VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI TRỌNG AN
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI TRỌNG AN
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Bùi Trọng An
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ................. 7
1.1. Khái quát về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ...... 7
1.2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ...................................................................................... 11
1.3. Những nguyên tắc, nội dung và chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ...................................................................................... 14
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt ................................................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
LÂM ĐỒNG GIAI ĐOẠN 2014-2018 ................................................................... 26
2.1. Thực trạng tình hình và nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .................................... 26
2.2. Thực trạng các cơ sở để thiết lập hệ thống phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .............................. 27
2.3. Thực trạng và giải pháp đã được áp dụng trong phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .............. 47
2.4. Những tồn tại, khuyết điểm trong phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và nguyên nhân ..................... 51
CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
LÂM ĐỒNG ............................................................................................................ 55
3.1. Dự báo về tình hình và yêu cầu tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ............. 55
3.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .......................... 58
3.3. Tăng cường nguồn lực phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ............................................................ 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CTTP Cấu thành tội phạm
PNTP Phòng ngừa tội phạm
THTP Tình hình tội phạm
TAND Tòa án nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình các tội xâm phạm
2.1 sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng 28
giai đoạn 2014 – 2018
Tỷ lệ các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt so với
2.2 tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 29
– 2018
Mức độ phạm tội theo các tội danh thuộc nhóm các tội xâm
2.3 phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm 30
Đồng giai đoạn 2014 – 2018
Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất 2.4 31 chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018
Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất 2.5 32 chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018
Cơ cấu hình phạt do Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các
2.6 tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh 34
Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Cơ cấu về giới tính của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất 2.7 35 chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Cơ cấu xét theo độ tuổi của người phạm các tội xâm phạm sở
2.8 hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai 36
đoạn 2014 - 2018
Cơ cấu trình độ học vấn của người phạm các tội xâm phạm sở
2.9 hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai 37
đoạn 2014 - 2018
Cơ cấu xét theo thời gian xảy ra các tội xâm phạm sở hữu có
2.10 tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 39
2014 - 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lâm Đồng là vùng đất phía Nam Tây nguyên, nằm ở độ cao trung bình từ
800 – 1000m so với mặt nước biển. Với diện tích tự nhiên 9.765 km2, Lâm Đồng
nằm trên ba cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông, suối lớn.
Gắn với khu vực kinh tế động lực phía Nam, Lâm Đồng có 12 đơn vị hành
chính: 02 thành phố (Đà Lạt, Bảo Lộc) và 10 huyện. Thành phố Đà Lạt, trung tâm
hành chính-kinh tế-xã hội của tỉnh, về hướng Bắc cách thủ đô Hà Nội 1.500 km, về
hướng Nam cách thành phố Hồ Chí Minh 320 km và về hướng Đông cách cảng
biển Nha Trang 210 km. Với tổng chiều dài 1.744 km, hiện nay hệ thống giao thông
đường bộ đã đến được tất cả các xã và cụm dân cư. Các tuyến quốc lộ 20, 27, 28 nối
liền Lâm Đồng với vùng Đông Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh thuộc
vùng Tây nguyên, các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, tạo cho Lâm Đồng có mối
quan hệ kinh tế-xã hội bền chặt với các vùng, các tỉnh trong khu vực. Cảng hàng
không Liên Khương nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 30 km đang được nâng
cấp thành sân bay quốc tế với đường băng dài 3.250 m có thể tiếp nhận các loại máy
bay tầm trung như A.320, A.321 hoặc tương đương.
Dân số toàn tỉnh đến cuối năm 2017 là 1.258.261 người (Niên giám Thống kê
năm 2017). Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 trường đại học tổng hợp, 02 trường cao
đẳng sư phạm, 01 trường cao đẳng kinh tế-kỹ thuật, 01 trường trung học y tế, 02
trường dạy nghề, hàng năm cung cấp hàng ngàn lao động có tay nghề cho địa
phương; Nhiều trung tâm nghiên cứu của Trung ương đóng trên địa bàn như: Viện
nghiên cứu hạt nhân, Trung tâm nghiên cứu nông lâm nghiệp, Trung tâm nghiên
cứu cây rau, Phân viện sinh học… góp phần đáng kể trong việc ứng dụng nghiên
cứu khoa học kỹ thuật vào sản xuất của tỉnh.
Với lợi thế khí hậu thuận lợi và địa bàn rộng lớn (thứ 7 trong cả nước) trong
những năm qua tỉnh không ngừng phát triển mọi mặt về đời sống, kinh tế xã hội.
1
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt phát triển tích cực thì cũng kéo theo một số tệ nạn
xã hội phát sinh; biến động về thành phần dân cư và trật tự, an toàn xã hội có những
diễn biến phức tạp, trong đó phải kể đến tội phạm xâm phạm sở hữu, đặc biệt là các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có xu hướng gia tăng trong những
năm gần đây. Đặc biệt, tội phạm trộm cắp tài sản, cướp, cướp giật tài sản còn chiếm
tỉ lệ lớn trong cơ cấu của tình hình tội phạm. Phương thức thực hiện tội phạm nói
chung ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thủ đoạn thực hiện ngày càng manh động, liều
lĩnh. Trong trong vòng 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, TAND tỉnh Lâm Đồng
đã xét xử 1.729 vụ án với 2.877 bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, chiếm 45,2% tổng số vụ án và 45,9% tổng số bị cáo.
Trong những năm qua địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt
trong đảm bảo trật tự an toàn xã hội, song tình hình tội phạm nói chung, trong đó có
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm trọng. Vì thế, cần phải nghiên cứu cơ bản và
chuyên sâu tình hình này theo hướng phòng ngừa, tức là việc phòng ngừa nhóm tội
phạm này phải được nghiên cứu trên cơ sở khoa học chuyên ngành tội phạm học.
Chính vì lẽ đó học viên đã chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” để nghiên cứu sâu về
thực trạng phòng ngừa và qua đó đề xuất thêm những giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt
động phòng ngừa nhóm tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu
a. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa
học sau đây đã được nghiên cứu:
- “Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb.
Chính trị quốc gia, 1994;
- “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện
Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
2
nhân dân, tái bản năm 2013;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- Giáo trình “Tội phạm học Việt Nam” do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ đạo
biên soạn Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Chương – Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2010;
- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, 2004…2010;
- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an
nhân dân, 2002, 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS. Phạm
Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta
hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành, Phạm Văn Tỉnh,
Đào Bá Sơn, Nxb. CAND, 2010;
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm
Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm 2013.
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân người
phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án nhân dân, Công an
nhân dân trong những năm gần đây.
b. Tình hình nghiên cứu cụ thể
Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, các công trình
sau đây đã được tham khảo:
- Lê Thị Hồng (2013) “Tình hình tội phạm ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay”,
Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Quốc Hùng (2014) “Tội phạm trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh
3
Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Hoàng Thị Hoa (2016), “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Lê Hữu Nhân (2016), “Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Tô Lan Phương (2016), “Phòng ngừa tội phạm trộm cắp trên địa bàn quận Tân
Bình”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Trên cơ sở nguồn lý luận chung đã được các tác giả nghiên cứu và thực hiện
trong những năm gần đây cũng như những luận văn, luận án nêu trên học viên xin
được kế thừa và tham khảo để thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hướng đến xây dựng hệ thống giải pháp
phòng ngừa hữu hiệu đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Nghiên cứu tài liệu: Bao gồm các văn bản của Đảng, chính quyền ở Trung
ương và địa phương, các văn bản pháp luật và tài liệu khoa học, nhất là tài liệu
chuyên ngành tội phạm học.
- Nghiên cứu thực tế: Bao gồm số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết năm
của các cơ quan tư pháp, thu thập hồ sơ, bản án cụ thể.
- Nghiên cứu sáng tạo, bao gồm những việc cụ thể sau:
+ Khái quát những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm, áp dụng
cho phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt;
+ Nghiên cứu làm rõ thực trạng tình hình phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ năm 2014-
4
2018, từ thực trạng nhận thức về phòng ngừa tội phạm cho đến thực trạng xây dựng
và áp dụng các giải pháp; tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt và nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực này.
+ Kiến nghị giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu được xác định là tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và các hiện tượng, quá trình kinh tế - xã
hội và pháp lý khác trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng để tạo cơ sở cho việc thiết lập các
giải pháp phòng ngừa nhóm tội phạm này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc
chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”;
- Về tội danh, đề tài luận văn đề cập đến các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, được quy định từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), có cập nhật những Điều luật tương ứng trong
BLHS hiện hành (từ Điều 168 đến Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017);
- Về thời gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế từ năm 2014 đến năm 2018,
gồm số liệu thống kê của Tòa án nhân dân và 100 bản án hình sự sơ thẩm về các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn
đề tội phạm trong xã hội, cũng như về phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Biện
5
chứng; lô-gich; kế thừa; hệ thống; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích
tổng hợp; phương pháp so sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp mô tả bằng
bảng, biểu để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn hơn lý luận tội phạm
học về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức
tham khảo, vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức
cho quần chúng nhân dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm, đặc biệt là trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
- Luận văn thực hiện thành công còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
và nghiên cứu trong các trường Công an nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014-2018
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu cso
6
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái quát về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
1.1.1. Về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật
hình sự Việt Nam
Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.
Bảo vệ quyền sở hữu về tài sản là bảo vệ các quyền nói trên và hành vi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền sở hữu về tài sản được quy định trong BLHS năm
2015, hợp thành nhóm các tội xâm phạm sở hữu.
Trong BLHS năm 1999 các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được
quy định tại chương XIV từ Điều 133 đến Điều 140 BLHS Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi bổ sung năm 2009), bao hàm các dấu hiệu của tội phạm nói chung đã được ghi
nhận ở khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 và được hiểu một cách khái quát là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi luật hình sự qui định, thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến quan hệ sở hữu
được BLHS qui định.
Trong BLHS năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017, các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định tại các điều từ Điều 168 đến Điều 175.
Nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và phòng ngừa
tình hình các tội phạm này, học viên chủ yếu căn cứ vào BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
Để nhận thức rõ hơn về dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu thì
trước hết cần nhận thức về dấu hiệu đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu.
- Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
7
Các tội xâm phạm sở hữu về cơ bản là xâm phạm và làm mất đi quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản. Việc làm mất đi một
quyền, hai quyền hay vả ba quyền này còn tùy thuộc vào loại tội mà người phạm tội
thực hiện.
Vì là xâm phạm sở hữu nên đối tượng xâm phạm sở hữu là tài sản, Điều 105
Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Khi nghiên cứu đối tượng tác động trong chương Các tội xâm phạm sở hữu
của Bộ luật Hình sự, cần chú ý:
Một là, tài sản là tài sản hiện hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
Hai là, tài sản có thể là tài sản của cá nhân, của Nhà nước, hoặc của cơ quan,
tổ chức.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện ở các dạng
sau đây:
Hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện ở sự cố ý chuyển tài sản của chủ thể khác
thành tài sản của mình một cách trái pháp luật.
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi chiếm tài sản của chủ thể khác
được thể hiện bằng sự chuyển dịch tài dẫn đến chủ thể quản lý tài sản đã mất khả năng
thực tế thực hiện quyền chiếm hữu đối với tài sản. Ở đây, chủ thể phạm tội khẳng định
sự mong muốn chiếm hữu tài sản không phải của mình bằng việc tỏ những thái độ định
đoạt với tài sản kể trên.
Các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm như công cụ, phương
tiện, thời gian, địa điểm... không phải là dấu hiệu bắt buộc, trừ trường hợp luật định ở
những cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
- Mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu
Đa số các tội xâm phạm sở hữu được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích và động cơ
phạm tội có thể là vụ lợi nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
tội phạm.
- Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu
8
Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, các tội phạm xâm phạm sở hữu đều
do các chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, đạt độ tuổi theo luật định,
cụ thể là đối với các tội phạm quy định từ Điều 168 đến Điều 180 Bộ luật Hình
sự 2015.
Việc nhận thức đúng các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở
hữu và cách phân loại giúp cho việc xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm lẫn
giữa các tội danh; đặc biệt là giúp các cơ quan có thẩm quyền trong điều tra chứng
minh tội phạm được chính xác, bảo đảm xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bên cạnh các dấu hiệu
chung thì cũng có những dấu hiệu có một số đặc trưng riêng, cụ thể:
- Về khách thể của tội phạm:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài
sản thuộc sở hữu của người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm
trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
- Về hành vi khách quan thuộc mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội được
luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người phạm
tội qua 02 hình thức thể hiện là hành động và không hành động.
Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt có hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được (đối với tội cướp tài sản); hành vi bắt cóc
con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản (đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);
hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần người khác (đối với tội
cưỡng đoạt tài sản); hành vi chiếm đoạt (đối với các tội cướp giật tài sản, công nhiên
chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, thủ đoạn,
cách thức thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là
dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau
- Về dấu hiệu lỗi, mục đích thuộc mặt chủ quan của tội phạm:
9
Tất cả các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội
nhưng vẫn mong muốn thực hiện.
1.1.2. Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Dưới góc độ của tội phạm học, tình hình tội phạm xảy ra nói chung và đối
với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng được nhìn nhận
trong tổng thể cái chung của định lượng, định tính có yếu tố lịch sử, địa lý gắn với
quá trình hình thành, tồn tại của tình hình đó.
Theo PGS. TS Phạm Văn Tỉnh đưa ra khái niệm tình hình tội phạm thì:
“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, mang tính lịch sử cụ thể và
pháp lý hình sự, có tính giai cấp và được biểu hiện thông qua tổng thể các hành vi
phạm tội cùng các chủ thể thực hiện các tội phạm đó trong một đơn vị hành chính
lãnh thổ nhất định và trong một thời gian cụ thể nhất định” [33, tr.10].
Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo đó được
xem là tổng thể các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra, gồm
các vụ đã phát hiện và các vụ chưa phát hiện, trên một đơn vị hành chính và trong
một thời gian cụ thể nhất định.
Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm nằm trong tình hình
tội phạm nói chung nên có những đặc điểm của tình hình tội phạm nói chung. Ngoài
ra, tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cũng có những đăc
trưng riêng gắn với tình hình kinh tế, văn hóa, địa lý cụ thể.
1.1.3. Nguyên nhân của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh khẳng định rằng, “Nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong
hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như
là hậu quả của mình” và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo
thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó”.[50,tr. 87-88]
GS.TS. Võ Khánh Vinh gọi là ba khâu cơ bản: “Quá trình hình thành tính
10
động cơ của tội phạm; Việc kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội và việc trực tiếp
thực hiện tội phạm”.[50, tr. 114]
Như vậy nguyên nhân của tình hình tội phạm phải là sự tác động qua lại giữa
các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm - sinh lý - xã hội tiêu
cực thuộc cá nhân con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã dẫn
tới việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật hình sự đã quy
định là tội phạm.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì nguyên nhân
chính là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài
với các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân ở những tình huống, hoàn
cảnh nhất định đã dẫn đến việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật
hình sự quy định là các tội XPSH CTCCĐ.
1.2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.2.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Phòng ngừa tội phạm hay phòng ngừa tình hình tội phạm dưới góc độ lý luận
của tội phạm học bao gồm việc phòng ngừa ở nhiều cấp độ, từ phòng ngừa tình hình
tội phạm, loại tội phạm đến phòng ngừa các tội phạm cụ thể.
Theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì: “Phòng ngừa tội phạm
là không để tội phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để cho con người
sống trong xã hội phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của luật
pháp. Nếu con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu
hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp
thời, điều tra khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp
quản lý, giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội”
[48, tr.147].
Theo quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh thì: “Phòng ngừa tình hình tội
phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước- xã hội
11
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa
(làm yếu; hạn chế) chúng, bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội
phạm. Trong đấu tranh với tình hình tội phạm có hai phương hướng liên kết chặt
chẽ với nhau, đó là phòng ngừa và phát hiện điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm,
đảm bảo người phạm tội phải chịu các hình phạt thích đáng, tương xứng với hành
vi phạm tội của mình và được giáo dục, cải tạo để trở thành một công dân có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Các biện pháp pháp lý- hình sự của cuộc
đấu tranh với tình hình tội phạm có vị trí, vai trò quan trọng trong những trường
hợp chuẩn bị và thực hiện các tội phạm cụ thể. [49, tr.154-155].
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể rút ra khái niệm phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như sau: “Phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân thực hiện các biện pháp nhằm khắc
phục, kìm hãm các nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt và bằng cách đó làm giảm dần và kiểm soát được tình hình,
từng bước loại trừ các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ra khỏi đời
sống xã hội”
1.2.2. Mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt là một nội dung trong mục đích PNTP nói chung và cùng hướng vào việc ngăn
chặn, từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Xác định mục đích phòng ngừa cần tập trung hướng vào việc ngăn chặn các
nguyên nhân, điều kiện là mầm mống nảy sinh tội phạm. Việc ngăn chặn bao gồm
cả việc hạn chế tới mức thấp nhất có thể các yếu tố tiêu cực tác động lẫn nhau thúc
đẩy quá trình hình thành tội phạm. Việc triệt tiêu hoàn toàn các tội phạm cũng như
nguyên nhân, điều kiện hình thành tội phạm là điều không thể thực hiện trong xã
hội còn giai cấp và các nhóm xã hội, nhưng Nhà nước và xã hội có thể hạn chế,
kiểm soát được các yếu tố đó.
12
Mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt cũng được quy định bởi mục đích chung của hoạt động phòng ngừa tội phạm là
ngăn chặn, tức là từng bước hạn chế, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khỏi đời sống xã hội. [49, tr.154].
1.2.3. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt được phân tích theo hai phương diện lý luận và thực tiễn, gồm:
- Ý nghĩa lý luận: Tình hình tội phạm xuất phát từ sự tác động qua lại của
nhiều yếu tố tiêu cực trong xã hội, gắn liền với địa bàn, thời gian lịch sử cụ thể. Tội
phạm học Việt Nam, thừa nhận tình hình tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại
khách quan, và do những con người bình thường, không phải bẩm sinh phạm tội,
gây ra. Trong đó nhân thân người pham tội cũng được coi như là một yếu tố góp
phần tác động vào tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt. Phòng ngừa tình hình tôi phạm trên cơ sở làm rõ các
yếu tố tiêu cực trong xã hội, trong mỗi cá nhân để từ đó ngăn chặn sự tiến triển các
yếu tố đó và từ đó mà hạn chế, kiểm soát được tình hình tội phạm. Như vậy trên
phương diện lý luận, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt vừa giúp hạn chế, kiểm soát được tình hình các tội chiếm đoạt tài sản,
vừa giúp hạn chế, kiểm soát tình hình tội phạm nói chung.
- Ý nghĩa thực tiễn: thực tiễn cho thấy tội phạm gây ra những thiệt hại to lớn
cho kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền con người. Phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng đem
lại nhiều lợi ích cả về kinh tế lẫn văn hóa, xã hội và đảm bảo quyền con người trong
các lĩnh vực này. Trước hết là việc tiết kiệm được kinh phí cho việc điều tra, xét xử,
thi hành án hàng năm. tiếp đến là giảm tải áp lực công việc cho các cơ quan thực thi
pháp luật và bên cạnh đó, phòng ngừa tốt tạo điều kiện thuận lợi cho ổn định chính
trị, an ninh quốc gia và phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo tốt nhất quyền con
13
người trong môi trường không còn (hoặc giảm thiểu) tội phạm.
