ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MẪN THỊ PHƯƠNG NAM QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2018 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MẪN THỊ PHƯƠNG NAM QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2018 Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nghiêm Thị Hải Yến THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong,

tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2018” là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả,

các số liệu thu thập và trích dẫn trong luận văn là trung thực.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mẫn Thị Phương Nam

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn cô Nghiêm Thị Hải Yến đã tận tình hướng dẫn

tác giả trong quá trình học tập cũng như trong việc hoàn thành luận văn.

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả xin cảm ơn chân

thành đến các thầy cô trong tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam - Khoa Lịch sử trường Đại

học sư phạm Thái Nguyên.

Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn đến UBND huyện Yên Phong, cùng các

ban, ngành đoàn thể trong huyện đã cung cấp tư liệu để tác giả hoàn thành luận văn của

mình.

Cuối cùng, xin được cảm ơn gia đình, bạn bè những người luôn sẵn sàng sẻ chia

và giúp đỡ tác giả trong học tập và cuộc sống. Đây là nguồn lực động viên tinh thần rất

lớn để tác giả hoàn thành luận văn của mình. Xin chúc những điều tốt đẹp nhất sẽ luôn

đồng hành cùng mọi người.

Do năng lực và thời gian hạn chế nên nội dung nghiên cứu chắc chắn sẽ không

tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp,

phê bình, bổ sung của quý thầy cô và các bạn học viên để luận văn được hoàn hiện

hơn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mẫn Thị Phương Nam

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ........................................................................ vi

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 1

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .......................................... 4

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 6

5. Những đóng góp của đề tài ....................................................................................... 7

6. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 7

Chương 1:LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA. SỰ HÌNH THÀNH KINH TẾ

XÃ HỘI CỦA HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM

1986 .............................................................................................................................. 8

1.1. Một số vấn đề lý luận về đô thị và đô thị hóa ........................................................ 8

1.1.1. Đô thị và phân loại đô thị ................................................................................... 8

1.1.2. Đô thị hóa .......................................................................................................... 15

1.2. Lịch sử hình thành huyện Yên Phong .................................................................. 19

1.3. Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong trước năm 1986 .............................. 23

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 29

Chương 2:HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2007 ................... 30

2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................................... 30

2.2. Những biến đổi về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng ............................................... 31

2.2.1. Biến đổi về kinh tế ............................................................................................ 31

2.2.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng .................................................................................. 39

2.2.3. Biến đổi về xã hội ............................................................................................. 44

2.3. Những thay đổi về cảnh quan môi trường ........................................................... 49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.3.1. Cảnh quan ......................................................................................................... 49

2.3.2. Môi trường ........................................................................................................ 51

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 54

Chương 3:HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2018 ................... 55

3.1. Những biến đổi về kinh tế cơ sở hạ tầng ............................................................. 55

3.1.1. Biến đổi về kinh tế ............................................................................................ 55

3.1.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng .................................................................................. 63

3.2. Biến đổi về văn hóa xã hội .................................................................................. 68

3.2.1. Về văn hóa ........................................................................................................ 68

3.2.2. Về xã hội ........................................................................................................... 74

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 85

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CCN Cụm công nghiệp

CN - TTCN Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

CNH - HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

ĐTH Đô thị hoá

HĐND - UBND Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân

KCN Khu công nghiệp

NĐ - CP Nghị định Chính phủ

NQ - CP Nghị quyết Chính phủ

NXB Nhà xuất bản

THCS Trung học cơ sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THPT Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng:

Bảng 1.1. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Quyết định số 132/HĐBT ......... 10

Bảng 1.2. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 72/2001/NĐ - CP ........ 11

Bảng 1.3. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 42/2009/NĐ - CP ....... 12

Bảng 1.4. Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị(tối thiểu đạt 3,75 điểm,tối

đa đạt 5,0 điểm) .......................................................................................... 14

Bảng 2.1. Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lúa cả năm của huyện Yên Phong

từ năm 1997 - 2006 .................................................................................... 34

Bảng 2.2. Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm từ năm 1997 - 2006 ................................... 35

Bảng 3.1. Số lượng, sản lượng thịt đàn trâu, bò, lợn, gia cầm huyện Yên Phong

giai đoạn 2007 - 20018 ............................................................................... 58

Bảng 3.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp phân theo loại hình kinh tế giai đoạntừ

2015 - 2018 ................................................................................................. 60

Bảng 3.3. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (theo giá

hiện hành so sánh năm 2010) giai đoạn từ 2010 - 2018 ............................. 62

Bảng 3.4. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh trường mầm non đầu năm học

trên địa bàn huyện Yên Phong năm từ 2007 - 2018 ................................... 78

Bảng 3.5. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh đầu năm học trên địa bàn huyện

Yên Phong từ năm 2007 - 2018 ................................................................. 79

Biểu đồ:

Biểu đồ 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Phong năm 2006 ............................... 32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Biểu đồ 3.1. Quy mô dân số huyện Yên Phong giai đoạn 2007 - 2018....................... 75

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển. Sự thúc đẩy

của xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam tiến hành công cuộc CNH - HĐH. Cũng như nhiều

quốc gia trên thế giới, quá trình thực hiện CNH - HĐH đã thúc đẩy quá trình ĐTH ở

Việt Nam. Đặc biệt, sau năm 1986, quá trình ĐTH diễn ra nhanh chóng, được xem là

một quy luật, con đường tất yếu, là tiêu chí để đánh giá được sự phát triển của Việt

Nam, trong đó phải phát triển hài hoà giữa khu vực đô thị và nông thôn.

Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh giàu truyền thống lịch sử và cũng là tỉnh mũi nhọn trong

sự phát triển của đất nước. Bắc Ninh với những thế mạnh nổi trội về tài nguyên thiên

nhiên, kinh tế, văn hoá- xã hội, cơ sở hạ tầng… là điều kiện thuận lợi cho quá trình

ĐTH. Tính đến nay, về cơ bản tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành việc nâng cấp, chỉnh trang

lại các thị xã, huyện... hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện.

Trong các thị xã, huyện của tỉnh Bắc Ninh, Yên Phong là huyện có khả năng đáp

ứng những đòi hỏi yêu cầu đặt ra của thời đại mới. Đây là vùng đất có nguồn lịch sử văn

hóa lâu đời cũng như nhiều điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong phú. Chính vì vậy,

cùng với những chủ trương đổi mới, khuyến khích đầu tư của Đảng và nhà nước, huyện

Yên Phong đã đẩy mạnh cải cách, thực hiện cơ sở quản lý mới kịp thời tháo gỡ những khó

khăn vướng mắc đảm bảo môi trường mới cho quá trình ĐTH của mình.

Là người dân của huyện Yên Phong, tác giả nhận thấy việc tìm hiểu về lịch sử

phát triển của vùng đất này trong quá trình hình thành và phát triển sau đổi mới đến

nay, đặc biệt về quá trình ĐTHđã góp phần hiểu biết thêm về lịch sử quê hương mình.

Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề nghiên cứu: “Quá trình đô thị hóa của huyện

Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2018” làm đề tài luận văn tốt nghiệp

của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Nước ngoài

Tìm hiểu về vấn đề ĐTH tác giả đã biết đến các công trình nghiên cứu sau:

Ở Liên Xô cũ tiêu biểu như: “Quần cư trong các đầu mối công nghiệp” và “Quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hoạch các thành phố và các vùng” năm 1964 của V.G. Davidoicts(1960) ngoài ra còn

có của B.X.Khorev, Yu.L.Pivovarov,... Tuy cuốn sách chưa đi đến nghiên cứu quá trình

phát triển lâu dài của đô thị sau này nhưng cũng đã phân tích được những khía cạnh

kinh tế, lịch sử của các thành phố và nghiên cứu cấu trúc lãnh thổ nội tại của thành phố.

Ở các nước phương Tây khác, có các công trình nghiên cứu về đô thị như: “Quy

hoạch đô thị” (1993) của Piere Mercin, “Cuộc sống thành thị bài đọc trong nhân chủng

học đô thị” (1996) của Third Edition. Về ĐTH với lý thuyết “vị trí trung tâm” của

Walter Chiristaller và Lioso đã ảnh hưởng rất lớn tới các phân tích không gian trong

địa lý thành phố cũng như trong lĩnh vực xã hội học đô thị.

Trước những xu hướng biến đổi những giai đoạn lịch sử khác nhau, ngày càng

nhiều những nghiên cứu đề cập đến vấn đề đô thị và đô thị hoá như: “Đô thị trong thế

giới toàn cầu hóa: Quản trị nhà nước, thành tích hoạt động và tính bền vững”(2006)

của Frannie A. Léautier. Cuốn sách đã trình bày những vấn đề liên quan đến việc bảo

đảm cho các thành phố, đô thị phát triển trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vai trò, sự

tác động của chính sách đối với quản lí có hiệu quả, các thành phố, đô thị và mối liên

hệ giữa toàn cầu hoá, ĐTH, quản lí nhà nước; phương hướng giải quyết để đảm bảo đô

thị phát triển bền vững. Hay những tác phẩm của Brian, David Drakakis - Smith, Berry,

Michale Pacione…

Những công trình nghiên cứu trên trở thành nguồn tư liệu quan trọng để thực

hiện, nghiên cứu quá trình ĐTH ở Việt Nam nói chung và cũng là cơ sở tác giảnghiên

cứu, hoàn thành đề tài của mình.

2.2. Việt Nam

Ở Việt Nam nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến quá trình ĐTH.

Có thể kể đến các công trình:

Viện sử học năm 1989 đã có xuất bản cuốn sách “Đô thị cổ Việt Nam”. Nội

dung công trình đã cho biết các đô thị Việt Nam được hình thành từ rất sớm. Thực tế

đã có 13 đô thị cổ xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ XIX.

Một trong những đô thị còn tồn tại và phát triển đến nay đó là Thăng Long - Hà Nội.

Đây là trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội quan trọng của đất nước.

Năm 1995, cuốn sách “Đô thị Việt Nam” gồm 2 tập của tác giả Đàm Trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phường đã phản ánh thực trạng phát triển của mạng lưới đô thị tại Việt Nam. Nội dung

cuốn sách, đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của đô thị Việt Nam trong

thời kỳ CNH - HĐH. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của cuốn sách chỉ là khái quát những

vấn đề chung của đô thị chưa thực sự chuyên sâu nghiên cứu về một đô thị cụ thể ở

Việt Nam.

Năm 1996, trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á tiến hành tìm hiểu về ĐTH và

kết quả là sự ra đời của cuốn sách “Đô thị hóa Việt Nam và Đông Nam Á” do nhà xuất

bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành vào năm 1996. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến

xu thế ĐTH tại Đông Nam Á và một số thành phố ở Việt Nam, nhu cầu quản lý đô thị,

vấn đề bảo vệ môi trường, cũng như kinh nghiệm trong việc phát triển các đô thị của

các nước Đông Nam Á

Năm 1997, Nguyễn Thế Bá có chuyên khảo “Những vấn đề lý thuyết đô thị và

quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam”. Năm 1998, tác giả Trần Ngọc Hiên, Trần Văn

Chử đã viết cuốn “Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị hoá trong công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Tác giả đã phân tích thực trạng và phát hiện những

vấn đề nảy sinh của đô thị Việt Nam. Đồng thời, cũng làm rõ tác động của các chính

sách đến sự phát triển của đô thị nước ta bên cạnh những lý thuyết chung về đô thị

Việt Nam.

Nhà xuất bản Trẻ năm 2002 cũng đã xuất bản cuốn “Dân tộc - đô thị và đô thị hóa”

của Mặc Đường. Nội dung trong cuốn sách đã đề cập đến vấn đề Việt Nam và vấn đề ĐTH

trong lịch sử bài “Lịch sử phát triển của xã hội dân tộc học - đô thị khái luận”.

“Đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng phát triển và phương hướng biến đổi”là

công trình của tác giả Nguyễn Quang Ngọc. Nội dung cuốn sách đã phản ánh thực trạng

và định hướng phát triển đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện đại.

Năm 2006, cuốn sách “Đô thị Việt Nam trong thời kỳ quá độ” của tác giả

Nguyễn Thị Hiền, Phạm Thị Thúy đã nghiên cứu về đô thị Việt Nam. Nguồn ngân sách

chi cho công trình nghiên cứu dưới sự tài trợ bởi Bộ Ngoại giao Pháp.

Giáo trình “Xã hội học đô thị” của thầy giáo Trịnh Duy Luân Công tìm hiểu về

thách thức của quá trình ĐTH ở Việt Nam. Đó là sự chuyển biến từ nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, sự di dân từ nông thôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ra đô thị; vấn đề quản lý đô thị…

Năm 2008, tác giả Lê Thanh Sang xuất bản công trình “Đô thị hóa và cấu trúc đô

thị Việt Nam trước và sau đổi mới năm 1979 - 1989 và 1989- 1999”. Tác giả công trình

đã tiếp cận tổng quan về lý thuyết ĐTH; ĐTH Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại; Làm rõ

quá trình biến đổi của các đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới năm 1986.

“Báo cáo Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới năm2011,

đã đề cập đến các danh mục đầu tư đô thị cũng như mở rộng đô thị và phát triển không

gian tại các đô thị Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu này mới chủ yếu tập trung vào 3

đô thị lớn là thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh.

Bộ Kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê năm 2011 có ấn phẩm chuyên khảo

“Di cư và đô thị hoá ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt”. Chuyên

khảo đã nghiên cứu xu hướng tăng của quá trình di cư về số lượng tuyệt đối và tỷ lệ

ở Việt Nam; Sự đóng góp mạnh mẽ của di cư vào khu vực thành thị, đặc biệt là các

thành phố lớn. Cuốn sách cũng nêu tình trạng ĐTH quá tải, dẫn đến tình trạng một

bộ phận dân cư thành thị không có điều kiện tiếp cận với các tiện nghi cơ bản.

Chuyên khảo cũng đã đưa ra những gợi ý cho các chính sách ĐTH hiện nay để đảm

bảo di cư và ĐTH.

“Những mặt tồn tại quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả

Nguyễn Văn Tài, đã nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường, văn hóa, chênh lệch giàu

nghèo, gia tăng dân số… những vấn đề bức xúc trong quá trình ĐTH của thành phố Hồ

Chí Minh đã và đang gặp phải.

Có khá nhiều bài viết đăng trên báo, tạp chí của Hiệp hội các đô thị Việt Nam

(ACVN), tỉnh Bắc Ninh,… đề cập đến lĩnh vực cơ cấu kinh tế, phát triển thương mại,

du lịch và xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã, huyện Yên

Phong nói riêng. Trong đó, có một số công trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Bắc Ninh và Đảng bộ huyện Yên Phong về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định

hướng CNH - HĐH thúc đẩy quá trình ĐTH ở Yên Phong từ huyện hướng đến thị xã.

Những công trình đã xuất bản, đề cập trên là tư liệu quý cho tác giả tập trung

vào nghiên cứu quá trình ĐTH của huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm

1986 đến năm 2018.

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về quá trình ĐTH của huyện Yên Phong từ năm 1986 đến

năm 2018.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nhằm tìm hiểu sự chuyển biến trong tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã

hội của huyện Yên Phong trong quá trình ĐTH từ năm 1986 đến năm 2018. Cụ thể, tập

trung nghiên cứu trong các lĩnh vực như: sự thay đổi cảnh quan cơ sở hạ tầng, sự phát

triển kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự biến đổi về mặt xã hội, số lao động,

giáo dục, y tế và văn hóa.

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung làm sáng rõ các nội dung sau:

Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị và ĐTH để làm

cơ sở, sản phẩm cho quá trình ĐTH của huyện Yên Phong.

Hai là, xác định các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến quá trình

ĐTH của huyện Yên Phong từ năm 1986 đến năm 2018.

Ba là, phân tích sự biến đổi của huyện Yên Phong về cơ sở vật chất hạ tầng,

về kinh tế, văn hóa, xã hội, cảnh quan môi trường… trong quá trình ĐTH từ đổi mới

năm 2018.

Bốn là, nhận rõ những mặt trái của quá trình ĐTH và bước đầu đề xuất một số

giải pháp nhằm tham mưu cho huyện Yên Phong hoàn thành mục tiêu lên đô thị loại

IV trở thành thị xã Yên Phong.

3.4. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Khi nghiên cứu phạm vi

lãnh thổ của huyện Yên Phong hiện nay so với trước năm 1986 thì huyện có sự thay

đổi khá nhiều. Năm 1962, Quốc hội khoá II ra Nghị quyết hợp nhất 2 tỉnh Bắc Ninh và

Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đây huyên Yên Phong thuộc đơn vị hành chính của

tỉnh Hà Bắc và trong thời gian này cũng diễn ra quá trình hợp nhất hoặc tách các xã

trong huyện làm thay đổi địa giới hành chính của huyện khá nhiều. Năm 1996, tại kì

họp thứ 10 của Quốc hội khoá IX ra quyết định phê chuẩn tái lập 2 tỉnh Bắc Ninh và

Bắc Giang. Đến thời điểm năm 1997, huyện Yên Phong là đơn vị hành chính trực thuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của tỉnh Bắc Ninh mà không phải là tỉnh Hà Bắc. Năm 2007, theo Nghị định số

60/2007/NĐ-CP của Chính Phủ, huyện Yên Phong một lần nữa có sự điều chỉnh về địa

giới hành chính theo đó có 1 thị trấn và 13 xã (gồm: Thị trấn Chờ, Xã Tam Giang, Hòa

Tiến, Yên Phụ, Trung Nghĩa, Đông Thọ, Văn Môn, Đông Tiến, Yên Trung, Dũng Liệt,

Tam Đa, Đông Phong, Long Châu, Thụy Hòa) từ đây hành chính không có sự thay đổi.

- Về thời gian: 1986 - 2018. Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 là thời gian mở

đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta. Huyện Yên Phong cũng nằm trong

công cuộc đổi mới này nên cũng có sự thay đổi đáng kể trên nhiều mặt. Việc nghiên

cứu giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2018, trước hết để nhìn lại chặng đường phát triển

huyện Yên Phong. Cụ thể hơn, dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, thời gian từ năm 1986

đến 2018 tại huyện Yên Phong làm sáng tỏ những nhân tố khách quan và chủ quan tác

động làm thay đổi cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội ở y tế giáo dục… đây là những

biểu hiện và đặc điểm của quá trình ĐTH của huyện.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

Tư liệu thành văn: Quy hoạch xây dựng phát triển đô thịcủa Nguyễn Thế Bá; Di

cư và đô thị hoá ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt của Bộ Kế hoạch

và đầu tư Tổng cục thống kê, Lịch sử đô thị của Đặng Thái Hoàng, Đô thị Việt Nam

tập 1, 2 của Đàm Trung Phường,…

Tư liệu lưu trữ: Đại Nam nhất thống chí tập IVcủa Quốc sử quán triều Nguyễn,

các số liệu thống kê của cục thống kê tỉnh Bắc Ninh,…

Tư liệu điền dã: khảo sát, điều tra…

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp cơ bản nghiên

cứu là phương pháp lịch sử để phục dựng lại quá trình ĐTH ở huyện Yên Phong. Tập

trung xem xét diễn biến của các các hiện tượng ĐTH trong thời gian từ năm 1986 đến

năm 2018. Từ đó, tác giả chỉ ra những nhân tố chủ quan và khách quan chi phối đến

quá trình ĐTH. Rút ra đặc điểm của ĐTH ở Yên Phong, Bắc Ninh và những bài học

kinh nghiệm cho Yên Phong ở hiện tại và tương lai.

ĐTH là một quá trình diễn ra phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên trong

quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp liên ngành giữa sử học, xã hội học,

văn hóa học, kinh tế học.... để thu thập thông tin thống kê, tập hợp số liệu. Qua đó, để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

có những nhận định so sánh sự phát triển, chuyển biến của quá trình ĐTH ở từng thời

kỳ lịch sử ở huyện Yên Phong.

Sử dụng nhiều các phương pháp nghiên cứu trên tác giả đã có cách tiếp cận từ

nhiều chiều, đa dạng phù hợp với tính chất của vấn đề ĐTH.

5. Những đóng góp của đề tài

Qua quá trình nghiên cứu này, tác giả đã tập hợp xử lý hệ thống hóa các tư liệu

nhất là những chỉ số phát triển đô thị ở toàn huyện Yên Phong nói chung trong những

năm qua thành nguồn tài liệu đáng tin cậy để nghiên cứu sự phát triển lịch sử của huyện

Yên Phong và cũng là tài liệu hữu ích đối với công việc nghiên cứu giảng dạy trong

vấn đề về này.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn

có ba chương nội dung chính:

Chương 1: Lý luận về đô thị hóa. Sự hình thành kinh tế - xã hội của huyện Yên

Phong, tỉnh Bắc Ninh trước năm 1986.

Chương 2: Huyện Yên Phòng từ năm 1986 đến năm 2007.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 3: Huyện Yên Phong từ năm 2007 đến năm 2018.

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA. SỰ HÌNH THÀNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA

HUYỆN YÊN PHONG,TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1986

1.1. Một số vấn đề lý luận về đô thị và đô thị hóa

1.1.1. Đô thị và phân loại đô thị

Quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp trên đất nước Việt Nam. Để

hiểu rõ khái niệm về “ĐTH” trước hết phải bàn về khái niệm “đô thị”. Đô thị bắt nguồn

từ thuật ngữ Latinh “Urbs”, tiếng Anh “Urbniration” hay tiếng Pháp là“Urbanisation”,

đều mang nghĩa gốc là “đô thị”.

Đô thị là một hình tổ chức xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội

loài người con người. Trong lịch sử nhân loại, thời kỳ Công xã nguyên thủy vẫn chưa

hình thành các thành thị hay đô thị. Sự tan rã của chế độ Công xã nguyên thủy chuyển

sang chế độ xã hội văn minh, con người định cư thành những làng mạc theo đó có chút

xã hội làng mạc được hình thành. Chính sự thay đổi của bộ phận dân cư trong các đơn

vị hành chính của mỗi khu vực đã dần hình thành thành các khu giao lưu buôn bán từ

đó cấu trúc xã hội đô thị cũng hình thành.

Ở các nước phương Tây, nguồn gốc của quá trình ra đời đô thị ở nơi đây bắt

nguồn từ yếu tố kinh tế - kinh tế công thương. Cụ thể, trong quá trình những người dân

chuyên làm nghề thủ công, nghề buôn bán trong các thị đã liên kết với nhau hình thành

các bang và từ đó bang trung tâm trở thành đô thị.

Ở các nước Phương Đông, đô thị ra đời từ các trung tâm chính trị của nhà nước,

từ các tổ chức hành chính để quản lý xã hội. Những điều kiện mà nhà nước tạo ra thì

dân cư mới có điều kiện để phát triển nghề thủ công và buôn bán phục vụ cho bộ máy

hành chính quản lý của khu vực đô thị.

Các quốc gia trên thế giới có tiêu chí và phương pháp khác nhau để định nghĩa

“đô thị”: “105 quốc gia thu thập dữ liệu dựa trên các tiêu chí hành chính, thủ đô hoặc

thị xã, các đô thị tự trị hoặc thuộc phạm vi quản lý của địa phương khác; 83 quốc gia

chỉ sử dụng tiêu chí hành chính để phân biệt đô thị và nông thôn. 100 quốc gia định

nghĩa thành phố dựa trên số dân hoặc mật độ dân số, với mức độ tập trung tối thiểu từ

200 đến 50.000 người; 57 quốc gia sử dụng tiêu chí này là tiêu chí duy nhất. 25 quốc

gia xác định đô thị chủ yếu dựa vào đặc điểm kinh tế, mặc dù không loại trừ các tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chí khác như tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong các ngành phi nông nghiệp. 18

quốc gia tính đến sự sẵn có của cơ sở hạ tầng đô thị trong định nghĩa của họ, bao gồm

cả sự hiện diện của các con đường nhựa, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước hoặc

điện.”[8, tr. 6].

Tổ chức Liên Hợp Quốc không sử dụng khái niệm đô thị mà thay vào đó là định

nghĩa: “Vùng đô thị” là một khu vực xây dựng kín hoặc một khu vực đông dân cư bao

gồm khu trung tâm thành phố, khu ngoại thành và các khu định cư lao động” [8, tr. 6].

Theo đó, vùng đô thị có thể rộng hơn hoặc nhỏ hơn một khu vực thành thị. Mà trong

thành thị bao gồm toàn bộ khu vực đô thị và khu định cư lao động chính của thành phố.

Tuy nhiên, sự khác nhau trong phát triển đô thị của các quốc gia trên toàn thế

giới là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, Việt Nam cũng có nhiều khái niệm, định

nghĩa riêng của mình về đô thị:

Theo Giáo sư Cao Xuân Phổ: “Trong tiếng Việt, có nhiều từ để chỉ khái niệm

đô thị: đô thị, thành phố, thị trấn, thị xã,… Các từ đó đều có hai thành tố: đô, thành,

trấn, xã hàm nghĩa chức năng hành chính; thị, phố có nghĩa là chợ. Thời trước, chức

năng hành chính lấn át chức năng kinh tế; bộ phận đảm nhận cai quản đô thị là do nhà

nước bổ nhiệm. Đô thị Việt Nam khác với đô thị ở phương Tây là ở chỗ đó. Đô thị

phương Tây ít có tính chính trị hơn và thiên về chức năng kinh tế” [29, tr. 103].

Giáo sư Nguyễn Thế Bá lại cho rằng: “Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật

độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm

chuyên ngành hay tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả

nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong

huyện” [1, tr. 5].

Như vậy có thể thấy, các định nghĩa khác nhau khiến cho việc so sánh mức độ

ĐTH ở tỉnh, khu vực không dễ dàng. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu yếu tố “đô”, “thành”

còn có những yếu tố như: mức độ của cơ sở hạ tầng, đường xá, đèn đường, cung cấp

nước, giáo dục, văn hóa, y tế…cũng đóng vai trò chi phối đến đặc điểm của đô thị Việt

Nam thời hiện đại.

Chính phủ có những Quyết định, Nghị định tiến hành định kì phân loại đô thị

theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Quá trình này xảy ra trong tình hình chung

khi khu vực nông thôn bắt đầu có những đặc điểm của khu vực thành thị do sự thay đổi

về các hoạt động kinh tế (nông nghiệp và phi nông nghiệp) của dân cư, sự thay đổi cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sở hạ tầng, gia tăng xây dựng các dịch vụ - thương mại.

Theo Quyết định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về phân

loại đô thị và phân cấp quản lí đô thịđã đưa ra các yếu tố cơ bản: vai trò chức năng, quy

mô dân số và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp của đô thị. Trong đó, việc xác định quy

mô dân số và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp chỉ được tiến hành trong phạm vi nội thị.

Đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản:

“1- Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.

2- Quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người (vùng núi có thể thấp hơn).

3- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tư 60% trở lên trong tổng số lao động; là nơi

sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển.

4- Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị.

5- Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm từng

vùng” [34].

Đô thị được chia làm 5 loại: đô thị loại I, đô thị loại II, đô thị loại III, đô thị loại

IV và đô thị loại V.

Bảng 1.1. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Quyết định số 132/HĐBT

Cơ sở hạ tầng Quy mô Dân số (người) Loại đô thị Vai trò trung tâm chủ yếu

> 1.000.000 Lao động phi nông nghiệp (%) > 90 Được xây dựng đồng Mật độ dân cư bình quân (người/km2) > 15.000 I Quốc gia bộ.

Từ 350.000 90 Được xây dựng > 12.000

II Tỉnh, liêntỉnh đến nhiều mặt tiến tới

<1.000.000 đồng bộ.

Từ 100.000 > 80 Được xây dựng từng > 10.000 III Liên tỉnh đến <350.000 mặt

Từ 30.000 đến > 70 Đã và đang đầu tư > 8.000

từng phần. < 10 vạn (vùng IV Tỉnh núi có thể thấp

hơn).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Từ 4.000 đến > 60 Bước đầu xây dựng > 6.000 V Huyện <30.000 (vùng (vùng núi có

núi có thể thấp thể thấp

hơn). hơn).

Nguồn: tác giả tổng hợp từ [34]

Sự phát triển trong tình hình chung của đất nước, các đô thị ngày càng tăng lên

nhanh chóng về cả chất lượng cũng như số lượng nên những Quyết định số 132/HĐBT

năm 1990 lúc này không còn phù hợp nữa. Theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP về Phân

loại đô thị phê duyệt ngày 5/10/2001, đã hoàn thiện hơn quy định pháp lí về đô thị Việt

Nam: “Đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quyết định thành lập”[24].

Để phân loại được đô thị, Chính phủ cũng đưa ra nhiều quy định, cụ thể dựa trên

các yếu tố cơ bản sau:

Bảng 1.2. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 72/2001/NĐ - CP

Lao động Vai trò Quy mô Mật độ dân Loại phi nông trung tâm Dân số Cơ sở hạ tầng đô thị nghiệp chủ yếu (người) cư bình quân (người/km2) (%)

Đặc Thủ đô và Cơ bản đồng bộ và > 90 >1.500.000 > 15.000 biệt liên tỉnh hoàn chỉnh

Nhiều mặt đồng bộ I Liên tỉnh > 85 > 500.000 >12.000 và hoàn chỉnh

Tiến tới tương đối Tỉnh, II > 80 đồng bộ và hoàn > 250.000 > 10.000 liên tỉnh chỉnh

Xây dựng từng mặt

III Tỉnh > 75 đồng bộ và hoàn > 100.000 >8.000

chỉnh

Đã hoặc đang xây Đô thị

Huyện > 70 dựng từng mặt đồng > 50.000 > 6.000 loại

bộ và hoàn chỉnh IV

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đã và đang xây dựng Đô thị Huyện > 65 nhưng chưa đồng bộ > 4.000 >2.000 loại V và hoàn chỉnh

Nguồn: tác giả tổng hợp từ [24]

Năm 2009, Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành

Nghị định số42/2009/NĐ - CP ngày 7/5/2009 về việc phân loại đô thị và đưa ra chương

trình phát triển đô thị. Theo Nghị định mới này, đô thị ở Việt Nam có đặc điểm: “Đô

thị mới là đô thị dự kiến hình thành trong tương lai, được đầu tư xây dựng từng bước

đạt các tiêu chuẩn của đô thị theo quy định của pháp luật” [26].Cũng như Nghị định

trước, để phù hợp với tình hình mới thì cũng có sự điều chỉnh trong nội dung, quy định

về phân loại đô thị những về cơ bản vẫn dựa trên sự phát triển của Nghị định

72/2001/NĐ-CP, cụ thể.

Bảng 1.3. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 42/2009/NĐ - CP

Vai trò Mật độ dân Lao động

Loại đô trung Quy mô dân cư bình phi nông Cơ sở hạ tầng thị tâm chủ số (người) quân nghiệp

yếu (người/km2) (%)

Đồng bộ, hoàn Đặc biệt Quốc gia > 5.000.000 > 15.000 >90 chỉnh

Quốc gia Đồng bộ, cơ bản I và liên > 1.000.000 > 12.000 > 85 hoàn chỉnh tỉnh

Đồng bộ, tiến tới II Liên tỉnh > 800.000 > 10.000 > 70 cơ bản hoàn chỉnh

Từng mặt được đầu

tư xây dựng đồng Tỉnh, III > 150.000 > 6.000 > 65 bộ liên tỉnh và tiến tới cơ

bản hoàn chỉnh

Đã hoặc đang xây

IV Tỉnh > 50.000 > 4.000 > 50 dựng tiến tới đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bộ và hoàn chỉnh

Đã hoặc đang xây

V Huyện > 4.000 > 2.000 > 45 dựng tiến tới đồng

bộ và hoàn chỉnh

Nguồn: tác giả tổng hợp từ [26]

Thời gian gần đây nhất, Chính phủ ra Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về

Phân loại đô thị ngày 25/5/2016, kết hợp với thực hiện các kế hoạch, chương trình phát

triển đô thị quốc gia, chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và chương trình phát triển

từng đô thị để quản lý phát triển đô thị, bảo đảm phù hợp với từng giai đoạn phát triển

kinh tế - xã hội trong thời kì đổi mới.

Tiêu chí phân loại đô thị của cũng có nhiều thay đổi cụ thể phù với với tình hình

mới về cả vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài

ra, việc phân loại đô thị được tính bằng phương pháp tính điểm, tổng số điểm của các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tiêu chí tối đa là 100 điểm. Cụ thể trong khung điểm phân loại là:

Bảng 1.4. Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị

(tối thiểu đạt 3,75 điểm,tối đa đạt 5,0 điểm)

TT Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò Điểm Loại đô thị

5,0

1 Đặc biệt

3,75

5,0

2 I

3,75

5,0

3 II

3,75

5,0 4 III

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Là Thủ đô hoặc trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, quốc tế về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của một vùng liên tỉnh. Là trung tâm tổng hợp cấp vùng về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, trung tâm hành chính cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh. Là trung tâm chuyên ngành cấp vùng hoặc trung tâm tổng hợp cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh, vùng liên tỉnh. Là trung tâm hành chính cấp tỉnh, trung tâm tổng hợp về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, vùng liên tỉnh.

