ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MẪN THỊ PHƯƠNG NAM QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2018 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MẪN THỊ PHƯƠNG NAM QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2018 Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nghiêm Thị Hải Yến THÁI NGUYÊN - 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2018” là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả,
các số liệu thu thập và trích dẫn trong luận văn là trung thực.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mẫn Thị Phương Nam
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn cô Nghiêm Thị Hải Yến đã tận tình hướng dẫn
tác giả trong quá trình học tập cũng như trong việc hoàn thành luận văn.
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả xin cảm ơn chân
thành đến các thầy cô trong tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam - Khoa Lịch sử trường Đại
học sư phạm Thái Nguyên.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn đến UBND huyện Yên Phong, cùng các
ban, ngành đoàn thể trong huyện đã cung cấp tư liệu để tác giả hoàn thành luận văn của
mình.
Cuối cùng, xin được cảm ơn gia đình, bạn bè những người luôn sẵn sàng sẻ chia
và giúp đỡ tác giả trong học tập và cuộc sống. Đây là nguồn lực động viên tinh thần rất
lớn để tác giả hoàn thành luận văn của mình. Xin chúc những điều tốt đẹp nhất sẽ luôn
đồng hành cùng mọi người.
Do năng lực và thời gian hạn chế nên nội dung nghiên cứu chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp,
phê bình, bổ sung của quý thầy cô và các bạn học viên để luận văn được hoàn hiện
hơn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mẫn Thị Phương Nam
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ........................................................................ vi
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 1
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .......................................... 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 6
5. Những đóng góp của đề tài ....................................................................................... 7
6. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 7
Chương 1:LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA. SỰ HÌNH THÀNH KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM
1986 .............................................................................................................................. 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về đô thị và đô thị hóa ........................................................ 8
1.1.1. Đô thị và phân loại đô thị ................................................................................... 8
1.1.2. Đô thị hóa .......................................................................................................... 15
1.2. Lịch sử hình thành huyện Yên Phong .................................................................. 19
1.3. Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong trước năm 1986 .............................. 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 29
Chương 2:HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2007 ................... 30
2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................................... 30
2.2. Những biến đổi về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng ............................................... 31
2.2.1. Biến đổi về kinh tế ............................................................................................ 31
2.2.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng .................................................................................. 39
2.2.3. Biến đổi về xã hội ............................................................................................. 44
2.3. Những thay đổi về cảnh quan môi trường ........................................................... 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.3.1. Cảnh quan ......................................................................................................... 49
2.3.2. Môi trường ........................................................................................................ 51
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 54
Chương 3:HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2018 ................... 55
3.1. Những biến đổi về kinh tế cơ sở hạ tầng ............................................................. 55
3.1.1. Biến đổi về kinh tế ............................................................................................ 55
3.1.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng .................................................................................. 63
3.2. Biến đổi về văn hóa xã hội .................................................................................. 68
3.2.1. Về văn hóa ........................................................................................................ 68
3.2.2. Về xã hội ........................................................................................................... 74
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 85
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CCN Cụm công nghiệp
CN - TTCN Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
CNH - HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
ĐTH Đô thị hoá
HĐND - UBND Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân
KCN Khu công nghiệp
NĐ - CP Nghị định Chính phủ
NQ - CP Nghị quyết Chính phủ
NXB Nhà xuất bản
THCS Trung học cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THPT Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng:
Bảng 1.1. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Quyết định số 132/HĐBT ......... 10
Bảng 1.2. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 72/2001/NĐ - CP ........ 11
Bảng 1.3. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 42/2009/NĐ - CP ....... 12
Bảng 1.4. Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị(tối thiểu đạt 3,75 điểm,tối
đa đạt 5,0 điểm) .......................................................................................... 14
Bảng 2.1. Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lúa cả năm của huyện Yên Phong
từ năm 1997 - 2006 .................................................................................... 34
Bảng 2.2. Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm từ năm 1997 - 2006 ................................... 35
Bảng 3.1. Số lượng, sản lượng thịt đàn trâu, bò, lợn, gia cầm huyện Yên Phong
giai đoạn 2007 - 20018 ............................................................................... 58
Bảng 3.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp phân theo loại hình kinh tế giai đoạntừ
2015 - 2018 ................................................................................................. 60
Bảng 3.3. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (theo giá
hiện hành so sánh năm 2010) giai đoạn từ 2010 - 2018 ............................. 62
Bảng 3.4. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh trường mầm non đầu năm học
trên địa bàn huyện Yên Phong năm từ 2007 - 2018 ................................... 78
Bảng 3.5. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh đầu năm học trên địa bàn huyện
Yên Phong từ năm 2007 - 2018 ................................................................. 79
Biểu đồ:
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Phong năm 2006 ............................... 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 3.1. Quy mô dân số huyện Yên Phong giai đoạn 2007 - 2018....................... 75
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển. Sự thúc đẩy
của xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam tiến hành công cuộc CNH - HĐH. Cũng như nhiều
quốc gia trên thế giới, quá trình thực hiện CNH - HĐH đã thúc đẩy quá trình ĐTH ở
Việt Nam. Đặc biệt, sau năm 1986, quá trình ĐTH diễn ra nhanh chóng, được xem là
một quy luật, con đường tất yếu, là tiêu chí để đánh giá được sự phát triển của Việt
Nam, trong đó phải phát triển hài hoà giữa khu vực đô thị và nông thôn.
Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh giàu truyền thống lịch sử và cũng là tỉnh mũi nhọn trong
sự phát triển của đất nước. Bắc Ninh với những thế mạnh nổi trội về tài nguyên thiên
nhiên, kinh tế, văn hoá- xã hội, cơ sở hạ tầng… là điều kiện thuận lợi cho quá trình
ĐTH. Tính đến nay, về cơ bản tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành việc nâng cấp, chỉnh trang
lại các thị xã, huyện... hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện.
Trong các thị xã, huyện của tỉnh Bắc Ninh, Yên Phong là huyện có khả năng đáp
ứng những đòi hỏi yêu cầu đặt ra của thời đại mới. Đây là vùng đất có nguồn lịch sử văn
hóa lâu đời cũng như nhiều điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong phú. Chính vì vậy,
cùng với những chủ trương đổi mới, khuyến khích đầu tư của Đảng và nhà nước, huyện
Yên Phong đã đẩy mạnh cải cách, thực hiện cơ sở quản lý mới kịp thời tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc đảm bảo môi trường mới cho quá trình ĐTH của mình.
Là người dân của huyện Yên Phong, tác giả nhận thấy việc tìm hiểu về lịch sử
phát triển của vùng đất này trong quá trình hình thành và phát triển sau đổi mới đến
nay, đặc biệt về quá trình ĐTHđã góp phần hiểu biết thêm về lịch sử quê hương mình.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề nghiên cứu: “Quá trình đô thị hóa của huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm 2018” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nước ngoài
Tìm hiểu về vấn đề ĐTH tác giả đã biết đến các công trình nghiên cứu sau:
Ở Liên Xô cũ tiêu biểu như: “Quần cư trong các đầu mối công nghiệp” và “Quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hoạch các thành phố và các vùng” năm 1964 của V.G. Davidoicts(1960) ngoài ra còn
có của B.X.Khorev, Yu.L.Pivovarov,... Tuy cuốn sách chưa đi đến nghiên cứu quá trình
phát triển lâu dài của đô thị sau này nhưng cũng đã phân tích được những khía cạnh
kinh tế, lịch sử của các thành phố và nghiên cứu cấu trúc lãnh thổ nội tại của thành phố.
Ở các nước phương Tây khác, có các công trình nghiên cứu về đô thị như: “Quy
hoạch đô thị” (1993) của Piere Mercin, “Cuộc sống thành thị bài đọc trong nhân chủng
học đô thị” (1996) của Third Edition. Về ĐTH với lý thuyết “vị trí trung tâm” của
Walter Chiristaller và Lioso đã ảnh hưởng rất lớn tới các phân tích không gian trong
địa lý thành phố cũng như trong lĩnh vực xã hội học đô thị.
Trước những xu hướng biến đổi những giai đoạn lịch sử khác nhau, ngày càng
nhiều những nghiên cứu đề cập đến vấn đề đô thị và đô thị hoá như: “Đô thị trong thế
giới toàn cầu hóa: Quản trị nhà nước, thành tích hoạt động và tính bền vững”(2006)
của Frannie A. Léautier. Cuốn sách đã trình bày những vấn đề liên quan đến việc bảo
đảm cho các thành phố, đô thị phát triển trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vai trò, sự
tác động của chính sách đối với quản lí có hiệu quả, các thành phố, đô thị và mối liên
hệ giữa toàn cầu hoá, ĐTH, quản lí nhà nước; phương hướng giải quyết để đảm bảo đô
thị phát triển bền vững. Hay những tác phẩm của Brian, David Drakakis - Smith, Berry,
Michale Pacione…
Những công trình nghiên cứu trên trở thành nguồn tư liệu quan trọng để thực
hiện, nghiên cứu quá trình ĐTH ở Việt Nam nói chung và cũng là cơ sở tác giảnghiên
cứu, hoàn thành đề tài của mình.
2.2. Việt Nam
Ở Việt Nam nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến quá trình ĐTH.
Có thể kể đến các công trình:
Viện sử học năm 1989 đã có xuất bản cuốn sách “Đô thị cổ Việt Nam”. Nội
dung công trình đã cho biết các đô thị Việt Nam được hình thành từ rất sớm. Thực tế
đã có 13 đô thị cổ xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ XIX.
Một trong những đô thị còn tồn tại và phát triển đến nay đó là Thăng Long - Hà Nội.
Đây là trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội quan trọng của đất nước.
Năm 1995, cuốn sách “Đô thị Việt Nam” gồm 2 tập của tác giả Đàm Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phường đã phản ánh thực trạng phát triển của mạng lưới đô thị tại Việt Nam. Nội dung
cuốn sách, đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của đô thị Việt Nam trong
thời kỳ CNH - HĐH. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của cuốn sách chỉ là khái quát những
vấn đề chung của đô thị chưa thực sự chuyên sâu nghiên cứu về một đô thị cụ thể ở
Việt Nam.
Năm 1996, trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á tiến hành tìm hiểu về ĐTH và
kết quả là sự ra đời của cuốn sách “Đô thị hóa Việt Nam và Đông Nam Á” do nhà xuất
bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành vào năm 1996. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến
xu thế ĐTH tại Đông Nam Á và một số thành phố ở Việt Nam, nhu cầu quản lý đô thị,
vấn đề bảo vệ môi trường, cũng như kinh nghiệm trong việc phát triển các đô thị của
các nước Đông Nam Á
Năm 1997, Nguyễn Thế Bá có chuyên khảo “Những vấn đề lý thuyết đô thị và
quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam”. Năm 1998, tác giả Trần Ngọc Hiên, Trần Văn
Chử đã viết cuốn “Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị hoá trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Tác giả đã phân tích thực trạng và phát hiện những
vấn đề nảy sinh của đô thị Việt Nam. Đồng thời, cũng làm rõ tác động của các chính
sách đến sự phát triển của đô thị nước ta bên cạnh những lý thuyết chung về đô thị
Việt Nam.
Nhà xuất bản Trẻ năm 2002 cũng đã xuất bản cuốn “Dân tộc - đô thị và đô thị hóa”
của Mặc Đường. Nội dung trong cuốn sách đã đề cập đến vấn đề Việt Nam và vấn đề ĐTH
trong lịch sử bài “Lịch sử phát triển của xã hội dân tộc học - đô thị khái luận”.
“Đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng phát triển và phương hướng biến đổi”là
công trình của tác giả Nguyễn Quang Ngọc. Nội dung cuốn sách đã phản ánh thực trạng
và định hướng phát triển đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện đại.
Năm 2006, cuốn sách “Đô thị Việt Nam trong thời kỳ quá độ” của tác giả
Nguyễn Thị Hiền, Phạm Thị Thúy đã nghiên cứu về đô thị Việt Nam. Nguồn ngân sách
chi cho công trình nghiên cứu dưới sự tài trợ bởi Bộ Ngoại giao Pháp.
Giáo trình “Xã hội học đô thị” của thầy giáo Trịnh Duy Luân Công tìm hiểu về
thách thức của quá trình ĐTH ở Việt Nam. Đó là sự chuyển biến từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, sự di dân từ nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ra đô thị; vấn đề quản lý đô thị…
Năm 2008, tác giả Lê Thanh Sang xuất bản công trình “Đô thị hóa và cấu trúc đô
thị Việt Nam trước và sau đổi mới năm 1979 - 1989 và 1989- 1999”. Tác giả công trình
đã tiếp cận tổng quan về lý thuyết ĐTH; ĐTH Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại; Làm rõ
quá trình biến đổi của các đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới năm 1986.
“Báo cáo Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới năm2011,
đã đề cập đến các danh mục đầu tư đô thị cũng như mở rộng đô thị và phát triển không
gian tại các đô thị Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu này mới chủ yếu tập trung vào 3
đô thị lớn là thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh.
Bộ Kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê năm 2011 có ấn phẩm chuyên khảo
“Di cư và đô thị hoá ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt”. Chuyên
khảo đã nghiên cứu xu hướng tăng của quá trình di cư về số lượng tuyệt đối và tỷ lệ
ở Việt Nam; Sự đóng góp mạnh mẽ của di cư vào khu vực thành thị, đặc biệt là các
thành phố lớn. Cuốn sách cũng nêu tình trạng ĐTH quá tải, dẫn đến tình trạng một
bộ phận dân cư thành thị không có điều kiện tiếp cận với các tiện nghi cơ bản.
Chuyên khảo cũng đã đưa ra những gợi ý cho các chính sách ĐTH hiện nay để đảm
bảo di cư và ĐTH.
“Những mặt tồn tại quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Nguyễn Văn Tài, đã nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường, văn hóa, chênh lệch giàu
nghèo, gia tăng dân số… những vấn đề bức xúc trong quá trình ĐTH của thành phố Hồ
Chí Minh đã và đang gặp phải.
Có khá nhiều bài viết đăng trên báo, tạp chí của Hiệp hội các đô thị Việt Nam
(ACVN), tỉnh Bắc Ninh,… đề cập đến lĩnh vực cơ cấu kinh tế, phát triển thương mại,
du lịch và xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã, huyện Yên
Phong nói riêng. Trong đó, có một số công trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Bắc Ninh và Đảng bộ huyện Yên Phong về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định
hướng CNH - HĐH thúc đẩy quá trình ĐTH ở Yên Phong từ huyện hướng đến thị xã.
Những công trình đã xuất bản, đề cập trên là tư liệu quý cho tác giả tập trung
vào nghiên cứu quá trình ĐTH của huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm
1986 đến năm 2018.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về quá trình ĐTH của huyện Yên Phong từ năm 1986 đến
năm 2018.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu sự chuyển biến trong tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội của huyện Yên Phong trong quá trình ĐTH từ năm 1986 đến năm 2018. Cụ thể, tập
trung nghiên cứu trong các lĩnh vực như: sự thay đổi cảnh quan cơ sở hạ tầng, sự phát
triển kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự biến đổi về mặt xã hội, số lao động,
giáo dục, y tế và văn hóa.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm sáng rõ các nội dung sau:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị và ĐTH để làm
cơ sở, sản phẩm cho quá trình ĐTH của huyện Yên Phong.
Hai là, xác định các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến quá trình
ĐTH của huyện Yên Phong từ năm 1986 đến năm 2018.
Ba là, phân tích sự biến đổi của huyện Yên Phong về cơ sở vật chất hạ tầng,
về kinh tế, văn hóa, xã hội, cảnh quan môi trường… trong quá trình ĐTH từ đổi mới
năm 2018.
Bốn là, nhận rõ những mặt trái của quá trình ĐTH và bước đầu đề xuất một số
giải pháp nhằm tham mưu cho huyện Yên Phong hoàn thành mục tiêu lên đô thị loại
IV trở thành thị xã Yên Phong.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Khi nghiên cứu phạm vi
lãnh thổ của huyện Yên Phong hiện nay so với trước năm 1986 thì huyện có sự thay
đổi khá nhiều. Năm 1962, Quốc hội khoá II ra Nghị quyết hợp nhất 2 tỉnh Bắc Ninh và
Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đây huyên Yên Phong thuộc đơn vị hành chính của
tỉnh Hà Bắc và trong thời gian này cũng diễn ra quá trình hợp nhất hoặc tách các xã
trong huyện làm thay đổi địa giới hành chính của huyện khá nhiều. Năm 1996, tại kì
họp thứ 10 của Quốc hội khoá IX ra quyết định phê chuẩn tái lập 2 tỉnh Bắc Ninh và
Bắc Giang. Đến thời điểm năm 1997, huyện Yên Phong là đơn vị hành chính trực thuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của tỉnh Bắc Ninh mà không phải là tỉnh Hà Bắc. Năm 2007, theo Nghị định số
60/2007/NĐ-CP của Chính Phủ, huyện Yên Phong một lần nữa có sự điều chỉnh về địa
giới hành chính theo đó có 1 thị trấn và 13 xã (gồm: Thị trấn Chờ, Xã Tam Giang, Hòa
Tiến, Yên Phụ, Trung Nghĩa, Đông Thọ, Văn Môn, Đông Tiến, Yên Trung, Dũng Liệt,
Tam Đa, Đông Phong, Long Châu, Thụy Hòa) từ đây hành chính không có sự thay đổi.
- Về thời gian: 1986 - 2018. Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 là thời gian mở
đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta. Huyện Yên Phong cũng nằm trong
công cuộc đổi mới này nên cũng có sự thay đổi đáng kể trên nhiều mặt. Việc nghiên
cứu giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2018, trước hết để nhìn lại chặng đường phát triển
huyện Yên Phong. Cụ thể hơn, dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, thời gian từ năm 1986
đến 2018 tại huyện Yên Phong làm sáng tỏ những nhân tố khách quan và chủ quan tác
động làm thay đổi cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội ở y tế giáo dục… đây là những
biểu hiện và đặc điểm của quá trình ĐTH của huyện.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Tư liệu thành văn: Quy hoạch xây dựng phát triển đô thịcủa Nguyễn Thế Bá; Di
cư và đô thị hoá ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt của Bộ Kế hoạch
và đầu tư Tổng cục thống kê, Lịch sử đô thị của Đặng Thái Hoàng, Đô thị Việt Nam
tập 1, 2 của Đàm Trung Phường,…
Tư liệu lưu trữ: Đại Nam nhất thống chí tập IVcủa Quốc sử quán triều Nguyễn,
các số liệu thống kê của cục thống kê tỉnh Bắc Ninh,…
Tư liệu điền dã: khảo sát, điều tra…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp cơ bản nghiên
cứu là phương pháp lịch sử để phục dựng lại quá trình ĐTH ở huyện Yên Phong. Tập
trung xem xét diễn biến của các các hiện tượng ĐTH trong thời gian từ năm 1986 đến
năm 2018. Từ đó, tác giả chỉ ra những nhân tố chủ quan và khách quan chi phối đến
quá trình ĐTH. Rút ra đặc điểm của ĐTH ở Yên Phong, Bắc Ninh và những bài học
kinh nghiệm cho Yên Phong ở hiện tại và tương lai.
ĐTH là một quá trình diễn ra phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên trong
quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp liên ngành giữa sử học, xã hội học,
văn hóa học, kinh tế học.... để thu thập thông tin thống kê, tập hợp số liệu. Qua đó, để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có những nhận định so sánh sự phát triển, chuyển biến của quá trình ĐTH ở từng thời
kỳ lịch sử ở huyện Yên Phong.
Sử dụng nhiều các phương pháp nghiên cứu trên tác giả đã có cách tiếp cận từ
nhiều chiều, đa dạng phù hợp với tính chất của vấn đề ĐTH.
5. Những đóng góp của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu này, tác giả đã tập hợp xử lý hệ thống hóa các tư liệu
nhất là những chỉ số phát triển đô thị ở toàn huyện Yên Phong nói chung trong những
năm qua thành nguồn tài liệu đáng tin cậy để nghiên cứu sự phát triển lịch sử của huyện
Yên Phong và cũng là tài liệu hữu ích đối với công việc nghiên cứu giảng dạy trong
vấn đề về này.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn
có ba chương nội dung chính:
Chương 1: Lý luận về đô thị hóa. Sự hình thành kinh tế - xã hội của huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh trước năm 1986.
Chương 2: Huyện Yên Phòng từ năm 1986 đến năm 2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 3: Huyện Yên Phong từ năm 2007 đến năm 2018.
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA. SỰ HÌNH THÀNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
HUYỆN YÊN PHONG,TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Một số vấn đề lý luận về đô thị và đô thị hóa
1.1.1. Đô thị và phân loại đô thị
Quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp trên đất nước Việt Nam. Để
hiểu rõ khái niệm về “ĐTH” trước hết phải bàn về khái niệm “đô thị”. Đô thị bắt nguồn
từ thuật ngữ Latinh “Urbs”, tiếng Anh “Urbniration” hay tiếng Pháp là“Urbanisation”,
đều mang nghĩa gốc là “đô thị”.
Đô thị là một hình tổ chức xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội
loài người con người. Trong lịch sử nhân loại, thời kỳ Công xã nguyên thủy vẫn chưa
hình thành các thành thị hay đô thị. Sự tan rã của chế độ Công xã nguyên thủy chuyển
sang chế độ xã hội văn minh, con người định cư thành những làng mạc theo đó có chút
xã hội làng mạc được hình thành. Chính sự thay đổi của bộ phận dân cư trong các đơn
vị hành chính của mỗi khu vực đã dần hình thành thành các khu giao lưu buôn bán từ
đó cấu trúc xã hội đô thị cũng hình thành.
Ở các nước phương Tây, nguồn gốc của quá trình ra đời đô thị ở nơi đây bắt
nguồn từ yếu tố kinh tế - kinh tế công thương. Cụ thể, trong quá trình những người dân
chuyên làm nghề thủ công, nghề buôn bán trong các thị đã liên kết với nhau hình thành
các bang và từ đó bang trung tâm trở thành đô thị.
Ở các nước Phương Đông, đô thị ra đời từ các trung tâm chính trị của nhà nước,
từ các tổ chức hành chính để quản lý xã hội. Những điều kiện mà nhà nước tạo ra thì
dân cư mới có điều kiện để phát triển nghề thủ công và buôn bán phục vụ cho bộ máy
hành chính quản lý của khu vực đô thị.
Các quốc gia trên thế giới có tiêu chí và phương pháp khác nhau để định nghĩa
“đô thị”: “105 quốc gia thu thập dữ liệu dựa trên các tiêu chí hành chính, thủ đô hoặc
thị xã, các đô thị tự trị hoặc thuộc phạm vi quản lý của địa phương khác; 83 quốc gia
chỉ sử dụng tiêu chí hành chính để phân biệt đô thị và nông thôn. 100 quốc gia định
nghĩa thành phố dựa trên số dân hoặc mật độ dân số, với mức độ tập trung tối thiểu từ
200 đến 50.000 người; 57 quốc gia sử dụng tiêu chí này là tiêu chí duy nhất. 25 quốc
gia xác định đô thị chủ yếu dựa vào đặc điểm kinh tế, mặc dù không loại trừ các tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chí khác như tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong các ngành phi nông nghiệp. 18
quốc gia tính đến sự sẵn có của cơ sở hạ tầng đô thị trong định nghĩa của họ, bao gồm
cả sự hiện diện của các con đường nhựa, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước hoặc
điện.”[8, tr. 6].
Tổ chức Liên Hợp Quốc không sử dụng khái niệm đô thị mà thay vào đó là định
nghĩa: “Vùng đô thị” là một khu vực xây dựng kín hoặc một khu vực đông dân cư bao
gồm khu trung tâm thành phố, khu ngoại thành và các khu định cư lao động” [8, tr. 6].
Theo đó, vùng đô thị có thể rộng hơn hoặc nhỏ hơn một khu vực thành thị. Mà trong
thành thị bao gồm toàn bộ khu vực đô thị và khu định cư lao động chính của thành phố.
Tuy nhiên, sự khác nhau trong phát triển đô thị của các quốc gia trên toàn thế
giới là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, Việt Nam cũng có nhiều khái niệm, định
nghĩa riêng của mình về đô thị:
Theo Giáo sư Cao Xuân Phổ: “Trong tiếng Việt, có nhiều từ để chỉ khái niệm
đô thị: đô thị, thành phố, thị trấn, thị xã,… Các từ đó đều có hai thành tố: đô, thành,
trấn, xã hàm nghĩa chức năng hành chính; thị, phố có nghĩa là chợ. Thời trước, chức
năng hành chính lấn át chức năng kinh tế; bộ phận đảm nhận cai quản đô thị là do nhà
nước bổ nhiệm. Đô thị Việt Nam khác với đô thị ở phương Tây là ở chỗ đó. Đô thị
phương Tây ít có tính chính trị hơn và thiên về chức năng kinh tế” [29, tr. 103].
Giáo sư Nguyễn Thế Bá lại cho rằng: “Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật
độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm
chuyên ngành hay tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong
huyện” [1, tr. 5].
Như vậy có thể thấy, các định nghĩa khác nhau khiến cho việc so sánh mức độ
ĐTH ở tỉnh, khu vực không dễ dàng. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu yếu tố “đô”, “thành”
còn có những yếu tố như: mức độ của cơ sở hạ tầng, đường xá, đèn đường, cung cấp
nước, giáo dục, văn hóa, y tế…cũng đóng vai trò chi phối đến đặc điểm của đô thị Việt
Nam thời hiện đại.
Chính phủ có những Quyết định, Nghị định tiến hành định kì phân loại đô thị
theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Quá trình này xảy ra trong tình hình chung
khi khu vực nông thôn bắt đầu có những đặc điểm của khu vực thành thị do sự thay đổi
về các hoạt động kinh tế (nông nghiệp và phi nông nghiệp) của dân cư, sự thay đổi cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sở hạ tầng, gia tăng xây dựng các dịch vụ - thương mại.
Theo Quyết định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về phân
loại đô thị và phân cấp quản lí đô thịđã đưa ra các yếu tố cơ bản: vai trò chức năng, quy
mô dân số và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp của đô thị. Trong đó, việc xác định quy
mô dân số và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp chỉ được tiến hành trong phạm vi nội thị.
Đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản:
“1- Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.
2- Quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người (vùng núi có thể thấp hơn).
3- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tư 60% trở lên trong tổng số lao động; là nơi
sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển.
4- Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị.
5- Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm từng
vùng” [34].
Đô thị được chia làm 5 loại: đô thị loại I, đô thị loại II, đô thị loại III, đô thị loại
IV và đô thị loại V.
Bảng 1.1. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Quyết định số 132/HĐBT
Cơ sở hạ tầng Quy mô Dân số (người) Loại đô thị Vai trò trung tâm chủ yếu
> 1.000.000 Lao động phi nông nghiệp (%) > 90 Được xây dựng đồng Mật độ dân cư bình quân (người/km2) > 15.000 I Quốc gia bộ.
Từ 350.000 90 Được xây dựng > 12.000
II Tỉnh, liêntỉnh đến nhiều mặt tiến tới
<1.000.000 đồng bộ.
Từ 100.000 > 80 Được xây dựng từng > 10.000 III Liên tỉnh đến <350.000 mặt
Từ 30.000 đến > 70 Đã và đang đầu tư > 8.000
từng phần. < 10 vạn (vùng IV Tỉnh núi có thể thấp
hơn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Từ 4.000 đến > 60 Bước đầu xây dựng > 6.000 V Huyện <30.000 (vùng (vùng núi có
núi có thể thấp thể thấp
hơn). hơn).
Nguồn: tác giả tổng hợp từ [34]
Sự phát triển trong tình hình chung của đất nước, các đô thị ngày càng tăng lên
nhanh chóng về cả chất lượng cũng như số lượng nên những Quyết định số 132/HĐBT
năm 1990 lúc này không còn phù hợp nữa. Theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP về Phân
loại đô thị phê duyệt ngày 5/10/2001, đã hoàn thiện hơn quy định pháp lí về đô thị Việt
Nam: “Đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập”[24].
Để phân loại được đô thị, Chính phủ cũng đưa ra nhiều quy định, cụ thể dựa trên
các yếu tố cơ bản sau:
Bảng 1.2. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 72/2001/NĐ - CP
Lao động Vai trò Quy mô Mật độ dân Loại phi nông trung tâm Dân số Cơ sở hạ tầng đô thị nghiệp chủ yếu (người) cư bình quân (người/km2) (%)
Đặc Thủ đô và Cơ bản đồng bộ và > 90 >1.500.000 > 15.000 biệt liên tỉnh hoàn chỉnh
Nhiều mặt đồng bộ I Liên tỉnh > 85 > 500.000 >12.000 và hoàn chỉnh
Tiến tới tương đối Tỉnh, II > 80 đồng bộ và hoàn > 250.000 > 10.000 liên tỉnh chỉnh
Xây dựng từng mặt
III Tỉnh > 75 đồng bộ và hoàn > 100.000 >8.000
chỉnh
Đã hoặc đang xây Đô thị
Huyện > 70 dựng từng mặt đồng > 50.000 > 6.000 loại
bộ và hoàn chỉnh IV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đã và đang xây dựng Đô thị Huyện > 65 nhưng chưa đồng bộ > 4.000 >2.000 loại V và hoàn chỉnh
Nguồn: tác giả tổng hợp từ [24]
Năm 2009, Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
Nghị định số42/2009/NĐ - CP ngày 7/5/2009 về việc phân loại đô thị và đưa ra chương
trình phát triển đô thị. Theo Nghị định mới này, đô thị ở Việt Nam có đặc điểm: “Đô
thị mới là đô thị dự kiến hình thành trong tương lai, được đầu tư xây dựng từng bước
đạt các tiêu chuẩn của đô thị theo quy định của pháp luật” [26].Cũng như Nghị định
trước, để phù hợp với tình hình mới thì cũng có sự điều chỉnh trong nội dung, quy định
về phân loại đô thị những về cơ bản vẫn dựa trên sự phát triển của Nghị định
72/2001/NĐ-CP, cụ thể.
Bảng 1.3. Phân loại và phân cấp đô thị ở Việt Nam Nghị định số 42/2009/NĐ - CP
Vai trò Mật độ dân Lao động
Loại đô trung Quy mô dân cư bình phi nông Cơ sở hạ tầng thị tâm chủ số (người) quân nghiệp
yếu (người/km2) (%)
Đồng bộ, hoàn Đặc biệt Quốc gia > 5.000.000 > 15.000 >90 chỉnh
Quốc gia Đồng bộ, cơ bản I và liên > 1.000.000 > 12.000 > 85 hoàn chỉnh tỉnh
Đồng bộ, tiến tới II Liên tỉnh > 800.000 > 10.000 > 70 cơ bản hoàn chỉnh
Từng mặt được đầu
tư xây dựng đồng Tỉnh, III > 150.000 > 6.000 > 65 bộ liên tỉnh và tiến tới cơ
bản hoàn chỉnh
Đã hoặc đang xây
IV Tỉnh > 50.000 > 4.000 > 50 dựng tiến tới đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bộ và hoàn chỉnh
Đã hoặc đang xây
V Huyện > 4.000 > 2.000 > 45 dựng tiến tới đồng
bộ và hoàn chỉnh
Nguồn: tác giả tổng hợp từ [26]
Thời gian gần đây nhất, Chính phủ ra Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về
Phân loại đô thị ngày 25/5/2016, kết hợp với thực hiện các kế hoạch, chương trình phát
triển đô thị quốc gia, chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và chương trình phát triển
từng đô thị để quản lý phát triển đô thị, bảo đảm phù hợp với từng giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội trong thời kì đổi mới.
Tiêu chí phân loại đô thị của cũng có nhiều thay đổi cụ thể phù với với tình hình
mới về cả vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài
ra, việc phân loại đô thị được tính bằng phương pháp tính điểm, tổng số điểm của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiêu chí tối đa là 100 điểm. Cụ thể trong khung điểm phân loại là:
Bảng 1.4. Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị
(tối thiểu đạt 3,75 điểm,tối đa đạt 5,0 điểm)
TT Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò Điểm Loại đô thị
5,0
1 Đặc biệt
3,75
5,0
2 I
3,75
5,0
3 II
3,75
5,0 4 III
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Là Thủ đô hoặc trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, quốc tế về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước. Là trung tâm tổng hợp cấp vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của một vùng liên tỉnh. Là trung tâm tổng hợp cấp vùng về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, trung tâm hành chính cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh. Là trung tâm chuyên ngành cấp vùng hoặc trung tâm tổng hợp cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh, vùng liên tỉnh. Là trung tâm hành chính cấp tỉnh, trung tâm tổng hợp về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, vùng liên tỉnh.