1.3. Những nguyên tắc, nội dung và chủ thể phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.3.1. Những nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Trên cơ sở khoa học về phòng ngừa tội phạm, trong nội dung luận văn này
tác giả xin được đề cập đến các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
1.3.1.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cũng như mọi chủ
thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam với lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng
Hồ Chí Minh làm sợi chỉ đỏ dẫn đường. Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thông qua chủ trương, chính
sách và tổ chức hoạt động thực tiễn với mục đích ngăn chặn, tiến tới loại bỏ các tội
trên ra khỏi đời sống xã hội.
1.3.1.2. Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói chung và việc áp dụng các biện pháp
phòng ngừa nói riêng phải có cơ sở pháp luật, đảm bảo mọi biện pháp đều hợp pháp
và hợp hiến. Các chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa cũng phải tuân thủ
nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành các
hoạt động phòng ngừa đó.
1.3.1.3. Nguyên tắc khoa học
Nội dung của nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thể hiện ở chỗ các biện pháp
phòng ngừa, tổ chức hệ thống phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa phải được xây
dựng có khoa học, tức là có cơ sở lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực
14
tiễn đấu tranh với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong từng thời
kỳ, ở từng địa bàn nhất định.
1.3.1.4. Nguyên tắc đại chúng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì quần chúng là sức mạnh vĩ
đại, là người chủ của xã hội. Chỉ khi có quần chúng được lôi cuốn tham gia vào
hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt nói riêng thì mới có thể hoàn thành mục đích của phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc đại chúng chính là việc lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân
dân lao động, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần và toàn xã hội tham gia vào
hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Nguyên tắc đó đòi hỏi các cơ quan chuyên môn phải phát huy tinh thần chủ động,
tích cực sáng tạo của mọi chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa, để tạo ra một
hoạt động rộng lớn trong xã hội.
1.3.1.5. Nguyên tắc quốc tế (Hợp tác quốc tế và phù hợp với quan điểm quốc
tế về phòng ngừa tội phạm)
Nguyên tắc quốc tế thể hiện ở chỗ các hoạt động phòng ngừa tội phạm phải
phù hợp với quan điểm của quốc tế về phòng ngừa tội phạm và xu hướng hoạt động
phòng ngừa của các nước trên thế giới, các chủ thể tiến hành phòng ngừa tội phạm
không ngừng nâng cao hợp tác quốc tế, thể hiện qua việc ký kết và thực hiện các
hiệp định hợp tác song phương và đa phương, tổ chức học tập kinh nghiệm phòng
chống tội phạm của các nước bạn.
1.3.2. Nội dung của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nằm
trong nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, vì vậy nội dung của hoạt
động này đi từ lý luận chung về phòng ngừa tình hình đã được lý luận tội phạm học
đề cập. Nói một cách ngắn gọn khác, phòng ngừa tội phạm là một bộ phận cấu
thành của lý luận tội phạm học, đồng thời là hoạt động của toàn xã hội trong việc
tìm ra các nguyên nhân phát sinh ra tội phạm khắc phục, cũng như để ngăn chặn,
15
đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Nội dung phòng ngừa được xây dựng gắn với thực trạng về tình hình các tội
liên quan và tình hình phòng ngừa thực tế trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai
đoạn 2014 – 2018, từ thực trạng nhận thức về công tác phòng ngừa cho đến thực
trạng các biện pháp đã áp dụng , hiệu quả tới đâu, các tồn tại hạn chế và nguyên
nhân của tồn tại, hạn chế đó.
1.3.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Để công tác phòng ngừa tội phạm được thực hiện một cách có hiệu quả thì
quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng và Nhà nước là xem công tác này như là
nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
Trong hoạt động phòng ngừa thì chủ thể được xác định là những tổ chức và
cá nhân tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Như vậy, các tổ chức tham gia
hoạt động này như các tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan chấp
hành của Nhà nước từ trung ương đến địa phương (các cơ quan quản lý hành chính
và quản lý kinh tế), các cơ quan bảo vệ pháp luật và các tổ chức kinh tế xã hội, các
tập thể lao động và công dân là chủ thể thực hiện phòng ngừa tội phạm.
Trong các BLHS, BLTTHS, trong các luật về tổ chức các cơ quan TAND,
VKSND, CAND cũng như các văn bản luật, dưới luật khác có liên quan đến công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta đều cụ thể hóa nhiệm vụ phòng ngừa
tội phạm nhằm tăng cường lực lượng, sức mạnh trong thực hiện mục tiêu chung là
hạn chế, đẩy lùi, kiểm soát được tình hình tội phạm.
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng rất phong phú và có thể phân loại với
các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào mục đích phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có thể chia biện pháp phòng ngừa các tội
phạm này thành hai loại: Một là các biện pháp ngăn chặn tình hình các tội xâm
16
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; Hai là các biện pháp đẩy lùi tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoat.
1.4.1. Các biện pháp ngăn chặn tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Các biện pháp ngăn chặn tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tập trung trong 03 nội dung là ngăn chặn tình hình tội phạm tiền năng,
tội phạm đang diễn ra và ngăn chặn tái phạm.
1.4.1.1. Ngăn chặn tội phạm tiềm năng
Tiềm năng có thể hiểu là khả năng tiềm ẩn và có thể được bộc phát khi gặp
các điều kiện thích hợp. Như vậy, khi nói về tội phạm tiềm năng có thể hiểu là các
tội phạm có thể xảy ra khi gặp các điều kiện thích hợp. Trên thực tế khả năng tội
phạm xảy ra đã có nhưng để xảy ra cần có thêm những yếu tố thuộc điều kiện tác
động. Do đó, các biện pháp phòng ngừa là các biện pháp kiểm soát xã hội và quản
lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của các hành vi phạm tội tiềm năng, người phạm
tội tiềm năng và nạn nhân tiềm năng.
Theo đó các biện pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng bao gồm:
Một là, nhóm biện pháp tác động vào hành vi phạm tội tiềm năng. Các biện
pháp này được xem là các biện pháp tác động vào quá trình chuẩn bị phạm tội, thực
hiện hành vi phạm tội thông qua các hành vi tiềm năng như chuẩn bị công cụ
phương tiện, tập trung nhiều đối tượng xấu vào khu vực, thường xuyên quan sát một
địa điểm... Các cơ quan chuyên trách, các tổ chức xã hội và toàn bộ người dân trong
xã hội đều là chủ thể của quá trình tác động với nhiều biện pháp khác nhau như
quản lý các công cụ, phương tiện có thể gây án một cách chặt chẽ, chủ động ngăn
chặn hoặc báo công an, chính quyền địa phương khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm.
Hai là, nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm năng. Cũng như việc
tác động vào hành vi phạm tội tiềm năng, nhóm biện pháp này cũng đòi hỏi sự phối
hợp và chung tay của các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội và mọi công dân để đạt
được hiệu quả tốt nhất. Những người trên thực tế tuy chưa phạm tội nhưng do công
việc, điều kiện sống, sinh hoạt có nhiều khả năng trở thành người phạm tội nếu
17
không được quản lý, giáo dục thích hợp. Những người này gọi là người phạm tội
tiềm năng (tiềm tàng). Cụ thể, đó có thể là những người có các đặc điểm như nghiện
ngập, hút chích, nghề nghiệp không có hoặc không ổn định, vui chơi, tiêu xài quá
khả năng tài chính, dễ bị kích động, đã từng phạm tội... Những người này có trở
thành người phạm tội hay không cũng phụ thuộc một phần vào khả năng kiểm soát
và điều chỉnh hành vi cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy đa phần khả năng
kiểm soát hành vi của những người này thường kém do bị tác động từ sự lôi kéo, từ
nhu cầu lợi ích không chính đáng, tâm lý không ổn định. Do đó, đây là những người
cần được điều chỉnh, kiểm soát trong công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
Ba là, nhóm biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm năng của tội phạm.
Những người có nhiều khả năng trở thành nạn nhân của tội phạm (người già, phụ
nữ, trẻ em, người có vấn đề sức khỏe, tâm lý...) được xem là nạn nhân tiềm năng
của tội phạm. Trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì nạn
nhân tiềm năng bên cạnh các hạn chế về thể chất, tinh thần còn có thể là những
người có thói quen phô trương tài sản, sở hở, chủ quan lơ là trong bảo vệ tài sản, có
trình độ văn hóa hoặc hiểu biết pháp luật hạn chế. Việc tập trung áp dụng các biện
pháp phòng ngừa vào nhóm người này cũng là một trong các giải pháp để hạn chế
tội phạm xảy ra, một trong những nội dung của phòng ngừa tội phạm.
1.4.1.2. Ngăn chặn tội phạm đang xảy ra
Ngăn chặn tội phạm là một bộ phận quan trọng của phòng ngừa tội phạm,
bao gồm cả ngăn chặn tội phạm tiềm ẩn và cả tội phạm đang diễn ra. Nếu như ở
ngăn chặn tội phạm tiềm ẩn là không để cho tội phạm có điều kiện xảy ra trên thực
tế thì ở ngăn chặn tội phạm đang diễn ra là việc không để cho tội phạm được thực
hiện đến cùng và hạn chế tối đa hậu quả, thiệt hại.
Ngăn chặn tội phạm đang diễn ra được thể hiện ở hai quá trình:
Một là, ngăn chặn hành vi phạm tội trên thực tế đang diễn ra. Việc ngăn chặn
chính là chặn đứng lập tức hành vi trái pháp luật, hạn chế tối đa thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng con người, các loại tài sản. Những biện pháp ngăn chặn ở trường
18
hợp này là sự phản ứng tức thì của xã hội đối với hành vi phạm tội đang diễn ra. Nó
phải được thực hiện bởi các chủ thể chuyên nghiệp như Công an nhân dân, lực
lượng tuần tra, cơ quan, trực ban... và các chủ thể không chuyên nghiệp khác, tức là
mọi người dân sở tại; trong đó lực lượng Công an nhân dân đóng vai trò quan trọng.
Bên cạnh đó là việc huy động được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và của toàn dân vào công tác đấu tranh là việc làm hết sức cần thiết.
Nhân dân có thể tham gia hỗ trợ qua việc tố giác tội phạm qua số điện thoại đường
dây nóng (113, số điện thoại công an gần nhất) và trong nhiều trường hợp người
dân phối hợp hoặc tự mình ngăn chặn, thậm chí bắt giữ người phạm tội quả tang
giao cho cơ quan tư pháp. Để nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm cần có sự động viên khích lệ, khen thưởng kịp thời và vinh danh các cá nhân
tiêu biểu.
Hai là, ngăn chặn việc lặp lại hoặc thực hiện nhiều lần của tội phạm. Để làm
được điều này cần có sự phát hiện, xử lý hành vi vi phạm kịp thời. Cũng như ngăn
chặn tội phạm tiềm ẩn và hành vi phạm tội đang diễn ra, biện pháp này đòi hỏi chủ
thể tham gia bên cạnh lực lượng chuyên trách là lực lượng toàn dân. Cùng những
biện pháp như thanh tra, kiểm tra, tuần tra, kiểm toán vốn là những biện pháp
chuyên trách, thì sự phát giác, tố giác, phối hợp của người dân vẫn luôn giữ vai trò
quan trọng. Thực hiện được việc phát hiện tội phạm bằng “tai, mắt” của nhân dân
phải là mục tiêu cần thực hiện của chính sách phòng ngừa tội phạm.
1.4.1.3. Ngăn chặn tái phạm
Để ngăn chặn tái phạm đối với những người đã chấp hành xong hình phạt,
giúp họ trở lại tái hòa nhập cộng đồng đòi hỏi nhiều biện pháp tác động khác nhau
với sự kết hợp lực lượng của nhiều cơ quan, ban ngành và nhân dân, nhất là nơi địa
phương người phạm tội sinh sống và làm việc. Các biện pháp ngăn chặn tái phạm
gồm một số biện pháp cơ bản sau đây:
- Tuyên truyền, vận động, cảm hóa: Đây được xem là những biện pháp ưu
tiên hàng đầu trong ngăn chặn tái phạm, một biện pháp mang tính nhân văn cao.
Thông qua biện pháp này nhằm giáo dục, loại bỏ, hạn chế các phẩm chất và tâm lý
19
tiêu cực của người phạm tội, hướng đến xây dựng khả năng tự kiểm soát hành vi
của mình. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả nếu người thực hiện đứng dưới góc
độ nạn nhân học để xem xét và giáo dục đối tượng, từng bước giúp người phạm tội
hiểu và chuyển biến nhận thức, tình cảm pháp luật đúng hướng.
- Giáo dục cải tạo: Việc cải tạo bao giờ cũng đi đôi với giáo dục. Cải tạo
không chỉ nhằm vào trừng phạt những hành vi vi phạm của người phạm tội mà
thông qua các hoạt động cải tạo xây dựng được ý thức về lỗi của người vi phạm.
Cán bộ thực hiện công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội cần có cái nhìn đúng
đắn về sự khác nhau giữa trừng phạt để giáo dục với trừng phạt để hủy hoại nhân
cách. Do đó trong cải tạo cũng phải đồng thời chú ý tới những chuyển biến tình
cảm, tâm tư, nguyện vọng của người phạm tội.
- Tái hòa nhập cộng đồng: Tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động thực thi các
biện pháp giúp người phạm tội trở thành người lương thiện sau khi được trở về với
xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho những người đã chấp hành
xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình thường đồng thời giáo dục họ trở
thành những công dân có ích cho xã hội là mục đích cuối cùng của tái hòa nhập
cộng đồng. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm trong việc giúp đỡ người chấp
hành xong án phạt những điều kiện thuận lợi để họ có thể hóa nhập với cuộc sống
hiện tại như: nhanh chóng tiếp nhận người chấp hành xong bản án của Tòa án khi
họ trở về địa phương nơi cư trú; phân công cụ thể các cá nhân, tổ chức theo dõi,
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ được tái hòa nhập cộng đồng; có chính
sách đào tạo nghề và giới thiệu việc làm để giúp họ có công ăn việc làm ổn định để
trở thành người có ích cho xã hội; vận động họ tích cực tham gia phòng, chống tội
phạm trên địa bàn; tuyên truyền để quần chúng nhân dân không miệt thị, phân biệt
đối xử đối với người chấp hành xong bản án, mà coi đó là những hành vi nhất thời
phạm tội, kịp thời động viên và giúp đỡ họ và gia đình họ để họ hoàn lương, sống
có ích cho xã hội.
1.4.2. Các biện pháp đẩy lùi tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
20
Nếu như nắm được hiện trạng của tình hình tội phạm là cơ sở để xây dựng
các biện pháp ngăn chặn tội phạm thì nắm được nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm là cơ sở để xây dựng các biện pháp đẩy lùi tội phạm.
Vì vậy, trong công tác xây dựng các biện pháp đẩy lùi tội phạm phải xác
định rõ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trong xã hội, theo đó, đi vào giải
quyết hai vấn đề:
Một là giải quyết, tác động đến sự tương tác giữa các yếu tố được xem là
nguyên nhân, điều kiện phát sinh hành vi tiêu cực với chủ thể tội phạm;
Hai là giải quyết vấn đề nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của con người
theo pháp luật.
Từ việc giải quyết hai vấn đề này tạo ra môi trường lành mạnh, cuộc sống ổn
định cho nhân dân, là cơ sở ban đầu cho việc đẩy lùi tội phạm. Trên cơ sở đó cần
thực hiện các biện pháp cơ bản như:
- Biện pháp về chính trị:
Các biện pháp về chính trị trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 trước hết thể hiện ở việc địa phương cần thực
hiện có hiệu quả các Chỉ thị số 48-CT/TW, Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc
hội, Quyết định 623/QĐ-TTg và thực hiện nghiêm túc các kế hoạch phòng chống
tội phạm. Trong công tác thực hiện các chủ trương của Đảng cần phát huy cao hiệu
quả việc nêu gương, nhất là những người lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị, và mỗi
đảng viên trước quần chúng nhân dân. Các biện pháp chính trị về cơ bản vẫn phải
tập trung vào phát huy sức mạnh của các cấp ủy Đảng, tập thể các ban, ngành, các
tổ chức đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
- Biện pháp về kinh tế:
Các biện pháp về kinh tế tập trung vào công tác xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp
khoảng cách thu nhập trong xã hội và sự chênh lệch kinh tế giữa các khu vực của
địa phương theo hướng phát triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Kinh tế đảm bảo là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng và thực hiện các chính
sách về anh ninh xã hội, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bện cạnh đó cần
21
chú trọng đảm bảo thực hiện quyền con người, phát huy công bằng xã hội, tạo cơ
hội kinh doanh và việc làm cho nhân dân trên địa bàn.
Thực tế cho thấy những bất ổn về tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội có
những nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế và công bằng xã hội. Ở
những nơi lợi ích kinh tế được phân bố không công bằng là những nơi tiềm ẩn
những bất ổn về tình hình an ninh, trật tự.
Tuy nhiên việc thực hiện các giải pháp về kinh tế cũng cần có những lộ trình
và kế hoạch cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ và khoa học trong thu hẹp khoảng cách
trong thu nhập và phát triển giữa các vùng trên địa bàn.
- Biện pháp về dân sự - xã hội:
Trong lĩnh vực xã hội, Hiến pháp năm 2013 đã đề ra cơ sở hiến định để công
dân bảo đảm có được thu nhập tối thiểu nhằm thoát khỏi tình trạng nghèo đói khi
không có việc làm hoặc không có thu nhập và cũng là cơ sở để Nhà nước xây dựng
hệ thống duy trì thu nhập do Nhà nước quản lý, bảo đảm cho công dân được hưởng
quyền về an sinh xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết
của sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của
mọi người dân. Đây là tiền đề quan trọng để từng bước đẩy lùi tình hình tội phạm
nói chung trong đó có các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ra khỏi đời
sống xã hội.
- Biện pháp về văn hóa - giáo dục:
Đầu tư cho giáo dục được xem là đầu tư cho sự phát triển, cho tương lai và là
quốc sách hàng đầu. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền và
nghĩa vụ học tập” (Điều 39); “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư
và thu hút nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm
giáo dục tiểu học là bắt buộc. Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo
dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp; thực hiện chính
sách học bổng, học phí hợp lý. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục vùng miền núi,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
22
biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật
và người nghèo được học văn hóa và học nghề” (Điều 61).
Về văn hóa, Hiến pháp quy định mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Ðiều
41); đồng thời, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Nhà nước và xã hội chăm lo xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin
đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu
nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân (Ðiều 60). Như
vậy, nếu làm đúng và thực hiện được mục tiêu mà Hiến pháp đã đề ra thì rõ ràng
tình hình tội phạm không còn điều kiện để gia tăng mà sẽ dần dần bị kìm hãm và
loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.
- Các biện pháp về công tác quản lý:
Các biện pháp về công tác quản lý chủ yếu từ phía các cơ quan Nhà nước và
nhằm phát huy quyền làm chủ, giám sát của nhân dân vào công việc nhà nước, đồng
thời tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân thực hiện công tác
quản lý. Đối với các biện pháp này đòi hỏi việc kiểm tra, đôn đốc và phải tiến hành
nghiêm túc, thường xuyên; bên cạnh đó cần xử lý nghiêm các cán bộ vi phạm hoặc
không thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong vai trò quản lý. Vai trò
giám sát của nhân dân cũng giữ một vị trí rất quan trọng trong giám sát việc thực
hiện chức trách của cán bộ quản lý, là một trong những có sở để xem xét đánh giá
mức độ thực hiện công tác chuyên môn của cơ quan, cán bộ quản lý.