TT Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò Điểm Loại đô thị

3,75

5,0

5 IV

3,75

5,0

6 V

3,75

Là trung tâm chuyên ngành cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hoặc vùng liên huyện. Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm hành chính cấp huyện hoặc trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện hoặc vùng liên huyện. Là trung tâm hành chính hoặc trung tâm tổng hợp cấp huyện hoặc trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Là trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một cụm liên xã

Nguồn: [27]

Như vậy thông quanhững khái niệm được nêu ra nói trên, có thể thấy các khái

niệm đều nói lên đặc điểm của một đô thị hay đặc điểm của một vùng được xác định là

đô thị. Hơn nữa khi tìm hiểu định nghĩa về đô thị có thể thấy Đảng và Nhà nước đã đưa

ra những nghị định, quyết định cụ thể về phân loại, phát triển chương trình đô thị đã

góp phần xác định, đánh giá tốc độ ĐTH khi xem xét trên một địa điểm cụ thể.

1.1.2. Đô thị hóa

Vào tháng 12/1986, Đảng cộng sản Việt Nam tạiĐại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VI đã quyết định đường lối đổi mới đất nước. Từ đây, mở ra một thời kỳ mới trong lịch

sử dân tộc, mở đầu sự phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển

của dân tộc, đồng thời tác động trực tiếp đến các ĐTH. Quá trình này cũng thúc đẩy sự

bùng nổ ĐTH trên toàn quốc thể hiện tích cực và tiêu cực cả hai mặt về chất lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng như số lượng ĐTH.

Bộ kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê khi so sánh với các quốc gia khác trên

thế giới về mức độ ĐTH thì “Việt Nam với gần 30% dân số đô thị rõ ràng không phải

là nước có mức độ ĐTH cao”[7, tr. 62]. Nhận thấy khó khăn của quá trình ĐTH, Phó

Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, phát biểu tại Hội nghị Đô thị Toàn quốc ngày 6 đến

ngày 7/11/2009 đã nêu rõ: “Việt Nam sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất để đô thị hóa đúng

đắn. Nếu thất bại trong đô thị hóa, chúng ta cũng sẽ thất bại trong công nghiệp hóa và

hiện đại hóa”.

ĐTH là khái niệm rất đa dạng bao hàm nội dung rất rộng, chứa đựng nhiều hiện

tượng và nhiều biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong quá trình phát triển đất

nước, khu vực, tỉnh, thị xã, huyện… Cụ thể hơn về khái niệm ĐTH có thể xem xét trên

nhiều góc độ khác nhau:

Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm ĐTH trong đó qua sự phát triển kinh tế - xã

hội đã nhấn mạnh hơn vai trò của thành thị: “ĐTH là quá trình tập trung dân cư ngày

càng đông vào các đô thị và nâng cao vai trò của thành thị đối với sự phát triển của

xã hội” [54, tr. 13].

Dưới góc độ nhìn nhận của dân số học: “ĐTH theo nghĩa hẹp là sự phát triển

hệ thống thành phố nhất là các thành phố lớn, tăng tỉ trọng dân số đô thị trong nước,

trong khu vực và thế giới…” [40, tr. 120]. Theo quan điểm này thì ĐTH được xem xét

dựa trên sự thay đổi chủ yếu nhất là dân cư tại các địa điểm, khu vực tập trung càng

cao. Trong quá trình này, có thể thấy mức độ ĐTH đang diễn ra như thế nào qua sự tập

trung trong các khu vực.

Từ góc độ nhân khẩu học và địa lý kinh tế: “ĐTH được hiểu là sự di cư từ nông

thôn tới đô thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong những vùng lãnh

thổ đô thị. Mức độ đô thị hóa của một quốc gia được đo lường bằng tỷ lệ dân cư đô thị

trong tổng số dân” [7, tr. 60]. Quá trình mở rộng dân cư tự nhiên có thể coi là một

trong những tác nhân đưa đến ĐTH, nói rộng ra đó là sự nhập cư từ nông thôn ra thành

thị. Tuy quá trình gia tăng dân cư này không phải tác nhân chính thể hiện sự phát triển

của đô thị nhưng cũng là một biểu hiện không thể thiếu của ĐTH.

Theo lập trường của các nhà quản lý và kinh tế thì: “ĐTH là quá trình cấu trúc

lại chức năng của khu vực nông thôn, là quá trình gia tăng phát triển công nghiệp và

dịch vụ. Và vì vậy, ĐTH thường được hiểu là quá trình song song với sự phát triển

công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ, gia tăng các hoạt động phi nông nghiệp hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tụ trên một không gian nhất định” [50, tr. 15].

Phạm Thị Xuân Thọ đã xác định rõ các yếu tố để xác định mức độ ĐTHtrên

quan điểm kinh tế quốc dân: “ĐTH là một quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố

lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, ở đây

người ta lại nhấn mạnh vai trò và tỷ lệ 3 yếu tố của sản xuất để xác định mức độ ĐTH,

theo đó:

Khu vực I: kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp sẽ ngày càng giảm dần theo xu thế

phát triển của các hoạt động kinh tế - xã hội đô thị.

Khu vực II: kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ ngày càng đóng vai trò

quan trọng trong quá trình đô thị hóa.

Khu vực III: khu vực dịch vụ (theo nghĩa hẹp) quản lý xã hội, nghiên cứu, du lịch,…

cũng có vai trò quan trọng ngày càng tăng lên trong quá trình đô thị hóa” [44, tr. 23].

Và một định nghĩa khác: “Về mặt xã hội, ĐTH được hiểu là quá trình tổ chức lại

môi trường cư trú của con người. ĐTH không chỉ thay đổi sự phân bố dân cư và những

yếu tố vật chất, mà còn làm chuyển hóa những khuôn mẫu của đời sống kinh tế-xã hội,

phổ biến lối sống đô thị tới các vùng nông thôn, và toàn bộ xã hội” [7, tr. 60].

Về mặt lối sống đô thị và văn hoá đô thị được Tôn Nữ Quỳnh Trân trong Văn

hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định:

“Xét trên phương diện cách sống, ĐTH là một sự thay đổi lối sống và đồng thời thay

đổi khung cảnh sống” và một phương diện diện trên quan điểm sinh thái nhân văn thì

“ĐTH là một quá trình chuyển động làm thay đổi lối sống và cảnh quan của một hệ

thống quần cư từ hệ sinh thái nông thôn sang hệ sinh thái kinh tế - xã hội đô thị”. Cũng

theo đó, trên góc độ văn hoá thì: “ĐTH là quá trình chuyển đổi văn hoá làng xã thành

văn hoá đô thị” [49, tr. 13].

Qua các góc độ khác nhau trên của ĐTH, có thể thấy đây là một phạm trù rộng

lớn và toàn diện đến tất cả mọi lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, văn hóa, không gian cư trú

của con người,… Một trong những nhận định có thể coi là khái quát nhất về ĐTH là

của Giáo sư Ðàm Trung Phường: “Đô thị hoá là một quá trình chuyển dịch lao động,

từ hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có như nông, lâm, ngư

nghiệp, khai khoáng, phân tán trên một diện tích rộng khắp hầu như toàn quốc, sang

những hoạt động tập trung hơn như công nghiệp, chế biến, sản xuất xây dựng cơ bản,

vận tải, sửa chữa, dịch vụ, thương mại, tài chính, văn hóa xã hội, khoa học - kỹ thuật,…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng có thể nói là chuyển dịch từ hoạt động nông nghiệp (chiều rộng) phân tán sang

hoạt động nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp gọi là đô thị… quá trình

đô thị hoá diễn ra song song với động thái phát triển không gian kinh tế - xã hội, trình

độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của nền văn hóa và

phương thức tổ chức lối sống xã hội. Do vậy, có thể nói đô thị hoá là một quá trình

diễn biến về kinh tế, xã hội, văn hóa, không gian gắn liền với những tiến bộ khoa học

kỹ thuật trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao

động, sự phát triển của đời sống văn hóa, sự chuyển đổi lối sống và sự mở rộng phát

triển không gian thành hệ thống đô thị song song với tổ chức bộ máy hành chính, quân

sự” [30, tr. 7].

Từ các quan điểm trên về ĐTH cho thấy, có sự khác nhau nhưng nhìn chung các

nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở một số điểm: ĐTH là một quá trình phát triển

tất yếu, khách quan và có tính phổ quát của xã hội. Theo nghĩa rộng ĐTH được hiểu như

một quá trình phát triển toàn diện kinh tế và xã hội hay quan niệm quá trình ĐTH hiện

nay như một quá trình phát triển của lịch sử, liên hệ mật thiết với sự phát triển của lực

lượng sản xuất, các hệ thống xã hội và tổ chức môi trường sống của cộng đồng. Theo

nghĩa hẹp, ĐTH là quá trình chuyển cư từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang lĩnh vực

phi nông nghiệp với tất cả các hệ quả của nó như sự tăng trưởng dân cư đô thị, sự nâng

cao mức độ trang bị kỹ thuật, sự thay đổi trong văn hóa và lối sống.

Như vậy, ĐTH là một quá trình phát triển tất yếu, khách quan và có tính phổ

quát của xã hội. Việt Nam là một nước cũng đang thực hiện quá trình ĐTH trên toàn

bộ đất nước, tuy nhiên theo nhận định chung thì “đối với các nước thuộc thế giới thứ

ba, quá trình đô thị hóa vẫn còn nằm trong khuôn khổ của quá trình đô thị hóa theo

bề rộng”[7, tr. 60]. Quá trình ĐTH với nhiều nội dung như: dân số (nơi mật độ dân

cư cao nhất là dân cư phi nông nghiệp), kinh tế (hoạt động khu công nghiệp, thương

mại dịch vụ, ngân hàng, tài chính...), văn hóa (văn hóa lối sống nông thôn thành cách

ứng xử thành thị)… Trong quá trình này, việc điều chỉnh các chính sách, vận dụng

những quy luật ĐTH đem lại lợi ích cho sự phát triển chung của đất nước là tất yếu.

Đồng thời, hạn chế tối đa những tiêu cực của ĐTH có thể ảnh hưởng đến quá trình

phát triển chung.

Với tình hình như vậy, đặc biệt từ sau đổi mới từ năm 1986 trở đi cùng với việc

tái lập tỉnh Bắc Ninh, huyện Yên Phong đã nhiều thay đổi để thích ứng tình hình mới.

Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình ĐTH ở huyện Yên Phong không chỉ dừng lại ở

quá trình chuyển nguồn dân cư từ nông thôn - nông dân- nông nghiệp sang đô thị - thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân - công thương mà còn chú trọng phát triển chùm đô thị, tuyến đô thị, làng đô thị,...

đây là động lực, mục tiêu phát triển hướng tới thành lập thị xã của huyện Yên Phong

trong tương lai.

1.2. Lịch sử hình thành huyện Yên Phong

Yên Phong là huyện đồng bằng, nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh, thuộc vùng Châu

thổ Sông Hồng.

Huyện Yên Phong có tọa độ địa lý:“nằm trong khoảng vĩ độ 21 độ 8 phút, 45

giây đến 21 độ, 14 phút 30 giây độ vĩ Bắc và trong khoảng kinh độ từ (105 độ, 54 phút,

30 giây đến 106 độ 4 phút 15 giây độ kinh Đông” [2, tr. 11].

Theo Đại Nam nhất thống chí, địa giới của huyện: “Huyện Yên Phong: ở phía bắc

lệch về phía đông phủ cách 15 dặm, đông tây cách nhau 29 dặm, Nam Bắc cách nhau 24

dặm, phía Đông đến địa giới huyện Võ Giàng 14 dặm, phía Tây đến địa giới huyện Thiên

Phúc 15 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Tiên Du 12 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện

Việt Yên thuộc phân phủ Lạng Giang 12 dặm...”[33, tr. 64 - 65].

Còn ngày nay, địa giới chung của huyện có sự thay đổi khá nhiều: Phía Bắc lấy

Sông Cầu làm giới hạn phân cách, Yên Phong giáp với hai huyện Hiệp Hòa và Việt

Yên (Bắc Giang). Phía Nam giáp huyện Đông Anh (Hà Nội), huyện Từ Sơn và huyện

Tiên Du (Bắc Ninh). Phía Đông giáp thành phố Bắc Ninh (Bắc Ninh). Phía Tây lấy

Sông Cà Lồ làm giới hạn, Yên Phong giáp huyện Sóc Sơn, huyện Đông Anh (Hà Nội).

Một trong những đặc điểm địa lý của huyện Yên Phong là:“địa giới của huyện

được bao bọc gần hết bởi 3 con sông cổ: Sông Cầu, sông Cà Lồ ở phía bắc huyện, sông

Ngũ Huyện Khê ở phía nam huyện... Có núi Quả Cảm đứng chắn nơi cửa sông Ngũ

Huyện Khê, phía Tây huyện có cụm đồi Thất Diệu Sơn chưa ra đầy huyết tích lịch sử”

[2, tr. 9 - 10].

Thị trấn Chờ là trung tâm huyện lỵ của huyện Yên Phong: Phía Đông của thị

trấn giáp với xã Trung Nghĩa; phía Tây giáp với xã Yên Phụ và xã Hòa Tiến; phía Nam

giáp xã Đông Thọ và xã Văn Môn; còn phía Bắc của thị trấn Chờ giáp với xã Tam

Giang và xã Đông Tiến.

Thị trấn Chờ được bao quanh bởi một số ngọn núi nhưng độ cao chỉ có vài chục

mét. Trong đó phải kể đến xã Yên Phụ cách Thị trấn Chờ về phía Tây 3 km với ngọn

núi Thất Diệu Sơn gắn liền với truyền thuyết An Dương Vương xây loa thành. Theo

đó: “Núi Thất Diệu: ở xã Yên Phụ cách huyện Yên Phong 15 dặm về phía tây bắc. Núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đất liên tiếp, nổi bật lên 7 ngọn” [33, tr. 86].

Về phía Nam cách Thị trấn Chờ 3 km là xã Tam Sơn có ba ngọn núi hình chuỗi

hạt. Còn ngay trong lòng Thị trấn ở làng Phú Mẫn có núi Hàm Sơn theo sách Đại Nam

nhất thống chí ghi lại “núi Hàm Sơn thuộc xã Nội Trà, cách huyện Yên Phong (huyện

Lý lúc đó ở Đông Yên, nay thuộc xã Đông Phong) 11 dặm về phía Tây Nam, một ngọn

núi ngọn đẹp có đền thờ Thành Quý Minh”[33, tr.86]. Nhưng hiện nay núi Hàm Sơn

không còn nữa chỉ là một gò đất cao.

Thị trấn Chờ là đầu mối giao thông chính của huyện cách tỉnh lỵ Bắc Ninh 15

km về phía Đông; cách quốc lộ 1A là đường giao thông huyết mạch 8 km về phía Nam;

phía Tây Nam cách Thủ đô Hà Nội 29 km; về phía Tây có quốc lộ 18 chạy qua cách

sân bay quốc tế Nội Bài 15 km; quốc lộ 18 nối khu chế xuất Đông Anh và sân bay quốc

tế Nội Bài với KCN và du lịch Quảng Ninh chạy qua Yên Phong từ Tây sang Đông;

tuyến quốc lộ 3B Hà Nội -Thái Nguyên; cách cảng Hải Phòng 115km về phía Nam.

Ngày nay, ngoài một Thị trấn Chờ vừa là nơi đặt các cơ quan hành chính, công

sở của huyện vừa là trung tâm kinh tế - xã hội, còn có 13 xã: Đông Phong, Đông

Thọ, Đông Tiến, Dũng Liệt,Hòa Tiến, Long Châu, Tam Đa, Tam Giang, Thụy Hòa, Trung

Nghĩa, Văn Môn, Yên Phụ, Yên Trung.

Huyện Yên Phong nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng nên địa hình có

đặc điểmtương đối bằng phẳng, xen kẽ nhiều vùng thấp trũng nằm rải rác ở các xã trong

huyện. Huyện Yên Phong là địa bàn chuyển tiếp, nên địa hình có xu thế thấp dần từ

dãy Thất Diệu Sơn (xã Yên Phụ) ở Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình này rất thuận

lợi cho công việc quy hoạch xây dựng nhà cao tầng, xưởng máy lớn… nhờ nền đất

bằng phẳng mà không phải xử lý nền móng tốn kém, phức tạp như ở các huyện thành

khác.

Yên Phong có diện tích tự nhiên 9676,34 ha, diện tích không lớn lắm, nhưng đất

đai Yên Phong hết sức phong phú. Đất nơi đây, được hình thành do quá trình bồi tụ phù

sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, trực tiếp là 3 con sông: Sông Cầu, Sông

Cà Lồ, sông Ngũ Huyện Khê, phần còn lại được hình thành tại chỗ do sự phong hóa trực

tiếp từ đá mẹ. Yên Phong có 3 nhóm đất chủ yếu: Đất phù sa, đất bạc màu, đất đồi núi

đỏ vàng. Với nguồn đất này, huyện có điều kiện phát triển nền kinh tế nông nghiệp từ đó

phát triển các ngành nghề khác phục vụ cho kinh tế nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hàng ngày.

Yên Phong được bao bọc bởi 3 con sông: Sông Cầu phía Bắc; Sông Cà Lồ phía

Tây; Sông Ngũ Huyện Khê bao phía Nam và có gần 400 ha ao, hồ được phân bố đều ở

các làng, xã.

Sông Cầu nằm ở phía Bắc huyện, thượng lưu thông đến Thái Nguyên, hạ lưu thông

đến Hải Dương, Hải Phòng tạo nên tiềm lực phát triển mạnh kinh tế thương mại - dịch vụ.

Tên sông Cầu có từ đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xây dựng 3 cây cầu lớn trên sông:

Cầu Đáp Cầu (Bắc Ninh), cầu Đa Phúc (Hà Nội), cầu Gia Bẩy (Thái Nguyên). Trước đó,

thời nhà Lý, Sông Cầu có tên là sông Như Nguyệt. Đây là chiến hào thiên nhiên để chống

quân Tống của Lê Đại Hành (981) và Lý Thường Kiệt (1077). Đến thời Gia Long thuộc

triều Nguyễn, Sông Cầu có tên là sông Nguyệt Đức. Năm Tự Đức thứ 3, sông Cầu được

liệt vào hàng sông lớn Quốc gia, nên chép vào điển thờ.

Sông Ngũ Huyện Khê bao bọc phía Nam huyện, là con sông lớn thứ 2 của huyện

Yên Phong. Sông chảy từ Tây sang Đông là ranh giới giữa Yên Phong với Thị xã Từ

Sơn, huyện Tiên Du. Cách đây hơn 2000 năm vào thời An Dương Vương xây thành ốc

ở kinh đô Cổ Loa, sông Ngũ Huyện Khê có tên là sông Hoàng Giang là một chi lưu

của sông Hồng chảy vào sông Cầu. Về sau do sự bồi lắng của sông Hồng, nên thượng

nguồn sông Ngũ Huyện Khê bị vùi lấp từ đây trở thành con sông nội địa cho 5 huyện

(Yên Lãng, Đông Anh, Từ Sơn, Yên Phong, Tiên Du) mà không còn là một chi lưu của

Sông Hồng nữa.

Sông Cà Lồ bắt nguồn từ huyện Yên Lạc (Vĩnh Phúc) rồi chảy qua hai huyện

Sóc Sơn, Đông Anh (Hà Nội), chảy qua huyện Yên Phong từ xã Hòa Tiến đến xã Tam

Giang rồi đổ vào sông Cầu tạo nên Ngã ba Xà, xã Tam Giang. Ở nơi đây, có đền thờ

Trương Hống và Trương Hát, tục gọi là thánh Tam Giang.

Hệ thống các sông, ao, hồ trên đã đem lại nguồn nước dồi dào, khá thuận lợi là

cho sản xuất nông nghiệp. Không chỉ phục vụ cho sản xuất và đời sống mà còn là

những đường tiêu thoát nước vào mùa mưa ở huyện Yên Phong. Đồng thời, những con

sông của huyện còn là sự đảm bảo sự đi lại thuận lợi trong quan hệ giao lưu buôn bán,

kinh tế - xã hội với một số vùng trong huyện, tỉnh và ra cả bên ngoài tỉnh.

Ở huyện Yên Phong, khí hậu có 2 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình mùa nóng là

khoảng 24° đến 29 °; Nhiệt độ trung bình mùa lạnh khoảng 16° đến 21°.Nằm trong

vùng đất “địa linh” nên hàng năm bão ảnh hưởng đến Yên Phong không lớn. Lượng

mưa trung bình mỗi năm là 1512 mm. Đây là một trong những điều kiện rất thuận lợi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cho sản xuất và cuộc sống của cư dân của huyện.

Theo Đại Nam nhất thống chí ghi chép về huyện Yên Phong: “Tên huyện có từ đời

nhà Trần về trước, thời thuộc Minh do châu Vũ Ninh lãnh, lệ vào phủ Bắc Giang”[33, tr.

65]. Tuy nhiên, nếu phải khảo cứu sâu về lịch sử hình thành huyện thì Yên Phong nằm

trong bộ Vũ Ninh, dưới thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đến thời An Dương Vương,

Yên Phong nằm trong địa phận Đô Thành Cổ Loa của nhà nước Âu Lạc.

Trong lịch sử dân tộc, Yên Phong có nhiều lần đổi tên cũng như thay đổi về

địa giới hành chính: “Đời Lê Quang Thuận (tức Lê Thánh Tông 1460 - 1469) đổi lệ

vào phủ Từ Sơn. Đời Hồng Thuận (tức Lê Tương Dực 1509 - 1516) đổi tên là Yên

Phú, sau đó lại theo tên cũ; bản chiều cũng như thế. Nay lãnh 6 tổng, 69 xã thôn

trang vạn” [33, tr. 65].

Ở thế kỷ XV, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì huyện Yên Phong lúc bấy

giờ có 52 xã. Cuối thế kỷ XV, theo bản đồ Hồng Đức huyện có 53 xã. Những năm thời

nhà Nguyễn, thành lập tỉnh Bắc Ninh với 21 huyện, trong đó Yên Phong là huyện có 6

tổng với 71 xã, thôn, phường, trang, vạn.

Từ năm 1801 trở về trước,huyện lỵ của Yên Phong đặt tại xã Hương La. Năm

1802, tức Gia Long thứ nhất chuyển về xã Đông Yên, tổng Mẫn Xá. Từ cuối năm 1945,

huyện lỵ chuyển về phố Chờ (nay là Thị trấn Chờ).

Dưới thời vua Tự Đức (1848 - 1883) huyện Yên Phong có 6 tổng với 69 xã,

thôn, trang, vạn. Từ năm 1836 - 1886, các xã, thôn cũng thay đổi địa danh và tên như:

Đại Cảo đổi là Đại Tảo, Bằng Lâm đổi là Thư Lâm, Xuân Lôi đổi là Thụy Lôi,…

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, sự tồn tại của các tổng không còn nữa, 69

xã, làng cũ được tổ chức thành các thôn, làng theo xã hội mới. Trong thời kì kháng

chiến chống Pháp, ngày 14/4/1948, Chính phủ ban hành Sắc lệnh về việc giải tán thị

xã Bắc Ninh và sửa đổi địa giới, theo đó xã Hoà Long, Vạn An, Khúc Xuyên, Phong

Khê sáp nhập vào huyện Yên Phong.

Chính phủ tiến tục ban hành Nghị định ngày 9/3/1957 về việc trả về các huyện cũ

(Trà Xuyên và Khúc Toại thuộc xã Phong Khê, thôn Thụ Triền thuộc xã Vạn An) những

thôn sáp nhập vào thị xã Bắc Ninh trong thời kỳ kháng chiến trả về huyện Yên Phong.

Ngày 27/10/1962, Quốc hội khoá II ra Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh

và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc với 2 thị xã và 14 huyện. Ngày 1/4/1963, đơn vị hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chính mới chính thức làm việc.

Năm 1963, 2 xã của huyện Yên Phong là xã Phú Lâm và xã Tương Giang được

chuyển về huyện Tiên Sơn. Lúc này, cũng đồng thời cắt 2 xã Văn Môn và Đông Thọ

của huyện Từ Sơn về huyện Yên Phong.

Năm 1969, diễn ra việc hợp nhất huyện Tiên Sơn và huyện Yên Phong thành một

huyện lấy tên là huyện Tiên Phong. Nhưng đến 1974, dưới đề nghị của UBND tỉnh Hà

Bắc thôi không hợp nhất huyện Tiên Sơn với huyện Yên Phong được phê chuẩn.

Tại kì họp thứ 10 ngày 6/11/1996, Quốc hội khoá IX đã quyết định phê chuẩn

việc tái lập 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức đi

vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới với 1 thị xã và 5 huyện, chia thành 123 xã,

phường, thị trấn.

Thực hiện Nghị định số 60/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về việc

điều chỉnh địa giới hành chính huyện Yên Phong, huyện Quế Võ, huyện Tiên Du để

mở rộng thành phố Bắc Ninh. Theo đó, các xã Hòa Long, Vạn An, Khúc Xuyên, Phong

Khê toàn bộ diện tích đất tự nhiên và nhân khẩu của chuyển về thành phố Bắc Ninh.

Từ đây huyện Yên Phong có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 13 xã và 1

thị trấn.

1.3. Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong trước năm 1986

Quá trình ĐTH của Yên Phong đã diễn ra từ rất sớm cùng với quá trình hình thành,

phát triển và ĐTH của tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, thời gian trước năm 1986 tốc độ ĐTH

ở nơi đây còn rất chậm chạp, chưa có đủ khả năng vươn lên thành đô thị lớn.

Từ thời các Vua Hùng, huyện Yên Phong nằm trong bộ Vũ Ninh đã là một bộ

phận dân cư quan trọng của quốc gia Văn Lang. Với những phát hiện khảo cổ từ thời

đồng thau, sắt ở Phong Khê, Dũng Liệt, Hoà Phong… đã cho thấy sự hội cư lớn ở nơi

đây. Dưới thời Âu Lạc thế kỷ thứ III TCN, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở

nước ta mà Yên Phong (cụ thể là vùng đất Thất Diệu) đã có đóng góp to lớn cho quá

trình xây dựng này và được coi là vùng trọng địa trong phát kinh tế và bảo vệ tổ quốc.

Tiếp sau đó là hơn 1000 năm Bắc thuộc, dưới sự cai trị áp bức, bóc lột của các triều đại

phong kiến phương Bắc, hình thành các khu vực hành chính mới nhưng chưa có điều

kiện phát triển kinh tế xã hội để hình thành các đô thị tại Yên Phong. Đồng thời cũng

do sự hạn chế của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nên Yên Phong lúc bấy giờ và

cả sau đó đều không có hiện tượng di cư hay nhập cư ồ ạt, nếu có thì chỉ diễn ra đơn lẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nên khó hình thành các đô thị lớn.

Thời phong kiến

Từ thế kỷ X, bước vào kỉ nguyên độc lập, tự chủ dân tộc theo sự thay đổi các

triều đại, Yên Phong nhiều ít có thay đổi địa giới và địa danh của mình. Tuy nhiên, với

việc nằm ở vị trí đắc địa Yên Phong luôn gần các đô thị lớn. Đặc biệt là vào thời nhà

Trần đến vương triều Tây Sơn (1225 - 1802), huyện lỵ Yên Phong của huyện, được đặt

ở xã Hương La, tổng Hương La đã hình thành “con đường thiên lý về kinh thành Thăng

Long: Hương La - Yên Vĩ - Yên Phụ - Thuỵ Lôi - Vân Điềm - Thiết Úng - Dục Tú -

Thăng Long” [17, tr. 55]. Huyện lỵ lúc này cũng gần các đô thị gần cảng sông “thuyền

buôn từ Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương ngược bè lên chở lâm sản từ Thái Nguyên

xuôi về…” [17, tr. 55]. Từ năm 1802, dưới thời Gia Long, lỵ sở chuyển về xã Đông An

thuộc tổng Mẫn Xá (nay là thôn Đông Yên, xã Đông Phong). Lỵ sở Yên Phong dời đi

lại trở thành điểm phát triển mới của huyện và cũng gần các thị thành như: “có cầu

Đông Yên bắc qua sông Ngũ Huyện Khê, qua tổng Ân Phú về Phủ Từ Sơn” và “có

đường tỉnh lộ chạy theo hướng Đông Tây nối thị xã Bắc Ninh với tỉnh Phúc Yên ở Phù

Lỗ” [17, tr.55].

Nhờ những điều kiện địa lý thuận lợi, điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong

phú nên Yên Phong có đầy đủ điều kiện để phát triển nền nông nghiệp chủ yếu trồng

lúa nước. Bên cạnh đó, huyện cũng hình thành nghềTTCN như làm cày bừa, rổ giá,

nong, nia... chủ yếu để phục vụ cho cho sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra việc trồng dâu

nuôi tằm, dệt lụa, làm gạch, nghề rèn, nghề mộc… cũng rất phát triển.

Yên Phong có thế mạnh về giao thông vận tải chủ yếu là giao thông thủy lợi gắn

với ba con sông sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Ngũ Huyện Khê nên việc giao thương

buôn bán hàng hóa rất hết sức thuận lợi. Các mặt hàng buôn bán chủ yếu là: hàng nông

sản, các công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng thông qua các thương lái tại các chợ, như

chợ Chờ, chợ Núi, chợ Trai, chợ Chóa...

Bên cạnh đó, do hạn chế giao thông lúc này, chủ yếu là đường bộ nên dân cư

Yên Phong chưa thực sự có điều kiện thuận lợi trong việc giao thương buôn bán và đời

sống của họ chưa tách khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mặc dù Yên Phong

gần với các đô thị lớn hoàn toàn có đủ khả năng để phát triển đô thị nhưng do mục đích

ban đầu của các nhà nước phong kiến, xây dựng các thành lũy chủ yếu mang ý nghĩa

về mặt hành chính và quân sự cùng chính sách bế quan tỏa cảng hay trọng nông mức

thương nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế dân cư nơi đây. Vì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vậy, có thể khẳng định quá trình ĐTH ở giai đoạn còn khá chậm chạp.

Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945

Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, chúng lần lượt thôn

tính các tỉnh ở cả 3 kỳ, đặt ách cai trị và thi hành chính sách khai thác thuộc địa trên

toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Năm 1895, thực dân Pháp lấy Sông Cầu làm địa giới chia

tỉnh Bắc Ninh thành thành hai tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Yên Phong thuộc phủ

Từ Sơn nằm trong tỉnh Bắc Ninh. Quá trình này, tạo điều kiện cho huyện Yên Phong

mở rộng phạm vi và phát triển của mình,hình thành quy mô nhỏ mạng lưới đô thị kèm

theo đồn trú quân sự.

Trước hết, để phục vụ mục đích cai trị chính quyền thực dân tận dụng các con

đường cũ ở Yên Phong xưa, sửa chữa lại những trục đường chính: “Đường đến Như

Nguyệt qua Yên Phụ đi Đông Anh con đường này được hình thành từ đầu thế kỷ XI

(thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Tống). Đường thị xã Bắc Ninh qua Yên Phong đi

sóc Sơn (Hà Nội) là đường 16 cũ nay được gọi là đường 286. Đường từ Đông xuyên đi

Từ Sơn theo quốc lộ 1A về Hà Nội là đường 179 cũ nay gọi là đường 295”[17, tr.162].

Về giao thông đường thủy, Pháp tận dụng điều kiện thuận lợi của ba con sông tổ chức

hoạt động giao thương buôn bán ở Yên Phong.

Trong nông nghiệp, ruộng đất của Yên Phong do địa chủ phong kiến tay sai nắm

giữ, làng Kiểm Xuyên, xã Thụy Hòa có 60 hộ với 260 ha đất canh tác thì: “Đất của địa

chủ là 144 ha (của 10 địa chủ trong đó 5 địa chủ trong thôn chiếm 55 ha còn lại bài 5

địa chủ ngoại lai). Ruộng đất công 20 ha. Ruộng đất các cán hộ nông dân 96 ha” [17,

tr. 112]. Người nông dân buộc phải bán ruộng đất cho địa chủ để lập thành đồn điền

như đồn điền ở các xã Yên Trung, Dũng Liệt, Thụy Hòa... Các chủ đồn điền này đã

dần chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa, sử dụng máy móc máy, chăn nuôi trâu, bò

để cày và vắt sữa... Như vậy, thời thuộc Pháp, huyện Yên Phong dần hình thành nên

vùng dân cư theo phát triển theo hướng công nghiệp.

Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám năm 1945

Sau cách mạng tháng Tám, Đảng và Chính phủ ta đã tích cực khắc phục hậu quả

của chiến tranh và hậu quả chính sách cai trị củaPháp đối với Việt Nam. Ở Yên Phong,

đến đầu năm 1946, các hoạt động sản xuất nông nghiệp được phục hồi đời sống nhân

dân được cải thiện, nạn đói được đẩy lùi.

