định mới của pháp luật.
Những kết quả nêu trên cho thấy công tác tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật đã thực sự đi vào cuộc sống của nhân dân tương đối
tốt, đặc biệt là người đồng bòa dân tộc thiểu số. Từng bước nâng cao ý
thức pháp luật phục vụ kịp thời những nhiệm vụ chính trị ở địa phương,
qua đó đã mang lại một số kết quả thiết thực trên nhiều lĩnh vực góp phần
hoàn thành thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm lãnh đạo công
tác phổ biến pháp luật cho nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu
số nói riêng. Qua công tác kiểm tra của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đã chỉ rõ:
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của hệ thống chính đặt
45
dưới sự lãnh đạo của đảng.
- Chính quyền các cấp, các cơ quan chức năng thực hiện công tác
lãnh đạo, điều hành sâu sát công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Thường
xuyên củng cố kiện toàn Hội đồng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật, ban hòa giải; hằng năm đều xây dựng kế hoạch phổ biến pháp luật các
văn bản luật mới có hiệu lực và liên quan mật thiết đối với đời sống của
nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tích cực, nhiệt
tình trong thực hiện công tác phổ biến pháp luật. Về cơ bản đội ng báo
cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đều hoạt động kiêm nhiệm đồng thời
họ đều là cán bộ công chức, viên chức nhà nước trong phạm vi chức năng
của mình có nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, hướng
dẫn người dân thực hiện pháp luật. Nhận thức rõ điều này, đa số báo cáo
viên, tuyên truyền viên pháp luật nhiệt tình, tích cực tham gia phổ biến
pháp luật cho nhân dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số giúp nâng
cao ý thức pháp luật của nhân dân, góp phần giảm thiểu các hành vi vi
phạm pháp luật.
- Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương
đã nhận thức đúng đắn về công tác phổ biến pháp luật đối với cán bộ và
nhân dân các dân tộc thiểu số. Tỉnh đã tổ chức xây dựng các chương trình,
kế hoạch và tập trung chỉ đạo cơ quan đơn vị, địa phương triển khai các
đảm bảo các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến nhân
dân và đồng bào dân tộc thiểu số bằng nhiều biện pháp, hình thức đa dạng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất đối với nhân dân trong tiếp cận với các
thông tin cơ bản nhất về chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước.
- Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh tiếp tục được
46
thụ hưởng từ các chính sách pháp luật về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số
của Nhà nước thông qua các nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi ngày càng tăng nhiều hơn về đối tượng được thụ
hưởng, về định mức hỗ trợ. Nhờ đó, tình hình kinh tế, chính trị vùng đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh c ng đã có sự thay đổi đáng kể, thu nhập bình
quân đầu người tăng từ mức 4,98 triệu đồng/người/năm 2010 lên 8,6 triệu
đồng/người/năm vào cuối năm 2016; lương thực bình quân đầu người tăng
từ mức 327,2 kg/người năm 2010 tăng lên 360,5 kg/người năm 2016; 6
huyện miền núi đã có 58/67 xã có đường ô tô đến trung tâm xã đi được
trong suốt cả năm; 13/67 xã có chợ trung tâm xã; 67/67 xã có trạm y tế
trong đó có 30% số xã có trạm y tế đạt chuẩn; tỷ lệ hộ được sử dụng điện là
90,4%; tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 77%; tỷ lệ hộ gia
đình được xem truyền hình là 90,75% và tỷ lệ hộ nghe đài tiếng nói Việt
Nam là 95,6% [40, tr.1,2]. Các cơ sở hạ tầng đồng bộ như: Đường, trạm,
chợ, nước sinh hoạt các hoạt động tinh thần đã tác động cỗ v đồng bào
dân tộc thiểu số tích cực lao động, cải tiến kỹ thuật, thâm canh tăng năng
suất phát triển sản xuất, kinh doanh. Kết quả đó có sự đóng góp của việc tổ
chức thực hiện pháp luật về phổ biến pháp luật kinh doanh cho đồng bào
dân tộc thiểu số:
- Kết quả tổ chức thực hiện pháp luật về hỗ trợ phát triển sản xuất theo
Quyết định 551/QĐ-TTg ngày 04/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ
(Chương trình 135) giai đoạn 2011 - 2015 đã đầu tư trên địa bàn vùng đồng
bào dân tộc thiểu số 6 huyện miền núi khoảng trên 362.143 triệu đồng.
Trong đó, dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số đã
cấp phát gần 2,76 triệu cây giống lâm nghiệp, cây ăn quả các loại (Keo lai,
xà cừ, quế, bời lời, sao đen bưởi...) cho 3.350 hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Phổ biến ph ơng pháp sử dụng vật t , phân bón: Phương pháp này
47
được báo cáo viên, tuyên truyền viên phổ biến rất cụ thể nhằm giúp người
dân nhất là đồng bào dân tộc thiểu số biết sử dụng các loại phân bón và các
loại thuốc trong chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh nhằm tăng năng suất cây
trồng, nâng cao hiệu quả của ngành trồng trọt góp phần ổn định sản xuất,
nâng cao năng suất và sản lượng; góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất,
kinh doanh phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên của đồng bào dân tộc
thiểu số, nay thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Hiệu quả của chương trình này đã giúp cho đồng
bào dân tộc thiểu số biết sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu đúng cách, mà
trước đây đối với đồng bào dân tộc thiểu số chưa biết đến; chỉ biết trồng tỉa
và trông mong vào sự may mắn.
Phổ biến ph ơng pháp xâ dựng mô hình s n xu t: Đã xây dựng 10 mô
hình trồng trọt, chăn nuôi với 118 hộ tham gia và tổ chức 50 khóa tập huấn
với hơn 856 lượt người tham gia về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Nội dung
tập huấn là hướng dẫn kỹ thuật cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc
thiểu số biết trồng và chăm sóc các loại cây trồng, vật nuôi được hỗ trợ từ
các chính sách. Những mô hình sản xuất nông lâm nghiệp có hiệu quả kinh
tế cao được nhân rộng, người dân áp dụng vào sản xuất, kinh doanh như các
mô hình: Trồng cây lâm nghiệp; trồng lúa nước, nuôi lợn sinh sản, nuôi bò
lai sin, Zebu, trâu với chất lượng và năng xuất cao [41, tr.5].
- Kết quả thực hiện chính sách pháp luật về hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số thông qua thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính
phủ: Tổng vốn đã thực hiện trên địa bàn 6 huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
là 1.630.398,2 triệu đồng. Trong đó: Ngân sách Trung ương là 1.350.520,1
triệu đồng, ngân sách địa phương là 170.982,8 triệu đồng, nguồn vốn lồng
ghép là 76.645,3 triệu đồng và nguồn vốn huy động là 32.250 triệu đồng;
48
trong đó đã thực hiện các chính sách pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Trung tâm dạy nghề của các hội đoàn thể đã đào tạo 7.119 người
nghèo (có 5.117 lao động là đồng bào dân tộc thiểu số); thông qua chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Các chính sách pháp luật này, thực
sự đã bám sát điều kiện thực tiễn của vùng đồng bào dân tộc thiểu số; được
trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nông lâm kết
hợp. Vì vậy, đã tạo điều kiện cho nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu
số tự tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với thực tế của từng gia đình,
địa bàn, nhu cầu xã hội nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập.
Những nội dung trên, đã giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số có thêm
điều kiện về kiến thức, nguồn tài chính, yên tâm tập trung phát triển sản
xuất, kinh doanh đạt hiệu quả, tăng thu nhập cho gia đình.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã có nhiều
văn bản chỉ đạo công tác này, tuy nhiên tổ chức thực hiện ở các cấp, các
ngành, đơn vị, địa phương vẫn chưa thường xuyên, liên tục rộng khắp;
chưa có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ và chưa huy động được
sức mạnh của các cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể vào công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức,
đảng viên và một số ngành về việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân còn hạn chế, đùn đẩy trách nhiệm cho ngành chuyên
môn; chưa huy động được nguồn lực để phục vụ thực hiện nhiệm vụ; nội
dung, hình thức triển khai tổ chức việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa
đa dạng, phong phú để lôi cuốn sự tham gia tích cực của nhân dân; ý thức
của một phận người dân ở thôn, khu phố chưa quan tâm đúng mức đến việc
49
tiếp nhận các thông tin pháp luật.
Do đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh
Quảng Ngãi có xuất phát điểm quá thấp. Trình độ dân trí của đồng bào dân
tộc thiểu số thấp, nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, sinh sống chủ
yếu là vùng đặc biệt khó khăn có hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, giao
thông cách trở, một số xã người dân không đi lại được trong mùa mưa, l .
Điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp và sinh sống của dân cư không
thuận lợi; chưa thu hút được nhiều các thành phần kinh tế khác tham gia đầu
tư để phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trồng rừng công
nghiệp với năng suất cao và các loại hình dịch vụ. Vốn trung ương bố trí
chậm; không kịp thời vụ; về số lượng không đáp ứng được yêu cầu mục tiêu
đã được phê duyệt, cán bộ cơ sở nhất là cán bộ cấp xã còn thiếu, yếu và thiếu
nhiệt tình nên việc tổ chức thực hiện phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số bị hạn chế, có nơi thực hiện chưa đúng, chưa kịp
thời làm giảm hiệu quả, hiệu lực của pháp luật.
Các phòng ban chuyên môn của cấp huyện và cấp xã tổ thực hiện pháp
luật về phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở một
số xã chưa kịp thời, tích cực và thường xuyên. Sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp để tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết những vướng mắc,
kiến nghị của cơ sở về thực hiện pháp luật chưa thật sự đồng bộ đã làm ảnh
hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của việc tổ chức thực thi pháp luật.
Công tác giám sát thực hiện Chương trình đã được quan tâm, tuy
nhiên trình độ năng lực, hiểu biết về pháp luật và kinh nghiệm kiểm tra,
giám sát thực thi pháp luật của Ban giám sát xã còn rất nhiều hạn chế và
không có kinh phí hỗ trợ nên hiệu quả hoạt động chưa cao.
Việc quản lý đất đai tại các lâm trường không chặt chẽ để người dân
lấn chiếm và không kịp thu hồi những diện tích kinh doanh kém hiệu quả
50
để giao cho Nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất,
kinh doanh “Việc quản lý, sử dụng đất đai tại 5 Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên (TNHH MTV) nông lâm nghiệp trong tỉnh bị buông
lỏng để đất đai bị lấn chiếm 4.026,47 ha, UBND tỉnh không thu hồi
88.601,42 ha còn lại sau khi sắp xếp chuyển đổi từ lâm trường quốc doanh
thành các Công ty TNHH MTV lâm nghiệp là không đúng quy định” [19,
tr.13]. Điều này, làm cho rừng bị tàn phá, đất lâm nghiệp không sử dụng
đúng mục đích, không phát huy được hiểu quả từ hoạt động kinh doanh về
lâm sản.
Một bộ phận trong Nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu
số nói riêng, cán bộ các cấp, nhất là cấp xã và huyện, các ngành còn có tư
tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, chỉ muốn Nhà nước hỗ trợ, trợ cấp,
cho không; thiếu ý chí quyết tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh vươn lên
làm giàu “Công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân về chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước chưa thực sự sâu rộng, công tác
chính trị tư tưởng chuyển biến còn chậm, sự ỷ lại trông chờ vào bao cấp
có xu hướng gia tăng, chưa phát huy nội lực trong Nhân dân và tiềm năng
thế mạnh của địa phương” [42, tr.9]. Năng lực lãnh đạo chỉ đạo của một
số cán bộ, nhất là cán bộ ở các địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi của tỉnh chưa theo kịp với yêu cầu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành phát triển kinh tế, xã hội của chính quyền các cấp ở miền núi
còn nhiều hạn chế; quản lý và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho miền núi
chưa chặt chẽ, dẫn đến một số dự án kém phát huy hiệu quả; việc thực
hiện phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa
đạt được như mong muốn.
Do chủ quan trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật khảo sát
không kỷ, không lấy ý kiến của đối tượng thụ hưởng nhất là đồng bào dân
51
tộc thiểu số nên khi triển khai gặp khó khăn, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả đạt
thấp. Một số dự án thủy điện chủ đầu tư là tư nhân khi thực hiện dự án chỉ
lập phương án di dời dân tái định cư, không lập phương án tái định canh
nên không bố trí đủ đất cho Nhân dân bị thu hồi đất để sản xuất, kinh
doanh. Theo thông báo kết luận của Thanh tra Chính phủ: “...chưa thực
hiện tái định canh cho các hộ dân có đất bị thu hồi. Việc UBND tỉnh và
UBND huyện Trà Bồng chỉ đạo Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng
Thiên Tân (thủy điện Hà Nang) chi trả 14.000,642 triệu đồng tiền đền bù hỗ
trợ cho các hộ dân, mà không xây dựng các khu tái định canh là nguyên
nhân cơ bản để nhiều năm người dân (Tất cả đều là đồng bào dân tộc thiểu
số) không có đất sản xuất” [19, tr.10].
Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở 6 huyện miền núi có
địa hình khó khăn, phức tạp, độ dốc lớn, mùa mưa thường bị sạt lở nhiều
nơi, mùa nắng thường bị khô hạn kéo dài không thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp c ng như suất đầu tư về cơ sở hạ tầng cao, nhưng dễ bị
hư hỏng do thiên tai hằng năm gây ra. Vì vậy, việc đi lại khó khăn, giao
thương chậm phát triển; khó khăn trong việc kêu gọi các nhà đầu tư về đầu
tư trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đội ng báo cáo viên pháp luật vừa thiếu, vừa yếu về trình độ,
nhất là ở cơ sở chưa có được đội ng tuyên truyền viên đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ, từng cá nhân báo cáo viên pháp luật chưa phát huy hết
vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp
luật ở từng địa bàn phụ trách.