- Các biện pháp về pháp lý:
+ Tập trung vào việc xây dựng cơ sở pháp lý tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật, áp dụng pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật hoàn
thiện cơ sở pháp lý cho việc phòng ngừa tình hình tội phạm, bảo vệ, thúc đẩy và bảo
23
đảm quyền con người, quyền công dân:
Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc từ Đại hội lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X đến nay đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật đảm bảo
quyền con người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước
cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân. Như thế, các quyền con người,
quyền công dân được quy định trong Hiến pháp là cơ sở cốt lõi tạo thành hệ thống
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
+ Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự:
Trong điều kiện nước ta hiện nay, bên cạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật về
tư pháp đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện
cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn
thể, nhân dân là rất cần thiết.
Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương
lớn ở tầm vĩ mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ tư pháp đủ đức,
đủ tài để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ
quan tư pháp vừa là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của cơ quan dân cử. Bên
cạnh đó là tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã
hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia rộng rãi của nhân dân trong lĩnh
vực đấu tranh phát hiện, tố giác tội phạm và tham gia hoạt động tư pháp theo quy
định của pháp luật.
Cuối cùng là nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp. Luật
sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ vì quyền và lợi ích hợp pháp của thân
chủ. Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
quá trình tiến hành tố tụng nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất sự thật của vụ án,
tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan, sai, đảm bảo yêu cầu vô tư, khách quan
24
trong hoạt động tố tụng hình sự.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1 luận văn tác giả đã khái quát và phân tích các vấn đề lý luận
chung về khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Đồng thời, tác giả cũng làm rõ các vẫn
đề lý luận chung về nội dung, biện pháp phòng ngừa và chủ thể phòng ngừa tình
hình các tội phạm này.
Ngoài ra, qua phân tích các quan điểm khoa học, tác giả luận văn cũng chỉ ra
rằng tình hình tội phạm vốn là hiện tượng tiêu cực tồn tại khách quan do đó việc
phòng ngừa tình hình tội phạm xét cho cùng là chính nguyên nhân và điều kiện thực
tế của tình hình tội phạm quy định.
Nhận thức chung về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình
các tội xâm phậm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng là cơ sở để tác giả phân
tích, làm rõ thực trạng tình hình và công tác phòng ngừa tình hình ở địa bàn nghiên
cứu. Qua đó mà đánh giá ưu, khuyết điểm và đưa ra những biện pháp mà hạt nhân
của nó là nhằm thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu cơ bản của con người, tức
là thực hiện quyền con người thông qua những biện pháp kinh tế, giáo dục, văn hóa,
chính trị, pháp luật, quản lý và tổ chức.
Qua nghiên cứu một số nội dung về lý luận của phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, phần nào có thể thấy các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các biện pháp phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có vai trò tiên quyết hết sức quan
trọng trong đấu tranh, phòng và chống tội phạm. Kết luận này sẽ được làm sáng rõ
hơn trong phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
25
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ở chương 2 của luận văn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LÂM ĐỒNG GIAI ĐOẠN 2014-2018
2.1. Thực trạng tình hình và nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Để đánh giá thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần căn cứ những cơ sở như: Ngoài văn bản pháp
luật thực định là các văn bản chỉ đạo của Đảng và triển khai của chính quyền;
Thông qua các kế hoạch, phương án, dự án... của tỉnh Lâm Đồng như: Kế hoạch
thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TU, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030", Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận
số 05-KL/TW của Ban Bí thư và Chương trình hành động số 21-CTr/TU ngày
30/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới", Quyết định 1902/QĐ-UBND
năm 2016 về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ phòng, chống tội phạm tỉnh
Lâm Đồng...
Từ cơ sở nhận thức của tổ chức Đảng và chính quyền về phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thể hiện thông qua các
văn bản chỉ đạo điều hành như đã phân tích sau đây tác giả luận văn sẽ làm rõ hai
nội dung:
Một là, làm rõ thực trạng tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018 thông qua số liệu
thống kê của TAND và VKSND, cùng với 100 bản án hình sự sơ thẩm về các tội
này trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018;
26
Hai là, làm rõ thực trạng nhận thức thông qua việc xác định nguyên nhân và
điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018.
2.2. Thực trạng các cơ sở để thiết lập hệ thống phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
2.2.1. Về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018
2.2.1.1. Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Theo GS.TS.Võ Khánh Vinh, Giáo trình tội phạm học, Học viện Khoa học
xã hội thì “Phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ những hành vi phạm tội và
chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự ở từng
đơn vị hành chính – lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời
gian nhất định và được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự” [49, tr 138].
Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
được xác định là tổng hợp của các tội này trên thực tế đã xảy ra và được cơ quan
chức năng phát hiện và xử lý hình sự. Bên cạnh đó, trong thống kê chính thức của
cơ quan có thẩm quyền phải có số liệu thống kê chính thức, bao gồm cả số vụ và số
người phạm tội liên quan. Kết quả thống kê phản ánh được tính chất, mức độ, diễn
biến, cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt gắn với
từng khoảng thời gian, không gian cụ thể.
Thực tế trong quá trình nghiên cứu về tội phạm học khi xem xét số liệu ở
các cơ quan chuyên môn như cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân thì các số liệu thống kê chính thức luôn có sự chênh lệch nhất định. Mặc
dù vậy các số liệu luôn phản ánh được tình hình các tội nói chung và các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng theo từng giai đoạn tố tụng hình sự.
Trong luận văn của tác giả xin được sử dụng số liệu thống kê của ngành Tòa án để
làm rõ các thông số về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
27
trên địa bàn tình Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018.
a. Mức độ của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn 2014- 2018
Theo GS.TS.Võ Khánh Vinh (2009), trong Giáo trình tội phạm học, NXB
Giáo dục, Hà Nội thì “Mức độ của tình hình tội phạm là đặc điểm định lượng tiêu
biểu, cho biết toàn bộ số người phạm tội do họ thực hiện trong một đơn vị thời gian
và không gian nhất định” [44, tr 17].
a.1. Mức độ tổng quan
Đối với tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018 thì khi xem xét một cách tổng quan về
mức độ tức là xem xét một cách khái quát về mặt lượng, trong đó bao gồm hình
thức biểu hiện tuyệt đối và tương đối. Thông qua số liệu thống kê của Tòa án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng ở giai đoạn nghiên cứu thì mức độ tổng quan được biểu hiện
qua các bảng số liệu cụ thể sau:
Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018
Số vụ Số bị cáo Năm
2014 576 371
2015 604 375
2016 566 366
2017 594 377
2018 637 390
Tổng số 2977 1879
Trung bình 595,4 375,8
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Xét về mức độ tổng quan tuyệt đối tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018 cho thấy có sự giao
động nhẹ giữa các năm, có xu hướng tăng về số vụ và số bị cáo. Tổng số vụ trong 5
năm là 1879 vụ với số bị cáo là 2977 người. Năm cao nhất là năm 2018 với 390 vụ với
28
637 bị cáo. Tính trung bình trong 5 năm liên tiếp là 375,8 vụ với 595,4 bị cáo.
Để biết số liệu về số vụ và bị cáo nêu trên là cao hay thấp trong tổng quan
tuyệt đối của tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, cần phải có
sự so sánh các chỉ số để tìm ra chỉ số khái quát. Đó là so sánh mức độ tổng quan
tuyệt đối của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thực hiện
từ năm 2014 đến 2018 với mức độ tổng quan của tình hình tội phạm nói chung ở
Lâm Đồng trong cùng thời điểm nghiên cứu.
Bảng 2.2. Tỷ lệ các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt so với tình hình
tội phạm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Số vụ Bị cáo
Tỷ lệ Tỷ lệ Các tội Các tội Năm (%) (%) XPSHCT Tội phạm Tội phạm XPSHCTC (2)/(3) (5)/(6) Cchiếm nói chung nói chung chiếm đoạt đoạt
(2) (1) (3) (4) (5) (6) (7)
371 2014 824 45,0 576 1324 43,5
375 2015 830 45,2 604 1387 43,5
366 2016 760 48,2 566 1262 44,8
377 2017 770 49,0 594 1255 47,3
390 2018 727 53,6 637 1194 53,4
48,0 2977 6422 46,4 Tổng 1879 3911
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Qua số liệu Bảng 2.2 cho thấy tỉ lệ số vụ và số bị cáo về các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trong tổng số vụ và số bị cáo của tình hình tội phạm
chung trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong 5 năm qua luôn ở mức khá cao với tỷ lệ
tổng là 48% về số vụ và 46,4% về số bị cáo. Đây được xem như là chỉ số khái quát
của tình hình tội phạm.
a.2.Mức độ hành vi phạm tội
Mức độ hành vi cũng được xem xét như một đặc điểm định lượng cho tình
29
hình tội phạm nói chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói chung. Thông qua nghiên cứu cần làm rõ cơ
cấu tình hình các tội này thể hiện ở cơ số hành vi phạm tội được thực hiện trên địa
bàn giai đoạn 2014 -2018, qua đó xác định các mức độ tội danh có mức độ phạm tội
cao và thấp trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Bảng 2.3. Mức độ phạm tội theo các tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
STT Tội danh Điều luật Số vụ Tỷ lệ (%)
Tội cướp tài sản 1 168 95 5,1%
Tội bắt cóc nhằm CĐTS 2 169 03 0,2%
Tội cưỡng đoạt tài sản 3 170 87 4,6%
Tội cướp giật tài sản 4 171 158 8,4%
Tội công nhiên CĐTS 5 172 0 0%
Tội trộm cắp tài sản 6 173 1236 65,7%
Tội lừa đảo CĐTS 7 174 175 9,3%
Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS 8 175 125 6,7%
9 Tổng số 1879 100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Trong 08 tội danh thuộc loại các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018 cho thấy đã xảy ra 07 loại
hành vi phạm tội (tội danh). Tỷ lệ tội danh cao nhất của nhóm tội là tội trộm cắp tài
sản với 1236 vụ chiếm 65,7 % đã xảy ra ở hầu hết các huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh. Thứ hai là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với 175 vụ, chiếm tỷ lệ 9,3 %
trong nhóm tội. Thứ ba là tội cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ khá cao với 158 vụ chiếm
tỷ lệ 8,4 % trong nhóm tội. Ngoài tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không xảy ra và
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chỉ xảy ra 03 vụ thì các tội khác có tỷ lệ tương
đối đồng đều.
b. Động thái của tình hình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt xảy ra trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn 2014 - 2018
30
Động thái của tình hình tội phạm hay còn hiểu là diễn biến của tình hình tội
phạm là sự vận động, biến đổi của THTP theo thời gian, trong đó sự vận động, biến
đổi này diễn ra một cách tự nhiên theo từng địa bàn và theo từng giai đoạn lịch sử
cụ thể. Nghiên cứu động thái của THTP nhằm làm rõ quy luật vận động, thay đổi,
sự tăng hay giảm của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, lý
giải điều kiện, nguyên nhân của những vận động đó. Để làm rõ nội dung này gắn
với địa bàn tỉnh Lâm Đồng, xin được phân tích bằng phương pháp so sánh định gốc
và so sánh liên kế.
b.1. So sánh định gốc
Phương pháp so sánh này được thực hiện theo từng năm và ba năm liên tiếp
để thấy được sự vận động của tình hình tội phạm trên địa bàn trong giai đoạn
2014 -2018.
Bảng 2.4: Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Mức độ tăng, giảm Mức độ tăng, giảm Năm Số vụ Số bị cáo hàng năm hàng năm
371 100% 100% 576 2014
375 101,07% (tăng 1,07%) 104,9% (tăng 4,9%) 604 2015
366 98,65% (giảm 1,34%) 98,26% (giảm 1,74%) 566 2016
377 101,62% (tăng 1,62%) 103,12% (tăng 3,12%) 594 2017
390 105,12% (tăng 5,12%) 110,6% (tăng 10,6%) 637 2018
2014-2016 1.122 100% 1.746 100%
2016-2017 1.133 100,1% (tăng 0,1%) 1.797 103 % (tăng 3%)
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Qua thống kê số liệu có thể khẳng định tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có xu hướng gia tăng trong giai
đoạn 2014 -2018. Sự gia tăng dù không cao nhưng qua sự vận động có thể thấy tình
hình tội phạm thuộc nhóm tội vẫn diễn ra rất phức tạp trên địa bàn. Nguyên nhân
của sự gia tăng cả về số vụ và số bị cáo có lý do liên quan đến đặc điểm địa lý và
31
tình hình dân cư trên địa bàn. Lâm Đồng là một tỉnh có 03 tuyến quốc lộ 20, 27, 28
đi qua với nhiều đèo dốc thuận lợi cho việc thực hiện tội cướp tài sản và tội cướp
giật tài sản. Trên địa bàn có 03 trường đại học, 03 trường cao đẳng với lượng sinh
viên ngoại tỉnh cao, đồng thời lượng khách du lịch, nghỉ dưỡng hằng năm trong các
dịp lễ lớn với số lượng lướn là điều kiện nảy sinh các tội phạm liên quan đến trộm
cắp, cướp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
b.1. So sánh liên kế
Đây là phương pháp so sánh các năm liên tiếp liền kề, năm sau so với năm
trước để thấy được sự tăng giảm của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn.
Bảng 2.5: Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Mức độ tăng, giảm Số bị Mức độ tăng, giảm hàng Năm Số vụ hàng năm năm cáo
2014 371 100% 100% 576
2015 375 101,07% (tăng 1,07%) 104,9% (tăng 4,9%) 604
2016 366 98,65% (giảm 1,34%) 98,26% (giảm 1,74%) 566
2017 377 101,62% (tăng 1,62%) 103,12% (tăng 3,12%) 594
2018 390 105,12% (tăng 5,12%) 110,6% (tăng 10,6%) 637
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Thông qua số liệu so sánh liên kế có thể thấy trong 5 năm tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có tăng, có giảm. Tuy nhiên xu hướng gia
tăng là chủ đạo cả về số vụ và số bị cáo trong tổng số vụ án và số bị cáo phạm các
tội này. Sự gia tăng này cũng phù hợp với lý giải ở phương pháp so sánh định gốc
trước đó.
Như vậy qua hai phương pháp so sánh về động thái của tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 –
2018 cho thấy THTP nhóm tội này vẫn diễn biến phức tạp theo từng năm. Trong đó,
năm 2014 là năm định gốc để so sánh, còn năm 2018 là năm có sự gia tăng cao nhất
32
cả về số vụ và số bị cáo.
c. Cơ cấu của tình hình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn 2014 - 2018.
Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được
hiểu là những nguyên tắc kết hợp và hoạt động của các bộ phận bên trong ở mức độ
tổng quan cấu thành tình hình các tội thuộc nhóm này.
Khi nghiên cứu về cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng là xem xét về đặc điểm định tính của tình
hình các tội thuộc nhóm tội ở hai mặt:
Một là, cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt phản ánh về các yếu tố tiêu cực thuộc nguyên nhân và điều kiện của tình hình
các tội đó.
Hai là, cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
là một bộ phận cơ bản của tình hình nhóm các tội này, đồng thời là cơ sở để nghiên
cứu và thiết lập các biện pháp ngăn chặn phù hợp với động thái của tình hình tội phạm.
c.1. Đặc điểm cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn
Phương thức, thủ đoạn thực hiện các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt được hiểu là cách thức, phương pháp hành động mà người thực hiện hành vi
phạm tội nhằm chuyển những thiệt hại của người khác thành những lơi ích cho
mình, ở đây là tài sản.
Qua nghiên cứu 100 bản án hình sự với 205 bị cáo thuộc nhóm tội trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018 thì phương thức, thủ đoạn phạm tội chủ
yếu dựa vào sơ hở, chủ quan của chủ tài sản để thực hiện tội phạm. Một số đối
tượng lại lợi dụng tâm lý hám lợi của người bị hại để thực hiện các phương thức lừa
đảo, lôi kéo nhằm trục lợi. Trong 100 bản án nghiên cứu thì số vụ thực hiện hành vi
phạm tội ở dạng đơn lẻ chiếm tỷ lệ khá cao, với 65% số vụ. Các vụ thực hiện hành
vi phạm tội ở dạng đồng phạm là 35% số vụ nhưng hình thức đồng phạm ở mức
giản đơn. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì trong thời gian
gần đây xu thế phạm tội có tổ chức trong nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
33
chiếm đoạt ngày càng gia tăng, tinh vi và thể hiện sự coi thường pháp luật.
c.2. Đặc điểm cơ cấu theo hình phạt
Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã
xét xử 1879 vụ án với 2977 bị cáo phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, với cơ cấu hình phạt như sau:
Bảng 2.6: Cơ cấu hình phạt do Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
STT Hình phạt Số bị cáo Tỷ lệ (%)
1 Cải tạo không giam giữ 77 2,6%
2 Án treo 98 3,3%
3 Từ 07 năm tù trở xuống 1878 63,1%
4 Từ 07 năm đến 12 năm tù 766 25,73%
5 Từ 12 năm đến 20 năm tù 153 5,14%
6 Tù chung thân 5 0,17%
7 Tử hình 0 0%
8 Tổng số 2977 100%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Như vậy trong 5 năm, từ 2014 – 2018 Tòa án sở thẩm tỉnh Lâm Đồng đã tiến
hành áp dụng hình phạt cho 2977 bị cáo với mức độ khác nhau. Mức phạt từ 7 năm
tù trở xuống chiếm tỷ lệ cao nhất với 1878 trường hợp, chiếm 63,1%; đứng thứ hai
là mức hình phạt từ 7 năm đến 12 năm tù với 766 trường hợp, chiếm tỷ lệ 25,73%;
hình phạt tù chung thân chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ với 5 trường hợp, chiếm 0,17% và
không có hình phạt tử hình nào được áp dụng. Như vậy về cơ cấu hình phạt Tòa án
đã áp dụng tương đối phù hợp với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
c.2. Đặc điểm cơ cấu theo nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù thuộc về con người và được nhiều
ngành khoa học nghiên cứu. Trong quá trình tiến hành công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, giáo dục và cải tạo người phạm tội thì các vấn đề về nhân thân
34
người phạm tội luôn được các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi
hành án, các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức xã hội hết sức quan tâm.
Trong tội phạm học nhân thân của người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt được hiểu là tổng hợp những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất
phản ánh bản chất của người phạm tội, và khi gặp được các yếu tố tiêu cực về hoàn
cảnh, tình huống sẽ thúc đẩy việc xử sự vi phạm pháp luật của họ.