Tuy nhiên, sau năm 1945 nước ta một lần nữa thực hiện trường kỳ kháng chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chống thực dân Pháp. Yên Phong không phải vùng chiếm đóng của thực dân Pháp

nhưng lại là nơi luôn bị dịch uy hiếp do có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về mặt quân

sự. Trong quá trình kháng chiến, ngoài việc di cư và nhập cư vào Yên Phong do hôn

nhân thì hoạt động di cư diễn ra do nhu cầu kháng chiến từ vùng chiếm đóng sang vùng

tự do hoặc do nhu cầu điều động của Chính phủ, Nhà nước trong quá trình quản lý.

Cũng từ cuối năm 1949 đến tháng 7/1954 chiến sự diễn ra ác liệt ở hầu hết các

xã thuộc huyện Yên Phong. Trước sự đánh phá của thực dân Pháp, nhân dân Yên Phong

dù di chuyển sang các vùng tự do nhưng vẫn cử người về chăm nom đồng ruộng: “Năm

1951, nhân dân các xã Yên Trung, Dũng Liệt, Đông Tiến, Tam Giang đấu tranh, trong

khi giặc càn quét dồn dân lập vành đai trắng ảnh để làm ruộng ở ven sông Yên Trung

vẫn cấy được 1.762 mẫu” [17, tr. 115].

Từ năm 1961 - 1965, Yên Phong thực hiện kế hoạch 5 năm với nhiều thăng trầm

do sự quản lý còn yếu kém từ giữa năm 1961. Chỉ đến năm 1965, mới ổn định lại và

đạt được những thành tựu đáng kể: “năm 1965, diện tích gieo trồng toàn huyện 13.736

ha hệ số sử dụng ruộng dất 1,54 lần. Năm 1964, sản xuất lương thực là 23.877 tấn

(năng suất lúa bình quân 3 vụ đạt 18,8 ta/ha) bình quân đầu người 384 kg/ năm là năm

có năng suất lúa cao nhất trong thời kì 1961 - 1965” [17, tr. 117]. Cũng từ 1965 -

1975, với tiêu chí “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” huyện đã

huy động hàng nghìn tấn thóc, thịt lợn, lạc, đỗ giao cho Nhà nước.

Về sản xuất TTCN trong thời kì này, Yên Phong vẫn duy trì và phát triển một

số ngành thủ công truyền thống. Năm 1949,“có 95 lò sưởi làm cày bừa, với 284 công

nhân, đã sản xuất được 1.500 chiếc cày và 1.000 chiếc bừa... các xưởng làm giấy ở

dương ổ có 160 tàu seo, Đào Xá có 80 tàu seo. Hạ Giang có 16 tàu seo, thu hút hàng

trăm công nhân sản xuất các loại giấy đánh máy thay cho giấy nhập ngoại và giấy in

báo, truyền đơn phục vụ công tác tuyên truyền kháng chiến” [2, tr. 83].

Sau cách mạng tháng Tám, chính quyền cách mạng của ta cũng chưa có điều

kiện chú ý đến việc tu sửa đường xá, phát triển mạng lưới giao thông, chỉ dựa vào các

phương tiện chở thô sơ như: xe đạp thồ, xe cút kít, xe cải tiến... Đến những năm 60 của

thế kỉ XX, trong quá trình kháng chiến chống Mĩ ủng hộ miền Nam, các con đường ở

Yên Phong dần được sửa chữa nâng cấp:“Đường tỉnh lộ 16 (đường 295) và 286 thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuyên được tu sửa, bảo dưỡng đảm bảo giao thông thuận lợi giữa Yên Phong và các

vùng lân cận” [17, tr. 163]. Đến những năm 1965 - 1969, tiến hành rải nhựa đường và

làm đường mới ở nhiều nơi.

Về cơ sở vật chất của y tế, giáo dục cũng có điều kiện xây dựng và phát triển.

Trong những năm chiến tranh thì các bệnh xá đã được tăng cường đầu tư như củng cố

về mọi mặt. “Đến năm 1970, toàn huyện có 3.469 giếng nước, 980 nhà tắm và 6.827

hố xí 2 ngăn; bệnh viện huyện Yên Phong từ một đơn vị yếu kém đã vươn lên được y tế

nay là Sở y tế Hà Bắc cũ xếp loại khá trong năm 1970...” [2, tr. 187].

Phong trào bình dân học vụ được đẩy mạnh thực hiện đối với nhân dân trong

huyện Yên Phong: “Năm 1948, toàn huyện có 19 trường học cơ bản (trường công).

Trường tiểu học Quan Đình có quy mô lớn nhất, có 7 lớp, 7 giáo viên” [2, tr. 84].

Các ngành học phổ được phát triển mạnh về quy mô và chất lượng:“Năm 1962 -1963,

có 10 trường cấp II (gấp 5 lần đầu năm học 1960 - 1961). Năm 1963 trường phổ

thông cấp III Yên Phong được thành lập và đi vào hoạt động… Đến cuối năm 1965

(giữa năm học 1965 - 1966), toàn huyện: “cấp I có 6766 học sinh, cấp II có 1724 học

sinh, cấp III có 205 học sinh” [2, tr.145]. Đến năm 1970 năm 1973, giáo dục vẫn tiếp

tục phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng “năm 1973, đạt tỷ lệ 32 học sinh

trên 100 dân, huyện được công nhận là lá cờ đầu về phong trào giáo dục tỉnh Hà Bắc

(cũ)” [2, tr.158].

Như vậy, Yên Phong ngoài nhiệm vụ kháng chiến, cũng đã khôi phục và phát

triển kinh tế, văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội để trở thành hậu phương vững chắc

tiến tới thống nhất đất nước. Đây là tiền đề vững chắc xây dựng cơ sở kinh tếhạ tầng

và phát triển đô thị ở Yên Phong sau này.

Sau thống nhất đất nước năm 1975,mặc dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhưng

dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy, UBND huyện Yên Phong đến các hợp tác xã

đã đạt được nhiều thành quả trong kinh tế. Đặc biệt là khi thi hành chính sách “khoán

100%” các ngành nghề này phát triển mạnh mẽ hơn, tăng thu nhập đáng kể cho nhân

dân ở địa phương. Các hoạt động thương mại, mua bán được thực hiện trên quy mô

hợp tác xã toàn xã. Ban đầu chỉ tập trung nguồn hàng vào các thương nghiệp quốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

doanh và hợp tác xã mua bán thì sau đó được tự do kinh doanh ra bên ngoài.

Trong thời gian này, huyện Yên Phong cũng rất quan tâm đầu tư cho các công

trình cơ sở vật chất và hệ thống giao thông. Ủy ban huyện cùng với sự giúp đỡ của Bộ

Thủy lợi đã xây dựng được các trạm bơm ở thôn Vọng Nguyệt, Cầu Găng... góp phần

nâng cao năng lực sản xuất ở các xã. Các con đường liên xã được giải nhựa và tu bổ:

“Năm 1981: rải đường huyện, tỉnh 13 km, đường thôn, xã 42 km ở 13 xã. Năm 1985

trùng tu 7000 m² mặt đường, đạt 100% kế hoạch, duy tu 23km, rải cấp phối 3000m”

[17, tr. 164].

Giáo dục, y tế huyện gần như dậm chân tại chỗ. Các cơ sở trường lớp ít được tu

sửa, tình trạng nợ lương giáo viên diễn ra phổ biến, cuộc sống khó khăn nhiều giáo

viên phải kiếm thêm việc làm khác. Quy mô của bệnh viện, trạm xá ở Yên Phong hầu

như không đổi nhưng cũng có sự tăng lên về chất lượng khám chữa bệnh, công tác y tế

dự phòng cũng được chú trọng.

Những năm đầu sau thống nhất đất nước, đây là thời điểm thách thức đối với

nhân dân cả nước nói chung và huyện Yên Phong nói riêng. Song nhờ sự cố gắng

trong công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp, cũng như

nhiều nơi khác huyện Yên Phong đã nỗ lực ổn định kinh tế - xã hội đem lại nhiều

chuyển biến tích cực. Thời gian này cũng được xem như là khoảng thử nghiệm để

huyện Yên Phong tiến tới thực hiện đổi mới đất nước theo chỉ thị của Đảng. Quá

trình này cũng đã thúc đẩy sự hình thành các đô thị mới và gia tăng tỉ lệ dân số tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các đô thị vốn có.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Vùng đất Yên Phong có điều kiện tự nhiên thuận lợi là yếu tố giúp huyện Yên

Phong phát triển mạnh trong khu vực tỉnh Bắc Ninh. Huyện có địa hình tương đối bằng

phẳng với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp,

đặc biệt là trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày,…cũng là nền đất tốt cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh những nông sản, huyện cũng hình thành nghề TTCN

như làm cày, bừa, rổ, giá,... chủ yếu để phục vụ cho cho sản xuất nông nghiệp. Hơn

nữa huyện có mạng lưới giao thông phát triển, đặc biệt là được bao bọc bởi 3 con sông

lớn với nguồn nước dồi dào tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp và thương nghiệp. Đây là những cơ sở quan trọng để huyện có tiến hành quá trình ĐTH nhưng để huyện

có thể phát triển ổn định cần phải có quy hoạch và kế hoạch đầu tư phù hợp để khai

thác tiềm năng nhằm đạt hiệu quả cao.

Từ 1986 trở về trước, có thể khẳng định quá trình ĐTH còn chậm chạp.Dưới

thời phong kiến, huyện có điều kiện tài nguyên thiên thuận lợi trong hoạt động phát

triển kinh tế nông nghiệp, TTCN nhưng hoạt động giao thương vẫn còn hạn chế cùng với đó do chính sách của giai cấp thống trị đã không tạo điều kiện thuận lợi cho huyện

thành lập đô thị lớn. Nhưng đây cũng là nền tảng sơ khai đầu tiên cho quá trình ĐTH

diễn ra tại Yên Phong.

Quá trình ĐTH này nhanh hơn dưới sự tác động của cuộc khai thác thuộc địa

của thực dân Pháp với nhiều cơ sở công nghiệp, TTCN như: xưởng dệt, nhà máy xay

xát,... được hình thành cùng các công trình hạ tầng đường xá, hệ thống điện, nước....

được xây dựng đã làm thay đổi tình hình chung của huyện theo cả 2 hướng tích cực và

tiêu cực. Xu hướng này đã giúp huyện Yên Phong bước vào thời kì phát triển theo

hướng công nghiệp tiến tới là nền tảng tiếp theo cho quá trình ĐTH phát triển theo

hướng hiện đại.

Từ sau năm 1945, huyện bước vào thời kỳ tiền ĐTH nhanh nhưng đứng trước

nhiều khó khăn và thử thách to lớn. Tuy vậy, trong thời gian này với những cố gắng của các cấp chính quyền huyện đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực, góp phần hàn gắn thương tích của chiến tranh cũng như thay đổi vùng nông thôn lạc hậu trở thành một vùng đất phát triển mới, một xã hội mới đã và đang trong

quá trình ĐTH.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Những yếu tố thay đổi trong các thời kỳ này sẽ được kích thích mạnh bởi đường lối đổi mới đất nước do Đại hội Đảng lần VI để ra là động lực huyện Yên Phong thay tiến hành ĐTH nhanh.

Chương2

HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2007

2.1. Bối cảnh lịch sử

Sau khi thống nhất,cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoà

chung trong không khí đó, huyện Yên Phong đã cùng nhau thi đua, lao động sản xuất và

bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện.

Thời gian đầu, huyện Yên Phong gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và phát

triển kinh tế nguyên nhân do thời tiết thay đổi dẫn đến hạn hán kéo dài, rét đậm trong

nhiều năm và do tác động bởi cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979, cuộc khủng hoảng

kinh tế - xã hội, văn hoá diễn ra ngày càng trầm trọng, phức tạp. Những chính sách khi

thực hiện Khoán 100 (ngày 13/1/1981) của Trung ương Đảng ban hành về “cải tiến

công tác khoán”, “ mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động

trong hợp tác xã nông nghiệp” hay chính sách năm 1985 về giá - lương - tiền đã đưa

đến giá cả tăng vọt, hàng hoá khan hiếm, lạm phát ngày càng gia tăng.

Trước thực trạng trên, từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong Đại hội, với tinh thần “nhìn

thẳng vào sự thật”, các đại biểu đã đánh giá, phân tích sâu sắc tình hình trong đổi mới.

Đại hội đã đề ra “đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặt ra chương trình, mục tiêu,

nhằm từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và tiếp tục đi lên theo

định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ thể, đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi

mới về tư duy lý luận mà trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ

để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

Về kinh tế, Đại hội đã đề ra 3 chương trình lớn là sản xuất lương thực, thực

phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Chương trình trên ngoài

việc từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, ổn định tình hình chính trị, xã hội

còn góp phần đặc biệt quan trọng đối với tích luỹ từ nội bộ để tiến hành CNH - HĐH

đất nước.

Về cơ chế quản lý, quyết định chuyển toàn bộ nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập

trung quan liêu, bao cấp sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy kết quả kinh

tế làm thước đo cơ bản, từ đó mở rộng tự do lưu thông hàng hoá, tiến tới xây dựng nền

kinh tế mở, đa dạng, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế quản lý của nhà nước theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sau Nghị quyết của Đại hội VI, tình hình nước ta nói chung và huyệnYên Phong

nói riêng đã có những bước đột phá quan trọng, toàn dân đẩy mạnh sản xuất, nền kinh

tế chuyển hướng theo cơ chế thị trường. Sự thay đổi trên đã đem lại nhiều thuận lợi cho

sự phát triển của các tỉnh, thành phố.Từ đây, những thay đổi trong đô thị đã diễn ra một

cách rõ rệt hơn.Quá trình ĐTH trở thành một trong những nguồn lực chính thúc đẩy sự

phát triển của quốc gia.

Năm 1987, để cụ thể hoá đường lối Đại hội VI của Đảng, huyện Yên Phong

đề ra 3 chương trình phát triển kinh tế của huyện với mục tiêu lớn nhất là giải quyết

vấn đề lương thực, thực phẩm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Những chủ

trương về quá trình ĐTH được tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện hơn trong các

kỳ Đại hội VII (6/1991), VIII (6/1996), IX (3/2000), X (2006),…Các văn bản trên,

đã tạo điều kiện đầy đủ, hình thành chiến lược quan trọng trong xây dựng phát triển

đô thị ở Việt Nam.

Để thích nghi với thời kỳ phát triển mới, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực

và thế giới, Đại hội Đảng bộ huyện Yên Phong đã Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội huyện Yên Phong nhằm cụ thể quá trình thực hiện quy hoạch đô thị, để đô thị Yên

Phong đáp ứng các tiêu chí của đô thị loại IV vào năm 2019, thành thị xã vào năm 2020

và thành quận vào năm 2022. Thông qua quy hoạch điều chỉnh phát triển, huyện sẽ phát

triển theo hướng mở, phi tập trung, đa trung tâm, kết hợp giữa lan tỏa và phát triển theo

tất cả các nhánh dọc các trục giao thông lớn, có hệ thống đô thị vệ tinh làm đối trọng.

2.2. Những biến đổi về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng

2.2.1. Biến đổi về kinh tế

Yên Phong là một trong những huyện của tỉnh Bắc Ninh sau khi thực hiện chính

sách đổi mới của Đảng năm 1986, đã nhanh chóng vượt qua các khó khăn và cónhững

bước đi ổn định, điều chỉnh phù hợp với tình hình chung của toàn tỉnh Bắc Ninh.

Trong giai đoạn 1986 - 2007, các ngành kinh tế huyện Yên Phong có những

bước đi mạnh mẽ. Năm 2006, giá trị sản xuất của huyện đạt 3.072,7 tỷ đồng, chiếm

7,8% so với kinh tế toàn tỉnh. Từ thực tế phát triển kinh tế của huyện những năm 1986

- 2000 ta thấy tốc độ tăng trưởng sản xuất khoảng 6,5%; bước sang giai đoạn 2001 -

2006 tăng trung bình 15,5%. Điều này thể hiện giá trị sản xuất của huyện đang dần phù

hợp với nhịp điệu tăng trưởng chung của tỉnh Bắc Ninh trong tình hình mới. Tuy

nhiên,để phát triển ổn định, vững mạnh là bài toán cần cân nhắc kĩ trong chiến lược

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phát triển kinh tế - xã hội của lãnh đạo huyện Yên Phong.

Trong những năm vừa qua, quá trình ĐTH ở huyện diễn ra với tốc độ nhanh và

mạnh mẽ đã tác động và làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng

tăng dần tỷ trọng các ngành kinh tế công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, đồng

thời giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Đây được xem là một trong những tiêu trí

cơ bản và quan trọng để đánh giá mức độ ĐTH nói chung của quốc gia cũng như tại

huyện Yên Phong nói riêng. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại thể

hiện qua biểu đồ dưới đây:

Cơ cấu kinh tế

20,6%

Nông nghiệp

48,1%

Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

31,3%

Biểu đồ 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Phong năm 2006 (đơn vị:%)

Nguồn: [9, tr. 41]

Theo biểu đồ trên, có thể thấy cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển dịch theo

hướng tích cực. Thời gian đầu đổi mới đến năm 2000, nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng

đầu của là ngành chiếm hơn 60% trong cơ cấu kinh tế của huyện thì đến năm 2006, nông

nghiệp vẫn có xu hướng giảm xuống chiếm gần 50%. Nguyên nhân do nhu cầu đảm bảo

về lương thực, thực phẩm không chỉ cho dân cư, sản xuất trong huyện Yên Phong mà cho

các huyện khác của tỉnh hay thành phố lân cận nên nông nghiệp vẫn giữ được ưu thế của

mình. Đây là quá trình phát triển để thích ứng được với cơ chế thị trường, nên trong quá

trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng lên trong công nghiệp - xây dựng chiếm 31,3%

và dịch vụ chiếm 20,6%. Quá trình chuyển dịch kinh tế thể hiện cụ thể theo hướng sau:

Về nông nghiệp

Nông nghiệp là nhân tố luôn được quan tâm trong khi thực hiện ĐTH, đặc biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

là ở vùng nông thôn. Trong đó, tổng giá trị sản xuất, diện tích sản xuất, số lao động

tham gia sản xuất nông nghiệp là các yếu tố quan trọng để đánh giá được mức độ ĐTH.

Từ sau năm 1986, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng chất lượng đạt

hiệu quả kinh tế cao, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ về cơ giới hóa trong

sản xuất, về cây giống, con giống, tách chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, bảo đảm an toàn

dịch bệnh… Quá trình đổi mới này, không những đem lại sự thay đổi cho ngành nông

nghiệp mà còn thúc đẩy ngành kinh tế CN - TTCN và thương mại - dịch vụ.

Cơ cấu về đất đai ở huyện Yên Phong có sự thay đổi, diện tích đất nông nghiệp

và đất canh tác dần thu hẹp, năm 2000 là 7.821,26 ha chiếm 69,88% tổng diện tích đất

tự nhiên. Tuy vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nhưng nông nghiệp huyện

vẫn vấp phải những khó khăn về thời tiết, giá nông sản đầu ra bấp bênh, giá phân bón

và thức ăn chăn nuôi lại qua các năm có xu hướng liên tục tăng và giữ ở mức cao; nguy

cơ tái phát dịch bệnh luôn dình dập; diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần

do chuyển đổi mục đích sử dụng đất;…

Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện lâu dài, Đảng bộ tỉnh, huyện

đã đưa ra nhiều chính sách, nghị quyết cụ thể: Nghị quyết số 06/NQ-TU về “định hướng

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-2005”. Từ đây, trước sức ép

thúc đẩy của quá trình đổi mới, cơ cấu cây trồng từng bước chuyển dịch theo hướng

cây trồng hiệu quả kinh tế thấp, có quy mô, diện tích gieo trồng và tỷ trọng giá trị sản

xuất ngày càng giảm và từng bước đề cao các cây trồng có giá trị kinh tế cao, chiếm

quy mô, diện tích gieo trồng và tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh tế. Năm 1997, diện

tích cây lương thực có hạt là 14.124 hacó sản lượng là 54.664 tấn, năm 2006 giảm

xuống còn 13.180 ha có sản lượng là 70.144 tấn. Năm 2006, sản xuất nông nghiệp có

thu được giá trị trên 1 ha đạt 44,8 triệu đồng. Trong đó, sản xuất lúa chiếm tỷ trọng cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhất, biểu hiện qua bảng sau:

Bảng 2.1. Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lúa cả năm của huyện Yên Phong

từ năm 1997 - 2006

Diện tích (ha) Năng xuất (tạ/ ha) Sản lượng (tấn) Năm

1997 12.956 39,0 50.566

1998 13.415 42,6 57.146

1999 13.669 47,3 64.599

2000 13.730 51,9 71.208

2001 13.536 52,2 70.606

2002 13.438 52,7 70.832

2003 13.397 53,7 71.994

2004 13.319 56,1 74.667

2005 13.193 53,6 70.748

2006 13.019 53,5 69.613

Nguồn: [9, tr.192-194]

Như vậy, có thể thấy diện tích gieo trồng giai đoạn này có xu hướng giảm nhưng

chênh lệch còn không đáng kể, với sản lượng lúa bình quân tăng. Cây lúa vẫn được gieo

cấy chủ đạo và dần gieo trồng các giống lúa lai có chất lượng cao như Q.Ưu1, cho giá trị

kinh tế lớn. Hạn chế trồng lúa chiêm cấy bằng các giống lúa cũ, dài ngày, năng suất thấp.

Cơ cấu mùa vụ cũng đã chuyển đổi rõ nét từ 2 vụ chính là vụ đông - xuân và vụ mùa

trong đó vụ mùa có thể trồng 2 vụ là trà mùa trung và trà mùa muộn xen canh. Diện tích

trồng hai vụ trồng lúa chính này đều không chênh lệch nhau là bao nhưng sản lượng lúa

đông - xuân thường cao gấp 1,2 lần so với lúa vụ mùa.

Ngoài trồng cây lương thực chủ yếu là lúa, trên địa bàn huyện trồng các cây

lương thực khác như ngô, khoai lang, sắn…; cây công nghiệp như đỗ, lạc, vừng, mía;

cây thực phẩm như đậu, khoai tây, cà chua… Nhìn chung các loại cây trồng từ năm

2000 đến 2006 đều có năng suất cao. Bên cạnh cây lương thực chính là lúa, năm 2006

huyện có diện tích cây ngô là 137 ha với sản lượng đạt 424 tấn; khoai lang có diện tích

là 543 ha sản lượng đạt 8.670 tấn. Theo đó, sản lượng khoai lang cao hơn ngô vì nó là

cây trồng ngắn ngày, khá dễ tính còn cây ngô chỉ trồng ở các bãi bồi ven sông Cầu và

dần bị thu hẹp do nhu cầu rau xanh của huyện ngày càng cao. Về các loại cây thực

phẩm, do khí hậu đặc trưng miền Bắc có mùa đông lạnh, kéo dài nên của huyện đã có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

điều kiện trồng rau cải, cà chua, khoai tây… Nhưng gieo trồng với diện tích nhỏ hơn

223 ha, chỉ đáp ứng nhu cá nhân hộ gia đình, sản phẩm mang đi bán đáp ứng thị trường

còn hạn chế. Huyện bắt đầu trồng một số loại cây công nghiệp như đỗ tương, lạc…

nhưng do địa hình bằng phẳng và đất phù sa không là thế mạnh nên diện tích gieo trồng

khá ít. Các xã trồng nhiều nhất là Tam Giang, Hoà Tiến, Dũng Liệt. Một trong số loại

cây trồng không chiếm diện tích lớn đó là công nghiệp lâu năm, ở huyện vẫn trồng cây

dâu ở ven sông Cầu để phục vụ cho việc nuôi tằm với diện tích năm 2006 là 26 ha, tập

trung chủ yếu ở xã Tam Giang.

Nhìn chung, để đạt hiệu quả cao trong trồng trọt huyện cũng ứng dụng tiến bộ

kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất như sử dụng giống lai, máy cày bừa, bắt đầu

xây dựng nhiều nhà lưới, nhà kính,... Huyện cũng thay đổi cơ cấu mùa vụ để đạt hiệu

quả cao về năng suất, sản lượng cây trồng. Kết quả của thực hiện chính sách đổi mới

trong giai đoạn này là diện tích gieo trồng tuy giảm dần nhưng với cơ chế chuyển dịch,

áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại đã đem hiệu quả kinh tế nâng lên rõ rệt. Vấn đề an

ninh lương thực của huyện Yên Phong được đảm bảo hơn nữa bắt đầu đóng góp cho

các ngành sản xuất chế biến thực phẩm, xuất khẩu gạo, dự trữ quốc gia,...

Trong chăn nuôi, đã có sự chuyển đổi rõ nét từ phương thức chăn nuôi hợp tác

xã sang nông hộ rồi dần hình thành các gia trại, trang trại. Huyện Yên Phong cũng như

nhiều nơi khác luôn chú trọng đến chăn nuôi bởi đây là một trong những nguồn thu

nhập quan trọng cho người dân. Trong đó, những năm đầu sau đổi mới con trâu vẫn là

nguồn sức kéo, dùng để cày bừa phục vụ cho nông nghiệp luôn được coi là tài sản quan

trọng của nhà nông. Những năm 2000, tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã góp phần cơ

giới hóa máy cày, bừa nên nhìn chung cũng có sự thay đổi đáng kể về mục đích nuôi

trâu. Những năm đầu đổi mới với định hướng phát triển kinh tế nên đàn bò, lợn, gia

cầm cũng có xu hướng tăng nhanh đem lại nguồn lợi cho người chăn nuôi, tiến tới phát

triển chăn ở quy mô lớn. Năm 2006, chăn nuôi chiếm 39,1% cơ cấu giá trị sản xuất

nông nghiệp huyện, cụ thể có thể thấy qua bảng dưới đây:

Bảng 2.2. Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm từ năm 1997 - 2006

(đơn vị: con)

Năm 1997 2000 2003 2006

Trâu Bò Lợn Gia cầm 5.145 5.426 54.495 470.000 4.848 7.889 60.800 453.000 3.372 8.149 86.212 404.000 1.669 9.735 71.499 653.000

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguồn: [9, tr. 218-221]

Mặc dù, đàn trâu có xu hướng giảm mạnh, nhưng do được nuôi theo kĩ thuật,

phương pháp mới nên sản lượng thịt hơi bò, lợn, gia cầm tăng nhanh. Sản lượng thịt

bò hơi xuất chuồng năm 1997 là 57 tấn đến năm 2006 là429 tấn gấp 7,5 lần; thịt lợn

hơi năm 1997 là4.109 tấnđến năm 2006 là 11.304 tấn gấp 2,7 lần; gia cầm giết bán

năm 1997 là 1.357 tấn đến năm 2006 là1.754 tấn. Như vậy, hoạt động chăn nuôi không

chỉ là mục đích lấy sức kéo, sản lượng thịt cho thấy nhu cầu thực phẩm trong dân cư

huyện đã tăng cao và dần đáp ứng được cả thị trường bên ngoài.

Trong chăn nuôi, đặc biệt là sau đổi mới sản xuất thủy sản dần được quan tâm

chú ý, được đầu tư mở rộng chăm sóc về quy mô diện tích, cũng dần áp dụng các kĩ

thuật khoa học tiến bộ vào quá trình này. Năm 2002, huyện chú trọng nghiên cứu các

dự án “Đầu tư khai thác vùng trũng để phát triển thuỷ sản” nhằm phát huy thế mạnh

cũng như sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. Từ năm 1997, có 424 ha diện

tích nuôi trồng thuỷ sản với sản lượng 771 tấn, đến năm 2006 diện tích nuôi trồng thuỷ

sản là 400 ha với sản lượng 1.942 tấn gấp 2,5 lần năm 1997. Trong giai đoạn này, sản

lượng thuỷ sản đạt cao nhất phải kể đến năm 2005 là 2.165 tấn. Đây là những nỗ lực

đầu tiên của sản xuất thuỷ sản cũng như ngành chăn nuôi đã đem lại kết quả tích cực,

góp phần vào chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng tăng tỷ

trọng chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản hiệu quả kinh tế cao, tạo tiền đề quan trọng để

từng bước CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Về thủ công nghiệp

Huyện Yên Phong bên cạnh phát triển nghề trồng lúa nước, tại các xã, làng cũng

tạo thành những làng nghề với các sản phẩm tiểu thủ công mang đặc trưng riêng của

từng làng, từng xã. Việc tạo ra các sản phẩm TTCN đều gắn liền với ngành trồng lúa

như cày, bừa, thúng, mủng, nong…; hay gắn với đời sống sinh hoạt thường nhật như

dệt vải, dệt lụa, đóng gạch, nghề mộc… Từ đây,huyện Yên Phong dựa trên những lợi

thế về vị trí địa lí, tài nguyên cùng việc linh hoạt chính sách của Đảng và Nhà nước để

thu hút đầu tư phát triển CN - TTCN. Trong quá trình này, nhiều làng nghề truyền

thống đã mai một nhưng cũng xuất hiện thêm nhiều làng nghề mới, ngành công nghiệp

mới góp phần thay đổi diện mạo kinh tế huyện Yên Phong. Ngành công nghiệp chủ

yếu nhất của huyện ở giai đoạn này gồm công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến gỗ,

kim loại.

Nhìn chung, trong giai đoạn 1996 - 2005 sản xuất CN - TTCN tăng trưởng bình

quân hàng năm từ 15 - 16%. Giá trị sản xuất CN - TTCN ước tính năm 2000 đạt 170 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tỷ đồng đến năm 2006 ước đạt 734,9 tỷ đồng, vượt 3,6% kế hoạch. Điều này đang cho

thấy ngành công nghiệp huyện dần khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế

huyện, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế ở giai đoạn sau nhanh chóng hơn.

Trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh, năm 2003 huyện chiếm

9,6%, là năm chiếm tỷ trọng cao nhất trong giai đoạn này nhưng so với mặt bằng chung

của tỉnh thì vẫn tương đối thấp.

Trong giai đoạn này, huyện tiếp tục duy trì sản xuất một số nghề TTCN truyền

thống như nghề ươn tơ, dệt vải, dệt lụa nổi tiếng ở xã Tam Giang, Dũng Liệt, Hoà Long;

nghề làm cày bừa ở Đông Xuất; nghề ép dầu ở một số làng của xã Tam Giang; nghề làm

giấy xã Phong Khê… Nhưng bắt đầu từ những năm 1997 trở đi, những làng nghề cũ dần

bị mất đi và có tiếp tục phát triển thì cũng chuyển sang hình thức sản xuất tại các nhà máy,

xí nghiệp. Bên cạnh đó những ngành nghề mới cũng dần phát triển mạnh dựa trên nền tảng

các nghề cũ như cô đúc nhôm Mẫn Xá, Văn Môn; sản xuất chế biến gỗ ở thị trấn Chờ,

Đông Thọ, Trung Nghĩa; sản xuất vật liệu xây dựng ở Vạn An…

Đến nay, toàn huyện có 254 công ty, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã hoạt

động tích cực, góp phần tăng tổng giá trị sản xuất CN- TTCN. Nghề chế biến gỗ lúc

này mang tính chất hộ gia đình, tập trung chủ yếu ở các làng hình thành nghề chế biến

như làng Đông Xuất (Đông Thọ), làng Tiên Trà (Trung Nghĩa), làng Sắt Thượng (Yên

Trung) và nhiều hộ lẻ tẻ ở các xã khác. Các sản phẩm từ tủ, giường, bàn, ghế không

chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nước ngoài chủ yếu là Trung

Quốc. Năm 2006, huyện xẻ 14.724 m³ gỗ và 4.800 các sản phẩm đồ gỗ các loại. Hiện

nay, nghề sản xuất, chế biến gỗ chưa phát triển mạnh nhưng với quyết định dự án thành

lập cụm làng nghề công nghiệp Đông Thọ rộng 15 ha đã thay đổi tình hình, đưa ngành

chế biến gỗ sang giai đoạn phát triển mới.

Ngành sản xuất sản phẩm kim loại cũng là ngành công nghiệp truyền thống lâu

đời của huyện, tập trung ở xã Văn Môn. Đặc trưng với sản phẩm là cô đúc phôi nhôm

và sản phẩm xoong, nồi, mâm nhôm… Năm 2006 ngành sản xuất được 9.816 tấn nhôm

đúc và 1.872 tấn sản xuất sản phẩm từ nhôm. Tuy nhiên, hệ thống dây truyền sản xuất

nhôm lúc này dần lạc hậu, các lò cô đúc, sản xuất nhôm không đảm bảo chất lượng.