- Kinh phí đầu tư cho công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật còn
quá ít, thậm chí có địa phương không có ngân sách để chi cho công tác
này nhất là các xã vùng sâu vùng xa.
- Một bộ phận cán bộ công chức và đồng bào dân tộc thiểu số chưa ý
52
thức được quyền lợi trách nhiệm của mình trong việc tham gia học tập pháp
luật để nâng cao kiến thức pháp lý, ý thức tôn trọng pháp luật và chấp hành
pháp luật.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi
Từ những phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, các hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của chúng, có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm từ thực tiễn hoạt động phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số như sau:
- Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị kiên
quyết khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tuyên truyền
phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian qua. Tiếp tục xác định việc đổi
mới căn bản, toàn diện công tác phổ biến pháp luật nhằm tạo chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cho nhân dân
và đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu
dài.
- H i là, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ
là việc cung cấp thông tin, kiến thức pháp luật đơn thuần là tăng cường
giáo dục về quyền con người, quyền công dân đề đồng bào dân tộc thiểu số
ý thức được và chủ động thực hiện các quyền của mình, mà còn phải kết
hợp cả với việc giáo dục đạo đức, lối sống tiến bộ, phù hợp với truyền
thống văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số.
- B là, xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng đội ng báo cáo viên,
tuyên truyền viên; tăng cường hoạt động xã hội hóa, phát huy các nhân tố
tích cực, đồng thời đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền
phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với từng nhóm
53
đối tượng cụ thể.
- Bốn là, duy trì và đẩy mạnh công tác giám sát, nhắc nhở, kiểm tra
đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật.
Xây dựng chế tài khen thưởng, xử lý phù hợp đối với các chủ thể, đối
tượng tham gia hoạt động phổ biến pháp luật; bên cạnh đó phải thực hiện
gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển
kinh tế, văn hóa – xã hội, đảm bảo Quốc phòng – An ninh, chính sách Dân
tộc trên địa bàn.
- Năm là, phát huy vai trò của những người có uy tín trong cộng
đồng: Trong phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, thì ngoài
việc phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên
trách trong công tác phổ biến pháp luật, c ng cần quan tâm đến việc phát
huy vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng dân cư như cán bộ
54
về hưu, người già, chức sắc tôn giáo, trưởng dòng họ...
Tiểu kết chương 2
Phổ biến giáo dục, pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ban hành
trong thời gian qua khá đầy đủ, toàn diện, thống nhất, phù hợp trên tất cả
các lĩnh vực và phủ kín các địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Cơ
chế chính sách pháp luật đã từng bước thay đổi tư duy; phân cấp mạnh cho
địa phương; thể hiện rõ tính công khai, minh bạch với sự tham gia dân chủ
trong thảo luận bàn bạc của đối tượng thụ hưởng; từ hỗ trợ trực tiếp cho hộ
chuyển dần sang hỗ trợ cộng đồng, nhóm hộ; từ cho không chuyển sang
cho vay có điều kiện và chú trọng cung cấp các dịch vụ khuyến nông,
khuyến lâm, xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp.
Tuy nhiên, chính sách pháp luật về phổ biến pháp luật về kinh doanh
cho đồng bào dân tộc thiểu số ban hành trong thời gian qua còn tản mạn,
chưa đồng bộ, nhiều cơ quan quản lý cùng một nội dung chính sách; chính
sách ban hành trước và sau thiếu sự kết nối về nội dung, nhiệm vụ quản lý;
một số chính sách pháp luật không kịp thời sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tế với sự phát triển của xã hội; chính sách thường có mục tiêu lớn,
nhưng thời gian thực hiện lại ngắn, định mức quá thấp nên khó thực hiện và
vốn bố trí không đồng bộ; nhất là hầu hết các chính sách pháp luật này đều
hết hiệu lực thi hành vào năm 2016; sự phân công chủ trì chỉ đạo tổ chức
thực hiện một số chính sách pháp luật còn chồng chéo, trùng lắp làm cho
việc thi hành pháp luật giảm hiệu lực, hiệu quả.
Quảng Ngãi vẫn còn là tỉnh nghèo, 6/6 huyện miền núi của tỉnh
thuộc diện huyện nghèo là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc
thiểu số. Đây là địa bàn khó khăn nhất của tỉnh cả về điều kiện tự nhiên địa
hình, đất đai, thời tiết khí hậu đến trình độ phát triển kính tế xã hội đều
thấp; nên việc thực hiện pháp luật này còn những hạn chế nhất định. Tuy
55
nhiên, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh đã khắc phục khó
khăn, bám sát địa bàn, vận động đồng bào dân tộc thiểu số tổ chức thực
hiện pháp luật đúng quy định, đạt hiệu lực, hiệu quả, nhờ vậy đã góp phần
quan trọng trong việc làm thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế trong sản xuất
nông nghiệp theo hướng tăng tỉ trọng chăn nuôi, hướng sản xuất hàng hóa
gắn với thị trường; góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng miền núi đặc biệt khó
khăn của tỉnh; nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số về các
quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình thực hiện các chương trình,
chính sách pháp luật về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, tạo cơ sở để Nhân
dân tham gia ngày càng rộng hơn, sâu hơn vào việc xây dựng kế hoạch
c ng như thực hiện, giám sát các chương trình, dự án, chính sách pháp luật
trên địa bàn của mình; góp phần nhất định vào việc thực hiện chủ trương
giảm nghèo nhanh bền vững, tạo điều kiện cho sự phát triển của vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số và miền núi, làm cho tỷ lệ hộ nghèo của toàn khu
vực các huyện miền núi của tỉnh giảm từ 60,87% cuối năm 2010 xuống còn
28,53% vào cuối năm 2016, bình quân mỗi năm giảm khoảng 6,7%/năm.
Nhờ vậy, tiếp tục củng cố niềm tin của Nhân dân, nhất là đồng bào các dân
tộc thiểu số vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện ổn định
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc
56
thiểu số.
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TĂNG CƢỜNG
PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm tăng cƣờng phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số
3.1.1. Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số phải luôn đặt
dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự chỉ đạo sâu sát của các cấp
chính quyền địa phương
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể xác định việc
tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện công tác phổ biến pháp luật nhằm tạo
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật
là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài; xây dựng lối sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội trong đó chú trọng đến
đối tượng là người đồng bào dân tộc thiểu số; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ
các quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân để mọi người
đều tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở tất cả các khâu của quá
trình đưa ra quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của mình; giữ vững
môi trường ổn định để phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội;
phát huy dân chủ cơ sở, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tr ”.
Quán triệt đầy đủ chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà
nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhất là Chỉ thị số 32-
CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của
57
Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân; trong đó tập trung tổ chức có hiệu quả Kế
hoạch số 28-KH/HU, ngày 06/7/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các kế
hoạch của UBND tỉnh trong công tác tăng cường phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân, đặc biệt chú trọng tới đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu
số nhằm bảo đảm cho hoạt động này đi đúng hướng, phù hợp với đường lối
của Đảng về phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Chú trọng việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, ý
nghĩa của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; lấy đối tượng của giáo dục
pháp luật làm trung tâm trong công tác tuyên truyền trong đó bao gồm
đồng bào dân tộc thiểu số; đề cao phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao trách nhiệm ý thức tôn trọng, tuân thủ
pháp luật; phát huy tốt vai trò sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của đồng
bào dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh hoạt động cải cách tư pháp, chú trọng việc kiện toàn bộ
máy, đội ng cán bộ công chức trong hệ thống các cơ quan tư pháp, công
tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ cương, kỷ luật hành chính. Đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp phổ biến pháp luật phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn
dân cư, từng lĩnh vực... theo phương châm sát nhu cầu, thiết thực, dễ hiểu,
dễ nhớ, dễ thực hiện, có trọng tâm, trọng điểm nhưng có thứ tự ưu tiên.
Tăng cường sự lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức
đối với các tổ chức, cá nhân tham gia phổ biến pháp luật; đẩy mạnh công
tác kiểm tra, sơ – tổng kết đánh giá quá trình tổ chức hoạt động tuyên
58
truyền trên từng địa bàn.
3.1.2. Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
phải gắn với các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng nông thôn mới
Tỉnh Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo có 6 huyện miền núi, người đồng
bào dân tộc thiểu số luôn là một lực lượng lao động đông đảo chiếm ưu thế
tại địa phương, với gần 80% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp. Đây chính là lực lượng đã, đang và sẽ đóng góp công sức rất lớn
vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới của tỉnh nhà. Vì vậy bên cạnh việc giáo dục kiến thức pháp luật
cho người đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với với việc phổ biến pháp
luật và vận động người đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách của tỉnh
về phát triển nông nghệp nông thôn theo tinh thần: Tiếp tục chuyển đổi cơ
cấu giống cây trồng vật nuôi để tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Đưa các giống cây, con năng suất,
hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất như giống lúa chất lượng cao, giống bò
lai sind, lợn hướng nạc, gia cầm siêu trứng, siêu nạc,... Tăng cường đầu tư
nhiều cho nông nghiệp nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là đầu
tư cho các công trình thủy lợi đảm bảo tốt nhiệm vụ phòng chống lụt bão,
phục vụ tưới tiêu khoa học, đầu tư hệ thống sản xuất giống cây trồng vật
nuôi, mở rộng ứng dụng và phổ biến các tiến bộ khoa học công nghệ mới
vào sản xuất. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa nông sản theo quy hoạch vùng
để khai thác thế mạnh của địa phương, tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa
lớn đáp ứng nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả kinh tế cao, khắc phục tình
trạng bố trí sản xuất không dựa trên quy hoạch và đòi hỏi của thị trường về
chất lượng và giá cả có sức hấp dẫn trong cạnh tranh. Phát triển công
nghiệp chế biến nông sản, coi trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
59
sản xuất, để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp và thu nhập của nông
dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tập trung xây dựng
các mô hình chế biến có quy mô vừa và nhỏ nhưng là sản phẩm sáng tạo
của người đồng bào. Tăng cường xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị
trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp như: Đẩy mạnh các hoạt động thông
tin thị trường; xây dựng thương hiệu một số hàng hóa có thế mạnh để cạnh
tranh. Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ xã, thị trấn, bồi
dưỡng kiến thức cho lực lượng lao động nông nghiệp. Phối hợp chặt chẽ
với trung tâm dạy nghề và các trường dạy nghề khác của huyện, tỉnh. Có cơ
chế thu hút cán bộ kỹ thuật về nông thôn công tác. Triển khai xây dựng và
nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống khuyến nông cơ sở, đào tạo
khuyến nông viên, tập huấn kỹ thuật để nông dân áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất. Đổi mới quan hệ sản xuất ở nông thôn trên cơ sở đổi
mới tổ chức hoạt động của các hợp tác xã. Thành lập các hợp tác xã có quy
mô, phù hợp với điều kiện thực tế ngành nghề của địa phương, hỗ trợ để
làm ăn có hiệu quả, thu hút đông đảo các hộ nông dân tham gia, giúp nông
dân khắc phục những khó khăn trong sản xuất, phòng chống thiên tai, dịch
bệnh và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đẩy mạnh phong trào nông dân thi
đua sản xuất kinh doanh giỏi, xây dựng cánh đồng cho thu nhập 50 triệu
đồng/ha, hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm. Phát triển ngành nông
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Khai thác tiềm năng sẵn có về đất
đai, khí hậu và lao động, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
Đưa ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trở thành ngành sản xuất chính
và phát triển theo công nghiệp hóa, cung cấp đủ, đáp ứng nhu cầu của
trường trong và ngoài huyện. Thực hiện tốt chương trình sind hóa đàn bò
và nạc hóa đàn lợn. Phát triển nhanh đàn lợn thịt ở các trang trại khu chăn
nuôi tập trung và hộ gia đình. Phát triển chăn nuôi bò, các giống gia súc,
60
gia cầm và thủy sản có giá trị kinh tế hàng hóa cao.
Như vậy song song với việc phổ biến pháp luật cho đồng bòa dân tộc
thiểu số phải gắn với việc thực hiện chủ trương chính sách của tỉnh về phát
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, một mặt vừa thực hiện được nội
dung phổ biến pháp luật đó là phổ biến các kiến thức về pháp luật trên
nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống hàng ngày của người đồng bào dân
tộc thiểu số, một mặt thông tin kịp thời những chủ trương, chính sách của
địa phương về những vấn đề gắn với đời sống, việc làm của bà con giúp bà
con nắm bắt kịp thời những kiến thức, thông tin để có những định hướng
cho hoạt động sản xuất c ng như trong cuộc sống, qua đó c ng góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người đồng bào dân tộc thiểu
số ở miền núi hiện nay.
3.1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật cho đồng
bào dân tộc thiểu số phải cụ thể, thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối
tượng phụ nữ
Đây vừa là yêu cầu, c ng vừa là đòi hỏi đối với công tác phổ biến
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, là quan điểm xuyên suốt trong quá
trình thực hiện hoạt động này vì nội dung, hình thức, phương pháp phổ
biến pháp luật là những yếu tố quyết định đến hiệu qủa, chất lượng của
công tác phổ biến pháp luật.