Dưới góc độ tội phạm học thì nhân thân người phạm tội được xem là một
trong những khách thể nghiên cứu cơ bản. Thông qua nghiên cứu đặc điểm nhân
nhân người phạm tội có thể tìm ra các yếu tố xúc tác hành vi phạm tội, từ đó có thể
đưa ra các biện pháp phòng ngừa phù hợp. Để làm rõ đặc điểm nhân thân người
phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai
đoạn 2014 – 2018, xin phân tích cụ thể qua các bảng số liệu:
- Cơ cấu về giới tính:
Bảng 2.7. Cơ cấu về giới tính của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Giới tính Số bị cáo Tỷ lệ
Nam 2623 88,11%
Nữ 354 11,89%
Tổng số bị cáo 2977 100%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Qua bảng thống kê trong 5 năm có thể thấy trong tổng số 2977 bị cáo phạm
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì số bị cáo nam giới là 2623
người, chiếm tỷ lệ 88,11%; số bị cáo nữ là 354 người, chiếm 11,89% trong tổng số
bị cáo bị xét xử. Như vậy trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng thì tỷ lệ người phạm nhóm tội
này chủ yếu là nam giới. Với đặc trưng chiếm đoạt tài sản nên số lượng nữ giới
tham gia khá ít chủ yếu là các tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đây
là một điểm cần lưu ý khi xây dựng các biện pháp phòng ngừa.
35
- Cơ cấu về độ tuổi:
Khi nghiên cứu về chủ thể tội phạm thì đặc điểm về độ tuổi đóng vai trò trò
rất quan trọng. Ở mỗi độ tuổi khác nhau con người có những đặc điểm tâm, sinh lý
khác nhau dẫn tới sự tác động đến tự nhiên, xã hội và lối sống sẽ khác nhau. Tùy độ
tuổi và nhận thức mà ý thức pháp luật, nhận thức hành vi và điều chỉnh hành vi theo
đó cũng khác nhau trong mỗi hoàn cảnh nhất định, ảnh hưởng đến hành vi, tính
chất, mức độ phạm tội.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng trong 5 năm qua, kết quả nghiên cứu độ tuổi được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.8. Cơ cấu xét theo độ tuổi của người phạm các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Tuổi của bị cáo Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Từ 14 đến dưới 18 tuổi 483 16,22
Từ 18 đến 35 tuổi 2.148 72,15
Trên 35 tuổi 346 11,63
Tổng cộng 2.977 100
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Phân tích bảng số liệu trên có thể thấy số người phạm tội ở độ tuổi 18 – 35
có tỷ lệ cao nhất, với 2.148 bị cáo, chiếm 72,15% tổng số bị cáo. Đây là độ tuổi mà
các đặc điểm về tâm lý, quan điểm sống, nhu cầu lợi ích, tinh thần và nhận thức có
nhiều thay đổi theo tính chất công việc, môi trường sống. Nếu các cá nhân sống và
làm việc trong môi trường không tốt, nhiều yếu tố tiêu cực và thiếu sự quan tâm,
định hướng thì dễ dẫn đến các hành vi phạm tội. Đối với độ tuổi từ 14 – 18 tuổi có
483 bị cáo chiếm 16,22% tổng số bị cáo trong nhóm tội. Đây là độ tuổi có sự đột
phá mạnh mẽ về tâm sinh lý do đó dễ bị tác động bới các yếu tố tiêu cực từ xã hội
như phim ảnh, thần tượng thái quá các cá nhân có xu hướng buông thả, coi trọng cái
tôi bản thân. Đồng thời đây cũng là độ tuổi mà nhận thức và ý thức pháp luật, ý thức
trách nhiệm xã hội phát triển chưa đầy đủ nên dễ sa ngã, bị lôi kéo, ép buộc tham
gia phạm tội. Đối với độ tuổi từ 35 trở lên có 346 bị cáo chiếm 11,63% tổng số bị
36
cáo. Đây là nhóm tuổi mà những người phạm tội chủ yếu liên quan đến thói quen
thích hưởng thụ, lười lao động, có nhiều đặc điểm nhân thân không tốt, đã từng có
tiền án, tiền sự về các tội trong nhóm.
- Đặc điểm cơ cấu theo trình độ học vấn:
Trình độ học vấn có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức xã hội, pháp luật, đạo
đức và xử sự có văn hóa của mỗi cá nhân. Thực tế cho thấy ở tội phạm nói chung và
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng thì những người phạm
tội đều có những hạn chế nhất định về trình độ học vấn và nhận thức pháp luật. Kết
quả nghiên cứu cơ cấu về trình độ học vấn trong nhóm tội trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2014 -2018 được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.9. Cơ cấu trình độ học vấn của người phạm các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Trình độ học vấn Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Không biết chữ 186 6,2
Học hết cấp I 567 19,5
Cấp II 932 31,3
Cấp III 1264 42,5
Trung cấp, Cao đẳng, Đại học 28 0,5
Tổng cộng 2977 100%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Từ bảng số liệu cho thấy số người có trình độ giáo dục phổ thông phạm tội
chiếm một tỷ lệ rất lớn khi số người học hết cấp I là 567 người, chiếm 19,5 %; học
hết cấp II là 932 người, chiếm 31,3% và học hết cấp III là 1264 người, chiếm
42,5%. Số người không biết chữ phạm tội chiếm tỷ lệ thấp với 186 người chiếm 6,2.
Tỷ lệ người có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học trong nhóm tội có tỷ lệ thấp
nhất, với chỉ 28 người, chiếm 0,5%. Nghiên cứu cho thấy trong bậc học phổ thông,
nhận thức về pháp luật vẫn còn rất nhiều hạn chế; đây cũng là một cơ sở để tìm
kiếm những giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho bậc học này.
- Đặc điểm cơ cấu theo hoàn cảnh gia đình:
37
Qua nghiên cứu 100 bản án hình sự ở cấp sơ thẩm với 205 bị cáo thì tỷ lệ số
người có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn chiếm tỷ lệ cao, với 82% tổng số bị
cáo. Kinh tế gia đình khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau như gia đình đã
khó khăn sẵn, do cá độ, ốm đau, vay nợ tín dụng đen, ăn chơi quá khả năng tài
chính… Bên cạnh đó, số bị cáo sống trong gia đình có cả cha lẫn mẹ chiếm tỷ lệ
78% tổng số bị cáo. Số bị cáo sống trong gia đình có cha mẹ thường xuyên mâu
thuẫn, xung đột chiếm tỉ lệ 52% tổng số bị cáo. Như vậy, việc quản lý, giáo dục con
cái trong các gia đình kinh tế khó khăn và gia đình thường có sự xung đột giữa các
thành viên còn nhiều hạn chế và đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tâm
lý, tính cách của các thành viên trong gia đình, dẫn đến hành vi phạm tội.
- Đặc điểm cơ cấu theo địa bàn hoạt động:
Địa tình hình tội phạm là chủ đề luôn được quan tâm khi nghiên cứu tình
hình tội phạm. Địa bàn hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tội phạm, sự
hình thành, tồn tại, vận động của tình hình tội phạm.
Đối với địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn 2014 – 2018 tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt xảy ra trải đều ở khắp các thành phố, thị
xã, huyện của tỉnh. Tùy thuộc vào đặc trưng địa bàn mà các tội trong nhóm tội có sự
hình thành, vận động khác nhau một cách độc lập.
Qua nghiên cứu trên địa bàn thì phần lớn các vụ phạm tội xảy ra ở các thành
phố, huyện phát triển về kinh tế, du lịch và tập trung các trường đại học như Đà Lạt,
Bảo Lộc, Đức Trọng. Do lưu lượng khách du lịch, sinh viên ngoại tỉnh sinh sống,
tham quan, học tập có số lượng lớn nên các loại tội phạm như cướp, cướp giật, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản ở các
địa bàn này có tỷ lệ xảy ra cao hơn các khu vực khác. Thứ hai, tội phạm xảy ra ở khu
vực những cung đèo vốn là những cửa ngõ ra vào tỉnh gồm Đèo Chuối, Đèo Bảo Lộc,
Đèo Prenn, Đèo Mimosa, Đèo Ngoạn mục, Đèo Dran, Đèo Long lanh. Những cung
đèo có địa hình giao thông phức tạp, dân cư thưa thớt là địa điểm thường xuyên xảy
ra các vụ cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp. Ngoài ra ở những khu
vực huyện, thị trấn khác trong tỉnh vẫn xảy ra các vụ việc phạm tội thuộc nhóm tội
38
nhưng tỷ lệ không nhiều và tính chất mức độ nguy hiểm không cao.
- Đặc điểm cơ cấu theo thời gian xảy ra tội phạm:
Trên cơ sở nghiên cứu 100 bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2014 – 2018 cho thấy kết quả như sau:
Bảng 2.10. Cơ cấu xét theo thời gian xảy ra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Số vụ Tỷ lệ (%) Thời gian
06h00 – 12h00 27 27
12h00 – 18h00 07 7
18h00 – 24h00 32 32
24h00 – 06h00 34 34
Tổng cộng 100 100%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Như vậy khoảng thời gian xảy ra tội phạm nhiều nhất là hai khoảng thời gian
từ 18h00 đến 24h00 và từ 24h00 đến 06h00 sáng với lần lượt là 32% và 34%. Do
đặc điểm địa lý và thời tiết nên đây là khoảng thời gian chủ yếu xảy ra các vụ trộm
cắp tài sản ở khu dân cư dân cư và các vụ cướp tài sản, cướp giật cả những khu dân
cư và trên các tuyến quốc lộ, cung đèo của tỉnh. Các vụ phạm tội xảy ra vào khoảng
thời gian từ 06h00 đến 12h00 cũng chiếm tỷ lệ khá cao, với 27% trên 100 vụ. Các
vụ việc này chủ yếu liên quan đến các tội trộm cắp tài sản, cướp giật, lừa đảo chiếm
đoạt tài sản xảy ra ở nơi đông dân cư, khu du lịch, thăm quan. Thời điểm và địa
điểm thực hiện hành vi phạm tội gắn với các loại tội cụ thể cho thấy việc thực hiện
các hành vi này mang tính chất cơ hội, lợi dụng các điều kiện thuận lợi để nhanh
chóng thực hiện hành vi phạm tội. Gắn với địa bàn cụ thể các điều kiện thuận lợi có
thể tương ứng với các thời điểm khác nhau.
d. Tính chất của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Các đặc điểm của cơ cấu tình hình tội phạm luôn có sự tác động qua lại ảnh
hưởng đến nhau, gắn với địa bàn phạm tội cụ thể trong những giai đoạn vận động
39
nhất định, qua đó phản ảnh mức độ nguy hiểm, nghiêm trọng của tình hình tội
phạm. Thông qua việc nghiên cứu và đưa ra các kết quả về đánh giá mức độ, cơ
cấu, động thái của tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng sẽ làm rõ tính chất của tình hình các tội.
Thực tế cho thấy không chỉ trong địa bàn tỉnh Lâm Đồng mà trong cả nước
những năm gần đây, tính chất của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
có xu hướng tăng về mức độ nghiêm trọng, phức tạp và hậu quả ngày càng lớn. Các
đối tượng phạm tội ngày càng tinh vi hơn trong xây dựng kế hoạch phạm tội, lựa
chọn đối tượng gây án và phương thức gây án.
2.2.1.2. Phần ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018
Theo định nghĩa về tội phạm ẩn của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh thì tội phạm
ẩn: “Là một trong hai phần của tình hình tội phạm, tội phạm ẩn (hay phần ẩn của
tình hình tội phạm) được tạo nên bởi tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra trong
thực tế, song không được phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình
sự hoặc không có trong thống kê tội phạm”[24, tr113].
Thực tế cho thấy không phải tất cả tội phạm nói chung và các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng khi xảy ra đều được phát hiện, ghi nhận và
xử lý theo quy định pháp luật. Trong tổng số các tội phạm xảy ra ít nhiều vẫn có các
tội phạm dù thực tế đã diễn ra nhưng không được phát hiện, ghi nhận, xử lý vì một
lý do nào đó. Những tội phạm ấy được xem là tội phạm ẩn và cũng là một phần hữu
cơ trong tình hình của nhóm tội phạm trên địa bàn.
Về mặt lý thuyết thì tất cả các loại tội phạm nói chung và các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng đều có thể trở thành tội phạm ẩn khi gặp
những thuận lợi nhất định. Trên thực tế, mỗi loại tội phạm khác nhau xảy ra trên địa
bàn và thời gian khác nhau thì có khả năng ẩn khác nhau. Bên cạnh đó, khả năng ẩn
còn phụ thuộc một phần lớn vào khả năng phát hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan
chuyên môn trong bảo vệ pháp luật.
Qua nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
40
đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, tác giả luận văn cho rằng tội phạm ẩn có tỷ lệ cao
thấp khác nhau ở từng tội cụ thể, trong đó tội chiếm tỷ lệ ẩn cao nhất vẫn là tội trộm
cắp tài sản.
Khi xác định phần ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, tác giả căn cứ theo phương pháp chia của PGS.TS.
Phạm Văn Tỉnh, gồm 03 phân loại như sau:
Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan: Tội phạm ẩn khách quan là những tội
phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lí tội
phạm không có thông tin về chúng [24, tr116].
Thứ hai, tội phạm ẩn chủ quan: Tội phạm ẩn chủ quan là những tội phạm đã
xảy ra trong thực tế mà thông tin về chúng đã được cơ quan có thẩm quyền phát
hiện, xử lí tội phạm nắm được, song vì nhiều lý do khác nhau, các tội phạm đó
trong một thời gian nhất định hoặc vĩnh viễn không bị xử lí hoặc không thể xử lí
hoặc xử lí không đúng quy định của pháp luật [24, tr177].
Thứ ba, tội phạm ẩn thống kê: Quan điểm về tội phạm ẩn thống kê có sự
khác nhau ở các quốc gia và phụ thuộc vào pháp luật của các quốc gia đó. Hiện nay,
ở nước ta trong quy định về thống kê tội phạm còn tồn tại tội phạm ẩn thống
kê. Theo đó tội phạm ẩn thống kê trên cơ sở đó được hiểu là toàn bộ các tội danh
mà bị cáo bị tòa án xét xử trong một bản án hình sự nhưng do quy định của pháp
luật về thống kê tội phạm nên đã không thống kê, bị loại ra ngoài con số thống kê.
Tình trạng tội phạm ẩn thực tế tồn tại là do nhiều nguyên nhân khác nhau,
gồm cả các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
+ Một là, xuất phát từ phía người phạm tội: Với đặc thù về tình hình du lịch,
học tập, giao thông trên địa bàn có nhiều yếu tố thuận lợi cho người thực hiện hành
vi phạm tội trốn tránh trách nhiệm, che dấu hành vi, chuẩn bị những phương án đối
phó, tẩu thoát nên đã gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra
hành vi phạm tội.
+ Hai là, xuất phát từ người bị hại và người biết việc: Người bị hại và người
biết việc có thể không trình báo vì nhiều lý do khác nhau như ngại phiền phức, tài
41
sản giá trị không lớn, không tin vào khả năng của cơ quan chức năng, sợ ảnh hưởng
uy tín các nhân trong bảo vệ tài sản công, bao che cho người thân… từ đó gây khó
khăn lớn cho việc phát hiện hay điều tra tội phạm.
+ Thứ ba, xuất phát từ phía các cơ quan chức năng: nguyên nhân từ phía cơ
quan chức năng do nhiều yếu tố như trình độ chuyên môn kỹ thuật trong thống kê,
thực hiện thống kê không theo trình tự thủ tục, bị can bỏ trốn và đình chỉ vụ án...
Nhận thức về tình hình tội phạm đã được thống kê luôn được coi là cơ sở nền
tảng cho xây dựng các giải pháp phòng ngừa. Bên cạnh đó, nhận thức tội phạm ẩn
là một trong những nội dung quan trọng không thể bỏ qua để xây dựng giải pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm được triệt để và hiệu quả.
2.2.2. Những nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực, trong hình thái kinh tế -
xã hội tương ứng, quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của
mình" [49, tr.87- 88]. Để có giải pháp phòng ngừa hợp lý và hiệu quả, cần nhận
thức được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung cũng như
nguyên nhân và điều điện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn nghiên cứu nói riêng.
2.2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm
a. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
a.1. Những yếu tố tiêu cực xuất phát từ môi trường gia đình
Môi trường gia đình được xem là môi trường đầu tiên tác động đến việc hình
thành nhân cách của các cá nhân ngay từ thời điểm tuổi thơ và sự tác động này có
yếu tố định hướng tính cách, cư xử của cá nhân rất lớn. Thực tế cho thấy các cá
nhân liên quan đến tội phạm nói chung và các tội xâm phậm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng phần lớn chịu tác động tiêu cực từ
các môi trường gia đình như:
- Gia đình có người thân không gương mẫu, không quan tâm đến các chuẩn
42
mực đạo đức, xã hội. Chính những thói quen, cách sống thiếu văn hóa, đạo đức
trong cuộc sống hàng ngày của những người thân đã ảnh hưởng tới cách sống và xử
xự của người khác đặc biệt là những đứa trẻ trong gia đình. Đứa trẻ có xu hướng
học theo những thói quen và cách sống đó. Thậm chí có những người trong gia đình
còn khen ngợi, cổ súy cho những việc làm không đúng của đứa trẻ khi bắt chước
được một thói quen, hành động thiếu chuẩn mực nào đó.
- Gia đình có cấu trúc không hoàn hảo, khó khăn về kinh tế. Đây là hai yếu
tố thường đi kèm nhau khi xem xét về nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn tỉnh. Thường những người trong gia đình có cấu trúc gia đình không
hoàn hảo luôn đi đôi với điều kiện kinh tế khó khăn. Những gia đình có bố mẹ ly
hôn, con cái hoặc chỉ sống với bố hoặc mẹ thường thiếu sự tập trung quan tâm của
người lớn và do việc đảm bảo kinh tế cũng khiến các bậc cha, mẹ phải làm lụng vất
vả hơn. Chính vì vậy, con cái trong những gia đình này thường có sự tự do về thời
gian, dễ bị lôi kéo vào những thói hư, tật xấu, lối sống buông thả, bất cần đời, ganh
tỵ và tự ti với những người xung quanh. Bên cạnh đó để tự thỏa mãn nhu cầu cá
nhân trong khi điều kiện gia đình không cho phép, ở những đứa trẻ sớm hình thành
và nhanh chóng nảy sinh tâm lý chiếm đoạt từ người khác.
- Có thể thấy tỷ lệ những người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có sống chung với gia đình rất cao nhưng
họ vẫn phạm tội. Bên cạnh sự thiếu quan tâm thì phương pháp giáo dục con cái
cũng tác động rất lớn đến tính cách, xử sự của con cái. Những thói quen dạy dỗ con
cái không phù hợp như thói quen bạo lực, thói quen đáp ứng nhu cầu chi tiêu thiếu
kiểm soát, thói quen hà khắc hoặc sử dụng hình phạt không phù hợp... đã hình thành
ở con cái những tư tưởng tiêu cực theo những thói quen đó. Những ảnh hưởng tiêu
cực này không chỉ ảnh hưởng đến tính cách con cái mà còn có thể để lại những tổn
thương tâm lý nặng nề, kéo theo nhiều hệ lụy khác.
a.2. Những yếu tố tiêu cực xuất phát từ phía môi trường nhà trường
- Hạn chế về công tác giáo dục pháp luật: Bên cạnh môi trường gia đình thì
môi trường nhà trường được xem là môi trường thứ hai ảnh hưởng rất lớn đến việc
43
hình thành nhân cách cho trẻ. Nhà trường không chỉ là nơi dạy dỗ những kiến thức
cần thiết mà còn là nơi trẻ có điều kiện giao lưu, học hỏi từ bạn bè cùng trang lứa và
là nơi trẻ có thể tự rèn luyện bản thân. Phần lớn các trường học các cấp trong địa
bàn tỉnh đã làm tốt công tác giáo dục kiến thức văn hóa cơ bản cho học sinh. Tuy
nhiên, việc giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật vẫn là nội dung còn mới mẻ và
hạn chế ở đa số các trường. Chương trình học quá nhiều nội dung, tình trạng dạy
thêm, học thêm tràn lan, chạy đua thành tích... cũng là một trong những lý do khiến
các em mệt mỏi, áp lực, từ đó hình thành tâm lý chán nản, muốn thoát ly thực tại và
việc bỏ học giữa chừng là chuyện thường xảy ra nhất là khu vực kinh tế kém phát
triển, vùng có nhiều người đồng bào sinh sống. Trong khi đó, việc giáo dục pháp
luật vẫn bị động và xoay quanh những kiến thức cơ bản về an toàn giao thông,
phòng chống ma túy; phương pháp giảng dạy cũng chưa kích thích tính tích cực và
sáng tạo của các em.