Hơn nữa do sản xuất ở hình thức cá thể, từng hộ gia đình nên thông thường đều sản

xuất trong khu vực dân cư dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, không khí trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

địa bàn. Cũng trong giai đoạn này, huyện có dự án quyết định xây dựng và đưa vào

hoạt động năm 2009 khu công nghiệp Văn Môn rộng 25,5ha với hệ thống máy móc

được đầu tư hiện đại, đưa sản xuất tách ra khỏi khu vực dân cư.

Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chủ yếu là gạch viên. Năm 2006, có

công suất 64.400 viên đáp ứng nhu cầu xây dựng những ngôi nhà kiểu hiện đại.

Chế biến lương thực, thực phẩm luôn là nhóm ngành công nghiệp truyền thống

của bất cứ nơi nào có vùng nguyên liệu nông nghiệp phong phú. Để nâng cao giá trị

sản xuất của các sản phẩm nông nghiệp huyện Yên Phong chủ yếu sản xuất sản phẩm

thực phẩm và đồ uống. Các sản phẩm thực phẩm chế biến đa số tại các hộ gia đình

theo hình thức xay xát với sản lượng năm 2006 là 69,8 nghìn tấn và sản xuất 2.560

lít rượu trắng. Huyện đã có những dự án thành lập nhà máy sản xuất thực phẩm trên

địa bàn nhằm phát triển theo hướng chuyên môn hoá về sản xuất. Các sản phẩm sẽ

dần đáp ứng yêu cầu của thị trường, góp phần tạo việc làm, thay đổi cơ cấu việc làm

của cư dân huyện.

Về thương mại - dịch vụ

Yên Phong là nơi giao lưu buôn bán thuận lợi, sau đổi mới các hoạt động thương

mại - dịch vụ ngày càng tăng góp phần đem lại nguồn lợi lớn cho ngành kinh tế, trong

tương lai sẽ chiếm một phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Huyện có đầy

đủ về cơ sở vật chất, mạng lưới giao thông thuỷ, bộ để tiến hành các hoạt động thương

mại - dịch vụ. Ngành dịch vụ năm 2006 chiếm 20,6% trong cơ cấu kinh tế.

Huyện Yên Phong là một vùng đông dân cư nên hoạt động thương mại của

huyện giai đoạn này vẫn hướng vào nội thương là chính. Ở giai đoạn này, mức độ ĐTH

chưa cao nên các mặt hàng tiêu thụ nội địa chủ yếu phục vụ gia đình như lương thực,

thực phẩm, đồ dùng sinh hoạt quần áo… Hiện nay, các dịch vụ nông nghiệp về đến

từng thôn như cung cấp cây, con giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi… cho từng hộ

dân cư đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển

bền vững.

Những năm đầu đổi mới, khi chế độ xoá bỏ tem phiếu nền kinh tế thị trường

được khuyến khích phát triển. Trước sự đổi mới, ngành thương mại - dịch vụ huyện đã

có những cố gắng cải tiến trong các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, tình trạng

của quyền người nắm giữ hàng hoá không còn nữa thay vào đó là người tiêu dùng được

tôn vinh. Các hình dịch vụ tài chính, ngân hàng tín dụng, bảo hiểm… ngày càng phong

phú, phù hợp với tình hình mới của huyện. Theo đó, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch

vụ năm 2006 của huyện là 286 tỷ đồng, chiếm 5,6% so với toàn tỉnh. Mặc dù còn nhiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hạn chế trong hoạt động song không thể phủ nhận những thành tựu của thương mại đã

bước đầu đáp ứng nhu cầu cao hơn cho đời sống và sản xuất.

Huyện Yên Phong dần hoàn thiện xây dựng mạng lưới kinh doanh với nhiều cơ

sở kinh doanh được thành lập và các sản phẩm mặt hàng đa dạng. Tuy nhiên, cũng như

nhiều huyện khác trong vùng giai đoạn này mạng lưới thương mại - dịch vụ còn mỏng,

với loại hình đơn giản.Huyện đã mở thêm các điểm dịch vụ cung ứng vật tư ở các chợ

như chợ Chờ, chợ Núi, Vạn An, Đông Xuyên, Đông Yên… Hệ thống các chợ này trên

địa bàn luôn được cải tạo và xây mới góp phần tăng nhanh các hoạt động dịch vụ thuận

lợi nhất, làm thay đổi diện mạo cũng như rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành

thị huyện trong đời sống. Tại các địa điểm ven đường 295, 286 các hộ kinh doanh mọc

lên như nấm. Năm 2006, có 3.781 hộ kinh doanh với 15 chợ loại 3 và nhiều chợ làng

nhỏ khác. Huyện chưa có cụm khu thương mại - dịch vụ nhưng cũng xuất hiện nhiều

doanh nghiệp, đại lý là cầu nối thu mua cung cấp bước đầu cho sản xuất và tiêu dùng

ở mức độ lớn ra bên ngoài huyện. Mặt khác, huyện cũng khai thác những ưu thế thuận

lợi của vị trí địa lý để khai thác cho hoạt động thương mại - dịch vụ. Các hoạt động

ngoại thương lúc này của huyện còn hạn chế. Nổi bật là buôn bán thóc, gạo xuất khẩu;

thu mua các sản phẩm máy móc xe máy, ô tô, máy bay… thanh lý về tái chế.

Những thay đổi trên cho thấy sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện

trong thời đại mới. Công tác quản lý thị trường chặt chẽ dần từng bước ổn định.Phát

triển này của thương mại - dịch vụ là cơ sở vững chắc cho kinh tế huyện giai đoạn sau

tăng nhanh hơn về tốc độ và chất lượng.

2.2.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện thu hút đầu tư bên ngoài vào huyện

Yên Phong. Nhận thức rõ điều đó trong những năm đổi mới, huyện đã tập trung, chú

trọng từng bước thực hiện các nội dung sau:

Về giao thông

Hạ tầng giao thông có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, xây dựng và cải tạo

tốt hệ thống giao thông sẽ là tiềm lực, cơ sở cho phát triển chung trên toàn huyện. Từ

năm 1986, UBND huyện Yên Phong đã phát động các chiến dịch tu sửa, bảo dưỡng

đường giao thông. Đến năm 1989, thực hiện phân cấp quản lý các tuyến đường xây

dựng, quy chế bảo vệ đường và phát động chiến dịch tu sửa giao thông liên xã.

Để đáp ứng nhu cầu đi lại thông suốt của nhân dân, huyện Yên Phong đã chú

trọng nâng cấp, duy tu các con đê và một số đường trục chính cũ. Nhiều tuyến tỉnh lộ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như mở rộng TL 295, TL 286 được bê tông hóa và rải nhựa, nhiều đường liên xã, liên

thôn khác được cứng hóa. Các con đường này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế và là mối liên kết văn hóa mật thiết, nó cho phép lưu thông thuận lợi người

và hàng hóa giữa địa phương trong tỉnh cũng như ra bên ngoài như thị xã Từ Sơn, thành

phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội, tỉnh Bắc Giang….

Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết 5 của BCH TW khoá VII về đổi mới nông nghiệp,

nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào làm đường giao thông nông thôn của huyện.

Với mục tiêu: bê tông hoá, gạch hoá đường làng ngõ xóm, cấp phối hoá đường huyện,

đường ra đồng ruộng. Tính đến năm 1996, huyện đạt khoảng 60% tỷ lệ cứng hoá đường

thôn, xóm. Nhưng do sự nhận thức, điều kiện kinh tế nên việc góp kinh phí xây dựng

giao thông chưa cao nhìn chung hệ thống giao thông vẫn đa phần là đường đất.

Năm 1997, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã ra nghị quyết số 01/NQ - TU về cải tạo, nâng

cấp đường giao thông trên địa bàn tỉnh và sau đó Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã

ra Nghị quyết 11/LQ - HĐND ban hành văn bản quy định về huy động và sử dụng vốn

xây dựng nâng cấp đường giao thông. Về phía Huyện uỷ và Hội đồng nhân dân huyện

Yên Phong đã ra Nghị quyết về phát động phong trào thi đua làm đường giao thông

nông thôn đến năm 2000 và 2010. Tính đến năm 2001, huyện đã nâng cấp, đào đắp

đường mới trong đó: “Đường nhựa: 32 km, trong đó 3/79,6 km đường tỉnh, 7/49 km

đường huyện. Đường bê tông: 75 km trong đó 3/79,6 km đường xã, 72/373 km đường

thôn. Đường lát gạch: 124/373 km. Còn lại là đường cấp phối” [17, tr. 169].

Hạ tầng giao thông được đầu tư mở rộng, nâng cấp nên dịch vụ vận tải đáp

không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà còn phục vụ tốt nhu cầu của

nhân dân rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Bình quân từ 1997-2006,

vận chuyển hàng hóa tăng khoảng 15%/năm; luân chuyển tăng 17%. Tổng doanh thu

vận tải tăng nhanh, năm 2006 ước đạt 23,3 tỷ đồng, gấp 29 lần năm 1997.

Có thể nói việc tu sửa, xây dựng hệ thống đường giao thông ở huyện trong những

năm này đã tạo điều kiện cho giao thông huyện phát triển. Các hoạt động trao đổi, buôn

bán sản phẩm nông nghiệp, CN - TTCN trong nội bộ tỉnh và các tỉnh lân cận tăng

nhanh. Điều kiện giao thông thuận lợi cũng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế huyện, nông nghiệp xuất hiện nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới đem lại năng suất

cao và dần chuyển hướng thành sản phẩm hàng hoá; hình thành nhiều khu CN - TTCN

với mạng lưới giao thông khá đồng bộ tạo nên liên kết giữa các khu vực đồng thời hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thành mạng lưới dịch vụ cho phát triển kinh tế.

Về đường thuỷ, dân cư huyện tiếp tục phát huy thế mạnh giao thông thuỷ lợi tự

nhiên được bao bọc bởi 3 con sông là sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Ngũ Huyện Khê.

Các tuyến giao thông đường thủy hiện vẫn chủ yếu phục vụ chuyên chở hàng hoá thóc,

gạo, ngô, khoai, sắn và các sản phẩm TTCN như gốm sứ, rượu, giấy…

Tóm lại, sự phát triển của hệ thống đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ và đường

nông thôn đã đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt, sản xuất phát triển kinh tế nhân dân

huyện. Các tuyến giao thông đặc biệt là TL 285, 286 đã thực hiện tốt khâu vận chuyển

nguyên liệu từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất luôn diễn ra

liên tục. Các tuyến đường trong huyện được nâng cấp cũng làm thay đổi cảnh quan môi

trường xanh, sạch, đẹp. Những nhân tố này đã giúp huyện Yên Phong xây dựng kinh

tế, văn hoá mới ngày càng tiến bộ.

Bưu chính viễn thông

Trước năm 1986, vấn đề thông tin liên lạc còn nhiều khó khăn, chưa có điều

kiện để phát triển cơ bản chỉ kế thừa thành quả của chế độ cũ. Về tổ chức hoạt động

dịch vụ của bưu chính thông tin liên lạc chủ yếu là tem thư, bưu kiện, bưu phẩm có số

lượng ít, điện báo, mạng lưới điện thoại tự động qua tải ba đàm thoại thường không

quá 30 phút.

Từ năm 1986, đề ra kế hoạch đổi mới hệ thống thông tin liên lạc từng bước theo

hướng hiện đại bắt đầu được thiết lập với mục tiêu “chất lượng, năng suất, hiệu quả”

với 5 chương trình đồng bộ, nâng cao chất lượng và năng lực, phát triển công nghệ

thông tin, đổi mới tổ chức sản xuất, quản lý mới. Tuy nhiên, huyện Yên Phong vẫn là

một trong những huyện hạn hẹp về thông tin liên lạc phục vụ trong kinh tế và đời sống

nhân dân. Từ cuối những năm 90 trở đi, nhận thấy vai trò của thông tin liên lạc đối với

sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, góp rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông

thôn, đẩy nhanh tốc độ ĐTH, huyện tập trung phát triển hệ thống mạng thông tin. Năm

1996, mọi thiết bị cũ lạc hậu của mạng lưới thông tin được chuyển đổi sang thiết bị

điện tử kĩ thuật số. Tính đến năm 2000, số máy điện thoại cố định có 8.224 máy đạt

bình quân 2,5 máy/100 người. Năm 1997, huyện Yên Phong cũng như nhiều nơi khác

chưa có mạng lưới thuê bao Internet rộng rãi, chỉ có ở một số cơ quan Nhà nước. Huyện

Yên Phong có 1 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có trạm thu phát sóng thông tin di

động; huyện có 1,6 nghìn thuê bao điện thoại. Từ sau năm 2000, hệ thống thông tin

liên lạc của huyện được đầu tư phủ kín từ nguồn kinh phí chuyên ngành với các phương

tiện kỹ thuật hiện đại với các dịch vụ gắn điện thoại bàn, hòa mạng điện thoại di động, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lắp đặt internet,… Tỷ lệ các hộ dân cư dùng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại

này là 80% năm 2006. Lúc này, hệ thống mạng lưới điện thoại trong khu vực tỉnh mở

rộng nên ở huyện cũng có thể nối mạng thông suốt với quốc tế.

Bưu chính viễn thông là nhân tố quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay.

Sự phát triển của ngành này không những ảnh hưởng về mặt kinh tế mà còn góp phần

nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Mạng lưới bưu chính, viễn thông góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, công

nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, vấn đề hiện đại hóa mạng lưới bưu chính, viễn

thông luôn được chú trọng. Trong thời gian qua, các thiết bị cũ, lạc hậu đã được thay

thế hệ thống tổng đài kỹ thuật số cho mạng viễn thông công cộng và mạng di động cho

đến các thiết bị viễn thông cho khối doanh nghiệp…

Hệ thống điện, nước sinh hoạt và nước thải

Huyện Yên Phong nằm trong vùng liền kề đầu nguồn năng lượng lớn của miền

Bắc. Các trung tâm điện lực là thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, Uông Bí, Ninh

Bình. Trong thời gian qua, hệ thống đường dây và trạm phân phối đã được xây dựng

và phát triển, đảm bảo đưa mạng điện lưới quốc gia về tới từng thôn, xóm. Theo thống

kê của ngành điện, hiện nay huyện có 14/14 xã, thị trấn có điện với chiều dài đường

dây hàng trăm km. Nguồn điện ổn định đã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

đặc biệt là cung cấp điện cho các KCN và sinh hoạt

Trước năm 1986, ở huyện Yên Phong, mạng lưới điện chỉ tập trung phục vụ ở

khu vực trung tâm huyện lỵ. Từ năm 1986 trở đi, năng lượng đóng một vai trò rất quan

trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước, trong đó điện năng là một trong

những ngành công nghiệp mũi nhọn. Trước tình hình đó, các cấp uỷ chính quyền huyện

Yên Phong đã đầu tư kéo điện đến hầu khắp các nơi trong huyện. Huyện được cấp điện

từ mạng lưới diện quốc gia 110 KV khu vực miền Bắc, qua việc xây dựng các trạm

điện Yên Phong, với đường dây điện trung thế với trạm hạ thế tăng cường công suất

điện thêm 655KW.

Tại các hộ sản xuất, xí nghiệp kinh doanh do sử dụng điện cao hơn các hộ khác

nên thường lắp đạt thêm đường nối điện với hệ thống truyền tải điện 22KV. Đến năm

2006, mạng lưới điện chiếu sáng ở huyện đã có khắp các trục đường chính. Điện đã

đem lại bộ mặt khang trang cũng như đem lại nguồn năng lượng cho phát triển các hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

động kinh tế thúc đẩy đô thị.

Hệ thống nước cấp nước sinh hoạt của huyện chủ yếu dưới hình thức là giếng

khoan tự túc của các gia đình, mỗi giếng có độ sâu trung bình khoảng 25 - 35 m với

công suất 80m³ kw/h. Hệ thống bể nước tại các hộ gia đình còn khá nhỏ và chưa có

mạng lưới cấp nước sạch qua xử lý của nhà máy nhưng với hệ thống nước này cũng

đủ đáp ứng được mọi nhu cầu về nước sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Mạng lưới

đường ống dẫn nước chủ yếu là ống nhựa PVC, ống gang dẻo thay thế hệ thống đường

ống cũ không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh tại hầu hết các hộ dân và các cơ sở bệnh

viện, trường học…

Hệ thống thoát nước của huyện từ năm 1986 - 2000 vẫn là hệ thống thoát nước

chung của nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải CN - TTCN…. Về cơ bản tình

hình các ống thoát nước, chủ yếu là cống tròn chỉ ở trung tâm đô thị mới có. Tại những

khu dân cư nông nghiệp thì chủ yếu thoát nước theo các rãnh tự tạo ở địa phương hoặc

rãnh xây xi măng nhưng không có nắp che chắn.Về cơ bản là được xây từ giai đoạn

trước đã có nhiều hư hỏng nên việc thoát nước thường tắc nghẽn rác, chất thải và gây

ô nhiễm môi trường.

Từ năm 2000, trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị, giai đoạn đô thị hóa

nhanh hơn, với hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp đã và đang hình thành, từ đây các khu

dân cư tập trung đông lại, yêu cầu việc xây dựng cống thoát nước thải công nghiệp và

hệ thống xử lý trước khi cho chảy vào sông, hồ ở huyện. Để không gây ô nhiễm môi

trường huyện cũng xúc tiến đầu tư lắp đặt, nâng cấp tuyến đường chính thoát nước khu

dân cư các thị trấn, xã nhất là khu vực có khu công nghiệp. Năm 2006, hệ thống thoát

nước mưa, nước thải công nghiệp một bộ phận vẫn chảy ra các mương tiêu trực tiếp

chưa qua xử lý vì huyện chưa hoàn thiện hệ thống trạm xử lý nước thải.

Về nhà ở

Huyện Yên Phong là vùng đất bằng phẳng phù hợp cho dân cư sinh sống,

việc xây nhà ở luôn được chú ý. Vấn đề nhà ở không chỉ là nơi cư trú mà còn thể

hiện mức sống của cư dân, góp phần vào việc hình thành bộ mặt kiến trúc cảnh quan

đô thị, tác động đến quá trình hình thành và phát triển của đô thị. Vì vậy, nghiên

cứu tình hình nhà ở là một trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu

quá trình ĐTH ở đây.

Trước năm 1986, ở nông thôn các căn nhà chủ yếu được xây dựng bằng gỗ mái

ngói, các ngôi nhà kiên cố bằng bê tông chỉ được xây dựng ở trung tâm huyện lỵ. Tuy

nhiên những ngôi nhà này cũng đang trong tình trạng xuống cấp cho đến những năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1990, vấn đề nhà ở mới được chú ý. Đến năm 1997, huyện mới có điều kiện để nâng

cấp nhà ở, xây dựng nhiều ngôi nhà bằng bê tông khang trang hơn. Từ năm 2000, huyện

xây dựng được nhiều khu dân cư với những ngôi nhà khang trang, với hình thức ngôi

nhà 2 - 3 tầng. Khi triển khai xây dựng điều chỉnh không gian sống có thể thấy rõ trên

bề mặt kiến trúc nông thôn dần chuyền sang đô thị.

Nhìn chung, cơ sở hạ tầng của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều

kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế.

2.2.3. Biến đổi về xã hội

Dân cư

Quá trình tập trung dân cư ở các đô thị đã cho thấy vai trò của thành thị đối

với sự phát triển xã hội. Sự chuyển biến dân số trong đô thị là yếu tố quan trọng, là

động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đô thị và là cơ sở để

phân loại đô thị. Huyện Yên Phong có đầy đủ thế mạnh về điều kiện tự nhiên, là

vùng đất hứa thuận lợi để tập trung cư dân.Từ năm 1986 đến nay, cùng với kế hoạch

mở mang phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng huyện đã thu hút đông đảo dân cư nơi

khác đến cư trú. Quá trình ĐTH nhanh dần từ những năm 90, đã làm cho huyện có

tốc độ tăng dân số cơ học cao.

Dân số huyện Yên Phong từ năm 1986 có nhiều thay đổi tích cực. Cụ thể, giai

đoạn từ năm 1986 đến năm 1998 đây là giai đoạn dân số huyện Yên Phong có t ỷ lệ

tăng dân số là 3,5%/năm - được coi là thời kỳ bùng nổ dân số của huyện.Theo số liệu

thống kê của Uỷ ban dân số thì dân số huyện Yên Phong năm 1998 huyện có dân số

là 136.734 người đến năm 2006 là 123.650 người, trong đó 48,9% là nam, 51,1% là

nữ và dân số thành thị chiếm 8,3%, nông thôn chiếm 91,7%. Mật độ dân số trung bình

của huyện Yên Phong là 1.191 người/ km², là một trong số những huyện có mật độ

dân số cao. Từ năm 2000, chỉ số tăng dân số của huyện Yên Phong có xu hướng giảm

chỉ còn trên 1%/ năm. Đây là thời kỳ tỷ lệ tăng dân số có xu hướng giảm dần. Năm

2006, huyện có tỉ suất sinh là 19,6%, tỉ suất tử là 5,6%, gia tăng dân số tự nhiên 1,4%

so với năm trước.

Giai đoạn này, dân số huyện nhìn chung là ổn định, có sự gia tăng nhẹ qua các

năm, do thu nhập của người dân tăng lên, kéo theo là chất lượng cuộc sống được cải

thiện, y tế phát triển. Tuy nhiên cũng còn một bộ phận không nhỏ dân cư ở các xã như

Yên Trung, Dũng Liệt, Thuỵ Hoà… vẫn có tỉ lệ sinh con thứ 3 khá cao. Nguyên nhân

là do thiếu hiểu biết trong sức khoẻ sinh sản, nếp nghĩ trọng nam khinh nữa vẫn còn đè Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nặng trong tư tưởng. Điều này cũng gây nhiều khó khăn trong thực hiện chính sách dân

số của huyện.

Tình hình phân bố dân cư của huyện Yên Phong cũng có sự khác nhau giữa các

làng xã. Từ những năm 1990 trở đi, huyện Yên Phong đã có xu hướng hình di chuyển

nhanh hơn các nhóm dân cư ra các thị trấn hình thành tầng lớp thị dân. Những làng xã có

nghề thủ công truyền thống như Văn Môn (2.440 người/ km2), Yên Phụ (1.841 người/

km2), thị trấn Chờ (1.715 người/ km2) hay các xã gần thành phố Bắc Ninh như: Hòa Long,

Vạn An, Khúc Xuyên có mật độ dân số cao hơn hẳn các xã khác.

Nguồn lao động

Nguồn lao động của huyện Yên Phong tăng trưởng nhanh theo sự phát triển dân

số với nguồn dân số trẻ, quy mô dân số dồi dào, đây là nguồn cho phát triển kinh tế

huyện. Qua các năm cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động có sự thay đổi đáng kể. Năm

2006, số người trong độ tuổi lao động là 70.575 người chiếm 56,8% dân số của huyện;

dân số dưới độ tuổi lao động chiếm 33,2% và trên độ tuổi lao động chiếm 10%. Khẳng

định nguồn lao động dồi dào, ổn định là một thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của

huyện trong hiện tại và tương lai. Nhưng mặt khác huyện cũng gặp sức ép lớn trong

giải quyết vấn đề việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Lực lượng tham gia lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tới

gần 67,5%, trong khi đó lao động trong công nghiệp xây dựng chiếm 19,3% và trong

thương mại - dịch vụ chỉ có khoảng 13,2% trong tổng số độ tuổi lao động của huyện.

Như vậy, rõ ràng lực lượng trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn nhưng hiệu suất sử

dụng lao động còn chưa cao.

Chất lượng của lực lượng lao động tại huyện Yên Phong được quan tâm vì vốn

là vùng đất hiếu học, các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến vấn đề học tập của các em

nên nhìn chung là lực lượng lao động đạt trình độ Trung học phổ thông. Nguồn lao

động có học vấn đã ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn phát triển kinh tế CNH -HĐH ở

huyện. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt và có khả năng tiếp cận nhanh với những thành

tựu khoa học công nghệ hiện đại trong các ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ đòi hỏi

nhiều chất xám ở hiện tại và tương lai. Nhưng nguồn lao động phổ thông này chưa thực

sự có trình độ cao về kỹ thuật chuyên nghiệp. Nên việc đào tạo, nâng cao trình độ

chuyên nghiệp là nhiệm trọng tâm của huyện Yên Phong.

Nhìn chung, hoạt động kinh tế chính của huyện vẫn là hoạt động sản xuất nông

nghiệp nên dân cư chủ yếu tập trung ở nông thôn. Ở Yên Phong, dân đông nhất là ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thị trấn Chờ chiếm khoảng 5% nên có thể thấy ĐTH ở huyện giai đoạn này còn chậm.

Bên cạnh đó, dân cư huyện có những đặc điểm cần cù, chịu khó, trình độ dân trí cao,

nhanh nhạy tiếp xúc với công nghệ mới là điểm thuận cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế

huyện trong quá trình ĐTH.

Về giáo dục

Huyện vốn có bề dày lịch sử về học tập nhưng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn

do tàn dư của chính sách cũ. Đứng trước yêu cầu đổi mới của đất nước, ngành giáo dục

phải vươn lên phù hợp với tình hình mới. Năm 1987, Tỉnh uỷ Hà Bắc có Nghị quyết

06 về công tác giáo dục 1987 - 1990 và được huyện uỷ Yên Phong gửi về các cơ sở

Đảng, trường học để thực hiện. Thời gian này UBND huyện Yên Phong đã tổ chức Hội

nghị với chủ đề “Toàn Đảng, toàn dân Yên phong chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo

dục ở địa phương” cùng với đó Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Phong, tỉnh

Bắc Ninh tiến hành nhiều đợt cải cách giáo dục để phù hợp trong từng năm học.

Ngành giáo dục huyện Yên Phong bước sang thời kì mới với sự thay đổi mà

chất lượng dạy và học được quan tâm hơn bao giờ hết. Trước hết là sự đầu tư tập trung

kinh phí để xây dựng các trường, lớp học và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công

tác giáo dục và đào tạo được không ngừng tăng lên. Theo đó, cơ sở vật chất giáo dục

của huyện thời gian đầu đã được xây dựng thêm nhiều cơ sở khang trang, sạch đẹp như

Văn Môn, Yên Phụ, Yên Trung. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu thốn do một số cơ sở

trường lớp quá cũ kỹ, chật hẹp, chắp nối như một số trường ở Đông Phong, Long Châu,

Hoà Tiến. Từ năm 1997, sự phát triển giáo dục ổn định hơn và cơ sở vật chất cũng

được đầu tư hơn. Năm 1997, huyện có 52 trường mầm non và phổ thông các cấp, trong

đó mầm non có 14 trường, trường phổ thông có 38 trường đến năm 2006 giảm xuống

còn 48 trường, trong đó 14 trường mầm non và 34 trường phổ thông các cấp. Tuy giảm

về số lượng trường nhưng các cơ sở trường học đều được nâng cấp và mở rộng hệ

thống phòng học năm 1997, trường mầm non có 115 lớp năm 2006 tăng lên 168 lớp;

trường phổ thông có 810 lớp đến năm 2006 là 778 lớp [9, tr. 309; 9, tr.316].

Hệ thống trường lớp được tỏa rộng đến các địa phương đã tạo điều kiện thuận

lợi và thu hút con em đến trường, cũng như việc thực hiện xã hội hóa giáo dục. Hiện

nay, bình quân mỗi thị trấn, xã trên địa bàn huyện đều có 2 đến 3 trường mầm non, tiểu

học, trường trung học cơ sở đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng học tập của dân cư,

bồi dưỡng thế hệ trẻ tạo sự hưởng thụ công bằng trong giáo dục. Ngoài các trường công

lập, huyện đã vận dụng linh hoạt quy chế về thành lập trường bán công lập và dân lập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành như Trung tâm giáo dục thường xuyên, trường

THPT Nguyễn Trãi… Việc thành lập các ngôi trường này phù hợp với hoàn cảnh của

huyện, qua đây các em học sinh có thể có cơ hội tham gia học tập nếu không đạt yêu

cầu các trường công lập mà mức học phí thu vừa phải, có chế độ miễn giảm học phí

cho học sinh nghèo, giúp huyện giảm bớt số học sinh phải bỏ học.

Những việc làm trên đã nâng cao dân trí của nhân dân huyện, tỷ lệ trẻ trong độ

tuổi đến trường hàng năm là 98%. Năm học 2006, huyện có 48 trường học với tổng số

36.082 học sinh từ mầm non đến các cấp học THPT, tình hình dạy và học của các cấp

học ngày càng được nâng cao về chất và lượng, cụ thể:

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên luôn được các ngành các cấp quan tâm

đầu tư phát triển. Từ năm 1986, giáo dục mầm non được chăm lo, xây dựng và phát

triển nhanh chóng với số lượng học sinh tham gia đi lớp luôn ở mức trên 90%. Năm

2006, có 6.982 trẻ đi học với 240 giáo viên, do dân số tự nhiên ổn định nên số lượng

trẻ không thay đổi nhiều nhưng tăng 74 giáo viên so với năm 1997 để đáp ứng được

yêu cầu chăm sóc trẻ.

Giáo dục phổ thông với các cấp học như tiểu học, THCS, THPT ngày càng phát

triển. Xuất phát từ nhu cầu ĐTH của một xã hội phát triển, nguồn nhân lực có trình độ

học vấn và bồi dưỡng nhân tài phải được đào tạo để đáp ứng tình hình mới. Năm 2006,

cả huyện có 34 trường phổ thông các cấp, với 29.100 học sinh và 1.290 giáo viên.

Trong chương trình giáo dục ngoài thực hiện hoàn thành học tập các môn khoa học tự

nhiên và khoa học xã hội, tại các trường tổ chức các tiết, lớp dạy nghề (chủ yếu là khối

học sinh lớp 8, 9 và lớp 11, 12) như may, làm vườn, điện, máy tính từ đây cấp chứng

chỉ cho học sinh. Điều này cho thấy, nhu cầu học tập nâng cao dân trí của dân cư ngày

càng tăng, đây nguồn lực cơ sở trong tương lai để tham gia thực hiện các nhiệm vụ

chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Yên Phong là huyện được Tỉnh và Bộ chọn thí điểm chương trình giáo dục trẻ

khuyết tật, có khoảng trên 70% số học sinh tham gia hàng năm tại các lớp hoà nhập

như giáo dục chuyên biệt ở Đông Thọ, Hàm Sơn, Hàm Long.

Từ điều kiện vật chất, trường lớp, trang thiết bị có sẵn cùng số lượng học sinh

tham gia học tập ngày càng đông, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh đã tiếp tục đầu tư

nguồn kinh phí cho các cơ sở đào tạo như: dạy học; nâng cấp thư viện trường; xây

phòng thí nghiệm; khuyến khích các trường nối mạng máy tính; tập trung cho các cấp

học thay sách đáp ứng nhanh yêu cầu đổi mới nội dung chương trình… Số trường học, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lớp học, cơ sở vật chất được trang bị ngày càng nhiều, đã giúp hầu hết các trường đảm

bảo chuẩn quy định, giáo dục và đào tạo huyện phát triển nhanh về cả quy mô, chất

lượng toàn diện được nâng lên một bước mới.

Về y tế

Từ sau đổi mới, dân cư huyện Yên Phong có nguồn thu nhập cao, ổn định hơn

nên chất lượng cuộc sống cũng được tăng lên vì vậy đa số người dân đều có yêu cầu

nâng cao về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh. Trong thời đại CNH - HĐH; sức

khỏe con người là nguồn vốn có tính định quyết định đến thu nhập của dân cư trong

nền kinh tế mới. Vì vậy việc phát triển của ngành y tế ở luôn đóng vai trò quan trọng

trong sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng được xem là một trong những tiêu chí đánh

giá về mức sống dân cư trong quá trình ĐTH.

Trước năm 1986, ngành y tế của huyện vẫn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật

chất. Số lượng y tế ít, trạm xá là những ngôi nhà cấp 4, đội ngũ cán bộ y tế thiếu về số

lượng, yếu về trình độ chuyên môn... Từ năm 1986, huyện đã tích cực củng cố, xây

dựng mạng lưới y tế cơ sở, tăng cường cán bộ y tế, đồng thời thực hiện Nghị quyết của

Đảng bộ về chương trình y tế qua các năm để đảm bảo y tế huyện đáp ứng được nhu

cầu của dân cư. Quyết định số 950/QĐ-CT năm 1988 của Chủ tịch UBND tỉnh về thành

lập Trung tâm y tế Yên Phong trên cơ sở hợp nhất Bệnh viện đa khoa, đội vệ sinh

phòng dịch, trung tâm sinh đẻ kế hoạch, tổ phòng chống các bệnh xã hội. Đến đầu

những năm 90, Yên Phong có bệnh viện huyện và mạng lưới y tế rộng khắp.