Đối với 6 huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi có địa bàn tương đối
rộng, đồng bào sống thưa thớt, giao thương rất khó khăn, mưa l chia cắt
do đó điều kiện dân trí c ng khác nhau, chính vì thế nên chúng ta không thể
áp dụng một cách dập khuôn, máy móc được mà cần phải nghiên cứu kỹ
điều kiện của mỗi địa phương để lựa chọn nội dung, hình thức, phương
pháp phổ biến pháp luật cho phù hợp.
Như vậy công tác tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu
61
số cần phải đặt ra những tiêu chí để đánh giá về nội dung, hình thức,
phương pháp phổ biến. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nó không chỉ tạo ra sự
thông suốt về quan điểm trong hoạt động mà còn tạo cách hiểu thống nhất
để triển khai tổ chức thực hiện hoạt động phổ biến pháp luật có hiệu quả.
Xuất phát từ chủ trương của Đảng: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc
và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và “Cơ
cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ
chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, nhất là
công nghệ sinh học” [11, tr.15]. Sản xuất, kinh doanh bền vững có lợi trước
hết là người dân khắc phục tính trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước,
mà chủ động tìm phương thức sản xuất, kinh doanh; không ngừng tăng tích
l y kinh nghiệm trong sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản
xuất để hạ giá thành sản phẩm hàng hóa đáp ứng yêu cầu của thị trường kể
cả về chất lượng sản phẩm và giá cả. Vì vậy, những vấn đề đặt ra là nội
dung tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, hình thức
phương pháp phổ biến phải cụ thể, thiết thực và phù hợp. Vì vậy để quan
điểm này được xuyên suốt trong quá trình thực hiện hoạt động này thì cần
phải có những tiêu chí hoặc có sự thống nhất về xác định mức độ cụ thể,
một nội dung được coi là cần phải đáp ứng những tiêu chí nào? hình thức,
phương pháp phổ biến như thế nào được coi là thiết thực và như thế nào thì
gọi là phù hợp?
3.1.4. Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
đặt trong hệ thống và tổng thể với các chính sách, pháp luật khác
Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là
62
một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hỗ trợ nói
riêng. Trước hết, pháp luật hỗ trợ c ng mang đầy đủ các tính chất vốn có
của một văn bản pháp luật đó là: Tính toàn diện, tính đồng bộ và thống
nhất, tính phù hợp, tính minh bạch, trình độ lập pháp, tính tương thích với
các văn bản pháp luật quốc tế (mà Việt Nam đã tham gia ký kết và phê
chuẩn) và tính hiệu quả kinh tế của điều chỉnh pháp luật.
Như vậy, phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số phát triển sản xuất kinh doanh phải phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội của cả nước và của địa phương, đó là “tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức... chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”
[11, tr.12]; phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
phải gắn kết với chính sách, pháp luật về an sinh xã hội, chẳng hạn Nhà
nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; có chính sách ưu tiên chăm
sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, Nhân dân ở miền núi, hải đảo
và vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; có chính sách phát
triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở; chăm lo xây dựng phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đồng thời, Nhà nước ưu tiên phát triển giáo
dục ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn; hoặc pháp luật hỗ trợ còn có quan hệ chặt chẽ với
thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; cải thiện vật chất, tinh thần,
tăng thu nhập của hộ nghèo trong đó chủ yếu là hộ nghèo đồng bào dân tộc
thiểu số; gắn với chiến lược phát triển kinh tế vùng, liên vùng, như vùng
63
kinh tế trọng điểm miền Trung.
Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là
một bộ phận không tách rời việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo nhanh
bền vững; về chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình
chính sách phát triển kinh tế, xã hội khác. Đặc biệt, từ năm 2016 trở đi để
tập trung nguồn lực, Quốc hội chủ trương chỉ tiếp tục duy trì chương trình
Giảm nghèo nhanh bền vững và chương trình xây dựng nông thôn mới và
một số chính sách đặc thù khác.
Quy phạm pháp luật về chính sách dân tộc nói chung và pháp luật
về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất kinh doanh chỉ
thường ban hành thực hiện trong từng giai đoạn 5 năm, như giai đoạn
2011 – 2015 và các chính sách pháp luật nay hầu hết hết hiệu lực thi hành;
chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào có giá trị pháp lý cao hơn
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ. Vì vậy, cần phải xây dựng Luật
Dân tộc là vấn đề cấp bách hiện nay, nhằm khẳng định và thể hiện rõ quan
điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước, thể chế hóa Hiến pháp, đảm bảo
phù hợp với nội dung các cam kết quốc tế về lĩnh vực dân tộc thiểu số mà
Việt Nam tham gia ký kết. Luật Dân tộc thiểu số cần có những nội dung
cơ bản như: Quy định về quyền và nghĩa vụ đặc thù của các dân tộc thiểu
số, các nguyên tắc đảm bảo thực thi các chính sách đối với dân tộc thiểu
số và quản lý nhà nước về công tác dân tộc; xác định dân tộc thiểu số (để
thực hiện chính sách cho phù hợp); chính sách của nhà nước đối với dân
tộc thiểu số; quyền và thực thi quyền đặc thù của đồng bào dân tộc thiểu
số; quản lý nhà nước đối với dân tộc thiểu số; quản lý nhà nước về công
tác dân tộc không để lợi dụng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy, phải có chế tài nghiêm khắc đối
64
với hành vi vi phạm.
3.1.5. Kết hợp chặt chẽ giữa phổ biến pháp luật với giáo dục về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đồng bào dân tộc thiểu số
Công tác phổ biến pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng luôn là một nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo được nêu
trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta. Trong tiến trình
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ cần có trình độ kiến thức,
hiểu biết pháp luật; mà còn phải có nền tảng tư tưởng ổn định, lập trường
chính trị vững vàng, có đạo đức và lối sống lành mạnh, tiến bộ, phù hợp
với truyền thống văn hóa dân tộc. Như vậy, phổ biến pháp luật về kinh
doanh cho đồng bào phải gắn kết chặt chẽ với đẩy mạnh giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức và lối sống cho đồng bào.
Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đồng bào dân tộc thiểu số là hướng
tới trang bị cho họ quan điểm, đường lối của Đảng về sự trung thành với
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phổ biến các chính sách
của Nhà nước, đặc biệt là chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào có đông người dân tộc thiểu...; từ
đó, giúp đồng bào dân tộc thiểu số ổn định về tư tưởng, vững tin vào thực
hiện các chính sách Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho người đồng bào dân
tộc thiểu số phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống và thoát nghèo
bền vững.
Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
không chỉ là việc cung cấp thông tin, kiến thức thực hiện chính sách kinh
doanh đơn thuần, mà còn phải kết hợp cả với việc giáo dục đạo đức, lối
sống tiến bộ, phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của
65
người Hre, Cor, Kdong nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung,
giúp họ tránh xa những thói hư, tật xấu, có ý thức đề cao cảnh giác, không
để kẻ xấu và các thế lực phản động lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc. Mục
tiêu của phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận sản xuất,
kinh doanh bền vững, góp phần nâng cao năng lực khả năng sản xuất, kinh
doanh, khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
3.1.6. Gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu bảo
vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội
Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số với mục tiêu nâng
cao trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật cho người đồng bào phải thực sự
trở thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình phát triển các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Để có thể khai thác, phát
huy trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn nhân lực và vật lực của người dân tộc thiểu
số nói chung và đồng bào dân tộc Hre, Cor, Kdong phục vụ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của tỉnh thì trước hết phải làm cho người dân thấu hiểu
chính sách, pháp luật của Nhà nước, văn bản pháp quy của các cấp chính
quyền địa phương; phải tổ chức cho đồng bào dân tộc thiểu số tham gia ý
kiến về dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, quy hoạch sản xuất và phương án phát triển
ngành nghề. Người đồng bào dân tộc thiểu số phải được tham gia thảo luận,
bàn bạc để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất,
phát triển kinh tế; tập trung chuyển đổi cơ cấu ngành nghề phù hợp với
điều kiện, địa lý của địa phương; áp dụng các thành tựu, tiến bộ khoa học -
kỹ thuật vào sản xuất nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện mức sống cho nhân dân. Kết quả phổ biến pháp luật về kinh doanh
66
giúp cho kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều khởi
sắc: số hộ nghèo ngày càng giảm, nhân dân tự giác đóng góp đất đai, tiền
của, công sức lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn... Kinh tế - xã
hội phát triển lại là điều kiện thuận lợi để tăng cường sản xuất kinh doanh
vì người dân thấy được những lợi ích thiết thực của hoạt động này.
Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số c ng phải gắn với
việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội. Nhờ được phổ biến pháp luật nói
chung, pháp luật về kinh doanh nói riêng, người dân đã có sự hiểu biết
pháp luật cao hơn, chủ động, tích cực phát huy quyền làm chủ của mình
trong xây dựng đời sống văn hóa - xã hội tại các buôn, làng. Đồng bào dân
tộc thiểu số là chủ thể tham gia xây dựng các nội quy, quy ước về xây dựng
buôn, làng văn hóa với những nội dung mới theo hướng văn minh, tiến bộ;
tác động một cách hiệu quả tới việc loại bỏ những hủ tục lạc hậu, lỗi thời,
gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, các thuần phong, mỹ
tục, các tập quán, lễ hội tốt đẹp tại cộng đồng dân cư; xây dựng môi trường
văn hóa, xã hội lành mạnh; góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Hre,
Cor, Kdong. Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển sẽ là nhân tố đảm bảo việc
giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cƣờng phổ biến pháp luật về kinh
doanh đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay
3.2.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, năng lực của chủ thể,
đối tượng trong phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Tiếp tục quán triệt, phổ biến nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý
nghĩa của công tác phổ biến pháp luật; tăng cường trách nhiệm, sự lãnh đạo
của cấp ủy đảng; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành triển khai công tác
phổ biến pháp luật của chính quyền các cấp; phát huy vai trò đầu mối tham
67
mưu triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
của ngành tư pháp, các tổ chức pháp chế trong các cơ quan, tổ chức và sự
tích cực, tự giác, chủ động của mỗi người dân, trong đó có đồng bào dân
tộc thiểu số.
Trong phổ biến pháp luật, giữa chủ thể và đối tượng phổ biến pháp
luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, cùng chi phối hiệu quả phổ biến
pháp luật. Nếu cả chủ thể và đối tượng cùng hợp tác tích cực, chủ động,
cùng xác định rõ ràng mục tiêu phổ biến pháp luật, cùng có ý thức trách
nhiệm cao trong triển khai c ng như tham gia phổ biến pháp luật thì chất
lượng, hiệu quả phổ biến pháp luật sẽ được nâng lên. Chính vì vậy, nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ thể và đối tượng trong phổ biến
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là một giải pháp hết sức quan
trọng. Đối với giải pháp này cần triển khai thực hiện các nội dung sau:
- Xác định rõ mục tiêu phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Chủ thể phổ biến pháp luật và đối tượng tiếp nhận phổ biến pháp luật
phải cùng nhau xác định rõ ràng mục tiêu phổ biến pháp luật. Việc làm này
đòi hỏi phải xuất phát từ cả hai phía vì giữa họ có mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau. Nếu chủ thể phổ biến pháp luật xác định rõ ràng, đúng đắn
mục tiêu phổ biến pháp luật nhưng không nhận được sự tương đồng về mục
tiêu và sự hợp tác từ phía đối tượng phổ biến pháp luật thì khó có thể hiện
thực hóa mục tiêu đó trong thực tiễn. Ngược lại, cho dù đối tượng có xác
định được mục tiêu cần phải đạt khi tham dự hoạt động phổ biến pháp luật,
song chủ thể phổ biến pháp luật lại không quan tâm, chú ý tới mục tiêu đó
thì đối tượng dẫu có nỗ lực hết sức c ng khó đạt được kết quả mong muốn.
Việc chủ thể và đối tượng cùng xác định rõ ràng mục tiêu phổ biến pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số c ng là cơ sở để đổi mới nội dung,
phương pháp và hình thức phổ biến pháp luật. Chủ thể và đối tượng cần tập
68
trung thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Mục tiêu là kết quả cuối cùng mà phổ biến pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số phải đạt được sau khi kết thúc hoạt động này. “Bản chất
của phổ biến pháp luật đó là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định
của thể giáo dục tác động lên đối tượng nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống
pháp luật hiện hành” [19, tr.20]. Điều đó có nghĩa, mục tiêu của phổ biến
pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là cung cấp, trang bị
cho họ những thông tin, kiến thức pháp luật cụ thể, thiết thực đối với cuộc
sống, lao động, sản xuất kinh doanh của đồng bào dân tộc thiểu số. Để quá
trình phổ biến pháp luật diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả cao thì yêu cầu đặt
ra là phải có sự “cộng hưởng” tinh thần, ý thức trách nhiệm từ cả hai phía.
Về phía các chủ thể phổ biến pháp luật, khi đã xác định rõ ràng mục tiêu
chung của phổ biến pháp luật, cần có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về cơ sở
vật chất, nội dung phổ biến pháp luật, lựa chọn được đội ng báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp
vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tốt, tâm huyết và nhiệt tình, sẵn sàng cung
cấp thông tin, kiến thức pháp luật cho đồng bào. Về phía đồng bào dân tộc
thiểu số, khi đã xác định đúng mục tiêu tham dự phổ biến pháp luật, phải có
sự chuẩn bị về năng lực nhận thức, sẵn sàng về tâm thế tiếp thu kiến thức
pháp luật về kinh doanh cần cho cuộc sống, cho lao động và cho sản xuất.