- Hạn chế từ phía giáo viên giảng dạy: Những hạn chế từ phía giáo viên có
thể tập trung ở một số vấn đề như giáo viên thờ ơ, thiếu tâm huyết với giáo dục nên
cũng bỏ mặc việc giảng dạy; giáo viên thiếu những kiến thức chuyên môn, kiến
thức pháp luật, kỹ năng sống; giáo viên thực dụng, chú trọng thành tích, điểm số;
giáo viên không gương mẫu, thiếu đạo đức... Chính những hạn chế từ phía giáo viên
cũng là một trong những lý do khiến tâm lý chán nản, nặng nề, chống đối xuất hiện
từ phía người học.
- Hạn chế về sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong quản lý, giáo
dục. Có thể thấy không chỉ ở Lâm Đồng mà ở các địa phương khác, việc phối hợp
giữa gia đình và nhà trường trong quản lý, giáo dục con em vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc liên lạc và trao đổi giữa gia đình và nhà trường vẫn chưa thực sự thường
xuyên, sát sao với tình hình thực tế. Đa phần khi các vụ việc vi phạm của các em đã
xảy ra thì nhà trường và gia đình mới chung tay giải quyết. Điều này cũng một phần
vì lượng học sinh trong lớp đông nên giáo viên khó nắm bắt được chuyển biến, tâm
tư tình cảm của tất cả các em; một phần khác là với các em học sinh các biệt thì gia
đình cũng không quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó có thể thấy quỹ thời gian và tiền
44
lương của giáo viên thực tế còn thấp, các giáo viên cũng phải dành nhiều thời gian
lo cho cuộc sống, gia đình nên sự thiếu quan tâm, không thể sát sao các em là điều
có thể lý giải được.
a.3. Những yếu tố tiêu cực xuất phát từ bạn bè, đồng nghiêp
Bạn bè và đồng nghiệp là những người thường xuyên có sự giao tiếp và ảnh
hưởng đến mỗi cá nhân trong cuộc sống thường ngày. Thực tế cho thấy mỗi cá nhân
thường tiếp xúc với bạn bè và đồng nghiệp trong khoảng thời gian rất lớn mỗi ngày
do đó, ảnh hưởng trực tiếp từ những người này là rất lớn. Dưới áp lực của công
việc, học tập thì những thói hư, tật xấu, các phẩm chất tâm lý tiêu cực từ bạn bè,
đồng nghiệp dễ hình thành và phát triển ở những cá nhân thiếu bản lĩnh. Những
người đồng phạm trong một vụ án cũng thường xoay quanh mối quan hệ bạn bè
hoặc đồng nghiệp.
a.4. Những yếu tố tiêu cực thuộc mặt trái nền kinh tế thị trường
Sự chuyển đổi từ kinh tế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước nói
chung và tại tỉnh Lâm Đồng nói riêng. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế là sự giao
lưu văn hóa, khoa học, công nghệ và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì nền kinh tế thị
trường cũng kéo theo nhiều bất cập như: lối sống thực dụng làm tha hóa đạo đức,
văn hóa của một bộ phận giới trẻ, cán bộ công chức, sự xâm nhập ngày càng tăng
của các loại hình văn hóa phẩm bạo lực, đồi trụy; lan truyền những trào lưu văn hóa
lệch lạc... Rất nhiều trẻ em liên quan trong các vụ trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản
là những trẻ nghiện game hoặc bị ảnh hưởng từ phim ảnh.
a.5. Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự trên
địa bàn
Công tác quản lý cư trú và quản lý các cơ sở kinh doanh, dịch vụ cầm đồ,
quản lý vũ khí, vật liệu nổ... trên thực tế không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Trên địa bàn vẫn còn nhiều người lao động chỗ ở không ổn định, một bộ phận công
nhân ngoại tỉnh thường tập trung tạm trú ở các khu vực công trình... khiến việc quản
45
lý nhân khẩu, hộ khẩu thêm phức tạp. Lực lượng công an xã còn hạn chế về nghiệp
vụ, không nắm được hết số đối tượng có khả năng phạm tội trên địa bàn. Tại các
khu vực phức tạp về nhân khẩu lại thường có các tụ điểm kinh doanh dịch vụ nhạy
cảm, cầm đồ, khách sạn, massage... là những nơi tiềm ẩn tội phạm về xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt.
b. Những nguyên nhân và điều kiện thuộc nhân thân người phạm tội
Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội đã được thể hiện qua nghiên
cứu về cơ cấu tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng. Từ các đặc điểm về nhân thân người phạm tội có thể thấy các
yếu tố tiêu cực thuộc nguyên nhân và điều kiện của tội phạm như:
- Trình độ học vấn và ý thức pháp luật hạn chế: Do sự hạn chế của trình độ
học vấn nên những hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực đạo đức của người
phạm tội cũng hạn chế. Khi trình độ văn hóa thấp thì suy nghĩ và hành động của
những người này chủ yếu là theo cảm tính, thói quen hoặc từ suy nghĩ nông
cạn.Nhiều người khi đã phạm tội vẫn nghĩ hành vi của mình là bình thường, không
nhận thức được hậu quả hành vi do mình gây ra cũng như quy định của pháp luật về
hành vi đó. Trình độ học vấn thấp cũng là điều kiện để các đối tượng xấu lợi dụng,
tuyên truyền sai lệch về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và lôi kéo họ thực hiện các hành vi trái pháp luật, hành vi phạm tội.
- Thói quen và lối sống lệch lạc: Do nhu cầu của bản thân về các hoạt động
giả trí bản thân như ăn chơi, mua sắm, cờ bạc, ma túy, chơi game nhiều người bất
chấp pháp luật để phạm tội. Một số đối tượng còn thực hiện các tội về xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt như là một thú vui, hoạt động bình thường để gây dựng
địa vị, thanh thế trong địa bàn.
2.2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm
Trước hết là hạn chế trong trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ và
công tác phối hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra các cấp trên địa bàn tỉnh. Xét tổng thể thì
trình độ cán bộ làm công tác trên địa bàn chưa đồng đều, nhiều nơi còn thiếu về lực
46
lượng, nhất là ở các địa bàn xa, kém phát triển. Sự phối hợp giữa Tòa án và Viện
kiểm sát trong áp dụng pháp luật thiếu thống nhất, còn chồng chéo; tương tự là sự
phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Từ đó dẫn tới hiệu quả của công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm pham sở hữu có tình
chất chiếm đoạt nói riêng chưa phát huy được hiệu quả cao nhất.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vẫn còn các quan điểm xem
nhẹ công tác phòng ngừa, chỉ tập trung vào các hoạt động trấn áp tội phạm. Có thể
thấy trấn áp tội phạm đem lại hiệu quả nhanh chóng nhưng để thay đổi tình hình tội
phạm thì cần phải tác động cả vào những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh
tình hình tội phạm. Đó là tổng thể các biện pháp do nhiều lực lượng thực hiện mà
trấn áp tội phạm chỉ là một hoạt động trong đó.
Trong những năm qua việc thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nhân
dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm đã được triển khai thông qua nhiều
phương pháp khác nhau như tuyên truyền miệng, sử dụng phương tiện thông tin đại
chúng, tổ chức hội thi... nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đồng bộ.
Bằng việc nghiên cứu và nhận thức về các nguyên nhân và điều kiện nêu
trên là cơ sở để đưa ra các giải pháp hiệu quả cho công tác phòng ngừa tình hình các
tội này trong thời gian tới một cách hiệu quả hơn.
2.3. Thực trạng và giải pháp đã được áp dụng trong phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng
2.3.1. Thực trạng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức lực lượng phòng ngừa
Cũng như các địa phương trong cả nước, Lâm Đồng luôn tích cực trong thực
hiện các văn bản chỉ đạo của về phòng, chống tội phạm như: Chỉ thị 48-CT/TW
ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Quyết định số: 282/QĐ-TTg
:Ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48 CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của
Bộ chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới”; Quyết định số 623/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
47
phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025
và định hướng đến năm 2030”...
Trong giai đoạn 2014 – 2018, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Lâm Đồng cũng
đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và thực hiện công tác phòng, chống tội phạm nói
chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng như: Kế hoạch
thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TU, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030", Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận
số 05-KL/TW của Ban Bí thư và Chương trình hành động số 21-CTr/TU ngày
30/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới", Quyết định 1902/QĐ-UBND
năm 2016 về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ phòng, chống tội phạm tỉnh
Lâm Đồng...
Việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, giải pháp phòng ngừa tình hình
tội phạm đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và
mọi công dân để loại bỏ, hạn chế tối đa các yếu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội phạm. Do đó, trong quá trình thực hiện cần có sự
phối hợp nhịp nhàng theo chức năng, nhiệm vụ và vai trò đóng góp của mỗi các
nhân, tổ chức là khác nhau vì mục đích chung. Lực lượng Công an nhân dân là lực
lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, dựa trên cơ sở
pháp lý là các văn bản pháp luật hiện hành như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức điều tra hình sự, Luật Thi hành án hình sự và Luật
Công an nhân dân. Trong những năm qua lực lượng Công an nhân dân tỉnh Lâm
Đồng cũng đã phát huy cao vai trò của mình trong tham mưu, thực hiện các kế
hoạch, chủ trương phòng, chống tội phạm trên địa bàn.
2.3.2. Thực trạng áp dụng các giải pháp phòng ngừa
- Về các biện pháp phòng ngừa xã hội:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân trên địa
48
bàn, nhất là các khu vực kinh tế chậm phát triển, khu vực sinh sống chủ yếu của
đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong công tác tuyên truyền luôn hướng đến xây
dựng ý thức pháp luật và tình cảm pháp luật trong nhân dân, hướng vào các đối
tượng cụ thể theo quan điểm lấy dân làm gốc.
Địa phương đã xây dựng hệ thống camera an ninh ở những địa điểm thường
xuyên xảy ra tình trạng móc túi, cướp giật như chợ, bệnh viện, trung tâm thương
mại..., kết hợp treo, dán những bảng tin cảnh báo tội phạm ở các khu vực này để
người dân, du khách chủ động tự phòng ngừa.
Phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể, hội phụ nữ trong việc thực hiện
các chủ trương phòng, chống tội phạm, tham mưu cho các cấp, các ngành về thực
hiện chủ trương và giải quyết vướng mắc, nhờ đó vai trò các đoàn thể ở địa phương
được nâng cao nhất là trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình sinh hoạt
cho lứa tuổi học sinh, sinh viên trên địa bàn, vận động thực hiện nghĩa vụ quân sự
và lao động tình nguyện của thanh, thiếu niên trong thời gian nhàn rỗi, thực hiện các
hoạt động ngoại khóa hướng dẫn phòng ngừa một số tội phạm thường gặp, tập
luyện kỹ năng bảo vệ bản thân.
Bên cạnh đó, ở các đơn vị xã phường hàng ngày đều tiến hành chương trình
phát thanh thời sự và cảnh báo tội phạm vào các giờ từ 19 đến 22 giờ, từ đó cũng
góp phần nâng cao cảnh giác cho người dân, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại.
- Về các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ:
Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ là tổng hợp các biện pháp của lực
lượng chuyên trách theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện các kế hoạch
thường niên, định kỳ trong phòng chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Trên thực tế, các biện pháp này cũng đã
phát huy hiệu quả trong thời gian qua thể hiện ở việc kìm hãm, hạn chế tình hình gia
tăng của tội phạm. Trong thực hiện nhiệm vụ của mình lực lượng chủ công là Công
an nhân dân cũng đã phối hợp với các lực lượng chức năng khác để tăng cường hiệu
quả, chú trọng vào việc vận động công dân tố giác tội phạm. Bên cạnh đó với vai trò
của mình lực lượng Công an cũng thường xuyên tham mưu cho các tổ chức đảng,
49
chính quyền trong thực hiện đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức này trong phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn nói riêng.
2.3.3. Thực trạng áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt của Công an tỉnh Lâm Đồng
Với tư cách là lực lượng nòng cốt, thời gian qua lực lượng Công an tỉnh Lâm
Đồng đã có những thành tích đáng kể đóng góp vào công tác phòng ngừa tội phạm
nói chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Thực hiện
tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, phối kết hợp chặt chẽ với các
ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương tổ chức thực hiện tốt công tác phát
động phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới một
cách sâu rộng trong các khu dân cư, trường học, cơ quan, doanh nghiệp đóng trên
địa bàn tỉnh, trong đó lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống tội phạm
nhằm nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác, vận động người dân tham gia tố giác,
đấu tranh phòng, chống tội phạm; phát động và thực hiện tốt phong trào “02 giữ về
An ninh trật tự”; chủ trì ký kết quy chế kết nghĩa hỗ trợ xây dựng phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữa các phòng nghiệp vụ Công an tỉnh với các xã trọng
điểm, phức tạp về an ninh, trật tự. Đã tổ chức phát động sâu rộng phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với 978.534 lượt người tham gia.
- Lực lượng Công an tỉnh Lâm Đồng đã thực hiện công tác nắm địa bàn và
điều tra cơ bản, từ đó nắm được tình hình dân cư, tình hình tội phạm, các tụ điểm
thường xuyên xảy ra tình trạng mất trật tự an toàn xã hội để chủ động xây dựng kế
hoạch phòng ngừa phù hợp.
- Lực lượng Công an tỉnh Lâm Đồng thực hiện công tác phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan trong và ngoài ngành trong phòng chống tội phạm như Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan quản lý giáo dục đào tạo, xuất khẩu lao động,
khu công nghiệp... xây dựng kế hoạch phường ngừa tội phạm và tuyên truyền, phổ
50
biến pháp luật trong các nhóm đối tượng khác nhau.
Trong thời điểm hiện tại với chủ trương kiện toàn bộ máy tổ chức, lực lượng
Công an tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành tổ chức lại bộ máy làm việc, tăng cường lực
lượng cấp huyện và xã, từng bước đảm bảo lực lượng chính quy, vững vàng nghiệp
vụ, mạnh về cơ sở đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực phòng
ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
2.4. Những tồn tại, khuyết điểm trong phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và nguyên nhân
2.4.1. Khuyết điểm trong nhận thức
Nhận thức ở đây là nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh. Do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhiều người, trong đó có các cán bộ trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm vẫn nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về phòng ngừa tình hình tội phạm
nói chung và phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Các khuyết
điểm đó chủ yếu là:
- Xem việc phòng ngừa tội phạm là việc làm của các cơ quan chức năng như
công an, bảo vệ khu phố, dân phòng;
- Đồng nhất việc phòng ngừa tình hình tội phạm với việc bắt và xử lý hết
những người phạm tội trên địa bàn;
- Chưa phân biệt được tội phạm với người phạm tội, tội phạm với tình hình
tội phạm và phòng ngừa tình hình tội phạm với hoạt động tố tụng hình sự.
- Chưa nhận thức đầy đủ về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn.
Từ những khuyết điểm trong nhận thức đó dẫn đến việc đề ra các giải pháp
nhất là chính sách và xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện việc phòng ngừa chưa
sát, chưa đạt được hiệu quả cao, công tác phòng ngừa chưa trúng trọng tâm, trọng
điểm khiến tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiến đoạt vẫn diễn biến
51
phức tạp trên địa bàn trong thời gian qua.
2.4.2. Khuyết điểm trong công tác tuyên truyền, vận động
Tuyên truyền vận động nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm
là một trong những hoạt động dân vận có hiệu quả thiết thực và được thực hiện lồng
ghép trong hầu hết các mặt công tác và trên các địa bàn thuộc tỉnh Lâm Đồng. Bên
cạnh những hiệu quả mang lại thì nhiều nơi, nhiều lúc công tác này vẫn còn những
khuyết điểm, hạn chế nhất định cần phải khắc phục, cụ thể:
- Nội dung tuyên truyền vẫn còn rườm rà, quá tải nên dễ gây cảm giác chán
nản, không tập trung ở người nghe, người đọc. Đây là một lỗi phổ biến khỉ thực
hiện công tác tuyên truyền nói chung và trong phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Trong quá trình tuyên truyền, cán bộ
đưa ra quá nhiều kiến thức và thuật ngữ chuyên môn, kết hợp nội dung dài dòng đã
làm hạn chế hiệu quả của công tác này.
- Phương pháp tuyên truyền chưa phong phú, chưa khai thác hết hiệu quả từ
cuộc cách mạng 4.0. Có thể thấy việc tuyên truyền nhân dân phòng ngừa các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chủ yếu là thông qua phương pháp sử
dụng thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng. Phương pháp này mang lại những
hiệu quả trực tiếp nhưng đòi hỏi nhiều công sức và phạm vi tuyên truyền cũng như
đối tượng tuyên truyền bị hạn chế. Vì vậy việc tận dụng công nghệ thông tin và các
hiệu ứng từ cuộc cách mạng 4.0 là một nội dung cần được nghiên cứu vận dụng vào
thực tiễn hoạt động phòng ngừa này.
- Tần suất tuyên truyền chưa đồng đều ở các thành phố, thị xã, huyện của
tỉnh. Hiệu quả của công tác tuyên truyền là rất lớn, tuy nhiên muốn hiệu quả kéo dài
thì công tác tuyên truyền cần phải tiến hành một cách thường xuyên, định kỳ với nội
dung chắt lọc từ thực tế địa bàn mới đem lại hiệu quả cao nhất. Vì nhiều nguyên
nhân khác nhau như thiếu cán bộ tuyên truyền, thiếu kinh phí, thiếu quỹ thời gian...
mà công tác này vẫn chưa thực sự phát huy được hiệu quả lâu dài.
2.4.3. Khuyết điểm trong công tác phối hợp, tổ chức thực hiện
Thời gian qua, công tác phối hợp trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói
52
chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn đã
được các cơ quan chuyên môn của tỉnh quan tâm, thực hiện khá nghiêm túc theo
quy định, nhất là trong tham mưu, đề xuất chính sách và xử lý công việc, góp phần
quan trọng giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh thực hiện tốt vai trò chỉ đạo, quản lý, điều
hành các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Sự phối hợp
thể hiện trong các hoạt động như xây dựng chương trình phòng ngừa sát thực tế,
khoa học, hợp lý, bám sát các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và bao quát được các
lĩnh vực công tác, chủ động trong duy trì quan hệ công tác thường xuyên đảm bảo
việc trao đổi, cung cấp thông tin thuận lợi, kịp thời và đầy đủ, chính xác, phục vụ
khá tốt hoạt động quản lý, điều hành của tỉnh và của từng ngành, từng cấp; tích cực
phối hợp trong tham mưu, đề xuất chủ trương, chính sách, giải pháp và công việc cụ
thể, cùng tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc, mới phát sinh. Song song đó,
các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cũng phối hợp thực hiện khá đồng bộ công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đơn thư tố giác tội phạm.