Về khối trạm y tế sau năm 1986, đã có 17 trạm y tế tại 18 xã được xây dựng

ngói hoá 100%, tại trạm y tế có từ 3 - 4 cán bộ y tế thường trực, có nữ hộ sinh trực trạm

đều dặn, có 17/18 xã có y sĩ. Đến năm 2006, số lượng trạm y tế cũng giảm theo sự điều

chỉnh hành chính, huyện có 18/18 xã trạm y tế nhưng được nâng cấp xây kiên cố bằng

nhà tầng gạch bê tông, mỗi trạm y tế thường có 4- 5 y sĩ, 6 nữ hộ sinh; tại các thôn,

làng cũng có cán bộ y tế. Công tác xây dựng bệnh viện chữa bệnh khang trang với 90%

bệnh nhân chữa nội trú có giường, 100% bệnh nhân được dùng màn, chăn, đệm sạch

sẽ, hơn 80% phòng bệnh có quạt điện đầy đủ. Huyện cũng cấp thêm kinh phí để đầu tư

các trang thiết bị như máy điện châm, đèn hồng ngoại, máy xoa bóp, dụng cụ y tế…

phục vụ cho các chuyên khoa cấp cứu, khoa ngoại, khoa sản, khoa nội, khoa đông y.

Bệnh viện huyện Yên Phong đã góp phần nâng cao hiệu quả chữa trị, đội ngũ y bác sĩ

thường xuyên được bổ sung qua việc tuyển dụng các bác sĩ chuyên khoa, bồi dưỡng y

sĩ qua những đợt đào tạo chuyên môn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ đáp ứng yêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cầu chăm sóc khám chữa bệnh trước mắt và sử dụng lâu dài của ngành trong thời gian

tới. Kết quả đạt được là các bác sĩ đã áp dụng thành công nhiều kỹ thuật chuyên môn

trong cấp cứu như cấp cứu suy thở trẻ em, đặt nội khí quản, mổ sản, phẫu thuật cắt 2/3

dạ dày, phẫu thuật nối ruột…

Hàng năm, ngành y tế huyện phối hợp cùng các ban ngành xây dựng hệ thống

giám sát dịch đến tận các làng, thôn, xã. Công tác tuyên truyền, tập huấn, triển khai

hiệu quả các chương trình y tế và chương trình tiêm chủng được mở rộng. Huyện

cũng đặc biệt quan tâm đến chương trình sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, trẻ em như

tổ chức chương trình chống suy dinh dưỡng cho trẻ uống các loại vitamin A, điều trị

sởi, viêm phổi, đau mắt hột, nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính cho trẻ em, viêm

não Nhật Bản... Đến năm 2006, tỷ lệ tiêm chủng miễn dịch cơ bản 6 mũi đạt và vượt

mức trên 98%.

Những thay đổi của ngành y tế huyện đã phát huy được vai trò chăm sóc sức

khoẻ cho nhân dân. Số lượng cán bộ y tế ở các cơ sở chữa bệnh tăng nhanh về chất và

lượng cùng sự trợ giúp của các thiết bị hiện đại đã làm số người bệnh giảm dần trong

quá trình điều trị. Huyện dần thay thế các phương pháp chữa bệnh tự phát bằng phương

pháp dân gian, bằng mẹo bằng việc đến các cơ sở y tế. Lúc này bệnh biện tuyến huyện

đã đáp ứng được yêu cầu của chữa bệnh tuyến huyện.

2.3. Những thay đổi về cảnh quan môi trường

2.3.1. Cảnh quan

ĐTH đòi hỏi phải có sự thay đổi theo chuyển động của nó trong tất cả các mặt

kinh tế, văn hoá, xã hội của đời sống con người. Tức là khi một nơi nào đó có hiện tượng

hoặc đã và đang diễn ra ĐTH, thì nơi ấy đòi hỏi sự thay đổi khác phù hợp trong hoàn

cảnh nó. Huyện Yên Phong đã có rất nhiều thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội và sự

chuyển biến đi liền với những thay đổi cảnh quan về cả mặt tích cực và tiêu cực.

Quá trình ĐTH làm thay đổi suy nghĩ của con người về nhu cầu cuộc sống, trong

đó yêu cầu về cảnh quan hiện đại, đảm bảo xanh, sạch đẹp là một vấn đề trong phát

triển đô thị hiện đại. Nếu trước đây, huyện vẫn duy trì không gian văn hóa đặc trưng

cho vùng đất vùng nông thôn là đường làng đầy đất quanh co, những ngôi nhà mái

ngói, ruộng lúa, bờ tre, vườn cây mộc mạc, ao súng, ao sen... thì nay khung cảnh đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dần thay thế bằng cảnh quan của đô thị hiện đại với những con đường rải nhựa, nhà

cao tầng, các nhà máy, xí nghiệp cùng hàng cây quy hoạch bên đường hay hồ nước,

công viên,...

Phát triển kinh tế - xã hội, huyện cần có cơ sở hạ tầng giao thông rộng rãi, hiện

đại thuận lợi cho người dân đi lại và trao đổi, vận chuyển hàng hóa. Với hệ thống giao

thông được cứng hoá 100% tại các xã, thị trấn, những con đường chính được rải nhựa

nâng cấp, mặt đường rộng hơn;đường làng, thôn, xóm được bê tông hoá. Sự thay đổi

này làm cho khung cảnh yên tĩnh của làng quê không còn nữa thay vào đó là các hoạt

động nhộn nhịp ngày đêm trên phố xá. Cũng qua hệ thống giao thông này, việc nối liền

nhà ở với nơi làm việc, trường học, chợ... trở nên thuận lợi hơn. Hệ thống điện, nước

được xây dựng thay thế những chiếc đèn dầu, chiếc ao làng, giếng làng đảm bảo cung

cấp được nhu cầu cuộc sống của cư dân đồng thời cũng đảm bảo an toàn, quy hoạch

cảnh quan hợp lý tránh tình trạng nối nhau chằng chịt gây mất mĩ quan. Biến đổi cảnh

quan trong quá trình ĐTH còn thể hiện ở sự biến đổi trong kiến trúc nhà ở của người

dân. Quan niệm nhà truyền thống hình chữ đinh trước sân sau vườn rộng rãi phù hợp

với gia đình đông người, nhiều thế hệ cùng sinh sống không còn nữa thay vào đó là

những ngôi nhà kiểu hiện đại, xây dựng bởi vật liệu công nghiệp. Những ngôi nhà phố

cao 2 -3 tầng trở nên phổ biến, được xây ở các trục đường chính các đường như thị trấn

Chờ, xã Văn Môn… sau đó được xây cả ở trong khu vực các thôn, làng. Ở sâu phía

trong các xã, cũng xuất hiện nhiều dạng nhà theo kiểu biệt thự của những gia đình

người giàu có mua đất xây cất nên. Sự thay đổi khung cảnh trên địa bàn cho thấy ĐTH

đang diễn ra nhanh hơn, thay đổi phù hợp với tình hình khi đất nước đang tiến lên con

đường CNH - HĐH.

Một thay đổi khác ở huyện trong quá trình ĐTH là các làng nghề CN - TTCN

dần phát triển thành cơ sở sản xuất, xí nghiệp, nhà máy cũng góp phần dẫn đến sự thay

đổi trong cảnh quan. Sự xuất hiện của các cơ sở này được xây dựng theo kiểu nhà

xưởng hiện đại, với hệ thống điện, nước luôn được cung cấp không ngừng nghỉ, bên

ngoài hệ thống đường nhựa, vỉa hè cây xanh trở nên dần phổ biến.

Cảnh quan trên địa bàn huyện còn thay đổi nhiều hơn cả là ở các khu quy hoạch

dân cư đô thị, dãn dân, tại đây sẽ mọc lên các khu nhà mới, khu chức năng công viên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giải trí, chợ...qua các dự án với quy mô lớn trong tương lai. Như vậy các yếu tố của

cảnh quan nông thôn đã trong tương lai sẽ bị xóa sạch hoàn toàn, thay vào đó là đường

sá rộng rãi, dãy nhà san sát...

Tuy nhiên, cũng do quá trình ĐTH nên cảnh quan chung của huyện cũng xuất

hiện những mặt trái. Cơ sở giao thông đường nhựa, đường bê tông và đường đất xen lẫn

nhau ở một số địa phương của huyện cho thấy sự phát triển không hài hòa. Hệ thống điện

có mặt trên toàn huyện nhưng hệ thống dây điện còn chồng chéo lên nhau, một số đường

dây là do các hộ dân cư tự chăng mắc thêm gây ảnh hưởng đến phát triển quy hoạch cũng

như về mặt cảnh quan. Đa phần các xã lúc này chưa có mạng lưới cấp thoát nước hoàn

thiện, nước thải còn xả ra hệ thống chung, chưa qua xử lý. Không gian cây xanh ở khu

vực quy hoạch đô thị còn hạn chế, hiện không có các công trình công cộng, vui chơi giải

trí. Hơn nữa việc xây dựng nhà cửa không chỉ trên các trục giao thông chính mà ngay tại

dọc các trục đường giao thông cũ nhà cửa cũng được xây ngày càng nhiều và san sát

nhau. Hiện tượng trên làm cho không gian sinh sống trở nên chật chội hơn, cùng với đó

việc xây dựng những con đường nhỏ hẹp trước kia đã tạo nên những con ngõ quanh co,

chật hẹp, luồn lách qua những ngôi nhà xây đủ các kiểu dáng với các dạng vật liệu khác

nhau không theo một trật tự. Trong khi đó, huyện vẫn có một số những căn nhà cấp bốn

sơ sài, lợp mái tôn phần lớn là nơi ở của người nghèo có thu nhập thấp. Vì vậy, có thể

thấy sự phức tạp của quá trình ĐTH luôn hiển hiện qua sự biến đổi khá phổ biến trong

cảnh quan nông thôn tới đô thị.

2.3.2. Môi trường

Huyện Yên Phong là vùng đất có điều kiện tự nhiên, môi trường hết sức thuận

lợi cho sự tồn tại, sinh sống và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của dân cư. Chính vì

vậy, khi phát triển trên địa bàn đặc biệt là sau đổi mới năm 1986 quá trình ĐTH diễn

ra nhanh tạo nên áp lực làm thay đổi môi trườngchung của huyện khá nhiều.

Trên địa bàn Yên Phong việc tập trung phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm

và diễn ra hết sức thuận lợi nhưng khi triển khai phát triển UBND huyện luôn trên cơ sở

duy trì thực hiện chiến lược phát triển bền vững kết hợp chặt chẽ, hài hoà, hợp lý trong

lĩnh vực kinh tế, xã hội với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trước

hết, huyện củng cố, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường như:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

điều tra cơ bản đi đến nghiên cứu về tài nguyên địa chất, thuỷ văn, sử dụng tổng hợp tài

nguyên nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất qua đó cải thiện môi trường chung của

huyện.

Huyện đưa ra những quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, cụm công nghiệp,

tiến hành cải tạo, di dời và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tiếp

tục xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn, dự án thoát nước và xử lý nước thải, vận

chuyển rác thải khu vực nông thôn... Hoàn thiện các dự án phát triển nông thôn, xây

dựng đô thị để huyện có cảnh quan môi trường hiện đại xanh, sạch, đẹp. Những việc

làm trên đã tránh việc ô nhiễm môi trường gia tăng ở huyện và tránh tình trạng không

kiểm soát được ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khỏe của nhân dân.

Quá trình ĐTH tập trung dân cư, phát triển sản xuất CN - TTCN... đã đem lại

những hệ quả xấu cho môi trường huyện Yên Phong. Trên địa bàn, tình trạng ô nhiễm

rác thải sinh hoạt, sản xuất, ô nhiễm nguồn nước, không khí do sản xuất công nghiệp…

vẫn chưa có dấu hiệu giảm đi.

Nguyên nhân là do đa phần người dân sinh sống trên địa bàn huyện còn mang

nặng sắc thái của nông thôn nên rác thải sinh hoạt được tiêu huỷ theo hình thức đốt,

vứt xuống sông, ngòi ở khu vực gần nhà. Hiện nay, các thôn, làng của các xã thị trấn

có tổ chức tập kết thu gom rách thải 2 lần/ tuần đến khu vực tiêu huỷ nên hiện tượng

tự huỷ và vứt rác ra môi trường xung quan hạn chế dần. Tuy nhiên, ý thức của dân cư

chưa cao nên gần như chưa có việc phân loại rác hữa cơ, vô cơ nên gây khó khăn trong

quá trình tiêu huỷ. Nguồn rác thải từ sinh hoạt của người dân thực sự là nguồn gây ô

nhiễm rất lớn đối với môi trường.

Vì là vùng sản xuất nông nghiệp nên việc dùng thuốc bảo vệ thực vật cũng rất

phổ biến ở địa bàn các xã của huyện Yên Phong. Đây cũng là thành phần góp phần

tăng ô nhiễm cho nguồn nước, đất và không khí. Trong đó, các hoạt động chăn nuôi

gia súc, gia cầm phát triển nhưng chưa thực hiện tốt việc xây dựng chuồng trại và xử

lý phân, nước thải... cũng gây ô nhiễm lên môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến môi

trường sinh sống của người dân.

Khi các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều cùng với sản xuất

tại các làng nghề đi vào hoạt động thì môi bị ô nhiễm từ chất thải rắn, khí, ô nhiễm đất,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nước. Ô nhiễm môi trường nặng nhất là ở khu vực công nghiệp, cụm công nghiệp như

khu công nghiệp Yên Phong, CCN làng nghề Văn Môn, CCN đa nghề Đông Thọ…

Chất thải rắn công nghiệp lớn, khó xử lý bằng phương pháp chôn lấp; Không khí cũng

ô nhiễm không kém vì hầu hết các nhà máy xí nghiệp hoạt động gần như 24/24 giờ của

ngày nên lượng khí thải luôn thường trực. Nước thải của những nhà máy, xí nghiệp,

làng nghề trong và ngoài các khu công nghiệp có một bộ phận không qua xử lý làm

cho nước ở các sông, ngòi, mương trên địa bàn chuyển sang màu đen và có mùi hôi

thối. Những hoạt động này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sinh hoạt,

sản xuất của người dân nơi đây

Như vậy, không chỉ khai thác điều kiện thuận lợi của môi trường trong sự phát

triển huyện Yên Phong cần hạn chế những tác động mặt trái đến môi trường. Những

tồn tại hiện nay về ô nhiễm nước, đất và không khí là bài học cho dân cư huyện trong

quá trình ĐTH. Yêu cầu đặt ra lúc này, huyện Yên Phong cần học hỏi kinh nghiệm quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hoạch và xây dựng phát triển của các trung tâm đô thị lớn về phát triển kinh tế - xã hội.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, huyện Yên Phong luôn bám sát và

nghiêm túc tuân thủ sự chỉ đạo, chủ trương và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của

Trung ương. Đồng thời, huyện đã vận dụng sáng tạo những cơ chế, chính sách và

những lợi thế gần thành phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội để phát triển kinh tế, xây dựng

cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí.

Trong giai đoạn này, nền kinh tế của huyện có bước tăng trưởng khá, đã hoàn

thành mục tiêu phát triển nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực, phát triển ngành

chăn nuôi cũng như dần chuyển dịch phát triển các hoạt động sản xuất CN - TTCN và

dịch vụ. Các cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều cùng hoạt

động thương mại - dịch vụ phong phú, đa dạng đã góp phần làm gia tăng giá trị sản

xuất của kinh tế huyện trong tổng giá trị sản xuất. Sự chuyển dịch này dẫn đến cơ cấu

lao động cũng thay đổi, cụ thể: số lượng lao động trong nông nghiệp giảm chuyển dần

qua các hoạt động sản xuất ngành CN - TTCN và thương mại - dịch vụ.Các hoạt động

kinh tế vừa giải quyết được vấn đề việc làm vừa thu hút thêm người lao động trong và

ngoài huyệntập trung về đây, hình thành các khu dân cư đông đúc bên cạnh các cơ sở

sản xuất và KCN.

Để phát triển bền vững huyện từng bước đầu tư hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ

sở hạ tầng:hệ thống đường đất gồ ghề được cứng hoá, nhiều nhà tầng kiểu mới được

xây dụng thay cho nhà ngói cấp 4 cũ, hệ thống điện, nước, nước thải được làm đến các

thôn, làng... Kết quả đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng đã thúc mạnh mẽ hơn các hoạt

động kinh tế và phục vụ tốt hơn cho điều kiện dân sinh. Trong giai đoạn này, huyện

cũng toàn diện nâng lên một bước mới hệ thống giáo dục và y tế:nhiều trường học,

bệnh viện, trung tâm y tế được cải tạo và xây mới… góp phần đảm bảo nguồn nhân lực

và nâng cao mức mức sống của cư dân huyện. Việc phát triển toàn diện này đã thay đổi

bộ mặt nông thôn huyện chuyển dần nhanh sang thành thị.

Tuy nhiên, huyện cũng phải đối mặt những vấn đề về phát triển kinh tế không

đồng đều, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm, CN - TTCN ở nhiều nơi còn

nhỏ bé, phân tán, chất lượng sản phẩm chưa cao, mức cạnh tranh thấp… Việc vận động

đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới chưa tương xứng với tiềm năng của huyện. Kết cấu

hạ tầng cơ sở của đô thị huyện chưa theo kịp tốc độ ĐTH từ đó xuất hiện hiện tượng xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dựng tự phát, tác động xấu đến môi trường, đến kiến trúc và cảnh quan đô thị…

Chương3

HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2018

3.1. Những biến đổi về kinh tế cơ sở hạ tầng

3.1.1. Biến đổi về kinh tế

Năm 2007, thực hiện Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện

Yên Phong, từ đây huyện có điều kiện ổn định về diện tích, dân số cùng với đó bám sát

và tuân thủ sự chỉ đạo, chủ trương, các giải pháp của Đảng và UBND huyện về phát

triển kinh tế - xã hội. Từ đây, huyện Yên Phong đã tập trung thực hiện có hiệu quả các

chính sách hướng tới đưa nền kinh tế của huyện phát triển nhanh, ổn định trong thời

kỳ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Huyện đã thực hiện nhiều chủ trương để có thể

khai thác lợi thế của mình là một huyện nằm gần các đô thị lớn như thành phố Bắc

Ninh, thủ đô Hà Nội… Nhờ vậy, huyện Yên Phong đã đạt được nhiều thành tựu nổi

bật trong phát triển kinh tế.

Tình hình chung kinh tế của huyện Yên Phong luôn duy trì tốc độ phát triển

nhanh nhưng ổn định ở mức độ tăng trưởng khá. Nếu như, những năm đầu đổi mới

1986 - 2000 là thời kỳ định hìnhcho mô hình phát triển kinh tế huyện thì từ sau những

năm 2000 - 2007, huyện dần có những chính sách cụ thể đối với kinh tế và thu hút được

nguồn đầu tư để xây dựng. Thời kỳ từ năm 2007 trở đi, sau khi ổn định về hành chính,

đất đai Yên Phong có điều kiện đẩy mạnh toàn diện các chính sách phát triển nền kinh

tế. Các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã đầu tư vào

Yên Phong. Nhờ vậy, kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số qua

các giai đoạn khác nhau; các loại hình kinh tế phát triển nhanh về quy mô và đóng góp

lớn cho kinh tế của tỉnh.

Năm 2007, tổng giá trị sản xuất đạt 3.270 tỷ đồng đến năm 2018, tăng trưởng

khá ổn định ước đạt 19.316 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9% một năm.

Tính theo giá hiện hành năm 2018, tổng sản phẩm của huyện GRDP ước đạt 5.943,451

tỷ đồng. Trong đó, cơ cấu kinh tế Yên Phong tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng

tích cực phù hợp với nền kinh tế thị trường. Khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng

11,1%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỉ trọng 59,3% và khu vực dịch vụ

chiếm tỉ trọng 29,7%. Huyện đặc biệt chú ý phát triển kinh tế CN - TTCN với việc xây

chương trình phát triển làng nghề, xây dựng phát triển các cụm công nghiệp, khu công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghiệp.Năm 2018, giá trị CN - TTCN ước đạt 942.968 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách địa

phương ước đạt 1.347.715 triệu đồng, đạt 184% kế hoạch huyện xây dựng và đạt 199%

dự toán tỉnh giao cho.

Về nông nghiệp

Trong nền kinh tế của huyện Yên Phong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng

trong quá trình phát triển của huyện. Quá trình ĐTH tác động mạnh mẽ nền kinh tế thế

nông nghiệp của huyện.Nhân dân Yên Phong dựa trên những kinh nghiệm sản xuất lâu

đời cùng với việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất đã đem lại

năng suất lao động cao. Các sản phẩm của nông nghiệp như lương thực, thực phẩm

phục vụ nhu cầu trực tiếp cho nhân dân và nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất

công nghiệp và xuất khẩu.

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện năm 2018 là 5.312,7 ha, chiếm

54,8% diện tích đất tự nhiên và 12,5% diện tích đất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Diện

tích đất nông nghiệp dưới sự thúc đẩy của quá trình ĐTH, dần bị thu hẹp hình thành

các khu phát triển đô thị, công nghiệp, giao thông…

Ngành trồng trọthuyện Yên Phong bước sang giai đoạn mới đa dạng trong cơ

cấu cây trồng bao gồm các giống cây hàng năm (cây lương thực có hạt, có củ, cây thực

phẩm,…) và cây trồng lâu năm (cam, quýt, vải, nhãn, chuối…). Theo đó, diện tích

trồng cây năm năm 2007 là 12.895 ha đến năm 2011 giảm xuống còn 11.458 ha đến

năm 2018 diện tích thu hẹp hơn còn 9.303 ha, trong đó diện tích cây lương thực có hạt

chiếm 8.594 ha chiếm hơn 90% diện tích gieo trồng.Diện tích gieo trồng cây lâu năm

thì ổn định hơn năm 2007 là 310 ha đến 2018 là 340 ha [11, tr. 260].

Cũng như giai đoạn trước, cây lương thực chủ yếu của huyện Yên Phong là lúa

và hoa màu, ngô, khoai lang, khoai tây… Trong đó, cây lúa chiếm diện tích và sản

lượng cao lên đến 95%. Từ năm 2007, tuy diện tích cây lương thực nói chung và cây

lúa nói riêng giảm nhưng sản lượng lúa lại còn hướng tăng. Nguyên nhân chính của sự

thay đổi này là do sự điều chỉnh các chính sách về cơ cấu sử dụng đất, áp dụng những

thành quả của khoa học kỹ thuật vào sản xuất như sử dụng các giống lai mới, sử dụng

thuốc bảo vệ thực vật hay thay đổi cơ cấu mùa vụ đã đem lại hiệu quả cao trong năng

suất và sản lượng.Hiện nay, trên toàn huyện diện tích trồng lúa lai được mở rộng theo

hướng đại trà cung cấp cho sản xuất hàng hóa. Các giống lúa nhập khẩu từ Trung Quốc

Q.Ư1, Q.Ư5, nếp PD2,… Các dòng lúa này có thời gian sinh trưởng ngắn, cứng cây

không dễ bị đổ và đem lại năng suất cao.Các giống lúa truyền thống như khang dân,

C70 vẫn được trồng nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ. Các vùng sản xuất lúc mới hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thành như Đông Phong, Trung Nghĩa, Tam Giang… Năng suất lúa năm 2018 đạt 61,9

tạ/ha với sản lượng 52.697 tấn [11, tr. 251].

Bên cạnh đó, huyện cũng tích cực trồng luân canh, xen vụ các cây lương thực

như ngô, khoai tây, khoai lang làm tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.Huyện đã

nhập khẩu gieo trồng nhiều giống khoai mới như Atlantic, Solala… đem lại năng suất

cao. Yên Phong có nhiều vùng chuyên canh như: thôn Như Nguyệt khoảng 14 ha, Xuân

Cai 25 ha, Nguyện Cầu 5 ha… Năm 2018, với năng suất ngô là 60 tấn, khoai lang là

132 tấn, không chỉ phục vụ cho đời sống sinh hoạt trong nhân dân mà còn được sử

dụng làm thức ăn trong chăn nuôi, đưa đến các cơ sở chế biến công nghiệp thực phẩm

hoặc sử dụng vào các mục đích sản xuất khác.

Huyện có điều kiện gieo trồng một số cây như cà chua, bắp cải, su hào… vừa là

sản phẩm phục vụ cho đời sống của nhân dân, một phần là sản phẩm thiết yếu bán cho

cho thị trường. Năm 2018 diện tích cây thực phẩm khoảng 8.217 ha chiếm khoảng 10%

diện tích trồng trọt với sản lượng hơn 80 nghìn tấn, đem về khoảng 60 triệu đồng.Hiện

nay, nhu cầu của các đô thị lớn như Bắc Ninh, Hà Nội về cây thực phẩm ngày càng cao

vì vậy các yếu tố thực phẩm sạch, an toàn luôn được chú trọng ở huyện.Hầu hết các xã

và thị trấn huyện Yên Phong đều trồng rau xanh nhưng tập trung chủ yếu nhất phải kể

đến ở xã Trung Nghĩa, xã Tam Đa…

Nhìn chung, việc trồng cây công nghiệp ngắn ngày của huyện chủ yếu là đậu

tương và lạc với tổng diện tích gieo trồng và trên 60 ha chiếm khoảng 1,2% diện tích

gieo trồng. Trung bình năng suất của các cây công nghiệp ngắn ngày đạt khoảng 25 -

30 tạ/ ha với sản lượng đậu tương khoảng 9 tấn, lạc thu được khoảng 200 tấn.

Cây trồng hàng năm của huyện rất phong phú với các loại cây trồng như vải,

chuối, nhãn… Tuy phong phú về số lượng cây trồng nhưng do điều kiện hạn chế về

điều kiện tự nhiên cho nên diện tích các cây trồng công nghiệp ở huyện tương đối ít.

Một trong số những cây công nghiệp lâu năm của huyện cũng phải kể đến cây dâu,

được trồng tại các các bãi bồi ven sông Cầu chủ yếu là xã Tam Giang để phục vụ cho

nhu cầu nuôi tằm. Tuy nhiên, từ năm 2007 diện tích dần thu hẹp được khoảng 26 ha đã

giảm còn khoảng 15,2 ha năm 2018. Nguyên nhân chính là do việc thu mua lá dâu ở

các vùng khác rẻ hơn so với việc trồng tại huyện.

Trong kinh tế nông nghiệp, ngành chăn nuôi vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn, có xu

hướng tăng nhanh về giá trị sản xuất, năm 2018 giá trị sản xuất của ngành đạt 1911,8

tỷ đồng chiếm khoảng 75% cơ cấu giá trị sản xuất. Từ năm 2007, ngành chăn nuôi của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

huyện có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều hộ gia đình xây dựng trang trại chăn nuôi

nhưng vẫn duy trì mô hình chăn nuôi quy mô nhỏ ở tại các gia đình.Năm 2007, huyện

xây dựng 412 trang trại đến năm 2011 giảm xuống 9 trang trại và đến năm 2018 tăng

lên lên 27 trang trại. Theo đó, số trang trại năm 2018 phân theo ngành hoạt động thì cả

huyện Yên Phong có 27 trang trại chăn nuôi và trang trại nuôi trồng thủy sản nhưng

không có trang trại trồng cây hàng năm hoặc cây lâu năm hay trang trại tổng hợp.

Bảng 3.1. Số lượng, sản lượng thịt đàn trâu, bò, lợn, gia cầm huyện Yên Phong

giai đoạn 2007 - 20018

Năm 2007 2010 2013 2016 2018

Trâu (con) 1.657 1.217 910 682 672

Thịt trâu (tấn) 61 92 83 61 54,6

Bò (con) 9.823 8.583 6.450 5.684 4.963

Thịt bò (tấn) 378 719 674 489 449

Lợn (con) 44.587 57.044 59.577 62.258 57.166

Thịt lợn (tấn) 8.173 11.258 11.051 11.805 11.722

Gia cầm (nghì con) 690 833 881 934 932

Thịt gia cầm (tấn) 1.782 1.763 1.841 2.195 2.304

Nguồn: [9, tr. 219-225; 11, tr. 267-272]

Từ năm 2007, hoạt động nuôi trâu, bò có xu hướng sụt giảm về số lượng nguyên

nhân là do quá trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Tính đến năm 2018 huyện có

672 con trâu giảm 985 con so với năm 2007. Đàn bò cũng giảm mất một nửa còn 4.963

con. Do nhu cầu của thị trường và thịt trâu, bò cũng đem lại giá trị kinh tế cao nên

nhiều hộ dân cư đã đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò. Đàn trâu bò tập trung chủ yếu ở các

xã Yên Trung, Thụy Hòa, Tam Giang…

Chăn nuôi lợn vẫn được nhân dân huyện Yên Phong tập trung sản xuất bởi đây

là nguồn thực phẩm ổn định cung cấp thịt cho thị trường hiện nay. Năm 2018, huyện

có 57.166 con, chiến khoảng 15% số lượng đàn lợn của cả tỉnh. Mặc dù, giai đoạn này

số lượng đàn lợn cũng có những xao động nhất định nhưng về cơ bản sản lượng thịt

lợn hơi xuất chuồng vẫn duy trì ở mức cao, chiếm hơn 70% sản lượng thịt của huyện.

Nhìn chung, tình hình chăn nuôi lợn của huyện chủ yếu theo hộ gia đình quy mô nhỏ

và chăn nuôi theo phương pháp truyền thống. Với cố gắng của UBND huyện, thị trấn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xã cũng từng bước khắc phục hướng tới chăn nuôi lợn theo hướng hiện đại, qua việc

đưa giống mới, sử dụng các loại thức ăn dành riêng cho chăn nuôi lợn, tiêm phòng các

bệnh thường gặp. Dưới hình thức chăn nuôi hộ gia đình cho nên gần như các xã tại

huyện đều có đàn lợn.

Hoạt động chăn nuôi gia cầm của huyện ngày một tăng nhanh. Tính đến năm

2018 huyện có 932.000 con, chiếm hơn 20% tổng đàn gia cầm của tỉnh, có sản lượng

thịt đạt đến 2.304 tấn. Sang đến năm 2007, hình thức chăn nuôi gia cầm chuyển

sang hướng công nghiệp, chăn nuôi thả vườn, nuôi tự nhiên kết hợp công nghiệp

đặc biệt chú trọng xây dựng các trang trại được huyện tích cực thúc đẩy. Các giống

gia cầm mới có năng suất cao sao theo hướng siêu thịt, siêu trứng được sử dụng.

Hoạt động này đã góp phần tăng số lượng đàn gia cầm nhanh chóng, đáp ứng đầy

đủ nhu cầu của thị trường. Đàn gia cầm phân bố chủ yếu ở các xã Yên Phụ, Đông

Thọ, Thị trấn Chờ…

Ngoài ra, huyện tiến hành chăn nuôi ngựa, dê, cừu bắt đầu từ năm 2010. Trong

đó, năm 2010 ngựa có 93 con nhưng sau đó đến năm 2015 giảm xuống còn 43 con và

đến năm 2018 còn 11 con. Chăn nuôi dê, cừu mang tính chất cá nhân. Do điều kiện tự

nhiên không phù hợp để nuôi số lượng lớn nên chăn nuôi dê cừu không phát triển. Năm

2015 có 20 con đến năm 2018 tăng lên 46 con.

Phát huy thế mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp theo

hướng tích cực, huyện Yên Phong chú ý đến chăn nuôi thủy sản. Huyện có nhiều tiềm

năng để thuận lợi phát triển ngành thủy sản vì có khoảng 3.318,93 ha đất trũng, chiếm

hơn 20% diện tích đất tự nhiên phù hợp nuôi trồng thủy sản. Năm 2007 có 390 ha diện

tích nuôi trồng thủy sản, sản lượng đạt 2.332 tấn. Diện tích nuôi trồng lớn nhất là năm

2013 huyện có 455 ha, đạt sản lượng 3.153 tấn. Tính đến năm 2018, huyện có 408 ha,

sản lượng 3.150 tấn, chiếm khoảng 9% tỷ lệ so với tỉnh.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Yên Phong cho thấy xu thế giảm tỷ trọng

của ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng của ngành chăn nuôi. Từ đây, số dân cư làm nông

nghiệp giảm dần tạo điều kiện bổ sung nguồn lực lượng lao động cho ngành kinh tế phi

nông nghiệp khác. Đây là một mặt thuận lợi cho sự thúc đẩy diễn ra ĐTH nhanh trên

toàn huyện hướng đến xây dựng Thị xã Yên Phong.

Về CN - TTCN

Hiện nay, ngành công nghiệp được đánh giá là ngành kinh tế then chốt của huyện

Yên Phong. Từ năm 2007, tình hình sản xuất công nghiệp ở huyện tiếp tục phát triển

với nhịp độ cao và quy mô công nghiệp dần trở thành địa phương dẫn đầu trong tỉnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bắc Ninh.Năm 2018, giá trị sản xuất công nghiệp của huyện đạt hơn 500 tỷ đồng.Trong

các ngành công nghiệp chủ yếu của huyện thì ngành công nghiệp điện tử chiếm tỷ trọng

lớn (khoảng 80%) sự thay đổi nhanh này là do quyết định thay đổi trong ngành công

nghiệp và yêu cầu biến động theo thị phần điện tử trên thế giới (trong đó chiếm tỷ cao

nhất là Tập đoàn SamSung chiếm 39,6% năm 2018). Sản xuất ngành công nghiệp của

khu vực ngoài nhà nước cũng có những dấu hiệu phát triển dần khó khăn hơn, trong

một số ngành truyền thống như: công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, sản xuất

các sản phẩm kim loại, thức ăn gia súc, may mặc...Bên cạnh đó, huyện cũng xuất hiện

ngành công nghiệp hỗ trợ nhưng còn phát triển chậm, còn ít và thiếu liên kết giữa các

doanh nghiệp.

Bảng 3.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp phân theo loại hình kinh tế giai đoạn

từ 2015 - 2018 (đơn vị:%)

Năm 2015 2016 2017 2018

Tổng số 104,0 118,4 157,6 111,5

Nhà nước 358,0 72,3 207,3 117,9

Ngoài Nhà nước 155,9 130,3 115,1 114,1

Đầu tư nước ngoài 103,5 118,3 158,2 111,4

Nguồn: [11, tr. 297]

Bảng chỉ số phát triển chính là chỉ tiêu đánh giá tốc độ phát triển sản xuất ngành

công nghiệp của huyện Yên Phong. Tình hình chung của toàn ngành công nghiệp của

huyện năm 2018 tăng 7,2% so với năm 2017, trong đó ngành sản xuất sản phẩm điện

tử tăng 7,4%; ngành chế biến, vật liệu xây dựng chỉ tăng khoảng 5%, ngành sản xuất

phân phối điện, khí đốt tăng 12,3% do nhu cầu của dân cư trong đời sống và trong sản

xuất, ngành cung cấp nước, xử lý rác, nước thải tăng khoảng 1,2%.

Để tập trung phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại ứng dụng công nghệ cao

vốn đầu tư được ưu tiên để phát triển các KCN, cụm công nghiệp làng nghề và các ngành

nghề truyền thống. Tính đến năm 2018, quỹ đất trong toàn huyện dành cho các KCN

khoảng 1.267,2 ha trong đó: KCN Yên Phong I khoảng 660ha, KCN Yên Phong II

khoảng 607,2 ha (KCN Yên Phong II hiện nay tiến hành mở rộng thêm và đang trong

quá trình thu hồi và bồi thường đất). Cụm công nghiệp ở huyện có diện tích khoảng

125ha, trong đó: CCN đa nghề Đông Thọ khoảng 72 ha, CCN Văn Môn 30ha, CCN Yên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trung - Đông Tiến đã được khảo sát địa điểm có diện tích khoảng 20ha.

Trên địa bàn huyện Yên Phong số lượng doanh nghiệp trong các KCN, CCN

tăng nhanh, chiếm tỷ trọng lớn ở các trung tâm kinh tế, chính trị của huyện.Năm 2018,

số doanh nghiệp hoạt động của huyện Yên Phong là 627 doanh nghiệp, chiếm 8,4%cơ

cấu doanh nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh và bình quân mỗi năm tăng 12% tương ứng với 40

doanh nghiệp. Trong đó, loại hình doanh nghiệp nhà nước có 1, ngoài nhà nước có 516

doanh nghiệp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có 110 doanh nghiệp [11, tr. 169-

170]. Các cơ sở kinh doanh sản xuất cá thể các địa phương đặc biệt là nơi có nhiều làng

nghề, KCN tập trung hoặc có vị trí địa lý đường giao thông và kết cấu cơ sở hạ tầng

thuận lợi cũng tiếp tục gia tăng số ở các thị trấn, xã, nhưng có xu hướng tăng nhanh

hơn ở những nơi giáp ranh các KCN, CCN của huyện như Yên Phong I, Yên Phong

II, Đông Thọ, Yên Trung…

Bên cạnh đó, cơ cấu công nghiệp của huyện phải kể đến một số ngành sản xuất

như vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm, chế gỗ, dệt may. Trong vùng,

có một số điểm công nghiệp nổi bật như nhà máy gạch Catalan Đông Thọ, nhà máy

gạch Tuynel Tahaka Đông Tiến, nhà máy may Đáp Cầu Đông Tiến. Ngành công nghiệp

chế biến gỗ sản xuất được khoảng hơn 18.000 m³ gỗ xẻ và đạt giá trị sản xuất hơn 500

tỷ đồng. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu cho thị trường Trung Quốc. Ngoài các ngành

công nghiệp chính, hiện nay Yên Phong phát triển ngành sản xuất chế biến lương thực,

thực phẩm sản xuất tập trung ở Thị trấn Chờ, ngành xay xát gạo có mặt ở gần như tất

cả các các làng, thôn, xóm của các xã.

Nhìn chung tiềm năng để phát triển CN - TTCN của huyện Yên Phong rất lớn

và đem lại giá trị kinh tế cao. Đây là cơ hội để huyện có điều kiện thúc đẩy quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân tiến tới

xây dựng các khu vực đô thị hiện đại văn minh.

Về thương mại, dịch vụ

Huyện Yên Phong tích cực thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

chuyển dịch mạnh ở các hoạt động thương mại, dịch vụ. Huyện có đầy đủ lợi thế để

phát triển ngành thương mại, dịch vụ theo hướng đa dạng hóa, phục vụ toàn diện cho

đời sống và sản xuất của dân cư nơi đây. Từ năm 2007, sự thống nhất về địa lý hành

chính đã thuận lợi trong việc tăng cường các chính sách thu hút đầu tư về các hoạtđộng

thương mại - dịch vụ; tạo điều kiện cho việc làm thủ tục giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh; các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng được đẩy nhanh tiến độ. Huyện là cầu

nốigóp phần tiến tới liên kết các đô thị trong tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội đảm bảo lưu thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hàng hóa một cách thuận tiện, nhanh nhất đồng thời cũng kích thích sự phát triển của

các ngành sản xuất khác.

Do quy mô sản xuất tăng, hàng chục nghìn người lao động đã đến huyện Yên

Phong làm việc. Thu nhập của người lao động đạt cao hơn mức bình quân của nhiều

vùng trong cả nước. Nhiều doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh thương mại huyện Yên

Phong tiếp tụcmở rộng đầu tư về quy mô, đa dạng hàng hoá kinh doanh và các dịch vụ

như du lịch, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ công cộng, bảo hiểm, tài chính, bưu chính

viễn thông, truyền hình… Ngành dịch vụ ngày càng khẳng định vị trí của mình trong

kinh tế huyện, năm 2018 khu vực dịch vụ chiếm khoảng 1,7% giá trị sản xuất và có xu

hướng tốc độ tăng trưởng nhanh khoảng 25%/năm.

Bảng 3.3. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (theo giá

hiện hành so sánh năm 2010) giai đoạn từ 2010 - 2018 (Đơn vị: tỷ đồng)

Năm 2010 2012 2014 2016 2018

Tổng mức bán lẻ hàng hoá 1.242 2.161 2.903 3.616 4.681 và doanh thu dịch vụ

Nguồn: [11, tr. 321]

Kết quả của hoạt động thương mại - dịch vụ của huyện Yên Phong từ doanh thu

bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2018 là 4.681 tỷ đồng. Nhưng

nhìn chung, mức doanh thu trên còn thấp so với mặt bằng của tỉnh và chỉ đứng thứ 5

sau các huyện của Bắc Ninh. Nguyên nhân chính là do các hoạt động thương mại của

huyện vẫn chủ yếu hướng vào nội thương, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của

nhân dân trong huyện và tập trung chủ yếu vào các mặt hàng lương thực, thực phẩm

hoặc đồ dùng sinh hoạt, điện tử gia dụng.

Bên cạnh các chợ cũ, huyện tiếp tục xây mới và cải tạo nhiều chợđể thuận lợi

phát triển các hoạt động dịch vụ mua bán ở huyện. Năm 2018 huyện có có 15 chợ, gồm

1 chợ hạng 2 và 14 chợ hạng 3. Đã tổ chức tiến hành xây dựng, cải tạo chợ chiều tại thôn

Phú Mẫn, chợ Chờ, chợ Dũng Liệt. Xây dựng bổ sung 2 chợ là chợ Chi Long và chợ

Yên Trung và hàng trăm các chợ làng khác. Huyện còn xây dựng một số siêu thị, trung

tâm thương mại lớn để đáp ứng yêu cầu của một bộ phận dân cư có mức sống ổn định

cao. Thời gian trước huyện không có siêu thị hoặc trung tâm thương mại nhưng bắt đầu

từ năm 2015 huyện có 1siêu thị đến năm 2018 số lượng tăng lên gồm có siêu thị Huy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hùng, siêu thịkí túc xá của Công ty Sam Sung, bên cạnh đó còn có các siêu thị nhỏ lẻ

mang tính hộ gia đình là chính như như siêu thị sữa, siêu thị hoa quả sạch… Trong thời

gian tới, huyện cũng sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng mới 1 siêu thị tại xã Đông Thọ do

Công ty cổ phần Catalan đầu tư, nằm trong khu vực nhà ở công nhân và khu giao dịch

xúc tiến thương mại tại xã Đông Thọ. Sự thay đổi này đã đem lại diện mạo mới cho

vùng nông thôn ở huyện Yên Phong.

Điểm đáng lưu ý trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ là các hoạt động chuỗi

cung ứng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ kinh doanh khách sạn, nhà hàng, nghỉ ngơi

và du lịch trên địa bàn huyện khá phong phú.Dịch vụ kinh doanh bất động sản, khách

sạn còn hạn chế, chỉ tập trung chủ yếu ở dọc theo các tuyến đường trung tâm Thị trấn,

các khu quy hoạch dân cư mới, chủ yếu là do tư nhân nhỏ đầu tư xây dựng. Dẫu vậy,

nó cũng góp phần đa dạng hóa ngành nghề dịch vụ, góp phần mở rộng quy mô thị

trường. Dịch vụ ăn uống của huyện phát triển nhưng tập trung chủ yếu KCN, dọc các

tuyến đường chính các khu dân cư mới. Đối tượng phục vụ là công nhân và người dân

địa phương. Sự phát triển của loại hình dịch vụ này đã góp phần thay đổi cảnh quan

của vùng nông thôn và tạo nên nguồn thu nhập mới cho cư dân nơi đây. Về hoạt động

du lịch, vui chơi giải trí huyện có tiềm năng nhưng chưa được khai thác. Các hoạt động

tham quan gần như không có, chủ yếu là hoạt động tổ chức lễ hội văn hóa. Huyện đã

tiến hành xây dựng dựng khu vui chơi ở trung tâm Thị trấn Chờ năm 2018 và hoàn

thành năm 2019.

Các hoạt động dịch vụ như tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông đa dạng

về loại hình được đẩy mạnh phát triển nhanh phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân

trong giai đoạn mới. Công tác thanh toán, tiền tệ, kho quỹ luôn đảm bảo an toàn, sản

phẩm dịch vụ ngân hàng được mở rộng với nhiều hình thức, sử dụng công nghệ hiện

đại, như thanh toán bằng ATM, POS, trả lương qua tài khoản…

3.1.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng

Hệ thống cơ sở hạ tầng luôn là tiêu chí để đánh giá mức sống của nhân dân, sự

phát triển của các đô thị, đặc biệt là quá trình ĐTH tạo nên sự khác biệt rõ giữa nông

thôn và thành thị. Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Yên Phong được xây mới và sửa

chữa mở rộng rất nhiều về giao thông, nhà ở, điện nước, các công trình công cộng…

góp phần hình thành nên bộ mặt kiến trúc đô thị mới, cảnh quan, môi trường và nếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống đô thị văn minh, hiện đại.

Về giao thông

Hệ thống giao thông kết nối với bên ngoài của huyện Yên Phong chủ yếu sử

dụng hệ thống đường quốc lộ như quốc lộ 18, quốc lộ 3 và các đường tỉnh lộ 277, 286,

295. Các tuyến đường chính quy hoạch đô thị và trong khu dân cư được xây dựng cứng

hóa đường nhựa 100%, các tuyến đường chính trong khu trung tâm đô thị được mở

rộng thêm, cải tạo lát vỉa hè, trồng cây xanh tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông,

làm cho đô thị thêm khang trang, sạch đẹp.

Tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư bằng nguồn vốn dưới hình thức xây dựng - chuyển giao

để xây dựng mới các tuyến đường 295, 276, 277 và 286. Tuy nhiên, huyện vẫn còn một

đoạn 286 đoạn từ xã Đông Phong đi xã Trung Nghĩa chưa được đầu tư xây dựng.

Huyện Yên Phong đang đẩy nhanh tiến hành xây dựng dự án tuyến đường xã

Long Châu ra KCNYên Phong với tổng mức đầu tư khoảng 37 tỷ đồng. Tuyến đường

trục xã Yên Trung cơ bản đã tổ chức xây dựng hoàn thiện và đang tổ chức thi công đường

giao thông ĐX8 và tuyến đường trục xã từ UBND xã Yên Trung đi Xuân Cai. Đặc biệt,

tại khu vực huyện đang triển khai đầu tư xây dựng các bãi đỗ xe phục vụ nhu cầu vận

tải hành khách và việc đi lại của công nhân trong KCN, CCN.Sự tăng cường hoàn thiện

các tuyến giao thông giúp cho trao đổi, buôn bán hàng hóa, đi lại của nhân dân trong địa

bàn huyện và các khu vực tỉnh, vùng đồng bằng sông Hồng thuận lợi hơn.

Từ năm 2007, khối lượng luân chuyển, vận chuyển người và hàng hóa của huyện

Yên Phong tăng lên nhanh chóng. Năm 2018, số lượng vận chuyển hành khách là 2.846

nghìn người tăng lên gần 20 lần, khối lượng luân chuyển là 43.437 nghìn người/km tăng

gấp 3 lần so với năm 2007. Trong giai đoạn này, vận chuyển hàng hóa cũng tăng gấp gần

4 lần năm 2018 là 2.730 nghìn tấn, khối lượng luân chuyển hàng hóa là106.799 nghìn

tấn, tăng lên khoảng 5 lần so với năm 2007. Doanh thu vận tải năm 2018 đạt 1.824 tỷ

đồng, chiếm 26% doanh thu vận tải của tỉnh. Sự tăng lên này đã thể hiện năng lực vận

tải của huyện trong nhu cầu đi lại trao đổi hàng hóa cũng đã thể hiện sự phát triển về mọi

mặt trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân huyện Yên Phong.

Huyện Yên Phong có những cố gắng về đa dạng hóa hình thức và thành phần

kinh tế tham gia lĩnh vực giao thông vận tải như tiến tới dự án xây dựng tuyến xe buýt,

xe khách liên huyện, liên tỉnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bưu chính Viễn thông

Đây là yếu tố quan trọng để thúc đẩy quá trình ĐTH, thu hẹp khoảng cách phát

triển giữa hành thị và nông thôn.Ở huyện Yên Phong mạng lưới dịch vụ bưu chính, viễn

thông luôn được đầu tư coi trọng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Huyện Yên Phong vốn có mạng lưới bưu cục hóa khá hoàn chỉnh,hiệnnay có

1 bưu điện huyện và 14 bưu điện văn hóa xã.Hệ thống bưu điện văn hóa xã được

tiến hành sửa chữa, nâng cấp và hoàn thiện các dịch vụ bưu chính tiến tới hoạt động

ổn định. Bưu chính huyện năm 2018, thúc đẩy nhanh hơn các dịch vụ kinh doanh,

phát triển dịch vụ mới trong lĩnh vực bưu chính chuyển phát, tài chính bưu chính,

các dịch vụ trong lĩnh vực thương mại điện tử,... doanh thu bưu chính đạt 59,4 tỷ

đồng [11, tr. 385].

Do nhu cầu của lao động sản xuất thuê bao di động đặc biệt số thuê bao internet

(tức là số đăng ký được quyền truy nhập vào mạng internet) tăng lên một cách nhanh

chóng.Tính đến năm 2018 huyện có khoảng hơn 30.000 thuê bao điện thoại di động,

chiếm khoảng 3% số thuê bao của tỉnh, mật độ đạt khoảng độ 30,5 thuê bao điện

thoại/100 dân. Trong thời gian này, huyện phát triển thêm được khoảng 20 nghìn thuê

bao internet tăng mật độ đạt 54,5 thuê bao internet/100 dân.

Mạng lưới thông tin trong huyện, tỉnh, thông tin liên tỉnh và quốc tế được nâng

cấp và hiện đại hóa nhằm đáp ứng nhu cầu về bưu điện trong nhân dân và đặc biệt là ở

các tập đoàn, các doanh nghiệp của huyện ra trong và ngoài nước.

Về điện nước và xử lý rác thải

Huyện đã đầu tư thêm để làm mới và nâng cấp hệ thống đường điện chiếu sáng

công cộng, hệ thống cấp nước sạch và thoát nước xử lý nước thải ở thị trấn, xã và các

thôn, xóm. Trước tình hình phát triển nhanh chóng của các khu đô thị,KCN, CCN nên

yêu cầu nâng cao công suất các trạm điện 110KVvà lắp đặt thêm các trạm biến áp tại

các KCN.

Tính đến năm 2018, mạng lưới điện chiếu sáng đô thị của huyện Yên Phong

được mở rộng hoàn thiện chiếu sáng tại trung tâm trục đường chính của thị trấn, xã lên

đến 95%; cácKCN, CCN lên đến 100%, đặc biệt 90% hệ thống chiếu sáng công cộng

cũng được lắp tại các đường làng, ngõ xóm. Các cụm dân cư, trục giao thông chính của

huyện được chiếu sáng bằng loại bóng cao áp có công suất từ 40W đến 75W, còn tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các làng, xóm ngõ được chiếu sáng bằng bóng đèn thủy tinh 220V.

Trong quá trình cải tạo và nâng cấp, hệ thống điện cáp dần được để dưới lòng

đất đặc biệt là ở các KCN do yêu cầu về mặt cảnh quan, tránh tình trạng chồng chéo hệ

thống đường dây điện làm xấu bộ mặt đô thị.

Hệ thống cấp nước của huyện đa số các xã tại huyện vẫn sử dụng chủ yếu qua

hệ thống giếng bơm khoan của cá nhân hộ gia đình. Từ năm 2007, hệ thống cấp nước

trên cơ sở Chương trình Phát triển đô thị huyện Yên Phong, UBND huyện Yên Phong

sẽ tiến hành làm việc với các công ty cấp nước trên địa bàn huyện nhằm đảm bảo việc

nâng công suất cấp nước của các đơn vị trên địa bàn theo lộ trình cấp nước đã được

phê duyệt.Năm 2018, về cơ bản gần như tất cả các xã đều được lắp đạt hệ thống cung

cấp nước sạch của các nhà máy.Lượng nước các nhà máy cung cấp đạt công suất

1.000m³/ngày đêm.Với mạng lưới cung cấp nước thì khoảng 90% các hộ dân của huyện

đều sử dụng nước sạch hợp vệ sinh, đặc biệt ở khu vực Thị trấn Chờ.

Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước mưa… là một vấn đề luôn

được huyện Yên Phong quan tâm và yêu cầu đặt ra là xây dựng hệ thống thoát nước

đảm bảo, an toàn, đặc biệt là ở những KCN, CCN, làng nghề. Từ năm 2007, các tuyến

đường ống trên địa bàn huyện ngày càng được mở rộng, tuyến đường ống chính dài

hơn 30 km, có đường kính 300 - 800 mm.

Ở giai đoạn trước, nhiều khu vực của huyện vẫn xử lý nước thải bằng cách xả

ra mương, ao, hồ gây hiện tượng ảnh ngập lụt, ô nhiễm môi trường đặc biệt là mùa

mưa. Hiện nay, với mục tiêu xây dựng và cải thiện hạ tầng đô thị cho nên hệ thống

thoát nước, xử lý nước thải của huyện đã được xây dựng hoàn thiện và vận hành. Các

ống thoát nước được xây dựng đảm bảo chất lượng và khả năng thoát nước tốt. Ở các

KCN,hệ thống ống thoát nước xây dựng riêng để xử lý theo quy định sau đó mới xả ra

hệ thống mương thoát bên ngoài. Tình hình chung các cơ sở sản xuất đều có trạm xử

lý nước thải, đạt hơn 80% trong việc xử lý.

Tại các địa phương thôn, làng đặc biệt là khu vực các đô thị hoạt động thu gom

rác thải tiếp tục được hoàn thiện và từng bước đi vào nề nếp. Các KCN đang hoạt động

có lắp đặt, xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung mới, đạt tiêu chuẩn bảo vệ môi

trường. Chất thải rắn cần được xử lý ngay để tránh tình trạng ô nhiễm môitrường

nghiêm trọng nhưng cũng còn gặp nhiều hạn chế. Huyện tiếp tục công táctriển khai

chuẩn bị các điều kiện xây dựng khu xử lí rác thải tập trung của huyện vớidiện tích 6,5

ha tại xã Tam Đa, hiện chỉ vận hành chủ yếu có hiệu quả 2 lò đốt rác tại khu vực Thị

trấn Chờ. Hiện nay, công nghệ xử lý chất thải ở huyện vẫn chôn lấp đểphân huỷ. Sau Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những cố gắng, huyện hình thành khu vực chuyên vận chuyển và xửlý rác ở đô thị,

bình quân xử lý hơn 20.000 tấn rác thải/năm.

Ngoài ra, trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện xây dựng các trung tâm

vui chơi giải trí, thể dục thể thao tại các khu đô thị mới để đáp ứng nhu cầu của dân cư.

Về nhà ở

Bước sang giai đoạn mới, cũng như nhiều nơi khác trong tỉnh Bắc Ninh, các

ngôi nhà truyền thống làm bằng gỗ, gạch mái ngói của huyện gần như không còn nữa.

Các ngôi nhà kiểu mới hiện đại được xây dựng từ 2 đến 3 tầng ngày càng phổ biến ở

các trục đường chính của trung tâm đô thị. Kiến trúc ngôi nhà dạng biệt thự mini cũng

dần trở nên phổ biến. Trong những năm qua, tình hình xây dựng nhà ở riêng lẻ trên của

các hộ dân diễn ra khá sôi động. Khoảng thời gian từ năm 2017 - 2018, UBND huyện

đã cấp hơn 400 giấy phép xây dựng công trình nhà ở các loại. Ngoài ra, còn một số

công trình thuộc diện được miễn cấp giấy phép xây dựng.

Việc xây dựng các khu đô thị mới trên địa bàn huyện yêu cầu có các dự án quy

hoạch khu nhà ở để điều chỉnh phù hợp trong quá trình ĐTH. Sự thay đổi của không

gian xung quanh đã làm các ngôi nhà truyền thống dân biến dạng và mất đi không gian

thoáng rộng với kiến trúc trước sân sau vườn không còn như trước nữa, hệ thống kiến

trúc ở trung tâm đô thị đặc biệt ở khu vực Thị trấn Chờ ngày càng hướng theo xu hướng

hiện đại. Do sự tăng lên giá trị của đất đai nên việc xây dựng một ngôi nhà truyền thống

rộng cần vài trăm mét vuông với kiến trúc chữ đinh không còn phù hợp nữa. Nhu cầu

sinh hoạt và làm việc của dân cư ngày càng khác, các gia đình nhiều thế hệ sinh sống

cùng nhau không còn nhiều như trước. Không gian sinh sống hiện nay, thay đổi theo

nhu cầu, yêu thích của các gia đình, cá nhân về không gian theo kiểu nhà phố với hình

thức hiện đại nhà tầng.

Huyện Yên Phong hiện nay có cảnh quan kiến trúc đã thay đổi khác xưa rất

nhiều, mang dáng dấp của đô thị hiện đại. Khi xây dựng nhà ở trong phát triển đô thị

để đảm bảo an toàn và cảnh quan chung, các ngôi nhà bị khống chế về chiều cao, độ

cao trung bình của các ngôi nhà tầng của huyện chỉ ở mức dưới 20m.

Huyện là nơi có nhiều KCN, CCN nên các công ty liên tục tiến hành các dự án

nhà ở xã hội, đất đấu giá, nhà ở cho công nhân. Nhà đầu tư đã đáp ứng được nhu cầu

về nhà ở của nhân dân cũng như của công nhân sống gần trong các KCN, CCN với khu

nhà ở chung cư 6 đến 7 tầng đã xây dựng đưa vào khai thác sử dụng. Các khu nhà ở

cho cán bộ, công nhân viên làm việc xa quê đã và đang được xây dựng đáp ứng được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhu cầu sinh hoạt, ăn, ở cho cán bộ, công nhân viên làm việc trong các KCN Yên Phong

như: khu nhà ở công nhân tại xã Thụy Hòa, xã Yên Trung, xã Đông Tiến.

UBND huyện đã mở rộng không gian sinh sống của cư dân huyện trong quá

trình chuyển dịch từ đất sản xuất nông nghiệp sang đất nhà ở. Các hộ dân cư có thể lấy

toàn bộ tiền đền bù đất hoặc lấy phần đất ở khu vực quy hoạch và tiền như điểm dãn

dân cư nông thôn tại thôn Phong Xá, xã Đông Phong; thôn Đông Bích, xã Đông Thọ...

Trong khi thực hiện quy hoạch, các chủ đầu tư hoặc xây nhà lẻ để bán cho nhân dân

hoặc phân lô bán đất để người dân tự xây dựng nhà ở. Giai đoạn này, huyện đã những

dự án khu nhà ở đấu giá tại thôn Phong Xá, xã Đông Phong, khu nhà ở đấu giá tại thôn

Đông, xã Tam Giang, khu nhà ở đấu giá tại Thị trấn Chờ…

Sự kết hợp nhà ở thương mại, dịch vụ là hình thức mới tại huyện với các dự án

đã và đang được đầu tư xây dựng như: khu nhà ở dân cư dịch vụ xã Yên Trung - Khu

số 2; khu nhà ở dân cư dịch vụ xã Long Châu (Khu số 1 và Khu số 2) đã được đầu tư

xây dựng xong; khu nhà ở dân cư dịch vụ thôn Phong Xá, xã Đông Phong; khu nhà ở

dân cư dịch vụ xã Long Châu đang được tiến hành đầu tư xây dựng… Dựa trên cơ sở

quy hoạch nhà ở này cho thấy mức độ phát triển đô thị huyện Yên Phong, tại đây các

hoạt động phục vụ nhu cầu về thương mại, dịch vụ tổng hợp và vui chơi giải trí…sẽ

trở nên phổ biến trong tương lai.

Huyện Yên Phong giai đoạn này đã thực hiện được mục phát triển theo định

hướng CNH - HĐH với cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, điện, nước, nhà ở sinh hoạt…

hiện đại. Các cơ sở hạ tầng trên phù hợp với quá trình ĐTH là những đóng góp tích

cực, giúp cải tạo và nâng cấp từng bước đưa các khu vực nông thôn huyện Yên Phong

lên thành khu vực đô thị. Đảm bảo chất lượng đô thị hiện đại, cảnh quan, môi trường

xanh sạch đẹp.

3.2. Biến đổi về văn hóa xã hội

3.2.1. Về văn hóa

Văn hóa huyện Yên Phong chuyển từ văn hóa nông thôn sang văn hóa đô thị là quá

trình tất yếu. Đặc trưng của văn hóa đô thị là quan hệ ứng xử là gia đình - đường phố - xã

hội với đặc trưng của văn hóa nông thôn mang hình chất quần thể nông nghiệp.

Ở giai đoạn trước, chưa đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ văn hóa phát triển trên

địa bàn huyện nên những hoạt động văn hóa còn chưa thực sự phong phú. Sang giai

đoạn mới, ngành văn hóa của huyện Yên Phong đã đầu tư rất nhiều về cơ sở văn hóa

thông tin để phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hóa dân tộc cũng như nhu cầu mới trong đời sống của dân cư. Trước hết, về cơ chế

quản lý văn hóa, thông tin đã được UBND tỉnh, huyện đổi mới theo hướng xã hội hóa,

nhiều nguồn lực được huy động thêm cho các hoạt động của ngành văn hóa. Các cơ

quan của huyện Yên Phong tích cực tiến hành tổ chức các hoạt động văn hóa tại nhà

văn hóa thôn, làng, xã thông qua ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn trong năm nhằm mục đích

nâng cao ý thức đồng thời đáp ứng nhu cầu cho mọi tầng lớp nhân dân trong hưởng thụ

văn hóa nghệ thuật.

Dưới sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, ngành văn hóa đã thực hiện tốt

nhiệm vụ chính trị của mình. Các cơ quan văn hóa và phương tiện thông tin đại chúng

đã tuyên truyền những đường lối, chính sách mới của Đảng, là nhân tố tích cực động

viên, cổ vũ đấu tranh chống các tệ nạn và tiêu cực xã hội... Ví như hoạt động “Quán

triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền

văn hóa Việt Nam tiêntiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Các lực lượng thông tin, tuyên

truyền văn hóa ở huyện Yên Phong được các báo, trung tâm đài phát thanh huyện, hệ

thống thông tin tuyên truyền qua loa phát thanh,… đã được huy động, chỉ đạo và triển

khai các hoạt động tuyên truyền phong phú, liên tục, sâu rộng, đem lại nhiều hiệu quả

tích cực.

Trong phạm vi toàn huyện, các hội thi, hội diễn liên hoan văn nghệ, nghệ thuật

được tổ chức theo định kỳ tại các cơ sở như: Hội thi hát quan họ đầu xuân, liên hoan

văn nghệ chào mừng ngày lễ, liên hoan tiếng hát truyền hình… Thông qua hoạt động

duy trì và nâng cao chất lượng văn hóa văn nghệ thuật đã góp phần thiết thực trong quá

trình thúc đẩy quần chúng ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa truyền thống và văn

minh hiện đại. Ngoài ra, các di tích lịch sử văn hóa được bảo tồn, tôn tạo, phát huy tác

dụng tích cực; phong trào văn nghệ quần chúng, hoạt động thư viện, tủ sách, các câu

lạc bộ văn hóa nghệ thuật, các hội thi, hội diễn, liên hoan văn hóa văn nghệ. Đưa hệ

thống cổng thông tin điện tử, công tác thông tin truyên truyền với đổi mới nội dung,

hình thức đã khai thác được ưu thế của huyện về văn hoá văn nghệ. Đời sống văn hóa

của người dân huyện đang cần được nâng cao tiêu biểu là phong trào văn nghệ quần

chúng phát triển ngày càng mạnh.

Các hoạt động văn hóa nghệ thuật được huyện chỉ đạo khôi phục và phát triển

như Dân ca Quan họ Bắc Ninh, ca trù, hát chèo, tuồng ở các nhà văn hóa và trung tâm

văn hóa thông tin huyện Yên Phong hoặc cả các trường học trung học trên địa bàn.

Viêc thường xuyên tổ chức, duy trì hoạt động trong việc truyền dạy, tổ chức giao lưu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quảng bá Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Những hoạt động này góp phần to lớn vào việc

được UNESCO công nhận dân ca Quan Họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại

diện cho nhân loại.

Một trong những quan tâm lớn của huyện về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn

hóa qua công tác tăng cường kiểm tra và quản lý. Nghiên cứu, lập hồ sơ, tiến hành kiểm

kê bước đầu hệ thống các di tích lịch sử văn hóa cho thấy Yên Phong có nhiều di tích

lịch sử văn hóa, trong đó huyện có 2 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp

Bộ và cấp Tỉnh. Công tác triển khai, đầu tư vào bảo tồn các di tích bị xuống cấp được

quan tâm với kinh phí đầu tư hàng trăm triệu đồng.Huyện là nơi có các hoạt động lễ

hội hết sức phong phú nên khi tổ chức luôn được quan tâm, bên cạnh các giá trị truyền

thống còn thêm các yếu tố hiện đại đã làm cho các lễ hội hấp dẫn hơn. Nền văn hóa

truyền thống phong phú đã thu hút nhiều dự án nghiên cứu, đề tài khoa học của cả các

cá nhân hoặc tổ chức nghiên cứu về nghiên cứu văn hóa ở huyện Yên Phong nói riêng

và tỉnh Bắc Ninh nói chung. Kết quả đạt được là sự ra đời, xuất bản các ấn phẩm sách,

báo, tạp chí từ đây giới thiệu văn hoá Yên Phong ra bên ngoài cũng như tiến đến thực

hiện các biện pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.