Cả hai bên chủ thể phổ biến pháp luật và đối tượng phổ biến pháp
luật đều phải ý thức được rằng, những mục tiêu cụ thể cần đạt được từ hoạt
động phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số bao
gồm mục tiêu về nhận thức (kiến thức), mục tiêu về thái độ (tình cảm) và
mục tiêu về kỹ năng (hành vi).
Mục ti u v nhận thức là cung cấp, trang bị tri thức, hiểu biết pháp
69
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tùy theo từng nhóm đối tượng cụ thể
trong đồng bào dân tộc thiểu số mà mục tiêu này có thể được xác định theo
từng mức độ cụ thể, gồm: Một, nắm bắt (thuộc lòng, nhớ, nhận biết được
các quy phạm pháp luật cơ bản trong một bộ luật, đạo luật được phổ biến,
giáo dục); Hai, hiểu biết (nắm vững, giải thích được nội dung, tinh thần của
các quy phạm pháp luật theo ngôn từ, cách hiểu của mình); Ba, vận dụng
(sử dụng được các quy phạm pháp luật vào những hoàn cảnh, tình huống cụ
thể xảy ra trong cuộc sống). Đó là ba mức độ nhận thức cơ bản mà người
dân tộc Hre, Cor, Kdong cần đạt được. Ngoài ra, tùy thuộc vào năng lực,
nhu cầu của từng nhóm đối tượng trong cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu
số, các chủ thể có thể định hướng cho đối tượng phấn đấu vươn lên nhận
thức ở mức độ cao hơn, như biết phân tích, tổng hợp, đánh giá về các quy
phạm pháp luật, mối liên hệ giữa các quy phạm pháp luật với thực tiễn...
Mục ti u v thái độ là làm hình thành, củng cố trong đồng bào dân
tộc thiểu số tình cảm, niềm tin đối với pháp luật. Trong phổ biến pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số, mục tiêu về thái độ cần được cụ thể hóa ở
việc giáo dục cho người dân tình cảm, niềm tin vào sự công bằng, nghiêm
minh của pháp luật, tôn trọng công lý, có tình cảm trách nhiệm pháp lý,
tình cảm pháp chế, biết phê phán, lên án, đấu tranh với các hành vi phạm
pháp, phạm tội...
Mục ti u v kỹ năng là làm hình thành ở đồng bào dân tộc thiểu số
hành vi xử sự phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Mục tiêu
này là sự hiện thực hóa mục tiêu về nhận thức và mục tiêu về thái độ, thể
hiện quá trình chuyển biến có tính tự giác, chủ động từ nhận thức pháp luật
thành hành vi pháp luật của người đồng bào. Hành vi pháp luật hợp pháp của
mỗi người dân tộc thiểu số chỉ có thể trở thành hiện thực khi nó xuất phát từ
động lực nội tâm, dựa trên tình cảm pháp luật và niềm tin vững chắc vào
70
pháp luật một cách tự nguyện, tự giác. Chủ thể phổ biến pháp luật cần trang
bị, rèn luyện cho đồng bào dân tộc thiểu số kỹ năng xử lý các tình huống
pháp luật trong thực tiễn, hình thành và củng cố lối sống theo pháp luật.
- Việc đánh giá kết quả phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số cần được chú trọng.
Các chủ thể phổ biến pháp luật phải tiến hành khảo sát, thăm dò ý
kiến trong đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và trong chính
những người đồng bào dân tộc thiểu số tham dự phổ biến pháp luật để nắm
bắt thông tin phản hồi từ họ về kết quả, hiệu quả của công tác phổ biến
pháp luật. Thông qua những thông tin đó, chủ thể phổ biến pháp luật có cơ
sở để đánh giá kết quả phổ biến pháp luật có đạt mục tiêu đề ra hay không;
cần bổ sung thêm những mục tiêu nào mà thực tế cuộc sống ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số đòi hỏi... Bên cạnh đó, việc xây dựng được một bộ
tiêu chí để đo lường kết quả, hiệu quả phổ biến pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số c ng là một việc làm quan trọng mà các chủ thể phổ biến pháp
luật phải tính và khẩn trương triển khai thực hiện.
- Tăng cường hơn nữa sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ
quan làm nhiệm vụ giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Trong những năm qua, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp
luật đã nỗ lực triển khai, thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ của mình và đã
đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần củng cố, nâng cao kiến thức,
hiểu biết pháp luật cho nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp còn bộc lộ
những hạn chế, bất cập: Sự phối hợp giữa các cơ quan làm công tác phổ
biến pháp luật chưa thường xuyên, liên tục, thiếu đồng bộ, không gắn kết;
chế độ thông tin, báo cáo về phổ biến pháp luật ở các cấp, các ngành thực
hiện chưa đầy đủ, kịp thời; thiếu chủ động, tích cực trong việc triển khai
71
thực hiện nhiệm vụ; còn có hiện tượng dựa dẫm, ỷ lại cho các cơ quan
khác... Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động chỉ đạo,
hướng dẫn về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Yêu cầu đặt ra là phải
“Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm
của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và toàn xã hội trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật” [63, tr.1].
Từ thực tế đó, việc tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các cơ
quan làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là
một biện pháp quan trọng trước mắt c ng như lâu dài với những nội dung
cụ thể cần làm là:
Tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, tổ
chức, đơn vị làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật nói chung, phổ biến pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Hiện nay, trong Chương
trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2012 - 2016 của tỉnh đã quy
định rõ cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện kế hoạch tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, nhưng chưa đề cập, quy định rõ cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình
c ng như từng Kế hoạch. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự bất cập trong
khâu phối hợp giữa các cơ quan này. Bởi vậy, cần nhanh chóng xây dựng,
ban hành Quy chế phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật. Trong bản Quy chế này phải thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan, phân công rõ ràng trách nhiệm của từng thành viên trong
Ban Chỉ đạo Chương trình, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; quy định rõ
cơ chế phối hợp, nội dung, mức độ, phạm vi phối hợp, chế độ thông tin,
báo cáo giữa các cơ quan các cấp; quy định cụ thể, chi tiết chế tài khen
thưởng đối với những thành viên hoàn thành tốt nhiệm vụ và xử lý kỷ luật
nghiêm minh đối với những thành viên mắc khuyết điểm, sai phạm... Bản
72
Quy chế phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật c ng là
cơ sở pháp lý để đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc, sự phối hợp của
từng cơ quan; tránh được tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, sự xuê
xoa, cả nể khi sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả phổ biến pháp luật cho
các đối tượng, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.
Các cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp c ng như từng cá nhân
thành viên phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc phối hợp với các cơ quan, thành viên khác để triển khai
công tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Sự phối hợp phải
được mỗi cơ quan coi là trách nhiệm không thể thiếu của mình, là điều kiện
thiết yếu để nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật về kinh doanh
cho đồng bào dân tộc thiểu số phải được coi là trách nhiệm chung của tất cả
các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể các cấp. Trách nhiệm chung đó
chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng,
ăn khớp giữa tất cả các cơ quan làm nhiệm vụ phổ biến pháp luật.
Từ sự nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong
việc phối hợp với các cơ quan, thành viên khác, các cơ quan làm nhiệm vụ
phổ biến pháp luật, phải phát huy vai trò chỉ đạo, điều hành các công việc
trong phạm vi chức trách của mình một cách quyết liệt, khoa học và bài
bản. Mỗi cơ quan cần phân công cán bộ chuyên trách việc phối hợp với các
cơ quan khác nhằm theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch phổ biến pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số; đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, giám sát
việc triển khai kế hoạch nhằm nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc; kịp thời rút kinh nghiệm và chỉ ra được những bài học hay để
tiếp tục chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ng báo
73
cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
Việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ng
những cán bộ công chức trực tiếp phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số là khâu then chốt, tạo ra bước đột phá nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả phổ biến pháp luật. Để làm được điều đó, cần tập trung vào các
biện pháp cụ thể sau:
Thứ nh t, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đội
ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Tuy đã có sự gia tăng về số
lượng song trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ng báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật còn thấp, bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa
đáp ứng được yêu cầu thực hiện phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong khi đó, đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật có trình độ cao được coi là khâu then chốt trong việc đảm bảo
chất lượng, hiệu quả phổ biến pháp luật. Củng cố, kiện toàn, nâng cao năng
lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ng báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật trực tiếp phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
đang là yêu cầu cấp thiết. Do vậy, cơ quan chức năng cần quan tâm tới việc
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đội
ng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật:
Đối với các lớp tập hu n, bồi d ỡng chu n đ pháp luật cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật cần mời được những giảng
viên, chuyên gia pháp luật có uy tín, giỏi về chuyên môn và tinh thông kỹ
năng nghiệp vụ sư phạm trực tiếp lên lớp, truyền đạt nội dung các chuyên
đề pháp luật nhằm nâng cao chất lượng tập huấn, bồi dưỡng pháp luật.
Thứ h i, chú trọng việc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, các
kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống cho đội ng báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật. Từ việc có kiến thức, hiểu biết cao về pháp luật đến việc
74
giảng dạy, truyền đạt thông tin, kiến thức pháp luật để cho những người
khác có thể nắm bắt, tiếp thu được là cả một quá trình và đòi hỏi báo cáo
viên, tuyên truyền viên pháp luật phải có trình độ nghiệp vụ sư phạm, kỹ
năng giao tiếp, đối thoại và xử lý tình huống trong quá trình tác nghiệp.
Thiếu phương pháp, các kỹ năng cần thiết là nguyên nhân khiến nhiều báo
cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật lúng túng, bị động, khô khan trong
quá trình truyền đạt thông tin, kiến thức pháp luật cho các đối tượng, trong
đó có đồng bào.
Thứ b , mỗi báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật cần chủ động,
linh hoạt, sáng tạo trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi kỹ
năng, nghiệp vụ, nhiệt tình, tâm huyết với giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Ngoài việc tham dự các khóa đào tạo, các lớp tập huấn
chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp luật… mỗi báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật cần thường xuyên tự cập nhật thông tin, kiến thức về các văn
bản pháp luật mới để phổ biến, giáo dục cho đồng bào. Hiện nay vẫn còn
tình trạng một bộ phận không nhỏ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
ít hoặc không dành thời gian để nghe, đọc, nghiên cứu các chỉ thị, nghị
quyết, văn bản pháp quy, thông tư hướng dẫn thực hiện pháp luật mới được
ban hành, thậm chí chưa hiểu đến nơi đến chốn nội dung các văn bản trước
khi lên lớp truyền đạt cho đồng bào dân tộc thiểu số; vì thế, khi người đồng
bào dân tộc thiểu số không hiểu, nêu thắc mắc thì báo cáo viên, tuyên
truyền viên pháp luật lúng túng, không giải đáp được.
Bên cạnh kiến thức, hiểu biết pháp luật, đội ng báo cáo viên, tuyên
truyền viên pháp luật còn cần nâng cao trình độ lý luận chính trị, có tri
thức, hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định về truyền thống văn hóa, phong
tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là ngôn ngữ chủ yếu
của đồng bào Hre, Cor, Kdong. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, chuyển
75
tải và tiếp nhận thông tin. Bất đồng ngôn ngữ đã và đang là một trong
những rào cản, nguyên nhân làm suy giảm chất lượng, hiệu quả phổ biến
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hăng hái, nhiệt tình của đồng bào
dân tộc thiểu số trong quá trình tham gia phổ biến pháp luật.
Hoạt động phổ biến pháp luật tự thân nó không mang lại kiến thức,
hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số; mà mỗi người dân cần
chủ động, tự giác, tích cực tìm đến với hoạt động phổ biến pháp luật xuất
phát từ nhu cầu tiếp thu kiến thức, hiểu biết pháp luật. Theo cách tiếp cận
này, đồng bào dân tộc thiểu số, với tư cách là đối tượng tiếp nhận phổ biến
pháp luật, phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Mỗi người dân đồng bào dân tộc thiểu số cần có tinh thần hăng hái,
nhiệt tình, ý thức trách nhiệm cao khi tham gia các lớp phổ biến giáo dục
pháp luật dành cho họ xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân: mong
muốn được tiếp thu, tích l y, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp
luật; không phải tham dự theo kiểu đối phó, mà tham dự để tiếp thu thông
tin pháp luật cho mình, vì lợi ích của bản thân và gia đình, của cộng đồng
người dân tộc thiểu số, để nâng cao ý thức pháp luật cá nhân và để giải
quyết được các sự kiện, tình huống pháp luật nảy sinh trong thực tiễn cuộc
sống. Tri thức pháp luật là phương thức tồn tại của ý thức pháp luật. Tri
thức, hiểu biết pháp luật càng cao bao nhiêu thì trình độ ý thức pháp luật
càng cao bấy nhiêu. Tri thức, hiểu biết pháp luật của mỗi người nói lên khả
năng nhận thức của họ trong lĩnh vực pháp luật và làm hình thành những tư
tưởng, quan điểm đúng đắn về pháp luật; nó là cơ sở để đồng bào dân tộc
thiểu số học cách “sống và làm việc theo pháp luật”.
Mỗi người đồng bào dân tộc thiểu số phải thực sự có thái độ nghiêm
túc, cầu thị trong quá trình tham dự phổ biến pháp luật nhằm nâng cao tri
76
thức, hiểu biết pháp luật. Thực tế cho thấy, thời gian mà người đồng bào
dân tộc thiểu số tham dự các lớp phổ biến pháp luật còn nhiều hạn chế,
không đảm bảo theo quy định. Các hiện tượng như đi muộn, về sớm, bỏ về
giữa chừng, nói chuyện riêng trong hội trường không phải là chuyện hiếm.
Ngoài các nguyên nhân như kinh tế khó khăn phải lo kiếm sống, địa điểm,
thời gian tiến hành phổ biến pháp luật không phù hợp với tập quán sinh
hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số...; nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
trên là do một bộ phận người đồng bào dân tộc thiểu số nhận thức chưa
đúng về giá trị, ý nghĩa của phổ biến pháp luật; do thiếu cầu thị trong việc
học hỏi. Trong khi đó, nội dung phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số luôn có những vấn đề mới, liên quan trực tiếp đến các quyền, lợi
ích hợp pháp và phục vụ thiết thực cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt của
đồng bào dân tộc thiểu số.
Các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền địa phương c ng cần có
sự quan tâm, tạo các điều kiện thuận lợi để đồng bào dân tộc thiểu số hăng
hái, nhiệt tình tham dự lớp phổ biến giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, cần
có cơ chế khen thưởng kịp thời đối với những hộ gia đình, người đồng bào
dân tộc thiểu số tích cực tham dự phổ biến pháp luật (khen thưởng bằng
hiện vật, coi đây là tiêu chuẩn công nhận gia đình văn hóa; thôn, buôn văn
hóa...) và quy định biện pháp xử lý đối với những người né tránh, không
tham dự phổ biến pháp luật (phải lao động công ích, không công nhận gia
đình văn hóa...). Điều đó có tác dụng khơi gợi sự thi đua giữa các buôn,
làng trong cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số; tránh được tình trạng “hòa
cả làng”.
- Đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức phổ biến pháp luật về
kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
Đổi mới nội dung phổ biến pháp luật: Thứ nh t, lựa chọn những nội
77
dung kiến thức về các lĩnh vực pháp luật có liên quan đến việc sản xuất
kinh doanh cụ thể, liên quan mật thiết tới cuộc sống, lao động, sinh hoạt
hằng ngày của đồng bào để phổ biến, cho họ biết vận dụng kỹ thuật,
phương pháp, kiến thức, kỹ năng về sản xuất, kinh doanh; nhằm thay đổi và
chuyển biến nhận thức để đồng bào dân tộc thiểu số khắc phục tính tự ti,
mặc cảm; không trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, khơi dậy ý thức chủ động,
có quyết tâm vươn lên biết khai thác các tiềm năng, nguồn lực tại chỗ và sử
dụng có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng để tổ
chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả vượt qua đói nghèo, vươn lên thoát
nghèo bền vững.
Thứ h i, chú trọng trang bị những nội dung kiến thức về các văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp ban hành, nhất là văn bản có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao
động, việc làm, lợi ích của đồng bào dân tộc thiểu số. Về cơ bản, việc phổ
biến pháp luật để đồng bào dân tộc thiểu số nắm bắt được nội dung của các
loại văn bản pháp quy do các cấp ban hành, là cơ sở rất quan trọng của việc
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của đồng
bào dân tộc thiểu số.
Thứ b , cung cấp cho đồng bào dân tộc thiểu số những nội dung
thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật trên địa bàn và tại các vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở các huyện lân cận trong toàn tỉnh. Nội dung thông
tin về thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ thị
trường phù hợp đặc điểm vùng nhằm thu hút doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh và cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho lao động tại chỗ, nâng cao khả năng sản xuất hàng hóa gắn
với thị trường tại các địa bàn nghèo, địa bàn có đông đồng bào dân tộc
78
thiểu số. Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách giảm nghèo với phát triển kinh
tế, xã hội và an ninh quốc phòng” để nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân.
Thứ t , trong nội dung giáo dục pháp luật cần chú trọng trang bị cho
đồng bào dân tộc thiểu số kiến thức về kinh nghiệm thực tế, kỹ năng tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ.
- Đổi mới phương pháp phổ biến pháp luật
Việc đổi mới phương pháp phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số bao gồm đổi mới phương pháp tổ chức phổ biến pháp luật, đổi mới
phương pháp giảng dạy, truyền đạt kiến thức pháp luật và xây dựng phương
pháp kiểm định, đánh giá kết quả phổ biến pháp luật.
+ Đổi mới ph ơng pháp tổ chức phổ biến pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số: Vì chưa có chương trình phổ biến pháp luật về sản xuất
kinh doanh dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số nên các chủ thể phổ
biến pháp luật c ng chưa chú ý đến phương pháp tổ chức phổ biến pháp
luật cho đối tượng này. Việc phổ biến pháp luật về sản xuất kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số lâu nay mới chủ yếu thực hiện lồng ghép vào các
chương trình khác chưa nói rõ được phương pháp chọn giống, chất lượng
cây trồng vật nuôi, địa bàn nào nên chọn loại cây trồng nào để có giá trị
cao, sản xuất phải gắn với nhu cầu thị trường.
+ Đổi mới ph ơng pháp gi ng dạ , tru n đạt thông tin, kiến thức
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số: Có thể khẳng định rằng, phương
pháp giảng dạy, truyền đạt thông tin, kiến thức pháp luật cho các đối tượng
nói chung, cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng hiện đang là khâu yếu
nhất của các báo cáo viên, tuyên truyền viên. Bởi vậy, đây là vấn đề rất cần
được các cơ quan chức năng quan tâm nên lấy từ thực tiễn của những mô
79
hình hay có hiệu quả thiết thực để phổ biến đến từng nhà, từng vùng. Để
cho người đồng bào dân tộc thiểu số hiểu và áp dụng được thì phải có viện
dẫn nội dung, tình huống thực tế hoặc giả định.
+ Xây dựng phiếu thu thập ý kiến, trong đó chứa đựng những câu hỏi
ngắn gọn liên quan đến nội dung phổ biến pháp luật về kinh doanh như:
trồng cây gì, nuôi con gì, kinh doanh mặc hàng gì cần có chính sách ưu đãi
nào của nhà nước, nguồn vốn vay được bao nhiêu cho 1 dự án, đầu ra cho
sản phẩm ...; và yêu cầu người đồng bào dân tộc thiểu số trả lời phiếu ngay
sau khi kết thúc buổi phổ biến pháp luật; đề nghị những người đồng bào
dân tộc thiểu số đã tham dự viết bài thu hoạch, trong đó ghi rõ những thông
tin, kiến thức pháp luật mà họ đã tiếp nhận được qua chuyên đề pháp luật
được học tập, phổ biến, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải kiểm tra kỹ
năng lực hiểu biết của đồng bào dân tộc thiểu số, phương pháp áp dụng
đúng nội dung phổ biến không, cần nhấn mạnh nội dung nào và phản hồi
đúng, sai từng nội dung để người dân tộc thiểu số hiểu mà thực hiện.
Xây dựng phiếu trắc nghiệm gồm các câu hỏi về nội dung pháp luật
và về cách xử lý các tình huống pháp luật (thực tiễn hoặc giả định). Mỗi
câu hỏi chỉ gồm 02 phương án trả lời (đúng hoặc sai). Phiếu trắc nghiệm sẽ
được phát cho những người đồng bào dân tộc thiểu số trả lời ngay sau khi
kết thúc buổi phổ biến pháp luật.
3.2.2. Củng cố, nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của
đồng bào dân tộc tộc thiểu số trong quá trình tham dự phổ biến pháp luật
Ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của đồng bào dân tộc thiểu số
trong quá trình tham dự phổ biến pháp luật là điều kiện chính trị không thể
thiếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến pháp luật. Mỗi người đồng
bào dân tộc thiểu số phải xác định rằng, phổ biến pháp luật là để củng cố,
nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật, vì lợi ích của họ chứ không phải cho
80
ai khác. Việc tham dự phổ biến pháp luật nhằm lĩnh hội kiến thức pháp luật,
vận dụng chúng vào thực tiễn cuộc sống, sinh hoạt, do đó, c ng phải được
coi là nhiệm vụ chính trị của mỗi người đồng bào dân tộc thiểu số. Ý thức
chính trị, tinh thần trách nhiệm đòi hỏi mỗi người đồng bào dân tộc thiểu số
phải tập trung tiếp thu tốt nội dung phổ biến pháp luật khi tham dự các buổi
phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật.
Có thể nói, chừng nào việc tiếp thu, nâng cao trình độ kiến thức pháp luật trở
thành nhu cầu tự thân, là yếu tố thường trực trong ý thức chính trị, tinh thần
trách nhiệm của mỗi người đồng bào dân tộc thiểu số thì việc phổ biến pháp
luật cho họ mới thực sự đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả. Chính vì vậy, cần
định hướng để đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao ý thức chính trị, tinh thần
trách nhiệm trong quá trình tham dự phổ biến pháp luật.
3.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình phổ biến pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số
Với đối tượng phổ biến pháp luật là đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy
cần phải có phương pháp truyền thông tin đơn giản, dễ hiểu, thiết thực, phù
hợp với cuộc sống sinh hoạt, hàng ngày bà con đồng bào. Báo cáo viên, tuyên
truyền viên phải phân định trình độ nhận thức c ng như nhu cầu tìm hiểu pháp
luật của người đồng bào dân tộc thiểu số; nội dung phổ biến pháp luật thường
chủ yếu tập trung vào những văn bản mới ban hành. Ở một số huyện miền
núi, đơn vị c ng đã có sự chọn lọc nội dung phổ biến pháp luật song vẫn còn
dàn trải và chỉ tập trung vào việc phổ biến những quy định của pháp luật mà
thiếu sự cập nhật việc thi hành pháp luật trên thực tế c ng như thiếu sự hướng
dẫn kỹ năng thực hành pháp luật pháp luật nên hiệu quả phổ biến pháp luật
vẫn chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới nội dung phổ biến pháp luật cho
người đồng bào dân tộc thiểu số cần được đổi mới theo hướng sau:
Một là, cần có sự khảo sát, bám sát điều kiện thực tiễn của vùng
81
đồng bào dân tộc thiểu số tại địa bàn dân cư để trang bị kiến thức khoa học
kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nông lâm kết hợp. Vì vậy, đã tạo điều
kiện cho nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số tự tổ chức sản xuất,
kinh doanh phù hợp với thực tế của từng gia đình, địa bàn, nhu cầu xã hội
nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập.
Bên cạnh việc khảo sát nắm bắt nhu cầu của người dân tộc thiể số thì
phải tuyên truyền phổ biến những nội dung pháp luật có liên quan đến
những vấn đề gây bức xúc ở địa phương hoặc ở những nơi có đang điểm
nóng. Ví dụ vấn đề đền bù giải toả hành lang giao thông, đền bù giải phóng
mặt bằng chưa thoả đáng dẫn đến bức xúc trong nhân dân gây khiếu kiện
đông người; vấn đề tôn giáo, các chủ trương chính sách có liên quan đến
lợi ích trực tiếp trước mắt của người dân...vì vậy trong nhân dân thường có
những nhóm người hay tập trung kéo nhau gây mất trật tự trị an tại trụ sở
Ủy ban nhân dân xã, Ủy ban nhân dân huyện và các cơ quan chức năng.
Song vấn đề này thực tế trong thời gian qua khi nảy sinh vấn đề thì một số
nơi tìm cách tháo gỡ nhưng một số nơi chính quyền cơ sở thường né tránh,
không muốn đụng chạm đến vấn đề đó vì sợ có thể nhân dịp đó nhân dân
được đà kéo đến khiếu kiện. Vì vậy cần phải xác định rõ nguyên nhân của
những vụ việc gây bức xúc trong nhân dân, nguyên nhân của những điểm
nóng đó, có thể do chính quyền chưa tiến hành đầy đủ các quy trình, thủ tục
cần thiết theo luật định hoặc do nhận thức của nhân dân chưa đầy đủ, chưa
nắm bắt được những quy định của pháp luật c ng như chủ trương của địa
phương về vấn đề này do đó cần phải cung cấp những thông tin một cách
kịp thời, cần có sự phổ biến, hướng dẫn cụ thể chứ không phải là né tránh
vấn đề, khi đã có những hiểu biết nhất định sẽ hạn chế được những bức xúc
trong nhân dân.
H i là, phải có sự chọn lọc nội dung cụ thể, sát thực, ngắn gọn, dễ
82
hiểu, dễ nhớ, không nhất thiết phải đi từng chương, từng điều của văn bản.
Vì trong thời gian qua ở một số nơi vẫn còn tình trạng tham nội dung, khối
lượng thông tin, kiến thức quá dài, quá dàn trải nên người nghe khó nhớ. Vì
vậy đối với đối tượng là người đồng bào dân tộc thiểu số cần phải có sự
chọn lọc. Ví dụ hỗ trợ cho người dân tộc thiểu số mua giống cây trồng, vật
nuôi, vật tư nông nghiệp, phân bón chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để
canh tác để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con.
Bên cạnh việc chọn nội dung đê phổ biến, phổ biến pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số cần phải chủ trọng đến việc hướng dẫn cho họ
cách thức thực hiện những nội dung đã được tiếp cận trên thực tế. Ví dụ
khi nói đến sản xuất, kinh doanh thì pahir giới thiệu mô hình sản xuất
nông lâm nghiệp có hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng, người dân áp
dụng vào sản xuất, kinh doanh như các mô hình: Trồng cây lâm nghiệp,
trồng lúa nước, nuôi lựon sinh sản, nuôi bò lai Sind, Zebu, trâu với chất
lượng và năng suất cao. Điều này vừa giúp cho người đồng bào dân tộc
thiểu số có những hiểu biết nhất định về pháp luật đồng thời giúp họ có
những kỹ năng thực hành pháp luật trong cuộc sống, bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy bên cạnh việc phổ biến các quy định
của pháp luật cần phải có các tình huống cụ thể và hướng dẫn họ cách xử
lý tình huống đó, như vậy nội dung phổ biến vừa không khô cứng vừa tạo
cho người dân tộc thiểu số sự gần g i liên hệ với thực tiễn, vừa giúp họ
tiếp thu một cách dễ dàng, những quy định của pháp luật dễ đi vào cuộc
sống của người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên để thực hiện những điều đó
cần phải có đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên có năng lực, trình độ,
năng động, kiên trì, chủ động, sáng tạo trong công tác tuyên truyền, giáo
dục c ng như vận động nguwoif dân tộc thiểu số thực hiện đường lối,
83
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, chọn nội dung phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
phù hợp với tình hình nhiệm vụ của địa phương ở những thời điểm nhất định.
Căn cứ vào nhiệm vụ và đặc điểm của địa phương, vào từng thời
điểm nhất định để chọn nội dung phổ biến pháp luật cho phù hợp sẽ có ý
nghĩa rất quan trọng để nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác phổ
biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, điều đó vừa giúp cho họ
nắm vững được chủ trương c ng như tình hình cụ thể của địa phương để
thực hiện tốt vai trò của người công dân tại địa phương đó vừa giúp cho
họ có kiến thức pháp luật để vận dụng những kiến thức đó trong cuộc
sống hàng ngày.
Về chương trình phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân
tộc thiểu số trong thời gian tới:
Ban Dân tộc có kế hoạch phối hợp với Sở Tư pháp tham mưu cho
Ủy ban nhân dân huyện xây dựng chương trình riêng đối với phổ biến pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời cần có sự phối hợp đồng bộ
giữa các ngành, đoàn thể để phổ biến pháp luật cho đoàn viên, hội viên là
người dân tộc thiểu số trong đó cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Tập trung triển khai các hoạt động phổ biến pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số biết trồng và chăm sóc các loại cây, vật nuôi, biết sử dụng
các loại phân bón và các loại thuốc trong chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh
nhằm tăng năng suất cây trồng, nâng cao hiệu quả của ngành trồng trọt.
- Hướng dẫn thu hoạch vụ mùa sản xuất, kinh doanh nông nghiệp
thực hiện nhanh, hiệu quả, giảm công sức và đảm bảo thời vụ; công tác thu
hoạch được thực hiện với chi phí thấp hơn, hiệu quả cao hơn.
- Phổ biến số hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ định canh,
định cư để làm nhà ở ổn định, có điều kiện thuận lợi để hưởng các dịch vụ
84
công cộng, điện, nước sinh hoạt, phát triển sản xuất, kinh doanh nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần, vươn lên thoát nghèo, góp phần vào thực hiện
công tác giảm nghèo bền vững.
3.2.4. Lựa chọn các hình thức phổ biến pháp luật phù hợp với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số
Song song với việc lựa chọn nội dung phổ biến pháp luật phù hợp
với đối tượng là người dân tộc thiểu số thì việc lựa chọn hình thức nào để
phổ biến pháp luật có hiệu là điều rất quan trọng. Thực tiễn công tác phổ
biến pháp luật trong thời gian qua cho thấy mỗi hình thức phổ biến pháp
luật đều có những ưu điểm, thế mạnh riêng, bổ trợ cho nhau. Tuy nhiên ở
mỗi địa phương, với điều kiện, tình hình khác nhau, các nhóm đối tượng
khác nhau thì cần phải có những hình thức phổ biến phù hợp với tình hình
và điều kiện cụ thể của địa phương đó. Vì vậy có thể nói trong cùng một
lúc không thể thực hiện một cách tràn lan tất cả các hình thức mà cần phải
có sự lựa chọn để áp dụng cho phù hợp và hiệu quả.
Trên cơ sở đánh giá phân tích thực trạng phổ biến pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua c ng như ưu điểm, tồn tại và
hạn chế khi sử dụng mỗi hình thức phổ biến pháp luật cho người dân tộc
thiểu số có thể tập trung chỉ đạo, triển khai một số hình thức sau:
Một là, hình thức tu n tru n miệng: Với hình thức này không nên
chỉ dừng lại ở cấp huyện, cấp xã vì trên thực tế trong thời gian qua các hội
nghị tuyên truyền miệng thường chỉ được tổ chức đến cấp xã với số lượng
người dự nghe không được nhiều mà chỉ phân bổ cho các đơn vị, các chi
hội cử người đi dự nghe do đó kiến thức và thông tin nói chung, kiến thức
và thông tin về pháp luật nói riêng chưa được tuyên truyền, phổ biến rộng
khắp đến người đồng bào dân tộc thiểu số và nhân dân. Vì vậy cần phải tổ
chức các hội nghị tuyên truyền miệng tại các chi hội hoặc tổ chức theo các
85
cụm trong xã, như vậy số lượng người đồng bào dân tộc thiểu số sẽ có điều
kiện đến dự nghe đông hơn thu hút được rất đông số lượng người đến dự vì
vậy việc tổ chức các hội nghị tuyên truyền ở ngay tại các thôn, xóm, sẽ tạo
điều kiện cho người đồng bào dân tộc thiểu số không phải đi xa, mà vẫn bố
trí sắp xếp được công việc gia đình để đến dự nghe tuyên truyền, phổ biến
về pháp luật.
Để thực hiện được điều này cần phải phát triển đội ng tuyên truyền
viên cả chất lượng và số lượng, cần huy động nhiều thành phần tham gia
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại cơ sở. Tuy nhiên trình độ năng
lực c ng như điều kiện và khả năng của các tuyên truyền viên tham gia
công tác này là điều kiện quyết định vì số cuộc tuyên truyền miệng sẽ được
tổ chức nhiều hơn, tổ chức ở nhiều nơi hơn và số lượng người tham gia dự
nghe sẽ đông hơn. Vì vậy yêu cầu đối với đội ng những người làm công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật sẽ cao hơn, không chỉ là tâm huyết,
nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc mà còn phải có sự chủ động, sáng
tạo, có kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội và khả năng thuyết trình, khả
năng truyền đạt, khả năng vận động thì hiệu quả phổ biến pháp luật cho
người đồng bào dân tộc thiểu số mới được nâng lên.
H i là, hình thức phổ biến pháp luật thông qu hệ thống đài tru n
th nh cơ sở: Với hình thức này sẽ dễ dàng tác động đến đông đảo các tầng
lớp nhân dân nói chung và người đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Phạm
vi tác động rộng lớn và trực tiếp đến tận các thôn xóm và các cụm dân cư.
Hình thức phổ biến pháp luật qua hệ thống đài truyền thanh cơ sở vừa
mang tính thời sự, tuyên truyền có trọng điểm, trọng tâm, vừa đảm bảo tính
kế hoạch định hướng lâu dài.
Để hình thức phổ biến pháp luật này mang lại hiệu quả cao hơn cần
86
quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Về nội dung tuyên truyền nên tập trung vào một số nội dung cơ bản
sau:
+ Phổ biến có hệ thống và thường xuyên những văn bản pháp luật cơ
bản, trọng tâm của Trung ương c ng như của địa phương có liên quan trực
tiếp đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân nói chung và người đồng bào
dân tộc thiểu số nói riêng.
+ Giải đáp pháp luật, trả lời những thắc mắc, kiến nghị của nhân dân
địa phương có liên quan đến những quy định của pháp luật, đến tình hình
thực hiện pháp luật tại cơ sở c ng như liên quan đến việc thực hiện nhiệm
vụ của địa phương.
+ Thông tin về tình hình thực hiện pháp luật ở địa phương, thường
xuyên giới thiệu gương người tốt, việc tốt, các mô hình sản xuất, kinh
doanh giỏi đạt hiệu quả cao về kinh tế góp phần thay đổi tập quán sản xuất,
kinh doanh phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Xây dựng, phát các tiểu phẩm, câu chuyện truyền thanh có nội
dung tuyên truyền pháp luật, đặc biệt những câu chuyện sát hợp những yếu
tố hỗ trợ đồng bào sản xuất, kinh doanh phát triển các ngành nghề.
- Phải bố trí thời lượng phát thanh cho phù hợp. Thực tế thời gian
qua ở nhiều cơ sở hệ thống loa đài chỉ hoạt động khi muốn thông báo
những chủ trương của địa phương, thông báo các cuộc họp dân, kế hoạch
sản xuất hoặc việc thực hiện các nhiệm vụ khác mà thời lượng tuyên truyền
về pháp luật vẫn còn rất ít, rất hạn chế. Vì vậy cần phải tăng thời lượng
tuyên truyền trên đài truyền thanh cơ sở. Bên cạnh đó còn chú ý về thời
gian, thời điểm tuyên truyền cho phù hợp với tập quán sinh hoạt của người
dân ở địa phương để thu hút được đông đảo người nghe, phát huy hiệu quả
87
cao nhất của chương trình.
- Các bài viết tuyên truyền cần chú ý đến chất lượng tuyên truyền,
phải đảm bảo sự thiết thực, ngắn gọn, xúc tích nhưng lại chứa đựng các
thông tin cần thiết, mang tính thời sự, thu hút sự chú ý của mọi người, tránh
bài viết chung chung, thiếu trọng tâm, trọng điểm.
- Các phát thanh viên ở cơ sở cần phải khắc phục những hạn chế về
giọng đọc, cách phát âm tiếng dân tộc, và khả năng truyền đạt để truyền tải
có hiệu quả các nội dung tuyên truyền.
- Quan tâm bổ sung, hoàn thiện việc lắp đặt hệ thống loa đài tại các
vùng có đông người đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo chất lượng về âm
thanh, phục vụ nhu cầu nắm bắt thông tin về pháp luật của nhân dân và
người đồng bào dân tộc thiểu số.
B là, phổ biến pháp luật cho ng ời đồng bào dân tộc thiểu số thông
qu hình thức sinh hoạt câu lạc bộ tại cơ sở
Đây là hình thức phổ biến pháp luật được coi là khá hiệu quả, được
các địa phương áp dụng khá rộng rãi trong thời gian qua. Đối với việc phổ
biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số cần khai thác và phát
huy những ưu điểm của hình thức này. Theo số liệu thống kê của Phòng tư
pháp các huyện miền núi tính đến tháng 10/2017 có 92 câu lạc bộ với 4.985
thành viên tham gia sinh hoạt, vì vậy việc khai thác và phát huy những
thuận lợi c ng như ưu điểm của hình thức này một cách thường xuyên sẽ
mang lại hiệu quả cao đối với công tác phổ biến pháp luật cho người dân
tộc thiểu số.
Để phát huy tốt hiệu quả của công tác phổ biến pháp luật thông qua
hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
Một là, chú trọng việc nâng cao năng lực, trình độ và trách nhiệm
của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, vì đây là những người trực tiếp có vai trò
88
tập hợp, thu hút các thành viên tham gia vào sinh hoạt câu lạc bộ và tổ chức
các hoạt động của câu lạc bộ. Song thực tế trong thời gian qua cho thấy ở
khá nhiều câu lạc bộ trình độ, năng lực của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ
không đồng đều, các uỷ viên trong Ban chủ nhiệm câu lạc bộ vẫn chưa phát
huy hết vai trò, trách nhiệm của mình mà chủ yếu vẫn chỉ là người đứng
đầu câu lạc bộ, vì vậy công việc của câu lạc bộ thường tập trung vào một
người nên chưa tạo được sức mạnh thống nhất trong việc triển khai, tổ chức
các hoạt động của câu lạc bộ. Do đó bên cạnh việc lựa chọn những người
có khả năng, có tâm huyết, có trách nhiệm với phong trào cần phải thường
xuyên bồi dưỡng kiến thức c ng như kỹ năng cho những người trong Ban
chủ nhiệm câu lạc bộ, như vậy họ mới có khả năng duy trì được hoạt động
câu lạc bộ và thu hút được nhiều người tham gia sinh hoạt câu lạc bộ.
H i là, cần có sự đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt của câu
lạc bộ. Cần có sự nghiên cứu để xây dựng nội dung sinh hoạt câu lạc bộ
một cách phong phú, đa dạng. Có thể lồng ghép các nội dung khác như:
phổ biến kiến thức về gia đình, về phòng chống các tệ nạn xã hội, các kiến
thức, kinh nghiệm trong lao động sản xuất với việc phổ biến kiến thức pháp
luật, với những thông tin về chủ trương, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của
địa phương. lồng ghép các nội dung sinh hoạt như vậy sẽ giúp cho nội dung
ngày càng phong phú, không nhàm chán. Bên cạnh đó thì hình thức sinh
hoạt câu lạc bộ c ng cần có sự đổi mới, phải được tổ chức theo hướng đa
dạng hoá nhiều hình thức, không chỉ dừng lại ở việc duy trì sinh hoạt tại
một địa điểm hoặc sinh hoạt chỉ là phổ biến các kiến thức trên tài liệu in
sẵn hoặc đọc nội dung một văn bản pháp luật nào đó mà cần phải chú trọng
đến việc chuyển thể những kiến thức, thông tin đó thành những tiểu phẩm,
kịch bản, thơ, ca, hò vè để có thể biểu diễn trên sân khấu hoặc thông qua
hình thức hái hoa dân chủ; Việc tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ c ng không
89
nên chỉ dừng lại ở việc khép kín trong một câu lạc bộ mà cần có sự giao lưu
giữa các câu lạc bộ trong cùng một xã, một huyện hoặc giao lưu giữa các
câu lạc bộ có nhiều điểm tương đồng để có thể tham khảo, học hỏi cách
thức tổ chức c ng như duy trì các hoạt động của câu lạc bộ.
B là, về thời gian sinh hoạt của các câu lạc bộ thông thường định kỳ
là theo quý, như vậy khối lượng thông tin, kiến thức được truyền tải tới các
thành viên câu lạc bộ sẽ không được nhiều, thậm chí có những thông tin
đợi đến kỳ sinh hoạt sẽ không còn mang tính thời sự. Vì vậy thời gian sinh
hoạt câu lạc bộ có thể được tổ chức theo tháng hoặc theo tuần, điều này phụ
thuộc rất nhiều vào năng lực tổ chức của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ trong
việc biên soạn tài liệu, lên chương trình, nội dung sinh hoạt phù hợp, có sức
thu hút sự tham gia sự tham gia của các thành viên. Việc tổ chức sinh hoạt
như vậy sẽ vừa duy trì được phong trào, vừa có nhiều hoạt động để chị em
hội viên có cơ hội tham gia và quan trọng hơn là mang lại kiến thức, cung
cấp những thông tin cho chị em một cách thường xuyên hơn.
Bốn là, để duy trì được hoạt động của câu lạc bộ c ng như thu hút
được đông đảo chị em vào tham gia sinh hoạt tại câu lạc bộ thì cần phải có
sự huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài việc đóng góp của
các thành viên câu lạc bộ còn có sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân, các
doanh nghiệp trên địa bàn quan tâm ủng hộ phong trào c ng như quan tâm
đến công tác phổ biến pahsp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Để có
được điều này c ng phụ thuộc rất lớn vào khả năng của Ban chủ nhiệm câu
lạc bộ, vào hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ, những tác động đến nhận
thức và hành động của mỗi thành viên trong câu lạc bộ c ng như mọi người
trong cộng đồng xã hội.
Bốn là, phổ biến p hsp luật thông qu hoạt động văn hoá, văn nghệ
90
quần chúng (đặc biệt là đối với các cơ sở khó khăn, x trung tâm hu ện)
Đây là hình thức vừa mang lại cho người đồng bào dân tộc thiểu số
những giá trị tinh thần vừa có nghĩa thiết thực đối với việc nâng cao nhận
thức trong cuộc sống, công việc c ng như việc hành xử theo pháp luật. Đặc
biệt là người dân tộc thiểu số ít có cơ hội được tiếp cận và hưởng thụ những
tác phẩm nghệ thuật tại các rạp hoặc các buổi biểu diễn với quy mô lớn vì
vậy việc tổ chức các cuộc giao lưu văn hoá văn nghệ tại địa phương với sự
tham gia của đông đảo của các diễn viên quần chúng với các tác phẩm tự
biên bên cạnh đó lồng ghép với những tiểu phẩm, hài kịch chứa đựng nội
dung tuyên truyền về pháp luật c ng sẽ mang lại cho nhân dân nhiều điều
thú vị, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Tuy
vậy để hình thức này phát huy hiệu quả cao thì cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành chức năng và các đoàn thể ở địa phương, có sự
phân công trách nhiệm rõ ràng và cần có chương trình nội dung cụ thể,
thiết thực, sát hợp với tình hình cụ thể của địa phương, tránh việc tổ chức
theo trào lưu, hình thức, qua loa chạy theo phong trào, chạy theo thời vụ.
Năm là, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qu
hoạt động tr giúp pháp lý tại cơ sở.
Tiếp tục thực hiện chương trình phối hợp giữa Sở Tư pháp và Ban
Dân tộc tỉnh về tuyên truyền, phổ biến, phổ biến pháp luật cho người đồng
bào dân tộc thiểu số, trong đó hoạt động phổ biến pahsp luật cần được quan
tâm đẩy mạnh. Trong những năm qua hoạt động này đã được tiến hành
thường xuyên và đem lại hiệu quả thiết thực, mỗi năm có khoảng gần 80
người đông bào được trợ giúp và tư vấn pháp luật miễn phí, điều đó đã góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao kiến thức pháp luật cho người đồng bào
c ng như thực hiện quyền được tiếp cận các dịch vụ pháp lý đặc biệt là
những người dân tộc thiểu số không biết chữ, người dân tộc thiểu số thuộc
91
diện chính sách… Đối với công tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số thông qua hoạt động phổ biến là hình thức vừa mang lại hiệu
quả cao, vừa có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện và trong thời
gian tới để áp dụng hình thức này một cách có hiệu quả cao hơn cần quan
tâm đến một số vấn đề sau:
Một là, các báo cáo viên, tuyên tryền viên cần phổ biến tuyên truyền
rộng rãi hơn về tổ chức và hoạt động phổ biến pháp luật để mọi người dân
trong đó có người đồng bào dân tộc thiểu số nắm bắt được những lĩnh vực
phổ biến pháp luật, về đối tượng được trợ giúp và các thủ tục phải tiến hành
để được trợ giúp. Vì trên thực tế số người đồng bào dân tộc thiểu số biết
đến hoạt động này còn ít, nhiều đồng bào vẫn chưa biết đến hoạt động này
nên số cuộc phổ biến pháp luật và số người đồng bào dân tộc thiểu số được
trợ giúp chưa được nhiều. Vì vậy ngay trong đội ng cán bộ là người dân
tộc thiểu số c ng cần phải có những hiểu biết nhất định về hoạt động này
để phổ biến, tuyên truyền cho người đồng bào của mình được tiếp cận với
hoạt động trợ giúp pháp lý.
H i là, ngoài việc tuyên truyền, tư vấn pháp luật cho người đồng bào
dân tộc thiểu số tại trụ sở Trung tâm tuyên truyền pháp luật cấp tỉnh, thì
cần phải tăng cường phối hợp tổ chức các cuộc phổ biến pháp luật lưu động
tại các cơ sở. Để thu hút được sự quan tâm của người đồng bào dân tộc thiểu
số cần có sự thông báo đến từng người về cách thức c ng như nội dung của
cuộc phổ biến pháp luật lưu động để tạo cơ hội cho người đồng bào có nhu
cầu được tư vấn, trợ giúp c ng như tìm hiểu những vấn đề pháp luật có liên
quan đến cuộc sống của mình. Việc tăng cường tổ chức các cuộc phổ biến
pháp luật lưu động sẽ giúp cho nhiều người đồng bào dân tộc thiểu số biết
đến tổ chức phổ biến pháp luật, có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ pháp lý mà
không phải đi xa c ng như được tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp
92
luật có liên quan đến quyền và lợi ích của người đồng bào.
B là, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các báo cáo viên, tuyên
truyền viên với ngành tư pháp và tổ chức phổ biến pháp luật để ngay từ
dưới cơ sở sẽ có nhiều điểm tiếp nhận, trả lời, hướng dẫn đối với những
yêu cầu được phổ biến pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để người đồng bào
dân tộc thiểu số có cơ hội đến với tổ chức phổ biến pháp luật và được thực
hiện các quyền lợi hợp pháp của mình thông qua hoạt động này.
3.2.5. Tăng cường đầu tư kinh phí, trang thiết bị phục vụ công tác phổ
biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, công tác phổ biến
pháp luật nói riêng là một loại hình hoạt động vì lợi ích lâu dài, kết quả
cuối cùng của nó không thể đo đếm trực tiếp, tức thời sau khi tiến hành các
hoạt động giáo dục. Vì vậy để phổ biến pháp luật đạt hiệu quả thì phải đảm
bảo kinh phí cần thiết cần thiết cho hoạt động này. Trong những năm qua,
nguồn kinh phí cho hoạt động phổ biến pháp luật của tỉnh Quảng Ngãi chủ
yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước do Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét
quyết định. Đối với hoạt động phổ biến pháp luật nguồn kinh phí đã được
quan tâm hơn, song sự đầu tư kinh phí cho hoạt động này vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu, vẫn chưa có sự quan tâm thoả đáng đối với đội ng làm công
tác phổ biến pháp luật, việc đầu tư cho tủ sách pháp luật còn hạn chế, các
đầu sách còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu tìm đọc của nhân dân. Số
lượng tài liệu, sách báo, tờ rơi phục vụ cho công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật vẫn còn ít, hệ thống loa đài ở nhiều cơ sở còn chưa đảm bảo về
chất lượng. Vì vậy công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong thời gian
qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả, chất lượng chưa được
như mong muốn.
Để công tác phổ biến pháp luật cho nhân dân nói chung và cho đồng
93
bào dân tộc thiểu số nói riêng đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới thì
việc đầu tư ngân sách và huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau là rất
quan trọng. Cần phải đảm bảo các phương tiện làm việc tối thiểu cho các
cơ quan và cán bộ làm công tác phổ biến pháp luật, quan tâm kiện toàn và
luôn bổ sung những đầu sách cần thiết cho tủ sách pháp luật ở cơ sở để có
thể khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả thiết thực, đảm bảo chế độ thù
lao, cung cấp các tài liệu, sách báo, đề cương đầy đủ cho đội ng làm công
tác phổ biến pháp luật, đặc biệt đối với hoạt động phổ biến pháp luật cho
người đồng bào dân tộc thiểu số, cần phải có kế hoạch cụ thể về kinh phí
cho hoạt động này. Vì vậy nguồn kinh phí cho hoạt động tuyên truyền phổ
biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số là rất hạn chế, phải lồng
ghép với một số hoạt động của các chương trình khác do vậy tài liệu c ng
như kinh phí tổ chức các cuộc tuyên truyền miệng, tổ chức các hội thi rất
khó khăn. Từ những vấn đề trên cho thấy việc đầu tư ngân sách nhà nước
cho hoạt động này là rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của công tác phổ biến pháp luật, bên cạnh đó cần phải huy động, khai thác
sự quan tâm đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau như từ các tổ chức kinh tế,
94
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh…
Tiểu kết chương 3
Để phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số
trong thực tiễn thi hành có hiệu lực, hiệu quả; thì trong qúa trình nghiên
cứu xây dựng pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, nhất quán quan điểm
đường lối, chủ trương của Đảng về phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách pháp luật này là một bộ phận đặt
trong hệ thống tổng thể với các chính sách pháp luật khác. Vì vậy, nó phải
đáp ứng các tiêu chí đánh giá chất lượng hệ thống pháp luật vận hành
trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận dân cư thường
sinh sống ở vùng khó khăn nhất của đất nước, cơ sở hạ tầng thấp kém, là
vùng kém phát triển nhất, ít có điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh,
không có những cơ hội bình đẳng như vùng đồng bằng, đô thị... Vì vậy,
Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số để phát triển
sản xuất, kinh doanh bền vững; kết hợp phát triển kinh tế bền vững với
thực hiện công bằng xã hội. Nhất là tỉnh Quảng Ngãi là địa phương có
đông số đối tượng yếu thế như các đối tượng chính sách người có công, đối
tượng xã hội và đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, tỉnh Quảng Ngãi phải
luôn quan tâm thực hiện các chính sách pháp luật về an sinh xã hội.
Hệ thống chính sách pháp luật dân tộc từ trước đến nay được quy
định thông qua Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị của
Đảng, của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng và các văn bản của Bộ
ngành, địa phương tương đối hoàn chỉnh, phủ kín vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy hệ thống pháp luật về công
tác dân tộc nói chung và pháp luật về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu phát
triển sản xuất, kinh doanh cần phải được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, hoàn
95
thiện và ban hành mới một số chính sách pháp luật đặc thù cho phù hợp với
đặc thù của từng dân tộc, vùng miền, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước.
Hệ thống pháp luật tuy có hoàn chỉnh, nhưng nếu không có cách
thức, biện pháp, giải pháp hữu hiệu thì việc triển khai pháp luật sẽ không
đạt được mục đích, yêu cầu, nội dung của pháp luật đề ra. Vì vậy, phải có
giải pháp đồng bộ như: Về tăng cường vai trò, trách nhiệm và hiệu quả hoạt
động của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các hội đoàn thể của các
huyện, xã miền núi; nhóm giải pháp cấp ủy, chính quyền địa phương cần
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và phổ biến
pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng; nhóm giải
pháp pháp luật về chính sách phát triển kết cấu hạ tầng bền vững; phát triển
thương mại, dịch vụ và du lịch để phổ biến pháp luật về kinh doanh cho
đồng bào dân tộc thiểu số; nhóm giải pháp quy hoạch quỹ đất sản xuất để
bố trí cho đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu đất sản xuất, kinh doanh;
nhóm giải pháp kết hợp khuyến nông, khuyến lâm, chế biến tiêu thụ sản
phẩm; nhóm giải pháp pháp luật về chính sách an sinh xã hội và nhóm giải
96
pháp về vốn.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là
dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số. Đồng bào dân tộc thiểu số là nhóm
dân tộc yếu thế trong xã hội; chủ yếu sống và làm việc ở vùng miền núi có
điều kiện khó khăn về tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội. Do những khó
khăn đó cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên kinh tế của đồng bào dân
tộc thiểu số kém phát triển; phần lớn bà con dân tộc thiểu số thuộc nhóm
người nghèo; tỷ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi cao
hơn so với bình quân chung cả nước. Do những điều kiện khó khăn đó mà
Nhà nước phải có chính sách pháp luật hỗ trợ.
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu
rộng hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một "Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thực sự của dân, do dân, vì dân,
với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
Xác định đúng tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân nên trong Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
một trong các nhiệm vụ trọng tâm: "Trong nhiệm kỳ Đại hội XII trên cơ sở
quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm,
nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo cáo
kinh tế - xã hội cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát
huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững…"
[14] và khẳng định "…Đẩy mạnh tuyên truyền…quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo
hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả" [14]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
97
của Đảng đã xác định rõ phương phướng nhiệm vụ "…Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện… tạo môi trường và điều kiện để phát triển
về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn và trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật…" [14]. Đồng thời
đặt ra mục tiêu: "…Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị, tư
tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu
nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ" [14]. Đây chính là
điều kiện đảm bảo cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế thành công,
khẳng định vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với đề tài: "Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi" trong quá trình nghiên cứu về thực trạng của
công tác này trong thời gian qua cho thấy công tác phổ biến pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước được quan tâm và có sự đầu tư đúng
mức và đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đã đạt được có lúc, có nơi, đặc biệt ở cấp cơ sở trong quá trình tổ chức
thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến không ít những hạn chế như
đã được đánh giá trong chương 2 của luận văn. Vì vậy trong thời gian tới,
trên cơ sở các quan điểm về phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng
bào dân tộc thiểu số hiện nay cần có sự nghiên cứu, vận dụng và tiến hành
động bộ những giải pháp chính để nâng cao hiệu quả của công tác này.
Phổ biến pháp luật về kinh doanh cho đồng bào dân tộc thiểu số là
một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, của pháp luật về
hỗ trợ và pháp luật về dân tộc thiểu số nói riêng. Nội dung của pháp luật hỗ
trợ đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua đã thể hiện quan điểm
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là luôn quan tâm tạo điều kiện để đồng
bào dân tộc thiểu số có cơ hội cùng với đồng bào dân tộc Kinh phát triển
98
sản xuất, kinh doanh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh.
Tuy nhiên, chính sách pháp luật về phổ biến pháp luật về kinh doanh
cho đồng bào dân tộc thiểu số ban hành trong thời gian qua còn tản mạn,
chưa đồng bộ, nhiều cơ quan quản lý; một số chính sách pháp luật không
kịp thời sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tế với sự phát triển của xã
hội; chính sách thường có mục tiêu lớn, thời gian thực hiện lại ngắn, định
mức hỗ trợ quá thấp nên khó thực hiện, vốn bố trí không đồng bộ; nhất là
hầu hết các chính sách pháp luật này đều hết hiệu lực thi hành vào năm
2016; làm cho việc thi hành pháp luật giảm hiệu lực, hiệu quả. Do đó, trong
thời gian đến Nhà nước cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và ban hành
chính sách pháp luật mới cho phù hợp với thực tế.
Quảng Ngãi vẫn còn là tỉnh nghèo; 6/6 huyện miền núi của tỉnh thuộc
diện huyện nghèo là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đây là địa bàn khó khăn nhất của tỉnh cả về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội. Tuy nhiên, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong thời gian qua đã
khắc phục khó khăn, bám sát địa bàn, tìm giải pháp, vận động đồng bào dân
tộc thiểu số tổ chức thực hiện pháp luật đúng quy định, đạt hiệu lực, hiệu
quả, nhờ vậy đã góp phần quan trọng trong việc làm thay đổi cơ bản diện
mạo nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế trong sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị
trường; góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần
của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng miền núi đặc biệt khó khăn của tỉnh;
góp phần nhất định vào việc thực hiện chủ trương giảm nghèo nhanh bền
vững. Nội dung của luận văn này c ng sẽ góp phần cùng với Nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng đạt được hiệu lực, hiệu quả vì mục tiêu
99
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Ðảng (2007), Báo cáo sơ kết b năm thực hiện
Chỉ thị 32-CT/TW củ B n Bí th (khó IX) v công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng c o ý thức ch p hành pháp luật củ cán bộ, nhân
dân, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), V tiếp tục
sắp xếp đổi mới và phát triển nâng c o hiệu qu hoạt động củ công t
nông, lâm nghiệp, Nghị qu ết 30-NQ/TW ngà 12/3/2014;
3. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Ngãi (2015), Kết
qu thực hiện chính sách tín dụng u đãi đối với hộ đồng bào dân tộc
thiểu số tr n đị bàn tỉnh Qu ng Ngãi, Báo cáo số 745/NHCS-KHNV
ngà 14/7/2015;
4. Chính phủ (2002), V tín dụng đối với ng ời nghèo và các đối t ng
chính sách khác, Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngà 04/10/2002;
5. Chính phủ (2008), V ch ơng trình hỗ tr gi m nghèo nh nh và b n
vững đối với 61 hu ện nghèo, Nghị qu ết 30 /NQ-CP ngà 27/12/2008;
6. Chính phủ (2011), V Công tác dân tộc, Nghị định số 05/2011 ngày
14/01/2011;
7. Chính phủ (2015), V cơ chế, chính sách b o vệ và phát triển rừng, gắn
với chính sách gi m nghèo nh nh, b n vững và hỗ tr đồng bào dân tộc
thiểu số gi i đoạn 2015-2020, Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngà
09/9/2015;
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đ ng lần
X, Nhà xuất bản Chính trị, Hà Nội;
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu Đ ng lần
XI, Nhà xuất bản Chính trị, Hà Nội;
10. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện dự th o trình Đại hội đại biểu
Đ ng lần XII;
11. HĐND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Kết qu giám sát việc thực hiện chính
sách pháp luật v gi o đ t, gi o rừng s n xu t cho các tổ chức, hộ gi
đình và cá nhân tr n đị bàn các hu ện B Tơ và Trà Bồng, Báo cáo số
166/BC-HĐND ngày 08/12/2014;
12. HĐND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Kết qu kh o sát tình hình thực hiện
chính sách hỗ tr di dân định c nh, định c cho đồng bào dân tộc thiểu
số theo Qu ết định 33/2007/QĐ-TTg ngà 05/3/2007 củ Thủ t ớng
Chính phủ, Báo cáo số 164/BC-HĐND ngày 26/11/2015;
13. Quốc hội (2013), Hiến pháp n ớc Cộng hò xã hội chủ nghĩ Việt
Nam;
14. Quốc hội (2014), Sử đổi, bổ sung một số Đi u củ Luật B o hiểm tế,
Luật số 46/2014/QH13 ngà 13/6/2014;
15. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Luật số 68/2014/QH13 thông
qu ngà 26/11/2014;
16. Quốc hội (2014), Đẩ mạnh thực hiện mục ti u gi m nghèo b n vững
đến năm 2020, Nghị qu ết số 76/2014/QH13 ngà 24/6/2014;
17. Quốc hội (2015), Ph du ệt chủ tr ơng đầu t các ch ơng trình mục
ti u quốc gi gi i đoạn 2016 - 2020, Nghị qu ết số 100/2015/QH13
ngà 12/11/2015;
18. Nguyễn Quốc Sửu (2010), Giáo dục pháp luật cho đội ng cán bộ, công
chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Thanh tra Chính phủ (2015), Việc ch p hành pháp luật trong qu n lý,
sử dụng đ t đ i và qu n lý đầu t xâ dựng tr n đị bàn tỉnh Qu ng
Ngãi, Thông báo kết luận th nh tr số 2585/TB-TTCP ngà 08/9/2015;
20. Vừ Bá Thông “Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở
vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”, Chuyên viên Vụ Pháp chế
- Ủy ban Dân tộc.
21. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày
01/02/2008 Về phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân
tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc, Hà Nội.
22. Thủ tướng Chính phủ (2008), V chính sách hỗ tr hộ nghèo v nhà ở,
Qu ết định số 167/QĐ-TTg ngà 12/12/2008;
23. Thủ tướng Chính phủ (2009), Ph du ệt Đ án Hỗ tr các hu ện nghèo
đẩ mạnh xu t khẩu l o động góp phần gi m nghèo b n vững gi i đoạn
2009-2020, Qu ết định số 71/2009/QĐ-TTg ngà 29/4/2009;
24. Thủ tướng Chính phủ (2011), V chính sách đối với ng ời có u tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số, Qu ết định số 18/2011/QĐ-TTg ngà
18/3/2011;
25. Thủ tướng Chính phủ (2012), B n hành chính sách cho v vốn phát
triển s n xu t đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn gi i đoạn
2012-2015, Qu ết định số 54/2012/QĐ-TTg ngà 04/12/2012;
26. Thủ tướng Chính phủ (2012), V chính sách tr giúp pháp lý cho ng ời
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo gi i đoạn 2013 –
2020, Qu ết định số 59/2012/QĐ-TTg ngà 24/12 /2012;
27. Thủ tướng Chính phủ (2009), V chính sách hỗ tr trực tiếp cho ng ời
dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn, Qu ết định 102/2009/QĐ-TTg
ngà 07/8/2009;
28. Thủ tướng Chính phủ (2013), Ph du ệt ch ơng trình 135 v hỗ tr
đầu t cơ sở hạ tầng, hỗ tr phát triển s n xu t cho các xã đặc biệt khó
khăn, xã bi n giới, xã n toàn khu, các thôn b n đặc biệt khó khăn,
Qu ết định số 551/QĐ-TTg ngà 04/4/2013;
29. Thủ tướng Chính phủ (2013), Ph du ệt chính sách hỗ tr đ t ở, đ t
s n xu t, n ớc sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ
nghèo ở xã, thôn, b n đặc biệt khó khăn, Qu ết định số 755/ QĐ-TTg
ngà 20/5/2013;
30. Thủ tướng Chính phủ (2013), Chính sách hỗ tr gạo cho học sinh tại
các tr ờng ở khu vực có đi u kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
Qu ết định số 36/2013/QĐ-TTg ngà 18/6/2013;
31. Thủ tướng Chính phủ (2015), V chính sách hỗ tr nhà ở đối với hộ
nghèo theo chuẩn nghèo gi i đoạn 2011-2015 (Ch ơng trình hỗ tr hộ
nghèo v nhà ở theo Qu ết định số 167/2008/QĐ-TTg gi i đoạn 2),
Qu ết định số 33/2015/QĐ-TTg ngà 10/8/2015;
32. Thủ tướng Chính phủ (2011), V việc b n hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận
nghèo áp dụng cho gi i đoạn 2011 - 2015, Qu ết định số 09/2011/QĐ-
TTg ngà 30/01/2011;
33. Thủ tướng Chính phủ (2015), V việc b n hành chuẩn nghèo tiếp cận
đ chi u áp dụng cho gi i đoạn 2016 - 2020, Qu ết định số
59/2015/QĐ-TTg ngà 19/11/2015;
34. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2010), Đại hội đại biểu Đ ng bộ tỉnh Qu ng
Ngãi, lần thứ XVIII, Nghị quyết số 02-NQ/ĐH ngà 30/9/2010;
35. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2011), V đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
ph n đ u gi m nghèo nh nh và b n vững ở 6 huyện mi n núi của tỉnh
giai đoạn 2011-2015 và định h ớng đến năm 2020, Nghị quyết số 04-
NQ/TU ngà 13/10/2011;
36. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2015), Đại hội Đại biểu Đ ng bộ tỉnh Qu ng
Ngãi, lần thứ XIX, Nghị qu ết số 01-NQ/ĐH ngà 23/10/2015;
37. Ủy ban Dân tộc (2015), Kết qu rà soát chính sách dân tộc gi i đoạn
2011 – 2015 và đ xu t chính sách trung hạn gi i đoạn 2016 – 2020,
Báo cáo số 05/11/2015;
38. Ủy ban Dân tộc (2013), Báo cáo số 97/BC-UBDT ngày 07/11/2013
Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008
của Thủ tướng Chính phủ Về phát huy vai trò của người có uy tín trong
đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc,
Hà Nội.
39. Ủy ban Dân tộc (2015), Báo cáo số 56/BC-UBDT, ngày 10/6/2015 Sơ
kết Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn
và đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2013-2016”.
40. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Chuẩn kết qu đi u tr , rà soát hộ
nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2014 tỉnh Qu ng Ngãi, Qu ết định số
259/QĐ-UBND ngà 27/02/2015;
41. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Tổng kết công tác chính sách dân tộc
gi i đoạn 2011 – 2015, Báo cáo số 182/BC-UBND ngà 26/8/2015;
42. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), V kết qu thực hiện công tác bồi
th ờng, hỗ tr , tái định c các dự án thủ l i, thủ điện tr n đị bàn
tỉnh Qu ng Ngãi, Báo cáo số 300/BC-UBND ngà 20/10/2015;
43. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Tổng kết 05 thực hiện Nghị định số
05/2011/NĐ-CP củ Chính phủ gi i đoạn 2011 – 2015, Báo cáo số
345/BC-UBND ngà 17/11/2015;
44. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015) Tổng kết Ch ơng trình 135, gi i đoạn
2011 – 2015, Báo cáo số 382/BC-UBND, ngà 11/12/2015;
45. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Đánh giá kết qu thực hiện Ch ơng
trình mục ti u quốc gi gi m nghèo b n vững gi i đoạn 2011 – 2015,
Báo cáo số 01/BC-UBND, ngà 06/01/2016.
46. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số v n đ giáo dục
pháp luật ở mi n núi. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo
dục pháp luật có hiệu qu trong một số dân tộc ít ng ời, đề tài khoa học
cấp Bộ, Hà Nội.