Trong hoạt động tư pháp, các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án cũng đã phối
hợp chặt chẽ trong phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn, đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, sự phối hợp giữa các sở, ban,
ngành tỉnh vẫn còn một số bất cập, chưa thật sự năng động, chặt chẽ và đồng bộ, cụ
thể là: tinh thần trách nhiệm, tính tự giác, chủ động và nhạy bén của một số ngành
chuyên môn trong nắm tình hình để phối hợp với các ngành, địa phương có liên
quan trong tham mưu, đề xuất giải quyết công việc chưa đạt hiệu quả cao; tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm, trông chờ, ỷ lại vào cơ quan cấp trên hoặc ngang cấp vẫn còn
xảy ra đã dẫn đến sự chậm trễ, ách tắc trong giải quyết công việc chung. Do việc áp
dụng pháp luật còn chồng chéo, sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án còn chưa thật chặt chẽ trong điều tra, truy tố, xét xử nên nhiều vụ án Tòa
án phải trả trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Bên cạnh đó giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Việc áp dụng pháp luật
53
chưa thống nhất cũng là nguyên nhân khiến nhiều vụ án chậm tiến độ giải quyết.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tại chương 2 của luận văn tác giả đã
phân tích thực trạng tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018.
Từ việc phân tích thực trạng tình hình và nhận thức thực trạng các biện pháp
phòng ngừa đã thực hiện, tác giả đã làm rõ các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn, trong đó có
những đặc điểm mang thuộc tính chung của nhóm tội, có những đặc điểm mang
những nét riêng gắn với địa bàn cụ thể. Tiếp đó tác giả đã phân tích, đánh giá thực
trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng, chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó
làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp để thực hiện tốt hoạt động phòng ngừa loại
54
tội phạm này trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3
TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Dự báo về tình hình và yêu cầu tăng cường hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Dự báo THTP là sự phán đoán về thực trạng,
diễn biến, tính chất của THTP có thể xảy ra trong tương lai, về các nguyên nhân và
điều kiện, về các khả năng phòng, chống nó trong từng giai đoạn nhất định và việc
đánh giá về chất và lượng của những thay đổi trong THTP, các nguyên nhân và
điều kiện của nó” [49, tr.183].
Trên cơ sở đó có thể hiểu “Dự báo tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng là sự phán đoán về thực trạng, diễn
biến, tính chất của tình hình các tội thuộc nhóm này có thể xảy ra trong tương lai,
nhận định, đánh giá các nguyên nhân, điều kiện và khả năng thực hiện các giải pháp
phòng ngừa trong thời gian tới”.
3.1.1. Cơ sở dự báo
Trong thời gian tới tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn
tỉnh Lâm Đông sẽ có nhiều bước phát triển mới. Với lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng,
Lâm Đồng sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh về nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc đưa vào
vận hành các ứng dụng xây dựng thành phố thông minh và xây dựng nông trường
công nghệ cao ở thành phố Đà Lạt sẽ là cơ sở để lĩnh vực kinh doanh du lịch phát
triển lên một tầm cao mới. Ngoài ra, trong những năm qua tỉnh đã không ngừng
tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho các các đơn vị trung tâm có tiền năng như
thành phố Bảo Lộc, huyện Đức Trọng, huyện Đơn Dương... để những địa phương
này trở thành đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên cùng với sự phát
triển kinh tế cũng sẽ kéo theo nhiều tiêu cực xã hội vốn là mầm mống cho sự gia
55
tăng tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt nói riêng. Quá trình đô thị hóa và gia tăng dân số trên địa bàn tỉnh cũng phát
sinh các vấn đề về quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, kinh doanh, dịch vụ là điều kiện
thúc đẩy loại tội phạm này gia tăng.
Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục ở các thành phố, huyện trung tâm và các
khu vực kém phát triển trên địa bàn tỉnh cũng có sự chênh lệch đáng kể. Việc đổi
mới giáo dục đào tạo dù đã thực hiện quyết liệt trong những năm qua nhưng nhìn
chung nhiều tồn tại, hạn chế không thể khắc phục ngay được.Cùng với sự bùng nổ
công nghệ thông tin trong những năm qua, nhiều vấn đề về quan điểm sống, văn
hóa bạo lực, văn hóa phẩm đồi trụy đang xâm nhập vào một bộ phận không nhỏ giới
trẻ cũng là một trong những nguy cơ tiềm ẩn làm gia tăng tình hình tội phạm nói
chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
3.1.2. Nội dung dự báo
- Về mức độ, diễn biến của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn
Với đà phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội như hiện nay thì trong những năm
tới Lâm Đồng sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nhưng như đã nêu trên mặt
trái của sự phát triển cũng kéo theo nhiều vấn đề tiêu cực xã hội. Các hoạt động
kinh doanh du lịch, dịch vụ vẫn có sự tăng trưởng mạnh và lượng khách cũng như
sinh viên ngoại tỉnh vẫn tiếp tục cao. Do đó, tình hình tội phạm nói chung vẫn có sự
gia tăng nhất định. Phương thức thủ đoạn của các loại tội phạm nói chung và tội
phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, có khai thác sử
dụng các ứng dụng công nghệ cao vào việc phạm tội. Vì vậy, tính chất mức độ và
hậu quả của tội phạm liên quan các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt sẽ
nghiêm trọng hơn.
- Về cơ cấu, tính chất của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn
+ Đặc điểm nhân thân: Người phạm tội vẫn sẽ là những người có trình độ
văn hóa thấp, gia đình thiếu sự quan tâm, giáo dục hoặc gia đình không hoàn hảo;
56
độ tuổi vi phạm nhiều nhất là trong khoảng 18 – 30 tuổi; tỷ lệ nam giới vẫn chiếm
số đông trong cơ cấu về giới tính; số người phạm tội có liên quan đến ma túy, cờ
bạc chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, nạn nhân của tội phạm sẽ tập trung vào các cá
nhân hạn chế năng lực tự vệ như nữ giới, người già, trẻ em; những người tham
quan, du lịch, hoặc lao động, học tập tạm trú trên địa bàn.
+ Địa bàn hoạt động: Địa bàn hoạt động của các đối tượng phạm tội sẽ tập
trung ở các thành phố, huyện phát triển, các trung tâm về du lịch, học tập, nhà nghỉ,
khách sạn, khu công nghiệp, các tuyến giao thông giáp ranh, cung đèo....
Ngoài ra xu hướng đồng phạm sẽ có sự gia tăng về số lượng, số vụ và kết
hợp gia tăng việc sử dụng các loại vũ khí nóng, công cụ hỗ trợ... trong thực hiện
tội phạm.
- Về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn
Với đặc thù địa bàn có các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đi qua, giáp ranh với nhiều
tỉnh kết hợp với các địa điểm du lịch, nghỉ dưỡng thì việc quản lý nhân khẩu, hộ
khẩu và các hoạt động dịch vụ khác vẫn hết sức phức tạp, nhiều sơ hở thiết sót để
các đối tượng có thể lợi dụng phạm tội. Việc giáo dục pháp luật và nâng cao trình
độ văn hóa dù được thực hiện thường xuyên nhưng vẫn không tránh khỏi những bất
cập, hạn chế, nhất là khu vực nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Cùng
với phát triển kinh tế, lối sống thực dụng cũng ảnh hưởng lớn đến cuộc sống gia
đình và văn hóa là những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn.
- Về công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn
Quyết định số: 623/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược
quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến 2030 đã
phê duyệt 15 đề án chiến lược là cơ sở để đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm
trong cả nước nói chung và tại địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng. Trong thời gian
tới, với việc tăng cường lực lượng Công an chính quy về phụ trách xã cũng là
57
hướng tăng cường tính chuyên nghiệp và hiệu quả cho công tác đảm bảo an ninh
trật tự, an toàn xã hội từ cấp cơ sở. Vấn đề cải thiện ý thức trách nhiệm trong đấu
tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm chung của toàn dân sẽ được nâng cao.
Qua đó, việc thực hiện phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn trong
phòng ngừa tội phạm cũng hiệu quả hơn.
3.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và các giải pháp phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
3.2.1.1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan
Hoàn thiện cơ sở pháp lý trước hết tập trung vào việc khắc phục các hạn chế,
thiếu sót và bất cập trong quy định về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt.
- Quy định về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thể
hiện trong Bộ Luật hình sự năm 1999 (từ Điều 133 đến Điều 140) và trong Bộ Luật
hình sự năm 2015 (từ Điều 168 đến Điều 175). Về cơ bản Bộ Luật hình sự năm
2015 đã khắc phục được nhiều hạn chế so về quy định các tội trong nhóm tội so với
Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên qua thực tiễn nghiên cứu và phản hồi từ các cán bộ
trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố và xét xử trên địa bàn thì cần hướng dẫn rõ
thêm một số nội dung sau:
+ Một là, về cấu thành cơ bản của từng tội cụ thể trong nhóm các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần được hướng dẫn cụ thể bằng văn bản,
trong đó, cần xác định hành vi cụ thể của từng tội để có cơ sở và căn cứ áp dụng khi
phát hiện và đấu tranh với các hành vi đó. Chẳng hạn như đối với tội Cướp giật tài
sản tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 cần hướng dẫn cụ thể về hành vi cướp
giật là như thế nào. Việc quy định các hành vi phạm tội chung chung rất khó trong
xác định tội và dễ tạo cơ sở cho việc lách luật của một số cá nhân vi phạm có kiến
thức pháp luật. Hiện nay có rất nhiều ý kiến và bình luận về các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt theo Bộ Luật hình sự năm 2015, tuy nhiên các ý kiến
58
đó là những bình luận và quan điểm mang tính chất nghiên cứu cá nhân, vì vậy việc
áp dụng pháp luật vẫn cần dựa vào những văn bản chính thức của cơ quan có
thẩm quyền.
+ Hai là, cần có sự hướng dẫn cụ thể về thời điểm xác định tội phạm hoàn
thành của từng tội. Cụ thể như đối với tội cướp tài sản thì thời điểm hoàn thành từ
lúc người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm (dùng vũ lực, đe dọa dùng ngay tức
khắc vũ lực, hành vi khác làm người bị tấn công lâm vào trình trạng không thể
chống cự); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì thời điểm tội phạm hoàn thành
được tính từ lúc người phạm tội có hành vi bắt cóc người khác làm con tin (với mục
đích để chiếm đoạt tài sản) để đòi chuộc bằng tài sản; với tội cưỡng đoạt tài sản thì
được tính từ lúc người phạm tội thực hiện xong hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có
thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác kèm theo đòi hỏi về giao tài sản để nhằm
mục đích chiếm đoạt...
+ Ba là, hướng dẫn về cách phân biệt các hành vi phạm tội có nhiều yếu tố
tương đồng của từng tội cụ thể. Chẳng hạn như cướp tài sản làm chết người và giết
người để cướp tài sản; hành vi chiếm đoạt đối với những người không dám hoặc
không đủ khả năng tự vệ trong tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản; các đặc trưng hành vi công khai trong tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật
tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản...
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động phối hợp của các cơ quan chức năng
về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn. Theo đó, cần có sự phân công cụ thể, quy
định trách nhiệm và công tác kiểm tra hoạt động phối hợp định kỳ trong thực hiện
công tác phòng ngừa tội phạm.
3.2.1.2. Tăng cường tham mưu cho Đảng
Tham mưu cho cấp ủy Đảng tỉnh Lâm Đồng tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-
CT/TW của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới"; Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn
59
dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong tình hình mới”; Quyết định 623/QĐ-TTg ngày
14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược quốc gia phòng chống
tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến 2030.
Tham mưu về việc quán triệt các chủ trương, chính sách và các quy định
pháp luật nội dung đến các cấp, các ngành trong địa bàn tỉnh, phát huy tinh thần nêu
gương của lãnh đạo, đảng viên trong tổ chức thực hiện các nội dung trong nghị
quyết đảng ủy, quy định của chính quyền đến từng đơn vị cơ sở.
3.2.1.3. Nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành của UBND
- Triển khai thực hiện một cách hiệu quả phong trào phát động toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn các thành phố, huyện, thị xã thuộc tỉnh, trong đó
tăng cường phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân trong đấu tranh, tố giác tội
phạm, khuyến khích các điển hình tiên tiến trong nhân dân. Kiến nghị tăng cường
tập huấn nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên ở các đơn vị tuyên truyền, phố
biến pháp luật, các tổ chức dân vận, nhất là trong lực lượng Công an nhân dân.
- Tăng cường hiệu quả công tác trực ban, trực bảo vệ ở các trụ sở cơ quan
hành chính, cơ quan ban ngành, trường học trên địa bàn tỉnh theo hướng đảm bảo về
nhân lực, kỹ năng và trách nhiệm với công việc.
- Chỉ đạo Công an tỉnh phối hợp các ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa
phương tổ chức thực hiện tốt công tác phát động phong trào Toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc theo tinh thần Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới” một cách sâu rộng trong các khu dân cư, trường học, cơ quan, doanh
nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh, trong đó lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng,
chống tội phạm nhằm nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác, tham gia tố giác, đấu
tranh phòng, chống tội phạm; phát động và thực hiện tốt phong trào “02 giữ về An
ninh trật tự”; chủ trì ký kết quy chế kết nghĩa hỗ trợ xây dựng phong trào Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc giữa các phòng nghiệp vụ Công an tỉnh với các xã trọng
điểm, phức tạp về an ninh, trật tự.
- Chỉ đạo Đài phát thanh – Truyền hình, Cổng thông tin điện tử Lâm Đồng
60
dành nhiều thời lượng hơn nữa cho các nội dung về phòng ngừa tội phạm nói chung
và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, trong đó tập trung các chuyên mục về
“Chuyện cảnh giác”, “Phút giây cảnh giác”, “Giải mã”... đồng thời cung cấp thông
tin về các cơ quan chuyên trách như Công an xã, Công an huyện để người dân có
thể báo tin, tố giác tội phạm.
- Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tiếp tục chỉ đạo triển khai thực
hiện Đề án 01/138 về phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người lầm lỗi
tại cộng đồng dân cư, trong đó, củng cố và lắp đặt thêm các hộp thư tố giác tội
phạm. Ngoài ra, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp cần tổ chức vận động
cán bộ, đoàn viên, hội viên, người có uy tín trong địa bàn các khu dân cư nhận giúp
đỡ, kèm cặp các đối tượng vi phạm pháp luật, các đối tượng đang chấp hành án tại
nơi cư trú; chấp hành xong án phạt tù về cư trú tại địa phương nhằm giúp đỡ, tạo
điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng, sớm ổn định cuộc sống.
3.2.1.4. Nâng cao chất lượng đào tạo, bố trí hợp lý các chức danh tư pháp
hình sự, thi hành án hình sự
Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã đề cập các nội dung cấp
thiết về đào tạo nâng cao chất lượng các chức danh tư pháp để ngang tâm với đòi
hỏi của thời đại và xã hội.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, đặt tiếp nhiệm vụ phải thực hiện việc đào tạo và
đào tạo lại đối với các chức danh tư pháp hình sự, kể cả chức danh thi hành án hình
sự; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn,
trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo
đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán
bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.
Trên cơ sở đó, trong thời gian tới, để đảm bảo việc nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp hình sự, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao quyền hạn đi đôi với trách nhiệm trong tố tụng của các
61
chức danh tư pháp hình sự. Theo đó, quyền hạn của cán bộ tư pháp hình sự được
nâng cao tạo điều kiện để họ độc lập. trong giải quyết vụ việc; yêu cầu mỗi cán bộ
tư pháp phải thấy rõ trách nhiệm và thận trọng hơn trong mỗi quyết định của mình
từ đó phải tự học tập, rèn luyện nâng cao năng lực chuyên môn.
Thứ hai, cần có quy định rõ ràng về các tiêu chí cứng trong quy trình, thủ tục
bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp hình sự, trong đó, việc xem xét bổ
nhiệm với mỗi chức danh cần đảm bảo các điều kiện về năng lực chuyên môn và
thực tiễn công tác đã qua.
Thứ ba, cần xây dựng lộ trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều chuyển hợp lý cán
bộ giữa các đơn vị trong tỉnh, tránh tình trạng thiếu, thừa, chênh lệch về số lượng và
chất lượng đội ngũ cán bộ. Việc phân công, bố trí cán bộ bên cạnh căn cứ năng lực
công tác còn phải xem xét nguyện vọng cá nhân và yêu cầu thực tiễn.
Thứ tư, để nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phải bắt đầu từ
khâu tuyển chọn cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng và có phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng hiệu quả. Cần đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy; rà
soát, chỉnh lý, bổ sung, cập nhật kiến thức mới, bảo đảm nguyên tắc gắn kết chặt
chẽ giữa lý luận và thực tiễn; xây ựng chương trình đào tạo theo hướng chuẩn hoá
tiêu chuẩn nghề nghiệp trong đào tạo các chức danh tư pháp; đào tạo theo hướng tạo
điều kiện cho học viên tiếp cận với thực tế, tăng cường thời gian thực tập, kiến tập
về nghiệp vụ để học viên được tiếp cận, nghiên cứu, nghe báo cáo thực tế về những
vụ án, kể cả những vụ án thành công hay thất bại; các giáo trình, giáo án cần phải
linh hoạt tạo ra nhiều tình huống nghiệp vụ khác nhau, có kèm theo những giải pháp
hợp lý, hợp pháp và hiệu quả. Đồng thời phải tăng cường cơ sở vật chất, trang bị kỹ
thuật công nghệ đảm bảo đủ và hiện đại phục vụ cho việc đào tạo và học tập.
Thứ năm, định kỳ hàng năm cần tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo
tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và tham mưu đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp hình sự.
3.2.1.5. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân
trên địa bàn tỉnh
62
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân trong đó có nội dung
vận động nhân dân tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm đã và đang được thực
hiện trên địa bàn tỉnh. Mặc dù vậy, việc tuyên truyền chỉ ở phạm vi kiến thức phòng
ngừa tội phạm chung chứ ít khi đi vào các tội và nhóm tội phạm cụ thể, nhất là các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Đa số người dân chỉ biết đến các tội
xâm phạm sở hữu là trộm cắp, cướp, cướp giật và không biết hoặc nhầm lẫn các tội
khác trong nhóm cũng như việc phòng ngừa để không trở thành nạn nhân của tội
phạm. Do đó, để công tác tuyên truyền được hiệu quả hơn trong thời gian tới, có thể
tiến hành một số hoạt động như:
- Đổi mới nội dung tuyên truyền trong đó tập trung vào việc tuyên truyền
nâng cao ý thức tự bảo vệ tài sản của nhân dân và hạn chế nguy cơ trở thành nạn
nhân, nạn nhân tiềm năng của tội phạm xâm phạm sở hữu. Nội dung tuyên truyền
cần đi sát với thực tế công việc, cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân
trên từng địa bàn tỉnh, nêu rõ các phương thức thủ đoạn mà kẻ xấu đã lợi dụng sơ
hở của người dân khi thực hiện hành vi phạm tội; các tuyến, địa bàn thường xảy ra
tội phạm. Có như vậy, người dân mới dễ hiểu, dễ nhận biết và chủ động bảo vệ tài
sản hiệu quả hơn, qua đó cũng hạn chế tình hình các tội xâm phạm sở hữu.
- Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công tác tố giác tội phạm nói chung và
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Để tố giác tội phạm
hiệu quả thì việc nhận định, đánh giá hành vi phạm tội phải chính xác, kịp thời.
Theo đó việc tuyên truyền phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt cần bao gồm cả nội dung về những đặc điểm nhận diện, phát hiện các
đối tượng nghi vấn trộm cắp, cướp giật tài sản trên địa bàn; hướng dẫn cho người
dân khi phát hiện tội phạm thì cần ghi nhớ các đặc điểm gì và báo thông tin về đâu,
cho ai để nhân dân có thể áp dụng khi cần thiết.
- Đối với phương pháp tuyên truyền cần sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
tùy thuộc vào nội dung và địa bàn để đạt hiệu quả cao nhất. Trong đó phương pháp
tuyên truyền miệng (trực tiếp) là phương pháp sinh động, trực quan và đem lại hiệu
quả nhanh nhất; phương pháp tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại
63
chúng là phương pháp tiếp cận được đông đảo quần chúng nhân dân nhất; phương
pháp tuyên truyền thông qua phát động phong trào, tranh ảnh, áp phích là phương
pháp dễ thực hiện nhất... Về đối tượng thực hiện tuyên truyền có thể là học sinh,
sinh viên, công nhân khu công nghiệp, xí nghiệp hoặc tuyên truyền cá biệt khi
cần thiết.
- Tăng cường phố biến và hỗ trợ xây dựng, củng cố các mô hình an ninh trật
tự như: Tổ tự quản, liên gia tự quản, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, tổ chức dân
phòng. Khuyến khích các mô hình như “tuần tra nhân dân”, “tiếng kẻng an ninh”,
“dòng họ tự quản”... trên địa tỉnh.
3.2.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
3.2.2.1. Khắc phục những hạn chế từ môi trường gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách ban
đầu, do đó những hạn chế từ phía gia đình cần được khắc phục trước hết. Muốn vậy
đầu tiên cần làm tốt các chính sách an sinh xã hội, tiếp tục thực hiện mô hình “Gia
đình văn hóa”. Trong thời gian tới cần triển khai thực hiện đồng bộ mô hình “Phụ
nữ hai giỏi”, “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”... qua đó giáo dục và hướng mỗi
thành viên trong gia đình sống có trách nhiệm hơn với gia đình, xã hội. Mỗi gia
đình thực hiện tốt các tiêu chí đánh giá thì mỗi gia đình là một cơ sở vững chắc cho
việc xây dựng xã hội văn hóa, văn minh. Muốn vậy ông, bà, cha, mẹ phải là những
người nêu gương trước hết để con cháu học tập trên mọi phương diện, nắm bắt các
nhu cầu, thay đổi đặc điểm tâm sinh lý con cháu, các biểu hiện lệch lạc để uốn nắn
kịp thời. Đồng thời, mỗi bậc cha mẹ cũng cần thiết trang bị những kiến thức về nuôi
dạy trẻ, phương pháp giáo dục con cái theo cá tính của con, phương pháp giải quyết
các nhu cầu, đòi hỏi về vui chơi, giải trí cũng như phương pháp xử lý khi con
sai phạm...
Bên cạnh đó vai trò của các tổ chức cơ sở như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,
Công an xã, Tổ dân phố cũng phải nâng cao trách nhiệm hơn trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình nhất là trong hướng dẫn, giải quyết các vụ việc phát sinh
64
ở mỗi gia đình, nâng cao vai trò hòa giải cũng như hướng dẫn pháp luật.
3.2.2.2. Khắc phục những hạn chế từ môi trường nhà trường
Cũng như môi trường gia đình, môi trường nhà trường cũng đóng vai trò hết
sức quan trọng trong hình thành nhân cách. Những hạn chế, bất cập từ môi trường
nhà trường có thể ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển các yếu tố
tiêu cực trong mỗi cá nhân.
Trước mắt, cần tiếp tục thực hiện công tác đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình
độ chuyên môn cho giáo viên, cán bộ quản lý đào tạo trên toàn tỉnh, nhất là các khu
vực kém phát triển. Xây dựng kế hoạch phấn đấu nâng cao tỷ lệ chất lượng giáo
viên đến năm 2020 đạt trình độ đào tạo chuẩn và trên chuẩn. Ngành giáo dục và Ủy
ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh cần có những giải pháp mới trong tăng
cương, đầu tư cho giáo dục, từ chương trình đào tạo, tiêu chuẩn xét tuyển, tiêu
chuẩn công tác lẫn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên. Trước hết là xây
dựng các cơ sở thí điểm ở các trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh và nhân rộng ra
khi có hiệu quả tốt.
Song song với đó cần thực hiện các chủ trương nâng cao chất lượng giảng
dạy của đội ngũ giáo viên trong tỉnh. Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề, sinh hoạt chính trị để trao đổi, giải quyết những vướng mắc, kiến nghị
của giáo viên trong hoạt động giảng dạy, nâng cao tinh thần và tâm huyết với nghề
nghiệp. Mỗi giáo viên cần thực hiện một cách nghiêm túc việc đổi mới phương
pháp giáo dục, lấy người học làm trung tâm, đa dạng hóa về phương thức truyền
đạt, biến thời gian học thành thời gian yêu thích cho người học.
Đối với mỗi cấp học, lứa tuổi cần dành thời gian cho việc lồng ghép các nội
dung pháp luật một cách hợp lý, dễ hiểu. Mỗi giáo viên cũng phải tự trang bị kiến
thức cho mình để hướng dẫn học sinh đạt hiệu quả. Nội dung bài học cần tập trung
và dễ nhớ, ví dụ như: Các hành vi nào là bị cấm khi tham gia giao thông, các hành
vi nào là xâm phạm sở hữu và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, những thủ
đoạn mà kẻ xấu thường sử dụng để lôi kéo, bắt ép các em phạm tội và cách phòng
tránh, làm sao để bảo vệ bản thân và tài sản...
65
Ngoài ra nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với gia đình, địa phương trong
quản lý, giáo dục các thanh thiếu niên cá biệt, thường xuyên vi phạm pháp luật; kịp
thời phát hiện các thay đổi tâm lý, sinh hoạt của các em để chủ động có biện pháp
ngăn chặn. Nhà trường phải thực sự là cầu nối với gia đình và địa phương để có
biện pháp, phương hướng giáo dục với các em hiệu quả nhất.
3.2.2.3. Khắc phục những hạn chế từ tội phạm tiềm năng và nhân thân người
phạm tội
Với tội phạm tiềm năng có thể thực hiện thuyết cửa sổ vỡ một cách hiệu quả.
Theo đó, việc thực hiện những hoạt động phòng ngừa nhỏ nhất nhưng thường xuyên
và cẩn thận cũng có thể đem lại những thay đổi tích cực cho tình hình tội phạm nói
chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn.
Việc thực hiện các hoạt động phòng ngừa một cách thường xuyên cũng là cơ sở để
hạn chế gia tăng tội phạm tiềm ẩn và nguy cơ xảy ra tội phạm.
Với người đang chấp hành hình phạt thì các biện pháp giáo dục nhằm thay
đổi tư duy, nhận thức là hết sức quan trọng. Mỗi cá nhân phạm tội nếu nhìn từ góc
độ nạn nhân học đều có những yếu tố có thể cảm thông được. Các biện pháp giáo
dục phải tác động vào những yếu tố tích cực trong nhân cách và nhận thức để họ có
thể được cải tạo và tự cải tạo lại chính mình. Cán bộ thực hiện công tác giáo dục,
cải tạo phạm nhân cần có cái nhìn nhân văn hơn trong phương pháp giáo dục và
đánh giá mỗi cá nhân người phạm tội.
Với người đã chấp hành xong hình phạt việc tái hòa nhập cộng đồng đòi hỏi
sự vào cuộc mạnh mẽ của các tổ chức xã hội trên địa bàn. Thông qua các buổi họp
dân phố và sinh hoạt định kỳ mà vận động, giáo dục cảm hóa và thúc đẩy tạo điều
kiện tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt trở về địa bàn.
Đồng thời chính quyền địa phương nơi có người chấp hành xong hình phạt trở về
cần vận động các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn giúp đỡ tạo việc làm
cho họ. Ngoài ra, các tổ chức xã hội và cơ quan chuyên trách cần có sự phối hợp
trong quản lý, vận động người chấp hành xong hình phạt tái hòa nhập, tránh tái phạm.
3.2.2.4. Khắc phục những hạn chế về kinh tế xã hội và mặt trái nền kinh tế
66
thị trường
Việc khắc phục những hạn chế về kinh tế là một trong những biện pháp
phòng ngừa chung nhằm cải thiện toàn diện về kinh tế trên địa bàn tỉnh. Trước hết
cần xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách
khoa học và phù hợp với điều kiện của tỉnh Lâm Đồng. Theo đó, cần xây dựng các
kế hoạch phát triển kinh tế ổn định, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo giữa các khu
vực dân cư thuộc tỉnh; tổ chức mô hình hợp tác sản xuất có hiệu quả kết hợp việc
đào tạo nghề, cho vay vốn kinh doanh, nhất là đối với các đối tượng nghèo, vùng
khó khăn, người dân tộc thiểu số... Trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế
cần ưu tiên phát triển đồng đều các vùng gắn với việc phát triển văn hóa xã hội, xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc phát triển kinh tế cũng gắn với việc giáo dục, đào tạo con người trong
môi trường kinh tế thị trường, theo đó, cần chú trọng xây dựng và khuyến khích các
tấm gương tiêu biểu trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát huy vai trò tích cực,
chủ động của tổ chức cơ sở đảng, tổ chức xã hội trên địa bàn.
3.2.2.5. Khắc phục những hạn chế từ công tác quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tỉnh ủy, UBND
tỉnh Lâm Đồng, các cơ quan, tổ chức cần có các biện pháp quản lý Nhà nước về
kinh tế, quản lý về văn hóa xã hội, quản lý về quốc phòng, an ninh,trật tự an toàn xã
hội, dân tộc và tôn giáo, hành chính, tư pháp cũng như thực hiện việc quản lý các cơ
quan, tổ chức thuộc quyền. Tăng cương quản lý Nhà nước bằng nhiều phương pháp
nhưng, có những phương pháp chủ yếu sau:
- Tập trung quản lý Nhà nước về định cư, ổn định đời sống của các hộ tái
định cư.
- Các đơn vị hành chính cấp xã, phường cần xác định rõ và tăng cường vai
trò, vị trí của mình với tư cách là cơ quan hành chính cơ sở, trực tiếp, sâu sát với đời
sống nhân dân, am hiểu dân để đảm bảo dân sinh và nâng cao dân trí và đây chính
là biện pháp hữu hiệu trong quản lý nhà nước nói chung và trong phòng ngừa tội
67
phạm nói riêng.
- Đối với việc quản lý an ninh trật tự xã hội, lực lượng Công an phải tăng
cường công tác nghiệp vụ, tăng cường kiểm tra, trinh sát, xây dựng cơ sở để phục
vụ cho công tác điều tra, khám phá các vụ án một cách nhanh chóng và kịp thời
phục vụ nhiệm vụ chính trị. Trong quản lý hành chính, phải nhắc nhở các nhà hàng,
yêu cầu nhân viên, bảo vệ khách sạn cảnh giác với các đối tượng lạ mặt, thuê phòng
phải đảm bảo giấy tờ tùy thân. Gắn camera theo dõi ở những nơi có khả năng xảy ra
tình huống phạm tội, trong dịp các lễ hội.
- Định kỳ nghe các cơ quan pháp luật báo cáo về tình hình tội phạm nói
chung và trong từng lĩnh vực; giao cho cơ quan chuyên môn trực tiếp kiểm tra, theo
dõi, làm đầu mối trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan chấn chỉnh, đề ra
các biện pháp đánh giá, các biện pháp sửa chữa những thiếu sót, sai lầm trong
phòng ngừa tội phạm.
- Quản lý chặt chẽ việc đăng ký các dịch vụ truy cập, phát hành các ấn phẩm
bạo lực, có nội dung không lành mạnh, không phù hợp lứa tuổi.
- Ngoài ra, cần thực hiện bình đẳng tôn giáo và giới tính trong quản lý xã hội.
Tập trung quản lý việc phát huy các mặt tích cực của tôn giáo trong giáo dục con
người, xây dựng đoàn kết dân tộc, vận động người theo đạo sống có ích cho xã hội,
tốt đời, đẹp đạo.
3.2.2.6. Khắc phục những hạn chế trong nhận thức về phường ngừa tình hình
các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Yêu cầu cấp thiết là cần hoàn thiện cơ sở lý luận về công tác phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
trong thời gian tới, từ đó tạo cơ sở để xây dựng những chính sách hình sự hợp lý;
hoàn thiện hệ thống các cơ quan chuyên trách, bán chuyên trách và các cơ quan
phối hợp trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Cán bộ công tác trong các cơ
quan chuyên trách và bán chuyên trách này cần có kiến thức nhất định về tội phạm
học và phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là nắm vững các quy định pháp luật tương
ứng, có phương pháp làm việc phù hợp. Từ đó mới có thể thực hiện công tác tham
68
mưu một cách chủ động, khả thi để lãnh đạo các cấp đề ra chính sách và đưa ra giải
pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả.
Quá trình nghiên cứu ban hành các chương trình phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đối với từng đơn vị hành chính cần
đảm bảo sự phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn; kịp thời xử
lý các vướng mắc gặp phải trong quá trình thực hiện hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Thực hiện hoạt động đào tạo, đào tạo lại nâng cao trình độ và kinh nghiệm
xử lý vụ việc cho các cán bộ thực hiện công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, tạo điều kiện thực hành và nâng cao tay nghề
cho lực lượng này. Bên cạnh đó cần thường xuyên giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ
các địa phương khác liền kề, qua đó xây dựng hệ thống nhận thức lý luận phòng
ngừa tình hình tội phạm phù hợp với các đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội của
địa phương mình.
Nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt cho nhân dân, qua đó mà phát huy sức mạnh phòng ngừa và tự
phòng ngừa từ nhân dân.
3.2.2.7. Khắc phục những hạn chế trong công tác tuyên truyền vận động
nhân dân trong phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn
Công tác tuyên truyền phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trong thời gian tới trên địa bàn cần thực hiện tập trung hơn vào các
tội cụ thể dựa trên tình hình thực tế ở từng khu vực. Trong quá trình thực hiện cần
ưu tiên các yêu cầu sau:
Một là, phổ biến kiến thức pháp luật về nhóm tội này, giải đáp những thắc
mắc về những tình huống pháp luật liên quan cho người dân.
Hai là, tăng cường phối hợp giữa đơn vị tuyên truyền và trực tiếp phòng
ngừa với chính quyền địa phương, đoàn thể trên địa bàn tuyên truyền, tạo thuận lợi
cho việc tiến hành các hoạt động theo nội dung cam kết.
Ba là, tạo điều kiện cho cán bộ, báo cáo viên thực hiện công tác có điều kiện
69
kiểm nghiệm, rèn luyện năng lực.
Bốn là, xây dựng hình ảnh, tạo thiện cảm cho người dân và xây dựng tình
cảm pháp luật trong nhân dân
Như vậy, để thực hiện tốt công tác này trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời
gian tới cần đồng thời tiến hành các hoạt động:
- Thứ nhất, UBND các cấp cần tiếp tục quan tâm, chỉ đạo công tác tuyên
truyền pháp luật trên địa bàn quản lý. Mỗi cán bộ, đảng viên cần ý thức được vị trí,
vai trò của công tác tuyên truyền pháp luật nói chung và tuyên truyền phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Cần xác định
công tác tuyên truyền cũng là công tác dân vận do đó, phải gắn việc tuyên truyền
pháp luật với hoạt động giao tiếp, ứng xử với nhân dân.
- Thứ hai, xây dựng và đào tạo cán bộ làm công tác tuyên truyền, đội ngũ
tuyên truyền viên giỏi. Theo đó, đơn vị được giao công tác tuyên truyền cần lựa
chọn và đào tạo kỹ năng cho một đến hai người chuyên làm báo cáo viên. Báo cáo
viên là những người có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, có ý thức tổ chức kỷ
luật trong phát ngôn, gương mẫu trong công việc, có khả năng tiếp thu và đặc biệt là
năng lực truyền đạt thông tin.Trong đội tuyên truyền viên cần phân công trách
nhiệm cụ thể cho từng người căn cứ vào khả năng, điều kiện thực hiện công việc.
Có như vậy khi tiến hành tuyên truyền ở nhiều nơi, nhiều nội dung khác nhau vẫn
thể hiện được tính chuyên nghiệp và đảm bảo hiệu quả.
- Thứ ba, trước khi tuyên truyền cần làm tốt công tác tìm hiểu và vận động
thực tế ở địa bàn. Tìm hiểu địa bàn rất quan trọng, qua tìm hiểu địa bàn mà phát
hiện những vấn đề còn vướng mắc, những lỗi vi phạm thường gặp, đặc điểm tình
hình nhân dân trên địa bàn, phong tục, lối sống, tình hình tội phạm có liên quan…
từ đó nội dung tuyên truyền mới sát, mới phù hợp với nhận thức của người dân.
Phải nắm được người dân cần gì, mong muốn gì khi tham dự buổi tuyên truyền;
đồng thời, để người dân chịu đến nghe, tham dự buổi tuyên truyền thì cần phải vận
động. Vận động ở đây có nhiều cách, có thể nhờ chính quyền địa phương vận động
hoặc nhờ các tổ chức, đoàn thể. Bên cạnh đó, việc vận động cũng có thể thông qua
70
tổ chức các buổi giao lưu thể thao, văn nghệ trước khi tiến hành thông báo về buổi
tuyên truyền.
- Thứ tư, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp tuyên truyền khác nhau.
Trong buổi tuyên truyền, báo cáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp tuyên truyền
miệng, trực tiếp tác động đến người nghe. Tuy nhiên, để tăng hiệu quả truyền đạt
trong buổi tuyên truyền, có thể kết hợp các phương pháp tuyên tuyền thông qua
tranh ảnh, áp phích, sân khấu hóa nội dung… Khi tuyên truyền trực tiếp đòi hỏi
ngôn ngữ, lập luận của báo cáo viên phải chính xác, dễ hiểu và phải có hoạt động
giao tiếp với người được tuyên truyền. Khi xử dụng tranh ảnh, sân khấu hóa phải
xây dựng nội dung cho sát, gần gũi với thực tế cuộc sống người dân sở tại mới cuốn
hút người theo dõi.
- Kết hợp tuyên truyền với triển khai kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội
phạm, làm cho tuyên truyền vừa là cơ sở để thực hiện kế hoạch hiệu quả, vừa có tác
dụng phòng ngừa chung.
3.2.2.8. Khắc phục những hạn chế trong hoạt dộng điều tra, truy tố và xét xử
trên địa bàn
Trong quá trình giải quyết vụ án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán. Trong đó, Kiểm sát viên với vai trò kiểm sát hoạt động tư
pháp cần tích cực, chủ động trao đổi với Điều tra viên, Thẩm phán để giải quyết những
vấn đề phát sinh cần tháo gỡ ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; tham mưu kịp
thời với Lãnh đạo liên ngành kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình giải quyết vụ án nhằm hạn chế và khắc phục triệt để việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung đối với những trường hợp không cần thiết hoặc không có căn cứ.