Những biến đổi trong nền kinh tế - xã hội theo hướng tích cực đã giúp đời sống

về vật chất của người dân được nâng lên. Điều này,cũng thúc đẩy quá trình hình thành,

xây dựng nếp sống mới trong cộng đồng dân cư theo hướng văn minh hội nhập.Mặc dù

có nhiều thay đổi trong đời sống của người dân hiện nay nhưng huyện vẫn tồn tại lối

sống đặc trưng của sản xuất nông nghiệp là cộng đồng. Chính vì vậy, về cơ bản vẫn còn

khá phổ biến lối ứng xử của dân cư theo lối nông thôn. Tuy nhiên, với sự phối hợp của

các cơ quan, ủy ban văn hóa huyện cụ thể tại các xã, thôn, làng về vấn đề văn hóa, trong

đó đặc biệt về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã dần thay

đổi tình hình văn hóa và lối sống văn hóa tại Yên Phong. Kết quả đạt được năm 2018,

toàn địa bàn có 62/76 làng, khu phố xếp loại văn hoá; 90,9% gia đình văn hóa và 100%

các cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá. Huyện tiếp tục các truyền thống văn hóa dân tộc

qua hành động cụ thể luôn có trong đời sống hàng ngày như uống nước nhớ nguồn, đền

ơn đáp nghĩa, quan hệ tình làng, nghĩa xóm tiếp tục được duy trì,... Đời sống khá giả hơn

đã tạo điều kiện cho người dân ở huyện có điều kiện tích cực tham gia các hoạt động văn

hóa xã hội và từ thiện như văn nghệ câu lạc bộ, thi văn nghệ các cấp qua đó tổ chức, thu

hút được đóng góp vào quỹ bảo trợ xã hội dễ dàng hơn như quỹ vì người nghèo, quỹ

hiếu học... Nhưng chính các loại hình dịch vụ văn hóa đa dạng như karaoke, trò chơi điện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tử, photocopy, internet, truyền hình cáp… phát triển nhanh làm cho công tác quản lý văn

hóa gặp nhiều khó khăn.

Tuy lối sống của người dân vùng ĐTH có những chuyển mình tích cực nhưng

không thể phủ nhận những hạn chế trong đó. Huyện là nơi thu hút nguồn lao động nên

tình trạng gia tăng dân nhập cư là tất yếu và nó cũng ảnh hưởng khá lớn đến nếp sống

vốn có trước đây. Trước hết, sự gia tăng này đã đòi hỏi xây dựng những khu dân cư mới

mà trong đó các khu nhà cho thuê trọ tạm bợ những năm gần đây vẫn còn đã tạo nên tình

trạng nhiều thành phần dân cư chen chúc trong một khu vực. Sự phức tạp trong dân cư

đã hình thành nên một bộ phận thiếu ý thức trong lối sống, đặc biệt với thế hệ trẻ, cụ thể

là tình trạng ăn mặc hở hang, ganh đua, xả rác bừa bãi, vi phạm luật an toàn giao thông...

gần như đều xuất hiện tại các đô thị nói chung không riêng chỉ ở địa bàn huyện Yên

Phong.Đây là một trong những nguyên nhân gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội,

làmcác tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện có xu hướng gia tăng.

Hơn nữa, cũng xuất hiện mâu thuẫn trong bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng

do biết lợi dụng những thuận lợi của nền kinh tế với một bộ phận dân còn nghèo trong

xã hội còn đi lao động làm thuê. Có thể nói, cuộc sống của các tầng lớp có sự khác

nhau lớn dần nhưng đều hướng theo lối sống Tây hóa làm ảnh hưởng không ít đến tâm

lý, lối sống của dân cư vốn có tại huyện đặc biệt là ở các khu trung tâm đô thị.

Yên Phong là một trong những nơi ĐTH diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh đã

tạo không ít áp lực trong công việc, cuộc sống của dân cưđô thị, làm cho mối quan hệ

trong dòng họ, láng giềng, bạn bè… trong một bộ phận không còn giữ được như trước.

Nếp sống văn minh đô thị ở huyện còn khá phức tạp bởi sự chuyển giao giữa thành thị

và nông thôn. Trên địa bàn huyện, các loại hình dịch vụ văn hóa như karaoke, trò chơi

điện tử, hiệu sách, internet, truyền hình cáp trở nên phổ biến… nên luôn gặp khó khăn

trong công tác quản lý văn hóa.

Sự giao thoa của xu hướng hiện đại và xu hướng khôi phục truyền thống trong

văn hóa tinh thần đã đáp ứng được tình hình thực tế tại huyện.Nguyên nhân là do cuộc

sống cư dân ngày càng khấm khá nên dân cư bắt đầu quan tâm hơn đến đời sống văn

hóa tinh thần. Trong đó, các tín ngưỡng thờ thánh, tổ sư làng nghề, các hoạt động lễ tết

trong năm, bái cúng tại đình làng, chùa được khôi phục lại đầy đủ, thường xuyên và

dần trở thành nề nếp. Các làng nghề đã lập tổ cúng tế, có phần lễ, phần hội rõ ràng như

nghề dệt, nghề mộc… Lễ phật đản, thành hoàng làng được tổ chức quy củ, đáp ứng

nhu cầu tâm linh của dân cư huyện. Trong mối quan hệ dòng tộc, dần có xu hướng khôi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phục dưới sự đóng góp của cá nhân hộ gia đình trong xây lại nhà thờ họ, tổ chức họp

họ, lễ tổ hàng năm, nhiều dòng tộc đã xây dựng lại gia phả dựa trên bản gốc… Đây là

cách để con cháu hiểu rõ gốc gác của mình và ghi nhớ công ơn của tổ tiên xưa.

Sự đan xen giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong sinh hoạt văn hóa diễn ra

dần hòa hợp, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Trong đó, hình thức tổ chức giao lưu

văn nghệ giữa hát quan họ truyền thống vàcác loại hình ca nhạc được tổ chức tại nhiều

địa phương đã thu hút đông đảo người dân tham gia. Lúc này, các phương tiện thông

tin đại chúng ngày càng phổ biến, thể hiện được tác dụng trong tuyên truyền nâng cao

nhận thức về các giá trị văn hóa đặc biệt là ở khu vực nông thôn, gần đô thị cho người

dân huyện.

Cũng dưới sự tác động của bối cảnh ĐTH, sự chuyển biến kinh tế - xã hội đã

kéo theo nhiều sự thay đổi trong tín ngưỡng. Một số hoạt động tâm linh, lễ tết tại đình,

chùa dần bị thương mại hóa với cảnh buôn bán đủ loại mặt hàng mỗi khi lễ tết diễn ra.

Một số loại hình tín ngưỡng dân gian gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp phai nhạt

dần và có nguy cơ mất hẳn, tiêu biểu như lễ cầu mưa, lễ thu hoạch... Nguyên nhân là

do sản xuất nông nghiệp dần thu hẹp về diện tích đất chuyển sang làm kinh tế phi nông

nghiệp. Bên cạnh đó, những lễ cúng, cầu không thể mang đến năng suất, sản phẩm chất

lượng cao như khoa học - kĩ thuật hiện đại đem lại được.

Sự mở rộng tín ngưỡng dân gian cũng bị một bộ phận người lợi dụng biến nó

thành mê tín dị đoan.Nhiều dân cư vẫn tin vào sự may rủi, coi bói, vận mệnh... nó gần

như chi phối trong nhiều hoạt động hàng ngày của người dân. Ở mức độ nhẹ thì đa số

các hộ gia đình kinh doanh buôn bán đều thờ tổ tiên, ông địa và nay còn đã thờ thêm

ông thần tài hoặc mèo thần tài. Vấn đề tâm lý nặng hơn thì có một bộ phận người dân

cần tìm một niềm tin trong sự rủi ro, bất chắc nên nhiều người vẫn tin vào số mệnh và

thời cơ của họ chưa đến.

Trong quá trìnhĐTH, một nét đẹp trong lối sống văn hóa của người dân huyện Yên

Phong vẫn luôn được duy trì. Luôn gắn với hình ảnh “cái răng cái tóc là gốc con người”

là đại diện cho nét đẹp thùy mị, đoan trang nên người phụ nữ Việt nói chung và huyện Yên

Phong nói riêng luôn yêu cầu mái tóc dài suôn thẳng. Nhưng do sự thay đổi nhanh của xã

hội, tính chất công việc quan điểm này không còn phù hợp nữa, các kiểu tóc ngắn, xoăn

hay thậm chí nhuộm màu mang tính năng động mới phù hợp với chuẩn mực về cái đẹp

hiện đại. Điều này cho thấy sự thay đổi lớn trong quan niệm vốn tù túng, bế tắc truyền

thống bảo thủ.Về cách ăn mặc, ngày càng đa dạng phong phú với các kiểu dáng trang phục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiện đại, hiện đại kết hợp với truyền thống. Đặc biệt, tại trung tâm đô thị lẫn vùng còn là

nông thôn của huyện có cách ăn mặc gần như không có sự cách biệt nhiều. Những kiểu áo

quần đơn giản và thời trang thay thế gần như hoàn toàn áo nâu, nón lá để phù hợp với nhịp

sống mới hiện đại. Trang phục quần jean, quần âu, áo sơ mi, áo thun, váy trở nên phổ biến

phù hợp trong làm việc và đi chơi khi ra đường. Trang phục ở nhà cũng thoải mái rất nhiều

với nhiều kiểu dáng, chất liệu đáp ứng xu hướng vừa thoải mái vừa thời trang như pijama,

váy… rất phong phú. Hình thức cách tân trang phục như áo dài, áo mớ ba mớ bảy đã góp

phần giữ gìn đặc trưng văn hóa truyền thống xen lẫn hiện đại nhưng chỉ mặc chủ yếu tại

các dịp lễ tết, kỉ niệm quan trọng. Những nhu cầu về trang phục đã yêu cầu sự đi kèm về

giày, dép sao cho phù hợp, có hình thức đa dạng với các kiểu giày da, thể thao, giày cao

gót nhọn, gót vuông, gót bằng hay xăng đan với kiểu dáng hiện đại. Phụ kiện trang sức là

đồ không thể thiếu của của nam và nữ giới như là đồng hồ, dây chuyền, nhẫn vàng hoặc

đá quý. Một trong nguyên nhân của sự thay đổi nhanh chóng của trang phục đó là thế hệ

trẻ, nhất là lứa tuổi học sinh. Các em luôn tìm tòi, sáng tạo nên phong cách, thể hiện cá

tính riêng thông qua trang phục.

Trong sinh hoạt hàng ngày, cụ thể là bữa ăn cũng là phản ánh sự biến đổi trong

lối sống văn hóa. Sự biến mất dần vị thế các món ăn, thức uống truyền thống của dân cư

nông nghiệp như rau đồng, dưa muối, tương, cà, rượu nấu... thay vào đó nhiều thức ăn

nhanh, pha chế sẵn được sử dụng. Nhu cầu cuộc của dân cư chủ yếu tại trung tâm đô thị,

yêu cầu sự phong phú về nguồn nguyên liệu nấu nướng nên quan niệm “mùa nào thức

nấy” không còn phù hợp nữa thay vào đó nhờ công nghệ tiến bộ các loại rau, thực phẩm

trái mùa vẫn luôn được đáp ứng. Các hoạt động chăn nuôi công nghiệp cũng diễn ra

quanh năm với hình thức chăn nuôi trang trại như: lợn, bò, cá, tôm… luôn sẵn sang

nguồn thực phẩm cho cư dân huyện. Tuy nhiên, ĐTH cũng làm đẩy nhanh hơn các vấn

đề không có ruộng đất để sản xuất, môi trường ô nhiễm, giảm diện sinh sống của nhiều

thực phẩm đồng quê như cá, cua, lươn, ếch. Mặt khác, việc buôn bán tại các chợ gặp

phải vấn đề về kiểm duyệt an toàn thực phẩm nên nguồn cung cấp thức ăn của bộ phận

dân cư đô thị dần chuyển sang các trung tâm siêu thị. Các dụng cụ nấu ăn thay đổi rất

nhiều, bây giờ phổ biến nhất là bếp gas, bếp hồng ngoại với hệ thống dịch vụ cung ứng

đem lại nhiều tiện ích cho người dân trong cuộc sống.

Sự quan tâm về văn hoá - thể thao của huyện còn được thấy rõ qua xây dựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các công trình thể dục, thể thao như sân vận động huyện, nhà thi đấu, hồ bơi, sân cầu

lông, sân bóng chuyền,... Bên cạnh việc tồn tại các cơ sở cũ của huyện thì hầu hết các

công trình văn hoá - thể thao này đều được xây mới.

Phong trào thể dục, thể thao ở huyện được quan tâm phát triển, trong đó những

môn thể thao thành tích cao rất đượcchú trọng. Huyện có 7 câu lạc bộ thể thao cấp

huyện, 153 câu lạc bộ thể thao cấp cơ sở, số người tham gia luyện tập thể dục thể thao

đạt hơn 30%; 100%ở các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng

vũ trang có phong trào thể dục thể thao. Hàng năm, huyện đều tổ chức đại hội thể dục,

thể thao các cấp.

Tuy nhiên, các cơ sở thể dục, thể thao còn nhỏ, loại hình đơn điệu, phân bố

chưa đều ở các xã, thị trấn nên chưa thu hút được quần chúng đến hoạt động sinh

hoạt thể thao thường xuyên. Những kết quả đạt được của thể dục, thể thao huyện

chưa cao, do chưa đáp ứng nhu cầu cơ sở vật chất, dụng cụ luyện tập của nhân dân

nói chung cũng như đào tạo chuyên nghiệp nói riêng và kinh phí cho tổ chức thể

dục thể thao có hạn.

Mặc dù,với sự cố gắng kết hợp chặt chẽ của công tác văn hóa, thông tin, tuyên

truyền, thể dục, thể thao vẫn chưa đáp ứng kịp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế

- xã hội. Hoạt động phong trào văn hóa, thể dục, thể thao còn gặp khó khăn về kinh phí

đầu tư, các thiết chế văn hóa còn thiếu rất nhiều.

3.2.2. Về xã hội

Dân cư

Dân số trên địa bàn huyện Yên Phong năm 2018 là 177.814 người, với mật độ

dân số trung bình là 1.834 người/km, trong đó nam là 84.040 người (chiếm 47.3% dân

số) và nữ là 93.774 người (chiếm 52,7% dân số); dân thành thị là 17.746 người (chiếm

10% dân số), dân nông thôn là 160.068 người (chiếm 90% dân số)[11, tr. 65] Với quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mô dân số này huyện đứng thứ 2 toàn tỉnh chỉ sau thành phố Bắc Ninh.

200000.0

180000.0

160000.0

140000.0

120000.0

100000.0

80000.0

60000.0

40000.0

20000.0

.0

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

(Đơn vị: người)

Biểu đồ 3.1. Quy mô dân số huyện Yên Phong giai đoạn 2007 - 2018

Nguồn: [9, tr. 7; 11, tr. 65]

Nhìn vào biểu đồ có thể thấy giai đoạn 2007 -2018, dân số của huyện tăng

nhanh từ 124.901 người năm 2007 lên 177.814 người năm 2018, trung bình tăng

1.425 người/năm. Nguyên nhân chủ yếu do gia tăng dân số tự nhiên mặt khác còn là

do quá trình tập trung dân do ĐTH diễn ra mạnh mẽ mà sức hút lớn nhất là sự nhập

cư lực lượng lao động không nhỏ ở một số KCN như KCN Yên Phong I, Yên Phong

II và Đông Thọ. Trong đó, gia tăng dân số tự nhiên của huyện trong thời gian này có

xu hướng tăng nhẹ nhưng không ổn định, năm 2018 gia tăng khoảng 1,48%. Năm

2007, tỉ suất sinh là 21% tăng nhẹ lên 23% năm 2018; tăng cao nhất năm 2013 là

23,3%, khi đó tỉ suất tử tăng giảm không đều năm 2007 là 6,7% đến năm 2018 là

7,3%, giảm mạnh nhất là 5,7%. Sự không ổn định này là do người dân có điều kiện

kinh tế, thu nhập bình quân cao và ổn định đã làm cho dân cư có chất lượng cuộc

sống được nâng cao và ngày càng chú ý đến vấn đề y tế, sức khoẻ. Do ĐTH nhanh

làm phức tạp thêm các vấn đề an toàn giao thông, ô nhiễm môi trường… ảnh hưởng

rất lớn đến dân cư, làm tỉ suất tử lúc tăng lúc giảm. Trong huyện còn một bộ phận

dân cư chưa nhận thức rõ về vấn đề sức khoẻ sinh sản và những quan niệm truyền

thống gia đình đông con nên nhiều hộ vẫn sinh con thứ 3, góp phần làm tăng dân số

tự nhiên của huyện. Điều kiện sống được cải thiện nên tuổi thọ trung bình của người

dân tăng đều qua các năm trung bình năm 2008 là 71 tuổi, đến năm 2018 độ tuổi này

được tăng lên 75 tuổi. Sự tăng nhanh quy mô dân số trên cho thấy tốc độ ĐTH đang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

diễn ra khá nhanh chóng qua các năm trên địa bàn huyện.

Về nguồn lao động

Cơ cấu dân số theo độ tuổi của huyện Yên Phong sang năm 2007 có nhiều thay đổi.

Tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi trong tổng dân giảm xuống, dân số bước vào độ tuổi lao động có

xu hướng tăng nhanh. Năm 2010, dân số trong độ tuổi lao động là 80.266 người đến 2018

tăng nhanh có 114.062 người, chiếm 64,2% tổng số dân[11, tr. 69]. Trong đó, tốc độ tăng

lao động ở khu vực nông thôn vẫn cao hơn so với khu vực thành thị 0,62%. Bên cạnh

đó, nguồn lao động dự trữ - lao động còn đang đi học là nguồn lực tương lai góp phần

tăng nhanh về số lượng và chiếm tỉ trọng trong dân số. Dân số trong độ tuổi lao động

tăng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn đã tạo nguồn nhân lực dồi dào cho huyện, thuận lợi

cho việc cung ứng đầy đủ nguồn lao động trong phát triển kinh tế - xã hội ở thời gian

hiện tại và cả trong tương lai sắp tới.

Điểm đáng lưu ý là tốc độ tăng bình quân dân số trong độ tuổi lao động phù hợp

tình hình ĐTH cụ thể đang diễn ra ở huyện. Cụ thể là sự chuyển dịch trong cơ cấu lao

động: nông nghiệp có số lượng lao động giảm dần để chuyển dần qua các hoạt động sản

xuất ngành CN - TTCN và thương mại - dịch vụ. Số lượng lao động của loại hình sản

xuất nông nghiệp ngày càng ít dần, manh mún do diện tích thu hẹp dần và thu nhập ít

không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống. Lao động trong các ngành công nghiệp - xây

dựng, dịch vụ là 98.042 người. Trong đó, số lao động cụ thể tại các KCN của Yên Phong

là 7.280 lao động (2018). Tính đến năm 2018, đạt 82,8% tỉ lệ số lao động phi nông nghiệp

trên toàn đô thị huyện. Xu hướng tăng nhanh số lượng lao động diễn ra ở hầu hết các

ngành kinh tế phi nông nghiệp, nhưng ngành dịch vụ thì tăng chậm hơn. Biến động về

nguồn lao động lúc này tăng 122,8% so với giai đoạn trước.

Sự phát triển nhanh, mạnh trong cơ cấu của các ngành kinh tế yêu cầu người

trong độ tuổi lao động cũng phải có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật được tập

trung nhiều nhất. Năm 2007, trong cơ cấu lao động không có trình độ chuyên môn kĩ

thuật và bằng cấp chiếm hơn 70%, còn số có chuyên môn kĩ thuật, bằng cấp chỉ chiếm

gần 30%. Trong số lao động có trình độ chuyên môn thì lao động có bằng sơ cấp chiếm

6,1%, người có bằng trung cấp là 10,7% và tỷ lệ người có bằng Cao đẳng - Đại học chiếm

11,8% tổng số lao động đang làm việc. Năm 2018, số lao động đang làm việc đã qua đào

tạo, có bằng cấp, chứng chỉ đạt 55,2%, trong đó đào tạo nguồn lao động cho khu vực

thành thị đạt 33,8% còn khu vực nông thôn đạt 21,4%. Sự gia tăng hệ số giai đoạn này

cho thấy, sử dụng lao động nông thôn hiệu quả hơn giai đoạn trước, cải thiện được mức

sống của dân cư và đáp ứng yêu cầu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lao động. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bình quân giai đoạn 2007 - 2018, mỗi năm đã giải quyết được việc làm cho trên 5.000

lao động, tăng gần gấp đôi so sới giai đoạn trước 2006.

Tuy những kết quả tích cực trên đã giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp ở huyện nhưng

vẫn gặp phải một số khó khăn nên tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ

tuổi lao động năm 2018 vẫn chiếm là 2,7%, và tỷ lệ thiếu việc làm là 1,8%. Nguyên

nhân do trên địa bàn hầu hết lao động vẫn là thủ công, nhiều xã ở huyện vẫn duy trì các

làng nghề truyền thống yêu cầu trình độ không cao, lao động bằng nghề nông vẫn chiếm

tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, nguồn lao động nhập cư từ bên ngoài huyện phần lớn trình độ

văn hóa còn thấp, trình độ chuyên môn không có về một ngành nghề nhất định. Nhìn

chung, chất lượng lao động còn tương đối thấp so với mức bình quân chung của khu

vực nhưng cao hơn giai đoạn trước năm 2007 rất nhiều. Trên thực tế, không thể khẳng

định nguồn lao động của huyện đã đáp ứng được yêu cầu phát triển các ngành công

nghiệp và dịch vụ.

Kết quả của dân số tăng nhanh đã tạo ra nguồn lao động dồi dào, là một trong

những yếu tố cơ bản nhất tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tác động

rõ trong sự chuyển dịch cơ cấu dân số từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra

ngày càng nhanh và mạnh, với tình trạng nhập cư ngày càng tăng. Sự gia tăng dân số

của huyện Yên Phong cũng gặp khó khăn trong quản lý dân cư hay khi hệ thống hạ

tầng kỹ thuật còn hạn chế, nhiều nơi chưa xây dựng xong hoàn toàn, nên chưa thể đáp

ứng hết nhu cầu về nhà ở, đi lại, học tập, đào tạo nghề, y tế sức khỏe… của người dân.

Về giáo dục

Hoạt động phổ cập giáo dục được các cấp ủy Đảng, chính quyền, toàn thể nhân

dân, các tổ chức kinh tế - xã hội nhận thức là nhiệm vụ hàng đầu.Xã hội giáo dục là nhiệm

vụ hàng đầu, là nguồn lực để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội huyện Yên Phong. Năm

học từ năm 2007-2018, ngành Giáo dục và Đào tạo luôn có những điều chỉnh cho phù hợp

trong từng năm học nhưng về cơ bản đều tiếp tục triển khai thực hiện đổi mới công tác

quản lý giáo dục, phương pháp dạy học nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, toàn diện về

chất lượng giáo dục. Giáo dục của huyện đã huy động 100% số trẻ dưới 5 tuổi đi học lớp

mẫu giáo và tất cả các cháu trong độ tuổi các cấp học phổ thông được tới trường. Khai

giảng năm học mới năm 2018, toàn huyện có 53 trường mầm non và phổ thông các cấp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

với 1.288 lớp học; 2.119 giáo viên và 44.259 học sinh.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư đồng bộ nhưng có trọng tâm,

trọng điểm, hiện đại đạt tỷ lệ kiên cố hoá phòng học đạt 98%; tỷ lệ trường chuẩn quốc

gia đạt 90%. Số lớp học và học sinh tăng, chủ yếu tập trung ở các xã quanh trung tâm

đô thị, KCN, CCN nơi có lực lượng lao động trong và ngoài huyện đang sinh sống, làm

việc. Những kết quả trên đã giúp huyện giữ vững danh hiệu một trong những đơn vị

Giáo dục và Đào tạo dẫn đầu của tỉnh.

Trong giai đoạn này, trên địa bàn huyện Yên Phong tập trung nguồn vốn xây

dựng, mở rộng các cơ sở Đào tạo bậc học giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo

dục phổ thông cơ sở, giáo dục trung học phổ thông và giáo dục nghề. Năm 2018, toàn

huyện có 48/53 trường học được công nhận đạt chuẩn.

Hệ thống giáo dục mầm non là cấp học thấp nhất và cũng là cấp học được quan

tâm nhiều nhất của các cấp, các ngành. Ở giai này, các trường, lớp học mẫu giáo công lập

tiếp tục được quan tâm và tại một số xã, thị trấn những năm gần đây mở thêm một số

trường ngoài công lập. Do đặc thù của quá trình ĐTH có nền công nghiệp phát triển nên

thu hút lượng công nhân tập trung đông, nhất là công nhân nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên tỷ

lệ sinh tăng cao. Và cũng để đáp ứng nhu cầu chăm sóc con của các bậc cha mẹ nên việc

xây dựng thêm các cơ sở trường mầm non là cần thiết. Vì vậy, năm 2018 đã thành lập

thêm thành 18 trường tăng 4 trường mầm non so với năm 2006.

Bảng 3.4. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh trường mầm non đầu năm học

trên địa bàn huyện Yên Phong năm từ 2007 - 2018

Năm 2007 2009 2011 2013 2015 2017 2018

Số trường (trường) 12 17 20 19 19 17 18

Số lớp (lớp) 176 193 286 271 338 445 467

Giáo viên (người) 212 253 450 464 502 773 751

Học sinh (người) 5.649 6.506 7.492 9.140 10.260 12.608 13.600

Nguồn: [9, tr. 309-313; 11, tr. 405-408]

Từ bảng trên có thể thấy, giáo dục mầm non qua các năm trên địa bàn của huyện

đã có bước tăng trưởng đáng kể so với giai đoạn trước. Số trường học từ năm 2007 đến

năm 2018, trên địa bàn được xây dựng thêm đáp ứng nhu cầu thực tế, năm 2018 có 18

trường mầm non, trong đó có 17 trường công lập, 1 trường ngoài công lập. Tổng số lớp

học được nâng lên 467 lớp, trong đó công lập 437 lớp và 30 lớp ngoài công lập. Số lượng

học sinh mầm non tăng nhanh đến năm học 2017 có 12.608 cháu tăng gần 1.000 cháu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đến 2018 là 13.600 cháu và tăng 5,3% so với giai đoạn trước, trong đó có 12.850 cháu

thuộc trường công lập, 750 cháu thuộc trường ngoài công lập. Số học sinh bình quân 1

lớp mẫu giáo là 32 học sinh/lớp. Cũng trong năm học 2018 trên địa bàn huyện có 751

giáo viên mầm non, trong đó có 731 giáo viên công lập, ngoài công lập có 20 giáo viên.

Tính đến năm học 2018, có 97% giáo viên đạt chuẩn trở lên. Số học sinh bình quân 1

giáo viên mẫu giáo là 18 học sinh/giáo viên.

Trước hết trong giáo dục mầm non,các trường công lập và ngoài công lập đều

có số học sinh tăng lên nhanh chóng, các yêu cầu về nâng cao chất lượng chăm sóc,

giáo dục trẻ theo các tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được thực hiện tốt.

Giáo dục phổ thông: tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong thời kì mới đặc

biệt là nâng cao chất lượng giáo dục ở cả ba cấp học là tiểu học, trung học cơ sở và

trung học phổ thông. Hệ thống giáo dục ở huyện có bước tiến đáng với mạng lưới

trường lớp được phát triển mạnh, chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều tiến bộ, đội

ngũ giáo viên, cán bộ quản lý được đào tạo nâng cao tri thức. Tình hình chung của các

nhà trường tiếp tục được cải thiện và hướng tới từng bước đạt chuẩn quốc gia trường

học theo từng giai đoạn. Hệ thống giáo dục phổ thông của huyện qua các năm thể hiện

qua bảng sau:

Bảng 3.5. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh đầu năm học trên địa

bàn huyện Yên Phong từ năm 2007 - 2018

2009 2007 34 35 16 16 14 14 5 4 714 707 360 381 251 238 95 1.212 438 561 296 96 1.135 328 590 217

Năm Số trường (trường) Tiểu học THCS THPT Số lớp (lớp) Tiểu học THCS THPT Giáo viên (người) Tiểu học THCS THPT Học sinh (người) Tiểu học THCS THPT 2011 36 17 15 5 730 396 242 92 1.339 531 512 296 25.400 24.810 24.070 11.200 11.071 12.030 8.502 9. 160 8.710 3.928 4.234 4.590 2018 2016 2013 35 35 34 17 17 17 15 15 15 3 3 3 811 821 766 460 447 412 272 255 262 102 96 92 1.368 1.396 1.329 609 640 563 524 526 505 235 230 261 26.400 30.659 26.000 13.000 12.800 15.537 9.210 10.359 9.010 4.763 4.390 3.990

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguồn: [9, tr. 316-334; 11, tr. 411-417]

Qua bảng số liệu trên dễ nhận thấy rằng bước sang giai đoạn 2007, xuất phát từ

nhu cầu ĐTH cần một xã hội phát triển với nguồn nhân lực có trình độ cao thì việc bồi

dưỡng nhân tài đặc biệt là trong giáo dục phổ thông là rất quan trọng. Giáo dục phổ

thông ở huyện Yên Phong có hệ thống trường giảm so với giai đoạn trước, năm 2000

toàn huyện có 41 trường phổ thông đến năm 2007 giảm còn 34 trường đến năm 2018

duy trì ở mức 35 trường. Tuy giảm về số lượng trường nhưng huyện tiến hành mở rộng

diện tích trường, lớp học để tránh gặp vấn đề về quản lý cũng như có khả tăng tập trung

cao vào phát triển chất lượng giáo dục. Hiện nay, với 35 trường thì huyện có 17 trường

tiểu học (đều là trường công lập), 15 trường THCS (đều là trường công lập) và 3 trường

THPT (2 trường công lập, 1 trường dân lập, 1 trường bán công lập). So với việc giảm

số lượng các trường thì số lớp học trên một trường tăng nhanh đảm bảo đạt chuẩn quy

định nâng cao cơ sở vật chất: cấp tiểu học tỷ lệ chuẩn trên 91%; cấp THCS, THPT tỷ

lệ chuẩn trên 95%. Số học sinh bình quân 1 lớp cấp tiểu học là 36 học sinh/lớp; cấp

trung học cơ sở là 37 học sinh/lớp học; trung học phổ thông là 42 học sinh/lớp học.

Tổng số lượng giáo viên và học sinh ở huyện cũng tăng nhanh qua các năm.

Tổng số giáo viên phổ thông của huyện năm 2007 là 1.135 giáo viên đến năm 2018 số

giáo viên là 1.368 người tăng 4,7% so với giai đoạn trước, trong đó giáo viên tiểu học,

tăng 1,5%; 524 giáo viên trung học cơ sở, tăng 2,2%; 235 giáo viên trung học phổ

thông, tăng 1,8%. Năm học 2018, toàn huyện 30.659 học sinh phổ thông, tăng 6,5% so

với giai đoạn trước, bao gồm: 15.537 học sinh tiểu học, tăng 5,1%; 10.359 học sinh

trung học cơ sở, tăng 4,5%; 4.763 học sinh trung học phổ thông, tăng 1,7%. Số học

sinh bình quân 1 giáo viên tiểu học là 25 học sinh/giáo viên; trung học cơ sở là 18 học

sinh/giáo viên; trung học phổ thông là 17 học sinh/giáo viên [11, tr.418].

Trên cơ sở các điều kiện thuận lợi trong các trường lớp, huyện cũng sử dụng

hợp lý các nguồn kinh phí để trang thiết bị đồ dùng dạy học hiện đại như lắp đặt

máy tính, máy chiếu, loa… tại các lớp học. Hệ thống thư viện trường được nâng

cấp, xây phòng thí nghiệm, hầu hết các trường được nối mạng máy tính. Các hoạt

động này đã đáp ứng được nhanh yêu cầu đổi mới về nội dung chương trình, phương

pháp giáo dục định hướng năm lực theo hướng tích cực. Công tác chỉ đạo các trường

về xây dựng môi trường học tập xanh - sạch - đẹp được tiếp tục nâng cao. Với quy

mô trường, lớp như vậy phù hợp với tình hình huyện và cũng hoàn toàn khắc phục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tình trạng học 2 ca trước đây.

Tuy mỗi thị trấn, xã của huyện đều có ít nhất một trường tiểu học, THCS hoặc

THPT nhưng do quy mô trường học và phòng học vẫn có sự khác nhau nên số học sinh

trung bình trong khối lớp học có chênh lệch giữa các trường. Trong nhiều năm qua và

cho đến nay, các trường luôn đảm bảo về chất lượng dạy và học, mục tiêu giáo dục

toàn diện đạt được hiệu quả cao ở các bậc học phổ thông: bậc tiểu học đạt từ 98% trở

lên, bậc THCS đạt trên 98%, bậc THPT đạt trên 97%. Khi hoàn thành đủ các môn học

theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo học sinh hoàn thành chương trình giáo dục

phổ thông. Năm học 2018, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 99,2% trong tổng số

1.701 thí sinh dự thi, trong đó học sinh nữ đạt 98,7%.

Giáo dục phổ thông trong tổng mạng lưới giáo dục chung đã thực hiện được

nhiệm vụ của mình khi đào tạo nhiều trường có chất lượng tốt, uy tín trong nhân dân

như trường tiểu học Thị trấn Chờ số 1, Thị trấn Chờ 2, trường tiểu học Dũng Liệt, Tam

Giang, Long Châu; trường THCS Thị trấn Chờ, Long Châu, Đông Phong, Đông Tiến,

Hòa Tiến; trường THPT Yên Phong 1, Yên Phong 2…

Vấn đề nâng cao về số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo luôn được Sở Giáo

dục và Đào tạo Bắc Ninh xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Thông qua

các phương thức: khuyến khích cán bộ, giáo viên học tập nâng cao trình độ; tập huấn,

tổ chức buổi các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học; sinh hoạt chuyên môn

trường, cụm trường, hội giảng, thi giáo viên dạy giỏi các cấp… Số lượng giáo viên đạt

chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh, tính đến năm 2018, toàn huyện có tổng số 2.119 cán

bộ, giáo viên, tỷ lệ trên chuẩn đạt 89,9%, trong đó cấp mầm non tỷ lệ trên chuẩn 85,1%;

cấp tiểu học tỷ lệ trên chuẩn 93,2%; cấp THCS tỷ lệ trên chuẩn 95,2%.

Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những công tác tất yếu của các trường học

vàkết quả thi học sinh giỏi của huyện luôn đứng ở tốp đầu của tỉnh. Các năm học, huyện

luôn tham gia các cuộc thi, các cuộc vận động, đặc biệt trong năm học 2018, Yên Phong

tham gia thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cấp tỉnh, giải quốc gia mạng, giải quốc gia giải

toán bằng máy tính Casio. Chất lượng chung của giáo dục phổ thông đại trà của huyện

đã có nhiều chuyển biến với kết quả thi vào lớp 10 THPT tăng 2 bậc, tỷ lệ tốt nghiệp

gần đạt 100%.

Huyện thành lập các hội khuyến học, khuyến tài và được sự đóng góp, ủng hộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của quần chúng nhân dân. Thông qua đây, đã động viên, khen thưởng kịp thời những

cá nhân có thành tích cao trong học tập và giảng dạy, các học sinh có hoàn cảnh khó

khăn vươn lên trong học tập được giúp đỡ hỗ trợ.

ĐTH đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế góp phần hình thành

các KCN, CCN với các công ty, xí nghiệp yêu cầu trình độ kĩ thuật nên việc dạy nghề

cho người lao động, nhất là khu vực nông thôn đang bị thu hẹp diện tích đất chuyển

đổi phải đi làm thuê là cần thiết. Các lớp dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn

và các lớp trung cấp nghề được tổ chức. Trên địa bàn huyện có một Trung tâm giáo

dục thường xuyên đó là trường THPT cấp GDTX trong đó có lớp học tập trung buổi

sáng và lớp dạy nghề buổi chiều. Trong những năm học vừa qua, Trung tâm luôn tích

cực giúp đỡ đã giúp cho những học sinh bỏ học giữa chừng quay lại học tập hoặc học

nghề để nâng cao trình độ, giúp một bộ dân cư có thể tìm một công việc ổn định.

Như vậy, ĐTH đã tạo những nhu cầu thực tiễn về phát triển xã hội, mà trong đó

giáo dục là một trong những yếu tố cần quan tâm và tập trung đầu tư để tạo điều kiện

thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. Qua sự tiến bộ của ngành giáo

dục và đào tạo đã tạo được nguồn nhân lực với trình độ tri thức, chuyên môn cao cùng

với ý thức đối với gia đình, cộng đồng xã hội trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước.

Về y tế

Y tế luôn được xem là một trong những tiêu chí đánh giá mức sống trong quá

trình ĐTH. Chăm sóc sức khỏe con người là nhân tố quyết định cho sự nghiệp CNH-

HĐH đất nước. Cùng với giáo dục, việc phát triển mạng lưới y tế đã cho thấy khả năng

chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn. Sang giai đoạn mới, huyện tiếp tục nâng

cấp, mở rộng các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn như bệnh viện huyện, trạm y tế;

đầu tư trang thiết bị dành cho các chuyên khoa để nâng cao hiệu quả chữa trị, chăm

sóc; đội ngũ cán bộ ngành y tế được tổ chức bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đi đôi với rèn luyện y đức.

Huyện có mạng lưới y tế có sự thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước, năm

2007 đến năm 2018 huyện có 20 cơ sở y tế, trong đó đã xây dựng mở rộngbệnh viện

huyện Yên Phong với quy mô 170 giường bệnh, có 5 phòng khám đa khoa tư nhân và

14 trạm y tế tại Thị trấn và các xã. Số cán bộ y tế cũng tăng dần qua các năm từ 233

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người năm 2007 lên 286 người năm 2018, trong đó bác sĩ là 89 người, y sĩ là 86 người,

y á là 61 người, hộ sinh là 29 người và cán bộ khác có 21 người. Đội ngũ cán bộ y tế

được tăng cường cả về số lượng và chất lượng đạt tỷ lệ tại bệnh viện, các trạm y tế xã,

thị trấn có 100% (2018) bác sĩ, y sĩ và hộ sinh. Cán bộ ngành dược cũng tăng lên năm

2018 có 98 cán bộ trong đó có 9 dược sĩ, 87 dược sĩ trung cấp và 2 cán bộ khác. Ngành

y tế của huyện giai đoạn trước chỉ đạt chuẩn quốc gia 14,3% thì đến năm 2015 tăng lên

78,6% và đạt chuẩn quốc gia 100% năm 2018.

Mạng lưới y tế công lập và tư nhân đồng thời phát triển với đầy đủ cơ sở hạ

tầng, trang thiết bị y khoa hiện đại cùng đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao

đã và đang góp phần chữa khỏi các bệnh với chuyên khoa chữa các bệnh tai, mũi, họng,

mắt, bệnh lao, bệnh phổi… đáp ứng nhu cầu khám và điều trị cho nhân dân, giảm áp

lực khám và điều trị vượt tuyến. Cùng với đó, các hình thức chăm sóc sức khỏe tại gia

đình, ngoài giờ hành chính đang dần phổ biến nhưng chủ yếu là hình thức tiếp nước,

chăm sóc sức khoẻ người già,…

Một trong những mảng công tác quan trọng của ngành y tế huyện được quan

tâm đặc biệt là phòng bệnh, phòng dịch, chăm sóc trẻ em và phụ nữ mang thai được tổ

chức tiêm chủng đủ 7 loại vắc xin cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt trung bình từ 98%/năm

trở lên, tăng gần 15% tỷ lệ tiêm chủng so với giai đoạn trước. Chương trình chăm sóc

sức khỏe như tiêm chủng như loại trừ uốn ván trẻ sơ sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản,

uống vitamin chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, phòng chống dịch tiêu chảy cấp do sốt

rét, sốt xuất huyết, dịch cúm A (H5N1), H1N1, cách viêm não do vi rút… được duy trì

thường xuyên.

Bên canh đó, ĐTH nhanh cũng có những mặt trái, trong xã hội tệ nạn hút chích,

ma tuý xảy ra ngày càng nhiều, các mối quan hệ xã hội phức tạp đã thúc đẩy chuyển

biến sang phát triển căn bệnh HIV/AIDS. Nếu năm 2007, 20 người bị nhiễm thì đến

năm 2018 con số này tăng lên 112 người, trong đó số bệnh nhân AIDS còn sống là 42

người, số bệnh nhân chết do AIDS là 26 người. Chính vì vậy, bệnh viện, các trung tâm

y tế huyện Yên Phong liên tục có các hoạt động phối hợp cùng với Hội chữ thập đỏ của

tỉnh, các trường học trên địa bàn để tổ chức khám định sức khoẻ, giáo dục y tế học

đường đặc biệt là về sức khỏe sinh sản và công tác phòng chống HIV/AIDS. Bệnh viện

huyện phối hợp các cơ quan liên quan trong huyện về tổ chức thường xuyên các hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

động khám, chữa bệnh đối với các gia đình chính sách và đối tượng xã hội như người

già neo đơn, trẻ khuyết tật… đều được khám, chữa bệnh miễn phí. Năm 2018, các hoạt

động khám, điều trị, cấp thuốc miễn phí cho nghèo và các hoạt động mổ mắt miễn phí

cho người già, người mù, người nghèo diễn ra trên toàn huyện. Cùng với đó chương

trình kế hoạch hoá gia đình sau những cố gắng tuyên truyền, vận động đã có hiệu quả

trong giảm dần tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,2% so với giai đoạn trước và tỷ lệ sinh

con thứ 3 cũng giảm dần từng năm.

Trong ngành y tế còn tồn tại nhiều khó khăn. Huyện chỉ có 1 bệnh viện huyện

công lập, hạn chế về số phòng bệnh, giường bệnh so với mặt bằng số lượng bệnh nhân

quá đông, hàng ngày phải tiếp nhận gây ra hiện tượng quá tải. Không chỉ cư dân của

huyện, bộ phận dân nhập cư chủ yếu là lao động công nhân trong các nhà máy, xí

nghiệp gặp phải các căn bệnh do môi trường làm việc làm số bệnh nhân lại càng tăng

cao. Mặc dù huyện có các trạm y tế ở các xã nhưng các trang thiết bị hiện đại còn thiếu

thốn, một bộ phận còn lạc hậu; số lượng bác sĩ, y tá có trình độ chuyên môn cao còn

rất ít so với yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân huyện nên yêu cầu chữa bệnh vượt

tuyến. Hơn nữa, hiện nay do cơ chế khám chữa bệnh theo nhu cầu đã tạo nên những sự

khác biệt giữa người giàu và người nghèo, các dịch vụ cao chỉ đáp ứng được nguyện

vọng của cư dân khá giả.

Y tế huyện Yên Phong dù còn một số hạn chế nhưng không thể phủ nhận vai trò

của nó đối với nhu cầu của dân cư về chất lượng y tế, chăm sóc sức khoẻ trong điều

kiện khi mà các vấn đề về ô nhiễm môi trường, sức khoẻ do lao động… đang diễn ra

phức tạp. Có thể thấy, y tế huyện đã thể hiện vai trò hàng đầu của mình trong bảo đảm

cho cư dân đô thị có chất lượng cuộc sống cao. Để vươn lên đến ĐTH toàn diện hướng

đến thành lập thị xã Yên Phong thì đòi hỏi ngành y tế và các cấp chính quyền cần quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tâm hơn nữa những vấn đề còn tồn đọng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Sau khi địa giới hành chính và cơ cấu chính trị tổng thể tại huyện ổn định năm

2007, Yên phong đã thực hiện nhiều chính sách, chương trình về công tác quy hoạch

quản lý xây dựng kinh tế - xã hội, chỉnh trang đô thị để đưa huyện theo hướng CNH -

HĐH nâng cấp thành thị xã Yên Phong vào năm 2020. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

mạnh mẽ theo hướng tích cực phù hợp với tình hình chung của huyện.Kinh tế khu vực

nông nghiệp giảm dần chuyển sang khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực thương

mại - dịch vụ. Cơ sở hạ tầng giao thông, nhà ở, điện, nước sinh hoạt được chú trọng

đầu tư xây dựng đạt kết quả tích cực góp phần thay đổi bộ mặt cảnh quan huyện theo

hướng thành thị.

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội giai đoạn này có nhiều dấu ấn. Vận dụng các

phương tiện kĩ thuật hiện đại, qua hệ thống mạng internet, phát thanh… đểtuyên truyền

những đặc trưng văn hoá, văn nghệ và phong trào thể dục, thể thao. Chất lượng giáo

dục và đào tạo tiếp tục xếp thứ hạng cao trong tỉnh Bắc Ninh, tất cả các trường đều đạt

chuẩn, chất lượng học sinh được nâng cao đặc biệt là học sinh giỏi dẫn đầu trong các

đơn vị trường. Tại huyện, cùng với giáo dục và đào tạo, hệ thống mạng lưới y tế tiếp

tục được củng cố, mở rộng: các cơ sở y tế, chất lượng cán bộ y tế và các phương tiện

hiện đại… gần như đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của cư dân.

Những chuyển biến trên biểu hiện sự ổn định,phát triển của quá trình ĐTH của

huyện Yên Phong. Bên cạnh đó, cũng có những tác động tiêu cực trong xây dựng cơ

sở hạ tầng không đồng bộ như: mở rộng, làm mới các tuyến đường, những ngôi nhà

tầng được xây dựng cùng với lắp đặt hệ thống cung cấp điện, nước, thoát nước, viễn

thông… dẫn đến tình trạng đào bới liên tục, gây nên sự lãng phí. Sự thay đổi kinh tế -

xã hội làm cho môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa và cảnh quan xuống cấp...

Cùng với đó, huyện còn thiếu các công trình công cộng, khu vui chơi giải trí… Đây là

những vấn đề bất ổn đối với một đô thị bền vững.

Từ thực tế trên, tác giả thiết nghĩ:

Một là, Lãnh đạo huyện Yên Phong cần xác định ĐTH là vấn đề quan trọng cần

có chương trình, kế hoạch, bước đi cụ thể. Trong quá trình thực hiện cần tăng cường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

việc kiểm tra giám sát nhằm khắc phục kịp thời, những vấn đề nảy sinh.

Hai là, Đô thị hóa ở huyện diễn ra ngày càng nhanh nên cần giải quyết hợp lý

giữa yếu tố tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học; Đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa công

nghiệp, thương mại - dịch vụ và nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế.

Ba là, Huyện cần phải mạnh dạn đổi mới phương thức đầu tư trong tranh thủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vốn trong nước và vốn nước ngoài để phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng.

KẾT LUẬN

Huyện Yên Phong cũng như những huyện khác trên đất nước Việt Nam, thực

hiện chương trình đổi mới bước vào thời kỳ ĐTH nhanh, phát triển toàn diện và biến

đổi sâu sắc trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hoá. Đây là một quá trình tất yếu

trong xây dựng, phát triển xã hội hiện đại. Trong khi nghiên cứu quá trình ĐTH ở huyện

Yên Phong từ năm 1986 đến năm 2018, có thể thấy một số vấn đề nổi bật sau:

1.Để thực tiếp tục quá trình ĐTH này, huyện Yên Phong đã khai phá, học tập

và phát triển trên nền tảng đô thị của các thời kỳ trước. Qua nhiều giai đoạn lịch sử,

huyện có những điều kiện hết sức thuận lợi để tiến hành ĐTH. Huyện vốn là nơi có

nền kinh tế nông nghiệp lâu đời làm chủ đạo. Trong quá trình sinh hoạt của mình cư

dân tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt như: nghề đan lát,

kéo sợi, dệt vải, rượi… Đây là tiền đề cho sự ra đời, phát triển của nhiều nghề CN-

TTCN và hoạt động buôn bán diễn ra mạnh mẽ sau này. Hệ thống cơ sở hạ tầng từ

những con đường đất đi mãi mà thành, những ngôi nhà tranh vách đất che mưa che gió

đến những tuyến đường giao thông đường sắt, đường bộ, các nhà máy, xí nghiệp, các

căn nhà gạch ngói… được xây dựng. Những cuộc di dân của dân cư từ các nơi như dân

tộc Thái, Nùng, người Hoa,… trong quá trình giao thương, tìm vùng đất mới đề sinh

sống đã làm cho dân số tập trung ngày càng đông. Nhưng cũng do là vùng nông thôn

còn nhiều lạc hậu nên khi xây dựng, hình thành đô thị trên cơ sở kế thừa những tiềm

năng kinh tế - xã hội thì huyện Yên Phong cần có những chính sách khắc phục những

khó khăn để góp phần đẩy nhanh quá trình ĐTH.

2. Quá trình ĐTH của huyện đã và đang diễn ra theo chiều rộng đồng thời đi

vào chiều sâu. Đô thị hóa theo chiều rộng biểu hiện qua sự mở rộng không gian đô thị

và tăng diện tích đất chuyên dùng hay các công trình đô thị. Việc mở rộng không gian

đô thị ra những xã trước đây vốn là nông thôn như Đông Thọ, Văn Môn, Đông Phong…

từ đây diện tích đất sản xuất nông nghiệp được chuyển đổi sang tiến hành xây dựng

những CCN, cụm làng nghề công nghiệp xen ở diện tích đất nông nghiệp hoang vu cũ.

Như vậy diện tích đất chuyên dùng đã được tăng lên nhanh chóng, chứng tỏ huyện đã

mở rộng trong quá trình ĐTH.

Bên cạnh đó vấn đề ĐTH theo chiều sâu cũng được huyện đặc biệt quan tâm, cụ

thể là sự chuyển dịch từ giảm dần giá trị sản xuất nông nghiệp sang tăng dần giá trịsản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuất CN - TTCN và thương mại - dịch vụ trong nền kinh tế; xây dựng, nâng cao chất

lượng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng sản xuất, hạ tầng xã hội. Dựa trên điều kiện

này, huyện thu nguồn vốn đầu tư trong và ngoài để mở rộng thêm cơ sở phát triển, tạo

sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nông thôn, huyện phát triển thành khu vực thành thị.

Cùng với đó huyện cũng tập trung cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

đề đáp ứng được yêu cầu của sự thay đổi hiện đại.

Những biểu hiện trên cho thấy sự phát triển đô thị ở huyện Yên Phong vừa phát

triển theo chiều rộng nhưng cũng không quên phát triển biền vững theo chiều sâu.

Huyện đã và đang trở thành đô thị đúng nghĩa với mục tiêu lên được công nhận là đô

thị loại IV và tiến lên thành lập thị xã Yên Phong trong năm 2020.

3. Quá trình ĐTH của huyện Yên Phong theo quy hoạch nhưng vẫn chịu áp lực

của quá trình ĐTH tự phát. Huyện Yên Phong là một trong những huyện của tỉnh Bắc

Ninh có các điều kiện về hiện trạng và tiềm năng kinh tế - xã hội phát triển nhất. Chính

vì vậy, ngay từ khi đổi mới UBND huyện đã có những chủ trương và kế hoạch, định

hướng chung phát triển. Đây là những yêu cầu của quá trình ĐTH tự giác.

Tuy nhiên, sự nới lỏng, yếu kém trong quy hoạch, quản lý, sử dụng đã làm cho

quá trình ĐTH tự giác kèm theo ĐTH tự phát ảnh hưởng tiêu cực đến qua trình phát

triển. Do hầu hết các KCN, dịch vụ, dân cư đều bám dọc các tuyến đường, tỉnh lộ, quốc

lộvới tư tưởng của đa số người dân chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt nên đã đưa tới

tình trạng xây dựng không theo quy hoạch,tràn lan, không phép, lấn chiếm sang cả

kênh rạch, gây ô nhiễm môi trường... Hệ quả là tình hình ĐTH ở huyện gặp nhiều cản

trở, ĐTH vẫn chậm so với các thành phố lớn. Tuy nhiên, trong sự phát triển chung

ĐTH quy hoạch, tự giác vẫn giữ vai trò quyết định.

4. ĐTH diễn ra không đồng đều giữa các xã, thị trấn. Quá trình ĐTH luôn phát

triển nhanh nhất ở khu vực gần các trục giao thông chính, các KCN, CCN như Thị trấn

Chờ, xã Đông Phong, xã Đông Thọ, xã Văn Môn. Đặc trưng biểu hiện của sự phát triển

không đồng đều này là giữa các khu vực kinh tế - xã hội luôn biến đổi trong quá trình

phát triển.

ĐTH ở huyện Yên Phong luôn có mối quan hệ phụ thuộc với quá trình CNH -

HĐHnên trong phát triển các khu vực kinh tế TTCN và dịch vụ luôn chiếm tỷ trọng

lớn, đặc biệt tại các điểm công nghiệp trọng điểm còn kinh tế nông nghiệp chuyển dần

hướng mục đích sản xuất sang chăn nuôi. Chính vì vậy, tại các CCN này số lượng dân

nhập cư từ bên ngoài dồn về đây cùng dân bản địa đã tăng lên với mật độ dân số ngày

càng đông, còn những vùng nông thôn dân cư trở nên thưa thớt hơn. Những điều này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đã tạo nên sự quá tải, tạo ra nguy cơ bệnh đầu to tại các điểm công nghiệp, dịch vụ

trong phát triển ĐTH bền vững của huyện,

Bên cạnh đó, ĐTH về cơ sở hạ tầng cơ sở gần khu vực công nghiệp được hoàn

thiện với hệ thống đường rải nhựa, phân quy hoạch theo hình ô cờ, những ngôi nhà

tầng quy hoạch chiều cao, hệ thống cung cấp nước sạch trên 95%, đảm bảo cảnh quan

đô thị xanh, sạch, đẹp. Điều này khác hẳn so với những yếu kém ở ven đô thị và nông

thôn. Mặc dù đã cứng hoá hệ thống giao thông đường tỉnh lộ, liên xã, làng, xóm nhưng

nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đi lại khi xuất hiện những đoạn đường ổ gà, ổ

vịt, đầy bụi mịn… Sự chồng chéo chưa quy hoạch rõ ràng về nhà ở, nhiều ngôi nhà

truyền thống bị mất đi, hệ thống nước thải hay các vấn đề an sinh xã hội… đã ảnh

hưởng đến sự phát triển chung. Chính vì vậy, yêu cầu giải quyết được thì mới có điều

kiện thuận lợi phát triển mở rộng lên Thị xã Yên Phong.

5. Quá trình ĐTH đã thu được kết quả tốt trên nhiều lĩnh vực nhưng huyện cũng

phải đối mặt những căn bệnh chung. ĐTH thúc đẩy chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp

bịthay thế dần bởi CN - TTCN, thương mại - dịch vụ đã đưa nhà máy, xí nghiệp với

các máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất đã ảnh hưởng đến ngành TTCN truyền

thống lụi tàn dần bởi vì thiết bị đã quá lạc hậu, sản phẩm khó có thể cạnh tranh với thị

trường. Bên cạnh đó, việc gia tăng dân số, nhất là lao động nhập cư và lao động ở các

ngành nông nghiệp, TTCN truyền thống buộc phải tìm việc khác để kiếm sống. Điều

này đã đặt ra những vấn đề nan giải trong giải quyết việc làm, nạn thất nghiệp kèm theo

đó là vấn đề tệ nạn xã hội....

Hơn nữa, do trong quy hoạch và phát triển còn lộn xộn nên huyện gặp rất nhiều

vấn đề lấn chiếm đất công, sông ngòi, lòng lề đường, xây nhà thiếu đồng bộ, thiếu sự

phối hợp với các cơ sở hạ tầng chung giao thông, điện, nước, thoát nước, viễn thông...

đã gây nên sự lãng phí trong đầu tư. Quá trình ĐTH nhanh nhưng chưa thực sự đáp

ứng được nhu cầu sinh hoạt, giải trí của người dân như việc thiếu hụt các công trình

công cộng, công viên xanh, khu vui chơi giải trí… và huyện cũng gặp những xuống

cấp về môi trường tự nhiên ô nhiễm cả đất, nước, không khí hay sự bất ổn văn hóa...

Đây là những vấn đề cần được giải quyết kịp thời để đô thị huyện Yên Phong phát triển

ổn định và bền vững. Trong tương lai không xa, huyện sẽ là trở thành một thị xã hiện

đại với nền sản xuất công nghiệp phát triển, nhà ở, đường phố khang trang, sạch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đẹp…xây dựng một xã hội ngày một văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thế Bá (1999), Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Nxb Xây dựng.

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2010).

2. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Phong (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Phong,

(1928 - 2000), Nxb Thanh Niên.

3. Ban chấp hành Đảng bộ Thị Trấn Chờ (2019), Lịch sử Đảng bộ Thị Trấn Chờ

(1930 - 2018), Nxb Hồng Đức.

4. Văn Bính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay,Nxb

Chính trị quốc gia.

5. Bộ xây dựng (1995), Dự thảo phát triển đô thị quốc gia thời kì 1995 - 2010, Hà Nội.

6. Bộ xây dựng (1999), Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến

năm 2020.

7. Bộ kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê (2011), Di cư và đô thị hoá ở Việt Nam:

thực trạng, xu hướng và những khác biệt, Hà Nội.

8. Chương trình Nhân cư Liên Hiệp Quốc (UN-Habitat) (2006), Chương trình Định

cư Con người của Liên Hợp Quốc), Hiện trạng các đô thị trên thế giới 2006/2007.

9. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê - tỉnh Bắc Ninh 20 năm xây dựng

và phát triển: 1997 - 2016.

10. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê huyện tỉnh Bắc Ninh năm 2017.

11. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống tỉnh Bắc Ninh năm 2018.

12. Dean Cira, Arish Dastur, Henry Jewell, Austin Kilroy, Nancy Lozano, Phan Thị

Phương Huyền và Hyoung Gun Wang (2011), Đánh giá đô thị hoá ở Việt Nam, Ngân

hàng thế giới.

13. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI,

VII, VIII, XIX) về văn hoá, xã hội, khoa học - kỹ thuật, Giáo Dục - Đào Tạo, Nxb

Chính trị Quốc gia.

14. Hoàng Sỹ Hạnh, Nguyễn Thị Thuý (2014), Kỷ yếu Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Bắc

Ninh Khoá XVII Nhiệm kỳ 2011 - 2016, Nxb Chính trị quổc gia.

15. Đặng Thái Hoàng (2000), Lịch sử đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Huyên (1998), Địa Lý Hành Chính Vùng Kinh Bắc, Nxb Văn Hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thông Tin.

17. Huyện Uỷ - Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong (2002), Địa

chí Yên Phong, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

18. Phan Thị Mai Hương (2010), Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong

quá trình đô thị hóa, Nxb Từ điển Bách khoa.

19. Nguyễn Quang Khải (2011), Làng Xã Bắc Ninh, Nxb Thanh Niên.

20. Nhiêu Hội Lâm, người dịch Lê Quang Lâm (2004), Kinh tế học đô thị, Nxb Chính

trị Quốc gia.

21. Lịch sử Đảng Bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh Hà Bắc (1987), Nxb Ban Nghiên Cứu

lịch sử Đảng Tinh Hà Bắc.

22. Trịnh Duy Luân (2004),Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Trần Đình Luyện (2002), Văn Hiến Kinh Bắc, Nxb Sở Văn Hóa Thông Tin Bắc Ninh.

24. Nghị định số 72/2001/NĐ-CP về Phân loại đô thị phê duyệt ngày 5/10/2001.

25. Nghị định số 60/2007/NĐ - CP ngày 9/4/2007 về việc điều chỉnh địa giới hành chính

huyện Yên Phong, huyện Quế Võ, huyện Tiên Du để mở rộng thành phổ Bắc Ninh,

thành lập phường Võ Cường thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

26. Nghị định số 42/2009/NĐ-CP về Phân loại đô thị phê duyệt ngày 7/5/2009.

27. Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về Phân loại đô thị ngày 25/ 5/ 2016.

28. Lê Viết Nga (2010), Địa danh, địa giới các hành chính tỉnh Bắc Ninh trong lịch

sử, Nxb Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du lịch, Bắc Ninh.

29. Cao Xuân Phổ (1999), Mối quan hệ giữa đô thị hóa bền vững và phát triển nông

thôn, tham luận tại hội thảo khoa học Quốc tế, Panel III.

30. Đàm Trung Phường (1995), Đô thị Việt Nam tập 1, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

31. Đàm Trung Phường (1995), Đô thị Việt Nam tập 2, Nxb Xây dựng, Hà Nội,

32. Trương Văn Quảng (2012), “Phát triển bền vững - Yêu cầu chiến lược trong quá

trình đô thị hóa ở Việt Nam”, Tạp chí kiến trúc Việt Nam.

33. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học phiên dịch và chú giải (1971), Đại Nam

nhất thống chí tập IV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Quyết định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về phân loại

đô thị và phân cấp quản lí đô thị.

35. Quyết định số 1659/QĐ-TTg về Chương trình Phát triển Đô thị Quốc gia giai

đoạn 2012-2020 (NUDP).

36. Quyết định số 338/2014/QĐ-UBND ngày 4/8/2014 về phê duyệt Chương trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phát triển Đô thị tỉnh Bắc Ninh đến năm 2030.

37. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 14/1/2013 về việc Phê duyệt điều chỉnh định

hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và

tầm nhìn đến năm 2050.

38. Quyết định số 541/QĐ-UBND, ngày 26/9/2018 Phê duyệt Chương trình phát triển

đô thị Yên Phong giai đoạn 2017 - 2025, định hướng đến năm 2030.

39. Lê Thanh Sang (2008), Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi

mới 1979 - 1989 và 1989 - 1999, Nxb Khoa học Xã hội.

40. Nguyễn Sum (1998), Dân số học đại cương, Nxb Giáo Dục.

41. Ngô Xuân Sửu(2000), Truyền thống vùng đất văn hóa con người Yên Phong,

Thanh niên.

42. Trương Quang Thao (2003), Đô thị học - Những khái niệm mở đầu, Nxb Xây

dựng, Hà Nội.

43. Ngô Thế Thịnh (2000), Bắc Ninh làng cũ - quê xư - chiếc nôi của nền văn hoá

Việt Nam, Nxb Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây.

44. Phạm Thị Xuân Thọ (2000), Địa lí đô thị, Nxb Giáo dục.

45. Tờ trình số 161/ TTr-UBND, ngày 24/ 5/ 2019 Về Đề án đề nghị công nhận Khu

vực dự kiến thành lập thị xã Yên phong, tnhr Bắc Ninh là đô thị loại IV.

46. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1997), Tổ chức và quản lý môi trường cảnh quan đô

thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

47. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (1996), Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông

Nam Á, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

48. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (1997), Môi trường nhân văn và đô thị hóa

tại Việt nam và Đông Nam Á, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

49. Tôn Nữ Quỳnh Trân (2002), Văn hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị tại

thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội.

50. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường vùng

ven các đô thị lớn trong quy trình phát triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội.

51. Trần Văn Túy (2009), "Nhìn lại Bắc Ninh Sau 12 năm tái lập Tỉnh", Tạp chí, số

142, Tr.43 - 45.

52. Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong, BC-UBNDtháng 12/ 2018, Báo cáoKết quả

1 năm thực hiện Chương trình Phát triển đô thị Yên Phong giai đoạn 2017- 2025,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

định hướng đến năm 2030.

53. Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong, BC-UBND tháng 6/ 2019, Báo cáoKết quả

4 năm tiếp tục thực hiện chương trình Xây dựng phát triển đô thị, thị tứ, trung

tâm các xã, thị trấn gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015, định

hướng đến năm 2020.

54. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

55. Trần Quốc Vượng, Trần đình Luyện, Nguyễn Ngọc Bích (1981), Một Hà Bắc cổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong long đất, Ty văn hoá thông tin Hà Bắc xuất bản.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Một số hình ảnh về ĐTH của huyện Yên Phong

Bản đồ hành chính huyện Yên Phong từ năm 2007 đến 2018

(Nguồn: yenphong.gov)

Cảnh quan cơ sở hạ tầng xung quanh huyện Yên Phong

`

2 1

3 4

5 6

1.Cảnh quan trên cao đô thị thị trần Chờ 4. Đoạn đường quốc lộ 18 qua địa phận

2.Cổng chào huyện Yên Phong huyện

3. Cột đồng hồ trung tâm huyện 5. Đoạn đường liên tỉnh 295 lên thành phố Bắc

Ninh

6. Đoạn đường trong khu công nghiệp Yên

Phong

(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)

Hoạt động sản xuất CN -TTCN

2 1

4 3

5 6

1.Khu công nghiệp Yên Phong 1 4. Xí nghiệp sản xuất giấy Phong Khê

2.Công nhân làm việc trong nhà máy điện 5. Xưởng sản xuất gỗ xã Trung Nghĩa

tử Samsung 6. Xưởng sản xuất nhôm xã Văn Môn

3.Xưởng sản xuất thức ăn chăn nuôi

(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)

Hoạt động thương mại - dịch vụ

1 2

4 3

1.Chợ Chờ 3.Nhà hàng Sen Việt

2.Siêu thị Huy Hùng 4. Một nhà nghỉ tại khu đô thị thị trấn Chờ

(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)

Một số cơ sở giáo dục, y tế

1 2

4 3

5 6

1.Trường mầm non liên cơ thị trấn Chờ 4. Trường TTHP Yên Phong số 1

2. Trường tiểu học thị trấn Chờ 5. Bệnh viện đa khoa huyện Yên Phong

3. Trường THCS thị trấn Chờ 6. Phòng khám Quang Việt

(Nguồn: tác giả chụp)

Hình ảnh về cảnh quan, môi trường

1 2

3 4

6 5

1. Kiến trúc nhà tầng khu đô thị mới 4. Đội vệ sinh môi trường làm sạch đô thị

2. Khu vui chơi cho trẻ em thị trấn Chờ

3. Khu công viên hồ đôi trị trấn Chờ 5.Rác thải sản xuất ở xã Văn Môn

6. Vật liệu xậy dựng vứt bên đường xã

Tam Giang

(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)

Phụ lục 2

Một số văn bản, nghị quyết, quyết định phát triển đô thị huyện Yên Phong

Phê duyệt chương trình phát triển đô thị Yên Phong giai đoạn 2017 - 2025,

định hướng đến 2030

Đề án đề nghị công nhận Khu vực dự kiến thành lập thị xã Yên Phong,

tỉnh Bắc Ninh là đô thị loại IV