TT Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò Điểm Loại đô thị
3,75
5,0
5 IV
3,75
5,0
6 V
3,75
Là trung tâm chuyên ngành cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hoặc vùng liên huyện. Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm hành chính cấp huyện hoặc trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện hoặc vùng liên huyện. Là trung tâm hành chính hoặc trung tâm tổng hợp cấp huyện hoặc trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Là trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một cụm liên xã
Nguồn: [27]
Như vậy thông quanhững khái niệm được nêu ra nói trên, có thể thấy các khái
niệm đều nói lên đặc điểm của một đô thị hay đặc điểm của một vùng được xác định là
đô thị. Hơn nữa khi tìm hiểu định nghĩa về đô thị có thể thấy Đảng và Nhà nước đã đưa
ra những nghị định, quyết định cụ thể về phân loại, phát triển chương trình đô thị đã
góp phần xác định, đánh giá tốc độ ĐTH khi xem xét trên một địa điểm cụ thể.
1.1.2. Đô thị hóa
Vào tháng 12/1986, Đảng cộng sản Việt Nam tạiĐại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đã quyết định đường lối đổi mới đất nước. Từ đây, mở ra một thời kỳ mới trong lịch
sử dân tộc, mở đầu sự phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển
của dân tộc, đồng thời tác động trực tiếp đến các ĐTH. Quá trình này cũng thúc đẩy sự
bùng nổ ĐTH trên toàn quốc thể hiện tích cực và tiêu cực cả hai mặt về chất lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng như số lượng ĐTH.
Bộ kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê khi so sánh với các quốc gia khác trên
thế giới về mức độ ĐTH thì “Việt Nam với gần 30% dân số đô thị rõ ràng không phải
là nước có mức độ ĐTH cao”[7, tr. 62]. Nhận thấy khó khăn của quá trình ĐTH, Phó
Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, phát biểu tại Hội nghị Đô thị Toàn quốc ngày 6 đến
ngày 7/11/2009 đã nêu rõ: “Việt Nam sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất để đô thị hóa đúng
đắn. Nếu thất bại trong đô thị hóa, chúng ta cũng sẽ thất bại trong công nghiệp hóa và
hiện đại hóa”.
ĐTH là khái niệm rất đa dạng bao hàm nội dung rất rộng, chứa đựng nhiều hiện
tượng và nhiều biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong quá trình phát triển đất
nước, khu vực, tỉnh, thị xã, huyện… Cụ thể hơn về khái niệm ĐTH có thể xem xét trên
nhiều góc độ khác nhau:
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm ĐTH trong đó qua sự phát triển kinh tế - xã
hội đã nhấn mạnh hơn vai trò của thành thị: “ĐTH là quá trình tập trung dân cư ngày
càng đông vào các đô thị và nâng cao vai trò của thành thị đối với sự phát triển của
xã hội” [54, tr. 13].
Dưới góc độ nhìn nhận của dân số học: “ĐTH theo nghĩa hẹp là sự phát triển
hệ thống thành phố nhất là các thành phố lớn, tăng tỉ trọng dân số đô thị trong nước,
trong khu vực và thế giới…” [40, tr. 120]. Theo quan điểm này thì ĐTH được xem xét
dựa trên sự thay đổi chủ yếu nhất là dân cư tại các địa điểm, khu vực tập trung càng
cao. Trong quá trình này, có thể thấy mức độ ĐTH đang diễn ra như thế nào qua sự tập
trung trong các khu vực.
Từ góc độ nhân khẩu học và địa lý kinh tế: “ĐTH được hiểu là sự di cư từ nông
thôn tới đô thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong những vùng lãnh
thổ đô thị. Mức độ đô thị hóa của một quốc gia được đo lường bằng tỷ lệ dân cư đô thị
trong tổng số dân” [7, tr. 60]. Quá trình mở rộng dân cư tự nhiên có thể coi là một
trong những tác nhân đưa đến ĐTH, nói rộng ra đó là sự nhập cư từ nông thôn ra thành
thị. Tuy quá trình gia tăng dân cư này không phải tác nhân chính thể hiện sự phát triển
của đô thị nhưng cũng là một biểu hiện không thể thiếu của ĐTH.
Theo lập trường của các nhà quản lý và kinh tế thì: “ĐTH là quá trình cấu trúc
lại chức năng của khu vực nông thôn, là quá trình gia tăng phát triển công nghiệp và
dịch vụ. Và vì vậy, ĐTH thường được hiểu là quá trình song song với sự phát triển
công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ, gia tăng các hoạt động phi nông nghiệp hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tụ trên một không gian nhất định” [50, tr. 15].
Phạm Thị Xuân Thọ đã xác định rõ các yếu tố để xác định mức độ ĐTHtrên
quan điểm kinh tế quốc dân: “ĐTH là một quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố
lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, ở đây
người ta lại nhấn mạnh vai trò và tỷ lệ 3 yếu tố của sản xuất để xác định mức độ ĐTH,
theo đó:
Khu vực I: kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp sẽ ngày càng giảm dần theo xu thế
phát triển của các hoạt động kinh tế - xã hội đô thị.
Khu vực II: kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình đô thị hóa.
Khu vực III: khu vực dịch vụ (theo nghĩa hẹp) quản lý xã hội, nghiên cứu, du lịch,…
cũng có vai trò quan trọng ngày càng tăng lên trong quá trình đô thị hóa” [44, tr. 23].
Và một định nghĩa khác: “Về mặt xã hội, ĐTH được hiểu là quá trình tổ chức lại
môi trường cư trú của con người. ĐTH không chỉ thay đổi sự phân bố dân cư và những
yếu tố vật chất, mà còn làm chuyển hóa những khuôn mẫu của đời sống kinh tế-xã hội,
phổ biến lối sống đô thị tới các vùng nông thôn, và toàn bộ xã hội” [7, tr. 60].
Về mặt lối sống đô thị và văn hoá đô thị được Tôn Nữ Quỳnh Trân trong Văn
hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định:
“Xét trên phương diện cách sống, ĐTH là một sự thay đổi lối sống và đồng thời thay
đổi khung cảnh sống” và một phương diện diện trên quan điểm sinh thái nhân văn thì
“ĐTH là một quá trình chuyển động làm thay đổi lối sống và cảnh quan của một hệ
thống quần cư từ hệ sinh thái nông thôn sang hệ sinh thái kinh tế - xã hội đô thị”. Cũng
theo đó, trên góc độ văn hoá thì: “ĐTH là quá trình chuyển đổi văn hoá làng xã thành
văn hoá đô thị” [49, tr. 13].
Qua các góc độ khác nhau trên của ĐTH, có thể thấy đây là một phạm trù rộng
lớn và toàn diện đến tất cả mọi lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, văn hóa, không gian cư trú
của con người,… Một trong những nhận định có thể coi là khái quát nhất về ĐTH là
của Giáo sư Ðàm Trung Phường: “Đô thị hoá là một quá trình chuyển dịch lao động,
từ hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có như nông, lâm, ngư
nghiệp, khai khoáng, phân tán trên một diện tích rộng khắp hầu như toàn quốc, sang
những hoạt động tập trung hơn như công nghiệp, chế biến, sản xuất xây dựng cơ bản,
vận tải, sửa chữa, dịch vụ, thương mại, tài chính, văn hóa xã hội, khoa học - kỹ thuật,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng có thể nói là chuyển dịch từ hoạt động nông nghiệp (chiều rộng) phân tán sang
hoạt động nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp gọi là đô thị… quá trình
đô thị hoá diễn ra song song với động thái phát triển không gian kinh tế - xã hội, trình
độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của nền văn hóa và
phương thức tổ chức lối sống xã hội. Do vậy, có thể nói đô thị hoá là một quá trình
diễn biến về kinh tế, xã hội, văn hóa, không gian gắn liền với những tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao
động, sự phát triển của đời sống văn hóa, sự chuyển đổi lối sống và sự mở rộng phát
triển không gian thành hệ thống đô thị song song với tổ chức bộ máy hành chính, quân
sự” [30, tr. 7].
Từ các quan điểm trên về ĐTH cho thấy, có sự khác nhau nhưng nhìn chung các
nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở một số điểm: ĐTH là một quá trình phát triển
tất yếu, khách quan và có tính phổ quát của xã hội. Theo nghĩa rộng ĐTH được hiểu như
một quá trình phát triển toàn diện kinh tế và xã hội hay quan niệm quá trình ĐTH hiện
nay như một quá trình phát triển của lịch sử, liên hệ mật thiết với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, các hệ thống xã hội và tổ chức môi trường sống của cộng đồng. Theo
nghĩa hẹp, ĐTH là quá trình chuyển cư từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang lĩnh vực
phi nông nghiệp với tất cả các hệ quả của nó như sự tăng trưởng dân cư đô thị, sự nâng
cao mức độ trang bị kỹ thuật, sự thay đổi trong văn hóa và lối sống.
Như vậy, ĐTH là một quá trình phát triển tất yếu, khách quan và có tính phổ
quát của xã hội. Việt Nam là một nước cũng đang thực hiện quá trình ĐTH trên toàn
bộ đất nước, tuy nhiên theo nhận định chung thì “đối với các nước thuộc thế giới thứ
ba, quá trình đô thị hóa vẫn còn nằm trong khuôn khổ của quá trình đô thị hóa theo
bề rộng”[7, tr. 60]. Quá trình ĐTH với nhiều nội dung như: dân số (nơi mật độ dân
cư cao nhất là dân cư phi nông nghiệp), kinh tế (hoạt động khu công nghiệp, thương
mại dịch vụ, ngân hàng, tài chính...), văn hóa (văn hóa lối sống nông thôn thành cách
ứng xử thành thị)… Trong quá trình này, việc điều chỉnh các chính sách, vận dụng
những quy luật ĐTH đem lại lợi ích cho sự phát triển chung của đất nước là tất yếu.
Đồng thời, hạn chế tối đa những tiêu cực của ĐTH có thể ảnh hưởng đến quá trình
phát triển chung.
Với tình hình như vậy, đặc biệt từ sau đổi mới từ năm 1986 trở đi cùng với việc
tái lập tỉnh Bắc Ninh, huyện Yên Phong đã nhiều thay đổi để thích ứng tình hình mới.
Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình ĐTH ở huyện Yên Phong không chỉ dừng lại ở
quá trình chuyển nguồn dân cư từ nông thôn - nông dân- nông nghiệp sang đô thị - thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân - công thương mà còn chú trọng phát triển chùm đô thị, tuyến đô thị, làng đô thị,...
đây là động lực, mục tiêu phát triển hướng tới thành lập thị xã của huyện Yên Phong
trong tương lai.
1.2. Lịch sử hình thành huyện Yên Phong
Yên Phong là huyện đồng bằng, nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh, thuộc vùng Châu
thổ Sông Hồng.
Huyện Yên Phong có tọa độ địa lý:“nằm trong khoảng vĩ độ 21 độ 8 phút, 45
giây đến 21 độ, 14 phút 30 giây độ vĩ Bắc và trong khoảng kinh độ từ (105 độ, 54 phút,
30 giây đến 106 độ 4 phút 15 giây độ kinh Đông” [2, tr. 11].
Theo Đại Nam nhất thống chí, địa giới của huyện: “Huyện Yên Phong: ở phía bắc
lệch về phía đông phủ cách 15 dặm, đông tây cách nhau 29 dặm, Nam Bắc cách nhau 24
dặm, phía Đông đến địa giới huyện Võ Giàng 14 dặm, phía Tây đến địa giới huyện Thiên
Phúc 15 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Tiên Du 12 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện
Việt Yên thuộc phân phủ Lạng Giang 12 dặm...”[33, tr. 64 - 65].
Còn ngày nay, địa giới chung của huyện có sự thay đổi khá nhiều: Phía Bắc lấy
Sông Cầu làm giới hạn phân cách, Yên Phong giáp với hai huyện Hiệp Hòa và Việt
Yên (Bắc Giang). Phía Nam giáp huyện Đông Anh (Hà Nội), huyện Từ Sơn và huyện
Tiên Du (Bắc Ninh). Phía Đông giáp thành phố Bắc Ninh (Bắc Ninh). Phía Tây lấy
Sông Cà Lồ làm giới hạn, Yên Phong giáp huyện Sóc Sơn, huyện Đông Anh (Hà Nội).
Một trong những đặc điểm địa lý của huyện Yên Phong là:“địa giới của huyện
được bao bọc gần hết bởi 3 con sông cổ: Sông Cầu, sông Cà Lồ ở phía bắc huyện, sông
Ngũ Huyện Khê ở phía nam huyện... Có núi Quả Cảm đứng chắn nơi cửa sông Ngũ
Huyện Khê, phía Tây huyện có cụm đồi Thất Diệu Sơn chưa ra đầy huyết tích lịch sử”
[2, tr. 9 - 10].
Thị trấn Chờ là trung tâm huyện lỵ của huyện Yên Phong: Phía Đông của thị
trấn giáp với xã Trung Nghĩa; phía Tây giáp với xã Yên Phụ và xã Hòa Tiến; phía Nam
giáp xã Đông Thọ và xã Văn Môn; còn phía Bắc của thị trấn Chờ giáp với xã Tam
Giang và xã Đông Tiến.
Thị trấn Chờ được bao quanh bởi một số ngọn núi nhưng độ cao chỉ có vài chục
mét. Trong đó phải kể đến xã Yên Phụ cách Thị trấn Chờ về phía Tây 3 km với ngọn
núi Thất Diệu Sơn gắn liền với truyền thuyết An Dương Vương xây loa thành. Theo
đó: “Núi Thất Diệu: ở xã Yên Phụ cách huyện Yên Phong 15 dặm về phía tây bắc. Núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đất liên tiếp, nổi bật lên 7 ngọn” [33, tr. 86].
Về phía Nam cách Thị trấn Chờ 3 km là xã Tam Sơn có ba ngọn núi hình chuỗi
hạt. Còn ngay trong lòng Thị trấn ở làng Phú Mẫn có núi Hàm Sơn theo sách Đại Nam
nhất thống chí ghi lại “núi Hàm Sơn thuộc xã Nội Trà, cách huyện Yên Phong (huyện
Lý lúc đó ở Đông Yên, nay thuộc xã Đông Phong) 11 dặm về phía Tây Nam, một ngọn
núi ngọn đẹp có đền thờ Thành Quý Minh”[33, tr.86]. Nhưng hiện nay núi Hàm Sơn
không còn nữa chỉ là một gò đất cao.
Thị trấn Chờ là đầu mối giao thông chính của huyện cách tỉnh lỵ Bắc Ninh 15
km về phía Đông; cách quốc lộ 1A là đường giao thông huyết mạch 8 km về phía Nam;
phía Tây Nam cách Thủ đô Hà Nội 29 km; về phía Tây có quốc lộ 18 chạy qua cách
sân bay quốc tế Nội Bài 15 km; quốc lộ 18 nối khu chế xuất Đông Anh và sân bay quốc
tế Nội Bài với KCN và du lịch Quảng Ninh chạy qua Yên Phong từ Tây sang Đông;
tuyến quốc lộ 3B Hà Nội -Thái Nguyên; cách cảng Hải Phòng 115km về phía Nam.
Ngày nay, ngoài một Thị trấn Chờ vừa là nơi đặt các cơ quan hành chính, công
sở của huyện vừa là trung tâm kinh tế - xã hội, còn có 13 xã: Đông Phong, Đông
Thọ, Đông Tiến, Dũng Liệt,Hòa Tiến, Long Châu, Tam Đa, Tam Giang, Thụy Hòa, Trung
Nghĩa, Văn Môn, Yên Phụ, Yên Trung.
Huyện Yên Phong nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng nên địa hình có
đặc điểmtương đối bằng phẳng, xen kẽ nhiều vùng thấp trũng nằm rải rác ở các xã trong
huyện. Huyện Yên Phong là địa bàn chuyển tiếp, nên địa hình có xu thế thấp dần từ
dãy Thất Diệu Sơn (xã Yên Phụ) ở Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình này rất thuận
lợi cho công việc quy hoạch xây dựng nhà cao tầng, xưởng máy lớn… nhờ nền đất
bằng phẳng mà không phải xử lý nền móng tốn kém, phức tạp như ở các huyện thành
khác.
Yên Phong có diện tích tự nhiên 9676,34 ha, diện tích không lớn lắm, nhưng đất
đai Yên Phong hết sức phong phú. Đất nơi đây, được hình thành do quá trình bồi tụ phù
sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, trực tiếp là 3 con sông: Sông Cầu, Sông
Cà Lồ, sông Ngũ Huyện Khê, phần còn lại được hình thành tại chỗ do sự phong hóa trực
tiếp từ đá mẹ. Yên Phong có 3 nhóm đất chủ yếu: Đất phù sa, đất bạc màu, đất đồi núi
đỏ vàng. Với nguồn đất này, huyện có điều kiện phát triển nền kinh tế nông nghiệp từ đó
phát triển các ngành nghề khác phục vụ cho kinh tế nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hàng ngày.
Yên Phong được bao bọc bởi 3 con sông: Sông Cầu phía Bắc; Sông Cà Lồ phía
Tây; Sông Ngũ Huyện Khê bao phía Nam và có gần 400 ha ao, hồ được phân bố đều ở
các làng, xã.
Sông Cầu nằm ở phía Bắc huyện, thượng lưu thông đến Thái Nguyên, hạ lưu thông
đến Hải Dương, Hải Phòng tạo nên tiềm lực phát triển mạnh kinh tế thương mại - dịch vụ.
Tên sông Cầu có từ đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xây dựng 3 cây cầu lớn trên sông:
Cầu Đáp Cầu (Bắc Ninh), cầu Đa Phúc (Hà Nội), cầu Gia Bẩy (Thái Nguyên). Trước đó,
thời nhà Lý, Sông Cầu có tên là sông Như Nguyệt. Đây là chiến hào thiên nhiên để chống
quân Tống của Lê Đại Hành (981) và Lý Thường Kiệt (1077). Đến thời Gia Long thuộc
triều Nguyễn, Sông Cầu có tên là sông Nguyệt Đức. Năm Tự Đức thứ 3, sông Cầu được
liệt vào hàng sông lớn Quốc gia, nên chép vào điển thờ.
Sông Ngũ Huyện Khê bao bọc phía Nam huyện, là con sông lớn thứ 2 của huyện
Yên Phong. Sông chảy từ Tây sang Đông là ranh giới giữa Yên Phong với Thị xã Từ
Sơn, huyện Tiên Du. Cách đây hơn 2000 năm vào thời An Dương Vương xây thành ốc
ở kinh đô Cổ Loa, sông Ngũ Huyện Khê có tên là sông Hoàng Giang là một chi lưu
của sông Hồng chảy vào sông Cầu. Về sau do sự bồi lắng của sông Hồng, nên thượng
nguồn sông Ngũ Huyện Khê bị vùi lấp từ đây trở thành con sông nội địa cho 5 huyện
(Yên Lãng, Đông Anh, Từ Sơn, Yên Phong, Tiên Du) mà không còn là một chi lưu của
Sông Hồng nữa.
Sông Cà Lồ bắt nguồn từ huyện Yên Lạc (Vĩnh Phúc) rồi chảy qua hai huyện
Sóc Sơn, Đông Anh (Hà Nội), chảy qua huyện Yên Phong từ xã Hòa Tiến đến xã Tam
Giang rồi đổ vào sông Cầu tạo nên Ngã ba Xà, xã Tam Giang. Ở nơi đây, có đền thờ
Trương Hống và Trương Hát, tục gọi là thánh Tam Giang.
Hệ thống các sông, ao, hồ trên đã đem lại nguồn nước dồi dào, khá thuận lợi là
cho sản xuất nông nghiệp. Không chỉ phục vụ cho sản xuất và đời sống mà còn là
những đường tiêu thoát nước vào mùa mưa ở huyện Yên Phong. Đồng thời, những con
sông của huyện còn là sự đảm bảo sự đi lại thuận lợi trong quan hệ giao lưu buôn bán,
kinh tế - xã hội với một số vùng trong huyện, tỉnh và ra cả bên ngoài tỉnh.
Ở huyện Yên Phong, khí hậu có 2 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình mùa nóng là
khoảng 24° đến 29 °; Nhiệt độ trung bình mùa lạnh khoảng 16° đến 21°.Nằm trong
vùng đất “địa linh” nên hàng năm bão ảnh hưởng đến Yên Phong không lớn. Lượng
mưa trung bình mỗi năm là 1512 mm. Đây là một trong những điều kiện rất thuận lợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho sản xuất và cuộc sống của cư dân của huyện.
Theo Đại Nam nhất thống chí ghi chép về huyện Yên Phong: “Tên huyện có từ đời
nhà Trần về trước, thời thuộc Minh do châu Vũ Ninh lãnh, lệ vào phủ Bắc Giang”[33, tr.
65]. Tuy nhiên, nếu phải khảo cứu sâu về lịch sử hình thành huyện thì Yên Phong nằm
trong bộ Vũ Ninh, dưới thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đến thời An Dương Vương,
Yên Phong nằm trong địa phận Đô Thành Cổ Loa của nhà nước Âu Lạc.
Trong lịch sử dân tộc, Yên Phong có nhiều lần đổi tên cũng như thay đổi về
địa giới hành chính: “Đời Lê Quang Thuận (tức Lê Thánh Tông 1460 - 1469) đổi lệ
vào phủ Từ Sơn. Đời Hồng Thuận (tức Lê Tương Dực 1509 - 1516) đổi tên là Yên
Phú, sau đó lại theo tên cũ; bản chiều cũng như thế. Nay lãnh 6 tổng, 69 xã thôn
trang vạn” [33, tr. 65].
Ở thế kỷ XV, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì huyện Yên Phong lúc bấy
giờ có 52 xã. Cuối thế kỷ XV, theo bản đồ Hồng Đức huyện có 53 xã. Những năm thời
nhà Nguyễn, thành lập tỉnh Bắc Ninh với 21 huyện, trong đó Yên Phong là huyện có 6
tổng với 71 xã, thôn, phường, trang, vạn.
Từ năm 1801 trở về trước,huyện lỵ của Yên Phong đặt tại xã Hương La. Năm
1802, tức Gia Long thứ nhất chuyển về xã Đông Yên, tổng Mẫn Xá. Từ cuối năm 1945,
huyện lỵ chuyển về phố Chờ (nay là Thị trấn Chờ).
Dưới thời vua Tự Đức (1848 - 1883) huyện Yên Phong có 6 tổng với 69 xã,
thôn, trang, vạn. Từ năm 1836 - 1886, các xã, thôn cũng thay đổi địa danh và tên như:
Đại Cảo đổi là Đại Tảo, Bằng Lâm đổi là Thư Lâm, Xuân Lôi đổi là Thụy Lôi,…
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, sự tồn tại của các tổng không còn nữa, 69
xã, làng cũ được tổ chức thành các thôn, làng theo xã hội mới. Trong thời kì kháng
chiến chống Pháp, ngày 14/4/1948, Chính phủ ban hành Sắc lệnh về việc giải tán thị
xã Bắc Ninh và sửa đổi địa giới, theo đó xã Hoà Long, Vạn An, Khúc Xuyên, Phong
Khê sáp nhập vào huyện Yên Phong.
Chính phủ tiến tục ban hành Nghị định ngày 9/3/1957 về việc trả về các huyện cũ
(Trà Xuyên và Khúc Toại thuộc xã Phong Khê, thôn Thụ Triền thuộc xã Vạn An) những
thôn sáp nhập vào thị xã Bắc Ninh trong thời kỳ kháng chiến trả về huyện Yên Phong.
Ngày 27/10/1962, Quốc hội khoá II ra Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc với 2 thị xã và 14 huyện. Ngày 1/4/1963, đơn vị hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chính mới chính thức làm việc.
Năm 1963, 2 xã của huyện Yên Phong là xã Phú Lâm và xã Tương Giang được
chuyển về huyện Tiên Sơn. Lúc này, cũng đồng thời cắt 2 xã Văn Môn và Đông Thọ
của huyện Từ Sơn về huyện Yên Phong.
Năm 1969, diễn ra việc hợp nhất huyện Tiên Sơn và huyện Yên Phong thành một
huyện lấy tên là huyện Tiên Phong. Nhưng đến 1974, dưới đề nghị của UBND tỉnh Hà
Bắc thôi không hợp nhất huyện Tiên Sơn với huyện Yên Phong được phê chuẩn.
Tại kì họp thứ 10 ngày 6/11/1996, Quốc hội khoá IX đã quyết định phê chuẩn
việc tái lập 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức đi
vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới với 1 thị xã và 5 huyện, chia thành 123 xã,
phường, thị trấn.
Thực hiện Nghị định số 60/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về việc
điều chỉnh địa giới hành chính huyện Yên Phong, huyện Quế Võ, huyện Tiên Du để
mở rộng thành phố Bắc Ninh. Theo đó, các xã Hòa Long, Vạn An, Khúc Xuyên, Phong
Khê toàn bộ diện tích đất tự nhiên và nhân khẩu của chuyển về thành phố Bắc Ninh.
Từ đây huyện Yên Phong có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 13 xã và 1
thị trấn.
1.3. Quá trình đô thị hóa của huyện Yên Phong trước năm 1986
Quá trình ĐTH của Yên Phong đã diễn ra từ rất sớm cùng với quá trình hình thành,
phát triển và ĐTH của tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, thời gian trước năm 1986 tốc độ ĐTH
ở nơi đây còn rất chậm chạp, chưa có đủ khả năng vươn lên thành đô thị lớn.
Từ thời các Vua Hùng, huyện Yên Phong nằm trong bộ Vũ Ninh đã là một bộ
phận dân cư quan trọng của quốc gia Văn Lang. Với những phát hiện khảo cổ từ thời
đồng thau, sắt ở Phong Khê, Dũng Liệt, Hoà Phong… đã cho thấy sự hội cư lớn ở nơi
đây. Dưới thời Âu Lạc thế kỷ thứ III TCN, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở
nước ta mà Yên Phong (cụ thể là vùng đất Thất Diệu) đã có đóng góp to lớn cho quá
trình xây dựng này và được coi là vùng trọng địa trong phát kinh tế và bảo vệ tổ quốc.
Tiếp sau đó là hơn 1000 năm Bắc thuộc, dưới sự cai trị áp bức, bóc lột của các triều đại
phong kiến phương Bắc, hình thành các khu vực hành chính mới nhưng chưa có điều
kiện phát triển kinh tế xã hội để hình thành các đô thị tại Yên Phong. Đồng thời cũng
do sự hạn chế của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nên Yên Phong lúc bấy giờ và
cả sau đó đều không có hiện tượng di cư hay nhập cư ồ ạt, nếu có thì chỉ diễn ra đơn lẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nên khó hình thành các đô thị lớn.
Thời phong kiến
Từ thế kỷ X, bước vào kỉ nguyên độc lập, tự chủ dân tộc theo sự thay đổi các
triều đại, Yên Phong nhiều ít có thay đổi địa giới và địa danh của mình. Tuy nhiên, với
việc nằm ở vị trí đắc địa Yên Phong luôn gần các đô thị lớn. Đặc biệt là vào thời nhà
Trần đến vương triều Tây Sơn (1225 - 1802), huyện lỵ Yên Phong của huyện, được đặt
ở xã Hương La, tổng Hương La đã hình thành “con đường thiên lý về kinh thành Thăng
Long: Hương La - Yên Vĩ - Yên Phụ - Thuỵ Lôi - Vân Điềm - Thiết Úng - Dục Tú -
Thăng Long” [17, tr. 55]. Huyện lỵ lúc này cũng gần các đô thị gần cảng sông “thuyền
buôn từ Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương ngược bè lên chở lâm sản từ Thái Nguyên
xuôi về…” [17, tr. 55]. Từ năm 1802, dưới thời Gia Long, lỵ sở chuyển về xã Đông An
thuộc tổng Mẫn Xá (nay là thôn Đông Yên, xã Đông Phong). Lỵ sở Yên Phong dời đi
lại trở thành điểm phát triển mới của huyện và cũng gần các thị thành như: “có cầu
Đông Yên bắc qua sông Ngũ Huyện Khê, qua tổng Ân Phú về Phủ Từ Sơn” và “có
đường tỉnh lộ chạy theo hướng Đông Tây nối thị xã Bắc Ninh với tỉnh Phúc Yên ở Phù
Lỗ” [17, tr.55].
Nhờ những điều kiện địa lý thuận lợi, điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong
phú nên Yên Phong có đầy đủ điều kiện để phát triển nền nông nghiệp chủ yếu trồng
lúa nước. Bên cạnh đó, huyện cũng hình thành nghềTTCN như làm cày bừa, rổ giá,
nong, nia... chủ yếu để phục vụ cho cho sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra việc trồng dâu
nuôi tằm, dệt lụa, làm gạch, nghề rèn, nghề mộc… cũng rất phát triển.
Yên Phong có thế mạnh về giao thông vận tải chủ yếu là giao thông thủy lợi gắn
với ba con sông sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Ngũ Huyện Khê nên việc giao thương
buôn bán hàng hóa rất hết sức thuận lợi. Các mặt hàng buôn bán chủ yếu là: hàng nông
sản, các công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng thông qua các thương lái tại các chợ, như
chợ Chờ, chợ Núi, chợ Trai, chợ Chóa...
Bên cạnh đó, do hạn chế giao thông lúc này, chủ yếu là đường bộ nên dân cư
Yên Phong chưa thực sự có điều kiện thuận lợi trong việc giao thương buôn bán và đời
sống của họ chưa tách khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mặc dù Yên Phong
gần với các đô thị lớn hoàn toàn có đủ khả năng để phát triển đô thị nhưng do mục đích
ban đầu của các nhà nước phong kiến, xây dựng các thành lũy chủ yếu mang ý nghĩa
về mặt hành chính và quân sự cùng chính sách bế quan tỏa cảng hay trọng nông mức
thương nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế dân cư nơi đây. Vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vậy, có thể khẳng định quá trình ĐTH ở giai đoạn còn khá chậm chạp.
Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, chúng lần lượt thôn
tính các tỉnh ở cả 3 kỳ, đặt ách cai trị và thi hành chính sách khai thác thuộc địa trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Năm 1895, thực dân Pháp lấy Sông Cầu làm địa giới chia
tỉnh Bắc Ninh thành thành hai tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Yên Phong thuộc phủ
Từ Sơn nằm trong tỉnh Bắc Ninh. Quá trình này, tạo điều kiện cho huyện Yên Phong
mở rộng phạm vi và phát triển của mình,hình thành quy mô nhỏ mạng lưới đô thị kèm
theo đồn trú quân sự.
Trước hết, để phục vụ mục đích cai trị chính quyền thực dân tận dụng các con
đường cũ ở Yên Phong xưa, sửa chữa lại những trục đường chính: “Đường đến Như
Nguyệt qua Yên Phụ đi Đông Anh con đường này được hình thành từ đầu thế kỷ XI
(thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Tống). Đường thị xã Bắc Ninh qua Yên Phong đi
sóc Sơn (Hà Nội) là đường 16 cũ nay được gọi là đường 286. Đường từ Đông xuyên đi
Từ Sơn theo quốc lộ 1A về Hà Nội là đường 179 cũ nay gọi là đường 295”[17, tr.162].
Về giao thông đường thủy, Pháp tận dụng điều kiện thuận lợi của ba con sông tổ chức
hoạt động giao thương buôn bán ở Yên Phong.
Trong nông nghiệp, ruộng đất của Yên Phong do địa chủ phong kiến tay sai nắm
giữ, làng Kiểm Xuyên, xã Thụy Hòa có 60 hộ với 260 ha đất canh tác thì: “Đất của địa
chủ là 144 ha (của 10 địa chủ trong đó 5 địa chủ trong thôn chiếm 55 ha còn lại bài 5
địa chủ ngoại lai). Ruộng đất công 20 ha. Ruộng đất các cán hộ nông dân 96 ha” [17,
tr. 112]. Người nông dân buộc phải bán ruộng đất cho địa chủ để lập thành đồn điền
như đồn điền ở các xã Yên Trung, Dũng Liệt, Thụy Hòa... Các chủ đồn điền này đã
dần chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa, sử dụng máy móc máy, chăn nuôi trâu, bò
để cày và vắt sữa... Như vậy, thời thuộc Pháp, huyện Yên Phong dần hình thành nên
vùng dân cư theo phát triển theo hướng công nghiệp.
Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau cách mạng tháng Tám, Đảng và Chính phủ ta đã tích cực khắc phục hậu quả
của chiến tranh và hậu quả chính sách cai trị củaPháp đối với Việt Nam. Ở Yên Phong,
đến đầu năm 1946, các hoạt động sản xuất nông nghiệp được phục hồi đời sống nhân
dân được cải thiện, nạn đói được đẩy lùi.
Tuy nhiên, sau năm 1945 nước ta một lần nữa thực hiện trường kỳ kháng chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chống thực dân Pháp. Yên Phong không phải vùng chiếm đóng của thực dân Pháp
nhưng lại là nơi luôn bị dịch uy hiếp do có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về mặt quân
sự. Trong quá trình kháng chiến, ngoài việc di cư và nhập cư vào Yên Phong do hôn
nhân thì hoạt động di cư diễn ra do nhu cầu kháng chiến từ vùng chiếm đóng sang vùng
tự do hoặc do nhu cầu điều động của Chính phủ, Nhà nước trong quá trình quản lý.
Cũng từ cuối năm 1949 đến tháng 7/1954 chiến sự diễn ra ác liệt ở hầu hết các
xã thuộc huyện Yên Phong. Trước sự đánh phá của thực dân Pháp, nhân dân Yên Phong
dù di chuyển sang các vùng tự do nhưng vẫn cử người về chăm nom đồng ruộng: “Năm
1951, nhân dân các xã Yên Trung, Dũng Liệt, Đông Tiến, Tam Giang đấu tranh, trong
khi giặc càn quét dồn dân lập vành đai trắng ảnh để làm ruộng ở ven sông Yên Trung
vẫn cấy được 1.762 mẫu” [17, tr. 115].
Từ năm 1961 - 1965, Yên Phong thực hiện kế hoạch 5 năm với nhiều thăng trầm
do sự quản lý còn yếu kém từ giữa năm 1961. Chỉ đến năm 1965, mới ổn định lại và
đạt được những thành tựu đáng kể: “năm 1965, diện tích gieo trồng toàn huyện 13.736
ha hệ số sử dụng ruộng dất 1,54 lần. Năm 1964, sản xuất lương thực là 23.877 tấn
(năng suất lúa bình quân 3 vụ đạt 18,8 ta/ha) bình quân đầu người 384 kg/ năm là năm
có năng suất lúa cao nhất trong thời kì 1961 - 1965” [17, tr. 117]. Cũng từ 1965 -
1975, với tiêu chí “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” huyện đã
huy động hàng nghìn tấn thóc, thịt lợn, lạc, đỗ giao cho Nhà nước.
Về sản xuất TTCN trong thời kì này, Yên Phong vẫn duy trì và phát triển một
số ngành thủ công truyền thống. Năm 1949,“có 95 lò sưởi làm cày bừa, với 284 công
nhân, đã sản xuất được 1.500 chiếc cày và 1.000 chiếc bừa... các xưởng làm giấy ở
dương ổ có 160 tàu seo, Đào Xá có 80 tàu seo. Hạ Giang có 16 tàu seo, thu hút hàng
trăm công nhân sản xuất các loại giấy đánh máy thay cho giấy nhập ngoại và giấy in
báo, truyền đơn phục vụ công tác tuyên truyền kháng chiến” [2, tr. 83].
Sau cách mạng tháng Tám, chính quyền cách mạng của ta cũng chưa có điều
kiện chú ý đến việc tu sửa đường xá, phát triển mạng lưới giao thông, chỉ dựa vào các
phương tiện chở thô sơ như: xe đạp thồ, xe cút kít, xe cải tiến... Đến những năm 60 của
thế kỉ XX, trong quá trình kháng chiến chống Mĩ ủng hộ miền Nam, các con đường ở
Yên Phong dần được sửa chữa nâng cấp:“Đường tỉnh lộ 16 (đường 295) và 286 thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuyên được tu sửa, bảo dưỡng đảm bảo giao thông thuận lợi giữa Yên Phong và các
vùng lân cận” [17, tr. 163]. Đến những năm 1965 - 1969, tiến hành rải nhựa đường và
làm đường mới ở nhiều nơi.
Về cơ sở vật chất của y tế, giáo dục cũng có điều kiện xây dựng và phát triển.
Trong những năm chiến tranh thì các bệnh xá đã được tăng cường đầu tư như củng cố
về mọi mặt. “Đến năm 1970, toàn huyện có 3.469 giếng nước, 980 nhà tắm và 6.827
hố xí 2 ngăn; bệnh viện huyện Yên Phong từ một đơn vị yếu kém đã vươn lên được y tế
nay là Sở y tế Hà Bắc cũ xếp loại khá trong năm 1970...” [2, tr. 187].
Phong trào bình dân học vụ được đẩy mạnh thực hiện đối với nhân dân trong
huyện Yên Phong: “Năm 1948, toàn huyện có 19 trường học cơ bản (trường công).
Trường tiểu học Quan Đình có quy mô lớn nhất, có 7 lớp, 7 giáo viên” [2, tr. 84].
Các ngành học phổ được phát triển mạnh về quy mô và chất lượng:“Năm 1962 -1963,
có 10 trường cấp II (gấp 5 lần đầu năm học 1960 - 1961). Năm 1963 trường phổ
thông cấp III Yên Phong được thành lập và đi vào hoạt động… Đến cuối năm 1965
(giữa năm học 1965 - 1966), toàn huyện: “cấp I có 6766 học sinh, cấp II có 1724 học
sinh, cấp III có 205 học sinh” [2, tr.145]. Đến năm 1970 năm 1973, giáo dục vẫn tiếp
tục phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng “năm 1973, đạt tỷ lệ 32 học sinh
trên 100 dân, huyện được công nhận là lá cờ đầu về phong trào giáo dục tỉnh Hà Bắc
(cũ)” [2, tr.158].
Như vậy, Yên Phong ngoài nhiệm vụ kháng chiến, cũng đã khôi phục và phát
triển kinh tế, văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội để trở thành hậu phương vững chắc
tiến tới thống nhất đất nước. Đây là tiền đề vững chắc xây dựng cơ sở kinh tếhạ tầng
và phát triển đô thị ở Yên Phong sau này.
Sau thống nhất đất nước năm 1975,mặc dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhưng
dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy, UBND huyện Yên Phong đến các hợp tác xã
đã đạt được nhiều thành quả trong kinh tế. Đặc biệt là khi thi hành chính sách “khoán
100%” các ngành nghề này phát triển mạnh mẽ hơn, tăng thu nhập đáng kể cho nhân
dân ở địa phương. Các hoạt động thương mại, mua bán được thực hiện trên quy mô
hợp tác xã toàn xã. Ban đầu chỉ tập trung nguồn hàng vào các thương nghiệp quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
doanh và hợp tác xã mua bán thì sau đó được tự do kinh doanh ra bên ngoài.
Trong thời gian này, huyện Yên Phong cũng rất quan tâm đầu tư cho các công
trình cơ sở vật chất và hệ thống giao thông. Ủy ban huyện cùng với sự giúp đỡ của Bộ
Thủy lợi đã xây dựng được các trạm bơm ở thôn Vọng Nguyệt, Cầu Găng... góp phần
nâng cao năng lực sản xuất ở các xã. Các con đường liên xã được giải nhựa và tu bổ:
“Năm 1981: rải đường huyện, tỉnh 13 km, đường thôn, xã 42 km ở 13 xã. Năm 1985
trùng tu 7000 m² mặt đường, đạt 100% kế hoạch, duy tu 23km, rải cấp phối 3000m”
[17, tr. 164].
Giáo dục, y tế huyện gần như dậm chân tại chỗ. Các cơ sở trường lớp ít được tu
sửa, tình trạng nợ lương giáo viên diễn ra phổ biến, cuộc sống khó khăn nhiều giáo
viên phải kiếm thêm việc làm khác. Quy mô của bệnh viện, trạm xá ở Yên Phong hầu
như không đổi nhưng cũng có sự tăng lên về chất lượng khám chữa bệnh, công tác y tế
dự phòng cũng được chú trọng.
Những năm đầu sau thống nhất đất nước, đây là thời điểm thách thức đối với
nhân dân cả nước nói chung và huyện Yên Phong nói riêng. Song nhờ sự cố gắng
trong công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp, cũng như
nhiều nơi khác huyện Yên Phong đã nỗ lực ổn định kinh tế - xã hội đem lại nhiều
chuyển biến tích cực. Thời gian này cũng được xem như là khoảng thử nghiệm để
huyện Yên Phong tiến tới thực hiện đổi mới đất nước theo chỉ thị của Đảng. Quá
trình này cũng đã thúc đẩy sự hình thành các đô thị mới và gia tăng tỉ lệ dân số tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các đô thị vốn có.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Vùng đất Yên Phong có điều kiện tự nhiên thuận lợi là yếu tố giúp huyện Yên
Phong phát triển mạnh trong khu vực tỉnh Bắc Ninh. Huyện có địa hình tương đối bằng
phẳng với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp,
đặc biệt là trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày,…cũng là nền đất tốt cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh những nông sản, huyện cũng hình thành nghề TTCN
như làm cày, bừa, rổ, giá,... chủ yếu để phục vụ cho cho sản xuất nông nghiệp. Hơn
nữa huyện có mạng lưới giao thông phát triển, đặc biệt là được bao bọc bởi 3 con sông
lớn với nguồn nước dồi dào tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp và thương nghiệp. Đây là những cơ sở quan trọng để huyện có tiến hành quá trình ĐTH nhưng để huyện
có thể phát triển ổn định cần phải có quy hoạch và kế hoạch đầu tư phù hợp để khai
thác tiềm năng nhằm đạt hiệu quả cao.
Từ 1986 trở về trước, có thể khẳng định quá trình ĐTH còn chậm chạp.Dưới
thời phong kiến, huyện có điều kiện tài nguyên thiên thuận lợi trong hoạt động phát
triển kinh tế nông nghiệp, TTCN nhưng hoạt động giao thương vẫn còn hạn chế cùng với đó do chính sách của giai cấp thống trị đã không tạo điều kiện thuận lợi cho huyện
thành lập đô thị lớn. Nhưng đây cũng là nền tảng sơ khai đầu tiên cho quá trình ĐTH
diễn ra tại Yên Phong.
Quá trình ĐTH này nhanh hơn dưới sự tác động của cuộc khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp với nhiều cơ sở công nghiệp, TTCN như: xưởng dệt, nhà máy xay
xát,... được hình thành cùng các công trình hạ tầng đường xá, hệ thống điện, nước....
được xây dựng đã làm thay đổi tình hình chung của huyện theo cả 2 hướng tích cực và
tiêu cực. Xu hướng này đã giúp huyện Yên Phong bước vào thời kì phát triển theo
hướng công nghiệp tiến tới là nền tảng tiếp theo cho quá trình ĐTH phát triển theo
hướng hiện đại.
Từ sau năm 1945, huyện bước vào thời kỳ tiền ĐTH nhanh nhưng đứng trước
nhiều khó khăn và thử thách to lớn. Tuy vậy, trong thời gian này với những cố gắng của các cấp chính quyền huyện đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực, góp phần hàn gắn thương tích của chiến tranh cũng như thay đổi vùng nông thôn lạc hậu trở thành một vùng đất phát triển mới, một xã hội mới đã và đang trong
quá trình ĐTH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Những yếu tố thay đổi trong các thời kỳ này sẽ được kích thích mạnh bởi đường lối đổi mới đất nước do Đại hội Đảng lần VI để ra là động lực huyện Yên Phong thay tiến hành ĐTH nhanh.
Chương2
HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2007
2.1. Bối cảnh lịch sử
Sau khi thống nhất,cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoà
chung trong không khí đó, huyện Yên Phong đã cùng nhau thi đua, lao động sản xuất và
bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện.
Thời gian đầu, huyện Yên Phong gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và phát
triển kinh tế nguyên nhân do thời tiết thay đổi dẫn đến hạn hán kéo dài, rét đậm trong
nhiều năm và do tác động bởi cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979, cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội, văn hoá diễn ra ngày càng trầm trọng, phức tạp. Những chính sách khi
thực hiện Khoán 100 (ngày 13/1/1981) của Trung ương Đảng ban hành về “cải tiến
công tác khoán”, “ mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp” hay chính sách năm 1985 về giá - lương - tiền đã đưa
đến giá cả tăng vọt, hàng hoá khan hiếm, lạm phát ngày càng gia tăng.
Trước thực trạng trên, từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong Đại hội, với tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật”, các đại biểu đã đánh giá, phân tích sâu sắc tình hình trong đổi mới.
Đại hội đã đề ra “đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặt ra chương trình, mục tiêu,
nhằm từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và tiếp tục đi lên theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ thể, đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi
mới về tư duy lý luận mà trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ
để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Về kinh tế, Đại hội đã đề ra 3 chương trình lớn là sản xuất lương thực, thực
phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Chương trình trên ngoài
việc từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, ổn định tình hình chính trị, xã hội
còn góp phần đặc biệt quan trọng đối với tích luỹ từ nội bộ để tiến hành CNH - HĐH
đất nước.
Về cơ chế quản lý, quyết định chuyển toàn bộ nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung quan liêu, bao cấp sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy kết quả kinh
tế làm thước đo cơ bản, từ đó mở rộng tự do lưu thông hàng hoá, tiến tới xây dựng nền
kinh tế mở, đa dạng, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế quản lý của nhà nước theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau Nghị quyết của Đại hội VI, tình hình nước ta nói chung và huyệnYên Phong
nói riêng đã có những bước đột phá quan trọng, toàn dân đẩy mạnh sản xuất, nền kinh
tế chuyển hướng theo cơ chế thị trường. Sự thay đổi trên đã đem lại nhiều thuận lợi cho
sự phát triển của các tỉnh, thành phố.Từ đây, những thay đổi trong đô thị đã diễn ra một
cách rõ rệt hơn.Quá trình ĐTH trở thành một trong những nguồn lực chính thúc đẩy sự
phát triển của quốc gia.
Năm 1987, để cụ thể hoá đường lối Đại hội VI của Đảng, huyện Yên Phong
đề ra 3 chương trình phát triển kinh tế của huyện với mục tiêu lớn nhất là giải quyết
vấn đề lương thực, thực phẩm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Những chủ
trương về quá trình ĐTH được tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện hơn trong các
kỳ Đại hội VII (6/1991), VIII (6/1996), IX (3/2000), X (2006),…Các văn bản trên,
đã tạo điều kiện đầy đủ, hình thành chiến lược quan trọng trong xây dựng phát triển
đô thị ở Việt Nam.
Để thích nghi với thời kỳ phát triển mới, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực
và thế giới, Đại hội Đảng bộ huyện Yên Phong đã Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội huyện Yên Phong nhằm cụ thể quá trình thực hiện quy hoạch đô thị, để đô thị Yên
Phong đáp ứng các tiêu chí của đô thị loại IV vào năm 2019, thành thị xã vào năm 2020
và thành quận vào năm 2022. Thông qua quy hoạch điều chỉnh phát triển, huyện sẽ phát
triển theo hướng mở, phi tập trung, đa trung tâm, kết hợp giữa lan tỏa và phát triển theo
tất cả các nhánh dọc các trục giao thông lớn, có hệ thống đô thị vệ tinh làm đối trọng.
2.2. Những biến đổi về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng
2.2.1. Biến đổi về kinh tế
Yên Phong là một trong những huyện của tỉnh Bắc Ninh sau khi thực hiện chính
sách đổi mới của Đảng năm 1986, đã nhanh chóng vượt qua các khó khăn và cónhững
bước đi ổn định, điều chỉnh phù hợp với tình hình chung của toàn tỉnh Bắc Ninh.
Trong giai đoạn 1986 - 2007, các ngành kinh tế huyện Yên Phong có những
bước đi mạnh mẽ. Năm 2006, giá trị sản xuất của huyện đạt 3.072,7 tỷ đồng, chiếm
7,8% so với kinh tế toàn tỉnh. Từ thực tế phát triển kinh tế của huyện những năm 1986
- 2000 ta thấy tốc độ tăng trưởng sản xuất khoảng 6,5%; bước sang giai đoạn 2001 -
2006 tăng trung bình 15,5%. Điều này thể hiện giá trị sản xuất của huyện đang dần phù
hợp với nhịp điệu tăng trưởng chung của tỉnh Bắc Ninh trong tình hình mới. Tuy
nhiên,để phát triển ổn định, vững mạnh là bài toán cần cân nhắc kĩ trong chiến lược
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phát triển kinh tế - xã hội của lãnh đạo huyện Yên Phong.
Trong những năm vừa qua, quá trình ĐTH ở huyện diễn ra với tốc độ nhanh và
mạnh mẽ đã tác động và làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng
tăng dần tỷ trọng các ngành kinh tế công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, đồng
thời giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Đây được xem là một trong những tiêu trí
cơ bản và quan trọng để đánh giá mức độ ĐTH nói chung của quốc gia cũng như tại
huyện Yên Phong nói riêng. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại thể
hiện qua biểu đồ dưới đây:
Cơ cấu kinh tế
20,6%
Nông nghiệp
48,1%
Công nghiệp - xây dựng
Dịch vụ
31,3%
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Phong năm 2006 (đơn vị:%)
Nguồn: [9, tr. 41]
Theo biểu đồ trên, có thể thấy cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực. Thời gian đầu đổi mới đến năm 2000, nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng
đầu của là ngành chiếm hơn 60% trong cơ cấu kinh tế của huyện thì đến năm 2006, nông
nghiệp vẫn có xu hướng giảm xuống chiếm gần 50%. Nguyên nhân do nhu cầu đảm bảo
về lương thực, thực phẩm không chỉ cho dân cư, sản xuất trong huyện Yên Phong mà cho
các huyện khác của tỉnh hay thành phố lân cận nên nông nghiệp vẫn giữ được ưu thế của
mình. Đây là quá trình phát triển để thích ứng được với cơ chế thị trường, nên trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng lên trong công nghiệp - xây dựng chiếm 31,3%
và dịch vụ chiếm 20,6%. Quá trình chuyển dịch kinh tế thể hiện cụ thể theo hướng sau:
Về nông nghiệp
Nông nghiệp là nhân tố luôn được quan tâm trong khi thực hiện ĐTH, đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là ở vùng nông thôn. Trong đó, tổng giá trị sản xuất, diện tích sản xuất, số lao động
tham gia sản xuất nông nghiệp là các yếu tố quan trọng để đánh giá được mức độ ĐTH.
Từ sau năm 1986, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng chất lượng đạt
hiệu quả kinh tế cao, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ về cơ giới hóa trong
sản xuất, về cây giống, con giống, tách chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, bảo đảm an toàn
dịch bệnh… Quá trình đổi mới này, không những đem lại sự thay đổi cho ngành nông
nghiệp mà còn thúc đẩy ngành kinh tế CN - TTCN và thương mại - dịch vụ.
Cơ cấu về đất đai ở huyện Yên Phong có sự thay đổi, diện tích đất nông nghiệp
và đất canh tác dần thu hẹp, năm 2000 là 7.821,26 ha chiếm 69,88% tổng diện tích đất
tự nhiên. Tuy vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nhưng nông nghiệp huyện
vẫn vấp phải những khó khăn về thời tiết, giá nông sản đầu ra bấp bênh, giá phân bón
và thức ăn chăn nuôi lại qua các năm có xu hướng liên tục tăng và giữ ở mức cao; nguy
cơ tái phát dịch bệnh luôn dình dập; diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần
do chuyển đổi mục đích sử dụng đất;…
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện lâu dài, Đảng bộ tỉnh, huyện
đã đưa ra nhiều chính sách, nghị quyết cụ thể: Nghị quyết số 06/NQ-TU về “định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-2005”. Từ đây, trước sức ép
thúc đẩy của quá trình đổi mới, cơ cấu cây trồng từng bước chuyển dịch theo hướng
cây trồng hiệu quả kinh tế thấp, có quy mô, diện tích gieo trồng và tỷ trọng giá trị sản
xuất ngày càng giảm và từng bước đề cao các cây trồng có giá trị kinh tế cao, chiếm
quy mô, diện tích gieo trồng và tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh tế. Năm 1997, diện
tích cây lương thực có hạt là 14.124 hacó sản lượng là 54.664 tấn, năm 2006 giảm
xuống còn 13.180 ha có sản lượng là 70.144 tấn. Năm 2006, sản xuất nông nghiệp có
thu được giá trị trên 1 ha đạt 44,8 triệu đồng. Trong đó, sản xuất lúa chiếm tỷ trọng cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhất, biểu hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1. Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lúa cả năm của huyện Yên Phong
từ năm 1997 - 2006
Diện tích (ha) Năng xuất (tạ/ ha) Sản lượng (tấn) Năm
1997 12.956 39,0 50.566
1998 13.415 42,6 57.146
1999 13.669 47,3 64.599
2000 13.730 51,9 71.208
2001 13.536 52,2 70.606
2002 13.438 52,7 70.832
2003 13.397 53,7 71.994
2004 13.319 56,1 74.667
2005 13.193 53,6 70.748
2006 13.019 53,5 69.613
Nguồn: [9, tr.192-194]
Như vậy, có thể thấy diện tích gieo trồng giai đoạn này có xu hướng giảm nhưng
chênh lệch còn không đáng kể, với sản lượng lúa bình quân tăng. Cây lúa vẫn được gieo
cấy chủ đạo và dần gieo trồng các giống lúa lai có chất lượng cao như Q.Ưu1, cho giá trị
kinh tế lớn. Hạn chế trồng lúa chiêm cấy bằng các giống lúa cũ, dài ngày, năng suất thấp.
Cơ cấu mùa vụ cũng đã chuyển đổi rõ nét từ 2 vụ chính là vụ đông - xuân và vụ mùa
trong đó vụ mùa có thể trồng 2 vụ là trà mùa trung và trà mùa muộn xen canh. Diện tích
trồng hai vụ trồng lúa chính này đều không chênh lệch nhau là bao nhưng sản lượng lúa
đông - xuân thường cao gấp 1,2 lần so với lúa vụ mùa.
Ngoài trồng cây lương thực chủ yếu là lúa, trên địa bàn huyện trồng các cây
lương thực khác như ngô, khoai lang, sắn…; cây công nghiệp như đỗ, lạc, vừng, mía;
cây thực phẩm như đậu, khoai tây, cà chua… Nhìn chung các loại cây trồng từ năm
2000 đến 2006 đều có năng suất cao. Bên cạnh cây lương thực chính là lúa, năm 2006
huyện có diện tích cây ngô là 137 ha với sản lượng đạt 424 tấn; khoai lang có diện tích
là 543 ha sản lượng đạt 8.670 tấn. Theo đó, sản lượng khoai lang cao hơn ngô vì nó là
cây trồng ngắn ngày, khá dễ tính còn cây ngô chỉ trồng ở các bãi bồi ven sông Cầu và
dần bị thu hẹp do nhu cầu rau xanh của huyện ngày càng cao. Về các loại cây thực
phẩm, do khí hậu đặc trưng miền Bắc có mùa đông lạnh, kéo dài nên của huyện đã có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
điều kiện trồng rau cải, cà chua, khoai tây… Nhưng gieo trồng với diện tích nhỏ hơn
223 ha, chỉ đáp ứng nhu cá nhân hộ gia đình, sản phẩm mang đi bán đáp ứng thị trường
còn hạn chế. Huyện bắt đầu trồng một số loại cây công nghiệp như đỗ tương, lạc…
nhưng do địa hình bằng phẳng và đất phù sa không là thế mạnh nên diện tích gieo trồng
khá ít. Các xã trồng nhiều nhất là Tam Giang, Hoà Tiến, Dũng Liệt. Một trong số loại
cây trồng không chiếm diện tích lớn đó là công nghiệp lâu năm, ở huyện vẫn trồng cây
dâu ở ven sông Cầu để phục vụ cho việc nuôi tằm với diện tích năm 2006 là 26 ha, tập
trung chủ yếu ở xã Tam Giang.
Nhìn chung, để đạt hiệu quả cao trong trồng trọt huyện cũng ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất như sử dụng giống lai, máy cày bừa, bắt đầu
xây dựng nhiều nhà lưới, nhà kính,... Huyện cũng thay đổi cơ cấu mùa vụ để đạt hiệu
quả cao về năng suất, sản lượng cây trồng. Kết quả của thực hiện chính sách đổi mới
trong giai đoạn này là diện tích gieo trồng tuy giảm dần nhưng với cơ chế chuyển dịch,
áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại đã đem hiệu quả kinh tế nâng lên rõ rệt. Vấn đề an
ninh lương thực của huyện Yên Phong được đảm bảo hơn nữa bắt đầu đóng góp cho
các ngành sản xuất chế biến thực phẩm, xuất khẩu gạo, dự trữ quốc gia,...
Trong chăn nuôi, đã có sự chuyển đổi rõ nét từ phương thức chăn nuôi hợp tác
xã sang nông hộ rồi dần hình thành các gia trại, trang trại. Huyện Yên Phong cũng như
nhiều nơi khác luôn chú trọng đến chăn nuôi bởi đây là một trong những nguồn thu
nhập quan trọng cho người dân. Trong đó, những năm đầu sau đổi mới con trâu vẫn là
nguồn sức kéo, dùng để cày bừa phục vụ cho nông nghiệp luôn được coi là tài sản quan
trọng của nhà nông. Những năm 2000, tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã góp phần cơ
giới hóa máy cày, bừa nên nhìn chung cũng có sự thay đổi đáng kể về mục đích nuôi
trâu. Những năm đầu đổi mới với định hướng phát triển kinh tế nên đàn bò, lợn, gia
cầm cũng có xu hướng tăng nhanh đem lại nguồn lợi cho người chăn nuôi, tiến tới phát
triển chăn ở quy mô lớn. Năm 2006, chăn nuôi chiếm 39,1% cơ cấu giá trị sản xuất
nông nghiệp huyện, cụ thể có thể thấy qua bảng dưới đây:
Bảng 2.2. Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm từ năm 1997 - 2006
(đơn vị: con)
Năm 1997 2000 2003 2006
Trâu Bò Lợn Gia cầm 5.145 5.426 54.495 470.000 4.848 7.889 60.800 453.000 3.372 8.149 86.212 404.000 1.669 9.735 71.499 653.000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: [9, tr. 218-221]
Mặc dù, đàn trâu có xu hướng giảm mạnh, nhưng do được nuôi theo kĩ thuật,
phương pháp mới nên sản lượng thịt hơi bò, lợn, gia cầm tăng nhanh. Sản lượng thịt
bò hơi xuất chuồng năm 1997 là 57 tấn đến năm 2006 là429 tấn gấp 7,5 lần; thịt lợn
hơi năm 1997 là4.109 tấnđến năm 2006 là 11.304 tấn gấp 2,7 lần; gia cầm giết bán
năm 1997 là 1.357 tấn đến năm 2006 là1.754 tấn. Như vậy, hoạt động chăn nuôi không
chỉ là mục đích lấy sức kéo, sản lượng thịt cho thấy nhu cầu thực phẩm trong dân cư
huyện đã tăng cao và dần đáp ứng được cả thị trường bên ngoài.
Trong chăn nuôi, đặc biệt là sau đổi mới sản xuất thủy sản dần được quan tâm
chú ý, được đầu tư mở rộng chăm sóc về quy mô diện tích, cũng dần áp dụng các kĩ
thuật khoa học tiến bộ vào quá trình này. Năm 2002, huyện chú trọng nghiên cứu các
dự án “Đầu tư khai thác vùng trũng để phát triển thuỷ sản” nhằm phát huy thế mạnh
cũng như sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. Từ năm 1997, có 424 ha diện
tích nuôi trồng thuỷ sản với sản lượng 771 tấn, đến năm 2006 diện tích nuôi trồng thuỷ
sản là 400 ha với sản lượng 1.942 tấn gấp 2,5 lần năm 1997. Trong giai đoạn này, sản
lượng thuỷ sản đạt cao nhất phải kể đến năm 2005 là 2.165 tấn. Đây là những nỗ lực
đầu tiên của sản xuất thuỷ sản cũng như ngành chăn nuôi đã đem lại kết quả tích cực,
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng tăng tỷ
trọng chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản hiệu quả kinh tế cao, tạo tiền đề quan trọng để
từng bước CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Về thủ công nghiệp
Huyện Yên Phong bên cạnh phát triển nghề trồng lúa nước, tại các xã, làng cũng
tạo thành những làng nghề với các sản phẩm tiểu thủ công mang đặc trưng riêng của
từng làng, từng xã. Việc tạo ra các sản phẩm TTCN đều gắn liền với ngành trồng lúa
như cày, bừa, thúng, mủng, nong…; hay gắn với đời sống sinh hoạt thường nhật như
dệt vải, dệt lụa, đóng gạch, nghề mộc… Từ đây,huyện Yên Phong dựa trên những lợi
thế về vị trí địa lí, tài nguyên cùng việc linh hoạt chính sách của Đảng và Nhà nước để
thu hút đầu tư phát triển CN - TTCN. Trong quá trình này, nhiều làng nghề truyền
thống đã mai một nhưng cũng xuất hiện thêm nhiều làng nghề mới, ngành công nghiệp
mới góp phần thay đổi diện mạo kinh tế huyện Yên Phong. Ngành công nghiệp chủ
yếu nhất của huyện ở giai đoạn này gồm công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến gỗ,
kim loại.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1996 - 2005 sản xuất CN - TTCN tăng trưởng bình
quân hàng năm từ 15 - 16%. Giá trị sản xuất CN - TTCN ước tính năm 2000 đạt 170 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỷ đồng đến năm 2006 ước đạt 734,9 tỷ đồng, vượt 3,6% kế hoạch. Điều này đang cho
thấy ngành công nghiệp huyện dần khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế
huyện, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế ở giai đoạn sau nhanh chóng hơn.
Trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh, năm 2003 huyện chiếm
9,6%, là năm chiếm tỷ trọng cao nhất trong giai đoạn này nhưng so với mặt bằng chung
của tỉnh thì vẫn tương đối thấp.
Trong giai đoạn này, huyện tiếp tục duy trì sản xuất một số nghề TTCN truyền
thống như nghề ươn tơ, dệt vải, dệt lụa nổi tiếng ở xã Tam Giang, Dũng Liệt, Hoà Long;
nghề làm cày bừa ở Đông Xuất; nghề ép dầu ở một số làng của xã Tam Giang; nghề làm
giấy xã Phong Khê… Nhưng bắt đầu từ những năm 1997 trở đi, những làng nghề cũ dần
bị mất đi và có tiếp tục phát triển thì cũng chuyển sang hình thức sản xuất tại các nhà máy,
xí nghiệp. Bên cạnh đó những ngành nghề mới cũng dần phát triển mạnh dựa trên nền tảng
các nghề cũ như cô đúc nhôm Mẫn Xá, Văn Môn; sản xuất chế biến gỗ ở thị trấn Chờ,
Đông Thọ, Trung Nghĩa; sản xuất vật liệu xây dựng ở Vạn An…
Đến nay, toàn huyện có 254 công ty, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã hoạt
động tích cực, góp phần tăng tổng giá trị sản xuất CN- TTCN. Nghề chế biến gỗ lúc
này mang tính chất hộ gia đình, tập trung chủ yếu ở các làng hình thành nghề chế biến
như làng Đông Xuất (Đông Thọ), làng Tiên Trà (Trung Nghĩa), làng Sắt Thượng (Yên
Trung) và nhiều hộ lẻ tẻ ở các xã khác. Các sản phẩm từ tủ, giường, bàn, ghế không
chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nước ngoài chủ yếu là Trung
Quốc. Năm 2006, huyện xẻ 14.724 m³ gỗ và 4.800 các sản phẩm đồ gỗ các loại. Hiện
nay, nghề sản xuất, chế biến gỗ chưa phát triển mạnh nhưng với quyết định dự án thành
lập cụm làng nghề công nghiệp Đông Thọ rộng 15 ha đã thay đổi tình hình, đưa ngành
chế biến gỗ sang giai đoạn phát triển mới.
Ngành sản xuất sản phẩm kim loại cũng là ngành công nghiệp truyền thống lâu
đời của huyện, tập trung ở xã Văn Môn. Đặc trưng với sản phẩm là cô đúc phôi nhôm
và sản phẩm xoong, nồi, mâm nhôm… Năm 2006 ngành sản xuất được 9.816 tấn nhôm
đúc và 1.872 tấn sản xuất sản phẩm từ nhôm. Tuy nhiên, hệ thống dây truyền sản xuất
nhôm lúc này dần lạc hậu, các lò cô đúc, sản xuất nhôm không đảm bảo chất lượng.
Hơn nữa do sản xuất ở hình thức cá thể, từng hộ gia đình nên thông thường đều sản
xuất trong khu vực dân cư dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, không khí trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
địa bàn. Cũng trong giai đoạn này, huyện có dự án quyết định xây dựng và đưa vào
hoạt động năm 2009 khu công nghiệp Văn Môn rộng 25,5ha với hệ thống máy móc
được đầu tư hiện đại, đưa sản xuất tách ra khỏi khu vực dân cư.
Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chủ yếu là gạch viên. Năm 2006, có
công suất 64.400 viên đáp ứng nhu cầu xây dựng những ngôi nhà kiểu hiện đại.
Chế biến lương thực, thực phẩm luôn là nhóm ngành công nghiệp truyền thống
của bất cứ nơi nào có vùng nguyên liệu nông nghiệp phong phú. Để nâng cao giá trị
sản xuất của các sản phẩm nông nghiệp huyện Yên Phong chủ yếu sản xuất sản phẩm
thực phẩm và đồ uống. Các sản phẩm thực phẩm chế biến đa số tại các hộ gia đình
theo hình thức xay xát với sản lượng năm 2006 là 69,8 nghìn tấn và sản xuất 2.560
lít rượu trắng. Huyện đã có những dự án thành lập nhà máy sản xuất thực phẩm trên
địa bàn nhằm phát triển theo hướng chuyên môn hoá về sản xuất. Các sản phẩm sẽ
dần đáp ứng yêu cầu của thị trường, góp phần tạo việc làm, thay đổi cơ cấu việc làm
của cư dân huyện.
Về thương mại - dịch vụ
Yên Phong là nơi giao lưu buôn bán thuận lợi, sau đổi mới các hoạt động thương
mại - dịch vụ ngày càng tăng góp phần đem lại nguồn lợi lớn cho ngành kinh tế, trong
tương lai sẽ chiếm một phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Huyện có đầy
đủ về cơ sở vật chất, mạng lưới giao thông thuỷ, bộ để tiến hành các hoạt động thương
mại - dịch vụ. Ngành dịch vụ năm 2006 chiếm 20,6% trong cơ cấu kinh tế.
Huyện Yên Phong là một vùng đông dân cư nên hoạt động thương mại của
huyện giai đoạn này vẫn hướng vào nội thương là chính. Ở giai đoạn này, mức độ ĐTH
chưa cao nên các mặt hàng tiêu thụ nội địa chủ yếu phục vụ gia đình như lương thực,
thực phẩm, đồ dùng sinh hoạt quần áo… Hiện nay, các dịch vụ nông nghiệp về đến
từng thôn như cung cấp cây, con giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi… cho từng hộ
dân cư đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển
bền vững.
Những năm đầu đổi mới, khi chế độ xoá bỏ tem phiếu nền kinh tế thị trường
được khuyến khích phát triển. Trước sự đổi mới, ngành thương mại - dịch vụ huyện đã
có những cố gắng cải tiến trong các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, tình trạng
của quyền người nắm giữ hàng hoá không còn nữa thay vào đó là người tiêu dùng được
tôn vinh. Các hình dịch vụ tài chính, ngân hàng tín dụng, bảo hiểm… ngày càng phong
phú, phù hợp với tình hình mới của huyện. Theo đó, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch
vụ năm 2006 của huyện là 286 tỷ đồng, chiếm 5,6% so với toàn tỉnh. Mặc dù còn nhiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hạn chế trong hoạt động song không thể phủ nhận những thành tựu của thương mại đã
bước đầu đáp ứng nhu cầu cao hơn cho đời sống và sản xuất.
Huyện Yên Phong dần hoàn thiện xây dựng mạng lưới kinh doanh với nhiều cơ
sở kinh doanh được thành lập và các sản phẩm mặt hàng đa dạng. Tuy nhiên, cũng như
nhiều huyện khác trong vùng giai đoạn này mạng lưới thương mại - dịch vụ còn mỏng,
với loại hình đơn giản.Huyện đã mở thêm các điểm dịch vụ cung ứng vật tư ở các chợ
như chợ Chờ, chợ Núi, Vạn An, Đông Xuyên, Đông Yên… Hệ thống các chợ này trên
địa bàn luôn được cải tạo và xây mới góp phần tăng nhanh các hoạt động dịch vụ thuận
lợi nhất, làm thay đổi diện mạo cũng như rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành
thị huyện trong đời sống. Tại các địa điểm ven đường 295, 286 các hộ kinh doanh mọc
lên như nấm. Năm 2006, có 3.781 hộ kinh doanh với 15 chợ loại 3 và nhiều chợ làng
nhỏ khác. Huyện chưa có cụm khu thương mại - dịch vụ nhưng cũng xuất hiện nhiều
doanh nghiệp, đại lý là cầu nối thu mua cung cấp bước đầu cho sản xuất và tiêu dùng
ở mức độ lớn ra bên ngoài huyện. Mặt khác, huyện cũng khai thác những ưu thế thuận
lợi của vị trí địa lý để khai thác cho hoạt động thương mại - dịch vụ. Các hoạt động
ngoại thương lúc này của huyện còn hạn chế. Nổi bật là buôn bán thóc, gạo xuất khẩu;
thu mua các sản phẩm máy móc xe máy, ô tô, máy bay… thanh lý về tái chế.
Những thay đổi trên cho thấy sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện
trong thời đại mới. Công tác quản lý thị trường chặt chẽ dần từng bước ổn định.Phát
triển này của thương mại - dịch vụ là cơ sở vững chắc cho kinh tế huyện giai đoạn sau
tăng nhanh hơn về tốc độ và chất lượng.
2.2.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện thu hút đầu tư bên ngoài vào huyện
Yên Phong. Nhận thức rõ điều đó trong những năm đổi mới, huyện đã tập trung, chú
trọng từng bước thực hiện các nội dung sau:
Về giao thông
Hạ tầng giao thông có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, xây dựng và cải tạo
tốt hệ thống giao thông sẽ là tiềm lực, cơ sở cho phát triển chung trên toàn huyện. Từ
năm 1986, UBND huyện Yên Phong đã phát động các chiến dịch tu sửa, bảo dưỡng
đường giao thông. Đến năm 1989, thực hiện phân cấp quản lý các tuyến đường xây
dựng, quy chế bảo vệ đường và phát động chiến dịch tu sửa giao thông liên xã.
Để đáp ứng nhu cầu đi lại thông suốt của nhân dân, huyện Yên Phong đã chú
trọng nâng cấp, duy tu các con đê và một số đường trục chính cũ. Nhiều tuyến tỉnh lộ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như mở rộng TL 295, TL 286 được bê tông hóa và rải nhựa, nhiều đường liên xã, liên
thôn khác được cứng hóa. Các con đường này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế và là mối liên kết văn hóa mật thiết, nó cho phép lưu thông thuận lợi người
và hàng hóa giữa địa phương trong tỉnh cũng như ra bên ngoài như thị xã Từ Sơn, thành
phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội, tỉnh Bắc Giang….
Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết 5 của BCH TW khoá VII về đổi mới nông nghiệp,
nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào làm đường giao thông nông thôn của huyện.
Với mục tiêu: bê tông hoá, gạch hoá đường làng ngõ xóm, cấp phối hoá đường huyện,
đường ra đồng ruộng. Tính đến năm 1996, huyện đạt khoảng 60% tỷ lệ cứng hoá đường
thôn, xóm. Nhưng do sự nhận thức, điều kiện kinh tế nên việc góp kinh phí xây dựng
giao thông chưa cao nhìn chung hệ thống giao thông vẫn đa phần là đường đất.
Năm 1997, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã ra nghị quyết số 01/NQ - TU về cải tạo, nâng
cấp đường giao thông trên địa bàn tỉnh và sau đó Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã
ra Nghị quyết 11/LQ - HĐND ban hành văn bản quy định về huy động và sử dụng vốn
xây dựng nâng cấp đường giao thông. Về phía Huyện uỷ và Hội đồng nhân dân huyện
Yên Phong đã ra Nghị quyết về phát động phong trào thi đua làm đường giao thông
nông thôn đến năm 2000 và 2010. Tính đến năm 2001, huyện đã nâng cấp, đào đắp
đường mới trong đó: “Đường nhựa: 32 km, trong đó 3/79,6 km đường tỉnh, 7/49 km
đường huyện. Đường bê tông: 75 km trong đó 3/79,6 km đường xã, 72/373 km đường
thôn. Đường lát gạch: 124/373 km. Còn lại là đường cấp phối” [17, tr. 169].
Hạ tầng giao thông được đầu tư mở rộng, nâng cấp nên dịch vụ vận tải đáp
không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà còn phục vụ tốt nhu cầu của
nhân dân rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Bình quân từ 1997-2006,
vận chuyển hàng hóa tăng khoảng 15%/năm; luân chuyển tăng 17%. Tổng doanh thu
vận tải tăng nhanh, năm 2006 ước đạt 23,3 tỷ đồng, gấp 29 lần năm 1997.
Có thể nói việc tu sửa, xây dựng hệ thống đường giao thông ở huyện trong những
năm này đã tạo điều kiện cho giao thông huyện phát triển. Các hoạt động trao đổi, buôn
bán sản phẩm nông nghiệp, CN - TTCN trong nội bộ tỉnh và các tỉnh lân cận tăng
nhanh. Điều kiện giao thông thuận lợi cũng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế huyện, nông nghiệp xuất hiện nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới đem lại năng suất
cao và dần chuyển hướng thành sản phẩm hàng hoá; hình thành nhiều khu CN - TTCN
với mạng lưới giao thông khá đồng bộ tạo nên liên kết giữa các khu vực đồng thời hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thành mạng lưới dịch vụ cho phát triển kinh tế.
Về đường thuỷ, dân cư huyện tiếp tục phát huy thế mạnh giao thông thuỷ lợi tự
nhiên được bao bọc bởi 3 con sông là sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Ngũ Huyện Khê.
Các tuyến giao thông đường thủy hiện vẫn chủ yếu phục vụ chuyên chở hàng hoá thóc,
gạo, ngô, khoai, sắn và các sản phẩm TTCN như gốm sứ, rượu, giấy…
Tóm lại, sự phát triển của hệ thống đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ và đường
nông thôn đã đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt, sản xuất phát triển kinh tế nhân dân
huyện. Các tuyến giao thông đặc biệt là TL 285, 286 đã thực hiện tốt khâu vận chuyển
nguyên liệu từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất luôn diễn ra
liên tục. Các tuyến đường trong huyện được nâng cấp cũng làm thay đổi cảnh quan môi
trường xanh, sạch, đẹp. Những nhân tố này đã giúp huyện Yên Phong xây dựng kinh
tế, văn hoá mới ngày càng tiến bộ.
Bưu chính viễn thông
Trước năm 1986, vấn đề thông tin liên lạc còn nhiều khó khăn, chưa có điều
kiện để phát triển cơ bản chỉ kế thừa thành quả của chế độ cũ. Về tổ chức hoạt động
dịch vụ của bưu chính thông tin liên lạc chủ yếu là tem thư, bưu kiện, bưu phẩm có số
lượng ít, điện báo, mạng lưới điện thoại tự động qua tải ba đàm thoại thường không
quá 30 phút.
Từ năm 1986, đề ra kế hoạch đổi mới hệ thống thông tin liên lạc từng bước theo
hướng hiện đại bắt đầu được thiết lập với mục tiêu “chất lượng, năng suất, hiệu quả”
với 5 chương trình đồng bộ, nâng cao chất lượng và năng lực, phát triển công nghệ
thông tin, đổi mới tổ chức sản xuất, quản lý mới. Tuy nhiên, huyện Yên Phong vẫn là
một trong những huyện hạn hẹp về thông tin liên lạc phục vụ trong kinh tế và đời sống
nhân dân. Từ cuối những năm 90 trở đi, nhận thấy vai trò của thông tin liên lạc đối với
sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, góp rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn, đẩy nhanh tốc độ ĐTH, huyện tập trung phát triển hệ thống mạng thông tin. Năm
1996, mọi thiết bị cũ lạc hậu của mạng lưới thông tin được chuyển đổi sang thiết bị
điện tử kĩ thuật số. Tính đến năm 2000, số máy điện thoại cố định có 8.224 máy đạt
bình quân 2,5 máy/100 người. Năm 1997, huyện Yên Phong cũng như nhiều nơi khác
chưa có mạng lưới thuê bao Internet rộng rãi, chỉ có ở một số cơ quan Nhà nước. Huyện
Yên Phong có 1 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có trạm thu phát sóng thông tin di
động; huyện có 1,6 nghìn thuê bao điện thoại. Từ sau năm 2000, hệ thống thông tin
liên lạc của huyện được đầu tư phủ kín từ nguồn kinh phí chuyên ngành với các phương
tiện kỹ thuật hiện đại với các dịch vụ gắn điện thoại bàn, hòa mạng điện thoại di động, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lắp đặt internet,… Tỷ lệ các hộ dân cư dùng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại
này là 80% năm 2006. Lúc này, hệ thống mạng lưới điện thoại trong khu vực tỉnh mở
rộng nên ở huyện cũng có thể nối mạng thông suốt với quốc tế.
Bưu chính viễn thông là nhân tố quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay.
Sự phát triển của ngành này không những ảnh hưởng về mặt kinh tế mà còn góp phần
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Mạng lưới bưu chính, viễn thông góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, công
nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, vấn đề hiện đại hóa mạng lưới bưu chính, viễn
thông luôn được chú trọng. Trong thời gian qua, các thiết bị cũ, lạc hậu đã được thay
thế hệ thống tổng đài kỹ thuật số cho mạng viễn thông công cộng và mạng di động cho
đến các thiết bị viễn thông cho khối doanh nghiệp…
Hệ thống điện, nước sinh hoạt và nước thải
Huyện Yên Phong nằm trong vùng liền kề đầu nguồn năng lượng lớn của miền
Bắc. Các trung tâm điện lực là thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, Uông Bí, Ninh
Bình. Trong thời gian qua, hệ thống đường dây và trạm phân phối đã được xây dựng
và phát triển, đảm bảo đưa mạng điện lưới quốc gia về tới từng thôn, xóm. Theo thống
kê của ngành điện, hiện nay huyện có 14/14 xã, thị trấn có điện với chiều dài đường
dây hàng trăm km. Nguồn điện ổn định đã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
đặc biệt là cung cấp điện cho các KCN và sinh hoạt
Trước năm 1986, ở huyện Yên Phong, mạng lưới điện chỉ tập trung phục vụ ở
khu vực trung tâm huyện lỵ. Từ năm 1986 trở đi, năng lượng đóng một vai trò rất quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước, trong đó điện năng là một trong
những ngành công nghiệp mũi nhọn. Trước tình hình đó, các cấp uỷ chính quyền huyện
Yên Phong đã đầu tư kéo điện đến hầu khắp các nơi trong huyện. Huyện được cấp điện
từ mạng lưới diện quốc gia 110 KV khu vực miền Bắc, qua việc xây dựng các trạm
điện Yên Phong, với đường dây điện trung thế với trạm hạ thế tăng cường công suất
điện thêm 655KW.
Tại các hộ sản xuất, xí nghiệp kinh doanh do sử dụng điện cao hơn các hộ khác
nên thường lắp đạt thêm đường nối điện với hệ thống truyền tải điện 22KV. Đến năm
2006, mạng lưới điện chiếu sáng ở huyện đã có khắp các trục đường chính. Điện đã
đem lại bộ mặt khang trang cũng như đem lại nguồn năng lượng cho phát triển các hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
động kinh tế thúc đẩy đô thị.
Hệ thống nước cấp nước sinh hoạt của huyện chủ yếu dưới hình thức là giếng
khoan tự túc của các gia đình, mỗi giếng có độ sâu trung bình khoảng 25 - 35 m với
công suất 80m³ kw/h. Hệ thống bể nước tại các hộ gia đình còn khá nhỏ và chưa có
mạng lưới cấp nước sạch qua xử lý của nhà máy nhưng với hệ thống nước này cũng
đủ đáp ứng được mọi nhu cầu về nước sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Mạng lưới
đường ống dẫn nước chủ yếu là ống nhựa PVC, ống gang dẻo thay thế hệ thống đường
ống cũ không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh tại hầu hết các hộ dân và các cơ sở bệnh
viện, trường học…
Hệ thống thoát nước của huyện từ năm 1986 - 2000 vẫn là hệ thống thoát nước
chung của nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải CN - TTCN…. Về cơ bản tình
hình các ống thoát nước, chủ yếu là cống tròn chỉ ở trung tâm đô thị mới có. Tại những
khu dân cư nông nghiệp thì chủ yếu thoát nước theo các rãnh tự tạo ở địa phương hoặc
rãnh xây xi măng nhưng không có nắp che chắn.Về cơ bản là được xây từ giai đoạn
trước đã có nhiều hư hỏng nên việc thoát nước thường tắc nghẽn rác, chất thải và gây
ô nhiễm môi trường.
Từ năm 2000, trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị, giai đoạn đô thị hóa
nhanh hơn, với hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp đã và đang hình thành, từ đây các khu
dân cư tập trung đông lại, yêu cầu việc xây dựng cống thoát nước thải công nghiệp và
hệ thống xử lý trước khi cho chảy vào sông, hồ ở huyện. Để không gây ô nhiễm môi
trường huyện cũng xúc tiến đầu tư lắp đặt, nâng cấp tuyến đường chính thoát nước khu
dân cư các thị trấn, xã nhất là khu vực có khu công nghiệp. Năm 2006, hệ thống thoát
nước mưa, nước thải công nghiệp một bộ phận vẫn chảy ra các mương tiêu trực tiếp
chưa qua xử lý vì huyện chưa hoàn thiện hệ thống trạm xử lý nước thải.
Về nhà ở
Huyện Yên Phong là vùng đất bằng phẳng phù hợp cho dân cư sinh sống,
việc xây nhà ở luôn được chú ý. Vấn đề nhà ở không chỉ là nơi cư trú mà còn thể
hiện mức sống của cư dân, góp phần vào việc hình thành bộ mặt kiến trúc cảnh quan
đô thị, tác động đến quá trình hình thành và phát triển của đô thị. Vì vậy, nghiên
cứu tình hình nhà ở là một trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu
quá trình ĐTH ở đây.
Trước năm 1986, ở nông thôn các căn nhà chủ yếu được xây dựng bằng gỗ mái
ngói, các ngôi nhà kiên cố bằng bê tông chỉ được xây dựng ở trung tâm huyện lỵ. Tuy
nhiên những ngôi nhà này cũng đang trong tình trạng xuống cấp cho đến những năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1990, vấn đề nhà ở mới được chú ý. Đến năm 1997, huyện mới có điều kiện để nâng
cấp nhà ở, xây dựng nhiều ngôi nhà bằng bê tông khang trang hơn. Từ năm 2000, huyện
xây dựng được nhiều khu dân cư với những ngôi nhà khang trang, với hình thức ngôi
nhà 2 - 3 tầng. Khi triển khai xây dựng điều chỉnh không gian sống có thể thấy rõ trên
bề mặt kiến trúc nông thôn dần chuyền sang đô thị.
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế.
2.2.3. Biến đổi về xã hội
Dân cư
Quá trình tập trung dân cư ở các đô thị đã cho thấy vai trò của thành thị đối
với sự phát triển xã hội. Sự chuyển biến dân số trong đô thị là yếu tố quan trọng, là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đô thị và là cơ sở để
phân loại đô thị. Huyện Yên Phong có đầy đủ thế mạnh về điều kiện tự nhiên, là
vùng đất hứa thuận lợi để tập trung cư dân.Từ năm 1986 đến nay, cùng với kế hoạch
mở mang phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng huyện đã thu hút đông đảo dân cư nơi
khác đến cư trú. Quá trình ĐTH nhanh dần từ những năm 90, đã làm cho huyện có
tốc độ tăng dân số cơ học cao.
Dân số huyện Yên Phong từ năm 1986 có nhiều thay đổi tích cực. Cụ thể, giai
đoạn từ năm 1986 đến năm 1998 đây là giai đoạn dân số huyện Yên Phong có t ỷ lệ
tăng dân số là 3,5%/năm - được coi là thời kỳ bùng nổ dân số của huyện.Theo số liệu
thống kê của Uỷ ban dân số thì dân số huyện Yên Phong năm 1998 huyện có dân số
là 136.734 người đến năm 2006 là 123.650 người, trong đó 48,9% là nam, 51,1% là
nữ và dân số thành thị chiếm 8,3%, nông thôn chiếm 91,7%. Mật độ dân số trung bình
của huyện Yên Phong là 1.191 người/ km², là một trong số những huyện có mật độ
dân số cao. Từ năm 2000, chỉ số tăng dân số của huyện Yên Phong có xu hướng giảm
chỉ còn trên 1%/ năm. Đây là thời kỳ tỷ lệ tăng dân số có xu hướng giảm dần. Năm
2006, huyện có tỉ suất sinh là 19,6%, tỉ suất tử là 5,6%, gia tăng dân số tự nhiên 1,4%
so với năm trước.
Giai đoạn này, dân số huyện nhìn chung là ổn định, có sự gia tăng nhẹ qua các
năm, do thu nhập của người dân tăng lên, kéo theo là chất lượng cuộc sống được cải
thiện, y tế phát triển. Tuy nhiên cũng còn một bộ phận không nhỏ dân cư ở các xã như
Yên Trung, Dũng Liệt, Thuỵ Hoà… vẫn có tỉ lệ sinh con thứ 3 khá cao. Nguyên nhân
là do thiếu hiểu biết trong sức khoẻ sinh sản, nếp nghĩ trọng nam khinh nữa vẫn còn đè Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nặng trong tư tưởng. Điều này cũng gây nhiều khó khăn trong thực hiện chính sách dân
số của huyện.
Tình hình phân bố dân cư của huyện Yên Phong cũng có sự khác nhau giữa các
làng xã. Từ những năm 1990 trở đi, huyện Yên Phong đã có xu hướng hình di chuyển
nhanh hơn các nhóm dân cư ra các thị trấn hình thành tầng lớp thị dân. Những làng xã có
nghề thủ công truyền thống như Văn Môn (2.440 người/ km2), Yên Phụ (1.841 người/
km2), thị trấn Chờ (1.715 người/ km2) hay các xã gần thành phố Bắc Ninh như: Hòa Long,
Vạn An, Khúc Xuyên có mật độ dân số cao hơn hẳn các xã khác.
Nguồn lao động
Nguồn lao động của huyện Yên Phong tăng trưởng nhanh theo sự phát triển dân
số với nguồn dân số trẻ, quy mô dân số dồi dào, đây là nguồn cho phát triển kinh tế
huyện. Qua các năm cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động có sự thay đổi đáng kể. Năm
2006, số người trong độ tuổi lao động là 70.575 người chiếm 56,8% dân số của huyện;
dân số dưới độ tuổi lao động chiếm 33,2% và trên độ tuổi lao động chiếm 10%. Khẳng
định nguồn lao động dồi dào, ổn định là một thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của
huyện trong hiện tại và tương lai. Nhưng mặt khác huyện cũng gặp sức ép lớn trong
giải quyết vấn đề việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Lực lượng tham gia lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tới
gần 67,5%, trong khi đó lao động trong công nghiệp xây dựng chiếm 19,3% và trong
thương mại - dịch vụ chỉ có khoảng 13,2% trong tổng số độ tuổi lao động của huyện.
Như vậy, rõ ràng lực lượng trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn nhưng hiệu suất sử
dụng lao động còn chưa cao.
Chất lượng của lực lượng lao động tại huyện Yên Phong được quan tâm vì vốn
là vùng đất hiếu học, các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến vấn đề học tập của các em
nên nhìn chung là lực lượng lao động đạt trình độ Trung học phổ thông. Nguồn lao
động có học vấn đã ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn phát triển kinh tế CNH -HĐH ở
huyện. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt và có khả năng tiếp cận nhanh với những thành
tựu khoa học công nghệ hiện đại trong các ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ đòi hỏi
nhiều chất xám ở hiện tại và tương lai. Nhưng nguồn lao động phổ thông này chưa thực
sự có trình độ cao về kỹ thuật chuyên nghiệp. Nên việc đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên nghiệp là nhiệm trọng tâm của huyện Yên Phong.
Nhìn chung, hoạt động kinh tế chính của huyện vẫn là hoạt động sản xuất nông
nghiệp nên dân cư chủ yếu tập trung ở nông thôn. Ở Yên Phong, dân đông nhất là ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thị trấn Chờ chiếm khoảng 5% nên có thể thấy ĐTH ở huyện giai đoạn này còn chậm.
Bên cạnh đó, dân cư huyện có những đặc điểm cần cù, chịu khó, trình độ dân trí cao,
nhanh nhạy tiếp xúc với công nghệ mới là điểm thuận cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
huyện trong quá trình ĐTH.
Về giáo dục
Huyện vốn có bề dày lịch sử về học tập nhưng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn
do tàn dư của chính sách cũ. Đứng trước yêu cầu đổi mới của đất nước, ngành giáo dục
phải vươn lên phù hợp với tình hình mới. Năm 1987, Tỉnh uỷ Hà Bắc có Nghị quyết
06 về công tác giáo dục 1987 - 1990 và được huyện uỷ Yên Phong gửi về các cơ sở
Đảng, trường học để thực hiện. Thời gian này UBND huyện Yên Phong đã tổ chức Hội
nghị với chủ đề “Toàn Đảng, toàn dân Yên phong chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo
dục ở địa phương” cùng với đó Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Phong, tỉnh
Bắc Ninh tiến hành nhiều đợt cải cách giáo dục để phù hợp trong từng năm học.
Ngành giáo dục huyện Yên Phong bước sang thời kì mới với sự thay đổi mà
chất lượng dạy và học được quan tâm hơn bao giờ hết. Trước hết là sự đầu tư tập trung
kinh phí để xây dựng các trường, lớp học và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công
tác giáo dục và đào tạo được không ngừng tăng lên. Theo đó, cơ sở vật chất giáo dục
của huyện thời gian đầu đã được xây dựng thêm nhiều cơ sở khang trang, sạch đẹp như
Văn Môn, Yên Phụ, Yên Trung. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu thốn do một số cơ sở
trường lớp quá cũ kỹ, chật hẹp, chắp nối như một số trường ở Đông Phong, Long Châu,
Hoà Tiến. Từ năm 1997, sự phát triển giáo dục ổn định hơn và cơ sở vật chất cũng
được đầu tư hơn. Năm 1997, huyện có 52 trường mầm non và phổ thông các cấp, trong
đó mầm non có 14 trường, trường phổ thông có 38 trường đến năm 2006 giảm xuống
còn 48 trường, trong đó 14 trường mầm non và 34 trường phổ thông các cấp. Tuy giảm
về số lượng trường nhưng các cơ sở trường học đều được nâng cấp và mở rộng hệ
thống phòng học năm 1997, trường mầm non có 115 lớp năm 2006 tăng lên 168 lớp;
trường phổ thông có 810 lớp đến năm 2006 là 778 lớp [9, tr. 309; 9, tr.316].
Hệ thống trường lớp được tỏa rộng đến các địa phương đã tạo điều kiện thuận
lợi và thu hút con em đến trường, cũng như việc thực hiện xã hội hóa giáo dục. Hiện
nay, bình quân mỗi thị trấn, xã trên địa bàn huyện đều có 2 đến 3 trường mầm non, tiểu
học, trường trung học cơ sở đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng học tập của dân cư,
bồi dưỡng thế hệ trẻ tạo sự hưởng thụ công bằng trong giáo dục. Ngoài các trường công
lập, huyện đã vận dụng linh hoạt quy chế về thành lập trường bán công lập và dân lập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành như Trung tâm giáo dục thường xuyên, trường
THPT Nguyễn Trãi… Việc thành lập các ngôi trường này phù hợp với hoàn cảnh của
huyện, qua đây các em học sinh có thể có cơ hội tham gia học tập nếu không đạt yêu
cầu các trường công lập mà mức học phí thu vừa phải, có chế độ miễn giảm học phí
cho học sinh nghèo, giúp huyện giảm bớt số học sinh phải bỏ học.
Những việc làm trên đã nâng cao dân trí của nhân dân huyện, tỷ lệ trẻ trong độ
tuổi đến trường hàng năm là 98%. Năm học 2006, huyện có 48 trường học với tổng số
36.082 học sinh từ mầm non đến các cấp học THPT, tình hình dạy và học của các cấp
học ngày càng được nâng cao về chất và lượng, cụ thể:
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên luôn được các ngành các cấp quan tâm
đầu tư phát triển. Từ năm 1986, giáo dục mầm non được chăm lo, xây dựng và phát
triển nhanh chóng với số lượng học sinh tham gia đi lớp luôn ở mức trên 90%. Năm
2006, có 6.982 trẻ đi học với 240 giáo viên, do dân số tự nhiên ổn định nên số lượng
trẻ không thay đổi nhiều nhưng tăng 74 giáo viên so với năm 1997 để đáp ứng được
yêu cầu chăm sóc trẻ.
Giáo dục phổ thông với các cấp học như tiểu học, THCS, THPT ngày càng phát
triển. Xuất phát từ nhu cầu ĐTH của một xã hội phát triển, nguồn nhân lực có trình độ
học vấn và bồi dưỡng nhân tài phải được đào tạo để đáp ứng tình hình mới. Năm 2006,
cả huyện có 34 trường phổ thông các cấp, với 29.100 học sinh và 1.290 giáo viên.
Trong chương trình giáo dục ngoài thực hiện hoàn thành học tập các môn khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội, tại các trường tổ chức các tiết, lớp dạy nghề (chủ yếu là khối
học sinh lớp 8, 9 và lớp 11, 12) như may, làm vườn, điện, máy tính từ đây cấp chứng
chỉ cho học sinh. Điều này cho thấy, nhu cầu học tập nâng cao dân trí của dân cư ngày
càng tăng, đây nguồn lực cơ sở trong tương lai để tham gia thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Yên Phong là huyện được Tỉnh và Bộ chọn thí điểm chương trình giáo dục trẻ
khuyết tật, có khoảng trên 70% số học sinh tham gia hàng năm tại các lớp hoà nhập
như giáo dục chuyên biệt ở Đông Thọ, Hàm Sơn, Hàm Long.
Từ điều kiện vật chất, trường lớp, trang thiết bị có sẵn cùng số lượng học sinh
tham gia học tập ngày càng đông, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh đã tiếp tục đầu tư
nguồn kinh phí cho các cơ sở đào tạo như: dạy học; nâng cấp thư viện trường; xây
phòng thí nghiệm; khuyến khích các trường nối mạng máy tính; tập trung cho các cấp
học thay sách đáp ứng nhanh yêu cầu đổi mới nội dung chương trình… Số trường học, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lớp học, cơ sở vật chất được trang bị ngày càng nhiều, đã giúp hầu hết các trường đảm
bảo chuẩn quy định, giáo dục và đào tạo huyện phát triển nhanh về cả quy mô, chất
lượng toàn diện được nâng lên một bước mới.
Về y tế
Từ sau đổi mới, dân cư huyện Yên Phong có nguồn thu nhập cao, ổn định hơn
nên chất lượng cuộc sống cũng được tăng lên vì vậy đa số người dân đều có yêu cầu
nâng cao về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh. Trong thời đại CNH - HĐH; sức
khỏe con người là nguồn vốn có tính định quyết định đến thu nhập của dân cư trong
nền kinh tế mới. Vì vậy việc phát triển của ngành y tế ở luôn đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng được xem là một trong những tiêu chí đánh
giá về mức sống dân cư trong quá trình ĐTH.
Trước năm 1986, ngành y tế của huyện vẫn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật
chất. Số lượng y tế ít, trạm xá là những ngôi nhà cấp 4, đội ngũ cán bộ y tế thiếu về số
lượng, yếu về trình độ chuyên môn... Từ năm 1986, huyện đã tích cực củng cố, xây
dựng mạng lưới y tế cơ sở, tăng cường cán bộ y tế, đồng thời thực hiện Nghị quyết của
Đảng bộ về chương trình y tế qua các năm để đảm bảo y tế huyện đáp ứng được nhu
cầu của dân cư. Quyết định số 950/QĐ-CT năm 1988 của Chủ tịch UBND tỉnh về thành
lập Trung tâm y tế Yên Phong trên cơ sở hợp nhất Bệnh viện đa khoa, đội vệ sinh
phòng dịch, trung tâm sinh đẻ kế hoạch, tổ phòng chống các bệnh xã hội. Đến đầu
những năm 90, Yên Phong có bệnh viện huyện và mạng lưới y tế rộng khắp.
Về khối trạm y tế sau năm 1986, đã có 17 trạm y tế tại 18 xã được xây dựng
ngói hoá 100%, tại trạm y tế có từ 3 - 4 cán bộ y tế thường trực, có nữ hộ sinh trực trạm
đều dặn, có 17/18 xã có y sĩ. Đến năm 2006, số lượng trạm y tế cũng giảm theo sự điều
chỉnh hành chính, huyện có 18/18 xã trạm y tế nhưng được nâng cấp xây kiên cố bằng
nhà tầng gạch bê tông, mỗi trạm y tế thường có 4- 5 y sĩ, 6 nữ hộ sinh; tại các thôn,
làng cũng có cán bộ y tế. Công tác xây dựng bệnh viện chữa bệnh khang trang với 90%
bệnh nhân chữa nội trú có giường, 100% bệnh nhân được dùng màn, chăn, đệm sạch
sẽ, hơn 80% phòng bệnh có quạt điện đầy đủ. Huyện cũng cấp thêm kinh phí để đầu tư
các trang thiết bị như máy điện châm, đèn hồng ngoại, máy xoa bóp, dụng cụ y tế…
phục vụ cho các chuyên khoa cấp cứu, khoa ngoại, khoa sản, khoa nội, khoa đông y.
Bệnh viện huyện Yên Phong đã góp phần nâng cao hiệu quả chữa trị, đội ngũ y bác sĩ
thường xuyên được bổ sung qua việc tuyển dụng các bác sĩ chuyên khoa, bồi dưỡng y
sĩ qua những đợt đào tạo chuyên môn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ đáp ứng yêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cầu chăm sóc khám chữa bệnh trước mắt và sử dụng lâu dài của ngành trong thời gian
tới. Kết quả đạt được là các bác sĩ đã áp dụng thành công nhiều kỹ thuật chuyên môn
trong cấp cứu như cấp cứu suy thở trẻ em, đặt nội khí quản, mổ sản, phẫu thuật cắt 2/3
dạ dày, phẫu thuật nối ruột…
Hàng năm, ngành y tế huyện phối hợp cùng các ban ngành xây dựng hệ thống
giám sát dịch đến tận các làng, thôn, xã. Công tác tuyên truyền, tập huấn, triển khai
hiệu quả các chương trình y tế và chương trình tiêm chủng được mở rộng. Huyện
cũng đặc biệt quan tâm đến chương trình sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, trẻ em như
tổ chức chương trình chống suy dinh dưỡng cho trẻ uống các loại vitamin A, điều trị
sởi, viêm phổi, đau mắt hột, nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính cho trẻ em, viêm
não Nhật Bản... Đến năm 2006, tỷ lệ tiêm chủng miễn dịch cơ bản 6 mũi đạt và vượt
mức trên 98%.
Những thay đổi của ngành y tế huyện đã phát huy được vai trò chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân. Số lượng cán bộ y tế ở các cơ sở chữa bệnh tăng nhanh về chất và
lượng cùng sự trợ giúp của các thiết bị hiện đại đã làm số người bệnh giảm dần trong
quá trình điều trị. Huyện dần thay thế các phương pháp chữa bệnh tự phát bằng phương
pháp dân gian, bằng mẹo bằng việc đến các cơ sở y tế. Lúc này bệnh biện tuyến huyện
đã đáp ứng được yêu cầu của chữa bệnh tuyến huyện.
2.3. Những thay đổi về cảnh quan môi trường
2.3.1. Cảnh quan
ĐTH đòi hỏi phải có sự thay đổi theo chuyển động của nó trong tất cả các mặt
kinh tế, văn hoá, xã hội của đời sống con người. Tức là khi một nơi nào đó có hiện tượng
hoặc đã và đang diễn ra ĐTH, thì nơi ấy đòi hỏi sự thay đổi khác phù hợp trong hoàn
cảnh nó. Huyện Yên Phong đã có rất nhiều thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội và sự
chuyển biến đi liền với những thay đổi cảnh quan về cả mặt tích cực và tiêu cực.
Quá trình ĐTH làm thay đổi suy nghĩ của con người về nhu cầu cuộc sống, trong
đó yêu cầu về cảnh quan hiện đại, đảm bảo xanh, sạch đẹp là một vấn đề trong phát
triển đô thị hiện đại. Nếu trước đây, huyện vẫn duy trì không gian văn hóa đặc trưng
cho vùng đất vùng nông thôn là đường làng đầy đất quanh co, những ngôi nhà mái
ngói, ruộng lúa, bờ tre, vườn cây mộc mạc, ao súng, ao sen... thì nay khung cảnh đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dần thay thế bằng cảnh quan của đô thị hiện đại với những con đường rải nhựa, nhà
cao tầng, các nhà máy, xí nghiệp cùng hàng cây quy hoạch bên đường hay hồ nước,
công viên,...
Phát triển kinh tế - xã hội, huyện cần có cơ sở hạ tầng giao thông rộng rãi, hiện
đại thuận lợi cho người dân đi lại và trao đổi, vận chuyển hàng hóa. Với hệ thống giao
thông được cứng hoá 100% tại các xã, thị trấn, những con đường chính được rải nhựa
nâng cấp, mặt đường rộng hơn;đường làng, thôn, xóm được bê tông hoá. Sự thay đổi
này làm cho khung cảnh yên tĩnh của làng quê không còn nữa thay vào đó là các hoạt
động nhộn nhịp ngày đêm trên phố xá. Cũng qua hệ thống giao thông này, việc nối liền
nhà ở với nơi làm việc, trường học, chợ... trở nên thuận lợi hơn. Hệ thống điện, nước
được xây dựng thay thế những chiếc đèn dầu, chiếc ao làng, giếng làng đảm bảo cung
cấp được nhu cầu cuộc sống của cư dân đồng thời cũng đảm bảo an toàn, quy hoạch
cảnh quan hợp lý tránh tình trạng nối nhau chằng chịt gây mất mĩ quan. Biến đổi cảnh
quan trong quá trình ĐTH còn thể hiện ở sự biến đổi trong kiến trúc nhà ở của người
dân. Quan niệm nhà truyền thống hình chữ đinh trước sân sau vườn rộng rãi phù hợp
với gia đình đông người, nhiều thế hệ cùng sinh sống không còn nữa thay vào đó là
những ngôi nhà kiểu hiện đại, xây dựng bởi vật liệu công nghiệp. Những ngôi nhà phố
cao 2 -3 tầng trở nên phổ biến, được xây ở các trục đường chính các đường như thị trấn
Chờ, xã Văn Môn… sau đó được xây cả ở trong khu vực các thôn, làng. Ở sâu phía
trong các xã, cũng xuất hiện nhiều dạng nhà theo kiểu biệt thự của những gia đình
người giàu có mua đất xây cất nên. Sự thay đổi khung cảnh trên địa bàn cho thấy ĐTH
đang diễn ra nhanh hơn, thay đổi phù hợp với tình hình khi đất nước đang tiến lên con
đường CNH - HĐH.
Một thay đổi khác ở huyện trong quá trình ĐTH là các làng nghề CN - TTCN
dần phát triển thành cơ sở sản xuất, xí nghiệp, nhà máy cũng góp phần dẫn đến sự thay
đổi trong cảnh quan. Sự xuất hiện của các cơ sở này được xây dựng theo kiểu nhà
xưởng hiện đại, với hệ thống điện, nước luôn được cung cấp không ngừng nghỉ, bên
ngoài hệ thống đường nhựa, vỉa hè cây xanh trở nên dần phổ biến.
Cảnh quan trên địa bàn huyện còn thay đổi nhiều hơn cả là ở các khu quy hoạch
dân cư đô thị, dãn dân, tại đây sẽ mọc lên các khu nhà mới, khu chức năng công viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giải trí, chợ...qua các dự án với quy mô lớn trong tương lai. Như vậy các yếu tố của
cảnh quan nông thôn đã trong tương lai sẽ bị xóa sạch hoàn toàn, thay vào đó là đường
sá rộng rãi, dãy nhà san sát...
Tuy nhiên, cũng do quá trình ĐTH nên cảnh quan chung của huyện cũng xuất
hiện những mặt trái. Cơ sở giao thông đường nhựa, đường bê tông và đường đất xen lẫn
nhau ở một số địa phương của huyện cho thấy sự phát triển không hài hòa. Hệ thống điện
có mặt trên toàn huyện nhưng hệ thống dây điện còn chồng chéo lên nhau, một số đường
dây là do các hộ dân cư tự chăng mắc thêm gây ảnh hưởng đến phát triển quy hoạch cũng
như về mặt cảnh quan. Đa phần các xã lúc này chưa có mạng lưới cấp thoát nước hoàn
thiện, nước thải còn xả ra hệ thống chung, chưa qua xử lý. Không gian cây xanh ở khu
vực quy hoạch đô thị còn hạn chế, hiện không có các công trình công cộng, vui chơi giải
trí. Hơn nữa việc xây dựng nhà cửa không chỉ trên các trục giao thông chính mà ngay tại
dọc các trục đường giao thông cũ nhà cửa cũng được xây ngày càng nhiều và san sát
nhau. Hiện tượng trên làm cho không gian sinh sống trở nên chật chội hơn, cùng với đó
việc xây dựng những con đường nhỏ hẹp trước kia đã tạo nên những con ngõ quanh co,
chật hẹp, luồn lách qua những ngôi nhà xây đủ các kiểu dáng với các dạng vật liệu khác
nhau không theo một trật tự. Trong khi đó, huyện vẫn có một số những căn nhà cấp bốn
sơ sài, lợp mái tôn phần lớn là nơi ở của người nghèo có thu nhập thấp. Vì vậy, có thể
thấy sự phức tạp của quá trình ĐTH luôn hiển hiện qua sự biến đổi khá phổ biến trong
cảnh quan nông thôn tới đô thị.
2.3.2. Môi trường
Huyện Yên Phong là vùng đất có điều kiện tự nhiên, môi trường hết sức thuận
lợi cho sự tồn tại, sinh sống và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của dân cư. Chính vì
vậy, khi phát triển trên địa bàn đặc biệt là sau đổi mới năm 1986 quá trình ĐTH diễn
ra nhanh tạo nên áp lực làm thay đổi môi trườngchung của huyện khá nhiều.
Trên địa bàn Yên Phong việc tập trung phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm
và diễn ra hết sức thuận lợi nhưng khi triển khai phát triển UBND huyện luôn trên cơ sở
duy trì thực hiện chiến lược phát triển bền vững kết hợp chặt chẽ, hài hoà, hợp lý trong
lĩnh vực kinh tế, xã hội với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trước
hết, huyện củng cố, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
điều tra cơ bản đi đến nghiên cứu về tài nguyên địa chất, thuỷ văn, sử dụng tổng hợp tài
nguyên nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất qua đó cải thiện môi trường chung của
huyện.
Huyện đưa ra những quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, cụm công nghiệp,
tiến hành cải tạo, di dời và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tiếp
tục xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn, dự án thoát nước và xử lý nước thải, vận
chuyển rác thải khu vực nông thôn... Hoàn thiện các dự án phát triển nông thôn, xây
dựng đô thị để huyện có cảnh quan môi trường hiện đại xanh, sạch, đẹp. Những việc
làm trên đã tránh việc ô nhiễm môi trường gia tăng ở huyện và tránh tình trạng không
kiểm soát được ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khỏe của nhân dân.
Quá trình ĐTH tập trung dân cư, phát triển sản xuất CN - TTCN... đã đem lại
những hệ quả xấu cho môi trường huyện Yên Phong. Trên địa bàn, tình trạng ô nhiễm
rác thải sinh hoạt, sản xuất, ô nhiễm nguồn nước, không khí do sản xuất công nghiệp…
vẫn chưa có dấu hiệu giảm đi.
Nguyên nhân là do đa phần người dân sinh sống trên địa bàn huyện còn mang
nặng sắc thái của nông thôn nên rác thải sinh hoạt được tiêu huỷ theo hình thức đốt,
vứt xuống sông, ngòi ở khu vực gần nhà. Hiện nay, các thôn, làng của các xã thị trấn
có tổ chức tập kết thu gom rách thải 2 lần/ tuần đến khu vực tiêu huỷ nên hiện tượng
tự huỷ và vứt rác ra môi trường xung quan hạn chế dần. Tuy nhiên, ý thức của dân cư
chưa cao nên gần như chưa có việc phân loại rác hữa cơ, vô cơ nên gây khó khăn trong
quá trình tiêu huỷ. Nguồn rác thải từ sinh hoạt của người dân thực sự là nguồn gây ô
nhiễm rất lớn đối với môi trường.
Vì là vùng sản xuất nông nghiệp nên việc dùng thuốc bảo vệ thực vật cũng rất
phổ biến ở địa bàn các xã của huyện Yên Phong. Đây cũng là thành phần góp phần
tăng ô nhiễm cho nguồn nước, đất và không khí. Trong đó, các hoạt động chăn nuôi
gia súc, gia cầm phát triển nhưng chưa thực hiện tốt việc xây dựng chuồng trại và xử
lý phân, nước thải... cũng gây ô nhiễm lên môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường sinh sống của người dân.
Khi các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều cùng với sản xuất
tại các làng nghề đi vào hoạt động thì môi bị ô nhiễm từ chất thải rắn, khí, ô nhiễm đất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nước. Ô nhiễm môi trường nặng nhất là ở khu vực công nghiệp, cụm công nghiệp như
khu công nghiệp Yên Phong, CCN làng nghề Văn Môn, CCN đa nghề Đông Thọ…
Chất thải rắn công nghiệp lớn, khó xử lý bằng phương pháp chôn lấp; Không khí cũng
ô nhiễm không kém vì hầu hết các nhà máy xí nghiệp hoạt động gần như 24/24 giờ của
ngày nên lượng khí thải luôn thường trực. Nước thải của những nhà máy, xí nghiệp,
làng nghề trong và ngoài các khu công nghiệp có một bộ phận không qua xử lý làm
cho nước ở các sông, ngòi, mương trên địa bàn chuyển sang màu đen và có mùi hôi
thối. Những hoạt động này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sinh hoạt,
sản xuất của người dân nơi đây
Như vậy, không chỉ khai thác điều kiện thuận lợi của môi trường trong sự phát
triển huyện Yên Phong cần hạn chế những tác động mặt trái đến môi trường. Những
tồn tại hiện nay về ô nhiễm nước, đất và không khí là bài học cho dân cư huyện trong
quá trình ĐTH. Yêu cầu đặt ra lúc này, huyện Yên Phong cần học hỏi kinh nghiệm quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hoạch và xây dựng phát triển của các trung tâm đô thị lớn về phát triển kinh tế - xã hội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, huyện Yên Phong luôn bám sát và
nghiêm túc tuân thủ sự chỉ đạo, chủ trương và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Trung ương. Đồng thời, huyện đã vận dụng sáng tạo những cơ chế, chính sách và
những lợi thế gần thành phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội để phát triển kinh tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế của huyện có bước tăng trưởng khá, đã hoàn
thành mục tiêu phát triển nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực, phát triển ngành
chăn nuôi cũng như dần chuyển dịch phát triển các hoạt động sản xuất CN - TTCN và
dịch vụ. Các cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều cùng hoạt
động thương mại - dịch vụ phong phú, đa dạng đã góp phần làm gia tăng giá trị sản
xuất của kinh tế huyện trong tổng giá trị sản xuất. Sự chuyển dịch này dẫn đến cơ cấu
lao động cũng thay đổi, cụ thể: số lượng lao động trong nông nghiệp giảm chuyển dần
qua các hoạt động sản xuất ngành CN - TTCN và thương mại - dịch vụ.Các hoạt động
kinh tế vừa giải quyết được vấn đề việc làm vừa thu hút thêm người lao động trong và
ngoài huyệntập trung về đây, hình thành các khu dân cư đông đúc bên cạnh các cơ sở
sản xuất và KCN.
Để phát triển bền vững huyện từng bước đầu tư hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ
sở hạ tầng:hệ thống đường đất gồ ghề được cứng hoá, nhiều nhà tầng kiểu mới được
xây dụng thay cho nhà ngói cấp 4 cũ, hệ thống điện, nước, nước thải được làm đến các
thôn, làng... Kết quả đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng đã thúc mạnh mẽ hơn các hoạt
động kinh tế và phục vụ tốt hơn cho điều kiện dân sinh. Trong giai đoạn này, huyện
cũng toàn diện nâng lên một bước mới hệ thống giáo dục và y tế:nhiều trường học,
bệnh viện, trung tâm y tế được cải tạo và xây mới… góp phần đảm bảo nguồn nhân lực
và nâng cao mức mức sống của cư dân huyện. Việc phát triển toàn diện này đã thay đổi
bộ mặt nông thôn huyện chuyển dần nhanh sang thành thị.
Tuy nhiên, huyện cũng phải đối mặt những vấn đề về phát triển kinh tế không
đồng đều, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm, CN - TTCN ở nhiều nơi còn
nhỏ bé, phân tán, chất lượng sản phẩm chưa cao, mức cạnh tranh thấp… Việc vận động
đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới chưa tương xứng với tiềm năng của huyện. Kết cấu
hạ tầng cơ sở của đô thị huyện chưa theo kịp tốc độ ĐTH từ đó xuất hiện hiện tượng xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dựng tự phát, tác động xấu đến môi trường, đến kiến trúc và cảnh quan đô thị…
Chương3
HUYỆN YÊN PHONG TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2018
3.1. Những biến đổi về kinh tế cơ sở hạ tầng
3.1.1. Biến đổi về kinh tế
Năm 2007, thực hiện Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện
Yên Phong, từ đây huyện có điều kiện ổn định về diện tích, dân số cùng với đó bám sát
và tuân thủ sự chỉ đạo, chủ trương, các giải pháp của Đảng và UBND huyện về phát
triển kinh tế - xã hội. Từ đây, huyện Yên Phong đã tập trung thực hiện có hiệu quả các
chính sách hướng tới đưa nền kinh tế của huyện phát triển nhanh, ổn định trong thời
kỳ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Huyện đã thực hiện nhiều chủ trương để có thể
khai thác lợi thế của mình là một huyện nằm gần các đô thị lớn như thành phố Bắc
Ninh, thủ đô Hà Nội… Nhờ vậy, huyện Yên Phong đã đạt được nhiều thành tựu nổi
bật trong phát triển kinh tế.
Tình hình chung kinh tế của huyện Yên Phong luôn duy trì tốc độ phát triển
nhanh nhưng ổn định ở mức độ tăng trưởng khá. Nếu như, những năm đầu đổi mới
1986 - 2000 là thời kỳ định hìnhcho mô hình phát triển kinh tế huyện thì từ sau những
năm 2000 - 2007, huyện dần có những chính sách cụ thể đối với kinh tế và thu hút được
nguồn đầu tư để xây dựng. Thời kỳ từ năm 2007 trở đi, sau khi ổn định về hành chính,
đất đai Yên Phong có điều kiện đẩy mạnh toàn diện các chính sách phát triển nền kinh
tế. Các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã đầu tư vào
Yên Phong. Nhờ vậy, kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số qua
các giai đoạn khác nhau; các loại hình kinh tế phát triển nhanh về quy mô và đóng góp
lớn cho kinh tế của tỉnh.
Năm 2007, tổng giá trị sản xuất đạt 3.270 tỷ đồng đến năm 2018, tăng trưởng
khá ổn định ước đạt 19.316 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9% một năm.
Tính theo giá hiện hành năm 2018, tổng sản phẩm của huyện GRDP ước đạt 5.943,451
tỷ đồng. Trong đó, cơ cấu kinh tế Yên Phong tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng
tích cực phù hợp với nền kinh tế thị trường. Khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng
11,1%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỉ trọng 59,3% và khu vực dịch vụ
chiếm tỉ trọng 29,7%. Huyện đặc biệt chú ý phát triển kinh tế CN - TTCN với việc xây
chương trình phát triển làng nghề, xây dựng phát triển các cụm công nghiệp, khu công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghiệp.Năm 2018, giá trị CN - TTCN ước đạt 942.968 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách địa
phương ước đạt 1.347.715 triệu đồng, đạt 184% kế hoạch huyện xây dựng và đạt 199%
dự toán tỉnh giao cho.
Về nông nghiệp
Trong nền kinh tế của huyện Yên Phong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của huyện. Quá trình ĐTH tác động mạnh mẽ nền kinh tế thế
nông nghiệp của huyện.Nhân dân Yên Phong dựa trên những kinh nghiệm sản xuất lâu
đời cùng với việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất đã đem lại
năng suất lao động cao. Các sản phẩm của nông nghiệp như lương thực, thực phẩm
phục vụ nhu cầu trực tiếp cho nhân dân và nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất
công nghiệp và xuất khẩu.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện năm 2018 là 5.312,7 ha, chiếm
54,8% diện tích đất tự nhiên và 12,5% diện tích đất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Diện
tích đất nông nghiệp dưới sự thúc đẩy của quá trình ĐTH, dần bị thu hẹp hình thành
các khu phát triển đô thị, công nghiệp, giao thông…
Ngành trồng trọthuyện Yên Phong bước sang giai đoạn mới đa dạng trong cơ
cấu cây trồng bao gồm các giống cây hàng năm (cây lương thực có hạt, có củ, cây thực
phẩm,…) và cây trồng lâu năm (cam, quýt, vải, nhãn, chuối…). Theo đó, diện tích
trồng cây năm năm 2007 là 12.895 ha đến năm 2011 giảm xuống còn 11.458 ha đến
năm 2018 diện tích thu hẹp hơn còn 9.303 ha, trong đó diện tích cây lương thực có hạt
chiếm 8.594 ha chiếm hơn 90% diện tích gieo trồng.Diện tích gieo trồng cây lâu năm
thì ổn định hơn năm 2007 là 310 ha đến 2018 là 340 ha [11, tr. 260].
Cũng như giai đoạn trước, cây lương thực chủ yếu của huyện Yên Phong là lúa
và hoa màu, ngô, khoai lang, khoai tây… Trong đó, cây lúa chiếm diện tích và sản
lượng cao lên đến 95%. Từ năm 2007, tuy diện tích cây lương thực nói chung và cây
lúa nói riêng giảm nhưng sản lượng lúa lại còn hướng tăng. Nguyên nhân chính của sự
thay đổi này là do sự điều chỉnh các chính sách về cơ cấu sử dụng đất, áp dụng những
thành quả của khoa học kỹ thuật vào sản xuất như sử dụng các giống lai mới, sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật hay thay đổi cơ cấu mùa vụ đã đem lại hiệu quả cao trong năng
suất và sản lượng.Hiện nay, trên toàn huyện diện tích trồng lúa lai được mở rộng theo
hướng đại trà cung cấp cho sản xuất hàng hóa. Các giống lúa nhập khẩu từ Trung Quốc
Q.Ư1, Q.Ư5, nếp PD2,… Các dòng lúa này có thời gian sinh trưởng ngắn, cứng cây
không dễ bị đổ và đem lại năng suất cao.Các giống lúa truyền thống như khang dân,
C70 vẫn được trồng nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ. Các vùng sản xuất lúc mới hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thành như Đông Phong, Trung Nghĩa, Tam Giang… Năng suất lúa năm 2018 đạt 61,9
tạ/ha với sản lượng 52.697 tấn [11, tr. 251].
Bên cạnh đó, huyện cũng tích cực trồng luân canh, xen vụ các cây lương thực
như ngô, khoai tây, khoai lang làm tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.Huyện đã
nhập khẩu gieo trồng nhiều giống khoai mới như Atlantic, Solala… đem lại năng suất
cao. Yên Phong có nhiều vùng chuyên canh như: thôn Như Nguyệt khoảng 14 ha, Xuân
Cai 25 ha, Nguyện Cầu 5 ha… Năm 2018, với năng suất ngô là 60 tấn, khoai lang là
132 tấn, không chỉ phục vụ cho đời sống sinh hoạt trong nhân dân mà còn được sử
dụng làm thức ăn trong chăn nuôi, đưa đến các cơ sở chế biến công nghiệp thực phẩm
hoặc sử dụng vào các mục đích sản xuất khác.
Huyện có điều kiện gieo trồng một số cây như cà chua, bắp cải, su hào… vừa là
sản phẩm phục vụ cho đời sống của nhân dân, một phần là sản phẩm thiết yếu bán cho
cho thị trường. Năm 2018 diện tích cây thực phẩm khoảng 8.217 ha chiếm khoảng 10%
diện tích trồng trọt với sản lượng hơn 80 nghìn tấn, đem về khoảng 60 triệu đồng.Hiện
nay, nhu cầu của các đô thị lớn như Bắc Ninh, Hà Nội về cây thực phẩm ngày càng cao
vì vậy các yếu tố thực phẩm sạch, an toàn luôn được chú trọng ở huyện.Hầu hết các xã
và thị trấn huyện Yên Phong đều trồng rau xanh nhưng tập trung chủ yếu nhất phải kể
đến ở xã Trung Nghĩa, xã Tam Đa…
Nhìn chung, việc trồng cây công nghiệp ngắn ngày của huyện chủ yếu là đậu
tương và lạc với tổng diện tích gieo trồng và trên 60 ha chiếm khoảng 1,2% diện tích
gieo trồng. Trung bình năng suất của các cây công nghiệp ngắn ngày đạt khoảng 25 -
30 tạ/ ha với sản lượng đậu tương khoảng 9 tấn, lạc thu được khoảng 200 tấn.
Cây trồng hàng năm của huyện rất phong phú với các loại cây trồng như vải,
chuối, nhãn… Tuy phong phú về số lượng cây trồng nhưng do điều kiện hạn chế về
điều kiện tự nhiên cho nên diện tích các cây trồng công nghiệp ở huyện tương đối ít.
Một trong số những cây công nghiệp lâu năm của huyện cũng phải kể đến cây dâu,
được trồng tại các các bãi bồi ven sông Cầu chủ yếu là xã Tam Giang để phục vụ cho
nhu cầu nuôi tằm. Tuy nhiên, từ năm 2007 diện tích dần thu hẹp được khoảng 26 ha đã
giảm còn khoảng 15,2 ha năm 2018. Nguyên nhân chính là do việc thu mua lá dâu ở
các vùng khác rẻ hơn so với việc trồng tại huyện.
Trong kinh tế nông nghiệp, ngành chăn nuôi vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn, có xu
hướng tăng nhanh về giá trị sản xuất, năm 2018 giá trị sản xuất của ngành đạt 1911,8
tỷ đồng chiếm khoảng 75% cơ cấu giá trị sản xuất. Từ năm 2007, ngành chăn nuôi của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyện có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều hộ gia đình xây dựng trang trại chăn nuôi
nhưng vẫn duy trì mô hình chăn nuôi quy mô nhỏ ở tại các gia đình.Năm 2007, huyện
xây dựng 412 trang trại đến năm 2011 giảm xuống 9 trang trại và đến năm 2018 tăng
lên lên 27 trang trại. Theo đó, số trang trại năm 2018 phân theo ngành hoạt động thì cả
huyện Yên Phong có 27 trang trại chăn nuôi và trang trại nuôi trồng thủy sản nhưng
không có trang trại trồng cây hàng năm hoặc cây lâu năm hay trang trại tổng hợp.
Bảng 3.1. Số lượng, sản lượng thịt đàn trâu, bò, lợn, gia cầm huyện Yên Phong
giai đoạn 2007 - 20018
Năm 2007 2010 2013 2016 2018
Trâu (con) 1.657 1.217 910 682 672
Thịt trâu (tấn) 61 92 83 61 54,6
Bò (con) 9.823 8.583 6.450 5.684 4.963
Thịt bò (tấn) 378 719 674 489 449
Lợn (con) 44.587 57.044 59.577 62.258 57.166
Thịt lợn (tấn) 8.173 11.258 11.051 11.805 11.722
Gia cầm (nghì con) 690 833 881 934 932
Thịt gia cầm (tấn) 1.782 1.763 1.841 2.195 2.304
Nguồn: [9, tr. 219-225; 11, tr. 267-272]
Từ năm 2007, hoạt động nuôi trâu, bò có xu hướng sụt giảm về số lượng nguyên
nhân là do quá trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Tính đến năm 2018 huyện có
672 con trâu giảm 985 con so với năm 2007. Đàn bò cũng giảm mất một nửa còn 4.963
con. Do nhu cầu của thị trường và thịt trâu, bò cũng đem lại giá trị kinh tế cao nên
nhiều hộ dân cư đã đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò. Đàn trâu bò tập trung chủ yếu ở các
xã Yên Trung, Thụy Hòa, Tam Giang…
Chăn nuôi lợn vẫn được nhân dân huyện Yên Phong tập trung sản xuất bởi đây
là nguồn thực phẩm ổn định cung cấp thịt cho thị trường hiện nay. Năm 2018, huyện
có 57.166 con, chiến khoảng 15% số lượng đàn lợn của cả tỉnh. Mặc dù, giai đoạn này
số lượng đàn lợn cũng có những xao động nhất định nhưng về cơ bản sản lượng thịt
lợn hơi xuất chuồng vẫn duy trì ở mức cao, chiếm hơn 70% sản lượng thịt của huyện.
Nhìn chung, tình hình chăn nuôi lợn của huyện chủ yếu theo hộ gia đình quy mô nhỏ
và chăn nuôi theo phương pháp truyền thống. Với cố gắng của UBND huyện, thị trấn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xã cũng từng bước khắc phục hướng tới chăn nuôi lợn theo hướng hiện đại, qua việc
đưa giống mới, sử dụng các loại thức ăn dành riêng cho chăn nuôi lợn, tiêm phòng các
bệnh thường gặp. Dưới hình thức chăn nuôi hộ gia đình cho nên gần như các xã tại
huyện đều có đàn lợn.
Hoạt động chăn nuôi gia cầm của huyện ngày một tăng nhanh. Tính đến năm
2018 huyện có 932.000 con, chiếm hơn 20% tổng đàn gia cầm của tỉnh, có sản lượng
thịt đạt đến 2.304 tấn. Sang đến năm 2007, hình thức chăn nuôi gia cầm chuyển
sang hướng công nghiệp, chăn nuôi thả vườn, nuôi tự nhiên kết hợp công nghiệp
đặc biệt chú trọng xây dựng các trang trại được huyện tích cực thúc đẩy. Các giống
gia cầm mới có năng suất cao sao theo hướng siêu thịt, siêu trứng được sử dụng.
Hoạt động này đã góp phần tăng số lượng đàn gia cầm nhanh chóng, đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của thị trường. Đàn gia cầm phân bố chủ yếu ở các xã Yên Phụ, Đông
Thọ, Thị trấn Chờ…
Ngoài ra, huyện tiến hành chăn nuôi ngựa, dê, cừu bắt đầu từ năm 2010. Trong
đó, năm 2010 ngựa có 93 con nhưng sau đó đến năm 2015 giảm xuống còn 43 con và
đến năm 2018 còn 11 con. Chăn nuôi dê, cừu mang tính chất cá nhân. Do điều kiện tự
nhiên không phù hợp để nuôi số lượng lớn nên chăn nuôi dê cừu không phát triển. Năm
2015 có 20 con đến năm 2018 tăng lên 46 con.
Phát huy thế mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp theo
hướng tích cực, huyện Yên Phong chú ý đến chăn nuôi thủy sản. Huyện có nhiều tiềm
năng để thuận lợi phát triển ngành thủy sản vì có khoảng 3.318,93 ha đất trũng, chiếm
hơn 20% diện tích đất tự nhiên phù hợp nuôi trồng thủy sản. Năm 2007 có 390 ha diện
tích nuôi trồng thủy sản, sản lượng đạt 2.332 tấn. Diện tích nuôi trồng lớn nhất là năm
2013 huyện có 455 ha, đạt sản lượng 3.153 tấn. Tính đến năm 2018, huyện có 408 ha,
sản lượng 3.150 tấn, chiếm khoảng 9% tỷ lệ so với tỉnh.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Yên Phong cho thấy xu thế giảm tỷ trọng
của ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng của ngành chăn nuôi. Từ đây, số dân cư làm nông
nghiệp giảm dần tạo điều kiện bổ sung nguồn lực lượng lao động cho ngành kinh tế phi
nông nghiệp khác. Đây là một mặt thuận lợi cho sự thúc đẩy diễn ra ĐTH nhanh trên
toàn huyện hướng đến xây dựng Thị xã Yên Phong.
Về CN - TTCN
Hiện nay, ngành công nghiệp được đánh giá là ngành kinh tế then chốt của huyện
Yên Phong. Từ năm 2007, tình hình sản xuất công nghiệp ở huyện tiếp tục phát triển
với nhịp độ cao và quy mô công nghiệp dần trở thành địa phương dẫn đầu trong tỉnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bắc Ninh.Năm 2018, giá trị sản xuất công nghiệp của huyện đạt hơn 500 tỷ đồng.Trong
các ngành công nghiệp chủ yếu của huyện thì ngành công nghiệp điện tử chiếm tỷ trọng
lớn (khoảng 80%) sự thay đổi nhanh này là do quyết định thay đổi trong ngành công
nghiệp và yêu cầu biến động theo thị phần điện tử trên thế giới (trong đó chiếm tỷ cao
nhất là Tập đoàn SamSung chiếm 39,6% năm 2018). Sản xuất ngành công nghiệp của
khu vực ngoài nhà nước cũng có những dấu hiệu phát triển dần khó khăn hơn, trong
một số ngành truyền thống như: công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, sản xuất
các sản phẩm kim loại, thức ăn gia súc, may mặc...Bên cạnh đó, huyện cũng xuất hiện
ngành công nghiệp hỗ trợ nhưng còn phát triển chậm, còn ít và thiếu liên kết giữa các
doanh nghiệp.
Bảng 3.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp phân theo loại hình kinh tế giai đoạn
từ 2015 - 2018 (đơn vị:%)
Năm 2015 2016 2017 2018
Tổng số 104,0 118,4 157,6 111,5
Nhà nước 358,0 72,3 207,3 117,9
Ngoài Nhà nước 155,9 130,3 115,1 114,1
Đầu tư nước ngoài 103,5 118,3 158,2 111,4
Nguồn: [11, tr. 297]
Bảng chỉ số phát triển chính là chỉ tiêu đánh giá tốc độ phát triển sản xuất ngành
công nghiệp của huyện Yên Phong. Tình hình chung của toàn ngành công nghiệp của
huyện năm 2018 tăng 7,2% so với năm 2017, trong đó ngành sản xuất sản phẩm điện
tử tăng 7,4%; ngành chế biến, vật liệu xây dựng chỉ tăng khoảng 5%, ngành sản xuất
phân phối điện, khí đốt tăng 12,3% do nhu cầu của dân cư trong đời sống và trong sản
xuất, ngành cung cấp nước, xử lý rác, nước thải tăng khoảng 1,2%.
Để tập trung phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại ứng dụng công nghệ cao
vốn đầu tư được ưu tiên để phát triển các KCN, cụm công nghiệp làng nghề và các ngành
nghề truyền thống. Tính đến năm 2018, quỹ đất trong toàn huyện dành cho các KCN
khoảng 1.267,2 ha trong đó: KCN Yên Phong I khoảng 660ha, KCN Yên Phong II
khoảng 607,2 ha (KCN Yên Phong II hiện nay tiến hành mở rộng thêm và đang trong
quá trình thu hồi và bồi thường đất). Cụm công nghiệp ở huyện có diện tích khoảng
125ha, trong đó: CCN đa nghề Đông Thọ khoảng 72 ha, CCN Văn Môn 30ha, CCN Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trung - Đông Tiến đã được khảo sát địa điểm có diện tích khoảng 20ha.
Trên địa bàn huyện Yên Phong số lượng doanh nghiệp trong các KCN, CCN
tăng nhanh, chiếm tỷ trọng lớn ở các trung tâm kinh tế, chính trị của huyện.Năm 2018,
số doanh nghiệp hoạt động của huyện Yên Phong là 627 doanh nghiệp, chiếm 8,4%cơ
cấu doanh nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh và bình quân mỗi năm tăng 12% tương ứng với 40
doanh nghiệp. Trong đó, loại hình doanh nghiệp nhà nước có 1, ngoài nhà nước có 516
doanh nghiệp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có 110 doanh nghiệp [11, tr. 169-
170]. Các cơ sở kinh doanh sản xuất cá thể các địa phương đặc biệt là nơi có nhiều làng
nghề, KCN tập trung hoặc có vị trí địa lý đường giao thông và kết cấu cơ sở hạ tầng
thuận lợi cũng tiếp tục gia tăng số ở các thị trấn, xã, nhưng có xu hướng tăng nhanh
hơn ở những nơi giáp ranh các KCN, CCN của huyện như Yên Phong I, Yên Phong
II, Đông Thọ, Yên Trung…
Bên cạnh đó, cơ cấu công nghiệp của huyện phải kể đến một số ngành sản xuất
như vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm, chế gỗ, dệt may. Trong vùng,
có một số điểm công nghiệp nổi bật như nhà máy gạch Catalan Đông Thọ, nhà máy
gạch Tuynel Tahaka Đông Tiến, nhà máy may Đáp Cầu Đông Tiến. Ngành công nghiệp
chế biến gỗ sản xuất được khoảng hơn 18.000 m³ gỗ xẻ và đạt giá trị sản xuất hơn 500
tỷ đồng. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu cho thị trường Trung Quốc. Ngoài các ngành
công nghiệp chính, hiện nay Yên Phong phát triển ngành sản xuất chế biến lương thực,
thực phẩm sản xuất tập trung ở Thị trấn Chờ, ngành xay xát gạo có mặt ở gần như tất
cả các các làng, thôn, xóm của các xã.
Nhìn chung tiềm năng để phát triển CN - TTCN của huyện Yên Phong rất lớn
và đem lại giá trị kinh tế cao. Đây là cơ hội để huyện có điều kiện thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân tiến tới
xây dựng các khu vực đô thị hiện đại văn minh.
Về thương mại, dịch vụ
Huyện Yên Phong tích cực thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch mạnh ở các hoạt động thương mại, dịch vụ. Huyện có đầy đủ lợi thế để
phát triển ngành thương mại, dịch vụ theo hướng đa dạng hóa, phục vụ toàn diện cho
đời sống và sản xuất của dân cư nơi đây. Từ năm 2007, sự thống nhất về địa lý hành
chính đã thuận lợi trong việc tăng cường các chính sách thu hút đầu tư về các hoạtđộng
thương mại - dịch vụ; tạo điều kiện cho việc làm thủ tục giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng được đẩy nhanh tiến độ. Huyện là cầu
nốigóp phần tiến tới liên kết các đô thị trong tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội đảm bảo lưu thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hàng hóa một cách thuận tiện, nhanh nhất đồng thời cũng kích thích sự phát triển của
các ngành sản xuất khác.
Do quy mô sản xuất tăng, hàng chục nghìn người lao động đã đến huyện Yên
Phong làm việc. Thu nhập của người lao động đạt cao hơn mức bình quân của nhiều
vùng trong cả nước. Nhiều doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh thương mại huyện Yên
Phong tiếp tụcmở rộng đầu tư về quy mô, đa dạng hàng hoá kinh doanh và các dịch vụ
như du lịch, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ công cộng, bảo hiểm, tài chính, bưu chính
viễn thông, truyền hình… Ngành dịch vụ ngày càng khẳng định vị trí của mình trong
kinh tế huyện, năm 2018 khu vực dịch vụ chiếm khoảng 1,7% giá trị sản xuất và có xu
hướng tốc độ tăng trưởng nhanh khoảng 25%/năm.
Bảng 3.3. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (theo giá
hiện hành so sánh năm 2010) giai đoạn từ 2010 - 2018 (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2010 2012 2014 2016 2018
Tổng mức bán lẻ hàng hoá 1.242 2.161 2.903 3.616 4.681 và doanh thu dịch vụ
Nguồn: [11, tr. 321]
Kết quả của hoạt động thương mại - dịch vụ của huyện Yên Phong từ doanh thu
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2018 là 4.681 tỷ đồng. Nhưng
nhìn chung, mức doanh thu trên còn thấp so với mặt bằng của tỉnh và chỉ đứng thứ 5
sau các huyện của Bắc Ninh. Nguyên nhân chính là do các hoạt động thương mại của
huyện vẫn chủ yếu hướng vào nội thương, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân trong huyện và tập trung chủ yếu vào các mặt hàng lương thực, thực phẩm
hoặc đồ dùng sinh hoạt, điện tử gia dụng.
Bên cạnh các chợ cũ, huyện tiếp tục xây mới và cải tạo nhiều chợđể thuận lợi
phát triển các hoạt động dịch vụ mua bán ở huyện. Năm 2018 huyện có có 15 chợ, gồm
1 chợ hạng 2 và 14 chợ hạng 3. Đã tổ chức tiến hành xây dựng, cải tạo chợ chiều tại thôn
Phú Mẫn, chợ Chờ, chợ Dũng Liệt. Xây dựng bổ sung 2 chợ là chợ Chi Long và chợ
Yên Trung và hàng trăm các chợ làng khác. Huyện còn xây dựng một số siêu thị, trung
tâm thương mại lớn để đáp ứng yêu cầu của một bộ phận dân cư có mức sống ổn định
cao. Thời gian trước huyện không có siêu thị hoặc trung tâm thương mại nhưng bắt đầu
từ năm 2015 huyện có 1siêu thị đến năm 2018 số lượng tăng lên gồm có siêu thị Huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hùng, siêu thịkí túc xá của Công ty Sam Sung, bên cạnh đó còn có các siêu thị nhỏ lẻ
mang tính hộ gia đình là chính như như siêu thị sữa, siêu thị hoa quả sạch… Trong thời
gian tới, huyện cũng sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng mới 1 siêu thị tại xã Đông Thọ do
Công ty cổ phần Catalan đầu tư, nằm trong khu vực nhà ở công nhân và khu giao dịch
xúc tiến thương mại tại xã Đông Thọ. Sự thay đổi này đã đem lại diện mạo mới cho
vùng nông thôn ở huyện Yên Phong.
Điểm đáng lưu ý trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ là các hoạt động chuỗi
cung ứng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ kinh doanh khách sạn, nhà hàng, nghỉ ngơi
và du lịch trên địa bàn huyện khá phong phú.Dịch vụ kinh doanh bất động sản, khách
sạn còn hạn chế, chỉ tập trung chủ yếu ở dọc theo các tuyến đường trung tâm Thị trấn,
các khu quy hoạch dân cư mới, chủ yếu là do tư nhân nhỏ đầu tư xây dựng. Dẫu vậy,
nó cũng góp phần đa dạng hóa ngành nghề dịch vụ, góp phần mở rộng quy mô thị
trường. Dịch vụ ăn uống của huyện phát triển nhưng tập trung chủ yếu KCN, dọc các
tuyến đường chính các khu dân cư mới. Đối tượng phục vụ là công nhân và người dân
địa phương. Sự phát triển của loại hình dịch vụ này đã góp phần thay đổi cảnh quan
của vùng nông thôn và tạo nên nguồn thu nhập mới cho cư dân nơi đây. Về hoạt động
du lịch, vui chơi giải trí huyện có tiềm năng nhưng chưa được khai thác. Các hoạt động
tham quan gần như không có, chủ yếu là hoạt động tổ chức lễ hội văn hóa. Huyện đã
tiến hành xây dựng dựng khu vui chơi ở trung tâm Thị trấn Chờ năm 2018 và hoàn
thành năm 2019.
Các hoạt động dịch vụ như tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông đa dạng
về loại hình được đẩy mạnh phát triển nhanh phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân
trong giai đoạn mới. Công tác thanh toán, tiền tệ, kho quỹ luôn đảm bảo an toàn, sản
phẩm dịch vụ ngân hàng được mở rộng với nhiều hình thức, sử dụng công nghệ hiện
đại, như thanh toán bằng ATM, POS, trả lương qua tài khoản…
3.1.2. Biến đổi về cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng luôn là tiêu chí để đánh giá mức sống của nhân dân, sự
phát triển của các đô thị, đặc biệt là quá trình ĐTH tạo nên sự khác biệt rõ giữa nông
thôn và thành thị. Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Yên Phong được xây mới và sửa
chữa mở rộng rất nhiều về giao thông, nhà ở, điện nước, các công trình công cộng…
góp phần hình thành nên bộ mặt kiến trúc đô thị mới, cảnh quan, môi trường và nếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sống đô thị văn minh, hiện đại.
Về giao thông
Hệ thống giao thông kết nối với bên ngoài của huyện Yên Phong chủ yếu sử
dụng hệ thống đường quốc lộ như quốc lộ 18, quốc lộ 3 và các đường tỉnh lộ 277, 286,
295. Các tuyến đường chính quy hoạch đô thị và trong khu dân cư được xây dựng cứng
hóa đường nhựa 100%, các tuyến đường chính trong khu trung tâm đô thị được mở
rộng thêm, cải tạo lát vỉa hè, trồng cây xanh tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông,
làm cho đô thị thêm khang trang, sạch đẹp.
Tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư bằng nguồn vốn dưới hình thức xây dựng - chuyển giao
để xây dựng mới các tuyến đường 295, 276, 277 và 286. Tuy nhiên, huyện vẫn còn một
đoạn 286 đoạn từ xã Đông Phong đi xã Trung Nghĩa chưa được đầu tư xây dựng.
Huyện Yên Phong đang đẩy nhanh tiến hành xây dựng dự án tuyến đường xã
Long Châu ra KCNYên Phong với tổng mức đầu tư khoảng 37 tỷ đồng. Tuyến đường
trục xã Yên Trung cơ bản đã tổ chức xây dựng hoàn thiện và đang tổ chức thi công đường
giao thông ĐX8 và tuyến đường trục xã từ UBND xã Yên Trung đi Xuân Cai. Đặc biệt,
tại khu vực huyện đang triển khai đầu tư xây dựng các bãi đỗ xe phục vụ nhu cầu vận
tải hành khách và việc đi lại của công nhân trong KCN, CCN.Sự tăng cường hoàn thiện
các tuyến giao thông giúp cho trao đổi, buôn bán hàng hóa, đi lại của nhân dân trong địa
bàn huyện và các khu vực tỉnh, vùng đồng bằng sông Hồng thuận lợi hơn.
Từ năm 2007, khối lượng luân chuyển, vận chuyển người và hàng hóa của huyện
Yên Phong tăng lên nhanh chóng. Năm 2018, số lượng vận chuyển hành khách là 2.846
nghìn người tăng lên gần 20 lần, khối lượng luân chuyển là 43.437 nghìn người/km tăng
gấp 3 lần so với năm 2007. Trong giai đoạn này, vận chuyển hàng hóa cũng tăng gấp gần
4 lần năm 2018 là 2.730 nghìn tấn, khối lượng luân chuyển hàng hóa là106.799 nghìn
tấn, tăng lên khoảng 5 lần so với năm 2007. Doanh thu vận tải năm 2018 đạt 1.824 tỷ
đồng, chiếm 26% doanh thu vận tải của tỉnh. Sự tăng lên này đã thể hiện năng lực vận
tải của huyện trong nhu cầu đi lại trao đổi hàng hóa cũng đã thể hiện sự phát triển về mọi
mặt trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân huyện Yên Phong.
Huyện Yên Phong có những cố gắng về đa dạng hóa hình thức và thành phần
kinh tế tham gia lĩnh vực giao thông vận tải như tiến tới dự án xây dựng tuyến xe buýt,
xe khách liên huyện, liên tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bưu chính Viễn thông
Đây là yếu tố quan trọng để thúc đẩy quá trình ĐTH, thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa hành thị và nông thôn.Ở huyện Yên Phong mạng lưới dịch vụ bưu chính, viễn
thông luôn được đầu tư coi trọng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Huyện Yên Phong vốn có mạng lưới bưu cục hóa khá hoàn chỉnh,hiệnnay có
1 bưu điện huyện và 14 bưu điện văn hóa xã.Hệ thống bưu điện văn hóa xã được
tiến hành sửa chữa, nâng cấp và hoàn thiện các dịch vụ bưu chính tiến tới hoạt động
ổn định. Bưu chính huyện năm 2018, thúc đẩy nhanh hơn các dịch vụ kinh doanh,
phát triển dịch vụ mới trong lĩnh vực bưu chính chuyển phát, tài chính bưu chính,
các dịch vụ trong lĩnh vực thương mại điện tử,... doanh thu bưu chính đạt 59,4 tỷ
đồng [11, tr. 385].
Do nhu cầu của lao động sản xuất thuê bao di động đặc biệt số thuê bao internet
(tức là số đăng ký được quyền truy nhập vào mạng internet) tăng lên một cách nhanh
chóng.Tính đến năm 2018 huyện có khoảng hơn 30.000 thuê bao điện thoại di động,
chiếm khoảng 3% số thuê bao của tỉnh, mật độ đạt khoảng độ 30,5 thuê bao điện
thoại/100 dân. Trong thời gian này, huyện phát triển thêm được khoảng 20 nghìn thuê
bao internet tăng mật độ đạt 54,5 thuê bao internet/100 dân.
Mạng lưới thông tin trong huyện, tỉnh, thông tin liên tỉnh và quốc tế được nâng
cấp và hiện đại hóa nhằm đáp ứng nhu cầu về bưu điện trong nhân dân và đặc biệt là ở
các tập đoàn, các doanh nghiệp của huyện ra trong và ngoài nước.
Về điện nước và xử lý rác thải
Huyện đã đầu tư thêm để làm mới và nâng cấp hệ thống đường điện chiếu sáng
công cộng, hệ thống cấp nước sạch và thoát nước xử lý nước thải ở thị trấn, xã và các
thôn, xóm. Trước tình hình phát triển nhanh chóng của các khu đô thị,KCN, CCN nên
yêu cầu nâng cao công suất các trạm điện 110KVvà lắp đặt thêm các trạm biến áp tại
các KCN.
Tính đến năm 2018, mạng lưới điện chiếu sáng đô thị của huyện Yên Phong
được mở rộng hoàn thiện chiếu sáng tại trung tâm trục đường chính của thị trấn, xã lên
đến 95%; cácKCN, CCN lên đến 100%, đặc biệt 90% hệ thống chiếu sáng công cộng
cũng được lắp tại các đường làng, ngõ xóm. Các cụm dân cư, trục giao thông chính của
huyện được chiếu sáng bằng loại bóng cao áp có công suất từ 40W đến 75W, còn tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các làng, xóm ngõ được chiếu sáng bằng bóng đèn thủy tinh 220V.
Trong quá trình cải tạo và nâng cấp, hệ thống điện cáp dần được để dưới lòng
đất đặc biệt là ở các KCN do yêu cầu về mặt cảnh quan, tránh tình trạng chồng chéo hệ
thống đường dây điện làm xấu bộ mặt đô thị.
Hệ thống cấp nước của huyện đa số các xã tại huyện vẫn sử dụng chủ yếu qua
hệ thống giếng bơm khoan của cá nhân hộ gia đình. Từ năm 2007, hệ thống cấp nước
trên cơ sở Chương trình Phát triển đô thị huyện Yên Phong, UBND huyện Yên Phong
sẽ tiến hành làm việc với các công ty cấp nước trên địa bàn huyện nhằm đảm bảo việc
nâng công suất cấp nước của các đơn vị trên địa bàn theo lộ trình cấp nước đã được
phê duyệt.Năm 2018, về cơ bản gần như tất cả các xã đều được lắp đạt hệ thống cung
cấp nước sạch của các nhà máy.Lượng nước các nhà máy cung cấp đạt công suất
1.000m³/ngày đêm.Với mạng lưới cung cấp nước thì khoảng 90% các hộ dân của huyện
đều sử dụng nước sạch hợp vệ sinh, đặc biệt ở khu vực Thị trấn Chờ.
Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước mưa… là một vấn đề luôn
được huyện Yên Phong quan tâm và yêu cầu đặt ra là xây dựng hệ thống thoát nước
đảm bảo, an toàn, đặc biệt là ở những KCN, CCN, làng nghề. Từ năm 2007, các tuyến
đường ống trên địa bàn huyện ngày càng được mở rộng, tuyến đường ống chính dài
hơn 30 km, có đường kính 300 - 800 mm.
Ở giai đoạn trước, nhiều khu vực của huyện vẫn xử lý nước thải bằng cách xả
ra mương, ao, hồ gây hiện tượng ảnh ngập lụt, ô nhiễm môi trường đặc biệt là mùa
mưa. Hiện nay, với mục tiêu xây dựng và cải thiện hạ tầng đô thị cho nên hệ thống
thoát nước, xử lý nước thải của huyện đã được xây dựng hoàn thiện và vận hành. Các
ống thoát nước được xây dựng đảm bảo chất lượng và khả năng thoát nước tốt. Ở các
KCN,hệ thống ống thoát nước xây dựng riêng để xử lý theo quy định sau đó mới xả ra
hệ thống mương thoát bên ngoài. Tình hình chung các cơ sở sản xuất đều có trạm xử
lý nước thải, đạt hơn 80% trong việc xử lý.
Tại các địa phương thôn, làng đặc biệt là khu vực các đô thị hoạt động thu gom
rác thải tiếp tục được hoàn thiện và từng bước đi vào nề nếp. Các KCN đang hoạt động
có lắp đặt, xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung mới, đạt tiêu chuẩn bảo vệ môi
trường. Chất thải rắn cần được xử lý ngay để tránh tình trạng ô nhiễm môitrường
nghiêm trọng nhưng cũng còn gặp nhiều hạn chế. Huyện tiếp tục công táctriển khai
chuẩn bị các điều kiện xây dựng khu xử lí rác thải tập trung của huyện vớidiện tích 6,5
ha tại xã Tam Đa, hiện chỉ vận hành chủ yếu có hiệu quả 2 lò đốt rác tại khu vực Thị
trấn Chờ. Hiện nay, công nghệ xử lý chất thải ở huyện vẫn chôn lấp đểphân huỷ. Sau Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những cố gắng, huyện hình thành khu vực chuyên vận chuyển và xửlý rác ở đô thị,
bình quân xử lý hơn 20.000 tấn rác thải/năm.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện xây dựng các trung tâm
vui chơi giải trí, thể dục thể thao tại các khu đô thị mới để đáp ứng nhu cầu của dân cư.
Về nhà ở
Bước sang giai đoạn mới, cũng như nhiều nơi khác trong tỉnh Bắc Ninh, các
ngôi nhà truyền thống làm bằng gỗ, gạch mái ngói của huyện gần như không còn nữa.
Các ngôi nhà kiểu mới hiện đại được xây dựng từ 2 đến 3 tầng ngày càng phổ biến ở
các trục đường chính của trung tâm đô thị. Kiến trúc ngôi nhà dạng biệt thự mini cũng
dần trở nên phổ biến. Trong những năm qua, tình hình xây dựng nhà ở riêng lẻ trên của
các hộ dân diễn ra khá sôi động. Khoảng thời gian từ năm 2017 - 2018, UBND huyện
đã cấp hơn 400 giấy phép xây dựng công trình nhà ở các loại. Ngoài ra, còn một số
công trình thuộc diện được miễn cấp giấy phép xây dựng.
Việc xây dựng các khu đô thị mới trên địa bàn huyện yêu cầu có các dự án quy
hoạch khu nhà ở để điều chỉnh phù hợp trong quá trình ĐTH. Sự thay đổi của không
gian xung quanh đã làm các ngôi nhà truyền thống dân biến dạng và mất đi không gian
thoáng rộng với kiến trúc trước sân sau vườn không còn như trước nữa, hệ thống kiến
trúc ở trung tâm đô thị đặc biệt ở khu vực Thị trấn Chờ ngày càng hướng theo xu hướng
hiện đại. Do sự tăng lên giá trị của đất đai nên việc xây dựng một ngôi nhà truyền thống
rộng cần vài trăm mét vuông với kiến trúc chữ đinh không còn phù hợp nữa. Nhu cầu
sinh hoạt và làm việc của dân cư ngày càng khác, các gia đình nhiều thế hệ sinh sống
cùng nhau không còn nhiều như trước. Không gian sinh sống hiện nay, thay đổi theo
nhu cầu, yêu thích của các gia đình, cá nhân về không gian theo kiểu nhà phố với hình
thức hiện đại nhà tầng.
Huyện Yên Phong hiện nay có cảnh quan kiến trúc đã thay đổi khác xưa rất
nhiều, mang dáng dấp của đô thị hiện đại. Khi xây dựng nhà ở trong phát triển đô thị
để đảm bảo an toàn và cảnh quan chung, các ngôi nhà bị khống chế về chiều cao, độ
cao trung bình của các ngôi nhà tầng của huyện chỉ ở mức dưới 20m.
Huyện là nơi có nhiều KCN, CCN nên các công ty liên tục tiến hành các dự án
nhà ở xã hội, đất đấu giá, nhà ở cho công nhân. Nhà đầu tư đã đáp ứng được nhu cầu
về nhà ở của nhân dân cũng như của công nhân sống gần trong các KCN, CCN với khu
nhà ở chung cư 6 đến 7 tầng đã xây dựng đưa vào khai thác sử dụng. Các khu nhà ở
cho cán bộ, công nhân viên làm việc xa quê đã và đang được xây dựng đáp ứng được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhu cầu sinh hoạt, ăn, ở cho cán bộ, công nhân viên làm việc trong các KCN Yên Phong
như: khu nhà ở công nhân tại xã Thụy Hòa, xã Yên Trung, xã Đông Tiến.
UBND huyện đã mở rộng không gian sinh sống của cư dân huyện trong quá
trình chuyển dịch từ đất sản xuất nông nghiệp sang đất nhà ở. Các hộ dân cư có thể lấy
toàn bộ tiền đền bù đất hoặc lấy phần đất ở khu vực quy hoạch và tiền như điểm dãn
dân cư nông thôn tại thôn Phong Xá, xã Đông Phong; thôn Đông Bích, xã Đông Thọ...
Trong khi thực hiện quy hoạch, các chủ đầu tư hoặc xây nhà lẻ để bán cho nhân dân
hoặc phân lô bán đất để người dân tự xây dựng nhà ở. Giai đoạn này, huyện đã những
dự án khu nhà ở đấu giá tại thôn Phong Xá, xã Đông Phong, khu nhà ở đấu giá tại thôn
Đông, xã Tam Giang, khu nhà ở đấu giá tại Thị trấn Chờ…
Sự kết hợp nhà ở thương mại, dịch vụ là hình thức mới tại huyện với các dự án
đã và đang được đầu tư xây dựng như: khu nhà ở dân cư dịch vụ xã Yên Trung - Khu
số 2; khu nhà ở dân cư dịch vụ xã Long Châu (Khu số 1 và Khu số 2) đã được đầu tư
xây dựng xong; khu nhà ở dân cư dịch vụ thôn Phong Xá, xã Đông Phong; khu nhà ở
dân cư dịch vụ xã Long Châu đang được tiến hành đầu tư xây dựng… Dựa trên cơ sở
quy hoạch nhà ở này cho thấy mức độ phát triển đô thị huyện Yên Phong, tại đây các
hoạt động phục vụ nhu cầu về thương mại, dịch vụ tổng hợp và vui chơi giải trí…sẽ
trở nên phổ biến trong tương lai.
Huyện Yên Phong giai đoạn này đã thực hiện được mục phát triển theo định
hướng CNH - HĐH với cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, điện, nước, nhà ở sinh hoạt…
hiện đại. Các cơ sở hạ tầng trên phù hợp với quá trình ĐTH là những đóng góp tích
cực, giúp cải tạo và nâng cấp từng bước đưa các khu vực nông thôn huyện Yên Phong
lên thành khu vực đô thị. Đảm bảo chất lượng đô thị hiện đại, cảnh quan, môi trường
xanh sạch đẹp.
3.2. Biến đổi về văn hóa xã hội
3.2.1. Về văn hóa
Văn hóa huyện Yên Phong chuyển từ văn hóa nông thôn sang văn hóa đô thị là quá
trình tất yếu. Đặc trưng của văn hóa đô thị là quan hệ ứng xử là gia đình - đường phố - xã
hội với đặc trưng của văn hóa nông thôn mang hình chất quần thể nông nghiệp.
Ở giai đoạn trước, chưa đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ văn hóa phát triển trên
địa bàn huyện nên những hoạt động văn hóa còn chưa thực sự phong phú. Sang giai
đoạn mới, ngành văn hóa của huyện Yên Phong đã đầu tư rất nhiều về cơ sở văn hóa
thông tin để phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hóa dân tộc cũng như nhu cầu mới trong đời sống của dân cư. Trước hết, về cơ chế
quản lý văn hóa, thông tin đã được UBND tỉnh, huyện đổi mới theo hướng xã hội hóa,
nhiều nguồn lực được huy động thêm cho các hoạt động của ngành văn hóa. Các cơ
quan của huyện Yên Phong tích cực tiến hành tổ chức các hoạt động văn hóa tại nhà
văn hóa thôn, làng, xã thông qua ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn trong năm nhằm mục đích
nâng cao ý thức đồng thời đáp ứng nhu cầu cho mọi tầng lớp nhân dân trong hưởng thụ
văn hóa nghệ thuật.
Dưới sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, ngành văn hóa đã thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của mình. Các cơ quan văn hóa và phương tiện thông tin đại chúng
đã tuyên truyền những đường lối, chính sách mới của Đảng, là nhân tố tích cực động
viên, cổ vũ đấu tranh chống các tệ nạn và tiêu cực xã hội... Ví như hoạt động “Quán
triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiêntiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Các lực lượng thông tin, tuyên
truyền văn hóa ở huyện Yên Phong được các báo, trung tâm đài phát thanh huyện, hệ
thống thông tin tuyên truyền qua loa phát thanh,… đã được huy động, chỉ đạo và triển
khai các hoạt động tuyên truyền phong phú, liên tục, sâu rộng, đem lại nhiều hiệu quả
tích cực.
Trong phạm vi toàn huyện, các hội thi, hội diễn liên hoan văn nghệ, nghệ thuật
được tổ chức theo định kỳ tại các cơ sở như: Hội thi hát quan họ đầu xuân, liên hoan
văn nghệ chào mừng ngày lễ, liên hoan tiếng hát truyền hình… Thông qua hoạt động
duy trì và nâng cao chất lượng văn hóa văn nghệ thuật đã góp phần thiết thực trong quá
trình thúc đẩy quần chúng ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa truyền thống và văn
minh hiện đại. Ngoài ra, các di tích lịch sử văn hóa được bảo tồn, tôn tạo, phát huy tác
dụng tích cực; phong trào văn nghệ quần chúng, hoạt động thư viện, tủ sách, các câu
lạc bộ văn hóa nghệ thuật, các hội thi, hội diễn, liên hoan văn hóa văn nghệ. Đưa hệ
thống cổng thông tin điện tử, công tác thông tin truyên truyền với đổi mới nội dung,
hình thức đã khai thác được ưu thế của huyện về văn hoá văn nghệ. Đời sống văn hóa
của người dân huyện đang cần được nâng cao tiêu biểu là phong trào văn nghệ quần
chúng phát triển ngày càng mạnh.
Các hoạt động văn hóa nghệ thuật được huyện chỉ đạo khôi phục và phát triển
như Dân ca Quan họ Bắc Ninh, ca trù, hát chèo, tuồng ở các nhà văn hóa và trung tâm
văn hóa thông tin huyện Yên Phong hoặc cả các trường học trung học trên địa bàn.
Viêc thường xuyên tổ chức, duy trì hoạt động trong việc truyền dạy, tổ chức giao lưu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quảng bá Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Những hoạt động này góp phần to lớn vào việc
được UNESCO công nhận dân ca Quan Họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại
diện cho nhân loại.
Một trong những quan tâm lớn của huyện về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa qua công tác tăng cường kiểm tra và quản lý. Nghiên cứu, lập hồ sơ, tiến hành kiểm
kê bước đầu hệ thống các di tích lịch sử văn hóa cho thấy Yên Phong có nhiều di tích
lịch sử văn hóa, trong đó huyện có 2 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp
Bộ và cấp Tỉnh. Công tác triển khai, đầu tư vào bảo tồn các di tích bị xuống cấp được
quan tâm với kinh phí đầu tư hàng trăm triệu đồng.Huyện là nơi có các hoạt động lễ
hội hết sức phong phú nên khi tổ chức luôn được quan tâm, bên cạnh các giá trị truyền
thống còn thêm các yếu tố hiện đại đã làm cho các lễ hội hấp dẫn hơn. Nền văn hóa
truyền thống phong phú đã thu hút nhiều dự án nghiên cứu, đề tài khoa học của cả các
cá nhân hoặc tổ chức nghiên cứu về nghiên cứu văn hóa ở huyện Yên Phong nói riêng
và tỉnh Bắc Ninh nói chung. Kết quả đạt được là sự ra đời, xuất bản các ấn phẩm sách,
báo, tạp chí từ đây giới thiệu văn hoá Yên Phong ra bên ngoài cũng như tiến đến thực
hiện các biện pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
Những biến đổi trong nền kinh tế - xã hội theo hướng tích cực đã giúp đời sống
về vật chất của người dân được nâng lên. Điều này,cũng thúc đẩy quá trình hình thành,
xây dựng nếp sống mới trong cộng đồng dân cư theo hướng văn minh hội nhập.Mặc dù
có nhiều thay đổi trong đời sống của người dân hiện nay nhưng huyện vẫn tồn tại lối
sống đặc trưng của sản xuất nông nghiệp là cộng đồng. Chính vì vậy, về cơ bản vẫn còn
khá phổ biến lối ứng xử của dân cư theo lối nông thôn. Tuy nhiên, với sự phối hợp của
các cơ quan, ủy ban văn hóa huyện cụ thể tại các xã, thôn, làng về vấn đề văn hóa, trong
đó đặc biệt về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã dần thay
đổi tình hình văn hóa và lối sống văn hóa tại Yên Phong. Kết quả đạt được năm 2018,
toàn địa bàn có 62/76 làng, khu phố xếp loại văn hoá; 90,9% gia đình văn hóa và 100%
các cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá. Huyện tiếp tục các truyền thống văn hóa dân tộc
qua hành động cụ thể luôn có trong đời sống hàng ngày như uống nước nhớ nguồn, đền
ơn đáp nghĩa, quan hệ tình làng, nghĩa xóm tiếp tục được duy trì,... Đời sống khá giả hơn
đã tạo điều kiện cho người dân ở huyện có điều kiện tích cực tham gia các hoạt động văn
hóa xã hội và từ thiện như văn nghệ câu lạc bộ, thi văn nghệ các cấp qua đó tổ chức, thu
hút được đóng góp vào quỹ bảo trợ xã hội dễ dàng hơn như quỹ vì người nghèo, quỹ
hiếu học... Nhưng chính các loại hình dịch vụ văn hóa đa dạng như karaoke, trò chơi điện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tử, photocopy, internet, truyền hình cáp… phát triển nhanh làm cho công tác quản lý văn
hóa gặp nhiều khó khăn.
Tuy lối sống của người dân vùng ĐTH có những chuyển mình tích cực nhưng
không thể phủ nhận những hạn chế trong đó. Huyện là nơi thu hút nguồn lao động nên
tình trạng gia tăng dân nhập cư là tất yếu và nó cũng ảnh hưởng khá lớn đến nếp sống
vốn có trước đây. Trước hết, sự gia tăng này đã đòi hỏi xây dựng những khu dân cư mới
mà trong đó các khu nhà cho thuê trọ tạm bợ những năm gần đây vẫn còn đã tạo nên tình
trạng nhiều thành phần dân cư chen chúc trong một khu vực. Sự phức tạp trong dân cư
đã hình thành nên một bộ phận thiếu ý thức trong lối sống, đặc biệt với thế hệ trẻ, cụ thể
là tình trạng ăn mặc hở hang, ganh đua, xả rác bừa bãi, vi phạm luật an toàn giao thông...
gần như đều xuất hiện tại các đô thị nói chung không riêng chỉ ở địa bàn huyện Yên
Phong.Đây là một trong những nguyên nhân gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội,
làmcác tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện có xu hướng gia tăng.
Hơn nữa, cũng xuất hiện mâu thuẫn trong bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng
do biết lợi dụng những thuận lợi của nền kinh tế với một bộ phận dân còn nghèo trong
xã hội còn đi lao động làm thuê. Có thể nói, cuộc sống của các tầng lớp có sự khác
nhau lớn dần nhưng đều hướng theo lối sống Tây hóa làm ảnh hưởng không ít đến tâm
lý, lối sống của dân cư vốn có tại huyện đặc biệt là ở các khu trung tâm đô thị.
Yên Phong là một trong những nơi ĐTH diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh đã
tạo không ít áp lực trong công việc, cuộc sống của dân cưđô thị, làm cho mối quan hệ
trong dòng họ, láng giềng, bạn bè… trong một bộ phận không còn giữ được như trước.
Nếp sống văn minh đô thị ở huyện còn khá phức tạp bởi sự chuyển giao giữa thành thị
và nông thôn. Trên địa bàn huyện, các loại hình dịch vụ văn hóa như karaoke, trò chơi
điện tử, hiệu sách, internet, truyền hình cáp trở nên phổ biến… nên luôn gặp khó khăn
trong công tác quản lý văn hóa.
Sự giao thoa của xu hướng hiện đại và xu hướng khôi phục truyền thống trong
văn hóa tinh thần đã đáp ứng được tình hình thực tế tại huyện.Nguyên nhân là do cuộc
sống cư dân ngày càng khấm khá nên dân cư bắt đầu quan tâm hơn đến đời sống văn
hóa tinh thần. Trong đó, các tín ngưỡng thờ thánh, tổ sư làng nghề, các hoạt động lễ tết
trong năm, bái cúng tại đình làng, chùa được khôi phục lại đầy đủ, thường xuyên và
dần trở thành nề nếp. Các làng nghề đã lập tổ cúng tế, có phần lễ, phần hội rõ ràng như
nghề dệt, nghề mộc… Lễ phật đản, thành hoàng làng được tổ chức quy củ, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của dân cư huyện. Trong mối quan hệ dòng tộc, dần có xu hướng khôi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phục dưới sự đóng góp của cá nhân hộ gia đình trong xây lại nhà thờ họ, tổ chức họp
họ, lễ tổ hàng năm, nhiều dòng tộc đã xây dựng lại gia phả dựa trên bản gốc… Đây là
cách để con cháu hiểu rõ gốc gác của mình và ghi nhớ công ơn của tổ tiên xưa.
Sự đan xen giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong sinh hoạt văn hóa diễn ra
dần hòa hợp, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Trong đó, hình thức tổ chức giao lưu
văn nghệ giữa hát quan họ truyền thống vàcác loại hình ca nhạc được tổ chức tại nhiều
địa phương đã thu hút đông đảo người dân tham gia. Lúc này, các phương tiện thông
tin đại chúng ngày càng phổ biến, thể hiện được tác dụng trong tuyên truyền nâng cao
nhận thức về các giá trị văn hóa đặc biệt là ở khu vực nông thôn, gần đô thị cho người
dân huyện.
Cũng dưới sự tác động của bối cảnh ĐTH, sự chuyển biến kinh tế - xã hội đã
kéo theo nhiều sự thay đổi trong tín ngưỡng. Một số hoạt động tâm linh, lễ tết tại đình,
chùa dần bị thương mại hóa với cảnh buôn bán đủ loại mặt hàng mỗi khi lễ tết diễn ra.
Một số loại hình tín ngưỡng dân gian gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp phai nhạt
dần và có nguy cơ mất hẳn, tiêu biểu như lễ cầu mưa, lễ thu hoạch... Nguyên nhân là
do sản xuất nông nghiệp dần thu hẹp về diện tích đất chuyển sang làm kinh tế phi nông
nghiệp. Bên cạnh đó, những lễ cúng, cầu không thể mang đến năng suất, sản phẩm chất
lượng cao như khoa học - kĩ thuật hiện đại đem lại được.
Sự mở rộng tín ngưỡng dân gian cũng bị một bộ phận người lợi dụng biến nó
thành mê tín dị đoan.Nhiều dân cư vẫn tin vào sự may rủi, coi bói, vận mệnh... nó gần
như chi phối trong nhiều hoạt động hàng ngày của người dân. Ở mức độ nhẹ thì đa số
các hộ gia đình kinh doanh buôn bán đều thờ tổ tiên, ông địa và nay còn đã thờ thêm
ông thần tài hoặc mèo thần tài. Vấn đề tâm lý nặng hơn thì có một bộ phận người dân
cần tìm một niềm tin trong sự rủi ro, bất chắc nên nhiều người vẫn tin vào số mệnh và
thời cơ của họ chưa đến.
Trong quá trìnhĐTH, một nét đẹp trong lối sống văn hóa của người dân huyện Yên
Phong vẫn luôn được duy trì. Luôn gắn với hình ảnh “cái răng cái tóc là gốc con người”
là đại diện cho nét đẹp thùy mị, đoan trang nên người phụ nữ Việt nói chung và huyện Yên
Phong nói riêng luôn yêu cầu mái tóc dài suôn thẳng. Nhưng do sự thay đổi nhanh của xã
hội, tính chất công việc quan điểm này không còn phù hợp nữa, các kiểu tóc ngắn, xoăn
hay thậm chí nhuộm màu mang tính năng động mới phù hợp với chuẩn mực về cái đẹp
hiện đại. Điều này cho thấy sự thay đổi lớn trong quan niệm vốn tù túng, bế tắc truyền
thống bảo thủ.Về cách ăn mặc, ngày càng đa dạng phong phú với các kiểu dáng trang phục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện đại, hiện đại kết hợp với truyền thống. Đặc biệt, tại trung tâm đô thị lẫn vùng còn là
nông thôn của huyện có cách ăn mặc gần như không có sự cách biệt nhiều. Những kiểu áo
quần đơn giản và thời trang thay thế gần như hoàn toàn áo nâu, nón lá để phù hợp với nhịp
sống mới hiện đại. Trang phục quần jean, quần âu, áo sơ mi, áo thun, váy trở nên phổ biến
phù hợp trong làm việc và đi chơi khi ra đường. Trang phục ở nhà cũng thoải mái rất nhiều
với nhiều kiểu dáng, chất liệu đáp ứng xu hướng vừa thoải mái vừa thời trang như pijama,
váy… rất phong phú. Hình thức cách tân trang phục như áo dài, áo mớ ba mớ bảy đã góp
phần giữ gìn đặc trưng văn hóa truyền thống xen lẫn hiện đại nhưng chỉ mặc chủ yếu tại
các dịp lễ tết, kỉ niệm quan trọng. Những nhu cầu về trang phục đã yêu cầu sự đi kèm về
giày, dép sao cho phù hợp, có hình thức đa dạng với các kiểu giày da, thể thao, giày cao
gót nhọn, gót vuông, gót bằng hay xăng đan với kiểu dáng hiện đại. Phụ kiện trang sức là
đồ không thể thiếu của của nam và nữ giới như là đồng hồ, dây chuyền, nhẫn vàng hoặc
đá quý. Một trong nguyên nhân của sự thay đổi nhanh chóng của trang phục đó là thế hệ
trẻ, nhất là lứa tuổi học sinh. Các em luôn tìm tòi, sáng tạo nên phong cách, thể hiện cá
tính riêng thông qua trang phục.
Trong sinh hoạt hàng ngày, cụ thể là bữa ăn cũng là phản ánh sự biến đổi trong
lối sống văn hóa. Sự biến mất dần vị thế các món ăn, thức uống truyền thống của dân cư
nông nghiệp như rau đồng, dưa muối, tương, cà, rượu nấu... thay vào đó nhiều thức ăn
nhanh, pha chế sẵn được sử dụng. Nhu cầu cuộc của dân cư chủ yếu tại trung tâm đô thị,
yêu cầu sự phong phú về nguồn nguyên liệu nấu nướng nên quan niệm “mùa nào thức
nấy” không còn phù hợp nữa thay vào đó nhờ công nghệ tiến bộ các loại rau, thực phẩm
trái mùa vẫn luôn được đáp ứng. Các hoạt động chăn nuôi công nghiệp cũng diễn ra
quanh năm với hình thức chăn nuôi trang trại như: lợn, bò, cá, tôm… luôn sẵn sang
nguồn thực phẩm cho cư dân huyện. Tuy nhiên, ĐTH cũng làm đẩy nhanh hơn các vấn
đề không có ruộng đất để sản xuất, môi trường ô nhiễm, giảm diện sinh sống của nhiều
thực phẩm đồng quê như cá, cua, lươn, ếch. Mặt khác, việc buôn bán tại các chợ gặp
phải vấn đề về kiểm duyệt an toàn thực phẩm nên nguồn cung cấp thức ăn của bộ phận
dân cư đô thị dần chuyển sang các trung tâm siêu thị. Các dụng cụ nấu ăn thay đổi rất
nhiều, bây giờ phổ biến nhất là bếp gas, bếp hồng ngoại với hệ thống dịch vụ cung ứng
đem lại nhiều tiện ích cho người dân trong cuộc sống.
Sự quan tâm về văn hoá - thể thao của huyện còn được thấy rõ qua xây dựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các công trình thể dục, thể thao như sân vận động huyện, nhà thi đấu, hồ bơi, sân cầu
lông, sân bóng chuyền,... Bên cạnh việc tồn tại các cơ sở cũ của huyện thì hầu hết các
công trình văn hoá - thể thao này đều được xây mới.
Phong trào thể dục, thể thao ở huyện được quan tâm phát triển, trong đó những
môn thể thao thành tích cao rất đượcchú trọng. Huyện có 7 câu lạc bộ thể thao cấp
huyện, 153 câu lạc bộ thể thao cấp cơ sở, số người tham gia luyện tập thể dục thể thao
đạt hơn 30%; 100%ở các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng
vũ trang có phong trào thể dục thể thao. Hàng năm, huyện đều tổ chức đại hội thể dục,
thể thao các cấp.
Tuy nhiên, các cơ sở thể dục, thể thao còn nhỏ, loại hình đơn điệu, phân bố
chưa đều ở các xã, thị trấn nên chưa thu hút được quần chúng đến hoạt động sinh
hoạt thể thao thường xuyên. Những kết quả đạt được của thể dục, thể thao huyện
chưa cao, do chưa đáp ứng nhu cầu cơ sở vật chất, dụng cụ luyện tập của nhân dân
nói chung cũng như đào tạo chuyên nghiệp nói riêng và kinh phí cho tổ chức thể
dục thể thao có hạn.
Mặc dù,với sự cố gắng kết hợp chặt chẽ của công tác văn hóa, thông tin, tuyên
truyền, thể dục, thể thao vẫn chưa đáp ứng kịp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế
- xã hội. Hoạt động phong trào văn hóa, thể dục, thể thao còn gặp khó khăn về kinh phí
đầu tư, các thiết chế văn hóa còn thiếu rất nhiều.
3.2.2. Về xã hội
Dân cư
Dân số trên địa bàn huyện Yên Phong năm 2018 là 177.814 người, với mật độ
dân số trung bình là 1.834 người/km, trong đó nam là 84.040 người (chiếm 47.3% dân
số) và nữ là 93.774 người (chiếm 52,7% dân số); dân thành thị là 17.746 người (chiếm
10% dân số), dân nông thôn là 160.068 người (chiếm 90% dân số)[11, tr. 65] Với quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mô dân số này huyện đứng thứ 2 toàn tỉnh chỉ sau thành phố Bắc Ninh.
200000.0
180000.0
160000.0
140000.0
120000.0
100000.0
80000.0
60000.0
40000.0
20000.0
.0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
(Đơn vị: người)
Biểu đồ 3.1. Quy mô dân số huyện Yên Phong giai đoạn 2007 - 2018
Nguồn: [9, tr. 7; 11, tr. 65]
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy giai đoạn 2007 -2018, dân số của huyện tăng
nhanh từ 124.901 người năm 2007 lên 177.814 người năm 2018, trung bình tăng
1.425 người/năm. Nguyên nhân chủ yếu do gia tăng dân số tự nhiên mặt khác còn là
do quá trình tập trung dân do ĐTH diễn ra mạnh mẽ mà sức hút lớn nhất là sự nhập
cư lực lượng lao động không nhỏ ở một số KCN như KCN Yên Phong I, Yên Phong
II và Đông Thọ. Trong đó, gia tăng dân số tự nhiên của huyện trong thời gian này có
xu hướng tăng nhẹ nhưng không ổn định, năm 2018 gia tăng khoảng 1,48%. Năm
2007, tỉ suất sinh là 21% tăng nhẹ lên 23% năm 2018; tăng cao nhất năm 2013 là
23,3%, khi đó tỉ suất tử tăng giảm không đều năm 2007 là 6,7% đến năm 2018 là
7,3%, giảm mạnh nhất là 5,7%. Sự không ổn định này là do người dân có điều kiện
kinh tế, thu nhập bình quân cao và ổn định đã làm cho dân cư có chất lượng cuộc
sống được nâng cao và ngày càng chú ý đến vấn đề y tế, sức khoẻ. Do ĐTH nhanh
làm phức tạp thêm các vấn đề an toàn giao thông, ô nhiễm môi trường… ảnh hưởng
rất lớn đến dân cư, làm tỉ suất tử lúc tăng lúc giảm. Trong huyện còn một bộ phận
dân cư chưa nhận thức rõ về vấn đề sức khoẻ sinh sản và những quan niệm truyền
thống gia đình đông con nên nhiều hộ vẫn sinh con thứ 3, góp phần làm tăng dân số
tự nhiên của huyện. Điều kiện sống được cải thiện nên tuổi thọ trung bình của người
dân tăng đều qua các năm trung bình năm 2008 là 71 tuổi, đến năm 2018 độ tuổi này
được tăng lên 75 tuổi. Sự tăng nhanh quy mô dân số trên cho thấy tốc độ ĐTH đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
diễn ra khá nhanh chóng qua các năm trên địa bàn huyện.
Về nguồn lao động
Cơ cấu dân số theo độ tuổi của huyện Yên Phong sang năm 2007 có nhiều thay đổi.
Tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi trong tổng dân giảm xuống, dân số bước vào độ tuổi lao động có
xu hướng tăng nhanh. Năm 2010, dân số trong độ tuổi lao động là 80.266 người đến 2018
tăng nhanh có 114.062 người, chiếm 64,2% tổng số dân[11, tr. 69]. Trong đó, tốc độ tăng
lao động ở khu vực nông thôn vẫn cao hơn so với khu vực thành thị 0,62%. Bên cạnh
đó, nguồn lao động dự trữ - lao động còn đang đi học là nguồn lực tương lai góp phần
tăng nhanh về số lượng và chiếm tỉ trọng trong dân số. Dân số trong độ tuổi lao động
tăng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn đã tạo nguồn nhân lực dồi dào cho huyện, thuận lợi
cho việc cung ứng đầy đủ nguồn lao động trong phát triển kinh tế - xã hội ở thời gian
hiện tại và cả trong tương lai sắp tới.
Điểm đáng lưu ý là tốc độ tăng bình quân dân số trong độ tuổi lao động phù hợp
tình hình ĐTH cụ thể đang diễn ra ở huyện. Cụ thể là sự chuyển dịch trong cơ cấu lao
động: nông nghiệp có số lượng lao động giảm dần để chuyển dần qua các hoạt động sản
xuất ngành CN - TTCN và thương mại - dịch vụ. Số lượng lao động của loại hình sản
xuất nông nghiệp ngày càng ít dần, manh mún do diện tích thu hẹp dần và thu nhập ít
không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống. Lao động trong các ngành công nghiệp - xây
dựng, dịch vụ là 98.042 người. Trong đó, số lao động cụ thể tại các KCN của Yên Phong
là 7.280 lao động (2018). Tính đến năm 2018, đạt 82,8% tỉ lệ số lao động phi nông nghiệp
trên toàn đô thị huyện. Xu hướng tăng nhanh số lượng lao động diễn ra ở hầu hết các
ngành kinh tế phi nông nghiệp, nhưng ngành dịch vụ thì tăng chậm hơn. Biến động về
nguồn lao động lúc này tăng 122,8% so với giai đoạn trước.
Sự phát triển nhanh, mạnh trong cơ cấu của các ngành kinh tế yêu cầu người
trong độ tuổi lao động cũng phải có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật được tập
trung nhiều nhất. Năm 2007, trong cơ cấu lao động không có trình độ chuyên môn kĩ
thuật và bằng cấp chiếm hơn 70%, còn số có chuyên môn kĩ thuật, bằng cấp chỉ chiếm
gần 30%. Trong số lao động có trình độ chuyên môn thì lao động có bằng sơ cấp chiếm
6,1%, người có bằng trung cấp là 10,7% và tỷ lệ người có bằng Cao đẳng - Đại học chiếm
11,8% tổng số lao động đang làm việc. Năm 2018, số lao động đang làm việc đã qua đào
tạo, có bằng cấp, chứng chỉ đạt 55,2%, trong đó đào tạo nguồn lao động cho khu vực
thành thị đạt 33,8% còn khu vực nông thôn đạt 21,4%. Sự gia tăng hệ số giai đoạn này
cho thấy, sử dụng lao động nông thôn hiệu quả hơn giai đoạn trước, cải thiện được mức
sống của dân cư và đáp ứng yêu cầu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lao động. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bình quân giai đoạn 2007 - 2018, mỗi năm đã giải quyết được việc làm cho trên 5.000
lao động, tăng gần gấp đôi so sới giai đoạn trước 2006.
Tuy những kết quả tích cực trên đã giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp ở huyện nhưng
vẫn gặp phải một số khó khăn nên tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ
tuổi lao động năm 2018 vẫn chiếm là 2,7%, và tỷ lệ thiếu việc làm là 1,8%. Nguyên
nhân do trên địa bàn hầu hết lao động vẫn là thủ công, nhiều xã ở huyện vẫn duy trì các
làng nghề truyền thống yêu cầu trình độ không cao, lao động bằng nghề nông vẫn chiếm
tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, nguồn lao động nhập cư từ bên ngoài huyện phần lớn trình độ
văn hóa còn thấp, trình độ chuyên môn không có về một ngành nghề nhất định. Nhìn
chung, chất lượng lao động còn tương đối thấp so với mức bình quân chung của khu
vực nhưng cao hơn giai đoạn trước năm 2007 rất nhiều. Trên thực tế, không thể khẳng
định nguồn lao động của huyện đã đáp ứng được yêu cầu phát triển các ngành công
nghiệp và dịch vụ.
Kết quả của dân số tăng nhanh đã tạo ra nguồn lao động dồi dào, là một trong
những yếu tố cơ bản nhất tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tác động
rõ trong sự chuyển dịch cơ cấu dân số từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra
ngày càng nhanh và mạnh, với tình trạng nhập cư ngày càng tăng. Sự gia tăng dân số
của huyện Yên Phong cũng gặp khó khăn trong quản lý dân cư hay khi hệ thống hạ
tầng kỹ thuật còn hạn chế, nhiều nơi chưa xây dựng xong hoàn toàn, nên chưa thể đáp
ứng hết nhu cầu về nhà ở, đi lại, học tập, đào tạo nghề, y tế sức khỏe… của người dân.
Về giáo dục
Hoạt động phổ cập giáo dục được các cấp ủy Đảng, chính quyền, toàn thể nhân
dân, các tổ chức kinh tế - xã hội nhận thức là nhiệm vụ hàng đầu.Xã hội giáo dục là nhiệm
vụ hàng đầu, là nguồn lực để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội huyện Yên Phong. Năm
học từ năm 2007-2018, ngành Giáo dục và Đào tạo luôn có những điều chỉnh cho phù hợp
trong từng năm học nhưng về cơ bản đều tiếp tục triển khai thực hiện đổi mới công tác
quản lý giáo dục, phương pháp dạy học nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, toàn diện về
chất lượng giáo dục. Giáo dục của huyện đã huy động 100% số trẻ dưới 5 tuổi đi học lớp
mẫu giáo và tất cả các cháu trong độ tuổi các cấp học phổ thông được tới trường. Khai
giảng năm học mới năm 2018, toàn huyện có 53 trường mầm non và phổ thông các cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
với 1.288 lớp học; 2.119 giáo viên và 44.259 học sinh.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư đồng bộ nhưng có trọng tâm,
trọng điểm, hiện đại đạt tỷ lệ kiên cố hoá phòng học đạt 98%; tỷ lệ trường chuẩn quốc
gia đạt 90%. Số lớp học và học sinh tăng, chủ yếu tập trung ở các xã quanh trung tâm
đô thị, KCN, CCN nơi có lực lượng lao động trong và ngoài huyện đang sinh sống, làm
việc. Những kết quả trên đã giúp huyện giữ vững danh hiệu một trong những đơn vị
Giáo dục và Đào tạo dẫn đầu của tỉnh.
Trong giai đoạn này, trên địa bàn huyện Yên Phong tập trung nguồn vốn xây
dựng, mở rộng các cơ sở Đào tạo bậc học giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo
dục phổ thông cơ sở, giáo dục trung học phổ thông và giáo dục nghề. Năm 2018, toàn
huyện có 48/53 trường học được công nhận đạt chuẩn.
Hệ thống giáo dục mầm non là cấp học thấp nhất và cũng là cấp học được quan
tâm nhiều nhất của các cấp, các ngành. Ở giai này, các trường, lớp học mẫu giáo công lập
tiếp tục được quan tâm và tại một số xã, thị trấn những năm gần đây mở thêm một số
trường ngoài công lập. Do đặc thù của quá trình ĐTH có nền công nghiệp phát triển nên
thu hút lượng công nhân tập trung đông, nhất là công nhân nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên tỷ
lệ sinh tăng cao. Và cũng để đáp ứng nhu cầu chăm sóc con của các bậc cha mẹ nên việc
xây dựng thêm các cơ sở trường mầm non là cần thiết. Vì vậy, năm 2018 đã thành lập
thêm thành 18 trường tăng 4 trường mầm non so với năm 2006.
Bảng 3.4. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh trường mầm non đầu năm học
trên địa bàn huyện Yên Phong năm từ 2007 - 2018
Năm 2007 2009 2011 2013 2015 2017 2018
Số trường (trường) 12 17 20 19 19 17 18
Số lớp (lớp) 176 193 286 271 338 445 467
Giáo viên (người) 212 253 450 464 502 773 751
Học sinh (người) 5.649 6.506 7.492 9.140 10.260 12.608 13.600
Nguồn: [9, tr. 309-313; 11, tr. 405-408]
Từ bảng trên có thể thấy, giáo dục mầm non qua các năm trên địa bàn của huyện
đã có bước tăng trưởng đáng kể so với giai đoạn trước. Số trường học từ năm 2007 đến
năm 2018, trên địa bàn được xây dựng thêm đáp ứng nhu cầu thực tế, năm 2018 có 18
trường mầm non, trong đó có 17 trường công lập, 1 trường ngoài công lập. Tổng số lớp
học được nâng lên 467 lớp, trong đó công lập 437 lớp và 30 lớp ngoài công lập. Số lượng
học sinh mầm non tăng nhanh đến năm học 2017 có 12.608 cháu tăng gần 1.000 cháu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến 2018 là 13.600 cháu và tăng 5,3% so với giai đoạn trước, trong đó có 12.850 cháu
thuộc trường công lập, 750 cháu thuộc trường ngoài công lập. Số học sinh bình quân 1
lớp mẫu giáo là 32 học sinh/lớp. Cũng trong năm học 2018 trên địa bàn huyện có 751
giáo viên mầm non, trong đó có 731 giáo viên công lập, ngoài công lập có 20 giáo viên.
Tính đến năm học 2018, có 97% giáo viên đạt chuẩn trở lên. Số học sinh bình quân 1
giáo viên mẫu giáo là 18 học sinh/giáo viên.
Trước hết trong giáo dục mầm non,các trường công lập và ngoài công lập đều
có số học sinh tăng lên nhanh chóng, các yêu cầu về nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ theo các tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được thực hiện tốt.
Giáo dục phổ thông: tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong thời kì mới đặc
biệt là nâng cao chất lượng giáo dục ở cả ba cấp học là tiểu học, trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Hệ thống giáo dục ở huyện có bước tiến đáng với mạng lưới
trường lớp được phát triển mạnh, chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều tiến bộ, đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý được đào tạo nâng cao tri thức. Tình hình chung của các
nhà trường tiếp tục được cải thiện và hướng tới từng bước đạt chuẩn quốc gia trường
học theo từng giai đoạn. Hệ thống giáo dục phổ thông của huyện qua các năm thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 3.5. Số trường, số lớp, giáo viên và học sinh đầu năm học trên địa
bàn huyện Yên Phong từ năm 2007 - 2018
2009 2007 34 35 16 16 14 14 5 4 714 707 360 381 251 238 95 1.212 438 561 296 96 1.135 328 590 217
Năm Số trường (trường) Tiểu học THCS THPT Số lớp (lớp) Tiểu học THCS THPT Giáo viên (người) Tiểu học THCS THPT Học sinh (người) Tiểu học THCS THPT 2011 36 17 15 5 730 396 242 92 1.339 531 512 296 25.400 24.810 24.070 11.200 11.071 12.030 8.502 9. 160 8.710 3.928 4.234 4.590 2018 2016 2013 35 35 34 17 17 17 15 15 15 3 3 3 811 821 766 460 447 412 272 255 262 102 96 92 1.368 1.396 1.329 609 640 563 524 526 505 235 230 261 26.400 30.659 26.000 13.000 12.800 15.537 9.210 10.359 9.010 4.763 4.390 3.990
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: [9, tr. 316-334; 11, tr. 411-417]
Qua bảng số liệu trên dễ nhận thấy rằng bước sang giai đoạn 2007, xuất phát từ
nhu cầu ĐTH cần một xã hội phát triển với nguồn nhân lực có trình độ cao thì việc bồi
dưỡng nhân tài đặc biệt là trong giáo dục phổ thông là rất quan trọng. Giáo dục phổ
thông ở huyện Yên Phong có hệ thống trường giảm so với giai đoạn trước, năm 2000
toàn huyện có 41 trường phổ thông đến năm 2007 giảm còn 34 trường đến năm 2018
duy trì ở mức 35 trường. Tuy giảm về số lượng trường nhưng huyện tiến hành mở rộng
diện tích trường, lớp học để tránh gặp vấn đề về quản lý cũng như có khả tăng tập trung
cao vào phát triển chất lượng giáo dục. Hiện nay, với 35 trường thì huyện có 17 trường
tiểu học (đều là trường công lập), 15 trường THCS (đều là trường công lập) và 3 trường
THPT (2 trường công lập, 1 trường dân lập, 1 trường bán công lập). So với việc giảm
số lượng các trường thì số lớp học trên một trường tăng nhanh đảm bảo đạt chuẩn quy
định nâng cao cơ sở vật chất: cấp tiểu học tỷ lệ chuẩn trên 91%; cấp THCS, THPT tỷ
lệ chuẩn trên 95%. Số học sinh bình quân 1 lớp cấp tiểu học là 36 học sinh/lớp; cấp
trung học cơ sở là 37 học sinh/lớp học; trung học phổ thông là 42 học sinh/lớp học.
Tổng số lượng giáo viên và học sinh ở huyện cũng tăng nhanh qua các năm.
Tổng số giáo viên phổ thông của huyện năm 2007 là 1.135 giáo viên đến năm 2018 số
giáo viên là 1.368 người tăng 4,7% so với giai đoạn trước, trong đó giáo viên tiểu học,
tăng 1,5%; 524 giáo viên trung học cơ sở, tăng 2,2%; 235 giáo viên trung học phổ
thông, tăng 1,8%. Năm học 2018, toàn huyện 30.659 học sinh phổ thông, tăng 6,5% so
với giai đoạn trước, bao gồm: 15.537 học sinh tiểu học, tăng 5,1%; 10.359 học sinh
trung học cơ sở, tăng 4,5%; 4.763 học sinh trung học phổ thông, tăng 1,7%. Số học
sinh bình quân 1 giáo viên tiểu học là 25 học sinh/giáo viên; trung học cơ sở là 18 học
sinh/giáo viên; trung học phổ thông là 17 học sinh/giáo viên [11, tr.418].
Trên cơ sở các điều kiện thuận lợi trong các trường lớp, huyện cũng sử dụng
hợp lý các nguồn kinh phí để trang thiết bị đồ dùng dạy học hiện đại như lắp đặt
máy tính, máy chiếu, loa… tại các lớp học. Hệ thống thư viện trường được nâng
cấp, xây phòng thí nghiệm, hầu hết các trường được nối mạng máy tính. Các hoạt
động này đã đáp ứng được nhanh yêu cầu đổi mới về nội dung chương trình, phương
pháp giáo dục định hướng năm lực theo hướng tích cực. Công tác chỉ đạo các trường
về xây dựng môi trường học tập xanh - sạch - đẹp được tiếp tục nâng cao. Với quy
mô trường, lớp như vậy phù hợp với tình hình huyện và cũng hoàn toàn khắc phục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tình trạng học 2 ca trước đây.
Tuy mỗi thị trấn, xã của huyện đều có ít nhất một trường tiểu học, THCS hoặc
THPT nhưng do quy mô trường học và phòng học vẫn có sự khác nhau nên số học sinh
trung bình trong khối lớp học có chênh lệch giữa các trường. Trong nhiều năm qua và
cho đến nay, các trường luôn đảm bảo về chất lượng dạy và học, mục tiêu giáo dục
toàn diện đạt được hiệu quả cao ở các bậc học phổ thông: bậc tiểu học đạt từ 98% trở
lên, bậc THCS đạt trên 98%, bậc THPT đạt trên 97%. Khi hoàn thành đủ các môn học
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo học sinh hoàn thành chương trình giáo dục
phổ thông. Năm học 2018, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 99,2% trong tổng số
1.701 thí sinh dự thi, trong đó học sinh nữ đạt 98,7%.
Giáo dục phổ thông trong tổng mạng lưới giáo dục chung đã thực hiện được
nhiệm vụ của mình khi đào tạo nhiều trường có chất lượng tốt, uy tín trong nhân dân
như trường tiểu học Thị trấn Chờ số 1, Thị trấn Chờ 2, trường tiểu học Dũng Liệt, Tam
Giang, Long Châu; trường THCS Thị trấn Chờ, Long Châu, Đông Phong, Đông Tiến,
Hòa Tiến; trường THPT Yên Phong 1, Yên Phong 2…
Vấn đề nâng cao về số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo luôn được Sở Giáo
dục và Đào tạo Bắc Ninh xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Thông qua
các phương thức: khuyến khích cán bộ, giáo viên học tập nâng cao trình độ; tập huấn,
tổ chức buổi các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học; sinh hoạt chuyên môn
trường, cụm trường, hội giảng, thi giáo viên dạy giỏi các cấp… Số lượng giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh, tính đến năm 2018, toàn huyện có tổng số 2.119 cán
bộ, giáo viên, tỷ lệ trên chuẩn đạt 89,9%, trong đó cấp mầm non tỷ lệ trên chuẩn 85,1%;
cấp tiểu học tỷ lệ trên chuẩn 93,2%; cấp THCS tỷ lệ trên chuẩn 95,2%.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những công tác tất yếu của các trường học
vàkết quả thi học sinh giỏi của huyện luôn đứng ở tốp đầu của tỉnh. Các năm học, huyện
luôn tham gia các cuộc thi, các cuộc vận động, đặc biệt trong năm học 2018, Yên Phong
tham gia thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cấp tỉnh, giải quốc gia mạng, giải quốc gia giải
toán bằng máy tính Casio. Chất lượng chung của giáo dục phổ thông đại trà của huyện
đã có nhiều chuyển biến với kết quả thi vào lớp 10 THPT tăng 2 bậc, tỷ lệ tốt nghiệp
gần đạt 100%.
Huyện thành lập các hội khuyến học, khuyến tài và được sự đóng góp, ủng hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của quần chúng nhân dân. Thông qua đây, đã động viên, khen thưởng kịp thời những
cá nhân có thành tích cao trong học tập và giảng dạy, các học sinh có hoàn cảnh khó
khăn vươn lên trong học tập được giúp đỡ hỗ trợ.
ĐTH đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế góp phần hình thành
các KCN, CCN với các công ty, xí nghiệp yêu cầu trình độ kĩ thuật nên việc dạy nghề
cho người lao động, nhất là khu vực nông thôn đang bị thu hẹp diện tích đất chuyển
đổi phải đi làm thuê là cần thiết. Các lớp dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn
và các lớp trung cấp nghề được tổ chức. Trên địa bàn huyện có một Trung tâm giáo
dục thường xuyên đó là trường THPT cấp GDTX trong đó có lớp học tập trung buổi
sáng và lớp dạy nghề buổi chiều. Trong những năm học vừa qua, Trung tâm luôn tích
cực giúp đỡ đã giúp cho những học sinh bỏ học giữa chừng quay lại học tập hoặc học
nghề để nâng cao trình độ, giúp một bộ dân cư có thể tìm một công việc ổn định.
Như vậy, ĐTH đã tạo những nhu cầu thực tiễn về phát triển xã hội, mà trong đó
giáo dục là một trong những yếu tố cần quan tâm và tập trung đầu tư để tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. Qua sự tiến bộ của ngành giáo
dục và đào tạo đã tạo được nguồn nhân lực với trình độ tri thức, chuyên môn cao cùng
với ý thức đối với gia đình, cộng đồng xã hội trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Về y tế
Y tế luôn được xem là một trong những tiêu chí đánh giá mức sống trong quá
trình ĐTH. Chăm sóc sức khỏe con người là nhân tố quyết định cho sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước. Cùng với giáo dục, việc phát triển mạng lưới y tế đã cho thấy khả năng
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn. Sang giai đoạn mới, huyện tiếp tục nâng
cấp, mở rộng các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn như bệnh viện huyện, trạm y tế;
đầu tư trang thiết bị dành cho các chuyên khoa để nâng cao hiệu quả chữa trị, chăm
sóc; đội ngũ cán bộ ngành y tế được tổ chức bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đi đôi với rèn luyện y đức.
Huyện có mạng lưới y tế có sự thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước, năm
2007 đến năm 2018 huyện có 20 cơ sở y tế, trong đó đã xây dựng mở rộngbệnh viện
huyện Yên Phong với quy mô 170 giường bệnh, có 5 phòng khám đa khoa tư nhân và
14 trạm y tế tại Thị trấn và các xã. Số cán bộ y tế cũng tăng dần qua các năm từ 233
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người năm 2007 lên 286 người năm 2018, trong đó bác sĩ là 89 người, y sĩ là 86 người,
y á là 61 người, hộ sinh là 29 người và cán bộ khác có 21 người. Đội ngũ cán bộ y tế
được tăng cường cả về số lượng và chất lượng đạt tỷ lệ tại bệnh viện, các trạm y tế xã,
thị trấn có 100% (2018) bác sĩ, y sĩ và hộ sinh. Cán bộ ngành dược cũng tăng lên năm
2018 có 98 cán bộ trong đó có 9 dược sĩ, 87 dược sĩ trung cấp và 2 cán bộ khác. Ngành
y tế của huyện giai đoạn trước chỉ đạt chuẩn quốc gia 14,3% thì đến năm 2015 tăng lên
78,6% và đạt chuẩn quốc gia 100% năm 2018.
Mạng lưới y tế công lập và tư nhân đồng thời phát triển với đầy đủ cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị y khoa hiện đại cùng đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao
đã và đang góp phần chữa khỏi các bệnh với chuyên khoa chữa các bệnh tai, mũi, họng,
mắt, bệnh lao, bệnh phổi… đáp ứng nhu cầu khám và điều trị cho nhân dân, giảm áp
lực khám và điều trị vượt tuyến. Cùng với đó, các hình thức chăm sóc sức khỏe tại gia
đình, ngoài giờ hành chính đang dần phổ biến nhưng chủ yếu là hình thức tiếp nước,
chăm sóc sức khoẻ người già,…
Một trong những mảng công tác quan trọng của ngành y tế huyện được quan
tâm đặc biệt là phòng bệnh, phòng dịch, chăm sóc trẻ em và phụ nữ mang thai được tổ
chức tiêm chủng đủ 7 loại vắc xin cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt trung bình từ 98%/năm
trở lên, tăng gần 15% tỷ lệ tiêm chủng so với giai đoạn trước. Chương trình chăm sóc
sức khỏe như tiêm chủng như loại trừ uốn ván trẻ sơ sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản,
uống vitamin chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, phòng chống dịch tiêu chảy cấp do sốt
rét, sốt xuất huyết, dịch cúm A (H5N1), H1N1, cách viêm não do vi rút… được duy trì
thường xuyên.
Bên canh đó, ĐTH nhanh cũng có những mặt trái, trong xã hội tệ nạn hút chích,
ma tuý xảy ra ngày càng nhiều, các mối quan hệ xã hội phức tạp đã thúc đẩy chuyển
biến sang phát triển căn bệnh HIV/AIDS. Nếu năm 2007, 20 người bị nhiễm thì đến
năm 2018 con số này tăng lên 112 người, trong đó số bệnh nhân AIDS còn sống là 42
người, số bệnh nhân chết do AIDS là 26 người. Chính vì vậy, bệnh viện, các trung tâm
y tế huyện Yên Phong liên tục có các hoạt động phối hợp cùng với Hội chữ thập đỏ của
tỉnh, các trường học trên địa bàn để tổ chức khám định sức khoẻ, giáo dục y tế học
đường đặc biệt là về sức khỏe sinh sản và công tác phòng chống HIV/AIDS. Bệnh viện
huyện phối hợp các cơ quan liên quan trong huyện về tổ chức thường xuyên các hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
động khám, chữa bệnh đối với các gia đình chính sách và đối tượng xã hội như người
già neo đơn, trẻ khuyết tật… đều được khám, chữa bệnh miễn phí. Năm 2018, các hoạt
động khám, điều trị, cấp thuốc miễn phí cho nghèo và các hoạt động mổ mắt miễn phí
cho người già, người mù, người nghèo diễn ra trên toàn huyện. Cùng với đó chương
trình kế hoạch hoá gia đình sau những cố gắng tuyên truyền, vận động đã có hiệu quả
trong giảm dần tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,2% so với giai đoạn trước và tỷ lệ sinh
con thứ 3 cũng giảm dần từng năm.
Trong ngành y tế còn tồn tại nhiều khó khăn. Huyện chỉ có 1 bệnh viện huyện
công lập, hạn chế về số phòng bệnh, giường bệnh so với mặt bằng số lượng bệnh nhân
quá đông, hàng ngày phải tiếp nhận gây ra hiện tượng quá tải. Không chỉ cư dân của
huyện, bộ phận dân nhập cư chủ yếu là lao động công nhân trong các nhà máy, xí
nghiệp gặp phải các căn bệnh do môi trường làm việc làm số bệnh nhân lại càng tăng
cao. Mặc dù huyện có các trạm y tế ở các xã nhưng các trang thiết bị hiện đại còn thiếu
thốn, một bộ phận còn lạc hậu; số lượng bác sĩ, y tá có trình độ chuyên môn cao còn
rất ít so với yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân huyện nên yêu cầu chữa bệnh vượt
tuyến. Hơn nữa, hiện nay do cơ chế khám chữa bệnh theo nhu cầu đã tạo nên những sự
khác biệt giữa người giàu và người nghèo, các dịch vụ cao chỉ đáp ứng được nguyện
vọng của cư dân khá giả.
Y tế huyện Yên Phong dù còn một số hạn chế nhưng không thể phủ nhận vai trò
của nó đối với nhu cầu của dân cư về chất lượng y tế, chăm sóc sức khoẻ trong điều
kiện khi mà các vấn đề về ô nhiễm môi trường, sức khoẻ do lao động… đang diễn ra
phức tạp. Có thể thấy, y tế huyện đã thể hiện vai trò hàng đầu của mình trong bảo đảm
cho cư dân đô thị có chất lượng cuộc sống cao. Để vươn lên đến ĐTH toàn diện hướng
đến thành lập thị xã Yên Phong thì đòi hỏi ngành y tế và các cấp chính quyền cần quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tâm hơn nữa những vấn đề còn tồn đọng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Sau khi địa giới hành chính và cơ cấu chính trị tổng thể tại huyện ổn định năm
2007, Yên phong đã thực hiện nhiều chính sách, chương trình về công tác quy hoạch
quản lý xây dựng kinh tế - xã hội, chỉnh trang đô thị để đưa huyện theo hướng CNH -
HĐH nâng cấp thành thị xã Yên Phong vào năm 2020. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
mạnh mẽ theo hướng tích cực phù hợp với tình hình chung của huyện.Kinh tế khu vực
nông nghiệp giảm dần chuyển sang khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực thương
mại - dịch vụ. Cơ sở hạ tầng giao thông, nhà ở, điện, nước sinh hoạt được chú trọng
đầu tư xây dựng đạt kết quả tích cực góp phần thay đổi bộ mặt cảnh quan huyện theo
hướng thành thị.
Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội giai đoạn này có nhiều dấu ấn. Vận dụng các
phương tiện kĩ thuật hiện đại, qua hệ thống mạng internet, phát thanh… đểtuyên truyền
những đặc trưng văn hoá, văn nghệ và phong trào thể dục, thể thao. Chất lượng giáo
dục và đào tạo tiếp tục xếp thứ hạng cao trong tỉnh Bắc Ninh, tất cả các trường đều đạt
chuẩn, chất lượng học sinh được nâng cao đặc biệt là học sinh giỏi dẫn đầu trong các
đơn vị trường. Tại huyện, cùng với giáo dục và đào tạo, hệ thống mạng lưới y tế tiếp
tục được củng cố, mở rộng: các cơ sở y tế, chất lượng cán bộ y tế và các phương tiện
hiện đại… gần như đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của cư dân.
Những chuyển biến trên biểu hiện sự ổn định,phát triển của quá trình ĐTH của
huyện Yên Phong. Bên cạnh đó, cũng có những tác động tiêu cực trong xây dựng cơ
sở hạ tầng không đồng bộ như: mở rộng, làm mới các tuyến đường, những ngôi nhà
tầng được xây dựng cùng với lắp đặt hệ thống cung cấp điện, nước, thoát nước, viễn
thông… dẫn đến tình trạng đào bới liên tục, gây nên sự lãng phí. Sự thay đổi kinh tế -
xã hội làm cho môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa và cảnh quan xuống cấp...
Cùng với đó, huyện còn thiếu các công trình công cộng, khu vui chơi giải trí… Đây là
những vấn đề bất ổn đối với một đô thị bền vững.
Từ thực tế trên, tác giả thiết nghĩ:
Một là, Lãnh đạo huyện Yên Phong cần xác định ĐTH là vấn đề quan trọng cần
có chương trình, kế hoạch, bước đi cụ thể. Trong quá trình thực hiện cần tăng cường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
việc kiểm tra giám sát nhằm khắc phục kịp thời, những vấn đề nảy sinh.
Hai là, Đô thị hóa ở huyện diễn ra ngày càng nhanh nên cần giải quyết hợp lý
giữa yếu tố tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học; Đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa công
nghiệp, thương mại - dịch vụ và nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế.
Ba là, Huyện cần phải mạnh dạn đổi mới phương thức đầu tư trong tranh thủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vốn trong nước và vốn nước ngoài để phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng.
KẾT LUẬN
Huyện Yên Phong cũng như những huyện khác trên đất nước Việt Nam, thực
hiện chương trình đổi mới bước vào thời kỳ ĐTH nhanh, phát triển toàn diện và biến
đổi sâu sắc trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hoá. Đây là một quá trình tất yếu
trong xây dựng, phát triển xã hội hiện đại. Trong khi nghiên cứu quá trình ĐTH ở huyện
Yên Phong từ năm 1986 đến năm 2018, có thể thấy một số vấn đề nổi bật sau:
1.Để thực tiếp tục quá trình ĐTH này, huyện Yên Phong đã khai phá, học tập
và phát triển trên nền tảng đô thị của các thời kỳ trước. Qua nhiều giai đoạn lịch sử,
huyện có những điều kiện hết sức thuận lợi để tiến hành ĐTH. Huyện vốn là nơi có
nền kinh tế nông nghiệp lâu đời làm chủ đạo. Trong quá trình sinh hoạt của mình cư
dân tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt như: nghề đan lát,
kéo sợi, dệt vải, rượi… Đây là tiền đề cho sự ra đời, phát triển của nhiều nghề CN-
TTCN và hoạt động buôn bán diễn ra mạnh mẽ sau này. Hệ thống cơ sở hạ tầng từ
những con đường đất đi mãi mà thành, những ngôi nhà tranh vách đất che mưa che gió
đến những tuyến đường giao thông đường sắt, đường bộ, các nhà máy, xí nghiệp, các
căn nhà gạch ngói… được xây dựng. Những cuộc di dân của dân cư từ các nơi như dân
tộc Thái, Nùng, người Hoa,… trong quá trình giao thương, tìm vùng đất mới đề sinh
sống đã làm cho dân số tập trung ngày càng đông. Nhưng cũng do là vùng nông thôn
còn nhiều lạc hậu nên khi xây dựng, hình thành đô thị trên cơ sở kế thừa những tiềm
năng kinh tế - xã hội thì huyện Yên Phong cần có những chính sách khắc phục những
khó khăn để góp phần đẩy nhanh quá trình ĐTH.
2. Quá trình ĐTH của huyện đã và đang diễn ra theo chiều rộng đồng thời đi
vào chiều sâu. Đô thị hóa theo chiều rộng biểu hiện qua sự mở rộng không gian đô thị
và tăng diện tích đất chuyên dùng hay các công trình đô thị. Việc mở rộng không gian
đô thị ra những xã trước đây vốn là nông thôn như Đông Thọ, Văn Môn, Đông Phong…
từ đây diện tích đất sản xuất nông nghiệp được chuyển đổi sang tiến hành xây dựng
những CCN, cụm làng nghề công nghiệp xen ở diện tích đất nông nghiệp hoang vu cũ.
Như vậy diện tích đất chuyên dùng đã được tăng lên nhanh chóng, chứng tỏ huyện đã
mở rộng trong quá trình ĐTH.
Bên cạnh đó vấn đề ĐTH theo chiều sâu cũng được huyện đặc biệt quan tâm, cụ
thể là sự chuyển dịch từ giảm dần giá trị sản xuất nông nghiệp sang tăng dần giá trịsản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuất CN - TTCN và thương mại - dịch vụ trong nền kinh tế; xây dựng, nâng cao chất
lượng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng sản xuất, hạ tầng xã hội. Dựa trên điều kiện
này, huyện thu nguồn vốn đầu tư trong và ngoài để mở rộng thêm cơ sở phát triển, tạo
sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nông thôn, huyện phát triển thành khu vực thành thị.
Cùng với đó huyện cũng tập trung cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
đề đáp ứng được yêu cầu của sự thay đổi hiện đại.
Những biểu hiện trên cho thấy sự phát triển đô thị ở huyện Yên Phong vừa phát
triển theo chiều rộng nhưng cũng không quên phát triển biền vững theo chiều sâu.
Huyện đã và đang trở thành đô thị đúng nghĩa với mục tiêu lên được công nhận là đô
thị loại IV và tiến lên thành lập thị xã Yên Phong trong năm 2020.
3. Quá trình ĐTH của huyện Yên Phong theo quy hoạch nhưng vẫn chịu áp lực
của quá trình ĐTH tự phát. Huyện Yên Phong là một trong những huyện của tỉnh Bắc
Ninh có các điều kiện về hiện trạng và tiềm năng kinh tế - xã hội phát triển nhất. Chính
vì vậy, ngay từ khi đổi mới UBND huyện đã có những chủ trương và kế hoạch, định
hướng chung phát triển. Đây là những yêu cầu của quá trình ĐTH tự giác.
Tuy nhiên, sự nới lỏng, yếu kém trong quy hoạch, quản lý, sử dụng đã làm cho
quá trình ĐTH tự giác kèm theo ĐTH tự phát ảnh hưởng tiêu cực đến qua trình phát
triển. Do hầu hết các KCN, dịch vụ, dân cư đều bám dọc các tuyến đường, tỉnh lộ, quốc
lộvới tư tưởng của đa số người dân chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt nên đã đưa tới
tình trạng xây dựng không theo quy hoạch,tràn lan, không phép, lấn chiếm sang cả
kênh rạch, gây ô nhiễm môi trường... Hệ quả là tình hình ĐTH ở huyện gặp nhiều cản
trở, ĐTH vẫn chậm so với các thành phố lớn. Tuy nhiên, trong sự phát triển chung
ĐTH quy hoạch, tự giác vẫn giữ vai trò quyết định.
4. ĐTH diễn ra không đồng đều giữa các xã, thị trấn. Quá trình ĐTH luôn phát
triển nhanh nhất ở khu vực gần các trục giao thông chính, các KCN, CCN như Thị trấn
Chờ, xã Đông Phong, xã Đông Thọ, xã Văn Môn. Đặc trưng biểu hiện của sự phát triển
không đồng đều này là giữa các khu vực kinh tế - xã hội luôn biến đổi trong quá trình
phát triển.
ĐTH ở huyện Yên Phong luôn có mối quan hệ phụ thuộc với quá trình CNH -
HĐHnên trong phát triển các khu vực kinh tế TTCN và dịch vụ luôn chiếm tỷ trọng
lớn, đặc biệt tại các điểm công nghiệp trọng điểm còn kinh tế nông nghiệp chuyển dần
hướng mục đích sản xuất sang chăn nuôi. Chính vì vậy, tại các CCN này số lượng dân
nhập cư từ bên ngoài dồn về đây cùng dân bản địa đã tăng lên với mật độ dân số ngày
càng đông, còn những vùng nông thôn dân cư trở nên thưa thớt hơn. Những điều này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đã tạo nên sự quá tải, tạo ra nguy cơ bệnh đầu to tại các điểm công nghiệp, dịch vụ
trong phát triển ĐTH bền vững của huyện,
Bên cạnh đó, ĐTH về cơ sở hạ tầng cơ sở gần khu vực công nghiệp được hoàn
thiện với hệ thống đường rải nhựa, phân quy hoạch theo hình ô cờ, những ngôi nhà
tầng quy hoạch chiều cao, hệ thống cung cấp nước sạch trên 95%, đảm bảo cảnh quan
đô thị xanh, sạch, đẹp. Điều này khác hẳn so với những yếu kém ở ven đô thị và nông
thôn. Mặc dù đã cứng hoá hệ thống giao thông đường tỉnh lộ, liên xã, làng, xóm nhưng
nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đi lại khi xuất hiện những đoạn đường ổ gà, ổ
vịt, đầy bụi mịn… Sự chồng chéo chưa quy hoạch rõ ràng về nhà ở, nhiều ngôi nhà
truyền thống bị mất đi, hệ thống nước thải hay các vấn đề an sinh xã hội… đã ảnh
hưởng đến sự phát triển chung. Chính vì vậy, yêu cầu giải quyết được thì mới có điều
kiện thuận lợi phát triển mở rộng lên Thị xã Yên Phong.
5. Quá trình ĐTH đã thu được kết quả tốt trên nhiều lĩnh vực nhưng huyện cũng
phải đối mặt những căn bệnh chung. ĐTH thúc đẩy chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp
bịthay thế dần bởi CN - TTCN, thương mại - dịch vụ đã đưa nhà máy, xí nghiệp với
các máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất đã ảnh hưởng đến ngành TTCN truyền
thống lụi tàn dần bởi vì thiết bị đã quá lạc hậu, sản phẩm khó có thể cạnh tranh với thị
trường. Bên cạnh đó, việc gia tăng dân số, nhất là lao động nhập cư và lao động ở các
ngành nông nghiệp, TTCN truyền thống buộc phải tìm việc khác để kiếm sống. Điều
này đã đặt ra những vấn đề nan giải trong giải quyết việc làm, nạn thất nghiệp kèm theo
đó là vấn đề tệ nạn xã hội....
Hơn nữa, do trong quy hoạch và phát triển còn lộn xộn nên huyện gặp rất nhiều
vấn đề lấn chiếm đất công, sông ngòi, lòng lề đường, xây nhà thiếu đồng bộ, thiếu sự
phối hợp với các cơ sở hạ tầng chung giao thông, điện, nước, thoát nước, viễn thông...
đã gây nên sự lãng phí trong đầu tư. Quá trình ĐTH nhanh nhưng chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu sinh hoạt, giải trí của người dân như việc thiếu hụt các công trình
công cộng, công viên xanh, khu vui chơi giải trí… và huyện cũng gặp những xuống
cấp về môi trường tự nhiên ô nhiễm cả đất, nước, không khí hay sự bất ổn văn hóa...
Đây là những vấn đề cần được giải quyết kịp thời để đô thị huyện Yên Phong phát triển
ổn định và bền vững. Trong tương lai không xa, huyện sẽ là trở thành một thị xã hiện
đại với nền sản xuất công nghiệp phát triển, nhà ở, đường phố khang trang, sạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đẹp…xây dựng một xã hội ngày một văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Bá (1999), Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Nxb Xây dựng.
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2010).
2. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Phong (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Phong,
(1928 - 2000), Nxb Thanh Niên.
3. Ban chấp hành Đảng bộ Thị Trấn Chờ (2019), Lịch sử Đảng bộ Thị Trấn Chờ
(1930 - 2018), Nxb Hồng Đức.
4. Văn Bính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay,Nxb
Chính trị quốc gia.
5. Bộ xây dựng (1995), Dự thảo phát triển đô thị quốc gia thời kì 1995 - 2010, Hà Nội.
6. Bộ xây dựng (1999), Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến
năm 2020.
7. Bộ kế hoạch và đầu tư Tổng cục thống kê (2011), Di cư và đô thị hoá ở Việt Nam:
thực trạng, xu hướng và những khác biệt, Hà Nội.
8. Chương trình Nhân cư Liên Hiệp Quốc (UN-Habitat) (2006), Chương trình Định
cư Con người của Liên Hợp Quốc), Hiện trạng các đô thị trên thế giới 2006/2007.
9. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê - tỉnh Bắc Ninh 20 năm xây dựng
và phát triển: 1997 - 2016.
10. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê huyện tỉnh Bắc Ninh năm 2017.
11. Cục thống kế tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống tỉnh Bắc Ninh năm 2018.
12. Dean Cira, Arish Dastur, Henry Jewell, Austin Kilroy, Nancy Lozano, Phan Thị
Phương Huyền và Hyoung Gun Wang (2011), Đánh giá đô thị hoá ở Việt Nam, Ngân
hàng thế giới.
13. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI,
VII, VIII, XIX) về văn hoá, xã hội, khoa học - kỹ thuật, Giáo Dục - Đào Tạo, Nxb
Chính trị Quốc gia.
14. Hoàng Sỹ Hạnh, Nguyễn Thị Thuý (2014), Kỷ yếu Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Bắc
Ninh Khoá XVII Nhiệm kỳ 2011 - 2016, Nxb Chính trị quổc gia.
15. Đặng Thái Hoàng (2000), Lịch sử đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Huyên (1998), Địa Lý Hành Chính Vùng Kinh Bắc, Nxb Văn Hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thông Tin.
17. Huyện Uỷ - Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong (2002), Địa
chí Yên Phong, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
18. Phan Thị Mai Hương (2010), Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong
quá trình đô thị hóa, Nxb Từ điển Bách khoa.
19. Nguyễn Quang Khải (2011), Làng Xã Bắc Ninh, Nxb Thanh Niên.
20. Nhiêu Hội Lâm, người dịch Lê Quang Lâm (2004), Kinh tế học đô thị, Nxb Chính
trị Quốc gia.
21. Lịch sử Đảng Bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh Hà Bắc (1987), Nxb Ban Nghiên Cứu
lịch sử Đảng Tinh Hà Bắc.
22. Trịnh Duy Luân (2004),Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Trần Đình Luyện (2002), Văn Hiến Kinh Bắc, Nxb Sở Văn Hóa Thông Tin Bắc Ninh.
24. Nghị định số 72/2001/NĐ-CP về Phân loại đô thị phê duyệt ngày 5/10/2001.
25. Nghị định số 60/2007/NĐ - CP ngày 9/4/2007 về việc điều chỉnh địa giới hành chính
huyện Yên Phong, huyện Quế Võ, huyện Tiên Du để mở rộng thành phổ Bắc Ninh,
thành lập phường Võ Cường thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
26. Nghị định số 42/2009/NĐ-CP về Phân loại đô thị phê duyệt ngày 7/5/2009.
27. Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về Phân loại đô thị ngày 25/ 5/ 2016.
28. Lê Viết Nga (2010), Địa danh, địa giới các hành chính tỉnh Bắc Ninh trong lịch
sử, Nxb Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du lịch, Bắc Ninh.
29. Cao Xuân Phổ (1999), Mối quan hệ giữa đô thị hóa bền vững và phát triển nông
thôn, tham luận tại hội thảo khoa học Quốc tế, Panel III.
30. Đàm Trung Phường (1995), Đô thị Việt Nam tập 1, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
31. Đàm Trung Phường (1995), Đô thị Việt Nam tập 2, Nxb Xây dựng, Hà Nội,
32. Trương Văn Quảng (2012), “Phát triển bền vững - Yêu cầu chiến lược trong quá
trình đô thị hóa ở Việt Nam”, Tạp chí kiến trúc Việt Nam.
33. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học phiên dịch và chú giải (1971), Đại Nam
nhất thống chí tập IV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Quyết định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về phân loại
đô thị và phân cấp quản lí đô thị.
35. Quyết định số 1659/QĐ-TTg về Chương trình Phát triển Đô thị Quốc gia giai
đoạn 2012-2020 (NUDP).
36. Quyết định số 338/2014/QĐ-UBND ngày 4/8/2014 về phê duyệt Chương trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phát triển Đô thị tỉnh Bắc Ninh đến năm 2030.
37. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 14/1/2013 về việc Phê duyệt điều chỉnh định
hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2050.
38. Quyết định số 541/QĐ-UBND, ngày 26/9/2018 Phê duyệt Chương trình phát triển
đô thị Yên Phong giai đoạn 2017 - 2025, định hướng đến năm 2030.
39. Lê Thanh Sang (2008), Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi
mới 1979 - 1989 và 1989 - 1999, Nxb Khoa học Xã hội.
40. Nguyễn Sum (1998), Dân số học đại cương, Nxb Giáo Dục.
41. Ngô Xuân Sửu(2000), Truyền thống vùng đất văn hóa con người Yên Phong,
Thanh niên.
42. Trương Quang Thao (2003), Đô thị học - Những khái niệm mở đầu, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.
43. Ngô Thế Thịnh (2000), Bắc Ninh làng cũ - quê xư - chiếc nôi của nền văn hoá
Việt Nam, Nxb Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây.
44. Phạm Thị Xuân Thọ (2000), Địa lí đô thị, Nxb Giáo dục.
45. Tờ trình số 161/ TTr-UBND, ngày 24/ 5/ 2019 Về Đề án đề nghị công nhận Khu
vực dự kiến thành lập thị xã Yên phong, tnhr Bắc Ninh là đô thị loại IV.
46. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1997), Tổ chức và quản lý môi trường cảnh quan đô
thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
47. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (1996), Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông
Nam Á, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
48. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (1997), Môi trường nhân văn và đô thị hóa
tại Việt nam và Đông Nam Á, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
49. Tôn Nữ Quỳnh Trân (2002), Văn hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị tại
thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội.
50. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường vùng
ven các đô thị lớn trong quy trình phát triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội.
51. Trần Văn Túy (2009), "Nhìn lại Bắc Ninh Sau 12 năm tái lập Tỉnh", Tạp chí, số
142, Tr.43 - 45.
52. Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong, BC-UBNDtháng 12/ 2018, Báo cáoKết quả
1 năm thực hiện Chương trình Phát triển đô thị Yên Phong giai đoạn 2017- 2025,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
định hướng đến năm 2030.
53. Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong, BC-UBND tháng 6/ 2019, Báo cáoKết quả
4 năm tiếp tục thực hiện chương trình Xây dựng phát triển đô thị, thị tứ, trung
tâm các xã, thị trấn gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015, định
hướng đến năm 2020.
54. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
55. Trần Quốc Vượng, Trần đình Luyện, Nguyễn Ngọc Bích (1981), Một Hà Bắc cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong long đất, Ty văn hoá thông tin Hà Bắc xuất bản.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Một số hình ảnh về ĐTH của huyện Yên Phong
Bản đồ hành chính huyện Yên Phong từ năm 2007 đến 2018
(Nguồn: yenphong.gov)
Cảnh quan cơ sở hạ tầng xung quanh huyện Yên Phong
`
2 1
3 4
5 6
1.Cảnh quan trên cao đô thị thị trần Chờ 4. Đoạn đường quốc lộ 18 qua địa phận
2.Cổng chào huyện Yên Phong huyện
3. Cột đồng hồ trung tâm huyện 5. Đoạn đường liên tỉnh 295 lên thành phố Bắc
Ninh
6. Đoạn đường trong khu công nghiệp Yên
Phong
(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)
Hoạt động sản xuất CN -TTCN
2 1
4 3
5 6
1.Khu công nghiệp Yên Phong 1 4. Xí nghiệp sản xuất giấy Phong Khê
2.Công nhân làm việc trong nhà máy điện 5. Xưởng sản xuất gỗ xã Trung Nghĩa
tử Samsung 6. Xưởng sản xuất nhôm xã Văn Môn
3.Xưởng sản xuất thức ăn chăn nuôi
(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)
Hoạt động thương mại - dịch vụ
1 2
4 3
1.Chợ Chờ 3.Nhà hàng Sen Việt
2.Siêu thị Huy Hùng 4. Một nhà nghỉ tại khu đô thị thị trấn Chờ
(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)
Một số cơ sở giáo dục, y tế
1 2
4 3
5 6
1.Trường mầm non liên cơ thị trấn Chờ 4. Trường TTHP Yên Phong số 1
2. Trường tiểu học thị trấn Chờ 5. Bệnh viện đa khoa huyện Yên Phong
3. Trường THCS thị trấn Chờ 6. Phòng khám Quang Việt
(Nguồn: tác giả chụp)
Hình ảnh về cảnh quan, môi trường
1 2
3 4
6 5
1. Kiến trúc nhà tầng khu đô thị mới 4. Đội vệ sinh môi trường làm sạch đô thị
2. Khu vui chơi cho trẻ em thị trấn Chờ
3. Khu công viên hồ đôi trị trấn Chờ 5.Rác thải sản xuất ở xã Văn Môn
6. Vật liệu xậy dựng vứt bên đường xã
Tam Giang
(Nguồn: tác giả chụp và sưu tầm)
Phụ lục 2
Một số văn bản, nghị quyết, quyết định phát triển đô thị huyện Yên Phong
Phê duyệt chương trình phát triển đô thị Yên Phong giai đoạn 2017 - 2025,
định hướng đến 2030
Đề án đề nghị công nhận Khu vực dự kiến thành lập thị xã Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh là đô thị loại IV