Cần xây dựng tốt mối quan hệ phối hợp giữa 3 ngành để khắc phục thiếu sót
trong quá trình giải quyết vụ án. Khi xảy ra tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
lãnh đạo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án cần tiến hành họp ngay và làm
rõ trách nhiệm về những thiếu sót của Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán
để cùng rút kinh nghiệm (đối với những vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung),
hướng tới mục đích đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
71
đúng pháp luật, đúng thời hạn luật định. Đối với những vụ án phức tạp và nghiêm
trọng, lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cần chủ động phối hợp để kịp thời
tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, bên cạnh đó tranh thủ sự
hướng dẫn nghiệp vụ của cấp trên.
Duy trì tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm về giải quyết các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, nhất là đối với các vụ án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung nhằm bàn bạc, thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tìm ra
giải pháp khắc phục các vướng mắc, thống nhất quan điểm về nhận thức và áp dụng
pháp luật, từ đó giúp cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán thay đổi nhận
thức, khắc phục những hạn chế, thiếu sót còn tồn tại, nhất là nhằm hạn chế tỷ lệ án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng cán bộ ở cả ba ngành cần được thực hiện
hiệu quả hơn ngay từ khâu tuyển chọn đến hoạt động đào tạo, đào tạo lại. Xác định
việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn là hoạt động được thực hiện định kỳ, được
kiểm tra, đánh giá chất lượng bồi dưỡng gắn với chương trình công tác mỗi đơn vị.
3.3. Tăng cường nguồn lực phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
3.3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đông, việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ tư pháp hình sự hiện nay là yêu cầu cấp thiết. Thực tế cho thấy năng lực cán
bộ thực hiện các hoạt động đấu tranh, phòng ngừa tội phạm ở địa phương còn một
số hạn chế nhất định cả về số lượng và chất lượng. Một số cán bộ được bố trí công
tác không đúng với trình độ, chuyên môn được đào tạo cũng làm hạn chế khả năng
công tác. Như vậy, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức
danh tư pháp hình sự thì để nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm,
cần tăng cường đào tạo và đào tạo lại đối với các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
bảo vệ pháp luật, đặc biệt là ngành Công an. Theo đó, cần liên hệ và phối hợp với
các cơ sở đào tạo chính quy để thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng
72
cho lực lượng này. Đồng thời, thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm
giữa các đơn vị, địa phương trong tỉnh và với các đơn vị, địa phương ngoài tỉnh đã
thực hiện có hiệu quả công tác này.
3.3.2. Thực hiện biên chế cán bộ hợp lý và hiệu quả
Với đặc thù địa bàn tỉnh trải rộng, kéo dài trên nhiều địa hình phức tạp nên
công tác bố trí cán bộ cũng khó hợp lý. Đa phần cán bộ đều có nguyện vọng công
tác ở những địa bàn có điều kiện kinh tế, văn hóa phát triển nên số lượng và chất
lượng cán bộ trong lĩnh vực do vậy đã không đồng đều ở các huyện thị khác nhau
trong tỉnh. Lực lượng nòng cốt trong công tác phòng ngừa tội phạm là lực lượng
Công an vẫn đang còn thiếu về số lượng và chưa đồng đều về chất lượng. Trước
tình hình và yêu cầu bố trí lực lượng Công an chính quy về công tác tại các xã trong
cả nước và trên địa bàn tỉnh, lực lượng Công an cũng đang gặp khó khăn trong việc
phân công công tác. Do số lượng công việc quá tải, lực lượng lại phân tán, thiếu tập
trung, bị dàn trải nên hiệu quả công tác chưa cao. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ,
chiến sỹ vẫn có tư tưởng chạy theo thành tích, chỉ tập trung vào việc điều tra, giải
quyết các vụ việc mà không coi trọng công tác phòng ngừa tội phạm.
Bên cạnh Công an cấp cơ sở cần tăng cường biên chế hợp lý cho lực lượng
Công an cấp huyện, thị xã, thành phố, đặc biệt là đối với lực lượng Cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự xã hội Công an các huyện, thị xã, thành phố. Trước mắt, cần
quan tâm đến biên chế và bố trí lực lượng ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về
ANTT như thành phố Đà Lạt, thành phố Bảo Lộc, huyện Đức Trọng...
3.3.3. Tăng cường phương tiện, trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại
Bên cạnh nhân lực còn thiếu và yếu thì trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật
công nghệ phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh cũng
còn những hạn chế nhất định. Do đặc thù của nhóm tội phạm cần phòng ngừa nên
các trang thiết bị như ô tô, xe máy phân khối lớn, súng, dùi cui điện, các loại
phương tiện kỹ thuật nghe nhìn, ghi hình, ghi âm và công cụ hỗ trợ khác là hết sức
cần thiết. Thực tế không thể phủ nhận hiệu quả, tiết kiệm về thời gian, công sức,
73
nâng cao chất lượng công tác từ những phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại đem lại.
3.3.4. Kinh phí
Kinh phí trong mọi hoạt động đóng vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở và
động lực tiến hành các hoạt động một cách hiệu quả, nhanh chóng. Hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cũng đòi hỏi
nguồn kinh phí lớn. Việc bổ sung, phân bố và sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí là
vấn đề luôn được đặt ra và cần bảo đảm thích ứng trong thời gian tới.
Kinh phí cần thiết trong công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn có thể gồm: kinh phí xây dựng kế hoạch,
chủ trương, kinh phí hoạt động thông tin, tuyên truyền; chi hỗ trợ các hoạt động đấu
tranh với tội phạm về các tội chiếm đoạt tài sản; chi thu thập số liệu, quản lý hệ
thống số liệu và xử lý thông tin, phân tích, đánh giá, thống kê số liệu về tình hình
các tội chiếm đoạt tài sản và hoạt động phòng, chống các tội chiếm đoạt tài sản; chi
hỗ trợ hoạt động truy tố, xét xử tội phạm về các tội chiếm đoạt tài sản đối với các vụ
án điểm, trọng điểm; chi đào tạo, tập huấn, hội nghị, hội thảo; chi khen thưởng cho
tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động phòng, chống các tội phạm
chiếm đoạt tài sản...
3.3.5. Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn lực lượng Công an trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng
Lực lượng Công an luôn là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng ngừa tội
phạm, đặc biệt là lực lượng Công an cấp cơ sở. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ
của lực lượng Công an là trực tiếp đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo vệ Đảng,
bảo vệ chính quyền, giữ gìn An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên lĩnh vực an ninh trật tự, lực lượng Công
an có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn, phối hợp chặt chẽ với các chủ thể liên quan
để phòng ngừa tội phạm. Trong hoạt động kiện toàn tổ chức, bộ máy của lực lượng
Công an nhân dân, đề án công an xã chính quy đang được thực hiện nghiêm túc và
quyết liệt ở nhiều tỉnh, thành phố trong đó có tỉnh Lâm Đồng. Đây sẽ là lực lượng
chính quy nòng cốt trong phòng ngừa tội phạm và có vai trò nâng cao chất lượng
74
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Trong thời gian tới, lực lượng Công an tỉnh Lâm Đồng cần hoàn thiện công
tác tổ chức trong hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt. Thực tiễn chưa có cán bộ làm công tác chuyên sâu về phòng ngừa các
tội này mà chỉ mới có những cán bộ theo dõi chung hoạt động của tội phạm. Đến
nay vẫn chưa bố trí cán bộ tổ chức các hoạt động phòng ngừa ở các địa bàn hoặc
nghiên cứu rút ra được những đặc trưng của loại tội phạm này để có dự báo về xu
hướng của loại tội phạm này và có giải pháp phòng ngừa loại tội phạm này một
cách kịp thời và hiệu quả. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống tổ chức lực lượng phòng
ngừa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ tỉnh xuống các xã,
phường. Đồng thời cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cần thường xuyên tổng kết rút ra
những đặc thủ của loại tội phạm này để hướng dẫn Công an cấp huyện và cấp xã,
75
phường thực hiện hoạt động phòng ngừa có hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Hoạt động phòng ngừa tội phạm là nhiệm cụ chung của toàn xã hội. Để thực
hiện hoạt động phòng ngừa được hiệu quả đòi hỏi phải huy động được sức mạnh
toàn dân, trong đó, chính quyền các cấp phải thực sự là lực lượng nòng cốt. Hoạt
động phòng ngừa thì lấy việc nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân làm cơ sở
để tiến hành các giải pháp phòng ngừa.
Từ thực trạng tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014
– 2018, tác giả đã xây dựng nội dung dự báo về tình hình diễn biến các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn trong thời gian tới, đây cũng là cơ
sở cho việc tiến hành các giải pháp phòng ngừa.
Tác giả luận văn đã xây dựng các giải pháp phòng ngừa gồm hoàn thiện cơ
sở pháp lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường công tác tuyên truyền,
khắc phục các hạn chế về gia đình, nhà trường, kinh tế xã hội, các hạn chế trong
công tác quản lý nhà nước, tăng cường nguồn lực phòng ngừa...
Các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới cần được tiến hành một
cách đồng bộ, liên tục với cơ chế giám sát hiệu quả để từng bước hạn chế, loại bỏ
các mặt tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm tiến tới loại bỏ và
76
kiểm soát tình hình các tội này tại địa phương.
KẾT LUẬN
Phòng ngừa tội phạm là công tác vừa góp phần giữ gìn an ninh, trật tự xã hội
vừa góp phần vào hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Với ý nghĩa đó, hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng cũng luôn được cấp ủy Đảng,
chính quyền và nhân dân tỉnh quan tâm. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực khó khăn,
phức tạp, muốn hoạt động có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều lực
lượng và cùng thực hiện đồng bộ các biện pháp, giải pháp theo kế hoạch thống nhất.
Thực tế cho thấy, trong 05 năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiệu quả
công tác phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng chưa đạt được kết quả như mong muốn, các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến ngày càng phức tạp có chiều
hướng gia tăng. Đây là một vấn đề nóng bỏng đã được đề cập trong nội dung luận văn.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tình hình, tác giả đi sâu phân tích những vấn
đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tộixâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, phân tích tình hình tội phạm thể hiện qua các thông số về mức độ, cơ cấu,
động thái, tính chất và làm rõ tình hình tội phạm ẩn của các tội này trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. Trên cơ sở đó, tác
giả tìm ra những nguyên nhân, điều kiện là các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường
sống bên ngoài, các yếu tố tâm – sinh – lý của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội và
quá trình hình thành bản thân hành vi phạm tội. Qua đó, tác giả luận văn xây dựng
hệ thống các biện pháp phòng ngừa, tập trung vào các biện pháp ngăn chặn và loại
trừ nhóm tội phạm này trong tương lai. Đây là những biện pháp mang tính khoa
học, thực tiễn và có tính khả thi cao, giúp các cơ quan tư pháp có thể vận dụng trong
quá trình đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trong thời gian tới, góp phần giữ vững an ninh trật tự của địa phương.
Tuy nhiên do đây là một đề tài rộng, phức tạp và với khả năng và điều kiện
77
nghiên cứu có hạn của tác giả, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Vì vậy, để luận văn được hoàn thiện hơn, tác giả kính mong nhận được sự
78
đóng góp ý kiến từ các thầy giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), Kế hoạch số 01/BCĐ138/CP, ngày
10/12/1999 triển khai thực hiện Nghị quyết 09/CP ngày 31/7/1998 của Chính
phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
2. Ban Chấp hành Trung ương – Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW
ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới.
5. Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam, quyển 2 phần các tội phạm,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 về ban hành chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.
7. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 31/7/1998 về tăng cường
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
8. Nguyễn Minh Đức (2012), Phòng, tránh vi phạm pháp luật và tệ nạn ma túy
trong lứa tuổi thanh, thiếu niên,NXB Thông tin và truyền thông.
9. Học viện Cảnh sát nhân dân (2009, 2010), Giáo trình Tội phạm học, Hà
Nội.
10. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam (Tài
liệu tham khảo dành cho hệ đào tạo sau đại học).
11. Học viện hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính
Nhà nước – Phần I, II, III, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Văn Hưởng (2009), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự đã sửa đổi bổ
sung năm 2009, NXB Lao động, Hà Nội.
13. Khoa học hình sự Việt Nam – Tập 1,4,5, NXB Công an nhân dân năm 2012.
14. Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm
phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 1999, NXB Lao động, Hà Nội.
15. Quốc hội, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Chính trị
quốc gia.
16. Quốc hội, Luật phòng, chống ma túy năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2008,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội, Luật Thi hành án hình sự năm 2011 và văn bản hướng dẫn thi hành,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998
phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
19. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của
Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai
đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
20. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự
21. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư
pháp, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các
tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.
22. Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, thống kê xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm từ
năm 2014 đến năm 2018.
23. Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, 100 bản án của các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt đã sưu tầm, nghiên cứu từ năm 2014-2018.
24. Phạm Văn Tỉnh (2015), Bài giảng Tội phạm học.
25. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
26. Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn (2010), Đấu tranh với tình hình tội phạm chống
người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân.
27. Phạm Văn Tỉnh, Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc độ của tội
phạm học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6-2007.
28. Phạm Văn Tỉnh, Khoa học pháp lý Việt Nam và yêu cầu nâng cao trình độ lý
luận theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
8/2011.
29. Phạm Văn Tỉnh, Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở nước ta
hiện nay – Mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2008.
30. Phạm Văn Tỉnh, Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con người – Một
nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 7-2011.
31. Phạm Văn Tỉnh, Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội phạm, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 3-2014.
32. Phạm Văn Tỉnh (2013), Tập bải giảng Những vấn đề lý luận cơ bản của tội
phạm học, Học viện khoa học xã hội.
33. Phạm Văn Tỉnh (2013), Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt
Nam qua số liệu thống kê (1986-2008), Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4-2011.
34. Phạm Văn Tỉnh (2007), Vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm học và nhu cầu
nâng cao trình độ lý luận tội phạm học ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật (số 12), tr. 11-19.
35. Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tạp chí
Luật học số 3-2000.
36. TS.Lê Thế Tiệm (2002), Thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Từ điển triết học (1986), Nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va.
38. Trần Hữu Tráng, Nạn nhân của tội phạm, NXB Giáo dục Việt Nam.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia.
41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Dự án hỗ trợ thể chế (2009), Tội phạm có tổ
chức, đưa hối lộ, nhận hối lộ và rửa tiền – Thực tiễn và giải pháp đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này.
42. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, thông tin khoa học pháp lý
(2001), Chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng
đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ.
43. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa,
44. Võ Khánh Vinh (2009), Giáo trình tội phạm học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản, NXB
Khoa học xã hội.
46.Võ Khánh Vinh (2003), Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tình hình
tội phạm, trong cuốn Giáo trình tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội.
47. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 1, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội.
49..Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Trường ĐH Luật Hà Nội (2005), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Năm Số vụ Số bị cáo
2014 371 576
2015 375 604
2016 366 566
2017 377 594
2018 390 637
Tổng số 1879 2977
Trung bình 375,8 595,4
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.2. Tỷ lệ các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt so với
tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Số vụ Bị cáo
Tỷ lệ Tỷ lệ Tội Các tội Các tội Năm (%) (%) Tội phạm phạm XPSHCTCchiếm XPSHCTC (2)/(3) (5)/(6) nói chung nói chiếm đoạt đoạt chung
(2) (1) (3) (4) (5) (6) (7)
371 2014 824 45,0 576 1324 43,5
375 2015 830 45,2 604 1387 43,5
366 2016 760 48,2 566 1262 44,8
377 2017 770 49,0 594 1255 47,3
390 2018 727 53,6 637 1194 53,4
48,0 6422 46,4 Tổng 1879 3911 2977
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.3. Mức độ phạm tội theo các tội danh thuộc nhóm các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn
2014 – 2018:
STT Tội danh Điều luật Số vụ Tỷ lệ (%)
Tội cướp tài sản 168 95 5,1% 1
Tội bắt cóc nhằm CĐTS 169 03 0,2% 2
Tội cưỡng đoạt tài sản 170 87 4,6% 3
Tội cướp giật tài sản 171 158 8,4% 4
Tội công nhiên CĐTS 172 0 0% 5
Tội trộm cắp tài sản 173 1236 65,7% 6
Tội lừa đảo CĐTS 174 175 9,3% 7
Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS 175 125 6,7% 8
9 Tổng số 1879 100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.4: Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Mức độ tăng, giảm Số bị Mức độ tăng, giảm Năm Số vụ hàng năm hàng năm cáo
371 100% 100% 576 2014
375 101,07% (tăng 1,07%) 104,9% (tăng 4,9%) 604 2015
366 98,65% (giảm 1,34%) 98,26% (giảm 1,74%) 566 2016
377 101,62% (tăng 1,62%) 103,12% (tăng 3,12%) 594 2017
390 105,12% (tăng 5,12%) 110,6% (tăng 10,6%) 637 2018
2014-2016 1.122 100% 1.746 100%
2016-2017 1.133 100,1% (tăng 0,1%) 1.797 103 % (tăng 3%)
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.5: Động thái của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 – 2018:
Mức độ tăng, giảm Số bị Mức độ tăng, giảm hàng Năm Số vụ hàng năm năm cáo
371 2014 100% 100% 576
375 2015 101,07% (tăng 1,07%) 104,9% (tăng 4,9%) 604
366 2016 98,65% (giảm 1,34%) 98,26% (giảm 1,74%) 566
377 2017 101,62% (tăng 1,62%) 103,12% (tăng 3,12%) 594
390 2018 105,12% (tăng 5,12%) 110,6% (tăng 10,6%) 637
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.6: Cơ cấu hình phạt do Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn
2014 – 2018:
STT Hình phạt Số bị cáo Tỷ lệ (%)
1 Cải tạo không giam giữ 77 2,6%
2 Án treo 98 3,3%
3 Từ 07 năm tù trở xuống 1878 63,1%
4 Từ 07 năm đến 12 năm tù 766 25,73%
5 Từ 12 năm đến 20 năm tù 153 5,14%
6 Tù chung thân 5 0,17%
7 Tử hình 0 0%
8 Tổng số 2977 100%
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.7. Cơ cấu về giới tính của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Giới tính Số bị cáo Tỷ lệ
88,11% Nam 2623
11,89% Nữ 354
100% Tổng số bị cáo 2977
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.8. Cơ cấu xét theo độ tuổi của người phạm các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Tuổi của bị cáo Số bị cáo Tỷ lệ (%)
16,22 Từ 14 đến dưới 18 tuổi 483
72,15 Từ 18 đến 35 tuổi 2.148
11,63 Trên 35 tuổi 346
100 Tổng cộng 2.977
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.9. Cơ cấu trình độ học vấn của người phạm các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Trình độ học vấn Số bị cáo Tỷ lệ (%)
6,2 Không biết chữ 186
19,5 Học hết cấp I 567
31,3 Cấp II 932
42,5 Cấp III 1264
0,5 28 Trung cấp, Cao đẳng, Đại học
100% 2977 Tổng cộng
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
Bảng 2.10. Cơ cấu xét theo thời gian xảy ra các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018:
Số vụ Tỷ lệ (%) Thời gian
27 27 06h00 – 12h00
07 7 12h00 – 18h00
32 32 18h00 – 24h00
34 34 24h00 – 06h00
100 100% Tổng cộng
Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng